Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-A Bài 1-50: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. ----------------------------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 5, 1-12a "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Phim "E.T." nói về một người hành tinh khác đến trái đất và bị lọt lại một mình. E.T. làm bạn với cậu bé Elliot cùng những anh chị em của Elliot và nhiều người khác nữa. Họ đã vượt qua nhiều cuộc phiêu lưu thử thách và cuối cùng E.T. đã gọi về nhà và được phi thuyền của dân tộc E.T. trở lại đón. E.T. có nghĩa là "Extra Terrestrial". Mặc dù người làm phim không chủ ý luồn Phúc Âm vào cuốn phim nhưng nó lại hiện diện trong toàn cuốn phim.
Trước hết, the Extra Terrestrial đến trái đất như là biểu tượng Nhập Thế. Hơn nữa, trong cuộc phiêu lưu của E.T. nó gần như song song với câu truyện Thánh Kinh về Chúa Giêsu. E.T. chọn một số bạn thương mến và đi theo E.T. Hầu hết mọi người đều chống đối bọn họ, đặc biệt là các khoa học gia chỉ muốn giết E.T. để khảo nghiệm. E.T. cũng làm những phép lạ như làm cho cây khô sống lại, chữa lành bệnh nhân bằng cách sờ vào người bệnh. E.T. đi đâu cũng tạo nên cảnh thương yêu. Cuối cùng E.T. bị chết vì những người chống đối và rồi E.T tự phục sinh. Rồi phi thuyền trở lại và đón E.T. về, trong cảnh đi về ấy, Elliot nhìn lên bầu trời tựa như cảnh các môn đệ nhìn Chúa Giêsu lên trời vậy. Trước khi trở về quê hương của mình, E.T. đã nói lời cuối là: "Tôi sẽ ở với các bạn luôn mãi" (Mt 28:20).
Nếu chúng ta mở rộng lòng ra thì cuốn phim đó cũng gợi lại cho chúng ta một sự trong sáng, mủi lòng, tìm thấy một sự biết ơn mới đối với Chúa Giêsu vì khi Ngài xuống thế, vì Ngài đã chọn trái đất này làm quê hương của Ngài. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ làm cái việc gọi về quê hương hay tìm cách trở về. Thánh Gioan tông đồ đã viết: "Ngài đến và ở giữa chúng ta... Ngài đến nơi nhà Ngài". Chúa Giêsu đã yêu nhân loại quá mức nên Ngài không đến như một người xa lạ và chỉ chực chờ có cơ hội là bỏ ra đi ngay. Đúng hơn, Ngài đến và hòa nhập vào sự cô đơn, lo lắng, và tan nát của cả nhân loại.
Có sự trái ngược đó là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta, đồng thời Ngài nói rằng thế gian này không phải là nhà của chúng ta. Ngài cho biết nhà chúng ta không phải ở thế giới này hay ở một thế giới kế cận nào. Nhà thật sự của chúng ta chính là sự quan hệ giữa nhân loại chứ không phải là nơi chốn. Và nhà thật sự của chúng ta là ở trong Chúa. Như Thánh Augustinh nói, chúng ta được dựng nên "với một tâm hồn không bao giờ nghỉ cho tới khi nào tìm thấy sự nghỉ yên trong Chúa".
Vấn đề chính đối với một số người trong chúng ta ngày nay đó là nhớ nhà. Chúng ta có thể không nhận ra, hay chối từ điều ấy, nhưng sự thổn thức luôn luôn hiện diện ở đó-- và sẽ chẳng bao giờ nó yên lặng cho tới khi chúng ta tìm thấy căn nhà thật sự của chúng ta là ở trong Thiên Chúa.
Điều ấy chẳng lạ lùng gì khi các ngụ ngôn của Chúa Giêsu thường nói về sự trở về nhà. Người con hoang đàng trở về trong vòng tay mở rộng đón mừng của người cha với đầy sự hoan lạc. Chúng ta cần phải có cảm nghiệm sự trở về này. Chúng ta phải trở về cùng Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài. "Sự sống vĩnh cửu" đối với một số người cho rằng nó ở tương lai. nhưng Chúa Giêsu nói sự sống ấy chính là một tính chất thực tại của cuộc sống này chứ không phải một sự sống của chiều kích khác.
Sự sống vĩnh cửu là chính mối dây liên kết hiện tại, là cảm nhận sự Hiện Hữu của Tình Yêu Thiên Chúa trong toàn thể con người ta. "Phúc thay cho người có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ" Chúa Giêsu đã dạy thế trong bài Tin Mừng hôm nay (Mt 5:3). Nghèo trong nghĩa Thánh Kinh chính là sự nhận biết rằng toàn thể con người, sự sống mình lệ thuộc vào Chúa; nhận biết xa rời Ngài là chúng ta chẳng có gì hay sức mạnh để trở nên con người theo như chủ đích khi chúng ta được dựng nên; nhận biết sự thao thức băn khoăn tìm kiếm điều gì đó cao cả hơn của tâm hồn cho tới khi chúng ta tìm thấy nghỉ an trong Chúa.
"Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương"; "Phúc cho ai ăn ở thuận hòa vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5:7-9). Những điều ấy có nghĩa là sự toàn hảo của con người chúng ta lệ thuộc trên sự trở về của ta với Thiên Chúa và tha nhân. Trong và qua mối cảm nghiệm sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta trở nên liên kết với hết mọi người qua tình yêu. Yêu Chúa và tha nhân không thể chia cách tách rời được.
Hãy để Ngài chỉ lối và hướng dẫn chúng ta; rồi chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Ngài ở ngay trong chúng ta. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì họ sẽ tìm thấy bình an và chính họ sẽ xây dựng an bình.
Khi Mẹ Têrêsa thành Calcutta còn sống, người ta kể lại rằng, một lần Mẹ đang rửa những: TN 4-A2
Khi Mẹ Têrêsa thành Calcutta còn sống, người ta kể lại rằng, một lần Mẹ đang rửa những vết ghẻ lở của người bị bệnh cùi thì có một thương gia giàu có đến thăm nhà, thấy Mẹ đang làm việc ấy, ông phát biểu ý kiến như sau:
- Nếu có ai cho tôi một triệu bạc để làm công việc như Mẹ đang làm thì tôi cũng không dám làm.
Mẹ Têrêsa vui vẻ trả lời:
- Tôi cũng vậy, nếu có ai cho tôi một triệu bạc tôi cũng không thể làm điều ông làm.
Tiền của vật chất không phải là yếu tố chính và chúng ta cũng không thể nào đo lường giá trị tinh thần của hành động con người bằng tiền của vật chất, nhưng đây là điều mà thường tình mỗi người chúng ta cũng dễ bị cám dỗ suy nghĩ và hành động như vậy, đó là hành động theo sự khôn ngoan của xác thịt, theo như bài đọc hai của thánh Phaolô Tông đồ nhắc lại cho chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta một căn bản, một hiến chương cho đời sống đức tin của mình, đời sống đức tin của người môn đệ Chúa qua mọi thế hệ, trong mọi hoàn cảnh và chúng ta không thể nào hiểu được, cũng như không thể nào sống thực hành những điều phúc.
Tám mối phúc thật được ghi lại trong Phúc Âm hôm nay, trong một kiểu nói phàm trần với tâm thức tự nhiên con người, với lẽ khôn ngoan xác thịt như cách nói của thánh Phaolô Tông đồ. Chìa khoá để hiểu và sống những điều Phúc âm mà chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta là chính Ngài là Chúa. Chúa đã sống trọn vẹn những điều phúc này, nhất là trên núi sọ khi để mình bị treo trên thập giá trong một hành động dâng hiến tuyệt đỉnh chính mình cho Thiên Chúa Cha, và chỉ khi nào chúng ta như Chúa Giêsu trên thập giá, bắt chước Chúa Giêsu trên thập giá chúng ta mới hiểu và mới sống như Chúa đã sống.
Không phải vì tiền của, vì danh vọng mà Mẹ Têrêsa có thể thực hiện những gì Mẹ đã làm cho những anh chị em thấp cùng nhất trong xã hội, nhưng chính là tình yêu Chúa tràn đầy nơi Mẹ, không phải nhờ tiền của mà con người có thể sống thánh thiện, sống thương xót, sống hòa bình, sống công bằng, sống mối phúc thật như Chúa Giêsu đã dạy, nhưng chính là tình yêu Chúa, nhờ Chúa biến đổi, nhờ sống kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm để sống những gì Chúa mời gọi chúng ta sống: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai đau buồn, phúc cho những ai đói khát điều công chính, phúc cho những ai hay thương xót, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính".
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được sống như Chúa, được sống kết hiệp với Chúa mỗi ngày một hơn để chúng ta có thể hiểu và sống tám mối phúc thật như Chúa đã sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trung thành với đức tin. Amen.
Đời sống mỗi người đều có những chỗ khuyết, chỗ hụt, những mất mát, yếu kém không thể bù đắp, nên ở đời có vẻ chẳng ai được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc hạnh phúc nhất, cũng có điều làm bận lòng.
Trong bài giảng đầu tiên trên một ngọn núi, Đức Giêsu đã chỉ cho ta bí quyết để có hạnh phúc.
Hạnh phúc thực sự là quà tặng của Thiên Chúa, nhưng con người cần sống tích cực để đón nhận.
Được Nước Trời, được Đất Hứa, được thấy Thiên Chúa, được Ngài ủi an, thương xót, và làm cho no thỏa: những điều đó có nghĩa là sống thân tình với Ngài, được vui hưởng hạnh phúc viên mãn của chính Thiên Chúa.
Chỉ nơi Ngài mới có hạnh phúc trọn vẹn, vững bền.
Con người chỉ có hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.
Nói cho cùng, người hạnh phúc là người biết mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.
Người có tâm hồn nghèo khó là người thật sự nghèo, chẳng có nhiều của cải hay chỗ đứng trong xã hội. Khi cảm nghiệm nỗi bất lực của mình, họ khiêm tốn mở ra và phó thác cho duy Thiên Chúa. Chính lúc đó họ thấy mình bình an, vững vàng.
Người khao khát trở nên công chính là người mong nên thánh. Nên thánh là sống theo tinh thần của cả Bài Giảng trên Núi. Nỗi khao khát không nguôi làm cho con người lớn lên. Nỗi khao khát đào sâu, để con người chứa được nhiều.
Người sầu khổ về mọi mặt sẽ được hạnh phúc, khi trong cơn đau, họ biết quay về với Thiên Chúa. Phúc cho ai thấy đau khổ của mình có ý nghĩa: đau khổ để đền tội, để phục vụ, để triển nở thiêng liêng. Ngay cả đau khổ vô lý cũng làm ta gần Đấng trên thập giá.
Người bị bách hại, lăng nhục, vu khống là người có phúc. Ngay giữa ngặt nghèo họ vẫn cảm được niềm vui (Cv 5,41), vì họ dám sống và dám chết cho Thầy Giêsu. Người hiền lành là người có lòng nhân đối với người khác. Họ học gương hiền lành của Thầy Giêsu (Mt 11,29), không lấy oán báo oán khi mình bị xúc phạm (Mt 21,5).
Người có lòng thương xót là người biết mở ra để cảm thông, đau nỗi đau người khác và chia sẻ những gì mình có.
Người có tâm hồn trong sạch là người ngay thẳng, thật thà, không giả hình, nhưng làm với ý hướng trong sáng. Chính sự trong sáng của thân xác và tâm hồn sẽ làm người ấy dễ gặp được khuôn mặt Thiên Chúa.
Người xây dựng hoà bình là người gieo an hoà khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội và giữa các dân tộc. Họ giải toả những bất đồng, tháo gỡ những tranh chấp. Họ coi mọi người là anh em, con cùng một Cha.
Thời nào con người cũng lao đao đi tìm hạnh phúc.
Phúc cho ai không khép lại để tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết mở ra để sống cho Chúa và tha nhân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có lần bạn đã sống một trong những mối phúc, và bạn đã có một kinh nghiệm không quên. Xin chia sẻ kinh nghiệm đó.
Bạn nghĩ gì về bạn? Nói chung bạn có phải là một người hạnh phúc không? Điều gì làm bạn đau khổ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Trong Kinh Thánh, “Hạnh phúc” là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét.”(Tin Mừng thánh Mát-Thêu, Centurion, 1991,tr.58)
Bốn mối phúc đầu của Mát-Thêu ca tụng người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối bạo lực.
“Phúc thay ai có tâm hồn ngèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Sự nghèo khó mà mối phúc này nhắm tới không phải là sự nghèo khó về vật chất; nhưng là thái độ của một người nghèo tự nhận mình không có quyền đòi hỏi gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của Thiên Chúa .
J. Potel chú giải: “ Người Kitô hữu phải nhìn nhận mình đã lãnh nhận sự sống nơi Thiên Chúa mà Đức Giê-su dạy rằng phải nhận ra và yêu mến Ngài như một người Cha. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm sâu lòng mình rằng sự sống là qùa tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Sự khiêm nhường triệt để này tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thật vậy, phẩm giá này không dựa trên sự giàu có cũng như những đức tính nhân bản, nhưng dựa trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người, nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu”.
“Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu thánh vịnh 36: “ Những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”. J. Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có phương tiện thể lý hay pháp lý bảo vệ mình . Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình ? Không, vũ khí của ho chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta gọi nó là kết qủa của sự không dùng bạo lực”.
“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một niềm hy vọng: “Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa . Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách”.
“Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh, Sự công chính ở mối phúc thứ bốn được hiểu là “tự điều chỉnh” tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã làm. Thiên Chúa ở đây là Đấng đã đến để gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Như vậy “trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện “ sự công chính”đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại”.
Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Dức Kitô
“ Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân từ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Ki-tô học biết tha thứ những xúc phạm và trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.
“Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa “. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chính trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.
“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa “. Jean Potel giải thích: “Đối với Đức Giê-su, sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hòa hợp và an lành không đủ. Ngài đòi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, nơi cộng đoàn Kitô hữu… Hòa bìnhsẽ được gọi không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Những người xây dựng hoà bình là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiệm vụ của con là tiếp tục công việc của Cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hoà bình đến cho con người”.
“Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ”. Trung thành tuân giữ giáo huấn của Đức Ki-tô như trong các mối phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại, vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giê-su , những môn đệ bị bách hại của Ngài là những người nghèo thật sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.
Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giê-su. Jean Potel kết luận: “ Đức Giê-su hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của Ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”.
Lạy Chúa, xin tháo gỡ những mối dây ràng buộc chúng con,
dây chằng chịt của lòng thèm muốn, săn tìm lạc thú
dây ghim vào những cái hão huyền và của cải xa hoa,
đó toàn là những thứ mà một ngày kia con sẽ mất hết thôi. Lạy Chúa,
Xin giúp con trở thành những người nghèo, không làm ra vẻ ta đây mẫu mực,
không đi tìm cách thương lượng ngấm ngầm,
Xin cho chúng con biết cách ly với cả những ý kiến của chúng con ,
Xin cho chúng con được tự do, không bị thói quen giữ lại
Như thế thì chúng con mới có thể hết lòng chăm chú đến người khác được,
Như thế thì chúng con mới có thể nhẹ nhõm hưởng trọn niềm vui của Nước Chúa. Phúc cho những người hiền lành
Lạy Chúa,
Chúa thấy rõ những cơn cuồng phong bạo động làm cho thế giới khiếp đảm,
nào là bắt giam vô cớ, và sát hại tàn khốc,
nào là tra tấn dã man và thanh toán nhau,
đó là những cảnh kinh hoàng như thể lời sách Khải Huyền đang diễn ra hôm nay,
người ta không ngừng hù dọa nhau, hạ nhục nhau.
Lạy Chúa,
Xin đừng để chúng con rơi vào cạm bẫy đó,
Xin cứu chúng con khỏi cơn tức giận, hung bạo,
khỏi lòng kiêu căng và tính sợ sệt
là bấy nhiêu nguyên nhân của mọi thứ bạo động . Xin dạy chúng con yêu thương người khác, tất cả mọi người,
cả khi họ chống đối chúng con, cho dù chúng con bị coi là ngu đần.
Xin dạy chúng con thích thuyết phục hơn là hiếu thắng,
thích dùng những phương tiện khiêm tốn.
Xin luyện chúng con thành những con người hiếu hòa và bất bạo động. Phúc cho những con người khóc lóc
Lạy Chúa,
Chúa gần gũi những người nghèo,
Chúa khóc than với người than khóc,
Chúa khóc bên cạnh bà góa Na-im, với chị em ông La-da-rô.
Nước mắt chứng tỏ rằng tâm hồn chưa bị hóa đá.
Lạy Chúa,
Xin cho lòng chúng con đầy lòng ưu ái,
đầy tình thương cảm đối với tha nhân,
khởi đầu với những người gần chúng con nhất. Xin dạy chúng con biết chia sẻ nỗi đau khổ của những người gặp buồn phiền,
biết đỡ gánh nặng của họ,
Xin dạy chúng con biết kết thân với họ,
nhờ vậy mà chúng con được gần gũi với Chúa .
Lạy Chúa,
Xin dạy chúng con biết nhìn thấy những người đang đau khổ,
Chúa đang khóc với những giọt nước mắt của họ,
biết bao tiếng nức nở đã trôi dạt vào đại dương của tình thương.
Lạy Chúa,
Xin dạy chúng con biết canh phòng
bên ngưỡng cửa đưa vào lãnh địa mênh mông của khổ đau. Phúc cho kẻ khao khát công lý. Chúa là Đấng thánh, là nguồn mọi sự thánh thiện,
Xin giúp chúng con nên thánh giống Chúa.
chúng con nhỏ bé,
chẳng đáng là bao trước nhan Chúa,
Khoảng cách giữa Chúa và chúng con vô tận biết bao,
Nhưng trên con đường này, đã có muôn ngàn vị thánh đi trước chúng con,
Mỗi vị phản chiếu một tia sáng của gương mặt Chúa,
Mỗi vị phác họa một nét của các mối phúc.
Lạy các thánh, các ngài chiếu tỏa sự thánh thiện của Thiên Chúa,
Xin cho chúng con được cảm nghiệm Chúa hiện diện,
khi chúng con chiêm ngắm Thánh Nhan,
khi chúng con tôn thờ Thánh Thể. Phúc cho những người biết thương xót
Lạy Chúa,
Ngài là Đấng nhân hậu khoan dung,
Tại sao chúng con lại không cố nên giống Ngài ?
chúng con tính toán, chúng con phán đoán, chúng con kết án,
chúng con quả quyết mình sẽ nói câu cuối cùng,
chúng con thống kê những lần đã bị xúc phạm,
và chúng con chuẩn bị trả đũa,
Còn Chúa thì luôn luôn tha thứ,
Chúa vẫn còn tin tưởng vào con người ,
Chúa đâu có áp dụng luật “có vay, có trả”
Chúa chỉ biết yêu thương và hết sức tự do. Chúa nồng hậu đón tiếp đứa con đi hoang trở về,
Chúa bỏ lại tất cả để đi tìm con chiên bỏ ràn,
Chúa chăm nom người thợ đến làm việc giờ thứ mười một,
với một niềm tin, một lòng trông cậy, và một tình thương không ai đoán nổi,
Lạy Thiên Chúa của lòng từ bi nhân hậu,
biết nhoẽn cười và cho không,
Xin thông ban cho chúng con một chút điên rồ của lòng từ bi. Phúc cho những trái tim trong sạch.
Lạy Chúa,
Xin tẩy rửa chúng con khỏi mọi vết nhơ,
của lòng thèm muốn, háo danh, giả hình,
Xin giải cứu chúng con khỏi mọi hận thù, và những suy nghĩ quanh co,
khỏi những tính toán nhỏ nhen, tranh chấp, giành giựt,
khỏi những thái độ hống hách, gây gỗ, ngăn chặn, phòng vệ. Vì chỉ có một cách sống đáng quý mà thôi,
đó là yêu mến và để cho người ta yêu mến mình,
Lạy Chúa là ánh sáng trong suốt,
Xin cho trái tim con trong suốt như giòng suối,
để bầu trời xanh có thể soi mình trong đó,
Xin cho ánh mắt con là một tia sáng,
để người ta thấy được Chúa trong cặp mắt con. Phúc cho những người xây dựng hòa bình
Lạy Chúa,
Xin giúp chúng con xây dựng hòa bình,
Không phải chỉ tạm ngưng bắn,
yếu đuối,
những mâu thuẫn của chúng con.
Chỉ khi nào chúng con đã hòa giải với chính mình,
chúng con mới có thể đến với người khác được,
chúng con mới có thể đem hết năng lực
đấu tranh chống mọi hình thức đàn áp, mọi thứ vô kỷ luật, mọi quyền ưu tiên Vì không thể có hòa bình nếu không có công lý,
Và cũng không thể có yêu thương,
nếu người kia, giai cấp xã hội kia, dân tộc kia không được công nhận và tôn trọng. Xin Chúa gỡ chúng con ra khỏi mọi thù hận,
Xin đừng để chúng con lăng nhục ai cả,
Xin giúp chúng con thành những con người kiến tạo hòa bình, và mang theo hòa giải. Phúc cho những người phải chịu cực vì phục vụ người khác.
Lạy Chúa,
Chúa ở kề bên những người bị bỏ rơi,
những người tật nguyền và thất sủng, những người vô tội bị tống ngục,
và những người đang quằn quại sau cơn tra tấn. Lạy Chúa, Chúa ở gần bên họ,
Chúa cũng là nạn nhân đau khổ vì bất công,
Xin Chúa nâng đỡ các chiến sĩ đang đấu tranh cho công lý, đang lên tiếng bảo vệ hạnh phúc của con người,
Xin giúp chúng con biết tôn trọng và yêu thương mọi người,
Xin ban cho chúng con sức mạnh để đấu tranh,
cho dù chúng con sẽ vất vả khi lao mình vào trận chiến.
HỌ SẼ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI
Lạy Chúa, xin dạy chúng con sống các mối phúc
đó là những chìa khóa mở vương quốc,
những con đường dẫn đến chân lý,
Nhờ các mối phúc, chúng con sẽ nhận ra,
đâu là Chính Yếu, đâu là cái phụ
đâu là Quan Trọng, và đâu là phù phiếm
đâu là Trường Cửu, và đâu là cái chóng qua
cái gì phải đứng hàng đầu, và cái gì phải nhường bước. Xin Chúa giải cứu chúng con khỏi mọi sợ hãi,
sợ bị lừa, sợ không còn được ưu đãi, sợ thiếu thốn, sợ phải chịu khổ cực.
Nhờ vậy chúng con có thể sống trọn vẹn các mối phúc,
và bước vào Vương Quốc của Chúa,
Vương Quốc của Tình Thương.
Hiến chương Nước Trời là một trong năm loạt bài diễn văn được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trên núi. Ở trên núi chứ không phải ở đồng bằng như trong Tin mừng Luca, điều đó cho thấy dụng ý thần học của thánh sử Mátthêu. Thật vậy, hình ảnh này giống như Môsê ngày xưa trên núi Xinai lãnh nhận lời Giavê Thiên Chúa để ban lại cho dân Israel. Vâng, Chúa Giêsu chính là Môsê mới. Ngày hôm nay, cũng trên núi, chính Chúa Giêsu - Lời của Thiên Chúa, truyền lại cho dân Israel mới, mà các môn đệ là những đại diện, những mối phúc làm kim chỉ nam cho hết những ai mưu tìm Nước Thiên Chúa.
Nếu Tin mừng Luca nhấn mạnh đến những người nghèo thật sự, thì Thánh sử Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự khó nghèo về tinh thần hơn là sự thiếu thốn về tiền bạc, vật chất. Người khó nghèo về tinh thần không cho phép mình sinh ra kiêu căng, ỷ lại vào tiền của, nhưng luôn hướng mình đến kẻ khác và nhất là trông cậy vào Thiên Chúa. Mátthêu dùng từ ngữ “nghèo khó” (to pnêumati) mang chiều kích tôn giáo như được nói đến trong Cựu ước để nói đến những người nghèo khổ khiêm cung biết chạy đến Chúa, chỉ trông cậy vào Chúa như những kẻ hành khất mà thôi.
Hai mối phúc về “hiền hoà” và “ưu phiền” được nhắc đến không phải do bản tính mà là do hoàn cảnh của xã hội hoặc tôn giáo tạo nên. Chúa Kytô là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường”, chính vì thế Người cũng muốn chúng ta hãy noi gương của Người, sống như những người bần cùng trong xã hội để không thể “lên mặt, vênh váo” được với ai. Cũng vậy, người ưu phiền lo lắng được khuyên hãy trở nên như những người nghèo sống trong tình trạng không có niềm vui. Người nghèo lo lắng cho tình trạng sống còn của mình như thế nào thì “người nghèo của Tin mừng” cũng hãy ưu phiền lo lắng về tội lỗi và những hậu quả của nó gây ra cho mình và cho nhân loại như vậy để chỉ biết chạy đến nguồn an ủi duy nhất nơi Thiên Chúa.
Ba mối phúc tiếp theo nói đến sự chính trực, lòng xót thương và tâm hồn trong sạch được xem như những người vâng theo thánh ý Chúa, thực thi công bình bác ái trong sự đơn sơ thanh sạch. Chính trực trong sự chu toàn mọi giới luật của Thiên Chúa. Chính trực trong đời sống. Chính trực với chính mình, với tha nhân. Lòng ngay thẳng và đời sống nhân đức đưa con người đến việc thực thi lòng bác ái yêu thương cách vô vị lợi nhằm kiến tạo hoà bình cho nhân loại.
Những mối phúc kể trên chính là những giá trị Nước Thiên Chúa dành cho những ai hết lòng tuân giữ và đem ra thực hành. Tuy nhiên, những giá trị đó luôn gặp phải những chướng ngại, những đối nghịch và bách hại. Chính vì thế Chúa Giêsu muốn đưa hai mối phúc sau cùng về sự bách hại như là hiệu quả tất yếu của những con người trung thành và bước theo đường chân lý. Chấp nhận những giá trị nước Thiên Chúa nghĩa là chấp nhận việc đi ngược lại với những giá trị thông thường vốn được xem là chuẩn mực cho cuộc sống mà con người đặt ra.
Với Chúa Giêsu, việc người Kytô bị bách hại vì sống công chính, sống ngay thẳng và thực thi công bình bác ái chính là những người hoạ lại hình ảnh của mối phúc thứ nhất. Lý do là, vì muốn kiếm tìm của cải không hề hư nát cho phần rỗi mai sau mà giờ đây, họ phải gánh chịu sự đau khổ và bách hại. Như thế, người chịu bách hại vì danh Chúa Kytô cũng chính là người nghèo thật sự và phần thưởng cho họ chính là Nước Trời mai sau.
Hiến chương Nước Thiên Chúa thực chất là những tin vui mà Thiên Chúa muốn dành cho những ai sống tinh thần nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, công chính, biết xót thương, trong sạch, mưu tìm hoà bình và chịu bách hại vì danh Chúa Kytô. Ai tiếp nhận mối phúc này, chắc chắn Nước Trời sẽ là phần thưởng cho họ ngay tại thế này.
Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bê-na-rét bằng câu: "Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ", nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: Con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật, và cuối phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ!
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!" (Mt 5:3)
Một người mang tiếng là bi quan yếm thế, người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.
Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu.. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Kitô, đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng; còn kinh nghiệm của Đức Kitô, là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất (x. Mt 10:39), và sự sống trong cái chết (x. Ga 12:24-25)
Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải làkẻ khố rách áo ôm. Do đó, Mát-thêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo hèn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.
Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.
Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của "người nghèo của Thiên Chúa", của một anawim, theo truyền thống Kinh thánh. Người nghèo của Thiên Chúa, không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu Người.
Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, "dĩ bách tánh tâm vi tâm" (ĐĐKXLIX,1).
Theo truyền thống Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe, mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.
Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
Hạnh phúc cần thiết cho đời sống mỗi người từ khi mở mắt chào đời cho tới khi nhắm mắt từ giã cuộc sống trần thế, ai củng mong muốn có hạnh phúc và ra công gắng sức để tìm hạnh phúc. Nhưng nếu hỏi hạnh phúc là gì, và làm thế nào để có được hạnh phúc? Có lẽ không mấy ai có thể cắt nghĩa cho rõ ràng được! Vì hạnh phúc không là điều đơn giản có thể thu tóm trong một định nghĩa hay một công thức, hay một bài viết. Hạnh phúc cũng không giống như chiếc áo, chiếc xe, hay cái nhà mà có thể vẽ ra thành hình hài có màu sắc, hay có thể mua sắm làm ra được.
Hạnh phúc là điều cảm thấy trong tâm hồn, trong cuộc sống, khi một biến cố, một lời nói cử chỉ mang lại niềm vui, mà họ chờ đợi từ lâu. Thí dụ, khi thi đỗ hay lam ăn phát đạt gặp dịp may, con cháu khỏe mạnh mau lớn, học hành giỏi giang, cước được người hằng mong ước, sang đoàn tụ với gia đình, được khen tặng tán thưởng, được khích lệ an ủi, thoát khỏi tai bay vạ gió, bình phục khỏe mạnh trở lại sau cơn bạo bệnh...
Trong Phúc âm, những người được Chúa chúc phúc, những người được gọi là hạnh phúc, lại có đời sống trái ngược. Họ phải gánh chịu cuộc sống đâu có gì sáng sủa mang lại hạnh phúc như chúng ta hiểu. Trái lại họ phải chịu phần thiệt thòi, sống hy sinh chịu đựng nhiều hơn là đàng khác! Tại sao Chúa lại gọi họ là những người có hạnh phúc? Phải chăng đó chỉ là những lời an ủi để họ bằng lòng với số phận "chịu vậy" cho xong?
"Phúc thay cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ" (Mt 5:3). Tất cả mọi người ai cũng cần có cuộc sống no đủ cơm ăn áo mặc, nhà ở, việc làm, cơ hội học hành thăng tiến cuộc sống cho xứng đáng nhân vị đời sống con người. Nhưng đời sống con người đâu chỉ gói trọn trong phạm vi bốn bức tường nhà ở của mình. Nó còn liên đới lan rộng và tùy thuộc với môi trường, với mọi người xung quanh nữa. Và đời sống con người đâu phải chỉ có nhu cầu cho thể xác, cho bao tử, cho sức khỏe, nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng tinh thần nữa: Lòng tin tưởng biết ơn Đấng Tạo Hóa.
Người nghèo khó trong tâm hồn là người nhìn nhận Chúa là Cha đời mình và sống bác ái, chia sẻ với người xung quanh mình. Chính tình liên đới đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.
Dưới con mắt của mọi người, những ai lâm cảnh hoạn nạn buồn sầu tủi khổ, họ là những người bất hạnh - Thử lòng trong đời đã có ai chưa một lần nào lâm cảnh này? - Nhưng đức tin dạy chúng ta: Thiên Chúa không bỏ họ một mình trong lúc sầu khổ, như Ngài đã hứa: "Con đừng sợ, trong cơn sầu khổ, Ta sẽ cứu độ con" (Is 43:1). Và trong hoàn cảnh bước đường cùng vẫn có những người anh chị em đồng loại sẵn sàng an ủi, giúp đỡ nhau. Điều này rất cần cho con người. Và chính điều này mang lại hạnh phúc cho cuộc sống.
Trong lúc gặp bước đường cùng khổ gian nan, mà biết có người cùng chia sẻ, cùng đồng hành với, sẽ cảm thấy được an ủi. Đời sống được an ủi, là đời sống có hạnh phúc.
Chúa chúc phúc cho những người có lòng nhân từ, lòng thông cảm với người khác (Mt 3:7-8). Có thể họ bị người đời cho là khờ dại hay "ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng xóm". Nhưng đâu phải như thế. Họ là những người kiến tạo hoà bình. Vì họ không lợi dụng người anh chị em mình lúc yếu thế sa cơ để kiếm lợi cho riêng mình như cảnh "dậu đổ bìm bịp leo!", nhưng tìm cách tương trợ lẫn nhau "chị ngã em nâng".
Họ là những người không tìm cách, tìm dịp xa gần nhục mạ bôi nhọ danh dự người khác. Lòng đạo đức nhân bản là nền tảng đời sống đức tin của họ, như lời Chúa dạy: Yêu thương, tha thứ cả kẻ bách hại các con (Mt 5:44).
Và trong đời sống, thiết tưởng ai cũng đã có kinh nghiệm quý báu này: Ngày hôm nay người này có thể là người thù địch, hay người không đồng ý kiến, tư tưởng với ta, nhưng ngày mai họ có thể sẽ trở thành bạn, người làm ơn cho ta! Nhà chí sĩ Nguyễn Trãi thuở xưa trên bình diện quốc gia dân tộc trong hịch Bình Ngô Đại Cáo đã kêu gọi: "Lấy chí nhân thay cường bạo!" làm nền móng xây dựng hòa bình cho xã hội, kiến tạo tình người, bắc chiếc cầu thông cảm tha thứ làm hoà với nhau.
Những người được Chúa chúc phúc, được Chúa hứa cho đời sống hạnh phúc là những ai? Họ là những người tin theo Chúa, sống rao giảng tình yêu Chúa, tình yêu bác ái tha thứ, thắp sáng niềm hy vọng cho mọi người bằng chính đời sống mình trong môi trường họ sinh sống.
Qua đời sống như thế "Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến". Và người khác tìm thấy niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn khi nhận ra tình yêu thương, tương trợ nhau.
Người Ái Nhĩ Lan có một câu nói diễn tả lòng tự hào dân tộc của họ như sau: "Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Ái Nhĩ Lan và những người muốn trở thành người Ái Nhĩ Lan". Là người Việt Nam và cảm thấy tự hào về truyền thống anh hùng của Việt tộc, dĩ nhiên tôi không chấp nhận câu nói trên. Nhưng tôi cũng không dám sửa câu đó thành: "Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Việt Nam và những người muốn trở thành người Việt Nam." Vì tôi biết có những người không muốn nhận mình là người Việt Nam dù đã sinh ra trên quê hương Việt Nam và mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.
Dù vậy, tôi không sợ lầm khi sửa câu trên thành: "Trên thế giới chỉ có hai loại người: những con người hạnh phúc và những con người không được hay chưa được hạnh phúc". Vì không có một người bình thường nào mà không mong mỏi khát khao hạnh phúc. Hạnh phúc viên mãn hay hạnh phúc đích thực bao giờ cũng là đối tượng tìm kiếm của trái tim nhân loại.
Nhưng làm thế nào để đạt được hạnh phúc?
Ai cũng mong muốn hạnh phúc, nhưng những quan niệm của con người về hạnh phúc, về cách thức để đạt được hạnh phúc thì thật khác nhau. Có người quan niệm hạnh phúc là có sức khỏe, nhan sắc, bạc tiền, tài năng, của cải, địa vị, học thức, và gia đình êm ấm thuận hoà. Người khác lại cho rằng hạnh phúc là được nhiều người ái mộ, làm được nhiều điều hữu ích cho xã hội, được đi vào lịch sử như những người hùng của nhân loại. Người khác nữa lại quan niệm hạnh phúc là phải từ bỏ mọi sự phiền toái của cuộc sống xã hội, sống ẩn dật như một loài thú đi hoang.
Trong Tin mừng hôm nya, Chúa Giêsu đã đưa ra những quy luật bất biến - chứ không phải một quan niệm vu vơ - để đạt đến hạnh phúc thực như con người hằng mong ước. Theo Ngài, những người hạnh phúc là
những người có tinh thần nghèo khó, những người hiền lành, những người ưu phiền, những người đói khác sự công chính, những người biết thương xót, nhưng người tinh sạch trong lòng, những người tác tạo hòa bình, và những người bị bách bớ vì sự công chính.
Là Thiên Chúa và là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Chúa Giêsu hiểu biết ta hơn là ta hiểu biết về chính mình. Ngài biết ta phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thực, nên Ngài đã chỉ cho ta biết những quy luật hạnh phúc trên. Nhưng điều này xem ra nghịch hẳn với quan niệm thông thường của con người về hạnh phúc. Nhưng đó là những chân lý không thể sai lầm.
Làm sao chúng ta biết được đây là những quy luật hạnh phúc chân thực nhất xưa nay? Vì những quy luật này đã được thể hiện nơi chính con người của Chúa Giêsu. Ngài đã sống trước khi giảng dạy chúng ta những điều ấy.
Thật vậy, nơi Chúa Giêsu chúng ta gặp thấy hiện thân của chính đức khó nghèo, chính sự hiền lành, chính sự ưu phiền, chính cơn đói khát công chính, chính lòng xót thương, chính lòng tinh sạch, chính sự hòa bình, và chính sự công chính đang bị bách bớ. Ngài là mẫu mực của tất cả những ai mà Ngài nhìn nhận là có phúc.
Nói cách khác, những quy luật trên sở dĩ gọi là những quy luật hạnh phúc bất biến vì chúng giúp người ta nên giống Chúa Giêsu và nên một với Ngài là Thiên Chúa làm người. Theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng là những phương thức giúp ta "mặc lấy Chúa Kitô" và trở nên nên "đồng hình đồng dạng" với Người. Những quy luật này giúp chúng ta noi gương Chúa Giêsu, cắm sâu chôn chặt vào Thiên Chúa như nguồn hạnh phúc duy nhất của mình và sẵn sàng thoát ly tất cả những gì không phải là Chúa. Chúng sẽ giúp chúng ta thưa cùng Chúa những lời của Thánh vịnh gia:
"Tôi thưa cùng Yavê: Chính Người là Chúa của tôi, hạnh phúc của tôi, có đâu ngoài Người...
Yavê là phần cơ nghiệp, là chén của tôi, chính Người là Đấng nắm giữ cơ đồ cho tôi! Giây đo phần tôi rơi nhằm nơi tuyệt mỹ, cơ nghiệp ấy làm cho tôi sung sướng!" (Tv 16:2 & 5-6)
Điều quan trọng ở đây là chúng ta có dám dấn thân sống theo những quy luật hạnh phúc này hay không?
Sở dĩ cuộc đời chúng ta còn buồn tẻ chán chường, còn "sà sà mặt đất", còn chưa được thăng hoa là vì chúng ta chưa dám thực hành những điều mà miệng ta nhìn nhận là chân là thiện. Cũng chính vì thế mà ta chưa cảm nếm được sự ngọt ngào và sức mạnh của Lời Chúa. Đúng như tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận xét: "Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của Lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa" (GCG Q.1 Ch # 1).
Trong quá trình phong thánh của Giáo hội, các vị á thánh là những người bắt đầu được dân chúng tôn kính nơi công cộng còn được gọi là những "chân phúc", những con người được phúc thật, được phần thưởng thiên đàng, được sống đời đời. Lý do Giáo hội tôn phong các ngài là vì Giáo hội nhận thấy nơi các ngài là hình ảnh của chính Chúa Giêsu là Nguồn mọi sự thánh, thấy sự hiện diện của chính Chúa nơi cuộc đời các ngài. Phần phúc của các ngài cũng là phần phúc được Chúa hứa ban cho mỗi tín hữu chúng ta.
Cuối cùng rồi thì nhân loại vẫn được chia thành hai loại như những con chiên lạc được tách khỏi đám dê trong bài giảng về ngày phán xét cùng tận (Mt 25:31-46): những người được phúc thật là những người mang hình ảnh Chúa Giêsu vì đã nổ lực sống thánh thiện noi gương Người và nhưng người đã tự khước từ phúc thật đời đời vì đã chối bỏ lời mời gọi sống thánh theo gương Chúa Giêsu khi còn ở trần gian và đã đánh mất hình ảnh Thiên Chúa nơi mình bằng lối sống đắm chìm trong tội.
Với lời mời gọi của Chúa Kitô, với sự trợ giúp của Ơn Chúa, với sự thúc bách của Chúa Thánh Thần, với gương sáng và lời chuyển cầu của Mẹ Maria và chư thánh, chúng ta còn ngần ngại gì mà chưa nỗ lực sống thánh để đạt được phúc thật?
"Bài Giảng Trên Núi" hay "Hiến Chương Nước Trời" là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Đức Kitô. Và "Tám Mối Phút Thật" chính là nền tảng căn bản nhất của "Bài Giảng Trên Núi" đó.
Thế nhưng không tránh khỏi một câu hỏi đầy tính hiện sinh: làm sao nghèo hèn, hiền từ, ưu phiền, đói khát, bị bắt bớ...mà lại có phúc được? Phải chăng Đức Giêsu đang ru ngủ hạng bần cùng khốn khó, như Marx có lần tuyên bố: Kitô giáo biện chứng cho sự nghèo đói của nhân loại và làm lụn bại tinh thần đấu tranh vượt thoát áp bức. Phải chăng là như thế?
Dựa vào đâu để khẳng định nghèo khó, ưu phiền, đau khổ là có phúc, đang khi thực tế lại như những "vô phúc" đáng loại trừ?
Một nhà tư tưởng đã có lý khi nhận định: ấy là dựa vào con người của Đức Giêsu, vì Ngài chính là hiện thân của khó nghèo, hiền lành, lắng lo, khát khao, thương xót, tinh tuyền, hoà bình, và khốn khổ vì công chính.
Không phải bởi lâm vào tình cảnh bế tắc nên Ngài phải chịu vậy, song đây là một sự tự nguyện chọn lựa để làm nên mẫu gương ân phúc cho con người. Ví dụ, có lần ma quỉ đến nói với Đức Giêsu: "Nếu ông cúi mình bái lạy tôi thì tất cả vinh quang giàu sang của thế gian sẽ thuộc về ông". Như vậy Chúa Giêsu có khả năng để nên giàu có, và giàu có lắm, vì được cả thế gian chứ không phải thường. Nhưng Ngài từ chối bái lạy "cha của bọn dối trá".
Hay sau khi hóa bánh cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu được người ta tôn vinh làm vua. Khi làm vua, chắc là sẽ sung sướng và cao sang hơn người. Ấy thế mà Kinh thánh lại nói: "Ngài trốn lên núi". Tại sao trốn? Phải chăng Đức Giêsu muốn khẳng định một điều: giá trị cao quí và cần thiết vô cùng không ở nơi của cải, cao sang, sức mạnh, chức quyền nhưng là nơi Thiên Chúa. Ai chọn lựa Thiên Chúa, ai đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài chính là người có phúc nhất. Thánh vịnh đã xác nhận điều đó khi nói:
"Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa". Vì sao? Vì khi đặt niềm tin tưởng như thế:
"Họ như cây trồng bên suối nước, Trổ sinh hoa trái đúng mùa Lá cây không bao giờ tàn úa Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt".
Thịnh đạt trong mọi công việc chính là phần phúc dành cho những ai chọn Thiên Chúa làm lẽ sống và con đường ngay thẳng của Tin mừng để bước đi, dù rằng nẻo đường đó không thiếu chật hẹp, gian nan, đau khổ và rướm máu. Thế nhưng có bước theo Chúa và gắng nên giống Ngài mới là phúc thật, còn ngược lại, thì dù được xem như thành công, giàu có, hạnh phúc, an lành, người ta vẫn là những kẻ vô phúc trong thiên hạ.
Mới đây, làng điện ảnh Hollywood thường đề cập đến nữ minh tinh Demi Moore, người rất được khán giả Hoa kỳ ái mộ, và cũng từng là vợ của Bruce Willis, một tài tử danh tiếng khác.
