Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-A Bài 101-134: Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng

Thứ tư - 29/01/2020 09:14
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-A Bài 101-134: Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-A Bài 101-134: Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-A Bài 101-134: Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng
----------------------------------------
Phúc Âm: Mt 4, 12-23 (bài dài) "Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!"
Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. - Ðó là lời Chúa.

---------------------------------------
TN 3-A101: Đừng ngủ mê trong tội – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 2
TN 3-A102: Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng. 4
TN 3-A103: CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA GIÊSU.. 6
TN 3-A104: CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN, NĂM A.. 14
TN 3-A105: CHÚA GIÊSU GỌI CÁC MÔN ĐỆ.. 17
TN 3-A106: CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN.. 19
TN 3-A107: Buông theo Thần Khí - Huệ Minh. 21
TN 3-A108: Khởi điểm truyền giáo – ViKiNi 23
TN 3-A109: Vì Nước Trời... - Dã Quỳ. 25
TN 3-A110: Galilê, vùng dân ngoại. 27
TN 3-A111: Bước theo Ánh Sáng. 30
TN 3-A112: Chúa Nhật 3 Thường Niên. 31
TN 3-A113: Ơn Cứu Độ. 40
TN 3-A114: Đức Giêsu đến ở Caphácnaum.. 42
TN 3-A115: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến. 45
TN 3-A116: Suy Niệm Chúa Nhật 3 Thường Niên. 48
TN 3-A117: Dọn lòng đón Chúa Xuân đến với gia đình. 50
TN 3-A118: Suy niệm của nhóm Đồng Hành. 52
TN 3-A119: THỜI CỦA TIN MỪNG CỨU ĐỘ.. 54
TN 3-A120: GALILÊ, ƠN GỌI ĐẦU TIÊN.. 57
TN 3-A121: CHÚA GIÊSU, ÁNH SÁNG MUÔN DÂN.. 58
TN 3-A122: ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN.. 61
TN 3-A123: LỜI RAO GIẢNG.. 62
TN 3-A124: ÁNH SÁNG.. 63
TN 3-A125: TỪ CAPHANAUM, CHÚA GIÊSU XUẤT PHÁT THI HÀNH SỨ VỤ.. 64
TN 3-A126: DÂN CHÀI 66
TN 3-A127: BƯỚC THEO ÁNH SÁNG.. 71
TN 3-A128: NGUỒN GỐC SỰ DỮ LÀ CÁI TÔI 73
TN 3-A129: KHAI MỞ ÁNH SÁNG HY VỌNG VÀ ƠN CỨU ĐỘ CHO MUÔN DÂN   74
TN 3-A130: VẦNG ĐÔNG CỨU ĐỘ.. 77
TN 3-A131: NGƯỜI MÔN ĐỆ, ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN.. 79
TN 3-A132: NƯỚC TRỜI NÀO ĐÃ ĐẾN GẦN?. 82
TN 3-A133: NIỀM VUI CÓ ĐỨC GIÊSU.. 84
TN 3-A134: CHÚA GIÊSU LÁNH NẠN.. 85

------------------------------------

 

TN 3-A101: Đừng ngủ mê trong tội – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Tiếng bà vợ dịu ngọt nói chồng: Anh ơi đi xưng tội đi. Lâu rồi không thấy anh xưng tội.Anh chồng đáp: TN 3-A101


Tiếng bà vợ dịu ngọt nói chồng: Anh ơi đi xưng tội đi. Lâu rồi không thấy anh xưng tội.

Anh chồng đáp: Xưng xong có chừa được đâu mà xưng.

Cô vợ: Thế thì hôm nay anh đừng ăn nhé

Anh chồng: Không ăn mà chết đói à!

Cô vợ: Vì ăn xong rồi cũng đói, thế thì ăn làm gì cho mệt.

Anh chồng!

Con người thường ít muốn thay đổi. Cho dù cuộc sống của họ đang chìm ngập trong tội lỗi. Họ vẫn ngại đến với tòa giải tội. Họ sợ phải đối diện với sự thật. Vì sự thật sẽ phơi bầy toàn bộ hành vi bất chính, tội lỗi của họ. Họ vẫn sống chai lỳ trong điều gian ác mà vẫn không áy láy lương tâm. Chính vì lối sống mất ý thức về tội lại không dám đối diện với sự thật khiến họ lao mình vào cuộc sống với những đam mê hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý, hay lao vào tìm kiềm danh lợi thú bất chấp thủ đoạn tàn bạo. Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ chưa bao giờ tội pham nhiều như ngày nay.

Ngày 03.01.2014 một phiên tòa lưu động có số bị cáo đông nhất Việt Nam từ trước đến nay đã diễn ra tại sân trại giam của công an tỉnh Quảng Ninh tổng cộng đến 89 bị cáo dính đến 4 đường dây mua-bán, vận chuyển trên 4,400 bánh heroin hiện diện tại phiên tòa dự tính kéo dài ba tuần lễ.

Theo báo Tiền Phong, phiên tòa nói trên cũng quy tụ số luật sư biện hộ đông nhất từ trước đến nay: 41 người. An ninh phiên tòa lưu động được xiết chặt, vì người ta dự đoán có thể tới 66 bản án tử hình sẽ được tuyên.

Án tử hình rất nhiều nhưng xem ra không ý thức về tội, không có lòng sám hối nên tội phạm vẫn gia tăng. Ngay cả các tội nhân tại tòa cũng thường ít nói lời xin lỗi vì mình đã gây nên những đau khổ cho xã hội bởi hành vi bất chính của mình. Thậm chí cả người nhà tội nhân còn bênh vực cho hành vi tội lỗi của con cái mình.

Mới đây trong một phiên tòa khi tòa tuyên án kẻ cầm đầu bọn cướp chuyên nghề chặt tay cướp xe thì tiếng la hét đanh đảnh của một người mẹ đã hét lên không chấp nhận sự thật ấy. Bà quát to rằng: con tôi không giết người sao lại tử hình con tôi? Bà còn quay lại chỗ những người bị hại mà con bà chặt tay để cướp của nói rằng: Biết con tao tử hình thì tao đã cho người giết chết chúng mày! Xen lẫn tiếng bà là tiếng người chị gái bảo rằng: “ai bảo chúng này đi xe đẹp đeo nhẫn vàng làm gì?”

Hóa ra đi xe đẹp, đeo nhẫn vàng cũng có tội? Có phải tình yêu thì chẳng cần quan tâm đến đạo đức. Người ta nhân danh tình yêu để hại người, để vào hùa và bênh đỡ nhau như gia đình bị can “chặt tay cướp SH” chăng?

Là người đều có những lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên làm lại cuộc đời. Không nhận ra sai lỗi. Không cảm nhận sự vấp ngã. Con người cũng mất ý thức về tội. Con người càng mất lòng sám hối ăn năn. Thực ra, nhân vô thập toàn. Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để canh tân từng phút. Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh thần đến vật chất.

Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu không kêu gọi chống bất công hay đòi quyền lợi mà là kêu gọi sám hối canh tân. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương. Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.

Nhưng đáng tiếc nhân loại ngày hôm nay không ý thức việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Con người vẫn nhân danh tự do cá nhân để hành xử thiếu văn hóa, thiếu trách nhiệm với tha nhân. Con người vẫn nhân danh hạnh phúc cá nhân để loại trừ hạnh phúc cuả tập thể, của xã hội. Nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người thì sẽ không có những vụ tham nhũng lớn như Dương Chí Dũng, Bầu Kiên hay Huyền Như .. . Tất cả vì lợi ích cá nhân mà gây nên biết bao hậu quả tai hại cho xã hội và đất nước.

Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợi với tin mừng. Xin đừng vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội. Xin đừng đề cao tự do cá nhân để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

-------------------------------------------

 

TN 3-A102: Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng

 

Bài Tin Mừng ngày hôm nay được chia làm ba phần khác nhau, nhưng đều có mối liên kết cuối mỗi TN 3-A102


Bài Tin Mừng ngày hôm nay được chia làm ba phần khác nhau, nhưng đều có mối liên kết cuối mỗi phần để tạo nên một bức tranh đẹp trong sứ vụ của người mục tử đang trên hành trình tìm kiếm đàn chiên của mình.

- Chúa Giêsu rao giảng – Ngài bắt đầu sứ vụ của Ngài

- Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên – Ngài chọn những trợ tá xứng đáng cho Ngài.

- Và Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng – nhưng thêm một chi tiết nữa, đó là chữa bệnh và trừ quỷ.

Cả ba phần đều chứa đựng nhiều cảm xúc của nguời đọc về lòng nhân từ, yêu thương của Chúa. Mọi người bị cuốn vào phần đầu tiên và phần thứ ba nhiều hơn khi Chúa rao giảng, chữa bệnh và trừ quỷ. Nhưng điểm chính trong bản văn Tin Mừng hôm nay lại ở phần giữa, phần mà Chúa gọi những môn đệ đầu tiên.

Lẽ dĩ  nhiên không đơn giản mà đường đột Chúa đến gọi các vị ngư phủ mà họ theo, dễ gì phải không. Chúa Giêsu, Ngài biết rõ những nguời mình sẽ gọi là ai, gia cảnh thế nào. Đơn giản là trong những thời gian rao giảng xung quanh vùng biển hồ Galilê này, Người đã quan sát, đã nhận biết đối tượng mà Người sẽ chọn lựa là ai. Và dĩ nhiên ở chiều ngược lại, các ngư phủ cũng biết rõ về cái ông tên Giêsu mà hay đi lang thang dọc bờ biển rao giảng điều tốt lành đó như thế nào, ra sao,…hai bên đã hiểu nhau và giờ chỉ còn chờ một mẫu số chung nữa mà thôi.Rồi thì một ngày đẹp trời nọ, giữa họ đã có mẫu số chung, một mẫu số hoàn hảo.

Bản văn của Matthew không chỉ được đọc và nhìn như là việc gọi đơn thuần, nhưng cần phải được mỗi người để ý và khoanh tròn những động từ có sức cuốn hút mãnh liệt dành cho chính bản thân mỗi người đọc.

“ Thấy, gọi, bỏ, theo”

Những động từ dứt khoát, không do dự từ nơi người gọi và cả người được gọi. nhữngđộng từ đọng lại những suy tư trăn trở cho bất kỳ người Kitô hữu nào, trong bất kỳ bậc sống nào khi đã hiểu những động từ này gắn liền với cuộc đời mình.

Vợ chồng được Chúa thấy và mời gọi họ vào đời sống hôn nhân, và họ cần dám từ bỏ những ích kỷ, ghen tương, mâu thuẫn gia đình mà theo  lẫn nhau. Theo với lời hứa chung thuỷ mà họ từng cầm tay nhau thề hứa trước Chúa. Theo để tha thứlầm lỗi cho nhau, để yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày suốt đời nhau.

Ở ơn gọi tu trì hay đời sống độc thân thì lời mời gọi nơi những động từ ở bài đọc hôm nay càng đuợc hiểu và đáp trả mãnh liệt hơn. Chúa đã thấy và mời gọi, Ngài gọi bằng tình yêu, bằng cái nhìn êm ái…và sự đáp trả để được nên thánh cũng bằng những động từ dứt khoát “Bỏ và Theo”. Bỏ -bỏ mọi sự- như ta biết rằng Thánh Phêrô cũng có gia đình, có vợ, con. Nhưng trong bản văn hôm nay thì ta thấy được một cụm từ “ lập tức bỏ” sự từ bỏ không lưu luyến, không vấn vương mà là “ lập tức”- rất dứt khoát.

Cũng có thể là đằng sau đó là một cuộc chia tay, cuộc gặp gỡ ngắn gọn, nhẹ nhàng “ em ở lại, anh đi nhé…”của Thánh Phêrô. Nhưng thực tế cho thấy một sự quyết định dứt khoát theo Chúa của Thánh nhân. Tương tự như với anh em của Giacôbê và Gioan, lại cụm từ “ lập tức bỏ” xuất hiện. hai anh em ông này cũng dứt khoát bỏ thuyền- vật chất thế gian, bỏ cha- tình thân ruột thịt mà đi theo Chúa.

Gần như chắc chắn sẽ có nhiều người phản ánh sự dứt bỏ phũ phàng của các ông. Nhưng điều cốt yếu ở đây và sự khẳng định cụ thể là các ông đã từ bỏ, từ bỏ thật sự để bôn ba cùng Thầy Giêsu. Sự bôn ba bắt nguồn từ việc họ đã được thấy và được gọi. Ánh mắt nhìn mãnh liệt và lời gọi êm ái nhưng dứt khoát.

Ngày nay, những động từ trên cũng vẫn tiếp tục được nhắc đến trong mỗi bậc sống của mỗi người chúng ta. Mỗi người được gọi, gọi từ ngàn xưa vì tình yêu bao la của Chúa. Người được gọi không có gì- không cần phải là đại gia, quan chức, nhưng là bất kỳ ai và vì họ xứng đáng được gọi. Lời mời gọi và đáp trả là của mỗi cá nhân. Chỉ khi bỏ và theo từ khi họ được thấy và được gọi thì họ mới nhận ra rằng họ được Thiên Chúa mời gọi. Cứ như càng học, càng quên, khi theo –khi đáp trả thì mới ngộ ra rằng mình đã theo. Và sự theo được thể hiện nơi lòng trung tín, yêu thương và tha thứ cho nhau trong mỗi bậc sống của mỗi người.

-------------------------------------------

 

TN 3-A103: CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA GIÊSU


(Mt 4,12-23 – CN III TN - A)

1.- Ngữ cảnh

 

Nói tổng quát, bốn chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I. Về ngữ cảnh của đoạn văn TN 3-A103 Dalat


Nói tổng quát, bốn chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I. 

Về ngữ cảnh của đoạn văn chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau khi đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào Lời Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng, khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người trước nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã nói về Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần, Người sắp được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm chờ mong của dân chúng.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (4,12-16);
2) Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);
3) Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (4,18-22);
4) Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).

3.- Vài điểm chú giải

- Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp (12): Trong các đoạn Mt 10,4; 17,22; 20,18-19; 26,2, tác giả cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê); như thế, Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu có chung một số phận. Dạng bị động hàm ý biến cố thuộc về ý muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất trong cuộc đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu. Hơn nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của Thiên Chúa: Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm dứt sứ vụ của Gioan. 

- Người lánh qua (anachôreô, “lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của Do Thái giáo chính thức, với hai nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi sử dụng động từ anachôreô ở đây như ở 2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…), rất có thể Mt cho hiểu rằng chính thái độ cứng tin của miền Giuđê (dưới ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng việc loại trừ Gioan) đã khiến Đức Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của dân ngoại”.

- bỏ Nadarét (13): Không phải là Người bỏ rơi, nhưng là không chọn Nadarét làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun và Náptali đã cư ngụ (x. Gs 19,10-16.32-39). Mt trích sấm ngôn Isaia này là để trả lời vấn nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê làm nơi sân khấu chính để khởi đầu hoạt động của Người: điều đó nằm trong chương trình của Thiên Chúa (như sấm ngôn Is đã loan báo).

- Dơvulun … Náptali (15-16): Hai chi tộc này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị đế quốc Átsua thôn tính vào năm 734, và sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua dòng họ Sêlêukhô. Từ đó họ đã bị Dân Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia (ch. 8 và 9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ giải phóng họ, không phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.

- Galilê, đất của dân ngoại (15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về giống nòi, Galilê trở thành biểu tượng của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa đang mở ra với Đức Giêsu, là Israel chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang địa và vượt qua sông Giođan. Chúng ta gặp một đề tài quen thuộc của Mt: Đức Giêsu ngỏ lời trước tiên với các chiên lạc nhà Israel (x. 10,6; 15,24).

- một ánh sáng huy hoàng (16): Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ vào cuộc Hiển Dung (x. 17,2) và còn xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày Phục Sinh.

- Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần (17): Công thức này tương tự với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả Mt khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Đức Giêsu.

- Nước Trời (17): Đây là cách Mt nói quanh để tránh gọi tên Thiên Chúa, nên “Nước Trời” chính là “Nước Thiên Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43). Basileia có thể dịch ra là “triều đại, vương quyền, vương quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn) không có nghĩa là “Nước” này thuộc về thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang trị vì trên thế giới. Do trung thành với truyền thống Cựu Ước, Mt biết rằng vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên Chúa (x. Tv 22,29; 103,19; 145,11-13). Đây là sứ điệp chính của Đức Giêsu: Người loan báo “Nước” (Triều Đại) này đang/đã đến và chính Người thực hiện trong tư cách là Con Người (x. 26,64; Đn 7,13-14 [LXX]: Mt 28,18). Trong Mc và Lc, có những chỗ Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa như là một thực tại thuộc về tương lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có những chỗ Người lại bảo đó là một thực tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và nơi bản thân Người (x. Lc 7,18-23; 10,23t…). Do dựa trên loạt bản văn thứ nhất hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở hai đối cực: “thời cánh chung đã đến” và “thời cánh chung đang đến”.

- đã đến gần  (engiken, 17): Engiken là thì hoàn thành của động từ engizô, “đến gần”. Đây là một từ vẫn đang gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác nhau: “est tout proche” (BJ), “s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James 1611; NAB 1988), “is fast approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright trong Anchor Bible), “is near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng engiken được dịch từ một động từ A-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông dịch là “Nước Trời đã đến”. Nhưng engizô (do tính từ engys, “gần”) có nghĩa là “đến sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước Trời đã gần (đến)”.

- Cc. 16-22: Truyện Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo mẫu các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x. Êlisa: 1 V 19,19). Bài này không nói đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật lời kêu gọi của Đức Giêsu và lời đáp gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn tả tương quan tiêu biểu giữa Đức Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên tiếng gọi, môn đệ bỏ mọi sự mà đi theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc. Đức Giêsu chỉ yêu cầu các ông đi theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng sau Phục Sinh (khác với Mc 6,12-13 và Lc 9,6). Khi viết như thế, có lẽ Mt muốn ưu tiên nêu thật rõ dung mạo có một không hai của Thầy.

- những kẻ lưới người như lưới cá (19): Phải chăng đây là một ám chỉ đến sách Êdêkien (47,10)? Bản dịch TOB bảo hiểu Mt 4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú thích c): hình ảnh tiêu cực và như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả rằng các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét và được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì ý nghĩa tích cực hơn nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo hướng này.

Dù sao, có thể nói rằng Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, bởi vì Nước Trời chủ yếu là một cộng đoàn gồm những con người quy tụ quanh Đức Giêsu trong sự hiệp thông với Chúa Cha.

- khắp miền Galilê (23): Đức Giêsu đến nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người trong khắp xứ (chứ không như các kinh sư Do-Thái).

- giảng dạy … chữa … (23): “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê / các thành thị, làng mạc / giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này.

Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).

- chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân (23): Nền văn chương khải huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý tưởng về Thiên Chúa là Đấng che chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh hoạn và những nghịch cảnh. Hoạt động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng một niềm chờ mong nơi dân chúng, nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung của Đức Chúa mang lấy bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông đã áp dụng cho Đức Giêsu (x. Mt 8,17).

Còn toàn bộ Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất cả các bệnh nhân, y như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng làm phép lạ của Người. Người chỉ thực hiện một số phép lạ chữa bệnh có ý nghĩa liên hệ đến Nước Trời và quyền bính của riêng Người.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (12-16)

Đức Giêsu đã đến sông Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại ở phía nam Thánh Địa (x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt động tại miền Galilê, là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga 7,41.42.52)? Tại sao Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm của dân Thiên Chúa? Mt cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi), Người cảm thấy bị đe dọa và nhường bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha nuôi Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người (2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc Người liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt động công khai (12,15; 14,13). Với các môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang thành khác, khi bị bách hại (10,23). Cũng như Người, họ phải bố trí đời sống dựa theo những hoàn cảnh bên ngoài. Nơi số phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho bắt và sẽ cho giết chết theo ngẫu hứng (x. 14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu đã được loan báo: Người cũng sẽ bị giao nộp vào tay loài người (17,22), cho sự gian tà và độc ác của họ. Như thế, ngay trên bước khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu, bóng tối của kết cục bi thảm đã được trương ra. Hoạt động của Người được triển khai dưới dầu chỉ là cuộc Khổ Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm này đều thuộc về chương trình của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan và sẽ để cho Đức Giêsu “bị nộp”; sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên Chúa dùng để báo cho Đức Giêsu biết đã đến lúc Người hoạt động.

Cũng như Người đã đến cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại Galilê và Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, tác giả ghi nhận là như thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được thể hiện. Cho dù nhiều lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình của Đức Giêsu vẫn hoàn toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về vùng ngoại biên Israel, vào “Galilê, đất của dân ngoại”, tại đó cũng có người ngoại cư ngụ và chung quanh là các miền đất Dân ngoại. Hoạt động của Người nhắm đến dân Israel (15,24), nhưng tại đây cũng lan tỏa ra các Dân ngoại và được họ nhận biết (x. 4,24t). Điều đã được loan báo bởi cuộc viếng thăm của các hiền sĩ (2,1-12) và điều sẽ được công bố trong sứ mạng cuối cùng của các môn đệ trong liên hệ với muôn dân (28,19), nay cũng được tỏ hiện tại các nơi chính mà Người hoạt động: Người cũng là ánh sáng cho Dân ngoại nữa. Tại nơi đã chỉ có bóng tối của tử thần, đã bừng lên một ánh sáng. Đối với loài người chúng ta, mặc dù chúng ta biết nhiều, kết cục và ý nghĩa của đời sống hoàn toàn vô phương dò thấu và mờ mịt. Bằng sứ điệp của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu mang ánh sáng và khai mở sự sống viên mãn.

* Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (17)

Các lời “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của Đức Giêsu. Tiếng gọi đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa trên lời này (“vì”). Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng với “Nước Thiên Chúa” trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người Do-thái, họ tránh từ “Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18). “Nước Trời” chính là triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất cả hoạt động của Đức Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là một điều gì khác và tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa trong tư cách Chúa Tể và Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ tể trên dân. Dân thì luôn luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có nghĩa là dấn thân với lòng tốt và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân, như một mục tử lo lắng cho đời sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).

Triều Đại này đã đến gần, chứ chưa hoàn toàn hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều đại Cha ngự đến” (6,10). Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên Chúa đã quyết định giương cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác và thực hiện Vương quyền này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có thể quay lui, mà chỉ có thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn vẹn. Thiên Chúa sẽ không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài người cho các thế lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong đó họ phải quy phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính Người sẽ trực tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều Đại này đặc biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt động bác ái của Người để chữa lành và giúp đỡ.

Trước lời công bố là lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về với Thiên Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin tưởng và hy vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách nhưng-không với con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi vì lời đáp của chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể thất bại nếu không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì thế, Đức Giêsu đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.

* Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (18-22)

          Một trong những điều kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình một số người để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người một sự hiệp thông đời sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức Giêsu không hoạt động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động của Người lệ thuộc những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có một cộng đoàn môn đệ bao quanh. Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên là Simôn và Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải trong  khi đi theo Đức Giêsu. Ai theo Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con đường phải theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người hướng dẫn. Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước Trời và vào trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.

Những ai đi theo Đức Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với Người. Tuy nhiên, dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái lại phải chuẩn bị họ cho một nhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi đi theo Người, đồng thời cho biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử với Người, Đức Giêsu chuẩn bị họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là những sứ giả của Người (x. 9,36–10,42; 28,16-20).

          * Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (23)

Hoạt động của Đức Giêsu được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo huấn, lời giảng và các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng đắn, lời loan báo và giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều đó nhờ các cuộc chữa bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.

+ Kết luận

Là vị Tiền Hô của Đấng Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan mà làm phép rửa cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống đời “du thuyết”; Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến. Ngay từ đầu, Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà Israel”. Và vì quan tâm bảo đảm cho hoạt động của Người được hữu hiệu lâu dài, Người đã quy tụ các “ngư phủ lưới người” đầu tiên, để họ sống với Người và với nhau. Sau này, các ông sẽ nối tiếp Người, đi loan báo Nước Trời khắp nơi, không phải chỉ cho dân Israel, mà cho mọi người thuộc mọi thời đại.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Vào ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng đoàn cử hành Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống chúng ta một cách rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người không muốn, vì Người tôn trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi xét lại tâm hồn mình, bỏ đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở rộng ra được với các viễn tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không loại bỏ được những trở ngại đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng ta có thể xin với Đức  Giêsu và Người sẽ chữa chúng ta lành.

2. Các hoàn cảnh bên ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là những chỉ dẫn Thiên Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm kiếm ý Chúa. Hôm nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà Thiên Chúa đang dùng để hướng dẫn chúng ta.

3. “Hãy hối cải!”. Loài người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa Người và tìm hạnh phúc và ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với loài người đòi buộc họ đáp trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không thể được Người đến gặp và nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ quay về với những người khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu bật hai đề tài chính này: Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước Thiên Chúa và đồng thời, Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự hối cải chân thật. Cả hai yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc (5,3-12).

4. Đức Giêsu xuất hiện là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận ra Người vẫn đang hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác,  chúng ta đã được chọn để nối tiếp sứ mạng của Người. Chúng ta đang chu toàn sứ mạng đó thế nào?  Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không lôi kéo chúng ta theo Người về mặt thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình, bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và trong tình yêu.

5. “Hãy theo tôi”. Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng là một lời mời hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy một quyết định cương quyết đầu tiên, đôi khi là một đoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi ngày qua ngày, kiên trì bước theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện những bước hối cải mới để càng trở nên môn đệ hơn.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

-------------------------------------------

 

TN 3-A104: CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN, NĂM A


SÁM HỐI THÌ MỚI ĐƯỢC CỨU ĐỘ

(Is 9,1-4; 1Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23)

 

Trong 4 Tin Mừng được viết lại cuộc đời Chúa Cứu Thế, thì thánh sử Mátthêu đặc biệt nhắm vào TN 3-A104


Trong 4 Tin Mừng được viết lại cuộc đời Chúa Cứu Thế, thì thánh sử Mátthêu đặc biệt nhắm vào người Dothái thời bấy giờ. Vì thế, ngài thường trưng dẫn những điều đã được tiên báo trong Cựu Ước để làm toát lên sự nối tiếp giữa Cựu Ước và Tân Ước, ngõ hầu hậu thuận cho việc chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai đã được các ngôn sứ loan báo trước đó.

Thế nên, hôm nay, thánh sử Mátthêu đã làm toát lên sự tiếp nối giữa Gioan và Đức Giêsu ngay sau khi Gioan kết thúc thì Đức Giêsu khởi đầu. Nhưng có lẽ lời giáo huấn về sự sám hối và sứ vụ truyền giáo là đề tài quan trọng hơn cả!

Chính vì điều này mà trình thuật Tin Mừng cho chúng ta thấy chủ đích của Đức Giêsu khi lựa chọn Capharnaum để loan báo Tin Mừng đầu tiên, đồng thời, cũng cho thấy được nội dung quan trọng của lời rao giảng này.   

1.       Tại sao Đức Giêsu lại chọn Capharnaum là nơi khởi đầu sứ vụ?

Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu và cũng là khởi đầu hành trình truyền giáo, Đức Giêsu đã chọn Capharnaum là trung tâm truyền giáo. Có nhiều lý do để Ngài chọn nơi này mà không chọn nơi khác! Một trong những lý do chính là bởi vì dân này là một dân ngoại và đã được tiên báo từ thời Cựu Ước để đón nhận Tin Mừng: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Tại sao lại có lời loan báo này? Thưa, vì dân Capharnaum là một dân ô hợp từ nhiều nơi hội tụ về. Họ đến đây sau khi dân Israel bị lưu đày ở Babylon.

