Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 17-A Bài 101-150: Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó
---------------------------------------
Phúc Âm: Mt 13, 44-46 {hoặc 44-52}: “Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
{“Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?” Họ thưa rằng: “Có”.
Người liền bảo họ: “Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình”.} - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------------------
TN 17-A101: Chúa Nhật thứ 17 Thường Niên. 2
TN 17-A102: Kho tàng vĩnh cửu - Huệ Minh. 7
TN 17-A103: CHÚA NHẬT 17 QUANH NĂM A (2005) 9
TN 17-A104: CHÚA NHẬT XVII-THƯỜNG NIÊN 2002. 13
TN 17-A105: CHÚA NHẬT 17 QUANH NĂM... 14
TN 17-A106: Được kêu gọi nên thánh - Lm. Minh Vận, CRM... 17
TN 17-A107: CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN , NĂM A.. 19
TN 17-A108: VÔ TẬN.. 22
TN 17-A109: BÁN ĐI 25
TN 17-A110: Chúa Nhật 17 thường niên năm A.. 27
TN 17-A111: Kho tàng. 30
TN 17-A112: Đầu tư Nước Trời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 31
TN 17-A113: Cái cũ và cái mới – John. W. Marteus. 33
TN 17-A114: Phải bán đi những gì để mua Nước Trời?. 35
TN 17-A115: Quyết định khôn ngoan. 40
TN 17-A116: Nước Trời được ví như chuyện.... 43
TN 17-A117: Kho báu-ngọc quý-chiếc lưới hãy bán tất cả mà mua. 45
TN 17-A118: Chọn lựa. 47
TN 17-A119: Chọn Nước Trời 49
TN 17-A120: Viên ngọc quý. 52
TN 17-A121: Chọn lựa khôn ngoan (Chúa nhật XVII thường niên A) 53
TN 17-A122: Chọn Nước Trời là khôn ngoan tuyệt hảo nhất –ViKiNi 55
TN 17-A123: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 17 TN A.. 56
TN 17-A124: Kho tàng ẩn giấu dưới lòng đất 59
TN 17-A125: Nước Trời như kho tàng. 61
TN 17-A126: TRÁI NGƯỢC.. 63
TN 17-A127: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 69
TN 17-A128: Thiên Chúa vẫn đang tác động nơi lòng người 72
TN 17-A129: Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 75
TN 17-A130: Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông. 81
TN 17-A131: Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 86
TN 17-A132: Hãy làm mọi sự để có được Nước Trời 89
TN 17-A133: Kho báu trong ruộng - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 91
TN 17-A134: Kho tàng và viên đá quý trong Nước Trời 94
TN 17-A135: Bán tất cả vì viên ngọc quý Giêsu. 96
TN 17-A136: Kho tàng Ơn Cứu Độ - Lm. Quốc Toản, CRM... 98
TN 17-A137: Khôn ngoan: Kho tàng và ngọc quý. 99
TN 17-A138: Giá trị vô song – Lm. PX. Vũ Phan Long. 101
TN 17-A139: Suy niệm của Noel Quession. 107
TN 17-A140: Sự khôn ngoan đích thực. 111
TN 17-A141: CHỌN LỰA ƯU TIÊN.. 118
TN 17-A142: TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?. 120
TN 17-A143: KHO BÁU NƯỚC TRỜI 123
TN 17-A144: MỘT VƯƠNG QUỐC KỲ LẠ.. 124
TN 17-A145: TÌM KIẾM KHO BÁU.. 125
TN 17-A146: NGỌC QUÍ 127
TN 17-A147: CHỌN LỰA VÀ QUYẾT ĐỊNH.. 129
TN 17-A148: DẠI MÀ KHÔN.. 132
TN 17-A149: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 17 TN_A.. 138
TN 17-A150: TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN.. 143
---------------------------------------
(24-7-2005)
Điều chính yếu nhất là từ bỏ chính mình
ĐỌC LỜI CHÚA
• 1 V 3,5.7-12: (11) Thiên Chúa phán với Salomon: «vì ngươi chỉ xin sự khôn ngoan, chứ không xin sống lâu, xin của cải, (12) nên Ta làm theo ý ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi chẳng ai sánh bằng, và sau ngươi chẳng ai bì kịp.
• Rm 8,28-30: (8) Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người.
• TIN MỪNG: Mt 13,44-52
Dụ ngôn kho báu và ngọc quý
(44) «Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. (45) Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. (46) Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Dụ ngôn chiếc lưới
(47) «Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. (48) Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. (49) Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, (50) rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
(51) «Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không? » Họ đáp: «Thưa hiểu». (52) Người bảo họ: «Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý, tại sao Đức Giêsu cho rằng phải «bán tất cả những gì mình có»: TN 17-A101
1. Trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý, tại sao Đức Giêsu cho rằng phải «bán tất cả những gì mình có» – nghĩa là không chừa lại gì cả – thì mới mua được kho báu và viên ngọc quý ấy? Điều ấy có ý nghĩa gì trong đời sống Kitô hữu?
2. Trong thực tế đời thường, những người theo Chúa đích thực có luôn luôn phải sống nghèo nàn, thiếu thốn vì đã từ bỏ tất cả không? Đòi hỏi trong dụ ngôn là phải «bán tất cả những gì mình có» cần được hiểu theo nghĩa nào?
3. Điều chính yếu nhất, căn bản nhất của việc theo Chúa, của việc tìm sự sống đời đời là gì? Bạn đã xác định chính xác điều chính yếu ấy chưa?
Suy tư gợi ý:
1. «Vui mừng đi bán tất cả những gì mình có» trước tiên phải là một thái độ nội tâm
Trong dụ ngôn này, để mua được kho báu hay viên ngọc quý, người mua phải «vui mừng đi bán tất cả những gì mình có» thì mới mua được kho báu hay viên ngọc ấy. Với dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói: để đạt được sự sống đời đời, con người phải sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì mình có thì mới xứng đáng với sự sống ấy. Đối với Thiên Chúa, thái độ nội tâm quan trọng hơn việc làm bên ngoài. Người Việt vẫn nói: «Thèm lòng chứ không thèm thịt». Đức Giêsu cũng nói: «Ta muốn tình yêu chứ không cần lễ vật» (Mt 9,13; 12,7). Đương nhiên ai có thái độ nội tâm thật sự, thì thái độ ấy tất nhiên phải thể hiện thành hành động khi cần hoặc khi có điều kiện thể hiện. Vậy điều chính yếu nhất để đạt được sự sống đời đời là thái độ sẵn sàng từ bỏ mọi sự, không chừa lại cho mình một thứ gì.
Thiên Chúa luôn đòi hỏi những ai theo Ngài một thái độ như vậy trong nội tâm. Một khi ta đã thật sự có thái độ ấy – thường được biểu lộ tự nhiên bằng những hành động cụ thể – thì Ngài không nhất thiết buộc ta phải tiếp tục từ bỏ thật sự bằng hành động. Ngài đã biết rõ lòng ta rồi! Trái lại, trong rất nhiều trường hợp, Ngài còn ban cho ta nhiều điều vượt khỏi tầm mơ ước của ta. Chính Đức Giêsu nói: «Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau» (Mc 10,29-30). Tuy nhiên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Ngài vẫn luôn đòi hỏi ta phải có thái độ nội tâm là sẵn sàng từ bỏ mọi sự.
2. Điều chính yếu nhất là từ bỏ «cái tôi» của mình
Điều quan trọng nhất mà ta phải ưu tiên từ bỏ, không phải là những gì thuộc vật chất hay quyền lực – cho dù ta vẫn phải sẵn sàng từ bỏ bất kỳ lúc nào – cho bằng từ bỏ chính «cái tôi» của ta. Nếu ta chưa từ bỏ chính «cái tôi» của ta, thì tất cả những gì ta đã từ bỏ, vẫn bị kể như chưa từ bỏ gì cả. Có từ bỏ chính «cái tôi» của ta, thì tất cả những từ bỏ khác của ta mới có giá trị. Vì thế, với những kẻ muốn theo Đức Giêsu, muốn làm môn đệ Ngài, Ngài đưa ra những điều kiện thật rõ ràng: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16,24; Lc 9,23). Một người không từ bỏ chính mình, dù có chính thức mang danh theo Ngài, thì cũng chỉ là theo Ngài kiểu «hữu danh vô thực» mà thôi. Và việc từ bỏ chính mình phải được thể hiện bằng việc sẵn sàng chấp nhận «vác thập giá mình», nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những thiệt hại, mất mát, đau khổ xảy đến với mình vì sự từ bỏ ấy.
3. Muốn biết ta đã từ bỏ chính mình chưa, thì hãy tự xét xem
Muốn biết ta đã từ bỏ chính mình, tức từ bỏ «cái tôi» của mình chưa, ta chỉ cần xét xem ta phản ứng thế nào trong một vài trường hợp điển hình sau đây:
– Khi có ai nói động chạm đến «cái tôi», đến lòng tự ái của ta, đến quyền lợi, quyền bính, danh dự của ta?
– Khi ta muốn một ai đó gọi ta bằng ông, bằng bố, bằng bác, mà họ lại gọi ta bằng chú, bằng anh, thậm chí bằng em? Ta muốn họ xưng là con, là cháu, mà họ lại xưng là tôi?
– Khi ta đưa ý kiến của ta ra, mà có ai đưa ý kiến ngược lại?
– Khi có ai muốn sửa một lỗi nào đó của ta làm thiệt hại đến việc chung, hay làm mọi người khó chịu?
Nếu phản ứng của ta là nổi giận lên ngay, tỏ vẻ khó chịu tức khắc, muốn ăn thua đủ, muốn “đì” người xúc phạm đến ta, hoặc tìm cách chống chế, chối phăng lầm lỗi mình, chẳng cần xét xem ta có thật sự lỗi lầm hay không… Phản ứng như vậy chứng tỏ ta còn đặt nặng «cái tôi» của mình quá mức, chưa từ bỏ mình chút nào cả, hoặc chưa từ bỏ được bao nhiêu. Con đường tâm linh của ta như thế mới chỉ chập chững những bước đầu tiên thôi; đích thánh thiện mà ta nhắm tới còn xa lắm, phải nói là “xa tít mù khơi”!
4. Nền tảng của việc theo Chúa, của sự thánh thiện
Trong đời sống Kitô hữu, rất nhiều khi ta không nhận chân ra được đâu là điều chính yếu, là điều cốt tủy, mặc dù lời Chúa nói lúc nào cũng cứ rõ rành rành! Vì không nhận ra điều chính yếu nên ta cứ lo thực hiện những điều tùy phụ vốn chẳng có giá trị gì trước mặt Chúa khi mà điều chính yếu Ngài yêu cầu ta thì ta chẳng quan tâm thực hiện. Điều kiện duy nhất mà Ngài buộc ta phải có để theo Ngài là «từ bỏ chính mình» và «vác thập giá mình», nhưng thử hỏi những người tự cho rằng mình đang theo Chúa đã thật sự coi điều này là chính yếu chưa, chứ đừng nói tới việc đã thực hiện được điều đó hay chưa! Khi ta chưa thật sự «từ bỏ chính mình», thì mọi việc đạo đức của ta dù lớn lao đến đâu cũng chẳng có giá trị bao nhiêu. Vì lúc ấy ta làm mọi sự vì ta, chứ không phải vì Chúa hay vì tha nhân, mặc dùxem ra là như vậy. Rất có thể ta làm những việc có vẻ vị tha, tốt lành chỉ là để được khen ngợi, được nể phục, được thăng tiến bản thân, hoặc để Chúa trả công bội hậu sau này, v.v… chứ không phải vì yêu thương. Nếu ta chưa thật sự từ bỏ mình, thì hầu như mọi thứ tình yêu của ta chỉ là tình yêu vị kỷ: ta chỉ yêu bản thân mình mà thôi, nhưng lại yêu qua tha nhân chứ không phải yêu chính tha nhân… Ta cho ra tình yêu là để nó lại trở về với chính mình.
Tình yêu đích thực được định nghĩa bằng sự ra khỏi chính mình để đến với Chúa hay tha nhân. Nếu ta chưa từ bỏ mình, thì mọi sự ra khỏi chính mình chỉ là giả tạo bề ngoài chứ không có thực chất. Từ bỏ mình chính là điều kiện nền tảng của tình yêu chân thực. Không từ bỏ mình thì không bao giờ có tình yêu chân thực. Và chỉ có tình yêu chân thực mới làm cho các hành động của ta, dù nhỏ mọn nhất, trở nên có giá trị lớn lao. Không có tình yêu, thì việc làm của ta, dù vĩ đại đến đâu, cũng vô giá trị trước Thiên Chúa (x. 1Cr 13,3). Từ bỏ mình chính là nền tảng của tình yêu, và tình yêu chính là gốc rễ của sự thánh thiện. Sự thánh thiện không có một nền tảng nào khác ngoài tình yêu. Vì thánh thiện là giống như Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8.16).
Điều chính yếu mà Thiên Chúa muốn ta làm, ta lại không làm, mà cứ mải mê làm những điều tùy phụ, thì ta sẽ phải rất ngạc nhiên khi đến trước tòa Chúa. Ngài đã cảnh báo trước: «Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao?” Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» (Mt 7,22-23). Chúng ta thử nghĩ xem: làm sao những người coi «cái tôi» của mình quá quan trọng có thể sống hòa thuận được với nhau trên thiên đàng? Cho dù họ có giữ được đủ mọi lề luật, làm đủ mọi việc lành phúc đức ở trần gian này?
Để trồng lúa, điều quan trọng nhất không có không được, là ta phải có hạt lúa. Có hạt lúa rồi mới nói đến chuyện bón phân, tưới nước, làm cỏ… Nếu ta chỉ chăm lo chuyện bón phân, tưới nước, làm cỏ mà không hề nghĩ đến chuyện mua hạt giống, thì mọi sự ta làm dù chăm chỉ và tốn công tới đâu cũng vô ích. Vì thế, chúng ta cần phải đặt lại vấn đề cho đúng, kẻo việc giữ đạo của ta trở thành «xôi hỏng, bỏng không», chẳng được gì cả! Thiết tưởng điều căn bản nhất của việc giữ đạo, của việc theo Chúa, chính là «từ bỏ chính mình». Kẻ từ bỏ chính mình để sống yêu thương thật sự, thì dù không mang danh theo Chúa cũng là những người theo Chúa đích thực. Còn kẻ vẫn coi «cái tôi» của mình là quan trọng nhất, thì dù có mang danh theo Chúa cách chính thức đến đâu, cũng chỉ là theo Chúa cách giả tạo mà thôi!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, dụ ngôn chiếc lưới của Đức Giêsu cho biết, ngày tận thế, những người gọi là theo Chúa sẽ bị tách ra làm hai: kẻ theo đích thực và kẻ chỉ theo Chúa cách giả danh. Tiêu chuẩn mấu chốt để phân biệt chính là sự «từ bỏ chính mình» mà Đức Giêsu đã đòi hỏi những ai theo Ngài phải có, như điều kiện tiên quyết và chính yếu. Xin Cha giúp con nhận ra việc từ bỏ mình là chính yếu và quan trọng đến thế nào. Và hãy giúp con biết ưu tiên thực hiện điều ấy trước tất cả những điều tốt lành khác.
Joan Nguyễn Chính Kết
-------------------------------
TN 17-A102: Kho tàng vĩnh cửu - Huệ Minh
Con người luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn TN 17-A102
Con người luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn chia sẻ vinh quang ấy cho con người. Chính con người cũng không biết mình được dựng nên để vui hưởng vinh quang với Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô thì Thiên Chúa biết chúng ta từ thủa đời đời; khi được tạo thành, Ngài đã gọi tên ta. Theo nghĩa Thánh Kinh, Thiên Chúa biết chúng ta bằng cả tấm lòng, Ngài cưu mang chúng ta trong lòng Ngài, như một người mẹ biết con mình khi cưu mang con trong dạ. Thiên Chúa muốn thông ban người vinh quang đã có tự đời đời cho con người. Vinh quang này được sánh như một kho báu hay một viên ngọc quí trong Tin Mừng.
Nước Trời, là chủ để hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.
Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Chúa Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.
Hình ảnh viên ngọc quí và hình ảnh chủ ruộng là hình ảnh của khôn ngoan. Chỉ người khôn ngoan mới có khả năng tậu viên ngọc và có tiền làm chủ ruộng. Đại đa số đều làm thuê, công nhân. Viên ngọc quí và kho tàng chôn trong ruộng là hai hình ảnh Đức Kitô dùng chỉ về nước trời. Người giầu có là người có Lời Chúa làm chủ cuộc đời. Người khôn ngoan là người được Lời Chúa soi sáng trong đời.
Dụ ngôn "kho báu giấu ở thửa ruộng" và "viên ngọc quý" diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, mà không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. "Kho báu" và 'viên ngọc quý" ở đây là chính Chúa Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta "những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh", trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.
Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết rằng, kho báu thật sự, hạnh phúc thật sự mà con người cần tìm kiếm chính là Nước Trời. Thật vậy, Nước Trời là một viên ngọc quý, một kho tàng vô giá mà bất cứ ai có được quả là may mắn và hạnh phúc. Đối với Thiên Chúa, họ là những người khôn ngoan và giàu có, cho dù trong con mắt của thế gian, họ có vẻ điên rồ và nghèo khó.
Nước Trời không phải là một ảo tưởng. Nước Trời đem lại cho con người sự bình an trong tâm hồn, niềm vui trong trí tuệ và vẻ đẹp trong cuộc sống này, vì nó giải phóng chúng ta khỏi mọi sự mê hoặc của những kho tàng dưới đất, nhờ một niềm xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, cũng như nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trọn vẹn trên Quê Trời.
Đời sống chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có Thiên Chúa. Mối liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa chính là một kho tàng thật sự. Nhờ đó chúng ta biết mình sẽ đi về đâu, cùng đích của đời sống chúng ta là gì. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta điều chúng ta hằng khao khát kiếm tìm. Có Thiên Chúa là có tất cả, nếu chúng ta tin (Mc 9, 23; 10, 27).
Muốn được Lời Chúa làm chủ cuộc đời người đó cần bán bỏ tất cả những chủ khác để chọn một chủ duy nhất. Chọn như thế anh sẽ một lòng trung thành với chủ. Đầy tớ trung thành với chủ là đầy tớ khôn ngoan. Khôn ngoan không phải do anh học được mà do giáo huấn chủ giáo dục, hướng dẫn biến anh trở thành người đầy tớ khôn ngoan. Nói cách khác khôn ngoan anh có được là do chủ ban cho. Anh giàu có không phải vì miếng ruộng, mảnh vườn. Anh giàu có vì gia tài anh có không bị mối mọt đục khoét, không hư hao, mất giá vì thời gian.
Tin Mừng nhắc đến dụ ngôn người tìm được kho tàng chôn giấu anh ta bán hết mọi sự tìm mua thửa ruộng đó. Kho tàng đây không phải của người mù chôn dấu. Kho tàng Đức Kitô muốn nói tới là kho tàng ai cũng nhìn thấy nhưng người tham của cải thế gian sẽ mù quáng không nhận ra. Chỉ những ai dám bán hết gia tài để mua mới nhận ra. Bán hết gia tài để được giầu hơn. Nghe có vẻ nghịch lí. Người ngoài nhận xét anh là chủ ruộng nghèo vì đã bán hết mọi sự. Ngoài ruộng ra anh còn chi. Thực tế anh giầu hơn không phải vì đất ruộng tăng giá. Anh giầu hơn vì anh có thửa ruộng cộng thêm kho tàng chôn dấu trong ruộng.
Như hai người trong Tin Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong cuộc đời mình. Trong gia đình, chúng ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền bạc của cải. Các bạn trẻ đừng bao giờ nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm kiếm, để hưởng thụ. Có một sự bận tâm cao hơn đó là "tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời"; có những giá trị còn lơn lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của đời ta.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Nước Trời là kho báu vĩ đại nhất, là viên ngọc quý giá nhất, chúng ta phải cố gắng, phải hy sinh để kiếm cho bằng được. Bởi vì đời là một dịp tiện, moi ngày sống là một dịp may, chúng ta có ý chí, tự do và khôn ngoan để lựa chọn. Vì thế, chiếm đoạt được Nước Trời hay không là do chính chúng ta.
-------------------------------
(Mát-thêu 13: 44-52)
Đề tài về Nước Trời được tiếp tục khai triển trong bài Tin Mừng hôm nay. Sau khi đã trình bày bản : TN 17-A103
Đề tài về Nước Trời được tiếp tục khai triển trong bài Tin Mừng hôm nay. Sau khi đã trình bày bản chất và sự phát triển của Nước Trời, phụng vụ Lời Chúa hướng về những thái độ cần phải có để tiếp nhận Nước Trời. Vì Nước Trời có giá trị tuyệt đối nên đòi hỏi người tiếp nhận phải đặt việc tìm kiếm Nước Trời lên trên mọi sự. Chúa Giê-su cũng liên tiếp kể ba câu truyện nhỏ cho ta biết phải làm gì để có thể chiếm hữu được Nước Trời.
a) Nước Trời có giá trị tuyệt đối
Lời giảng của Chúa Giê-su vô cùng thực tế, đi vào chính đời sống hằng ngày của ta với tất cả những “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay” (Gaudium et spes). Không gạt đi những lo lắng của con người, Chúa Giê-su chỉ muốn cho ta thấy giữa những lo lắng ấy có một điều cần phải lo lắng hơn cả, đó là “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
Tại sao phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết? Bởi vì Nước Thiên Chúa có giá trị trên hết mọi giá trị khác. Tính cách tuyệt đối của giá trị Nước Trời đã được nhấn mạnh qua những phản ứng của người tìm được Nước Trời. Thái độ vui mừng, vội vã bán đi mọi thứ mình có để mua lấy thửa ruộng chôn giấu kho báu hoặc viên ngọc quý chứng tỏ cho ta thấy người tìm được đã nhận ra giá trị tuyệt đối của những gì họ tìm thấy và bằng mọi giá và mọi khả năng mình có phải chiếm cho được những gì đã tìm thấy. Ta không biết được “tất cả những gì họ có” gồm những gì, nhưng chắc chắn phải là những thứ đáng giá nhất đối với họ. Với người đi cày ruộng, có thể là tất cả tài sản, nhà cửa, đồ dùng trong nhà. Với thương gia, có thể là tất cả những viên ngọc quý giá ông ta đã sưu tầm được trong quá khứ. Cốt điểm của câu truyện là người ta có dám đánh đổi mọi sự để chiếm lấy một kho báu hoặc một viên ngọc quý mà người ta thực sự chưa chắc chắn lắm về giá trị đích thực của nó. Do đó, vẫn cần có thái độ liều lĩnh của đức tin. Vậy khi trình bày giá trị tuyệt đối của Nước Trời cho ta, Chúa Giê-su cũng đòi hỏi ta phải liều lĩnh chấp nhận giá trị tuyệt đối của Nước Trời dù ta chưa kiểm nhận được giá trị ấy. Sự liều lĩnh trong đức tin của ta giúp ta chấp nhận thế giá đáng tin cậy của Đấng nói cho ta biết rằng Nước Trời có giá trị tuyệt đối. Quả thực là một thách đố lớn lao nhất cho mọi người mọi thời, vì hầu hết chẳng ai trong chúng ta muốn “thả mồi bắt bóng” cả!
b) Khi nào ta mới thực sự thấy giá trị tuyệt đối của Nước Trời?
Quả quyết về một điều ta chưa thấy được, Chúa Giê-su mời gọi ta phải đích thân tìm kiếm Nước Trời. Người chỉ cho ta biết một điều là Nước Trời có giá trị tuyệt đối đích thực, thế thôi. Còn giá trị đó tuyệt đối như thế nào thì chính ta phải là người khám phá. Điều đó là hợp lý. Bởi vì một cái gì là tuyệt đối chỉ là tuyệt đối với ta sau khi ta đã phải so sánh, đánh đổi bằng mọi thứ khác mà thôi. Những gì kém giá trị đều bị loại bỏ dần dần, để cuối cùng ta chỉ còn thấy được cái có giá trị lớn nhất. Do đó, thời điểm để ta thấy được giá trị tuyệt đối của Nước Trời sẽ là “khi lưới đầy” hoặc “đến ngày tận thế”. Nói khác đi, khi tấm lưới cuộc đời ta không còn sức chứa đầy mọi sự lựa chọn nữa, hoặc đến ngày giờ cuối cùng của đời ta, đó chính là lúc Nước Trời thể hiện giá trị của nó. Nếu Nước Trời trong lòng ta chỉ là những kho tàng dễ mục nát và mối mọt đục khoét thuộc thế gian này hoặc toàn những loại cá xấu, thì Nước Trời ấy sẽ chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu Nước Trời trong lòng ta là kho tàng trên trời, là viên ngọc quý hoặc toàn những cá tốt, thì là do chính ta đã lựa chọn lấy trong suốt những tháng năm sống trên trần gian này.
c) Bài học thực hành: lựa chọn
Trước khi đưa ra bài học thực hành, Chúa Giê-su hỏi môn đệ: “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu”. So với những dụ ngôn trước đây, ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay xem ra đơn giản và dễ hiểu hơn. Đó là tính cách thực tế trong lối giảng dạy của Chúa Giê-su. Mà đã hiểu thì cần phải đi tới một bước nữa: thực hành. Thực hành điều gì nếu không phải là lựa chọn? Lựa chọn là cách thức để ta nhắm tới những cái tốt hơn, đẹp hơn, có giá trị hơn. Đi chợ, không lẽ ta lại chọn những thứ xấu nhất. Ngay cả giữa những cái xấu, ta cũng đã phải chọn cái đỡ xấu hơn. Chúa Giê-su cho ta một thí dụ cụ thể về việc lựa chọn: ai muốn học hỏi về Nước Trời thì phải biết lựa chọn những gì hữu dụng trong số những gì họ tìm thấy trong kho tàng của mình. Có những cái tuy cũ, nhưng lại thực sự cần thiết, và có những cái thật là mới, nhưng lại chẳng cần thiết chút nào.
Để làm cho giá trị Nước Trời của đời ta đạt tới mức tuyệt hảo, lúc nào ta cũng phải biết lựa chọn. Đây chính là mức độ thực dụng nhất của công việc chọn lựa giá trị trong cuộc sống mà các nhà tu đức gọi là phân định (discernment). Khi phân biệt cá tốt cá xấu, ta phải biết những đặc điểm của chúng. Khi chọn làm điều tốt hoặc tránh làm điều xấu, ta cũng phải biết bản chất của những điều ấy, dựa trên sự hướng dẫn của Lời Chúa, của những giáo huấn do Giáo Hội và của tiếng nói lương tâm ngay thẳng của ta. Việc chọn lựa có khi là quan trọng đến nỗi ta chọn một lần cho tất cả, thí dụ chọn làm con cái Chúa, chọn đi tu hay lập gia đình. Nhưng ngoài những chọn lựa lớn lao ấy, ta thường phải chọn lựa những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống, làm sao để ta sống đích thực là một Ki-tô hữu, thí dụ ta lựa chọn làm hòa với người đã làm ta buồn, không trả thù, không gian lận, không quay mặt đi trước những người cần giúp đỡ... Tích lũy những lựa chọn tốt sẽ là giá trị lớn nhất của Nước Trời trong tâm hồn ta vậy.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Khi ông Áp-ra-ham liều lĩnh chọn lựa bỏ mọi sự lại để lên đường theo lệnh Chúa, ông đã trở thành gương mẫu đức tin cho mọi người. Vậy tôi đã dám liều lĩnh tới mức nào để sẵn sàng đặt việc sống đạo đàng hoàng lên trên cả nghề nghiệp hoặc những việc làm ăn buôn bán? Nói khác đi, đức tin của tôi ở mức độ nào?
Trong trường học của Chúa Ki-tô, tôi được học hỏi để nhận ra những điểm nói lên giá trị tuyệt đối của Nước Trời. Tôi có để tâm tới những lời dạy dỗ của Chúa không? Tôi có dám chấp nhận những nghịch lý trong lời giảng của Người để sẵn sàng đi ngược dòng với lối sống của thế gian không? Tôi thử xét mình qua một vài điều cụ thể, thí dụ như việc tha thứ, yêu thương kẻ thù...
Trong tôi, đâu là những kho tàng dễ mục nát và chỉ có giá trị đối với người đời? Thí dụ: một căn nhà đồ sộ, một cái xe hơi đắt tiền, một cái áo dài kiểu mới nhất... Tôi trân quý chúng như thế nào? Chúng cản trở tôi nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời làm sao? Tôi sẽ làm gì cụ thể để thay đổi não trạng ấy?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi vì chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 26)
Đaminh Trần Đình Nhi
-------------------------------
Câu chuyện về vua Salomon trong Cựu ước có nhiều điểm phản ảnh trung thực cuộc sống con người: TN 17-A104
Câu chuyện về vua Salomon trong Cựu ước có nhiều điểm phản ảnh trung thực cuộc sống con người. Trước hết, cho dù ông sinh ra bởi một cuộc hôn nhân do tội ác, nhưng không vì thế mà Thiên Chúa không thương yêu. Ông đã được chọn kế thừa lời hứa Thiên Chúa dành cho gia đình và gia tộc. Và đúng như lời thư Roma, Thiên Chúa muốn làm cho ông nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, khi ban cho ông sự khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, để xét xử Dân Chúa. Và quả thực, sự khôn ngoan đã giúp ông không những làm cho đất nước phồn vinh, thu phục lòng dân muôn người như một, tạo nên sức mạnh và sự hùng cường, mà còn làm cho mọi lân bang nể vì kính trọng. Nữ Hoàng Saba từ xa xôi cũng phải đến để học hỏi, chiêm ngưỡng và suy phục. Chúng ta có thể áp dụng lời thánh Phaolô cho ông rằng "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người".Ngay cả tội ác ở đây cũng không thể hoành hành, tác oai, tác quái trên con người Chúa yêu thương và biết đón nhận tình yêu của Người. Ðó chẳng là niềm hy vọng được thắp sáng cho nhân thế ? Chính Ðức Giê su, hậu duệ của ông đã đẩy niềm hy vọng ấy lên tới tột đỉnh, khi Người biến tội ác của cây thập tự trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại, và hơn thế nữa, Người đã đập tan xích xiềng tội lỗi là sự chết, khi phục sinh từ cõi chết. Sự khôn ngoan, làm cho con người nên đồng hình đồng dạng với Ðức Giê su, làm nên những nét hoành tráng kỳ diệu nơi con người bé bỏng và ti tiện.
Ðó thực là viên ngọc quý, một kho tàng vùi dấu trong ruộng bùn.
Ðó cũng là chiếc lưới kỳ diệu thả xuống biển.
Bất kể là ai đều có thể tìm và gặp.
Trong thực tế Thiên Chúa đã sắp sẵn cho mọi người trong nhiệm cục cứu độ. Ngay từ lúc mới sinh ra, cho đến lúc chết, phải nói là dường như thể Thiên Chúa luôn đứng bên lề hành trình, dâng và tặng cho mỗi con người kho tàng vô giá ấy : bên bờ giếng rửa tội, nơi tòa xá giải, trong các bí tích Thêm Sức, Thánh Thể, Xức Dầu Thánh, Hôn Phối, Truyền Chức, Khấn Dòng...tất cả đều cho mỗi người nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô, Con Yêu Dấu Người. Và Người dâng tặng không phải chỉ trong đền thờ nguy nga, mà ngay cả trong những nơi tù đầy, thậm chí cả trên những pháp trường. Không ai có thể nói là họ không có cơ hội được chiếm hữu ngọc quý, kho tàng vô giá ấy.
Tuy nhiên những hình ảnh này đều cho thấy vẫn còn một khoảng cách giữa Khôn Ngoan và con người. Con người Salomon vẫn còn là con của tội ác, và như ông nói vẫn "còn trẻ người non dạ" so với hồng ân, tình thương và sự ưu đãi Chúa dành cho ông. Chính khi con người đánh mất cảm thức về cái khoảng cách này, thì những bi thảm sẽ xảy ra. Ðó là lúc khi Salomon nhận ra mọi quyền lực, mọi vinh quang, mọi phồn vinh của vương triều là của ông, là do ông... ông bắt đầu thành lập cho các thần minh những đền đài, những điện thờ để họ được chia sẻ vinh quang của vương quốc, và được vương quốc bảo trợ : đã có một sự hoán đổi vai trò và vị trí giữa con người và thần minh. Con người và hào quang của nó đã bao phủ thế giới thần thiêng, không còn khoảng cách thưở ban đầu. Và kết cục là ông đã cũng đặt khởi điểm sụp đổ cho vương quốc Israel.
Lẽ ra, theo lời Ðức Kitô, Salomon phải biết bán hết gia tài để tậu lấy thửa ruộng, mua lấy viên ngọc. Lẽ ra ông phải sàng lọc chọn lấy cá tốt và loại bỏ cá xấu mà lưới khôn ngoan đã dành cho ông. Nói đích xác lẽ ra ông mãi mãi phải là "tôi tớ" của Sự Khôn Ngoan để phục vụ Dân Chúa. Dân Chúa mới là thửa ruộng có kho tàng vô giá, có Sự Khôn Ngoan. Phục Vụ Dân Chúa mới là cai trị, là được thừa hưởng kho tàng. Ðáng tiếc thay, ít ai có niềm tin như thế. Người ta thường đòi hỏi được phục vụ. Nhưng không mấy ai muốn bán gia sản mình để phục vụ.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên, Bảo Lộc
-------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Rô-ma 8: 28-30
Bài đọc hôm nay tóm kết những đề tài chính mà thánh Phao-lô đã trình bày trong 8 chương, từ đầu : TN 17-A105
Bài đọc hôm nay tóm kết những đề tài chính mà thánh Phao-lô đã trình bày trong 8 chương, từ đầu bức thư tới bây giờ: Thiên Chúa kêu gọi mọi người, tuyển chọn, làm cho họ nên công chính để họ được hưởng vinh quang. Tính cách năng động của kế hoạch này (chúng ta được tuyển chọn -> được nên công chính -> được vinh quang) cho thấy mọi sự diễn tiến theo ý định của Thiên Chúa. Ðây cũng là đề tài cho những bài đọc của các Chúa Nhật kế tiếp, nhắm mục đích giúp chúng ta xác tín rằng kế hoạch ấy chắc chắn có hiệu quả đối với những ai yêu mến Thiên Chúa. Ðể giải thích tính cách năng động và hữu hiệu của kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phao-lô sử dụng một chuỗi từ, bắt đầu từ việc tiền định tới việc kêu gọi, rồi làm cho nên công chính, và cho hưởng phúc vinh quang. Vậy bài đọc hôm nay muốn chúng ta suy nghĩ về kế hoạch của Thiên Chúa đã được Người sắp đặt tự đời đời mà thánh Phao-lô gọi là việc "tiền định", không phải như là một ý định độc đoán của Thiên Chúa nhưng là ý định tràn đầy yêu thương và tôn trọng tự do của con người.
a) Ý định của Thiên Chúa là làm cho mọi sự sinh ích cho những ai yêu mến Người
Có lẽ một trong những điều dễ gây hiểu lầm nhất trong giáo lý của thánh Phao-lô về ơn cứu độ là việc người ta có cảm tưởng Thiên Chúa "tiền định" cho một số người được cứu rỗi, một số người bị luận phạt. Nhưng đó không phải là điều thánh Phao-lô muốn nói. Cách suy nghĩ của chúng ta về việc tiền định này thường là căn cứ vào kết quả (một số được cứu rỗi, một số bị luận phạt) để kết luận rằng đó là do ý định độc đoán của Thiên Chúa từ trước muôn đời; cho nên nếu Chúa không "định" cho chúng ta được lên thiên đàng thì dù chúng ta có làm gì đi nữa cũng vô ích. Ðây là thuyết định mệnh hoặc định số (determinism) và con người không có sự chọn lựa, không có tự do. Nhưng Phao-lô hiểu ngược hẳn lại. Ðối với ngài, đây là một chương trình của tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nhân loại, Thiên Chúa "muốn" làm bất cứ điều gì có thể sinh ích cho họ. Thiên Chúa chỉ "định" làm một kế hoạch chung cho nhân loại. Kế hoạch đó là:
- mục đích là giải thoát họ khỏi tội lỗi và đem về hưởng phúc vinh quang với Người,
- phương tiện là cho họ có khả năng trở nên công chính nhờ cuộc Khổ nạn và cái chết của Ðức Ki-tô,
- cách thức là trở nên đồng hình đồng dạng với Ðức Ki-tô.
Ðó là chương trình đã được Người "định". Nhưng Thiên Chúa không đi xa quá những gì Người đã hoạch định, để rồi "định" cho một số người được hưởng phúc, một số người bị luận phạt, mà Người tôn trọng việc tự do đáp trả của mọi người. Nếu người ta muốn yêu mến Người, muốn được vinh quang, thì đây, phương tiện và cách thức đã sẵn sàng, chỉ cần họ thực sự muốn và đáp trả. Bảo đảm họ sẽ đạt tới mục đích họ ước ao. Ðược vinh quang hay bị luận phạt là do họ tự ý chọn lựa. Lấy một thí dụ cho dễ hiểu. Làm bậc cha mẹ, chúng ta muốn hoặc định cho con cái sẽ có được một tương lai tốt đẹp tùy theo khả năng của chúng. Chúng ta cung cấp cho chúng phương tiện cần thiết như ăn uống, tiền bạc, học hành... Nhưng việc chúng có thành đạt hay không lại còn phải tùy thuộc nơi chúng.
b) Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Con của Người
Khi sai Con Một đến, Thiên Chúa thực hiện kế hoạch của Người. Theo đó, Ngôi Hai làm người là Ðức Giê-su sẽ sống vâng phục, chết trên thập giá, sống lại và như thế Người đã chiến thắng tội lỗi và thần chết. Chiến thắng ấy đã biến đổi thân phận loài người, cho họ một tư cách mới trước mặt Thiên Chúa, tức là được nên công chính. Tuy nhiên đây mới chỉ là bước căn bản, điểm khởi hành cho một hành trình trở về nhà Cha. Trong cuộc hành trình đức tin ấy, Thiên Chúa đặt Ðức Ki-tô như gương mẫu cho mọi người theo. Thánh Phao-lô đã dùng hình ảnh sống động hơn để diễn tả việc noi gương này, đó là "nên đồng hình đồng dạng" với Ðức Ki-tô. Nghĩa là Thiên Chúa mong muốn chúng ta hãy suy nghĩ với não trạng của Ðức Ki-tô, hành động theo cung cách của Ðức Ki-tô. Còn hơn thế nữa, chúng ta được mời gọi hãy chia sẻ tích cực vào chính sự sống của Ðức Ki-tô, đến độ "cùng chịu đóng đinh với Ðức Ki-tô vào thập giá" hoặc "tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2:19-20). Ðời sống này, thánh Phao-lô gọi là "sống theo Thần Khí."
c) Tính cách năng động và tích cực của kế hoạch cứu độ cho chúng ta thấy điều gì nơi Thiên Chúa?
Thuyết định mệnh vẽ nên một Thiên Chúa độc đoán. Còn giáo lý thánh Phao-lô về ơn công chính hóa, cứu rỗi và vinh quang cho chúng ta thấy lòng săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với việc cứu độ loài người. Việc "tiền định" của Thiên Chúa mà thánh Phao-lô nói đến chỉ diễn tả một khía cạnh về phía Thiên Chúa, đó là thái độ tích cực, đầy thiện chí của Người và sự bảo đảm hữu hiệu do kế hoạch của Người. Thánh Phao-lô không có ý đề cập đến số phận cá nhân và trách nhiệm của từng người trong việc cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Do đó khi chiêm niệm về kế hoạch cứu độ, chúng ta không thể không cảm nhận lòng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa, như thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su đã nức nở khóc trước hình ảnh gà mẹ ấp ủ con dưới cánh làm cho Chị nghĩ tới tình yêu Thiên Chúa.
Phải nhận ra tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ qua Ðức Ki-tô, đó là kết luận của phần trình bày (8:31-34), đồng thời cũng nói lên một sứ điệp quan trọng cho Ki-tô hữu: cứ vững lòng, vì "không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta" (8:39).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Sử dụng thêm đoạn Ê-phê-xô 1:3-14 và Cô-lô-xê 1:15-20, chia sẻ những xác tín về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, hát một bài Tạ ơn.
Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi
-------------------------------
TN 17-A106: Được kêu gọi nên thánh - Lm. Minh Vận, CRM
Thánh Phaolô viết: "Những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành, họ là TN 17-A106
Thánh Phaolô viết: "Những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên Thánh; tức là được tiền định nên giống Chúa trong sự thánh thiện" (xem Rom 8:29).
I. CHÚA TRUYỀN PHẢI NÊN THÁNH
Trong sách Levi Chúa đã truyền dạy: "Chúng con hãy nên Thánh, vì Ta là Thánh" (Lv. 11:45). Thánh Phaolô cũng nhắc lại cho chúng ta thánh lệnh đó khi nói với chúng ta rằng: "Thánh ý Chúa là muốn cho anh chị em nên Thánh" (I Thess 4:3). Giáo Hội qua Công Đồng Vaticanô II với quyền giáo huấn Chúa trao, đã nhắc lại cho con cái trong hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân: "Mọi Tín Hữu bất cứ bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu mời tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô Giáo và tới sự thánh thiện" (L. G. # 40). Chúa Kitô khi nhắc lại thánh lệnh đó, Ngài còn nêu cho chúng ta mẫu gương thánh thiện và truyền cho chúng ta phải họa theo: "Chúng con hãy nên thánh thiện như Cha các con trên trời là Đấng thánh thiện" (Mt 5:48). Như thế, mẫu gương thánh thiện của chúng ta là chính Thiên Chúa cao cả.
II. CÁC THÁNH ĐÃ NÊN THÁNH
Mọi người chúng ta bất cứ ở chức vị, địa vị, nghề nghiệp, lứa tuổi nào đều có thể nên Thánh được; vì Chúa không bao giờ truyền làm một điều mà chúng ta không có thể thực hiện được. Nếu lệnh Chúa truyền đó là điều khó khăn đối với bản tính tự nhiên con người, thì Chúa lại ban ơn trợ giúp đủ để chúng ta có thể thực hiện, trừ khi chúng ta không muốn hoặc chống lại ơn Chúa ban.
Chính Thánh Augustinô đã luôn tự hỏi mình: "Ông nọ bà kia nên Thánh được sao tôi lại không nên Thánh được?" Vì lời tự vấn đầy nghị lực đó đã luôn phấn khích, mà ngài đã từ một chàng thanh niên trác táng, theo các bè rối lạc đạo, đã trở nên một vị Đại Thánh, Một Giám Mục và Thánh Tiến Sĩ Giáo Hội. Do đó, mà chúng ta có thể tìm thấy trong Giáo Hội có đủ một bậc người, mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi đều có các vị Thánh như gương mẫu cho mỗi người chúng ta noi theo bắt chước.
Thánh Tôma tiến sĩ, một vị thông thái đã nên Thánh.
Thánh Terexa Nhỏ, một Nữ Tu tầm thường sống trong 4 bức tường kín nhà Dòng cũng đã nên thánh.
Người kẻ trộm, bị đóng đánh cùng với Chúa Giêsu, nhưng với lòng sám hối tội lỗi chân thành đã nên Thánh, từ kẻ ăn trộm của cải trần gian đến kẻ ăn cướp được cả Nước Trời.
Mettolbot, một chàng trai nghiện ngập nhậu nhẹt li bì cũng đã nên Thánh. Tiểu sử ngài đã đang tựa đề: "Từ say rượu tới say Chúa".
Goretty, một cô bé 12 tuổi đã sẵn sàng chịu chết để bảo vệ đức trinh khiết đã được hiến dâng cho Chúa.
Đaminh Savio, một cậu bé mới 10 tuổi đã nên một Thánh.
Phải kể đến biết bao vị anh hùng tử đạo Việt Nam đã sẵn sàng chết vì Đức Tin, để chứng minh lòng trung kiên với Thiên Chúa...
Một hôm, Thánh Bonaventura vừa đi ngang qua nhà bếp lúc một Thầy Trợ Sĩ đang nấu đồ ăn; vừa thấy Thánh Nhân, Thầy đã lớn tiếng kêu lên: "Chớ gì tôi được thông thái như Cha Bonaventura của tôi, để tôi được yêu mến Chúa như ngài". Thầy Dòng đơn sơ này tưởng rằng phải thông thái hiểu biết Chúa như Thánh Bonaventra mới mến Chúa và nên Thánh được. Thánh Nhân đã trả lời: "Thầy ơi, Thầy lầm rồi, không cần phải thông thái như Bonaventura mới mến Chúa được, một bà lão nhà quê dốt nát cũng có thể yêu mến Chúa và nên Thánh được". Nghe thấy thế, Thầy Dòng đã sung sướng nhảy bổ tếu lên và chạy ra ngoài làng xóm, kêu lớn tiếng: "Hỡi các bà lão nhà quê, các bà cũng có thể yêu mến Chúa như Cha Bonaventra của tôi". Sau đó, mọi người đều thấy Thầy bay bổng lên trong cơn xuất thần lâu giờ trước sự kinh ngạc và mến phục sự thánh thiện của một Thầy Dòng khiêm nhu.