Nổi tiếng và giàu có, nhưng Demi lại đang sống trong tình trạnh mặc cảm, lo sợ, hối hận dày vò. Số là trước khi bước chân vào nghề điện ảnh, Demi đã làm một nghề tồi bại: cho chụp hình playboy thân xác của mình.
Mặc dầu đã tốn khá nhiều tiền mua lại các phim gốc, hầu xóa bỏ dấu tích của một thời thiếu đoan trang, Demi vẫn mang trong mình nỗi bất an lo sợ. Vì hiện nay đang có dấu hiệu xuất hiện các hình ảnh xấu xa của cô trên Internet.
Demi lo cho danh dự của mình một phần, nhưng nguy hiểm hơn, cô đang sợ một ngày kia, ba đức con gái bé bỏng của cô là Rumer, Scout, và Talluah sẽ nhìn thấy các hình ảnh "không nết na" của mẹ chúng trên Internet, hoặc bị bạn bè bắt gặp và đem ra trêu chọc. Demi không muốn chứng kiến cảnh các con ngây thơ vô tội phải xấu hổ đau khổ vì mình. Cô tâm sự: "Giấc mơ lớn lao nhất của tôi là tìm mọi cách thu hồi những tấm ảnh playboy đó và ném vào một đống lửa cho cháy tiêu tan". Demi cũng cho hay cô không kiêu hãnh chút nào khi có người khen cô đẹp vẹn toàn, bởi vì cô đã phạm một lỗi lầm rất lớn là để cho người ta chụp hình khỏa thân hầu sớm nổi danh và giàu có.
Thế đó, cứ tưởng vừa giàu sang có sang trọng, vừa xinh đẹp và được mến mộ thì hạnh phúc lắm. Nhưng sung sướng gì khi thâm tâm cứ bị dày xéo cắn rứt không nguôi.
Thử hỏi sống như thế là có phúc hay vô phúc? Thành ra có nhiều điều người ta tưởng "sướng lắm" hay "phúc lắm", nhưng khi đạt được rồi mới thấy bức rức, hụt hẫng, dày vò, dơ nhớp... bởi vì nỗi khát khao háo hức không phải là công chính và thẳng ngay.
Như vậy, con người chỉ có phúc thật khi khao khát Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Con người chỉ có bình an và thoả lòng thật sự khi bước đi trên nẻo đường thập giá của Phúc âm. Và con người chỉ có thể vui cười chiến thắng khi can đảm chiến đấu và chiến thắng bao dục vọng đam mê thế trần.
Đường lên thiên đàng khi nào cũng nhỏ hẹp và vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy bóng mát thênh thang. Nhưng can đảm chọn lựa bước theo Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.
“Kể từ ngày 11/9/2001, ngày toà tháp đôi Trung Tâm thương mại thế giới ở thành phố Newyork, Mỹ bị bọn khủng bố tấn công khiến cho khoảng 3000 chết cho đến nay, thế giới đã không có một phút nào yên. Thật vậy, trong suốt ba năm qua, mặc cho những cố gắng của các chính phủ, nạn khủng bố vẫn không ngừng gia tăng trên một diện rộng chưa từng thấy. Đó là vụ đánh bom đảo du lịch Bali (Inđônêxia) làm 202 người chết hồi tháng 2/2002, vụ đánh bon nhà ga xe lửa ở Madrid (Tây Ban Nha) hồi tháng 3/2004 làm 191 người chết, rồi hàng loạt vụ đánh bom chung cư ở Nga khiến 300 người thiệt mạng. Và gần đây nhất là vụ bắt cóc con tin tại một trường học ở Beslan (Nga) hồi đầu tháng 9/2004 gây ra cái chết cho 326 người, và làm bị thương 727 con tin, và vụ đánh bom toà đại sứ Úc ở Jakarta (Inđônêxia) hồi thượng tuần tháng 9/2004 vừa qua đã khiến cho 9 người chết và 170 người bị thương…”
Giữa lúc nền hòa bình thế giới đang bị đe dọa nặng nề, thì qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe vang vọng lời Chúa:
- Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Đúng thế, cho đến ngày hôm nay, hòa bình mãi mãi vần là một ước vọng sâu xa nhất của con người. Thế nhưng, chúng ta không thể ngồi yên để đón nhận hòa bình như đón nhận một quà tặng từ trời rơi xuống. Trái lại, chúng ta phải ra sức kiến tạo, phải tích cực góp phần xây dựng hòa bình.
Thế nhưng, việc kiến tạo và xây dựng hòa bình không phải được bắt đầu bằng những hội nghị bàn tròn hay bàn vuông, mà phải được bắt đầu ngay từ cõi lòng mỗi người. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Giờ đây trong thinh lặng và bình tĩnh, nhìn vào tận đáy tâm hồn, chúng ta sẽ nhận ra kẻ nội thù phá hoại sự bình an của bản thân và của người khác chính là sự ghen tức.
Thực vậy, sách “Cổ học tinh hoa” đã kể lại một mẩu chuyện như sau:
Có một vị tướng, trước khi xuất quân, đã khao tất cả các binh sĩ một bữa tiệc thịnh soạn bằng thịt dê. Không hiểu vì quên lãng hay vì nghĩ rằng là chỗ thân tình, nên đã không báo cho anh đánh xe. Thế là anh đánh xe nổi giận đùng đùng, cho rằng mình đã bị đối xử tệ bạc.
Sáng hôm sau khi ra trận, anh ta đã đánh xe và chở thẳng vị tướng và giao nộp cho quân địch.
Chỉ vì một miếng thịt dê và do lòng ghen tức mà anh đánh xe đã phản bội, đã phá đổ mọi tình nghĩa mà vị tướng đã dành cho anh trong suốt bao nhiêu năm trời. Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ vì một miếng thịt dê, nghĩa là chỉ vì những quyền lợi nhỏ mọn, nhưng được lòng ghen tức thúc đãy và thổi phồng, chúng ta sẵn sàng coi những người thân cận ruột thịt là kẻ thù của mình. Chúng ta quên đi mọi tình nghĩa cũ để rồi tìm mọi cách triệt hạ cho bằng được những kẻ chúng ta ghen tức.
Thế nhưng, chính sự ghen tức này đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên bất ổn và nhiều lúc còn dày vò cắn rứt vì những lời nói chì chiết và những hành động thô bạo của chúng ta.
Và hơn thế nữa, sự ghen tức còn hủy diệt sự bình an giữa chúng ta và người khác. Bởi vì một khi đã nhìn nhau bằng cặp mắt không mấy thiện cảm, làm sao chúng ta có thể tạo được sự hài hòa và cảm thông.
Chình vì thế, để góp phần xây dựng sự bình an giữa chúng ta và những người chung quanh, thì việc đầu tiên cần phải làm ngay, đó là hãy trục xuất kẻ nội thù nguy hiểm này ra khỏi cõi lòng chúng ta, đó là sự ghen tức. Bởi vì có đánh bật tận gốc rễ sự ghen tức, thì bấy giờ chúng ta mới có thể nhìn nhau bằng cặp mắt trong sáng và từ đó mới dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm thông với nhau hơn. Đó phải là yếu tố căn bản cho một sự bình an chân chính.
Khi còn bé tôi nghĩ rằng nếu đào một cái lỗ xuống đất và cứ tiếp tục đào, đào mãi, tôi có thể làm thành một con đường hầm từ Việt Nam xuyên qua trái đất sang đến Hoa Kỳ. Tất cả mọi người Mỹ, nhà cửa, ruộng vườn… là thế giới lộn ngược !
Đó là lý luận của trẻ con. Nhưng một thế giới lộn ngược đối với Chúa Giêsu không phải là một tư tưởng quá điên rồ. Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi hôm nay, thánh Matthêu đã đưa ra Tám Mối Phúc làm đảo lộn những giá trị và sự khôn ngoan của con người. Những phúc lành của Chúa Giêsu là những giá trị bị lộn ngược.
Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai giàu có” thì Đức Giêsu lại nói “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai lanh lợi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hiền lành”. Đang khi người ta chúc phúc “Phúc cho những ai vui vẻ” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đau buồn”. Người ta chúc “Phúc cho những ai tiệc tùng linh đình”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đói khát điều công chính”. Người ta ước ao “Phúc cho những ai có quyền hành”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hay thương xót người”. Người ta muốn “Phúc cho những ai có thân hình đẹp đẽ thon thả”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai có lòng trong sạch”. Người ta muốn “Phúc cho những ai gây tin giật gân”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa”. Đang khi người ta muốn “Phúc cho những ai có đủ tiền mướn luật sư giỏi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính”. Lý do của sự đảo ngược giá trị này vì Chúa Giêsu rao giảng với tiêu chuẩn và uy quyền của thần linh. Chúa tập trung vào việc yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, còn người trần gian lại tập trung vào sự hưởng thụ ích kỷ và thỏa mãn khoái lạc.
Triết gia Aristốt xưa kia đã nói: “Hạnh phúc (happiness) là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm”. Đó là điều tự nhiên của con người. Sự ao ước này có nguồn gốc thần linh: Thiên Chúa đã đặt nó trong trái tim con người để lôi kéo con người lại với Người. Do đó những điều con người nghĩ là hạnh phúc, nhưng không đưa họ về với Thiên Chúa, đều là hạnh phúc giả tạo, khoái cảm mau qua, và không phải là phúc lành thực sự.
Người nghiện rượu tin rằng hạnh phúc nằm trong chai bia, chai rượu. Một chai chưa đủ, rồi hai, ba chai. Sau đó lái xe về nhà, vượt đèn đỏ, gây tai nạn. Sáng sớm tỉnh dậy thấy mình mẩy băng bó đầy những thương tích. Từ đó anh học biết rằng hạnh phúc hứa ban bởi rượu là giả tạo, hoàn toàn không phải là phúc lành tí nào !
Thế gian có thể tìm kiếm được khoái cảm mà họ muốn, nhưng cũng có thể mất. Một sự thay đổi về tài sản của cải, một sự suy sụp về sức khỏe, một kế hoạch bị thất bại, một tham vọng không đạt được, và ngay cả một sự thay đổi của thời tiết… cũng có thể lấy đi cái hạnh phúc mong manh do thế gian mang lại.
Phúc lành của người Kitô hữu hoàn toàn khác biệt. Không một yếu tố ngoại giới nào có thể ảnh hưởng đến, hay hủy diệt nó được. “Và niềm vui của các con”, Đức Giêsu đã nói “không ai lấy mất được”. “Các mối phúc thật cho thấy một trật tự của hạnh phúc và ân sủng, của vẻ đẹp và bình an.
Vào năm 258, hoàng đế Valerian ban lệnh bắt tất cả các giám mục, linh mục và thầy sáu vào tù. Đức Giáo Hoàng Sixtus II là người bị bắt đầu tiên. Ngài liền tin tưởng trao lại tài sản của Giáo Hội cho thầy sáu Laurensô với những lời hướng dẫn phải phân phát cho các bà góa và trẻ mồ côi. Thầy sáu Laurensô đã làm đúng như lời dặn của Đức Giáo Hoàng Sixtus II.
Khi Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị đem đi hành quyết, Laurensô đã đi theo ngài khóc lóc thảm thiết: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài vội vàng đi đâu vậy ? Và con phải làm gì đây ? Tại sao ngài lại đi đến nơi hiến tế mà không có thầy sáu, người phụ giúp bàn thờ của ngài ? Con đã thi hành lệnh truyền của ngài về tài sản của Giáo Hội”. Đức Giáo Hoàng đáp: “Con yêu dấu, ta sẽ không bỏ rơi con đâu. Con sẽ theo ta trong ba ngày nữa”.
Ngay sau đó, Laurensô đã bị bắt. Ông quận trưởng đã yêu cầu Laurensô phải trao nộp tài sản của Giáo Hội. “Giáo Hội thực sự rất giàu có”, Laurensô trả lời “Tôi sẽ chỉ cho ông thấy những tài sản đó, nhưng hãy cho tôi một thời gian ngắn để gom góp lại. Thời gian đã được ban, và Laurensô đã đi đến với các bà góa, trẻ mồ côi, những người què quặt, và già yếu mà Giáo Hội đã giúp đỡ. Ngài đã qui tụ họ lại xếp thành hàng dài đứng trước cửa nhà thờ, rồi mời ông quận trưởng đến và nói: “Thưa ông, đây là những tài sản của Giáo Hội !” Viên quận trưởng nổi giận và hứa sẽ ban cho Laurensô một cái chết đặc biệt: từ từ và đau đớn.
Sau đó Laurensô đã bị xích vào vỉ sắt nướng thịt, nằm trên ngọn lửa cháy riu riu. Tuy chịu cực hình, nhưng lòng khát khao của ngài hướng về Thiên Chúa quá lớn lao đến độ ngài không còn cảm thấy đau đớn. Nằm trên vỉ sắt một lúc, ngài nói với ông quận trưởng: “Xin ông hãy lật sang mặt bên kia, bên này đã chín đủ rồi”. Quân lính đã làm y như vậy. Sau đó ngài lại nói: “Bây giờ cả hai bên đã chín, tất cả đã sẵn sàng, hãy đem ra phục vụ !” Rồi ngài cầu nguyện cho tòa thánh Rôma, để nhờ đó, thế giới có thể đón nhận được đức tin. Đang khi ngước mắt hướng lên trời, ngài đã tắt hơi thở cuối cùng trong niềm vui hân hoan được trở về với Thiên Chúa hằng sống.
Nơi Thiên Chúa, người nghèo khổ đặt tất cả sự phó tác tin cậy, người đau buồn tìm sự ủi an, người tội lỗi xin ơn tha thứ, người ốm đau được ơn chữa lành, kẻ bị bách hại có sức mạnh và lòng can đảm phi thường… Họ hoàn toàn tùy thuộc nơi Ngài. Vì thế tất cả phúc lành được trao ban cho họ.
Mẹ Têrêsa Calcutta là một người phụ nữ sống cho tha nhân. Suốt đời của mẹ sống với Phúc Tám Mối của Chúa Giêsu. Mẹ phục vụ những người nghèo khó nhất trần gian là để bắt chước lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Ngay cả những người không phải là Kitô hữu đã nhìn vào mẹ Têrêsa và thấy mẹ có một điều gì đó giống như Thiên Chúa và có thể nối kết với Ngài. Một người ăn xin đang hấp hối bên vệ đường thành phố Calcutta, sau khi được cứu sống đã hỏi mẹ Têrêsa: “Trên trần gian này, có điều gì giống với Thiên Chúa không ?” Mẹ trả lời: “Không, tôi đang cố gắng là một cái gì đó giống như Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”.
Cha Henri Nouwen, tác giả nổi danh của nhiều tác phẩm tu đức, khi ngài còn sống đã gặp mẹ Têrêsa ở Rôma. Ngài nói rằng điều đáng chú ý nhất nơi mẹ Têrêsa, là mẹ thường xuyên tập trung vào Đức Giêsu. Dân chúng bu quanh lấy mẹ và đặt biết bao nhiêu câu hỏi. Mẹ đã trả lời với một nguyên tắc duy nhất: tập trung tất cả nơi Đức Giêsu. Những câu trả lời của mẹ, mới nghe có vẻ “đỏ mặt” vì đơn sơ và ngây thơ, phản ảnh những thói quen của một người sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa. Chính cha Nouwen cũng đã cảm nhận được một sức mạnh dịu dàng và êm đềm phát ra từ những câu trả lời đó.
Phúc Tám Mối là những con đường dẫn ta về Nước Trời theo gương Chúa Giêsu đã đi. Đó không phải là tám con người khác nhau, nhưng là tám bức hình chụp từ những góc cạnh khác nhau của cùng một người, người đặt hoàn toàn tin tưởng và tùy thuộc vào Chúa Giêsu Kitô, người sống theo giảng thuyết và trở nên giống như Ngài.
Ở Hoa Kỳ hằng năm những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…
Sách Giáo lý Công giáo giải thích rằng: “Trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngài luôn tỏ mình là “khuôn mẫu của chúng ta”. Ngài là “Con người hoàn hảo” và Ngài mời gọi chúng ta đến làm môn đệ Ngài, bước theo Ngài: trong sự hạ mình của Ngài. Ngài đã để lại cho ta một gương để noi theo ; bằng lời cầu nguyện của Ngài, Ngài thu hút ta vào việc cầu nguyện ; bằng sự khó nghèo của Ngài, Ngài kêu gọi chúng ta hãy tự ý chấp nhận cảnh thiếu thốn và những cuộc bách hại”.
Phúc Tám Mối là tất cả những gì Chúa Kitô đã sống, Ngài muốn chúng ta sống những điều đó trong Ngài, để Ngài sống trong chúng ta như Công đồng Vatican II đã nói: “Do sự Nhập Thể của Ngài, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã kết hiệp với mỗi người chúng ta”.
1. Bạn biết gì về luật nhân quả? Kinh Thánh có nói gì về luật này không? Xin đưa ra một vài câu điển hình.
2. Có một món tiền lớn, nhưng nếu cứ tiêu hoài thì cũng hết và trở thành nghèo. Bạn có cách nào để tiêu hoài không hết, mà lại có nhiều hơn nữa không?
3. Tinh thần chung chung của tám mối phúc là gì? có thể tóm gọn lại cả tám mối ấy trong một mối duy nhất không? mối ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Luật nhân quả
Trên đời, có một định luật phổ biến mà bất cứ ai, bất cứ tôn giáo hay nền văn hóa nào cũng phải công nhận, đó là luật nhân quả. Luật nhân quả được phát biểu như sau: "Bất cứ một sự việc, biến cố nào cũng đều phải có nguyên nhân sinh ra nó, và chính nó lại là nguyên nhân phát sinh một hậu quả nào đó". Có thể phát biểu một cách khác như: "Không một sự việc hay biến cố nào xảy ra mà không có nguyên nhân, mà không tạo nên một hậu quả nào đó". Tương quan giữa nhân và quả là "nhân nào quả nấy": nhân xấu thì quả xấu, nhân tốt thì quả tốt.
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã nói về định luật nhân quả qua những câu như: "Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt" (Mt 7,17-18), "Tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm" (Mt 26,52), Cựu Ước cũng có những câu như: "Kẻ nào ăn nho xanh, kẻ ấy sẽ bị ghê răng" (Gr 31,30), "Đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng" (Ed 18,2). Trong những câu này, nhân và quả tương ứng với nhau.
Nhưng Thánh Kinh còn cho biết giữa nhân và quả cũng có sự đối nghịch nhau: "Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên" (Mt 23,12), hay "Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng; đi khóc lóc u sầu sẽ về giữa muôn lời ca" (Tv 126,5-6).
Bài Tin Mừng hôm nay là một ứng dụng khôn ngoan và phong phú của định luật nhân quả.
2. Tám mối phúc thật
Có một số tiền, ta có thể sử dụng nó theo hai cách căn bản:
- một là lấy chính số tiền ấy để mua món này vật kia cho đến hết. Và khi hết thì ta lại lâm vào cảnh túng thiếu, khổ sở. Vì thế, người tiêu hoang thì chóng nghèo hơn người biết tiết kiệm. Nhưng dù món tiền lớn đến đâu, dù ta tiêu tiết kiệm hoặc hà tiện đến mức nào, thì tiền tiêu hoài cũng có lúc hết: "Miệng ăn, núi lở".
- hai là đem số tiền ấy ra kinh doanh, để tiền lại làm ra tiền, nhờ vậy, mình tiêu hoài không hết. Nhưng đem tiền ra kinh doanh có nghĩa là phải tiêu số tiền đó vào một việc gì đó ích lợi cho người khác, nhằm phục vụ lợi ích người khác chứ không phải lợi ích của mình. Người khác có cảm thấy họ được phục vụ tốt thì họ mới cần tới mình, cần tới món hàng mình. Như vậy, mình hành động vì lợi ích của người khác mà cuối cùng mình lại có lợi, và cái lợi này mới thật sự lâu bền. Nhiều người kinh doanh chẳng những có tiền tiêu hoài, mà còn trở nên giàu có tột bậc.
So sánh hai cách tiêu tiền ấy, thì cách thứ hai khôn ngoan và có lợi cho mình hơn rất nhiều. Đó chỉ là một minh họa nghèo nàn dẫn chúng ta vào sự khôn ngoan của "tám mối phúc" mà Đức Giê-su giới thiệu cho ta. Hai cách tiêu tiền ấy tương ứng với hai cách sống: sống ích kỷ và sống yêu thương. Sống ích kỷ thì có lợi trước mắt, nhưng xét theo lâu dài thì rất bất lợi. Sống yêu thương là làm cho người khác hạnh phúc, trước mắt thì mình bị thiệt hại, đau khổ; nhưng xét theo lâu dài thì nó đem lại hạnh phúc cho mình gấp bội cách sống ích kỷ. Như thế, ta thấy ích kỷ lợi một và ngắn hạn, còn vị tha hay yêu thương thì lợi mười và lâu dài. Sự lâu dài này không có nghĩa là cứ phải qua đời sau mới nhận được lợi ích của nó, mà trong đa số trường hợp là được hưởng ở ngay đời này.
a. Mối phúc căn bản: sống nghèo vì người khác
Mối phúc thứ nhất là sống nghèo vì người khác. Phải sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật. Còn sống nghèo khó hầu cho số tiền mình để dành ngày càng nhiều lên thì đó là hà tiện chứ không phải là sống nghèo khó theo Tin Mừng. Rất nhiều người hiểu lầm về đức khó nghèo. Họ tưởng họ có nhân đức khó nghèo khi họ tiêu xài một cách hà tiện, sống y như một người nghèo. Nhưng số tiền đáng lẽ phải chi mà không chi, thay vì giúp ích cho một ai đó nghèo hơn thì họ lại cất đi, khiến họ càng có nhiều tiền trong kho hay nhà băng hơn. Khó nghèo như thế thì nào có giúp ích gì cho ai? Thậm chí còn làm cho người nghèo nghèo hơn, vì của cải tập trung vào kho của những người hà tiện như thế.
Cái nghèo mà Đức Giê-su muốn nói đến, là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi, vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là đức khó nghèo. Vì thế, giữa đức khó nghèo và đức bác ái có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái. Khó nghèo là một phương tiện cụ thể để thực thi bác ái. Khó nghèo mà không vì đức ái thì trở thành hà tiện, là một trong bảy mối tội.
Khó nghèo không hẳn chỉ là do bố thí. Dùng rất nhiều thì giờ để lao động tay chân hay trí óc hầu phục vụ một nhu cầu nào đó của tha nhân, của Giáo Hội hay xã hội thay vì dùng thì giờ đó để làm việc khác có kinh tế hơn, thì đó chính là thực hành đức khó nghèo, mặc dù trong thực tế người ấy vẫn có thể giàu có. Còn người nghèo mà muốn tận dụng hết thì giờ để lo kiếm tiền, không bao giờ muốn hy sinh một giây phút nào để làm việc cho người khác, thì người ấy chẳng thực hiện đức khó nghèo một chút nào, dù rằng người ấy rất nghèo.
Vậy có thể nói: tâm hồn khó nghèo của Tin Mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát (thì giờ, vật chất, sức lực, của cải, sự quan tâm) vì yêu thương tha nhân, để mưu hạnh phúc hay ích lợi cho họ. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám thật sự hy sinh cho tha nhân như vậy chắc chắn sẽ được mọi người quí trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao cho những trọng trách trong xã hội hay Giáo Hội, nên có địa vị cao, vì thế có thể có một đời sống đầy đủ cả về tinh thần lẫn vật chất. Một người như vậy thì tình yêu hay Nước Trời ở ngay trong lòng họ: tinh thần họ luôn luôn bình an và tràn đầy niềm vui vì đã làm cho những người chung quanh được hạnh phúc. Họ có thể được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Ta có thể hiểu những mối phúc khác một cách tương tự như thế.
b. Cả tám mối phúc đều là hệ luận của một mối phúc căn bản
Mối phúc căn bản là sống vị tha: nghĩa là thật sự sống vì Chúa, vì tha nhân, sẵn sàng chịu thiệt hại, mất mát, đau khổ vì lợi ích hay hạnh phúc của tha nhân. Như đã nói trên, sống như thế cũng giống như đem tiền ra đầu tư, đem hạt giống ra gieo, tuy trước mắt là mất mát, thiệt thòi, nhưng cuối cùng mình lại gặt hái nhiều hơn gấp bội.
Tất cả các mối phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả; vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình; vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Tất cả các mệnh đề trong vế thứ nhất đều phải hiểu ngầm mấy chữ này: "vì Chúa, vì tha nhân", nghĩa là nghèo vì tha nhân, hiền lành vì tha nhân, sầu khổ vì tha nhân, v.v… Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân, thì sự nghèo, sự hiền lành, nỗi sầu khổ… ta phải chịu đều là tai họa chứ không phải là phúc đức.
c. Chứng nghiệm:
Kinh nghiệm trong cuộc đời cho ta thấy: những người có tâm hồn ích kỷ, suốt ngày chỉ nghĩ tới mình, tới hạnh phúc hay đau khổ của mình, đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thì giờ để nghĩ đến mình, thì những người ấy thường luôn luôn hạnh phúc, thoải mái trong tâm hồn, và thành công trong cuộc đời. Người Ki-tô hữu phải tập cho được thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân, và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người chung quanh mình (vợ chồng, con cái, người thân, bạn bè) được hạnh phúc. Sống như thế, bảo đảm ta sẽ được hạnh phúc ngay đời này, và chắc chắn cả đời sau nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, luật nhân quả là do Cha dựng nên, là thánh ý của Cha. Xin cho con biết sống khôn ngoan, biết lợi dụng luật ấy để đem lại hạnh phúc lâu dài cho mình. Đức Giê-su đã chỉ cho con biết cách để được hạnh phúc lâu dài qua tám mối phúc thật. Đó là biết sống hoàn toàn vì Thiên Chúa và tha nhân. Sống như thế là cách sống khôn ngoan nhất, đem lại hạnh phúc cho con ngay ở đời này, mà còn bảo đảm cho con hạnh phúc đời sau nữa. Amen.
Đức Giêsu không chỉ dạy ta về các mối phúc. Chính Ngài nêu gương sống hạnh phúc.
Bài Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của Bài Giảng Trên Núi. Qua đó tác giả Matthêu cho thấy Đức Giêsu quả thật là vị tân lãnh đạo của dân mới của Thiên Chúa. Như xưa ông Môsê từ núi Sinai mang mười giới răn của Thiên Chúa công bố cho dân Ít-ra-en như thế nào, thì nay Đức Giêsu cũng công bố luật mới của Thiên Chúa như được kiện toàn nơi bản thân Người như vậy. Dân mới của Thiên Chúa bao gồm tất cả những người được Đức Giêsu mời gọi trở nên môn đệ của Người. Lời mời gọi ấy không loại trừ một ai như thấy rõ qua mệnh lệnh cuối cùng của Đức Giêsu trước khi về trời, là: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,18-20).
Ngay với bài giảng đầu tiên này đối tượng đã là quảng đại quần chúng, tuy gần gụi nhất bên cạnh Đức Giêsu là các môn đệ (c.1), trong đó có bốn người đầu tiên là các ông Anrê, Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, được Đức Giêsu gọi trong khi hành nghề đánh cá nơi biển hồ Galilê (Mt 4,18-22). Vậy Đức Giêsu không đòi hỏi người nghe phải là những người có trình độ nào về học thức tuy ơn đức tin đối với Giavê Thiên Chúa phải được hiểu ngầm. Ơn ấy nay phải được nới rộng để qui về Đức Kitô bởi lẽ Chúa Cha đã trao phó mọi sự nơi Đức Giêsu. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho. (x.Mt 11,27).
Đức Giêsu cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa
Vậy dựa vào thẩm quyền từ trời cao, Đức Giêsu đến cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,16). Ngài không đứng trung lập nhưng nghiêng hẳn về những kẻ bé nhỏ; Ngài không loại bỏ người giầu, nhưng buộc người giầu phải được hoán cải để tham dự vào Tình Yêu Thiên Chúa là đặt mình phục vụ người nghèo. Chính Đức Giêsu nêu gương phục vụ suốt đời mà cử chỉ quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17) chỉ nói lên được phần nào mà thôi.
+ Thực ra, chính cuộc đời hy sinh và tự hạ cho tới cái chết nhục nhã của Đức Giêsu biểu lộ tình yêu Thiên Chúa, làm nên Nước của Thiên Chúa. Ai đón nhận cái nghèo đó của Đức Giêsu thực sự là đón nhận chính Tình Yêu từ trời cao nên sở hữu được Nước Thiên Chúa.(c.3).
+ Ai chấp nhận gương hiền hậu và khiêm nhường của Đức Giêsu (x.Mt 11,28-29) sẽ được đất hứa làm gia nghiệp (c.4).
+ Ai chấp nhận nỗi sầu khổ của Đức Giêsu tại vườn Ghết-sê-ma-ni (x.Mt 26,36-46) là nỗi sầu khổ cứu mình khỏi tội, người đó sẽ được chính Thiên Chúa ủi an (c.5)
+ Ai ước ao giữ trọn đức công chính theo gương Đức Giêsu (x.Mt 3,15), người đó sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng (c.6).
+ Ai biết noi gương Đức Giêsu, Đấng đã xin với Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ đóng đinh mình trên thập tự, người đó đã được Thiên Chúa xót thương vì được Ngài cho nên giống Con của Ngài (c.7).
+ Mối phúc được nhìn thấy Thiên Chúa phải là mối phúc do chính Đức Giêsu thông ban theo lời Người tuyên bố rằng: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (c.8; x.Mt 11,27).
+ Mối phúc làm con Thiên Chúa (c.9) nhất thiết cũng phải do chính Đức Giêsu là “con yêu dấu của Thiên Chúa” (Mt 3,17); chính nhờ tham dự vào sự sống, sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu, ta xây dựng bình an đích thực và dự phần vào tư cách làm Con Thiên Chúa của Đức Giêsu.
+ Mối phúc cuối cùng (cc.10-12) chỉ là việc ta kết hiệp mật thiết với chính Đấng thiết lập nên Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài là Đức Giêsu Kitô: “Nào Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang ư?” (Lc 24,25).
Vậy bài giảng về các mối phúc thật ra cũng chỉ qui về một mối phúc chính là tình yêu Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu làng Nadarét. Tình yêu ấy khi xuất hiện trong bối cảnh văn hoá xã hội Do thái đã chọn đứng về phiá người nghèo.
Đức Giêsu đứng về phía người nghèo
Luca cho thấy Đức Giêsu nhắm thẳng đám người nghèo đó khi nói với họ: Phúc cho anh em là những kẻ khó nghèo, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em, những người đang đói khát, vì anh em sẽ được no lòng. Phúc cho anh em, những người đang phải than khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em, những người đang bị ghét bỏ, hất hủi, sỉ nhục…(x.Lc 6,20-22).
Liền sau đó, Luca đưa ra những lời báo dữ đối với những người giầu có, no phỉ, những kẻ đang vui sướng cười cợt, đang được thiên hạ tán dương (x.Lc 6,24-26).
Nhưng Đức Giêsu đã không dừng lại ở lối nói suông. Người minh chứng bằng hành động cụ thể về nội dung Nước Thiên Chúa dành cho người nghèo, bằng cách bày tỏ lòng ưu ái đặc biệt hai thành phần thời đó đang bị gạt ra bên lề xã hội, đó là những người bệnh tật và những người không có quyền công dân.
Các sách Tin Mừng nêu hai loại người bệnh, đó là kẻ tàn tật và kẻ bị quỉ ám. Tàn tật gồm những chứng bệnh có thể quan sát được như mù, què và những thứ bệnh da liễu, nhất là phong hủi. Đó là những người hết còn lao động được, nên xã hội kể là thành phần “ăn hại” vì sống dựa vào người khác.
Còn “bị quỉ ám” chủ yếu là những người mắc bệnh tâm thần, động kinh, dễ té xỉu và được kể là bị quỉ vật. Người câm và điếc cũng được kể là bị quỉ ám. Người phụ nữ còng lưng thì được kể là bị “quỉ còng” ám (x.Lc 13,10-15). Chẩn bệnh kiểu đó khiến ta nực cười nhưng nó cho thấy não trạng của người thời ấy kể bệnh nhân nằm dưới quyền lực của ma quỉ nên thường xuyên bị coi là ô uế nên không được tham gia việc thờ phượng nơi Đền Thờ.
Khi chữa bệnh Đức Giêsu phục hồi lại phẩm giá của bệnh nhân, cho họ được tham gia Nước Thiên Chúa. Họ không còn bị gạt ra bên lề nữa, nhưng ở ngay tâm điểm của Tình Yêu Thiên Chúa.
Ngoài hạng người bệnh tật, nhiều thành phần khác cũng bị gạt sang một bên, thời Đức Giêsu.
- Thứ nhất là đàn bà, con trẻ: Hoàn cảnh phụ nữ tại Áp-ga-nit-tăng ngày nay chỉ là hình ảnh nối dài của phụ nữ vùng Trung Đông xưa. Họ phải nhốt mình trong nhà. Khi ra đường, họ phải lấy khăn che mặt và không được mở miệng nói với đàn ông. Vợ lệ thuộc chồng tới mức có thể bị chồng sa thải vì bất cứ lý do nhỏ bé nào, chẳng hạn như nấu cơm khê.
Sự kiện Đức Giêsu cho một số phụ nữ tháp tùng Người trên đường đi rao giảng Tin Mừng cùng với nhóm Mười Hai, quả là điều mới mẻ về Nước Thiên Chúa. Cũng là điều gây ấn tượng không nhỏ khi Đức Giêsu đòi các môn đệ phải hoán cải để trở nên như trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Thiên Chúa (Mt 18,9).
- Thứ hai là những người làm nghề bất lương: Hạng người này bao gồm không những người thu thuế như Lêvi (Mc 2,14), mà cả những người chép mướn, những người thợ dệt (hai loại này bị ngờ là “bất hảo” vì tiếp cận với phụ nữ), người đổi tiền, cầm đồ, đánh cờ, chăn súc vật (mang tiếng cho súc vật ăn lấn sang đất kẻ khác).
Vậy để hưởng các mối phúc thật như Đức Giêsu dạy ta hôm nay, ta cần nhìn thẳng bản thân Ngài như chính Ngài thể hiện các mối phúc đó. Không có điều gì Ngài dạy ta mà Ngài lại không làm gương cho ta. Không có giá trị nào về Nước Thiên Chúa được Ngài nêu lên, mà chính Ngài không trả giá bằng việc hy sinh chính mạng sống mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn đọc Mt 5,1-12 và Lc 6,20-26 về các mối phúc thật thì nhận thấy những khác biệt nào? Tại sao?
2. Đức Giêsu không dạy ta về bất cứ mối phúc nào mà chính Ngài lại không nêu gương cho ta. Bạn thấy tấm gương nào của Chúa Giêsu về các mối phúc giúp bạn hơn cả?
3. Khi Đức Giêsu nói “Phúc cho anh em là những người nghèo…(Lc 6,20), Người có ý nói về: Bệnh nhân? Người tàn tật? Kẻ bị quỉ ám? Đàn bà và trẻ con? Người thu thuế? Người chép mướn? Người thợ dệt? Người đổi tiền? v.v… tại sao?
Khi nghe bài “Phúc Thật Tám Mối” trên đây, nhiều người ngạc nhiên sửng sốt. Những hạnh phúc Chúa hứa ban sao quá khác với những quan niệm về hạnh phúc mà ta thường có. Người ta ai cũng mong có nhiều của cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người nghèo”. Người ta ai cũng mong được khôn ngoan, được có uy quyền, được người khác nể phục. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người hiền lành”. Người ta ai cũng mong được an bình, sống thoải mái, vô lo. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho các con khi các con bị bắt bớ”.
Chúng ta ngạc nhiên, không hiểu Lời Chúa, vì chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh phúc và về đạo.
1) Về hạnh phúc, chúng ta thường tưởng lầm rằng cứ có tiền bạc, có địa vị, có tình yêu là có hạnh phúc. Nhưng không phải như vậy. Không thiếu những người giàu tiền bạc, có địa vị cao, nhưng luôn bất hạnh.
Marilyn Monroe, nữ minh tinh thần thoại của thế giới phim ảnh là người có sắc đẹp mê hồn, được mọi người tôn thờ, và chắc chắn không thiếu tiền bạc. Thế mà nàng phải sống cuộc đời cô đơn buồn thảm. Sau cùng phải tự kết liễu đời mình trong buồn tủi, lo âu. Giờ nhắm mắt không có một người yêu bên cạnh.
Ngày nay xuất hiện nhiều “Tây ba lô”, những người nước ngoài ăn mặc thô sơ, vai đeo ba lô, đi gặp gì cũng ăn, ngủ bờ ngủ bụi. Tại sao họ không chọn ăn mặc chải chuốt, ngủ nghỉ trên chăn êm nệm ấm trong những khách sạn sang trọng? Thưa vì họ thích đơn sơ, thích khổ cực, thích phấn đấu, thích sống với thiên nhiên. Đó là hạnh phúc của họ.
Tiền bạc, tiện nghi, danh vọng, địa vị, tình yêu chắc chắn làm cho đời sống dễ chịu hơn. Nhưng vẫn chưa phải là hạnh phúc đích thực.
2) Về đạo, chúng ta lầm tưởng rằng điều cốt yếu của đạo là giáo lý. Thưa không phải như thế. Đi đạo không phải là đi theo một giáo lý. Đi đạo là đi theo một người. Điều cốt yếu của đạo là gặp được Chúa. Giáo lý chỉ là phương tiện giúp ta gặp được Chúa. Chúa mới là đích của đời ta. Chúa chính là hạnh phúc đích thực. Gặp được Chúa rồi, linh hồn ta sẽ toại nguyện, không còn mơ ước điều gì khác.
Thánh Augustinô khi còn tuổi trẻ đã chạy theo dục vọng, đi tìm lạc thú trong những buổi ăn chơi trác táng, những cuộc tình đắm mê. Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối, nhưng chẳng thấy mãn nguyện. Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn thống hối ăn năn. Ngài trở về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa rồi, ngài đã thốt lên một lời bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Hiểu như thế rồi ta sẽ thấy Tám Mối Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét vẽ nên chân dung Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người nghèo. Sinh ra không nhà. Sống không nhà. Chết cũng không nhà.
Chúa Giêsu đầy quyền năng. Người đã chế ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất hiền lành khiêm nhường. Bị kết án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết, Người vẫn im lặng chấp nhận.
Chúa Giêsu có một trái tim xót thương, sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người hoạn nạn, cứu chữa người tật nguyền.
Chúa Giêsu đem đến cho ta niềm bình an, hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau.
Chúa Giêsu đã bị bắt bớ, giết chết vì rao giảng Tin Mừng.
Tám mối phúc chính là con đường Chúa đã đi qua. Là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu. Đi vào con đường ấy, ta chắc chắn gặp được Người. Sống theo con đường ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên một với Người. Khi ta từ bỏ hoàn toàn ý riêng, để Người hoàn toàn chiếm đoạt, ta sẽ đạt tới hạnh phúc, hạnh phúc đích thực, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn con theo đường lối của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Đối với bạn, hạnh phúc là gì? 2) Có bao giờ bạn cảm được niềm vui khi sống trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo chưa? Nếu có, xin chia sẻ với anh chị em. 3) Những đau khổ của bạn thường do những nguyên nhân nào?
Trong Cựu Ước, từ ngữ "Shalom" được chuyển dịch là hòa bình. "Shalom" là tiếng chào thân thiết giữa người Do Thái với nhau. Người Do Thái coi "hòa bình" là ơn lành của Yahweh, nói lên một trạng thái trọn vẹn, hoàn hảo. Trong sách Thẩm Phán, tác giả có một danh hiệu cho Thiên Chúa: "Yahweh-shalom", "Yahweh chính là sự hoà bình" (Tp 6:24). Lời nguyện của hàng tư tế xin Chúa ban hòa bình trên dân riêng của Thiên Chúa (Num. 6:26)). Yahweh ban hòa bình cho dân riêng Ngài qua lời an bình (Ps 85:9). Những yếu tố của sự hòa bình được diễn tả trong Thứ Luật 26:3-13: Có mưa rơi, mùa gặt thặng dư, không giặc giã, không ác thú, giao ước với Yahweh, và sự hiện diện của Yahweh.
Những người phá hoại hòa bình trong Cựu Ước gồm các tiên tri giả. Ví dụ thời tiên tri Giêrêmia, những tiên tri giả nói về hòa bình nhưng thực sự không có hòa bình (Giê 6:14). Hoà bình không sống chung với sự gian trá. Vì hòa bình bao gồm sự hiện diện của Yahweh, những kẻ gian ác không được hưởng hòa bình (Is 48:22).
Trong Tân Ước, Đức Kitô, Đấng Messiah, chính là Hoàng Tử Hòa Bình. Ngài đã mang nền hòa bình chân chính đến cho mọi người, thứ bình an mà thế gian không tạo được (Jn 14:27). Những người tin Chúa Kitô được hưởng sự hoà bình này vì họ liên kết trong một chi thể của Đức Kitô (Col 3:15). Liên kết với Chúa Kitô cũng là liên kết với Thiên Chúa: "Chúng ta sống trong bình an của Thiên Chúa qua Đức Kitô Chúa chúng ta" (Rm 5:1).
Chúa Kitô đã đến trong thế gian và mang lại sự hòa giải Thiên Chúa với nhân loại và tạo sự liên đới yêu thương giữa con cái loài người. Nhưng tại sao thế giới vẫn chưa có hòa bình, và chúng ta có thể làm gì để xây dựng hòa bình chân chính?
Thế giới chưa có hòa bình có lẽ là vì con người vẫn không muốn chấp nhận Hoàn tử Hòa bình là Đức Giêsu Kitô. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể, nhưng thế gian vẫn không nhận ra tiếng Người (Ga 1:10-11). Còn rất nhiều người chưa được nghe đến danh tánh của Đức Kitô. Nhiều người đã được nghe danh Giêsu nhưng có thái độ dửng dưng , nghe biết vậy. Và cũng rất nhiều người tin Chúa Kitô, nhưng tin yếu xìu. Một luồng tư tưởng của thế tục cũng đủ làm tan đi niềm tin nơi Chúa Kitô.
Nếu không nhận Chúa Kitô là Hoàng tử Hòa Bình thì con người cũng không nhận viễn tượng hòa bình và phương pháp kiến tạo hòa bình của Ngài. Ví dụ điển hình là nhóm Al-Queda, nhóm chủ trương khủng bố tại A Phú Hãn lấy danh nghĩa "thánh chiến" để dùng mọi thủ đoạn khủng bố trong tầm tay. Theo viễn tượng hòa bình của họ, họ cần phải làm cho Nước Mỹ sống trong kinh hoàng và những người chống đối họ cũng sống trong lo sợ liên miên. Dĩ nhiên đây là thí dụ quá khích. Nhưng ngay trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người trong chúng ta vì tính yếu đuối của con người dễ chiều theo chủ trương bạo động mỗi khi gặp khó khăn. Khi bị khinh dể hay bị bách hại cách nào, chúng ta ưa đường lối "răng đền răng" hay "mười năm trả thù cũng chưa muộn". Và rồi bạo động chỉ sinh thêm bạo động.
Chúng ta làm gì để xây dựng hòa bình?