Chính vì là dân tứ xứ, nên họ bị coi là dân ngoại. Khái niệm dân ngoại đối với Capharnaum không chỉ về địa dư hành chính là cách xa đền thờ Giêrusalem, mà họ còn bị coi là dân ngoại khi những truyền thống của cha ông bị lơ là.

Thật vậy, người Galilê không mặn mà với những lễ nghi truyền thống của tổ tiên. Vì thế, lẽ tất yếu, họ bị những người Dothái coi thường và khinh bỉ vì đã không sống những tập tục của tiền nhân.

Tuy nhiên, điều đáng quý của người Galilê và đặc biệt là dân thành Capharnaum này chính là sự chân tình, cởi mở và hiếu khách. Chính vì điều này mà họ dễ dàng đón nhận Đức Giêsu cũng như tiếp nhận những giáo huấn mới mẻ của Ngài. Đây có lẽ là lý do chính yếu mà Đức Giêsu đã dễ dàng thâu nhận được 4 môn đệ đầu tiên tại nơi đây để cùng Ngài tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng.
 
2.      Nội dung của lời rao giảng

Đề tài sám hối chính là nội dung lời loan báo đầu tiên và quan trọng của Đức Giêsu khi khởi đầu sứ vụ.

Nếu Gioan đã loan báo về đề tài sám hối để chuẩn bị dân dọn lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài mời gọi họ không phải sám hối để đón Ngài ngự đến nữa, vì Ngài đã đến và hiện diện giữa dân của Ngài, nhưng Ngài mời gọi họ hãy sám hối vì “Nước trời đã đến gần”.

Sự tiếp nối của Gioan và Đức Giêsu về đề tài sám hối hé mở cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sứ điệp. Có thể nói: sám hối chính là điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời. Ngược lại, nếu không sám hối thì sẽ chẳng bao giờ thuộc về công dân của Nước Hằng Sống.

Vậy, tại sao phải sám hối?

Khi nói đến sám hối là nói đến sự trở về. Trở về tức là từ bỏ con đường, lối sống, cung cách, quan niệm cũ để đón nhận một cái gì đó mới và hợp hơn.

Thật vậy, có những người đi sai một con đường, cần phải trở về và khởi đầu lại thì mới có thể tới đích.

Cũng có người sống theo lối sống xưa kia mà nay không còn phù hợp, nên cần thay đổi.

Lại có người có những cách hành xử chỉ hợp với người này mà không hợp với người kia; chỉ hợp với nơi này mà không phù hợp với nơi khác, vì thế, cần thích ứng và hội nhập để cho phù hợp với đối tượng và nơi chốn mình hiện diện.

Và cũng không thiếu những người khư khư giữ quan niệm của riêng mình mà đâu biết rằng điều đó không thể áp dụng và hấp dẫn đối với thời cuộc...

Chính vì điều đó, nên cần trở về mới mong đạt tới đích, nếu không trở về, có lẽ sự phấn đấu của mình chỉ là công dã tràng! Ở điểm này, thánh Augustinô đã nói: “Chạy nhanh đấy nhưng lạc đường.

Đại triết gia thời cổ Hylạp xưa, ông Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích  thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”.

Tuy nhiên, làm cách nào để sám hối có hiệu quả? Thưa, đơn giản, đó là: phải biết khiêm nhường nhìn nhận mình là người bất toàn, thiếu xót và bất xứng.
Đây cũng là điều kiện cần để mình được lớn lên theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, bởi vì, càng khiêm tốn, con người càng giống Thiên Chúa.

Khiêm tốn là biết mình. Biết những mặt mạnh và mặt yếu của mình. Cổ nhân thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”.  Chính vì thế, ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).

Có lẽ nhiều người vẫn tự hào rằng mình biết nhiều thứ, nhưng biết mình tưởng chừng là dễ dàng, bởi vì nó gần mình hơn ai hết, nhưng thật ra lại là khó nhất, bởi lẽ có nhiều người cả đời vẫn không biết mình!

Vì thế, không lạ gì khi có người nói: “Không ai biết khuôn mặt thật của mình bao giờ, họa chăng có biết là biết qua một trung gian chiếc gương. Tuy nhiên, điều đó cũng không phải thật 100%”.

Tương tự như thế, về phần linh hồn con người cũng khó có thể biết được nếu không có ơn Chúa và Giáo Huấn của Người soi dẫn. Như vậy, Lời Chúa và ơn Chúa Thánh Thần là điều cần thiết trong việc giúp cho con người nhận ra điểm yếu của mình để chấn chỉnh và sửa sang cũng như thay đổi, vì: “Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi”.
 
3.      Sống Sứ điệp Lời Chúa

Trong đời sống đạo hiện nay của mỗi chúng ta, dù là cá nhân hay tập thể... nhiều khi rơi vào tình trạng ghen tương, đố kỵ, ích kỷ, dã tâm ... tất cả do thói kiêu ngạo, hóng hách chỉ đạo. Đây cũng chính là mầm mống gây nên những chia rẽ, bất hòa trong gia đình, đoàn thể và xã hội.

Oái oăm thay! Sự thật ấy ít người biết đến, hay nếu có biết đến thì cũng cố chấp và không chịu thay đổi để đón nhận điều tốt hơn! Vẫn còn đó những người đang đi sai đường, trật lối nhưng thay vì quay trở về để khởi đầu một hành trình mới nhằm đạt tới đích,  ngược lại họ tiếp tục lún sâu trong cái tôi ích kỷ của chính mình để rồi dẫn đến tình trạng nằm ù lỳ trong vũng lầy êm ái của tội và rơi vào tình trạng: “Mù dắt mù cả hai cùng sa xuống hố”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết sám hối để được cứu độ. Hơn nữa, cần phải sám hối để trở thành khí cụ của sự hiệp nhất và lòng thương xót của Chúa nơi anh chị em.
Ước mong sao lời mời gọi của Đức Giêsu khi xưa cho người đương thời với Ngài về lòng sám hối ăn năn, thì cũng là lời mời gọi, hối thúc cho mỗi chúng ta hôm nay.
 
Lạy Chúa Giêsu, lời Chúa hôm nay đã khẳng đinh: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Xin cho chúng con hiểu rằng: “Nếu không sám hối thì không thể được cứu độ”. Vì thế, xin Chúa giúp cho chúng con nhận ra sự yếu đuối của bản thân, ngõ hầu có được một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu để đáng được hưởng dồi dào ơn thánh của Chúa và được đi trong đường lối của Người để đạt tới đích là quê trời vĩnh cửu. Amen.

 Ts. Jos. Vinc. Ngọc Biển, s.s.p
 
-------------------------------------------

 

TN 3-A105: CHÚA GIÊSU GỌI CÁC MÔN ĐỆ


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN, năm A

Is 8,23b-9,3     1 Co 1,10-13.17   Mt 4,12 – 23

 

 Ơn gọi là một hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa đối với một con người. Mỗi người một hoàn cảnh, TN 3-A105


Ơn gọi là một hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa đối với một con người. Mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một dịp, một cơ hội, Chúa gọi ai tùy ý Ngài muốn. Có thể nói được ơn gọi là một ơn huệ nhưng không Thiên Chúa ban cho con người. Chính vì thế, khi khai mạc sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Ngài tại dòng sông Giođăng. Gioan Tẩy Giả đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu và Ngài nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế. Sau đó, Chúa kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài. Bởi vì, Chúa không muốn công việc loan báo Tin Mừng chỉ một mình Ngài làm. Ngài muốn có nhiều người cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài. Nên, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên đi theo Ngài…

Tin Mừng của thánh Matthêu cho hay, Chúa đã kêu gọi ông Simon, sau Ngài sẽ đổi tên ông là Phêrô, và Anrê, em của Simon. Giacôbê và Gioan em Ông.Khi được Chúa đích danh mời gọi, dù các môn đệ đang làm nghề chài lưới, đang sống với cha mẹ, vợ con vv…dù họ rất bịn rịn với cái nghề truyền thống của tổ tiên để lại, dù họ đang sống êm đềm, thân thương với cha mẹ, họ hàng, vợ con…nhưng được gọi tên họ đã dứt khoát bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu.Thực tế, các môn đệ đã có cái nhìn sáng suốt, có trực giác nhạy bén giữa lời mời gọi khác lạ của Chúa Giêsu và các Kinh sư, Biệt phái vv…Các môn đệ đã có một đức tin sâu xa, do đó, họ đã nhận ra Chúa Giêsu là ai, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, ánh sáng đức tin có lúc còn mờ nhạt bởi vì họ chưa cảm nghiệm sâu xa Đấng kêu gọi họ, họ theo Ngài nhưng phải sống chết vì Ngài. Vâng, phải đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống, ánh sáng ấy mới rực chiếu soi và họ mới nhận ra thực rõ nét, họ bền tâm kiên trì làm chứng cho Chúa Phục Sinh dẫu phải hy sinh cả mạng sống vv…

Tin Mừng cho hay, cả cuộc đời theo Chúa là cả một quá trình các môn đệ phải phấn đấu, vượt thắng bởi vì dẫu sao các Ngài vẫn còn là con người, vẫn mang thân phận yếu hèn, tội lỗi. Đi theo Chúa, các Ngài vẫn còn tham sân si phủ lấp.Do đó, có lần các Ngài đã không đủ khiêm nhường, không đủ kiên nhẫn để chấp nhận thân phận “ hiền lành và khiêm nhường “ như Chúa muốn. Có lần các Ngài đã tranh luận dọc đường ai sẽ làm lớn làm bé. Các Ngài cứ quan niệm Vương Quốc của Chúa Giêsu cũng giống như nước trần gian này. Các Ngài chưa hiểu được ý của Chúa: “ Người làm lớn phải là người phục vụ “, chính Chúa đã nêu gương cho các môn đệ, Ngài cúi xuống, rửa chân cho các môn đệ “. Nên, các môn đệ cũng phải noi gương bắt chước Ngài.

Kitô hữu là người thuộc về Chúa bởi vì qua bí tích rửa tội, họ mang một tên thánh. Mang tên mới, họ thuộc trọn vẹn về Chúa, họ là nhiệm thể của thân thể của Đức Kitô. Và họ sẽ được mạnh mẽ, lớn lên trong bí tích thêm sức. Họ sẽ kiên trì, can đảm lắng nghe và tuân giữ lề luật của Chúa. Họ sẽ mạnh mẽ làm chứng cho Chúa.

Đi theo Chúa, ở lại với Chúa, và làm chứng cho Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta phải có đức tin, đòi hỏi chúng ta phải mạnh mẽ, can đảm và không hề sợ bất cứ những gì cản trở chúng ta trên cuộc hành trình đức tin, bởi vì chúng ta tin Chúa luôn có mặt với chúng ta trong suốt cuộc đời trần thế này.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã kêu gọi các môn đệ, nghe tiếng gọi, các Ngài đã bỏ tất cả mọi sự để đi theo Chúa.Xin cho chúng con cũng noi gương các Ngài sẵn sàng làm chứng cho Chúa bằng đời sống đạo: bác ái và yêu thương của chúng con.Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Chúa đã gọi các môn đệ đầu tiên như thế nào ?
2.Tại sao Chúa lại đổi tên Simon là Phêrô ?
3.Tên có ý nghĩa gì ?
4.Kitô hữu là người thuộc về ai ? Tại sao ?

-------------------------------------------

 

TN 3-A106: CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN


Khởi đầu sứ vụ của Chúa Giê-su

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 8:23b – 9:3;  1 Cr 1:10-13,17;  Mt 4:12-23)

 

          Trên sân khấu, trước hết là những màn mở đầu, rồi đến phần giới thiệu nhân vật chính.  Khi ấy, TN 3-A106


Trên sân khấu, trước hết là những màn mở đầu, rồi đến phần giới thiệu nhân vật chính.  Khi ấy, nhân vật chính bước ra và bắt đầu phần trình diễn nòng cốt của chương trình.  Tương tự, chúng ta thấy Phụng vụ Lời Chúa trong những Chúa Nhật trước đã làm công việc giới thiệu Chúa Giê-su và sứ vụ của Người.  Bây giờ là     giây phút Người bắt đầu thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao phó.  Việc Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ đưa chúng ta đến một viễn tượng mới, hay nói đúng hơn, tới một cuộc tạo dựng mới, và mời gọi chúng ta hãy để cho lời giảng và những việc làm của Chúa từ từ biến đổi chúng ta thành thụ tạo mới theo khuôn mẫu là Đức Giê-su Ki-tô.

          Khung cảnh khởi đầu sứ vụ của Chúa Giê-su là bối cảnh miền đất Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, “vùng đất của dân ngoại” và “dân đang lần bước giữa tối tăm” (bài đọc 1).  Đó cũng là hình ảnh ngôn sứ I-sai-a dùng để ám chỉ thế giới tội lỗi và u tối này sẽ được ánh sáng Tin Mừng Chúa Ki-tô chiếu rọi.  Nơi ấy, Chúa Giê-su sẽ thi hành một sứ mệnh quan trọng:  phá tan bóng tối tội lỗi và đem lại niềm vui cho nhân loại, bẻ gãy cái ách tội lỗi đã khoác lên vai con người.  Tóm lại, Chúa Giê-su đến trần gian như một Đấng giải phóng nhân loại, chiến thắng tội lỗi và sự chết.

          Vậy Chúa Giê-su bắt đầu sứ mệnh như thế nào?  Người rời quê nhà Na-da-rét để đến Ca-phác-na-um ven biển hồ Ga-li-lê.  Tại đây, Người “bắt đầu rao giảng và nói rằng:  “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”.  Đây là sứ điệp cốt lõi của Tin Mừng, đơn giản nhưng lại vô cùng thách thức.  Cho dù Chúa Giê-su có khai triển giáo lý của Người cách nào đi nữa thì chung quy cũng đưa tới kết luận, là chúng ta phải đáp lại lời giảng của Người bằng cách sám hối, nghĩa là quay lưng lại tội lỗi và hướng mặt về Thiên Chúa để đến nhận lãnh tình yêu và lòng thương xót của Người.  Là một sứ điệp đầy thách thức, vì nó đòi hỏi chúng ta phải thay đổi:  thay đổi não trạng (metanoia), thay đổi lối sống trong tương quan với Chúa, với anh chị em và với chính mình.  Không có thay đổi nào mà không phải hy sinh, phải bỏ đi những gì tuy là tội lỗi xấu xa nhưng mình lại ưa thích, phải đón nhận nhiều điều làm cho mình thấy khó chịu.  Cứ lấy một thí dụ cụ thể như hút thuốc thôi, để giúp chúng ta hiểu sám hối hoặc thay đổi là việc khó như thế nào.  Dốc lòng bỏ thuốc vì vợ con muốn mình bỏ hoặc vì tai hại cho sức khỏe.  Biết vậy, nhưng bỏ được một vài ngày thôi là thấy nó buồn miệng!  Thế là đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.  Hoặc cùng lắm là hút thuốc lá… điện tử cho đỡ ghiền!  Cũng thế, Chúa Giê-su muốn chúng ta phải yêu thương kẻ thù, một điều đi ngược lại não trạng của người đời.  Khác nào nếu tôi yêu thương kẻ thù là tôi có vấn đề thần kinh.  Nhưng Chúa đòi chúng ta phải thay đổi não trạng ấy, phải quay ngược 180 độ, từ ghét sang yêu, từ hận thù sang tha thứ.

          Nhưng tại sao chúng ta lại phải sám hối?  Câu trả lời của Chúa ngắn gọn:  “Vì Nước Trời đã đến gần”.  Nước Trời không phải là một vương quốc trần gian, nhưng là một con đường, một lối sống theo Chúa Ki-tô để Người dẫn chúng ta đến cùng đích cuộc đời, tức quê hương trên trời.  Chúa Giê-su đã khẳng định Người là “con đường, sự thật và sự sống” của chúng ta (Gio-an 14:6).  Trên con đường ấy, trong sự thật ấy và với sự sống ấy, chúng ta sẽ để cho Chúa Giê-su giúp chúng ta được “đồng hình đồng dạng” với Người, hầu chúng ta thực hiện được giấc mơ của Thiên Chúa, là  “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mát-thêu 5:48).  Dĩ nhiên, chúng ta phải làm môn đệ Chúa Giê-su thì chúng ta mới học được!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Đoạn thư 1 Cô-rin-tô của thánh Phao-lô và bài Tin Mừng đều nói đến việc rao giảng Tin Mừng.  Thánh Phao-lô quả quyết ngài được Chúa “sai đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo”, nhưng bằng gương sáng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.  Còn bài Tin Mừng thì kể lại việc Chúa gọi hai cặp anh em làm môn đệ Người, để mai sau họ tiếp nối sứ vụ rao giảng của Người.  Hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục đi bên cuộc đời chúng ta giống như Người đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê.  Lời Người kêu gọi chúng ta làm môn đệ không ngừng vang lên trong tâm hồn chúng ta.  Các môn đệ Chúa đã quay 180 độ, bỏ mọi sự để làm môn đệ Chúa.  Còn chúng ta sẽ bỏ lại những gì đây? 
 Lm. Đa-minh Trần đình Nhi        

-------------------------------------------

 

TN 3-A107: Buông theo Thần Khí - Huệ Minh

 

Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai tại miền Galilê. Sau khi chịu Phép Rửa của ông Gioan tại TN 3-A107


Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai tại miền Galilê. Sau khi chịu Phép Rửa của ông Gioan tại sông Giođan (Mt 3,13-17), Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4,1-11). Sau đó, khi nghe ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê, rồi bỏ Nadarét, đến Caphácnaum và từ đó, Người bắt đầu rao giảng Tin Mừng (Mt 4,12-17). Ngay khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Mt 4,18-22), và dân chúng rất đông ở khắp miền Galilê đến để nghe Người rao giảng và được chữa lành (Mt 4,23-25).

Và rồi Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ ở miền Galilê bằng việc “rao giảng Tin Mừng Nước Trời” và “chữa lành hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”. Hành động này của Đức Giêsu là cách hiện thực hóa lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được Tin Mừng trích dẫn: “Hỡi Galilê, miền đất dân ngoại, đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.

Ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Việc các ông lập tức từ bỏ mọi sự mà theo Người vô điều kiện là một cách đáp trả tận căn lời kêu gọi “hoán cải” trong lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu. Các ông là những người dấn thân trọn vẹn qua việc từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ, của cải vật chất, nghề nghiệp và cả những tương quan trần thế, kể cả cha mẹ và anh em ruột thịt để theo Đức Giêsu, trở thành những môn đệ “kề cận” của Người.

Ơn gọi này được khởi xướng từ Đức Giêsu, nhưng để thành sự thì hoàn toàn do thái độ đáp trả của người được gọi. Nhờ vậy, họ thiết lập với Đức Giêsu một sự hiệp thông sâu xa để có thể trải nghiệm được toàn bộ đời sống của Đức Giêsu qua các lời giáo huấn và hành động của Người, và tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân để quy tụ mọi người về trong một Giáo Hội duy nhất, như quy tụ “cá vào trong lưới”.

Đức Giêsu bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.” Sự từ bỏ mọi sự này như là một đòi buộc cốt yếu đối với sứ vụ của người làm môn đệ Đức Giêsu. Nhờ đó, họ được tự do thanh thoát và có thể mở ra một tương quan mới rộng lớn hơn hướng đến mọi người và giúp mọi người được đón nhận ơn cứu độ. Tin Mừng Mátthêu đã xây dựng hình ảnh người môn đệ như một mẫu gương lý tưởng cho mọi Kitô hữu.

Sự dứt khoát của các ông cho thấy họ đã tìm được kho tàng, chân lý, lẽ sống đích thực là chính Chúa. Các ông cũng khám phá ra lý tưởng của cuộc đời. Vì thế, các ông đành mất hết và coi mọi sự là rơm rác so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của các ông. Từ đây, các ông được sống cùng và sống với Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Thật là hạnh phúc cho bốn môn đệ đầu tiên này!

Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Chúa Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa".

Qua câu nói này, Chúa Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc của cải, thế gian và tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Như vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình…

Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy. Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.

Theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14).

Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.

Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu nói: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta. (Mt 4, 19) Lập tức họ theo Người. Thật là lạ lùng! Nghĩ về các tông đồ cũng gợi ta nhớ về mình. Ta cũng trả lời tiếng gọi theo Chúa, nhưng đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều rồi mới gật đầu. Có nhiều trường hợp sau khi cuộc đời trầy trụa ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh, rồi mới thấy tu là cõi phúc tình là giây oan, nhưng vẫn chưa trọn vẹn!

Muốn theo Chúa ta phải vượt lên trên những ràng buộc về quyền, tiền và sẵn sàng bước theo Chúa Giêsu trên hành trình loan báo này. Bao lâu chúng ta còn vướng bận quá nhiều trong những chuyện như cơm áo gạo tiền; còn đi tìm những điểm tựa danh vọng, an nhàn thư thái; còn lo lắng quá nhiều đến tình cảm riêng tư, thì bấy lâu con người chúng ta nặng nề và không thanh thoát trong việc làm vinh danh Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người được.

Có được tinh thần thanh thoát và nhẹ nhàng thì chúng ta mới nhạy bén để làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo xác thịt. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.

-------------------------------------------

 

TN 3-A108: Khởi điểm truyền giáo – ViKiNi


(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

Chúa Giêsu khởi đầu truyền giáo bằng 3 việc: Đề tài hối cải, môi trường thích hợp và chọn nhân TN 3-A108


Chúa Giêsu khởi đầu truyền giáo bằng 3 việc: Đề tài hối cải, môi trường thích hợp và chọn nhân sự hợp tác.

+ Hối cải là đề tài quan trọng của Gioan tiền hô (Mt. 3. 2) của Chúa Giêsu và của Phêrô (Cv. 2, 28) lúc bắt đầu rao giảng Tin mừng. Hối cải là bước dứt khoát đầu tiên tiến vào nước trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lầm lạc, tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài hối cải rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngoại tới cư ngụ, buôn bán ở Caphanaum.

+ Môi trường thích hợp: Caphanaum là thành phố thương mại phồn thịnh và quan trọng, nằm trên đường từ bắc qua trung đến nam nước Do Thái, là đường liên lạc giữa các nước Địa Trung hải đến các nước Trung Đông như: Libăng, Jorđanie, Irak, Iran, Ả rập, cho nên Đế quốc Roma đã đặt đồn quan thuế ở đây. Caphanaum còn là thành phố nằm trên bờ biển hồ Tibê, rất thuận tiện cho việc giao thông, chuyên chở, đi lại.

Chúa Giêsu chọn Caphanaum làm trung tâm vì ba lý do:

Thứ nhất để thực hiện đúng lời tiên Isaia đã loan báo từ 732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngoại.

Thứ hai, Caphanaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên, mà có lẽ nhà Phêrô là nơi thuận tiện cho việc truyền giáo.

Thứ ba, đây là lý do quan trọng nhất: để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hoàng”

+ Nhân sự hợp tác: Ánh sáng đó đã bắt đầu bừng lên trong những thanh niên chài lưới có tâm hồn cường tráng, trong một thân xác tráng kiện “mens sana in corpore sano”, nên họ vừa nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo Ta”, Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan liền bỏ chài lưới đi theo Người. Họ đã dứt khoát đổi đời, tiến bước theo Người. Họ đã bỏ hết của cải, thuyền bè, chài lưới, bạn bè, gia đình, cha mẹ, mọi thứ thân yêu nhất ở đời. Họ không thắc mắc tương lai sẽ ra sao? Sướng hay khổ, vinh nhục, giàu nghèo? Hoàn toàn tin tưởng vào Thầy đi theo cái một.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần Chúa đã gọi con từ bỏ tham lam, danh vọng, tội lỗi, biết bao lần Chúa đã gọi con làm một việc bác ái, một hy sinh nho nhỏ, một giờ hồi tâm, một nửa giờ lễ, một phút cầu nguyện, nhưng con chẳng đáp lời. Lạy Chúa xin tha thứ, xin cho con biết hối cải, biết đổi mới cuộc đời, quyết tâm theo tiếng gọi của Chúa như Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan.

-------------------------------------------

 

TN 3-A109: Vì Nước Trời... - Dã Quỳ

 

Trong cuộc sống, khi làm bất cứ công việc gì, người ta cần phải có mục đích. Việc càng lớn hay TN 3-A109


Trong cuộc sống, khi làm bất cứ công việc gì, người ta cần phải có mục đích. Việc càng lớn hay quan trọng thì càng cần phải lên kế hoạch và chương trình hành động rõ ràng thì mới mong có thể thành công. Trong bài Tin Mừng hôm nay, hơn ai hết, Chúa Giêsu đã có một chương trình thật rõ cho sứ vụ của Người: Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kêu gọi người ta sám hối; mời gọi và chọn một số người để huấn luyện các ông trở thành môn đệ tiếp nối sứ mệnh của Chúa; an ủi và chữa lành cho dân. Những việc Chúa làm nói lên mục đích Người đem ánh sáng cho muôn dân, cho những ai còn ngồi trong bóng tối và cứu độ nhân loại. Với mỗi người Kitô hữu hôm nay, Chúa cũng mời gọi ta lắng nghe Lời Chúa dạy, đi theo Chúa và tiếp bước sứ mạng của Chúa.

Chúa Giêsu di chuyển, thay đổi nơi chốn và rời làng quê mà Người đã từng sống và lớn lên ở đó, để đến một làng khác cần Người hơn. Người sẽ có những hàng xóm mới, những người thân quen mới và những tương quan mới. Chính ở nơi miền đất này, vùng đất dân ngoại mà Chúa đã bắt đầu sứ mạng "Này đất Dơvulun và Náptali... hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng..." Chúa đến, Người muốn gặp gỡ muôn dân còn đang ngồi trong bóng tối, những người đang mong chờ ánh sáng Chúa chiếu rọi. Chính vì thế, Chúa đã rảo bước trên đường, từ thành này sang làng khác để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Vậy đâu là chủ đề trong lời giảng đầu tiên của Chúa và Người nói về điều gì? Đâu là điều cốt yếu trong lời giảng dạy của Chúa?

"Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." Đó là tất cả sứ điệp Tin Mừng Chúa muốn nói với chúng ta lúc này. Ta hãy lắng nghe lời Chúa nhắn nhủ "Nước Trời đã đến gần". Chúa Giêsu-hiện thân của Nước Trời đã đến, Người ở đó với chúng ta, nếu ta biết và muốn đón tiếp Người. Và để đón nhận Nước Trời, sống theo tinh thần Nước Trời, Chúa mời gọi chúng ta "Anh em hãy sám hối", hãy thay con tim, đổi lối sống, quay trở về với Thiên Chúa và với lòng mình.

Tất cả có thể trở nên tốt đẹp khi ta biết hoán cải và đó là một tin vui, một điều tuyệt hảo. Nếu chúng ta không biến đổi, lời rao giảng của Chúa chỉ là lời giảng dạy đạo đức khuyên ta làm điều này, tránh điều kia. Sám hối không phải là sự bi quan sầu não của kẻ thất vọng mà là một niềm hy vọng, một sức lực mới giúp chúng ta vươn lên. Vì Nước Trời, ta ăn năn cải thiện đời sống. Thế nên, sám hối thực lòng là thay đổi cách sống của ta sao cho phù hợp với Tin Mừng, là sống yêu thương, tha thứ, nhân hậu, quảng đại, bác ái... với anh chị em; là thay đổi não trạng, lối suy nghĩ ích kỷ, độc đoán để biết đón nhận điều mới và giáo lý mà Chúa Giêsu dạy dỗ. Vì vậy, sám hối là điều kiện cần thiết để nhận ra tình thương xót thứ tha của Chúa, để đón nhận ơn cứu độ và để trở nên những môn đệ trung tín của Chúa.