III. PHƯƠNG THẾ NÊN THÁNH
Làm thế nào để có thể nên Thánh được khi chúng ta chỉ là những con người tầm thường, đầy khuyết điểm, nhiều tính mê nết xấu với những bản năng luôn hướng hạ? Các vị đã đạt tới đích thánh thiện như chúng ta đã thấy, cũng chỉ là những con người tầm thường như chúng ta, có khi còn là những tội nhân đã từng sống đời trụy lạc bề bối... nhưng các ngài cũng đã nên Thánh được. Vậy các ngài đã dùng những phương thế nào để đạt tới đích thánh thiện như vậy? Chỉ có một phương thế rất đơn sơ dễ dàng để nên Thánh mà ai trong chúng ta cũng thể thực hiện được đó là: "Làm mọi việc thông thường một cách khác thường". Chúa không đòi chúng ta phải thông thái, phải làm nhiều việc lớn lao, phải ở địa vị cao, chức quyền lớn, hay là những vị có bẩm tính thánh thiện ngay từ lòng mẹ... Chỉ cần chu toàn mọi nhiệm vụ to nhỏ tầm thường hằng ngày trong bậc mình vì lòng yêu mến Chúa. Chúng ta tội lỗi ư? Thánh Phêrô nói: "Tình Yêu xóa mọi tội lỗi". Giá trị công phúc không phải là do làm các việc lớn lao anh hùng, nhưng là do lòng yêu Chúa lớn lao. Thánh Têrêxa nhỏ đã quả quyết: "Chỉ có tình yêu là đáng kể". Như vậy mọi người chúng ta đều có thể nên Thánh được. Là những vị gia trưởng, các bà mẹ, các bà vợ, các người con, mọi thành phần xã hội đều có thể nên Thánh.
Kết Luận
Xin Mẹ giúp chúng con biết thánh hóa đời sống chúng con, bằng cách làm mọi việc tầm thường hằng ngày, với một lòng yêu mến Chúa lớn lao phi thường như Mẹ và các Thánh đã thực hiện, để Chúa được vinh danh và hài lòng với chúng con.
-------------------------------
Ngày 04/ 8 / 2002
BÁNH HÓA NHIỀU
Mt 14,13-21
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Con người ta sống ở đời là sống thực tế. Sống cái đời thường. Không có ai dám quả quyết, tôi : TN 17-A107
Con người ta sống ở đời là sống thực tế. Sống cái đời thường. Không có ai dám quả quyết, tôi sống không cần ăn, không cần uống . Nếu có ai dám quả quyết những điều vừa nói, chắc chắn họ phải thuộc về cõi khác với kiếp sống đời thường .Chúa Giêsu khi mặc lấy kiếp sống làm người, đã không ở ngoài định luật tất yếu của con người.Nghĩa là Ngài cũng đã phải dùng lương thực để nuôi thân, dùng nước uống để củng cố thể xác, Ngài cũng sống hoàn toàn thân phận làm người,ngoại trừ tội lỗi .Vì thế, Chúa Giêsu đã nói nhiều tới bữa ăn để chỉ về nước trời, dù rằng ngài đã thường nói:"Lương thực của Ta là làm theo ý của cha Ta " ( Ga 4, 32 ).Chúa Giêsu khi khẳng định điều đó, Ngài muốn cho nhân loại hay của ăn trần thế cần để nuôi sống, nhưng còn có điều tối cần hơn là làm theo ý Chúa để có sự sống đời đời .Phép lạ, Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dậy, nói lên lòng chạnh thương và sự lưu tâm đặc biệt của Chúa đối với nhu cầu đói và khát của dân chúng .
I. NHỮNG PHÉP LẠ CỦA CHÚA GIÊSU :
Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu bao giờ cũng làm phép lạ kèm theo lời nói của Ngài. Lời rao giảng của Chúa Giêsu không bao giờ trở thành lời nói suông, nhưng nó luôn có một sức sống mãnh liệt, sức sống vươn cao như hạt lúa mì rơi xuống đất thối rữa đi, mọc lên và sinh hoa kết quả .Các môn đệ đi theo Chúa Giêsu không những được nghe giáo huấn của Ngài, được Ngài dậy bảo những điều hay lẽ phải, được Ngài hun đúc, uấn nắn, rèn luyện,nhưng được chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, quả thực đã nung nấu tâm can của các môn đệ nhiều vì rằng những phép lạ chứng minh quyền năng vô biên của Chúa,qua đó củng cố đức tin của các môn đệ .Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ trong cuộc hành trình truyền giáo của Ngài như Chúa làm cho nước hóa thành rượu ngon trong tiệc cưới Cana ( Ga 2, 1-11 ) , hoá bánh ra nhiều ( Mt 14, 13- 21 ). Chữa các bệnh hoạn tật nguyền: mù được thấy, điếc được nghe, câm nói được, què đi lại, người nghèo được nghe rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu trừ quỉ ra khỏi nhiều người và rất nhiều phép lạ khác Ngài đã thực hiện trong cuộc đời tại thế của Ngài .Tuy nhiên,phép lạ lớn nhất, cao cả nhất vẫn là phép lạ Chúa Giêsu đã làm nơi chính bản thân Ngài: Chúa chết, đã được an táng trong mồ , sau ba ngày, chính Ngài đã sống lại theo như lời Ngài đã báo trước với các môn đệ theo như thánh Gioan đã nói :" Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người "( Ga 20, 31 ).Chúa Giêsu khi làm những phép lạ luôn nhắm đến những nhu cầu thiết thực của con người. Vì thế, Tin Mừng Chúa nhật 18 trích Mt 14, 13-21 nói đến phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để giải quyết nhu cầu thực tế của đám đông dân chúng theo Ngài,lắng nghe Chúa giảng dậy,nhưng đói, khát vì dân chúng không có lương thực để ăn lúc đói bụng .
II. PHÉP LẠ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT :
Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành,nhân hậu đến cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Ngài không những giữ vai trò huấn luyện dân chúng tìm kiếm nước trời,nhưng trong cuộc hành trình tiến về quê trời. Con người đầu đội trời, chân đạp đất,thực tế vẫn là sự sống đời thường,trước khi được Chúa gọi về . Vây, cái thực tế , nhu cầu trước mắt lúc này , vẫn là giải quết cái đói cho dân chúng. Nếu giải tán dân, cho dân trở về , chắc chắn Chúa Giêsu sẽ đỡ vất vả.Các môn đệ nghĩ giản đơn như thế :" Xin Thầy cho dân chúng ra về để họ vào làng xung quanh mà mua thức ăn "( Mt 14, 15 ).Cách suy nghĩ và giải quyết như các môn đệ quả thực là cách dễ dàng, không trách nhiệm, khỏe, không bận rộn cho chính bản thân mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu với tấm lòng nhân hậu, chứng tỏ một tình thương sâu xa , vô biên, tuyệt đối :" .Ðức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ " ( Mt 14, 14 ).Chúa Giêsu đã quặn đau, se thắt con tim khi gặp con trai bà góa Naim, đang được khiêng đi chôn, khi đối diện với Matta, Maria đang thương khóc em trai của mình là Lazarô đã được chôn trong mồ và đã nặng mùi hôi; Ngài đã đau lòng khi gặp người mù ở Giêricô , khi thấy đám đông không người chăm sóc, bơ vơ, vất vưởng .Chúa Giêsu chính là mục tử tốt lành đến qui tụ và dẫn
đưa chiên đến những cánh đồng cỏ xanh tươi ( Tv 23 ). Chúa Giêsu đã quan tâm đến nhu cầu thực tế , giải quyết điều cần thiết trước mắt cho dân chúng:" Cho họ ăn và cho ăn no nê, dư thừa " . Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ:".Chính anh em hãy cho họ ăn ". Với năm chiếc bánh và hai con cá ( Mt 14, 17 ). Chúa Giêsu đã làm phép lạ để nuôi 5.000 ngươi đàn ông , không kể đàn bà, trẻ con ( Mt 14,21 ).Chúa giêsu đã thực hiện phép lạ này với sự cộng tác của con người: 5 cái bánh và 2 con cá.Lẽ dĩ nhiên, Chúa Giêsu có thể làm không ra có, nhưng Ngài đã không làm thế và kêu gọi sự cộng tác tích cực của con người.Qua phép lạ này, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Môsê mới,quitụ dân, giải thoát dân, đưa dân đi vào đất hứa, nơi đó dân sẽ được nuôi sống đầy dư vì Chúa là chủ , là Ðấng dọn cho dân mâm cỗ khiến dân có dư thừa lương thực để ăn và nuôi thân.
III. CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI TIẾP TỤC SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI:
Bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi dân chúng, đồng thời phép lạ diễn ra vào buổi chiều làm cho ta liên tưởng đến bữa tiệc ly khi Chúa Giêsu và các môn đệ ăn lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và rượu , tạ ơn Thiên Chúa cha,rồi phân phát cho các môn đệ.Ở đây, Chúa Giêsu đã xin các môn đệ làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu để tưởng nhớ đến Ngài. Ðộng từ "trao cho", được Chúa dùng để nói đến sứ vụ của Ngài là trao ban, rồi qua tay các môn đệ , các tông đồ, các linh mục động từ trao ban cũng được các Ngài dùng để phân phát cho những người khác và do đó lịnh truyền của Chúa cho các môn đệ :" Các con hãy cho họ ăn "luôn là sứ mạng thôi thúc các sứ giả của Chúa . Chúa luôn mời gọi con người chiasẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn chia sẻ cho nhau bằng chính lời cầu nguyện .Hình ảnh manna, chim cút trong sa mạc luôn gợi lại cả một giai đoạn dài lịch sử mà chính Thiên Chúa đã dùng tình thương của mình để nuôi sống dân chúng.Manna,bánh, cá , chim cút chỉ là lương thực nuôi sống con người nhất thời,nhưng thịt và máu của Chúa Giêsu mới đem lại sự sống vĩnh cửu .Tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Giêsu .
Xin Chúa giúp chúng con biết chia sẻ và trao ban với tất cả niềm tin, với tất cả tình thương của mình.
Xin Chúa cho ta biết yêu mến Bí Tích Thánh Thể .
-------------------------------
Theo lời kể của ông Trần Văn Tiệp, ngay từ những năm 1957, ông đã có những thông tin chính xác: TN 17-A108
Theo lời kể của ông Trần Văn Tiệp, ngay từ những năm 1957, ông đã có những thông tin chính xác về “kho vàng” này: “Nhưng trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, tôi phải bí mật nguồn thông tin.”
Theo hồ sơ của ông Tiệp cung cấp cho Báo Thanh Niên, cuối Thế Chiến thứ hai (khoảng năm 1943 ), trên vịnh Cà Ná ( giáp ranh tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận hiện nay ), tướng Yamashita của Nhật sau khi đầu hàng quân Đồng Minh đã đưa một hạm đội gồm 84 tàu chiến chở đầy vàng đến đây. Quân đội Nhật đã chôn giấu khoảng 4.000 tấn vàng tại một hòn núi sát với vùng biển này. Tuy nhiên, sau đó không quân của Đồng Minh đã đánh chìm 66 tàu của quân Nhật xuống vịnh Cà Ná, 18 tàu còn lại chạy tứ tán. Có một con tàu mãi đến năm 1945 mới chìm hẳn. Sau Thế Chiến thứ hai, nhiều lần người Nhật đã đến Việt Nam để tìm tung tích kho vàng cực lớn này nhưng đều thất bại. Ông Tiệp khẳng định: “Sở dĩ quân đội Nhật chôn kho vàng này gần biển là vì thuận lợi giao thông đường biển, đường bộ và đường sắt. Hơn nữa, lại gần với một kho vàng khác của vua Chăm ngày xưa để lại nơi này.”
Ông Tiệp và các cộng sự đã trưng ra nhiều vật chứng quan trọng trình UBND tỉnh, mà ông cụ cho rằng đã thu được từ những cuộc thăm dò kho vàng tại núi Tàu. Đó là một thanh gươm và một vỏ bao gươm của Nhật đã cũ; một đồng tiền 10.000 yen; một ống điếu bằng kim loại đã vỡ một phần; hai logo Hắc Long bằng kim loại và một lá đề bằng đá... Ông Tiệp khẳng định: “Những cổ vật này là chứng cứ không thể bàn cãi về việc có sự hiện diện của kho vàng ở núi Tàu”. Để chứng minh, lần đầu tiên ông Tiệp trưng ra tấm bản đồ vị trí “kho vàng núi Tàu”, được ông vẽ lại khá tỉ mỉ. Theo ông Tiệp, tấm bản đồ này chỉ ông và người có trách nhiệm cao nhất của tỉnh mới được tiếp cận vì “yếu tố bí mật” và vì lý do “an ninh” nên không ai được phép biết trừ khi được ông cho phép.
Chỉ với những thông tin mỏng manh, nhưng suốt hơn 50 năm qua ông đã đeo đuổi về cái gọi là “kho vàng núi Tàu”. Cả cuộc đời ông hầu như chỉ có một việc, đó là khai thác bằng được kho vàng này, dù đến nay, đã ngót trăm tuổi, đã bỏ ra hàng trăm cây vàng cho việc tìm kiếm. Nhưng thất bại không làm ông nản chí. Ông bảo đời ông chưa tìm thấy thì đời con ông sẽ tiếp tục đi tìm. Niềm tin “kho vàng núi Tàu” với ông không bao giờ tắt ! ( Báo Thanh Niên ).
Không rõ kho vàng nói trên có thật hay không, nếu chỉ xét ở góc độ xác tín và kiên trì của ông cụ Trần Văn Tiệp có thể gợi ý cho Kitô hữu suy gẫm sâu sắc hơn về kho báu Nước Trời. Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu ví Nước Trời như kho báu giấu kỹ, hay như viên ngọc quý hiếm hoi độc nhất vô nhị, mà ai phát hiện sẽ khôn ngoan bán ngay mọi thứ để cấp thời mua lấy, rồi còn phải chiến đấu liên tục để có thể lưu giữ.
Khôn ngoan
Nhờ hồng ân mà Kitô hữu khám phá ra được kho tàng vô giá mà cứ tưởng như là cờ. Đó chính là Nước Trời, mà Đức Giêsu vừa giới thiệu, vừa trao ban qua Lời Chúa và Thánh Thể nhiệm mầu. Khi tín hữu tìm thấy kho báu độc nhất vô nhị này, hoặc viên ngọc quý giá vô song, thì Đức Chúa Thánh Thần luôn ban ơn khôn ngoan, ân sủng đầu tiên trong Bảy Ơn của Ngài, để tín hữu có thể tự do lựa chọn, cũng như cân nhắc quyết định chiếm hữu hay từ chối.
Cũng như các Thánh Tông Đổ tiên khởi, Thánh Phaolô cũng khôn ngoan chiếm hữu Nước Trời, mặc dầu trước đó ngài đã hăng say truy sát những ai tin theo Đức Giêsu. Nhờ ơn khôn ngoan, Thánh Phaolô, như Vua Salômôn ngày xưa, đã biết lắng nghe và biệt phân phải trái, để vứt bỏ đi hết những học thuật uyên bác, những thành tích thánh chiến, để hân hoan làm công dân Nước Trời: "Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người“ ( bản dịch của Nhóm Các GKPV, Pl 3, 8 – 9 ).
Lm. Nguyễn Thế Thuấn dịch câu này khá ấn tượng: “…Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô, và được thuộc về Ngài…” Còn Lm. An Sơn Vị dựa theo bản Kinh Thánh TOB, dịch: “Vì Người, tôi đã đánh mất đi tất cả, và tôi coi tất cả như đồ cặn bã, để được lời chính Đức Kitô và được gặp thấy tôi nơi Người.”
Như thế, tất cả của cải vật chất lẫn tư tưởng cao siêu, quyền hành, chức tước, danh lợi thế gian hoàn toàn chỉ là phù vân, cặn bã, phân bón, rác rưởi nếu so với kho báu Nước Trời. Ai thèm dại dột lựa chọn thế gian phù phiếm nhất thời, nếu có một chút khôn ngoan ?
Chiến đấu
Tuy nhiên chiếm hữu Nước Trời không hề dễ dàng như mua tấm vé xem trận chung kết bóng đá thế giới vừa qua tại Brasil. Cần có chí khí, nghị lực, can đảm, miệt mài chiến đấu mới chiếm giữ nổi. Chính Đức Giêsu đã khẳng định chắc nịch: “Nước Thiên Chúa phải đương đầu với sức mạnh. Ai mạnh sức thì chiếm được” ( Mt 11, 12 ).
Thánh Phaolô đã minh chứng qua kinh nghiệm dấn thân vào Nước Trời: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” ( 2Tm 4, 7 – 8 ).
Có lẽ cuộc chiến cam go và dai dẳng nhất là chiến đấu với chính bản thân, lực cản mạnh bạo và nguy hiểm nhất cho ai muốn chiếm hữu Nước Trời. Vì vậy, bỏ mình là điều kiện tiên quyết chiếm hữu Nước Trời, tiếp đến can trường chấp nhận mọi thách đố khó khăn: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”( Lc 9, 23 ).
Trung kiên
Để chiếm hữu được Nước Trời, Kitô hữu còn phải không ngớt hăng say chiến đấu liên tục, trường kỳ với ba thù hàng ngày, hàng giờ, hàng phút giây, không thể ngưng nghỉ, thỏa hiệp, nên Kitô hữu cần luôn tỉnh thức như năm cô phù dâu khôn ngoan, như người tôi tớ trung thành, thức khuya sẵn sàng và chu đáo đón chờ chủ về. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” ( Mt 10, 22 ).
Thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu thành Côrintô dù chịu thử thách, nguy nan, cứ nhất mực kiên trì, trung thành với Nước Chúa, với Ơn Gọi: “Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: Trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích” ( 1 Cr 15, 58 ).
Thánh nhân còn diễn giải minh bạch hơn nữa về sự bền vững, trung thành với kho báu Nước Trời. “Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” ( Rm 5, 3 – 5 ).
“Giữa những thử thách, con hãy nghĩ gian khổ sánh sao được với Nước Thiên Đàng. Đó là phương pháp của Chúa: “Phước cho ai khó nghèo, ai khóc lóc, ai chịu bắt bớ… Vì Nước Thiên Đàng là của mình vậy” ( Đường Hy Vọng, số 695 ).
Lạy Chúa Giêsu xin ban Đức Chúa Thánh Thần soi sáng chúng con biết khôn ngoan, để lắng nghe Lời Chúa, biệt phân chánh tà và biết can đảm chọn lựa, chiếm hữu Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã khôn ngoan và can đảm “Xin Vâng”, để đón nhận Nước Trời, Đức Giêsu vào lòng Mẹ, nay xin Mẹ cầu bầu và phù hộ chúng con luôn mãi đón Con Mẹ trong đời. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
-------------------------------
Nước Trời được ví như thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi,: TN 17-A109
“Nước Trời được ví như thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” ( Mt 13, 45 – 46 ). Nước Trời quả thật quý giá như dụ ngôn Đức Giêsu giảng dạy, thì tại sao người ta vẫn không yêu quý để mà đánh đổi tất cả ?
Ai đã từng đánh mất điều gì đó quý giá nhất trong cuộc sống, có lẽ sẽ luyến tiếc hoài và nhớ mãi khôn nguôi. Ai đã từng tìm thấy điều gì đó quý trọng, có lẽ sẽ đánh đổi tất cả để mà lựa chọn.
Cuộc đời là một cuộc chọn lựa không ngừng. Can đảm chọn cũng đồng nghĩa với việc can đảm mất. Mất điều ta không yêu không thích thì dễ nhưng mất đi cái ta khao khát là mất cả cuộc đời. Nhân loại có rất nhiều thứ để chọn và lựa, cũng có rất nhiều điều để được và mất. Nhưng hỏi thử, điều gì được khi cuộc sống không còn ? Mọi thứ rồi cũng qua đi, chỉ còn tình yêu là ở lại. Và Nước Trời chính là Tình Yêu ấy.
Lựa chọn Tình Yêu, người thương gia đã bán đi tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc Nước Trời. Chỉ những ai hiểu được giá trị Tình Yêu mới có thể bán đi tất cả những gì mình có để đánh đổi lấy Tình Yêu được. Như vậy giá trị Tình Yêu được cân đo bằng “tất cả những gì ta có”.
Thế gian có rất nhiều: danh vọng, tiền tài, của cải, sự nghiệp, sắc đẹp, chức tước, địa vị, quyền lực, tình yêu… Đó là tất cả những gì nhân loại có nhưng phải đánh đổi, nếu muốn có được Nước Trời, có được Tình Yêu. Nhưng dường như Tình Yêu không là khao khát tột đỉnh của nhân loại, không là cùng đích, là cứu cánh của họ, cho nên chẳng mấy ai dám bán đi “tất cả những gì mình có” để đánh đổi lấy Tình Yêu cả.
Phải chăng vì thế giới chưa hiểu hết giá trị Nước Trời cho nên đã xem thường và coi nhẹ. Chỉ những ai trải nghiệm nhiều trong mất mát khi bám víu vào giá trị vật chất chóng qua, người ấy mới hiểu được thế nào là Tình Yêu vĩnh cửu. Nếu nói rằng, mọi sự rồi sẽ qua đi, duy Tình Yêu là ở lại, thì tại sao nhân loại không can đảm từ bỏ tất cả giá trị vật chất để mà mua cho bằng được Tình Yêu vĩnh cửu ấy chứ.
Ngày nay người ta sẵn sàng bỏ ra hàng triệu đô để mà mua cho được tình yêu, danh vọng, chức tước, sự nghiệp, địa vị… nhưng người ta lại không dám đánh đổi để thủ đắc cho được Tình yêu khi không cần lấy một xu. Tại sao vậy ? Có lẽ theo ý niệm nhân loại, thì Tình yêu mà Nước Trời ban tặng ấy xem chừng mông lung, xa vời quá. Nó ở tận thế giới bên kia, một thế giới sau sự chết kìa. Con người lại sống ở thế giới này, họ cần tiền để sống, cần danh vọng để tham vọng, cần quyền lực để bá chủ. Phải chăng sự khác biệt quá lớn giữa sự sống đời này và cuộc sống ngày sau đã ngày càng đẩy lùi con người rời xa Thiên Chúa.
Nhiều khi người ta ý thức Nước Trời giá trị thật đấy nhưng xem chừng còn xa lắm kìa, chưa cần phải vội để mà đánh đổi ngay hôm nay, từ từ ngày sau cũng được. Chính thái độ dùng dằng này đã khiến cho con người ỷ lại, quên đi chuyện chiếc lưới được quăng xuống biển: “Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi rồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Ngày tận thế cũng vậy, các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. ở đó chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” ( Mt 13, 48 – 50 ).
Lạy Chúa, Ngài đã dùng rất nhiều dụ ngôn để giảng dạy cho chúng con hiểu mầu nhiệm Nước Trời cùng với những giá trị thật mà Nước ấy mang lại. Thế nhưng, dường như con nghe chỉ để mà nghe và hiểu chỉ để mà hiểu nên vẫn chưa can đảm chọn lựa. Hoặc đã chọn rồi mà vẫn còn dùng dằng đổi qua đổi lại.
Thế gian có nhiều thứ để lựa nhưng Nước Trời chỉ một mà thôi. Vậy mà chẳng hiểu sao con vẫn không thể chọn được phần tốt nhất. “Bán đi tất cả những gì mình có" ư ? Đã can đảm làm điều ấy chứ, nhưng rồi con lại đòi lại. Nhặt lên, thả xuống... gì thì cũng toàn danh vọng hư ảo mà thôi.
Xin giúp con chỉ chọn lấy một, cho dù có phải mất đi tất cả cũng không hề nuối tiếc. Nhưng Chúa ơi, đó là điều xem chừng con không thể nào thủ đắc. Thôi thì hãy chọn giúp con vậy nhé. Hãy giúp con chọn một lần cho đủ và bán đi tất cả mà mua lấy Tình Yêu có giá trị vĩnh hằng nuôi sống hồn con.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
-------------------------------
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Mt 13,44-52
"Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng.
Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại,
rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy"Mt 13,44).
Mấy tuần nay chúng ta có dịp cùng nhau suy niệm về mầu nhiệm Nước Trời. Nước Trời hay Giáo Hội ở TN 17-A110
Mấy tuần nay chúng ta có dịp cùng nhau suy niệm về mầu nhiệm Nước Trời. Nước Trời hay Giáo Hội ở trần gian được bắt đầu một cách thật khiêm nhường, như một hạt cải, vượt qua mọi khó khăn để thành hình và vươn lên, hiện đang có mặt ở trần gian như men trong bột, thực sự đang có nhiều ảnh hưởng tốt cho trần gian. Tuy nhiên Nước trời ở trần gian chưa phải là một thực tại vẹn toàn. Nó còn là một thực tại pha trộn. Nhưng thử hỏi tình trạng này sẽ kéo dài tới bao giờ thì Bài Tin Mừng hôm nay sẽ hé mở cho chúng ta câu trả lời.
I. "Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”(Mt 13,47-48)
Với những lời như thế, Chúa cho chúng ta biết tình trạng pha trộn giữa tốt và xấu sẽ được phân loại một cách rõ rệt và số phận của mỗi hạng người sẽ được phân định một cách dứt khoát không còn có thể lẫn lộn được nữa. Thế nhưng trong giai đoạn tại thế thì Nước Trời hay Giáo Hội của Chúa phải chấp nhận một thực tế pha trộn xem ra có vẻ không tốt lành gì.
Về vấn đề này, Cha Jacques Loew đã có một cái nhìn đáng cho chúng ta suy nghĩ: "Giáo Hội là nơi Chúa chọn để gặp gỡ nhân loại trong suốt dòng lịch sử. Chỉ có chiều kích Tình yêu vô biên của Thiên Chúa mới có thể làm cho một ý đồ như thế trở nên có thể tin được.
Giáo Hội là Mầu nhiệm vì Giáo Hội trà trộn với tội lỗi của con cái mình nhưng coi tội lỗi như một địch thù mà Giáo Hội phải chiến đấu cho đến ngày tận thế.
Giáo Hội là mầu nhiệm vì Giáo Hội thánh thiện nhưng đồng thời không phải là lý tưởng mà là Giáo Hội của Lịch sử, là thân thể của Đức Kitô kéo dài trong nhân loại.
Phải, mầu nhiệm của một Giáo Hội mà thân mình thì liên đới với Lịch Sử thế giới còn ngọn thì ở trên trời. Một Giáo Hội vừa thánh thiện vừa gần với những phần tử tội lỗi"
Vâng Giáo Hội là như thế. Và chúng ta có thể nói đó là ý muốn của Thiên Chúa.
II. Vậy thì chúng ta phải nhìn Giáo Hội với thái độ như thế nào?
Cũng trong bài Tin Mừng Chúa còn nói với chúng ta về kho báu và viên ngọc quí đồng thời ở cuối bài Tin Mừng, Chúa đề cập đến thái độ của những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng như chủ nhà kia biết lợi dụng cái cũ cái mới trong kho của mình.
Lời nói của Chúa rõ ràng khiến người ta liên tưởng đến thái độ khôn ngoan mà Chúa đã đề cập đến ở một nơi khác.
Người nông dân và người lái buôn trong hai dụ ngôn vắn hôm nay rõ rệt là hai người khôn ngoan theo cái nhìn của Chúa. Đây là thái độ khôn ngoan của người công dân nước trời. Nó khác với thái độ khôn ngoan có tính cánh thế trần như sự khôn ngoan của Salomon mà bài sách thánh thứ nhất hôm nay thuật lại. Salomon xin Chúa cho ông được khôn ngoan, nhưng ông chỉ khoanh vùng sự khôn ngoan trong cách cai trị dân. Ông xin và Chúa đã cho ông điều đó. Về phương diện trần thế thì phải nói là Salomon đã thành công tuyệt vời, nhưng về đời sống đạo đức thì Salomon đã hoàn toàn thất bại. Ông đã quá nhu nhược để cho ảnh hưởng ngoại giáo du nhập tràn lan vào quê hương làm băng hoại nhiều giá trị tốt đẹp của tôn giáo độc thần và đối với đời sống cá nhân của ông, ông cũng đã phạm nhiều sai lầm để rồi sau khi ông chết đi tất cả những công trình của ông cũng bị tiêu tan.
Trong hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quí, Chúa cho chúng ta thấy người nông dân và người lái buôn sau khi đã biết được giá trị của kho báu và viên ngọc quí thì sẵn sàng bán tất cả những gì mình có để sở hữu cho bằng được kho tàng và viên ngọc quí đó. Người buôn ngọc chắc phải bán nhiều hơn người nông dân, nhưng cả hai đều phải bán tất cả. Bán tất cả để mua kho báu và viên ngọc quí...đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây.
Nếu giả sử như bây giờ Chúa đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải bán tất cả để mua lấy Nước Trời thì thử hỏi ta sẽ có thái độ như thế nào?
Liệu chúng ta có thể có được thái độ thanh thản như hai người trong bài dụ ngôn hay là chúng ta khó chịu như anh chàng thanh niên giầu có khi Chúa đòi hỏi anh ta phải bán tất cả những gì anh có, chia cho người nghèo khó, sau đó đến mà theo Chúa. Anh thanh niên giầu có đó đã không dám bán. Tại sao thế? Tại vì anh ấy chưa thấy được việc theo Chúa, việc gắn bó với Chúa là một giá trị....Anh ta chưa thấy được Chúa là nguồn mạch sự sống, là sự sống đời đời mà anh đang khao khát tìm kiếm....Và chính vì thế mà anh không dám từ bỏ sự vững chãi của hiện tại để đi theo Đấng mà anh không biết chắc tương lai sẽ như thế nào. Như vậy vấn đề là chúng ta phải biết, phải thấy.
Đức Hồng Y Martini thường hay kể câu truyện sau đây mà Ngài rất tâm đắc: Có một người đến gặp một vị ẩn sĩ ẩn tu ở trong sa mạc và hỏi:
- Thưa Cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này nhưng sau đó lại có nhiều người bỏ về và chỉ có một ít người bền đỗ?
Vị ẩn sĩ trả lời. Ngài không trả lời trực tiếp như một khẳng định nhưng như một câu chuyện. Ngài nói:
- Chuyện này giống như chuyện một con chó đuổi theo con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác thấy nó sủa và thấy nó chạy liền chạy theo. Nhưng chẳng bao lâu sau những con chó này thấm mệt và bỏ cuộc không còn con nào chạy theo nữa chỉ có con chó đầu tiên lúc nào cũng bám sát đối tượng cho đến khi chộp được con thỏ. Chỉ có con chó này thấy được con thỏ còn những con khác thì không. Cho nên mới có sự bền đỗ hay bỏ cuộc.
Như vậy vấn đề là ta có thấy được nước trời như một kho báu và Chúa Giêsu như một viên ngọc quí hay không. Nếu ta thấy được Ngài như một kho báu hay như một viện ngọc qui thực sự thì vấn đề từ bỏ sẽ không có gì khó lắm. Ngược lại chúng ta sẽ chẳng bao giờ dám.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta có được cặp mắt khôn ngoan và sáng suốt để biết nhìn thấy những gì có giá trị thực sự cho cuộc sống của chúng ta và những gì là giả tạo để chúng ta có thể có được những chọn lựa thật chính xác để rồi nhờ đó mà sự sống của chúng ta khỏi bị đánh lừa và nhất là chúng ta sẽ chiếm hữu được Nước Trời mai sau. Amen .
-------------------------------
Có một cha phó tại một họ đạo hẻo lánh rất say mê việc thám hiểm và nghiên cứu những di TN 17-A111 CanTho
Có một cha phó tại một họ đạo hẻo lánh rất say mê việc thám hiểm và nghiên cứu những di tích cổ còn sót lại trong các hang núi. Ngày kia, ngài đi với một em bé chăn cừu vào trong một hang núi, với chiếc đèn pin và mấy cây nến. Len lỏi giữa những vách đá, ngài đi vào, đi vào xa hơn nữa. Rồi bất chợt dưới ánh nến lung linh, ngài nhìn thấy những nét vẽ trên thành hang. Rồi xa hơn nữa, ngài thấy được những mảnh xương, dấu vết của con người đã sống tại đây hàng ngàn năm về trước. Bốn giờ sáng chuông nhất. Giáo dân chờ đợi và lo lắng. Rốt cuộc ngài đã trở về vào ban chiều. Cả một đêm thích thú và kinh ngạc giữa sự thinh lặng của hàng ngàn năm. Nhưng đây mới chỉ là một bước đầu. Suốt 50 năm kế tiếp, ngài đã hăng say theo đuổi công trình nghiên cứu, sao lại những bức tranh trên đá. Ngài đã trở thành một nhà chuyên môn về cổ sinh vật học, được mời dạy tại nhiều viện đại học. Từ tìm tòi này đến tìm tòi khác, ngài luôn luôn đi xa hơn.
Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào dụ ngôn của lời Chúa. Có một bác nông phu nghèo, được chủ sai đi cày ruộng, trong lúc cày thì đất nẻ ra, con bò bị sụp xuống và gẫy mất một chân. Bác muốn kéo chân con bò lên thì chính lúc bấy giờ, mắt bác mở ra, bác đã nhìn thấy một kho tàng quý giá. Bác vui mừng lấp lại kho tàng rồi hối hả về nhà bán tất cả những gì bác có để mua thửa ruộng.
Cái tâm tình mà chúng ta dừng lại để suy nghĩ, đó là cái tâm tình vui mừng. Bác nông phu thực sự bị chấn động rụng rời tay chân vì sự khám phá của mình. Chúng ta thử tưởng tượng một chút, đây là một kho tàng quý giá. Cái tài sản nhỏ bé của bác sẽ chẳng thấm thía vào đâu. Bác sẽ bán hết, bác không có cảm tưởng nghèo đi, từ bỏ và mất mát, song trái lại là đàng khác, bác sẽ được cả kho tàng. Điều quan trọng của câu chuyện đó là cái bỡ ngỡ, mê man và sửng sốt của người gặp được kho tàng.
Thế nhưng, đối với chúng ta kho tàng quý giá ấy là gì? Tôi xin thưa đó là Tin Mừng Phúc Âm, hay nói cách khác đó chính là Đức Kitô. Chúng ta có vui mừng vì đã khám phá ra Ngài, vì đã tưởng nhớ đến Ngài hay không? Chúng ta có cố gắng để chiếm lấy Ngài, để được sống gắn bó mật thiết trong tình thương yêu của Ngài hay không? Chúng ta phải luôn mơ ước mua được thửa ruộng với sự ngạc nhiên khác thường và không ngừng làm tăng giá trị kho tàng có một không hai ấy. Không gì làm nản chí. Không gì làm chúng ta thoả mãn bởi vì chúng ta chờ đợi và mong muốn được gặp gỡ với Ngài. Cũng như cha phó tìm thấy cái hang núi bí mật. Cũng như bác nông phu khám phá ra kho tàng quý giá, đã dám đánh đổi cuộc đời và sản nghiệp của mình. Chúng ta cũng vậy. Đức Kitô, kho tàng quý giá như luôn hối thúc và lôi cuốn chúng ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và nghèo nàn của mình. Thế nhưng chúng ta có đủ can đảm để dám liều, dám hy sinh, dám đánh đổi tất cả cho Ngài hay không?
-------------------------------
Cuộc sống con người như đi vào cơn lốc của tiền tài và danh vọng. Con người thật vất vả cạnh TN 17-A112
Cuộc sống con người như đi vào cơn lốc của tiền tài và danh vọng. Con người thật vất vả cạnh tranh để dành giựt từng hạt gạo, từng miếng cơm. Xem ra điều mà con người quan tâm, chính là những nhu cầu của đời sống như: cơm, áo, gạo tiền, và những phương tiện phục vụ cho nhu cầu đời sống. Vì tất cả những điều đó mà con người dám làm mọi sự để có được những thứ ấy. Đây là điều không phải là tội hay có thể nói là rất chính đáng.
Là người chúng ta cũng rất cần những thứ ấy. Chúng ta cũng rất cần tìm cho mình những phương tiện thiết thực ấy. Thế nhưng, là người ky-tô hữu, chúng ta còn có một giá trị cao hơn những danh lợi thú ấy, chính là Nước Trời. Danh lợi thú rồi sẽ qua đi, nhưng Nước Trời thì tồn tại mãi mãi.
Hôm nay, Chúa Giê-su ví Nước Trời như một kho tàng, như viên ngọc quý, đến nỗi để đạt được, thì mọi hy sinh, mọi của cải, kể cả mạng sống, cũng phải đổi lấy cho bằng được viên ngọc Nước Trời.
Trên mạng Internet, người ta đang truyền nhau lời tâm sự của một bác sĩ trẻ bị ung thư. Anh đã viết trên dòng thời gian mình, những lời trần tình để lại cho bạn bè và đặc biệt, là cho giới trẻ. Đó là Bác sĩ Richard Teo Keng Siang, 40 tuổi. Một triệu phú ngành giải phẫu thẩm mỹ ở Singapore. Anh đã phát hiện bị ung thư phổi giai đoạn cuối khi ở đỉnh cao nhất của tiền tài, danh vọng.
Richard Teo qua đời ngày 18/10/2012. Những chia sẻ của anh khi đưa lên mạng, đã gây một xúc động rất lớn.
- “Chào tất cả các em. Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó nghe. Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ, tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ. Nhưng thật trái ngược, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.
Sự thành công, xe cộ, nhà cửa, những thứ mà tôi nghĩ đã đem hạnh phúc đến cho tôi, khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Mà nếu được chọn lựa, tôi sẽ sống, là làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là tôn chỉ cao nhất.”
Đây không chỉ là lối sống thực dụng của Richard Teo, mà dường như của hầu hết chúng ta. Con người đã quá vất vả lao vào cuộc cạnh tranh tiền tài, mà quên đi một giá trị cao cả hơn tiền tài, chính là sự sống đời đời. Con người đã đầu tư quá nhiều vào những thứ mau qua, mà bỏ qua cơ hội tích lũy gia tài trên trời.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm thực hiện một cuộc chọn lựa. Chọn lựa cái vĩnh cửu hơn là những cái mau qua trần gian. Tựa như người nông dân khi ông tìm thấy kho tàng đã can đảm đánh đổi mọi gia sản của mình để chiếm lấy kho tàng dưới lòng đất. Hay như người buôn đá quý, ông đã nhìn thấy giá trị thực sự của viên ngọc đến nỗi ông đã bán đi tất cả để mua được viên ngọc ấy.
Người nông dân hay nhà buôn kia đã nhìn thấy mối lợi rất lớn nơi kho tàng và viên ngọc nên đã không ngần ngại đánh đổi tất cả để có được nó.
Chúa Giê-su cũng cũng ví Nước Trời là những kho tàng, hay viên ngọc rất quý. Chúa cũng bảo chúng ta bằng mọi giá phải chiếm cho được Nước Trời. Vì mọi sự rồi cũng qua đi. Công danh sự nghiệp cũng không kéo dài sự sống của chúng ta. Chúa bảo với chúng ta rằng Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và Nước Trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Nước trời là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ, chưa xong. Chỉ với một mảnh ruộng, một viên ngọc vật chất, mà người nông dân và nhà thương gia trong Tin Mừng đã bán tất cả gia tài để mua nó. Chúng ta có dám làm như thế đối với viên ngọc Nước Trời không?
Xin cho chúng ta nhận ra giá trị thực sự của Nước Trời là hạnh phúc vô biên để chúng ta can đảm chọn lựa Nước Trời, cho dù có phải hy sinh tiền tài, gia sản, nhưng chúng ta chiếm hữu được một kho tàng vô tận trên quê Trời. Amen.
-------------------------------
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Trong các câu chuyện thần thoại và cổ tích, người ta thường nhắc đến 3 điều ước. Ước muốn sở TN 17-A113
Trong các câu chuyện thần thoại và cổ tích, người ta thường nhắc đến 3 điều ước. Ước muốn sở đắc một cái gì hoặc ước muốn được toại nguyện một công việc gì, là mong ước chung của con người ngày xưa cũng như ngày nay. Trong chuyện thần thoại, sau khi lựa chọn những điều mình ước, sự thật sẽ phơi bày ra. Bài học cho thấy, đạt được ước nguyện không dễ dàng gì. Sách các vua quyển thứ nhất giới thiệu với chúng ta một trạng huống gần giống như trong truyện cổ tích, nhưng nhân vật chính là vua Salomon, một vị vua trẻ rất khôn ngoan. Thiên Chúa hiện ra với Salomon trong một giấc mơ giữa đêm khuya và nói với ông “Hãy xin ta một điều ước, và ta sẽ ban cho”. Bởi lẽ, Salomon là một con người khiêm tốn thẳm sâu, và có lòng yêu mến Thiên Chúa, nên ông ta tuyên bố mình chỉ là tôi tớ của Chúa. Ông chỉ xin cho mình một điều ước giản đơn, đó là được khôn ngoan để lãnh đạo dân, và để biết phân định đâu là tốt, đâu là xấu. Vị vua Israel này chỉ có một ước muốn duy nhất là có được khả năng để phục vụ Chúa và dân của Ngài.
Vua Salomon đã phân định, không phải chỉ là những ước mơ hời hợt và nông nổi, nhưng là một mong ước sâu xa tận đáy lòng để biết quy thuận ý Chúa. Ông được ban sự khôn ngoan để có thể thấy được điều gì là tốt nhất cho đất nước của ông, cho dân của ông, cũng như đó là điều tốt nhất cho chính ông. Salomon đã không cảm nghiệm trước được niềm vui do ân ban này, và ông chỉ nếm trải khi niềm vui đó đã đã tròn đầy. Đứng trước lời cầu xin của Salomon, Thiên Chúa đã ban cho ông một “đầu óc khôn ngoan và biết phân định tốt xấu”. Ngài còn ban cho ông ấy 2 điều khác “Ta sẽ ban cho con cả những điều con không xin, đó là sự thịnh vượng và được kính phục trong suốt cả đời”, và “Nếu con bước đi trong đường lối của Ta, tuân giữ những thánh chỉ và nhưng huấn lệnh của Ta, như Đavid thân phụ ngươi đã tuân hành, thì Ta sẽ cho con được trường thọ” (1V 3,13).
Salomon đã biết nhận ra những giá trị khác cao quý hơn của cải trần thế. Khi gặp cảnh huống tương tự, có lẽ chúng ta vẫn thích cầu xin cho mình được giầu sang, được phú quý, được sống lâu, và khi đã trải nghiệm cuộc đời với những suy nghĩ chín chắn hơn, chúng ta mới tìm kiếm sự khôn ngoan và sự minh mẫn. Vương quốc của Salomon, tuy giàu của cải, nhiều sự kính phục dành cho ông và ông sẽ được sống lâu, vẫn là một vương quốc thuộc trần thế và qua mau, sớm muộn cũng sẽ lụi tàn. Vì vậy việc Salomon tìm kiếm sự khôn ngoan khai mở cho chúng ta một hướng đích khác để nhắm đến. Nếu sự khôn ngoan trần thế là một điều đáng mơ ước, thì tại sao chúng ta lại không ước mơ đến một sự khôn ngoan khác - Sự khôn ngoan trong vương quốc vĩnh cửu?
Trong hai dụ ngôn mà Thánh Matthêu nói tới hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta sự khôn ngoan mới mẻ này “ Nước Trời giống như một kho tàng được chôn giấu trong ruộng. Có người đã tìm thấy và đem giấu đi. Rồi anh ta vui mừng đem bán tất cả của cải anh có để mua cho được khu ruộng ấy. Thế rồi, Chúa Giêsu lại nói tiếp “ Nước Trời giống như một thương gia đi tìm ngọc quý, khi đã tìm được, anh ta đã bán tất cả tài sản để mua viên ngọc quý đó”.
Hai dụ ngôn này đề cập đến hai khía cạnh: Một là giá trị lớn lao của kho tàng chôn trong ruộng hay giá trị của viên ngọc quý, mà Nước Trời được sánh ví, hai là ước muốn của những con người tìm ra kho báu hoặc viên ngọc đã dám bán tất cả để mua cho được cái mình đã tìm thấy. Cả hai khía cạnh này đều rất quan trọng. Điều đầu tiên, chúng ta có nhận ra vương quốc nước trời vượt trên những giá trị trần thế hay không, và thứ đến, chúng ta có dám bán mọi sự để tậu cho được điều chúng ta đã khám phá ra không.