Trước tiên về phần cá nhân, chúng ta hãy đón nhận Đức Kitô vào tâm hồn chúng ta: "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa" (Ga 1:12). Còn những ai đã tin Chúa Kitô rồi, chúng ta cần xin tăng thêm ơn đức tin để chúng ta thực sự tôn thờ Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (Ga 4:24). Chúng ta cần thực sự làm hòa với Thiên Chúa bằng đời sống được đổi mới nhờ Lời Chúa. Lời giải thích của Henri Nouwen, một tác giả nổi tiếng về đường thiêng liêng: "Chỉ khi nào thuộc về Chúa Kitô, và chỉ mình Chúa Kitô, chúng ta mới có thể thực sự chống lại quyền lực phá hủy của sự dữ và cùng làm việc để ngăn ngừa một cuộc tự sát tập thể (ông đang nói về cuộc thi đua vũ khí nguyên tử). Chỉ những ai không thuộc về thế gian này mới có thể mang cho thế gian thứ bình an mà thế giới đang đói khát.... Chúa Kitô là người xây dựng hòa bình đầu tiên vì Ngài đã mở cửa nhà Thiên Chúa cho mọi người và làm cho tạo vật cũ nên mới. Chúng ta được sai đến thế gian để trở thành những người xây dựng hòa bình với danh nghĩa của Chúa Kitô" (Seeds of Hope, tr. 173)
Thứ hai, nếu có thể và tùy hoàn cảnh của mỗi người, chúng ta cùng hợp với những người yêu chuộng hoà bình để xây dựng một xã hội công bình và nhân ái hơn theo phương pháp bất bạo động. Có một anh chàng mới tậu một thửa ruộng, và không lâu đã gặp ông láng giềng khó nết. Ông hỏi chàng: "Thế, anh đã mua mảnh đất nầy rồi chứ?" Chàng đáp: "Dạ, đúng vậy". Ông già nói liền: "Vậy thì anh đã mua của nợ vào thân rồi". "Xin hỏi tại sao?", chàng thanh niên hỏi. "Đơn giản thôi, hàng rào của ruộng này lấn vào đất của tôi đến mười bộ (10 feet). Tôi sẽ mang ra tòa và chứng minh điều này". Chàng thanh niên vội can: "Xin ông đừng làm vậy. Nếu hàng rào này lấn 10 bộ, thì chúng ta chỉ cần dời lại thì được rồi". "Thật không? Anh sẵn sàng chuyển hàng rào?" "Đúng vậy". Ông lão mềm lòng và nói: "Vậy thì hàng rào này sẽ ở nguyên vị trí cũ". (Knight's Master Book of 4000 Illustrations, p. 469)
Nếu trong bài Phúc Âm cùng chu kỳ năm A tuần trước, theo ý nghĩa Phụng Vụ Lời Chúa, Chúa Kitô là "Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết", thì trong bài Phúc Âm cũng theo Thánh Mathêu tuần này, chúng ta thấy "ánh sáng" này quả thực đã bắt đầu lên cao, qua hình ảnh được Phúc Âm diễn tả, ở "trên một sườn đồi": "Khi Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Người lên trên một sườn đồi". Bởi vì, đã chiếu soi thì phải chiếu từ trên cao xuống, và phải bao trùm tất cả mọi sự.
Ở đây, vào lúc mở đầu này, Chúa Giêsu mới tỏ mình ra ở "trên một sườn núi" mà thôi, chứ chưa phải là lúc Người tỏ hết mình ra, chưa phải là lúc lên đến tuyệt đỉnh, như lúc Người biến hình "trên một ngọn núi cao" trước mặt ba môn đệ thân tín (x Mt 17:1-2). Chúa Giêsu bấy giờ cố ý chọn "một sườn đồi" mà giảng dạy, ngoài ra, còn vì đối tượng của việc Người giảng dạy nữa, đó là "đám đông dân chúng", đám người bình dân. Tuy nhiên, Người chỉ bắt đầu giảng dạy, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "Sau khi các môn đệ đã qui tụ lại quanh Người". Tác động Chúa Giêsu lên trên một sườn đồi vì thấy dân chúng đông đảo, rồi sau đó Người chỉ bắt đầu giảng dạy khi các môn đệ đến vây quanh Người, là những dấu hiệu cho chúng ta thấy, đối tượng chính yếu, đối tượng đầu tiên của những lời Chúa Giêsu trong bài giảng tiên khởi ở đây là thành phần môn đệ của Người, thành phần ở vòng trong, rồi mới tới "đám đông dân chúng" ở vòng ngoài. Nội dung có tính cách trọn lành của bài giảng trên sườn núi này, cũng hiển nhiên chứng thực về cấp trật đối tượng này là đúng. Như thế, theo tiến trình hay đường lối mạc khải thần linh, trước hết, Chúa Cha tỏ mình cho con người qua Con của Ngài là Chúa Giêsu, rồi sau đó Con của Ngài tỏ mình ra cho các tông đồ để rồi qua các vị là thành phần chứng nhân tiên khởi tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại đến tận cùng trái đất. Đó là lý do, trong bài Phúc Âm tuần tới, cũng theo Thánh Mathêu, tiếp theo bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ biết rõ bản chất của các vị là ai và vai trò của các vị phải làm gì, qua câu Người tuyên bố với các vị: "Các con là muối đất... là ánh sáng thế gian".
Linh Đạo Nước Trời: Cửu Phúc Trọn Lành
Nếu lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm tuần trước: "Hãy cải thiện đời sống. Nước Trời đã đến", như đã nhận định và chia sẻ, là tất cả những gì làm nên Phúc Âm của Chúa Kitô thế nào, thì đoạn mở đầu cho bài giảng tiên khởi trong Phúc Âm hôm nay đã cho thấy rõ điều ấy. Đoạn mở đầu của bài giảng tiên khởi, hay bài giảng trên núi như vẫn được gọi này, Chúa Giêsu nói về những mối phúc đức trọn lành, với tên gọi thông dụng từ trước đến nay là Bát Phúc. Nếu nơi lời loan báo tiên khởi, vế nhân sinh và yếu tố đức tin là việc "cải thiện đời sống" được đặt trước vế thần linh và yếu tố mạc khải là "Nước Trời" thế nào, những mối phúc đức trọn lành mở đầu bài giảng tiên khởi của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay cũng theo đúng chiều hướng như vậy: vế nhân sinh và yếu tố đức tin cần phải có trước vế thần linh và yếu tố mạc khải. Đúng thế, phân tích từ đầu đến cuối toàn bộ những mối phúc đức trọn lành theo chiều hướng của lời loan báo tiên khởi, chúng ta chẳng những đã thấy được điều này, mà còn thấy được cả những điều ngoại lệ khác nữa:
Vế nhân sinh và yếu tố đức tin - Vế thần linh và yếu tố mạc khải
Phúc cho kẻ tinh thần nghèo khó - Họ được hưởng Nước Thiên Chúa
Phúc cho kẻ hiền lành - Họ sẽ được đất làm gia nghiệp
Phúc cho kẻ sầu đau - Họ sẽ được an ủi
Phúc cho kẻ đói khát thánh đức - Họ sẽ được no thỏa
Phúc cho kẻ tỏ lòng xót thương - Họ sẽ được thương xót
Phúc cho kẻ tâm hồn thanh khiết - Họ sẽ được thấy Thiên Chúa
Phúc cho kẻ kiến tạo hòa bình - Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa
Phúc cho kẻ bị bắt bớ vì sự công chính - Họ được hưởng Nước Thiên Chúa
Phúc cho các con bị họ xỉ nhục và bắt bớ vì Thày - Các con được hưởng phần thưởng lớn lao trên trời
Nhìn vào bản phân tích trên đây, như mới nhận định, chúng ta còn thấy những điều ngoại lệ sau đây:
· Thứ nhất, không phải chỉ có Bát Phúc mà là Cửu Phúc.
· Thứ hai, chỉ có 6 phúc ở trong tình trạng "sẽ", còn 3 phúc (1, 8 và 9) ở trong tình trạng hiện thực.
· Thứ ba, phúc thứ nhất và thứ tám cùng "được hưởng Nước Thiên Chúa" giống hệt như nhau.
· Thứ bốn, phúc thứ tám và thứ chín được hưởng khác nhau tuy cùng chịu "bắt bớ" giống nhau.
Để có thể hiểu được phần nào những điều ngoại lệ nơi phần mở đầu của bài giảng tiên khởi này, theo tôi, trước hết chúng ta cần phải giải quyết vấn đề thứ tự của những mối phúc đức trọn lành này. Nhờ đó, chúng ta còn hiểu được phần nào lý do tại sao phúc này được Chúa Giêsu nói đến trước phúc kia mà lại không đặt sau phúc ấy? Nếu chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã nói gì hay dạy gì đều phải có lý của Người, chứ không phải vô lý hay bâng quơ, thì đâu là mối liên hệ của những mối phúc đức trọn lành này? Tại sao lại chỉ có Cửu Phúc mà không phải là Bát Phúc hay Thập Phúc? Theo tôi, Cửu Phúc Trọn Lành này chính là tất cả linh đạo của Kitô giáo mà tôi xin gọi là Linh Đạo Nước Trời, một linh đạo dẫn vế nhân sinh đến vế thần linh, bắt đầu từ bước trọn lành căn bản nhất cho đến tột đỉnh trọn lành, một linh đạo là tiến trình phát triển đức tin cho đến khi "tất cả sự thật" (Jn 16:13) được hoàn toàn tỏ hiện hay mạc khải nơi họ và thế gian: "Nước Thiên Chúa giống như một hạt cải… một hạt nhỏ nhất nhưng phát triển lại thành một cây lớn nhất… đến nỗi chim trời đến làm tổ nơi các cành của nó" (Mt 13:31-32).
Bước trọn lành thứ nhất là "tinh thần nghèo khó". "Tinh thần nghèo khó", theo tu đức và kinh nghiệm sống đạo cho thấy, thực sự là điều kiện tối yếu để Kitô hữu mang danh môn đệ Chúa Kitô chúng ta có thể bắt đầu và thực sự theo Chúa. Đó là lý do tại sao Người dứt khoát về thành phần muốn theo Người là: "không ai trong quí vị có thể làm môn đệ của Tôi nếu họ không từ bỏ tất cả những gì mình có" (Lk 14:33). Để rồi, một khi đã "từ bỏ tất cả những gì mình có", thì phần thưởng đầu tiên, hay phúc đầu tiên con người có "tinh thần nghèo khó" này được nếm hưởng đó là "Nước Thiên Chúa".
Bước trọn lành thứ hai là "hiền lành". Tu đức và kinh nghiệm sống đạo cũng cho thấy, khi con người mới bỏ mọi sự theo Chúa thì lúc đầu được rất nhiều ơn an ủi và nhờ đó trở nên rất sốt sắng. Đến nỗi, họ có thể "coi mọi sự như phân bón" (Phil 3:8), thậm chí, đến chỗ xa tránh mọi sự chỉ vì khinh bỉ và ghê tởm tạo vật tự bản chất vốn tốt lành của chúng hơn là coi trọng chúng và sử dụng chúng theo đúng dự định của Thiên Chúa về chúng. Nếu họ có thái độ hung dữ như vậy đối với tạo vật, họ chẳng những không được "đất làm gia nghiệp" mà còn mất cả "Nước Thiên Chúa" nữa, tức mất lòng Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên mọi sự tốt lành (x Gen 1:31). Trái lại, với "tinh thần nghèo khó", nếu họ biết làm chủ chúng (x Gen 1:26) theo ý Hóa Công, không phải là "họ sẽ được đất làm gia nghiệp" hay sao?
Bước trọn lành thứ ba là "sầu thương". Con đường nhân đức trọn lành tiếp tục ở chỗ, sau thời gian sốt sắng ban đầu, tâm hồn theo Chúa bắt đầu cảm thấy khô khan nguội lạnh, không còn ham thích làm việc thiêng liêng đạo đức, hy sinh hãm mình, kỹ càng giữ luật phép nữa. Vì lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn, Thiên Chúa đã cất ơn an ủi của Ngài đi, làm cho linh hồn cảm thấy chán nản trong hết mọi sự. Họ có thể hối tiếc vì đã theo Chúa, một thái độ hối tiếc được tỏ ra bằng những hành động quay về với những đam mê và tính mê nết xấu của mình, thậm chí ham thích cả những cái họ ghê tởm trong lúc còn sốt sắng v.v. Đến đây, thực tế cho thấy, đa số đã bỏ đường nhân đức trọn lành. Chỉ trừ những linh hồn thực sự có "tinh thần nghèo khó", nhất là biết "hiền lành" đối với giá trị khách quan nơi sự vật trần gian.
Bước trọn lành thứ bốn là "đói khát thánh đức". Tuy nhiên, sau thời gian khô khan nguội lạnh, linh hồn còn tiếp tục đi đường nhân đức trọn lành sẽ cảm thấy rằng chính sầu thương họ đã phải trải qua, như thời gian dân Do Thái đi qua sa mạc xưa, tự nó sẽ trở thành niềm vui cho họ (x Jn 16:20), vì nơi họ đến hay bậc trọn lành họ được dẫn vào, là một "mảnh đất chảy sữa và mật" (Ex 3:8,17, 13:5, 33:3): sữa tinh thần và mật chân lý. Ở chỗ, họ trở nên cứng cát hơn, không còn hay giảm bớt cuộc sống đạo theo cảm giác, cảm tình hay lý lẽ trần gian, trái lại, họ bắt đầu thực sự cảm thấy "đói khát thánh đức" và "được no thỏa" trong việc nỗ lực "tôn thờ Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý" (Jn 4:24).
Bước trọn lành thứ năm là "tỏ lòng xót thương". Sau khi đạt tới chỗ bắt đầu được nếm hưởng cảm nghiệm thần linh ở giai đoạn trọn lành thứ tư trên đây, nghĩa là được phần nào hiệp thông với "Thiên Chúa là tình yêu" (1Jn 4:8,16), linh hồn mới có thể thông phần vào tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu làm họ "được tham dự với Thày" (Jn 13:8), ở chỗ họ biết cảm thông với những nỗi khát vọng (x Lk 12:49,19:10) của một Vị Thiên Chúa Làm Người, nhờ đó, họ có thể "tỏ lòng xót thương" hết mọi người, nhất là thành phần tội nhân đáng thương, như chính họ đã từng "được xót thương".
Bước trọn lành thứ sáu là "tâm hồn thanh khiết". Một khi đạt đến trình độ biết "tỏ lòng xót thương", tức đến trình độ biết rửa chân cho nhau "như Thày đã rửa chân cho các con thế nào, các con cũng hãy rửa cho nhau như vậy" (Jn 13:14), linh hồn mới thực sự có một "tâm hồn thanh khiết", nhìn tạo vật nói chung, nhất là anh chị em đồng loại của mình nói riêng, bằng ánh mắt của Thiên Chúa Làm Người. Nghĩa là, linh hồn bấy giờ đã biết nhìn mọi sự trong Chúa, và tỏ ra tôn kính Ngài trong tất cả mọi sự, kể cả nơi tất cả những bất hạnh xẩy ra cho họ, thậm chí kể cả nơi "kẻ thù" làm khốn họ.
Bước trọn lành thứ bảy là "kiến tạo hòa bình". Một khi biết "tỏ lòng xót thương" bằng một "tâm hồn thanh khiết" như thế, linh hồn sẽ trở thành một kẻ "kiến tạo hòa bình", như một Phanxicô Khó Khăn: "đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp…". Chính ước nguyện thiết tha và nỗ lực hoạt động "kiến tạo hòa bình" để làm cho mọi người sống với nhau như anh em trong nhà Cha trên trời mà họ mới thực sự đáng "được gọi là con Thiên Chúa".
Bước trọn lành thứ tám là "bị bắt bớ vì sự công chính". Lịch sử Kitô giáo cho thấy, thành phần môn đệ của Chúa Kitô, thành phần đi rao giảng "tin mừng cho tất cả mọi tạo vật" (Mk 16:15), để "kiến tạo hòa bình" "khắp thế gian" (Mk 16:15), lại chính là thành phần vẫn "bị bắt bớ vì sự công chính". Bởi vì, thành phần này là thành phần chẳng những sống ngược lại với đường hướng thế gian, mà còn hoạt động chống lại những lợi lộc phi nhân và bất công của thế gian nữa. Tuy nhiên, những "bách hại" của thế gian dù có sắt máu đến đâu đi nữa, cũng không thể làm thành phần này lui bước, vì "Nước Thiên Chúa" đã trị đến nơi những con người ấy.
Bước trọn lành thứ chín là "bị họ xỉ nhục và bắt bớ vì Thày". Một khi "Nước Thiên Chúa" đã trị đến nơi thành phần môn đệ theo Chúa Kitô, thành phần này trở thành những chứng nhân chân thực và sống động của Người, đến nỗi, thân phận của thành phần môn đệ này hoàn toàn gắn liền với thân phận của Thày mình: "Tôi tớ không hơn được chủ mình. Họ sẽ bắt bớ các con như họ đã bắt bớ Thày… Các con vì danh Thày mà bị họ gây cho các con những điều ấy" (Jn 15:20-21). Như thế, "phần thưởng lớn lao trên trời" mà thành phần môn đệ "bị họ xỉ nhục và bắt bớ vì Thày" đây "được hưởng" chính là ở chỗ thành phần này được hoàn toàn nên giống Thày mình, được hiệp nhất nên một với Thày, tức được "đạt đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô là đầu" (Eph 4:15), hay đã đạt đến tuyểt đỉnh trọn lành vậy.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 19, câu 21, Chúa Giêsu nói với người thanh niên giầu có muốn tiến xa hơn lãnh vực Thập Giới là "Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán đi tất cả những gì mình có mà bố thí cho kẻ khó. Bấy giờ anh sẽ được kho báu trên trời. Rồi sau đó hãy trở lại mà theo Tôi". Xin lưu ý là, ở đây, nếu người thanh niên giầu có này thực sự và cương quyết "muốn nên trọn lành", thì, theo thứ tự lời Chúa Giêsu nói, anh ta "sẽ được kho báu trên trời" trước khi "trở lại mà theo" Người, hay trước khi theo Chúa, con người đã được Chúa rồi vậy. Bởi vì, theo nguyên tắc, "kho báu của các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó" (Mt 6:21). Như thế, điều kiện tối cần để Kitô hữu chúng ta có thể bắt đầu bước vào đường nhân đức trọn lành, hay bước theo Chúa Kitô, phải chăng đó là, chúng ta cần có "Nước Thiên Chúa" nơi bản thân mình đã, ở chỗ: "Tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước" (Mt 6:33), tức là đặt Nước Thiên Chúa là ưu tiên đệ nhất trong cuộc đời mình?
Cha Teresio Bosco, trong cuốn "Chúa Kitô trên nẻo đường của loài người", có thuật lại câu chuyện cô Margherita, nữ sinh lớp 12 trong một trường ở Italia, đã can đảm bảo vệ đức tin và Giáo hội. Lớp của Margherita có một giáo sư triết, người thành Firenze, rất xuất sắc. Ông đã thu hút được cả lớp ngay từ giờ học đầu tiên. Nhưng một hôm, ông ta bất ngờ tấn công Giáo hội, đả kích các linh mục và Đức Giáo hoàng. Ông chế nhạo tôn giáo và cả những người nào tin vào Chúa Giêsu. Cả lớp im lặng như tờ, chỉ có một bàn tay giơ lên xin phát biểu ý kiến. Đó là Margherita. Cô đứng lên lễ phép thưa: "Thưa thầy, những điều thầy vừa nói là không đúng sự thật".
Cả lớp im lặng căng thẳng. Margherita biết ro mình có thể làm cho giáo sư nổi giận và có thể ông sẽ "trùy" mình, nhưng nàng tự nhỏ: "Nếu tôi im lặng, thì tôi chỉ là một đứa hèn nhát mà thôi".
Trước sự phản đối của Margherita, viên giáo sư triết không nổi giận, chỉ mĩm cười, và tiếp tục giải thích những lời tấn công tôn giáo và Giáo hội mà ông vừa nói. Ông cũng không ngờ cô nữ sinh Margherita dịu hiền kia mà lại dám chống lại những tư tưởng của ông. Margherita lại giơ tay xin nói: "Thưa thày, điều thầy nói không đúng sự thật".
Một cô bạn thúc cùi chỏ vào Margherita và nói nhỏ: "Im đi mày. Bộ mày muốn rớt hả. Mày cứ làm như tụi tao. Cứ để ổng nói gì thì nói, mình tin gì thì cứ việc tin. Nếu mày cứ làm như vậy, thế nào mày cũng rớt cho mà coi".
Đến kỳ Giáng Sinh là cuộc thi đầu tiên. Margherita đều được điểm tốt trong mọi môn thi. Còn môn triết, cô thật lo lắng vì chỉ cần thầy giáo cho 4 điểm là cô "tàn đời". Nhưng đến lúc phát sổ điểm, điều mà không ai ngờ, đó là Margherita được 10 điểm, - chưa bao giờ nàng được điểm cao như vậy với môn triết, - trong khi các bạn của nàng chỉ biết lập lại như vẹt những điều giáo sư đã nói, họ chỉ được 6 điểm.
Năm học dần dần trôi qua. Margherita mỗi lần đi nhà thờ, đều không quên cầu nguyện cho giáo sư triết vô thần của mình. Bẵng đi vài năm, một hôm, đang đi trên đường phố, Margherita nghe có người gọi tên mình từ bên kia đường. Nàng chạy đến, thì ra đó là giáo sư triết cũ của cô. Ông đã bỏ trường, vẻ đau khổ hằn lên trên khuôn mặt của ông. Ông nói với Margherita: "Em biết không, gia đình thầy đang tới hồi tan vỡ. Thày vừa vào nhà thờ kia để cầu nguyện với Chúa của em". Từ đó, Margherita không gặp lại ông nữa, chỉ nghe nói ông đã chết trong chiến tranh, khi tàu bị đắm (T. Bosco, Cristo sulla strada degli uomini, Torino, 1979,155-157).
Chúa Giêsu đã không đi theo nhịp sống bình thường của con người. Suốt cuộc đời, Ngài đã can đảm sống ngược dòng để làm chứng cho tình yêu. Ngày từ đầu đời, Ngài đã bị bách hại, lánh qua Ai Cập, rồi hồi hương trở về... Tụ họp dân chúng trên núi để công bố các Mối Phúc. Ngài không công bố một dự án cho vương quốc nay còn mai mất, nhưng cho một vương quốc bất diệt.
Các Mối Phúc của Chúa Giêsu hoàn toàn đảo ngược với niềm khao khát, ước mơ của con người trong mọi thời đại. Những điều con người coi là bất hạnh, thì Chúa Giêsu cho là hạnh phúc. Chính vì thế mà không lạ gì không ít người coi các Mối Phúc này như một chướng kỳ gây vấy ngã. Hơn nữa, họ còn coi như là những mối họa hay những lời nguyền rủa, thậm chí còn coi đó như những liều thuốc phiện hay viên an thần, hoặc một lời phù du ru ngủ khiến người ta ra bạc nhược, cam thân chịu đựng giữa bao cảnh đời khốn khổ này. Làm sao thỏa mãn được một lối sống hưởng thụ tức thời những vinh hoa trần thế với bất cứ giá nào? Làm sao chúng ta muốn gặt hái được hạnh phúc mà không cất công gieo tỉa, cấy trồng, không phải đi vào con đường hẹp, không phải lội ngược dòng, không phải vác thập giá, không phải từ bỏ, mất mát, thiệt thòi, không phải nghèo khổ, sầu bi, đói khát, bị bách hại?
Nghèo khó, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, xỉ vả: những điều đó tự chúng chả có giá trị gì. Nhưng nếu nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khó vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bị xỉ vả vì Chúa, thì thật là người có phúc.
Các Mối Phúc Thật dành cho những ai chấp nhận và sống theo Tin Mừng đó, bởi vì "Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người" (cf Is 55:8-9). Là người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đi ngược dòng trong một xã hội luân lý sa đọa, giữa trào lưu tục hóa, duy tiên thụ và duy khoái lạc, để luôn trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô. Sự trung thành đó là "cuộc tử đạo liên lỷ", đòi hỏi Kitô hữu một sự can đảm và kiên trì, nhiều khi mạnh mẽ hơn cả việc giơ đầu cho lý hình chém trong giây lát. Những cám dỗ xúi giục chúng ta bất trung thật là nhiều: mọi người đều tham nhũng, đều sẵn sàng phá thai, ngừa thai bất chính, nói dối, ngoại tình, tại sao mình không làm? Các thánh nhân là những người dám lội ngược dòng, noi gương Thầy Giêsu. Đời sống các ngài là câu trả lời sống động vừa là lời mời gọi thách đố cho con người hôm nay vốn luôn ngại ngùng khi phải đối diện với các Mối Phúc, với hạnh phúc thật của Chúa Giêsu.
Hạnh phúc là niềm khao khát của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc và cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Thiên Chúa cũng luôn bận tâm đến hạnh phúc của con người, và Ngài vui khi thấy con người hạnh phúc. Chẳng có gì dễ hiểu như hai từ hạnh phúc, nhưng định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ. Hạnh phúc bao giờ cũng được trộn với mồ hôi nước mắt, bởi vì "có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau?" Chỉ ai biết yêu thật sự mới cảm thấy hạnh phúc.
Ước gì chúng ta cộng tác với Chúa để các Mối Phúc được thành tựu ngay ở đời này nhờ biết chia sẻ cho người đói, đem niềm vui cho kẻ khổ đau.
Là con người, ai cũng muốn được hạnh phúc. Vì thế, từ xa xưa, con người đua nhau đi tìm hạnh phúc. Có người cho rằng họ sẽ được hạnh phúc nếu có thật nhiều tiền hoặc vàng bạc hoặc lúa rượu đầy kho, hay là nhà cao cửa rộng, hay ruộng đồng thẳng cánh cò bay. Có người cho rằng nếu mình được nắm quyền làm vua một cõi, cai trị người khác là hạnh phúc. Và người ta cứ đi tìm hoài tìm mãi, mà không thấy.
Có nhiều lý do làm cho họ không tìm thấy hạnh phúc. Thứ nhất là họ không biết hạnh phúc là gì. Họ cũng không biết hạnh phúc ở đâu để tìm. Và họ đã chẳng rõ cách thức để "bắt" và giữ lấy hạnh phúc.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta một khái niệm về hạnh phúc trái ngược hẳn với quan niệm thường tình của con người thế gian. Chúng ta gọi chúng là "Phúc thật" nghĩa là được hạnh phúc hoàn toàn, thật sự, và lâu bền. Còn thứ hạnh phúc của thế gian tìm kiếm thì bất toàn, không tồn tại lâu bền nên ta tạm gọi chúng là "phúc giả".
Hạnh phúc thật là chính Thiên Chúa, như chúng ta vẫn thường hát với Linh mục nhạc sĩ Kim Long rằng "Chúa là hạnh phúc của con. Chúa ơi, Chúa là hoan lạc đời con". Đối với tôi, nội một tư tưởng muốn tìm kiếm Người không thôi cũng đủ lam cho con người thấy vui rồi, và vui vẻ là một cách diễn tả con người hạnh phúc.
Thiên Chúa là hạnh phúc thật. Bởi vì Ngài là tất cả những gì tốt đẹp nhất: Ngài là Chân, Thiện, Mỹ. Ngài còn là Tình yêu nữa. Mà yêu và được yêu là con người hạnh phúc. Để trả lời câu hỏi hạnh phúc ở đâu, chúng ta cùng ôn lại lời Chúa đã nói: "Đã đến lúc người ta thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý". Và tinh thần chân lý ở trong thẳm cung tâm hồn của mỗi người. Hãy vào trong tâm hồn mình để tìm kiếm Ngài.
Hạnh phúc là Thiên Chúa, chứ không phải là sự nghèo khó, hay hiền lành, hay than khóc, hay đói khát... Những điều Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm chỉ là phương thế để đạt được hạnh phúc: có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đau buồn, đói khát điều công chính, thương xót người, ăn ơ thuận hòa, bị bách hại vì lẽ công chính, và bị bách hại vì Chúa. Ngài còn cho biết hạnh phúc đó giống như thế nào nữa: đạt được Nước Trời, có cơ nghiệp là Đất Nước, được ủi an, được no thỏa, được xót thương, được nhìn xem Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa, và được phần thưởng trọng đại ở trên trời.
Cũng có những cách thức khác giúp ta sống hạnh phúc mà không được ghi trong bài Phúc Âm hôm nay nhưng cũng là một trong những bài học của Chúa Giêsu dạy chúng ta: "Phúc cho ai nghe và giữ lời của Chúa". Nhưng giữ lời Thiên Chúa là gì nếu không phải là thực hiện những điều Ngài dạy:
Hãy có tinh thần nghèo khó: chấp nhận mọi tài năng, của cải, người thân, cơ hội Chúa ban với lòng biết ơn.
Hãy ăn ở hiền lành, tha thứ, "chín bỏ làm mười" cho mọi thiếu sót của anh chị em mình.
Hãy biết chia sẻ nỗi buồn đau/vui mừng của người anh em chung quanh, và biết than khóc hối lỗi mình.
Hãy thương xót người như chính mình, thương yêu đến xót xa phận người.
Hãy biết ăn ở thuận hoà, kính trên nhường dưới.
Hãy kiên trì chịu đựng gian khổ và bách hại vì Ngài và vì lẽ công chính chứ không ghét bỏ người nghịch với mình.
Nguyện xin Đức Mẹ và các Thánh cầu bàu cho chúng con được mạnh sức bắt chước gương lành của các Ngài mà thực hiện những điều Chúa dạy để chúng con cũng tìm thấy, bắt và giữ được hạnh phúc của đời chúng con là chính Thiên Chúa đời đời.
Tôi muốn cùng bạn gởi trao tâm sự từ suy nghĩ về mối phúc thứ ba: “Phúc cho ai đau buồn vì họ sẽ được ủi an”.
Mỗi một ngày, bạn và tôi nhận được rất nhiều “phúc”. Bạn đừng vội cho tôi chủ quan. Cứ quan sát kỹ mỗi một ngày sống, bạn sẽ thấy tôi nói không sai. Nếu bạn là người nông dân, sau một ngày vất vả trên nương đồng, chiều trở về với vợ con, quay quần trong bữa cơm dưới má ấm mà mình dày công vun đắp, ai lại không vui. Hạnh phúc ngự trong niềm vui ấy.
Nếu bạn là người công nhân, sau khi hoàn thành một sản phẩm do chính đôi tay, khối óc của mình làm ra, và được hưởng nhờ hiệu quả của những sản phẩm ấy, chắc niềm vui sẽ đong đầy trong lòng bạn.
Một ai đó làm thơ, cưu mang ý thơ bao nhiêu thời gian, đến một ngày, ý thơ trở thành tuyệt tác. Nỗi hạnh phúc của người làm thơ sẽ lớn lắm khi biết tác phẩm của mình được mọi người đón nhận.
Bạn, đấy là hạnh phúc, cái hạnh phúc sau những lo toan tần tảo. Hạnh phúc của sự nghĩ ngơi thân xác. Hạnh phúc của trí tụê, của đôi tay miệt mài. Hạnh phúc của tâm hồn làm việc. Hạnh phúc của nụ cười sau nước mắt. Hạnh phúc của ngọt bùi pha trong vị đắng. Hạnh phúc của bình minh sau đêm dài tăm tối. Hạnh phúc của một người vừa lấy lại sức khẻo sau một cơn bạo bệnh. Hạnh phúc của ai đó vừa thoát chết sau một tai nạn nào đó… Hạnh phúc đấy. Như chiếc lá có hai mặt. Lật lá lên để nhìn thấy mặt thứ hai. Chỉ cần suy nghĩ sẽ cảm nhận hạnh phúc phía sau những long đong đời thường.
Hạnh phúc không xa xôi, nhưng ở trong tầm tay. Cả những lúc đau khổ tột cùng, những lúc mà cuộc sống như đang đè bẹp sự sống của ta, tưởng như hạnh phúc xa diệu vợi, thì ngay chính lúc ấy, có khi lại là lúc bạn và tôi đanh hạnh phúc. Tôi không nói ngược đâu. Bạn cũng đừng cho rằng tôi đang uống thuốc ngủ để tự cam lòng mình. Dẫu biết rằng đau khổ là đau khổ, không thể chối cãi được. Nhưng có ai dám nói chắc rằng, một người suốt đời không bao giờ bất hạnh, mà chỉ biết toàn sự giàu sang, nhung lụa, là người hạnh phúc không? Nếu không có đêm đông giá rét, chắc gì ta nhận ra cái đẹp của ngày mùa xuân. Bạn và tôi có thể đã gặp nhiều bất hạnh. Nhưng trong nỗi đau cuộc đời, ta sẽ suy nghĩ chính chắn hơn, ta sẽ vững vàng, sẽ lớn lên trong kinh nghiệm sống. Bất hạnh mà ta gặp phải cũng làm cho ta rộng lượng và khoan dung hơn, dễ thông cảm hơn, nhất là ta sẽ dễ hiểu hơn những hoàn cảnh khó khăn của anh chị em quanh mình. Đó không phải hạnh phúc sao, dẫu nó được mặc một lớp áo bất hạnh.
Bất hạnh khi được nhìn một góc nào đó, cũng thấy có hạnh phúc. Khám phá hạnh phúc từ trong bất hạnh đã là hạnh phúc.
“Phúc cho ai đau buồn vì họ sẽ được ủi an”. Bằng những gì đã suy nghĩ bên trên, tôi hiểu được lời của Chúa Giêsu. Mặt khác, khi Người nói: “Phúc cho ai”, Người đề nghị ta một mối phúc khác hơn, lớn hơn và bền vững: phúc thật! Đau buồn chắc chắn là không phúc rồi, nhưng phúc cho người đau buồn nằm ở chỗ “họ sẽ được ủi an”. Sự ủi an không là sự ủi an của những con người dành cho nhau, không là sự ủi an nhất thời, nhưng là sự ủi an xuất phát từ Thiên Chúa. Chỉ nơi Thiên Chúa, dựa vào lời an ủi của Thiên Chúa, ta mới dám nói đau buồn là phúc, và là phúc thật.
Mặt khác, nhìn vào thánh giá, tôi thấy Chúa của tôi, là Thiên Chúa đấy, là đấng quyền năng đấy, là Thần duy nhất của vũ trụ này, đã cúi xuống để gánh chịu thương đau cùng bạn, cùng tôi, cùng cuộc đời này. Thiên Chúa là Chúa, Đấng mà chúng ta tôn thờ, đã lặn sâu trong kiếp người, để cùng chia sẻ đến mức tuyệt hảo cái kiếp người mà mỗi một người vươn mang. Bởi đó, nhìn vào thánh giá, tôi thấy một niềm an ủi lớn lao cho bất hạnh của tôi. Nỗi đau của thánh giá Chúa Giêsu ngày xưa, và nỗi đau của cây thập giá đời mà bạn và tôi đang vác, đang mang đồng hình đồng dạng. Bởi đó tôi mới mạnh mẽ mà tuyên xưng: “Phúc cho người đau buồn”, và là phúc thật.
Thánh giá Chúa Kitô mang lại ý nghĩa cho đau khổ của ta. Thánh giá ấy đã treo giữa trời, giữa đất hình hài trần trụi của một Thiên Chúa làm người, lại trở nên nguồn thánh hóa, tác thánh cho thập giá của đời tôi và bạn, biến thập giá mà chúng ta đang mang trở thành thánh giá. Thánh giá của chúng ta một khi được kết hợp cùng thánh giá Chúa Giêsu, cũng sẽ trở nên phương thế cứu chuộc chúng ta và cả nhân loại. Đau khổ tưởng như một thách đố đánh gục con người, nào ngờ lại là cây thánh giá lớn lao đến như vậy. Bởi đo, tôi tin Lời Chúa của tôi, Đấng chịu khổ vì tôi: “Phúc cho ai đau buồn vì họ sẽ được ủi an”. Đó là phúc thật, phúc vĩnh cửu.
Khoa học kỷ thuật ngày càng phát triển, mức sống con người ngày càng cao thì con người càng có nhu cầu hưởng thụ, do đó mà con người ta càng xa cách Thiên Chúa hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một chương trình hành động cụ thể trong một xã hội hưởng thụ, bon chen, đầy những tội ác và bất công, chương trình hành động ấy được mở đầu bằng mối phúc: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó...” và kết thúc bằng mối phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính...”
Nghèo là một hạnh phúc vì Thiên Chúa luôn bênh vực và đứng về phía người nghèo, bởi vì Chúa Giêsu đã chọn lấy thân phận nghèo hèn để sống giữa chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, nghèo khó chính là một hạnh phúc và bình an của những ai yêu mến và thành tâm tìm kiếm Nước Trời. Người nghèo chân chính là người sống bình an trong cảnh nghèo của mình với ân sủng của Thiên Chúa, là người không mơ tưởng đến của cải, danh vọng của người khác...
Hiền lành là một hạnh phúc vì Chúa Giêsu đã sống như thế và dạy chúng ta sống như thế khi Ngài nói: “Hãy học với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Người hiền lành thì được Thiên Chúa chúc phúc cho hưởng gia nghiệp Nước Trời, và bời vì hiền lành chính là đầu giây của sự hòa thuận và yêu thương.
Sầu khổ vì bị ngược đãi là một hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu đã bị người ta ngược đãi khi rao giảng tin vui Nước Trời, chính Ngài là người bị ngược đãi cách bất công nhất khi tay Ngài đã chúc phúc và chữa lành bệnh tật cho nhiều người. Người sầu khổ vì danh Chúa Giêsu mà bị ngược đãi sẽ trở nên giống Ngài hơn khi bị người khác đem những bất công trút trên đầu mình.
Khao khát nên người công chính là một hạnh phúc bởi vì Chúa Giêsu là người vì sự công chính mà bị đóng đinh vào thập giá. Sống giữa một xã hội đầy những bon chen, mưu mô, gian dối.v.v... mà tìm được sự công chính của Thiên Chúa thì đúng là một hạnh phúc, sự công chính này không phải từ nơi tòa án của người đời, nhưng là nơi sự lương thiện của lương tâm và sự khao khát tìm kiếm Nước Trời như một cứu cánh để trở nên chứng nhân cho Tin Mừng.
Xót thương người là một hạnh phúc vì Chúa Giêsu đã xót thương mọi người, xót thương anh Lagiarô đã chết, xót thương đứa con một của bà góa thành Naim, xót thương những người tội lỗi và những người đang sống trong những nổi bất hạnh. Người biết xót thương người thì sẽ được Thiên Chúa xót thương, đó là quả phúc lành mà ai gieo thì sẽ gặt được trong cuộc sống của họ, bởi vì người biết xót thương đến những bất hạnh của tha nhân, thì cũng là người đã nhiều lần suy niệm đến tình thương của Thiên Chúa đã dành cho họ.
Tâm hồn trong sạch là một hạnh phúc vì xã hội càng văn minh thì những cơn cám dỗ càng tinh vi hơn và “hiện đại” hơn, một xã hội với nhiều cạm bẩy làm cho người tu sĩ lỗi đức khiết tịnh, làm cho người vợ người chồng lỗi đạo phu thê thì sống trong sạch là một lý tưởng tuyệt vời cho mọi người. Chúa Giêsu đã sống đời trong sạch không tì ố dù Ngài đang tiếp xúc với nhiều hạng người, sự trong sạch này đã cảm hóa được Maria Madalena, đã cảm hóa được người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và làm cho nhiều người noi gương Ngài sống đời trong sạch trong bổn phận của mình.
Xây dựng hòa bình là một hạnh phúc vì đó là niềm mơ ước của mọi người, là bài ca vui mừng của các thiên thần hát vang khi Chúa Giêsu sinh ra: bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Người có bình an trong tâm hồn là người biết xây dựng bình an giữa xã hội, là người biết đem bình an đến cho mọi người bằng lời nói thiện chí và cử chỉ thân thiện chứ không gắt gỏng và chua ngoa, là phục vụ chứ không sai khiến.
Bị bách hại vì sống công chính là một hạnh phúc vì đó là điều làm cho chúng ta nên giống Chúa Giêsu hơn, như Chúa Giêsu đã sống công chính, đã nói sự thật vì công chính mà bị giết chết, thì những môn đệ của Ngài cũng phải như thế. Cuộc sống hôm nay đầy những lừa đảo và gian dối thì cuộc sống công chính càng bị bách hại, bị truy nã hơn, do đó mà khi chúng ta biết đứng thẳng vươn người lên giữa những dối gian, là chúng ta đã đến gần thập giá của Chúa Giêsu hơn.
Anh chị em thân mến,
Tám mối phúc thật là kim chỉ nam cho người Kitô hữu trở nên tốt lành thánh thiện như Chúa Giêsu đã sống, tự nó -Tám mối phúc thật- là cõi phúc, nhưng nếu trong tâm hồn chúng ta không có Thiên Chúa, thì Tám mối phúc sẽ là những lời trêu đùa bỡn cợt, là cái đích để cho mọi người công kích chúng ta.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 4 thường niên, tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Người ta đã quen gọi đây là bản hiến chương Nước Trời. Nước Trời là nước hạnh phúc. Muốn vào nước đó phải có 8 đức tính căn bản là:
1/ Tâm hồn nghèo 2/ Hiền lành 3/ Sầu khổ 4/ Khao khát nên người công chính 5/ Xót thương người 6/ Tâm hồn trong sạch 7/ Xây dựng hòa bình 8/ Chịu bách hại vì sống công chính
B.... nẩy mầm.
1. Có thể quy tất cả 8 đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người:
. Mặt tiêu cực: không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này... (nói cách khác: không màng đến nước trần gian)
. Mặt tích cực: chỉ ước ao sống tốt theo ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành của Thiên Chúa (nói cách khác: được sống trong Nước Trời)
Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa.
2. Hạnh phúc là gì ? Xét cho cùng, hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.
3. Một hôm khi cầu nguyện, một Linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ:
- Nhân danh Chúa, ta hỏi mi: đâu là nơi hạnh phúc nhất ?
- Dĩ nhiên là thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là một con số không.
- Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng ?
- Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả mọi cực hình hỏa ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi !
Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc. (Chờ đợi Chúa)
4. “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5,11)
Ngày 19-6-1988, cả Giáo hội Việt Nam hân hoan vui sướng vì 117 vị tử đạo đã được phong hiển thánh. Những nỗi đớn đau tủi nhục vì Chúa Kitô của các ngài đã được chúc phúc.
Hôm nay, chúng ta cũng không thoát khỏi những khó khăn, đớn đau và tủi nhục trong cuộc chiến cam go loại bỏ tật xấu, dứt khoát với tội lỗi, hay những suy nghĩ tiêu cực nơi chính bản thân. Cuộc chiến ấy đòi hỏi chúng ta phải can đảm.
Xin các thánh tử đao Việt Nam thông truyền cho chúng con dòng máu bất khuất của các ngài và giúp chúng con biết chiếu toả tôn nhan Thiên Chúa nơi chính con người và cuộc sống chúng con.
5. Người ấn độ có câu chuyện ngụ ngôn như sau: một hôm cái bánh ướt và chiếc lá khô rủ nhau hành hương đi thánh địa Benares. Biết rằng gió và mưa là những kẻ thù có thể làm hại mình, chúng đã cẩn thận vạch ra một chương trình hành động để tự vệ: khi gặp gió thổi đến thì cái bánh ướt sẽ che cho chiếc lá khô khỏi bị bay ; còn khi gặp mưa thì chiếc lá kho sẽ che cho cái bánh ướt khỏi bị nhão. Kế hoạch tiến hành thành công. Nhưng một hôm trời vừa gió lại vừa mưa. Không đứa nào che cho đứa nào được nữa. Chiếc lá bị gió thổi đi mất, còn cái bánh bị mưa làm tan rã.