Tiến trình giảng dạy của Chúa được tiếp nối bằng việc Chúa gặp và chọn gọi bốn môn đệ đầu tiên "Người đang đi..., thì thấy hai anh em kia...Người bảo các ông: 'Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá..."( x. Mt 4,18-19.21) Ở đây, thánh Matthêu cho chúng ta thấy việc chọn gọi và huấn luyện các môn đệ thật quan trọng cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúng ta sẽ không còn thấy Chúa Giêsu giảng dạy trước đám đông dân chúng nữa, nhưng các môn đệ qua mọi thời vẫn còn tiếp tục sứ vụ của Chúa.

Vì thế, ơn gọi môn đệ là sáng kiến của Chúa và là chương trình của Chúa cho chúng ta. Chúa muốn người môn đệ đến, ở lại với Chúa, lắng nghe lời Chúa dạy, thụ huấn với Chúa những bài học cuộc sống khi ở cùng, và đi theo sát kề Chúa. Đón nhận tình yêu và tất cả mọi biến cố cuộc đời của Chúa "Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn...để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng" (x. Mc 3,13-14) Như vậy, người môn đệ chỉ còn một lòng sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi và tức khắc lên đường theo Chúa "Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người." Chọn cuộc sống của Chúa làm của mình, thực sự trở thành thừa tác viên của Chúa, cộng tác với Chúa trong mọi sứ vụ truyền giáo, thực hiện chương trình của Chúa, làm việc cho công trình của Người và giúp Người cứu độ nhân loại.

Trong sứ vụ của Chúa, những hành động đi kèm lời giảng dạy là việc "chữa lành tất cả mọi bệnh hoạn tật nguyền của dân." Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương và bày tỏ tình xót thương của Người. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa ở với dân Ngài, với tác phẩm Ngài tạo nên. Chúa giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời để chữa trị tâm hồn và thỏa cơn đói khát tinh thần của con người. Chúa còn chữa lành biết bao bệnh tật, an ủi và nâng đỡ những con người đau khổ, bị khinh miệt gạt ra lề tôn giáo và xã hội, là "Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần." Chúa yêu thương chúng ta, thấu hiểu chúng ta và chỉ muốn ta được hạnh phúc.

Thế nhưng, trong thế giới mà chúng ta sống hôm nay đang là một thế giới ô nhiễm về nhiều mặt, từ bầu khí ô nhiễm tinh thần qua tin, sách báo, phim ảnh... đang len lỏi vào cuộc sống, đến ô nhiễm về không khí, nước, thực phẩm và sản phẩm... Đâu đâu cũng thấy sự nhiễm độc và nguy hại sinh ra bao bệnh tật hiểm nghèo. Tình trạnh thê thảm này là trách nhiệm của chúng ta và cũng đang là thách đố của chúng ta! Hãy cầu xin Chúa dạy ta biết sám hối về chính những gì ta đã làm, đã sống không phù hợp với tinh thần của Chúa và Tin Mừng Chúa dạy. Hãy cải thiện lối sống để thực thi đức công bằng, bác ái với tha nhân và sống lương thiện trong sản xuất, buôn bán, sử dụng,...

Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng là sứ mạng của mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay. Ước gì chúng ta biết lắng nghe lời Chúa dạy, sẵn lòng theo Chúa trong việc thực thi Tin Mừng và năng ở với Chúa, gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, qua các Bí tích. Thật lòng trở về với Chúa và thành tâm sám hối những yếu đuối, lỗi lầm, sa ngã. Khi đã đón nhận, nghiệm thấy tình thương Chúa, ta cũng biết lên đường rao truyền Lời Chúa, nói về Chúa cho anh chị em, và thể hiện niềm vui được Chúa yêu thương cho những ai ta gặp gỡ. Xin cho từng Kitô hữu Việt Nam luôn biết dấn thân, hăng hái lên đường, đem ánh sáng Chúa Kitô cho anh chị em trên quê hương vẫn còn ở trong cảnh tối tăm, để tất cả cùng được ánh sáng Chúa chiếu dọi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã đến với chúng con. Xin chiếu dãi ánh sáng Tin Mừng của Chúa vào trong chúng con. Xin biến đổi số phận của tất cả nhân loại, cho chúng con được hưởng hạnh phúc và ơn cứu độ. Amen.

-------------------------------------------

 

TN 3-A110: Galilê, vùng dân ngoại.


(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

 

Khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu đã lánh qua Galilê. Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài. Dân TN 3-A110


Khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu đã lánh qua Galilê.

Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài. Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại. Người Do Thái ở đây bị coi là những kẻ sống bên lề Dân Chúa. Nhưng Galilê lại là nguyên quán của Ngôi Lời làm người, và là nơi Đức Giêsu chọn để bắt đầu thi hành sứ vụ.

Từ Galilê, Ngài sẽ sai môn đệ đi khắp thế gian (Mt 28,19).

Đức Giêsu rời bỏ Nadarét, để đến cư ngụ tại Caphácnaum. Caphácnaum là địa bàn hoạt động được Ngài ưa thích. Có lúc nó được gọi là thành của Ngài (9,1), dù bất xứng (11,23).

Galilê, Nadarét, Caphácnaum chẳng có chút tiếng tăm (Ga 1,46), nhưng Đức Giêsu vẫn là một ngôn sứ xuất thân từ đó (Mt 21,11).

Hãy ngắm nhìn Đức Giêsu trên những nẻo đường.

Ngài rút về Galilê, Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển. Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài (Mt 4,23), Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến. Ngài đích thân đến với con người ngay giữa đời thường. Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng đô ở một chỗ. Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38). Đức Giêsu chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.

Những người đầu tiên là các ngư phủ mà Ngài quen biết. Tuy là những người ít học, không giàu có hay địa vị, nhưng đối với Ngài, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Ngài.

Sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi. Sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung. Sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh. Khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ.

"Các anh hãy theo Tôi": một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Tôi và chia sẻ thao thức của Tôi.

Để lên đường cần bỏ lại cái êm ấm được phép, êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới.

Theo Chúa là chấp nhận ra khơi hay đúng hơn là chấp nhận lên bờ, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, là để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, và tận tụy cho sứ mệnh loan báo Nước Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần bên.

Để đón lấy quà tặng đó, cần sám hối, hoán cải.

Hoán cải là để Ngài kéo vào một chuyển động, là quay lại, là bỏ con đường mình đã quen từ lâu, để đi cùng chiều với Chúa và ngược chiều với cái tôi ích kỷ.

Đức Giêsu gieo rắc niềm vui khắp nơi.

Niềm vui cho người nghe, niềm vui cho người khỏi bệnh. Bước chân không mỏi, lời nói thiết tha, trái tim gần gũi?

Hôm nay Hội Thánh vẫn sống giữa những Galilê dân ngoại.

Chúng ta có đủ niềm vui để làm Galilê bừng sáng không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Đi kèm với lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo ý bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần phải làm gì kèm theo, để dễ được người nghe đón nhận?

Đức Giêsu đã gọi bốn bạn trẻ khi họ đang tất bật với cuộc sống. Có khi nào Chúa gọi bạn lúc bạn đang vất vả kiếm sống không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.

Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.

Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay. Có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.

Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.

Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng.

Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.

-------------------------------------------

 

TN 3-A111: Bước theo Ánh Sáng


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Trong những Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã dừng lại ở khái niệm “Ánh Sáng”. Khởi đi từ TN 3-A111


Trong những Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã dừng lại ở khái niệm “Ánh Sáng”. Khởi đi từ những chứng từ Cựu ước, chúng ta đã chiêm ngắm Ánh Sáng là Đức Giêsu Kitô. Khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, Giáo Hội muốn khẳng định, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, cùng bản thể với Thiên Chúa Cha và từ nơi Chúa Cha mà đến.

Dưới cái nhìn của tác giả Tin Mừng thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu xuất hiện và rao giảng Tin Mừng đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia của thời Cựu ước. Qua lời giáo huấn của Chúa Giêsu, “Toàn dân đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Bài đọc I, trích từ sách ngôn sứ Isaia, là bài đọc mà chúng ta đã nghe trong lễ Đêm Giáng sinh, chính là nguồn mà Thánh Matthêu trích dẫn. Với nét văn chương hùng hồn, trang trọng và gợi hình, đoạn sách thánh này là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Cựu ước. Cùng với Thánh Matthêu và cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai, Giáo Hội hôm nay tiếp tục tuyên xưng Đức Giêsu là Ánh Sáng trần gian.

Chúa Giêsu là Ánh Sáng của trí tuệ. Người là sự Khôn ngoan của Chúa Cha. Đức Khôn ngoan đã nhập thể làm người. Người đến trần gian để mở trí cho con người của mọi thời đại, giúp họ nhận biết Chúa là Cha của gia đình nhân loại và nhận biết mọi người cùng là anh chị em với nhau. Lời giảng của Chúa Giêsu về đề tài ánh sáng, được chứng minh bằng phép lạ chữa người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Thánh Gioan đã khẳng định: Chúa Giêsu khai sáng trí tuệ và nhận thức của con người, giúp họ thoát khỏi sự vô tri, đồng thời nhận ra con đường Chân lý và nhờ đó được ơn Cứu độ.

Chúa Giêsu là Ánh Sáng của Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Người là gương mặt thương xót của Chúa Cha. Nơi Người, con người cảm nhận được tình thương của Chúa Cha. Tình thương ấy giúp họ vượt lên những chông gai của cuộc sống, để rồi giữa thế gian đầy cạm bẫy và khó khăn, họ vẫn tin vào lòng thương xót của Chúa, được tiếp thêm nghị lực siêu nhiên và chỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.

Chúa Giêsu là Ánh Sáng của lòng nhân ái. Giáo huấn của Chúa nhằm giúp con người nhận ra mọi người đều là anh chị em với nhau. Không ai là một hòn đảo. Người ta cũng không thể hiện hữu một mình, nhưng hiện hữu với người khác, nhờ người khác và cho người khác. Chỉ khi đó, cuộc sống mới có ý nghĩa. Giới răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta, đó là giới răn yêu thương. Nhờ yêu thương mà cuộc đời này trở nên đẹp đẽ, đáng yêu và đáng sống. Đức yêu thương tô điểm cho cuộc đời này và làm cho nó có ý nghĩa. Thánh Phaolô đã khuyên giáo dân Côrinhtô dẹp bỏ những chia rẽ trong nội bộ, kể cả những chia rẽ dựa trên những khái niệm giáo huấn. Quả vậy, vào thời đó, giữa nội bộ cộng đoàn Kitô hữu, có những người nhận mình là môn đệ của Phaolô, người khác lại nói mình thuộc về Kêpha (tức là Phêrô), người khác nữa lại nói mình thuộc Apôlô. Thánh Phaolô đã giải thích để mọi người hiểu: Phaolô, Kêpha hay Apôlô chỉ là những phương tiện để chuyển tải thông điệp Tin Mừng của Chúa. Chính Chúa Giêsu mới là Thày và là Chúa, đồng thời là Đấng đáng cho mọi người tôn thờ.

Thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên, cũng là hai cặp anh em. Đó là anh em ông Simôn và Anrê; anh em ông Giacôbê và Gioan. Đây là những thành phần trụ cột trong số những ông đồ sau này. Họ là những cộng sự viên của Đức Giêsu. Họ đã trung thành cho đến cùng để phụng sự Thày mình và đã chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa Giêsu. Theo Thánh Matthêu, hai cặp anh em được kêu gọi đều sẵn sàng và nhiệt tình bước theo Chúa Giêsu. Họ là những người đã bước theo Ánh Sáng và được Ánh Sáng chiếu soi, để rồi đến lượt họ lại trở nên ánh sáng cho trần gian.

Hôm nay cũng là ngày mồng Hai tết Canh Tý, là ngày cầu cho Ông Bà, Cha Mẹ. Yêu mến cha mẹ không chỉ là bổn phận để đền đáp ơn sinh thành, nhưng còn là những nghĩa cử đẹp lòng Chúa, xứng đáng được Ngài ban ơn và cho sống trường thọ trên dương gian. Yêu mến và hiếu thảo với cha mẹ, cũng chính là thi hành Luật Chúa. Cầu nguyện cho cha mẹ chưa đủ, chúng ta còn phải hiếu thảo, yêu mến và tôn trọng vâng lời cha mẹ. Khi cha mẹ tuổi già, con cháu cần phải chăm sóc chu đáo.

Nếu Chúa Giêsu là Ánh Sáng của trí tuệ, tình thương và lòng nhân ái, thì mỗi tín hữu là những người được mời gọi bước theo Ánh Sáng. Hãy đón nhận Ánh Sáng, đồng thời để cho Ánh Sáng chiếu soi, ngõ hầu cuộc đời của mỗi chúng ta trở nên ánh sáng chiếu soi trần gian.

---------------------------------

 

TN 3-A112: Chúa Nhật 3 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Vào ngày lễ kính thánh Giê-rô-ni-mô vừa qua (30/09/2019), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban TN 3-A112


Vào ngày lễ kính thánh Giê-rô-ni-mô vừa qua (30/09/2019), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc Aperuit Illis (“Ngài đã mở trí cho họ”) để thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha, Đức Cha Vinh Sơn chủ tịch Ủy Ban Kinh Thánh ấn định Chúa Nhật III Thường Niên dành riêng để cử hành, để suy tư và để công bố Lời Chúa.

Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu rồi. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Hiến Chế Mặc Khải, số 22).

Vì thế, khi thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” (“Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”)

Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A, Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sứ vụ khởi đầu của Đức Giê-su: chính ở Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, Đức Giê-su chọn để công bố Lời Ngài, trong khi Bài Đọc I ghi lại lời kêu gọi khẩn thiết của thánh Phao-lô về sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu.

Is 8: 23; 9:3

Ngôn sứ I-sai-a tiên báo với dân Ga-li-lê bất hạnh, nạn nhân của chính sách cai trị hà khắc của đế quốc Át-sua vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, rằng sẽ đến ngày một ánh sáng huy hoàng rực rỡ sẽ chiếu sáng trên họ.

1Cr 1: 10-13, 17

Trước nạn bè phái, thánh Phao-lô khẩn khoản kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Đó cũng là nỗi bận lòng lớn lao của Giáo Hội là kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện cho các Ki-tô hữu trên thế giới được nên một với nhau. Thánh Phao-lô công bố tính bất khả phân của Đức Ki-tô.

Mt 4: 12-23

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu trích dẫn bản văn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I) để chứng tỏ rằng chính nơi Đức Giê-su mà Kinh Thánh được ứng nghiệm: Đức Giê-su đã chọn Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê làm cứ điểm truyền giáo của Ngài. Ở đó, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên của Ngài, họ là những ngư phủ.

BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-4)

Bài Đọc I trích từ một trong ba sấm ngôn vĩ đại của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất về sự sinh hạ của một Hài Nhi, tên biểu tượng của con trẻ là “Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ba sấm ngôn này được gặp thấy trong các chương 7 đến chương 12 của sách I-sai-a, các chương này hình thành nên một tuyển tập được gọi là “sách về Đấng Em-ma-nu-en”. Sấm ngôn thứ nhất (7: 10-14) loan báo sự sinh hạ của một Hài Nhi, sấm ngôn thứ hai (8: 23b-9: 6) mô tả vài nét đặc trưng của triều đại Hài Nhi này, và sấm ngôn thứ ba (11: 1-9) bày tỏ triều đại của Hài Nhi là triều đại của những ân ban siêu nhiên, và là kỷ nguyên của hòa bình và cứu độ.

Đoạn văn hôm nay là phần thứ nhất của sấm ngôn thứ hai, nói về sự tương phản giữa cảnh đời gian truân tăm tối trong hiện tại với những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai.

1. Cảnh đời tăm tối trong hiện tại

Về phương diện lịch sử, tự ngồn gốc vùng Ga-li-lê được phân chia cho hai chi tộc Dơ-vu-lun và Nép-ta-li, khi dân It-ra-en vào Đất Hứa. Nhưng hai chi tộc này không bao giờ thành công trong việc đánh đuổi dân bản địa Ca-na-an nên ngay từ đầu dân cư Ga-li-lê đã là dân tạp chủng. Về phương diện địa lý, vùng đất Ga-li-lê tiếp giáp với các quốc gia ngoại bang, vì thế không thể tránh khỏi ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng của dân ngoại chung quanh. Hơn nữa, những con đường lớn của thế giới đều đi ngang qua miền Ga-li-lê, trong khi xa tít về phía Nam, miền Giu-đê thu mình vào một góc, cô lập, khép kín như câu thành ngữ: “Giu-đê không có đường đi đâu hết, còn Ga-li-lê đi khắp nơi”. Vì thế không lạ gì miền Ga-li-lê đã trở thành miếng mồi xâm lăng của các dân ngoại chung quanh và các đế quốc hùng mạnh thay nhau cai trị vùng này.

Sấm ngôn I-sai-a ám mô tả số phận bi thảm giáng xuống trên dân cư của vương quốc miền Bắc (cũng được gọi là “vương quốc Ít-ra-en”) dưới cuộc xâm lăng của đế quốc Át-sua vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Cuối cùng vương quốc miền Bắc hoàn toàn bị diệt vong, thủ đô là Sa-ma-ri bị chiếm, một số lượng lớn dân cư bị lưu đày, những dân ngoại bang thế chỗ. Sự đàn áp tàn bạo đến mức vị ngôn sứ mô tả rằng chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa vào triều đại của Vua Mê-si-a, vùng đất này mới có thể được giải thoát.

Quyền lực của đế quốc Át-sua sẽ ngự trị trên vùng đất này cho đến năm 612 trước Công Nguyên cho đến khi bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm. Như vậy, sau thời kỳ phục dịch đế quốc Át-sua, dân Ít-ra-en sẽ làm tôi đế quốc Ba-by-lon. Họ chỉ gặp lại cuộc sống thanh bình nhờ sự giải thoát của đế quốc Ba-tư. Dưới thời đô hộ của đế quốc Ba-tư, dân Ít-ra-en được hưởng một chính sách cai trị mềm dẻo, nhưng sự giải thoát nửa vời này không là điều vị ngôn sứ nghĩ đến: cái nhìn của ông còn đi xa hơn thế nhiều. Quả thật, khi đề cập đến những biến cố đương thời của mình, vị ngôn sứ nói: “Trong thời gian đầu”, diễn ngữ thời gian này ám chỉ đến hoàn cảnh hiện nay và mở ra một tương lai xa mà ông thoáng thấy. Vì thế, niềm phấn khởi của ông trước ánh sáng rạng ngời trên miền Ga-li-lê được xem như lời sấm mang chiều kích thiên sai: sấm ngôn này, một trong những sấm ngôn giàu hình ảnh, loan báo Tin Mừng cứu độ và sứ mạng của dân Ga-li-lê, dân thụ hưởng vinh quang của Đức Chúa.

2. Những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai

Chính trong cảnh đời tăm tối không lối thoát trong hiện tại mà vị ngôn sứ loan báo những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai. Cặp đối lập “ánh sáng / bóng tối” là chủ đề Kinh Thánh nổi tiếng chạy xuyên suốt toàn bộ lịch sử cứu độ, kể từ ngày Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-4) cho đến ngày chung cuộc, khi những ác nhân bị ném ra ngoài vào trong bóng tối hãi hùng. Qua toàn bộ lịch sử này, ơn cứu độ, niềm vui, niềm tin, chung chung được diễn tả bằng hình ảnh ánh sáng. Ở đỉnh điểm của tiến trình này, Đức Giê-su tự giới thiệu mình: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12).

Trong thị kiến của vị ngôn sứ, ánh sáng biểu tượng niềm vui cứu độ. Niềm vui này sẽ rạng ngời trên khắp miền Ga-li-lê và được mô tả bằng những hình ảnh như niềm vui của nhà nông vào ngày thu hoạch mùa màng sau công việc đồng án gian lao vất vả và như niềm vui của những lính chiến chia nhau những chiến lợi phẩm sau cuộc chiến gian khổ.

Nguyên do của niềm vui này chính là thời phục dịch sắp chấm dứt, kẻ hà hiếp sắp bị đánh bại. Khúc ca khải hoàn này được sánh ví như ngày chiến thắng quân Ma-đi-an (Tl 7: 1-25), một cuộc chiến thắng quá vẹn toàn, đạt được nhờ quân số quá nhỏ bé (300 chiến binh) đến nỗi chiến công này không hề phai nhạt trong ký ức của dân chúng như tiêu biểu cho hành động của Thiên Chúa.

Như vậy, Ga-li-lê, miền đất dân ngoại, có sứ mạng chiếu giãi ánh sáng của Thiên Chúa đến các dân ngoại. Sấm ngôn của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm bảy thế kỷ sau đó, khi Đức Giê-su công bố sứ điệp của Ngài ở miền Ga-li-lê dân ngoại này. Đó chính là điều mà trong số các tác giả Tin Mừng, thánh Mát-thêu quan tâm bậc nhất trong việc minh chứng con người và sứ mạng của Đức Giê-su đã được các ngôn sứ loan báo, chúng ta không thể nào bỏ qua.

BÀI ĐỌC II (1 Cr 1: 10-13, 17)

Bài Đọc II được trích từ “Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô” giúp chúng ta nắm bắt những nguyên do sâu xa của cuộc khủng hoảng mà Giáo Đoàn non trẻ này gặp phải.

1. Nạn bè phái (1 Cr 1: 11-12)

Bốn phe phái đối đầu với nhau ở lòng Giáo Đoàn Cô-rin-tô:

– Phe theo thánh Phao-lô: Thánh Phao-lô cũng có nhiều ủng hộ viên trong cộng đoàn này.

– Phe theo ông A-pô-lô: Nhờ vào sách Công Vụ 18: 24-28, chúng ta biết rằng ông A-pô-lô là một người Do thái quê ở A-lê-xan-ri-a, thủ đô của kiều bào Do thái giáo và một trong những thủ đô trí thức của thế giới vào thời đó. Nhờ có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh, ông rao giảng rất thành công ở Ê-phê-xô. Từ đó, ông đã sang miền A-khai-a dùng tài hùng biện của mình mà phục vụ Giáo Hội. Thánh Phao-lô, khi từ biệt Cô-rin-tô, đã giao phó cho ông A-pô-lô Giáo Đoàn non trẻ này. Tuy nhiên, ông A-pô-lô đã không lưu lại lâu ở Cô-rin-tô, nhưng cũng để lại ở đây một ảnh hưởng mạnh mẻ. Chắc hẳn, tài hùng biện chói sáng của ông làm lu mờ đi cách rao giảng đơn sơ và bộc trực của thánh Phao-lô (x. 1Cr 2: 1, 3, 5). Kết quả là một sự chia rẽ giữa những người theo phe ông A-pô-lô và những người vẫn trung thành với thánh Phao-lô.

Việc nhắc đến ông A-pô-lô ở cuối thư gửi tín hữu Cô-rin-tô này cho phép chúng ta khẳng định rằng ông A-pô-lô không để cho sự thành công lôi cuốn mình và cương quyết tự xóa mình trước thánh Phao-lô cho đến khi hoàn cảnh được tái lập: “Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc này anh ấy nhất định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện” (1 Cr 16: 12).

– Phe theo thánh Phê-rô: Có thể chính thánh Phê-rô, hay một trong những cộng sự viên thân cận của thánh nhân, đã đến Cô-rin-tô. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng những Ki-tô hữu gốc Do thái tìm kiếm nơi thánh Phê-rô một điểm tựa để bênh vực những lập trường duy Do thái của họ chống lại lập trường bao dung của thánh Phao lô đối với dân ngoại (x. Gl 2: 1-14).

– Phe theo Đức Ki-tô: Có thể đó là những Ki-tô hữu vẫn ở trong chính lộ (x. 1Cr 1: 13) hay những người tự phụ là mình gắn bó với Đức Ki-tô mà không nhận uy quyền của bất kỳ vị Tông Đồ nào.

2. Câu trả lời của thánh Phao-lô (1 Cr 1: 10, 13, 17)

Đối diện với nạn bè phái, thánh Phao-lô kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất và trình bày giáo huấn về tính bất khả phân của Đức Giê-su: tính duy nhất của Hy Tế Thập Giá, Phép Rửa, và Tin Mừng.

– Kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất

Thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Lời mời gọi dứt khoát, nồng nàn và khẩn thiết này được đặt ngay ở đầu, thậm chí trước khi viện dẫn hoàn cảnh của những chia rẽ. Thư gửi tín hữu Phi-líp-phê (Pl 2: 1-11) cho chúng ta lời giải thích lý do tại sao phải “một lòng một ý” với nhau.

Chính “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” mà các tín hữu Cô-rin-tô được mời gọi hiệp nhất với nhau, bởi vì những gì đụng chạm đến cộng đoàn là đụng chạm đến chính con người của Đức Ki-tô (Cv 9: 5). Như vậy, chia rẽ là phân chia chính Thân Thể Đức Ki-tô (x. 1Cr 12: 12t; Gl 3: 28).

– Tính bất khả phân của Đức Ki-tô

Sự sai lầm của các tín hữu Cô-rin-tô chính là đặt Tin Mừng trên cùng một bình diện với tất cả những khôn ngoan mà họ thường nghe các môn đệ của các triết gia nổi tiếng như Platon, Aristote, Zénon… truyền bá. Đối diện với những trào lưu triết học này, người ta có thể tranh luận không dứt và quyết định theo phe này hay phe kia (x. 1Cr 3: 3-4). Tin Mừng thì hoàn toàn khác. Tiên vàn, đây là công bố một sự kiện: cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô. Đức tin không là một sự gắn bó với một giáo thuyết, nhưng tận hiến bản thân mình cho Đức Ki-tô. Người môn đệ loan báo Tin Mừng không gì khác hơn là người loan báo Đức Ki-tô, vì thế người môn đệ là môn đệ của Đức Ki-tô, chứ không là môn đệ của bất kỳ Tông Đồ nào. Người môn đệ ấy sống cuộc sống của Đức Ki-tô, chứ không cuộc sống của bất kỳ Tông Đồ nào. Người ấy được cứu độ nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô chứ không nhờ cái chết của bất cứ Tông Đồ nào. Người ấy đã được rửa tội nhân danh Đức Ki-tô, chứ không nhân danh một ai khác (Cv 2: 38; 8: 16; 10: 48; vân vân).

Để tránh triệt để sự ngộ nhận, lời dạy của thánh Phao-lô được trình bày ngay tức khắc hoàn toàn khác với lời dạy của các triết gia hay các nhà hùng biện. Không cốt trình bày những lập luận có sức thuyết phục đối với tư tưởng này hay tư tưởng kia, nhưng chỉ cốt công bố mầu nhiệm của Đức Ki-tô chết trên Thập giá và sống lại. Vì thế, Tin Mừng không là đối tượng của sự chứng minh, nhưng ngỏ lời với đức tin.

Ngôn từ của thánh Phao-lô trong thư không cốt nhấn mạnh sự nối tiếp giữa những quan niệm ngoại giáo Hy lạp như ở A-thê-na (Cv 17: 16-33), nhưng đúng hơn trình bày thẳng thắn sự điên rồ của Thập Giá là sự khôn ngoan cao vời khôn sánh của Thiên Chúa tương phản với tất cả sự khôn ngoan của phàm nhân.

TIN MỪNG (Mt 4: 12-23)

Tin Mừng Mát-thêu được trích trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A gồm bốn phần: Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 12-16), lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17), thu nạp các môn đệ đầu tiên (4: 18-22), và sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 23).

1. Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 12-16)

Dấu ấn của thánh Mát-thêu in đậm đặc biệt trong đoạn văn này, nếu chúng ta so sánh với những đoạn văn liên hệ của các tác giả Nhất Lãm khác.