Cũng giống như sự khôn ngoan, không phải giàu sang, danh vọng hay trường thọ, Vương quốc Nước Trời có thể được chia sẻ cho người khác mà không bị mất đi hay bị suy giảm. Luôn luôn, sự khôn ngoan lúc nào cũng dồi dào để ta có thể sẻ chia, có thể ban tặng, có thể đổi trao. Đó là lý do tại sao, anh thương gia và người phú hộ dám liều bán tất cả để mua điều quý giá đã tìm thấy. Đó là một hình ảnh xem ra có vẻ khôi hài và cũng rất táo bạo, cũng như bạn bán một cái gì đó để có thể tậu lại, làm sở hữu cho riêng mình. Tuy nhiên, Vương quốc Nước Trời vẫn không bị suy giảm hoặc mất đi, sau khi bạn bán mọi thứ để tậu nó lại, đồng thời người khác vẫn có thể mua nó. Điều lạ lùng nhất, là sau khi bạn mua lấy Nước Trời, niềm vui của việc mua bán vẫn không bị vơi mất. Người mua sẽ chẳng bao giờ phải hối hận.
Đức Giêsu đã kết thúc hai dụ ngôn bằng câu hỏi, xem những học trò của Ngài có hiểu những điều Ngài giảng dạy hay không. Họ trả lời rằng có. Tuy nhiên, Ngài đã tóm kết 2 dụ ngôn bằng 1 dụ ngôn ngắn khác. Ngài nói “ Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”
Quả vậy, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ của mình vào trong kỷ luật. Lời giáo huấn của Ngài tự nó là một kho tàng, nhưng cái gì là mới và cái gì là cũ? Đa phần các học giả đồng ý cho rằng sự khôn ngoan theo Kinh Thánh Cựu ước là cái cũ, còn sự khôn ngoan của Đức Giêsu thì mới. Còn chúng ta, chúng ta được mời gọi hãy khám phá ra kho tàng quý giá từ cả hai.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn)
Chúng ta đang sống trong một thế giới điên loạn vì vô luân vô đạo, với đầy rẫy ở khắp nơi những TN 17-A114
Chúng ta đang sống trong một thế giới điên loạn vì vô luân vô đạo, với đầy rẫy ở khắp nơi những sụ dữ như hận thù,dâm ô, chém giết nhau từ trong gia đình ra đến bên ngoài xã hội và cộng đồng thế giới.. Bọn khủng bố cuồng tín, núp dưới danh nghĩa tôn giáo, ngày một trở nên nguy hiểm cho sự an toàn của người dân lương thiện vô tội ở khắp nơi, vì lo sợ sẽ là nạn nhân của những cuộc khủng bố, bách hại của bọn cuồng tín kia. Trong khi đó, nạn bóc lột và cai trị hà khắc vẫn tiếp diễn ở các nước độc tài, nơi nghèo túng, lạc hậu và thiếu tình người, thiếu đạo đức và vô luân, đã khiến cho nhiều cha mẹ đem bán con cái cho bọn buôn người để cung cấp cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn và tội lỗi.
Trên bình diện khác, bọn tư bản ở khắp nơi - đặc biệt ở Mỹ- ngày càng làm giầu với những xảo thuật về kinh tài mà giới cầm quyền cai trị cũng phải bó tay để mặc chúng thao túng thị trường chứng khoán và lèo lái kinh tế theo ý muốn có lợi cho chúng. Cụ thể, tại sao Nước Mỹ có trữ lượng dầu hỏa và khí đốt phong phú không thua gì các nước dầu hỏa Á Rập mà dân Mỹ vẫn phải mua săng với giá cao, khiến đời sống của đa số người lao động ngày càng khó khăn vì giá săng dầu không thể hạ xuống thấp được nữa? lý do là bọn tư bản, làm chủ các hãng săng dầu muốn vơ vét cho đầy túi tham, bất chấp hậu quả tai hại cho người dân lao động có mức lợi tức thấp.
Khi xã hội và cộng đồng thế giới không được chỉ huy, lãnh đạo bởi những nguyên tắc công bằng và đạo lý thì người dân sống trong đó cũng bị chao đảo về mặt tinh thần, coi thường luân lý đạo đức, là nền móng cho một đời sống tinh thần lành mạnh và hướng thượng. Hậu quả trông thấy là có biết bao người đang dửng dưng với mọi tôn giáo để chậy theo những quyến rũ về tiền bạc, của cải vật chất, danh vọng trần thế và tôn thờ khoái lạc (hedonism) với những thú vui vô luân vô đạo, như bộ mặt của thế giới tục hóa ngày nay.
Đứng trước thực trạng nói trên của con người thời đại hôm nay, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta nghĩ gì về niềm tin của mình? phải chăng chúng ta đang đi tìm Thiên Chúa và sự giầu sang phú quí của Nước Trời, hay đang chạy theo những trào lưu tục hóa của thời đại?
Để trả lời cho câu hỏi này, bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm Chúa nhật 17 mùa thường niên hôm nay cống hiến cho chúng ta giải đáp thỏa đáng để suy nghĩ và áp dụng trong đời sống đức tin của mỗi người chúng ta
Thật vậy, bài đọc thứ nhất, trích trong sách các Vua, kể cho chúng ta nghe sự kiện Vua Salômon, con Vua Đavid, được gặp Chúa trong giấc mơ. Chúa hỏi ông muốn xin gì, ông đã đáp như sau:
“Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái,.. Thiên Chúa hài lòng vì Salômon xin điều đó, nên đã nói với nhà vua như sau: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó. Ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải; cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng và sau ngươi cũng chẳng có ai bì kịp. (1V 3, 9-12)
Đây là món quà quí giá mà Chúa đã ban riêng cho vua Salômon để giúp cho nhà vua biết khôn ngoan khi cai trị dân Chúa và biết phải trái khi phán đoán họ.
Như vậy, mỗi người tín hữu chúng ta hãy noi gương vua Salômon để xin Chúa ban ơn hiểu biết và khôn ngoan để biết đâu là gian tà và tội lỗi phải tránh và đâu là điều thiện hảo phải làm để được chúc phúc và nhất là được cứu rỗi để vào Nước trời vui hưởng hạnh phúc bất diệt với Chúa, sau khi kết thúc hành trình đức tin trên trần thế này
Thật vậy, sống trong một thế giới tôn thờ tiền bạc,của cải vật chất và những thú vui vô luân vô đạo, vô lương tâm và dửng dưng trước sự nghèo đói và đau khổ của đồng loại, người tín hữu chúng ta cần thiết phải xin Chúa ban cho ơn khôn ngoan,và can đảm sống theo đường lối của Chúa để không đi vào con đường đưa đến hư mất đời, vì “người nào được cả thế giới mà mất sự sống ( mất linh hồn) thì nào có lợi ích gì?” như Chúa Giê su đã nói với các môn đệ và những người đến nghe Chúa giảng dạy xưa kia. (Lc 9,25) Nói khác đi, chúng ta phải noi gương vua Salômon đã không xin Chúa cho được giầu sang, được sung sướng vật chất, mà chỉ xin Chúa cho được khôn ngoan để biết phân biệt điều hay việc tốt phải làm, và sự xấu sự dữ phải tránh để không chạy theo những quyến rũ về tiền tài danh vọng chóng qua ở đời này khiến quên lãng điều cần thiết và quan trọng hơn là tìm Chúa và hạnh phúc sang giầu của Nước Trời.
Mặt khác, cũng chính trong mục đích tìm sự khôn ngoan, ơn hiểu biết để sống giữa thế gian với biết bao người chỉ biết đi tìm những lợi lãi chóng qua ở đời này, và không thắc mắc gì đến tương lai ngày mai sau cái chết mà không ai có thể tránh được, Bài tin Mừng thánh Matthêu Chúa Nhật 17 mùa thường niên hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy nghĩ sâu xa về ba dụ ngôn Chúa Giêsu kể cho các môn đệ về Nước Trời.
Trước hết là dụ ngôn về kho báu chôn dấu ngoài thửa ruộng kia. Có người tìm được và đã về bán tất cả gia sản của mình để mua lấy thửa ruộng có kho báu chôn dấu trong đó.Cũng vậy, một thương gia đi tìm ngọc quí, khi tìm được đã về bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc quí đó.
Nước Trời cũng được ví như kho báu và viên ngọc quí mà nhờ đức tin chúng ta tìm được. Nhưng tìm được rồi, chúng ta có về bán đi tất cả những gì mình có để mua kho báu và viên ngọc quí đó hay không?
Nói khác đi, nếu đức tin cho ta biết có Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, có hạnh phúc Nước Trời mà “mắt chưa từng xem thấy, tai chưa hề nghe, lòng trí chưa từng nghĩ đến” (1Cr 2,9), thì chúng ta phải bán đi những gì mình có để mua lấy Nước trời hầu được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang.
Câu chuyện người thanh niên giầu có trong tin Mừng Thánh Máccô đủ cho ta thấy ham mê của cải, tiền bạc ở đời này là một trở ngại lớn cho ai muốn vào Nước Trời. Cụ thể, anh thanh niên giầu có kia, mặc dù đã thực hành tốt mọi điều răn của Chúa, nhưng khi Chúa Giêsu bảo anh hãy về bán hết tài sản và bố thí cho người nghèo rồi trở lại đi theo Chúa, thì anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải khiến không thể hy sinh được. Vì thế Chúa đã nói với các môn đệ như sau: Những người giầu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 23-24)
Như thế đủ cho thấy là ham mê của cải, làm nô lệ cho tiền bạc là một trở ngại lớn cho những ai muốn vào Nước Thiên Chúa.
Và để tìm kiếm Nước Trời, qua ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa nhật này, Chúa Giêsu cũng có ý cho ta hiểu rằng Nước Trời còn quí giá hơn cả kho báu chôn kín trong thửa ruộng hay viên ngọc quí mà thương gia kia tìm được.Kho báu ấy chính là Thiên Chúa và Vương Quốc bình an và hạnh phức của Người.
Vậy, ta phải bán đi những gì để mua Kho Báu ấy?
Những gì người ta có là lòng ham mê tiền bạc và của cải cùng danh vọng ở đời này.Thêm vào đó, là lòng ham muốn những vui thú bất chính,dâm ô thác loạn, hận thù nghen nghét, bất công chèn ép, bóc lột người khác và dửng dưng trước sự nghèo đói, đau khổ của biết bao người xấu số trong xã hội. Tất cả đây là những trở ngại cho ai muốn được vào Nước Trời để hưởng hạnh phúc giầu sang phú quí vinh cửu mà Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã dành sẵn cho nhưng ai yêu mến Người, hơn yêu mến tiền bạc, danh vọng và mọi thú vui vô luân vô đạo ở đời này
Như vậy, nếu muốn mua Nước Trời, thì mỗi người chúng ta phải bán đi những gì mình đang có – hay nói khác đi- phải từ bỏ những trở ngại để có thể vươn tâm hồn lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang. Nếu lòng trí ta còn nặng chĩu những tham sân si ở đời này, thì chắc chắn không thể đến gần được Chúa và không có hy vọng gì mua được sự giầu sang phú quí của Nước Trời.
Thực trạng đáng buồn trong cách sống đạo của rất nhiều người tín hữu ở khắp nơi ngày nay đã chứng minh điều này: có những người thường xuyên bỏ lễ ngày Chúa Nhật và những ngày lễ trọng, hoặc không bao giờ đi xưng tội hay bỏ giờ ra cầu nguyện, nhưng lại luôn luôn có mặt ở những cuộc hội họp ăn uống và nhẩy nhót cuồng loạn. Có những người đã bỏ -hay li dị vợ già- để về Vietnam cưới những cô gái trẻ đáng con cháu của mình, bắt chấp sự cười chê và phỉ nhổ của dư luận quần chúng.
Lại nữa, có biết bao người đã và đang thi nhau về VN để ăn chơi tội lỗi, vì hoàn cảnh xã hội suy đồi về đao đức và khó khăn về kinh tế ở bên nhà, đã khiến cho nhiều phụ nữ phải bất đắc đi làm các nghề mua vui cho người khác để kiếm của nuôi thân.
Nếu người tín hữu Chúa Kitô mà cũng lăn mình vào nếp sống của những người vô luân, vô đạo kia, thì làm sao có thể mua được Nước trời với giá phải loại bỏ những đam mê trần thế để sống theo đường lối của Chúa, vì “ nếu được mọi lợi lãi ở đời này mà mất linh hồn thì được ích gì”?
Sau hết, qua dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển để bắt nhiều loại cá tôm. Nhưng người thả lưới sẽ chỉ lựa loại cá tôm tốt bỏ vào giỏ, còn loại xấu thì sẽ quăng đi.Hình ảnh này cũng cho ta biết là Thiên Chúa, trong ngày sau hết, sẽ sai các thiên thần đi gom những người thực tâm mến Chúa, yêu người và chê ghét mọi sự dữ, mọi quyến rũ về của cải và vui thú vô luân vô đạo ở đời này và đưa họ vào Thiên đàng vui hưởng thánh nhan Chúa. Còn những kẻ đã mê mãi chạy theo và làm những sự dữ ở trần gian này, bắt chấp lương tâm và lòng kính sợ Chúa, thì sẽ bị ném vào hỏa ngục để bị thiêu đốt như người ta đốt cỏ dại, quăng cá tôm xấu xuống biển, và chỉ lấy lúa chin bỏ vào kho và tôm cá tốt vào giỏ. Chúa nói: ai có tai nghe thì nghe. (Mt 13,43; Mc 7,16; Lc 8,8)
Ước chi ba dụ ngôn Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng Chúa nhật này đủ đánh động tâm hồn mỗi người chúng ta để giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình. Xem thực sự mình có lòng yếu mến Chúa và quyết tâm sống theo đường lối của Người, hay đang chạy theo những vui thú tội lỗi, những ham mê về của cải và danh vọng hư hão trong trần thế này, đến coi nhẹ hay quên mất mục đích tối cao là tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc giầu sang của Nước Trời.
Xin Chúa Thánh Linh ban cho ta ơn hiểu biết và khôn ngoan như vua Salô mon đã xin Chúa xưa kia để giúp chúng ta biết lựa chọn và sống đức tin cách vững chắc để được gặp Chúa và vui hưởng hạnh phúc vinh cửu trên Nước Trời mai sau.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong kinh doanh, một quyết định đúng lúc và phù hợp sẽ đem lại lợi ích và thành công cho doanh TN 17-A115
Trong kinh doanh, một quyết định đúng lúc và phù hợp sẽ đem lại lợi ích và thành công cho doanh nghiệp; với những người lãnh đạo, một quyết định đúng, khôn ngoan có thể cứu cả một dân tộc, một đất nước thoát khỏi nghèo đói và lệ thuộc, ngược lại một quyết định vội vã, thiếu cân nhắc, thiếu khôn ngoan, có thể là một tai họa cho nhiều thế hệ con cháu. Trong đời sống cá nhân, một quyết định chọn lựa khôn ngoan sáng suốt, có thể đem niềm vui và hạnh phúc đến cho bản thân, cho gia đình, ngược lại nếu đưa ra một quyết định chọn lựa sai lầm sẽ có thể để lại sự ân hận cho con người suốt cả đời.
Nếu trong đời sống thường ngày cần phải có những quyết định dứt khoát, khôn ngoan cho mình, thì Lời Chúa hôm nay cũng nhắc cho chúng ta cho chúng ta cũng cần phải có những chọn lựa khôn ngoan, dứt khoát có thể đem lại hạnh phúc và ơn cứu độ cho bản thân cho gia đình ngay lúc này. Thiên Chúa hết sức tôn trọng tự do của con người, và Ngài luôn để cho con người tự do chọn cho mình một tương lai, đồng thời cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nhưng vấn đề là: Quyết định nào là quyết định khôn ngoan, và chọn lựa nào là chọn lựa dai dột?
Vua Salomon là một vị vua nổi tiếng về sự khôn ngoan trong việc điều hành và cai trị dân Chúa. Danh tiếng về sự khôn ngoan của ông đã lan truyền ra khắp vùng, dân chúng trong nước vâng phục, các vua lân bang kính nể, và nữ hoàng ở thận Phương Nam xa xôi phải tìm đến để học sự khôn ngoan của vua Salomon. Tại sao ông lại có được sư khôn ngoan như thế? Sách Các Vua hôm nay đã kể lại: Trước khi lên ngôi, Thiên Chúa đã cho ông một chọn lựa: Ngươi muốn gì, cứ xin, Ta sẽ ban cho. Khác với lẽ thông thường của nhiều người khi được một điều ước như vậy, người đời sẽ xin sự giàu sang phú quý, nhà cửa sang trọng, nhưng vua Salomon lại không màng những thứ ấy, trái lại ông xin cùng Thiên Chúa: Chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa lên kế vị Đavít, thân phụ con, mặc dầu còn trẻ người non dạ… con lại ở giữa một đám dân đông đúc không kể xiết: Xin ban cho tôi tới Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân xử một cách khôn ngoan. Lời cầu xin này đẹp lòng Chúa, ông không xin của cải, không xin sống lâu, cũng không xin chiến thắng quân thù, nên Chúa đã ban cho ông sự khôn ngoan vượt bậc, và còn ban cho ông tất cả những gì mà ông không xin: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không một ai được như ngươi, và sau ngươi không ai được bằng ngươi. Salomon đã không xin gì cho riêng mình, mà ông chỉ xin một điều là làm sao để ích lợi cho dân Chúa, cho người khác. Đối với Thiên Chúa, quyết định và chọn lựa như Salomon là một chọn lựa khôn ngoan, chứ không phải là lo tìm kiếm sự giàu sang danh vọng cho mình.
Chúa Giêsu đã giải thích rõ hơn như thế nào là quyết định chọn lựa khôn ngoan khi Ngài kể cho dân chúng nghe những dụ ngôn về Nước Trời mà Ngài so sánh như một người chuyên săn tìm kho báu, như một thương gia, hoặc như một ngư phủ chọn cá. Những người này khôn ngoan ở chỗ nào? Trước hết người săn tìm kho báu gặp được kho tàng chôn giấu trong ruộng, khi gặp được rồi, anh quyết định về bán tất cả những gì mình có để mua cả thửa ruộng lẫn kho báu. Anh ta có điên không? Trong mắt nhiều người quyết định như thế là điên khùng, vì đã liều mình đánh đổi cả sự nghiệp gia tài và cuộc đời vì kho báu ấy. Nhưng đối với người này, thì việc tìm được kho báu đã là hạnh phúc và là mục đích sự tìm kiếm cả đời ông. Ông này không chỉ cố gắng để giành cho được kho báu, mà con giành cả mảnh ruộng có kho báu đó. Cũng vậy có những người đã phải mất rất nhiều thời gian công sức không phải để tìm kiếm kho báu vật chất mà là tìm cho mình một lối đi, một hướng sống một mục đích của cuộc đời. Chính vì thế, biết được Nước Trời là hạnh phúc thật, là cùng đích cuộc đời, thì người tín hữu cũng phải có một quyết định giống như người săn tìm kho báu, đó là dám đánh đổi tất cả sự nghiệp tài sản và cả cuộc sống của mình vì hạnh phúc mai sau. Đó mới là quyết định khôn ngoan, sáng suốt.
Nếu như câu chuyện về người săn tìm kho báu hoặc thương gia đi tìm ngọc quý, khi tìm được, họ đã quyết định đánh đổi cả gia nghiệp để có được kho báu hay viên ngọc quý, thì hình ảnh người ngư phủ chọn cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài, muốn nói đến sự chọn lựa trong cuộc sống thường ngày. Người Do Thái chỉ được phép ăn một số cá mà thôi, có một vài loại cá họ không được phép ăn, vì bị cho là những con vật dơ bẩn. Vì thế với công việc thường ngày của một ngư phủ, khi kéo lưới lên, anh ta sẽ phải cần mẫn để chọn lựa loại cá nào có thể ăn được, và loại bỏ những loại cá nào mà luật không cho phép ăn. Cá ăn được sẽ bỏ vào giỏ, còn cá dơ thì ném ra ngoài. Với hình ảnh này Chúa Giêsu cho thấy: Thiên Chúa sẽ là người chọn lựa, những người trong sạch thì được để riêng vào nơi hạnh phúc, con người xấu, kẻ từ chối Thiên Chúa và Tin Mừng của Ngài thì sẽ bị ném vào lò lửa; Người tốt, việc tốt thì được chọn vào “giỏ Nước Trời” còn người xấu việc xấu thì bị ném ra ngoài. Kế đến, cuộc đời của người theo Chúa cũng phải là một cuộc chọn lựa liên tục, chọn điều tốt, và loại trừ điều xấu. Những ai biết chọn đứng về phía Thiên Chúa và chọn mang lấy Tin Mừng của ngài và làm những việc tốt lành thì được cứu độ, còn những ai đứng về phía ma quỷ và những kẻ chống đối Thiên Chúa, từ chối Đức Kitô và Tin Mừng thì bị loại ra ngoài.
Bài đọc hai cho thấy chọn lựa của Thánh Phaolô: là một thanh niên giỏi giang xuất chúng, Phaolô có thể có một tương lai rạng rỡ trong con mắt của người đời và được mọi người kính phục cũng như ước ao, tuy nhiên Phaolô đã không chọn con đường của thế gian, mà trái lại ông đã được chọn và ông vui với việc được trở thành môn đệ Chúa Kitô. Cũng vì quyết định đáp lại lời mời gọi của chúa Kitô mà Phaolô đã rơi vào cảnh tù đày, dù bị tù đày, ông không hề hối tiếc song vẫn khuyên nhủ mọi người hãy sống xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Đồng thời Thánh phaolô cũng mời gọi mọi người hãy dám chọn sống theo tinh thần và lề luật của Tin Mừng đó là ăn ở khiêm tốn hiền từ nhẫn nại, lấy tình bác ái mà cư xử với nhau.
Thưa quý OBACE, một khi quyết định chọn lựa thì cũng đồng thời phải chấp nhật sự mất mát từ bỏ, chọn Đức Kitô thì phải chấp nhận những gì không phù hợp với Đức Kitô. Một khi đã nhận ra Đức Kitô và Tin Mừng của Người là đường đưa tới sự sống đời đời, là kho tàng quý giá nhất trên đời, chúng ta cần phải quyết định dứt khoát và dám đánh đổi mọi sự để có được hạnh phúc đời đời đó.
Người đời sẽ không thể hiểu được tại sao lại có những chàng trai cô gái đang căng tràn sức sống, tương lai mở rộng, lại quyết định trở thành những linh mục tu sĩ, dành cuộc đời mình trong nhà dòng; người đời cũng sẽ không thể hiểu được tại sao giữa một xã hội cổ võ cho một lối sống tự do buông thả, thì những người tin theo Đức Kitô lại quyết định bước theo con đường hẹp của Tin Mừng, của thập giá. Thưa vì những người này đã nhận ra được kho tàng vô giá là đời sống phục vụ theo gương Đức Kitô, và nhận ra hạnh phúc Nước Trời mới là hạnh phúc đích thật cho con người, nên những người này đã dám bỏ lại đàng sau tất cả để sống theo lời mời gọi của Đức Kitô.
Kho tàng là hạnh phúc cũng đang được vùi trong các gia đình, mà mỗi thành viên, đặc biệt là các bậc làm cha mẹ cần phải tìm kiếm và bảo vệ bằng mọi giá, và phải chấp nhận đánh đổi tất cả những cái phụ thuộc để có thể đạt được hạnh phúc cho gia đình mình. Kho báu còn là vợ chồng là con cái, mà mỗi thành viên trong gia đình phải gìn giữ trân trọng và dám hy sinh tất cả những thứ khác để bảo vệ. Nhiều người đã quên mất điều đó, nên đã đem tình yêu và hạnh phúc của gia đình mình ra để đổi chác hoặc cầm cố, có người lại mải mê đi tìm một niềm vui nào đó nơi công việc hoặc tìm ở ngoài gia đình, mà quên rằng chỉ có gia đình mới thực sự là tổ ấm là cái nôi hạnh phúc cho mỗi người.
Một cám dỗ nguy hiểm cho nhiều người trẻ hôm nay, đó là cuộc sống xã hội đang tạo ra nhiều giá trị ảo, mục tiêu ảo, hạnh phúc ảo, thế giới ảo và nhiều thứ ảo giác khác khiến cho nhiều người trẻ đã lạc đường, mất hướng không còn biết mục đích cuộc đời của mình là gì, và hạnh phúc thật là gì. Chính vì thế đã có nhiều bạn trẻ thay vì đánh đổi cuộc đời mình để đạt được hạnh phúc Nước Trời, trái lại họ đang đốt cháy cuộc đời mình trong nghiện ngập, đam mê chơi bời, cờ bạc, buông thả. Nhiều người trẻ đang bị cám dỗ để lao vào tìm kiếm các giá trị ảo trong xã hội như tìm kiếm sự nổi danh, nổi tiếng, tìm đẳng cấp ăn chơi đua đòi hưởng thụ, và tiêu phí cuộc đời mình trong những thứ đó.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau, biết nhận ra Đức Giêsu là nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc đời và Tin Mừng của Ngài là một bảo đảm để đạt được hạnh phúc ấy, để chúng ta dám đánh đổi tất cả những sự tạm bợ của thế gian này, để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đem đến cho chúng ta. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Phúc âm Matthêu cuối chương 13 lại kể ba câu chuyện khác nữa để ví von về Nước Trời. Nếu ba TN 17-A116
Phúc âm Matthêu cuối chương 13 lại kể ba câu chuyện khác nữa để ví von về Nước Trời. Nếu ba dụ ngôn tuần trước (hạt cải, cỏ lùng, nhúm men), như cho thấy Nước Trời từ bên trong với sức mạnh kiên trì nội tại, thì hình như những dụ ngôn lần này lại như muốn trình bày một khía cạnh khác, Nước Trời nhìn từ góc độ được ‘đón nhận’. “Nước Trời giống như câu chuyện” kho báu.., viên ngọc.., chiếc lưới.., vẫn là ba câu chuyện nhưng lại qui về một nội dung duy nhất.
Nếu Nước Trời là việc đón nhận tình yêu thương xót của Thiên Chúa, thì việc đón nhận đó, cách này hay cách khác, phải đạt tới độ tuyệt đối, tức là tiếp nhận tình yêu thương xót này như một điều quan trọng bậc nhất trong đời sống. Nói tới lòng thương xót, ít khi người ta cho rằng nó cần phải được đón lấy cách tuyệt đối; nói khác đi, mấy ai cho rằng mình thật sự cần tới lòng thương xót như mộtg lẽ sống? Thái độ này phổ biến vì hiếm khi nào con người cho rằng mình đang rơi vào cùng cực và vô vọng. Cho dầu biết mình vốn hèn hạ thấp kém, người ta vẫn luôn cho rằng mình còn có thể tự lo tự liệu. Con người đề cao sự tự trọng là vậy. Chính vì thế mà, đứng trước tình yêu xót thương của Thiên Chúa, có mấy ai cảm thấy mình thật sự cần, cần như một nhu cầu sống còn, cần như bám vào một cái phao cứu sinh? Các dụ ngôn hôm nay tập chung nhấn mạnh điểm này: tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không chỉ là kho báu hay viên ngọc quí bất kỳ, nhưng là cái kho báu và viên ngọc quí đáng cho người nào khám phá ra hay tìm thấy nó phải “bán tất cả những gì mình có mà mua… lấy”.
Đối với một báu vật, tìm thấy và khám phá ra giá trị thật của nó là hai điều khác nhau. Lấy một thí dụ nhỏ: nhà sưu tầm tem phát hiện một con tem cổ nằm trong cuốn sách cũ, ông có thể vui mừng vì con tem "quí’ đó sẽ bổ sung cho bộ sưu tập vốn đã rất phong phú của ông. Nhưng sau khi tra cứu, ông phát hiện ra, đó là con tem duy nhất còn sót lại của một thời đại. Con tem này có giá trị tới độ, nếu sở đắc được nó, ông sẽ được thiên hạ coi là nhà sưu tập vĩ đại nhất trần gian. Ta có thể hiểu được thái độ của ông sẽ thế nào đối với bộ sưu tập vốn đã rất quí của mình.
Tương tự như thế, vấn đề tiếp nhận Tin Mừng không chỉ đơn thuần biết Chúa thương yêu mình mà còn phải biết biết Chúa yêu như thế nào và mình cần tới lòng thương xót Chúa bao nhiêu. Đức Giêsu khảng định Nước Trời chính là khám phá và đón nhận điều này tới độ thấy cần phải “bán tất cả những gì mình có để mua lấy”. Niềm tin Kitô hữu chính hệ tại ở điều này. Niềm tin đó trưởng thành hay không, cao hay thấp tùy vào mức độ khám phá ra tình yêu xót thương của Thiên Chúa đã được thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, để rồi đón nhận lấy nó như một kho tàng vô giá, một lẽ sống giữa cuộc đời ô trọc, một suối mát giữa sa mạc nóng bỏng, một viên thuốc hồi sinh giữa cơn bệnh thập tử nhất sinh. Niềm tin vào Tin Mừng của chúng ta chỉ thật sự lớn mạnh khi coi niềm cậy trông vào ơn cứu độ mà Đức Kitô mang lại, nhờ cái chết thập giá của Người, còn lớn hơn, cao trọng hơn, cần thiết hơn cả kho báu của khôn ngoan, của tu thân tích đức, của đạo hạnh… hay gì gì đi nữa.
Như vậy, nếu Nước Trời chính là sự đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa đã được Đức Kitô thực hiện trên thập giá, thì quả thật một khi nó được quảng bá… sẽ ‘giống như chiếc lưới thả xuống biển’. Dưới nước thì con cá nào cũng là cá, chỉ khi lưới được kéo lên bãi (ngày tận thế, hay thế tận đối với từng người khi chết) người ta mới phân biệt được hai loại cá tốt - xấu. Cá được đánh giá là tốt hay xấu dựa theo tiêu chuẩn người bủa lưới đề ra. Tiêu chuẩn lưới Tin Mừng của Đức Kitô sẽ rất khác với tiêu chuẩn lưới luân lý của người đời hay Cựu Ước. Đối với lưới ‘đón nhận’ Tin Mừng, cá tốt phải là những ai đã khám phá ra tình yêu cứu độ và đón nhận nó cách thiết thân tới độ sẵn sàng “bán tất cả những gì mình có…”, cá xấu là ai không đón nhận, hoặc vì không khám phá ra, hoặc đã khám phá nhưng chưa đủ lực tới độ sẵn sàng bán hết… Quả vậy đối với Tin Mừng, Nước Trời chính là niềm tin tuyệt đối vào tình Chúa yêu thương được biểu lộ nơi Đức Kitô Giêsu, do đó kẻ nào có niềm tin đó sẽ ‘được nhặt cho vào giỏ’, vì “ai tin vào Con của Người thì không bị kết án”; còn ai không có thì ‘bị vứt ra ngoài’ vì ‘kẻ không tin thì bị lên án rồi’ (Ga 3,18). Ngay cả một người, vì lý do nào đó đã không tin truyệt đối ơn cứu độ chỉ có nơi Đức Kitô Giêsu, để rồi tiếp tục bám vứu vào bất cứ giá trị nào khác, chẳng hạn như thần thánh, công nghiệp, khôn ngoan, đạo hạnh hay nhân đức… tiền của hay chức quyền… hầu mong nhờ đó mà được cứu thoát, thì chắc chắn sẽ phải qua cửa ải xét xử mà thôi. Mà một khi đã bị xét xử thì thử hỏi mấy ai, kể cả những kẻ được người đời coi là đạo đức thánh thiện nhất, lại không tồn tại nơi mình một khiếm khuyết nào đó đáng để bị lên án? Như vậy là đã rõ: ‘hàng ngũ người công chính’ hay ‘cá tốt được nhặt vào giỏ’ khi lưới Tin Mừng được kéo lên, sẽ chỉ còn là những con người mà, trong thẳm sâu cõi lòng mình, đã khẩn thiết thốt lên: “Lạy Ngài, xin thương xót con!” Họ đúng là những người “đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14; cf. 22,14).
Lạy Chúa, xin cho con tin thật rằng, ơn cứu độ chỉ có thể có nơi Đức Kitô Giêsu; và khi nhìn lên thập giá con biết nhận ra rằng, đón lấy tình yêu cứu độ là điều hệ trọng hơn hết mọi sự. Xin cho con không bao giờ ỷ vào bất cứ điều gì, bất cứ giá trị nào khác hầu mong được cứu thoát, cho dầu đó là bậc tu sĩ linh mục, cho dầu là khôn ngoan thánh thiện, hay nhiệt tình tông đồ… Điều duy nhất con cầu xin Chúa là được khiêm nhường hơn, biết nhìn nhận các yếu hèn của mình hơn, hầu ngày càng thâm tín đón lấy lòng thương xót vô điều kiện của Chúa. Con mong sẽ được là con cá chính Chúa nhặt cho vào giỏ cứu độ, chứ không phải là con cá cố tự mình lách vào. Amen.
-------------------------------
Đức Giêsu rao giảng Nước Trời bằng dụ ngôn: 7 (số 7 ưa dùng của Mt). Chia làm 3 cặp. Số 7 là kết. TN 17-A117
Đức Giêsu rao giảng Nước Trời bằng dụ ngôn: 7 (số 7 ưa dùng của Mt). Chia làm 3 cặp. Số 7 là kết. Chủ ý tượng trưng.
Hai dụ ngôn "Lúa và cỏ lùng" là mới nói kết quả của Lời được gieo vào thế gian. Chỉ nói thoáng về kết cục "mùa gặt".Cỏ lùng thì gom lại và đốt trong lửa. Lúa mới thu vào kho. Hạt cải và men là chỉ kết quả nhiều và tốt. "Kho báu và ngọc quí" trực tiếp chỉ Nước Trời đáng giá "tất cả những gì" con người có, phải "bán tất cả mà mua", không cụ thể cái gì nên có thể hiểu là "gồm cả mạng sống". Số 7 kết là phán xét: chiếc lưới thả xuống biển, gom tất cả mọi thứ cá rồi mới lựa ra: xấu thì bị quăng vào lò lửa, ở đó mà khóc lóc nghiến răng. Không nói tốt. Chủ ý là ngưòi xấu không có cửa nào khác Đừng suy nghĩ vớ vẩn lung tung mà phải hối đời đời..
CHÚ GIẢI
* Nước Trời giống như kho báu chôn giấu trong ruộng: không dễ tìm thấy. Đức Giêsu dùng dụ ngôn để giảng, không dễ hiểu. Nước Trời bị "ẩn giấu" bí ẩn.
- Có người tim được thì liền chôn giấu lại: Mỗi người phải tự bỏ công mà tìm.
- Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua: Tìm được thì vui mừng. Chỉ kẻ tìm được Nước Trời, khám phá ra giá trị liên thành của nó thì mới vui mừng và vui mừng đến nổi bán tất cả những gì mình có mà mua. Tất cả những gì mình có: không kể nhiều ít bao nhiêu mà tuyệt đối là tất cả, bao nhiêu cũng được miễn là tất cả, kể cả mạng sống, dù chỉ là đồng xu bé tí xíu của bà goá nghèo nhưng là tât cả những gì bà có để nuôi thân. Người thanh niên giàu có không dám bán tất cả nên buồn bã bỏ đi. Và người giàu có khó vào Nước Trời biết bao! Chỉ kẻ khám phá được giá trị đích thực vô song của Nước Trời mời "vui mừng" đến nổi dám bán tất cả những gì mình có mà "mua". Phải mua. Còn những kẻ bàng quang, bịt tai nhắm mắt trước lời giảng của Đức Giêsu thì như "thằng bườm có cái quạt mo" dù phú ông dụ đổi ba bò chín trâu, nào ao sâu cá mè, hoặc bè gổ lim hay con chim đồi mồi bườm cũng chẳng màng, mà đổi "nắm xôi bườm cười".
* Nước Trời còn giống chuyện một người thương gia đi tìm ngọc đẹp: Ngọc có đẹp mới cao giá. Chỉ những người có mắt nhìn thấy và biết rõ giá trị của ngọc quí mới thấy quí. Còn như heo chó mà có ném hột xoàng hột trai trước mặt thì chúng cũng chẳng ham. Thằng bườm là hình ảnh chỉ rất nhiều người như con nít thích cục kẹo ăn được còn hột xoàng ngọc quí ăn liền không được nên không ham tí nào. Hay như những người Âu Châu đi thám hiểm Phi Châu đem bi hột chai đổi hột xoàng của mấy đứa trẻ Phi Châu vì chúng thấy hột chai đẹp, tròn bắn đạn ngon còn những cục hột xoàng chưa tròn bắn đạn không ngon. Chúng còn bán khai chưa biết giá trị của hột xoàng nên không quí cũng như những ngưòi không biết Nước Trời thì không quí.
- Tìm được một viên ngọc quí ông liền đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy: Cũng là "đi bán tất cả"...gồm chất và lượng, chiều dài và cả mạng sống. Đức Giêsu bảo ngưòi thanh niên "đi bán tất cả" rồi trở lại "theo Ta". Không hiểu giá trị đích thực của Nước Trời thì không ai dám đi bán tất cả những gì mình có mà bám chặc lấy bằng cả mạng sống "ít ỏi"của mình. Có gan mới làm giàu. Không liều một phen thì không đổi đời được đâu.
Hai dụ ngôn như là lập lại để nhấn mạnh và nhất là câu "liền đi bán tất cả những gì mình có mà mua" thì rõ là nhấn mạnh, cho đủ mạnh.
* Nước Trời còn giống như chiếc lưới thả dưới biển bắt được đủ thứ cá: Lưới trời thưa mà khó lọt. Đừng hòng trốn tránh. Các thiên sứ sẽ đi khắp tứ phương mà gom......
Ngày tận thế, các thiên thần sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ những người tốt: Không để vàng thau lẫn lộn nữa. Không để kẻ xấu cũng kể là tốt. Tốt ra tốt xấu ra xấu.
Rồi quăng chúng vào lò lửa ở đó mà khóc lóc nghiến răng: Hoả ngục. Đau khổ. Hối hận.
Kết phần rao giảng bằng dụ ngôn: Chung cuộc "mỗi người và mọi người sẽ là như là đã là".
Nước Trời không những phải mua mà còn phải mua bằng "tất cả những gì mình có".
Ngưòi ta chỉ muốn xin "không". Một cắt, một xu cũng không chi. Nước trời chẳng bằng một chút vui vẻ, một chút lạc thú, một chút hưỏng thụ.....
Chịu khó một chút cũng không. Bây giờ không muốn nước trời đâu. Chết mới muốn. Người ta rước cha đến giải tội "lòng lành"(sic) (tha hết mọi tội) và ban ơn toàn xá (xá hết mọi phần phạt tạm) thì lên trời một cái ục! Thiên Chúa tốt lành, nhân từ vô cùng. Lời Chúa đâu có nói như vậy hồi nào.Coi chừng mắc lừa.
Rõ ràng: lúa tốt thì mới thu vào kho, cá tốt mới bỏ vào giỏ. Tách biệt kẻ lành ngưòi dữ. Kẻ xấu thì quăng vào lò lửa. Đừng ảo tưởng. Phải tin Lời Đức Giêsu nói vì chính Người và chỉ Người mới phán xét và Người là Đấng phán xét chí công.
-------------------------------
Người ta thường nói: "con người hơn nhau ở cái đầu". Quả đúng là như vậy. Cái đầu giúp ta biết TN 17-A118
Người ta thường nói: "con người hơn nhau ở cái đầu". Quả đúng là như vậy. Cái đầu giúp ta biết tính toán, biết lên chương trình hành động, biết rào trước cản sau, biết có những mưu kế và diệu kế... Đó là sự khôn ngoan thông thường và tự nhiên của con người.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác hơn về sự khôn ngoan: sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa và được thông ban cho con người. Khôn Ngoan đích thực là biết chọn lựa. Bài đọc 1 được trích từ sách các vua quyền thứ nhất cho chúng ta thấy rằng: Chúa hứa là sẽ ban cho Salômôn bất cứ những gì ông xin, và Chúa bảo ông cứ xin đi. Salômôn suy nghĩ và cân nhắc. Cuối cùng ông xin cho mình được khôn ngoan để phân biệt được phải trái mà cai trị dân Chúa. Điều ông xin đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi đó là điều đáng quí trước mặt Chúa. Ông đã biết chọn lựa cái đáng chọn lựa.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy giá trị cao quý của Nước Trời. Đó chính là kho báu, là viên ngọc quí mà con người nếu biết chọn lựa sẽ không thể bỏ qua. Dụ ngôn chiếc lưới được quăng xuống biết cho chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa sẽ hành động trong ngày sau hết. Trong ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ tách biệt kẻ lành ra khỏi kẻ dữ. Người lành sẽ được Thiên Chúa đón nhận và ân thưởng Nước Trời cho họ như một hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu cho họ; còn kẻ dữ sẽ phải lui vào bóng tối để chịu khổ hình muôn kiếp.
Hạnh phúc là điều ai cũng mơ ước và khao khát sở hữu nó. Cách này hay cách khác, tất cả chúng ta là những người đi tìm kho báu, đi tìm điều gì đó mang lại cho chúng ta hạnh phúc lâu dài và trọn hảo. Khát vọng đó hoàn toàn chính đáng. Nhưng vấn đề là hạnh phúc chân thật đó ở đâu? Làm cách nào để có được nó? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau suy gẫm.
Hạnh phúc khởi đi với những người biết tìm kiếm. Đi tìm là thoát ra khỏi chính mình để hướng tới một mục tiêu mà mình đã chọn. Đức Giêsu luôn khuyến khích chúng ta đi tìm hạnh phúc chân thật.Chính Đức Giêsu đã kêu mời anh thanh niên giàu có đi tìm hạnh phúc đích thực mà anh cũng có ý định kiếm tìm ấy. Nhưng cuối cùng anh đã không vượt qua khỏi chính mình được. Ngài luôn yêu mến những con người biết tìm kiếm hạnh phúc và luôn đồng hành với họ để soi dẫn họ: "phúc cho ai biết khao khát điều chính trực, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng" (Mt5,6).
Như vậy hạnh phúc là có định hướng đúng đắn cho cuộc đời này, là biết được ý nghĩa của cuộc đời này và sống ý nghĩa đó cách tròn đầy. Hạnh phúc thật không phải là thành đạt điều này điều nọ, cũng không phải là có được mọi thứ của cải vật chất ở đời này. Nhưng hạnh phúc là sống tròn đầy giây phút hiện tại, sống đúng mực và vui tươi với những chọn lựa cơ bản của mình. Chọn lựa then chốt và nền tảng chính là chọn lựa Thiên Chúa, chọn lựa Nước Trời.
Nước Trời được trình bày như một kho tàng, một viên ngọc quí mà tình cờ người đi tìm tìm thấy được nó. Nhưng khi tìm kiếm được rồi thì cần phải biết khôn ngoan để làm sao có được nó và sở hữu nó mãi. Có rất nhiều người đã tới được ngưỡng cửa của hạnh phúc thật nhưng rồi không thể vượt qua nổi. Những phương thế mà chúng ta có thể dùng để sở hữu Nước Trời đôi khi rất khờ khạo đối với người đời nhưng chúng ta đừng sợ miệng đời và dự luận,. Chúng ta chỉ cần tìm kiếm những gì hợp với thánh ý của Thiên Chúa và đẹp lòng Thiên Chúa là đủ cho chúng ta. Những phương thế để sở hữu Nước Trời là tha thứ, là cho đi, là yêu thương, là nhân hậu với mọi người, là hiền hoà, chấp nhận anh em mình, là cậy trông vào Thiên Chúa tình yêu...
Tại Chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là nhà tu hành đắc đạo. Nhà sư thường bày trên trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ làm bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có nắp đậy, mở ra được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: "người ta sống tất có chết, mà chết là vào ngay cái này. Tôi thật lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không được như ý, tôi liền lấy cái quan tài này mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn ngay.
Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp lên người khác là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng mình. Khi Thần chết xuất hiện, thì con người không còn kịp mang theo bất cứ tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính bén đối với thế trần này. Trái lại, được ôm ấp mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá... Trong tất cả mọi sự, người khôn ngoan đích thực luôn nghĩ đến cùng đích.
Có nhiều chọn lựa xem ra rất ngớ ngẩn đối với người đời. Nhưng chính những chọn lựa ấy làm cho tâm hồn con người được thanh thoát và bình an để dần dần có thể tiến đến nguồn của mọi hạnh phúc chính là Thiên Chúa. Chọn lựa khôn ngoan là chọn Chúa, là sống thân tình với Ngài, lấy Ngài làm niềm vui. Chính Ngài là chỗ ẩn náu an toàn nhất cho ta. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đong đầy những gì chúng ta còn thiếu thốn và khao khát trong cuộc tràn này. Tìm gặp Thiên Chúa là tìm gặp tất cả.