“Có tinh thần nghèo” tức là nhận thức rằng mình không thể cậy dựa vào sức riêng của mình. Nhiều khi, ngay cả những người thân thiết nhất của mình cũng chẳng làm sao giúp mình được. Tất cả chúng ta đều cần đến Chúa. (Mark Link, Vision 2000).
Thấy đám đông , Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa . Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao.
Matthêu có một khuôn mẫu chọn lọc. Trong câu truyện Chúa Giêsu chịu phép rửa, ông cho thấy Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã điểm, tiếng gọi hành động đã vang lên, Ngài phải ra đi truyền giảng. Trong câu truyện cám dỗ, ông cho thấy Chúa Giêsu cố ý lựa chọn phương pháp Ngài sẽ dùng để hoàn tất công tác, và cố ý từ chối phương pháp mà Ngài biết là không phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Một người bắt tay thi hành công tác hẳn cần người giúp đỡ, cần người phụ tá, cần người tham mưu, vì thế Matthêu tiếp tục cho thấy những người cùng cộng tác với Ngài. Nhưng những người phụ tá và trợ giúp đó chỉ có thể làm công tác cách khôn ngoan và hữu hiệu khi có những chỉ thị rõ ràng. Vì thế, trong Bài Giảng Trên Núi này, Matthêu cho chúng ta thấy Chúa Giêsu huấn luyện các Tông Đồ bằng một sứ điệp, và họ phải đem sứ điệp đó đến cho loài người. Một số học giả đã gọi bài giảng trên núi này bằng những tên như "bảng tóm tắt giáo điều của Chúa Cứu Thế" hay"Đại hiến chương Nước Trời" hay "bản tuyên ngôn của Vua". Tất cả đều đồng ý rằng bài giảng trên núi chứa đựng cốt lõi của lời Chúa Giêsu phán dạy cho những người tâm phúc Ngài đã chọn.
Thoạt xem, chúng ta coi bài giảng trên núi như một bài giảng duy nhất giảng trong một cơ hội duy nhất. Nhưng thật ra không phải thế, đây là một bài tóm tắt tất cả các bài Chúa Giêsu từng giảng. Có người gợi ý rằng, sau khi Chúa Giêsu lựa chọn muời hai Tông Đồ, Ngài đã đem họ ra một nơi yên tĩnh độ một tuần hay lâu hơn để dạy họ trong suốt thời gian đó. Bài giảng trên núi là tóm lược sự dạy dỗ đó.
Câu mở đầu của Matthêu khá chi tiết:"Khi Chúa Giêsu thấy đoàn dân đông, Ngài bèn lên núi kia, Khi Ngài đã ngồi thì các môn đệ đến gần, Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng". Trong câu ngắn ngủi có 3 điểm then chốt về ý nghĩa thật của bài giảng trên núi.
1. Chúa Giêsu dạy dỗ khi Ngài ngồi xuống. Khi một rabi Do thái chính thức dạy, ông thường ngồi để dạy. Ngày nay ta cũng thường nói Đức Giáo Hoàng ex cathedra (từ ghế của người). Khi một rabi ban huấn thị thì thường đứng, hoặc đi qua đi lại, nhưng khi thật sự dạy dỗ thì ngồi xuống. Vậy việc nói Chúa Giêsu ngồi xuống dạy dỗ các môn đệ chính là dấu hiệu cho thấy điều dạy này là trọng yếu và chính thức.
2. Matthêu tiếp tục nói rằng khi Ngài đã mở miệng bèn truyền dạy. Câu Ngài mở miệng không phải chỉ là lối nói trọng điểm cho câu Ngài phán. Trong tiếng Hi lạp câu này có hai ý nghĩa:
a) Dùng để chỉ lời nói nghiêm chỉnh, long trọng và có giá trị, như khi dùng cho một lời sấm truyện. Nó là một lời tựa đương nhiên cho một bài nói giá trị nhất.
b) Nó được dùng cho một lời nói của một người đem hết lòng và cũng dốc đổ cả tâm trí ra để nói. Đó là sự dạy dỗ thân thiết không có ngăn cách. Hơn nữa, câu này có công dụng cho thấy tài liệu trong bài giảng trên núi không phải là lời dạy vụn vặt mà là lời dạy nghiêm nghị, trang trọng về những điều chính yếu Chúa Giêsu đã dốc đổ lòng trí Ngài cho những người sẽ tận tụy với công tác của Ngài.
3. Khi Chúa Giêsu đã ngồi bèn mở miệng truyền dạy rằng. Động từ “truyền dạy” được dùng bán quá khứ (imperfect) diễn tả một hành động được lặp đi lặp lại hoặc một hành động đã trở thành thói quen trong quá khứ, như vậy ở đây được hiểu là điều Ngài thường dạy họ.
Bài giảng trên núi còn quan trọng hơn chúng ta tưởng. Trong lời mở đầu, Matthêu muốn chúng ta thấy đây là sự dạy dỗ chính thức của Chúa Giêsu , Ngài đã dốc đổ cả tâm trí cho các môn đệ tâm phúc. Bài giảng này chính là kết quả sự tập trung ký ức sau nhiều giờ tương thông mật thiết giữa môn sinh với Thầy của họ.
Trước khi tìm hiểu chi tiết từng phúc lành, có hai sự kiện chúng ta cần lưu ý:
1. Mỗi phúc lành đều có một hình thức giống hệt nhau. Chúa Giêsu không giảng bằng tiếng Hi lạp mà bằng tiếng Aram là thứ tiếng Hebrêu đương thời. Ngài dùng lối phát biểu:"Ô, phúc thay..." rất thường thấy trong Cựu Ước. Thánh vịnh 1 khởi sự bằng:"Ô, phúc thay người chẳng đi theo mưu toan kẻ gian ác". Đó là hình thức lúc đầu khi Chúa Giêsu phán về các phúc lành. Đây không phải chỉ là lời nói thường mà là lời cảm thán:"Ô, phúc thay người có tinh thần nghèo khó...". Các phúc lành này không phải là những hy vọng cuồng dại về điều sẽ đến, không phải là lời tiên tri hào nhoáng mơ hồ về hạnh phúc tương lai, nhưng là chúc mừng về hiện trạng của nó. Phúc lành thuộc về kitô hữu không phải là phúc hoãn lại đến một thế giới vinh quang tương lai, nhưng là phúc hiện có ở thế hạ này. Đó không phải là nơi người kitô hữu sẽ vào, nhưng là nơi người đã vào rồi. Đúng là phúc ấy ta sẽ trở nên đầy trọn khi ta gặp mặt Thiên Chúa , dù vậy phước hạnh là một thực tại mà người tín hữu được hưởng ngay bây giờ trên đất này. Thật vậy, các phúc lành nói:"Ô, thật có phúc được làm kitô hữu; Ô, thật vui sướng được đi với Chúa Cứu Thế; Ô, thật vui sướng được nhận Chúa Giêsu là chủ, làm Đấng Cứu Chuộc và là Thiên Chúa của mình". Chính văn thể của các phúc lành là câu vui mừng náo nức, sung sướng rạng rỡ của đời sống kitô hữu. Trước những phúc lành như thế, mà có một Kitô giáo ảm đạm âu sầu là điều không thể hiểu được.
2. Chữ "phúc" dùng trong mỗi phúc lành là một chữ đặc biệt, tiếng Hi lạp là Makarios. Chữ Makarios là chữ đặc biệt mô tả các thần. Kitô giáo có một niềm vui mừng Thiên thượng, giống như Chúa vui. Ý nghĩa Makarios có thể thấy trong cách dùng của người Hi lạp thường gọi đảo Chip là "he makarios" có nghĩa là Đảo Hạnh Phúc vì họ tin rằng Chip là nơi khả ái, giàu có , phì nhiêu, người ta không cần phải ra khỏi bờ cõi nó để tìm cuộc sống nào khác hơn nữa. Khí hậu, bông hoa, cây trái, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên của đảo thật đầy đủ cho một cuộc sống hạnh phúc. Makarios mô tả sự vui mừng màu nhiệm, sự vui mừng không tả được, sự vui mừng tự tại có bên trong mình, sự vui mừng hoàn toàn độc lập với mọi cơ may và biến đổi của cuộc đời. Hạnh phúc của loài người tùy thuộc vào những cơ may và biến đổi của cuộc đời, tùy thuộc điều cuộc đời có thể ban cho hay hủy đi.
Phúc lành của Chúa không gì có thể xâm phạm được. Chúa Giêsu phán:"Không ai lấy đi được sự vui mừng của các con" (Ga 16,22). "Phúc lành" đây nói về sự vui mừng ngay cả trong đau đớn, buồn thảm và mất mát. Đau khổ không đụng tới được, sự vui mừng chiếu xuyên qua nước mắt mà chẳng có gì trong sự sống hoặc sự chết có thể lấy mất được.
Sự vui mừng của thế gian đến rồi đi. Một sự thay đổi vận may, sức khoẻ giảm sút, kế hoạch bất thành, tham vọng không đạt, cả đến thời tiết thay đổi cũng có thể cướp mất niềm vui của thế gian. Trong khi đó người kitô hữu có một niềm vui trong sáng, bất khả xâm phạm do luôn đi với Chúa và ở trong sự hiện diện của Ngài. Tính cách vĩ đại của những phúc lành này là chúng không phải là những tia nhìn thèm thuồng về một vẻ đẹp tương lai, cũng không phải là lời hứa vàng ngọc của vinh quang còn xa vời, mà là những tiếng hô đắc thắng của chân phúc cho một niềm vui vĩnh cửu mà không có gì trong trần gian có thể cướp mất được.
Phúc thay cho những ai có tinh thần nghèo khó: người Do thái hiểu chữ nghèo theo bốn giai đoạn:
- Nghĩa đầu tiên là nghèo,
- tiếp theo là vì nghèo nên không có ảnh hưởng, quyền thế, uy tín hay sự giúp đỡ nào cả.
- kế tiếp là vì không có ảnh hưởng gì nên bị người đời chà đạp, áp bức.
- Cuối cùng vì không có một chút quyền lợi nào dưới đất nên họ đặt niềm tin cậy trọn vẹn nơi Thiên Chúa .
Do đó tác giả thánh vịnh dùng chữ này khi viết:"kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn" (Tv33,6) "người thiếu thốn không mãi bị bỏ quên, kẻ nghèo khổ không tuyệt vọng bao giờ" (Tv 8,18); "Ngài cứu kẻ nghèo hèn khỏi tay người mạnh thế" (Tv 34,10); "Đàn chiên của Ngài đến ở đâu, Ngài cũng luôn nâng đỡ, vì Ngài nhân hậu đối với những kẻ khó nghèo" (Tv 67,10)... Trong các trường hợp này, người nghèo là người bất lực, khiêm nhường đặt hết niềm tin cậy nơi Thiên Chúa . Nếu một người ý thức sự hoàn toàn bất lực của mình và đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa thì trong cuộc sống người ấy sẽ có hai mặt:
- Một mặt là người hoàn toàn tách biệt khỏi đồ vật, vì người ấy biết trong đồ vật tự nó không có gì để đem lại an ninh và hạnh phúc.
- Thứ đến, người ấy sẽ được ràng buộc trọn vẹn với Thiên Chúa vì biết rằng chỉ có Thiên Chúa mới đem lại cho mình sự cứu giúp, hy vọng và sức mạnh. Người nghèo về phần tâm linh là người ý thức rằng vật chất không có ý nghĩa gì và Thiên Chúa là mọi sự.
Ta phải cẩn thận không nên cho rằng phúc lành gọi sự nghèo thật về vật chất là một điều tốt. Chúa Giêsu không bao giờ gọi cảnh người sống chen chúc trong chỗ bùn lầy nước đọng, ăn không đủ, sức khoẻ mỗi ngày suy kém vì những điều kiện khắc nghiệt là hạnh phúc. Loại nghèo khó đó là mục tiêu giải quyết của Kitô giáo. Sự nghèo khó được kể là phúc, là sự nghèo khó trong tâm linh, tâm linh cảm biết hoàn toàn thiếu thốn nguồn năng lực để đương đầu với cuộc đời, nên tìm sự cứu giúp và sức mạnh trong Thiên Chúa .
Chúa Giêsu bảo kẻ khó nghèo như thế thuộc về Nước Thiên Chúa . Tại sao? Nếu chúng ta lấy hai lời cầu xin trong Kinh Lạy Cha đặt chung lại với nhau:"Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" chúng ta sẽ tìm được định nghĩa: Nước Thiên Chúa là một xã hội trong đó ý của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trọn vẹn ở dưới đất cũng như trên trời. Nghĩa là ai làm theo ý của Thiên Chúa là công dân của Nước Trời, và chúng ta chỉ có thể làm theo ý Chúa khi chúng ta nhận thức mình hoàn toàn bất lực, hoàn toàn ngu dốt, hoàn toàn không thể đối chọi với đời và hoàn toàn đặt niềm tin cậy nơi Thiên Chúa. Sự vậng phục bao giờ cũng đặt nền tảng trên lòng tin cậy. Nước Thiên Chúa là sở hữu của người nghèo khó tâm linh biết rõ nếu thiếu Thiên Chúa họ hoàn toàn bất lực nên đã học tập tin cậy và vâng phục.
Vậy phúc lành đầu tiên là: Ô, phúc cho ai nhận biết chắc chắn sự hoàn toàn bất lực của mình và đặt lòng tin nơi Chúa, vì chỉ có cách đó người ấy mới hoàn toàn vâng phục Chúa trở thành công dân Nước Trời.
Phụng vụ hôm nay đọc lại cho chúng ta bài giảng đầu tiên của Chúa mà người ta quen gọi là Bài giảng trên núi hay là bài giảng Tám mối phúc thật.
Bài giảng gọi là Bài giảng trên núi, vì Phúc âm chỉ rõ vị trí của nó, khi viết rằng: "Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dông đảo, Người đi lên núi,ngồi xuống và phán dạy các moôn đệ". Ngồi là tư thế giảng dạy của các bậc thông thái thời ấy.
Nhưng danh từ trên núi còn ám chỉ một điều quan trọng. Ngày xưa trong đạo cũ, ông Moisê đã lên núi Sinai để lãnh nhận mười điều răn và các tề luật của đạo cũ, thì nay Chúa Giêsu cũng lên núi để ban bố lề luật mới, một Hiến chương Nước Trời. Luật mới thay thế lề luật cũ. Giao ước mới kiện toàn giao ước cũ.
Phúc âm nói: "Ngài mở miện dạy họ rằng Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nhức Trời là của họ”. Và Chúa công bố bản Tám mối phúc thật.
Tám mối phúc thật là gì? Là những giá trị mà người đời coi thường, như điều bất hạnh, không đáng kể, tránh được chừng nào hay chừng ấy, trong khi những người con Chúa được chọn vào Nước Trời, lại coi đó là hạnh phúc, là lẽ sống.
Ở đời, người ta cho là hạnh phúc những kẻ giàu tiền lắm của, có danh vọng, có địa vị danh giá. Chúa Ciêsu đến, Ngài đổi ngược lại bậc thang giá trị ấy. Ngài nói: ‘Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai buồn vì họ sẽ được an ủi. Phúc cho bị bách hại vì phần nước Trời là của họ”.
Nói một cách chung: bốn mối phúc thật đầu nói lên những điều kiện để được vào Nước Trời và bốn mối phúc thật cuối là phần thưởng của những kẻ được vào Nước Chúa.
Chúa phán cùng Nicođdêmô: “Ngươi phải được sinh ra trong Thần Thần mới hiểu được một cách chân thực những điều dưới đất và những sự trên Trời”. Do ơn rửa tội, chúng ta được sinh ra "trong nước và Chúa Thánh Thần", chúng ta mới được hiểu giá trị của Tám mối phúc thật. Đói khổ, cơ hàn, tù đày, nước mắt là những mối bất hạnh, nhưng, do ơn Chúa Thánh Thần, có thể đem lại hạnh phúc.
Đời sống các Thánh là một bằng chứng. Phanxicô Assie đi vào nhà thờ nghe đọc bài Phúc âm: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ". Ông ra về, cương quyết sống cuộc đời nghèo khó. Bao nhiêu của cải thân phụ trao cho Người đem bố thí hết cho kẻ nghèo, ăn mặc như người ăn xin, làm cho thân phụ mất mặt ông đòi lại. Phanxicô cởi hết những gì thân phụ cho trả lại và mình trần thân trụi ra đi. "Từ đây tôi không có chaở dưới đất, mà chỉ có Cha ở trên trời". Phanxicô đi vào cuộc sống theo tinh thần nghèo khó và lập nên một dòng tu khó nghèo.
“ Phúc cho những có tinh thần có nghèo khó vì Nước Trời là của họ”
Hồi ấy, Martinô thành Tours là một sĩ quan tân tòng. Một hôm, ông gặp một người hành khất bên vệ đường, manh áo không đủche thân. Martinô dừng lại tuột áo phanh chiếc áo choàng của người binh sĩ ra làm đôi, đem một nửa phủ lên người thiếu thốn. Hôm sau, người được Chúa Giêsu hiện ra, mình quấn nửa mảnh áo nhận được “Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được thương xót”
Tám mối phúc thật là Hiến chương Nước Trời, là chìa khóa đưa vào cửa Thiên đàng. "Tám mối phúc thật là cám Lời muôn đời” (Cesbron).
Tám lời "phúc thay" trong đoạn Tin Mừng này không phải là những lời hứa (Đức Giêsu hứa rằng những ai nghèo khổ, đói khát, hiền lành... sẽ được hạnh phúc).
Tám lời này cũng không phải là những chỉ dẫn để được hạnh phúc (nếu muốn hạnh phúc thì phải có tâm hồn nghèo, phải hiền lành v.v.), mà trước hết đó là những lời chúc mừng: Đức Giêsu nói với những người nghèo, đói bị ức hiếp v.v. rằng họ đừng buồn rầu nữa, đừng thết vọng nữa. Trái lại họ hãy ý thức rằng họ rất hạnh phúc, bởi vì cho dù người đời bỏ rơi họ, nhưng họ được một Đấng rất quyền phép luôn yêu thương họ, đó chính là Thiên Chúa; cho dù họ thiếu thốn nhiều điều mà người đời tìm kiếm, nhưng họ có được một kho tàng không gì quý bằng, đó là Nước Trời. Họ hãy vui mừng vì Đức Giêsu đến trần gian để lập một nước hạnh phúc, mà nước đó Ngài ưu tiên dành cho họ.
2. Một chương trình hành động
Bài giảng trên núi mở đầu bằng những lời chúc phúc. Nghĩa là sứ điệp của Đức Giêsu chủ yếu là loan báo hạnh phúc. Nhưng loan báo cho ai, và như thế nào?
Phải đau đớn nhận rằng các lời chúc phúc ấy đã bị hiểu sai và bị lợi dụng làm một thứ thuốc phiện nhằm ru ngủ nỗi khổ đau và sự nổi loạn của những người nghèo. Người ta muốn hiểu chúng như sau: "Hỡi những người nghèo, các người hạnh phúc lắm vì các người được Thiên Chúa yêu thương... vậy cứ tiếp tục nghèo đi! Hãy chấp nhận thân phận của các người, rồi một nào đó ở trên trời các người sẽ được hạnh phúc". Nhưng thực ra Đức Giêsu nói ngược hẳn lại: "Hỡi những người nghèo, chúng con hạnh phúc, vì từ nay chúng con không còn nghèo nữa, vì triều đại của Thiên Chúa đã đến".
Một vấn nạn: nếu thực sự ý nghĩa lời chúc phúc của Đức Giêsu như thế thì... Ngài đã lầm, vì vẫn luôn còn những người nghèo, và bất công vẫn còn đấy? Nhưng đặt câu hỏi như vậy thì hỡi ôi, những người Kitô hữu chúng ta đã không làm tròn bổn phận của mình. Chúng ta chỉ chờ một mình Đấng Messia thành lập triều đại Thiên Chúa. Đúng ra Đức Giêsu là người khánh thành nước Thiên Chúa và giao trách nhiệm cho chúng ta là các môn đệ của Ngài phải hoàn thành. Những Kitô hữu đầu tiên đã hiểu rõ điều ấy: họ để tài sản của họ thành của chung và không có người nghèo giữa họ (Cv 4,34). Không thể chỉ công bố suông những lời chúc phúc mà chẳng làm gì cả theo khả năng mình để cho sự nghèo khổ dưới mọi hình thức bị biến mất.
Công việc của Đức Giêsu là khánh thành Nước Thiên Chúa. Nếu thế thì các lời chúc phúc (và những giáo huấn triển khai các mối phúc ấy) đối với các Kitô hữu là một chương trình hành động trong sinh hoạt cụ thể của họ về chính trị, kinh tế, gia đình...
Chúng nhắc chúng ta nhớ rằng động cơ hành động của chúng ta chỉ là phục vụ tha nhân và trước tiên là những người nghèo, chứ không bao giờ được là tiền bạc hoặc quyền lực.
Chúng còn ban môt ý nghĩa sâu sắc cho những việc người Kitô hữu làm: một y sĩ chiến đấu với bệnh tật, một công nhân đem sản phẩm của mình làm cho đời sung túc hơn, một giáo viên cố gắng giúp giới trẻ nên người... tất cả những người ấy đều có quyền nghĩ rằng mình đang thực hiện Nước Chúa.
3. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó
Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: "Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ", nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: con người sinh ra, để rồi già yếu bệnh tật, và cuối cùng phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ:
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!" (Mt 5,3)
Một người mang tiếng là bi quan yếm thế, người kia lại bi coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.
Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Đã có những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Giêsu đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng; của sự phân chia đối kháng; còn kinh nghiệm của Đức Kitô là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất (x. Mt 10,39) và sự sống trong cái chết (x. Ga 12,24-25)
Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó Mát-thêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn” vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nàn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.
Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khuấy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tối tăm, lại tràn trề hạnh phúc.
Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.
Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của "người nghèo của Thiên Chúa", của một anawim theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, "dĩ bách tánh tâm vi tâm"
Theo truyền thống Ấn độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.
Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
4. Chuyện minh họa.
a/ Bài học của chó
Ngày nọ, W. Scott ném hòn đá vào một con chó lạc để đuổi nó đi. Nhưng ông hơi mạnh tay, nên con chó bị gãy chân. Thay vì chạy đi, con chó khập khiễng chạy lại bên ông và liếm lên bàn tay vừa ném nó. W. Scott bảo rằng ông không bao giờ quên chuyện đó, vì nó nhắc ông nhớ đến Bài giảng Trên núi.
b/ Người hạnh phúc nhất.
Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chằng có lấy một chiếc áo!
Những ngày đầu năm mới, người ta vẫn thường chúc nhau những điều may lành để suốt một năm họ hy vọng có được những điều tốt đẹp họ chờ đợi. Những lời chúc hướng đến sự giàu có sung túc, sống lâu trường thọ, thăng quan tiến chức, an vui hạnh phúc và bình an mạnh khỏe...Đó là những điều phúc mà người ta cầu chúc cho nhau. Chẳng bao giờ có ai dám cầu phúc bằng sự khó nghèo, đói khát, sầu khổ, bắt bớ. . .
Những lời chúc như thế chỉ là những lời nguyền rủa độc địa dành cho người nhận và người chúc cũng sẽ nhanh chóng được mời ra khỏi cửa. Thế mà các mối phúc của Tin Mừng hôm nay lại nói đến những điều lạ lùng đến khó hiểu... Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó...
Phúc thay ai sầu khổ... Phúc thay ai đói khát công chính... Phúc thay ai bị sát hại...
Phải chăng đây là những lời phủ dụ làm an lòng người nghe để họ bình tâm mà sống thân phận khốn khổ của họ giữa dòng đời, hay là một lời loan báo đầy thách đố đi ngược lại với những gì mà trần gian đang Mtệt mài tìm kiếm ?
Một sự công bố như vậy ắt hẳn không có tính thuyết phục đối với những ai đang trông đợi một giải pháp cho những nhu cầu bức bách của xã hội, một xã hội đang muốn vươn tới để xây dựng một cuộc sống phồn vinh sung túc. điều này cũng không lôi kéo được những người đang muốn tìm cho mình một nếp sống yên ổn để hưởng thụ những thú vui mà xã hội sẵn sàng cung cấp cho họ. Ngay cả đối với những người đang lao mình tìm lối thoát ra khỏi cảnh đói nghèo vất vả thì lời loăn báo này. xem ra không mấy hấp dẫn. Vậy thì các mối phúc ấy cần cho ai ?
2. PHÚC CHO NHỮNG AI TIN NƠI ĐỨC GIÊSU
Đặt riêng các mối phúc để hiểu chúng như những chân lý hiển nhiên và phù hợp với những suy tưởng của con người thì quả là một điều bất khả. Chỉ cần một chút suy nghĩ người ta cũng thấy rằng những lời hứa từ các mối phúc chẳng ăn nhập gì với thực tế và chẳng đem lại gì cụ thể cho cuộc sống đây dẫy những phức tạp hôm nay. Tốt hơn ta nên đem chúng đặt vào bối cảnh của đoạn Tin Mừng đang được nói đến.
Chúa Giêsu đã đến rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bịnh hoạn tật nguyền trong dân (Mt 4,23). Những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bất toại cũng được đem đến cho Ngài. Ngài đến để thi ân giáng phúc và đổ muôn ơn lành từ trời xuống cho con người. Người ta đã nhận được những lời giáo huấn đầy tình thương từ Miệng Ngài thốt ra, cũng như những dấu lạ từ bàn tay vô cùng nhân ái của Ngài xoa dịu những vết thương của con người. Qua đó, người ta đã nhận ra Ngài là một Đấng uy quyền và tiếng tăm của Ngài đã vang dội khắp nơi (Mt 4,23).
Người ta đã bắt đầu tin vào Ngài và tuôn đến với Ngài. Nhưng Ngài tại muốn dẫn người ta đi xa hơn việc đáp ứng nhất thời những nhu cầu thực tiễn. Những nhu cầu đó Ngài có đủ khả năng thực hiện như Ngài đã từng làm cho họ. Với những người thực tâm muốn theo Ngài thì Ngài đã mặc khải cho họ những điều huyền dic đến từ Thiên Chúa: Các mối phúc thật không phải là kết tinh của sự khôn ngoan tự nhiên theo kiểu người đời mà là sự khôn ngoan siêu vời của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu lên núi và chỉ có những ai nhiệt tâm thực sự tha thiết gắn bó với đức Giêsu, sẵn sàng lắng nghe lời Ngài mới được diễm phúc hiểu được những điều huyền dic này. Như vậy mối phúc lại như đặc biệt dành cho những ai tin nhận Đức Giêsu, có kinh nghiệm về tình thương của Ngài, đặt tin tưởng nơi Ngài và thực sự ao ước muốn nghe lời Ngài nói thì những người ấy mới có được các mối phúc đến với mình. Nhờ tin nơi đức Giêsu họ mới liều sống các mối phúc cách mạnh mẽ, để rồi họ sẽ có những kinh nghiệm thật tuyệt vời làm nên dic cảm cho bao nhiêu thế hệ về sau.
Điều này cũng đúng cho những ai hôm nay đã có một kinh nghiệm sống gần gũi với đức Kitô, được Ngài giải thoát và xác tín Lời Ngài là chân lý, là lẽ sống cho đời mình, thì mới có thể sống các mối phúc này đến tận cùng và mới cảm thấy hạnh phúc thật sự cho chính mình.
3. LỜI HỨA HẠNH PHÚC LÀ CÓ THẬT
Con đường của các mối phúc không dễ dàng và hiển nhiên đối với trí tuệ của con người nhưng bằng lòng mến, người ta sẽ dần dần hồi ra chiều kích sâu xa của những lời loan báo lạ lùng này. Đã có những người của mọi thời đại sống triệt để các mối phúc và cuộc sống của họ đã làm rực sáng lời chúc phúc huyền dic của Chúa Giêsu. Một Phanxicô Assidi với mối phúc đầu tiên "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ." đã cho thấy cái hạnh phúc tuyệt vời của người nghèo không còn ỷ thị vào của cải trần gian này nữa mà mặc lấy sự nghèo nàn tận căn để nhận chân rằng: 'Mọi sự mình có là bởi Chúa. Tất cả niềm cậy trông được đặt nơi Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa là bảo đảm cho tương lai đời mình chứ không phải là của cải trần gian. Vì thế nên Ngài đã đem phân phát tất cả lài sản thân phụ trao cho làm cho ông tức giận đến nỗi đã phải đưa ngài ra tòa án. Sau đó ngài đã lên đường bắt đầu sống một cuộc sống khó nghèo cùng với những người bạn đồng chí hướng và thiết lập một Dòng tu chọn đời khó nghèo như phương thế để đạt đến sự trọn lành.
Gần hơn với chúng ta hôm nay có mẹ Têrêsa Calcutta. Hình ảnh của mẹ đã trở nên quen thuộc với mọi người. Bằng sự chọn lựa sống hòa nhập với những người nghèo đói, mẹ đã từ chối những bảo đảm về an ninh xã hội cho mình và cho những chị em trong hội dòng của mẹ để có thể sống mọi phúc thật ngày hôm nay. Tin vào Thiên Chúa và cậy trông nơi Ngài, mẹ đã không bao giờ phải thất vọng. Mẹ còn làm cho biết bao nhiêu tâm hồn chia sẻ xác tín ấy của mẹ và sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời mình để làm chứng cho niềm xác tín này.
Còn biết bao nhiêu khuôn mặt khác nữa đã Mtnh họa cho các mối phúc thật nữa. Một Têrêsa Hài lòng Giêsu với tâm hồn trong sạch, một MaxiMtliano Kốibe với tấm lòng xót thương đã muốn hiến mạng sống mình cho người khác, các vị thánh Tử Đạo của mọi thời và mọi nơi... và ngày hôm nay nữa ta vẫn còn nhìn thấy những mối phúc thật sống động quanh ta nếu ta quan tâm chú ý đến những tâm hồn quảng đại đang muốn nói với thế gian rằng hạnh phúc mà Đức Giêsu loan báo là có thật.
4. MẶC KHẢI LÒNG XÓT THƯƠNG CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN
Vậy các mối phúc thật đối với người tin không phải là những lời giáo huấn khuyến thiện mà là những lời mặc khải về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với hạng người khốn khổ Những con người mà thế gian coi như bất hạnh, bị bỏ rơi khinh bỉ, bị xua đuổi, bị khai trừ, bị chà đạp và loại bỏ thì Thiên Chúa lại tỏ lòng ưu ái, nghiêng lòng xót thương về phía họ. Họ được Thiên Chúa đặc biệt quan tâm, được ưu tiên trở thành công dân Nước Trời.
Việc công bố các mối phúc lại như một thứ tường chắn báo vệ những người cô thân, cô thế, thấp cổ bé Miệng, thua thiệt bất hạnh trên đời để họ có quyền ngẩng đầu hiên ngang giữa cuộc đời, vì họ đã được Thiên Chúa đoái thương cho họ vào vương quốc của Ngài và họ được hưởng niềm vui cứu độ.
Có nhìn thấy những anh chị em nghèo vui mừng phan khởi đón nhận Lời Chúa đến nỗi họ có thể đi bộ xa mấy chục cây số để được nghe nói về Đức Giêsu, có nhìn thấy những đôi mắt những người cùng khổ rực sáng khi đón nhận Tin Mừng cứu độ có gặp được những tâm hồn bình an thanh thản giữa những gian truân thử thách ta mới hiểu được phần nào sức mạnh của các mối phúc. Những người nghèo, những người cùng khốn nào tin vào Đức Giêsu thì phúc thật đã đến với họ ngay khi họ đón nhận. Còn những người bên ngoài nhìn vào chỉ có thể cho đó là ảo tưởng.
Các mối phúc này nay cũng nói với chúng ta rằng: chỉ có những người nghèo, những người nhận ra sự nghèo nàn, sự trống rỗng của chính mình mới cần được Thiên Chúa đổ đầy, mới mong ước Thiên Chúa thực hiện những điều lành cho mình và chỉ có mình Thiên Chúa mới làm cho đời mình thật sự hạnh phúc mà thôi.
Mỗi người chúng ta đều ao ước hạnh phúc, thế nhưng trong mỗi đoạn đường đời không thiếu những lúc ta cảm thấy mình bất hạnh như khi gặp rủi ro, bệnh tật, đau khô, thất bại, khốn cùng.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người. Chỉ Ngài mới có thể thoả mãn khát vọng hạnh phúc đang dày vò tâm hồn con người. Bài Tin Mừng hôm nay đã tả lại thái độ trang trọng của Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, ở trên núi cùng với các môn đệ để công bố cho dân chúng bản Hiến Chương Nước Trời, trong đó Ngài xác định ai là người thật sự hạnh phúc. Hình ảnh này gợi cho chúng ta nhớ lại biến cố Chúa Giavê hiện ra trên núi Xi nai cho Môisê và các kì lão để ban cho họ Mười Điều Răn (Xh 24,9), chính thức mở đầu thời kì hạnh phúc của dân tộc Dothái, thời kì được luôn sống trong sự săn sóc, che chở của Chúa.
Vì thế chúng ta cùng nhau tìm hiểu:
- Hạnh phúc thật sự của con người là gì ? - Làm thế nào để đạt được hạnh phúc ấy ?
1. HẠNH PHÚC THẬT SỰ CỦA CON NGƯƠI
1.1. Hạnh phúc là gì ?
Người ta đã định nghĩa rằng hạnh phúc là tình trạng con người cảm thấy sung sướng vì đạt được ý nguyện của mình. Nhưng niềm mong ước của con người lại lớn nhỏ khác nhau nên hạnh phúc cũng thay đổi theo đó.
Hạnh phúc có thể chỉ là bát cơm nguội với miếng cá khô cho người túng quẫn, đói rách, hoặc có thể là đĩa bào ngư xào với nấm đông cô cho người lắm bạc thừa tiền. Rồi chính con người giàu có này, do làm ăn thua lỗ, đã cảm thấy đời mình bất hạnh khi phải ăn cơm nguội với miếng cá khô. Bát cơm này không ai đáp ứng được nguyện vọng của người giàu nên họ cảm thấy mình bất hạnh. Như thế, hạnh phúc hay bất hạnh mang nhiều tính cách chủ quan vì "trăm người, trăm ý”, cho nên trong mấy ngày Tết, người ta thường chúc cho nhau được "vạn sự như ý".
1.2. Hạnh phúc thông thường cua con người.
Tuy nhiên, dù mỗi người ao ước hạnh phúc khác nhau nhưng tất cả những ước mơ đó có thể quy về những dối tượng rõ ràng ở bên trong hay bên ngoài con người. Đối tượng đó có thể là tiền bạc, danh vọng, sức khoẻ, sắc đẹp, vợ chồng, con cái, nhà cửa, xe cộ, v.v... Đó cũng là nội dung của Phúc lộc thọ mà chúng ta thường cầu chúc cho nhau trong dịp Tết. Như thế, ngoài tính cách chủ quan, hạnh phúc luôn luôn có tính cách khách quan mặc dầu yếu tố khách quan này cũng có thể là nguồn tạo ra những điều bất hạnh.
Marylin Monroe, dù là một Mtnh tinh nổi tiếng đẹp nhất thế giới, được bao người săn đón và thu nhập mỗi năm hàng triệu mĩ kim, nhưng cô vẫn đi tìm cái chết vì cảm thấy mình bất hạnh, cô đơn. Như thế, Phúc lộc thọ vẫn chưa phải là điều thoả mãn khát vọng sâu xa về hạnh phúc của lòng người. Tận thâm tâm, con người muốn có thứ hạnh phúc vĩnh cửu, tài sản không tiêu tan, sắc đẹp không phai tàn và cuộc sống vô tận. Đó mới chính là hạnh phúc thật sự đáng mơ ước.
1.3. Hạnh phúc chân thật.
Hạnh phúc này chỉ có thể tìm được nơi Thiên Chúa, vì Ngài là cội ngnồn của sự sống và của chân thiện mĩ. Chỉ mình Ngài mới thoả mãn mọi ước vọng sâu xa của con người.
Do đó, hạnh phúc chân thực còn mang một đặc tính thứ ba: đó là tính cách tôn giáo, nghĩa là đặt con người trong mối tương quan đích thực với Thiên Chúa. Cấu trúc văn bản của Mátthêu có ý diễn ta điều này. Mátthêu đã lập lại lai lần câu: "Vì Nước Trời thuộc về họ" ở chân phúc đầu tiên và cuối cùng như một kiểu đóng khung, trong khi sáu chân phúc khác diễn tả cùng một thực tại về Nước Trời dưới nhiều sắc thái khác nhau: Nước Trời là Nước của Thiên Chua và những người sống trong Nước ấy được Chúa ban tặng, ủi an, thương xót cho giáp mặt coi là con cái và được phỉ chí toại lòng. Như thế, càng gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, con người càng cảm nhận được hạnh phúc dù họ sống trong cảnh nghèo đói hay giàu sang.
1.4. Hạnh phúc hiện thực với Đức Giêsu
Sau cùng, hạnh phúc này lại gắn liền với Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người. Ngài là hạnh phúc hiện thực của con người chứ không phải là một lời hứa hão, một niềm hi vọng giả tưởng vào một tương lai không chắc chắn.
Để chứng minh cho ta hiểu hạnh phúc hiện thực ấy, Đức Giêsu đã chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ, thứ tha tội lỗi, cho kẻ chết sống lại, cho con người rượu ngon, bánh cá dư thừa để đáp ứng những nguyện vọng của con người. Nhất là qua cuộc sống lại của Ngài, Đức Giêsu cho ta hiểu rằng mỗi người đều có thể vượt khỏi những giới hạn của không gian, thời gian, vật chất để sống mãi mãi trong tình yêu và hạnh phúc với Thiên Chúa. Vì thế, gắn bó với Thiên Chúa bây giờ còn là gắn bó với đửc Giêsu Kitô và với Thân thể Mầu Nhiệm của Ngài là Hội Thánh. để được chia sẻ thứ hạnh phúc vùa hiện thực, vừa nhiệm mầu.
Mátthêu đã diễn ta ý này khi đặt câu "vì Nước trời thuộc về họ" ở thì hiện tại như ám chỉ rằng Nước Trời thậtsự đang thể hiện qua đức Giêsu, và sáu chân phúc khác đát ở thì tương lai như nói lên tính cách "cánh chung" của Nước Thiên Chúa.
Sau khi hiểu sơ qua bốn đặc tính ctia hạnh phúc chân thật, chúng ta sẽ dễ dàng biết mình cần phải làm gì để đạt được hạnh phúc ấy.
2 HÀNH ĐỘNG TÍCH CỰC ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC HẠNH PHÚC.
2.1. Phải tích cực hành động để tạo hạnh phúc
Hạnh phúc không phải là món quà từ trên trời rớt xuống mà con người chỉ cần đưa tay ra đón nhận một cách thụ động như một người nằm há “miệng chờ sung". Do đặc tính hiện thực với Đức Giêsu là thứ hạnh phúc quý giá nhất được Chúa Cha trao cho con người, nó đòi hỏi ta phải tích cực hành đông để chuyển đổi những ân sủng linh thiêng của Thiên Chúa thành một cái gì cụ thể, khách quan mà ta có thể cảm nhận dược trong cuộc sống thường ngày của mình. Ta có thế đưa ra một thí dụ cho dễ hiểu: môi miệng và thời gian ai cũng có. Vậy mà có mấy ai biết nở một nụ cười chân thành trên đôi môi của mình để tạo niềm hạnh phúc cho người khác, dù rằng nụ cười ấy chỉ mất một, hai giây ? Họ không thể cười là vì không có những thái đô nội tâm cần thiết
2.2. Những thái độ nội tâm cần thiết
Chính vì thế, qua Hiến Chương Nước Trời, Đức Giêsu công bố những thái độ nội tâm cần thiết cho những ai muốn có hạnh phúc thật sự ở trần gian. Đó chính là tinh thần nghèo khó, hiền lành, biết khóc than vì tội lỗi, biết ao ước điều công chính, có lòng trong sạch, có lòng thương xót, biết xây dựng hoà bình và chấp nhận bị ngược đãi vì chính đạo. Đây là những điểm tóm tắt trong bộ luật sống mới của Tân ước bổ túc cho bộ luật Mười Điều Răn của Cựu ước.
Có thể nói rằng Thập Giới xác định những giới hạ tiêu cực ở dưới thấp mà con người không được phép vượt qua. Nếu vi phạm là họ không còn hạnh phúc vì không còn ở trong tình yêu đối với Thiên Chúa và anh em. Do đó, Thập Giới nhắc tới những điều phải tránh như: "Chớ tạc tượng thần, chớ kêu tên Chúa vô cớ, chớ làm việc xác ngày Chúa Nhật, chớ giết người, v v. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã tự kiểm đời sống đạo của mình theo hướng tiêu cực, thoả mãn với những điều "chớ làm" của mình giống như chàng thanh niên giàu có nọ, cẩn thận giữ các điều răn nhưng lại buồn rầu bỏ ra đi sau khi nghe lời đề nghị của Chúa.
2.3. Hành động theo tám Mối Phúc Thật
Còn "Tám Mối Phúc Thật” mở ra một hướng vô hạn ở trên cao thúc đẩy ta hành động để diễn tả tình yêu với Thiên Chúa và anh em. Đức Giêsu không xác định hay giới hạn nghèo khó thế nào là đủ, hiền lành thế nào là hết mức. Trong mối tương quan với Thiên Chúa, không thể có giới hạn, không thế có tận cùng. Và vì thế, càng sống theo Bát Phúc, hạnh phúc càng lớn lao.
* Đối với Thiên Chúa:
Ba điều Phúc đầu tiên tương ứng với những giới răn đầu tiên. Những người thờ phượng Thiên Chúa cách chân thành là người có tính nghèo khó, không cúi đầu thờ lạy những tượng thần bằng bạc, vàng, gỗ, đá ... trong cuộc sống bon chen đời thường. Họ ý thức nỗi bất lực và khốn cùng của mình nên chỉ tin tưởng nơi Chúa. Họ là người hiền lành chấp nhận cả những thua thiệt thay vì đưa danh Chúa ra để bảo đảm cho mối lợi của mình. Họ là người đau buồn vì tội lỗi của mình và hiểu được nỗi khổ tinh thần do chúng gây ra. Vì thế, họ nhận được sự ủi an, tha thứ của Thiên Chúa
* Đối với anh em:
- Thay vì làm chứng dối, họ khao khát sống một đời chính trực, cư xử công bình với anh em.
- Thay vì tham lam, lấy cắp của người, họ tỏ lòng thương xót anh em, chia sẻ những cái mình đang có.
- Thay vì "làm sự tà dâm, muốnvợ chồng người", họ sống trong sạch với đôi mắt khống bị dục vọng che mờ, nên đã thấy được Thiên Chúa khắp nơi.
- Thay vì chỉ thảo kính với cha mẹ, người thân quyến thuộc, họ sống thuận hoà với mọi người vì tất cả đều là con Thiên Chúa.