Sau khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả (Mt 3: 13-17), đoạn trải qua những chước cám dỗ trong sa-mạc (Mt 4: 1-11), và cuối cùng nghe tin “ông Gioan Tẩy giả đã bị nộp” (4: 12), Chúa Giê-su biết đã đến lúc Ngài bắt tay vào sứ vụ: nhiệm vụ dọn đường của Gio-an Tẩy Giả đã hoàn tất, vai phụ rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho vai chính là Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu cũng như thánh Mác-cô sẽ dùng cùng một diễn ngữ “bị nộp” để nói về việc Đức Giê-su bị bắt. Như vậy, Gioan Tẩy Giả loan báo về Đức Giê-su không chỉ bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng cuộc sống nữa. Qua động từ: “bị nộp”, thánh Mát-thêu muốn nói rằng số phận của ông Gioan Tẩy Giả báo trước số phận tương tự đang chờ đợi Đức Giê-su.

Sự kiện Đức Giê-su lánh sang miền Ga-li-lê khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị nộp khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Giê-su không còn cảm thấy an toàn ở miền Giu-đê. Tuy nhiên, vị vua đã tống giam Gioan Tẩy Giả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa lúc đó cai trị xứ Ga-li-lê. Dường như lý do sâu xa của việc Đức Giê-su chuyển dời miền đất hoạt động của mình sang miền Ga-li-lê được gặp thấy trong Tin Mừng Gioan: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an. Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê” (Ga 4: 1-3). Thánh Lu-ca nói một cách đơn giản: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê” (Lc 4: 14).

Còn thánh Mát-thêu thì trình bày quyết định của Đức Giê-su bằng những từ ngữ như quyết định của thánh Giu-se khi quay trở về từ Ai-cập đến cư ngụ ở Na-da-rét: “Khi nghe tin Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó… ông lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ” (Mt 2: 19-23). Cũng một cách thức như vậy trong bài trình thuật này: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a”. Việc kể tên hai địa danh xa xưa “Dơ-vu-lun và Nép-ta-li” rõ ràng dọn đường cho lời trích dẫn sấm ngôn I-sai-a. Hai địa hạt này chiếm phần lớn miền Ga-li-lê, bị đế quốc Át-sua sát nhập, bị Hy lạp hóa vào thời cai trị của đế quốc Hy lạp, vì thế phần lớn là người ngoại bang đến định cư. Lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về cuộc giải thoát được thánh Mát-thêu thấy ứng nghiệm nơi sứ vụ của Đức Giê-su.

Đức Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê. Thành Ca-phác-na-um được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi, thành phố giáp ranh giới với ba nước: Pa-lét-tin, Phê-ni-xi và Xy-ri-a: thành phố này là một phần của miền Ga-li-lê được gọi là “miền đất của dân ngoại”. Đức Giê-su chọn thành phố này làm địa bàn hoạt động của Ngài. Dân bản địa chủ yếu là những ngư phủ, thợ thủ công và tiểu điền chủ.

Quả thật, kiểu nói: “Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại” hình thành nên trọng tâm của lời trích dẫn Is 8: 23-9: 1 và cũng của sứ mạng Đức Giê-su. Khi nói: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm” (Mt 4: 16), thánh ký ám chỉ đến tình trạng tinh thần của dân Do thái vào thời ông, trong những miền dân cư tạp chủng. Như vậy, thánh ký nêu bật Đức Giê-su muốn chia sẻ cùng một cảnh ngộ với dân Ngài, như Ngài đã làm trong suốt thời gian ẩn dật cũng như khi chịu phép rửa. Chính vì dân Ngài, Đức Giê-su được sai đi trước tiên đến “những chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10: 6; 15: 24), nhưng cũng gặp gỡ dân ngoại, vì hoàn cảnh cụ thể của dân cư miền này đặt Ngài vào mối liên hệ với họ. Chính “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” này mà Đức Giê-su là “ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.

2. Lời rao giảng của Đức Giê-su (4: 17)

Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17) lặp lại y nguyên lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3: 2). Tuy nhiên, cũng một lời kêu gọi sám hối nhưng do bởi hai nhân vật với hai vai trò khác nhau: Gioan Tẩy Giả, người có sứ mạng làm phép rửa trong nước để dọn lòng cho con người đón tiếp Đức Giê-su, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (Mt 3: 11). Vì thế, lời kêu gọi sám hối của Đức Giê-su trở nên khẩn thiết hơn, vì Triều Đại Thiên Chúa đã khởi sự ở nơi sự hiện diện của Ngài. Cõi vĩnh hằng đã đột nhập vào thời gian, Triều Đại Thiên Chúa đã xâm nhập vào cõi thế. Vì thế, điều quan trọng hơn cả là con người phải quay tầm nhìn của mình khỏi hạ giới mà hướng về thượng giới, đổi hướng đi để tiến gần đến Đức Giê-su. Muốn thế thì phải nghe và theo Đức Giê-su.

3. Thu nạp các môn đệ đầu tiên (Mt 4: 18-22)

Lời rao giảng của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê được ghi nhận là đã gặp thấy lời đáp trả tích cực ở nơi bốn môn đệ đầu tiên. Bài trình thuật của thánh Mát-thêu về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên rất gần với bài trình thuật của thánh Mác-cô (bài trình thuật Lu-ca thì hơi khác). Câu chuyện thật đột ngột: hai anh em ông Si-mon và ông An-rê đang thả lưới bắt cá, liền bỏ nghề nghiệp của mình mà cất bước theo Đức Giê-su. Còn hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, sự đoạn tuyệt càng mãnh liệt hơn, họ không chỉ bỏ lại nghề nghiệp của mình, nhưng còn cả người cha mà họ có bổn phận phụng dưỡng nữa. Trước đây, chỉ vọn vẹn có ba từ: “Người bỏ Na-da-rét” gợi lên việc Đức Giê-su thoát ly gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và làng quê thân yêu Ngài, giờ đây Ngài cũng sẽ đòi hỏi các môn đệ của Ngài một đoạn tuyệt như vậy.

Hai anh em Si-mon và An-rê cũng như hai anh em Gia-cô-bê và Gioan ở đây chưa được gọi là môn đệ. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi họ đi theo Ngài, như ngôn sứ Ê-li-a đã làm như thế đối với Ê-li-sa (x. 1V 19: 20-21). Tuy nhiên, chúng ta có thể đọc thấy ở đây mối liên hệ của thầy với trò rồi, nhất là khi thêm vào “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, Đức Giê-su ngay tức khắc liên kết họ vào sứ mạng của Ngài. Bài diễn từ sai đi (ch, 10) và dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển (13: 47-50) sẽ đem lại nền tảng vững chắc cho lời công bố bí nhiệm này. Khi gọi những cộng tác viên đầu tiên của mình và mời gọi họ thoát ly khỏi môi trường gia đình và nghề nghiệp của họ, Ngài muốn nói với họ tầm mức biểu tượng sứ mạng của họ: tiếp nối sứ mạng của Ngài, đồng thời biến đổi hoàn cảnh phàm nhân của họ. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh vừa sự nối tiếp lẫn sự đoạn tuyệt trong lời mời gọi theo Ngài.

4. Sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 23)

Sau khi đã mô tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, thánh Mát-thêu lại tiếp tục trình bày sứ vụ của Đức Giê-su: “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, loan báo Tin Mừng Nước Trời, và chữa dân chúng hết bệnh hoạn tật nguyền” (4: 23). Ở đây, chúng ta thấy ba khía cạnh sứ vụ của Đức Giê-su: giảng dạy – loan báo Tin Mừng Nước Trời – chữa lành. Chúng ta sẽ gặp lại đúng y nguyên trình tự này ở 9: 35: “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”.

Phạm vi hoạt động của Đức Giê-su được ghi nhận “khắp miền Ga-li-lê”. Ngài không tự giới hạn vào việc quy tụ một nhóm nhỏ môn đệ, một trường đào tạo, theo cách thức của các kinh sư, nhưng với tư cách một nhà giảng thuyết lưu động, Đức Giê-su muốn rằng sứ điệp của Ngài phải đến với tất cả mọi người và được lan truyền ra khắp nơi.

--------------------------------

 

TN 3-A113: Ơn Cứu Độ


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

“Đức Chúa là ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ chi ai” (Tv. 27).

 

Thiên Chúa không chỉ là Đấng cứu độ người, nhưng Ngài còn là Đấng đong đầy mọi khát vọng TN 3-A113


Thiên Chúa không chỉ là Đấng cứu độ người, nhưng Ngài còn là Đấng đong đầy mọi khát vọng của con người. Nơi Ngài, con người được hạnh phúc trọn vẹn và đích thực.

1. Ơn cứu khỏi chết và ơn được sống hạnh phúc

Một người cầm chắc cái chết, chẳng hạn bị bệnh nan y không thể chữa nổi nữa, hay bị tai nạn đắm tàu sắp chết chìm, nhưng nếu họ được cứu thoát chết: đó là ơn cứu mạng. Ơn cứu độ, là ơn cứu sống. Trong cuộc sống, ai cũng mang ơn cha mẹ sinh ra mình, đó là ơn sinh thành. Ơn sinh thành là ơn có một không hai; vì không ai được sinh ra về thể lý hai lần. Ơn cứu mạng, cũng quý như ơn sinh thành, vì nếu không người đó đã bị chết. Khi người nào cứu sống được ai đó, người đó sẽ được biết ơn đến như thế nào!

Tuy vậy, nếu sống mà không hạnh phúc con người cũng chẳng muốn sống. Có một số người sống không hạnh phúc, nên họ muốn tự tử. Trong cuộc sống có một số người thất tình, họ không muốn sống nữa! Có một số người vì bị bệnh nặng, đau đớn nhiều, họ cũng muốn chết. Có những người vì bị bệnh mà phải làm phiền người khác, họ muốn chết vì không muốn làm phiền người khác. Như vậy, sống chưa phải là một ơn trọn vẹn, nếu đó không phải là sống hạnh phúc. Ơn cứu độ hàm nghĩa ơn cứu sống, và cũng là ơn sống hạnh phúc nữa.

Hạnh phúc hay không phần lớn tùy ở mình. Tuy nhiên con người cũng bị ảnh hưởng bởi người khác nữa; chẳng hạn trong đời sống gia đình, nếu người vợ tuyệt vời mà gặp người chồng “không biết mình chẳng biết người”, thì người vợ đó cũng khó hạnh phúc. Trong đời sống tu trì, nếu có người cùng cộng đoàn khó tính và thiếu trưởng thành, thì đời sống của những người khác cũng bị ảnh hưởng. Tuy dù những yếu tố thể lý ảnh hưởng trên tâm lý, con người với hiểu biết đúng đắn, vẫn có thể hạnh phúc, hay ít nhất bớt khổ, trong một mức độ nào đó. Chẳng hạn nếu chấp nhận người khác và chấp nhận khả năng giới hạn của mình, con người sẽ hạnh phúc hơn.

Hạnh phúc là tình trạng và cảm xúc của một người, nên chính người đó là một yếu tố quan trọng không thể thay thế được! Hơn nữa, dường như ở trên trần thế này, không có hạnh phúc trọn vẹn. Vì khi sống trên trần thế này, mạng sống con người có thể bị người khác cướp đi, điều quý nhất của mình cũng có thể bị người khác lấy mất bằng vũ lực và cưỡng đoạt. Vậy làm sao mình có thể hạnh phúc được! Hơn nữa, với thời gian, con người biến đổi: già và bệnh tật. Lực bất tòng tâm. Làm sao con người hạnh phúc! Dường như hạnh phúc trọn vẹn chỉ có ở “đời sau”.

Hạnh phúc trọn vẹn chỉ có ở đời sau. Hạnh phúc con người cũng là một ơn Thiên Chúa ban cho người nữa. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn muốn con người sống hạnh phúc trọn vẹn với Ngài, bây giờ và mãi mãi.

2. Thiên Chúa là Đấng cứu độ con người

Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người. Ngài luôn nghe tiếng con người khẩn nài và lưu tâm cứu giúp con người. Ngài trợ giúp con người ngay trong những gì thuộc phạm vi trần thế: Ngài cứu giúp dân Do Thái khi họ không còn có thể trông chờ nơi ai khác. Thiên Chúa bênh đỡ những người khốn khổ và bị áp bức, khi họ chỉ còn có thể trông chờ nơi Ngài thôi.

Lịch sử dân Do Thái cho thấy Thiên Chúa nghe tiếng dân cùng khổ khẩn cầu, và Ngài đã dùng Môsê để giải phóng họ. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu xin của bà Anna người hiếm con, và cho bà người con trai rất tuyệt là Samuel. Thiên Chúa đã thương bà goá nghèo không lương thực, đã nuôi bà cùng người con và tiên tri Elia trong thời gian dài đói kém.

Thiên Chúa yêu thương yêu tha thứ tội lỗi cho con người. Ngài ban Đức Yêsu cho con người, để qua Đức Yêsu con người hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Đức Yêsu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho con người. Qua Đức Yêsu con người cũng nhận ra con đường phải theo để sống hạnh phúc.

3. Đức Yêsu là Đấng cứu độ: Đấng giúp con người sống hạnh phúc

Đức Yêsu, mẫu gưong giúp con người sống hạnh phúc. Đức Yêsu đã sống trong cảnh nghèo như những người nghèo đã sống; Ngài cũng hẩm hiu trong cảnh nghèo hèn ít học. Tuy vậy, Ngài vẫn “triển nở và hạnh phúc” trong cuộc sống. Người nghèo, chưa phải là người không hạnh phúc. Những em bé nghèo, không phải là những em bé bất hạnh hơn những em bé giầu. Có nhiều em bé nhà giầu, nhưng không được cha mẹ chăm sóc đủ, đã buồn phải bỏ nhà ra đi, và đôi khi hoang phí cả đời. Cũng có những em bé nhà giầu và được cưng chiều săn sóc quá mức, đã không có tự do để triển nở về mọi mặt.

Nhiều người không thành công, và Đức Yêsu cũng không thành công trên đường đời, trong giảng dạy. Lúc đầu Đức Yêsu có vẻ thành công, được người ta theo và nghe nhiều, nhưng với thời gian và đòi hỏi của Tin Mừng, người ta đã bỏ Ngài. Trong mọi trường hợp, Ngài vẫn yêu thương mọi người, ngay cả những người thù ghét Ngài. Ngài chấp nhận tất cả. Chấp nhận, là một yếu tố để sống bình an và hạnh phúc.

Cái chết trên thập giá của Đức Yêsu, một lần nữa cho con người biết rằng, hạnh phúc đích thực chỉ trọn vẹn ở đời sau. Hạnh phúc đích thực, là hậu quả và là phần thưởng cho những người sống theo gương Đức Yêsu. Thiên Chúa là ơn cứu độ cho tất cả mọi người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có cảm nghiệm bất hạnh hoặc đau khổ bao giờ chưa? Xin bạn chia sẻ!
2. Theo bạn, con người hạnh phúc nhất khi nào?
3. Bạn có bí quyết để sống bớt khổ và hạnh phúc không? Xin bạn chia sẻ.

--------------------------------------

 

TN 3-A114: Đức Giêsu đến ở Caphácnaum


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ rao giảng của Ngài. Ngài được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Sau TN 3-A114


Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ rao giảng của Ngài. Ngài được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Sau khi Gioan bị cầm tù, Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng, nhưng Ngài muốn lánh mặt về xứ Galilê, tới thành Caphacnaum là một thành phố lớn để tránh gây xôn xao trong dân, vì việc Gioan bị tù ai cũng biết. Nhưng khi nói đến miến Bắc Galilê, thánh Matthêu không chỉ nói đến một chi tiết địa dư mà muốn nhấn mạnh đến tầm rộng lớn của sứ mệnh Chúa Giêsu. Vì thế thánh nhân đã dùng một câu của Tiên tri Isaia nói về các dân tộc đang “ngồi trong vùng bóng tối của tử thần” đã thấy một ánh sáng huy hoàng để cho thấy Tin Mừng phải được lan rộng đến mọi dân tộc. Ngay từ đầu, khi Chúa Giêsu mới bước ra rao giảng, thánh Matthêu đã cho thấy tính cách phổ quát của Tin Mừng và khi kết thúc sách Tin Mừng, thánh nhân cũng nói đến điều đó: “Chúng con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”.

Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là tiếp nối công cuộc của Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Nhưng lời kêu gọi của Chúa không giống như của Gioan, xem Nước Trời như thời cuối cùng và là ngày xét xử. Kẻ lành, người dữ phải được xét xử phân minh. Người tội lỗi sẽ lãnh án phạt. Chúa Giêsu mời gọi ăn năn sám hối mà không đe dọa. Ngài thân tình mời gọi tất cả mọi người không trừ ai. Đó là con đường chắc chắn nhất để tìm Nước Trời. Chúng ta cũng như người Do Thái xưa, phải đi vào con đường hoán cải mới có thể nhìn thấy hồng ân Chúa.

Nghe nói đến Nước Trời, chúng ta thường nghĩ là một không gian nào đó, rộng lớn như nước Mỹ hay Trung Quốc. Không, Nước Trời chính là Chúa Giêsu, Đấng gánh tội trần gian, Đấng mang lại sự sống mới trong Thánh Thần, vì chỉ có một Danh duy nhất, vì “không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ Danh đó mà được cứu độ”. Muốn được Nước Trời đó, chúng ta phải đi vào con đường sám hối mà thôi. Chúng ta được sinh ra trong tội, chúng ta vẫn là người tội lỗi, chính Đức Thánh Cha vẫn tuyên xưng rằng ngài là người tội lỗi. Chúng ta cần hoán cải để được tha thứ, để đón chờ Nước Trời.

Nhưng ăn năn sám hối là gì? Chúng ta chỉ nói vài câu tỏ ra hối tiếc tội lỗi mình rồi thôi hay sao? Ăn năn sám hối đâu chỉ là một vài lời than thở, là một việc làm qua loa lấy lệ! Mà là một thái độ nội tâm thành thực, nhìn biết một cách rõ ràng tội lỗi của mình và thật tâm muốn từ bỏ những gì xấu xa mình đã làm và cương quyết muốn sửa đổi để nên tốt hơn, để sống theo lời Chúa hơn. Có thể nói là một cuộc đổi hướng để trở về với Chúa.

Người Do Thái chỉ biết lo buồn vì những lỗi phạm của họ, nhưng chúng ta thì khác. Việc sám hối của chúng ta mang một chiều sâu mới vì đã có Chúa Giêsu. Ăn năn sám hối là một hồng ân chứ không là một hành vi cá nhân của một người. Hồng ân này là do tình yêu. Hối nhân ăn năn vì muốn yêu mến Chúa thì chính Chúa sẽ ban cho họ một tâm tình thống hối chân thật trào dâng từ bên trong chứ không là những cảm giác bên ngoài. Ăn năn thống hối là một tâm tình phát xuất từ tình yêu. Ăn năn sám hối là từ bỏ những việc xấu xa để trở về với tình yêu của Chúa, đón nhận lại tình yêu mà chúng ta đã bỏ quên, đón nhận lại chính Đấng đã yêu chúng ta trước. Đó chính là ăn năn thống hối chân thực.

Chúng ta có cần ăn năn sám hối như Chúa đã kêu gọi không? Hay chỉ hời hợt nói vài câu than thở rồi yên tâm? Nhiều người không cảm thấy cần ăn năn gì cả vì họ nghĩ rằng họ không có tội gì nhiều, chỉ có một vài lỗi nhỏ thôi, và lại có rất nhiều công nghiệp như người Pharisêu kia, đứng trước bàn thờ Chúa huênh hoang tự đắc: tôi làm được nhiều việc lành, ăn chay, bố thí mà quên rằng có một khối kiêu căng khổng lồ đang che mất ánh sáng. Rất nhiều tín hữu đã rơi vào tâm trạng công chính giả hiệu đó mà không bao giờ biết thống hối ăn năn, tự cho mình bằng khen công chính.

Các thánh thường dạy chúng ta sống trong tâm tình thống hối luôn, không phải để bôi đen cuộc sống nhưng để làm cho nó luôn trong sáng càng ngày càng hơn. Các thánh cũng dạy chúng ta trở về với Chúa mỗi ngày để chỉ có Chúa là đích điểm chú ý của chúng ta mà thôi, căng thẳng về Chúa như vụn sắt hướng về nam châm, cuộc sống chúng ta mới sáng tươi rực rỡ. Đó là ý định yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy nghe lời Chúa: “Hãy ăn năn sám hối”.

Sau đó Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển hồ và kêu gọi mấy người chài lưới. Thánh Matthêu nói hai lần: “Lập tức, các ông bỏ chài lưới… bỏ cha lại mà theo Người”.

Lập tức, nghĩa là không tính toán, không so đo hơn thiệt. Chúng ta có nghĩ rằng tại sao các ông dám theo một người mà họ chưa biết người đó là ai không? Tại sao họ có thể quyết định một cách bất ngờ như vậy? Không tính trước, không suy nghĩ. Trong tình trạng đó, chúng ta dám không? Họ nghĩ về người đó như thế nào mà dám liều như thế? Chúng ta không thể trả lời và đây phải chăng là một mầu nhiệm?

Theo Ngài để làm gì? Để lưới người. Họ chỉ biết bao nhiêu đó, và họ có biết lưới người là gì không? Họ không biết gì cả, nhưng họ tin vào người đã gọi họ. Họ nhìn nhận nơi người đó có một cái gì đó hấp dẫn họ. Tiếng gọi của Ngài như một mệnh lệnh chứ không chỉ là một lời mời gọi suông: “Hãy theo Ta”. Và họ bỏ mọi sự mà theo Ngài. Abraham chỉ nghe một tiếng nói: “Hãy ra đi” và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Môsê ít ra cũng còn thấy bụi gai trong đám lửa hỏa hào và một tiếng gọi. Ông vâng phục. Tiên tri Giêrêmia đã đối thoại với Chúa và sau cùng đã vâng theo. Tiên tri Isaia đã nhìn thấy vinh quang Chúa trong Đền thờ và Chúa đã kêu gọi ông, ông đã chấp nhận. Chúng ta có được kêu gọi không?

Chúa mời gọi mọi người tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người, nhưng mỗi người đều được mời gọi. Ngày chúng ta được bước vào Giáo hội qua Bí tích Thánh Tẩy, đó là một tiếng gọi và mỗi ngày tiếng gọi ấy vẫn vang lên trong tâm hồn chúng ta: “Hãy theo Ta”. Chúng ta có lắng nghe không? Chúng ta có biết rằng Chúa vẫn ân cần mời gọi chúng ta đi theo Ngài để lưới người không? Chúa vẫn tôn trọng tự do của chúng ta, Ngài mời gọi mà không ép buộc. Nhưng lắm khi chúng ta không lắng nghe tiếng Ngài. Chúng ta ngại bỏ mọi sự, vì chúng ta không biết Chúa là ai, chúng ta tiếc hành tỏi, những nồi thịt ngon Ai Cập.

Có những người như các tông đồ, bỏ mọi sự mà theo Ngài, nhưng có những người theo Ngài mà vẫn sống trong môi trường của mình, trong gia đình, mà vẫn từ bỏ mọi sự, nghĩa là không bám víu vào trần thế. Họ vẫn sống cho Chúa trong thực tế của đời sống mình. Những người này là đa số, và chính họ là muối đất, là men trong bột. Giáo hội cần và rất cần những người đó. Ai nghe tiếng Chúa mời gọi và đi theo Ngài, dù ở đâu, trong môi trường nào, họ vẫn tham dự vào việc “lưới người ta” của Giáo hội. Mọi người đều được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa. Chỉ cần thiện chí và dấn thân. Dù là giờ thứ mấy Chúa vẫn có việc làm cho họ. Vinh dự cho chúng ta biết bao, dù chúng ta chỉ là những tay chài lưới nhỏ hèn Chúa vẫn có thể giúp ích cho các linh hồn!

Hôm nay, tiếng gọi ấy vẫn còn vang vọng trong mỗi tâm hồn. Hôm nay, chúng ta sẽ làm gì cho Chúa? Đừng mặc cảm vì chúng ta nhỏ hèn hay dốt nát. Trong tay Chúa, mọi người đều có giá trị. Chúa biết sử dụng những gì Ngài đã tạo nên, miễn là chúng ta không cưỡng lại tiếng gọi.

Hôm nay Ngài có mặt. Ngài mời chúng ta theo Ngài thì chính Ngài lại đến trong chúng ta, trở nên bánh để chúng ta ăn và nhờ tấm bánh thần linh này, chúng ta được mạnh sức, đủ can đảm để thưa với Ngài: “Này con đây, xin Chúa hãy sai con”.

----------------------------------

 

TN 3-A115: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 4: 12-17 Và đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm...

 

Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khỏang 60 cây số. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm TN 3-A115


Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khỏang 60 cây số. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân (khoảng 4.400.000). Galilê không những là khu đông dân cư mà dân ở đó còn có một cá tính đặc biệt: Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: ”Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích tranh cãi. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”. Đặc tính bẩm sinh của người Galilê khiến việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Đức Giêsu chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo.

Nội dung việc rao giảng: thánh Matthêu đã tóm gọn nội dung việc rao giảng của Đức Giêsu trong một câu :”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

Và đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngọai cư ngụ, buôn bán ở Capharnaum.[1]

”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

Nguyên gốc của từ sám hối là quay trở lại.

"Hãy sám hối và quay trở lại cùng Thiên Chúa": Một từ diễn tả chính xác lòng sám hối đó là ăn năn thống hối.

Từ ăn năn (contritio) phát xuất từ tiếng La Tinh conterere: nghiền nát, chà đạp, tan thành miếng nhỏ. Đó là quả tim chai đá của chúng ta, mà Kinh Thánh nói đến, đang tan vỡ.

Từ thống hối (compunctio), từ đồng nghĩa conpungere: châm, đâm. Vào một lúc nào đó, quả tim chúng ta cuối cùng bị tổn thương, bị đâm thủng. Từ vết thương lòng đó, một dòng nước sẽ phun ra những giọt lệ thống hối.[2]

Một câu chuyện minh họa cho giọt lệ thống hối:

Một tên sát nhân vào xưng tội và cha giải tội ra việc đền tội: Con hãy cầm lấy chiếc lọ này và việc đền tội của con là đổ nước cho đầy vào chiếc lọ đó. Thế nhưng trong cả hàng mấy chục năm không làm sao đổ đầy được chiếc lọ đó.

Anh bị tù, rồi một hôm anh vượt ngục.

Trời đã về tối, anh trốn vào một nghĩa trang. Tuyệt vọng và cô đơn. Anh nhớ về câu chuyện đã nghe từ lâu lắm, không biết ai kể, ở đâu. Chuyện kể về một người cha có đứa con đi hoang nhưng suốt đời chẳng tiến thân được, sau cùng nó lần mò về nhà cha thú nhận tội lỗi và sự bất lực của nó. Và cha nó đã ôm nó vào lòng. Hình ảnh tình thương ấy làm anh rơi lệ.

Anh ngước nhìn lên cây thập tự lớn trên ngôi mộ. Anh thấy mình nhỏ bé, yếu đuối và trần trụi. Trong cơn đau khổ cùng cực, anh nhìn lên thập giá khóc sướt mướt. Vô tình, giọt nước mắt rơi vào miệng lọ rồi từ từ nước dâng đầy.

Anh không hay biết gì, cứ ôm lấy thập giá như một người có sức đem lại cho anh nguồn an ủi.

Khóc nhiều hơn, càng khóc thì anh càng thấy vơi đi những buồn phiền.

Anh nhìn lên tượng Chúa dâng một lời nguyện, lời nguyện đầu tiên sau mấy chục năm sống trong tội ác. Lời nguyện như có sức nhiệm mầu cho anh thanh thản.

Anh không hiểu rõ những gì xảy ra trong tâm hồn, nhưng anh biết có một sự thay đổi, có điều gì đó khác lạ.

Anh muốn đem câu chuyện về chiếc lọ để nói với thập giá. Khi anh đưa chiếc lọ lên trước tượng chịu nạn thì anh ngạc nhiên kinh hoàng. Nước đã đầy. Anh cho tay vào lọ để thử, đúng là nước. Nước tràn ra bên ngoài.