Ước gì chúng ta biết dùng mọi khả năng Chúa ban để biết chọn lựa những điều khôn ngoan và hoàn hảo, những điều mang tính vĩnh cửu à vững bền. Xin Thánh Thần Chúa ban cho chúng ta có được sự khôn ngoan của Ngài để chúng ta biết chọ chính Chúa là gia nghiệp của đời sống chúng ta hôm nay và mãi mãi. Amen.
-------------------------------
Con người hiện hữu là một hồng ân. Mang thân phận con người, mỗi người cần phải có những sự TN 17-A119
Con người hiện hữu là một hồng ân. Mang thân phận con người, mỗi người cần phải có những sự chọn lựa. Có thể nói chọn lựa là một thách đố. Học sinh muốn lên lớp và muốn có phần thưởng thì phải chọn việc siêng năng chăm chỉ học tập, thức khuya dậy sớm miệt mài đèn sách. Còn vận động viên thì phải chọn việc tập luyện kỹ càng và chế độ luyện tập khít khao. Cũng vậy, người ta muốn sống bằng chính đồng tiền lương thiện thì phải chọn việc siêng năng lao động, khước từ lười biếng, chấp nhận vất vả làm việc, thậm chí "đổ mồ hôi, sót con mắt"...Kết quả của những sự chọn lựa như trên là người ta được niềm vui vì thành quả đạt được của mình, người ta được bình an ngủ ngon và được hạnh phúc. Từ những sự chọn lựa đó cho ta thấy việc định hướng trong cuộc đời rất quan trọng. Muốn thành công thì phải hy sinh. Muốn được bình an thư thái thì người ta phải từ bỏ những điều bất chính để chọn những điều mang giá trị cao hơn. Tuy nhiên dù con người có đạt được những giá trị vật chất thì nó cũng chóng qua. Thấu hiểu điều đó, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một sự chọn lựa, một sự theo đuổi mà kết quả của nó là hạnh phúc chân thật, hạnh phúc vững bền, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc thoả lòng khát khao, hạnh phúc đời đời. Đó chính là tìm kiếm, chọn và theo đuổi những giá trị thuộc Nước Trời.
Thật thế, bài Phúc âm hôm nay (Mt 13, 44 - 52) Chúa Giêsu đã đưa ra những dụ ngôn từ đời sống thực tế để minh hoạ cho hình ảnh và giá trị của Nước Trời: "Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ, đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.."
Rõ ràng người mua thửa ruộng này là người biết giá trị của thửa ruộng đó. Người buôn ngọc quý cũng biết được giá trị của viên ngọc. Anh ta biết đâu là giá trị phải theo đuổi, từ đó tập trung hết nguồn lực, sẵn sàng hy sinh, đánh đổi tất cả để mua cho bằng được thửa ruộng đó, sẳn sàng mua cho được viên ngọc. Chắc hẳn, anh ta không thể đắn đo, không do dự, không muốn bỏ lỡ cơ hội nên phải nhanh chóng quyết định mua ngay cho bằng được.Đây là cơ hội quý nhất "đáng giá ngàn vàng". Nghĩ thế rồi anh ta mua ngay lập tức, anh ta bỏ hết những toan tính, dự định về những của cải mà mình đang có, chỉ tập trung mua thửa ruộng này thôi. Như thế, kho tàng chôn giấu trong ruộng và viên ngọc kia phải có giá trị hơn nhà cửa, tài sản. Kho tàng và viên ngọc có một sức hấp dẫn diệu kỳ. Bán tất cả "cái cũ" để mua "cái mới". Việc bán cái cũ không diễn ra trong nuối tiếc nhưng trong niềm vui.
Vấn đề ở đây, dụ ngôn này muốn nói với chúng ta "Nước Trời" là viên ngọc quý, là kho tàng trong thửa ruộng hay nói cách khác Chúa Giêsu chính là kho tàng, là viên ngọc quý mà ta phải đánh đổi tất cả để có được. Chúng ta thật sự xác tín như vậy thì việc chúng ta dám từ bỏ tất cả để theo đuổi, để chiếm lấy Chúa Giêsu sẽ trở nên dễ dàng hơn. Ngược lại, khi chúng ta không thấy được Chúa Giêsu chính là kho tàng, là viên ngọc quý thì chúng ta khó có thể bước theo Ngài, chiếm Ngài và không can đảm bước theo Ngài. Tuy nhiên làm sao có thể thấy Chúa Giêsu là kho tàng, là viên ngọc quý được khi ta vẫn còn mãi ở trong sự giam hãm, bị lệ thuộc trong những định kiến, bị lấp lửng, bị do dự mãi...bởi chúng ta còn quá bám víu của cải vật chất, của cải, quyền lực, danh vọng,...làm sao chúng ta thoát khỏi những vướng bận ấy còn đang lôi kéo, trì trệ chúng ta. Nó không làm cho chúng ta vươn lên, bước tới Chúa Giêsu được.
Thánh Phaolô đã nói: "Tôi coi tất cả thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài" (Pl 3, 8 - 9). Do đó, Nước Trời hay Chúa Giêsu mới thật là kho tàng, là viên ngọc quý mà người ta đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm lấy cho bằng được. Đây mới thật là khôn ngoan đích thật đem lại hạnh phúc vĩnh cửu (1V 3, 4-14) "được lời lãi cả và thế gian mà mất sự sống đời đời thì được ích chi?"
Anh thanh niên giàu có đã hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?". Chúa Giêsu bảo anh: "hãy về bán của cải anh có mà theo Ta". Chúa Giêsu là tất cả. Ngài chính là hạnh phúc vững bền. Ngài chính là sự sống đời đời của mỗi người chúng ta.
Nhìn lại mình, có thể chúng ta đã hớn hở theo Chúa, nhưng khi Ngài đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, thì chúng ta lại cúi mặt xuống, rồi buồn bã bỏ đi, không đáp trả lời mời gọi của Ngài, như chàng thanh niên giàu có kia. Vì thế, tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi thôi. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi hết mình những điều Ngài truyền dạy. Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám can đảm, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống, vì gặp gỡ cũng có nghĩa là yêu thương. Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc. Lúc đó, vui thú trở thành vô nghĩa, tiền bạc trở thành tro bụi và danh vọng trở thành mây khói trước vẻ huy hòang của kho tàng vừa tìm thấy. Chúa Kitô chính là kho tàng quý giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi. Hãy can đảm đánh đổi tất cả để có được kho tàng quý giá ấy. Chúa Kitô là có tất cả.
Như thế, phần còn lại lại tuỳ mỗi người chúng ta chọn lựa, theo Chúa hay không. Ước gì chúng ta chọn đúng. Chúng ta chọn thứ thiệt! Chúng ta chọn kịp lúc.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa chính là Nước Trời, là niềm hạnh phúc thật, là hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con chỉ biết chọn Chúa, theo Chúa và làm điều đẹp lòng Chúa để biết từ bỏ tất cả mà dấn thân cho Nước Trời, cho Chúa chúng con. Amen.
-------------------------------
Trong thời gian gần đây, hai câu lạc bộ hàng đầu thế giới Man United và Real Marid không ngừng TN 17-A120
Trong thời gian gần đây, hai câu lạc bộ hàng đầu thế giới Man United và Real Marid không ngừng đưa ra muôn vàn phương kế để chiêu dụ "Viên ngọc quý" bóng đá Cristiano Ronaldo. Cầu thủ 23 tuổi này hiện đang là ngôi sao của Man United, nhưng Real Marid không ngừng lôi kéo bằng nhiều hình thức, hứa hẹn với mức lương kỷ lục, khuyến mãi xe con... Tất cả những điều họ làm chỉ nhằm kiếm được "viên ngọc quý" của bóng đá về cho mình. Cả hai câu lạc bộ đều đủ biết để làm được điều đó họ phải ép mình thực hành đủ những điều kiện mà trước đây họ vẫn chưa làm.
Hôm nay Đức Giêsu cũng nói về một viên ngọc quý, mà để chiêu mộ viên ngọc quý này không thể dùng tiền hay quyền lực, nhưng bất cứ người nào cũng có thể mua được khi họ đáp ứng đủ những điều kiện sau:
Để đạt được Nước Trời tôi phải có lựa chọn, lựa chọn là một sự thách đố, đòi hỏi phải có một suy nghĩ thật kỹ, một sự khẳng định dứt khoát. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận một sự lựa chọn nửa vời "dở dở ương ương Ta sẽ ói ngươi ra". Giống người lái buôn hôm nay khi đã quyết định mua viên ngọc, thì quyết tâm mua cho bằng được, vì anh ta đã chọn, đã lựa đó cũng là điều anh muốn. Từ ban đầu khi tạo thành vũ trụ Thiên Chúa đã cho con người được tự do, qua việc đặt con người trước "cây biết lành biết dữ". Sự lựa chọn là một thử thách cam go đòi hỏi con người phải chọn dứt khoát: tốt hoặc xấu. Là người Kitô hữu chúng ta phải biết lựa chon những giá trị tốt, vứt bỏ cái xấu, phải có cái nhìn sâu xa biết cả những giá trị thực của viên ngọc còn tiềm ẩn sâu bên trong mà thực chất với cái nhìn hiện nay ta không thể biết đến.
Để đạt được Nước Trời đòi hỏi ta phải đáp trả trọn vẹn. Trong tục ngữ Việt Nam có câu "lửa thử vàng, gian nan thử sức". Điều kiện đáp trả lời mời gọi đó chính là "lửa" để xem sự nhiệt thành sự khao khát tìm viên ngọc quý của ta thế nào. Qua giòng lịch sử Giáo Hội có rất nhiều người đi tìm nhưng không phải ai cũng tìm thấy, vì họ chưa thật sự đáp trả trọn vẹn, chưa dấn thân nhiệt tình. Sự đáp trả không phải chỉ bằng lời nói suôn, nhưng phải được thể hiện qua hành động cụ thể. Mỗi người có môt sự đáp trả khác nhau Thiên Chúa không cào bằng tất cả mọi người, cũng không đòi buộc mọi người phải đáp trả như nhau.Vì có người thì được ban cho năm nén, có người ba nén. Nhưng đạt được viên ngọc quý đòi hỏi mỗi người phải đáp trả hết khả năng mình có ba nén phải làm lời ba nén, có năm nén phải là lời cho được năm nén khác.
Để đạt được Nước Trời đòi buộc tôi phải dấn thân hoàn toàn. Muốn chiến thắng thì phải nhảy vào cuộc chiến, có thể cuộc chiến đó một còn một mất, nhưng khi đã chiến đấu vì Nước Trời cộng với ơn Chúa thì ta không bao giờ là người chiến bại mà luôn là người chiến thắng. Giống như người buôn hôm nay chắc chắn gia tài của ông ta rất nhiều, rất giàu có, bao nhiêu năm ra công buôn bán chỉ nhằm vun đắp cho gia tài đó. Nhưng gia tài đó chẳng là gì khi biết được giá trị Nước Trời, ông quyết tâm theo đuổi đến cùng, bằng mọi cách kể cả bán gia tài mình đang có bán hết chứ không phải chỉ bán một phần. Điều đó thể hiện sự dấn thân trọn vẹn, một sự ham mê tuyệt vời, một sự khao khát, một nỗ lực tuyệt diệu cho người ra công tìm kiếm Nước Trời.
Để đạt Nước Trời đòi hỏi tôi phải trưng dụng tất cả, gia tài có thể là mồ hôi nước mắt của người, đó có thể là công sức của cả đời. Nhưng để mua được viên ngọc quý đòi hỏi ông ta phải hy sinh. Tuy dẫu biết rằng hy sinh là chấp nhận mất mát nhưng hy sinh cái tạm thời lại mua được cái vĩnh cữu, thì mất mát có đáng chi. Vĩnh cữu thì rất xứng đáng. Người lái buôn hy sinh gia tài chỉ là một góc của muôn vàn sự hy sinh. Có những sự hy sinh còn cao cả hơn nhiều. Họ hy sinh cả bản thân, chấp nhận đau khổ để mua viên ngoc qúy bằng con đường dâng hiến phục vụ tha nhân, phục vụ người nghèo, người đau khổ bệnh tật...
Giá trị của Nước Trời rất quý và đòi hỏi của nước ấy rất quyết liệt do đó tôi phải nỗ lực hết mình đáp trả bằng những điều kiện và ơn Chúa ban chắc chắn tôi sẽ làm được. và dụ ngôn hôm nay như một động lực thúc đẩy tôi hãy đi tìm kiếm Nước Chúa bằng con tim, bằng sự chân thành và lòng quyết tâm.
-------------------------------
Khôn ngoan đích thực không phải là sự lươn lẹo mánh lới và thủ đoạn, nhưng là sống theo sự thật. TN 17-A121
Khôn ngoan đích thực không phải là sự lươn lẹo mánh lới và thủ đoạn, nhưng là sống theo sự thật. Người sống theo lương tâm ngay thẳng, tôn trọng sự thật, sẽ luôn được an bình thanh thản. Những ai sống mưu mô, trục lợi, dù có thành đạt cũng không bền lâu và sớm muộn cũng bị đưa ra ánh sáng.
Thời gian gần đây, chúng ta thấy một loạt quan chức và những đại gia phải ra hầu tòa trước vành móng ngựa. Những người này can tội lợi dụng chức quyền, tham ô chiếm đoạt của công. Trước khi bị phanh phui, họ là những người “nói mọi người nghe, đe mọi người sợ”, vì họ nắm trong tay chức quyền và của cải. Sự giàu có và quyền chức của họ cũng là điều nhiều người mơ ước. Dưới cái nhìn thế gian, họ đã là những người may mắn và khôn ngoan. Bỗng chốc, sự khôn ngoan của họ biến thành sự dại dột. Những lời khen ngợi dành cho họ trước đây, nay trở thành những lời nguyền rủa phỉ báng. Vinh quang của họ biến thành nỗi nhục. Những sự kiện này khiến chúng ta đặt ra câu hỏi: đâu là sự khôn ngoan đích thực?
Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta đâu là sự khôn ngoan đích thực. Salomôn là vị vua có cái nhìn xa trông rộng. Khi vừa lên ngôi kế vị cha mình là Đavít, ông đã thấy rõ điều ông cần thiết không phải là của cải vật chất hoặc mạng sống quân thù, nhưng là sự khôn ngoan để cai trị quốc gia. Thực ra, lời cầu xin của ông đã chứng tỏ ông là một người khôn ngoan. Bởi lẽ, khi người ta đã có sự khôn ngoan, thì sẽ có mọi sự. Cuộc đời của Salomôn đã chứng minh điều đó. Chúa tỏ cho ông biết: điều ông xin vừa là điều chính đáng, vừa là điều đẹp lòng Chúa. Vì vậy, Chúa ban cho ông sự khôn ngoan phi thường, đến nỗi ông trở thành biểu tượng của sự khôn ngoan trong lịch sử.
Khôn ngoan đích thực không phải là sự lươn lẹo mánh lới và thủ đoạn, nhưng là sống theo sự thật. Người sống theo lương tâm ngay thẳng, tôn trọng sự thật, sẽ luôn được an bình thanh thản. Những ai sống mưu mô, trục lợi, dù có thành đạt cũng không bền lâu và sớm muộn cũng bị đưa ra ánh sáng. Người Việt chúng ta thường nói : “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Việc làm của chúng ta có đạt được kết quả hay không còn tùy thuộc vào ý Trời. Những gì tốt lành, ngay thẳng, sẽ thuận ý Trời và sẽ thành công.
Người khôn ngoan đích thực còn là người chọn lựa Chúa như đích điểm tối ưu của đời mình, đồng thời cố gắng làm mọi sự để trung thành với sự chọn lựa ấy. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người khám phá ra kho tàng quý giá trong thửa ruộng, và người lái buôn biết giá trị của viên ngọc quý. Cả hai người này đều giống nhau ở chỗ, họ bán tất cả để mua thửa ruộng có chứa kho tàng và mua viên ngọc quý. Hình ảnh này muốn dạy chúng ta, một khi đã chọn Nước Trời là lý tưởng, người tín hữu phải hy sinh từ bỏ những gì có thể cản trở họ trong việc đón nhận giáo huấn của Chúa.
Mỗi chúng ta đều được đón nhận hồng ân đức tin. Đức tin là một viên ngọc quý mà Chúa ban tặng cho chúng ta. Có những lúc chúng ta không ý thức được giá trị của hồng ân này. Vì vậy chúng ta không để ý lo lắng cho đức tin được lớn lên và thể hiện cách rõ nét trong đời sống. Các thánh tử đạo là những người đã khám phá ra giá trị của Nước Trời, nên sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để đạt được điều các ngài hy vọng trông mong. Trong xã hội hôm nay, trước những trào lưu mệnh danh là “tiến bộ”, “hiện đại”, nhiều tín hữu coi đức tin như một thứ trang sức cho đẹp, hoặc như một đồ cổ quý giá nhưng chỉ để trưng bày trong tủ kính. Họ e ngại khi phải hy sinh để sống đức tin và thực hành giáo huấn của Giáo Hội. Tóm lại, đức tin không có một vị trí quan trọng trong đời sống của họ. Vì thế, khi gặp những khó khăn thử thách, họ sẵn sàng chối bỏ đức tin để chọn lựa những gì hào nhoáng và giá trị nhất thời.
Người tin vào Chúa không bước theo những ảo vọng, nhưng chắc chắn sẽ được Chúa yêu thương và lắng nghe lời họ nguyện cầu. Thánh Phaolô khẳng định với chúng ta: “Những kẻ yêu mến Thiên Chúa thì Người giúp họ được mọi sự lành. Họ là những người kêu gọi nên thánh” (Bài đọc II).
Ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Ngài soi sáng cho chúng ta biết nhận ra đâu là khôn ngoan đích thật. Xin Ngài thêm sức mạnh để chúng ta trung thành với đức tin, coi đó là lý tưởng cao cả nhất của cuộc đời. Đó chính là viên ngọc mà Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Đó cũng chính là sản nghiệp mà chúng ta có bổn phận phải làm cho sinh hoa kết trái qua những việc làm mỗi ngày.
+Gm Giuse Vũ Văn Thiên
-------------------------------
TN 17-A122: Chọn Nước Trời là khôn ngoan tuyệt hảo nhất –ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chủ đề lời Chúa hôm nay: chọn nước Trời hơn hết mọi sự, là khôn ngoan nhất. Bài đọc I (1V. 3, 5. 7-12) TN 17-A122
Chủ đề lời Chúa hôm nay: chọn nước Trời hơn hết mọi sự, là khôn ngoan nhất.
Bài đọc I (1V. 3, 5. 7-12) cho ta thấy: Vua Salômon đã tự nhận mình là đứa bé nhỏ, chưa biết ngõ ra lối vào, làm sao dám cầm quyền cai trị nước. Ông hoàn toàn cậy trông, cầu xin Chúa ban cho ông tâm hồn biết lắng nghe để nghe Chúa dậy dỗ, chỉ bảo mới có sức cai trị dân Ngài. Ông đã khiêm tốn thiện chí chọn theo ý Chúa. Chọn Chúa là chọn lối sống nước Trời hơn đời sống trường thọ trần gian, hơn sống giàu sang của cải, hơn sự chiến thắng kẻ thù, hơn lên ngôi đế quốc cai trị muôn dân. Chính vì chọn nước Trời, chọn theo ý Thiên Chúa, ông đã được khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ông chẳng ai sánh bằng, và sau ông chẳng ai bì kịp. Quả thật, khôn ngoan của ông là khôn ngoan của Thiên Chúa chứ không phải của loài người.
Trong Bài Tin mừng, Chúa Giêsu ví nước Trời như kho tàng quý báu, quý giá hơn mọi của cải, hơn mọi danh vọng, mọi phước lộc của trần gian. Cho nên người khôn ngoan sẵn sàng đánh đổi hết mọi sự, mọi lời lãi cả thế gian này để mua sắm nước Trời cho bằng được, vì có nước Trời, ta mới được sống trường sinh vĩnh phúc. Chính Đức Giêsu đã nói cho ta thấy rõ: “Dù được lời lãi cả thế gian, mất mạng sống mình nào được ích gì”.
Nước Trời như viên ngọc quý. Ngọc quý là ngọc có đủ mọi màu sắc lóng lánh rực rỡ, chiếu tỏa muôn ánh hào quang sang trọng, chứng tỏ vinh quang lạ lùng của nước Trời, không một vinh quang trần gian nào sánh kịp. Muôn ngàn lễ đăng quang hào nhoáng hay quốc khánh long trọng của trần gian cũng chỉ là tạm bợ, phút chốc tiêu tan như mây khói, đâu có thể so sánh được lễ đăng quang về nước Trời vĩnh phúc muôn thuở của một linh hồn lành thánh! Những linh hồn được hưởng hạnh phúc trong nước Trời, đó là những cá tốt, còn những cá xấu, những kẻ dữ, thật kinh khủng! chúng bị quẳng vào lò lửa, ở đó chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng ghê sợ muôn đời.
Phúc cho ta vô cùng khi biết chọn Nước Trời, bằng ngay từ bây giờ ta biết chọn lắng nghe lời Chúa như vua Salomon, như những vị kinh sư biết siêng năng, học hỏi, suy ngẫm, chọn lọc sống theo những lời Chúa trong pho sách Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước.
Thật sự Thiên Chúa đã định liệu cho những ai yêu mến sống theo Lời Ngài được nên công chính, được nên đồng dạng với Chúa Kitô, Con của Ngài, được hưởng phúc vinh quang muôn thuở (Bài II – Rm. 8, 28-30)
-------------------------------
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Suốt mấy tuần nay chúng ta đã có dịp nói với nhau về Nước Trời. Nước trời hay Giáo Hội ở trần gian TN 17-A123
Suốt mấy tuần nay chúng ta đã có dịp nói với nhau về Nước Trời. Nước trời hay Giáo Hội ở trần gian được bắt đầu một cách thật khiêm nhường, như một hạt cải, vượt qua mọi khó khăn để thành hình và vươn lên. Nước Trời hiện đang có mặt ở trần gian như men trong bột, thực sự đang có nhiều ảnh hưởng tốt cho trần gian. Tuy nhiên Nước trời ở trần gian chưa phải là một nước đã vẹn toàn. Nước trời ở trần gian vẫn còn pha trộn. Nhưng thử hỏi tình trạng này sẽ kéo dài tới bao giờ thì Bài Tin Mừng hôm nay sẽ hé mở cho chúng ta câu trả lời.
I. "Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển. Chúng con đã thấy lưới bao giờ chưa? Năm nào chúng con cũng được đi tắm biển, cha hy vọng chúng con đã một lần thấy người ta lưới cá. Chúng con thấy sau khi kéo lưới lên, người ta nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người lành, rồi quăng những kẻ xấu vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” Như vậy đến ngày tân thế, tốt xấu sẽ được phân loại một cách rõ rệt và số phận của mỗi hạng người sẽ được phân định một cách dứt khoát không còn có thể lẫn lộn được nữa.
II. Vậy thì chúng ta phải nhìn Nước Trời hay Giáo Hội của Chúa nơi trần gian với thái độ như thế nào?
Những Lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay rõ ràng khiến chúng ta phải liên tưởng đến sự khôn ngoan.
Người nông dân và người lái buôn trong hai dụ ngôn vắn hôm nay rõ rệt là hai người khôn ngoan theo cái nhìn của Chúa. Đây là thái độ khôn ngoan của người công dân nước trời. Nó khác với thái độ khôn ngoan có tính cánh thế trần như sự khôn ngoan của vua Salomon mà bài sách thánh thứ nhất hôm nay thuật lại. Vua Salomon xin Chúa cho ông được khôn ngoan, nhưng ông chỉ khoanh vùng sự khôn ngoan trong cách cai trị dân. Ông xin và Chúa đã cho ông điều đó. Về phương diện trần thế thì phải nói là Salomon đã thành công tuyệt vời, nhưng về đời sống đạo đức thì Salomon đã hoàn toàn thất bại. Ông đã quá nhu nhược để cho ảnh hưởng ngoại giáo du nhập tràn lan vào quê hương làm huỷ hoại nhiều giá trị tốt đẹp của tôn giáo độc thần và đối với đời sống cá nhân của ông, ông cũng đã phạm nhiều sai lầm để rồi sau khi ông chết, tất cả những công trình của ông cũng tiêu tan.
Trong hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quí, Chúa cho chúng ta thấy người nông dân và người lái buôn sau khi đã biết được giá trị của kho báu và viên ngọc quí thì sẵn sàng bán tất cả những gì mình có để có được kho tàng và viên ngọc quí đó. Người buôn ngọc chắc phải bán nhiều hơn người nông dân, nhưng cả hai đều phải bán tất cả. Bán tất cả để mua kho báu và viên ngọc quí...đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây.
Thái độ của họ có thế làm cho người ta thắc mắc. Một thửa đất, một viên ngọc có cần phải hy sinh tất cả để có thể mua chúng không?
Đọc trong hai dụ ngôn trên chúng ta thấy thái độ của hai ngưòi rất nhẹ nhàng và thanh thản, xem ra không có gì khó khăn mà ngược lại còn rất tự nhiên nữa là đàng khác. Đây là thái độ rất đáng nể phục. Khó mà có thể tìm thấy một thái độ siêu thoát đáng nể phục như vậy trong cuộc sống thực tế. Nhưng ở đây chúng ta phải nhớ Chúa đang dùng dụ ngôn để dạy dỗ chúng ta.
Nếu giả sử như bây giờ Chúa đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải bán tất cả để mua lấy Nước Trời thì thử hỏi ta sẽ có thái độ như thế nào?
Liệu chúng ta có thể có được thái độ thanh thản như hai người trong bài dụ ngôn hay là chúng ta khó chịu như anh chàng thanh niên giầu có khi Chúa đòi hỏi anh ta phải bán tất cả những gì anh có, chia cho người nghèo khó, sau đó đến mà theo Chúa. Anh thanh niên giầu có đó đã không dám bán. Tại sao thế? Tại vì anh ấy chưa thấy được việc theo Chúa, việc gắn bó với Chúa là một điều vô cùng tốt đẹp....Anh ta chưa thấy được Chúa là nguồn mạch sự sống, là sự sống đời đời mà anh đang khao khát tìm kiếm....Và chính vì thế mà anh không dám từ bỏ sự chắc chắn của hiện tại để đi theo Đấng mà anh không biết tương lai sẽ như thế nào. Như vậy vấn đề là chúng ta phải biết, phải thấy.
Đức Hồng Y Martini thường hay kể câu truyện sau đây mà Ngài rất tâm đắc: Có một người đến gặp một vị ẩn sĩ ẩn tu ở trong sa mạc và hỏi:
- Thưa Cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này nhưng sau đó lại có nhiều người bỏ về và chỉ có một ít người bền đỗ?
Vị ẩn sĩ trả lời. Ngài không trả lời trực tiếp như một khẳng định nhưng như một câu chuyện. Ngài nói: "Chuyện này giống như chuyện một con chó đuổi theo con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác thấy nó sủa và thấy nó chạy liền chạy theo. Nhưng chẳng bao lâu sau những con chó này thấm mệt và bỏ cuộc không còn con nào chạy theo nữa chỉ có con chó đầu tiên lúc nào cũng bám sát con thỏ cho đến khi chộp được nó. Chỉ có con chó này thấy được con thỏ còn những con khác thì không. Cho nên mới có sự bền đỗ hay bỏ cuộc.”
Như vậy vấn đề là ta có thấy được nước trời như một kho báu và Chúa Giêsu như một viên ngọc quí hay không. Nếu ta thấy được Ngài như một kho báu hay như một viện ngọc qui thực sự thì vấn đề từ bỏ sẽ không có gì khó lắm. Ngược lại chúng ta sẽ chẳng bao giờ dám.
Thánh Phaolô một lần kia đã chia sẻ kinh nghiệm này với các Giáo hữu Phi-lip-phê của Ngài như sau: "Tôi coi tất cả là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa của tôi. Vì Ngài tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài" (Pl 3,8-9). Đây là một cảm nghiệm của một người đã thực sự thấy được những giá trị tuyệt vời được ẩn dấu trong Thiên Chúa mà mắt thường khó mà có thể nhìn thấy.
Phaolô Mọi ở Hoài Yên Thanh hóa bị điệu ra trước Pháp trường. Quan bảo Ngài:
- Anh đạp ảnh đi tôi sẽ cho anh một nén bạc.
+ Bẩm quan lớn, một nén ít quá.
- Vậy cho anh một nén vàng.
+ Một nén vàng cũng chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
+ Bẩm quan lớn, quan lớn muốn tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ bạc vàng để có thế mua được một linh hồn khác.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta có được cặp mắt khôn ngoan và sáng suốt để biết nhìn thấy những gì có gì quí giá thực sự cho cuộc sống của chúng ta và những gì là giả tạo để chúng ta có thể có được những chọn lựa thật chính xác để rồi nhờ đó mà sự sống của chúng ta khỏi bị đánh lừa và nhất là chúng ta sẽ chiếm hữu được Nước Trời mai sau. Amen .
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
-------------------------------
Qua bao đời, người Ả-rập Xê-út sống ngay trên những túi dầu khổng lồ với một trữ lượng lớn lao TN 17-A124
Qua bao đời, người Ả-rập Xê-út sống ngay trên những túi dầu khổng lồ với một trữ lượng lớn lao vượt xa các nơi khác trên thế giới mà không hay biết. Hiện nay, trữ lượng dầu của Ả-rập Xê-út lên đến 265 tỷ thùng dự trữ dầu, chiếm khoảng 20% trữ lượng dầu mỏ thế giới. Thế mà, suốt cả mấy ngàn năm trước đây, tổ tiên ngàn đời của họ phải sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực vì đất nước của họ gồm phần lớn là sa mạc nóng cháy với một khí hậu khắc nghiệt khác thường.
Mãi cho đến năm 1938, nhờ kỹ thuật tân tiến của phương Tây, họ mới khám phá và khai thác những túi dầu lửa khổng lồ nằm ngay dưới chân mình. Nhờ đó, từ thân phận nghèo khổ bần cùng nhất thế giới, họ trở nên một dân tộc giàu có, phồn vinh.
Tiếc thay, biết bao nhiêu thế hệ cha ông họ đã phải sống túng thiếu cùng cực ngay trên trữ lượng “vàng đen” khổng lồ chỉ vì không phát hiện được kho tàng ẩn giấu!
Kho tàng ẩn giấu trong cuốn Tin mừng
Vì lòng yêu thương vô bờ dành cho con cái mình, Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một kho tàng quý báu hàng tỷ lần hơn kho dầu bên Ả-rập; đó là Tin mừng sự sống được rao truyền cho nhân loại suốt hai ngàn năm qua.
Tin mừng Chúa Giê-su là sự khôn ngoan của Thiên Chúa được Chúa Giê-su mang từ trời xuống tặng ban cho thế giới.
Tin mừng Chúa Giê-su là phương dược cứu chữa nhân loại khỏi chia rẽ, hận thù và tự hủy diệt.
Tin mừng Chúa Giê-su đề ra giải pháp tối ưu để xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ, công bằng, hạnh phúc.
Nhưng tiếc thay, cũng như người Ả-rập trước đây phải sống lây lất trong nghèo đói, bần cùng và lạc hậu vì không biết khám phá và khai thác những túi dầu khổng lồ dưới chân mình, thì nhiều người hiện nay vẫn chưa phát hiện được những giá trị vô cùng cao quý do Tin mừng mang lại nên phải sống trong tình trạng nghèo tình thương, đói công lý, nhân phẩm bị chà đạp, công bằng xã hội bị tiêu hủy, hố cách biệt giàu nghèo gia tăng, nếp sống đạo đức sa sút nghiêm trọng…
Sở dĩ như thế là vì Tin mừng là kho báu, nhưng là kho báu ẩn giấu dưới những dòng chữ, là ngọc quý ẩn mình trong những trang sách, nên mặc dù sách Tin mừng đang ở trong tầm tay mọi người, nhưng nhiều người không phát hiện được giá trị tiềm ẩn bên trong nên không tìm cách khai thác để mang lại lợi ích cho mình.
Hăm hở khai thác kho tàng
Hiện nay, khi thấy dấu hiệu có trữ lượng dầu lửa đáng kể nằm sâu dưới lòng đất hay dưới lòng đại dương, các quốc gia lân cận lập tức xác nhận chủ quyền của mình trên những vùng biển hay vùng đất đó và tìm cách khai thác cho bằng được. Nếu cần, các quốc gia liên hệ có thể huy động cả lực lượng quân đội hùng hậu nhất để cưỡng chiếm những vùng đất đó nhằm thu lợi về cho riêng mình. Nói chung, ai cũng hăm hở khai thác những nguồn lợi nằm trong tầm tay của mình dù phải trả giá rất cao.
Đó cũng là chọn lựa của anh nông dân bất ngờ khám phá ra kho báu hay của một thương gia đi săn lùng ngọc quý trong dụ ngôn Tin mừng Mát-thêu sau đây (13, 44-46):
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Lạy Chúa Giê-su,
Tin mừng của Chúa là một kho tàng tuyệt vời đang ẩn mình dưới những dòng chữ, là viên ngọc vô cùng quý báu chìm khuất trong những trang sách, nhưng tiếc thay, vì người đời chẳng hay biết nên họ tỏ ra dửng dưng, hờ hững với Kho tàng nầy.
Xin cho chúng con biết đánh giá đúng giá trị của Tin mừng để rồi quyết tâm khám phá cho bằng được và sẵn sàng đầu tư khai thác không quản ngại phí tổn thời giờ và công sức; vì một khi sở hữu được kho tàng vô giá nầy, một khi làm chủ được viên ngọc quý báu nầy, cuộc đời của mỗi người sẽ được cải thiện, xã hội sẽ có thêm công bằng hạnh phúc và tương lai của nhân loại sẽ bừng sáng.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
-------------------------------
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Có một nhân vật của dòng văn học dân gian mà dường như ai cũng nhớ tên, đó là "Thằng Bờm". TN 17-A125
Có một nhân vật của dòng văn học dân gian mà dường như ai cũng nhớ tên, đó là "Thằng Bờm". Một nhân vật được dựng nên để châm chọc cho tính cách khờ khạo của một ai đó. Và thằng Bờm "khờ" như đến thế này là cùng:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười.
Có nhiều lối giải thích cho sự khờ khạo của thằng Bờm, nhưng có lẽ sự khờ khạo nằm ở chỗ thằng Bờm không so đo tính toán cao siêu mà chỉ cần no cái bụng là được rồi. Ba bò chín trâu hay ba bè gỗ lim cũng không giá trị so với nắm xôi vì nó giải quyết nhu cầu trước mắt.
Cái dại, cái khờ khạo của thằng Bờm là đã không chịu đáp ứng sự đổi chác quá chênh lệch của lão Phú ông. Phú ông đổi những cái có giá trị, thì Bờm cứ... "chẳng lấy". Đến khi Phú ông đổi nắm xôi, thì... Bờm cười. Cười là đồng ý, là thích chì, là thõa mãn . . .
Trong sự đổi chác này sẽ có một người dại, hoặc Phú ông, hoặc thằng Bờm. Nhưng chắc chắn có một người vui hơn khi biết cười và không thấy mình thua thiệt, đó là thằng Bờm. Đến đây, chợt nhớ câu thơ tự trào của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao".
Người khôn luôn phải tìm kiếm, phải trao đổi cho dù phải ở chốn lao xao nhưng sẽ tìm được viên ngọc quý, tìm được cái mình yêu, mình thích. Để chiếm hữu nó cho dù có phải bán hết gia tài vẫn cảm thấy thích thú vì mình được cái mình vừa ý và toại nguyện. Cái đó có thể là nắm xôi hay cái quạt mo là tùy mỗi người mỗi sở thích khác nhau.
Nước trời được Chúa Giê-su sánh ví như kho tàng được chôn giấu trong thuở ruộng. Có người đã chiếm hữu nhưng lại chôn dấu đi. Ngược lại, người thương gia đã nhận ra giá trị cao siêu nên bán hết tài sản của mình để chiếm cho được kho tàng ấy.
Nhân loại ngày hôm qua và hôm nay vẫn thế! Có người vì danh lợi thú mà họ cất giấu niềm tin của mình để lao theo con đường danh vọng, nhưng cũng không ít người khám phá viên ngọc quý là Nước trời để rồi bỏ lại tất cả sự giầu sang, quyền quý để đi theo Chúa.
Thánh Phanxico Xavie là một điển hình. Sinh trưởng trong một gia đình giầu có, quyền thế. Bản thân lại học giỏi tài cao. Đường công danh sáng lạn. Thế nhưng ngài đã bị đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?” để từ đó cuộc đời Ngài chỉ còn tìm kiếm và phụng sự cho tin mừng Nước Trời.
Thánh Augustino sau những ngày tháng ngụp lặn trong thú vui thế gian và xác thịt, Ngài đã cảm nghiệm sâu xa về hạnh phúc Nước Trời mới là vĩnh cửu còn thế gian là tạm bợ. Ngài đã thốt lên trong tiếc nuối: “lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng” để rồi từ đó Ngài ngụp lặn trong đại dương bao la tình Chúa.
Xin cho chúng ta cũng biết khôn ngoan chọn lựa giá trị vĩnh cửu là Nước trời hơn là những danh lợi thú mau qua. Xin đừng vì những nhu cầu xác thịt mà chôn dấu kho tàng Nước Trời. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhận ra Chúa chính là gia nghiệp, là lẽ sống, là phần phúc để biết dùng hết khả năng, trí tuệ hầu đạt được hạnh phúc Nước trời mai sau. Amen
-------------------------------
Ở đời có nhiều thứ trái ngược – cả cụ thể và trừu tượng, một trong các tình trạng đối lập đó là Khôn TN 17-A126
Ở đời có nhiều thứ trái ngược – cả cụ thể và trừu tượng, một trong các tình trạng đối lập đó là Khôn và Khờ. Hai chữ bắt đầu bằng mẫu tự K, hai mẫu tự giống nhau về cách viết và cách phát âm, nhưng lại hoàn toàn trái ngược về ý nghĩa.
Thế nào là khôn ngoan ? Ai là người khôn ngoan ? Triết gia Albert Schweitzer ( 1875–1965, Đức Quốc ) nhận định: “Người lạc quan nhìn đâu cũng thấy đèn xanh, người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn đèn đỏ, còn người thực sự khôn ngoan thì mù màu”. Một cách nói thật thú vị. Khôn ngoan là điều rất quý giá.
Khôn ngoan là đức tính, là điều vĩnh tồn, bởi vì Kinh Thánh cho biết: “Khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” ( Kn 3, 15 ). Kinh Thánh cũng nói khôn ngoan là báu vật: “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban” ( Kn 7, 14 ).
Quả thật, sự khôn ngoan không chỉ là điều rất cần thiết trong cuộc sống mà còn là một nhân đức. Sách Châm Ngôn xác định: “Khôn ngoan chính là cây sự sống đối với người nào nắm được khôn ngoan. Giữ được khôn ngoan quả là hạnh phúc” ( Cn 3, 18 ). Còn sách Giảng Viên cho biết: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng” ( Gv 8, 1 ). Và sách Huấn ca nói: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khỏe dồi dào” ( Hc 1, 14.18 ). Khôn ngoan thật là đa lợi ích !
Tuy nhiên, khôn ngoan không liên quan tình trạng giỏi giang, bộ óc thông minh hoặc ngu dốt. Người giỏi và thông minh chưa chắc khôn ngoan, và người ngu dốt không hẳn là thiếu khôn ngoan. Thánh Thérèse de Lisieux ( Têrêsa Hài Đồng Giêsu, 1873-1897 ) học hành chẳng bao nhiêu nhưng được Giáo hội tôn phong là Tiến Sĩ Hội Thánh vì thánh nữ có bí quyết nên thánh đơn giản là “con đường thơ ấu” – tức là sống đơn sơ như trẻ thơ. Chị thánh được Giáo Hội tôn phong là Thánh Bổn Mạng của các xứ truyền giáo, các phi công, những người bán hoa, và các bệnh nhân – đặc biệt là các bệnh nhân AIDS ( SIDA ). Thánh nữ Faustina ( 1905-1938 ) cũng chỉ là người kém cỏi về chữ nghĩa nhưng lại được Chúa Giêsu mặc khải bí quyết nên thánh là “tín thác vào Đức Kitô”. Thật là mầu nhiệm, đúng như Chúa Giêsu đã vui mừng tạ ơn Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” ( Mt 11, 25; Lc 10, 21 ).
Có sự trùng hợp thú vị: Khôn ngoan, Khiêm nhường và Kiêu ngạo đều bắt đầu bằng mẫu tự K. Ai khiêm nhường sẽ có khôn ngoan thật, ai kiêu ngạo sẽ có khôn ngoan ảo – tức là “khờ khạo” ( cũng mẫu tự K ). Thật lạ lùng ! Ba mẫu tự K nhưng với hai hướng trái ngược nhau. Ước gì mỗi chúng ta luôn biết tự nhủ và hứa với Chúa: “Dầu hèn mọn và bị người khinh dể, huấn lệnh Ngài, con cũng chẳng quên” ( Tv 119, 141 ).
Ai cũng khả dĩ biết rằng có nhiều loại kho tàng, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng chắc hẳn “kho tàng khôn ngoan” là kho tàng quý giá nhất. Quả thật, sự khôn ngoan rất cần thiết, nhất là đối với những người đang lữ hành giữa trần gian đầy mưu ma chước quỷ này. Vì thế, Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” ( Mt 10, 16 ). Chuyện Khôn – Dại cũng còn tùy quan niệm, cái khôn của người này có thể là cái dại của người khác, và ngược lại. Người Công Giáo có câu vè thế này: “Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng”.
Mặc dù không có niềm tin vào Đức Kitô, người đời cũng vẫn đề cao sự khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan cũng có năm nẻo, bảy đường. Văn hào Victor Hugo ( Pháp ) nói: “Sự thận trọng là con trưởng của sự khôn ngoan”. Còn Văn sĩ Robert A. Heinlein ( Hoa Kỳ ) so sánh: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo thì chẳng khác gì cái ác”. Kịch tác gia Menander ( Hy Lạp ) nhận định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan”. Đó là dạng triết-lý-sống ở đời, đôi khi phải biết “sống ngược đời”, như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm tự trào: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tìm chốn lao xao”. Thế đấy, mấy ai được “cái dại” như cụ Trạng Trình !
Kinh Thánh cho biết rằng, vào một đêm xa xưa tại Ghíp-ôn, Đức Chúa đã hiện ra báo mộng cho vua Salômôn: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho” ( 1V 3, 5 ). Giấc mộng kỳ lạ quá chừng, đúng là hơn cả tuyệt vời, vì được Chúa “bật đèn xanh” như vậy thì còn gì bằng !
Tuy nhiên, trái với ý tưởng thông thường, vua Salômôn lại khiêm nhường thưa: “Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Đavít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. Và bây giờ, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đavít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế ?” ( 1V 3, 6-9 ). Vua Salômôn vô cùng khôn ngoan khi xin ơn khôn ngoan mà không nói rõ là sự khôn ngoan, mà chỉ xin “biết lắng nghe” và “biết phân biệt phải trái”. Biết hai điều đó thì khôn ngoan quá rồi ! Quả thật, Kinh Thánh cho biết: “Chúa hài lòng vì vua Salômôn đã xin điều đó” ( 1V 3, 10 ).
Rất hài lòng về sự khéo léo của Vua Salômôn nên Thiên Chúa phán với ông: “Bởi vì ngươi ĐÃ XIN điều đó, ngươi đã KHÔNG XIN cho được sống lâu hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được TÀI PHÂN BIỆT ĐỂ XÉT XỬ, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi cũng chẳng có ai bì kịp” ( 1V 3, 11-12 ). Vua Salômôn không chỉ là người khôn ngoan nhất thế gian, mà có thể nói rằng ông cũng là người hạnh phúc nhất thế gian này, bởi vì ông đã chiếm hữu được “kho báu” của Thiên Chúa. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết cầu xin những điều có lợi cho người khác để làm hài lòng Thiên Chúa, và như vậy, chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ được một phần khôn ngoan của Vua Salômôn.