- Thay vì giết người, làm hại đến sự sống anh em, họ chấp nhận những bách hại, vu khống, cáo gian của người khác làm cho mình vì danh đức Kitô.
Tất cả bộ luật mới này đều là những yếu tố thúc đẩy ta hành động, làm cho mối tương quan giữa Thiên Chúa và chúng ta trơ nên chặt chẽ để hạnh phúc đời ta tràn đầy viên mãn.
KẾT LUẬN
Hôm nay, suy nghĩ về bốn đặc tính của hạnh phúc chân thật và những thái độ nội tâm cần có để tạo nên hạnh phúc, chúng ta đả thấy rõ hơn con đường hạnh phúc mà mình cần phải bước. Xin Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta vững bước theo Người. Người sẵn sàng tiếp sức cho ta bằng Thần Khí Tình Yêu và Mình Máu Thánh Người để đôi chân ta không ngừng bước tới. Chính lúc ta bước đi, là lúc ta sẽ cảm nghiệm được niềm hạnh phúc vô biên đang dâng đầy trong lòng mình.
Kinh “Tám mối phúc thật” là Lời Chúa trích trong Tin Mừng Thánh Matthêô (Mt 5,3-11), như ta vừa nghe.
Bản văn tám mối phú thật cũng được gọi là hiến chương nước trời. Những người không tin Chúa, coi tám mối phúc thật là những gì đi ngược lại thực tại cuộc sống, nhưng những người tin Chúa, hiểu Lời Chúa, thì đó chính là những gì đưa lại hạnh phúc đích thực cho con người.
Trước khi bị xử giảo, Thánh Lê Đăng Thị (tử đạo ngày 24.10.1860, 35 tuổi) đã hô lớn tiếng:
Suốt thời gian bị giam, ông Lê Đăng Thị vì là người có cấp bậc cao hơn các bạn tù khác. Ông khích lệ các bạn bằng lời nói và mẫu gương trung thành. Cũng do cấp bậc cao, ông bị mang gông rất nặng và bị đánh đập nhiều hơn mọi người. Tuy còn trẻ, và sung sức, nhưng vì những cực hình dã man, ông lâm bệnh, ông tâm sự với các bạn tù:
“Tôi không rõ Chúa có cho tôi sống tới ngày tử đạo không, tôi sợ bện hoạn làm tôi chết sớm hơn, nên Chúa từ chối tôi ơn trọng ấy.”
Chiếu chỉ ngày 15 tháng 12 năm 1859 được ban hành, buộc các binh sĩ tông giáo phải bỏ đạo. Các binh sĩ này, phải bước qua Thánh giá, trước khi ra chiến trường. Ai không chịu xuất Giáo, sẽ bị khắc tự, bị giải ngũ và phát lưu.
Chưởng vệ Lê ăng Thị làm đơn xin giải ngũ, viện cớ bị bệnh. Rồi ông trở về quê.
Tháng giêng năm 1860, chiếu chỉ trên đây được thi hành triệt để trên toàn quốc. Vì có kẻ tốc giác, ông Thị bị bắt ngày 29 tháng giêng năm 1860 cùng với một số bạn và bị giải về Quảng Trị. Ông can đảm nhận mình là Kitô hữu. Cuối tháng hai ông phải ra tòa cùng với các bạn, phải nhận án xử giảo. Ông bị đưa về nhà giam ở khám đường Huế. Trong một thư gửi cho vợ, ông viết:
“Anh nghĩ rằng, chúng ta không còn gặp nhau nữa, dầu có chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn còn thương yêu nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con mỗi ngày”.
Một Linh mục tới thăm và ban Bí tích hòa giải cho ông, hôm sau một thầy giảng lẻn vào, trao Mình Thánh Chúa.
Ngày 24.10.1860, ông bị dẫn đi hnh hình. Lần cuối, quan khuyên ông bỏ đạo và hứa sẽ xin vua ân xá, nhưng ông từ chối. Bản án của ông được ghi như sau: “Lê Đang Thị chưởng vệ theo tà đạo, không chịu bỏ đạo, thì không thể tha thứ cho y được. Y bị kết án xử giảo vào cuối mùa thu.”
Tại pháp trường An Hòa (Huế) , ông Giuse Thị quỳ trên chiếu, cầu nguyện, sốt sắng. Một Linh mục đứng lẩn trong đám đông, ra dấu và giải tội cho ông lần chót. Sau ông hô lớn tiếng:
Hai lý hình cuốn một sợi dây vào cổ ông, rồi kéo thật mạnh cho tới khi ông tắt thở. Các tín hữu Phủ Cam dự lễ an táng đông đảo tại giáo xứ. Đến sau hài cốt Đấng tử đạo được đưa về đặt trong một nhà thờ Đến Chúa Cứu Thế(Huế).
Trước khi bị điệu ra pháp trường, quan cho dẫn Thánh Đaminh Hạnh (tử đạo ngày 1.8.1838, 66 tuổi) và Thánh Bênađô Duệ (tử đạo 1.8.1838, 83 tuổi) lên tòa lần chót, để hỏi xem có đổi ý hay không, Thánh Hạnh trả lời:
“Được chết vì đạo là điều tôi mong đã lâu, rầy sự ấy đã gần thì tôi vui mừng lắm”.
Cha Duệ bị tống giamđề lao Nam Định, sau đó 3 ngày lính dẫn đến một Linh mục khác giam chung với Cha Duệ: đó là Cha Đaminh Hạnh.
Hai Cha được dẫn ra tòa. Quan nhì Cha Duệ nói: “Ông lão bước qua Thập Tự đi rồi về”. Cha Duệ đáp: “Xin quan đừng bảo tôi làm thế, tôi không nghe quan đâu”. Viên quan thấy tội nghiệp tuổi già nên không đánh, nhưng Cha vẫn mang gông nặng và trở về nhà giam.
Thấy không thể làm hai Cha đổi ý, các quan thảo bản án như sau gởi về kinh, xin vua châu phê:
“Chúng thần đã tra khảo hai tên Vũ Văn Duệ và Nguyễn Văn Hạnh. Hai người này đã bị bọn Tây lừa bịp mà theo đạo Da Tô từ lâu. Chẳng những chúng tin, mà giảng đạo ấy cho hiều người khác tin nữa… Xem ra đạo ấy đã thấm vào tâm can bọn chúng đến nỗi không thể bỏ được. Vậy chúng thần luận cho hai tên này án trảm quyết, để ai nấy đều biết tội chúng nặng, đáng phải phạt thế ấy”.
Ngày 1.8.1838, hai cha Bennađô Duệ và Cha Đaminh Hạnh được dẫn đi xử. Từ sáng sớm, Cha Hạnh đã ngồi dậy đọc kinh, rồi chào từ biệt và cám ơn các bạn tù đã giúp mình cách này cách khác. Quan cho dẫn hai cha lên tòa lần chót, để hỏi xem có đổi ý hay không. Cha hạnh trả lời: “Được chết là điều mong đã lâu, rầy sự ấy đã gần thì tôi vui mừng lắm”. Cha duệ già 83 tuổi được lĩnh võng đi trước, Cha hạnh 66 tuổi mang gông xiềng nặng theo sau, tới khi kiệt sức mới được lính cho lôi kéo. Thế nhưng Cha vẫn vui vẻ nói với các tín hữu đi theo rằng: “Anh chị em ở lại bình an, hai chúng tôi về thiên đàng hưởng phúc vô cùng”
Đến pháp trường Bảy Mễu, Cha Hạnh nói với Cha già: “Đến nơi rồi chúng ta hãy cầu nguyện sốt sắng hơn”. Hai người tôi trung của Chúa quỳ xuống, cầm trí cầu nguyện 1 phút. Lính tháo gông xiềng và trói hai đấng tử đạo vào cột. Tiếng chuông lệnh vang lên, hai lý hình thi hành phận sự, múa gươm chém, rồi tung hai thủ cấp lên cao cho mọi người thấy. Dân chúng ùa vào thấm máu tử đạo. Thi hài các đấng được chôn ngay tại pháp trường, đến sau tín hữa xin phép quan cho đưa về an táng tại nhà thờ Lục Thủy.
Ở miền Tây An độ, một người Bà la môn có thế giá đã tin theo Phúc âm và trở lại đạo công giáo. Bởi hành động này, ông đã mất quyền sở hữu trên nhà cửa, ruộng đất, vợ con, mọi tài sản ông có. Đó là luật nghiêm khắc của giai cấp ông.
Khi có người hỏi ông là ông sầu buồn vì những thiệt hại đó không, ông đáp: “Đó là câu hỏi tôi nghe nhiều lần, nhưng chưa có ai hỏi tôi là tôi đã sung sướng đến thế nào, vì tôi đã có niềm vui nơi Đấng tối cao. Tôi vui sướng vì Chúa Giêsu đã tìm tôi, đã thấy tôi, tôi như con chiên lạc bầy trên rừng, Ngài dẫn tôi trở về bầy chiên và không bao giờ Ngài còn lìa tôi. Như thế tôi vui mừng, chứ sao sầu buồn được”.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng khao khát tiền của, danh vọng, quyền bính... chúng ta chạy theo những thứ ấy như một chiếc bóng vì chúng không bao giờ thỏa mãn được nỗi khao khát trong tâm hồn chúng ta.
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về hạnh phúc của người thực hành giáo huấn của Chúa Giêsu, mà người tân tòng trong câu chuyện là một chứng từ. Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại những giáo huấn đăc biệt, lật ngược các nguyên tắc của quan niệm hạnh phúc trần gian, dựa trên mưu mô quỉ quyệt, lật ngược các nguyên tắc chủ trương đặt niềm hạnh phúc, cuộc sống thế giới, cuộc sống của những người khác và việc thống trị trong tay một thiểu số quyền thế.
Thiên Chúa đã không muốn tạo dựng nên con người để con người trở thành nô lệ và sống kiếp tôi đòi trên trái đất này trong cô đơn và đau khổ. Thiên Chúa muốn qui tụ chung quanh Ngài những con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài. Và Thiên Chúa để cho chúng ta tự do đạt đến niềm hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Niềm hạnh phúc đó không tùy thuộc vào những sự vật trần gian, và vào thế giới bên ngoài, nhưng phát sinh từ chính nôi sâu thẳm của tấm lòng chúng ta, mỗi khi chúng ta biết sống theo giáo huấn của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến bảo đảm cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giầu sang, nổi tiếng, những nhà đại chinh phục, đại thiên tài, nhưng là các kẻ nghèn hèn, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hòa bình và chịu bách hại vì đức tin. Tiêu chuẩn hạnh phúc của Chúa Giêsu quả là khác xa với các tiêu chuẩn của người đời.
Nói cho cùng, tám mối phúc thật đều qui về một mối: phúc cho ai giống Chúa Kitô, Chúa Kitô đã tuyên bố Tám mối phúc thật trong bài giảng trên núi, thì trước tiên Ngài đã sống chúng trong cuộc sống Người: chẳng ai từ bỏ bản thân, hiểu rõ nỗi khốn cùng của nhân thế, rộng lòng thương xót, ao ước thi hành thánh ý Thiên Chúa, thẳng thắn và đơn sơ, xây dựng hòa bình và cam chịu bắt bớ bằng Ngài. Cho nên Ngài đã có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui chúng nên trọn vẹn” (Gio 17,13).
Vậy ngay từ cuộc sống này, người tín hữu phải tự nhận mình là những người diễm phúc nhất. Đang phải vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, chúng ta hãy vui sướng nhận ra mình là người có phúc. Đang cố gắng để tha thứ cho những người bách hại mình, chúng ta hãy tự nhận mình là người có phúc, chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đang đi lại từng buớc của Chúa Kitô.
Giờ đây, Chúa Kitô lại đến trong hình thức bánh rượu, Ngài kêu gọi ta tham dự mầu nhiệm Tử nạn – phục sinh của Ngài. Chúng ta hãy đến lãnh nhận để không phải ta sống nhưng là Chúa Kitô sống trong ta, và như vậy đời ta sẽ đích thực là đời Kitô hữu có đủ sắc thái của các mối phúc thật.
Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát tìm kiếm. Và cũng là điều người ta thường chúc tụng nhau. Tất cả đời sống con nguời là một cuộc truy tầm hạnh phúc ráo riết và liên tục. Còn hạnh phúc là gì, có thể tìm thấy không và tìm thấy bằng cách nào thì lại là chuyện khác, không đơn giản. Mỗi người quan niệm hạnh phúc một cách khác. Đối với tôi hạnh phúc là "cái này" còn đối vơi anh lại là "cái kia'? Nhiều khi cái này và cái kia lại rất trái nghịch nhau.
HẠNH PHÚC CỦA CHÚA GIÊSU
Chúa Giêsu cũng có quan niệm riêng về hạnh phúc của Ngài. Quan niệm đó rất mới l và độc đáo. Chúng ta thử tìm xem nó mới l ở chỗ nào.
Muốn hiểu quan niệm của Chúa Giêsu về hạnh phúc trước hết phải phân biệt chính hạnh phúc với những con đường đưa tới hạnh phúc.
Nhiều người phê phán tin Mừng của Chúa Giêsu, nhất là các phúc thật, là tiêu cực và phản tự nhiên. Chẳng hạn Nietzssche, triết gia này kết án Kitô giáo là đạo của những kẻ hạèn yếu, bạc nhược, yếm thế, cam phận. Những điều mà Chúa Giêsu chúc phúc: Phúc cho người có tinh thần nghêo khó kẻ đau buồn, khiêm tốn, tha thứ, quên minh. .. làm cho Nietzssche bực tức vì trái với lý tưởng người hùng của ông ta. Vì lẫn lộn chính hạnh phúc với những phương thế để đạt tới hạnh phúc, lẫn lộn chủ đích với phương cách.
Khi Chúa Giêsu dạy: Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ thì Ngài không có ý nói nghèo khó là hạnh phúc, nhưng chỉ cho thấy: nghèo khó có thể là một con đường dẫn tới Nước Trời và chính Nước Trời mới là hạnh phúc đáng tìm kiếm. Cũng vậy, đau buồn chỉ là con đường, còn được Thiên Chúa an ủi mới là hạnh phúc đáng mong ước. Tất cả các mối phúc khác đều mang một ý nghĩa tích cực như vậy.
Như vậy thì hạnh phúc không phải là cái gì tiêu cực, trái lại là một giá trị tích cực, mang lại niêm vui, sức sống... và chỉ được ban cho những người thật kiên trì và can trường.
TẤT CẢ ĐỀU CÓ THỂ TRỞ THÀNH ĐƯỜNG ĐƯA TỚI HẠNH PHÚC
Theo lẽ thường ai cũng coi nghèo khó, khóc than, đau buồn, chịu bách hại là những điều bất hạnh. Ai cũng sợ, cũng muốn tránh và khi gặp phải thường cảm thấy chán nản thất vọng. Điều này tự nhiên và rất dễ hiểu.
Riêng Chúa Giêsu thì Ngài có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn.
Ngài cũng coi nghèo khó, khóc than, đau buồn là những điều bất hạnh nên tránh. Tuy nhiên có một điều khác là Ngài bảo: Có thể biến chính cái bất lợi thành cái có lợi. Có cách để biến điều bất hạnh thành đường đưa tới hạnh phúc. Bí quyết của thành công là sự biến đổi triệt để đó.
Chính Chúa Giêsu đã làm như vậy. Ngài đã biến khổ hình Thập giá thành sức mạnh Phục sinh, thành nguồn sông và hạnh phúc bất tận cho chúng ta.
Bởi vậy người Kitô hữu đừng bao giờ thất vọng trước những khó khăn, thử thách, nghịch cảnh của cuộc sống, nhất là của đời sống đức tin. Đối với Chúa Giêsu những ngươi bất hạnh không bị loại trừ khỏi hạnh phúc. Họ vẫn có cách để đạt tới hạnh phúc, đạt tới bằng đường lối riêng của mình, đạt tới hạnh phúc bằng chính nỗi bất hạnh của mình. Chỉ có niềm tin tôn giáo mới có thể làm như vậy.
Điều bất ngờ và kỳ diệu hơn nữa là chẳng những người bất hạnh không bị loại trừ khỏi hạnh phúc mà hạnh phúc được ban cho người bất hạnh còn lớn hơn hạnh phúc được ban cho người không bất hạnh. Thiên Chúa ưu ái người bất hạnh và đền bù tương xứng cho họ. Như vậy bất hạnh mà lại hóa ra không bất hạnh.
Dụ ngôn người phú hộ và chàng Lagiarô nghèo khó là một ví dụ minh họa rất rõ tình trạng đảo ngược đó. Sau khi chết người phú hộ bị chìm trong lửa, ngửa mặt lên thấy Lagiarô ngồi trên trời trong lòng Abraham thì than van, cầu cứu. Nhưng Abraham đáp lại: Hỡi con, suốt đời con, con đã được hưởng toàn sự lành còn Lagiarô phải chịu toàn sự dữ. Số phận bây giờ đảo ngược như thế này thì là điều công bình và hợp lý.
Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phải mong ước, tìm kiếm những điều bất hạnh trong cuộc sống. Mong ước như vậy chưa chắc gì đã là lành mạnh. Thực ra Chúa Giêsu chỉ có ý dạy chúng ta:
Không nên nản lòng trong những hoàn cảnh bất hạnh.
Biết rằng Thiền Chúa yêu thương người bất hạnh và luôn mở cho họ một lối thoát.
Sẵn lòng chấp nhận những nỗi bất hạnh nếu cần và dùng chúng làm con đường tạiến tới hạnh phúc thật.
Bản Hiến Chương Nước Trời được thánh sử Matthêu ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể nói Chúa Giêsu quả là một người điên. Nhưng nếu đối chiếu giáo huấn xem ra vô lý ấy của Ngài với thực lại cuộc sống, chúng ta sẽ nhận thấy Ngài là vị Thầy khôn ngoan và thực tế. Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu rao giảng tật ngược mọi kiểu cách suy tư của con người trần gian, và chất chứa sức điệp cách mạng chưa từng có trong lịch sử loài người.
Thật vậy, có đời thuở nào những người nghèo nàn khốn khổ, những người yếu đuối dịu hiền, những người khóc than đói khát lại được coi là hạnh phúc hay không? Thế giới này, xã hội này nằm trong tay ai, nếu không phải là những người giàu có, quyền thế, bạo hành và gian ác. Nhưng thật ra, ai trong chúng ta cũng biết rằng: Tiền của, giàu sang và quyền bính không đem lại hạnh phúc cho con người; nhất là con người coi chúng quan trọng hơn mọi sự nên quì Lạy, tôn thờ và nô lệ chúng. Người sống yêu thương có thể gieo vãi nụ cười và hạnh phúc ngay cho những người đau khổ và bần cùng túng thiếu. Vì thế, chính những kẻ giàu sang, quyền bính lại là những người nghèo nàn nhất. Họ nghèo nàn tình yêu thương và tình liên đới quảng đại, nghèo nàn các giá trị nhân bản và tinh thần; cái nghèo nàn này của họ mới thật đáng thương.
Trong bản Hiến Chương Nước Trời, thánh sử Matthêu cho chúng ta thấy gương mặt người môn đệ lý tưởng của Chúa Giêsu là những người được chúc phúc, vì biết sống tinh thần Tin Mừng của Chúa GIêsu, nên đạt được ơn cứu độ, đạt được hạnh phúc Nước Trời.
Anh chị em thân mến!
Trong cuốn sách mang tựa đề: "Thầy Đã Chọn Các Con" xuất bản lại Rôma năm 1984 của một linh mục người Italia đã diễn giải Tám Mối Phúc Thật như sau:
Hạnh phúc cho những người tín thác nơi Thiên Chúa, không nhượng bộ chủ trương tiêu thụ, nhưng biết sống cuộc đời đơn sơ và thanh đạm. Hạnh phúc cho những người không tìm thống trị, uy quyền, thân thế, chỗ nhất và không dùng sức mạnh bạo lực, nhưng biết bắt đầu với những người rốt hết. Hạnh phúc với những ai không nuôi hận thù và báo oán, nhưng biết sống công bằng với tình yêu thương và biết cho đi một cách nhưng không, vô vị lợi. Hạnh phúc cho những ai không tìm mọi phương cách để mưu ích cho riêng mình, nhưng biết chú ý đến các nhu cầu của người khác.
Hạnh phúc cho những người có các tư tưởng và việc làm trong sáng, không ám muội, không sống hai mặt, hai lòng, không chấp nhận dàn xếp tắt léo để có lợi, nhưng luôn sống trung thực trước mặt Thiên Chúa và anh em. Hạnh phúc cho những ai không thụ động chấp nhận các chênh lệch bất công, cảnh kỳ thị gạt bỏ. Bỏ các chia rẽ trong xã hội mà biết dấn thân thắng vượt chúng, để mưu cầu hạnh phúc cho người khác.
Hạnh phúc cho những ai biết khước từ mọi hình thức bạo lực, biết thăng tiến sự sống, biết tươi vui làm việc lành và biết nhận ra nhiều dấu chỉ tích cực hơn là tiêu cực trong mọi nơi và mọi lúc. Hạnh phúc cho những ai hằng ngày biết tìm đến bênh vực người yếu đuối, bênh vực sự thật, công bằng và không bán mình vì lợi lộc riêng tư, kiếm tìm Thiên Chúa, biết sống khiêm tốn hiền dịu, khước từ bạo lực áp bức gian là và bất công. Tất cả những hạnh phúc kể trên có thể nói như sứ điệp mà ngôn sức Isaia rao giảng cho dân Do Thái thời xưa.
Vào thời ấy, dân Do Thái đang phải đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc Assyri, nên họ bị ảnh hưởng dân ngoại, chạy theo việc tôn thờ các thần ngoại giáo, sống vô luân, buông thả và bất công. Do đó ngôn sứ kêu mời họ hoán cải tâm hồn để tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo các giáo huấn của Ngài. Động từ "hãy kiếm tìm" được ngôn sức tập lại ba tần trong một câu, nêu bật tính cách cấp thiết và thái độ sống dấn thân mà tín hữu cần có để có được cuộc sống an lành và hạnh phúc.
Việc tìm kiếm Thiên Chúa ở đây không chỉ hạn chế trong lãnh vực cầu nguyện và phụng tự, mà phải được thể hiện một cách cụ thể ngay trong cuộc sống hằng ngày bằng, thái độ sống phù hợp với các giáo huấn của Thiên Chúa và kiếm tìm công bằng nữa.
Nghĩa là suy tư và hành động thế nào để công bằng ngự trị giữa lòng xã hội, và cùng với công bằng là cảnh sống thái bình, hoà hợp, hạnh phúc giữa mọi thành phần trong xã hội với nhau. Khi biết loại bỏ lối sống gian là, dối trá, độc ác và kiêu căng ngạo mạn, thay thế vào đó lối sống khiêm tốn, hiền dịu và yêu thương liên đới, bấy giờ sự hoà bình thịnh vượng và hạnh phúc sẽ ngự trị nơi con người.
Anh chị em thân mến!
Trong bài đọc II gởi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô cũng mời gọi tín hữu hãy biết nhìn ra thực lại trong cuộc sống Giáo Hội và kiểu cách hành động của Thiên Chúa. Những người khôn ngoan, quyền thế và giàu có cầm nắm vận mệnh thế giới trong tay, họ tưởng rằng mình sẽ được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng Thiên Chúa lại lựa chọn những người yếu, khiêm tốn, những người bị xã hội khinh Mtệt để làm dụng cụ trao ban ơn cứu độ cho trần gian. Nghĩa là sự chọn lựa của Thiên Chúa không theo các tiêu chuẩn giá trị và tâm thức ích kỷ, tính toán, lợi lộc, hẹp hòi của con người trần gian, mà theo chương trình cứu dộ và sự tính toán lôgíc của Thiên Chúa.
Cũng thế, trong cộng đoàn Giáo Hội lại Côrintô nói riêng và trong Giáo Hội nói chung, sự khôn ngoan, giàu có, học cao hiểu rộng và thông thái cũng như là quyền bính và chức tước không phải là tiêu chuẩn hướng dẫn cuộc sống của cộng đoàn dân Chúa, lại càng không phải là tiêu chuẩn của lòng tin. Trái lại, lại khắp nơi trên thế giới và trong mọi thời đại, chính lớp người thấp cổ bé Mtệng nhất trong bậc thang xã hội là những người biết mở rộng tâm hồn đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Nói cách khác, trên bình diện lịch sử của mình, Giáo Hội không có gì đáng để khoe khoang cả, và trên bình diện bản chất các thành phần tín hữu lại càng không có gì đáng để phô trương. Nếu có gì đáng để cho tín hữu tín nhiệm thì đó là chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã khiến cho các Kitô hữu hiện hữu trong Đức Giêsu, Con Ngài và nhờ đó Giáo Hội được hình thành theo chương trình Ngài đã hoạch định.
Sự hiện hữu hoàn toàn mới mẻ đó cũng đòi buộc tín hữu có cái nhìn mới mẻ trong cuộc sống. Tất cả phải được đánh giá theo con người của Chúa Giêsu Kitô và các tiêu chuẩn Tin Mừng của Ngài. Khi nói lấy Chúa Giêsu Kitô làm mẫu mực, tín hữu tự giải thoát mình khỏi các tiêu chuẩn và các tâm thức của người trần gian và ngày trở nên giống như Thiên Chúa muốn hơn.
Vậy, nếu Kitô hữu có gì để khoe khoang thì đó là cuộc sống được Chúa Kitô thánh hoá biến đổi và hạnh phúc được làm con cái Thiên Chúa, chứ không phải là sức học và lài cán hay các tư tưởng hoặc tiêu chuẩn xét đoán của riêng mình. Đó là điều mà chúng ta cần xác tín chắc chắn trong niềm tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng.
Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Giuse: “Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” ( Mt 1, 18 – 21. 24 )
Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quãng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Chúa. Đó là cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu, nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý. Từ nay Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, n gười ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện với sự sinh ra Chúa Giêsu bởi Đức Trinh nữ Maria. Giuse đựơc vinh dự tham gia vào nhiệm cục cứu rỗi đó.
Đức Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa đã gây một cú sốc quá lớn cho Thánh Giuse. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình. Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì thế mà ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.
Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Giuse không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn, một cõi riêng tư.
Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu đựơc lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận Maria mang thai do Chúa Thánh Thần và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kinh kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ {mầu nhiệm}, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh)
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và Ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” ( Mt 2, 13 – 14 ).
Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” ( Mt 2, 19 – 21 )
Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” ( Mt 2, 22 – 23 ).
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.
Hãy “học trường” Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác. Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
1. Nội tâm hóa mối phúc: ý nghĩa đại cương của tiều tiết tôi pneumati, "trong tinh thần" (riêng Matthêu) thật rõ ràng: Matthêu chú trọng vào một thái độ tâm hồn hơn là vào giai cấp khó nghèo trong xã hội. Tin Mừng cũng cống hiến nhiều thành ngữ tương tự Trong 1 Cr 7,34, người trinh nữ được gọi là "thánh trong thân xác và thần hồn" (kai tôi somati kai tôi pneumati), vì bên cạnh việc thánh hiến thân xác, thành ngữ còn gợi lên một thái độ tâm hồn, thái độ nhờ đó người trinh nữ chú tâm làm đẹp, một mình Chúa. Xem Cv 18,25 (Apollô có tâm hồn nhiệt nồng); 20,22 (Phaolô bị xiềng trong tinh thần; Ng-Thế-Thuấn: bị xiềng bởi Thần khí). Trong bản 70, người ta cũng nêu ra được rất nhiều thành ngữ tương tự: "tinh sạch trong lòng", "thẳng thắn trong lòng", “tan nát tâm hồn", "không cắt bì trong tiệm" ... Hết thảy các công thức đó đều nói lên mối ưu tư muốn nội tâm hóa một tính cách, bằng cách xác định trung khu của nó là trong tinh thần; đấy là một thái độ tinh thần vậy.
2. Các lối giải thích khác nhau về chân phúc này. Phải loại bỏ mọi cách giải thích cho rằng tinh thần là đối tượng, chứ không phải là trung khu của sự khó nghèo, cho rằng những ai có tinh thần nghèo khó là những kẻ nghèo nàn về tinh thần, những kẻ thiếu ơn Thần khí và đang cảm thấy nhu cầu, những kẻ mà sự bần cùng là ở chỗ không hiểu biết những điểm tinh tế trong các nố pháp luật (đối nghịch với các tiến sĩ Luật).
Còn lại hai lối giải thích xem tinh thần như là trụ sở của sự nghèo khó. Theo lối giải thích đầu, đấy là một thái độ từ bỏ và siêu thoát bên trong đối với của cải. Sự nghèo khó trong tinh thần ấy không tất nhiên mâu thuẫn với việc chiếm hữu của cải nhưng với lòng dính bén chúng từ bên trong. Tuy nhiên có một vấn đề được đặt ra: đâu là tương quan giữa đức siêu thoát nội tâm này với sự khó nghèo đích thực bên ngoài? Khi nhấn mạnh tới thái độ bên trong, phải chăng Matthêu muốn ngầm bảo rằng ta có thể thỏa mãn về thái độ ấy mà không cần cho sự nghèo khó tinh thần phải được một tình trạng cụ thể bên ngoài tương ứng? Matthêu minh định rằng sự khó nghèo nội tâm làm nên cái cốt yếu; ông không mấy để ý tới nỗi túng thiếu bên ngoài, vì nó chỉ có ý nghĩa trong tương quan với sự nghèo khó bên trong. Nhưng theo vặn mạch chung của các Tin Mừng, phải nhận trong khó quan niệm được một kẻ giàu có biết siêu thoát tài sản của mình.
Lối giải thích thứ hai coi người nghèo là những tâm hồn không chỉ dứt bỏ của cải, song còn biết từ khước chính mình và phó thác cho Thiên Chúa. Sự nghèo khó này chẳng những liên hệ đến tài sản vật chất, mà còn lan rộng tới các loại của cải khác như -tiếng tăm, khả năng, công nghiệp thiêng liêng tinh thần nghèo khó bấy giờ tương đương với khiêm hạ. "Nghèo khó trong tinh thần là những kẻ có ý thức đầy đủ và đau đớn về sự nghèo nàn thiêng liêng của mình, về tính cách bất toàn của tâm hồn mình, về sự thiện ít ỏi mình đang mang, về sự bần cùng luân lý mà phần lớn nhân loại sa phải. Chỉ có những kẻ nghèo biết mình nghèo mới đau khổ về sự túng cực của mình cùng cố gắng thoát ra khỏi đó. Và họ khác xa biết bao với các người giàu giả tạo, những kẻ tưởng mình kiện toàn, không thể cải thiện hơn, đúng phép với hết thảy, đẹp lòng Thiên Chúa và đẹp lòng mọi người; những kẻ này thiếu niềm ao ước và lòng hăng say leo lên tới một chóp đỉnh mà họ tưởng đã đạt, và họ sẽ chẳng bao giờ giàu sang, vì không biết được nỗi khốn khổ khôn dò của mình" (Papini).
Khó mà dứt khoát chọn lấy một trong hai cách giải thích trên. Lối giải thích sau có cái lợi là phù hợp với văn mạch Cựu Ước: sau lưu đày, các kẻ nghèo quả là những người có thân phận khiêm tốn, nhưng người ta vẫn nhấn mạnh hơn tới lòng trung thành với đạo và sự phó thác tin tưởng vào Thiên Chúa của họ. Khi xác định "trong tinh thần", Matthêu có lẽ muốn đặt nặng khía cạnh tôn giáo của sự khó nghèo, cùng liên kết kẻ nghèo của mối phúc thứ nhất với các “khách hàng của Giavê" mà Cựu Ước đã nói tới, Ngược lại, lối giải thích thứ nhất rõ ràng muốn lưu ý nhiều đến tình trạng xã hội, là khởi điểm của ý niệm nghèo khó thiêng liêng. Tuy nhiên, theo cả hai, rõ ràng Matthêu từ chối gán giá trị nguyên cho sự nghèo túng vật chất. Điều đáng kể đối với ông chính là thái độ tinh thần, cái duy nhất mang giá trị luân lý và đáng ân thưởng.
b- Chân phúc thứ hai: những người hiền lành (5, 4).
1. Xuất xứ của chân phúc này: Có hai lập trường đối nghịch: một: cho rằng chân phúc nằm trong tài liệu nguyên thủy, hai: lại bảo nó đã được một sao lục viên về sau thêm vào nguyên bản Matthêu. Lập trường đầu không mấy chắc chắn. Lập trường sau, trái lại, dựa trên nhiều bằng chứng đáng tin cậy như các thủ sao do dự về vị trí của mối chân phúc, có khi đặt nó nằm hàng nhì (trước mối phúc các kẻ ưu phiền); lúc lại hàng thứ ba; nếu coi nó như là một sự thoán nhập, thì các chân phúc lui lại còn 7, một con số Matthêu ưa thích; rồi việc đăng chèn nó có thể cắt nghĩa như một lời giải thích mượn từ Tv 37,11; sau cùng chân phúc này sẽ không khác chân phúc đầu tiên, nếu ta nại vào tiếng hy bá là tiếng hầu như đồng hóa chữ "hiền lành" với chữ "khó nghèo". Dầu sao mấy lập luận trên chẳng có tính cách quyết định. Nên phần lớn các tác giả vẫn duy trì xác thực tính của mối phúc này. Mọi thủ sao thảy đều ghị lại nó, dầu một vài bản đặt vào hàng thứ ba.
2. Điều hứa: Trong Tv 37,11 là Thánh vịnh gợi hứng cho mối chân phúc, có bân đến "Hứa địa", đất Canaan. Chủ đề này bất nguồn từ lời Thiên Chúa hứa cho Abraham (St 15,7; 28,4), rồi được khai triển rộng rãi trong Đệ nhị luật (1, 8.39; 4,1.5.14) và mặc một sắc thái cánh chung trong Isaia đệ nhị (57,13; 60,21; 65,9). Nơi Matthêu, lời hứa chỉ muốn nhắm tới việc vui hưởng Nước Trời, như trong các mối chân phúc khác. “Đất" là gia sản được lời hứa thần linh bảo đảm (1Pr 1, 4-5). Chủ đề gia sản này thường gặp luôn trong Tân ước, nhưng thay vì thành ngữ "thừa hưởng đất", người ta thích thành ngữ "thừa hưởng Nước Thiên Chúa" (Mt 25,34; 1Cr 6, 9-10 ...), "thừa 'hường sự sống vĩnh cửu” hơn (Mt 19,29; Mc 10,27; Lc 10,25 ...). Vì gia sản thuộc về con cái là điều hợp lý, nên thừa hưởng gia sản, nói cách cụ thể, là nhận được tước hiệu con cái Thiên Chúa, như lời hứa nơi chân phúc thứ bảy, mối chân phúc của các kẻ xây dựng hòa bình (c.9), x.Kh 21, 6-7.
3. Những người hiền lành: Vì chân phúc này phát xuất do tay một soạn giả Hy lạp (hoặc có thể là một sao lục viên nào đó) nên ông ta chắc đã muốn nói lên một cái gì khác hơn là nội dung chữ “khó nghèo" theo Cựu Ước, nếu không thì mối phúc thứ hai này trùng với mối phúc đầu tiên. Ta có thể xác định ý niệm "hiền lành" bằng cách đối chiếu mối phúc với Mt 21,5 và 11, 28-30. Trong đoạn nhất, Chúa Giêsu, quy việc vào thành Giêrusalem, tỏ ra khác biệt hoàn toàn với các vua chúa lương dân là những kẻ thống trị bằng bạo lực. Trong đoạn 2 (xin lưu ý: thành ngữ "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" chỉ một thái độ nội tâm), Chúa Giêsu chống lại sự nghiêm khắc khó tính của ông thầy như các Biệt phái. Theo văn mạch ấy được củng cố nhờ các thư Tân Ước (nhân đức hiền lành xuất hiện trong đó hơn 12 lần), "hiền lành" thiết yếu là nhân từ, có quan hệ một đàng với sự khiêm tốn, đàng khác với lòng thương xót tha nhân... Thế nên, các kẻ "hiền lành" gần với các kẻ "thương xót" vậy!
c. Chân phúc thứ ba: các kẻ ưu phiền (5, 5).
Văn mạch chung của các chân phúc nơi như đã xác định trên kia, buộc ta phải coi nỗi ưu phiền này là một thái độ của tâm hồn. Có thể xác định đối tượng của nó không? Khó mà trả lời dứt khoát được. Động từ Hy lạp pentlleô nói lên sự đau đớn biểu lộ ra bên ngoài qua những tiếng rên rỉ kêu la. Như trong Tân ước, pentheô thường đi kèm theo các động từ "kêu la, than thở". Ngoài Bát phúc, chỉ dùng động từ này một lần nữa thôi, khi nói các môn đồ sẽ than khóc như bị tang chế sau ngày chia lìa Tân lang (9,15).
Có thể giả thiết rằng mối chân phúc thứ ba đề cập đến nỗi ưu phiền tương tự nỗi ưu phiền tang chế, đề cập đến các Kitô hữu than khóc vì cảm thấy phải chia lìa Thiên Chúa do tội lỗi mình. Họ ý thức một cách đau đớn tội mình đã phạm và nỗi khổ tinh thần do chúng gây nên (so sánh với 1 Cr 5,2; 2 Cr 12, 21; Gc 4, 9).
Niềm "an ủi" hứa ban cho họ bấy giờ hệ tại chỗ thứ tha tội lỗi. Do văn mạch cánh chung của những lời hứa khác, trước tiên phải đặt việc tha thứ này vào lúc phán xét sau cùng.
d- Chân phúc thứ tư: những kẻ đói khát công chính (5, 6).
1. Ý niệm “công chính" trong Thánh Kinh: Trong Thánh Kinh, ý niệm “công chính” cổ truyền ám chỉ điều gì phù hợp với ý muốn Thiên Chúa và luôn luôn hiểu như là một đời sống cụ thể của con người trong lịch sử được Thiên Chúa, là vua và quan án nhân loại, chấp nhận chuẩn y. Trong Matthêu, ý niệm "công chính” được dùng lại theo nghĩa cổ truyền, hợp với Thánh Kinh. Nó chỉ cách ăn nết ở của Kitô hữu, rập khuôn theo thánh ý Thiên Chúa mà Chúa Kitô đã công bố. Cho nên sự "công chính" cần thiết để tham dự vào nước Trời này chẳng phải là một lý tưởng luân lý trừu tượng nhưng chính là thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ ra bên ngoài qua các việc thiện Kitô hữu làm.
2. Sự công chính người ta đói khát (Mt 5, 6): Trước hết phải loại trừ hai lời giải thích không phù hợp với văn mạch thần học của Matthêu: Tách biệt ra, chân phúc thứ tư có thể nói đến sự công bình đối lập với bất công xã hội dưới mọi hình thức. Nhưng lối cắt nghĩa này thích hợp với văn mạch lạc chứ không với Matthêu. Nơi Matthêu, chữ “công chính" có một nghĩa rộng hơn và sâu hơn là chữ công bình xã hội: sự công chính diễn tả toàn thể thái độ Kitô hữu được Thiên Chúa chuẩn y.
Ta cũng có thể nghĩ đến sự công chính siêu việt của Thiên Chúa, sự công chính sẽ tỏ hiện ra vào ngày chung thẩm để trừng phạt quân vô đạo và ban thưởng Nước Trời cho người công chính. "Đói khát công chính" bấy giờ có nghĩa là "nao nức mong chờ sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa vào lúc cứu rỗi cánh chung". Tuy nhiên văn mạch Matthêu không quy hướng chúng ta về sự công chính mà Thiên Chúa sẽ thực thi, nhưng về sự công chính mà con người phải nỗ lực đạt cho được trước mặt Thiên Chúa, bằng cách thi hành thánh ý Ngài.
Vậy thì đâu là văn mạch của Matthêu cho phép xác định chân phúc thứ tư này? Nơi 21,32 chữ "công chính" (“Gioan đã đến với các ông theo đàng công chính”) chỉ sự khắc khổ của Gioan Tẩy giả. Nơi 3,15 và 5,17, Matthêu lại viết Chúa Giêsu đến hoàn thành Lề luật và các Ngôn sứ: như thế nghĩa là sự "công chính" của Chúa Giêsu, hoàn hảo hơn sự công chính của Lề luật nằm trong đường hướng sự công chính phải được thực thi. Việc thêm chữ "và sự công chính của nó" trong 6,33 ("Trước tiên hãy tìm ‘Nước’ và sự công chính của nó”) hình như nhằm nhấn mạnh rằng người ta không chỉ nên cầu mong cho Nước Thiên Chúa đến để hưởng được mọi của cải của thế giới bên kia, nhưng phải cố công đạt cho được sự hoàn thiện Kitô giáo bằng cách làm việc lành: Luca nhấn mạnh tới ý hướng, còn Matthêu minh định ý hướng phải diễn ra hành động. Sự "công chính" của các môn đồ Chúa Giêsu phải vượt quá sự công chính của Ký lục và Biệt phái (Mt 5,20): vượt quá, nhưng vẫn cùng một loại. Sự "công chính" này sẽ đáp lại những đòi hỏi sâu xa hơn các đòi hỏi của Lề luật và lời giải thích chính thức về Lề luật, nhưng đó vẫn là sự công chính người ta thực thi bằng cách ăn ở phù hợp với Luật ấy. Phải giữ mình đừng thực thi nó một cách phô trương (Mt 6,1): các đòi hỏi của sự "công chính mới" chẳng những liên hệ tới các hành vi bên ngoài, mà còn lan rộng đến các ý hướng. Ở đây vẫn vậy, cũng chỉ là sự nối dài đường hướng xưa nay.
Thành ra kẻ đói khát sự công chính là các Kitô hữu nhiệt thành ao ước sống theo ý Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. "Sự công chính" họ mong muốn là một sự công chính luân lý, do toàn thể những công việc có tính chất Kitô giáo xây nên. Sự công chính luận lý này là lý tưởng của sự hoàn thiện Kitô hữu, lý tưởng được quan niệm như một sự vượt quá hay đào sâu lý tưởng luân lý mà Lề luật đã đề ra cho người Do thái. Hạnh phúc của Nước Trời dành cho những ai hết sức ao ước thực thi sự hoàn thiện đó trong cuộc đời họ.
e- Chân phúc thứ năm: những kẻ biết thương xót (5, 7).
1. Điều hứa: lòng thương xót của Thiên Chúa: Văn mạch các chân phúc của Matthêu cho thấy lời hứa này trước tiên nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót sẽ biểu lộ vào ngày cánh chung, lúc phán xét, khi Chúa Kitô đem các kẻ "biết xót thương" vào Nước Người so sánh với Gd 21; 2 Tm 1,18).
2. Điều kiện: bổn phận xót thương: ý niệm sau đây rất quen thuộc với Do thái giáo và Kitô giáo: để chắc chắn được Thiên Chúa thương xót ngày chung thẩm, phải biết tỏ lòng nhân ái với tha nhân. Có nhiều bản văn nói về hậu quả này trong ngụy thư Do thái và sách giáo sĩ, chẳng hạn câu: "Ai biết thương người, sẽ được thương xót trên trời; ai không thương người, trên trời sẽ chẳng xót thương họ". Cũng vậy trong Tân Ước (Gc 2, 13: "án xử sẽ tàn nhẫn cho người bất nhân") và nơi các Tông phụ (1 Clêm. 13, 2; Polycarpô 2, 3).