Anh không tin ở mắt mình, anh dốc ngược chiếc lọ, nước trong lọ chảy xuống thấm vào lòng cát khô. Anh nghe xôn xao trong tâm hồn. Vừa đưa miệng lọ ngửa lên, giọt nước mắt vô tình rơi vào lòng chai, nước lại từ từ dâng lên.

Anh sửng sốt vì hiện tượng lạ lùng, nhưng chính lúc ấy trí khôn anh trở nên minh mẫn. Anh hiểu vì sao lọ đã đầy. Chỉ có nước mắt mới làm chiếc lọ đầy.

Và rồi hình ảnh câu chuyện người con hoang đàng lại trở nên sống động trong tâm hồn anh. Và anh đã hiểu tại sao chỉ có nước mắt mới làm đầy cái lọ.

Và Lời cha già năm xưa trong tòa giải tội lại vang vọng bên tai: tội của con được tha khi con đổ nước đầy cái lọ này!”

Anh nhìn lọ nước sóng sánh đầy nước. Một cảm xúc mãnh liệt dâng trào ứ ngập tâm hồn. Anh chạy đến ôm lấy tượng chịu nạn không nói được lời nào, xúc động cực độ. Anh nức nở khóc, khóc như một đứa trẻ: Lạy Chúa, xin thương xót con.

Đang khi đó, ở các thành phố lân cận, người ta treo hình anh khắp nơi, họ đang lùng bắt một tên tù vượt ngục.[3]

Kính thưa ông bà anh chị em, đó là câu chuyện giọt lệ của lòng sám hối. Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến. Amen
--------------------------
[1] Giuse Đinh Lập Liễm
[2] André Louf, Au gré de sa grâce (buông theo ân sủng),trg.97
[3] Nguyễn Tầm Thường, Đường về Thượng trí trg.111-117

-----------------------------

 

TN 3-A116: Suy Niệm Chúa Nhật 3 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)

Tin mừng Mt 4: 12-23 Đối với Chúa Giêsu sám hối là hành động phải khẩn trương không chờ đợi, là việc làm thường xuyên...

 

Lời của Thánh Phaolô ngay ở đầu thư thứ nhất gởi cho cộng đoàn Côrintô trong phụng vụ Lời TN 3-A116


1. Lời của Thánh Phaolô ngay ở đầu thư thứ nhất gởi cho cộng đoàn Côrintô trong phụng vụ Lời Chúa của chúa nhật hôm nay, bộc lộ nỗi niềm chua xót của Thánh nhân về sự rạn nứt chia rẽ trong cộng đoàn tín hữu Côrintô. Tông đồ Phaolô cho biết giữa các Kitô hữu có chuyện bè phái với nhau: “có những luận điệu như: tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô” ( 1 Cr 1, 12).

Đứng trước bóng tối đang che phủ cộng đoàn Kitô hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyên họ can đảm phá tan bóng tối đang bao trùm ra khỏi cộng đoàn. Sức mạnh để chiến thắng bóng tối đó là đời sống hiệp nhất, thánh Phaolô nói: “thưa anh em, nhân danh Đức Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau”(1 Cr 10,10).

2. Các mối chia rẽ trong cộng đoàn Kitôhữu là thái độ rất nguy hiểm sẽ làm tổn thương nặng nề đến thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Hơn nữa tình trạng sống chia rẽ tự bản chất luôn đi ngược hoàn toàn với ước muốn của Đức Kitô, khi Ngài cầu nguyện cùng ChúaCha cho các môn đệ: “Xin cho chúng nên một”(Ga 17,22). Vì hiệp nhất là khát mong của Đức Kitô, nên thánh Phaolô mạnh dạn nói cho tín hữu Côrintô biết rằng: Đức Kitô không thể nào bị chia năm sẻ bảy (X 1 Cr 10, 13). Bởi vì thánh Phaolô không chấp nhận một người nào khi tự xưng mình thuộc về Đức Kitô, lại xô đẩy người anh em cùng niềm tin với mình ra khỏi cộng đoàn, coi mình như là mẫu mực để phán đoán đức tin và việc làm của người anh em. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự đổ vỡ tất cả mọi nỗ lực của Giáo Hội, trong việc xây dựng tình hiệp nhất.

3. Bài Tin mừng hôm nay thuật lại sự xuất hiện công khai của Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng Tin mừng. Và những lời nói đầu tiên của sứ điệp Ngài rao giảng đó là sự sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần” (Mt 4,17). Đối với Chúa Giêsu sám hối là hành động phải khẩn trương không chờ đợi, là việc làm thường xuyên trong thời gian của cuộc sống, là thước đo nói lên thái độ thiện chí và khiêm nhường của người môn đệ Chúa Kitô. Hơn nữa sám hối là con đường sẽ hàn gắn mối hiệp thông của người môn đệ với Thiên Chúa là nguyên lý sự hiệp nhất cũng như với anh chị em của mình, là điều kiện để chữa lành vết thương chia rẽ trên thân mình Hội Thánh là nhiệm thể Chúa Kitô.

4. Hằng ngày khi sống giữa anh chị em lương dân, người môn đệ Chúa Kitô luôn cảm thấy mình mang lấy trách nhiệm rất nặng nề là phải nỗ lực trở thành ánh sáng cho lương dân. Đây là tâm tình mà Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất kêu mời: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9, 1). Thật là nghịch lý khi phải mang trong mình sứ mạng thao thức trở nên ánh sáng mà vẫn còn có sự thù hận, xúc phạm, bè phái, phân biệt giữa các cá nhân, các hội đoàn, các xứ đạo với nhau…. Thái độ này sẽ là cản trờ khủng khiếp cho việc rao giảng sứ điệp Tin mừng về sự hiệp nhất, là sức mạnh tàn phá mọi nỗ lực của Hội Thánh trên con đường xây dựng sự hiệp nhất,là vết thương đau đớn hằng in sâu trên thân mình Giáo Hội.

5. Như vậy để xây dựng sự hiệp nhất với nhau, để niềm khát mong trở thành ánh sáng cho muôn dân, người môn đệ Chúa Kitô hãy can đảm thực hiện cuộc hành trình, đó là hãy để sứ điệp Tin mừng của Chúa Kitô hướng dẫn và ăn rễ sâu vào đời sống hằng ngày là: “hãy sám hối”.Khi sám hối chúng ta sẽ được nhìn thấy tội lỗi của mình, được Chúa tha thứ những bất toàn. Khi biết sám hối chúng ta sẽ có nhiều cơ hội đón nhận tâm tình hòa giải và lời tha thứ của anh chị em, vết thương chia rẽ trong cộng đoàn dễ dàng được hàn gắn. Quyết tâm sám hối chúng ta còn phải không ngừng nỗ lực thực hiện cuộc hành trình sống như Đức Kitô mà thánh Phaolô đã mời gọi: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có tâm tình như Đức Kitô” (Pl 2, 5). Tâm tình như Đức Kitô là:“nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1, 10).

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta kiên trì đi trên cuộc hành trình sám hối và không biết mệt mỏi sống tâm tình như Đức Kitô, nhờ đó những nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong Hội thánh luôn được tiến triển tích cực, cũng như giữa thế gian chúng ta sẽ trở nên ánh sáng cho muôn người. Amen.

--------------------------

 

TN 3-A117: Dọn lòng đón Chúa Xuân đến với gia đình


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Hàng năm cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng Chạp, nhiều gia đình người Việt Nam đi tảo mộ TN 3-A117


Hàng năm cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng Chạp, nhiều gia đình người Việt Nam đi tảo mộ. Người ta ra mộ để đi thăm viếng, vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ phần mộ của những người quá cố trong gia đình và các vị tổ tiên nhiều đời trước đó. Vì sao họ phải đi tảo mộ một năm một lần? Vì người ta tin rằng “cao nấm ấm mồ”. Hơn nữa, sửa sang nấm mồ cũng là một trong những việc hiếu đạo của con cái, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng sinh thành và các bậc tổ tiên đã khuất. Cho nên, đi tảo mộ mỗi dịp xuân về cũng là thể hiện của tình cảm hướng về với nguồn cội vì “Con người có tổ có tông. Như cây có cội, như sông có nguồn”.

Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa nhật cuối cùng của năm Bính Thân dạy bảo chúng ta hãy chuẩn bị bên trong tâm hồn vì Chúa mùa xuân vĩnh cửu đang đến từng người trong gia đình chúng ta. Cụ thể, Tin Mừng Matthêu kể rằng: “Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Rõ ràng Chúa Giêsu nói sám hối rồi mới tin vào Tin Mừng. Như vậy, việc làm đầu tiên của đức tin là sám hối, ăn năn. Vì chưng con người không ai là trọn lành chỉ mình Chúa là Đấng trọn lành. Chính Thánh vua Đa-vít đã khẳng định: “Lạy Chúa, Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51,7). Cho nên, Chúa Giêsu trước khi về trời, Chúa căn dặn rằng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).

Như vậy, sám hối chưa phải là tấm vé để vào Thiên Đàng nhưng là điều kiện để có đức tin. Đức tin có đó nhưng nó sống hay chết là tùy thuộc cung cách sống đạo, tức sống Lời Chúa ở nơi mỗi người chúng ta trong cuộc sống và trong gia đình chúng ta hằng ngày. Hôm nay, chúng ta quy tụ về đây để dâng Thánh lễ Chúa nhật để cùng với Chúa nhìn lại 365 qua, nhìn vào chính mình, nhìn lại cuộc đời Kitô hữu của mình 365 qua mình sống đức tin như thế nào trong tương quan với Chúa và với tha nhân, nhất là với những người trong gia đình chúng ta? Đức tin của chúng ta đã thật sự sống động chưa? Có nghĩa rằng đã sống trọn lành như lòng Chúa Giêsu mong muốn chưa? Nếu tốt rồi, hãy tạ ơn Chúa, nếu chưa tốt còn nhiều thiếu sót, lầm lỗi thì hãy ăn năn sám hối thật lòng để rồi đến hòa giải với Chúa và với anh em vì Chúa mùa xuân đang đến. Thiết tưởng cũng nhắc anh chị em rằng căn nguyên của sám hối là làm hòa với Chúa và với tha nhân. Đặc biệt năm nay là năm Giáo Hội Việt Nam mới gọi mọi gia đình hãy sống ơn gọi Hôn Nhân Gia Đình, vì vậy, chúng ta cùng nhìn lại đời sống gia đình của chúng ta hầu xin Chúa tha thứ và làm hòa với nhau đó là một hình thức dọn lòng đón Chúa xuân đến gia đình chúng ta trong mùa xuân này và mãi mãi.

Thứ nhất đối với Chúa, hãy sớm đi lãnh nhận ơn hòa giải và dốc lòng chừa tội lỗi để nói như Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta niềm vui hoan hỷ và tăng thêm nỗi vui mừng cho chúng ta vì chúng ta đang đi trong bóng tối tăm nay nình thấy ánh sáng.

Thứ hai hãy làm hòa với những người trong gia đình. Đối với vợ chồng thì vợ chồng là cùng xương cùng thịt với nhau, vợ chồng sống chung với nhau từng giây phút trong đời mà sống chung là có đụng, mắc lỗi là thường tình. Cho nên, khi hai người mắc lỗi với nhau thì ai cũng cảm thấy khó tha thứ. Khi ấy, họ dễ dàng chối bỏ nhau, coi nhau như kẻ thù: “chồng gì anh vợ gì tôi, chẳng qua cái nợ đời chi đây”.  Nhưng bất cứ hôn nào cũng đặc trên nền tảng vững bền là tình yêu. Mà “Yêu nhau vạn sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. Vì vậy, trong đời sống gia đình chuyện mắc lỗi với nhau, đổ nát là chuyện thường tình vì con người chứ đâu phải là thánh. Xin nhớ cho rằng trong chuyện đổ nát ấy nếu vợ chồng biết tha thứ, biết thông cảm cho nhau thì tình yêu gia đình ấy bền chặt và thăng tiến. Cho nên, ông bà có câu: “tưởng rằng đá nát thì thôi, ai ngờ đá nát nung vôi là nồng”. Còn Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy:

“Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau”.

“Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14). 

Còn đối với con cái, ông bà ta có câu: “Nước mắt chảy xuống, hổ dữ không ăn thịt con”, các ngài muốn nói rằng cha mẹ luôn yêu thương con cái và sẵn sàng tha thứ vô điều kiện. Còn Lời Chúa dạy:

“Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,1-9).

Vậy, hỡi những kẻ làm con, hãy xét mình xem, chúng mình đã thi hành điều răn thứ 4 một cách trọn hảo chưa, nếu có ở mức độ nào? Nếu chưa thì mau mau ăn năn và xin lỗi cha mẹ, làm hòa với cha mẹ mình đi để được Chúa mùa xuân giáng phúc cho chính chúng ta.

Cuối cùng, đối với chính mình, tôn tử dạy các đồ đệ mình rằng: “tri kỷ tri bỉ”, biết mình biết ta trăm trận trăm thắng. Biết mình tức luôn sống trong tư thế sẵng sàng, tỉnh thức mọi lúc để khỏi sa chước cám dỗ, khỏi phạm tội với Chúa và tha nhân. Nếu có lỡ phạm tội hãy tỉnh thức, sám hối ăn năn trở về với Chúa để được hòa giải với chính mình và với Chúa.

Xin cho Lời Chúa hôm nay thúc bách mỗi người hãy siêng năng sám hối để Nước Chúa luôn ngự trị trong từng gia đình trong giáo xứ chúng ta nhờ đó mỗi thành viên trong gia đình là hoa thơm trái ngọt cho Chúa, Giáo Hội và xã hội trong những ngày xuân và mãi mãi. Amen.

------------------------------

 

TN 3-A118: Suy niệm của nhóm Đồng Hành


Chi Tiết Hay

 

Người Do Thái tránh dùng chữ "Thiên Chúa". Thay vì nói "Triều Đại Thiên Chúa", họ dùng "Nước TN 3-A118


* Người Do Thái tránh dùng chữ "Thiên Chúa". Thay vì nói "Triều Đại Thiên Chúa", họ dùng "Nước Trời".

* Qua Giáo Hội Chúa Kitô thể hiện với mọi người. Qua Giáo Hội Chúa Kitô kêu gọi mọi người tham gia vào công trình cứu độ vĩnh cữu. Do đó, cho đến khi Chúa Giêsu lại đến, Triều Đại Thiên Chúa hiện nay là Giáo Hội.

* Đức Giêsu là một chiến lược gia giỏi. Ngài có một nhận định sắc bén về địa thế, thời điểm, và con người:

* Galilê là một giao điểm lưu thông chánh của các đại lộ từ Ai-cập đến Xyria. Galilê là một vùng tuy nhỏ nhưng rất trù phú và đông dân cư. Một làng nhỏ nhất trong vùng này có đến 15.000 dân. Đức Giêsu chọn Ca-phác-na-um làm tâm điểm cho sứ vụ của Ngài. Đây là một làng phía đông bắc của Biển Hồ Galilê với nhiều chủng tộc khác nhau.

* Đức Giêsu kêu gọi các người chài vào lúc mùa đánh cá đã chấm dứt. Lúc ấy họ rảnh rỗi để có thể đeo đuổi những hoạt động khác.

* Trong Gioan 4:35-42, các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan đã gặp Đức Giêsu trước lúc này.

* Vì có Jerusalem, người Giuđê coi người miền Galilê là "nhà quê". Nadarét là một làng trong vùng Galilê, do đó Đức Giêsu được coi là người Galilê.

* Ngành ngư nghiệp là một kỷ nghệ quan trọng của vùng Biển Hồ Galilê vào thời đó. Các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan có lẽ không phải là dân nghèo, nhưng mà là những thương gia với một sự nghiệp vững chắc và một đời sống ổn định. Lưới cá, thuyền bè và tình thân gia đình là những dấu hiệu của thành công trong mắt của các đồng nghiệp.

* Theo truyền thống, môn đệ chọn một người thầy (rabbi) để học Luật để trở thành một ông thầy. Trái lại, Đức Giêsu, một người thầy, lại tuyển chọn môn đệ. Các thầy khác dạy Luật, Đức Giêsu rao giảng về Triều Đại Thiên Chúa, và tìm sự thông hiệp với đường lối của Ngài.

* Hội đường (sygnagogue) là nơi người Do thái tụ họp cho những sinh hoạt cộng đồng và những nghi thức tôn giáo như là giảng dạy, trình luật và án phạt. Những lễ nghi cúng tế và thờ phượng chỉ được làm trong đền thờ.

Một Điểm Chính

ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA KITÔ XÂY DỰNG TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA

Đức Giêsu công bố khởi đầu Triều Đại Thiên Chúa. Triều đại ấy ở ngay trên thế gian này. Ăn năn và sám hối là điều kiện tiên quyết để vào triều đại này.

Triều Đại của Tình Yêu và Thánh Thiện này là cho cả nhân loại không phân biệt màu da hay chủng tộc. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa can thiệp một cách đặc biệt để cứu rỗi nhân loại. Ngài cũng muốn chúng ta phải mở lòng cho ân sủng của Thiên Chúa và cải thiện đời sống chúng ta.

Chúng ta phải chọn hoặc theo Đức Giêsu hoặc chống lại Ngài. Qua sự kêu gọi các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan vào Triệu Đại Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta cùng đồng hành với Ngài để xây dựng Triều Đại Thiên Chúa. Đó là sứ mệnh.

Suy Niệm

1. Chúa Giêsu gọi Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan theo Người ngay khi Người ĐI NGANG qua, trong lúc họ đang lo chu toàn những trách nhiệm hằng ngày riêng của họ. Trong cuộc sống hằng ngày, tôi có thể nhận định được lời mời gọi của Chúa để làm bạn đồng hành với Đức Kitô không?

2. Hãy suy gẫm về thái độ của các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan khi Chúa Giêsu kêu gọi họ theo Người ngay khi Người ĐI NGANG qua. Tôi có thái độ nào để đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa?

3. Triều Đại Thiên Chúa là Giáo Hội hiện nay. Cảm nghĩ của tôi ra sao về Giáo Hội? Trong khái niệm sứ vụ (ministry) và sứ mệnh (mission), tôi đã đóng góp những gì để xây dựng Giáo Hội?

------------------------------------------

 

TN 3-A119: THỜI CỦA TIN MỪNG CỨU ĐỘ

 

Thời đại của Nước Thiên Chúa là thời của “trời mới, đất mới”, khi những gì cũ khống chế con TN 3-A119


TMĐP- Thời đại của Nước Thiên Chúa là thời của “trời mới, đất mới”, khi những gì cũ khống chế con người được Thiên Chúa tháo gỡ và mọi người được tự do đón nhận ơn cứu độ của Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô.

Triều đại của Đức Giêsu đã được Cựu Ước loan báo từ nhiều ngàn năm trước qua các ngôn sứ của Thiên Chúa. Đây là thời của Tin Mừng, ở đó thế giới đuợc biến đổi, con người được hạnh phúc vì không còn chịu cảnh nô lệ, nhưng được làm con cái tự do của Thiên Chúa.

Ngôn sứ Isaia đã cực tả thời đại Thiên Chúa đổi mới thế giới khi tuyên sấm về Đức Giêsu, Đấng sẽ đến và bẻ gẫy “cái ách đè trên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp” (Is 9, 3). Ngài cũng thiêu rụi “những chiếc giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu” (Is 9,4), bởi “một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta. Người gánh vác quyền bính trên vai.” (Is 9,5). Và bóng tối đọa đầy, xiềng xích ô nhục của dân Ngài sẽ được thay bằng ánh sáng “mừng vui trong ngày gặt”, và “niềm hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9,2). Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu, Thiên Chúa cứu độ.

Bước vào thời Tân Ước là thời của Tin Mừng cứu độ, chính Đức Giêsu cũng đã nhắc lại lời ngôn sứ Isaia loan báo về mình và thực hiện những điều đã được báo trước: “Ngài đi khắp miền Galilê, giảng dậy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4,23).

Qua các bài đọc phụng vụ của chúa nhật này, chúng ta nhận ra:

1/ Tin Mừng cứu độ không bị đóng khung, be bờ, giới hạn cho riêng một dân tộc, một vùng miền, một trình độ, hay đẳng cấp nào, nhưng phổ quát và dành cho tất cả mọi người, ở moi nơi, mọi thời, không phân biệt, loại trừ ai.

Bằng chứng là Đức Giêsu đã bỏ Nadarét đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun vá Náptali (Mt 4,12), địa danh mà ngôn sứ Isaia đã nói đến: “Này đất Dơvulun và Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất dân ngoại ! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Mt 4, 15-16; x. Is 8,23).

2/ Đức Giêsu không một mình loan báo Tin Mừng, nhưng cần đến con người:

Ngay khi “bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17), Đức Giêsu “đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em nhà kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển… Người bảo các ông : “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người  như lưới cá.” . Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan… Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyển, bỏ cha lại mà đi theo Người” (Mt 18-22).

Quả thực, Đức Giêsu không thi hành sứ vụ một mình, nhung cần những con người và Ngài đã mời gọi họ đi theo Ngài để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Nhưng để thực hiện chương trình kiến tạo một trời mới, đất mới, Ngài cần những người có  trái tim quảng đại, có lòng nhiệt thành, sẵn sàng xả thân bỏ mình, và qủa cảm, nhẫn nhục  vác trên vai không chỉ  “thập giá mình”, mà cả thập giá của  anh em.

3/ Tin Mừng là chính Đức Giêsu:

Điểm quan trọng khác nữa, đó là Tin Mừng Nước Thiên Chúa không là một học thuyết, thậm chí cũng không là một  giáo thuyết, nhưng là con người Đức Giêsu, và người môn đệ được sai đi để làm chứng về Con Người Thiên Chúa; được mời gọi giới thiệu cho mọi người Thiên Chúa làm người là Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì yêu con người, như thánh Phaolô đã khẳng định: Tin Mừng quy hướng về Đức Giêsu chịu đóng đinh và chỉ là Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh, khi viết cho giáo đoàn Côrinthô: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1 Cr 1,17). “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh” (1 Cr 2,2).

Tóm lại, thời đại của Nước Thiên Chúa là thời của “trời mới, đất mới”, khi những gì cũ khống chế con người được Thiên Chúa tháo gỡ và mọi người được tự do đón nhận ơn cứu độ của Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô.

Riêng người Kitô hữu, chúng ta được thuộc về Đức Giêsu và ở trong gia đình Giáo Hội của Ngài. Vinh dự này thúc bách chúng ta sống tinh thần của Tin Mừng là Đức Giêsu bằng “hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, và cho muôn nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96,2-3)

Jorathe Nắng Tím

---------------------------------

 

TN 3-A120: GALILÊ, ƠN GỌI ĐẦU TIÊN


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Theo sử gia Josephus, Galilê không phải là mảnh đất dành cho mặc khải bắt đầu, ở đó có đông TN 3-A120


Theo sử gia Josephus, Galilê không phải là mảnh đất dành cho mặc khải bắt đầu, ở đó có đông dân, yêu nước và bồng bột.  Dân chúng Giêrusalem thường khinh miệt người dân vùng Galilê này. Chúa Giê su xuất hiện ở đó và kêu gọi những môn đệ đầu tiên, Galilê từ đó nhiều người biết đến.

Con người tại Galilê

Galilê vùng đất phì nhiêu hơn những vùng khác tại Israel. Những người dân ngoại thường sống ở đây, có một số ít người Do Thái cũng chẳng sùng đạo lắm cư ngụ. Người Do Thái ngoan đạo thường coi khinh những người dân cư ở Galilê. Trường hợp của Nathanael nói: “Có gì hay ở Nazareth đâu?” (Ga 1, 46), Nazareth là một làng quê nhỏ bé thuộc Galilê. Ngay cả giọng nói của người Galilê nghe cũng không êm tai nữa, Chúa Giêsu sống thời thơ ấu của Ngài ở đó và cũng bắt đầu sứ vụ của Ngài ở đấy nên người ta càng chú ý, để xem con người này sẽ làm gì to lớn?

Sứ vụ của Chúa Giêsu không hoạt động một mình, Ngài kêu gọi những người Ngài quen biết theo Ngài làm môn đệ. Họ là những người sống bằng nghề ngư phủ, những nghề bình dân khác, không học cao, không nhiều tài sản gì.

Sứ vụ người tông đồ.

Theo truyền thống người Do Thái thời đó, các môn đệ đi tìm cho mình vị thầy để học mở mang kiến thức, hoặc học hỏi về kinh Cora cặn kẽ. Chúa Giêsu lại khác, Ngài chọn các môn đệ, gọi họ đi theo mình để huấn luyện họ. Cách Ngài giảng dạy cũng khác với các thầy giảng khác. Chúa Giêsu giảng bằng đời sống của Ngài, cũng không nhiệm nhặt giải nghĩa kinh Tora. Chính Chúa Giêsu cũng không phải là vị thầy đúng nghĩa như các vị tiến sỹ luật, những chuyên gia học thuật về Thánh Kinh. Chúa Giêsu giảng dạy như người nghe nhận định: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).

Người môn đệ của Chúa Giêsu không chỉ học lý thuyết. Riêng nhóm mười hai bị đòi hỏi nhiều hơn, gác bỏ khoái lạc trần gian, sinh kế là việc thứ yếu, hôn nhân và gia đình, sở hữu riêng cần đặt đúng vị trí. Sau nữa, họ còn chịu sự bắt bớ, roi đòn, và cả sự chết.

Mười hai môn đệ của Chúa cũng nếm được phần nào vinh quang khi theo Chúa. Lòng họ cũng cảm nhận được niềm vui. Lắm lúc, niềm vui này lại thái quá khi thấy mình thành công, Chúa Giêsu bảo họ “tìm nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi, cầu nguyện” (Mc 6, 31). Cũng có lúc môn đệ còn ham vui quyền thế để ngồi vào chỗ nhất trong vương quyền

Có những phụ nữ đi theo Chúa Giêsu trợ giúp. Điều này, rất khác với văn hóa người Do Thái thời ấy, chẳng ai thấy có thầy giảng nào lại có nữ đệ tử. Môn đệ chỉ là nam giới, những người sẵn sàng với sương gió: “Chim có tổ, chồn có hang, con người không chỗ gối đầu” (Lc 9, 58). Vậy mà các bà theo Chúa qua khắp nẻo đường tại Galilê, chẳng sợ hãi dị nghị, và còn theo Chúa lên Giêrusalem và chứng kiến cái chết của Ngài trên thập giá.

Môn đệ trở nên bạn hữu.

“Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15). Người bạn thân trung tín là món quà quý trong cuộc đời, dù thế nào cũng không bị bạn chê cười ghét bỏ, mà còn đầy tình thương mến trợ giúp, cho những lời khuyên tốt lành. Chúa Giêsu muốn các môn đệ trở thành bạn ở một cấp độ agapé. Một cấp độ cao nhất trong tình bạn như thế dành cho các môn đệ, để họ hiểu biết sâu xa hơn những gì thuộc về Chúa.

Trong tình bạn với Chúa để ở lại trong tình bạn, mỗi ngày thắm tiết hơn, mỗi ngày hiểu biết Chúa nhiều hơn, yêu mến Chúa nhiều hơn. Từ đó làm chứng về Chúa trong tình bạn mà người môn đệ đã hết lòng, hết trí, hết sức thấm nhuần trong tình Chúa yêu thương.


Galilê, chẳng có gì hay! Nhưng hãy đến mà xem, rồi ở lại đó, Chúa Giêsu sẽ cho biết có những gì hay. “Hãy theo tôi!” (Mt 4, 19).

---------------------------------

 

TN 3-A121: CHÚA GIÊSU, ÁNH SÁNG MUÔN DÂN


Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Trong thánh lễ Chúa Nhật III này, chúng ta suy niệm về chủ đề mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay TN 3-A121


Trong thánh lễ Chúa Nhật III này, chúng ta suy niệm về chủ đề mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên: “Chúa Giêsu là ánh sáng muôn dân.”