Thánh Vịnh gia cũng đã thực sự khôn ngoan khi thân thưa: “Lạy Chúa, con đã nói: phần của con là tuân giữ lời Ngài” ( Tv 119, 57 ). Chúng ta phải noi gương này. Nếu vậy, chúng ta phải “coi trọng luật Chúa truyền ban hơn vàng muôn bạc triệu” ( Tv 119, 72 ). Đó là một dạng “từ bỏ mình” để theo Chúa, và như vậy là khôn ngoan. Nhưng điều đó không dễ thực hiện nếu chúng ta không “tự khó với chính mình”. Đồng thời, hãy tự cố gắng để có thể quyết tâm như “ông bụi đời” Gioan Tẩy Giả: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi – He must become greater, I must become less” ( Ga 3, 30 ).
Một quyết tâm rất khó: Hãy tự khó với chính mình ( nhưng không khó với người khác ), và khiêm nhường nài xin Thiên Chúa xót thương: “Xin Chúa lấy tình thương mà an ủi, theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài đây. Xin chạnh lòng thương cho con được sống, vì luật Ngài làm con vui sướng thoả thuê” ( Tv 119, 76-77 ). Có thể quyết tâm như vậy rồi chúng ta mới dám thân thưa: “Vì thế, mệnh lệnh Ngài, con yêu quý, quý hơn vàng, hơn cả vàng y. Vì thế, theo mọi huấn lệnh Ngài, con thẳng bước, lòng ghét mọi đường nẻo gian tà. Thánh ý Chúa kỳ diệu lắm thay, nên hồn con tuân giữ. Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường” ( Tv 119, 127-130 ). Tuyệt vời quá, lô-gích quá !
Khiêm nhường là điều Thiên Chúa muốn, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, tất nhiên Ngài không chỉ mong muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải sống khiêm nhường. Trong bài ca Ngợi Khen ( Magnificat ), Đức Maria đã xác định điều đó: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” ( Lc 1, 52 ).
Khiêm nhường là nhân đức nền tảng của tòa-nhà-nhân-đức, Cựu Ước cũng đề cao “viên đá góc tường” khiêm nhường và xác định: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay” ( Hc 10, 14 ). Ngôn Sứ Isaia cũng nói rõ: “Đức Chúa làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn, và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất” ( Is 23, 9 ). Và thật lạ thay, chính vua Nabucôđônôxo đã phải lên tiếng ca ngợi, tán dương và tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời công nhận mọi việc của Ngài là chân thật và đường lối của Ngài là công minh. Ông xác định: “Ngài có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách” ( Đn 4, 34 ).
Thánh Ý Thiên Chúa cao sâu và huyền nhiệm, quan phòng kỳ diệu, tiền định lạ lùng, chúng ta không thể nào hiểu thấu. Nhưng về ý định cứu độ của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” ( Rm 8, 28-29 ). Ôi, thật là tuyệt vời ! Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và thương xót, được giải thoát khỏi ách tội lỗi nhờ Máu Đức Kitô, được phục hồi cương vị làm con cái, lại còn được làm em của Chúa Giêsu nữa. Phàm ngôn không thể nào diễn tả đủ mức niềm hạnh phúc mà chúng ta đã và đang được tận hưởng !
Đưa ra một chuỗi hệ lụy liên kết với nhau theo tính lô-gích, Thánh Phaolô xác định: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” ( Rm 8, 30 ). Được “hưởng phúc vinh quang” tức là được vào Nước Trời, được vào Thiên Đàng, được hưởng phúc trường sinh. Mục đích của tín nhân là thế mà thôi !
Tuy nhiên, muốn vào Thiên Quốc hay không là quyền tự do riêng của mỗi người, Thiên Chúa không hề ép buộc bất kỳ ai, vì Ngài đã ban cho chúng ta quyền tự do trọn vẹn, và Ngài luôn tôn trọng quyền đó nơi mỗi chúng ta. Nhưng vì thương xót chúng ta, Ngài không thể bỏ mặc chúng ta, nên Ngài vẫn cảnh báo hoặc động viên chúng ta, vì Ngài muốn tất cả chúng ta được vào Nước Trời, chứ không muốn ai phải hư mất. Có lẽ vì tôn trọng tự do của chúng ta mà Chúa Giêsu thường sử dụng dụ ngôn và với cách nói: “Ai có tai thì nghe” ( Mt 11, 15; Mt 13, 9; Mt 13:, 43; Mc 4, 9; Mc 4, 23; Mc 7, 16; Lc 8, 8; Lc 14, 35 ). Như vậy, chúng ta cần phải thực sự tỉnh thức, tức là phải sống khôn ngoan, biết chọn lựa để có thể trở nên công dân vĩnh viễn của Thiên Quốc.
Khi đề cập Nước Trời, Chúa Giêsu đã đưa ra nhiều dụ ngôn để mô tả. Tin Mừng hôm nay gồm ba trong số các dụ ngôn đó: Kho Báu, Ngọc Quý, và Chiếc Lưới.
1. KHO BÁU ( Mt 13, 44 ) – dụ ngôn rất ngắn gọn: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy”. Chắc chắn dụ ngôn này không có gì khó hiểu. Tuy nhiên, “bán tất cả những gì mình có” hay không, đó là quyền chọn lựa riêng của mỗi người. Cái “khó” là can đảm và dứt khoát có “bán” hay không.
2. NGỌC QUÝ ( Mt 13, 45-46 ) – dụ ngôn cũng ngắn gọn: “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy”. Dụ ngôn này cũng không hề khó hiểu, tương tự dụ ngôn “kho báu”, nhưng lại cũng có cái khó, vì chúng ta có quyền tự do “bán tất cả những gì mình có” hay không, không ai có thể bắt buộc.
Trong cuộc sống đời thường, có lẽ đa số chúng ta không là triệu phú hoặc tỷ phú ( tính theo ngoại tệ, cụ thể là Mỹ kim, chứ nội tệ thì “tệ” lắm, ngày nay người Việt nào cũng chí ít là triệu phú, bởi vì tiền Việt là… “vô giá”, có lẽ phải gọi là Việt tệ ), nhưng dù nhiều hay ít thì tài sản riêng của ai cũng “lớn” lắm, không dễ gì dứt khoát từ bỏ. Tài sản đó không phải là vật chất, mà là cái Tôi, tính tự ái, lòng kiêu ngạo, thói sĩ diện, ... đặc biệt là “kho tàng” tội lỗi, bởi vì phạm tội cũng có cái “thú riêng”. Trái cấm bao giờ cũng hấp dẫn, ngọt ngào, mà “ăn vụng” mới ngon làm sao ! Bởi vậy, Chúa Giêsu đã nói chắc nịch: “Kho tàng của bạn ở đâu thì lòng bạn ở đó” ( Mt 6, 21; Lc 12, 34 ).
3. CHIẾC LƯỚI ( Mt 13, 47-50 ) – dụ ngôn dài hơn một chút: “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.
Riêng dụ ngôn thứ ba này có vẻ “nặng đô” hơn hai dụ ngôn kia, cũng rõ hơn và “mạnh” hơn. Dụ ngôn này tương tự dụ ngôn “Cỏ Lùng” ( Mt 13, 24-30 ). Tất nhiên không ngư dân nào lại để chung cá xấu với cá tốt, chắc chắn họ sẽ loại cá xấu ra. Cá xấu “bị vứt ra ngoài” thì thôi rồi, “amen tùm”. Bị vào nơi chỉ có lửa thì tha hồ mà “sưởi”, rồi tha hồ khóc lóc và nghiến răng cho… “đã”, giống như kiểu người ta nói đùa là “… và làm việc đền tội cho SƯỚNG. Amen”. Ở Hỏa Ngục thì “sướng” thật đấy ! Cứ tha hồ than thở suốt đời mà chẳng ai dỗ dành, an ủi, chẳng ai thương xót, hết đường thoát thân, Chúa cũng không cứu nổi, bởi vì đó là cách chọn lựa theo ý muốn tự do của chúng ta. Ôi, khủng khiếp quá chừng luôn !
Đây là điều chắc chắn: Hỏa Ngục là nơi có thật, thật hơn cả sự thật. Nhiều người phải sa Hỏa Ngục bởi vì họ chưa bao giờ tin Hỏa Ngục có thật, mặc dù đã nghe nói tới nhiều rồi ( x. Nhật Ký Thánh Faustina, số 741 ). Chúa Giêsu cũng đã mặc khải Hỏa Ngục cho vài vị Thánh được thị kiến. Chuyện thật chứ không đùa. Chưa đủ lòng mến để có thể ăn năn tội cách trọn thì chí ít cũng vì sợ mà ăn năn tội cách chẳng trọn. Chúa vẫn chấp nhận vì Ngài là Đấng “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” ( Ep 2, 4 ).
Sau khi nói xong ba dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các đệ tử: “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không ?” Họ cùng đáp: “Thưa hiểu”. Ngài kết luận: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” ( Mt 13, 52 ). Chúng ta đã nghe nói và biết nhiều về Nước Trời, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều, phần quyết định thuộc về mỗi người. Ước gì chúng ta đủ can đảm để “bán những gì mình có” để có được tấm “Visa Nước Trời” trong tay, như vậy thì an tâm, chỉ còn chờ “chuyến bay” mà thôi !
Nói về tình-trạng-được-cứu-độ, tức là điều kiện để “được vào Nước Trời”, Thánh Tiến sĩ Linh Mục Thomas Aquino ( 1225-1274 ) cho biết bí-quyết-sống: “Có ba điều cần để con người được cứu độ: biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì”. Tin, Muốn và Làm là ba động từ quan trọng, giống như một tam-giác-sống đối với đời sống tâm linh của mỗi Kitô hữu, đó cũng là điều kiện “ắt có và đủ” để khả dĩ trở nên “công dân Nước Trời” vậy.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin dạy con biết đường lối và thánh chỉ của Ngài, và xin giúp con can đảm tuân theo đến cùng; xin ban cho con ơn thông minh và khôn ngoan để sáng suốt chọn lưa những gì đúng ý Ngài; xin dẫn con đi trên đường ngay nẻo chính của Ngài, nếu không có Ngài thì con chẳng làm được gì ( Ga 15, 5 ); xin hướng lòng con nghiêng về Thánh Ý, không ngả theo danh lợi phù vân; xin giúp con biết “khao khát huấn lệnh Ngài” để con “được hưởng tình thương và Ơn Cứu Độ theo lời hứa của Ngài” ( Tv 119, 41 ). Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
-------------------------------
TN 17-A127: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chủ đề chính của Lời Chúa hôm nay đề cập tới sự khôn ngoan: Khôn ngoan của vua Sa-lô-mon TN 17-A127
Chủ đề chính của Lời Chúa hôm nay đề cập tới sự khôn ngoan: Khôn ngoan của vua Sa-lô-mon, khôn ngoan của người đi tìm kho báu và khôn ngoan của người đi tìm viên ngọc quí. Qua đó, Đức Giêsu muốn chúng ta dùng sự khôn ngoan Chúa ban để tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Bài đọc 1, kể lại câu chuyện của vua Sa-lô-môn. Ông được lên kế vị vua cha khi tuổi còn non trẻ. Ông đã cầu nguyện xin Thiên Chúa trợ giúp. Ông không xin cho được sống lâu, giàu có của cải, mạng sống quân thù, nhưng ông đã xin Thiên Chúa ban cho ông sự khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và để phân biệt lành dữ. Thiên Chúa đã nhận lời và ban cho ông sự khôn ngoan như lời ông xin, đến nỗi trước ông không có ai giống ông, và sau ông không có ai bằng ông. Sách các vua khẳng định: “Sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn trổi vượt hơn sự khôn ngoan của tất cả mọi người Phương Đông và hơn tất cả sự khôn ngoan của Ai-cập”(x. 1V 5, 10).
Bằng chứng của sự khôn ngoan đó được thể hiện rõ qua câu chuyện xử kiện sau đây: Có hai người đàn bà tới tìm Sa-lô-môn nhờ giải quyết một chuyện khó xử. Một người trong họ giải thích: “Bà này với tôi sống chung một nhà. Tôi sinh được một con trai, và hai ngày sau bà này cũng sinh được một con trai. Rồi một đêm nọ con bà chết. Nhưng khi tôi đang ngủ bà bồng đứa con chết bỏ xuống bên cạnh tôi và bồng con tôi đi. Khi tôi thức dậy và nhìn đứa con chết thì thấy nó không phải là con tôi.”
Nghe tới đây người đàn bà kia nói: “Không phải vậy! Đứa con sống là con tôi, và đứa chết là con bà ấy!” Người đàn bà thứ nhất đáp: “Không phải vậy! Đứa con chết là con bà, đứa sống là con tôi!” Hai người đàn bà cứ cãi nhau như vậy. Sa-lô-môn sẽ làm gì đây?
Ông bảo đem lại một thanh gươm, và khi người ta đem gươm lại thì ông nói: “Hãy xẻ đứa bé sống này ra làm hai, và giao cho mỗi bà một nửa!”
Người mẹ thật la lên: “Khoan, khoan! Xin đừng giết đứa nhỏ. Hãy giao nó cho bà kia!” Nhưng người đàn bà kia nói: “Đừng giao nó cho bà này hay tôi gì cả; cứ việc xẻ nó ra làm hai đi.”
Cuối cùng Sa-lô-môn nói: “Chớ giết đứa bé! Hãy giao nó cho bà thứ nhất. Bà ấy mới là mẹ thật của nó.” Sa-lô-môn biết được điều này vì người mẹ thật yêu đứa bé đến nỗi sẵn sàng nhường nó lại cho người đàn bà kia miễn là nó được sống. Khi dân chúng nghe thấy cách Sa-lô-môn phân giải vụ khó xử này, họ rất vui mừng vì có được một vị vua khôn ngoan như thế. (x. 1V 3, 16-28).
Câu chuyện xử kiện trên đây cũng như cách xử sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn được đồn đi rất xa, nên từ mọi dân tộc, thiên hạ kéo tới học hỏi sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn (x. 1V 5,14), trong đó có nữ hoàng Sơ-va (x.1V10,1-13). Nhưng sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn cũng chỉ được một thời. Cuối đời, ông đã sống thiếu khôn ngoan. Ông theo các bà vợ ngoại giáo, ngã theo các thần dân ngoại, không còn chung thủy với Thiên Chúa như phụ vương Đa-vít nữa (x. 1V 11,1-8).
Bài Tin mừng hôm nay kể lại ba dụ ngôn: dụ ngôn chiếc lưới có nội dung tương tự như dụ ngôn cỏ lùng mà chúng ta đã tìm hiểu Chúa nhật tuần trước.
Hai dụ ngôn kho báu và ngọc quý có nội dung tương tự như nhau: Khi tìm được, cả hai về bán tất cả những gì mình có để mua cho được kho báu hay viên ngọc quý đó. Đây là thái độ bình thường của người khôn ngoan theo lẽ tự nhiên. Vì xác định được rằng: có được kho báu hay viên ngọc quý sẽ có niềm vui và hạnh phúc, cho nên cả hai người đều quyết định bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được kho báu hay viên ngọc quý đó.
Thế nhưng cho dù có chiếm được kho báu và viên ngọc quý thì chúng cũng chỉ là phương tiện để phục vụ con người, làm cho con người vui hưởng hạnh phúc trong một thời gian nào đó mà thôi. Vì thế, điều mà Đức Giêsu muốn chúng ta nhắm tới không phải là sự khôn ngoan tự nhiên, cũng không phải là ở nơi kho báu hay viên ngọc quý nhưng là một cái gì đó cao cả và bền vững hơn. Đó chính là Nước Trời. Bởi vì, chỉ có Nước Trời mới thỏa mãn mọi khát vọng của con người. Chỉ có Nước Trời mới đem lại cho chúng ta hạnh phúc trường cửu. Như vậy, Nước Trời chính là thứ quý giá nhất không có gì có thể đổi chác được. Cho dù chúng ta có tất cả mọi thứ trên đời này thì cũng không thể đổi được Nước Trời. Và nếu có được mọi sự ở đời này mà không có Nước Trời thì cũng bằng không. Đức Giêsu đã từng nói: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì”(Mt 16,26). Chính vì thế, khi biết được Đức Giêsu, biết được Nước Trời, Thánh Phaolô đã chấp nhận mất tất cả mọi thứ ở đời này để giữ lấy cho được Đức Giêsu, giữ lấy cho được Nước Trời. Trong thư Philiphê, Ngài nói: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (x. Pl 3,8-9).
Vì Nước Trời quan trọng như vậy, nên Đức Giêsu mời gọi chúng ta: “Trước tiên hãy lo tìm nước trời rồi mọi sự Ngài sẽ lo cho sau” (Mt 6,33). Cho nên, bổn phận trước tiên của mỗi người kitô hữu chúng ta là phải lo tìm kiếm Nước Trời, phải chiếm cho được Nước Trời. Nhưng làm thế nào để chiếm được Nước Trời? Chính Đức Giêsu đã nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). “Ý muốn của Cha Thầy” ở đây chính là “Lời của Ngài”. Lời của Chúa chứa đựng trong cuốn Kinh Thánh, nhất là những Giáo huấn của Đức Giêsu được thể hiện qua Tin mừng, qua Mười điều răn, qua giáo huấn của Hội Thánh. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thực hiện ý muốn của Chúa qua tiếng nói lương tâm.
Đức Giêsu còn nói: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.”(x. Mt 11,12). Đó là sức mạnh của Tình yêu: Yêu Chúa – yêu người. Yêu Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự. Yêu người như chính mình ta vậy. Đó là sức mạnh của sự từ bỏ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24): Từ bỏ tội lỗi và những đam mê xác thịt; Từ bỏ những khuynh hướng xấu; Từ bỏ những tham, sân, si; Có khi phải từ bỏ cả danh vọng, người thân và của cải mình có… nếu như Nước Trời đòi buộc. Đức Giêsu mời gọi chàng thanh niên đến xin Ngài “phải làm gì để được sự sống đời đời” rằng: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22). Nhưng chàng thanh niên đã không chấp nhận lời mời gọi của Đức Giêsu, anh ta đã “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,22). Như vậy, của cải đã cản lối chàng thanh niên đến với Đức Giêsu.
Thái độ của chúng ta thì sao? Chúng ta có “dùng sức mạnh” để chiếm cho được Nước Trời không? Chúng ta có từ bỏ mọi sự để mua lấy Nước Trời không? Hay chúng ta vẫn để cho chức quyền, danh vọng, của cải và những thứ ở đời này níu kéo, giam hãm và cản bước chúng ta đến với Chúa, đến với Nước Trời?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan: không phải là thứ khôn ngoan theo tính xác thịt, cũng không phải sự khôn ngoan theo tính tự nhiên, mà là sự khôn ngoan siêu nhiên, sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa. Bởi vì, khi có sự khôn ngoan của Chúa, chúng con mới có thể chọn lựa những điều tốt, loại bỏ những những điều xấu, và khi có sự khôn ngoan của Chúa chúng con sẽ biết qui hướng tất cả mọi sự về cùng đích của cuộc đời là chính Chúa. Khi có sự khôn ngoan của Chúa, chúng con sẽ biết từ bỏ mọi sự để dành cho được Nước Trời. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Có nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, nhưng thật sự Thiên Chúa vẫn đang TN 17-A128
Có nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, nhưng thật sự Thiên Chúa vẫn đang tác động nơi lòng mỗi người mỗi ngày. Mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương và dạy dỗ từng giây phút trong cuộc sống.
1. Thiên Chúa lắng nghe con người cầu nguyện
Bài đọc trong sách các Vua quyển thứ nhất hôm nay cho thấy vua Salômôn cầu nguyện, và đã được Thiên Chúa nhận lời. Salômôn đã không xin sống lâu, không xin vàng bạc châu báu, nhưng xin cho được sự khôn ngoan để xét xử dân Ngài.
Đức Yêsu nói: “hãy xin thì sẽ được, tìm thì gặp, gõ cửa thì được mở cho.“ “Nếu người phàm còn biết cho con cái mình những điều tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa không khứng ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin với Ngài sao!” Qua Đức Yêsu người ta nhận biết, Thiên Chúa luôn ban cho những người cầu xin với Ngài điều quý hơn cả điều người ta cầu xin nữa, đó là Thánh Thần Thiên Chúa.
Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, của Kitô-hữu, của người Công Giáo, nhưng còn là Thiên Chúa của cả những người không nhận biết Ngài nữa. Thiên Chúa như người Cha tốt lành, sẵn sàng cho con cái những điều tốt lành người con ao ước cả khi người con chưa xin hoặc không xin nữa; và điều này rất đúng đối với những người ngoại chưa biết Ngài là Cha để cầu xin.
2. Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma dạy rằng, tất cả đều tốt cho những người yêu mến Thiên Chúa. “Với những kẻ Ngài biết trước, Ngài tiền định cho họ được đồng hình đồng dạng với Con Ngài. Với những kẻ Ngài tiền định, thì Ngài kêu gọi họ, công chính hóa, và rồi tôn vinh họ.” Có một số người cho rằng, những ai Thiên Chúa đã tiền định được cứu độ, thì thế nào cũng được cứu độ nên không cần phải làm gì cả; còn với ai bị tiền định để sa hoả ngục, thì đàng nào cũng sa hoả ngục, có cố gắng đến đâu cũng vậy thôi.
Thật sự, chữ tiền định ở đây không có nghĩa Thiên Chúa định trước ai phải sa hoả ngục hoặc ai được lên thiên đàng, nhưng là “Thiên Chúa biết trước.” “Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa tạo dựng mỗi người và Ngài đã không hỏi ý kiến họ vì lúc đó họ chưa hiện hữu, nhưng Thiên Chúa “không thể” cứu độ ai nếu người đó không đồng ý. Sống ngay lành hay gian ác, được cứu độ hay không, có sống hạnh phúc từng ngày hay không, tùy thuộc mỗi người quyết định.
Thiên Chúa vẫn nói với con người, ngay nơi lương tâm mỗi người. Mỗi người được mời gọi để làm điều tốt lành và tránh điều gian ác qua lương tâm mình, và ai cũng phải vâng lời lương tâm, dù người đó là Kitô-hữu hay không. “Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 8.16). Yêu thương tha nhân là dấu chỉ để biết một người có là môn đệ của Đức Yêsu, có là con cái của Thiên Chúa hay không. Nếu một người không nhận biết Thiên Chúa bằng tuyên xưng ngoài miệng hay qua việc thuộc về một tôn giáo, mà họ sống yêu thương thì họ đã là con cái Thiên Chúa cho dù họ không nhận biết điều đó. Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi họ, cho dù họ không nhận biết Ngài. Mỗi người trước khi trở lại và theo đạo, cũng được Thiên Chúa hiện diện và tác động cho dù lúc đó họ chưa được rửa tội.
3. Nước Trời giống như một kho tàng
Nước Trời giống như một kho tàng, giống như người lái buôn đi tìm ngọc qúy, tìm được thì đem bán tất cả những gì mình có để mua được; Nước Trời cũng giống như một cái lưới thả xuống biển bắt được nhiều loại cá… Như vậy, Nước Trời là cái gì rất qúy mà người ta phải ao ước, phải tìm kiếm, phải đánh đổi để được nó.
Phúc cho những kẻ nghèo, vì Nước Trời là của họ. Mỗi một nước, một quốc gia đều có cư dân, đều có một ranh giới, một luật lệ, một chính quyền. Nước Trời là vương quốc có luật lệ là tình yêu, Thiên Chúa là thủ lãnh tối cao, và cư dân là những người tôn thờ Thiên Chúa và sống trong tương quan tình yêu với tha nhân. Nước Trời cũng được hiểu như một trạng thái sống hạnh phúc mà mọi người phải ao ước. Nước Trời gồm những người chọn Thiên Chúa trên tất cả, và đối xử với người khác trong yêu thương.
Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, qua Thánh Thần của Đức Yêsu, nơi những con người đang sống. Nếu mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để Lời Chúa là tiêu chuẩn sống của mình, thì họ sẽ cố gắng sống yêu thương, và như vậy Thiên Chúa là chủ đời họ, và họ sống hạnh phúc. Để được như vậy, họ cũng phải hy sinh, và gần như phải đánh đổi tất cả để được Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, để làm mỗi người thuộc về Nước Trời, thuộc về Vương Quốc của Ngài, thuộc về Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin rằng Thiên Chúa luôn để ý đến bạn, và luôn tác động nơi lòng bạn không? Bạn được gì và mất gì khi xác tín điều này?
2. Bạn thường cầu xin điều gì nhất? Điều đó có thật sự quan trọng không? Bạn có được nhậm lời không? Thái độ của bạn sau đó thế nào?
3. Bạn có tin rằng nếu bạn sống “yêu thương” mọi người, bạn sẽ được yêu thương và qúy trọng không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.
-------------------------------
Chủ đề: Thiên Chúa luôn ban những sự tốt lành cho chúng ta "Nước Trời giống như kho báu giấu TN 17-A129
Chủ đề: Thiên Chúa luôn ban những sự tốt lành cho chúng ta
"Nước Trời giống như kho báu giấu trong ruộng" (Mt 13,44)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hằng ngày, hằng phút, hằng giây chúng ta sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không ý thức điều đó, cho nên nhiều khi chúng ta bi quan chán nản, và mặt khác chúng ta không đáp lại tấm lòng của Chúa.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy nhớ đến những ơn lành Chúa đã ban, và khơi lên trong lòng mình những tâm tình cảm mến và biết ơn Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta ít suy gẫm về tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Chúng ta ít biết ơn Chúa mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn từ bàn tay rộng rãi của Ngài.
Ơn quý trọng nhất mà Chúa ban cho ta là Nước Trời. Nhưng xem ra chúng ta không coi trọng ơn này.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1V 3,5.7-12)
Salomon lên ngôi vua kế vị Ðavít. Salomon biết mình còn trẻ nên thiếu khả năng. Ông cũng biết rằng trách nhiệm rất nặng nề. Ông còn ý thức rằng vương quyền của ông là do Thiên Chúa ban, để phục vụ cho dân của Chúa. Bởi vậy khi Thiên Chúa bảo ông muốn xin bất cứ điều gì thì Ngài sẵn sàng ban cho, Salomon chỉ xin một điều duy nhất, đó là được khôn ngoan. Thiên Chúa rất hài lòng về lời xin đó, nên đáp lại Ngài chẳng những ban cho ông được khôn ngoan, mà còn nhiều ơn khác nữa.
2. Ðáp ca (Tv 118)
Thánh vịnh này cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban Luật cho dân Ngài. Tác giả rất đề cao Luật Chúa:
Luật pháp Chúa quý hơn vàng bạc châu báu
Luật pháp Chúa là nguồn vui sướng
Luật pháp Chúa là phần gia nghiệp
3. Tin Mừng (Mt 13,44-52)
Ðoạn Tin Mừng này gồm 3 dụ ngôn:
Hai dụ ngôn đầu (kho báu dấu trong ruộng và viên ngọc quý) dạy rằng Nước Trời là thứ quý giá nhất, đáng cho người ta bán mọi thứ để đổi lấy.
Dụ ngôn thứ ba (mẻ lưới gồm nhiều thứ cá) mang cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng (Tin Mừng tuần vừa qua): Hiện tại trong Nước Trời có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Nhưng đến ngày tận thế thì sẽ có sự lọc lựa: kẻ tốt sẽ được thưởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt.
4. Bài đọc II (Rm 8,28-30)
Thánh Phaolô nói đến tình thương Thiên Chúa đối với kẻ mến yêu Ngài:
Ngài giúp họ được sự lành
Ngài kêu gọi họ nên thánh
Ngài tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con của Ngài.
Ngài kêu gọi họ và sẽ ban cho họ được vinh quang.
IV. Gợi ý giảng
1. Thương thì cho
Thương thì cho: thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.
Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển. Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu, nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.
Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình.
Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho.
Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất, có ích cho chúng ta nhất. Ðó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết: sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.
2. Ơn khôn ngoan
Bài đọc 1 khiến chúng ta nhớ lại những chuyện về những lời ước: một vị thần tiên cho hai vợ chồng nghèo 3 điều ước. Chồng ước một thứ, vợ ước một thứ ngược lại, cuối cùng họ đã sử dụng hết 3 điều ước nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo.
Chuyện vua Salomon cũng thuộc loại đó, nhưng ý nghĩa lại rất khác. Vua Salomon xem ra "dại" nhưng thực ra là quá "khôn". Chúa đã bảo ông: "Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Ông dại quá, không xin giàu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh... mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên thực ra ông quá khôn, bởi vì khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác: nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giàu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giàu mạnh... và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.
Khôn ngoan là gì? Thưa là nhận biết cái gì là đúng cái gì là sai, cái gì là chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bền vững cái gì là chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: "Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan"
Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không:
Nhiều người ham tiền. Ðối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này... Vậy, người suốt đời lo kiến tiền và chạy theo tiền là người dại.
Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi Danh có bền vững mãi không? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng... Cho nên hám danh cũng là dại.
Nhiều người mê tình: tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.
Một câu chuyện: Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đường. (Trích "Phúc")
3. Bỏ để được
Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn.
Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Ðương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.
Qua bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời. Tiền bạc của cái mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.
Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?
4. Chuyện minh họa
a/ Tìm lại được kho báu của mình
Một viên chức kia luôn cố gắng vươn lên ngày càng cao trên chiếc thang danh vọng, vì thế mà ông bỏ hết thời giờ và công sức vào việc tạo dựng sự nghiệp, chẳng còn thời giờ chăm sóc vợ con, cũng chẳng có giờ để giải trí. Nhìn cách sống của ông, ai cũng biết kho báu mà ông tìm nằm ở đâu.
Thế rồi ông bị một cơn đau tim quật ngã, phải vào bệnh viện, nằm ở đấy nhiều ngày trong tình trạng hôn mê. Trong những cơn mê, ông thấy lại cuộc sống của mình, những công việc của mình và những người mình gặp gỡ. Và ông cảm thấy mọi sự, mọi người đều như xa lạ quá. Cảm giác ấy khiến ông rất cô đơn và chán nản. Một ngày kia ông bắt đầu tỉnh lại, ông thấy một số khuôn mặt mờ mờ hiện ra trước mắt. Một lúc sau nhìn rõ hơn thì đó là những khuôn mặt của vợ con ông, những người duy nhất ngày đêm túc trực bên giường bệnh của ông, trong khi các bạn bè đồng nghiệp đều biến đâu mất hết.
Biến cố ấy đảo ngược lại mọi giá trị đời ông. Nó giúp ông hiểu rằng gia đình chính là mục tiêu ông phải nhắm tới và cũng chính là kho báu của đời ông.
b/ Kho tàng chôn dưới đất
Một anh thợ may nằm mơ gặp một vị thần cho biết là có một kho báu chôn dưới đất trong sân của hoàng cung. Anh liền lên đường tìm đến hoàng cung. Tuy nhiên anh không vào được vì ở đó lính gác đông quá. Nhưng anh không bỏ cuộc. Anh nán lại đấy nhiều ngày và tìm cách kết thân với vị chỉ huy. Khi đã thân thiết với nhau rồi, anh thành thật bày tỏ ý định của mình là vào hoàng cung đào lấy kho báu. Anh đề nghị vị chỉ huy hợp tác và hứa sẽ chia đôi.
Vị chỉ huy nghe xong phì cười và cũng chia xẻ lại: Tôi cũng vừa có một giấc mơ, trong đó tôi cũng thấy một vị thần cho biết là có một kho báu đang chôn trong sân nhà của một người thợ may giống hệt như anh vậy.
Nghe xong, người thợ may vội vàng trở về nhà và đào bới mảnh đất sau vườn. Quả thật ở đó có một kho vàng.
Lời bàn: Kho báu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim người đó.
c/ Kho tàng bị quên lãng
Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng, và dĩ nhiên phải gọi bác sĩ đến. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh. Nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một bức tranh để tặng. Tuy nhiên ông bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông lấy nó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng mục nát.
Về sau, người ta tìm thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức không ai tìm lại được. Ðó chính là bức tranh nhà danh họa đích thân vẽ tặng cho vị bác sĩ nọ.
Lời bàn: Thiên Chúa cũng tặng cho mỗi người chúng ta một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Ðừng để nó bị tàn phai hủy hoại như bức tranh kia.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Nước Trời quả là một kho tàng vô giá, một viên ngọc quý báu mà bất cứ người khôn ngoan nào cũng đều nhất quyết chiếm cho bằng được. Với ước mong chiếm hữu được Nước Trời, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Chúa đã trao phó cho Ðức Thánh Cha nhiệm vụ săn sóc Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Người được lòng tin mạnh mẽ / lòng trông cậy vững vàng / và lòng yêu mến thiết tha.
2. Xưa Chúa đã lưu lạc nơi đất khách quê người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa an ủi đỡ nâng / những kẻ đang phải sống xa gia đình / xa quê hương yêu dấu của mình.
3. Giáo lý của Chúa thật quý báu và cần thiết biết bao / cho đời sống đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chuyên cần học hỏi giáo lý của Chúa / để nhờ đó mà hiểu biết yêu mến Chúa nhiều hơn.
4. Muốn được vào Nước Trời / người tín hữu phải từ bỏ những gì không phù hợp với lề luật Chúa / chấp nhận hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chọn con đường hẹp là con đường dẫn đến cõi trường sinh.
CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con được phúc làm con Chúa, được Hội Thánh là mẹ chăm sóc, được Tin Mừng Chúa hướng dẫn trong cuộc sống thường ngày. Xin cho cuộc đời chúng con là một lời cảm tạ Chúa không ngừng. Chúng con cầu xin nhờ...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã hứa "Hãy xin thì sẽ được". Ngài còn dạy chúng ta những điều tốt nhất cần phải xin trong Kinh Lạy Cha. Trong tâm tình con thảo, chúng ta hãy sốt sắng xin những điều ấy trong lời kinh sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta sung sướng biết mình đang sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chớ gì tâm tình này luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta suốt cả tuần này.
-------------------------------
TN 17-A130: Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con TN 17-A130
Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.
Chúng ta có thể dựa vào lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: xin ban cho con “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi người Kitô hữu phải đạt cho bằng được.
1V 3: 5, 7-12
Để có đủ sức cai trị dân Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn cầu Thiên Chúa cho ông có được “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái”.
Rm 8: 28-30
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho những ai yêu mến Ngài.
Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu cho bằng được Nước Trời.
BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12
Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”, như chính ông thân thưa với Chúa về mình trong lời cầu nguyện của ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi mười hai.
1. Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:
Vua đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một giấc mộng.
Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy trong thời các tổ phụ như tổ phục Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng cho chúng ta ghi nhận rằng cách thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong các sách khải huyền vào những thế kỷ muộn thời hơn.
2. Lời khẩn nguyện của vua Sa-lô-mon:
Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi. Vua không cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu sang hay được quyền lực, nhưng “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để vua có đủ sức cai trị dân Ngài, “một dân đông đúc, không kể xiết, cũng không đếm nổi”.
Như người cày thuê gặp được kho báu trong ruộng hay một thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa đã nhận lời cầu xin của vua, vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua không xin sự giàu sang phú quý, hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho vua những điều đó.
3. Tính chất thần học của chuyện tích:
Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua đã tra cứu những tài liệu và đã thu thập những truyền thống miệng, suốt thời gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.
Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu không muốn tôn một người trần thế lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng để thể chế quân chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là vị quân vương phải nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài”. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.
Thứ nữa, tước vị con vua Đa-vít cao quý được ban tặng cho vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang của vua hiển nhiên là lời đáp trả của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều đại của vua này, cầm tay vị vua bé nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại lịch sử này, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử Thánh.
BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30
Đoạn văn này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về tình yêu của Thiên Chúa. Đây là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy luận thần học về tiền định.
1. Vấn đề:
Phải hiểu những lời này của thánh Phaolô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con của Người, để Đức Kitô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?
Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn văn này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phaolô lấy lại sự phát triển của mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và trên sự vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ ngữ “ý định” (prothesis) luôn luôn được thánh Phaolô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người, có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không có bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định phải chịu kết án cả.
2. Tình yêu của Thiên Chúa:
Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho họ”. Ơn ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời hiện tại. Từ ngữ “mọi sự”, đối lập với “ơn ích”, chỉ những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.
Ngay cả khái niệm yêu mến ở nơi những lời: “Những ai Người đã biết từ trước” luôn luôn có một âm vang của việc tuyển chọn phát xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời gian, Ngài phân định những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.
3. Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:
Một lần nữa, thánh Phaolô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Kitô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Kitô, con người được “phục hồi hình ảnh và họa ảnh nguyên thủy” của mình.
Tiếp đó, thánh Phaolô trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ đức tin, ơn công chính hóa và vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phaolô đặt vinh quang tương lai ở thì quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Về việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này, chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức Giêsu nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11: 24).
Vì thế, theo thánh Phaolô, nếu có tiền định, thì không gì khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang, đó là cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.
TIN MỪNG Mt 13: 44-52
Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài về các dụ ngôn của Đức Giêsu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.
1. Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý:
Hai dụ ngôn này được biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến việc loan báo Nước Trời và sự phát triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu là thể văn “miêu tả”. Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là những “lời khuyến dụ” được gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn trương và quyết liệt, nhằm biến đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Kitô là ngay tức khắc, không thể nào chần chừ được nữa. Vì thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể hiểu. Với sự hiện diện của Đức Kitô, Nước Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.
2. Dụ ngôn chiếc lưới:
Dụ ngôn chiếc lưới mô tả rất thực nghề đánh cá. Đây cũng là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại những kỷ niệm xưa kia của mình khi họ còn là những ngư phủ trên biển hồ Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo những hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất để chọn lựa cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo giống chờ đợi mùa gặt để thu những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và Giáo Hội nối tiếp bước chân của các ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong phần kết của dụ ngôn này, số phận dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những ngôn từ như trong phần kết dụ ngôn cỏ lùng.
Để kết luận, thánh Mátthêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Vì có được một kiến thức Kinh Thánh rất phong phú, người kinh sư biết giá trị của những thiện hảo mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng Mátthêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.
-------------------------------
Khi người ta nghe vùng nào có vàng, ngưới ta tấp nập tới tìm vàng, bất chấp mọi sự, liều cả TN 17-A131
Khi người ta nghe vùng nào có vàng, ngưới ta tấp nập tới tìm vàng, bất chấp mọi sự, liều cả mạng sống. Chúng tôi đã thấy những người đi tìm vàng ở Kampuchia, trong rừng sâu. Họ trở về mang theo cơn sốt rét rừng và sau đó họ chết. Nhưng người nầy chết, người khác tiếp tục.
Con người là thế.
Nghe ở đâu có nguồn lợi là đổ xô đi tìm, tranh nhau giành giựt, nhiều khi đánh nhau đổ máu.
Tranh nhau để tìm một nguồn lợi vật chất, nhiều khi cũng chưa chắc là có, người ta cũng không nệ công khổ.
Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta biết một kho tàng quí báu hơn, quí nhứt trên đời, và có thật, nhưng không mấy ai lưu ý: đó là Nước Trời.
Đa số người công giáo, tuy tin có thiên đàng, hỏa ngục, nhưng đó chỉ là những hình ảnh mờ nhạt, không tác động vào tư tưởng và cuộc sống. Đa số không sợ hỏa ngục cũng không ham thiên đàng. Chúng ta chỉ chú trọng đến những gì trước mắt, những gì thấy được, những gì có lợi hôm nay mà quên rằng thế giới vật chất này sẽ qua đi, tan biến thành tro bụi. Những trận động đất tàn phá cả một vùng rộng lớn, cũng không cho họ thấy được thế giới vật chất nầy chỉ là tro bụi.
Chúng ta quên rằng thế giới vô hình, dù không thấy được, không nắm được trong lòng bàn tay, vẫn vững chắc hơn thế giới vật chất. Chúng ta là người công giáo phải là chuyên viên của thế giới vô hình, thế giới thiêng liêng.
Chúng ta chưa khám phá được “kho tàng Nước Trời”. Chúa Giê-su nói rõ: “Người nào tìm được kho báu chôn trong thửa đất…”
Kho báu Nước Trời nầy được chôn giấu chứ không dễ tìm. Chúng ta biết có một kho báu đang được chôn giấu trong thửa đất nhân loại nầy. Chính Chúa Giê-su đến trong trần gian đã nói rõ như thế. Nhưng chúng ta có cố công đi tìm như người ta đi tìm vàng không? Và tìm như thế nào? Với tất cả cố gắng và khả năng, hay chỉ lơ là, mong chờ may mắn như chờ trúng số độc đắc thôi sao? Nếu như thế thì muôn đời chúng ta cũng không thể tìm được. Chỉ là mơ mộng thôi.
Kho báu, không phải là một cái gì vật chất mà là chính Chúa Giê-su, Chúa chúng ta.
Không có gì quí hơn Chúa chúng ta, vì Ngài là Tình Yêu, tình yêu hy sinh đến liều mạng, đến tận cùng.
Kho tàng tình yêu đó được dành cho chúng ta. Chúng ta hãy tìm kiếm kho tàng tuyệt vời ấy.
“Ai tìm sẽ gặp”. Chúa đã nói như thế.
Tìm ở đâu?
Nơi thửa đất Tin Mừng.
Chúa Giê-su là Lời, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Tìm nơi lời giảng dạy của Ngài. Lời đây không phải là những chữ viết trên giấy, mà chính là những lời chứa đựng trong tiếng nói, hành động của Ngài, mang lấy tất cả tình yêu của Ngài. Ngài là Ngôi Lời nhập thể. Ngài là Lời vô hình đã trở thành xác thịt. Mỗi hành động của Ngài đều mang một ý nghĩa.
Sinh ra trong hang đá, nghèo hèn, bị bỏ rơi, phải chăng đó là một hoàn cảnh ngẫu nhiên? Đó là một lời nói không âm thanh nhưng hết sức rõ rệt.
Chết trên thập giá. Phải chăng chỉ là thất bại của một con người bị lên án tử hình vì đã tuyên bố mình là Con Thiên Chúa, con người phạm thượng bị lên án?
Đó là tình yêu, là kho tàng tình yêu cho mọi thế hệ…
Hãy tìm và không thôi đi tìm. Chúng ta sẽ khám phá ra “sự phong phú khôn lường của Thiên Chúa.” Thánh Phao-lô đã chẳng nói; “Giữa anh em, tôi không muốn gì khác ngoài Chúa Giê-su Ki-tô, và là Chúa Ki-tô chịu đóng đinh thập giá!”
Thánh nhân đã tìm được kho tàng muôn thuở.
Thánh Phan-xi-cô nghèo thành Atsidi đã tìm được Chúa Giê-su nghèo.
Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã tìm được Chúa Giê-su Tình Yêu. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta đã tìm được Chúa Giê-su bị bỏ rơi nơi hè phố Calcutta.
Dụ ngôn nói rõ: “Tìm được kho báu, người ấy vui mừng, về bán cả gia sản để mua thửa đất ấy”.
Chúng ta hãy cố gắng tìm kiếm. Thành công đang chờ đợi chúng ta bên kia những cố gắng hằng ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ được niềm vui mà thế gian không thể có được.
Chúa Giê-su không bao giờ làm chúng ta thất vọng. Chúng ta thiếu một điều: “Hãy về bán hết của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến đây theo Ta”.Chúng ta thiếu một điều, một điều cực kỳ quan trọng. Chúng ta không dám liều, không dám chọn “kho báu Nước Trời” vì chúng ta sợ mất của cải trần gian. Và đó là “nỗi buồn vô tận” của chúng ta, vì chúng ta còn quá nhiều bám víu trần gian.
Các thánh, tất cả các thánh đều dám liều… buông bỏ tất cả.
Tại sao cá thánh tử đạo dám đưa đầu cho người ta chém? Dám chịu đựng ngục tù, hình khổ và chết thê thảm? Tại sao trong thế giới hôm nay đấy hấp dẫn và giàu sang, vẫn có những người buông bỏ tất cả để săn sóc những người phong cùi, những người bệnh Aids, những người bị thế gian bỏ rơi? Tại sao? Sức mạnh nào đã đưa họ tới những con đường lạ lùng đó?
Tất cả chỉ vì Giê-su. Họ đã tìm được kho báu độc nhất của đời họ. Đối vớ họ. Giê-su là tất cả. Họ cho không cuộc đời trong hân hoan, không nhăn nhó.
Thánh Phan-xi-cô khó nghèo đã tràn vui khi nhìn mặt trời và ca lên bài ca tán tụng. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta đã vui tươi khi ôm các trẻ em phong cùi trong vòng tay âu yếm của Mẹ.
Tất cả trở thành niềm vui ca ngợi cho những ai đã buông bỏ tất cả, để chỉ còn tay không để ôm ấp kho báu tuyệt vời là Giê-su.
Chúa Giê-su đã cho đi đến tận cùng. Những người đã tìm được Ngài cũng cho đi đến nỗi không còn gì để cho.
Niềm vui dâng hiến đó, thế gian nào biết được!