Matthêu nhấn mạnh bổn phận nhân ái này. Chỉ mình ông trích lại, và trích đến hai lần, bản văn Hs 6,6: "Ta muốn lòng nhân chứ không muốn hy lễ" (9,13; 12,7). Trong cả hai trường hợp, đó là một bài học cho Biệt phái, những kẻ đòi phải tuân giữ lề luật phụng tự mà bỏ quên lòng nhân ái (so sánh với Mt 23, 23). Nơi lời cầu xin thứ 5 của kinh Lạy Cha, chỉ mình Matthêu chú giải thế này: "Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ xúc phạm, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha cho các người ..." (6,14-15). Sau cùng dụ ngôn người tôi tớ bất nhân (Mt 18, 23-35) soi sáng một cách cụ thể cái bổn phận xót thương bằng cách tha thứ cho anh em mình.
f. Chân phúc thứ sáu: những kẻ tinh sạch trong lòng
1. Điểm tương tự với chân phúc đầu tiên: Như chân phúc các kẻ nghèo, chân phúc của những người trong sạch chuyển một tính cách thể lý sang bình diện tinh thần. Đầu tiên, sự "tinh sạch" gợi lên sự sạch sẽ của thân xác. Tiếp đó nó mặc một ý nghĩa tế tự, chỉ định tính cách của kẻ phải có đầy đủ các điều kiện cần thiết để trình diện trước bàn thờ Thiên Chúa. Sau cùng, hạn định từ "trong lòng", tương đương với "trong tinh thần" của chân phúc thứ nhất, đặt tính cách này vào nội tâm.
2. Mạch văn Kinh Thánh: Chân phúc thứ 6 là âm vang của Thánh vịnh 24, 3-6 (so sánh với Tv 15, 1-3). St 20,5 đặt đối lập sự trong sạch ý hướng với sự nhơ bẩn chiếu theo lề luật (Abimélek đã vô tình lấy vợ của Abraham). "Tinh sạch trong lòng"; như các thành ngữ tương tự: "thẳng thắn trong lòng", "đơn sơ trong lòng", bao giờ cũng chỉ sự ngay thẳng của lương tâm. Thành ra nó "không có nghĩa tinh sạch như hiện thời" (I. Fransen), nhưng nói lên sự vắng bóng lòng tráo trở, dạ bất lương. Người tinh sạch trong lòng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân "hết tâm hồn", không tính toán tư lợi hay giả bộ đạo đức. Việc chuyển dịch từ bình diện nghi lễ sang bình điện luân lý cũng gặp lại trong Tân Ước. Nhưng khi được thiêng liêng hóa, ý niệm tinh sạch vẫn không mất đi âm hưởng phụng tự (ví dụ 2 Tm 1,3; 2,22; Gc 4,8).
3. Quan điểm luân lý của Matthêu: Chữ "thấy Thiên Chúa" gợi lại bối cảnh phụng tự nguyên thủy của sự tinh sạch: trong Tv 24, 6 và 17, 15, "thấy Thiên Chúa "có nghĩa là "trình diện trước nhan Ngài", tại Đền thờ Ngài ở Giêrusalem; trong Matthêu, thành ngữ chỉ hạnh phúc Nước Trời, được gợi lên dưới hình ảnh một sự tham dự vào phụng tự diễn ra trước mặt Thiên Chúa (Kh 22, 3-4; Dt 12,14).
Tóm lại, để được nhận vào trước nhan Thiên Chúa, cần phải tinh sạch. Sự tinh sạch này không chỉ có tính cách nghi lễ; nó còn nằm nơi sự hoàn toàn ngay thẳng bên trong. Đây không phải là những hành vi, song là một thái độ tâm hồn, thái độ làm căn nguyên cho mọi hành vi của ta và ban cho chúng ý nghĩa luân lý đích thực.
g- Chân phúc thứ bảy: những kẻ tác tạo hòa bình (5, 9).
1. Điều hứa: "Họ sẽ được gọi" tương đương với "họ sẽ là” Thường thường, trong ngôn ngữ Kinh Thánh, người ta không nhấn mạnh đến sự kiện được nhận một tên cho bằng đến hiệu quả tương ứng với tên đó nơi người nhận. Do đấy thể thụ động "được gọi " hầu như có nghĩa là "trở nên".
Họ sẽ được gọi như thế do ai và khi nào? Nhiều tác giả, với nhiều cách giải thích khác nhau, cho rằng đó là lòng kính trọng mà người đời dành cho những kẻ xây dựng hòa bình. Nhưng động từ ở thể thụ động, như nơi các câu 4.6.7, diễn tả hành động của Thiên Chúa. Thể thụ động này được gọi là "thể thụ động thần linh" (passif divin), là một đặc ngữ sêmita dùng để gán một hành động cho Thiên Chúa mà khỏi phải nhắc tên Ngài. Hơn nữa, mọi lời hứa của các chân phúc trong Matthêu đều có tính cách cánh chung: hết thảy chúng liên hệ tới hạnh phúc Nước Trời. Các kiểu nói khác nhau chỉ có mục đích gợi lên những khía cạnh dị biệt của cùng một thực tại. Thành ra phải kết luận rằng chính Thiên Chúa, vào ngày sau hết, sẽ công bố các kẻ xây dựng bình an là con cái Ngài (x. Kh 21, 7) và thiết đặt họ trong vinh hạnh ấy.
2. Các kẻ tác tạo hòa bình: Nếu lấy văn mạch Tân Ước minh giải ý tưởng "kiến tạo hòa bình" của chân phúc thứ bảy (Cl 1, 20; Ep 2, 15-16; Gc 3, 14-18) ta sẽ phải kết luận rằng trên thực tế nó đồng hóa vơi ý tướng giải hòa. Vì hoà bình là cái nối tiếp tình trạng thù nghịch hay tranh chấp. Đó không trực tiếp là thứ bình an nội tâm hay tôn giáo mà mọi cá nhân thủ đắc được, song là những tương quan tốt đẹp giữa các cá nhân, hoặc giữa kẻ “hiếu hòa" và người lân cận (Mt 5, 23-24), hoặc giữa những kẻ mà người "hiếu hòa" giải hòa lại với nhau (Cv 7, 26). Thành ra trọng tâm nằm trên sự đoàn kết giữa con người, và điều đó mặc nhiên giả thiết một thái độ trước của tâm hồn. Trái ngược với các chân phúc khác, chân phúc này thoạt tiên không nhắm tới một thái độ nội tâm, song là một hành vi bên ngoài. Làm một con người hiền hòa, yêu mến bình an không đủ mà còn phải ra công xây đắp bình an bất cứ nơi nào có bất hòa ngự trị.
h- Chân phúc thứ tám: những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính (5, 10).
Chân phúc sau cùng này nằm trong hai trào lưu tư tưởng: một gồm loạt bản văn đưa ra những lời quở trách đối với hạng người Do thái bách hại, hai gồm loạt bản văn song hành chứa đựng nhiều lời khuyên bảo các môn đồ phải cơn bắt bớ.
1. Lời chúc dữ kẻ bách hại: Chủ đề này vẫn thường gặp trong Do thái giáo (1V 19, 10. 14; 2Sk 36, 15- 16; Nh 9,26). Trong Kitô giáo, nó được khai triển bắt đầu từ Tin Mừng (Mt 23, 29-36; Lc 11, 47-51) cũng đã được Stêphanô (Cv 7, 51-52) và Phaolô (1Tx 2, 15-16) nối tiếp âm vang. Justinô, khoảng năm 160, đã trùng hợp các yếu tố chính của chủ đề như sau: các ông đã giết Đấng Công chính, và trước đó đã giết các ngôn sứ của Người: bây giờ các ông lại khai trừ những kẻ hy vọng vào Người, cùng khai trừ Đấng đã sai người đến là Thiên Chúa toàn năng và tác giả vũ trụ. Vì Ngài ở trong các ông, nên khi chửi rủa họ trong hội đường, các ông làm nhục những kẻ tin vào Chúa Kitô " (Dial, 16, 4).
Hành động của những người bắt bớ và hình khổ họ sẽ chịu đặc biệt có tính cách cánh chung. Họ “đổ đầy lường” của tổ tiên họ (Mt 23, 32); hành động của họ làm nên một sự kết liễu, hoàn thành; vì thế nó chuẩn bị cho họ một tai ương thảm khốc, tai ương này sẽ là hình phạt mọi tội mà tổ tiên họ đã phạm. “Cơn nghĩa nộ đã giáng xuống trên họ cho đến cùng" (1Tx 2, 16): lời phán quyết này, vào ngày chung thẩm, sẽ kết án họ phải chịu khổ hình hỏa ngục muôn đời.
Đặc điểm thiên sai -“vì cớ Con Người" (Lc 6, 22), "vì cớ Ta" (Mt 5,11)- liên kết với khía cạnh cánh chung. Tai họa của những kẻ bách hại không những xuất phát từ sự kiện họ đàn áp con người, nhưng trước hết từ sự kiện họ truy lùng những ai có liên hệ với Chúa Kitô. Xét cho cùng, họ bách hại chính “Con Người", Đấng rồi đây sẽ xuất hiện trên mây trời để hoàn thành cuộc chung thẩm kẻ sống và kẻ chết.
2. Lời khuyên nhủ những người bị bắt bớ. Trong mọi bản văn sau đây, màu sắc thiên sai đều hiện lên rõ ràng đậm nét:
Trước hết là những lời Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn-đệ về vấn đề bách hại. Các đoạn chính nằm trong "Khải huyền Nhất lãm" (Mc 13, 9-13; Mt 24, 9-14, 10, 17-21; Lc 21, 12-19). Đặc điểm Kitô luận, “vì cớ Ta", “vì danh Ta" gặp thấy khắp đó đây. Hạnh phúc của kẻ bị bách hại xuất phát từ chỗ họ phải đau đớn vì đã nên một với Đấng Xét xử của mình. Thành ra chân phúc trước tiên xuất hiện như một lời khẳng định có tính cách thiên sai từ phía Chúa Giêsu.Và lời khẳng định này không tách rời với bối cảnh cánh chung.
Tiếp đến là các đoạn đặt nổi mối tương quan chặt chẽ giữa số phận đời đời của con người và thái độ họ đã chọn lựa trước Chúa Kitô.
- Những bản văn liên kết với viễn tượng cuộc bắt bớ: “Ai mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại " (Mt 10, 19; x. 16, 25; Mc 8, 35; Lc 9, 24) -- Kẻ nào hổ thẹn chí Ta và các lời Ta trước mặt thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó khi Người đến trong vinh quang Cha Người với các thiên thần" (Mc 8, 38; x. Lc 9, 26; Mt 10, 32- 33 , Lc 12, 8-9).
- Những bản văn liên hệ tai các sự thiếu thốn tự do chấp nhận và các hành vi bác ái tự do thực thi vì Chúa Kitô: "Không ai bỏ nhà cửa hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng ..." (Mc 10, 29-30; x. Mt 19, 29-30). -"Kẻ nào tiếp đón một trẻ nhỏ thế này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta" (Mc 9,37; x. Mt 18,5; Lc 9,48; Mt 10,40; Lc 10,16). -Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước vì danh nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô ..." (Mc 9,41; x. Mt 10,42). So sánh với Mt 25, 31-46: cái định đoạt số phận đời đời của còn người, đó là cách thức họ đối xử với các kẻ nhỏ và người cùng khốn, vì có một sự liên đới nhiệm mầu nối kết những hạng này với Chúa Kitô.
3. Sự công chính mà vì đó người ta cam chịu bắt bớ (Mt 5, 10). Thiết tưởng nên hiểu việc bắt bớ vì sự công chính này như một việc bắt bớ phải chịu cách bất công. Như thế ta mới đối chiếu được mối chân phúc với 1Pr 3,14: "Nếu anh em phải khổ vì sự công chính thì phúc cho anh em". Bối cảnh của 1 Pr 3, 14 quá rõ ràng: đó là những đau khổ mà Kitô hữu phải cam chịu dầu chẳng đáng. Thế mà chân phúc thứ 9, vế nhì của chân phúc thứ 8, có bao hàm chi tiết "sỉ mạ".
Tuy nhiên, khó mà nghĩ rằng tiếng “công chính" ở đây khác nghĩa với tiếng công chính của chân phúc thứ 4 và của nhiều đoạn Tin Mừng Matthêu khác. Vì vậy, đây là vấn đề những đau khổ các môn đồ Chúa Kitô phải chịu vì sống phù hợp với lý tưởng Kitô giáo của mình. Người ta không còn nhấn mạnh như trước đến sự thiếu lý do xác đáng để gây nên bắt bớ, nhưng tích cực hơn, đến sự kiện phải đau khổ vì là Kitô hữu, một Kitô hữu biết tỏ ra lý tưởng của mình qua thái độ sống. Do đó phải liên kết thành ngữ "vì sự công chính" (chân phúc thứ 8) với chi tiết "vì Ta" trong chân phúc tiếp theo: “sự công chính" vì vậy xuất hiện như dấu ấn của Chúa Kitô trên lý tưởng và thái độ của môn đồ người. Ta cũng có thể đối chiếu Mt 5,10 với Mt 13, 21, nơi nói rằng sự bách hại được chịu dựng: “vì Lời” nghĩa là vì lý tưởng được Tin Mừng đề ra. Lời giải thích này không xa lời giải thích trước: 1 Pr 4, 14-19 cổ võ các tín hữu hãy đau khổ chỉ vì là Kitô hữu, để người ta không thể tìm trong họ bất cứ hành vi sai trái nào biện minh cho việc bắt bớ.
i- Chân phúc thứ chín: những kẻ bị bách hại vì Chúa Kitô. (5, 11)
Chân phúc thứ 9 xem ra chỉ lặp lại chân phúc thứ 8, những nơi Mt nó đóng vai trò hiện tại hóa; thực vậy, nó nói lên việc chuyển từ lý thuyết được đề ra sang thực tại cụ thể được cảm nhận và sống đồng thời với việc hành văn gián tiếp chuyển qua hành văn trực tiếp, thành ngữ "vì sự công chính" của câu 10 trở thành "vì Ta". Đối với ai đã khám phá ra tính cách thời sự của Chúa Kitô hiện diện trong đời mình, thì không còn nghi ngờ gì nữa; và vào thời Mt viết Tin mừng của ông, cộng đoàn Kitô hữu đă nắm được ý nghĩa của mối chân phúc giữa lòng cơn bắt bớ mà họ đang chịu từ phía người Do thái.
“Hãy vui sướng và hân hoan": Hai động từ này, mà Mt chỉ dùng ở dây, thường được Cựu Ước sử dụng để suy tôn, ca mừng những hành vi cứu rỗi của Thiên Chúa (x. Hb 3, 18) với một âm điệu cánh chung; chúng trở lại trong thư lPr để diễn tả, như ở đây, niềm vui của các Kitô hữu bị bắt bớ ( 1Pr 1, 8; 4, 13-14). Lúc mà người môn đồ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử nạn của Chúa Kitô, thì họ nhận ra rằng Nước Trời thực sự đã đến.
KẾT LUẬN
Matthêu đã trình bày các chân phúc trong một bài giáo lý Kitô giáo ngắn gọn, theo cách thức khắc vào tâm trí những nguyên tắc và việc thực thi lý tưởng sống riêng biệt của Kitô giáo. Ông dạy rằng Nước Trời là phần thưởng cho những ai biết làm cho mình trở nên xứng đáng với Nước ấy nhờ thái độ nội tâm và nhờ cách thức sống sứ điệp Tin Mừng. Như vậy; các mối phúc thật của Matthêu có một ý nghĩa khuyến thiện: chúng chẳng những công bố song còn kêu mời. Lối giải thích này của Matthêu liên kết chặt chẽ vào giáo huấn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã rao giảng một nền luân lý bên ngoài của Biệt phái. Các mối phúc, như phần tiếp của diễn từ, đưa ra những điều kiện phải chu toàn để được thông phần vào sự sống, những điều kiện của một nền luân lý hoàn toàn nội tâm.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Mọi người đều ao ước hạnh phúc. Chúa Giêsu đã đến để thỏa mãn cái khát vọng hạnh phúc đang dày vò tâm hồn nhân loại ấy. Người đến bảo cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, nổi tiếng, những nhà đại chinh phục, đại thiên tài, song là các kẻ nghèo hèn, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hòa bình và chịu bách hại vì đức tin ... Tiêu chuẩn hạnh phúc của Chúa Giêsu quả khác xa với các tiêu chuẩn của người đời vậy.
2. Các thánh, hạng người đã sống Bát phúc, là những kẻ hạnh phúc đích thực của thế giới này. Dù gặp đau khổ, họ vẫn có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi tràn ngập hân hoan giữa những cơn bắt bớ". Vì đối với Kitô hữu, nỗi đau khổ không xung khắc với niềm vui, vì nó được chịu "vì" Chúa Giêsu, vì nó trở nên cơ hội cho ta liên kết mật thiết hơn và giống hơn với Bạn Tình.
3. Nói cho cùng, tám chân phúc đều quy về một mối: Phúc cho ai giống Chúa Giêsu. Vì nếu Chúa Giêsu đã tuyên bố Bát phúc trong diễn từ trên núi thì trước tiên Người đã sống chúng trong cuộc đời Người: chẳng ai từ bỏ bản thân, hiểu rõ nỗi khốn cùng nhân thế, rộng lòng xót thương, ao ước thi hành thiên ý, thẳng thắn và đơn sơ, xây dựng hòa bình và cam chịu bắt bớ bằng Người. Và chính vì thế Người đã có thể nói vào lúc cuối đời: "Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui chúng nên trọn vẹn" (Ga 17, 13).
Trong dịp đầu năm, chúng ta thường cầu chúc cho nhau 365 ngày hạnh phúc. Trong những bức thư, chúng ta thường nguyện ước cho nhau gặp nhiều may mắn, thế nhưng trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm tay của chúng ta, vì cả chúng ta lẫn những người chung quanh không ai có đủ yêu thương và đủ quyền phép để thực hiện những điều mong ước. Bởi đó đau khổ vẫn chồng chất trong cuộc sống, đau khổ vì nghèo đói, vì bệnh tật, vì chết chóc. Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè nặng. Và hạnh phúc mãi mãi vẫn là một khát vọng chưa một lần nguôi ngoai.
Tôi còn nhớ trong cuốn giới luật yêu thương, Đức cha Bùi Tuần đã viết: Cuộc đời chúng ta là một chuyến đi, đi từ khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc nào mà chúng ta không ước mơ, nhưng cũng chẳng có sự gì làm cho chúng ta được no thỏa. Trong mọi ước muốn to nhỏ, hình như chúng ta vẫn tìm hoài một hạnh phúc vô biên. Niềm hạnh phúc vô biên ấy là gì để rồi chúng ta lên đường tìm kiếm và đầu tư cuộc đời chúng ta vào đó?
Có người cho rằng: hạnh phúc trong cuộc sống đó là sắc đẹp và vẻ quyến rũ, để rồi suốt ngày họ lo trau chuốt cho thân xác của họ. Nhưng sắc đẹp ấy tồn tại được bao lâu? Mười hay mười lăm năm là cùng, để rồi chúng ta cũng phải già nua với tuổi đời chồng chất.
Có người cho rằng: Tiền bạc sẽ đem lại hạnh phúc. Nhưng thực sự có phải là như vậy hay không? Paul Getty là chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Tài sản của ông lên tới hàng tỷ mỹ kim. Tuy nhiên cũng vì thế mà hàng ngay ông nhận được cả trăm bức thư tống tiền và hăm dọa sẽ ám sát ông, để rồi ông đã phải sống trong cảnh cô đơn, như chính ông đã thú nhận: Tôi chưa bao giờ được hạnh phúc. Tôi là một kẻ bất hạnh nhất.
Có người cho rằng: Địa vị và danh tiếng chính là mục đích của cuộc đời. Vậy thử hỏi những người đã có một thời vàng son, nắn giữ uy quyền tuyệt đối, như các vua chúa thời xưa, vậy bây giờ họ ở đâu? Hay thân xác họ cũng đã phải trở về với bụi đất và chìm vào quên lãng, như Nguyễn Du đã từng than thở:
- Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
- Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Và sau cùng, có người đi tìm hạnh phúc trong tình yêu, thế nhưng liệu họ có được thỏa lòng ước mơ hay lại như kinh nghiệm đã diễn tả: Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm…Hạnh phúc của tình yêu thì chỉ thoáng qua, những đau khổ của nó lại kéo dài trong suốt cả cuộc đời.
Vậy đối với chúng ta, niềm hạnh phúc đích thực là gì? Tôi xin thưa niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta là chính Thiên Chúa và được sống với Ngài mãi mãi trên quê trời, vì chỉ mình Ngài mới có đủ tình yêu và khả năng thực hiện mọi điều chúng ta mơ ước mà thôi. Đối với chúng ta, chỉ có một sự cần thiết, đó là tìm kiếm Chúa và cứu rồi linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.
Bởi đó đời sống chúng ta phải là một cuộc phiêu lưu đi tìm kiếm Chúa, phải là một hànhtrình đi về với Chúa. Đã là một cuộc hành trình thì phải có một hướng đi, một con đường nhất định. Con đường ấy chính là cái đạo mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta, bởi vì đạo chính là đường. Cái đạo ấy, con đường ấy được gồm tóm trong giới luật yêu thương, và cụ thể hơn được diễn tả qua tám mối phúc thật mà chúng ta vừa nghe.
Chúa Giêsu đã thổi vào tâm hồn chúng ta một luồng gió mới, đã gieo vào cõi lòng chúng ta một tinh thần mới, hoàn toàn khác biệt với tinh thần thế gian. Phúc thật tám mối là như bản hiến chương Nước Trời, gồm tóm những điều căn bản và cần thiết nhất, phải được coi như là những tiêu chuẩn hướng dẫn cho đời sống chúng ta.
Hãy thực thi tinh thần của bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, để chúng ta tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc đích thực ở đời này và nhất là ở đời sau.
Bill Gates, nhà tỷ phú trẻ tuổi người Mỹ, chuyên kinh doanh về máy điện toán, nhiều năm liên tiếp đạt danh hiệu “người giàu nhất thế giới”. Theo tạp chí Forbes bình chọn mỗi năm, tài sản cá nhân của Gates hiện đã lên đến 36,4 tỉ USD (1997) và đang sinh sôi nảy nở rất nhanh. Mỗi ngày, ông chủ công ty Microsoft này thu nhập 42,5 triệu USD.
Nhiều người ao ước được giàu có và danh tiếng như ông vua phần mềm máy tính này, thậm chí chỉ xin được bằng cái số lẻ của ông thì đã vô cùng hạnh phúc. Bởi vì “Có tiền mua tiên cũng được!” Hay như thời nay người ta thường nói:
“Đồng tiền là Tiên là Phật Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khỏe của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng che thân, Là cán cân công lý, Đồng tiền là hết ý”.
Nhưng Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại tuyên bố: “Hạnh phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3). Hơn nữa, Người còn cho là hạnh phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại…
Giáo Hội gọi đó là Hiến Chương Nước Trời, nghĩa là chỉ những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công dân của Nước Trời.
Với người không có niềm tin thì đó là một điều hết sức nghịch lý. Nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, bị bách hại… không thể mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến những bất hạnh thiệt thòi, khinh bỉ mà thôi.
Như vậy phải chăng Đức Giêsu ngăn cản nền văn minh tiến bộ của nhân loại đang vươn tới hùng cường, thịnh vượng sao? Phải chăng Người ủng hộ cho hành động bóc lột và đàn áp? Hoàn toàn trái lại. Người đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Vì thế, làm môn đệ Đức Giêsu là phải xua đuổi nghèo nàn và lạc hậu khỏi thế giới này, là phải đẩy lui đau khổ và bất công xa rời con người. Đó là những vị khách không mời mà đến, và chúng ta phải có nhiệm vụ tống khứ chúng ra khỏi mái nhà của nhân loại. Đây là mục tiêu giải quyết của Kitô giáo, và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Đức Hồng Y Tonini tuyên bố: “Giáo Hội trở nên nghèo bởi vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo Hội nghèo bởi vì Giáo Hội có nhiều thứ vĩ đại hơn”. Nếu Chúa đã nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”, “Phúc cho những ai hiền lành”, “Phúc cho những ai sầu khổ”, “Phúc cho những ai bị bách hại”, là bởi vì họ đã khiêm tốn nhận mình thiếu thốn, bất lực, nên đặt trọn niềm tin cậy và phó thác nơi Người.
Nếu Chúa đã dạy: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch” “Phúc cho những ai khao khát công chính, “Phúc cho những ai xây dựng hòa bình”, Phúc cho những ai xót thương người”, là bởi vì họ đã quyết tâm sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và nhiệt tâm phục vụ anh em.
Tận thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng có nỗi khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc, ai cũng muốn người khác đem lại phúc lộc cho mình. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, và hết lòng quảng đại với tha nhân. Đức Giêsu đã dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Nhà truyền giáo Albert Schweiltzer quả quyết: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
Hạnh phúc đích thực không đo bằng của cải con người thu tích được, không tùy thuộc nơi những thành đạt mà họ có, cũng không đến từ danh vọng mà con người chiếm hữu, nhưng chính là do nơi họ biết hoàn toàn tín thác vào Chúa mà thôi. Sự giàu có đích thực là sự giàu có ở trái tim, không phải ở túi tiền.
Người ta có thể làm cho lễ Các thánh trở nên lễ của hạnh phúc hay không? Dầu sao Tin Mừng ngày hôm nay cũng nói lên điều đó! Chín lần “hạnh phúc”. Và đầu tiên là: “Các ngươi hãy vui mừng hoan hỉ, phần thưởng của các ngươi sẽ lớn lao ở trên Trời”.
Đám mây đầu tiên trên ngày lễ này đó là thì tương lai “Các ngươi sẽ là...Các ngươi sẽ được... Các ngươi sẽ thấy...”. Chính với những thì tương lai kiểu này mà người ta đã giễu cợt những người bất hạnh. Người ta dễ dàng tìm thấy trên đó những bài thuyết giáo khó chịu và những bản văn hoang tưởng của Nã phá Luân!: Khi một người chết đói bên cạnh một người khác no đầy, không thể nào làm cho người đó chấp nhận sự khác biệt này nếu không có một người có uy tín nói với họ: Thiên Chúa muốn như thế, phải có người nghèo và người giàu trên thế gian này, nhưng sau đó và trong vĩnh cửu sự chia sẻ sẽ được thực hiện theo cách khác”.
Các mối phúc chính là hạnh phúc trong tương lai và những sự đảo ngược đầy ấn tượng, những người đầu tiên sẽ là những người cuối cùng. Nhưng không như Nã phá Luân nghĩ, theo nghĩa đó đơn giản là một sự phân phối lại và chỉ có trong tương lai mà thôi. Hạnh phúc được ban tặng ngay từ bây giờ cho tất cả mọi người dười hai hình thức một cuộc hành trình tiến về niềm vui hoàn toàn và một cuộc hành trình đã có hạnh phúc. Giá như mỗi năm họ làm cho lễ Các thánh trở nên một ngày suy niệm về sự hy vọng.
Chúng ta là những người của hy vọng, những người của Tin Mừng. Một ngày kia, tại Palextin, một người đã cất tiếng nói: “Nước Trời kia rồi! Nước Trời đây là ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Từ đây bất cứ người nào cũng có thể hướng tới hạnh phúc được mô tả nơi trang cuối cùng của Thánh Kinh: “Tôi thấy trời mới và đất mới. Tôi nghe có tiếng nói: Kìa nhà tạm Chúa ở giữa nhân loại. Họ sẽ là dân tộc của Ngài và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ, sẽ không còn chết nữa, hết tang chế, hết kêu than, đau đớn, vì những cái trước kia qua đi rồi” (Kh 21, 1-4).
Chính điều này mà chúng ta mừng vào lễ Các thánh: tất cả chúng ta được mời gọi đi vào trong thế giới mới của sự vui mừng lớn lao. Nhưng phải nói đi nói lại rằng ngay từ bây giờ chúng ta là những người của cái tương lai này. Sự liên tục giữa đất và trời không phải luôn luôn được nhận thức một cách rõ ràng. Chúng ta sẽ không nhận lãnh một phần bánh Trời được đo lường và trả giá bằng cuộc sống mà chúng ta đang sống, khó nhọc, lo âu và đau khổ. Chúng ta sẽ mãi mãi là khả năng của niềm vui mà chúng ta tìm kiếm nơi chúng ta trên thế gian này. Chúng ta sẽ là con người của niềm vui mà chúng ta đang tạo nên. Người ta không chinh phục nước trời mà là trở thành nước trời.
Với những mối phúc. Những mối phúc này là một tinh thần và là một hình ảnh. Tinh thần của Nước trời, bầu không khí và những tập tục của Nước trời. Còn hình ảnh là hình ảnh của vị sáng lập, vị vua mẫu mực: đó là Chúa Giêsu, Hgaì đã là người nghèo hèn, khiêm nhu, ôn hoà, trong trắng và bị bách hại. Khi nói “Phúc cho”, Ngài biết Ngài nói về điều gì, về sự trộn lẫn giữa hiện tại và tương lai. Điều này làm cho chúng ta hạnh phúc như Ngài đã từng hạnh phúc. Chúa Giêsu hạnh phúc vì đã là một con người. Điều kỳ lạ là người ta rất ít nói về điều này.
Chúng ta có thể ngay lập tức trở thành một “chân phước” khi chúng ta sống trong niềm hy vọng, nếu tôi dám nói như thế. Niềm hy vọng dặc biệt này được gọi là “vì Chúa” bởi vì nó nối kết chúng ta với Chúa trong khi đảm bảo rằng Chúa muốn cho chúng ta hoan hỉ và sẽ làm tất cả để cho chúng ta hạnh phúc: “Thầy nói cùng các con những điều này để các con được vui mừng và sự vui mừng đó được đầy đủ” (Ga 15,11). Cho nên trước hết các mối phúc này khẳng định với chúng ta rằng Chúa ở với chúng ta. Nhưng chúng cũng cho chúng ta biết những sở thích của Ngài và ở đây lọt vào một điêù phiền nhiễu: Thiên Chúa có thích sự đau khổ hay không? Tại sao Ngài ưa thích người nghèo, người khiêm hạ, người bị bách hại?
Tôi tin rằng câu trả lơì nằm ở phía tấm lòng của những kẻ đáng thương này. Thiên Chúa tìm kiếm những người con và đặc biệt là Ngài tìm ra họ trong các hoàn cảnh khó khăn đó. Đây không phải là lý thuyết mà là thực tế. Khi lặp đi lặp lại chín lần “Phúc thay”, Chúa Giêsu nói đến kinh nghiệm riêng của Ngài. Rất muốn làm vui lòng Cha Ngài, Chúa Giêsu đã kinh nghiệm rằng con người chỉ thực sự là con của Chúa khi ở trong một tình trạng nghèo khổ đáng thương nào đó.
Đến lượt chúng ta hãy thử kinh nghiệm về các mối phúc này. Chúng chỉ làm cho người ta mỉm cười hoặc nghiến răng nếu nhìn từ xa. Nhưng những người cố gắng thử nghiệm thì nhận thấy kinh nghiệm và nói lên kinh nghiệm đó: họ cảm thấy hạnh phúc... vì được hạnh phúc như Chúa Kitô.
Tự nhiên ai cũng muốn hạnh phúc, nhưng hạnh phúc rất khó tìm thấy. Nó thường trượt khỏi tay chúng ta giống như bánh xà phòng ướt nơi phòng tắm. Tất cả chúng ta đều cố gắng để được hạnh phúc, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đồng ý với những gì mà sự hạnh phúc có. Điều đó giống như những cảm hưởng khác nhau trong âm nhạc và thực phẩm vậy. Chúng ta khác nhau cho dù bây giờ chúng ta có phung phí tiền bạc vào những gì sẽ làm cho chúng ta được hạnh phúc, hoặc chúng ta sẽ để dành cho “những ngày mưa gió” trong tương lai.
Tất cả những gì mà người ta nghĩ là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại không nghĩ vậy, giáo huấn của Người hoàn toàn biệt lập về sự hạnh phúc là gì, làm thế nào và khi nào chúng ta đạt được hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều đã nghe lời giáo huấn của Người nhưng có lẽ chúng ta hoàn toàn thất bại trong việc nắm bắt cho dù là một đặc tính duy nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố.
Chúng ta gọi giáo huấn này của Người là những mối phúc, từ “beatus” theo nghĩa Latinh có nghĩa là hạnh phúc. Đầu tiên chúng ta nhận thấy rằng những mối phúc không phải là những điều luật, cũng không phải là những lời khuyên. Chúng là những lời tuyên bố. Chỉ một điều duy nhất mà hôm nay Chúa Giêsu đã nói chúng ta phải làm, đó là “hãy sung sướng và vui mừng”. Những điều khác, Người muốn trình bày những gì mà hạnh phúc phải gồm có, Người nói thẳng những người hạnh phúc là những người nghèo, người khóc lóc, người đau buồn và người đói khát. Ngài cũng nhấn mạnh những người hạnh phúc là những người bày tỏ sự thương xót, người kiến tạo hoà bình và người chịu đau khổ, bắt bớ. Đó không phải là danh sách mà chúng ta sẽ chọn lựa cho chính mình. Nếu chúng ta phải nhận lấy sự nghèo khổ, khóc lóc, đói khát như những món quà Giáng sinh, chúng ta sẽ nghĩ rằng ông già Noel phải trở thành ông già keo kiệt mới đúng.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông già keo kiệt dù người nói những điều mà nhiều người nghĩ là “bịp bợm” chứ làm sao hạnh phúc với những thứ ấy được, chìa khoá bài giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong mối phúc thứ sáu. Mối phúc ấy nói: “Phúc cho ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ xem thấy Thiên Chúa”.
Người có lòng trong sạch là những người giống như những vị thánh, trung tâm toàn bộ đời sống của họ là Thiên Chúa. Trong sự nghèo khổ, họ nhận ra sự giàu có thật chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa. Nơi sự đau buồn của họ, họ khám phá ra rằng niềm vui thật chỉ cảm nghiệm được ở nơi Thiên Chúa. Nơi sự thấp hèn, họ hiểu rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể nâng họ lên sống xứng đáng một con người. Trong sự đói khát, họ thấy giá trị của Thánh Thể, bởi Mình và Máu Chúa sẽ dẫn chúng ta tới bữa tiệc vĩnh cửu trên quê trời. Họ bày tỏ lòng thương xót mà không báo thù, họ đem đến sự an bình chứ không oán ghét, bởi vì họ biết rằng Thiên Chúa là nguồn mạch sự thương xót và bình an. Họ sẵn lòng chịu bắt bớ, bách hại bởi vì họ cảm thấy đặc ân được đau khổ và ngay cả cái chết chỉ là làm chứng cho sự thật.
Vì người có lòng trong sạch đặt trọng tâm vào Thiên Chúa nên họ nhận biết Chúa Giêsu đã thực hiện những gì Người đã rao giảng. Chúa Giêsu là người nghèo, người phải chịu nhiều đau buồn trong cuộc thương khó của Người. Người đã trở nên thấp hèn, bị khinh khi như là một tội nhân trên thập giá. Họ thấy Chúa Giêsu đã trải qua đói khát trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ vụ của Người, Người đã chuyển giao sự trống rỗng của người đến cạn kiệt để rồi làm sung mãn chúng ta bằng sự sống và tình yêu của Người. Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót đối với những người tội lỗi và Người đã hiến dâng mọi sự như là đặc ân sự bình an của Người.
Mặc dù không có mối phúc nào là một lề luật, chúng ta tự mình cũng phải thực hiện cho tốt: “Hãy trở nên giống Chúa Giêsu. Hãy có lòng trong sạch. Hãy tập trung toàn bộ đời sống của bạn ở nơi Thiên Chúa”. Đó sẽ là lời khuyên tốt cho chính chúng ta. Trong việc thực hành, chúng ta có thể làm trọn vẹn một điều mà Chúa Giêsu hôm nay bảo chúng ta làm: “Hãy sung sướng và vui mừng vì phần thưởng của các con ở trên trời thì rất lớn lao”.
Danh từ “hạnh phúc” (dùng trong Phúc Âm hôm nay) phải hiểu là sự thành công cuối cùng của con người khi nó được đặt trong tình nghĩa với Chúa. Nói thành công, không những là nói về bình diện những khát vọng tự nhiên của trí khôn và cõi lòng, song còn về bình diện những khả năng mới mẻ mà con người nhận được khi được nâng lên trạng thái siêu nhiên. Sống bất diệt là một ước vọng tự nhiên; thấy Thiên Chúa là một ân huệ siêu nhiên. Đừng quên cái viễn tượng hạnh phúc cuối cùng trong Chúa, khi đọc Bài Giảng Trên Núi, bài Tám Mối Phúc Thật. Nếu các ‘mối phúc’ bị giản lược vào bình diện tự nhiên (chiều ngang ta sẽ không thể hiểu nổi nữa).
Nếu hướng về Nước Trời, chúng trở thành tuyệt diệu. Trong các bản văn của Cựu Ước nói về Đấng Cứu Thế, những kẻ xấu số đều được ưu ái, vì nỗi nghèo khổ và hèn mọn của họ khiến họ cởi mở đón nhận Thiên Chúa. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu mô tả một thái độ nội tâm và một hoàn cảnh bên ngoài, tự nó đã làm cho Chúa thương tình, ta hãy ghi lại một vài nhận xét về tuyệt tác này.
1) Các ‘mối phúc’ bắt nguồn từ Thiên Chúa song chúng không bao hàm sự thiếu tin tưởng ở con người, mà là vượt khỏi con người. Có nghĩa là Chúa xem con người có khả năng sống tốt lành, công chính, trong sạch và an hòa. Người chỉ vẽ cho biết phải dùng phương tiện nào và đâu là chỗ chúng được hoàn thành. Phương tiện nằm ở điểm này là người môn đệ Đức Kitô sống trong mối liên lạc với Chúa mình. Đó là ý nghĩa của mấy tiếng ‘vì Ta’. Sự thành tựu được thực hiện đầy đủ ‘trên trời’. Vậy các mối phúc là một niềm hạnh phúc bắt đầu dưới trần gian trong nỗ lực đau đớn và hoàn thành trên trời trong sự chiếm hữu trọn vẹn. Ngay trên thế gian này trong mối liên lạc với Đức Kitô, con người phải khởi sự dùng các phương tiện để xây dựng niềm vui bất diệt của mình.
2) Trong các mối phúc, thì sứ điệp nào đang cần thiết nhất cho thời đại ta? Các mối phúc làm thành một toàn thể, không thể coi thường một mối nào mà không làm hại đến tất cả. Ngược lại, tha thiết với một mối là tha thiết với tất cả.
Có lẽ trước não trạng hiện đại, ta có quyền lưu tâm cách riêng đến lòng trong sạch. Đây không phải là sự ‘vắng mặt’ của tội lỗi mà thôi nhưng còn là một phẩm chất của trí tuệ, linh hồn và con tim. Đây nói đến sự ngay thẳng, sự thành thực ở trình độ trí tuệ. Trí khôn trong trắng thì không tự xây dựng nên một hệ thống tư tưởng nào để rồi đặt nó vào giữa mình và thực tại. Các hệ thống duy tâm đều không tinh ròng. Ví dụ thuyết duy khoa học, thuyết mác-xít.
Tấm lòng trong sạch chỉ sự trong sáng của cái nhìn nội tâm, cái nhìn làm cho ta khám phá ra Thiên Chúa trong mình và trong các tạo vật. Muốn thế, phải nỗ lực xây dựng sự trong trắng luân lý và nhất là phải có ý chí hiến thân mình cho Chúa trong sự đơn sơ của đức tin và tình yêu. Cõi lòng trong trắng gặp thấy khắp nơi và trong mọi sự chính Đấng mà tình yêu nó tìm kiếm. Ta nên biết nhìn Chúa khắp nơi, trong các biến cố và ngay trong một thế giới mà ta tuyên bố là hư hỏng, nhưng được Thiên Chúa cứu vớt.
Đọc xong Bài Giảng Trên Núi hay Hiến Chương Nước Trời của Đức Giêsu, trong tâm trạng đang bồi hồi thổn thức và liên lỉ hiệp thông bằng trái tim với giáo dân thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội, tôi vô cùng bùi ngùi và xúc động về mối phúc thứ ba mà Đức Giêsu công bố, sau khi “Người lên núi, ngồi xuống và các môn đệ đến gần bên”:
“Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5, 5)
Sự hiệp thông rất nhạy cảm và thấm đậm tình xót thương càng dâng trào, khi tôi nhìn thấy hình ảnh một số giáo dân cùng với các giáo sỹ, tu sĩ nam nữ trong Tổng Giáo Phận Hà Nội dựng cây Thánh Giá cao hơn 4m ngay trước thềm Tòa Khâm Sứ trong ngày 25/01/2008 và cũng ngay trong đêm, họ đã tập trung lại dưới chân Thập Giá Chúa Giêsu Kitô để lắng nghe tiếng Thần Khí thì thầm từ trái tim đâm thâu, và để hòa vang tiếng cầu kinh với một tâm hồn nghèo khó tha thiết kêu xin, mặc cho thời tiết rất khắc nghiệt, vừa trong mưa gió, vừa trong giá rét.
Nhìn vào hình ảnh gợi cảm trong đêm canh thức (như hình trên) của rất nhiều Kitô hữu Hà Nội ngước nhìn lên Thập Giá, tôi nhớ lại những lời mà ĐTC Bênêđictô XVI đã chiêm niệm được ghi lại trong cuốn “Đức Giêsu thành Nazarét” như sau:
“Truyền thống đã đưa ra một hình ảnh than khóc khác đã mang lại cứu rỗi: Maria đứng dưới chân Thập Giá với người chị em của mình, vợ ông Clôpát, với Maria Macđala và với Gioan (Ga 19, 25tt). Một lần nữa, như trong thị kiến của Ezekiel, nơi đây chúng ta gặp một nhóm nhỏ vẫn trung thành trong một thế giới tràn ngập tàn bạo và nghi ngờ hay thỏa hiệp cách hãi sợ. Nhóm nhỏ này không ngăn chặn được thảm họa, nhưng qua “sự đau khổ với” Đấng bị lên án (bởi sự đồng-thương khó với [com-passion] theo ngữ nghĩa học), chính họ đứng về phía Ngài, và qua “lòng yêu thương với” của họ, họ đứng về phía Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu. “Đồng thương-khó với” nhắc chúng ta nhớ câu chú giải tuyệt vời của thánh Bênađô thành Clairvaux về Diễm Ca: “Thiên Chúa không thể đau khổ”, nhưng Người có thể “đau khổ với”.
Dưới chân Thập Giá của Đức Giêsu, chúng ta hiểu hơn bất cứ nơi nào khác về ý nghĩa “phúc cho ai than khóc, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”. Những ai không chai đá trước đau khổ và nhu cầu của tha nhân, những ai không để cho sự dữ đi vào linh hồn của họ, nhưng đau khổ dưới quyền lực của nó, và như thế, chấp nhận chân lý của Thiên Chúa, họ là những người mở cửa sổ thế giới ra để cho ánh sáng chiếu vào. Họ là những người than khóc theo nghĩa mà lời an ủi được ban cho. Vì thế, Mối phúc thứ ba được kết nối chặt chẽ với Mối phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 10).”