1- Ánh sáng đến từ đêm tối

Trong bài đọc I, hình ảnh được dùng ở đây là ánh sáng. Tiên tri Isaia nói về Galilê là mảnh đất của dân ngoại, những con người không thanh sạch và nhỏ bé, thấp hèn. Nhưng trong cái nhìn tiên tri của Isaia, đây là nơi mà ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện và “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Dưới ánh sáng của mạc khải Tân Ước, chúng ta nhận ra ánh sáng mà Isaia loan báo đó chính là Đức Giêsu, Người là ánh sáng soi chiếu cho muôn dân.

Trong bài đọc II, thánh Phaolô nói với dân chúng ở Côrintô, những người được coi là đã đón nhận ánh sáng Chúa Kitô, ánh sáng đó đã đến với họ để soi chiếu lòng trí họ nhận ra con đường dẫn tới ơn cứu độ. Tuy nhiên, khốn thay có những tranh chấp, xung đột và chia rẽ đã xảy ra giữa cộng đoàn vì lòng trung thành và trung tín của họ. Ánh sáng của Chúa Kitô đã bị giảm thiểu và hiểu một cách sai lạc. Họ tranh luận nhau: “Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô. Thế ra Đức Kitô bị chia năm xẻ bảy rồi ư?” (1 Cr 1,12-13). Thế ra, thay vì tập trung vào Chúa Kitô, họ lại tập trung vào các Tông Đồ, những người rao giảng về Chúa Kitô. Và như thế có một sự cắt đứt với ánh sáng ở giữa họ: một số thì trung thành hơn với thánh Phêrô, một số thì trung thành hơn với Phaolô hay Apôlô hơn là trung thành với Chúa Giêsu. Điều này đã mang đến cho cộng đoàn những bóng tối về sự chia rẽ, thiếu sự hiệp nhất. Điều này là một sự nhắc nhở rất ý nghĩa cho chúng ta, những tông đồ của Chúa, các giám mục, linh mục, giáo dân, các cô thầy giáo, những người hướng dẫn… chúng ta không được chiếm chỗ của Chúa Kitô nơi dân chúng, không được cạnh tranh với Người. Bởi Người là ánh sáng cho muôn người và khi dân chúng đến với chúng ta, chúng ta phải hướng họ đến với Chúa Kitô như Phaolô đã làm.

2- Chúa Giêsu, ánh sáng thật

Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu bước vào một khoảnh khắc của bóng tối, tương tự như trong bài đọc I, Isaia nói tới, dân bước đi trong đêm tối. Ở đây là bóng tối gì vậy? Gioan Tẩy Giả đã bị bắt và bị bỏ tù. Đó là một giây phút rất đen tối của xã hội lúc bấy giờ đối với các môn đệ của Gioan và cả các môn đệ của Chúa Giêsu, những người được Gioan giới thiệu đến với Người. Nhưng đây là khoảnh khắc đêm tối không biết làm sao để hướng tới ánh sáng, bởi vì khi Gioan Tẩy Giả bị bắt, Chúa Giêsu rút lui và lánh qua miền Galilê, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê. Người đến với đoàn dân ngoại, không trong sạch và bị khinh thường, từ đó ánh sáng đã bừng lên chiếu rọi mọi người.

Theo thánh Mátthêu, việc Chúa Giêsu rút lui để đến Galilê, nơi dân ngoại sinh sống là để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói: Ánh sáng sẽ đến và ánh sáng Chúa Kitô đến với một thông điệp mở đầu: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17).

Nước Trời không phải là triều đại của thế giới này, nhưng là triều đại đến từ trên cao. Nước Thiên Chúa rất gần, đang đến với chúng ta và nó đến với chúng ta qua Galilê, qua một dân tộc bị ngờ vực, một dân tộc không thanh sạch. Ánh sáng sẽ đến. Nước Thiên Chúa đang đến với chúng ta. Nên chúng ta phải hoán cải đời sống. Vì Chúa đang đến với chúng ta, nên những gì không thuộc về Thiên Chúa cần phải từ bỏ và quay về với Chúa, trở về với ánh sáng này. Nước Thiên Chúa đang đến với chúng ta, vậy ngay bây giờ, chúng ta hãy chọn lựa để thuộc về Thiên Chúa. Nhưng chúng ta phải từ bỏ những sự lệ thuộc, những dính bén của chúng ta với những gì mà chúng ngăn cản chúng ta đến với ánh sáng Chúa Kitô.

3- Để nên ánh sáng cho đời

Có một cách thế khác để ánh sáng của Nước Thiên Chúa đến với dân chúng ở Galilê: Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên của mình không ở Giêrusalem, thành thánh, nhưng ở miền quê Galilê. Phêrô, Anrê, Gioan và Giacôbê. Người mời gọi họ: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Đây là lời mời gọi khác: Nước Thiên Chúa đã đến gần. Nào hãy đến và theo tôi. Tôi sẽ tôn trọng các anh, những ngư phủ. Tôi biết khả năng của các anh. Tôi biết các anh giỏi về mặt gì. Nào, hãy đến và theo tôi, tôi sẽ biến đổi các anh trở thành những kẻ lưới người. Cũng là một nghề, nhưng có gì đó khác biệt bởi vì từ đây, họ trở thành những người phục vụ Nước Trời. Họ sẽ trở thành những kẻ đánh bắt cá người như là ánh sáng đến chiếu soi và hướng dẫn họ đến với ánh sáng Chúa Kitô. Ngày hôm nay, Giáo Hội mời gọi tất cả chúng ta tham gia vào sứ vụ loan báo Tin Mừng cho thế giới. Đây là sứ vụ cao cả, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ như các môn đệ đầu tiên để có thể lên đường theo Chúa và loan báo Nước Trời. Tất cả chúng ta đều được mời gọi: Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ loan báo Tin Mừng cho con người hôm nay.

Như thế, lời mời gọi của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc là xa lánh các tội lỗi, nhưng còn làm cho mình sẵn sàng trở thành người phục vụ Nước Thiên Chúa, nhờ đó qua tôi, trong mọi sự, tôi trở thành một ngư phủ, một cảnh sát, một thầy, cô giáo, một doanh nhân, một thương gia… tôi có thể đưa những người khác tới ánh sáng Nước Trời trong Chúa Kitô. Nhờ ánh sáng đó soi sáng, chúng ta đã được thoát cảnh tối tăm của u mê, tội lỗi, và giúp chúng ta sẵn sàng phục vụ Người. Amen!

----------------------------------

 

TN 3-A122: ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN


Bông hồng nhỏ

 

Giữa đêm tối mịt mù cần lắm một ánh sáng soi đường. Trong đêm tối, người ta không thể nhìn TN 3-A122


Giữa đêm tối mịt mù cần lắm một ánh sáng soi đường. Trong đêm tối, người ta không thể nhìn thấy gì nếu không có ánh sáng. Đó có thể là ánh sáng của ánh trăng, của ngọn hải đăng, của một ngọn nến nhỏ; và hơn hết đó có thể là một người bạn đồng hành, một người thầy hướng dẫn. Hôm nay, Chúa Giêsu được nhắc đến như một ánh sáng huy hoàng bừng lên chiếu rọi những ai đang ngồi trong cảnh tối tăm.

Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng cho thế gian. Chính Ngài đã là ánh sáng cho nhân loại. Ngài đi đến đâu thì bình an lan tỏa đến đó. Chúa Giêsu đã rao giảng điều gì? Ngài rao giảng rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17). Đó là lời mời gọi chung cho tất cả chúng ta. Mỗi người trong vai trò của mình đều cần phải sám hối vì biết bao điều lầm lỗi. Chúng ta luôn luôn cần phải sám hối. Vậy, chúng ta phải sám hối như thế nào? Sám hối là canh tân đời sống, là đổi mới tâm hồn mình. Bao lâu chúng ta còn lặng thinh không thú lỗi thì chúng ta chưa được sống trong ánh sáng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào” (1Ga 1,5). Để trở nên ánh sáng của Chúa Giêsu, chúng ta phải đi trong ánh sáng của Người và hiệp thông với nhau, vì “nếu chúng ta đi trong ánh sáng cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giêsu, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi” (1Ga 1,7). Chính Chúa Giêsu sẽ đổ tràn Thánh Thần của Người trên chúng ta, làm cho chúng ta được bừng sáng ánh sáng của tình thương yêu.

Ai được trở nên môn đệ của Chúa Giêsu? Chúa Giêsu đã tuyển chọn những người ngư phủ, người thu thuế, … để cộng tác với Ngài. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta trở nên môn đệ của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Chúa Giêsu kêu gọi và chúng ta đáp trả bằng thái độ dứt khoát như các môn đệ đầu tiên. Điều quan trọng không hệ tại ở việc chúng ta đã làm được những việc lớn lao nào nhưng là chính Chúa Giêsu đã làm tất cả. Người sẽ làm cho chúng ta trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá”. Chúng ta có đang để cho Người tự do thực hiện tất cả những gì Người muốn làm nơi chúng ta không? Chính khi hoàn toàn để cho Chúa Giêsu làm chủ cuộc đời mình, chúng ta sẽ trở nên ánh sáng cho trần gian. Được cùng Chúa Giêsu làm cho ánh sáng tình thương của Thiên Chúa hiện diện nơi trần gian là một hạnh phúc của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con áng sáng tình thương của Ngài. Xin đốt lòng chúng con ngày càng thêm yêu mến Chúa để chúng con được cùng Chúa hân hoan phục vụ Nước Trời. Xin cũng dạy chúng con biết sám hối bằng việc canh tân đời sống và cộng tác với ơn Chúa trong việc đổi mới tâm hồn mình. Amen.

-------------------------------------

 

TN 3-A123: LỜI RAO GIẢNG


Anna Cỏ may

 

Trong cuộc sống, chúng ta nghe rất nhiều lời kêu gọi. Kêu gọi bảo vệ sự sống, bảo vệ môi trường TN 3-A123


Trong cuộc sống, chúng ta nghe rất nhiều lời kêu gọi. Kêu gọi bảo vệ sự sống, bảo vệ môi trường, bảo vệ hoà bình. Kêu gọi quyền tự do, sự công bằng. Cũng có những lời kêu gọi để ủng hộ cho đảng phái chính trị, kinh tế. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần”(Mt 4, 17).

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Đây không phải là lời kêu gọi có tính chính trị, kinh tế hay xã hội. Đây là lời kêu gọi của Con Thiên Chúa làm người, lời kêu gọi của Đấng là tình yêu, lời kêu gọi chẳng vì điều gí khác ngoài lợi ích cho người được kêu gọi. Ngài mời gọi mọi người tự canh tân bản thân, tự sám hối về những hành vi mình đã làm cho anh em, cho người thân, cho mọi người xung quanh hay những người mình đã gặp gỡ trong ngày sống, để sám hối về những việc mình đã làm mà không xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Lời kêu gọi Ngài là Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho người bị giam cầm, cho người đang bước đi trong tăm tối. Lời kêu gọi của người là lời mang lại tự do cho người bị áp bức và đem an bình cho mọi người (x Lc 4,18). Lời kêu gọi của Ngài thì lợi ích cho người nghe để họ được hạnh phúc nhưng Ngài không ép buộc mọi người đáp lại, mà là tự do để đáp lại. Vì thế, ai sám hối thì được hưởng Nước Trời.

Chúng ta được sinh ra là để sống cho người khác. Bao lâu chúng ta hướng về người khác, chúng ta sẽ tìm được niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống của mình. Bao lâu chúng ta chỉ vun vén cho bản thân, bấy lâu chúng ta sẽ đau khổ và tăm tối. Bao lâu chúng ta chỉ biết mình thì bây lâu thế giới vẫn chưa được bình an.  Nước Trời không phải là tương lai nhưng chính là thực tại của mỗi ngày sống. Nước Trời không ở đây ở kia nhưng là ở trong tinh thần sám hối của chúng ta.

Lạy Chúa, trong cuộc sống hôm nay, lời mời gọi của Chúa “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần”(Mt 4, 17) vẫn luôn vang vọng bên tai con. Xin cho chúng con khắc ghi lời Chúa mời gọi và đem ra thực hành trong cuộc sống. Nhờ đó, xã hội được hòa bình và muôn người được hưởng cuộc sống Nước Trời ngay tại thế gian này. Amen.

---------------------------------

 

TN 3-A124: ÁNH SÁNG


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến thế gian để đốt lên ngọn lửa yêu mến và muốn lửa đó TN 3-A124


Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến thế gian để đốt lên ngọn lửa yêu mến và muốn lửa đó được bùng cháy lên. Chúa đã mở ra một chân trời mới trong công trình cứu độ. Tiên tri Isaia xưa đã loan báo rằng dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người sống trong lầm than, nay thấy ánh sáng bừng lên chiếu soi cho toàn dân đang trong bóng tối sự chết.

Dân chúng đi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng. Con người ngày ngày đã chế ngự bóng đêm bằng các phương tiện khoa học. Nơi nào có con người, nơi đó văn minh tiến bộ đã len lỏi vào. Họ đã có ánh sáng, có điện và đèn soi sáng. Khi chúng ta có cơ hội ngồi trên máy bay nhìn xuống lúc ban đêm, chúng ta thấy có ánh sáng chập chờn khắp các đại lục. Ánh sáng là dấu hiệu có sự hiện hữu của con người trên trái đất.

Quan sát, chúng ta nhận thấy những nơi văn minh sáng sủa nhất đã dần bị lu mờ bởi sự lạm dụng của con người. Lòng người đổi thay, ánh sáng bên ngoài càng sáng, thì ánh sáng trong lòng lại bị lu mờ vì tội lỗi, gian tham và bạo tàn. Bóng đêm của ma qủi đã theo vào nơi ánh sáng để tiêu diệt con người. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy nơi nào càng văn minh, càng nhiều ánh sáng thì con người càng đi sâu vào bóng tối tội lỗi. Những thành phố lớn và những tỉnh lỵ giầu có thường là những nơi ăn chơi trụy lạc và tiêu xài hoang phí.

Chúa Kitô là ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Chúa dọi chiếu ánh sáng vào tâm hồn khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngài mong ước ngọn nến cháy mãi và dọi chiếu ánh sáng trong tối tăm. Đó chính là ánh sáng đức tin. Ánh sáng đức tin cần đặt trên giá cao để soi sáng dẫn chúng ta đi.

Có gia đình nọ mời linh mục đến làm phép nhà. Chủ nhà hướng dẫn linh mục đi rẩy nước thánh các phòng ốc trong nhà. Chỗ nào cha thấy cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Nên chỗ nào cha cũng rẩy nước thánh. Sau khi làm phép mọi nơi xong, tới khu hầm kho, bà chủ nhà chần chừ không muốn bước xuống và bà nói: Dưới đó lộn xộn và dơ dáy lắm cha ơi. Cha trả lời: Càng lộn xộn, càng dơ dáy thì càng phải làm phép. Phải đem ánh sáng vào chỗ tối tăm chứ.

Chúa mời gọi chúng ta hãy bước ra khỏi đêm tối và đi giữa ban ngày. Bóng tối là nơi rình rập của ma qủi. Chúng ta là con cái sự sáng, hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô.

------------------------------

 

TN 3-A125: TỪ CAPHANAUM, CHÚA GIÊSU XUẤT PHÁT THI HÀNH SỨ VỤ


Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 8:23b – 9:3;  1 Cr 1:10-13, 17;  Mt 4:12-23)

          Sau những năm tháng sống ẩn dật tại Na-da-rét, Chúa Giê-su chịu phép rửa của ông Gio-an và từ nay Người dấn thân thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng.  Đây là một sứ mệnh cao cả đòi hỏi người thi hành phải chuẩn bị kỹ lưỡng.  Vậy Chúa Giê-su đã chuẩn bị như thế nào?  Trước hết Chúa lựa chọn một địa điểm xuất phát, đó là Ca-phác-na-um miền Ga-li-lê.  Lý do chọn địa điểm này đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo (bài đọc 1).  Sau đó, Chúa Giê-su kêu gọi một số môn đệ sẽ được chính Người huấn luyện (bài Tin Mừng) để họ đi theo Người và tiếp tục sứ mệnh của Người sau này.  Chúa cũng kêu gọi chúng ta hôm nay làm môn đệ Người và sai đi rao giảng Tin Mừng, giống như Người đã sai thánh Phao-lô đến với dân ngoại (bài đọc 2).

 

Chọn Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo tiên khởi.  Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao Chúa TN 3-A125


Chọn Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo tiên khởi.  Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao Chúa Giê-su không chọn Giê-ru-sa-lem hay một thành nổi tiếng khác mà lại chọn Ca-phác-na-um làm nơi xuất phát truyền giáo.  Trước hết chúng ta hãy theo dấu chân Chúa sau khi Người chịu phép rửa của ông Gio-an.  Người lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ.  Sau đó, nghe tin ông Gio-an bị bắt, Người “lánh qua miền Ga-li-lê” về lại Na-da-rét, rồi Người rời Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um, để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a tiên báo về Ga-li-lê.  Vậy ngôn sứ báo trước rằng tại Ga-li-lê, “đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.  Miền Ga-li-lê là hình ảnh ám chỉ thế giới của những kẻ tội lỗi và phải chết.  Vì thế, khi Chúa Giê-su xuất hiện để đem nhân loại ra khỏi cảnh tối tăm của tội lỗi và khỏi vùng bóng tối của sự chết, thì Người chính là ánh sáng huy hoàng và ánh sáng bừng lên chiếu rọi.  Thế là tại Ca-phác-na-um, ngay giữa Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng và nói rằng:  “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”.  Người làm như thế là “để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a đã nói”.

          Sau khi đã chọn nơi xuất phát và bắt đầu rao giảng, Chúa Giê-su nhìn tới con đường lâu dài, nên Người nhận thấy một việc khác cần phải làm, là kêu gọi môn đệ.  Ca-phác-na-um và vùng lân cận đâu phải là đất văn vật, nên làm gì có kẻ học rộng tài cao.  Thôi thì có gì xài nấy.  Hơn nữa, công việc rao giảng Tin Mừng không đòi phải có những người tài giỏi, mà cần những người nhiệt thành và trung kiên.  Cho nên những người đầu tiên “lọt mắt xanh” của Chúa là những người địa phương làm nghề đánh cá gồm hai cặp anh em là Si-môn và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an.  Chúa chỉ đòi hỏi họ làm một điều là hãy đi theo Người, rồi mọi sự sau đó để Người lo.  Họ sẽ lên đường cùng với Người, quan sát và học hỏi trực tiếp với Người.  Cuộc huấn luyện “tại chỗ” quả thực tuyệt vời, vì nó không chỉ trao lại những kinh nghiệm của ông thầy, mà còn tạo mối tương quan thầy trò mật thiết nữa.  Kết quả sau này cho ta thấy rõ tài của Chúa Giê-su “làm cho họ thành những kẻ lưới người như lưới cá”!  Tới đây, chúng ta lại thấy Mát-thêu lập lại điệp khúc:  Thế rồi Chúa Giê-su “đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”.

          Đúng vậy, Người đã bắt đầu tại Ca-phác-na-um, rồi từ đây Người đi khắp miền Ga-li-lê để thi hành sứ vụ.  Lộ trình của việc thi hành sứ vụ bắt đầu từ Ca-phác-na-um đến khắp miền Ga-li-lê và còn đi xa mãi cho đến khi dừng lại trên đồi Can-vê tại Giê-ru-sa-lem.  Trên con đường truyền giáo ấy, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Giê-su luôn trung thành và vâng lời Chúa Cha để khởi sự, ra đi, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chữa lành, và cuối cùng chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Ngôn sứ I-sai-a và thánh sử Mát-thêu vừa kể lại cho chúng ta nghe những ngày đầu Chúa Giê-su thi hành sứ mệnh.  Bây giờ đến lượt thánh Phao-lô dạy chúng ta tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Giê-su như thế nào.  Phao-lô đã có rất nhiều kinh nghiệm truyền giáo và rao giảng Tin Mừng.  Thành công đã nhiều, nhưng thất bại cũng không ít.  Phao-lô nhìn bổn phận của Ki-tô hữu rao giảng Tin Mừng cách rất thực tế, không phải bằng tài ăn nói trình bày, nhưng họ phải tạo thành một cộng đoàn “nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ, nhưng sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”.  Thực hiện được như vậy, Ki-tô hữu sẽ để lại cho những người chưa nhận biết Chúa và chưa được nghe Tin Mừng một câu hỏi lớn lao:  Có điều gì đặc biệt nơi người Ki-tô hữu giúp họ có được một cộng đoàn tuyệt vời như vậy?  Chắc chắn ở đây thánh Phao-lô đã học được bài học của cộng đoàn Ki-tô tiên khởi Giê-ru-sa-lem và đem áp dụng cho anh chị em tín hữu Cô-rin-tô.  Tại Giê-ru-sa-lem, dân chúng ngạc nhiên khi thấy các Ki-tô hữu thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, để rồi nhờ vậy có rất nhiều người đã trở lại đạo (Cv 2:42-47).  Bản thân thánh Phao-lô đã có kinh nghiệm rao giảng Tin Mừng không phải bằng lời lẽ khôn khéo như tại Athêna, Hy-lạp (Cv 17:22-34), nhưng bằng lối sống Ki-tô hữu đích thực là bác ái yêu thương.  Do đó, ngài mới khuyên tín hữu Cô-rin-tô như vậy.  Với chúng ta hôm nay, hãy tự hỏi:  Tôi bắt đầu rao giảng ở đâu và phải rao giảng thế nào?

------------------------------

 

TN 3-A126: DÂN CHÀI


Trầm Thiên Thu

 

Ngày xưa, nhiều tông đồ là ngư dân, cách gọi bình dân là dân chài. Các tông đồ đầu tiên là ngư TN 3-A126


Ngày xưa, nhiều tông đồ là ngư dân, cách gọi bình dân là dân chài. Các tông đồ đầu tiên là ngư dân nhà nòi – cụ thể là bốn dân chài đầu tiên. Chúa Giêsu đã gọi họ khi họ đang đánh cá trên Biển Hồ Galilê. Đặc biệt là họ đi theo Ngài ngay lập tức, không so đo, không tính toán chi cả. Từ đó, họ không còn lưới cá nữa, mà họ lưới người – cứu các linh hồn về cho Chúa. Họ chỉ là những con người bình thường nhưng không tầm thường, và rồi những con người bình thường đó trở nên khác thường.

Quá khứ là khoảng thời gian đã qua, không thể làm gì được nữa, tương lai không ai biết ra sao, cũng không thể kiểm soát, chỉ có Chúa biết. Còn hiện tại thì mọi người có thể tự quyết định, tất nhiên quyết định này có sức ảnh hưởng tới tương lai – thời gian chưa đến. Khoảng thời gian đó có thể là tương lai xa hoặc tương lai gần – sẽ xảy ra hoặc sắp xảy ra, “khoảng” xa hay gần cũng khác nhau, nhưng chắc chắn không ai biết được điều gì xảy ra, có phỏng đoán hoặc ước chừng thì cũng chỉ là “đoán mò” mà thôi, không thể chắc chắn.

Tuy nhiên, có một dạng tương lai chắc chắn, chắc nịch luôn, đó là ngày của Chúa, thời của Chúa, triều đại của Chúa, Vương quốc của Chúa – và “khoảng thời gian” đó đã thực sự đến gần rồi. (Mt 4:17; Mt 26:18; Lc 9:27; Lc 10:9; Pl 4:5; Dt 10:25; Gc 5:8; Kh 1:3) Đề cập chuyện tương lai là việc của thế gian, theo khái niệm trần tục, còn đối với Thiên Chúa thì không có quá khứ hoặc tương lai – nghĩa là chỉ có hiện tại mà thôi.

Cuộc sống luôn có những điều phức tạp, thậm chí là bất ngờ, và liên quan với nhau – cả điều tốt lẫn điều xấu. Kinh Thánh cho biết: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại.” (Is 8:23) Chỉ là chuyện địa lý bình thường, nhưng vẫn liên quan chuyện tâm linh. Vì Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên, bắt nghèo và cho giàu, hạ thấp rồi nâng cao. (1 Sm 2:6-7) Thánh Ý Thiên Chúa luôn mầu nhiệm, không ai có thể hiểu được.

Thiên Chúa nhân lành, Ngài chỉ muốn điều tốt, không muốn điều ác cho bất cứ ai – kể cả ác nhân. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.” (Is 9:1-2) Không thể không vui mừng, bởi vì đang ở trong bóng tối mà thấy có ánh sáng chiếu soi. Tại sao lại như thế?

Ngôn sứ Isaia cho biết rõ nguyên nhân: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.” (Is 9:3-4) Nếu được giải thoát khỏi cảnh tù đày, được giải cứu khỏi cảnh nô lệ, chắc chắn niềm vui sướng đó lớn lao và khó tả, ví như Lưu Nguyễn lạc vào cõi thiên thai thì lạ lùng lắm. Phàm ngôn không đủ từ ngữ để có thể diễn tả niềm hạnh phúc kỳ diệu như vậy.

Người ta cảm thấy niềm vui sướng đó dâng cao tột đỉnh, và đặc biệt là cảm thấy can đảm hơn, như Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1) Có Chúa rồi, người ta không câu nệ hoặc e ngại bất kỳ cái gì nữa, bởi vì ngoài Chúa ra thì tất cả chỉ là rơm rác, phân tro, coi như không. Cảm nghiệm được “vị ngọt ngào” của Thiên Chúa, Thánh Vịnh gia mau mắn xác định: “Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng.” (Tv 27:4) Đó mới là hạnh phúc và bình an đích thực.

Thánh Vịnh gia cho biết lý do đơn giản: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.” (Tv 27:13) Sau khi cảm nghiệm được Chúa và được vui mừng khôn tả, Thánh Vịnh gia không thể giữ kín trong lòng mà phải lên tiếng mời gọi người khác cùng cảm nghiệm Chúa, muốn chia sẻ để người khác cũng được tận hưởng Ngài: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 27:14) Niềm hy vọng đó sẽ được mãn nguyện, và chẳng có ai phải ngậm ngùi thất vọng bao giờ.

Thế nhưng vẫn cần phải lưu ý, bởi vì Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơ-lô-e cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em.” (1 Cr 1:10-11) Tình trạng này vẫn thường xảy ra trong thời đại hôm nay, ngay trong các cộng đoàn hoặc hội đoàn. Con người dễ ảo tưởng và cho rằng mình sống đạo đức vì không phạm tội gì ghê gớm. Cái tôi dễ theo lời đường mật của ma quỷ nên ít khi chịu “lép vế” trước người khác, vì thế rất đáng quan ngại!

Người ta luôn có nhiều mưu lắm kế, với nhiều dạng “bình phong” che đậy, càng ngày càng tinh vi và càng khó phát hiện. Thánh Phaolô phân tích tỉ mỉ và nghiêm túc nói thẳng: “Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Kitô.’ Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?” (1 Cr 1:12-13) Quả thật, đôi khi chúng ta lợi dụng Chúa hoặc nhân danh Chúa mà hành động không đúng, thế nhưng lại cứ tưởng là tốt lành. Nguy hiểm quá chừng! Người Pháp có cách nhận định khá thú vị và tuyệt vời: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Nghe chừng mâu thuẫn nhưng lại hợp lý và chính xác. Thật vậy, người Việt vẫn thường nói: “Sự thật mất lòng.” Nhưng rồi liệu có tác dụng gì hay không, đó mới là điều đáng quan ngại.

Thay đổi không hề đơn giản, dù chỉ là một tật nhỏ. Quá trình thay đổi cần có thời gian, nhưng ơn Chúa có thể biến đổi ngay lập tức. Thiên Chúa có cách kêu gọi riêng cho từng người, không ai giống ai. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu.” (1 Cr 1:17) Có lẽ vẫn có người nghĩ rằng phải “khéo nói” thì người ta mới bùi tai và nghe theo, thực ra như thế có thể chỉ là “lẻo mép” và theo kiểu “dụ dỗ” mà thôi.