Kho báu của chúng ta là Giê-su bất tận!
Phải, đời chỉ vui khi đời được dâng hiến trọng vẹn.
Chúa Giê-su nơi bàn thánh hôm nay, chính là kho báu, là “viên ngọc quí” được chôn vùi trong tấm bánh yêu thương.
Chúng ta chờ đợi gì khi Ngài đến mang cho chúng ta niềm vui bất tận của Ngài?
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhìn vào bên trong để khám phá ra cái được cất giấu TN 17-A132
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhìn vào bên trong để khám phá ra cái được cất giấu là Nước Trời: "Nước trời giống như kho báu chôn giấu trong ruộng" (Mt 13,44). Nói đến kho báu là chúng ta nói đến một cái gì đó có giá trị đặc biệt. Kho báu mà Chúa Giêsu nói đây được chôn giấu kỹ lưỡng trong tâm hồn của chúng ta, nơi sâu thẳm của mỗi người. Kho báu đó chính là Nước Trời. Nước Trời thôi thúc chúng ta vui vẻ đi tìm kiếm Nguồn Nước Hằng Sống, Chân, Thiện, Mỹ, và khi đã tìm thấy thì người ta vứt bỏ tất cả những gì là không cần thiết để có bằng được kho báu.
Có một số người như thánh Phaolô, và thậm trí ngay cả amh Trộm Lành cũng tìm thấy Nước Trời ngay lập tức, không cần phải suy nghĩ khi đối diện với Nước Trời, vì đường lối của Chúa là vô cùng vô hạn, nhưng để có được kho báu bí mật này, người ta phải cất công đi tìm kiếm: "Nước trời giống như người buôn nọ đi đi ngọc quí" (Mt 13,45). Những người tìm thấy kho báu được chôn giấu ấy có thể là vì họ không bằng lòng với cái vắn vỏi ở đời này.
Theo dòng thời gian, chúng ta đang nói về những người lo lắng hay quá tham vọng ở đời, nhưng trong thế giới thiêng liêng họ là những người lành thánh. Bằng chứng là họ không ngần ngại bán tất cả những gì mình có để mua cho bằng được thửa ruộng, nói theo kiểu thánh Gioan Thánh Giá: "Để có được tất cả, bạn hãy coi những thứ mình có là chẳng có giá trị gì".
Nước Trời, là chủ đề hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.
Kho tàng hay viên ngọc quí ấy là chính Đức Kitô, là tình yêu của Người. Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa Kitô trước đã. Điều ấy không phải là dễ, vì quanh chúng ta còn có quá nhiều ràng buộc, ngăn cản chúng ta gắn bó với Đức Kitô. Chúa Giêsu hỏi chúng ta dành cho Người tình yêu trên hết, chúng ta phải là kitô hữu 100%.
Chúa Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể làm tôi hai chủ” (Mt 6,24). Chỉ có “kho tàng trên trời" chúng ta mới có thể lựa chọn để gửi gắm lòng mình: "Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6, 20s). Thánh Phaolô nói rõ: "Nước quê ta là trời cao" (Ph 3,20).
Để có Đức Kitô, hay để có được Nước Trời cần phải dứt bỏ tất cả như Chúa Giêsu gọi mời: "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta" (Mt 16,24). Và chỗ khác Người nói: "Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy đi bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó", sau cùng Người thêm: "đoạn hãy đến theo" (Mt 19,21). Không những thế còn phải phấn đấu, "bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy". Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta rằng không thể có được Nước Trời, nếu chúng ta không từ bỏ tất cả những gì chúng ta đang có: vinh quang, giầu có, địa vị và tất cả những sự tìm kiếm khác.
Qua dụ ngôn chiếc lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá, (Mt 13, 47) Chúa Giêsu cảnh báo. Đừng có lựa chọn và hành động nửa vời: cần phải hoán cải và tách mình ra khỏi tội lỗi là những thứ ngăn cản chúng ta đi tìm Thiên Chúa và Nước Trời.
Chúng ta hãy nài xin Chúa Giêsu, nhờ lời Đức Mẹ, ban cho mỗi người ơn can đảm vứt bỏ tội lỗi, ma quỉ, thế gian và xác thịt như chúng ta vẫn tuyên xưng vào Đêm Vọng Phục Sinh, và cam kết chọn Chúa Giêsu là lẽ sống của chúng ta, đồng thời cố gắng làm mọi sự có thể để có được Nước Trời. Amen.
-------------------------------
Chúa Giêsu là người thợ ngọc trong câu chuyện. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế và TN 17-A133
Chúa Giêsu là người thợ ngọc trong câu chuyện. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế và bằng cái chết của Người, Người đã mạc khải cho chúng ta Nước Trời chính là một kho báu quí giá nhất trên thế gian này.
1. Kho báu trong ruộng thời Chúa Giêsu
Người Do Thái thời Chúa Giêsu hẳn không xa lạ gì với khái niệm kho tàng chôn giấu trong lòng đất. Lịch sử nước Palestina từng ghi nhận nhiều bước xâm lăng của các đế quốc Babylon, Assyria, Ba Tư, Hy Lạp, Rôma và nhiều sắc tộc khác. Không những thế, nội chiến cũng thường xuyên xảy ra. Trên dải đất từng bị mất đi chiếm lại nhiều lần như thế, chuyện chôn giấu tài sản là việc đương nhiên đối với dân thời loạn.
Thế nhưng làm sao tránh khỏi trường hợp chủ nhân không may mất mạng trên đường di tản, hay có người không thể nhớ ra chỗ chôn giấu, hoặc vùng đất bị giặc chiếm đóng lâu ngày. Điều này khiến cho không ít người tình cờ đào được những kho tàng quí báu ngay trên mảnh đất nhà mình. Và theo luật thời đó, ai làm chủ vùng đất nào sẽ được quyền sở hữu mọi thứ nằm trong vùng đất đó.
Đức Giêsu dùng khái niệm thông thường này để nói về Nước Trời: "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó".
Điều quan trọng là người này đã thấy đó là một kho tàng, mà kho tàng này thật quí giá, nên anh mới đem bán hết tài sản để mua thửa ruộng đó. Nếu anh không thấy được giá trị của kho báu, chắc chắn anh đã không làm như vậy.
2. Những bước đi cần thiết để chiếm được kho báu
2.1. Chúng ta coi thường vì không biết giá trị đích thực của kho báu
Người ta có kể lại câu chuyện như sau: Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng và phải đi bác sĩ. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh, nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ, nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một một bức tranh để tặng bác sĩ. Nhưng bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông dùng bức tranh đó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng đã mục nát.
Về sau, người ta thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức tranh không thể tìm được, đó chính là bức tranh Van Gogh đã tặng cho vị bác sĩ. Một bức tranh vô giá, nhưng nó đã thành vô giá trị đối với vị bác sĩ này.
2.2. Khi đã nhận ra kho báu phải biết buông bỏ những giá trị khác không quí bằng giá trị của kho báu
Muốn bắt khỉ, người ta cho quả táo vào cái lu, miệng nhỏ, chỉ để vừa tay con khỉ thò vào, đầu kia gắn vào gốc cây, rồi người ta ngồi rình chờ. Khỉ đến thấy quả táo ngon thì thò tay vào lấy nhưng không rút tay ra được vì vướng miệng ống. Muốn rút tay ra được thì phải buông quả táo ra, nhưng con khỉ không biết buông quả táo ra mà cứ nắm chặt lấy nó mà la hét. Người ta chỉ việc đến tóm cổ chú khỉ.
Con khỉ thật dại dột, không biết buông quả táo ra để có thể rút bàn ta ra khỏi lu mà cứ khư khư giữ lấy quả táo thì không bao giờ có thể rút tay ra được. Con khỉ không biết bỏ cái nhỏ mà chọn lấy cái lớn, không biết bỏ quả táo đi mà giữ lấy bản thân.
2.3. Điểm cuối cùng là quyết tâm theo đuổi
Đức Hồng y Martini thường kể lại câu chuyện sau đây: Có người đến gặp một vị ẩn tu trong sa mạc và hỏi:"Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ, tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó lắm người lại bỏ về, và có ít người bền đỗ". Khi ấy, vị ẩn tu mới trả lời:" Chuyện này giống như chuyện một con chó đuổi theo con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo. Chẳng bao sau những con chó này đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên lúc nào cũng tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ."
3. Điểm quan trọng trong bài Tin Mừng hôm nay "ai là người chỉ cho chúng ta biết kho báu đó là Nước Trời"
Để nhận ra kho báu phải có người chỉ dẫn đưa đường qua câu chuyện “Ngọc bích nhà họ Hòa”.
Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: "Đá, không phải ngọc". Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: "Đá, không phải ngọc". Vua lại cho họ Hòa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa:”Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hòa”.[1]
Chúa Giêsu là người thợ ngọc trong câu chuyện. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế và bằng cái chết của Người, Người đã mạc khải cho chúng ta Nước Trời chính là một kho báu quí giá nhất trên thế gian này.
Lạy Chúa Giêsu, nước Trời là một kho báu tuyệt vời đang ẩn giấu trong những dụ ngôn trong Tin Mừng, nhưng tiếc thay, chúng con chẳng hay biết nên đã tỏ ra dửng dưng, hờ hững với kho báu ấy. Xin cho chúng con biết giá trị của Nước Trời để rồi quyết tâm khám phá cho bằng được và sẵn sàng đầu tư không quản ngại phí tổn về thời giờ và công sức để chiếm được kho báu ấy, vì một khi sở hữu được kho báu vô giá ấy, cuộc đời chúng con sẽ được cải thiện, xã hội sẽ hạnh phúc và tương lai của nhân loại sẽ bừng sáng. Amen.
______________
[1] Nguyễn Văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, trg. 144
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Kho tàng đó, viên đá quí đó không gì khác chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, đã TN 17-A134
Kho tàng đó, viên đá quí đó không gì khác chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa trao ban cho con người vì yêu thương, để nhờ Người mà con người nhận được sự sống đời đời.
SUY NIỆM
Vàng bạc, kim cương, hột xoàn luôn là hấp lực đối với con người bất cừ thời đại nào, và bất cứ ở đâu. Bởi những thứ đó, tuy chỉ là vật chất, nhưng lại mang đến cho người sở hữu nó chiếm được một sự kính trọng của nhiều người, và nói lên đẳng cấp của mình trong xã hội, và nhất là nó mang đến một cảm giác an toàn trong cuộc sống, không sợ sống thiếu thốn và rơi vào cảnh túng nghèo.
Có được một kho tàng, sở hữu được một viên đá quí là ước mơ của nhiều người. Chẳng thế, khi nói ở đâu đó có chôn giấu một kho tàng là người ta đua nhau đi tìm cho bằng được, có khi phải bỏ cả mạng sống, chẳng hạn khi nghe tin trong khu vực gần thành phố Walbrzych, Ba Lan, có “đoàn tàu vàng’’ của phát xít Đức, và trong đoàn tàu đó có giấu “căn phòng hổ phách” bị đánh cắp từ cung điện Catherine gần Saint Petersburg vào khoảng năm 1941, đã khiến cho cả nước Ba Lan lên cơn sốt, chính phủ phong toả khu vực, và nhiều công ty bỏ hằng triệu Dola Mỹ để được phép tìm kiếm kho báu huyền thoại này; Hoặc là khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của viên kim cương có tên gọi là Pink Star, nhiều người thầm mơ được có nó, công ty đấu giá đã bất ngờ khi có người bỏ ra hơn 71, 1 triệu USD để sở hữu được viên kim cương tuyệt đẹp này.
Dẫu vẫn biết kho tàng có vô giá đến đâu, viên kim cương có quí đến như thế nào, tất cả cũng chỉ là phù vân, chẳng có gì tồn tại, thế nhưng nó luôn là hấp lực làm cho bao người mơ ước. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn hướng ước mơ con người nhắm tới một thực tại Nước Trời, thực tại đó lộng lẫy như một kho tàng mà chúng ta cần phải chiếm hữu, rực rỡ như viên đá quí mà chúng ta cần phải sở hữu được. Tại sao chúng ta phải ước mơ chiếm hữu được Nước Trời? Thưa bởi kho tàng đó, viên kim cương đó không mang giá trị trang sức hời hợt bên ngoài, không kiến tạo sự giàu sang phú quí mang tính chóng qua, nhưng trái lại thực tại Nước Trời mang lại cho chúng ta vẻ đẹp giống như vẻ đẹp “Con Thiên Chúa” và cho chúng ta sự giàu sang lộng lẫy mà thế gian không thể có được.
Kho tàng đó, viên đá quí đó không gì khác chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa trao ban cho con người vì yêu thương, để nhờ Người mà con ngừơi nhận được sự sống đời đời. Qủa thật, nơi Đức Kitô, Người chứa đựng cả một kho tàng vô giá, kho tàng tình yêu Thiên Chúa. Đấy chính là sự giàu sang đã làm nên vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa, và Đức Kitô khi đến trần thế Người đã mang trọn vẹn kho tàng này để ban tặng cho con người hầu nhờ đó con người được trở nên sang trọng. Hơn thế nữa Người còn trang sức cho con người bằng các ân huệ để con ngươi trở nên xinh nên đẹp. Chính tình yêu của Đức Kitô đã biến đổi con người từ thân phận nô lệ trở thành con cái tự do, từ kẻ mang thân phận hay chết nay được dự phận vào sự sống đời đời.
Thật vậy, qua Bí tích Rửa tội, Chúa đã mặc cho những kẻ tin vinh quang và danh dự của Người để họ có thể trở nên bạn nghĩa thiết và được đồng hình đồng dạng với Người và được gọi là con Thiên Chúa. Vâng, Đức Kitô là viên ngọc quý, bởi mọi vẻ đẹp đến từ Người và mọi sự sang trọng cũng bởi Người, vẻ đẹp đó, sự sang trọng đó người sẵn sàng tặng ban cho những tin vào Người.
Thế nhưng thật đáng buồn, khi có nhiều người không nhận ra sự cao trọng và vinh phúc nơi Đức Kitô, họ chỉ mải mê với những của chóng qua ở trần thế, và tệ hơn nữa, có nhiều kitô hữu cũng đã đánh đổi kho tàng và viên ngọc quí mà Chúa đã trao ban khi lãnh nhận bí tích Rửa tội để đi tim bã vinh hoa phú quí của trần gian. Hội Đồng Giám Mục Đức đã đưa ra con số thống kê vào năm 2016 đã có khoảng 160.000 Kitô hữu Công giáo bỏ đức tin, và đức Hồng y Gerhard Mueller , nguyên tổng trưởng thánh bộ Giáo lý Đức tin, coi đây là một thảm trạng bi đát, và theo đức Hồng y “Đây là việc loại bỏ Kitô Giáo trên toàn bộ nhân học, trong đó con người được định nghĩa như một hữu thể không cần Thiên Chúa và hoàn toàn không có tính siêu việt. Tôn giáo được người ta cảm nghiệm như một thứ tình cảm, chứ không phải là việc tôn thờ Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Thế.”, vâng con người ngày nay không còn nhận ra kho tàng và viên ngọc quí nơi Đức Giêsu Kitô, quả thật đây là một thảm trạng.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã qui tụ chúng con vào trong lòng Hội Thánh Chúa, xin cho chúng con luôn hân hoan vì những hồng ân Chúa tặng ban, và luôn biết giữ gìn vẻ đẹp mà Chúa đã tác tạo qua hồng ân đức tin. Xin đừng để chúng con đánh mất sự sang trọng của phẩm giá được làm con cái Chúa vì những sự hư vô của trần thế này. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Jos. Quang Nguyễn)
Rất nhiều người trong cuộc sống, họ xem tiền bạc là kho báu của đời họ vì chưng họ cho rằng TN 17-A135
Rất nhiều người trong cuộc sống, họ xem tiền bạc là kho báu của đời họ vì chưng họ cho rằng Tiền là tiên là phật là sức bật của lò xo là thước đo của lòng người là tiếng cười của tuổi trẻ là sức khỏe của tuổi già là cái đà danh vọng là cái vọng che thân là cán cân công lý. Còn với một số người khác, họ coi quyền lực, danh tiếng lại là thứ ngọc quý giá số một cho nên họ sẵn sàng bỏ tiền ra để mua chức mua danh. Rồi cũng có một số người coi thú vui cuộc đời là kho báu đáng đạt được cho nên không lạ gì trong xã hội hôm nay tràn ngập các tệ nạn đủ mọi lứa tuổi. Trái lại, trong xã hội cũng có những người coi kiến thức là loại châu ngọc quý giá không gì sánh bằng cho nên sẵn sàng đánh đổi tất cả để đạt được, đó là những bậc hiền triết khôn ngoan, các nhà khoa học lỗi lạc, các nhà thần học hay các thánh đã làm sáng Danh Chúa và mưu ích cho muôn người qua mọi thời.
Cuộc sống con người như đi vào cơn lốc của tiền tài, danh vọng và lạc thú. Vì tất cả những điều đó mà con người dám làm mọi sự dù biết là tội và ác để có được những thứ ấy. Thế nhưng, là người Kitô hữu, chúng ta còn có một giá trị cao hơn những danh lợi thú ấy, chính là Nước Trời vì chưng danh lợi thú rồi sẽ qua đi, nhưng Nước Trời thì tồn tại mãi mãi. Cho nên, hôm nay, Chúa Giê-su ví Nước Trời như một kho tàng, như viên ngọc quý đến nỗi để đạt được thì hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi của cải, kể cả mạng sống, cũng phải đổi lấy cho bằng được viên ngọc Nước Trời.
Dụ ngôn “Kho báu chôn trong ruộng” và “Viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và “Viên ngọc quý” ở đây là chính Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô và có Đức Kitô vì Có Ngài, chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô trong bài đọc 2 rằng nhờ Đức Giêsu Kitô chúng ta những người được Thiên Chúa tiền định và được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô, trở nên công chính và được hưởng phúc vinh quang trong Nước Trời. Vì vậy, Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Ba Ngôi Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng quý báu vì có sức đem lại sự sống đời đời cho nhân loại như lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là ánh sáng cho thế gian: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống"(Ga 8, 12). Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là con đường dẫn đến sự thật, bình an và hạnh phúc. "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy." (Ga 14,6). Thế nên, chỉ trong Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, chúng ta mới có thể tìm thấy tình yêu và hạnh phúc đích thực, sự sống đích thực và vĩnh hằng trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên chẳng lạ gì mà Thánh Phanxicô Khó khăn sinh trưởng trong một gia đình giầu có, quyền thế. Bản thân lại học giỏi tài cao. Đường công danh sáng lạn. Thế nhưng ngài đã bị đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?” để rồi từ đó cuộc đời Ngài chỉ còn tìm kiếm và phụng sự cho Tin Mừng Nước Trời. Rồi, Thánh Augustino sau những ngày tháng ngụp lặn trong thú vui thế gian và xác thịt, Ngài đã cảm nghiệm sâu xa về hạnh phúc Nước Trời mới là vĩnh cửu còn thế gian là tạm bợ. Ngài đã thốt lên trong tiếc nuối: “lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng” để rồi từ đó Ngài ngụp lặn trong đại dương bao la tình yêu thương của Thiên Chúa.
Người nông dân, vị thương gia, đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của chúng ta đã gặp thấy Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống, chúng ta càng hân hoan vui sướng đồng thời dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa vì chưng có Chúa là có tất cả. Vậy, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau để mọi người biết nhận ra Đức Giêsu là nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc đời và Tin Mừng của Ngài là một bảo đảm để đạt được hạnh phúc ấy, để chúng ta dám đánh đổi tất cả những sự tạm bợ của thế gian này, để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đem đến cho chúng ta bằng việc tìm gặp Chúa và kết hiệp với Chúa luôn qua việc đọc kinh sáng tối, tham dự cử hành các Bí Tích và hăng say sống Lời Chúa. Cho nên, tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi để đấy. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi những điều Ngài truyền dạy. Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám liều, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống yêu thương. Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì chúng ta cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống và xoay ngược dòng đời, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc bất chính. Và chỉ Đức Kitô chính là kho tàng quí giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi và chỉ Lời Chúa Giêsu là viên ngọc quý giá nhất đem lại cho chúng ta hạnh phúc và sự sống đời này và đời sau. Amen.
-------------------------------
Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, ..." Đây là một hình ảnh rất cụ thể và là TN 17-A136
"Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được..." Đây là một hình ảnh rất cụ thể và là một câu chuyện rất quen thuộc với mọi người, nhưng Chúa Giêsu đã đổi ngược thứ tự để dậy chúng ta một bài học về Nước Trời. Chúa Giêsu thường có những tư tưởng đối ngược với lối suy nghĩ thông thường của loài người.
Những câu chuyện về kho tàng là một hình thức văn chương rất thông dụng trong văn hoá thời đó cũng như trong mọi văn hoá. Khi nhắc đến ai cũng hiểu. Mặc dầu nhiều người kể nhưng cốt chuyện vẫn giống nhau. Chẳng hạn, một người mua thửa ruộng và cày cấy. Cày cuốc chạm phải vật gì cứng, và từ lòng đất hiện ra một kho tàng. Người ấy trở nên giầu có. Cốt chuyện là thế nhưng khi kể tùy người kể thêm bớt cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn. Thí dụ, anh chị nọ mua một lô đất để xây cất một căn nhà. Trong khi bạt đất làm nhà thì khám phá ra ở dưới lòng đất có mỏ dầu. Anh chị ký hợp đồng với hãng dầu và hằng tháng lãnh tiền xài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã đảo ngược thứ tự của mẩu chuyện về kho tàng, "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy." Xét theo thứ tự thông thường của mọi câu chuyện kho tàng thì anh ta phải mua thửa ruộng trước. Nhưng Chúa Giêsu nói là trước hết anh ta tìm được kho tàng; rồi anh ta mới mua thửa ruộng.
Một trong những điều khó hiểu trong cuộc sống đức tin Kitô giáo là: cuộc sống đức tin không chỉ đơn giản theo lối suy nghĩ của loài người. Chúa không theo luật thông thường của loài người. Chúa đảo lộn trật tự tự nhiên. Chúa yêu trước. Chúa trao ban trước. Người bình thường không thể làm như thế. Ta phải yêu người đáng yêu, thưởng người đáng thưởng, và tha thứ người thống hối ăn năn. Vì thế mà nhiều người không thể hiểu được Chúa Giêsu. Ngài đảo ngược thứ tự nên nhiều người không thể hiểu được rằng ơn thánh đến với chúng ta cách bất ngờ, ngay cả trong những lúc chúng ta không đáng nhận.
Có những người quan niệm rằng làm việc lành phúc đức để chiếm được Ơn Cứu Độ. Quan niệm như thế là lầm, vì Ơn Cứu Độ đã được Chúa Kitô mua chuộc cho toàn thể nhân loại khi Ngài chết trên thập giá. Mỗi người chúng ta chỉ cần mở rộng tâm hồn để lãnh nhận ơn cao cả đó bằng lòng tin vào Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Thánh Phaolô xác quyết: "Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không có ai có thể vênh vang tự đắc" (Ep 2:8-9). Nếu như vậy không cần làm việc? Không phải thế! Bởi vì đức tin chân chính cần phải được biểu lộ, chứng tỏ bằng việc làm như lời thánh Giacôbê: "Ai bảo mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2:14,17).
Điều bài Tin Mừng muốn nhắc nhở là món quà quí giá nhất, "Ơn Cứu Độ," là do Chúa ban nhưng không chứ không phải do ta chiếm đoạt được. Bổn phận của ta là phải mở rộng tâm hồn tin kính và biết ơn để đón nhận. Để tỏ ra là một người biết ơn ta cần noi gương người nông phu trong bài Tin Mừng là tìm cho được kho tàng và cố gắng bán hết gia tài để mua cho được thửa ruộng. Chúng ta cố sống xứng đáng với ơn Chúa ban. Chúng ta đón nhận ơn Chúa và tỏ mình là người biết ơn bằng việc thi hành giới răn Yêu Thương Chúa truyền dậy: yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình...Yêu như Chúa đã yêu!
Kho tàng Nước trời được chôn giấu trong thửa ruộng trần gian, hãy bán mọi sự để mua lấy... chứ đừng đi mua thửa ruộng trước rồi mới hy vọng sẽ tìm được kho tàng. Xin Chúa cho chúng ta ý thức được rằng Ơn Cứu Độ Chúa đã ban cho nhưng không và chúng ta cần sống theo giới răn Chúa để tỏ ra chúng ta là những người tin yêu và biết ơn thật sự.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
Hai anh em sống chung với nhau, người anh khôn, người em hơi khờ. Một hôm, người em nói TN 17-A137
Hai anh em sống chung với nhau, người anh khôn, người em hơi khờ. Một hôm, người em nói: “Anh hướng dẫn làm sao để em khôn hơn một chút đi?” Người anh đồng ý và tuần đó ăn cá, người anh chọn chỗ ngon ăn để lại cho người em toàn xương là xương cùng với đuôi cá. Cuối tuần, chịu không nổi, người em bảo: “Anh khôn quá, anh để cho em phải ăn toàn xương là xương không à.” Người anh mỉm cười đáp: “Đấy em khôn ra rồi đó.”
Khôn ngoan là điều cần thiết trong cuộc sống. Chính vì thế mà Vua Salômôn trong bài đọc thứ nhất đã không xin điều gì khác, mà chỉ xin cho được khôn ngoan.
Khôn có nhiều loại: khôn khéo, khôn lanh, khôn ranh, khôn vặt, khôn lỏi, khôn ngoan...
Thế nào là người khôn ngoan? Có nhiều nhận định khác nhau: Người khôn ngoan là người biết khi nào mình nên học hỏi ở người khác, hay là người luôn tự giác là mình hãy còn nhiều điều cần thăng tiến, hoặc là biết mình đang ở đâu, biết mình đang làm gì, biết mình cần gì và biết mình phải làm gì...
Cha Carôlô trong cuốn Sợi Chỉ Đỏ, Năm A đã giải thích: "Khôn ngoan là nhận biết cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bên vững cái gì là chóng qua." (tr. 404).
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai người khôn ngoan: Người thứ nhất tìm được kho tàng chôn giấu trong ruộng, anh chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có để mua thửa ruộng đó. Người thứ hai tìm được viên ngọc quý, anh bán mọi của cải để mua viên ngọc quý đó.
Điểm chúng ta cần để ý là cả hai đều biết giá trị của kho tàng hay viên ngọc quý, đến nỗi bán tất cả gia tài để mua được kho tàng và viên ngọc quý. Điều chúng ta thắc mắc là phải chăng khi vừa mới được sinh ra họ đã khôn ngoan biết được giá trị của kho tàng và viên ngọc quý? Hay phải chăng chỉ qua nhiều thời gian quan sát, học hỏi vất vả, họ mới có được đủ kiến thức cần thiết để phân biệt được giá trị của viên ngọc quý báu hay kho tàng ít nhiều giá trị? “Những kẻ nên khôn đều có dại. Làm người có dại mới nên khôn.” “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại. Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần?... Một lần ngã là một lần bớt dại. Để thêm khôn một chút nữa trong người.”
Điểm thứ hai là nhận thức hiểu biết giá trị sự vật chưa đủ, còn phải sẵn lòng hy sinh trả giá. Cả hai người khôn ngoan sau khi đã nhận thức được giá trị của kho tàng và viên ngọc quý đã sẵn lòng bán tất cả những gì mình có, để có được kho tàng và viên ngọc quý. Không phải bỗng dưng mà các lực sĩ có được huy chương vàng hay huy chương bạc ở Thế Vận Hội. Sau khi nghe nghệ sĩ dương cầm trình diễn, một bà bảo: “Tôi sẵn lòng hy sinh tất cả để có thể trình diễn được như ông.” Nhà nghệ sĩ trả lời: “Tôi đánh cuộc là bà sẽ chẳng dám dành ra 5 phút mỗi ngày.” Một người khác nói với một nhạc sĩ: “Tôi sẽ hiến cả cuộc sống của tôi nếu tôi có thể chơi được như ông đã vừa trình diễn.” Nhạc sĩ trả lời: “Đó chính là cái giá mà tôi phải trả: Cả cuộc đời tôi.”
Chúa Giêsu mời gọi suy nghĩ về Nước Trời. Phải chăng chúng ta đã khôn ngoan hiểu được giá trị cao quí của Nước Trời và sẵn lòng hy sinh tất cả để có được như hai người khôn ngoan đã hiểu được giá trị của kho tàng cũng như viên ngọc quý và sẵn sàng bán hết tài sản của mình để mua cho được?
Chuyện kể rằng có một bà đi du lịch bên Pháp với những người bạn, bà chưa bao giờ thấy một vòng đeo cổ nào xinh đẹp như thế, nên gửi điện tín (telegram) cho ông chồng: “Tôi thấy một vòng đeo cổ thật xinh đẹp giá chỉ có 75 ngàn đô la. Ông nghĩ sao?” Ông chồng gửi điện tín lại: “No, price too high.” (Không, giá quá cao). Ông chồng ngạc nhiên khi thấy bà vợ trở về với vòng đeo cổ 75 ngàn đô, liền tức giận hỏi: “Bộ bà không nhận được điện tín của tôi sao?” Bà vợ nói: “Tôi đã nhận được, và sung sướng giữ lại điện tín đó. Đây ông xem đi nào.” Ông chồng xem lại điện tín thấy thiếu dấu phẩy: “No price too high.” (Không có gì là quá mắc quá cao).
Không có gì là quá mắc quá cao với Nước Trời, nhưng phải chăng chúng ta sẵn lòng trả giá đắt? Sau cùng, hai người khôn ngoan vui mừng với những gì họ tìm thấy. Chúng ta cũng vui mừng khi nhận biết kho tàng Nước Trời, nhận ơn Đức Tin, nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu chuộc? Nếu Chúa Giêsu đã chết đã sống lại để đem đến niềm vui niềm hy vọng cho con người, thế mà tại sao còn có những người vẫn sống cuộc sống đầy ảm đạm u sầu? Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc bảo: “Có những Kitô hữu mà cuộc sống của họ dường như là Mùa Chay không có Phục Sinh.” (There are Christians whose lives seem like Lent without Easter.)
Một trong những viên đá thuộc hàng quý hiếm bậc nhất, viên kim cương màu xanh này được vinh danh là đá quý đắt nhất thế giới vào năm 2007. Nặng 6,04 carat, viên kim cương được bán với giá 7,98 triệu USD, tương đương 1,32 triệu USD mỗi carat tại nhà đấu giá Sotheby Hong Kong.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông chúng ta, không những chỉ bỏ hết mọi sự mà còn dâng hiến cả chính con người các ngài để mua lấy kho tàng nước trời. Các ngài là những người dại hay là những người khôn? Chúng ta nghĩ thế nào và đã đang đầu tư cuộc sống mình ra sao?
-------------------------------
Tất cả các dụ ngôn đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến TN 17-A138
Tất cả các dụ ngôn đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất.
1.- Ngữ cảnh
Diễn từ của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó khăn và những ngờ vực xuất phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện tại và các nỗi chờ mong nhắm đến Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng định, thì tại sao sứ điệp của Người không được mọi người vui mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một loạt những chiến thắng lẫy lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong dụ ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có thể sinh hoa kết quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ điệp cốt yếu tùy thuộc những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc cách sống của họ. Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn thành ba phần:
1) Ba Dụ ngôn
a) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44),
b) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46),
c) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48).
2) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50).
3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).
Hoặc cũng có thể cho rằng bản văn có năm đơn vị:
1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44);
2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46);
3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48);
4) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50);
5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52)
3.- Vài điểm chú giải
– Nước Trời giống như một kho báu (44): Không phải là Nước Trời được ví với một kho báu, nhưng là “những gì xảy ra” khi một người khám phá ra một kho báu được so sánh với “những gì xảy ra” (hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra Nước Trời.
- kho báu chôn giấu trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó, thỉnh thoảng, có người khám phá ra một khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn một cái chum chứa những đồng tiền vàng hay các loại đá quý.
- thương gia (45): Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào thời Đức Giêsu, ngọc quý thường được nhập từ Ấn Độ.
- chiếc lưới (47): Sagênê, “chiếc lưới”, có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi dây.
- thả xuống biển (47): Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe aoriste passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy có nghĩa là chiếc lưới đã được thả xuống biển rồi, và do chính Thiên Chúa thả.
– Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn Người gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho động từ “hiểu”. Ở đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói bằng dụ ngôn cho đám đông. Câu trả lời thật gọn: “Thưa hiểu (Nai)”. Ngữ cảnh cho thấy là những người trả lời là những môn đệ đã hỏi Đức Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi không nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ bất cứ độc giả nào, bất cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta đi từ tình trạng “đám đông” sang tình trạng “môn đệ”.
- kinh sư (52): Cộng đoàn Mt đã có những định chế (“Nhóm Mười Hai”: 10,1; Phêrô: 16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các “thầy dạy” được gọi là “kinh sư” vì cộng đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các câu dẫn nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải, Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất giống nhau.
* Dụ ngôn 1 và 2: Kho báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)
Những gì Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và ngọc quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể
đây là một người thợ đi cày trong ruộng của người khác và đã khám phá ra một kho tàng gồm các đồng tiền và vật trang sức được chôn trong ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không bao giờ dám mơ tới khối của cải này. Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng là việc ông sẽ làm bây giờ.
Ông sẵn sàng hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa ruộng. Cách xử sự của nhân vật này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều này không làm tác giả bài dụ ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh của đời thường, như sau này Người kể truyện người quản lý bất lương, những người làm vườn nho sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta thấy rõ nơi truyện người đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân lý. Trong cả hai trường hợp (khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn đề được đề cập là khám phá ra và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện một người hết sức vui sướng hy sinh tất cả những lợi lộc và vận dụng mọi phương tiện mà thủ đắc một điều gì; “ông bán tất cả những gì mình có” (cc. 44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là điểm ấy. Đấy chính là Nước Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.
Trong sứ điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong tay. Mặc dù thế giới đang có những vô trật tự, những sự dữ và những tai họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và muốn ban cho chúng ta được thành công trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước tiên phải được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại này chính là một kho báu được chôn giấu; tự nó, nó không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi cuốn hơn nhiều, dường như quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh phục bởi sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối với chúng ta và sự hiệp thông của chúng ta với Ngài có một giá trị vô song và không bao giờ bị vượt quá. Với sự hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia tăng ước muốn được đi vào làm chủ một giá trị như thế.
Kho báu ấy không phải là phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn, mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta phải đặt chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên tất cả mọi sự, cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui… không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào trong dây liên kết với Thiên Chúa và được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa, mà chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui, cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với công việc và phải từ bỏ nhiều điều.
* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (47-50)
Dụ ngôn Chiếc lưới song song với dụ ngôn Lúa tốt vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn trước, “cánh đồng” tượng trưng Nước Trời; trong dụ ngôn sau là “chiếc lưới”.
Tại hồ Ghennêxarét, có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn được, có thứ không. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng luôn luôn như thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi lựa: cá tốt thì được gom lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế “ngồi” của các dân chài có thể khiến nhớ tới tư thế “ngồi” Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31; 26,64). Các tính từ “tốt” (kalos) và “xấu” (sapros, “vô ích”) khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái của chúng (x. 7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau của người tốt và người xấu. Ở đây, trên mặt đất này, dường như chúng ta có quan tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì; giữa người tốt và người xấu, không hề có sự phân biệt nào. Dường như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu, tượng trưng Nước Trời, là một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy sống hôm nay thế nào để khi đến cuối, anh em được Thiên Chúa đón nhận!
Thật ra, việc Người giảng dạy đã là một tiên báo về phán xét: Người đang ở tại “hồ” (13,1-2), có một đám đông “đã tụ họp lại” (“gom cá”) trên bờ, trong khi Đức Giêsu “ngồi” trên thuyền và nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã gây ra sự phân biệt giữa dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân biệt này báo trước cuộc phán xét sau này. Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.
Kết luận dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên một chi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: “các thiên sứ sẽ … quăng kẻ xấu vào lò lửa” (x. 13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì sự hiện diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi họ bằng cách cho biết rằng cuộc phán xét cánh chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ tái lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.
* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)
Dụ ngôn Vị kinh sư này là một câu trả lời cho câu hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ là những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu. “Hiểu” không chỉ có nghĩa là “nắm được ý nghĩa” mà còn là “chấp nhận”, “làm cho nên hiện thực trong đời sống mình”. Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành những người thực sự bước theo Đức Giêsu, họ đã là “con cái Nước Trời” (c. 38). Do đó, họ cũng là những kinh sư mới, những thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia) lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình. Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.
+ Kết luận
Tất cả các dụ ngôn đều nói với chúng ta về Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng cho thấy rằng việc từ bỏ theo Tin Mừng không phải là phương tiện để đạt tới Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.
Sự lộn xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết bao giá trị và mục tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc. Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người cho thấy điều gì là quan trọng, chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của mình vào chuyện gì. Điều quan trọng là luôn luôn sống với tinh thần trách nhiệm và đặt quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc không hề nao núng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề không phải chỉ là dời các giá trị khác ra phía sau để nhường bước cho giá trị lớn là Nước Trời, nhưng là coi mọi sự khác không còn giá trị nữa trước giá trị duy nhất là Nước Trời. Người ta chỉ thật sự là Kitô hữu nếu hiểu rằng Nước Trời là “tất cả” trong cuộc đời, cần thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết như thế là “hoán cải”, thay đổi lòng trí. Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm ngắm sự cao cả của Nước Trời thì không đủ, còn cần phải quyết định, phải chọn lựa, phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy giá trị này. Truyện người thanh niên giàu có minh họa rất rõ điểm này (Mt 19,21.27.29).
2. Nước Trời là một điều thiện hảo được đặt vừa tầm tay mọi người, nhưng không phải là mọi người đều “tìm thấy” Nước Trời bởi vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm Nước Trời. Tìm kiếm là điều kiện thiết yếu để có thể gặp được Nước Trời (x. Mt 10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều này đúng ngay cho cả bình diện trí thức: khi nghiên cứu, nếu chúng ta không có ý tìm điều gì, thì chúng ta sẽ không thấy các trang sách nói gì cả; chỉ khi nào cố ý tìm một điểm gì đó, chúng ta mới thấy sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù vậy, Nước Trời không phải là kết quả đương nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước Trời vẫn là một ân ban.
3. Niềm vui là tiêu chuẩn cho thấy người ta đang kinh nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi có thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm nhận khi nghe được sứ điệp về Nước Trời: tôi có vui mừng không? Các giá trị Nước Trời đã đi vào đời tôi, tôi có cảm thấy vui không? Ai có Thiên Chúa thì có tất cả; Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác tín về điều này chăng? Do đang còn mang não trạng “thế gian”, do đang lo lắng sợ mất điều gì đó hoặc thiếu điều gì đó, do cứ muốn nắm được mọi sự trong tay, do muốn lên chương trình sống hoàn toàn theo ý mình, chúng ta có thể đang còn vấp phải dữ kiện căn bản này: một mình Thiên Chúa có thể lấp đầy một con tim hiến dâng trọn vẹn cho Ngài.
4. Cuộc sống con người ở trần gian còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Một ngày nào đó, khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc sống thật của người ta còn đang được che giấu dưới một cái mặt nạ đạo đức, nhưng đến ngày đó, “mặt thật” của con người sẽ lộ rõ: người ta chỉ hoàn toàn là “xấu” nếu tận đáy lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì tìm kiếm một mình Thiên Chúa.
-------------------------------
Đức Giêsu nói với đám đông các "dụ ngôn" sau đây. Đức Giêsu như mọi người kể chuyện ở phương TN 17-A139
Đức Giêsu nói với đám đông các "dụ ngôn" sau đây.
Đức Giêsu như mọi người kể chuyện ở phương Đông, không giảng dạy một cách trừu tượng, người đưa ra những hình ảnh đẹp những từ ngữ chứa đựng những biểu tượng phổ quát mà mọi người có thể hiểu gợi ra nhiều ý nghĩa hơn định nghĩa của các từ ngữ và do đó thường có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Cũng như trong văn nói, những sự lặp lại, những điệp khúc cho phép khắc ghi một bài học vào trong trí nhớ.
Những dụ ngôn của Đức Giêsu, dù được đọc chỉ một lần, không thể nào quên được. Người ta cũng nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như những kinh sư của thời đại Người thực tế là đã dạy cho các thính giả của Người thuộc lòng những bản văn ngắn. Nhưng như thế thì rất dễ. Vậy chính các bạn hãy thử lại xem-! Các bạn hãy đọc một dụ ngôn và sau đó đọc lại bằng trí nhớ của mình.
Nước trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Một "kho báu”! Mỗi người có thể hiểu điều đó theo cách hiểu của mình. Trên khắp trái đất, trong mọi nền văn minh, con người đều có những đồ vật mà họ coi như những "kho báu': một vật gì đó đáng được ao ước làm người ta thèm muốn, ở Palestin, vào thời của Đức Giêsu, không có nhiều ngân hàng để gởi những món tiết kiệm mà một gia đình dành dụm cho được an toàn. Vậy, người ta chôn món tiền ấy trong một góc của cánh đồng. Và có khi chủ sở hữu chết di mà không thể tiết lộ nơi giấu kho báu cho ai. Khi làm ruộng, một nông dân sau này có thể tình cờ khám phá ra.
Người nào đã khám phá ra... liền chôn giấu lại!
Thái độ này kỳ lạ... kích thích sự tò mò. Người ấy sắp làm gì?
Rồi vui mừng, đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Rõ ràng đây là cao điểm của bài dụ ngôn mà Đức Giêsu muốn gợi ý cho chúng ta. Các bạn có đồng ý với cách làm đó không? Nếu các bạn gặp được một sự may mắn như thế, một cơ hội tương tự, bạn có làm giống vậy không. Phải, trong đời sống của chúng ta, chúng ta có thể thực hiện những hy sinh to lớn vì một điều mà chúng ta ấp ủ ở trong lòng: các sinh viên làm việc không nghỉ ngơi khi kỳ thi và một kỳ thi tuyển mà họ mơ ước một cách mãnh liệt sắp đến... các vận động viên kiêng cữ đủ thứ để tiến hơn trong bộ môn thi đấu và phá kỷ lục... cha mẹ trong gia đinh hy sinh cho con cái họ... các chính khách trong lãnh vực chính trị và công đoàn bỏ qua các thú vui và sự thư giãn vì chính nghĩa mà họ đang chiến đấu... Đối với Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa là một thực tại rất cao quý đến nỗi đáng để hy sinh tất cả, để khám phá, và để sống. Ở đây chúng ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nói về "niềm vui chúng ta đoán được niềm vui ngây ngất của Người thấy một kho báu”. Trong sự vui mừng, người ấy bán tất cả những gì mình có..." Đối với Đức Giêsu, sự hy sinh không phải là một việc đau buồn:
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Rõ ràng ở đây có cùng một bài học, với cùng một điệp khúc. Nhưng thêm một khía cạnh quan trọng. Người làm thuê tình cờ khám phá được kho báu... còn người bán kim hoàn "tìm kiếm" như một người sưu tập tìm một món đồ quý hiếm. Chúng ta cũng thế, chúng ta đều đi tìm hạnh phúc. Nhưng, than ôi; nhiều người trong chúng ta đã lầm lẫn khi tìm những hạnh phúc không giá trị gì, những viên ngọc giả cũng sáng như những viên ngọc thật, nhưng không giá trị như những viên ngọc thật... và chỉ đánh lừa người dốt nát… Đức Giêsu, Người biết hạnh phúc thật của chúng ta là gì. Người đề nghị chúng ta phải trả giá và phải làm tất cả để có được hạnh phúc ấy. Không có niềm vui chân thật và lâu dài bên ngoài sự hiệp nhất với Thiên Chúa… điều mà Người: gọi là Nước Trời!
Để sống hạnh phúc vô giá, tuyệt vời ấy, hãy mua cho được viên ngọc đó... phải làm gì đây?
Ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong thực tế cảnh tượng mà Đức Giêsu kể lại. Xung quanh con người "bán tất cả những gì mình có", hẳn người ta phải nói: “Thằng cha này điên! Vậy sao? Chính vì những người khác không biết. Khi bán tất cả tài sản của mình, người ấy biết rằng mình không mất gì cả... bởi vì người ấy biết giá trị của viên ngọc! Và tôi cố tưởng tượng Đức Giêsu đang kể lại câu chuyện lôi cuốn này. Không chút lưỡng lợ. Đức Giêsu quả là con người có những quyết định cao cả, có vẻ điên rồ. Trong thực tế Người đã cho tất cả, đã đặt vào đó cái giá tối đa. Ngày hôm nay, thật là tốt đẹp khi có những con người, nam cũng như nữ nghe được tiếng gọi "hiến dâng tất cả" một cách triệt để lập tức thánh hiến cả cuộc đời mình cho Nước Trời qua đời sống linh mục và tu trì.
Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài.
Đức Giêsu có lẽ đang nói về các thủy thủ ở bờ hồ Tibêria. Người nói về Thiên Chúa xuyên qua ngôn ngữ và những hoàn cảnh người ta đang sống. Đó là một biểu mẫu tốt nhất cho những cách dạy giáo lý về mầu nhiệm của Thiên Chúa, nếu chúng ta cũng quan tâm một cách cụ thể đến cuộc sống hàng ngày của anh em.
Nước Trời! Matthêu sử dụng công thức này để tránh nói ra từ ngữ về Thiên Chúa đối với dân Do Thái. Cách diễn tả này cũng có ý nghĩa như "Nước" của những con người hoàn hảo về mọi phương diện, là một sự quy tụ đủ mọi hạng người... tốt và ít tốt hơn! Chúng ta đã thấy tư tưởng này có trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa mì: Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi những kẻ tội lỗi và... cho họ có thời gian.
Trước hết, Thiên Chúa chịu đựng tôi và cho tôi một thời gian. Nhưng hãy coi chừng! Sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi không thể được giải thích như một sự "bỏ mặc" khiến chúng ta sống thụ động, sống chờ thời và sống dửng dưng. Chúng ta hãy nghe phần tiếp theo…
Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lò lửa, ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Một lời cảnh báo hết sức nặng nề! Lòng nhân từ của Thiên Chúa không phải là sự đồng lõa với điều xấu. Vừa rồi, Đức Giêsu nói về niềm vui! Giờ đây Người nói về khóc lóc và nghiến răng… sáu lần công thức đe dọa này trở lại trong Matthêu (8,12; 13,12; 13,50; 22,13; 24,51; 25,50). Chúng ta thường có xu hướng quên rằng sẽ có một sự phán xét. Thái độ của chúng ta không trung lập: chúng chuẩn bị cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta, Đức Giêsu nói. Và chúng ta phải mau lẹ hoán cải. Bởi sự nghiêm khắc này, Đức Giêsu muốn thức tỉnh chúng ta.
Không có gì là sự thích thú đày đọa trong những công thức ấy nhưng là tình yêu của một người sáng suốt muốn làm cho ta hiểu rõ cái được cái mất của đời sống. Khi bác sĩ phẫu thuật đưa con dao mổ vào vết thương mưng mủ, đó không phải vì ông dữ tợn mà vì ông muốn cứu người bệnh. Ngay cả khi dùng đến ngôn ngữ khải huyền (“khóc lóc và nghiến răng” là một phần của văn phong thời đại đó) rõ ràng là Đức Giêsu muốn tạo ra trong chúng ta một cú sốc sinh ơn cứu độ.
Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?
Thiên Chúa không áp đặt. Người tra hỏi chúng ta. Người tôn trọng tự do của chúng ta. Nhưng Người hỏi chúng ta "hiểu” không? Anh em có hiểu không? Từ "hiểu” là một từ được Matthêu lặp lại: Mt 12,7; 13,13; 13,14-15-19-23-51; 15,10-17; 16,9-11-12; 17,13; 19,11-12;21,45-46; 24,15-32-33-43. Đây là câu hỏi nền tảng.
Chẳng phải là trong lòng tôi có nhiều ngõ ngách của cuộc đời mà tôi không muốn hiểu đó sao? Chẳng phải là có những hoàn cảnh mà tôi không muốn đối chiếu với Tin Mừng đó sao? Lạy Chúa, xin thương nhắc con câu hỏi của Người: "Con có hiểu không?"
Họ đáp: "Thưa hiểu”.
Trong sự ngay thẳng, con cũng muốn nói rằng "con hiểu” những dự án của Thiên Chúa trong đời con. Nhưng con xin Chúa sức mạnh để hoàn thành chúng cho đến cùng, cho đến sự lựa chọn cao cả sau cùng, khi Chúa đưa ra ánh sáng “điều gì tốt" và "điều gì không có giá trị” trong cuộc sống.
Người bảo họ: "Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ".
Đức Giêsu không khinh thường khoa học của các "kinh sư” các học giả về Luật, cho dù nhiều người trong bọn họ thực ra đã chống lại cái mới của Tin Mừng. Chính Matthêu soạn ra Tin Mừng, ngài tự giới thiệu như một "kinh sư” một người hiểu biết sâu xa Truyền thống của Cựu ước... nhưng có khả năng rút ra từ truyền thống ấy điều mới mẻ!
Dụ ngôn nhỏ này và cũng là sau cùng làm kết luận cho một loạt các dụ ngôn mà chúng ta đọc từ ba Chúa nhật và mang đầy tính thời sự. Cuộc tranh luận của những người theo xưa và theo nay. Sự đối lập giữa những người bảo thủ và những người cấp tiến. Đối với Đức Giêsu, người "theo truyền thống" thật sự không thể chỉ là người lặp lại cứng ngắc. Để không phản bội tư tưởng của Đức Giêsu, phải hiểu biết tư tưởng ấy từ nền văn hóa và ngôn ngữ của thời đại mình và vì thế, làm sáng tỏ tư tưởng ấy và thích ứng nó với thời đại của chúng ta mà vẫn tôn trọng ý nghĩa sâu xa của nó. Đức Giêsu hầu như không mã hóa gì cả. Bởi vì 'Thiên Chúa là người cùng thời với chúng ta": Người nói với chúng ta ngày hôm nay. Truyền thống (cái cũ) là chân chính nếu nó sống động, đầy những chồi nụ (cái mới). Cái mới chân chính không hủy hoại truyền thống: đối với những vấn đề mới, nó rút ra những lời giải đáp mới phù hợp. Với sự khôn ngoan của mọi thời đại. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chú ý đến mọi "cái mới" trong Giáo Hội "cũ xưa" của Chúa. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung tín với Người.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay thúc dục chúng ta hãy tìm kiếm sự khôn ngoan. Vua Salomon TN 17-A140
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay thúc dục chúng ta hãy tìm kiếm sự khôn ngoan. Vua Salomon trong bài đọc 1 đã không xin Chúa điều gì khác ngoài sự khôn ngoan. Lời cầu xin ấy làm đẹp lòng Chúa, nên Salomon đã được như ý và Chúa cho ông trở thành người khôn ngoan nhất trên đời.
Dụ ngôn kho tàng và viên ngọc qúi trong bài Tin mừng cũng nhắc cho chúng ta phải đi tìm kiếm sự khôn ngoan. Hai người tìm được kho tàng và viên ngọc qúi tỏ ra khôn ngoan, sẵn sàng bán hết của cải để mua cho được hai thứ đó. Người Kitô hữu đã được biết Chúa Giêsu, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, đã lãnh nhận được đức tin thì phải dứt bỏ tất cả để chiếm hữu cho được của qúi giá ấy, mặc dầu phải hy sinh.
Đức tin là một kho tàng vô giá, nó đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu và sự sống bất tận của Thiên Chúa. Chính nhờ Đức tin chúng ta chiếm hữu được Thiên Chúa là nguồn mọi sự thiện hảo. “Đức tin cho ta biết liên hệ giữa đời này và đời sau, giữa người ta và Thiên Chúa. Với Đức tin ta được đón nhận ánh sáng siêu nhiên để nhận biết ở trong ta những khả thể mà đến nay ta không biết. Đức tin đổi mới cái nhìn của ta về Thiên Chúa, về vũ trụ và về chính chúng ta. Nó làm cho ta có cái nhìn siêu việt của Thiên Chúa” (Lm Thân văn Tường trong tập “Đối diện với Chúa”).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 1V 33,5.7-12.
Bài đọc 1 cho chúng ta biết Salomôn là ông vua sáng chói nhất trong Cựu ước và của riêng dân Israel. Vị vua này lúc 20 tuổi lên kế vị cha là vua Đavít vào năm 960 trước công nguyên. Salomôn đến Gabaon và cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, Thiên Chúa hiện ra và bảo:”Ngươi muốn xin gì thì hãy xin và Ta sẽ ban cho”. Salomon không xin sống lâu, được giầu có, tiêu diệt quân thù mà lại xin được ơn khôn ngoan để biết suy xét và lãnh đạo dân chúng. Thiên Chúa khen ông và ban cho sự khôn ngoan, đến nỗi sau này trong lịch sử, ông được mang tên là “Ông Vua Khôn Ngoan”. Sự khôn ngoan biến thành từ ngữ “Khôn ngoan như vua Salomôn”.
Nhưng bất hạnh thay, lúc về già, vua Salomôn thay tính đổi nết, đã trở nên dại dột, đã làm những điều ngang trái và đây là cả một sự tai hại lớn cho Israel.
+ Bài đọc 2: Rm 8,28-30.
Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã đề cập đến ơn “Tiền định”. Theo đó, tiền định đây chỉ có nghĩa là ngay từ trước khi tạo thành thế giới, Thiên Chúa đã định cho loài người nên con cái của Người, theo hình ảnh Con của Người, Đấng đã trở nên người Anh Cả của một đàn em đông đúc.
Đối với những người được Thiên Chúa thương yêu thì:
- Người giúp họ được sự lành,
- Người kêu gọi họ nên thánh,
- Người kêu gọi họ và sẽ cho họ được vinh quang.
+ Bài Tin mừng: Mt 13,44-52.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn để khuyến khích thính giả hy sinh tất cả, không do dự, để sở hữu được Nước Trời.
Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc qúi dạy chúng ta rằng Nước Trời là một thứ qúi giá nhất, đối tượng của mọi nỗ lực tìm kiếm của ta, đáng cho mọi người bán đi tất cả để mua lấy.
Dụ ngôn mẻ lưới kéo nhiều cá từ biển lên cũng cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng của tuần trước. Dụ ngôn nhắc cho chúng ta: trong Nước Trời có người tốt kẻ xấu sống lẫn lộn. Thiên Chúa chỉ phân xử trong ngày tận thế để lựa lọc: kẻ tốt sẽ được thuởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt trong lửa đời dời.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy tìm kiếm sự khôn ngoan.
Người ta thường nói:”Khôn sống mống chết”(Tục ngữ) hay “Khôn sống bống chết”, nghĩa là khôn ngoan thì sống, dại dột đần độn thì chết. Tục ngữ “khôn sống mống chết” dùng nói về việc ở đời, nếu biết cách lo liệu, tính toán làm ăn, cư xử thì mọi việc đều đạt được đời sống khá giả. Ngược lại, sẽ lâm vào cảnh thất bại, khổ sở.
Trong đời sống thiêng liêng, người Kitô hữu cũng phải biết khôn ngoan lo cho tương lai của mình. Đời sống mai hậu hoàn toàn tùy thuộc ở nơi mình: được hạnh phúc vĩnh cửu hay trầm luân đời đời. Nước Trời là đối tượng của mọi sinh hoạt nơi trần thế, nhiều khi phải từ bỏ tất cả để chiếm hữu được Nước Trời, vì Nước Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh (Regnum coelorum vim patitur). Theo Kinh thánh thì “Đầu mối sự Khôn ngoan là lòng kính sợ Chúa”.
I. Ý NGHĨA BA DỤ NGÔN..
Dụ ngôn Nước Trời giống như kho báu chôn trong ruộng có vẻ hơi lạ đối với một số người, nhưng lại hoàn toàn tự nhiên đối với dân chúng ở Palestine. Trong thời Chúa Giêsu và cả ngày nay nó cũng vẽ ra bức tranh mà dân ở Đông phương đều biết cả.
Người thường dân hay cất giấu tài sản qúi giá nhất dưới đất, xem đó là nơi an toàn. Trong dụ ngôn về các nén bạc, người đầy tớ không trung tín chôn giấu nén bạc mình dưới đất để khỏi mất (Mt 25,25) đều nói lên thói quen đó. Ở Việt nam chúng ta thỉnh thoảng cũng có người tình cờ đào được chum vàng hay những vật qúi giá chôn dưới đất từ lâu mà nay đã mất chủ.
Truyện: Kho tàng ở Sidon.
Thompson trong quyển “Xứ thánh và Kinh thánh” xuất bản đầu tiên năm 1876 kể lại một trường hợp chính ông đã chứng kiến một kho tàng ở Sidon. Trong thành phố đó có một đại lộ nổi tiếng có trồng cây, một số công nhân đang đào xới trong một khu vườn trên đại lộ đã khám phá ra nhiều hũ bằng đồng chứa đầy những đồng tiền vàng. Họ có ý giữ kín chuyện khám phá này, nhưng vì họ đông và vì quá mừng nên chuyện lộ ra và chính quyền địa phương sung công kho tàng ấy. Đó là kho tàng của Alexandre đại đế và phụ hoàng Philipphê. Thompson cho rằng khi Alexandre bất ngờ qua đời ở Babylon và tin này đến Sidon thì một số viên chức chính quyền đã chôn giấu số tiền này với ý định chiếm đoạt chúng trong cuộc khủng hoảng sau cái chết của Alexandre.
Cả ba dụ ngôn này có ý nói rằng Chúa muốn dạy chúng ta phải là người khôn ngoan chân chính, là người biết đi tìm Nước Chúa, biết lo phần rỗi linh hồn mình, lo việc Chúa trước đã. Nói thế không phải là không lo đến đời sống vật chất, đời sống gia đình. Chúng ta phải lo việc Chúa trước đã “Mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau”.
II. NÓI VỀ SỰ KHÔN NGOAN.
Nếu nói về chuyện” khôn dại dại khôn” thì chúng ta hãy nói đến chuyện vua Salômôn. Vua Salômôn xem ra “dại” nhưng thực ra lại quá “khôn”. Chúa đã bảo:”Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi”. Ông dại quá, không xin giầu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh... mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên, thực ra ông quá khôn, bởi vì Khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác: nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giầu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giầu mạnh... và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
Thi sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, sau khi đã chán ngán với đường danh vọng, và bị ảnh hưởng triết lý “vô vi” của Lão Tử đã về ở ẩn. Ông đã nói lên cái “triết lý dại khôn” của ông trong một bài thơ:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người tìm chốn lao xao.
(Nguyễn bỉnh Khiêm)
Ở đời, có những người khôn mà không ngoan, có người ngoan mà không khôn. Có những người khôn vặt, khôn láu cá, khôn lỏi, cái khôn mà Thánh Kinh gọi là sự Khôn ngoan của con cái tối tăm. Nghĩa là chỉ biết khôn ngoan trong việc trần thế vật chất, tội lỗi, mà không có một chút khôn ngoan trong sự sáng, biết phân biệt lành dữ, biết lo phần rỗi. Chúa phán:”Được mọi sự thế gian, nghĩa là khôn ngoan nơi trần thế mà mất linh hồn thì nào được ích gì “? Vì thế người ta mới nói:
Khôn thế gian làm quan địa ngục,
Dại thế gian làm quan thiên đàng.
Muốn có sự khôn ngoan, con người phải dùng đến lý trí và lương tâm trong sáng mới đạt được, nghĩa là đừng để cho vật dục lôi kéo, trấn áp, làm cho tâm trí trở nên mê muội. Có những người học thức cao, bằng cấp đầy mình mà hành động hết sức thiếu khôn ngoan. Trường hợp của vua Salômôn cũng nói lên điều đó. Salômôn là vị vua khôn ngoan nhất trần gian, sáng tác được những câu châm ngôn tuyệt vời, không ai sánh bằng, nhưng khi về già đã đổi tính đổi nết, kết hôn với những người đàn bà ngoại đạo, đưa các thần ngoại vào trong triều đình, khiến nhà vua mất khôn ngoan sáng suốt, làm những việc ngu xuẩn khác với thời trước.
Truyện: Ngọc bích họ Hòa.
Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói:”Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói:”Đá, không phải ngọc”. Vua lại cho họ Hòa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở-sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa:”Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hòa”.
(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 144)
III. CÁCH HÀNH XỬ CỦA TA.
1. Phải can đảm chọn lựa.
Trong cuộc đời có nhiều sự chọn lựa. Quyền chọn lựa là do mỗi người và mỗi người phải nhận lấy hậu quả của sự chọn lựa ấy. Không một chọn lựa nào có thể hoàn toàn bảo đảm cho tương lai, nên con người luôn bị day dứt về sự lựa chọn: bởi vì có người lựa chọn trong sự khôn ngoan sáng suốt, có người lựa chọn trong sự u tối mờ mịt. Nhưng riêng trong việc lựa chọn Nước Trời luôn là một sự lựa chọn khôn ngoan, một chọn lựa đúng hướng. Muốn lựa chọn Nước Trời, chúng ta phải có thái độ can đảm, dám hy sinh tất cả, dám gạt bỏ mọi trở ngại trong việc tìm kiếm, dám nhận lấy cái nhãn hiệu là “người dại, người khờ”
Hai người trong bài Tin mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng giấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc qúy, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc qúy đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc qúy mà không làm như hai người ấy! Đương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn qúi giá hơn nhiều.
Truyện: Cách bắt khỉ.
Muốn bắt khỉ, người ta cho quả táo vào cái ống to, miệng nhỏ, chỉ để vừa tay con khỉ thò vào, đầu kia gắn vào gốc cây, rồi người ta ngồi rình chờ. Khỉ đến thấy quả táo ngon thì thò tay vào lấy luôn nhưng không rút tay ra được vì vướng miệng ống. Muốn rút tay ra được thì phải buông quả táo ra. Nhưng con khỉ không biết buông quả táo ra mà cứ nắm chặt lấy nó mà la hét. Người ta đến bắt dễ dàng.
Con khỉ thật dại dột, không biết buông quả táo ra để có thể rút bàn ta ra khỏi ống mà cứ khư khư giữ lấy quả táo thì không bao giờ có thể rút tay ra được. Con khỉ không biết bỏ cái nhỏ mà chọn lấy cái lớn, không biết bỏ quả táo đi mà giữ lấy bản thân.
Chúng ta đôi lúc cũng hành động như vậy. Chúng ta muốn thờ Thiên Chúa vừa muốn thờ thần Mammon, trong khi đó Chúa đã nhắc nhở:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Bao lâu chúng ta còn hành động theo kiểu “bắt cá hai tay” thì không bao giờ thành công, phải chọn một trong hai.
Muốn vào Nước Trời thì phải hy sinh, phải từ bỏ những gì làm cản trở:”Không phải cứ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý Cha trên trời”. bởi vì Nươc Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh, sức mạnh tinh thần (regnum coelorum vim patitur). Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để chiếm được một viên ngọc qúi. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để chiếm hữu được Nước Trời.
2. Chuẩn bị cho Giờ của Chúa.
Hình ảnh chiếc lưới vét hết mọi loại cá thường được dùng chỉ ngày tận thế, ngày cuối cùng của lịch sử (x.Lc 21,34). Điều khác biệt với dụ ngôn trên đây là vào ngày đó, tất cả mọi người, dù muốn hay không đều phải ra trình diện truớc toà phán xét. Ngày ấy sẽ là cuộc thanh lọc người dữ người lành. Sự lành sự dữ không thể được xếp đồng hạng với nhau. Sẽ có thời điểm phân tách để thưởng phạt công minh.
Như vậy người khôn ngoan là người sống hôm nay mà đang chuẩn bị cho tương lai ngày mai. Họ sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian, vì họ luôn hướng về Quê Hương vĩnh cửu. Tuy vậy, hạnh phúc đời đời không làm chúng ta quên đi bổn phận đối với anh em, đối với cuộc sống hiện tại. Vì hạnh phúc vĩnh cửu chính là kết quả của những gì chúng ta đã thực thi trong cuộc đời này.
Truyện: Cần phần rỗi linh hồn
Attila xâm chiếm nước Italia với các binh đoàn hùng hậu của ông. Khi đã chiếm đóng làm chủ khắp mọi nơi thuộc đế quốc Rôma, ngày kia quân lính đến báo cáo với ông ta rằng:”Ở vùng ông ta đang trú đóng có một vị ẩn tu rừng”, Attila, ông vua hiếu chiến, hung dữ, rất kiêu căng này luôn muốn mọi người run sợ sụp lạy trước mặt mình nên ông ta nảy ra ý định thử đến gặp vị ẩn sĩ xem sao.
Tưởng rằng vị tu hành sẽ sợ hãi khi đối diện với nhà chinh phục khét tiếng này, không ngờ, người của Thiên Chúa chẳng những không run khiếp, trái lại còn tỏ ra ung dung tự tại khiến Attila vừa nể phục vừa cảm mến. Sau khi trò truyện với một người khôn ngoan, có tài đáp ứng mau lẹ, Attila bèn hứng chí nói:”Ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi có thể ước muốn trong vương quốc ta”. Lúc đó, vị ẩn sĩ vừa ngửa tay chìa về phía Attila vừa nói:”Thưa Ngài, trong toàn vương quốc của Ngài, tôi chỉ ước muốn một điều duy nhất: Phần rỗi của linh hồn Ngài thôi”.
(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 98)
Phần rỗi linh hồn là một điều quan trọng và khẩn thiết nhất trong cuộc đời. Đức tin đưa chúng ta đến phần rỗi đời đời. Như người lái buôn tìm được ngọc quí, ông ta về bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy. Người Kitô hữu được Thiên Chúa tặng ban cho Đức tin là một hồng ân quí giá, chúng ta hãy về bán tất cả để giữ cho được cái kho tàng ân sủng ấy, có nghĩa là chúng ta phải dứt khóat từ bỏ những sở hữu phàm trần như: những đam mê thấp hèn, lòng tham danh vọng, tiền tài vật chất quá lẽ, tính ích kỷ kiêu căng, sự thờ ơ trước những đau khổ của người khác…
Suy gẫm các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn này là muốn mỗi người chúng ta phải nhận thức cho bằng được bài học quan trọng này: đang lúc còn sống ở trần gian, ai cũng phải ghi tâm khắc cốt rằng không có gì cao qúi và quan trọng cho bằng NƯỚC TRỜI. Nước Trời là kho báu tuyệt vời mà mọi người đáng mong ước. Xác tín như thế, người ta mới dám hy sinh từ bỏ mọi sự khác, hy sinh cả bản thân mình để chiếm được hạnh phúc thiên đàng.
-------------------------------
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Kho báu trong ruộng, viên ngọc quý và chiếc lưới bắt cá, những hình ảnh rất bình dị và gần TN 17-A141
Kho báu trong ruộng, viên ngọc quý và chiếc lưới bắt cá, những hình ảnh rất bình dị và gần gũi với đời thường của xứ sở Palestina được Chúa Giêsu sử dụng để truyền đạt giáo huấn của Người về Nước Trời.
Người nông dân hiểu rõ giá trị của kho báu khi ông phát hiện được chôn trong ruộng; người lái buôn kinh nghiệm trong nghề nên đánh giá đúng giá trị của viên ngọc. Họ đã tìm thấy những vật có giá trị cao và quyết định đánh đổi bằng cả gia sản của mình. Có người trách họ sao dại thế, vì mua kho báu và viên ngọc mà mất mọi sự thì lấy đâu nhà mà ở, đồ đạc đâu mà sử dụng. Tuy vậy, họ là những người khôn ngoan biết nhìn xa trông rộng. Bởi họ chắc chắn rằng, một khi đã tậu được thửa ruộng có kho báu hoặc viên ngọc quý thì họ sẽ có tất cả. Và một khi đã sở hữu kho báu và viên ngọc quý giá kia thì sẽ được lợi gấp trăm gấp ngàn lần số vốn mà họ đã bỏ ra. Như thế, họ không phải là những người nông nổi dại dột, mà trái lại, họ là những người khôn ngoan chín chắn, hiểu biết chọn lựa và quyết định của mình. Họ đã tận dụng cơ hội, nhanh tay sở hữu những tài sản mà họ biết rõ giá trị của chúng.
Nước Trời giống như… Chúa Giêsu thường dùng công thức này để nói về Nước Trời. Không có hình ảnh nào diễn tả chính xác Nước Trời. Nếu có sử dụng những hình ảnh đời thường thì đó chỉ là sự so sánh để người nghe dễ hiểu và để đón nhận giáo huấn mà Chúa muốn thông truyền. Chúa dạy chúng ta, Nước Trời phải là một chọn lựa ưu tiên cho những ai muốn nên trọn lành. Cũng như người quyết định mua thửa ruộng có chôn giấu kho báu và viên ngọc quý có giá trị cao, người đón nhận Nước Trời cũng phải chấp nhận hy sinh, có khi phải đánh đổi bằng cả mạng sống mình. Nhưng sự hy sinh ấy không phải là vô nghĩa, vì một khi họ đã được sở hữu Nước Trời làm gia nghiệp thì họ sẽ có tất cả. Họ sẽ có Chúa là Cha, có mọi người là anh chị em. Họ sẽ tìm được sự than thản trong tâm hồn cùng với niềm vui và hạnh phúc ở đời này và đời sau. Chúa Giê-su đã khẳng định: “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự bình an của Người. Còn những điều khác Người sẽ ban sau”. Lịch sử Giáo Hội nói với chúng ta đã có biết bao người nam cũng như nữ, giàu cũng như nghèo, chấp nhận chọn lựa Chúa bằng sự từ bỏ hy sinh và họ đã chứng minh rằng đó là một chọn lựa đúng.
Nội dung Bài Tin Mừng được diễn tả rõ nét hơn khi nối kết với Bài đọc I của Chúa nhật này: Salômôn là một ông vua còn trẻ tuổi khi nối nghiệp vua Đavít là cha mình. Trong ngày phong vương, Chúa đã cho ông một ân huệ, đó là ông xin gì thì Chúa sẽ ban. Salômôn không xin bạc vàng. Ông cũng chẳng xin mạng sống quân thù. Ông chỉ xin với Chúa sự khôn ngoan để có thể lãnh đạo Dân riêng của Chúa là dân Israen. Nội dung lời cầu nguyện của ông đã chứng minh ông là một người khôn ngoan rồi! Chúa đã chấp nhận lời xin của ông và lịch sử đã chứng minh ông là là người khôn ngoan nổi tiếng, làm cho các vua, hoàng hậu và các nước láng giềng phải thán phục. Một khi ông được ơn khôn ngoan, Salômôn cũng được bạc vàng, mạng sống quân thù, sự giàu có và phồn thịnh cho quốc gia. Nhờ sự khôn ngoan của vua Salômôn mà vương quốc được bình an và phát triển. Ông đã trở thành biểu tượng của sự khôn ngoan trong lịch sử. Salômôn đã biết xin điều cần thiết cho bản thân và dân tộc mình. Như người lái buôn và người nông dân biết rõ giá trị của thửa ruộng và của viên ngọc quý, ông hiểu rõ sự khôn ngoan quan trọng thế nào đối với bậc mẫu nghi thiên hạ.
Trong cuộc sống của chúng ta, vẫn luôn có những người khôn sống chung với người dại (xem lại Lời Chúa Chúa nhật trước với dụ ngôn cây lúa và cỏ lùng). Trong cuộc sống vẫn có những người lại khôn ngoan theo kiểu thế gian, tức là sự mánh lới lọc lừa. Có nhiều người “khôn lỏi” chỉ nhằm tới lợi lộc ích kỷ mà làm tổn hại tới tha nhân. Lấy gì làm tiêu chuẩn cho sự khôn ngoan giả và sự khôn ngoan thật? Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn của Người bằng hình ảnh chiếc lưới thả xuống biển để bắt cá. Người muốn nói với họ: các bạn đừng lo và đừng nản chí trước tình trạng có nhiều người kiêu ngạo và gian ác mà vẫn nhởn nhơ. Người tốt và người xấu sẽ có lúc được phân biệt. Lịch sử này sẽ kết thúc như một mẻ lưới mà tất cả các loại cá tốt xấu đểu phải vào lưới đó. Lúc bấy giờ, các thiên sứ theo lệnh của Chúa mà chọn lọc. Xấu tốt sẽ được phân biệt rõ ràng. Lành dữ sẽ được xét xử công minh, vì Chúa là Đấng thẩm phán tối cao của lịch sử. Gieo nhân nào, sẽ gặt quả nấy, người không tin Chúa vẫn khẳng định: “Ông Trời có mắt!”. Có thể con người không đoán được ý Chúa, chưa biết tương lai và hậu vận của mình sẽ ra sao. Tuy vậy, cần xác tín một điều: đối với những ai thiện chí sống tốt lành, thì Thiên Chúa không bỏ rơi bao giờ, vì “Ngài làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho những kẻ được kêu gọi như ý Người định” (Bài đọc II). Điều quan trọng là mỗi chúng ta luôn thận trọng, khôn ngoan và tỉnh thức, vì sẽ có ngày thế giới kết thúc như một mẻ lưới, và Chúa sẽ chọn lọc cá tốt, loại bỏ cá xấu.
Nhờ bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã chọn Chúa là lẽ sống và là gia nghiệp của đời mình. Sự chọn lựa này không chỉ dừng lại ở ngôn từ phát biểu, cũng không phải chỉ được thực hiện lúc lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, nhưng phải được minh chứng qua đời sống mỗi ngày của chúng ta, thể hiện qua lời nói, tư tưởng và hành động.
Đức tin là viên ngọc quý, là kho tàng mà chúng ta phải đánh đổi bằng biết bao cố gắng nỗ lực để giữ gìn. Chúng ta hãy dành cho Chúa một vị trí ưu tiên trong đời chúng ta, vì một khi có Ngài trong trái tim và tâm hồn, chúng ta sẽ được Chúa ban mọi điều cần thiết cho cuộc sống.
“Am hiểu tự hào vì mình biết quá nhiều; khôn ngoan nhún nhường rằng mình chỉ biết đến thế” (Knowledge is proud that it knows so much; wisdom is humble that it knows no more). (William Cowper -Từ điển danh ngôn Việt Nam).
-------------------------------
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
{“Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?” Họ thưa rằng: “Có”.
Người liền bảo họ: “Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình
******
“Tiền nhiều để làm gì?”
Trong vụ tranh chấp tài sản và cuộc ly hôn nghìn tỷ của vợ chồng “vua cà phê” Trung Nguyên đã TN 17-A142
Trong vụ tranh chấp tài sản và cuộc ly hôn nghìn tỷ của vợ chồng “vua cà phê” Trung Nguyên đã thu hút sự chú ý của công chúng rất nhiều. Một trong những câu nói được quan tâm nhất của ông Đặng Lê Nguyên Vũ tại phiên tòa là: “Tiền nhiều để làm gì, để hôm nay phải ngồi thế này” đã trở thành chủ đề “gây bão” khiến nhiều người đau đáu, suy ngẫm tìm câu trả lời. Và hôm nay chúng ta có thể tổng hợp lại rất nhiều quan điểm, cách nhìn nhận riêng về câu hỏi “siêu hot” này!
– Khi tôi còn trẻ tôi thường nghĩ tiền là một thứ quan trọng nhất trong cuộc sống. Và giờ khi về già, tôi biết điều đó vẫn luôn đúng.
Có tiền hô mưa gọi gió, không tiền mưa gió dội vào nhà
– Sống trên đời phải có tiền mới làm phiền được người khác
– Tiền không là gì cả… nhưng không có nó ta chẳng là gì cả!!!
– Đối với tôi, việc anh giàu hay nghèo không quan trọng, miễn là… anh có tiền
Tiền đi có nhớ ví không
Ví thì há miệng ngóng trông tiền về
Tiền đi chẳng giữ lời thề
Đi rồi đi mãi có về nữa đâu.
Tiền là cần thiết, nhưng có khi vì tiền mà mất tất cả. Mất gia đình. Mất nhân phẩm và mất cả hạnh phúc. Đồng tiền luôn là con dao 2 lưỡi. Nó có thể mang lại bình yên nhưng cũng có thể vì nó mà gặp biết bao thị phi.
Vì thế, cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta chọn lựa. Chọn lựa để có cuộc sống tốt hơn, hạnh phúc hơn. Có chọn lựa là có khước từ, có loại bỏ. Và chọn lựa nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Vì không ai có thể 2 tay bắt 2 con cá, mà phải chấp nhận chọn một con để rồi dùng cả nghị lực và đôi tay mà nắm bắt con cá trong tầm tay.
Hôm nay, Chúa đòi hỏi các môn đệ phải dứt khoát chọn Chúa hay tiền bạc. Nếu chọn Chúa thì phải can đảm : “Hãy đi bán tất cả gia tài, rồi đến theo Ta”. Hoặc là ở lại với của cải vật chất, tiện nghi sung túc, hoặc là theo Đức Kitô với hai bàn tay trắng, nghèo nàn thiếu thốn. Quả là một đòi hỏi gắt gao!
Từ chọn lựa tiền hay chọn Chúa sẽ dẫn tới một đòi hỏi quyết liệt cho đời sống đức tin của chúng ta. Chúa đòi hỏi chúng ta phải dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” và trong sách Khải Huyền, Chúa cũng nói với chúng ta rằng: “Thà ngươi thật nóng, thà ngươi thật lạnh, nếu người không nóng không lạnh, nhưng cứ dở dở ương ương, ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.”
Của cải là thứ không thể thiếu khi còn ở trần gian nhưng ham mê nó lại là một tai hại: Tai hại vì nó dễ làm cho con người vô cảm và ích kỷ, không biết đến lòng nhân ái, như ngươi giàu có trong Phúc Âm đối xử tệ với Lazarô nghèo khó. Tai hại vì nó dẫn đưa ta đến chỗ làm nô lệ cho nó, quên sĩ diện và có thể phạm tội ác, như Giuda bán Thầy vì mê 30 đồng bạc. Tai hại vì nó dẫn đưa ta đến chỗ ham hưởng khoái lạc vật chất và không kịp ăn năn như người phú hộ trong dụ ngôn Lagiaro.
Của cải là phương tiện Chúa ban để cải thiện đời sống cho tốt và hạnh phúc hơn, nên tự nó là tốt. Đó là hồng ân của Chúa. Người có tiền cần phải biết tạ ơn vì Chúa đã ban cho chúng ta lương thực hàng ngày cùng những phương tiện chính đáng cho cuộc sống hạnh phúc hơn. Của cải chỉ trở nên xấu khi ta quá mê nó, biến nó thành ông chủ và coi nó hơn Thiên Chúa. Biết kiếm tiền bằng làm ăn chân chính và biết dùng của cải như là phương tiện thì đồng tiền là đầy tớ tốt, nhưng nếu kiếm tiền bằng sự gian dối và coi nó như là cứu cánh để bán rẻ nhân phẩm như các cô hoa hậu bán diêm 700 triệu một đêm thì có tiền nhưng nỗi nhục cũng rất lớn.
Ước gì lời cam kết ngày Rửa Tội là chết cho tội và sống cho Chúa luôn mãi là chọn lựa đến cùng của người ky-tô hữu chúng ta. Xin Chúa giúp sức để chúng ta vượt qua sự yếu hèn và bản tính ham mê danh lợi thú để sống trung thành với Chúa. Xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng ta được theo Chúa trọn vẹn suốt đời con. Amen!
-------------------------------
Jorathe Nắng Tím
Sống là lựa chọn, bởi con người không thể sống mà không lựa chọn, khi đứng trước nhiều khả thể TN 17-A143
Sống là lựa chọn, bởi con người không thể sống mà không lựa chọn, khi đứng trước nhiều khả thể, nhiều đối tượng, nhiều phương hướng, và chọn lựa chính là khả năng quyết định hạnh phúc hay bất hạnh của đời mình.
Chàng và Nàng trong chương trình tivi “Bạn muốn hẹn hò” luôn được MC Quyền Linh, Cát Tường hoặc Nam Thư đặt câu hỏi: “Thế nào là mẫu người vợ hay chồng lý tưởng của bạn?” và ai nấy đều say sưa mô tả mẫu người lý tưởng của mình như một kho tàng qúy báu phải tìm cho kỳ được.
Nhưng không phải ai cũng có khả năng biết và đánh giá cái gì hay, cái gì dở, người nào xấu, người nào tốt. Bằng chứng là bao nhiêu hôn nhân đã đổ vỡ, bao nhiêu cuộc sống chung đã đứt gánh giữa đường đời, và người trong cuộc chỉ còn biết thẫn thờ thở than: Tôi lầm! Nếu biết thế, tôi đã không cưới nàng! Biết vậy, tôi đã chẳng nhận lời cầu hôn!
Nếu hành trình cuộc đời ít nhiều đã cho chúng ta kinh nghiệm xương máu của những lần chọn sai, lựa lầm, quyết định không đúng, thì hành trình đức tin cũng đòi chúng ta phải khôn ngoan để biết đâu là kho tàng qúy giá phải chọn, và đường nào là đường tốt nhất phải đi.
Sách Các Vua đã kể lại câu chuyện vua Salômôn được thị kiến Thiên Chúa trong giấc mộng, khi Ngài nói với ông: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho ”(1 V 3,5). Ngài muốn ban cho vua điều qúy giá nhất vua muốn xin, và sẵn sàng ban cho vua kho tàng vua muốn có. Và vua đã thân thưa cùng Chúa: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái” (1 V 3,9), vì vua biết trách nhiệm làm vua của dân Chúa sẽ rất nặng nề, và “Chúa hài lòng vì vua Salômôn đã xin điều đó” (1 V 3,10).
Với một tâm hồn biết lắng nghe, vua sẽ lắng nghe dân và lắng nghe Thiên Chúa. Nhờ thế vua sẽ nhận ra điều phải trái, để hoàn thành tốt đẹp sứ vụ cai trị dân như ý Chúa muốn. Và triều đại của vua Salômôn đã là triều đại huy hoàng, vì “Thiên Chúa đã cho vua được dồi dào khôn ngoan, thông thạo, và một trái tim bao la như cát ngoài bãi biển. Sự khôn ngoan của vua Salômôn trổi vượt hơn sự khôn ngoan của tất cả mọi người” (1 V 5,9-10).
Tin Mừng Mátthêu đã ghi lại dụ ngôn “kho báu và ngọc qúy” được kể từ miệng Đức Giêsu. Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu ca ngợi sự khôn ngoan của người kia khi “biết có kho báu chôn giấu trong ruộng”. Ông liền “chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy” (Mt 13,44); cũng như người thương gia khôn ngoan đi tìm ngọc đẹp, khi “tìm được một viên ngọc qúy, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,45). Và Ngài kết luận: Nước Trời chính là kho báu, và viên ngọc qúy ấy .
Như thế Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta biết kho tàng qúy báu mà chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu cho kỳ được chính là “trở nên giống Đức Giêsu”, như thánh Phaolô đã viết trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Vì những ai Thiên Chúa đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29), để những người em này được nên công chính và được hưởng phúc vinh quang (x. Rm 8,30) .
Và lậy Chúa, trên đường đời chúng con đi, xin ban cho tôi tớ Chúa ơn khôn ngoan để “hết lòng hết dạ kiếm tìm Người” (Tv 116,2).
--------------------------
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Nói đến một vương quốc hùng mạnh, người ta thường nghĩ đến một vương quốc giàu tiềm lực TN 17-A144
Nói đến một vương quốc hùng mạnh, người ta thường nghĩ đến một vương quốc giàu tiềm lực kinh tế, chiếm nhiều đất đai, sức mạnh của vũ khí, sở hữu hạt nhân… Vậy mà có một vương quốc lại xây dựng bằng sự hiền lành, khiêm nhường, những gì nhỏ bé bằng tinh yêu. Đó là một vương quốc Nước Trời, một vương quốc kỳ lạ.
Một vương quốc hùng mạnh, người đời cho rằng, đó là một nước có thể áp đặt ý chí của mình trên các quốc gia khác. Chúa Giêsu đến loan báo về một Nước Trời là một nước thực thi những gì khiêm tốn, phục vụ trong yêu thương. Một nguyên tắc để sống, gieo lòng nhân ái gặt lại lòng nhân từ, Chúa Giêsu dạy: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10, 42)
Một quốc gia hùng mạnh cần có nhiều vũ khí, tài lực, hạt nhân, để sẵn sàng chinh phạt các quốc gia lân cận. Một vương quốc kỳ lạ, không áp dụng như thế! Chúa Giêsu rao giảng về Nước Trời cần được xây dựng trên nền tảng: “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ bách hại mình” (Mt 5, 44).Con đường tuy nhỏ bé, nhưng rất khó thực hiện. Nguyên tắc không thỏa hiệp với cái ác, lấy cái ác chống lại cái ác, mà luôn lấy công bình, bác ái, làm phương cách xây dựng hòa bình. Con đường này đòi hỏi nhiều hy sinh, có khi chịu nhiều bắt bớ, tù đày và nguy cơ bị giết.
Một vương quốc theo thế gian, nuôi dưỡng lòng thù hận, giáo dục lòng yêu nước bằng căm thù, xâm lấn, tiêu diệt. Trong lòng người nhiễm lòng hận thù, nuôi dưỡng những đố kỵ, ghen ghét. Tấn công bằng gièm pha, tìm kẽ hở, cài bẫy, dùng cái xấu gán ghép hoặc phóng đại để tiêu diệt kẻ thù, người không ưa thích. Chúa Giêsu lại dạy “Hãy có lòng nhân từ” (Lc 6, 36) sống khoan dung, đón nhận, tha thứ để xây dựng Nước Trời. Trên thập giá Người biểu lộ quyền năng của tình yêu là tha thứ, như lời sách tiên tri Mikha đã loan báo: “Với ta, Người lại chạnh thương lần nữa, mà dẫm lên các tội ác của ta. Mọi lỗi lầm của ta, Người sẽ quăng chìm đáy biển!” (Mk 7, 19)
Những hạt bé nhỏ, nhưng thực sự không nhỏ khi lớn lên. Lòng nhẫn nại, sự hy sinh, loại trừ ích kỷ nhỏ nhen. Giữ được lời nói, không xách mé, không gièm pha, không ghen ghét… Rất nhiều những hạt nhỏ mỗi ngày. Chăm sóc những hạt nhỏ lớn lên, cho tình yêu thương có chỗ đậu, cho nhiều người sống bên được bình an, tìm thấy niềm vui trong tình bạn, tình thân, tình làng nghĩa xóm.
Dụ ngôn hạt cải thật bé nhỏ, khi lớn lên chim trời đến đậu, nương nhờ (Mt 13, 44 – 52).
Chúa dạy từ những gì nhỏ bé nhất trong đời sống, hãy làm với tất cả tình yêu, sống cuộc đời đầy ý nghĩa và luôn dâng lời tạ ơn.
--------------------------
Maria Phạm Anh
Nước Trời là một thực tại thiêng liêng vượt quá tầm hiểu biết của con người, nên con người không TN 17-A145
Nước Trời là một thực tại thiêng liêng vượt quá tầm hiểu biết của con người, nên con người không thể hiểu nếu không có ai vén mở cho. Chính Đức Giêsu, Đấng từ Trời mà đến đã mặc khải cho chúng ta về Nước Trời qua dụ ngôn “Kho báu và ngọc quý”. Liệu rằng, Nước Trời là kho báu và ngọc quý là những thứ vật chất mà chúng ta hằng ngày vẫn phải lao nhọc, vất vả để có được, nhằm trang trải cuộc sống mưu sinh? Nếu vậy, ai càng giàu thì càng có được Nước Trời hay sao? Hay kho báu Nước Trời ấy là gì, để rồi người nông dân và người thương gia “vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua” ( Mt 13, 44.45)? Làm sao chúng ta có thể tìm kiếm kho báu ấy, và khi thấy thì có thể giữ lấy?
Khi nói đến kho báu, chúng ta nghĩ ngay tới trong đó chứa đầy vàng bạc, châu báu, là những thứ chúng ta có thể nhìn thấy, sờ thấy, cân đo, đong đếm được. Còn Nước Trời, có ai đụng chạm được? Thế mà Chúa Giêsu đã ví Nước Trời như chuyện kho báu chôn trong ruộng, phải chăng Nước Trời không có thật, chỉ là ảo tưởng? Đã bao giờ chúng ta đặt câu hỏi thắc mắc về những người sống đời thánh hiến, tại sao cuộc sống thật đẹp, gia đình giàu sang, nghề nghiệp ổn định, xinh đẹp, thậm chí rất nổi tiếng, … nhưng lại từ bỏ tất cả để đi tu? Chẳng hạn như Thánh Têrêsa Avila, Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Đức cha Lambert de la Motte,… Hay điển hình là Thánh Phanxico Assisi, ngài là một người trong gia đình thuộc giới thượng lưu, một ngày kia ngài đã từ bỏ tất cả, cởi bỏ cả quần áo, trả lại cho cha mẹ để sống cuộc đời ẩn dật. Thật kỳ lạ! Người đời bảo rằng họ “ngớ ngẩn”, nhưng thực ra họ thật khôn ngoan. Bởi vì, họ đã tìm kiếm được kho báu thật là hạnh phúc nên họ đã đánh đổi tất cả để chiếm lấy. Kho báu ấy chính là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã khẳng định: “ Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với một mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3, 7-9). Và ý định của Thiên Chúa Cha là chúng ta được nên đồng hình đồng dạng cùng với Con của Người (x. Rm 8, 29).