Ngẫm và suy tới đây, tôi càng hiểu thấu được lời chân tình của Đức Tổng Ngô Quang Kiệt, mà có lẽ hầu như ai đang mở lòng ra với Tồng Giáo Phận Hà Nội, sẽ nhớ mãi trong sự cảm phục và kính trọng sâu xa một sự khẳng khái kiên định:
“Nếu vì cầu nguyện theo tôi yêu cầu mà giáo dân bị tù, thì tôi sẽ đi tù thay họ”.
Quả thật, các Mối Phúc phô diễn mầu nhiệm của Đức Kitô và kêu mời mọi người đi vào trong sự hiệp thông với Người. Chỉ được thấm nhuần trong nội tâm sâu kín các Mối Phúc mà Đức Giêsu đã “mở miệng dậy họ”, người môn đệ chân chính của Người mới có một hướng đi cho cuộc đời làm Mục Tử chăn dắt đoàn chiên của Thầy Chí Thánh.
Từ lời công bố thẳng thắn trên, tôi nghe văng vẳng lời thánh Phaolô nói với cộng đòan Côrintô:
“Chúng tôi bị dồn ép tứ bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng, bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng đuợc biểu lộ nơi thân mình chúng tôi”. (2Cr 4, 8-10)
Lại nữa, khi nhìn tấm hình sống động và linh thiêng của đêm canh thức cầu nguyện trên, tôi cảm nghiệm sâu đậm được tâm tình của những người có mặt tại hiện trường lúc đó như đang “rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xẩy ra trong khắp thành” (Ed 9, 4). Họ là những người không chạy theo đám đông. Họ chối từ thông đồng với bất công đã trở thành căn bệnh của địa phương, thay vào đó, họ đau khổ dưới bất công. Cho dù không phải chính quyền năng của họ thay đổi toàn bộ hòan cảnh, nhưng họ vẫn chống cự cách thụ động trong đau khổ của họ, qua than khóc để vạch biên giới với quyền lực sự dữ.” (Đức Giêsu thành Nazarét)
Chính những người này đang sống với các Mối Phúc: “khát khao nên người công chính”, “xây dựng hòa bình” để xứng đáng là “con cái Thiên Chúa”, vì tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa “sẽ cho họ thỏa lòng”. Đồng thời, họ cũng thấm nhuần Thần Khí Mối Phúc cuối cùng trong Bài Giảng Trên Núi tỏa ra từ Trái Tim Đâm Thâu:
“Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Mt 5, 11-12)
Chưa hết, vào ngày 29/01/2008, trong số giáo dân tụ họp đông đúc để cầu nguyện trong ôn hòa nơi Tòa Khâm Sứ, đã lác đác có vài người giả dạng là đồng đạo để tìm cách khuấy động bầu khí yêu mến trong lành sự tự do tín ngưỡng, hầu có thể tạo ra chứng cứ nhằm gán ghép những con chiên ngoan ngoãn đòi hỏi sự tự do chính đáng này vào tội danh nào đó mà họ đang âm mưu rình rập. Phương cách này khiến tôi nhớ lại điều mà thánh Phaolô đã cảnh báo các Kitô hữu Galát rằng:
“Sở dĩ thế là vì có những tên xâm nhập, những kẻ giả danh giả nghĩa anh em, đã len lỏi vào dò xét sự tự do của chúng ta, sự tự do chúng ta có được trong Đức Kitô Giêsu; họ làm như vậy là để bắt chúng ta trở thành nô lệ”. (Gl 2, 4)
Để cùng với “những người đang mở cửa sổ thế giới ra để cho ánh sáng chiếu vào”, tôi tin rằng những người đang hướng lòng về Hà Nội thân yêu sẽ cùng với tôi hát vang lên Thánh vịnh sau:
“Xin dạy con đường nẻo Ngài, lạy Chúa, dẫn con đi trên lối phẳng phiu, vì có những người đang rình rập.
Xin đừng phó mặc cho kẻ thù hung hãn, Vì lũ chứng gian đứng dậy tố con, Giương bộ mặt hầm hầm sát khí.
Tôi vững vàng tin tưởng Sẽ được thấy ân lộc Chúa ban Trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào Chúa, Mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.” Amen. (Tv 26, 11-14)
Tin Mừng Chúa Nhật thứ bốn mùa Thường Niên: Những giá trị nước Trời
VietCatholic News (Chúa Nhật 03/02/2008 18:54)
ROME (Zenit.org).- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, là vị giảng Phủ Giáo Hoàng, đã giải thích những bài đọc Thánh Lễ Chúa Nhật IV Thường Niên. Bài Tin Mừng Chúa Nhật nói về Tám Mối Phúc và bắt đầu với câu danh tiếng:”Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Lời công bố về “những kẻ nghèo tinh thần” thường bị hiểu lầm ngày nay, hay là được đọc với một nụ cười khoan dung, dường như đó chỉ là một cái gì để cho những kẻ ngây thơ tin mà thôi. Và, trên thực tế, Chúa Giêsu không bao giờ nói suông, “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó!” Người không bao giờ mơ tưởng nói một cái gì như vậy.
Phần thứ hai là quan trọng: Người nói, “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nườc trời là của họ.” Đó là một cái gì khác. Tư tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn bị hiểu lầm và bị coi thường khi chỉ trưng ra một nửa câu công bố của Người. Khốn cho sự cách ly mối phúc khỏi lý do của nó.
Xin trưng dẫn một ví dụ văn phạm, điều giả sử như có ai đọc một tiền đề (protasis) và không theo nó với một kết đề (apodosis). Giả như có người nói: “Nếu ngày nay anh gieo,” sau đó không nói gì thêm. Điều đó có nghĩa gì? Không gì cả!
Nhưng nếu anh nói thêm: “Ngày mai anh sẽ gặt,” lúc đó mọi sự sẽ rõ ràng. Cũng vậy, nếu Chúa Giêsu chỉ nói: “Phúc cho những kẻ có tâm hồn nghèo khó,” lời đó nghe phi lý. Nhưng khi Người thêm: “Vì nước trời là của họ, “tất cả đều có nghĩa.
Nhưng phúc nước trời đem đến “sự đảo ngược tất cả các giá trị”, là cái gì? Đó là của cải không bao giờ mất, ăn trộm không thể lấy được, không thể bị mối mọt. Đó là của cải không bị bỏ lại cho những kẻ khác trong giờ mình chết, nhưng là điều mình mang theo. Đó là “kho tàng ẩn giấu” và là “viên ngọc quí” mà muốn sở hữu nó Tin Mừng nói nên bỏ mọi sự khác.
Sự đến của nước này đã gây nên một thứ “khủng hoảng chính trị” của sự nhập khẩu hàng hóa toàn cầu, một sự tái tổ chức cấp tiến. Sự đến đó mở ra những chân trời mới; một ví dụ nhỏ như vào năm 1400s, một thế giới mới—America—được khám phá, và những quyền lực giữ độc quyền thương mại với phương Đông—ví dụ Venice—thình lình thấy mình không được chuẩn bị và đi vào trong cơn khủng hoảng. Những giá tri xưa của thế giới—tiên bạc, quyền thế, uy thế—bị thay đổi, bị tương đối hóa, dầu những thứ đó không bị loại bỏ, do sự đến của nước này.
Bấy giờ cái gì xảy ra cho người giàu? Một người để dành nột số tiền lớn và chỉ trong một đêm trị giá tiền lưu hành hạ xuống 100%. Buổi sáng ông thức dậy thành người vô sản, cho dầu ông không biết điều đó. Người nghèo, đàng khác, có một cái lợi với sự đến của nước Chúa, bởi vì, không có gì phải mất, họ sẵn sàng hơn đón nhận một tình trạng mới của công việc và không sợ sự thay đổi. Họ có thể đầu tư mọi sự trong hệ thống tiền lưu hành mới. Họ sẵn sàng hơn để tin.
Nhưng chúng ta nghĩ khác. Chúng ta tin rằng những thay đổi đáng kể là những thay đổi thấy được và có tính xã hội, không phải là những thứ xảy ra trong đức tin. Nhưng ai đúng? Trong thế kỷ cuối chúng ta đã kinh nghiệm những cuộc cách mạng theo kiểu này, nhưng chúng ta cũng thấy dễ dường nào, sau một thời gian, chúng kết thúc bằng cách làm tái xuất hiện, với những người giữ vai trò chủ đạo khác, cũng một tình huống bất công mà họ đã nói muốn loại trừ.
Có những mức độ và những phương diện thực tế không thấy được với những con mắt trần tục, nhưng chỉ với sự trợ giúp của một ánh sáng đặc biệt. Ngày nay, với những vệ tinh trong không gian, những ảnh chụp tia hồng ngoại của toàn thể những vùng địa cầu và xem ra những vùng đó khác biệt là dường nào trong ánh sáng của những tia sáng này!
Bài Tin Mừng, và cách riêng, mối phúc của chúng ta về người nghèo, cho chúng ta một hình ảnh về thế giới tắm gội trong một ánh sáng đặc biệt, trong một loại ánh sáng “tia hồng ngoại”. Nó giúp chúng ta thấy cái gì ở dưới, hay bên kia, mặt tiền. Nó cho phép chúng ta phân biệt cái gì còn lại với cái đã qua.
Người ta khao khát hạnh phúc, chúc nhau trăm năm hạnh phúc, tam đa, tam phước... nhưng không biết làm sao để được hạnh phúc thật nên không thấy bóng dáng hạnh phúc ở đâu, vùi đầu chạy tìm ảo ảnh mà họ tưởng là hạnh phúc. Họ như những con thiêu thân "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt", mà để lại "buồn da diết đến nghìn thu". Họ tìm ba T "tài-tiền-tình" Nhưng thực tế đó lại là những thứ vũ khí giết người, và gây đau khổ mà thôi. Nước mắt nhiều hơn nụ cười. Không biết cười hay mếu!
Trước thềm năm mới - tống cựu nghin tân - Đức Giêsu trao cho chúng ta "CẨM NANG HẠNH PHÚC": NƯỚC TRỜI (THIÊN CHÚA) LÀ CỦA HỌ. Thiên Chúa là hạnh phúc. Vấn đề là tin hay không!
Tìm kiếm những gì dẫn đến Thiên Chúa là có hạnh phúc. Từ bỏ những gì làm xa cách Thiên Chúa. Gọi là các mối phúc thật. Phải là chín mới trọn vẹn.
Trước khi giải thích bản văn chúng ta nên lưu ý: Phúc Âm là các thánh sử giải thích "biến cố" Đức Giêsu mỗi người theo một sơ đồ riêng để minh họa một ý tưởng thần học về chương trình cứu độ đã được tiên báo trong Cựu Ước và được thực hiện qua biến cố Đức Giêsu. Không phải là những bài tường thuật hay trình thuật như thường hiểu. Các mối phúc thật cũng vậy, là những "dàn dựng" của Mt hoặc Lc lấy từ biến cố Đức Giêsu và được linh ứng để viết ra cho chúng ta là những đọc giả về sau.
1/ Phúc thật ai có tâm hồn nghèo khó vì nước trời là của họ: Tâm hồn nghèo khó. Bất kể giàu nghèo, có tâm hồn nghèo khó là phúc thật. Tâm hồn là tấm lòng, trong lòng không đầy ứ sự tham lam của cải thế gian. Không có mà không ham, không tham. Không "bần cùng sinh đạo tặc", không " bụng đói thì gối phải bò" đi trộm cắp, cướp của giết người. Nghèo mà vẫn công chính. Giàu có mà lòng không ỉ lại tiền của, biết coi như không có mà đem làm việc yêu thương thay cho Thiên Chúa để xoa dịu những kẻ đau khổ vì túng thiếu. Đem hết cho Chuá ăn, cho Chúa uống.....
Người nghèo khó trong Cựu Ước cũng như Tân Ước là đối tượng chính được Thiên Chúa quan tâm. Đời nầy không có gì thì (trên trời) Thiên Chúa sẽ thưởng gắp bội vì phần thưởng sẽ lớn lao trên trời: là Nước Trời, là chinh Thiên Chúa. Đáng lẽ phải đi liền theo mối phúc của người nghèo là hai mối phúc của kẻ ưu phiền (Lc: khóc lóc) và đói khát. Nghèo thì khổ. Nghèo khổ.
2/ Phúc thật ai "Ưu phiền" (khóc loc) vì họ sẽ được an ủi: nghèo thì gặp trăm ngàn sự khó vì trăm tội đổ trên đầu thằng khó. Cơm ăn là suối lệ chứa chan. Khổ! Đức Giêsu đến để an ủi những kẻ ưu phiền. Người đang đến, đang hiện diện. Người công bố. Được Thiên Chúa an ủi thí chắc chắn hết ưu sầu.
3/ Phúc thật những ai đói khát sự công chính vì họ sẽ được thỏa lòng. Mt muốn xác định rõ: đói khát mà công chính thì Thiên Chúa mới chúc phúc (chứ không phải mọi kẻ đói khát). Nghèo thì lắm phen đói khát. Nhưng không phải "bụng đói thì gối phải bò", "bần cùng sinh đạo tặc" mà là "bần tiện bất năng di" (dù bần cùng cách mấy vẫn giữ mình là quân tử).
Phần thưởng lớn lao trên trời: vì Nuớc Trời là của họ. Thiên Chúa là phần gia nghiệp: không còn khổ "ưu phiền hoặc khó lóc"
Ba phúc thật nầy là khía cạnh tiêu cực: thực tế là vậy. Chỉ mới nói "chịu đựng".
Các phúc thật còn lại đề cập đến khía cạnh tích cực "làm".
4/ Phúc thật ai hiền lành vì sẽ đuợc đất hứa làm gia nghiệp: Hiền như củ khoai. Lành là vô hại, không độc. Hiền lành như bồ câu. Kẻ hiền phải chịu nhiều thiệt thòi có khi xem ra quá sức chịu đựng nữa. Lành thì không lúc nào có chút ác ý. Là một nhân đức ít có. Thiên Chúa hứa đền bù những gì họ chịu mất mát, thiệt thòi: họ sẽ được Nước trời.
5/ Phúc thật ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương: là biết động lòng trước dù là một bất hạnh nhỏ của nguời khác và ra tay cứu giúp ngay. Thuơng xót là biết hành động trợ giúp không thờ ơ, vô tình, bỏ qua trước hoàn cảnh khó khăn của kẻ khác. Đức Giêsu đến để tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa.
6/ Phúc thật ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa: là giữ mình khỏi mọi cám dỗ của thế gian làm ô uế tâm hồn. Hạnh phúc thật được thần học gọi là visio beatifica "thấy Thiên Chúa" sẽ làm thỏa mãn mọi ước muốn của con người. Muốn thấy được Thiên Chúa thì phải giữ mắt không bị vật gì che chắn. Sạch tội. Tội là vật cản giữa con người và Thiên Chúa. Tội ở trong tâm hồn nên nói tâm hồn trong sạch được xem thấy Thiên Chúa.
7/ Phúc thật ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa: Nói hòa bình là chuyện lớn còn với mợi người trong đời sống hằng ngày là sống hòa thuận, thông cảm, chia ngọt xẻ bùi với nhau cho vui vẻ cả làng. Có nhiều người như vậy thì có hòa bình lớn. Còn nếu trong lòng còn những tham lam, tranh giành, lấn cấn... thì đừng nói chuyện hòa bình. Nếu tất cả là anh em, là con Thiên Chúa thì có hòa bình. Là con Thiên Chúa mới sống hòa thuận thương yêu nhau. Là con Thiên Chúa thì ở gần và thấy Thiên Chúa: Hạnh phúc thật.
8/ Phúc thật ai bị bách hại vì sự công chính ví nước trời là của họ: Chỉ người công chính mới được phúc của Thiên Chúa. Như Đức Giêsu thà chết chứ không thỏa hiệp để yên thân theo kiểu khôn ngoan thế gian, không đánh mất sự công chính vì bất cứ lý do nào vì công chính mới được thưởng. Phần thưởng Nước Thiên Chúa đóng khung các mối phúc từ 1 đến 8 nói lên phần thuởng duy nhất là Thiên Chúa. Thiên Chúa là phúc thật. Hãy tìm Thiên Chúa bằng 8 cách kể trên. Tám mối phúc thật là 8 "bí quyết" của cẩm nang hạnh phúc do Đức Giêsu công bố (cũng là Thiên Chúa công bố).
9/Phúc thật cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Mối phúc nầy phân biệt với 8 mối phúc trên, đặc biệt hơn là "vì thầy". Số 8 nói bách hại vì sự công chính. Số 9 là vì Thầy, là tử đạo. Vì Thầy, vì Phúc Âm thì giá trị lớn vô cùng, một bát nước lả cũng không mất phần thưởng đâu. Là điều kiện tốt nhất, bảo đảm nhất để được phúc thật là Nước Trời, là Thiên Chúa. Mất mát, thiệt thòi của 8 phúc trên là ít nhiều, là từng phần. Còn số 9 là tất cả ví liều mạng sống vì Thầy và vì Phúc Âm thì sẽ giữ được mạng sống mình cho tới đời đời "trên trời". Là con đường thẳng, ngắn nhất "lên thiên đàng ngay" tức khắc. Là phúc thật tử vì đạo.
Số chín là hoàn hảo. Mt muốn cho đủ chín. Nhưng mỗi mối phúc đều có nội dung riêng rõ ràng.
Anh em hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho anh em trên trời sẽ lớn lao. Chính Đức Giêsu là Phúc thật cho những ngưới anh em của mình. Những người không là anh em của Đức Giêsu thì không tin không theo không làm như Người day thì khống thể có phúc. Không có ban nhưng không như nguời ta thường thích nói để khỏi phải làm (thực tế thì không có).
Hạnh phúc trên trời không phải đợi dời sau mà trên trời có nghĩa là chính Thiên Chúa, là được chính Thiên Chúa hay như thần học định nghĩa hạnhphúc là "visio beatifica", là thấy Thiên Chúa hay như khi Phêrô thấy Đức Giêsu biến hình vinh quang thì đã thốt lên trong cơn hốt hoảng "Lạy Thầy ở đây thì tốt lắm."
Cuối năm, tống cựu nghinh tân, chúng ta hãy đổi mới cách nhìn và hiểu biết nhất là với Lời Chúa, cụ thể là các mối phuc đề biết hạnh phúc là gì, tìm ở đâu. Đức Giêsu đã đến, đã trao cho chúng ta cẩm nang hạnh phúc thật. Lời Chúa là chân thật. Chúng ta cố gắng hiểu để tin và làm theo thì sẽ được hạnh phúc thật là ở với Chúa, thấy Chúa ngay trong đời sống nầy.
Hạnh phúc. Hạnh phúc là gì mà ai cũng muốn, cũng tìm, và cũng mong chiếm hữu? Và, trên cõi đời này đã được mấy người đạt được ước mơ này?!!
Chắc là không nhiều, vì nhìn chung quanh, chúng ta thấy ai ai cũng than phiền, cũng tỏ dấu lo âu, và cũng có những chuyện làm cho nặng lòng. Từ bình diện cá nhân, gia đình, ra đến ngoài xã hội, những tiếng than van, những tiếng thở dài thường được nghe nhiều hơn những tiếng vui mừng, và những bộ mặt hân hoan thật sự. Và điều này cho biết, là hạnh phúc vẫn là cái gì khó kiếm, khó tìm, và nếu đã tìm, đã kiếm thấy thì lại khó giữ. Tuy vậy, hạnh phúc lại một nhu cầu và một trạng thái sống gắn liền với thân phận con người, gắn liền với cuộc sống. Vậy thì hạnh phúc là gì?
Hạnh phúc là gì?
Cũng như tình yêu, hạnh phúc là một cái gì khó hiểu, khó thấy, và khó định nghĩa. “Đố ai định nghĩa được tình yêu Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu” Xuân Diệu
Một buổi chiều, một tia nắng nhạt, một áng mây, một làn gió nhẹ, đối với hai kẻ yêu nhau là cả một không gian, một thời điểm, và biểu tượng cho hạnh phúc. Nhưng đối với những người khác thì đó cũng chỉ là một buổi chiều, một làn gió, và một áng mây không hơn, không kém. Mà có khi còn tệ hơn một buổi chiều, một tia nắng, một áng mây, một làn gió hôm qua, hoặc mấy bữa turớc.
Hạnh phúc cũng vậy. Một hình ảnh mà theo tôi rất hạnh phúc mà tôi không thể quên được, đó là hình ảnh một người thanh niên đang ăn một miếng bánh kẹp thịt bò xay (hamburger), và uống một ly CoCa vào một buổi chiều bên một chiếc ghế mà khánh ngồi để đón xe bus.
Hôm đó, trên đường từ sở về, tôi lái xe qua một trạm xe bus, và vô tình tôi nhìn thấy một thanh niên Mễ, anh đang ăn một cách ngon lành, say mê chiếc bánh kẹp thịt bò với một lon CoCa CoLa. Có thể là sau một ngày làm việc vất vả. Hoặc cũng có thể là người này thỉnh thoảng mới có dịp được ăn thức ăn này. Nhưng đối với phần đông người Hoa Kỳ, thì đây là một thứ thức ăn nhanh, gọn, vừa túi tiền, và đã hẳn cũng chẳng ngon lành gì. Vội vàng, không kịp thời giờ chuẩn bị, hoặc lười thì ra mấy quán bán đồ ăn dọn sẵn ấy làm một bữa điểm tâm, một bữa trưa, hay một bữa chiều cho đầy bụng. Nhưng quan sát thái độ, và nét mặt của người thanh niên mà tôi thấy chiều hôm ấy thì không như thế. Đó là khuôn mặt, là thái độ hiện rõ nét một cái gì hạnh phúc, và thư sướng.
Như vậy, đối với người thanh niên Mễ kia, và cũng cả đối với tôi, ít nhất là qua trí tưởng tượng lúc bấy giờ, tôi đã có một thời điểm và một không gian hạnh phúc. Hay ít nhất tôi hạnh phúc vì thấy người thanh niên ấy hạnh phúc. Tôi được hạnh phúc lây. Còn đối với những người khác thì sao? Có thể không nghĩ như vậy, và miếng bánh kẹp thịt bò xay kia, lon CoCa kia sẽ chẳng là gì và cũng chẳng bao giờ đem lại hạnh phúc mà có khi còn làm tăng thêm bệnh cao mỡ, cao máu hoặc tiểu đường.
Hạnh phúc nước Trời
Cũng cùng một lối nhìn ấy, một suy tư ấy, hôm nay Chúa Giêsu đã giới thiệu với những ai đang muốn theo Ngài, hoặc sẽ theo Ngài một thứ hạnh phúc mới. Một thứ hạnh phúc khác với những gì con người đang tìm kiếm, và đang tranh dành nhau. Đó không phải là thứ hạnh phúc được mua bằng tiền, dệt bằng danh giá, và nhất là sự thỏa mãn cá nhân. Một thứ hạnh phúc phát xuất từ trong cõi lòng, và nó được bắt nguồn từ Đấng là nguồn mạch hạnh phúc.
Bài giảng đầu tiên của Ngài được gọi là Bài Giảng Bát Phúc, hay còn gọi là Hiến Chương Nước Trời, trong đó Chúa Giêsu đã đề cập đến hạnh phúc. Lần rở lại những điều Ngài nói với dân chúng hôm ấy, chúng ta đều có thể đọc thấy những từ ngữ rất người, rất hợp rất hấp dẫn về hạnh phúc. Đó là: chiếm hữu được được nước Trời, được an ủi, được no thỏa, được người khác xót thương, được nhìn thấy Thiên Chúa. Những thứ mà xem như có nó rồi thì giầu sang, phú quý, danh giá của trần gian, thỏa mãn xác thịt, và sức khỏe không có thể so sánh được. Đây phúc nước Trời phát xuất từ tâm hồn. Thứ hạnh phúc mà tiền bạc, giầu sang, sắc đẹp, sức khỏe, thông thái, quyền lực không thể mua được.
Trong đời sống thường ngày đã minh chứng điều này, có những người nghèo khó, đơn sơ, kém học thức, kém may mắn, và đôi khi yếu đau bệnh tật nhưng vẫn vui và vẫn tỏ lộ nét hạnh phúc. Trường hợp của người thanh niên Mễ mà tôi đã đề cập đến ở trên là một hình ảnh tương tự. Nhưng để làm gì ta mới có được hạnh phúc ấy?
Trong Kinh Lậy Cha, Chúa Giêsu đã dậy chúng ta phải cầu xin với Chúa Cha để Ngài nâng đỡ:TN 4-A43
Trong Kinh Lậy Cha, Chúa Giêsu đã dậy chúng ta phải cầu xin với Chúa Cha để Ngài nâng đỡ và giúp chúng ta tránh được những cám dỗ: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6:13).
Bài đọc I của Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo Hội đã khôn ngoan đưa ra trích đoạn nói về sự sa ngã của Nguyên Tổ trong Vườn Địa Đàng. Thánh ký ghi nhận, lúc ấy Nguyên Tổ của chúng ta có một đời sống rất hạnh phúc. Cái hạnh phúc không phải bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Hạnh phúc với tâm hồn trinh trắng, đến nỗi vô tư sống bên nhau và bên Chúa ngay trong tình trạng trần truồng của mình mà vẫn không thấy xấu hổ.
Nhưng rồi cơn cám dỗ đã đến và sức mạnh của nó đã phá tan niềm hạnh phúc ấy. Hơn thế, nó còn kéo theo án phạt vì đã lỗi phạm giới luật Chúa khi nghe kẻ thù cám dỗ ăn trái cây mà Ngài cấm không cho ăn.
SA CHƯỚC CÁM DỖ
Theo dõi kỹ cơn cám dỗ mà Nguyên Tổ đã để mình sa vào và đã sa ngã, chúng ta có thể tìm thấy những yếu tố tiềm ẩn như sau:
1. Không hài lòng với hiện tại: Cũng như Nguyên Tổ, tất cả chúng ta đều phải trải qua những cám dỗ, nhưng khởi thủy những cám dỗ này đều phát xuất từ tâm thức không hoàn hoàn toàn thỏa mãn, hay bằng lòng với chính mình, và với những gì mình có. Hiểu được tâm lý này, con rắn (Satan) đã không bỏ lỡ cơ hội, và đã nói với Evà: “Thiên Chúa đã không cho phép bà ăn bất cứ trái cây nào trong vườn sao?” Và bà đã trả lời: “Trừ một cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã nói rằng, ‘các ngươi không được ăn nó, ngay cả rờ vào nó, trừ phi các ngươi phải chết’” (Gn 3:1,2).
Thông thường, chúng ta ít khi hài lòng với mình. Ít khi bằng lòng với những gì mình có. Tâm lý này chính là khởi đầu cho những ước muốn, những tham vọng vượt khỏi khả năng, và những gì mình có thể.
Nhưng cũng có những giấc mơ đã biến thành sự thật, đó là những viễn ảnh về xã hội, chính trị, khoa học, hoặc tôn giáo, mà kết quả của nó đem lại những hoa trái tốt. Tuy nhiên, những giấc mơ ấy vẫn không mang ý nghĩa chối bỏ thực tế giới hạn của con người, và nó không thể vượt qua quyền năng của Thiên Chúa.
2. Khỏa lấp khát vọng: Dù là những giấc mơ mang lại những kết quả tốt cho đời sống cá nhân, gia đình, xã hội trong những khía cạnh tâm linh đạo đức, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, hay khoa học. Những giấc mơ bao giờ cũng tạo nên một khoảng trống lớn, và cần được khỏa lấp.
Với những tâm hồn có những giấc mơ tốt đẹp, lành thánh, thí dụ, Chân Phước Têrêsa Calcutta, thì sự khỏa lấp ấy là một đời sống dâng hiến, quên mình, và hy sinh cho những người nghèo khổ, bệnh tật, và bị xã hội bỏ rơi. Ngược lại, đối với những kẻ chỉ mơ ước đạt được những khát vọng của đời tạm này. Thí dụ, giầu sang, sắc đẹp, danh giá, địa vị, và những thỏa mãn cá nhân, thì sự khỏa lấp ấy chính là nhiều tiền, cao danh vọng, chỗ nhất quyền lực, sự thỏa mãn nhục vọng. Nhưng những cái đó càng làm cho tâm hồn họ trở thành trống vắng hơn, thèm khát hơn mà khả năng con người không thể lấp đầy được.
3. Chấp nhận may rủi: Kết quả là những ai mang những giấc mơ hoàn toàn vật chất và trần tục ấy sẽ chỉ tự mình đánh mất bình an. Cũng như Nguyên Tổ Evà, họ sẽ không ngần ngại dơ tay hái và ăn trái cấm, mặc dù biết rằng mình không được phép ăn. Và mặc dù biết rằng, hễ ăn trái đó thì mình sẽ phải chết. Khủng bố, chiến tranh, bạo loạn, và trăm ngàn những căn bệnh xã hội hiện nay là kết quả của những hành động khỏa lấp những giấc mơ bất chính đó.
Tóm lại, phủ nhận những gì mình đang có, muốn làm chủ con người và cuộc sống theo ý mình chính là lý do tạo nên nhiều sa ngã, nhiều thất bại của con người. Vì không muốn chấp nhận mình nghèo mà nhiều người đã trở thành lưu manh, tàn ác, và sẵn sàng làm bất cứ tội ác nào miễn là thoát ra cái cảnh mà họ cho là nghèo. Trong đời sống thiêng liêng, ta gọi là để mình rơi vào những chước cám dỗ.
CHỚ ĐỂ CHÚNG CON SA CHƯỚC CÁM DỖ
Không ai lại không phải đối đầu với những cám dỗ. Tùy theo tâm tính, tùy theo hoàn cảnh sống, những cám dỗ đến với chúng ta mọi nơi, mọi lúc. Có những cám dỗ nhẹ nhàng, nhưng cũng có những cám dỗ nặng nề, mà nếu không có ơn Chúa, con người không thể thắng lướt được. Thí dụ, cám dỗ về những ham muốn nhục dục, chức quyền, địa vị, tiền tài, và danh vọng. Chúa Giêsu cũng đã trải qua 3 cơn cám dỗ mà chung quy, Ngài phải đối đầu với sự ham mê xác thịt, kiêu căng, và địa vị. Nhưng nhất là cám dỗ mà Ngài phải đối diện trước sự vâng phục Thánh Ý Chúa Cha trong vườn Cây Dầu trước giờ khổ nạn. Hẳn là Ngài đã cảm được cái mạnh mẽ, mãnh liệt và ghê gớm của cám dỗ, nên đã dậy chúng ta phải xin với Chúa Cha tránh cho mình khỏi phải rơi vào những cám dỗ: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Sự dữ ghê gớm nhất là tội, mà tội khởi đầu là do cám dỗ. Tránh khỏi cám dỗ là tránh khỏi cái cớ để dẫn ta vào tội lỗi.
Vậy để ý nghĩa Mùa Chay được thể hiện và để Mùa Chay mang lại hoa trái thiêng liêng cho đời sống tâm linh, Kitô hữu chúng ta phải tỉnh thức để khỏi rơi vào cám dỗ: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi rơi vào chước cám dỗ” (Mt 26:41).
Tỉnh thức là sự canh chừng của mỗi cá nhân. Và cầu nguyện là tìm sự hỗ trợ nơi Thiên Chúa.
- Với con người: Với sự tự do mà Thiên Chúa ban cho con người, và dựa vào câu truyện sa ngã tại Vườn Địa Đàng, tự do vẫn là điều hết sức quan trọng. Nó quyết định hành động của con người. Chấp nhận hay không chấp nhận để mình bị rơi vào cám dỗ.
Nhưng chấp nhận hay không chấp nhận cám dỗ cũng là chấp nhận hay không chấp nhận giới hạn của mình. Chấp nhận sống với những gì mình đang có, và biết cảm ơn Thiên Chúa về những hồng ân mà Ngài ban tặng. Cũng trong trình thuật về cuộc sa ngã của Nguyên Tổ, nếu Evà bằng lòng với những gì Thiên Chúa ban. Bằng lòng về sự hữu hạn của mình, và không muốn bằng Thiên Chúa, không phàn nàn về một trái cây mà mình không được ăn, thì Evà đã không bị lừa gạt, và đã không sa ngã.
Chấp nhận giới hạn. Bằng lòng với những gì mình đang có. Đây không chỉ là một thái độ và nếp sống của chúng ta, những thụ tạo hữu hình và giới hạn. Mà tích cực hơn, là biết cảm nhận vai trò thụ tạo của mình, để từ đó, lệ thuộc vào tình thương vô biên của Thiên Chúa. Trong Vườn Diệu Quang, Nguyên Tổ chỉ thấy bối rối, lẩn tránh Thiên Chúa, và thấy xấu hổ vì mình trần truồng sau khi đã chối bỏ cái giới hạn của mình. Sau khi đã để cho ý tưởng và hành động phản loạn lấp vào chỗ trống của tham vọng, của ảo vọng mà chính ra Nguyên Tổ không có.
Tâm lý sống với giây phút hiện tại, với những gì mình có không chỉ là một lối sống mang ý nghĩa thần học, trong đó con người thực hành đúng với ý nghĩa Thánh Kinh: “Hằng ngày dùng đủ”, mà còn làm cho tâm lý con người trở thành thanh thản, lạc quan và nhẹ nhàng hơn trong chính cuộc sống trần thế của mình. Vì người càng nhiều tham vọng, càng gặp nhiều đau khổ: Đau khổ vì không đạt được. Đau khổ vì khi đã đạt được mà mất nó. Và đau khổ vì những nhòm ngó, và ghen tỵ của người khác.
- Với Thiên Chúa: Như vậy, khi ý thức được giới hạn nhỏ bé của mình, và không tự mình đi vào giấc mộng trở thành “Thiên Chúa”, là một lối sống hạnh phúc và bình an. Là một cuộc sống đẹp lòng Thiên Chúa.
Nhưng dù con người muốn sống an phận với mình, thì Satan vẫn không để con người yên. Nó vẫn xúi bẩy và khuấy động cuộc sống con người bằng cách kích thích tự ái, làm tăng thêm trí tưởng tượng, và tạo nên những trở ngại để thách đố niềm tin, sự tín thác, và lòng khiêm nhường của con người. Và đó là lý do Chúa Giêsu dậy chúng ta phải tin tưởng, và cậy trông nơi Thiên Chúa, như chính Ngài đã thức tỉnh các Tông Đồ khi thấy các ông đang đứng trước cám dỗ bỏ thầy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ” (Mt 6:13) .
Thiên Chúa luôn ở sẵn bên ta để giúp ta lướt thắng mọi cám dỗ. Nhưng con người có muốn đến với Ngài, cậy nhờ Ngài để khỏi rơi vào cám dỗ hay không lại cũng tùy thuộc vào sự chọn lựa của con người. Muốn hay không muốn được giúp đỡ.
Tóm lại, khi Giáo Hội mời gọi chúng ta bước vào Mùa Chay tức là mời gọi chúng ta đi vào với thực tại của thân phận con người. Đào sâu về thân phận mong manh của mình, và biết đến với Chúa, phó thác và tin tưởng ở sức mạnh của Ngài hầu mong tránh khỏi và thắng vượt được các cám dỗ.
Chúa Giêsu dậy chúng ta cầu nguyện: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà không cầu cho được thắng cám dỗ. Bởi vì Ngài biết xa tránh, đề phòng khỏi bị rơi vào cám dỗ là điều cần thiết, và là điều với ơn Chúa, con người có thể dễ dàng làm được, hơn là để mình đi vào những cám dỗ mà thắng được nó. Evà đã không bị sa ngã nếu không mon men đến gần cây Biết Lành Biết Dữ giữa vườn. Từ việc mon men đến gần cây cấm, mới nẩy sinh ra sự thèm khát. Và từ sự thèm khát, Evà đã để mình bị rơi vào cơn cám dỗ. Có rất nhiều tội lỗi chúng ta có thể tránh được một cách dễ dàng hơn là chừa nó. Thí dụ, tội cờ bạc, tội dâm dục, tội gian dối.
Lậy Chúa! Để mở đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội đã đưa ra trước mắt chúng con bài học Vườn Địa Đàng và sự sa ngã của Nguyên Tổ. Xin cho chúng con biết tỉnh thức để sa tránh các dịp có thể làm cho chúng con rơi vào những cám dỗ. Và nếu chúng con vì yếu đuối tự đặt mình trước cám dỗ, thì xin cho chúng con biết chạy đến với sức mạnh của tình thương Chúa, hầu tránh cho chúng con xúc phạm đến Chúa và anh chị em chúng con. Xin cho kết quả của Mùa Chay Thánh dẫn chúng con đến niềm vui Phục Sinh là cùng được với Chúa chiến thắng tội lỗi, và được cùng với Ngài sống lại trong vinh quang bất diệt.
Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 – 762). Ông tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế. Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao…
Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.
Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên càng làm ngây ngất lòng thi sĩ. Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên thơ. Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh. Mảnh trăng diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.
Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say đắm lâu nay.
Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.
Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm cười chế giễu ông.
Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.
Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.
Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.
Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dạ i dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.
Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất... rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.
Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.
Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.
Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương v à triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian... nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là ‘Vầng Trăng’ thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”.
Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:
* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban...
* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người...
* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác …
* Khao khát trở nên người công chính,
* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người...
* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công...
* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…
* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm …
Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.
Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.
Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.
Trong những ngày đầu xuân, chúng ta thường mơ ước hạnh phúc và chúc nhau hạnh phúc. Tìm hạnh phúc ở đâu? Ai chỉ cho biết con đường dẫn đến hạnh phúc? Đó là hai câu hỏi của mọi người. Điều ít ai ngờ là đó chính là hai câu hỏi do hai thánh vịnh đã đặt ra từ lâu lắm rồi.
Trong thâm tâm, ai cũng đi tìm hạnh phúc. Người nông dân vất vả cày cấy cũng như người học sinh cặm cụi học hành, tất cả đều đang đi tìm hạnh phúc. Nhiều người vướng vào ma túy cũng vì nghĩ rằng ma túy sẽ mang lại hạnh phúc. Ngay cả người đi ăn cướp cũng đi tìm hạnh phúc: người ấy nghĩ rằng những gì cướp được sẽ mang lại cho mình hạnh phúc. Có người làm đơn xin vào tù: người ấy nghĩ rằng vào tù ít là cũng hạnh ph úc hơn cuộc sống đang có. Thậm chí có người tìm đến cái chết để thoát cuộc sống bất hạnh: người ấy không tìm được hạnh phúc nên không còn thiết sống nữa.
Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? (Tv 15,2). Tác giả thánh vịnh 15 hẳn là sống giữa những người chưa biết Thiên Chúa. Họ thờ các ngẫu tượng, mong các vị thần đem lại cho họ hạnh phúc. Nhưng tác giả ghi nhận: bản thân từng “sùng mộ” những ngẫu tượng; “thiên hạ tới tấp chạy theo” các ngẫu tượng; trong khi ấy, các ngẫu tượng “vẫn gia tăng tàn phá”. Giờ đây, tác giả nghiệm ra chỉ một mình Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc thật cho con người: Chúa sẽ dq5y con biết đường về cõi sống; trước thánh nhan, ôi vui sướng tràn trề; ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi. Con người thời nay không chạy theo các tượng bằng gỗ đá, nhưng vẫn tôn thờ các thần tượng thể thao, ca nhạc, điện ảnh, tiền bạc, danh vọng, quyền lực… Nhưng càng ngày những người biết thức tỉnh càng ý thức con người không chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn có nhu cầu văn hóa và nhu cầu tâm linh nữa. Các thứ thần tượng ấy chỉ đem lại thỏa mãn hời hợt và mau qua. Thánh Âutinh viết: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên con khắc khoải cho tới khi tìm được an nghĩ trong Chúa.” Câu hỏi đặt ra cho tôi hôm nay là tôi có tìm được hạnh phúc nơi Thiên Chúa chưa. Có thể tôi vẫn “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt?” Sau những loanh quanh và mỏi mệt, xin cho tôi chia sẻ xác tín của tác giả thánh vịnh: Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?
Biết bao kẻ nói rằng: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4,7). Chúa GiÍ ?su là một con người hạnh phúc và Chúa chỉ cho ta những con đường để đạt tới hạnh phúc. Điều khó là chúng ta thường muốn tìm những thứ hạnh phúc dễ dãi, trong khi Chúa chỉ cho chúng ta đâu là hạnh phúc sâu xa và bền vững. Khi sống những mối phúc thật, trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, chúng ta sẽ nghiệm ra thế nào là hạnh phúc thật và ai là người chỉ cho chúng ta thấy hạnh phúc. Và qua chính cuộc sống hạnh phúc của mình, chúng ta trả lời cho thắc mắc của biết bao người về hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ cho chúng con thấy đâu là hạnh phúc, và Chúa đã theo con đường ấy đến cùng. Xin giải thoát chúng con khỏi những thần tượng thời nay và bước theo Chúa để tìm được hạnh phúc thật cho bản thân cũng như cho bao anh chị em khác.
Cuộc đại họa động đất và sóng thần tại Nam Á ngày 26.12.2004 vừa qua, là biến cố kinh hoàng không thể hiểu nổi, càng không bao giờ có thể tưởng tượng, dẫu là trong tư tưởng của người giỏi tưởng tượng nhất. Bởi có đến hàng trăm ngàn sinh mạng con người, bao nhiêu nhà cửa, tài sản, cả đến những miền đất, những hòn đảo, chỉ trong vài cái nháy mắt, tất cả đều vùi mình trong lòng biển khơi, bị xóa sạch, mất hết mọi dấu tích. Đến hôm nay, dù đã trải qua gần một tháng, thế giới như còn chưa hết sửng sốt, chưa lắng nổi sự bàng hoàng sợ hãi.
Vì sao nhân loại lại phải gánh chịu những tai ương khủng khiếp đến thế? Trong khi câu trả lời còn đang bỏ ngỏ, thì hôm nay, suy niệm bài Tin Mừ ng về Tám mối Phúc thật được thánh Mathêu ghi lại, tôi càng thấy vấn đề nan giải hơn. Bởi Tám mối Phúc, theo cái nhìn bình thường của một người bình thường, chẳng “phúc” một chút nào. Ngược lại, đó chỉ là tai ương, là khốn khổ. Làm sao có thể chấp nhận được khi bảo rằng người nghèo, người hiền lành, người đau khổ, người bị bách hại… lại là người có phúc? Chẳng những là phúc, còn hơn cả phúc bình thường, đó là “Phúc Thật”? Nếu những người phải sống trong cảnh lầm than, tai ương và khốn khổ là Phúc thật, thì tất cả những nạn nhân, thân nhân, gia đình của các nạn nhân, các quốc gia bị đại họa động đất và sóng thần tàn phá vừa qua lại là Phúc thật đấy sao? Nếu là Phúc thật, liệu chúng ta có dám đối diện cách trực diện với những anh ch ị em đang đau khổ này và hô to với họ: “Anh chị em ơi, anh chị em là người đau khổ, anh chị em có phúc lắm, Phúc thật đấy”? Tôi không tưởng tượng nổi họ sẽ phản ứng như thế nào về lời “chúc phúc” của chúng ta. Hay ta chỉ là một kẻ điên, điên không ai bằng?