Nói về Tin Mừng thì phải rõ ràng, chính xác, nghiêm túc, thẳng thắn, không vòng vo, không lải nhải kiểu lắm chuyện. Người nào không yêu sự thật thì không dám lên tiếng bảo vệ công lý, không thể hoặc không dám “chạm” vào những điều nhạy cảm, và tìm cách tránh né để khỏi “phiền” đến mình. Người đau mắt thì sợ ánh sáng, dù ánh sáng đó bình thường mà thôi.

Thiên Chúa bất biến vĩnh hằng. Kinh Thánh xác định: “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.” (Dt 13:8) Vì thế, Ngài cũng tha thiết muốn tất cả mọi người NÊN MỘT. (x. Ga 17:20-23) Nên một là duy nhất – một trong bốn đặc tính của Giáo Hội Công giáo. Sự hiệp nhất luôn rất cần thiết. Thế nhưng đôi khi chúng ta lại chia năm xẻ bảy Nhiệm Thể của Ngài bằng nhiều cách. Ai cũng cho lý lẽ của mình đúng, thế nên không chấp nhận lý lẽ của người khác. Không chấp nhận nhau nên vẫn không thể hiệp nhất, không thể “nên một” theo ý muốn của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đã một lần chịu chết, Nhiệm Thể Đức Kitô vẫn tiếp tục chịu đau khổ. Có nhiều cuộc ly giáo, nhưng đáng lưu ý là hai cuộc ly giáo lớn: [1] Ngày 16-7-1054, Giáo Hội Tây phương và Giáo Hội Đông phương ra vạ tuyệt thông lẫn nhau, chia thành Công giáo và Chính thống giáo. [2] Ngày 31-10-1517, Martin Luther (linh mục dòng Augustinô, người Đức, giáo sư phân khoa thần học) khởi xướng phong trào cải cách, Luther đưa ra một luận văn với 95 điều chống lại Công giáo, rồi ly khai. Từ đó còn phát sinh hàng ngàn giáo phái khác ngày nay.

Qua trình thuật Mt 4:12-23, Thánh Mátthêu cho biết: Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơ-vu-un, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại!” Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.

Sách Isaia nói tới bóng tối và ánh sáng đời thường, Tin Mừng nói tới bóng tối và ánh sáng khác thường: bóng tối tử thần và Ánh Sáng Đức Kitô. Bóng tối và ánh sáng luôn đối nghịch, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bóng tối tử thần là bóng tối tội lỗi, bóng tối ma quỷ; còn Ánh Sáng Đức Kitô là ánh sáng cứu độ, ánh sáng sự sống, ánh sáng sự thật, ánh sáng công lý. Nơi nào có ánh sáng thì bóng tối bị đẩy lùi, không thể xuất hiện.

Thánh Mát-thêu cho biết: Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Chúng ta ở trong bóng tối tử thần nhưng được Chúa kéo ra và cho vào ánh sáng sự sống. Thế rồi chúng ta lại chui vào bóng tối tội lỗi. Uốn thẳng khó hơn bẻ cong, lên dốc mệt hơn xuống dốc. Do đó, Chúa Giêsu kêu gọi phải mau sám hối vì Nước Trời đến gần rồi. Ngài muốn nói đến tương lai gần chứ không phải là tương lai xa – nghĩa là cấp bách, không thể lần lữa, chần chừ, lừng khừng,…

Một lúc sau, khi đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy hai anh em Anrê và Simôn, cũng gọi là Phêrô, đang quăng chài xuống biển, vì họ là ngư phủ. Ngài bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài. Rất độc đáo, vì dân chài bình thường nay trở thành dân chài khác thường – chài người chứ không chài cá nữa.

Chúa Giêsu tiếp tục đi thêm một quãng nữa, Ngài thấy hai anh em nhà Dêbêđê – anh là Giacôbê và em là Gioan. Họ đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Ngài gọi hai anh em họ. Lập tức, họ bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Ngài. Anh em nhà này từ nay cũng chỉ chuyên nghề lưới người mà thôi.

Thật lạ lùng nhưng rất tuyệt vời: cả hai cặp anh em đều có điểm chung là lập tức bỏ mọi sự và mau mắn đi theo tiếng gọi của Chúa. Đó là động thái dứt khoát cần thiết, mà muốn dứt khoát thì phải mạnh mẽ và can đảm. Đời sống thường nhật cũng luôn cần các động thái đó, lại càng cần hơn nữa đối với đời sống tâm linh. Đó là điều tất nhiên, nhưng không phải dễ hành động.

Cuối cùng, Thánh Mátthêu cho biết: “Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.” Đó là dấu hiệu cho biết Nước Trời sắp đến, nghĩa là ở thì tương lai gần. Điều gì sắp sửa xảy ra thì người ta không thể chậm trễ, phải gấp rút, càng mau càng tốt, chuẩn bị càng kỹ lưỡng càng hiệu quả.

Thật đáng quan ngại với ý tưởng của Chân phước Henry Suso: “Người ta thường mua hỏa ngục bằng một cái giá quá đắt, vì họ chịu hy sinh bản thân để làm đẹp lòng thế gian.” Ước gì tất cả chúng ta luôn biết say mê Lời Chúa, vì nhờ ánh sáng đó mới có thể biết đường về Cõi Sống.

Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí để biến đổi chúng con nên mới, đủ sức mạnh để vượt qua chính mình, đủ can đảm để buôn bỏ những gì không cần thiết, nhìn thẳng hướng chứ không ngoái lại nhìn lại phía sau, cắt đứt quá khứ để nối dài hiện tại tới tương lai, sẵn sàng và mau mắn vâng ý Ngài dù có lúc chúng con cảm thấy không thoải mái. Xin Ngài tăng lực cho chúng con và ban cho chúng con trí thông minh tâm linh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

----------------------------

 

TN 3-A127: BƯỚC THEO ÁNH SÁNG


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Chúa nhật trước, Phụng vụ đã cùng với thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu với chúng ta Chúa Giêsu là TN 3-A127


Chúa nhật trước, Phụng vụ đã cùng với thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu với chúng ta Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy theo Chúa Giêsu để trở nên môn đệ của Người. Bước theo Chúa Giêsu là bước theo ánh sáng, vì Người là Ánh Sáng trần gian.
 
Chủ đề “Ánh sáng” được nhấn mạnh trong Bài đọc I và trong bài Tin Mừng. Bài trích sách ngôn sứ Isaia được đọc hôm nay, cũng là bài đọc trong thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên trong đêm tối, đem cho nhân loại ơn giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Người đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của tối tăm. Trước ánh sáng huy hoàng thiêng liêng này, nhân loại được vui mừng hân hoan, vì không còn ách nô lệ tù tội nữa. Thánh Mátthêu đã chứng minh Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai các ngôn sứ đã loan báo. Người đến để đẩy lui tối tăm tội lỗi, đem cho con người niềm vui.
 
Ai đón nhận Chúa là đón nhận ánh sáng cho cuộc đời. Ai đi theo Chúa là bước theo ánh sáng. Những người dân chài ở biển hồ Galilêa đã nghe tiếng Chúa gọi và đã sẵn sàng theo Người. Thánh Matthêu ghi lại hai cặp anh em được Chúa gọi. Trước lời mời gọi: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, các ông đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. Họ bỏ thuyền bỏ lưới, bỏ người thân. Tất cả những gì gắn bó với họ, trong tình cảm cũng như trong nghề nghiệp, họ đều sẵn sàng hy sinh trước tiếng gọi của Chúa. Lời mời gọi ấy đơn sơ mà hấp dẫn mạnh mẽ, khiến những người dân chài ít học trở thành môn đệ của Chúa. Sau này, nhờ được Chúa dạy dỗ, họ đã trở nên những tông đồ mạnh mẽ can đảm để làm chứng cho Người.
 
“Hãy theo tôi!”, lời gọi năm xưa được gửi đến với mỗi người chúng ta hôm nay. Nhờ bí tích thanh tẩy, chúng ta trở nên những người đồng thừa kế với Đức Kitô. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta cũng được trao sứ mệnh làm ngôn sứ, tư tế, và làm người tham gia quản trị trong Giáo Hội, để rồi chúng ta đóng góp phần mình làm cho Giáo Hội mạnh mẽ ở khắp nơi. Vì vậy, những Chúa nhật đầu của mùa thường niên, Phụng vụ vừa giới thiệu với chúng ta chân dung Đấng Cứu thế, vừa mời gọi chúng ta bước theo Người để trở thành môn đệ.
 
Người môn đệ của Chúa được chia sẻ vinh quang của Người, nhưng trước hết, phải đi con đường Người đã đi, tức là con đường thập giá. Bài Tin Mừng nhắc đến ông Gioan Tẩy giả, một ngôn sứ kiên cường bảo vệ chân lý, dù phải đối mặt với cường quyền. Ông đã bị bắt giam và đã bị giết. Chính trong bối cảnh Gioan Tẩy giả bị bắt, mà Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng và kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Người tín hữu được mang danh Chúa Kitô, được gọi là Kitô hữu. Danh xưng này vừa là một danh dự, vừa là một trách nhiệm. Danh xưng này vừa nói lên vinh quang, nhưng cũng nói đến thập giá. Để trung thành với Chúa, chúng ta phải chọn lựa cách sống phù hợp với giáo huấn của Người. Đó là sống thánh thiện trước mặt Chúa và hiệp nhất với anh chị em. Vào thời của Thánh Phaolô, có những chia rẽ nghiêm trọng giữa các tín hữu ở Côrinhtô. Người thì nói mình thuộc về phe ông Phêrô, người lại bảo mình thuộc về ông Phaolô, hay ông Apolô. Trong thư gửi cho cộng đoàn này, Thánh Phaolô mời gọi mọi người sống hiệp nhất với nhau, xóa bỏ mọi tranh chấp chia rẽ kiểu người đời, vì chỉ có Chúa Kitô mới là lý tưởng của mọi tín hữu (Bài đọc II). Ngày nay, nơi một vài cộng đoàn đức tin, hiện tượng chia rẽ, bè phái tranh chấp vẫn tồn tại. Nhiều người suy nghĩ theo kiểu người đời, thích phô trương công trạng và sống ích kỷ, quy hướng về cá nhân, khi không được như ý thì tiêu cực chống đối và gây chia rẽ. Lối suy nghĩ này đã làm cản trở công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, là nguyên cớ cho nhiều người phê phán Đạo Chúa. Những ai gây chia rẽ trong Giáo Hội là làm cho thân thể Đức Kitô “bị chia năm xẻ bảy” và làm cho hình ảnh của Người bị biến dạng.
 
Bước theo ánh sáng là ơn gọi của người Kitô hữu. Lộ trình này đòi hỏi một quyết định dứt khoát và kiên định. Một khi trở thành môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi trần gian, như Đức Giêsu đã chiếu soi mọi nơi tăm tối của cuộc đời.

 
Trong những ngày này, chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Đinh Dậu. Mùa xuân khai mở một năm mới, ấm áp vui tươi và tràn đầy sức sống. Chúa Giêsu đến trần gian cũng khai mở thời Thiên Sai, thời mà con người được giải phóng khỏi mọi tối tăm và sự ràng buộc của tội lỗi. Bước theo Chúa Giêsu, là đón nhận thời đại mới của những người sống trong hạnh phúc và yêu thương. Đó không phải là hạnh phúc chóng qua nhất thời, nhưng là hạnh phúc lâu bền vĩnh cửu.

-------------------------------

 

TN 3-A128: NGUỒN GỐC SỰ DỮ LÀ CÁI TÔI


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Con người ngày hôm nay thường lấy mình làm trung tâm nên họ luôn quy chiếu về mình và không TN 3-A128


Con người ngày hôm nay thường lấy mình làm trung tâm nên họ luôn quy chiếu về mình và không bận tâm tới luật lệ hay luân thường đạo lý. Họ quan niệm rằng: phàm làm việc gì chỉ cần mình sống vui vẻ hạnh phúc là được!

– Có nhiều bạn trẻ khi được hỏi: quan hệ nam nữ trước hôn nhân có tội không? Đa số các bạn cho rằng không có tội, vì họ yêu nhau và muốn dâng hiến cho nhau thì đâu có tội! Thế nên, họ vẫn thản nhiên sống thử như vợ chồng với nhau.

– Có nhiều người vô tư lấy của công làm của riêng, vì họ lý luận rằng họ có quyền lấy để bù đắp công sức mà họ bỏ ra, nên họ đáng được hưởng!

– Có người bớt xén của chủ, của công ty vì cho rằng mình bị chủ chèn ép hay công ty trả lương quá thấp nên bớt xén để đền bù!

– Có người khi thấy thai nhi bị dị tật hay sự sinh ra của đứa trẻ sẽ gây khó khăn cho mình nên bình thản phá bỏ thai nhi!

Tất cả những điều trên cho ta thấy họ đều quy hướng về mình. Vì hạnh phúc, vì quyền lợi của mình mà họ vượt trên lề luật. Họ xem thường lề luật, xem thường đạo lý. Những bài giáo lý trở thành vô dụng khi con người ngày nay chỉ quan tâm tới nhu cầu của bản thân.

Đó là lý do con người ngày nay sống chai lỳ trong tội. Một hiện tượng mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã nói là : “con người ngày nay đã mất ý thức về tội”.  Khi con người mất ý thức về tội thì họ sẽ sống theo nhu cầu xác thịt, họ sẽ lao vào những đam mê hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý. Có khi còn bất chấp thủ đoạn để đạt được điều mình mong muốn. Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ chưa bao giờ tội phạm nhiều như ngày nay.

Ngay từ thời Chúa Giê-su tội lỗi đã tràn lan. Thế nên, lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giê-su là kêu gọi sám hối canh tân. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương. Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.

Là người đều có những lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên làm lại cuộc đời. Không nhận ra sai lỗi. Không cảm nhận sự vấp ngã. Con người cũng mất ý thức về tội. Con người càng mất lòng sám hối ăn năn. Thực ra, nhân vô thập toàn. Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để canh tân từng phút. Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh thần đến vật chất.

Ước gì mỗi người ky-tô hữu hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợp với Tin Mừng. Xin đừng vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội. Xin đừng đề cao tự do cá nhân để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

----------------------------

 

TN 3-A129: KHAI MỞ ÁNH SÁNG HY VỌNG VÀ ƠN CỨU ĐỘ CHO MUÔN DÂN


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Ngày 20 tháng Giêng đã trở thành ngày được quy định để các tân tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố TN 3-A129


Ngày 20 tháng Giêng đã trở thành ngày được quy định để các tân tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố nhận nhiệm vụ. Với tổng thống Donal Trump lần này, ông đã tuyên bố khởi đầu nhiệm vụ bằng những lời hứa hẹn đưa đất nước Hoa kỳ trở lại vị thế của một cường quốc kinh tế và quân sự. Các vị chủ tịch hoặc bí thư của Việt Nam trong ngày nhận chức thường không đưa ra được điều gì mới mẻ cho đất nước, nhưng các bài diễn văn của các vị tổng thống Hoa Kỳ luôn là những bài diễn văn gây được ấn tượng mạnh đối với Hoa Kỳ và đối với cả thế giới. Các bài diễn văn này thường mở ra một hướng đi cho Hoa Kỳ và cho cả thế giới.

Khác với các chính trị gia, Chúa Giêsu xuất hiện công khai, Ngài không hứa hẹn một đường lối chính trị hay ngoại giao, nhưng khai mở một vương quốc mới cho tất cả nhân loại, đó là Vương quốc Nước Trời, vương quốc của ánh sáng và sự thật. Những ai tin vào Chúa Giêsu như là một thủ lãnh, là Thiên Chúa và là Đấng cứu độ, người đó sẽ được cứu độ, được gia nhập vào Nước Trời của Ngài.

Niềm tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất, luôn gặp những cám dỗ và thách thức. Nhiều người tin vào Chúa Giêsu nhưng vẫn bị cám dỗ chạy theo và tin vào các thần linh khác, hoặc vào một người khác không phải là Chúa Giêsu. Vào thời Chúa Giêsu, có những người đã bị giằng co giữa việc đi theo Gioan hoặc đi theo Thầy Giêsu. Bài Tin Mừng tuần trước và bài Tin Mừng hôm nay, quả quyết, sứ mạng của Gioan đã chấm dứt, ông đã hoàn toàn rút lui và nay đã đến thới mới, thời của Đấng Cứu Thế có tên là Giêsu. Ngài mới thực sự là ánh sáng dẫn đường cho nhân loại.

Chúa Giêsu được thánh Matthew minh chứng, Ngài chính là ánh sáng, niềm vui và ơn cứu độ cho mọi dân tộc. Nếu như trước đây vùng Davulun và Naptali bị coi như vùng đất bị chúc dữ, bởi đó là vùng của dân ngoại và các thần minh của họ, thì nay Chúa Giêsu lại chọn vùng đất này để khởi đầu cho sứ mạng của Ngài. Ngài đã biến vùng đất tối tăm thành nơi đầy tràn ánh sáng, vùng đất chết chóc, bị nguyền rủa, thành nơi được chúc phúc và sự sống. Với việc Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ tại Caphanaum, khiến cho tác giả Tin Mừng nhận ra sự ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về vùng đất này: Hỡi đất Davulun và Naptali, con đường ven biển và vùng tả ngạn sông Gioadan, Galilea, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong tối tăm của sự chết đã được thấy ánh sáng huy hoàng.

Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ tại vùng Caphanaum, sứ điệp đầu tiên của Ngài là lời mời gọi: Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Lời mời gọi sám hối, là lời mời được gửi đến với tất cả mọi người từ người Do Thái đến dân ngoại, từ người công chính đến kẻ tội lỗi. Tất cả mọi người được mời gọi sám hối, tức là làm một cuộc thay đổi và trở về. Thay đổi từ trong suy nghĩ đến hành động, từ nếp sống bên ngoài đến tư tưởng bên trong tâm hồn, sao cho phù hợp với thời đại mới là Nước Trời, mà Chúa Giêsu bắt tay vào xây dựng. Sám hối không chỉ là hành động ăn năn, khóc lóc hối hận, của người có tội, nhưng còn là cố gắng trổ sinh những hoa trái tốt lành xứng với tâm tình sám hối. Như thế, việc nở hoa công chính là việc làm không chỉ của tội nhân, mà còn của những người công chính cũng cần phải sinh nhiều hoa trái tốt lành hơn.

Thánh Matthew cũng cho thấy những con người đầu tiên đáp lại lời mời gọi của Chúa cách nhanh chóng, đó là các người đánh cá tại bờ hồ Galilea. Simon và anh là Anre cũng như Giacobe và Gioan, họ là những con người đơn sơ chất phác, có nghề nghiệp và gia đình ổn định. Tuy nhiên, những chàng trai này đang khát khao tìm kiếm một điều gì đó cao hơn và xa hơn, mà nghề nghiệp và cuộc sống hiện tại không thể làm các anh thỏa mãn. Vì thế, khi Chúa Giêsu đi ngang qua, bằng một mời gọi ngắn gọn, nhưng mạnh mẽ : Hãy theo tôi! Và một lời hứa hẹn: Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức, những chàng trai này đã bỏ lại đàng sau tất cả tài sản, nghề nghiệp và cả mối liên hệ tình cảm gia đình, để bước theo Chúa Giêsu, trở thành những công dân đầu tiên của Nước Trời.

Thái độ dứt khoát của các chàng ngư phủ này cho thấy, sự cấp bách và đòi hỏi dứt khoát của nước trời. Sự thay đổi nhanh chóng của các ông chính là thái độ sám hối mà thầy Giêsu rao giảng. Muốn trở nên môn đệ của thầy Giêsu và trở nên công dân của Nước Trời, cần phải mạnh dạn từ bỏ nếp sống cũ, thói quen cũ, từ bỏ các ham muốn và lôi kéo của tiền bạc của cải và các mối dây tình cảm, để chấp nhận một nếp sống mới, một con người mới, thuộc về Chúa Giêsu và đi theo Chúa Giêsu.
Nếu các tông đồ Simon, Anre Giacobe và Gioan là những người được chọn để trở thành công dân đầu tiên của Nước Trời, thì cũng còn những người đầu tiên khác được đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc Chúa chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn. Đây cũng chính là sứ vụ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ngài đến thế gian không phải như một vị khách đi tham quan, nhưng là để bước đến và cúi xuống trên những người bệnh tật thể xác và tâm hồn, để tha thứ và chữa lành cho họ. Nếu như người Do Thái cho rằng, mọi bệnh tật của con người đều do tội lỗi gây ra, thì Chúa Giêsu đã thể hiện tình thương, bằng việc tha thứ tội lỗi là nguyên nhân gây đau khổ và bệnh tật, cũng như chữa lành đau đớn thể xác cho con người.

Thánh Phaolô cho thấy, một khi đã tin nhận Đức Giêsu và gia nhập vào Nước Trời, chúng ta trở thành thành viên trong gia đình của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại trừ tất cả các nguyên nhân và tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn; sống hòa thuận thương yêu nhau, nhìn nhận nhau như anh em một nhà, con cùng một Chúa một cha. Đừng vì bất cứ một sự tự ái hay lợi ích cá nhân nào, để dẫn đến sự chia bè kết phái, chống đối chỉ trích lẫn nhau; đừng nhân danh đạo đức hoặc mượn danh Phaolo hay Apolo, đừng vì vị này vị nọ dẫn đến chia rẽ chỉ trích lẫn nhau. Vì chúng ta chỉ có một Chúa Giêsu Kitô, một phép rửa, một đức tin duy nhất mà thôi.

Ánh sáng Tin Mừng, ánh sáng chân lý của Chúa Giêsu đã được đem đến cho thế giới, nhưng thế giới ngày nay dường như không muốn đón nhận Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, bởi vì sống ánh sáng của Chúa Giêsu luôn đòi mỗi người phải sám hối, tức là phải thay đổi. Ánh sáng của Chúa Giêsu chính là ánh sáng của công lý và sự thật, là điều xã hội đang thiếu và đang cần, thế nhưng, người ta vẫn không muốn để cho công lý và sự thật trở thành người dẫn đường. Xã hội tránh né ánh sáng sự thật và công lý, bởi vì người ta đã quen sống trong sự tối tăm của giả dối và bất công, họ dễ dàng làm những điều gian dối, độc ác, trong bóng tối, vì thế họ e sợ ánh sáng sư thật.

Chúa Giêsu cũng đã khai mở một lối đi cho đời sống gia đình, để gia đình có thể đạt được mục đích của mình, đó là con đường tình yêu, con đường của lòng thương xót, bao dung và tha thứ. Tuy nhiên, nhiều gia đình đã không muốn để cho ánh sáng yêu thương của Chúa chiếu tỏa trong gia đình, bởi vì từ trong tâm hồn của mỗi thành viên, còn quá nhiều bóng tối và góc khuất của tự ái, giận hờn, nóng nảy bạo lực bạo hành. Muốn bước vào con đường của tình yêu và tha thứ, đòi các thành viên phải liên tục sám hối, tức là liên tục nhìn lại đời sống và hành động của mình, dưới ánh sáng sự thật của Tin Mừng, để có thể điều chỉnh bản thân cho phù hợp.

Như các môn đệ đầu tiên đã quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, Chúa Giêsu cũng mời gọi các bạn trẻ: Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các bạn trở thành các ngư phủ chài lưới người. Theo Chúa, Chúa không làm thiệt hại chúng ta, nhưng Chúa sẽ làm cho vòng tay của chúng ta rộng hơn, trái tim của ta lớn hơn, và đôi mắt của ta tinh tường hơn, để chúng ta có thể thấy, có thể đưa tay ra và có thể đón nhận, yêu thương, một cách quảng đại hơn.

Xin cho chúng ta luôn cảm thấy vui và tự hào vì mình là những môn đệ của Chúa, là người thuộc về Chúa Kitô và là thành viên trong vương quốc Nước trời của Ngài. Amen.

----------------------------

 

TN 3-A130: VẦNG ĐÔNG CỨU ĐỘ


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Trong thời chiến tranh, thỉnh thoảng có trường hợp hai đạo quân đối đầu với nhau trong đêm tối TN 3-A130


Trong thời chiến tranh, thỉnh thoảng có trường hợp hai đạo quân đối đầu với nhau trong đêm tối và họ đã phải giao chiến rất ác liệt trong bóng đêm dày đặc. Ban đầu, khi khoảng cách đôi bên còn khá xa thì họ giao tranh bằng tiểu liên và đại pháo. Sau đó, khi hai bên xáp lại gần nhau thì phải áp dụng chiến thuật cận chiến, dùng dao găm, lưỡi lê để sát hại nhau cách dã man tàn bạo. Số thương vong của đôi bên tăng cao khủng khiếp.

Thế rồi, cuộc giao tranh dịu dần vì cả đôi bên đều sức tàn lực kiệt, số quân sống sót chẳng còn bao nhiêu. Đến khi mặt trời ló dạng, hai bên mới nhận ra nhau là hai tiểu đoàn bạn, tuy khác binh chủng, khác màu cờ sắc áo, nhưng cả hai đều là những chiến sĩ của cùng một quốc gia, cùng chiến đấu để bảo vệ một quê hương, một tổ quốc chung!

Bóng đêm bao phủ khiến hai đội quân trên đây không nhận ra nhau là bạn để rồi tàn sát nhau khốc liệt đúng là một thứ bóng tối tử thần, bóng tối gieo rắc chết chóc đau thương.

Giá như không có bóng tối nầy, thì hai đội quân đâu có tiêu diệt nhau. Giá như vầng đông xuất hiện sớm hơn thì thương vong của đôi bên đâu có đến nỗi nhiều đến thế !

Vầng Đông sẽ xuất hiện trên thế gian

Bóng tối tử thần đem lại chết chóc trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của một thứ bóng tối khác đáng khiếp sợ hơn, đó là sự vô minh của con người, là không nhận ra đồng loại là anh chị em con cùng một Cha với mình nên người ta đã xem kẻ khác là thù địch và giao chiến với nhau không ngừng trong suốt dòng lịch sử.

Để xoá bỏ sự vô minh và ngộ nhận đáng tiếc nầy, “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1, 78-79).

Chúa Giê-su chính là Vầng Đông mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để xoá bỏ bóng tối tử thần đã thực sự xuất hiện như lời tiên báo của ngôn sứ I-sai-a, như trích đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy : 

“Chúa Giê-su rời bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói: “Hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Mt 4, 12-17).

Quả vậy, Chúa Giê-su chính là “Ánh Sáng huy hoàng” chiếu rọi cho “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” để họ không còn ngộ nhận người bên cạnh là kẻ thù cần phải tiêu diệt; để họ nhận ra mọi người chung quanh là những anh chị em rất thân yêu, con cùng một Cha trên trời. Được như vậy, thế giới nầy sẽ không còn cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn, không còn cảnh xung đột chiến tranh khói lửa ; trái lại, tình yêu thương thuận hoà sẽ rực sáng và bao trùm nhân loại.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).

Xin cho ánh sáng của Chúa bừng sáng lên trong tâm  hồn chúng con và trên muôn dân muôn nước, để nhờ ánh sáng Chúa soi dẫn, bóng tối sự chết sẽ bị xua tan, mọi người sẽ nhận ra Thiên Chúa là Người Cha tuyệt vời và nhận ra mọi người khắp nơi là anh chị em một nhà. Bấy giờ tội ác sẽ bị loại trừ và hoà bình công lý sẽ lên ngôi. Amen.

---------------------------------------

 

TN 3-A131: NGƯỜI MÔN ĐỆ, ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN


Lm. GB. Trần Văn Hào

Môn đệ Đức Giêsu : Trở nên ánh sáng cho trần gian.