Vậy làm sao chúng ta có thể nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, bởi Người là Con Một Thiên Chúa trong khi chúng ta vẫn là những con người đầy yếu đuối? Giống như vua Sa-lô-môn, ông không xin cho được sống lâu hay giàu sang phú quý, nhưng ông xin cho được khôn ngoan để nhận biết đường lối của Thiên Chúa. Nếu chúng ta cũng bắt chước như vua Sa-lô-môn, chắc chắn Thiên Chúa cũng rất hài lòng. Vậy chúng ta cứ can đảm chạy đến với Chúa và nài xin Ngài. Xin cho chúng ta được ơn hiểu biết về Ngài, biết thánh ý của Ngài đang muốn thực hiện trên cuộc đời của chúng ta. Bởi càng hiểu biết càng thêm lòng yêu mến, để mỗi ngày chúng ta được nên giống Chúa hơn. Tiếp theo, chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “hãy đi bán tất cả những gì mình có để mua lấy Nước Trời” (x Mt 13, 44.45). Vậy chúng ta có những gì? Chúng ta có ơn Chúa ban, lòng bác ái, sức khỏe, thời gian, những khả năng nghiệp vụ, vật chất, lời cầu nguyện,… Chúng ta có rất nhiều, đặc biệt là chính con người của chúng ta trở nên tình yêu và trao ban tình yêu. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: không ai nghèo đến nỗi không có cái để cho. Chúng ta có rất nhiều thứ, vậy có gì ngăn cản mà chúng ta không dùng những thứ ấy ở trần gian này mà mua lấy Nước Trời ngay ở hiện tại! Chẳng hạn, chúng ta hãy đi bước trước đến với tha nhân để giúp đỡ, hỏi thăm, chia sẻ. Trong nghiệp vụ, chúng ta hãy làm với hết khả năng của chúng ta, nông dân thì ra sức làm sản sinh vụ mùa tốt, bác sĩ đem hết nhiệt huyết để cứu chữa người bệnh, … Theo kinh nghiệm của các vị truyền giáo, chúng ta không có nhiều của cải để cho, nhưng cái chúng ta có chính là Đức Kitô và chỉ đến để hiện diện với họ là được. Khi chúng ta càng cho đi, chúng ta càng cảm nhận rõ hơn về sự hiện diện của Thiên Chúa đang sống cùng với và sống chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể mua được Nước Trời rồi!
Lạy Chúa Giêsu, con thật hạnh phúc khi đã khám phá ra kho báu Nước Trời là chính Chúa, là được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Xin chúa cho con biết dùng cả đời sống con để mua được kho báu ấy, là biết dùng những hồng ân Chúa ban để không ngừng kiếm tìm Chúa, qua cầu nguyện, qua cuộc sống, qua những người anh chị em mà con được gặp gỡ. Khi con đã tìm thấy kho báu ấy, xin cho con cũng biết làm cho anh chị em con cũng tìm thấy kho báu ấy là chính Chúa. Amen.
--------------------------
Lm Vũđình Tường
Ba dụ ngôn; dụ ngôn thứ nhất liên quan đến lùng tìm vật quí. dụ ngôn thứ hai liên quan đến viên TN 17-A146
Ba dụ ngôn; dụ ngôn thứ nhất liên quan đến lùng tìm vật quí. dụ ngôn thứ hai liên quan đến viên ngọc quí và dụ ngôn cuối liên quan đến lưới cá, tất cả đều rất ngắn, chỉ có vài câu. Dụ ngôn lưới cá dài nhất cũng chỉ có 4 câu. Nhìn thoáng qua thì hình như cả ba dụ ngôn đều rời rạc, không liên quan gì đến nhau. Xét kĩ hơn về phương diện hành xử trong việc trao đổi thì cả ba dụ ngôn có nhiều điểm chung. Thứ nhất là liên quan đến vấn đề tìm, kiếm, tìm thấy, thu xếp bán tất cả để mua vật quí tìm được. Thứ hai liên quan đến kiến thức cần thiết để biết đó là viên ngọc thật quí hiếm, hay viên ngọc thường. Thứ ba liên quan đến việc quyết tâm, bằng mọi cách, mua cho bằng được điều ước mong. Cuối đến là công việc cần thiết phải làm để mua viên ngọc. Hành động tìm kiếm, mua bán, đổi chác có nhiều điểm chung. Chẳng hạn như chúng đều đòi hỏi tinh thần mạo hiểm. Chúng đòi hỏi thời gian tìm kiếm, mò mẫm. Tìm được chúng đòi hỏi nghệ thuật thương thuyết, điều đình trong việc buôn bán, đổi chác trong thương trường. Chúng đòi hỏi định lượng khả năng đổi chác và khả năng tài chánh gia đình. Cuối cùng cần phải bảo vệ, giữ kín, việc đang âm thầm thực hiện thành công. Tất cả những việc này đều có niềm vui, hy vọng và ngay cả thất vọng. Việc làm chủ viên ngọc quí đòi hỏi nhiều cố gắng hơn cả. Có được viên ngọc quí thì cần bỏ công sức ra gìn giữ, bảo vệ viên ngọc. Công việc bảo vệ, gìn giữ không phải một thời gian ngắn mà suốt thời gian làm chủ viên ngọc. Vì thế mà cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày cần thay đổi cho thích hợp với nhiệm vụ mới.
Đức Kitô ám chỉ viên ngọc quí trong dụ ngôn chính là Đức Tin, tin vào Đức kitô. Là viên ngọc hiếm quí, nên cần gìn giữ đức tin với tất cả khả năng. Đức tin thay đổi cuộc sống trước kia. Khi chưa có đức tin sống khác; sau khi tin vào Đức Kitô cuộc sống mới bắt đầu, thay đổi bắt nguồn từ trong tâm hồn, thay đổi cách suy nghĩ, thay đổi lời nói, thay đổi việc làm, thay đổi cách đối xử với tha nhân, thay đổi cách cầu nguyện. Như thế toàn thể con người thay đổi để trở thành con người mới. Việc thay đổi cuộc sống dẫn đến việc chọn lựa lối sống cách nào cho phù hợp với giáo huấn của Đức Kitô. Chọn loại bỏ những gì trái nghịch yêu thương, trái nghịch tha thứ. Những chọn lựa này làm cho dụ ngôn lưới cá trở nên thực hơn, gần gũi hơn, liên quan đến cách sống của Kitô hữu. Từ bỏ lối sống cũ để đón nhận lối sống mới là việc cần làm, và là việc quan trọng hơn cả. Loại bỏ những gì làm hại sống, gây đau thương, lo lắng cho thân nhân và đau khổ cho tha nhân đòi quyết tâm, cố gắng, dứt khoát từ bỏ. Từ bỏ những gì xã hội yêu thích, đón nhận đức tin Kitô chính là hành động khôn ngoan. Thánh Phaolô trong thư cho tín hữu thành Philiphê viết: ‘Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô’ Pl. 3, 7-8.
Từ bỏ tất cả để tin theo Đức Kitô là có tất cả bởi tất cả mọi sự trên đời đều qua đi. Lòng mến, tình yêu dành Cho Đức Kitô không bao giờ qua đi. Bán mọi sự để mua thửa ruộng có ngọc quí là điều có thể làm được, nhưng mua đức tin thì không thể, bởi không có người bán, và cũng không ai có để bán. Đức Kitô là Đấng duy nhất ban cho niềm tin tuyệt hảo đó. Không gì trên đời có thể so sánh với tình yêu Chúa dành cho Kitô hữu. Đáp lại tình yêu tuyệt vời Chúa trao, thì con tim Kitô hữu, dù bất toàn, cũng là món quà duy nhất ta có để đáp lại tình Chúa. Dùng tình yêu đáp trả tình yêu là điều Kitô hữu có khả năng làm; được khuyến khích làm. Ngoài ra ta không còn gì tốt hơn để đền đáp tình Chúa yêu ta. Những ai thành tâm đón Đức Kitô vào lòng mình, Đức Kitô sẽ ban cho đức tin. Đây là món quà quí, Đức Kitô tặng không cho những ai yêu mến Ngài. Như thế dụ ngôn nói bán tất cả mọi sự để mua viên ngọc quí là ngụ í nói đến con người từ bỏ tất cả để tin theo Đức Kitô. Nói cách khác dụ ngôn muốn nói đến đức tin Đức Kitô trao ban có giá trị hơn tất cả mọi sự ta có. Thánh Matthêu cgi lại điều Đức Kitô giáo huấn. ‘Kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó’ Mat 6, 21. Cần bảo vệ đức tin hết khả năng, hết tâm tình. Càng dành nhiều thời giờ cho đức tin, bạn sẽ nhận được nhiều niềm vui nước trời. Chúng ta cầu xin biết xét tấm lòng của ta mỗi ngày để biết kho tàng của ta ở đâu.
--------------------------
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng hai Chúa Nhật vừa qua, Chúa Giêsu giáo huấn về mầu nhiệm Nước Trời qua các dụ TN 17-A147
Tin Mừng hai Chúa Nhật vừa qua, Chúa Giêsu giáo huấn về mầu nhiệm Nước Trời qua các dụ ngôn : Người Gieo Giống, Cỏ Lùng, Hạt Cải, Nắm Men.
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn qua dụ ngôn Kho Báu và Viên Ngọc Quí.
Cả hai người trong dụ ngôn tìm thấy kho báu và viên ngọc đều vui mừng trở về bán hết gia tài để mua. Không thấy họ có dấu hiệu tiếc nuối, chần chừ hay so đo. Họ quyết định thật nhanh với một tâm hồn thanh thản và vui sướng. Phản ứng của hai ông cho thấy việc từ bỏ, dứt khoát với những gì mình đang có là việc phải làm sau khi khám phá và hiểu được cái giá trị mình sắp có.
Dụ ngôn “Kho báu chôn trong ruộng” và “Viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và ‘Viên ngọc quý” ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để mỗi người tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô. Có Ngài, là có tất cả! Đó là xác tín và là lựa chọn dấn thân trọn vẹn, dứt khoát để có được “Điều Cao Quí” như kinh nghiệm của chính thánh Phaolô : “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Phil 3,7-8). Nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô trong bài đọc 2: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô, là đạt đến Nước Trời. Muốn đạt đến cùng đích ấy, cả hai dụ ngôn đều đề nghị người nghe chọn lựa sự nghèo khó như được nói trong (Mt 5,3): “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”, khi lặp đi lặp lại: “bán tất cả những gì mình có” (cc.44.46). Kho báu và viên ngọc quý, như thế, chính là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa “Nước Trời là của họ”. Kinh nghiệm đó tạo nên niềm vui sâu xa trong tâm hồn. “Kho tàng anh ở đâu thì lòng trí anh ở đó” (Mt 6,20).
Tính chất cao quý có giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời đã được các bài đọc Sách Thánh hôm nay làm nổi bật bằng cách đưa ra những so sánh ví von. Cao quý như sự khôn ngoan được vua Salômon coi trọng hơn phúc lộc thọ của ngai vàng (bài đọc 1). Salômon kế vị Vua cha là Đavít. Salômon nhận rõ mình “trẻ người non dạ” và những hạn chế của bản thân trước trọng trách làm vua. Salômon được Thiên Chúa yêu thương, ân ban cho ông được quyền xin ơn gì ông cần. Salômon không xin giàu có, không xin vinh quang và cũng không xin trường thọ. Salômon xin ơn khôn ngoan để hướng dẫn dân được tuyển chọn đúng theo đường lối của Chúa. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa và ông được nhậm lời. Salômon trở nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới Israel. Trước ông không ai như ông và sau ông không ai bằng ông. Cao quý như lề luật được Dân Chúa coi trọng tựa Nguồn Sáng dẫn lối (bài đọc 2). Cao quý như “Kho báu chôn trong ruộng” như “Viên ngọc quý”. Nước Trời là một ân ban cao quý Thiên Chúa dành cho mọi kẻ kiếm tìm.
Sau khi đã nhận ra kho báu, người cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định. Là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: ‘Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoại vẫn tìm kiếm…Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6,31-33).
Sách Giáo lý Công giáo cũng khuyên dạy: ‘Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi” (GLCG # 546).
Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, một khi đã khám phá ra, phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu chính là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho báu ; vị thương gia bán tất cả tài sản để mua cho bằng được viên ngọc quý là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.
Người nông dân, vị thương gia đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống là thái độ hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm vui này mới làm cho con người có khả năng dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có được một khi thờ ơ không dám lên đường tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm kiếm của cải trần thế, thú vui xác thịt thì sẽ không bao giờ khám phá được niềm vui Nước Trời, niềm vui trong Chúa.
Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ tất cả để đạt cho bằng được là niềm vui của đời Kitô hữu chính là thái độ chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống, nơi Chúa mới tìm kiếm được nguồn mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc.
Hai hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quý” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết gía trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý giá kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.Trong “Ngàn lẻ một đêm” có câu chuyện “Ông già xứ Ba Tư”. Người nông dân có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý. Ông ta nghe lời một vị đạo sĩ nên bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước nầy sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả. Cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.
Điều quan nhất là phải biết khám phá, trong bản thân mình, ai cũng có một kho báu quí giá. Kho báu ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, được dựng nên “giống Thiên Chúa” (St 1,26.27; 9,6), là “con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá con người hết sức cao quí. Đó là niềm vui và là hạnh phúc. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.
Trong Đức Kitô, sự khôn ngoan Thiên Chúa đã được tỏ bày qua sự yếu đuối nhân loại. Ai chân thành với Đức Kitô sẽ gặp thấy Ngài chính là kho báu. Ai trung thành làm theo lời Đức Kitô sẽ sở hữu trọn vẹn kho báu ấy. Ai nhiệt thành gắn bó với Đức Kitô sẽ được chia sẽ cùng Ngài kho báu hạnh phúc Thiên đàng.
--------------------------
Trầm Thiên Thu
Chắc hẳn ai cũng đã khốn nhiều lần mới có thể nên khôn, vả lại chúng ta chỉ là những phàm nhân TN 17-A148
Chắc hẳn ai cũng đã khốn nhiều lần mới có thể nên khôn, vả lại chúng ta chỉ là những phàm nhân yếu đuối. Biết vậy không phải để thất vọng mà để nỗ lực nhiều hơn và tín thác vào Thiên Chúa tuyệt đối. Có thể đã có những lúc chúng ta “khôn nhà, dại chợ” thật đấy, nhưng nhờ vậy mà biết mình bị lừa, và rồi mới khôn ra.
Đời thường còn cần khôn ngoan huống chi tâm linh, đặc biệt hơn bởi vì khôn ngoan còn là một nhân đức. Kinh Thánh xác định: “Khôn ngoan chính là cây sự sống đối với người nào nắm được khôn ngoan. Giữ được khôn ngoan quả là hạnh phúc.” (Cn 3:18) Khôn ngoan còn là loại “trang sức” tuyệt vời: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng.” (Gv 8:1) Làm sao có thể sống khôn ngoan? Kinh Thánh cho biết bí quyết: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khỏe dồi dào.” (Hc 1:14:18) Sự khôn ngoan thật độc đáo quá chừng!
Phàm điều gì cũng có tính liên đới: khôn ngoan, khiêm nhường và kiêu ngạo. Lạ lùng là cả 3 nhân đức này, theo Việt ngữ, đều bắt đầu bằng mẫu tự K, nhưng đối lập với 2 K – khờ khạo và 2 D – dại dột. Ai khiêm nhường sẽ có khôn ngoan thật, ai kiêu ngạo sẽ có khôn ngoan ảo. Ba mẫu tự K với hai hướng trái ngược nhau. Mẫu tự K cũng kỳ diệu lắm. Ước gì mỗi chúng ta luôn biết tự nhủ và có thể quyết tâm hứa với Chúa: “Dầu hèn mọn và bị người khinh dể, huấn lệnh Ngài, con cũng chẳng quên.” (Tv 119:141) Thế thì tuyệt!
Tuy nhiên, khôn ngoan không liên quan giỏi giang, thông minh hoặc ngu dốt. Người giỏi và thông minh chưa chắc khôn ngoan, và người ngu dốt không hẳn thiếu khôn ngoan. Thánh Faustina (1905-1938) kém cỏi chữ nghĩa nhưng được Chúa Giêsu mặc khải bí quyết nên thánh là “tín thác vào Đức Kitô.” Đúng như Chúa Giêsu đã vui mừng tạ ơn Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11:25; Lc 10:21) Thật vậy, Thánh Teresa Lisieux (Teresa Hài Đồng Giêsu, 1873-1897) học hành chẳng bao nhiêu nhưng lại có “luận án độc đáo” nên được Giáo Hội tôn phong là tiến sĩ, đó là bí quyết nên thánh đơn giản theo “con đường thơ ấu,” tức là nên như trẻ thơ. Và Chị được chọn làm thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, bệnh nhân AIDS (SIDA), phi công, người bán hoa, và bệnh nhân. Chỉ ở trong 4 bức tường dòng kín, chẳng đi đâu, thế mà Chị vẫn thông tuệ.
Thánh Anthony Cả phân biệt: “Có những người được gọi là thông minh chỉ vì từ ngữ ấy bị lạm dụng. Người thông minh không phải là người nghiên cứu ngôn từ và tác phẩm của các bậc thông thái thời xưa, nhưng là người có tâm hồn sáng suốt, biết đoán định điều tốt điều xấu; với lòng tri ân Thiên Chúa, họ xa tránh những điều xấu nguy hại cho linh hồn, đồng thời ân cần lưu tâm và thực hiện điều tốt sinh ích cho trần thế.”
Cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều có nhiều loại kho tàng, nhưng chắc hẳn khôn ngoan là kho tàng quý giá nhất. Quả thật, sự khôn ngoan rất cần thiết, nhất là đối với những người đang lữ hành giữa trần gian đầy mưu ma chước quỷ này. Vì thế, Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em phải KHÔN như rắn và ĐƠN SƠ như bồ câu.” (Mt 10:16) Khôn hay Dại cũng còn tùy “tầm nhìn” của mọi người. Người Công giáo có câu vè thế này: “Khôn thế gian làm quan Địa Ngục, dại thế gian làm quan Thiên Đàng.” Cách quan niệm cũng có tầm quan trọng nhất định – Thiên Đàng và Hỏa Ngục ở sát ngay bên, không hề xa xôi…
Sự khôn ngoan luôn được đề cao, dù người đó thuộc bất cứ dân tộc nào. Nhưng khôn ngoan cũng có năm lối, bảy đường. Ở Việt Nam có Nguyễn Bỉnh Khiêm, cụ thản nhiên: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tìm chốn lao xao.” Ôi chao, mấy ai có được “cái dại” như cụ! Tây phương có văn hào Victor Hugo (Pháp) với cách nhận định: “Sự thận trọng là con trưởng của sự khôn ngoan.” Còn Văn sĩ Robert A. Heinlein (Mỹ) so sánh: “Lòng tốt thiếu sự khôn khéo thì chẳng khác gì cái ác.” Kịch tác gia Menander (Hy Lạp) nói chắc: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan.” Đừng tưởng già mà khôn. Đó là loại triết-lý-sống mà đôi khi cần “ngược” chứ không “xuôi.”
Thời Cựu Ước, Đức Chúa đã hiện ra báo mộng cho vua Salômôn tại Ghíp-ôn: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” (1 V 3:5) Đúng là hơn cả tuyệt vời, được Chúa “bật đèn xanh” như vậy thì còn gì bằng. Thế nhưng ông không dám xin gì để thỏa mãn chính mình.
Ông khiêm nhường thân thưa: “Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Đa-vít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. Và bây giờ, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đa-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” (1 V 3:6-9)
Vua Salômôn thực sự khôn ngoan khi xin ơn khôn ngoan mà không nói rõ là khôn ngoan, chỉ xin “biết lắng nghe” và “biết phân biệt phải trái.” Khéo ghê đi! Biết hai điều đó thì khôn ngoan quá chừng rồi. Và Kinh Thánh cho biết: “Chúa hài lòng vì vua Salômôn đã xin điều đó.” (1 V 3:10) Rõ ràng đức khôn ngoan vô cùng quan trọng.
Vì hài lòng nên Ngài nói với nhà vua: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp.” (1 V 3:11-12) Ông không chỉ là người khôn ngoan nhất thế gian, mà có thể nói rằng ông cũng là người hạnh phúc nhất đời này. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết cầu xin điều có lợi cho người khác để làm hài lòng Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta cũng sẽ được một phần khôn ngoan mà Vua Salômôn đã nhận được từ Thiên Chúa.
Lại cũng rất khôn ngoan khi Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, con đã nói: phần của con là tuân giữ lời Ngài.” (Tv 119:57) Tấm gương này đáng soi lắm. Nghĩa là chúng ta phải “coi trọng luật Chúa truyền ban hơn vàng muôn bạc triệu.” (Tv 119:72) Đó cũng là một dạng dấn thân, quên mình để theo Chúa, đó là khôn ngoan. Nhưng điều đó không dễ thực hiện nếu chúng ta không “tự khó với chính mình.” Đồng thời, còn phải cố gắng để có thể quyết tâm như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3:30) Đó là lúc đứng trên đỉnh cao khôn ngoan rồi.
Khôn ngoan chứ không khôn ranh hoặc khôn lỏi. Nghĩa là phải tự khó với chính mình nhưng không khó với người khác, và khiêm nhường cầu xin: “Xin Chúa lấy tình thương mà an ủi, theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài đây. Xin chạnh lòng thương cho con được sống, vì luật Ngài làm con vui sướng thoả thuê.” (Tv 119:76-77) Thực sự quyết tâm như vậy rồi mới có thể xác định: “Vì thế, mệnh lệnh Ngài, con yêu quý, quý hơn vàng, hơn cả vàng y. Vì thế, theo mọi huấn lệnh Ngài, con thẳng bước, lòng ghét mọi đường nẻo gian tà. Thánh ý Chúa kỳ diệu lắm thay, nên hồn con tuân giữ. Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường.” (Tv 119:127-130) Điệp ngữ “vì thế” thật tuyệt vời biết bao!
Là Con Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng, thế nên Ngài cũng chỉ thích những người thật lòng khiêm nhường. Trong bài thánh ca Magnificat – Ngợi Khen, Đức Mẹ đã xác định: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1:52) Mãi từ ngàn xưa, Cựu Ước cũng đã xác định: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay.” (Hc 10:14) Và vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cũng nói rõ về Thiên Chúa: “Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách.” (Đn 4:34)
Ý Chúa huyền nhiệm, quan phòng kỳ diệu, tiền định lạ lùng, chúng ta không thể hiểu thấu. Nhưng về ý định cứu độ của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.” (Rm 8:28-29) Thật tuyệt vời vì chúng ta được Ngài yêu quý và thương xót, được giải thoát khỏi ách tội lỗi nhờ Bửu Huyết Đức Kitô, được phục hồi cương vị làm con, rồi còn được là “tiểu đệ” hoặc “tiểu muội” của Sư Huynh Giêsu nữa. Phàm ngôn không thể nào diễn tả đủ mức niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng nhờ sự cao cả của Thiên Chúa.
Đưa ra một chuỗi hệ lụy liên kết với nhau rất lô-gích, Thánh Phaolô cho biết: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8:30) Được “hưởng phúc vinh quang” tức là được vào Nước Trời, vào Thiên Đàng, nơi chỉ có những con người thực sự khôn ngoan mà thôi. Như người ta thường nói là “sống khôn, chết thiêng” vậy.
Tuy nhiên, muốn vào Nước Trời hay không là quyền tự do của chúng ta, Chúa không hề ép buộc ai, vì Ngài đã ban cho chúng ta quyền tự do, và Ngài luôn tôn trọng quyền đó nơi mỗi chúng ta. Thực sự rất đáng quan ngại về sự tự do đó. Nhưng vì thương xót chúng ta, Ngài không bỏ mặc chúng ta, thế nên Ngài vẫn cảnh báo hoặc động viên, vì Ngài muốn tất cả chúng ta được vào Nước Trời, chứ không muốn ai phải hư mất. Có lẽ vì tôn trọng tự do của chúng ta mà Chúa Giêsu thường sử dụng dụ ngôn và cứ lặp đi lặp lại cách nói này: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35)
Quả thật, rất cần phải tỉnh thức, tức là phải sống khôn ngoan, biết phân định để có thể chọn lựa điều đúng và có thể trở nên công dân Nước Trời mai sau. Chúa Giêsu đã đưa ra nhiều dụ ngôn để mô tả Nước Trời, đây là ba dụ ngôn ngắn gọn trong số đó:
✠ KHO BÁU: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” (Mt 13:44) Dụ ngôn này không khó hiểu, nhưng có cái khó khác. Vấn đề là “bán tất cả những gì mình có” được hay không thuộc quyền tự do của mỗi người. Khó ở chỗ là quyết định “bán” hay không.
✠ NGỌC QUÝ: “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt 13:45-46) Dụ ngôn này cũng không khó hiểu, giống như dụ ngôn “kho báu,” nhưng lại cũng khó vì chúng ta có quyền tự do và có dám “bán tất cả những gì mình có” hay không.
Hầu hết chúng ta không là triệu phú hoặc tỷ phú (theo ngoại tệ, chứ nội tệ thì “tệ” lắm, ngày nay triệu phú có khắp nơi, từ quê ra tỉnh), nhưng tài sản của ai cũng lớn lắm, không dễ dứt bỏ. Tài sản đó là “cái tôi” tồi tệ của mình – tự ái, kiêu ngạo, sĩ diện, hợm hĩnh… nhất là tội lỗi, bởi vì phạm tội có “thú đau thương” độc đáo lắm, như ăn vụng thì ngon miệng vậy. Trái cấm bao giờ cũng ngọt và ngon lắm. Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói chắc nịch: “Kho tàng của bạn ở đâu thì lòng bạn ở đó.” (Mt 6:21; Lc 12:34)
✠ CHIẾC LƯỚI: “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 13:47-50)
Dụ ngôn thứ ba này “mạnh” hơn hai dụ ngôn trên, cũng rõ ràng hơn và “dữ dằn” hơn. Dụ ngôn này tương tự dụ ngôn “Cỏ Lùng.” (Mt 13:24-30) Không ai lại để cá xấu lẫn với cá tốt, chắc chắn họ sẽ loại bỏ cá xấu. Loại rác rưởi thì chỉ bỏ vô nơi có lửa, cứ mặc sức vừa “sưởi” vừa khóc lóc nghiến răng cho… “thỏa chí,” như kiểu người ta nói đùa là “làm việc đền tội cho SƯỚNG.” Ở Hỏa Ngục thì “sướng” nhất rồi. Tha hồ than thở suốt đời mà chẳng ai dỗ dành, chẳng ai làm phiền, hết đường thoát thân, Chúa cũng không cứu nổi, vì đó là quyền tự do và tự chọn. Đúng là khủng khiếp thật!
Ai cũng sợ Hỏa Ngục vì biết nó quá mức khủng khiếp, và đó là nơi có thật hơn cả sự thật. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải Hỏa ngục cho vài vị thánh được thị kiến. Chuyện thật chứ không đùa. Chưa đủ lòng mến để có thể ăn năn tội cách trọn thì chí ít cũng vì sợ mà ăn năn tội cách chẳng trọn. Chúa vẫn chấp nhận vì Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, không muốn ai phải xa cách Ngài mãi mãi.
Khi nói xong ba dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Tất cả đều nói “hiểu.” Ngài kết luận: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13:52) Chúng ta đã nghe nói và biết nhiều về Nước Trời, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều, phần quyết định thuộc về mỗi người. Ước gì chúng ta đủ can đảm để “bán những gì mình có” để chắc chắn có được tấm “Visa Nước Trời” thì mới thực sự an tâm, cố gắng lữ hành trần gian mà chờ “chuyến bay” khi đến lượt mình.
Ở đời, chưa chắc ai hơn ai trong chuyện Khôn – Dại. Có truyện kể liên quan Kẻ Khùng và Người Ngu thế này…
Hằng ngày, tài xế xe tải giao hàng cho bệnh viện tâm thần. Hôm đó, anh đậu xe bên cạnh một cống nước. Khi rời bệnh viện, anh thấy có một bánh xe bị xì hơi. Anh kích xe tải lên, tháo bánh xì hơi để thay vào đó một bánh xe dự phòng. Lúc gắn bánh xe mới vào, đột nhiên anh làm rơi cả tám chiếc bù lon xuống cống nước, không thể nào vớt những chiếc bù lon ra khỏi ống cống được, anh bắt đầu hoảng hốt vì không biết phải làm sao. Ngay lúc đó, một bệnh nhân đi ngang qua và hỏi: “Sao bác tài có vẻ hốt hoảng vậy?”
Anh tài xế nghĩ thầm: “Tỉnh như mình mà còn không ăn ai, huống gì cái gã điên này.” Muốn gã điên đi cho khuất mắt, tài xế vừa nói vừa thất vọng nhìn gã tâm thần: “Cả tám con ốc rơi xuống cống hết trơn rồi.” Gã bệnh nhân cười và nói: “Chỉ mỗi cái việc đơn giản như vậy mà cũng không có cách nào làm được. Chắc chắn anh sinh ra chỉ làm được cái nghề tài xế xe tải là may lắm rồi.”
Tài xế vừa bực mình vừa ngạc nhiên khi nghe lời nhận xét như vậy từ một gã tâm thần. Rồi gã thản nhiên: “Đây là cái anh có thể làm: Tháo cân đối 4 cái bù lon từ bánh xe cùng bên ra và gắn cân đối vào cái bánh xe này. Rồi lái xe xuống tiệm sửa xe gần nhất và thay những cái bù lon còn thiếu vô. Đơn giản quá mà, phải không?”
Anh tài xế kinh ngạc và cảm kích với giải pháp tuyệt chiêu như vậy. Tài xế hỏi bệnh nhân: “Anh quá giỏi và thông minh như vậy sao lại có mặt ở cái bệnh viện tâm thần này vậy?” Gã tâm thần nhếch mép thản nhiên: “Tôi ở đây bởi vì tôi khùng chứ không phải tôi ngu, anh bạn ạ!”
Lạy Thiên Chúa, nguồn mạch mọi sự thánh thiện, xin giúp con rút được bài học khôn ngoan thực sự từ những sai lầm của con để con có thể biến đổi đúng Thánh Ý Ngài; xin ban cho con sự thông minh tâm linh để biết phân định và tuân giữ luật Ngài đến hơi thở cuối cùng. Xin giúp con biết dại ở đời để nên khôn trước Tôn Nhan Ngài, để con “được hưởng tình thương và ơn cứu độ theo lời hứa của Ngài.” (Tv 119:41) Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
--------------------------
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A này đề nghị chúng ta suy niệm TN 17-A149
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A này đề nghị chúng ta suy niệm về đức biện phân.
1V 3: 5,7-12
Trong Bài Đọc I trích từ sách Các Vua quyển thứ nhất, vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình “một tâm hồn biết lắng nghe” để “biết phân phải trái”, nhờ đó vua mới có thể điều hành dân của Chúa cách công minh chính trực. Lời cầu xin của vua làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Rm 8: 28-30
Trong đoạn thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc các tín hữu nhớ lại rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài.
Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta phải biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để thủ đắc cho được Nước Trời.
BÀI ĐỌC I (1V 3: 5, 7-12)
Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, vua chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống Kinh Thánh, vua ở độ tuổi mười hai.
Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:
Vua đi đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để dâng hiến lễ lên Thiên Chúa. Vào lúc đó, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng. Đêm sau đó vua có một giấc mộng.
Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa được các nhà giải mộng vây quanh. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp thần linh trong khi ngủ mơ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Những dân tộc thời xưa cho chúng ta nhiều ví dụ về điều này. Thật đáng lưu ý rằng trong dân Ít-ra-en, cách thức mặc khải này không còn nữa trong suốt thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong những thế kỷ muộn thời hơn, kỷ nguyên của các sách khải huyền.
Lời cầu xin của vua Sa-lô-mon:
Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi khi vua cầu xin Chúa ban cho mình “một tâm hồn biết lắng nghe” để “biết biệt phân phải trái”, nhờ đó vua có thể cai trị dân của Thiên Chúa, một dân lớn mạnh như thế.
Như người gặp được kho báu hay một thương gia đi tìm ngọc đẹp của các dụ ngôn của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra những giá trị đích thật. Khi thức dậy, vua hiểu lời báo mộng của Đức Chúa. Từ đó, vua điều hành việc nước một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua từ chối những phú quý giàu sang, tuy vậy, vua được ban vô số kể.
Tính chất thần học của chuyện tích:
Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua (qua nhiều giai đoạn biên soạn) trong suốt thời gian làm việc nghiêm túc đã tra cứu những tài liệu viết và đã thu thập những truyền thống miệng, nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ thuộc trật tự thần học. Chìa khóa của lịch sử Ít-ra-en nằm trong tay Thiên Chúa. Về vấn đề này, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.
Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu ghê tởm ý tưởng tôn một người lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ mình Đức Chúa là Vua của họ. Tuy nhiên, những hoàn cảnh lịch sử đã dẫn họ đến thể chế quân chủ ; nhưng thể chế quân chủ này được tín nhiệm, nếu vị quân vương nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài” khi vua ngỏ lời với Thiên Chúa. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tính cách của việc Thiên Chúa trao quyền.
Thứ nữa, những phẩm chất đặc biệt của con vua Đa-vít và vinh quang của triều đại vua hiển nhiên là câu trả lời của Thiên Chúa. Ngay từ ngày đăng quang của vị vua trẻ, Thiên Chúa đã cầm tay của vua để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại Lịch Sử của dân tộc mình, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây Lịch Sử Thánh.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 28-30)
Đoạn thư này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần kết này được kèm theo với bài ca Đức Ái. Đoạn thư này thật sự khó nắm bắt những suy luận thần học về tiền định, ngay từ thời thánh Âu-gút-ti-nô.
Vấn đề tiền định:
Chúng ta phải hiểu những lời này của thánh Phao-lô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, Con của Người, để Đức Ki-tô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?
Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn thư này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phao-lô lấy lại sự phát triển của mình trên sự công chính hóa nhờ đức tin và trên vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ “ý định” luôn luôn được thánh Phao-lô dùng theo nghĩa phổ quát, không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh việc Thiên Chúa kêu gọi và con người được gọi ; đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi” ; giữa Thiên Chúa và con người có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không còn có bất kỳ chỗ nào cho việc tiền định phải chịu kết án cả.
Tình Chúa yêu thương:
Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi của tình yêu. Những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho họ”. Lợi ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là lợi ích tinh thần trong thời hiện tại. Từ “mọi sự”, đối lập với “lợi ích”, chỉ ra những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.
Đối với người Do thái, kiểu nói: “Những ai Người đã biết từ trước”, luôn luôn âm vang một tuyển chọn xuất phát từ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Không phải thánh Phao-lô không biết ý nghĩa thâm sâu của những lời này, nhưng thánh nhân nhấn mạnh rằng sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn biện phân của Thiên Chúa, Đấng qua thời gian nhận ra những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài bằng trọn niềm tin của mình.
Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:
Một lần nữa, thánh Phao-lô đặt sự lạc quan của mình dựa trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Ở đây sự ám chỉ thì dễ thấy. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài ; người Ki-tô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Việc hiệp nhất với Đức Ki-tô cho phép “phục hồi hình ảnh nguyên thủy”.
Tiếp đó, thánh Phao-lô trở về khởi điểm của mình (hình thức văn chương bao hàm) ; thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa đến câu trả lời của con người qua đức tin, ơn công chính hóa đoạn vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt vinh quang tương lai vào thời quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Thời quá khứ diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này. Chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, Đức Giê-su nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11 : 24).
Chúng ta nên đọc lại đoạn thư này: tiền định được nêu lên trong thư này chính là Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ muôn thuở. Chủ đề hy vọng đem lại cung giọng cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang và cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.
TIN MỪNG (Mt 13: 44-52)
Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài của Đức Giê-su về các dụ ngôn theo Tin Mừng Mát-thêu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới trong đó hai dụ ngôn: kho báu và ngọc quý, có ý nghĩa rất gần nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới thì rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.
Hai dụ ngôn: kho báu và ngọc quý:
Hai dụ ngôn này được phân biệt rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước đó liên quan đến lời loan báo về Nước Trời và sự phát triển của nó ; chúng mang tính cách chủ yếu “miêu tả”. Dụ ngôn kho báu, cũng như dụ ngôn ngọc quý, là những “lời khuyến dụ” cá nhân, khẩn trương, đanh thép, nhằm thay đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giê-su là con đường dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Ki-tô thì ngay tức khắc, trọn vẹn, không thể nào đảo ngược được, và việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho sự cốt yếu duy nhất này, là điều dễ hiểu! Với sự hiện của Đức Ki-tô, Nước Trời hiện có mặt ở đây rồi. Kho báu này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để có được kho báu này là nguồn mạch của niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do, niềm vui vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.
Dụ ngôn chiếc lưới:
Dụ ngôn chiếc lưới này là dịp cho các môn đệ sống lại những kỷ niệm về nghề ngư phủ xưa kia của mình. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người gieo giống gieo hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẻ cá hoàn tất, như người gieo giống chờ đợi mùa thu hoạch để chọn lựa. Các Tông Đồ đã trở thành những người lưới người như lưới cá – và Giáo Hội tiếp nối bước chân của các ngài. Họ phải biết kiên nhẫn hết mực. Số phận đe dọa bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những từ ngữ như ở phần kết của dụ ngôn cỏ lùng.
Ở phần kết, thánh Mát-thêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giê-su. Được hiểu biết Kinh Thánh cách phong phú, người kinh sư biết giá trị của những điều hoàn thiện mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ lý tưởng của tác giả Tin Mừng Mát-thêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký của thánh nhân.
--------------------------
Lm. Jos DĐH.
Tìm kiếm báu vật, săn tìm tài nguyên quý hiếm, hoàn toàn là có lý, bao lâu người ta còn có cơ TN 17-A150
Tìm kiếm báu vật, săn tìm tài nguyên quý hiếm, hoàn toàn là có lý, bao lâu người ta còn có cơ hội, thời gian, đúng như tiền nhân vẫn khích lệ: còn nước còn tát. Quan niệm báu vật, tài sản quý, có thể là vật chất, là tri thức, là địa vị xã hội, thực tế một chút là tài sản quý hay hạnh phúc ở trần gian này, rất mông lung, tuy nhiên, mỗi người luôn có tự do để cân nhắc kiếm tìm kho báu cho cuộc đời mình. Ở hoàn cảnh thuận lợi hay không, điều kiện kinh tế giầu nghèo, tri thức hay bình dân, tất cả đều ở trong một bức tranh đẹp, mà Thiên Chúa tô vẽ cho từng người, từng tâm hồn mang một sứ mạng riêng trong Đức Kitô. Chính nhờ khôn ngoan, người ta ý thức mình chỉ là đốm nhỏ trong một bức tranh lộng lẫy của thiên nhiên vũ trụ. Nhờ khôn ngoan, người ta biết chọn lựa bạn tốt, việc làm tốt, và biết dừng đúng lúc, đúng chỗ: không đứng núi này trông núi kia.
Tiền nhân chúng ta nói rằng: con vua thời lại làm vua, con sãi ở chùa quét lá đa. Nhiều người hôm nay đặt ra 3 quan điểm: thứ nhất hậu duệ, thứ nhì quan hệ, thứ ba tiền tệ. Thực tế một chút, đủ gió chong chóng sẽ quay, đủ nắng ấm hoa sẽ nở, đủ tình yêu hạnh phúc đong đầy. Đủ khả năng, đủ kiên nhẫn, đủ quyết tâm, người ta mới thành toàn được, nào ai có thể đi bằng đôi chân của cha mẹ mình, nào ai có thể chắc chắn: cứ da trắng, da đen, hoặc phải là da vàng, thì làm việc gì cũng thành công ? Chính 3 dụ ngôn mà Đức Giêsu đã nói: kho báu, thương gia, và lưới cá, ít nhiều đã cho thấy tất cả là hồng ân, tất cả mọi người đều có cơ hội để có kho báu, có viên ngọc quý, hoặc có mẻ như ý với những cá tốt.
Hình ảnh người nông dân cần cù khôn ngoan tìm thửa đất thích hợp cho việc trồng cấy, người thương gia bỏ số vốn để tìm mua ngọc quý, người chài lưới hy sinh giấc ngủ, đối diện với đêm mưa, đêm lạnh, để mong có thành quả như ý. Người tín hữu theo Đức Kitô, ai cũng dễ dàng nói một cách mạnh mẽ: tất cả là hồng ân, nhưng không phải chỉ là nói, mà mỗi người phải hiểu, phải sống ơn ban, sống sứ vụ riêng của mình. Nói được cần cù bù cù lần, hiểu được khôn chết, dại chết, biết mới sống, hay nói được: đức tin không có việc làm là đức tin chết, (Gc 2, 17) khác hẳn với niềm tin: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Dù sống trong bậc nông dân, sống trong nghề thương gia, hay trong nghiệp lưới cá, dù là linh mục tu sĩ, là tín hữu ngoan đạo, hoặc ở bậc thông thái đức độ, mỗi người, mỗi ngày, đều phải sống niềm tin Nước Trời với hoàn cảnh, điều kiện, hay ơn ban riêng biệt của mình. Người Nhật có câu: quan hệ tốt, coi như đã hoàn thành tới 70% công việc mình được giao. Người môn đệ của Đức Giêsu, người học trò của Đức Kitô, bậc sống nào, hoàn cảnh nào, cũng cần phải nhận biết tất cả là hồng ân, tất là đều là đối tượng của lòng thương xót Chúa, tất cả được tồn tại trong Thiên Chúa Đấng cứu độ trần gian. Ở đời này, người ta tìm kiếm việc làm, tìm kiếm thành công, tìm kiếm hạnh phúc, ai cũng cần đến sự khôn ngoan, kiên nhẫn, và không ngừng nỗ lực trau dồi học hỏi kinh nghiệm, mới mong đạt tới kết quả tốt nhất.
Ở trong đời sống siêu nhiên, ai cũng được mời gọi ở trong Đức Kitô, qua đó, mỗi người sẽ thấy tất cả là ơn Chúa, tất cả là hồng ân Chúa, tất cả là sự tự do ta đang chọn sống ân tình Chúa ra sao. Có thể ta đang hỏi kho tàng nằm ở đâu, ai bán ngọc quý, hoặc biển hồ nào thuần tuý cá tốt ? Đồng ý rằng con người giới hạn, Chúa không hiện diện cách hữu hình để chỉ ta nơi chôn cất kho tàng, ngọc quý. Nhưng qua đời sống cầu nguyện, qua Giáo hội, mỗi người đừng mặc cảm mình không có chức vị, đừng lo mình thiếu khôn ngoan, ít khả năng, sức khoẻ, nhưng hãy lo mình chưa đủ tài, đủ đức, để nhận lấy chức vị. Nếu người trẻ luôn tự tin về độ nhạy bén, khi tiếp xúc với công nghệ hiện đại, hẳn người lớn cũng có quyền tự hào về kinh nghiệm, vì tất cả là hồng ân, tất cả đều cho ta thành quả tốt nhất, khi đã cố gắng hết mình.
Nơi cuộc sống hiện tại này, có những thứ người ta tìm kiếm, mua bán, trao đổi, hoặc bằng tiền, bằng ngoại tệ, nhưng để có thứ quý báu thật sự, bậc cha mẹ, người thân phải hy sinh kể cả tính mạng, hầu cứu con cháu thoát khỏi lầm đường lạc lối. Giấy thông hành vào Nước Trời, tất cả đều biết đó không phải là bằng cấp đại học, không phải là nhiều tiền lắm của hay công danh chức vị, nhưng là ơn ban, là tình yêu thương, mà mỗi người đã sử dụng như thế nào ? Kho tàng, kho báu, hay viên ngọc, hoặc mẻ lưới đầy cá tốt, bằng mắt thường, bằng trí phán đoán, người ta dễ dàng nhận biết. Nhưng tâm hồn mỗi chúng ta tốt xấu, chuẩn hay chưa chuẩn, Thiên Chúa thấu biết, do đó mà ai cũng phải trả lẽ về hồng ân ta lãnh nhận. Giá trị cuộc sống bao giờ cũng tuỳ thuộc vào sự tự do chọn lựa của ta, là sự khôn ngoan mà ta nhận biết tất cả là ơn ban, là hồng phúc đến từ Thiên Chúa yêu thương. Amen.
--------------------------