Đúng là đau khổ, mãi mãi vẫn chỉ là đau khổ. Đó là huyền nhiệm lớn, luôn diễn ra trong đời sống nhân loại và trong cuộc đời của từng người. Huyền nhiệm về đau khổ lớn đến mức bao nhiêu người, trải qua bao nhiêu thế hệ, không ngừng cố gắng đi tìm lời giải đáp, vẫn chưa bao giờ nhận được câu trả lời thỏa đáng, khả dĩ giúp mình hiểu hay thoát khỏi đau khổ. Chỉ biết rằng, đau khổ tự lúc nào đã trở nên bạn thân của con người, dù con người vẫn coi đó là điều khiên cưỡng, buộc l òng phải chấp nhận. Bởi vậy, sống trong đau khổ, lại bảo là phúc, chỉ có những kẻ rồ dại mà thôi. Phúc đâu chẳng thấy, chỉ thấy tan cõi nát lòng.
Nói như thế, hóa ra Chúa Giêsu chỉ là một kẻ rồ dại khi dạy ta không chỉ những điều nghịch lý mà còn mâu thuẫn? Hay Lời Chúa không có chân lý, không đáng chấp nhận, càng không đáng tin? Hay Chúa chỉ là một kẻ khoác lác, ảo tưởng, lừa bịp…?
Nếu chỉ suy nghĩ lời dạy của Chúa Giêsu tới đó, nghĩa là chỉ nhìn vào khía cạnh chủ quan của con người để hiểu Lời của Người một cách áp đặt bởi chính những suy nghĩ của mình mà thôi, con người nông cạn không thể tưởng, nếu không muốn nói chính họ là kẻ rồ dại. Càng thiếu sót hơn, nông cạn hơn, nếu chỉ đứng ở góc cạnh của chính mình, áp đặt lối suy n ghĩ vô cùng giới hạn, nông nổi ấy, mà phê phán giáo huấn của Chúa Giêsu, điều mà rất nhiều người đang làm, có khi còn dạy người ta lối suy nghĩ nhỏ bé ấy nữa. Ngược lại, sứ điệp của Chúa Giêsu chỉ có thể được đặt trong tương quan đích thực với Thiên Chúa mới mong có thể phần nào hiểu được những gì mà sứ điệp ấy gợi lên. Các mối Phúc mà Chúa Giêsu dạy, nằm trong chiều hướng này. Nó là tất cả mục đích, là hệ quả của lòng tin nơi con người. Vì giáo huấn của Chúa Giêsu, cuối cùng chỉ quy về lòng tin vào Phúc thật. Nếu không nhắm đến Phúc thật, chắc chắn đã không có Lời của Thiên Chúa trao ban cho con người.
Vì Phúc thật do Chúa Giêsu mang đến tập trung vào ý nghĩa tôn giáo nên Phúc thật thuộc lãnh vực đức tin. Hơn nữa, Phúc thật loan báo một cuፊ??c sống trường cửu bên kia cái chết, điều mà chỉ có đức tin mới có thể trả lời. Bởi đó, chỉ những ai có lòng tin mới có thể lãnh hội. Đứng ngoài lòng tin, người ta trở nên dốt nát trước sứ điệp nói chung và Phúc thật của Thiên Chúa nói riêng.
Muốn khám phá ý nghĩa trong Lời giáo huấn của Chúa Giêsu, ngay cả khi có kẻ dám phê phán Lời ấy đi nữa, người ta chỉ có thể hiểu đúng, phê phán đúng, khi con người chấp nhận đức tin. Vì nếu phê phán một ai đối với hành vi nào của họ, đừng áp đặt lối suy nghĩ, não trạng, cách nhìn, cách hiểu biết của cá nhân mình, nhưng hãy đặt mình vào chính họ, may ra mới hiểu đúng về họ. Bình diện con người với nhau đã phải như thế, huống hồ Lời mạc khải của Thiên Chúa. Giáo huấn của Chúa Giêsu là lãnh vực của đፊ??c tin, là lời được mạc khải chứ không phải sản phẩm của trí tuệ. Vì vậy đừng lấy trí tuệ nhìn vào lãnh vực linh thánh, nhưng hãy lấy lòng tin, sự khiêm nhường của một tạo vật nhỏ bé là chính bản thân con người, để khám phá phần nào giáo huấn và các mối Phúc của Chúa Giêsu. Làm được như thế, may ra người đương thời mới có thể nhận định hoặc phê phán Lời Thiên Chúa cách nào đó (chứ chưa chắc đã hoàn toàn khám phá hết), vì đó là Lời Thiên Chúa chứ không phải lời con người. Bằng không, họ chỉ là kẻ nhất thời, hàm hồ, nếu không muốn nói là hồ đồ.
Chính lúc bắt đầu tin, là lúc người ta bắt đầu khám phá Lời của Chúa mình, bắt đầu khám phá chính Chúa của mình, khám phá tình yêu nguồn mọi thứ yêu đương, Thiên Chúa dành cho mình. Hãy tin đi, bạn sẽ nhận ra Phúc thật. Phúc thật chỉ dành cho người dám tin, dám sống chết cho đức tin ấy. Bởi chính khi tin đã là Phúc. Vì thế, càng phúc hơn và chính là Phúc Thật cho người đau đớn, rủi ro mà vẫn tin, vẫn một lòng yêu mến Chúa.Như vậy, trong bối cảnh của người phải bước đi trong tối tăm của khổ đau, của vùi giập vì bất hạnh, mất mát, cụ thể là nạn nhân của động đất và sóng thần chúng ta vừa đề cập, vẫn chất chứa một ánh sáng ở của niềm hy vọng. Đặc biệt, nhìn về góc cạnh của đức tin Kitô giáo, và lắng nghe chính lời giáo huấn của Chúa Giêsu, Giáo Hội không bi quan, nhưng tin tưởng; người có đức tin không hề thối chí, nhưng nhận ra Thiên ý cần thiết để giáo dục con người; giáo dục lòng tin đang bị mài mòn của thế giới; giáo dục tình yêu, sፊ?? tương trợ của lòng người dành cho nhau… Đó cũng là bài học nhằm giáo dục lòng mến yêu những giá trị linh thánh, những giá trị siêu phàm, là những giá trị làm nên lẽ sống của thế giới, của mỗi một cá nhân giữa lúc mà thế giới giải thiêng và nhiều người chối từ những thực tại thuộc về lòng tin, chỉ chấp nhận lối sống thực dụng và thực nghiệm.
Hơn nữa, lòng tin cho ta biết đau khổ mang chiều kích vĩnh cửu. Lòng tin sẽ cho ta niềm an ủi lớn lao giúp ta thêm nghị lực, vững vàng hơn, trưởng thành hơn, bình tĩnh hơn, bớt bi quan hơn. Với đức tin, người ta có thể nhờ chấp nhận nỗi bất hạnh mà mình đang phải mang vác làm phương tiện thánh hóa chính mình và thánh hóa anh chị em. Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người đã là người tiên phong mặc cho đau khổ ý nghĩa c ủa ơn cứu độ đời đời, khi tự nguyện khoác lấy đau khổ cho mình. Vì thế, trong đức tin, ta thấy nỗi đau làm cho mình nên giống Chúa hơn. Bởi vậy, khi Đức Maria liên tục xin vâng để vác thập giá bước đi bên cạnh Con mình, Mẹ đã dạy ta tháp nhập thập giá đời mình vào thập giá Chúa Kitô, để như Mẹ, đau khổ của ta mang ý nghĩa tuyệt đối và cánh chung.
Phúc là đấy, là tất cả những gì chúng ta đã nói, và còn hơn thế, vì những gì đã nói chưa phải là đầy đủ nhất về ý nghĩa của đau khổ. Phúc là khi ta biết mình chỉ là một thụ tạo bé nhỏ, lại được Thiên Chúa chia sẻ kiếp làm người với ta, lại có thể khám phá Lời Thiên Chúa, khám phá dung mạo đích thực của đau khổ, được người chấp nhận chính thân phận khổ ải, một thân phận tưởng như rất nhỏ bé, được Chúa yêu thương như yêu chính “con ngươi trong mắt Chúa”. Phúc vì trong đau khổ, thế giới biết xóa bớt những khoảng cách chia cắt, biết nắm lấy tay nhau tương trợ, giúp nhau xây dựng lại cuộc sống từ trong đổ nát. Phúc vì trong nỗi đau của đời mình, khi không còn biết cậy dựa vào ai, hay vào bất cứ cái gì, người ta biết tin tưởng vào Chúa, phó thác cho Chúa hơn. Phúc vì biết rằng, Chúa vẫn luôn giáo dục bằng mọi cách thế, trải dài trên dòng thời gian, để gìn giữ chính ơn cứu độ của ta, gìn giữ ta trong tình yêu của Người. Với đức tin, một thụ tạo nhỏ bé lại có thể sống đời đời với Chúa của mình. Với đức tin, ta luôn tìm thấy nguồn bình an lớn lao nơi chính Thiên Chúa, điều mà không có bất cứ nơi nào có thể bù đắp đến như vậy. Và trên hết tất cả những phúc ấy chính là Phúc thật, khi một tâm hồn thánh thiện, biết mang theo những đau khổ trong cuộc sống trần gian của mình tiến vào sự sống của chính Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Thiên Chúa không hứa ban cuộc sống dễ dãi. Bởi đó, ai nghĩ rằng, cuộc sống này đã quá lao đao, khổ nhọc, bây giờ đi tìm Thiên Chúa để được Người giải thoát khỏi những bất hạnh đời thường, người đó thất bại. Cuộc sống thực tiễn, và hạnh phúc của nó không là mục đích tôn giáo nhắm tới. Mục đíc của tôn giáo chínhlà đưa con người tới Phúc thật. Bởi vậy, bước theo Chúa, con người hãy cộng tác với ơn Chúa, để sống trọn cuộc đời mình. Có như thế, ta mới dám nói như Chúa Giêsu đã dạy: Phúc thật cho người nghèo khó, người hiền lành, người đau khổ, ngưọ ?i đói rét, người biết thương xót, biết xây dựng hòa bình. Phúc thật cho người sống trong sạch, và bất cứ những ai bị bách hại vì lẽ sống, vì chính đạo. Nói cho cùng: Phúc thật cho bạn và cho tôi vì đã tin và đã sống các mối Phúc của Chúa Giêsu. Lm.Vũ Xuân Hạnh
Bát phúc là khúc mở đầu của bài diễn từ trên núi, diễn từ đầu tiên trong Tin Mừng Mathêu, bài diễn từ nhắm đến sự hòan thiện mới thay thế cho sự công chính cậy nhờ vào lề luật cũ. Mối phúc là một thể lọai văn chưuơng rất thịnh hành trong Cựu Ước, nhằm tán dương các hạnh phúc mà con người tìm thấy nơi Thiên Chúa. Hạnh phúc này là hạnh phúc chân thật, Thiên Chúa hứa ban cho con người trong cõi đời đời. Hình thức mà ta thường gặp là hình thức ở TV 41,2: “Phúc cho người biết lo đến kẻ hèn mọn, nghèo khó vì vào ngày họan nạn, Giavê sẽ giải thóat họ”. Bài giảng nhấn mạnh đến bát phúc, nên ta có thể hiểu rằng sứ điệp của Chúa Giêsu được tóm gọn trong 8 mối phúc này và phần thưởng của nó là đưọ ?c hưởng phúc trên quê trời.
1/ Nghèo theo quan niệm của người xưa:
Chúa Giêsu dậy rằng Nước Trời đang hiện diện trong mối phúc thứ nhất: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Thế nhưng trước lưu đầy người ta quan niệm sự nghèo hèn là một điều xấu xa, là hình phạt Thiên Chúa giáng trên tội nhân và ngược lại…Nhưng trong thời lưu đầy người ta thấy kẻ gian ác lại giầu có và là kẻ thống trị, còn người lành lại nghèo khổ và bị ức hiếp. Từ đó người ta đổi quan niệm và cho rằng người nghèo hèn là của Đức Giavê, đó là những tín hữu của Đức Giavê, những người cậy trông vào Thiên Chúa và tin tưởng vào Ngài. Như thế, người nghèo, người đói khổ vừa có ý nghĩa xã hội ( nghèo tiền bạc, nghèo vật chất) vừa có ý nghĩa tôn giáo( nghèo trong tinh thፊ??n: tức là ý thức mình lệ thuộc hòan tòan vào Thiên Chúa và chờ đợi sự cứu giúp của Người ). Chúa Giêsu đã xử dụng cả hai ý nghĩa trên.
Người nghèo tạo thành một giai cấp bị đàn áp về phương diện xã hội. Còn về phương diện tôn giáo, những kẻ khốn cùng ấy thật đáng tán dương, vì họ đã ý thức được sự khốn cùng của thân phận con người trong việc giải thóat chính mình. Chính cái ý thức ấy đã giúp họ quay cái nhìn về Thiên Chúa và cậy trông vào lòng thương xót của Người hầu được hưởng ơn cứu độ. Tâm hồn và con người của họ luôn luôn sắp sẵn và rộng mở đón chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thái độ ấy đã được Đức Kitô tán dương và hứa ban cho niềm vui Nước Trời.
2/ Nghèo theo quan niệm của Mathêu:
Đối với Mathêu khi nói č ?ến tinh thần nghèo khó, rõ ràng ông muốn nhấn mạnh đến tinh thần, chứ không đề cập đến một giai cấp xã hội nghèo khổ. Ta cũng không thể hiểu được sự nghèo khó ở đây là đối tượng của tinh thần. Nghèo khó tinh thần chính là nghèo khó về phương diện tôn giáo. Đây chỉ là một thái độ căn bản của con người trước mặt Thiên Chúa. Trước mặt Ngài, chúng ta là không, là kẻ tội lỗi, nghèo hèn, luôn phải cậy trông vào sự cứu độ của Ngài. Chính cái ý thức nghèo hèn đó phải giúp họ tìm cách vươn lên khỏi thân phận tội lỗi của chính mình mà hướng về Thiên Chúa.
Tóm lại đây là tinh thần của những người khiêm nhu, của những trẻ thơ. Thái độ này hòan tòan đối nghịch với thái độ kiêu căng của bọn giầu có, cho mình là hòan tòan đầy đủ, không cần đẍ ?n sự trợ lực của Thiên Chúa nữa. Và mọi thái độ của chúng ta đối với vật chất của cải đều phải dựa vào căn bản của sự nghèo khó tôn giáo ấy. Thái độ này hợp với quan niệm người nghèo của Đức Giavê, tức là người nghèo theo nghĩa tôn giáo. Cũng hợp với lập trường của Chúa Giêsu: Hãy tìm hiếm Nước Thiên Chúa trước. Và hợp với chủ trương của sách Tin Mừng là sách dậy chúng ta về Thiên Chúa, cũng như không tán dương sự nghèo khó vì là nghèo khó.
3/ Sứ điệp Tin Mừng:
Trong lúc mọi người khao khát hạnh phúc, thì Đức Kitô đến trả lời cho ta sự chờ mong ấy. Ngài nói cho ta hay, ai thực sự là kẻ hạnh phúc nhất trần gian này ? Đó không phải là những kẻ giầu có, quyền thế…mà là những kẻ khó nghèo, khiêm nhu, bất hạnh, bị bắt bớ…Các Thánh n hân thực sự là những kẻ hạnh phúc vì họ đã sống theo Tin Mừng, dù trong đau khổ, họ vẫn có thể nói như Thánh Phaolô “ Tôi vui sướng giữa những gian truân, bách hại…”. Đối với người Kitô hữu đau khổ và niềm vui không còn xung khắc nhau vì Đức Kitô, nhờ đó tạ được gần gũi và giống Ngài hơn.Ta có một mối phúc tổng quát: Phúc cho những ai giống Đức Kitô đã sống trọn vẹn các mối phúc: nghèo, khiêm hạ, kiến tạo hòa bình và bị bách hại, và nhờ đó ta được cùng Ngài thống trị trong vinh quang.
Lạy Chúa, bài giảng bát phúc gồm tóm những nguyên tắc nghịch lý, mâu thuẫn với bản tính tự nhiên của con người. Xin Chúa ban sức mạnh và trợ giúp chúng con, để mỗi người sống đúng và thực hành bản “ Hiến chương Nước Trời” một cách tích cực qua công việc làm. Nhờ đó, chúng con đáng được hưởng bát phúc không những ở đời sau mà ngay từ đời này.
Bài Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của Bài Giảng Trên Núi. Qua đó tác giả Matthêu cho thấy Đức Giêsu quả thật là vị tân lãnh đạo của dân mới của Thiên Chúa. Như xưa ông Môsê từ núi Sinai mang mười giới răn của Thiên Chúa công bố cho dân Ít-ra-en như thế nào, thì nay Đức Giêsu cũng công bố luật mới của Thiên Chúa như được kiện toàn nơi bản thân Người như vậy. Dân mới của Thiên Chúa bao gồm tất cả những người được Đức Giêsu mời gọi trở nên môn đệ của Người. Lời mời gọi ấy không loại trừ một ai như thấy rõ qua mệnh lệnh cuối cùng của Đức Giêsu trước khi về trời, là: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,18-20).
Ngay với bài giảng đầu tiên này đối tượng đã là quảng đại quần chúng, tuy gần gụi nhất bên cạnh Đức Giêsu là các môn đệ (c.1), trong đó có bốn người đầu tiên là các ông Anrê, Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, được Đức Giêsu gọi trong khi hành nghề đánh cá nơi biển hồ Galilê (Mt 4,18-22). Vậy Đức Giêsu không đòi hỏi người nghe phải là những người có trình độ nào về học thức tuy ơn đức tin đối với Giavê Thiên Chúa phải được hiểu ngầm. Ơn ấy nay phải được nới rộng để qui về Đức Kitô bởi lẽ Chúa Cha đã trao phó mọi sự nơi Đức Giêsu. Và không ai biết rõ người Co n, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho. (x.Mt 11,27).
Đức Giêsu cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa
Vậy dựa vào thẩm quyền từ trời cao, Đức Giêsu đến cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,16). Ngài không đứng trung lập nhưng nghiêng hẳn về những kẻ bé nhỏ; Ngài không loại bỏ người giầu, nhưng buộc người giầu phải được hoán cải để tham dự vào Tình Yêu Thiên Chúa là đặt mình phục vụ người nghèo. Chính Đức Giêsu nêu gương phục vụ suốt đời mà cử chỉ quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17) chỉ nói lên được phần nào mà thôi.
+ Thực ra, chính cuộc đọ ?i hy sinh và tự hạ cho tới cái chết nhục nhã của Đức Giêsu biểu lộ tình yêu Thiên Chúa, làm nên Nước của Thiên Chúa. Ai đón nhận cái nghèo đó của Đức Giêsu thực sự là đón nhận chính Tình Yêu từ trời cao nên sở hữu được Nước Thiên Chúa.(c.3).
+ Ai chấp nhận gương hiền hậu và khiêm nhường của Đức Giêsu (x.Mt 11,28-29) sẽ được đất hứa làm gia nghiệp (c.4).
+ Ai chấp nhận nỗi sầu khổ của Đức Giêsu tại vườn Ghết-sê-ma-ni (x.Mt 26,36-46) là nỗi sầu khổ cứu mình khỏi tội, người đó sẽ được chính Thiên Chúa ủi an (c.5)
+ Ai ước ao giữ trọn đức công chính theo gương Đức Giêsu (x.Mt 3,15), người đó sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng (c.6).
+ Ai biết noi gương Đức Giêsu, Đấng đã xin với Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ đóng đinh mình trên thập tự, người đó đã được Thiên Chúa xót thương vì được Ngài cho nên giống Con của Ngài (c.7).
+ Mối phúc được nhìn thấy Thiên Chúa phải là mối phúc do chính Đức Giêsu thông ban theo lời Người tuyên bố rằng: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (c.8; x.Mt 11,27).
+ Mối phúc làm con Thiên Chúa (c.9) nhất thiết cũng phải do chính Đức Giêsu là “con yêu dấu của Thiên Chúa” (Mt 3,17); chính nhờ tham dự vào sự sống, sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu, ta xây dựng bình an đích thực và dự phần vào tư cách làm Con Thiên Chúa của Đức Giêsu.
+ Mối phúc cuối cùng (cc.10-12) chỉ là việc ta kết hiệp mật thiết với chính Đấng thiết lập nên Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài là Đức Giêsu Kitô: “Nào Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang ư?” (Lc 24,25).
Vậy bài giảng về các mối phúc thật ra cũng chỉ qui về một mối phúc chính là tình yêu Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu làng Nadarét. Tình yêu ấy khi xuất hiện trong bối cảnh văn hoá xã hội Do thái đã chọn đứng về phiá người nghèo.
Đức Giêsu đứng về phía người nghèo
Luca cho thấy Đức Giêsu nhắm thẳng đám người nghèo đó khi nói với họ: Phúc cho anh em là những kẻ khó nghèo, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em, những người đang đói khát, vì anh em sẽ được no lòng. Phúc cho anh em, những người đang phải than khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em, những người đang bị ghét bỏ, hất hủi, sỉ nhục…(x.Lc 6,20-22).
Liền sau đó, Luca đưa ra những lời bá o dữ đối với những người giầu có, no phỉ, những kẻ đang vui sướng cười cợt, đang được thiên hạ tán dương (x.Lc 6,24-26).
Nhưng Đức Giêsu đã không dừng lại ở lối nói suông. Người minh chứng bằng hành động cụ thể về nội dung Nước Thiên Chúa dành cho người nghèo, bằng cách bày tỏ lòng ưu ái đặc biệt hai thành phần thời đó đang bị gạt ra bên lề xã hội, đó là những người bệnh tật và những người không có quyền công dân.
Các sách Tin Mừng nêu hai loại người bệnh, đó là kẻ tàn tật và kẻ bị quỉ ám. Tàn tật gồm những chứng bệnh có thể quan sát được như mù, què và những thứ bệnh da liễu, nhất là phong hủi. Đó là những người hết còn lao động được, nên xã hội kể là thành phần “ăn hại” vì sống dựa vào người khác.
Còn “bị qu ỉ ám” chủ yếu là những người mắc bệnh tâm thần, động kinh, dễ té xỉu và được kể là bị quỉ vật. Người câm và điếc cũng được kể là bị quỉ ám. Người phụ nữ còng lưng thì được kể là bị “quỉ còng” ám (x.Lc 13,10-15). Chẩn bệnh kiểu đó khiến ta nực cười nhưng nó cho thấy não trạng của người thời ấy kể bệnh nhân nằm dưới quyền lực của ma quỉ nên thường xuyên bị coi là ô uế nên không được tham gia việc thờ phượng nơi Đền Thờ.
Khi chữa bệnh Đức Giêsu phục hồi lại phẩm giá của bệnh nhân, cho họ được tham gia Nước Thiên Chúa. Họ không còn bị gạt ra bên lề nữa, nhưng ở ngay tâm điểm của Tình Yêu Thiên Chúa.
Ngoài hạng người bệnh tật, nhiều thành phần khác cũng bị gạt sang một bên, thời Đức Giêsu.
- Thứ nhất là đà n bà, con trẻ: Hoàn cảnh phụ nữ tại Áp-ga-nit-tăng ngày nay chỉ là hình ảnh nối dài của phụ nữ vùng Trung Đông xưa. Họ phải nhốt mình trong nhà. Khi ra đường, họ phải lấy khăn che mặt và không được mở miệng nói với đàn ông. Vợ lệ thuộc chồng tới mức có thể bị chồng sa thải vì bất cứ lý do nhỏ bé nào, chẳng hạn như nấu cơm khê.
Sự kiện Đức Giêsu cho một số phụ nữ tháp tùng Người trên đường đi rao giảng Tin Mừng cùng với nhóm Mười Hai, quả là điều mới mẻ về Nước Thiên Chúa. Cũng là điều gây ấn tượng không nhỏ khi Đức Giêsu đòi các môn đệ phải hoán cải để trở nên như trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Thiên Chúa (Mt 18,9).
- Thứ hai là những người làm nghề bất lương: Hạng người này bao gồm không những người thu thuế như Lêvi (Mc 2,14), mà cả những người chép mướn, những người thợ dệt (hai loại này bị ngờ là “bất hảo” vì tiếp cận với phụ nữ), người đổi tiền, cầm đồ, đánh cờ, chăn súc vật (mang tiếng cho súc vật ăn lấn sang đất kẻ khác).
Vậy để hưởng các mối phúc thật như Đức Giêsu dạy ta hôm nay, ta cần nhìn thẳng bản thân Ngài như chính Ngài thể hiện các mối phúc đó. Không có điều gì Ngài dạy ta mà Ngài lại không làm gương cho ta. Không có giá trị nào về Nước Thiên Chúa được Ngài nêu lên, mà chính Ngài không trả giá bằng việc hy sinh chính mạng sống mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn đọc Mt 5,1-12 và Lc 6,20-26 về các mối p húc thật thì nhận thấy những khác biệt nào? Tại sao?
2. Đức Giêsu không dạy ta về bất cứ mối phúc nào mà chính Ngài lại không nêu gương cho ta. Bạn thấy tấm gương nào của Chúa Giêsu về các mối phúc giúp bạn hơn cả?
3. Khi Đức Giêsu nói “Phúc cho anh em là những người nghèo…(Lc 6,20), Người có ý nói về: Bệnh nhân? Người tàn tật? Kẻ bị quỉ ám? Đàn bà và trẻ con? Người thu thuế? Người chép mướn? Người thợ dệt? Người đổi tiền? v.v… tại sao?
Hai trong bốn tác giả Phúc âm tường thuật các mối phúc trong phần mở đầu cho bài đại diễn từ cương lĩnh của Đức Giêsu. Theo thánh Luca, bài diễn từ quan trọng này diễn ra "ở đồng áng”, vào lúc quan trọng nhắt của sứ vụ Đức Giêsu ở Galilê, trái lại theo thánh Mátthêu, nó diễn ra vào buổi đầu của sứ vụ Chúa Giêsu ở Galllê, và ở trên núi tượng trưng núi Sinai nơi Môsê mới sẽ công bố Lề Luật của Giao ước mới. Bốn mối phúc tương ứng với bốn lời chúc dữ theo trình bày của Luca chắc chắn gần với chính lời của Chúa Giêsu hơn tám mối phúc của Mátthêu vì Mátthêu nhằm áp dụng giáo huấn đích thực của Chúa Giêsu vào thực tại đời sống Kitô hữu nơi các cộng đoàn của ngài. Hạnh phúc mà các mối phúc công bố cũng như hạnh phúc cho những người sống các mối phúc này trong những hoàn cánh cụ thể của cuộc đời: “Phúc cho ai có lòng khó nghèo!...Phúc cho ai hiền lành!... không phải do chinh phục mà được, nhưng là ơn huệ Thiên Chúa ban qua con Ngài là Đức Giêsu Kitô. Họ được ban tặng hạnh phúc này ngay rừ bây giờ: “Nước Trời là của họ”. Hạnh phúc ấy sẽ triển nở dưới ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của các con sẽ lớn lao trên trời”. Cl. Tassin chú giải: “hạnh phúc” trong Kinh thành là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét. (Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr. 58).
2. của một hiện tại nhào nặn tương lai.
Bốn mối phúc đầu của Mátthêu tương tự nhau: ca ngợi người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối mọi bạo lực.
Phúc cho ai có lòng khó nghèo: vì Nước Trời là của họ. “Sự khó nghèo” mối phúc này nhắm tới không phải là sự khó nghèo về vật chất ; nhưng là thái độ tinh thần của một người nghèo rự nhận mình không có quyền hành gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của người cha. Potel chú giải: “Người Kitô hữu trước hết nhìn nhận rằng mình đã mãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa mà Đức Giêsu dạy phải nhận ra và yêu mến Ngài như người. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm lặng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Một điều nghịch lý là sự khiêm nhường triệt để này lại tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thực vậy, phẩm giá này còn dựa trên sự giầu có cũng như nhận đức tính nhân bản nhưng trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu! (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centuion. 1994, tr. 146-147).
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu thánh vịnh 36: “những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”.
J. Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có một phương tiện thể lý hoặc pháp lý nào được bảo vệ vụ kiện của mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta nói nó là kết quả của sự không dùng bạo lực (sách đã dẫn, tr.147)
Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được an ủi dĩ nhiên phải hiểu là: họ sẽ được Thiên Chúa an ủi bởi vì các nhà chuyên môn gọi thì thụ động ở đây là thì phụ động thần học. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một tia hy vọng: Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách. (Sách đã dẫn).
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh. Sự công chính có mối phúc thứ bốn được hiểu là tự điều chỉnh tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã lành Thiên Chúa ở đây là đấng đã đến gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện sự công chính”. Đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại (Sách đã dẫn).
Họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng Người Kitô hữu hiểu rằng cuối đời họ sẽ nhận được sư sống sung mãn từ Thiên Chúa giao ước. Và theo họ, nếu đời sống đạo đức bắt nguồn từ Thiên Chúa thì nó cũng sẽ hoàn tất nơi Ngài. Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô.
Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân rừ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Giêsu học biết tha thứ những xúc phạm, trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chinh trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm, giữa hành vi và động cơ sâu xa của nó. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa! Jean Potel giải thích: Đối với cuộc sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hoà hợp và an lành không đủ. Ngài đòi hỏi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, một công đoàn Kitô hữu, giữa các nhóm xã hội cũng như các dân tộc. Hòa bình không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Nhưng người đời sống hòa bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiện vụ của con là tiếp tục công việc của cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hòa bình đến cho con người. (Sách đã dẫn. tr. 148 ).
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ!”. Trung thành thân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong Các Mối Phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của ngài là những người nghèo thực sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.
Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận ngài hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình ; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều Đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”. (sách đã dẫn, tr. 149).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Lắng nghe lời Đức Giêsu trong tương quan sống động với con người của Ngài”.
(Đức Cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần”, Desclée de Brouwer, 1994, tr.43-44).
Mấy lời dẫn nhập và "diễn từ" của Đức Giêsu được tập hợp lại trong bài “diễn từ”: "Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng". Ta đừng khinh thường bỏ qua những hàng này. Nhờ chúng, toàn bộ diễn từ theo sau mới có ý nghĩa, bởi vì bài diễn từ này không chỉ đơn giản là một chuỗi những câu trống không nói lên những qui tắc về một lối sống đạo đức. Nó là lời của Đức Giêsu: Người mở miệng dạy họ rằng. Đừng quên con người Đức Giêsu. Ngài nói với đám đông và đám đông phản ứng: ở cuối bài giảng trên núi, tác giả Tin Mừng nói với chúng ta: "Khi Đức Giêsu Giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của Ngườ, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ." (7,28-29) Điều đánh động đám đông không phải là giáo thuyết nhưng là con người của Đức Giêsu và thẩm quyền nơi lời của Ngài.
Chúng ta cũng vậy, hãy nghe lời Đức Giêsu không như những chân lý ngàn đời, nhưng trong mối tương quan sống động, với bản thân Ngài. Chính con người của Ngài làm cho giáo huấn của Ngài có thẩm quyền. Chiêm niệm những gì mình đọc là điều cần thiết, đừng chỉ suy tư về vẻ đẹp và về những đòi hỏi trong lời Đức Giêsu nói. Thẩm quyền lời Đức Giêsu biến thành một bảng xét mình cũng không đúng. Vì như vậy, lời Chúa sẽ trở thành một đối tượng chiếm hữu, một phương tiện sử dụng... để tạo dựng một đời sống tốt lành, một sự hoàn thiện cho chúng ta, như những người Biệt phái. Trái lại, chúng ta phải đón nhận lời từ miệng Đức Giêsu, phải chăm chú điều Ngài muốn nói với chúng ta... chứ không phải vào điều mà những lời này nói với chúng ta, vì làm như vậy có nguy cơ là những lời này chúng nói gì với chúng ta! Một nguy hiểm nghiêm trọng là ta thường đọc Tin Mừng chỉ như một bản văn đơn thuần, như một đối tượng để biến thành phương tiện sử dụng. Tin Mừng là nơi gặp gở, nơi lắng nghe. Khi ta không hiểu rõ lời Ngài nói chúng ta có thể xin Ngài giải thích để ta hiểu. Khi ta không thể thực hiện được điều Ngài đòi hỏi, ta xin Ngài giúp đỡ gặp gỡ Đức Giêsu, nghe Ngài, cầu xin Ngài cho ta có tai để biết nghe, cho ta sức mạnh để thực hiện, đó là cách ta đọc Tin Mừng. Ta hãy lắng nghe những gì Đức Giêsu nói trong bài diễn từ trên núi này. Cầu xin Ngài cho chúng ta hiểu lời Ngài dạy và đem ra thực hành.
2. “Các mối phúc: lời hứa và món quà hạnh phúc”.
(J. Guillet, trong ‘Đức Giêsu trong đức tin của những môn đệ đầu tiên’ Dédée de Brouwer, 1995, tr. 96-97).
“Khi mở đầu sứ điệp của Ngài bằng các mối phúc, Đức Giêsu không muốn phác họa một còn đường đưa đến hạnh phúc, một lộ trình buộc ta phải theo, nhưng Ngài hứa: một quà tặng mà chỉ có Ngài mới có thể ban. Ngài không bảo ta đi tìm hạnh phúc hay chờ đợi nó. Đây chỉ là sư mơ ước theo tính toán của ta, niềm hy vọng phát sinh từ những ước muốn của ta. Ngay trước khi công bố các mối phúc, Đức Giêsu đã kêu gọi dân chúng sám hối và tin tưởng, anh em hãy sám hối là tin vào Tin Mừng! Khi mời gọi sám hối và công bố Tin Mừng trọng đại, Đức Giêsu xuất hiện như một tiên tri cao cả nhất từ trước tới nay. Khi tung ra các mối phúc, Ngài tỏ ra mình là người khôn ngoan và giới thiệu một kinh nghiệm. Tin Mừng vừa là lời tiên tri của một biến cố vĩ đại vừa là sự chuyển thông đức khôn ngoan.
Tin Mừng không phai là đi tìm hạnh phúc nhưng là lời hứa và quà tặng hạnh phúc vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người để họ được hạnh phúc. Nhưng đó không phải là thứ hạnh phúc mà họ ước mơ và hăng say chinh phục: Hạnh phúc đây chính là sự sống cua Thiên Chúa ban cho con người là trong hạnh phúc đó, ngài qui tụ tất cả con cái Ngài lại. Ta có thể làm sai lạc ý nghĩa của các mối phúc cũng như làm méo mó hình ảnh của Đấng Thiên Sai đến nỗi không còn nối kết hình ảnh ấy với Đức Kitô được nữa Ngài không nói: anh em nghèo khổ nên anh em sẽ được hạnh phúc ; Ngài cũng không nói: anh em hãy nghèo khổ để được hạnh phúc. Ngài chỉ nói: anh em nghèo khổ, hạnh phúc đến với anh em. Ngài có thể nói điều đó bởi lời Ngài đem đến hạnh phúc này, bởi vì chính bản thân Ngài là niềm vui là hạnh phúc của Thiên Chúa. Nhưng để cảm nhận được điều này, phải tin và ưng thuận theo Ngài. Hạnh phúc này không thuộc về một thế giới khác với thế giới ta đang sống Nó cũng không được cất giấu ở một nơi bí mật. Nhưng ngay từ bây giờ nó đã được ban tặng cho tất cả mọi người, là trước hết là những người đau khổ. Những phép lạ Đức Giêsu đã gieo trên đường rao giảng là dấu chỉ cho thấy Ngài chính là cội nguồn hạnh phúc.
Đây chỉ là những dấu chỉ, chúng không biến đổi hoàn cảnh ta đang sống, nhưng chỉ ra một lối thoát là cho ta nghe được lời mời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi”. (Mt. 1l,28-30) Đó là phong cách và ngôn ngữ của một tôn sư về sự khôn ngoan của một người đã sống một kinh nghiệm và tự biết anh có thể truyền đạt nó. Đó cũng chính là người cộng tác mối phúc và ngôn ngứ vẫn là một: Phúc cho những ai hiền lành-Ta là Đấng hiền lành ; nghỉ ngơi hòa bình. Từ dùng có thể thay đổi, nhưng vẫn là kinh nghiệm ấy, tiếng nói ấy, tấm lòng ấy. Chỉ có Ngài mới biết hạnh phúc là gì ; chỉ có Ngài mới có thể ban hạnh phúc vì hạnh phúc là quà tặng của Thiên Chúa.”
Những nghịch lý xảy ra trong thời đại của chúng ta hiện nay chung quy cũng chỉ vì đồng tiền. Các nước nghèo ganh tỵ với các nước giầu. Các nước giầu lại muốn dành ngôi vị bá chủ. Từ sự giầu nghèo vật chất dẫn đến giầu nghèo tinh thần. Và hai dòng chảy này luôn luôn xung khắc với nhau không có câu trả lời thỏa đáng.
Chúa Giêsu cũng đã biết rõ điều này nên khởi đầu sứ mạng rao truyền Tin Mừng, Ngài đã dùng đề tài này để nói với quần chúng. Ngài không hứa hẹn gì và cũng không tuyên bố gì ngoại trừ những lời hứa mà thoạt nghe không làm êm ái lỗi tai người nghe, và cũng không đáp ứng được với những khao khát của phần đông nhân loại. Có chăng, Ngài đứng về phía đông những người nghèo khổ, nhỏ bé bị đời hất hủi, quên lãng. Những người vì Tin Mừng bị bách hại, đối xử bất công. Chúng ta hãy nghe Chúa nói: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo. Phúc cho những ai hiền lành. Phúc cho những ai đang bị khóc lóc. Phúc cho những ai đói khát sự công chính. Phúc cho những ai biết xót thương. Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch. Phúc cho những ai xây dựng hòa bình. Phúc cho những ai bị bắt bớ vì lẽ công chính” (Xem Mat 5:1-12).
Nghèo mà hạnh phúc thì khó nghe quá! Chỉ riêng một chữ nghèo mà thôi cũng liên quan đến bao chữ nghĩa khác: Khó khăn “nghèo khó”, khổ sở “nghèo khổ”, túng quẫn “nghèo túng”, bị đời khinh bỉ “nghèo hèn”, và làm cho con người trở nên dốt nát: “Cái khó nó bó cái khôn”. Ai ai cũng sợ nghèo, tránh nghèo, và khinh bỉ nghèo. Ai ai cũng cố ngoi lên cho khỏi kiếp nghèo. Và ai ai cũng biết rằng giàu tiền bạc đưa đến giàu quyền lực, giàu danh vọng. Khi có tiền của, có danh vọng, và quyền lực là có tất cả: “Có tiền mua tiên cũng được”. Vì thế nên sức hấp dẫn và mãnh lực đồng tiền khó ai mà chống cự nổi. Chúa Giêsu đã xếp hạng tiền của ngang hàng với chúa của những kẻ ham mê nó: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mátthêu 6:24).
Từ sự nghèo khó vật chất dẫn đến sự nghèo khó tinh thần. Sức mạnh tiền bạc đang ảnh hưởng trên toàn diện sinh hoạt của con người. Nhìn vào hệ thống tham nhũng chằng chịt của xã hội cũng đủ để kết luận rằng, những người có tinh thần nghèo, những người trong sạch, ngay thẳng hiện nay rất hiếm hoi và hầu như đang bị tuyệt chủng! Bài toán xã hội cũng là bài toán bất công mà kết cục cũng chỉ vì tiền, tiền, và tiền. Tiền có thể mua được bằng cấp, địa vị, và chức quyền. Tiền cũng có thể mua được những giây phút thỏa mãn của cơn khát dục vọng. Từ tiền đưa đến ăn chơi xa xỉ. Những tệ nạn của xã hội, tội ác xã hội xảy ra cũng vì tiền. Hòa bình bị đe đọa, chiến tranh, khủng bố khắp nơi cũng vì sự bất công xã hội, bất công giữa kẻ giầu và người nghèo. Điều này đã trở thành một nghịch lý của Phúc Âm khi nghe Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai có tinh thần nghèo.
Nghịch lý này nằm ở chỗ là những gì con người tưởng chừng như vinh quang, hạnh phúc, và trường cửu thì đối với Thiên Chúa chỉ là tạm bợ, mây khói, và mau qua. Những thứ mà một cách nào đó, chỉ đem lại thêm sự thèm muốn, khát khao và đam mê mà dù có được thỏa mãn hay không được thỏa mãn đều khiến cho những ai tôn sùng, tìm kiếm và chiếm hữu nó phải băn khoăn và lo lắng. Ngược lại, những gì mà trước mắt con người thông thái, khôn ngoan cho là tầm thường, vô giá trị, đáng khinh bỉ lại trở nên quí giá vô cùng cho những ai biết khám phá và nhìn nó dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Nghịch lý này cũng nằm ở chỗ là dù nghèo vật chất hay giầu có tiền của, nếu muốn hạnh phúc chúng ta phải sống bằng tinh thần nghèo Tin Mừng, nghèo Phúc Âm. Chính tinh thần và lối sống này mới giúp con người bóc lột hoàn toàn cái tôi của mình, cái tôi đáng ghét đầy tham, sân, si. Cái tôi sẵn sang quỵ lụy và thần phục bất chính để miễn sao mình chiếm đoạt cho thật nhiều của cải vật chất, thật nhiều vinh quang, và thật nhiều quyền lực. Cái tôi mà sau này chính Chúa Giêsu đã phải nói với tất cả những ai muốn theo Ngài: “Hãy bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mátthêu 16:24). Bỏ mình đi hay mặc lấy tinh thần nghèo cũng là một. Khi bỏ mình tức là đã tự mình ra nghèo vì mình. Từ bỏ ý tưởng quyền lực, ý nghĩ tự cho mình hơn người khác. Từ bỏ lối sống buông thả theo dục vọng. Từ bỏ mình để đón nhận những thua thiệt, thử thách, là chấp nhận đau khổ, chấp nhận bị ruồng bỏ vì lẽ công chính.
Đưa ra những lý do để được chúc phúc, và những điều kiện lãnh nhận phúc lành từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn con người tìm về cội nguồn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Một thứ hạnh phúc vĩnh hằng, có mãi và đem lại vui mừng hân hoan, bằng an cho tâm hồn. Dùng sự khó nghèo tâm linh như một yếu tố cần thiết để đón nhận phúc lành, và cũng để mở đầu cho Hiến Chương Tin Mừng của Ngài, là Ngài muốn chúng ta suy niệm một cách cốt lõi về ý nghĩa của cuộc đời và hạnh phúc thật sự mà con người phải tìm kiếm. Đúng ra, Ngài muốn nói chính Ngài mới là hạnh phúc thật. Và chỉ ở trong Ngài, con người mới có hạnh phúc và được hạnh phúc. Điều này thánh Augustine sau suốt thời gian ăn chơi trác tang, khi đón nhận ánh sáng Tin Mừng đã thổn thức ghi lại: “Chúa dựng nên tôi có một quả tim, và tim tôi không ngừng thao thức cho đến khi nó được nghỉ yên trong Ngài”.
Tóm lại, bỏ mình hay sống tinh thần nghèo cũng là một. Và sống nghèo tinh thần hay sống trong sạch, tiết độ, sống phó thác và khiêm nhường, sống với trái tim xây dựng hòa bình, với tinh thần chấp nhận vì lẽ công chính cũng là một. Và cái nghịch lý của Tin Mừng nằm ở chỗ đó. Nhưng liệu mấy ai nhận ra, và liệu có mấy ai khi nhận ra lại dám can đảm và sẵn sàng sống theo nghịch lý Tin Mừng này.