 

Các bài đọc trong phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu như là ‘Ánh sáng TN 3-A131


Các bài đọc trong phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu như là ‘Ánh sáng soi chiếu trần gian’. Ngài là đối tượng đức tin mà chúng ta phải quy hướng về. Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ năm xưa, cũng như khuyến mời chúng ta hôm nay hãy tiếp nối dấu chân của Ngài để hiển thị ánh sáng ấy cho mọi người bằng chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.

Trình thuật Tin Mừng

Bài Tin Mừng hôm nay chia làm hai phần rõ rệt. Độc giả của Matthêu là các Kitô hữu gốc Do Thái, vì thế Thánh sử đã nhiều lần trích dẫn lời của các ngôn sứ trong cựu ước để nói về vài trò Cứu thế nơi Đức Giêsu, Đấng Messia. Khởi đầu trình thuật hôm nay, Thánh Matthêu cũng lập lại lời tiên tri Isaia để quảng diễn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu đang thực hiện : “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu vớt đoàn dân đã được Thiên Chúa ưu tuyển. Để thực hiện sứ mạng ấy, Ngài đi khắp nơi để rao giảng. Lời hiệu triệu đầu tiên Đức Giêsu công bố nhằm mời gọi dân chúng sám hối để thoát khỏi bóng tối tội lỗi và được hưởng nhận nguồn ánh sáng mà Thiên Chúa đem đến. “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”(Mt 4,17).

Trong phần thứ 2, Thánh ký kể lại giai thoại Đức Giêsu tuyển chọn 4 học trò đầu tiên bên bờ hồ Galilê, đó là hai anh em Simon và Phêrô cùng hai người con của ông Dêbêđê. Những học trò này sẽ trở thành nền móng để xây dựng Vương quốc mà Đức Giêsu khai mở. Các ông sẽ cùng sát cánh với thầy mình trong hành trình rao giảng và chữa lành.

Mầu nhiệm ơn gọi

Câu chuyện Chúa gọi bốn môn đệ đầu tiên là quy chuẩn để chúng ta nhìn vào chính ơn gọi nơi mình. Chúa chọn các học trò hoàn toàn do ‘ngẫu hứng’ và không hề có toan tính từ trước. Tại các tổ chức xã hội, ngay cả trong các xã hội chuyên chế và độc tài, người ta luôn chọn những người lãnh đạo hay những ai kế vị với những cân nhắc rất kỹ lưỡng, thường theo chuẩn mực ‘tài đức’ phải song toàn. Đối với Đức Giêsu thì không phải vậy. Bốn người học trò đầu tiên chỉ là những ngư dân tầm thường, dốt nát, một chữ bẻ làm đôi cũng không biết. Phêrô thì hăng hái nhưng lại rất bộc trực và yếu đuối. Ông đã khẳng khái tuyên bố sẽ theo Thầy đến cùng, nhưng rồi vì quá khiếp sợ đã chối bỏ Sư phụ mình ngay trước mặt một cô gái nhỏ. Hai anh em con ông Dêbêdê cũng thế. Họ là những con người tham quyền cố vị, từng mơ ước chiếc ghế ‘thủ tướng’ và ‘chủ tịch nước’ chia đều cho hai anh em trong Vương quốc mà Đức Giêsu sẽ thiết lập. Nói chung, những môn đệ được Chúa tuyển chọn không phải là những con người ưu tú với những phẩm tính trổi trang, trái lại họ chỉ là những ngư phủ rất bình thường và lắm khuyết điểm. Chắc chắn, Chúa đã chọn đệ tử không theo một quy tắc mô phạm nào cả và Ngài chọn họ chỉ vì Ngài muốn như vậy. Đức Giêsu cũng đã từng nói: “Không phải anh em chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em.”

Cũng vậy, ơn gọi của chúng ta luôn luôn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm ấy là một nghịch lý mà chúng ta không thể nào hiểu thấu theo đầu óc suy lý của con người. Chúa chọn chúng ta theo kế hoạch riêng của Ngài chứ không theo kiểu toan tính thế gian. Để chọn một người làm tổ phụ một dân tộc đông đúc, Chúa không chọn ai khác ngoài Abraham, một cụ già đang tuổi gần đất xa trời và theo lẽ thường tình không thể sinh con cái được nữa. Để chọn một người làm vua, làm thủ lãnh dân riêng, Chúa cũng chỉ chọn Đavít, một cậu bé chăn chiên vô danh tiểu tốt chẳng ai biết đến, đến độ bố mẹ chàng trai cũng quên mất sự hiện diện của nó trong gia đình. Tương tự, Chúa đã chọn Đức Maria, một cô thôn nữ nghèo nàn dung dị, quê kệch để làm Mẹ Đấng Cứu thế. Chúa cũng chọn một anh học trò đã từng ba lần phản bội để đặt làm đá tảng xây dựng Hội Thánh, kế tục công trình của Ngài. Oái ăm nhất, Chúa chọn một con người đã từng ra tay sát hại biết bao Kitô hữu làm nhân vật vĩ đại chuyên đi rao giảng về Đấng mà trước kia ông đã từng ghét bỏ. Ơn gọi đúng là một mầu nhiệm, hàm ngậm những nghịch lý khó hiểu nhất. Có một nữ tu đến gặp Mẹ Têrêsa Calcutta và nói: “Thưa mẹ, con cảm thấy như Chúa đang mời gọi con để phục vụ các cháu cô nhi không cha không mẹ, nhất là các trẻ bị tật nguyền”. Mẹ Têrêsa trả lời: “Này con, chỉ có một ơn gọi duy nhất mà thôi, đó là hãy bước theo Chúa Giêsu và trở nên môn đệ Ngài. Sau đó Chúa sẽ dạy cho con biết phải làm những gì”.

Điều quan trọng ở chỗ chúng ta là gì chứ không phải làm gì. Trước hết hãy trở nên môn đệ Đức Giêsu, rồi Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết những gì chúng ta phải làm. Bốn môn đệ đầu tiên đã mau mắn đáp trả lời mời gọi của Đức Giêsu, và sau đó Chúa đã huấn luyện để các ông trở thành nền móng xây dựng Hội Thánh.

Sống ơn gọi Kitô hữu – Trở nên nguồn sáng.

Đức Giêsu, Thầy của chúng ta, là ánh sáng chiếu soi muôn dân. Các học trò của Ngài cũng phải thể hiện tính năng ấy. Nhà văn Aesop của Hy Lạp có viết một câu chuyện mang tính ngụ ngôn răn đời rất ý nghĩa. Ở thành phố Athens, có một người bị mù từ bẩm sinh. Anh ta gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày, đặc biệt vào ban tối mỗi khi anh ra đường vì bị nhiều người va vấp phải. Một người hàng xóm tốt bụng tặng anh một cây đèn, để anh mang theo mỗi khi đi ra khỏi nhà. Cây đèn đã giúp anh rất nhiều. Một buổi tối nọ, anh mù ra phố và cũng cầm cây đèn trên tay như mọi lần, nhưng anh đã bị một người va đụng phải. Anh mù bực tức và nói : “Ông mù hay sao mà không thấy cây đèn trên tay tôi để tránh ra”. Người khách đi đường lồm cồm đứng dậy và trả lời : “Thưa anh, đúng vậy, anh đang cầm cây đèn trên tay, nhưng cây đèn ấy đã tắt từ lâu rồi mà anh không biết hay sao?”.

Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận cây đèn đức tin từ ngày chúng ta được thánh tẩy. Nhưng cây đèn đó có khi đã lịm tắt từ lâu mà chúng ta vẫn không hay biết. Chúng ta không thể trở nên ánh sáng soi dẫn người khác nếu ngọn đèn đức tin của chúng ta đã tắt lịm hoàn toàn.

Kết luận

Không ai có thể cho đi cái mà mình không có. Chúng ta cũng không thể trở thành môn đệ Đức Giêsu và nên ánh sáng cho mọi người nếu chúng ta vẫn sống trong bóng tối đặc kín tội lỗi. Xin Chúa giúp chúng ta biết châm đầy dầu vào cây đèn đức tin mà chúng ta đang giữ trên tay. Xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn trở thành những môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của ông Dunan, người sáng lập hội Hồng Thập Tự quốc tế. Ông rất tâm đắc điều mà ông đã khẳng quyết : ‘Hoặc tôi là môn đệ của Đức Giêsu, hoặc tôi không là gì cả.”

------------------------------

 

TN 3-A132: NƯỚC TRỜI NÀO ĐÃ ĐẾN GẦN?


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Theo thánh sử Mát-thêu thì, ngay từ bước khởi đầu rao giảng, Đức Giê-su đã lấy miền đất Ga-li-lê TN 3-A132


Theo thánh sử Mát-thêu thì, ngay từ bước khởi đầu rao giảng, Đức Giê-su đã lấy miền đất Ga-li-lê, đặc biệt thị trấn Ca-phác-na-um, làm trung tâm hoạt động. Một trong các lý do được đưa ra là vì tại Giu-đê Gio-an tẩy giả đã bị bắt, cho nên Đức Giê-su phải lẩn tránh qua Ga-li-lê. Thánh sử sẽ cho biết sau, cách khá chi tiết, tại sao Gio-an rơi vào cảnh tù đầy (Mt 14:1-12 và Mc 6:17-29): vì ông đã can gián vua Hê-rô-đê đừng phạm tội loạn luân, là kết hôn với Hê-rô-đi-a, vợ của ông anh Phi-líp-phê. Việc trốn lánh của Đức Giê-su xem ra đã được biện minh, nhưng tôi vẫn thấy có điều gì đó không ổn: tại sao Đức Giê-su, đấng được trông đợi như một nhà cải cách, lại không tích cực hơn nữa trong việc ủng hộ Gio-an, khi mà hành động của ông thật quang minh chính đại và có phần anh hùng khí khái nữa?

Qua muôn thế hệ, gương anh dũng và khí phách của Gio-an vẫn đáng được người đời lưu truyền và ca tụng. Người đời sẽ mãi mãi chờ mong, thậm chí đòi hỏi, các bậc hiền triết – quân tử phải có thái độ khảng khái như thế. Trong bất cứ cuộc đấu tranh công lý nào, tiếng nói đơn độc của một người là không đủ, luôn cần có sự tiếp tay của các ‘đồng chí’. Vai trò người nào càng lớn, tiếng nói của người đó càng có thế giá, thì lại càng bị đòi hỏi mạnh! Tôi còn nhớ cách đây ít năm, người ta đã mang vụ đức giáo hoàng Pi-ô XII ra mổ xẻ; và nhiều người lớn tiếng kết án ngài vì đã không mạnh dạn lên tiếng phản đối chiến dịch Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái…, để rồi qua ngài, họ kết án luôn Giáo Hội Công Giáo nói chung. Việc lẩn trốn của Đức Giê-su cũng có thể bị cắt nghĩa theo chiều hướng đó. Sau này, cho dù Người đã dùng các lời cao đẹp nhất để ca tụng Gio-an (xem Lc 7:24-30), hoặc đã tỏ ra khá khảng khái trước các đe dọa của Hê-rô-đê (xem Lc 13:31-33), thì vẫn không ai cho khí phách đó của Người là xứng với một đấng Mê-si-a! Người ta sẽ còn mãi mãi chờ đợi nơi Người nhiều hơn thế nữa, nếu xét theo diện công lý trần gian.

Nói như thế đủ để thấy cái sứ điệp Đức Giê-su rao giảng tại Ga-li-lê: “Anh em sám hối, vì Nước Trời đã đến gần!” là quan trọng nhưng cũng đầy bí ẩn như thế nào; vì sứ điệp đó không đơn giản chỉ là kêu gọi cải tà qui chính. Sứ điệp của Đức Giê-su thực ra mời gọi người nghe đón nhận Nước Trời kèm theo những đòi hỏi vượt xa mục tiêu khảng khái bảo vệ luân lý cho tới cùng của Gio-an. Nước Trời hay Tin Mừng chính là tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đang được Đức Giê-su công bố và thực hiện. Tin Mừng này không chỉ cổ súy công lý chính trực, mà còn ôm lấy cả tội lỗi và lầm lạc để đưa vào sự sống. Nước Trời này, như lời ngôn sứ I-sai-a mà Mát-thêu trích dẫn, có khả năng làm cho “đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy được ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Nước Trời này không hề kết án hay nguyền rủa nhân loại lầm lạc tội lỗi, không vạch mặt xỉa xói những sai trái của con người, nhưng sẵn sàng ban cho tất cả mọi người lòng xót thương vô bờ và ơn cứu độ; chỉ với một điều kiện đơn giản là họ mở lòng đón nhận. Địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li được gọi là ‘miền đất của dân ngoại’ lại càng làm nổi bật tính phổ quát, tính nhưng không của Nước Trời! Dân ngoại là những người không thuộc số được tuyển chọn và thanh lọc như dân Híp-ri, dân riêng của Đức Chúa; họ chưa từng ký kết với Ngài một giao ước sòng phẳng nào dựa trên luật pháp. Do đó họ bị người Do Thái liệt vào hàng tội lỗi và nhơ bẩn. Thế rồi chính cái đoàn dân nhơ bẩn còn đang ‘ngồi’ trong bóng tối sự chết đó đột nhiên được ánh sáng rọi tới, và được chứng kiến ánh sáng của tha thứ và cứu độ bừng lên!

Bây giờ thì tôi mới hiểu: đứng trước cùng một Hê-rô-đê đó – vị vua bị Gio-an chỉ thẳng mặt quở trách thì Đức Giê-su lại chỉ giữ một thái độ thinh lặng, do đó bị mọi người cười nhạo là ngu xuẩn, là hèn nhát (Lc 23:8-12). Đó là một thinh lặng, xem ra tiêu cực về mặt luân lý, nhưng lại có sức mở mọi cõi lòng đón lấy tình yêu…, dầu chỉ là một chút xích lại gần nhau; “Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù”.

Thực là một bài học quí giá cho việc mục vụ của một linh mục như tôi, khi tôi phải thể hiện vai trò của một Ki-tô Giê-su tha thứ hơn là của một Gio-an vạch mặt kết án, nhất là nơi tòa cáo giải! Nhiệm vụ của linh mục là ban phát tình thương của Thiên Chúa, là công bố cho hối nhân biết Nước Trời của lòng thương xót đã đến gần, chứ không phải để vạch trần điều sai trái hay lỗi phạm, cho dầu với mục đích để sửa chữa răn đe. Nói tóm lại: như Đức Ki-tô tôi phải là một linh mục của lòng nhân ái xót thương trước khi là linh mục thẩm phán nghiêm minh.

Lạy Chúa, trong đời linh mục, đôi khi ngay trong tòa giải tội của lòng thương xót thứ tha, biết bao lần con đã không thực thi thái độ tiêu biểu của Chúa là ‘không bẻ gẫy cây sậy bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói’. Xin Thánh Tâm Chúa dạy dỗ và biến đổi con để ngày càng trở nên một Alter Christus, biết không ngừng học nơi Chúa thái độ ‘hiền lành và khiêm nhường trong lòng’. Xin cho con luôn biết xác định rõ: đâu là nét đặc thù của Tin Mừng cứu độ mà con phải loan truyền cho mọi người, đặc biệt các hối nhân.  A-men.

-----------------------------

 

TN 3-A133: NIỀM VUI CÓ ĐỨC GIÊSU


Lm. Jos. DĐH.

 

Tai nghe được những lời nói hay, mắt nhìn thấy người hiền tài bằng xương bằng thịt, nhưng tâm TN 3-A133


Tai nghe được những lời nói hay, mắt nhìn thấy người hiền tài bằng xương bằng thịt, nhưng tâm trí ta chỉ bị khuất phục khi hành động của anh chị em mình thể hiện được lý lẽ của tình yêu. Cuộc sống tạm gọi là ổn định, chính là cuộc sống mà trong đó người ta được no đủ cơm áo gạo tiền, có bình an và hạnh phúc trong tâm hồn. Tục ngữ có câu: được voi đòi tiên, hẳn không phải do lòng tham “vô đáy” tự nhiên của con người đòi hỏi, đúng hơn là vì nhu cầu hạnh phúc sâu thẳm nơi tâm hồn chưa được thỏa đáng mà thôi.

Gioan xuất hiện đã là niềm vui cho nhiều đối tượng đang khao khát Chúa đến, mà niềm vui to lớn, trọn vẹn phải là niềm vui được chia sẻ, để tâm hồn ai cũng no đủ bình an hạnh phúc trong ơn cứu độ. Chúa Giêsu hôm nay đã chính thức thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng ơn cứu độ, sứ mạng ấy vẫn còn là niềm vui khó hiểu, vì người ta không thể tự phát hiện Nước Trời ở đâu ? Tại sao phải sám hối mới có được Nước Trời ? Có những người nói nhiều nhưng không phải rượu vào lời ra, không phải vì họ say hay điên khùng, mà vì niềm vui chất chứa trong họ quá nhiều, khiến họ không thể im lặng.

Ông Gioan, Đức Giêsu, các tông đồ, các bậc tiền nhân, và chúng ta hôm nay đều mang chung một tình yêu của Thiên Chúa, có khác chăng là mỗi tâm hồn chúng ta có đủ vui để Chúa ở mãi không ?  Ông Gioan gặp niềm vui vì thấy Đức Giêsu, và ông không ngần ngại xả thân hoàn tất sứ mạng dọn đường. Đức Giêsu rao giảng Nước Trời đã gần đến, không phải vì tài sức hay uy quyền, nhưng còn do nhiều người đang tự ý thức gục đầu ăn năn, cần được thứ tha tội lỗi. Người Kitô hữu mỗi ngày mỗi lúc sẽ cảm nhận rõ hơn theo Chúa không phải để hưởng bộc lộc giầu sang, nhưng tất cả đều vui vì có niềm tin sống động của Chúa Giêsu trong tâm hồn.

Ngày hôm nay, người trẻ vẫn đang lạc quan với những lý lẽ rất thuyết phục: đừng khóc vì một việc đã qua, nhưng hãy mỉm cười vì mọi việc đang chờ ở phía trước. Đồng ý rằng, sự khác biệt giữa người thành công và thất bại không phải ở sức mạnh, kiến thức hay sự hiểu biết mà chính là ở ý chí. Làm sao để người Kitô hữu chúng ta giới thiệu Đức Giêsu chính là Nước Trời đang đến, Đức Giêsu chính là niềm vui, là sức mạnh cho những ai sầu khổ ? Phải chăng, Đức Giêsu thật công bình khi giới thiệu Nước Trời, Ngài đặt chúng ta trong sự tự do, để qua đó, nếu muốn đạt tới hạnh phúc đều phải phấn đấu, cố gắng, hiểu biết mình quả là giới hạn.

Kinh nghiệm ở đời vẫn cho rằng, không ai tự mình làm nên thành công, cũng như không ai tự làm thầy thuốc, tự làm quân sư cho mình, vì thế, ai cũng rất cần đến tình yêu thương và sống liên đới, nâng đỡ nhau. Lựa chọn nào cũng cần có hy sinh, hạnh phúc nào cũng cần phải đầu tư, không thể tự nhiên mà có kết quả mỹ mãn, dù ta có nhiều tài năng đức độ. Nước Thiên Chúa hay hạnh phúc trần gian luôn là một chọn lựa, là sự tự do, tùy mỗi người tự quyết  như câu thành ngữ: của vua có thần, của dân có ma, của nhà giầu có nọc. Tình yêu và hạnh phúc, nhất định không đến từ sự ngẫu nhiên, nhưng đến từ ơn khôn ngoan và sức mạnh nội tâm của mỗi người.

Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến, Đức Giêsu mời gọi nhưng không áp đặt, chờ đợi mà không ép buộc ; tự do suy xét, tự nhận biết con người thật của mình, đó là bước khởi đầu đến với lòng thương xót của Thiên Chúa. Hiểu và sống, nói và hành động, luôn là một minh chứng đưa đến một kết quả: đâu là sự thật, đâu là nét đẹp mà ta lựa chọn. Gioan bị tù tội, bị sát hại, không phải vì ông nổi loạn, mưu toan chống đối nhà vua, mà chỉ vì ông dám nói lên sự thật. Đức Giêsu kêu gọi sám hối, không phải vì Ngài chủ trương đường lối khổ đau, lý tưởng thứ hạnh phúc viển vông, nhưng Ngài đặt để tình yêu thương và niềm vui Nước Trời trong tự do của chúng ta.

Lời mời gọi sám hối vì Nước Trời đã gần đến, hẳn không phải chỉ là đấm ngực than van khóc lóc, hay chỉ là biểu lộ sự hối tiếc, mà phải phát xuất từ lòng yêu mến, tin tưởng, ta đang có Đức Giêsu cùng đồng hành. Hãy hối cải, luôn là lời nhắc nhớ Đức Giêsu chính là hiện thân của lòng thương xót, Đức Giêsu chính là niềm vui và hy vọng cho tất cả những ai đặt tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Lời mời gọi hoán cải của Đức Giêsu sẽ không bao giờ là lý thuyết, nhưng luôn mới đối với tất cả những ai đủ khiêm tốn lắng nghe, đủ để cho tình yêu thương thấm nhuần về sự hiên diện của Thiên Chúa. Trên bước đường thành công, không thể có vết chân người lười biếng. Trên hành trình theo Đức Giêsu, không thể có hạnh phúc thật, nếu chưa tin Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Bạn đồng hành đưa dẫn chúng ta đến bến bờ hạnh phúc. Amen.

---------------------------------------

 

TN 3-A134: CHÚA GIÊSU LÁNH NẠN


P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn,

 

Con Đường Thập giá là một con đường “gồ ghề” khó đi. Vì không phải là “con đườn“ tiến thân TN 3-A134


Con Đường Thập giá là một con đường “gồ ghề” khó đi. Vì không phải là “con đườn“ tiến thân của chính trị, của học vị, của chức quyền trần gian, hay sự giàu sang giả trá, mà là một con đường để “siêu thoát ”. Vâng, tại sao phải siêu thoát ? Thưa, quý vị, thưa , vì con người luôn có “tham , sân , si ”. Từ ngữ nầy không phải “đặc ngữ” của nhà Phật. Nhưng, từ ngữ nầy chính là nói lên “ bản chất “ tự có nơi phàm nhân, từ khi “ thấm màu tội tổ tông”, từ ngữ dễ hiểu hơn là “ bị nhiễm”. Vâng, không ai  đã là người thế  mà có thể tự hào là “ vô nhiễm  tham , sân , si ”, chỉ duy nhất một thụ tạo “vô nhiễm” là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn. Suy niệm Đoạn Tin Mừng hôm nay ( Mt 4 , 12 -23), dường như chỉ có một câu “duy nhất để suy tư” : “ Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần “ ( c 17)

Hôm nay đây, qua trang Tin Mừng trên, chúng ta thấy, dường như khó suy tư, vì thật ra toàn bộ đoạn Tin Mừng hôm nay nói về địa danh nơi Chúa Giêsu đi qua, và kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Vậy, ai biết chữ, đọc lên đều hiểu như vậy, cần gì “ mấy ông “ lên tiếng “giảng giải”.

Vâng, quả đúng như vậy, nhưng thật ra sứ mạng “ ngôn sứ” không phải giải thích từ ngữ mà thôi, mà là nói lên “ tiếng nói” ngôn sứ. Vậy, tiếng nói ngôn sứ là gì, thưa quý vị ? Vâng, tiếng nói ngôn sứ không phải tiếng nói” chỉ trích “ hay tăng bốc, mà là “tiếng nói của lương tri”. Vì tiếng nói của “ ngôn sứ” không phải là tiếng nói của “ học vị”, mà là “tiếng nói dám nói”.

Chúa Giêsu là Vị Thầy ngôn sứ của Thiên Chúa, tiếng nói của ngôn sứ, dường như bị bóp nghẹt, bị từ chối, bị đẩy lùi. Vâng, tiếng nói ngôn sứ Gioan Tẩy Gỉa là” tiêu biểu”, theo đó, chúng ta thấy, tiếng nói ngôn sứ của Chúa Giêsu, dù là “Thần Ngôn “, nhưng, giờ “ linh “ chưa đến, thì Người cũng phải “lánh đi” xứ khác.

Từ đó, chúng ta thấy, “ mức độ ” tội lỗi do “tham , sân, si ” tạo ra thật là “ kinh khủng” lấn át cả “Thần Ngôn “. Ngôn ngữ của những bậc hiền triết không đủ sức “ giác ngộ”, cảm hóa phàm nhân, vì bị sự nhiễm độc “ tham , sân , si “ quá nặng. Thì này đây, tiếng nói của Thiên Chúa “phán “ trực tiếp qua chính “ Ngôi Lời” của Người. Dường như “ chưa tác dụng”. Vì, rõ ràng, sau khi nghe tin Gioan Tẩy giả bị “trảm quyết “, thì Người lánh qua miền Ga-li-lê.

Vâng, “Lời” kêu gọi nhân thế sám hối để được giải thoát của Chúa Giêsu trên cho chúng ta một sự giải thoát đích thật, vì “sám hối” đưa phàm nhân trở về với thực tại  nguồn gốc của mình. Sám hối mới làm cho ta thức tình si mê, chỉ có một “si mê” đó là : Thiên Chúa mà thôi. Lòng tham dục vọng là “ đam mê” vật chất sẽ dẫn đến “thù hận” ngông cuồng.  Tham vọng bất chính thì tất sẽ không bao giờ đạt được “mục đích “ cứu cánh của cuộc đời. tất yếu hệ lụy sẽ nảy sinh gian trá” bất công, hầu chiếm đoạt của tha nhân, tất yếu sinh ra “sân ” là ngạo mạn, ngông cuồng, điên loạn . Tham , sân, si chính là ba trong một của tội lỗi mà đã tiêm nhiễm vào tư tưởng của nhân loại, để đẩy Thiên Chúa “ra ngoài ” lề.

Theo đó, khi chưa đến giờ, Ngôi Lời của Thiên Chúa cũng phải  “lánh nạn” . Lòng tham của con người sẽ dẫn đến mù quáng, bất chấp sự nhỏ nhen , ích kỷ, không còn nghĩ đến tha nhân, đừng nói gì những thứ chân lý khác. Sự giận giữ cuồng nộ của những kẻ độc tôn , man trá, sự ranh ma tham vọng quyền lực là những thứ không những kéo họ đến chỗ bị diệt vong, mà còn kéo theo kẻ khác. Hệ lụy tham lam là một chất độc còn tệ hại hơn bơm nguyên tử, hoặc chất độc phóng xạ. Sự nóng nảy, ngông cuồng muốn cho kẻ khác phải đầu lụy mình, hoặc làm bá chủ sẽ đưa đẩy một thế hệ nhân loại đến chổ bị diệt vong.

Lời nói của Chúa Giêsu “ Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” là một chiếc phao của sự sống, chiếc phao “cứu sinh” mà con người quên lãng, hay nhắm mắt làm ngơ. Người đời thường hay cho rằng : họ có lý, cái lý nầy, cái lý nọ , nhưng không thể nào họ cho “ nhân thế ” một CHÂN LÝ. Hôm nay đây, nhưng thực ra đã hơn hai ngàn năm nay, Chúa Giêsu đã cho nhân loia5 một “ CHÂN LÝ ” đó là “sám hối. Khi chúng ta có chân lý, tất yếu chúng ta sẽ có tình thương thật sự đối với tha nhân, lúc đó  TÌNH YÊU sẽ chiến thắng sự dữ và sự chết.

Người kitô hữu không chiếm hữu gì khác ngoài Đức Giêsu – Kitô và câu nói hôm nay của Người : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần kề” ( c 17)

Vậy , chúng ta đừng tôn xưng ai khác ngoài Chúa Giêsu là” vĩ đại” cả dù là Hồ Chí Minh, Mao Trach Đông, Đặng Tiểu Bình, Lê-nin, Các- Mác, Obama, hay Donal Trump.

Chúng ta là thần dân của Chúa Giêsu một Con Người thật và là Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành… Đừng bao giờ tôn xưng những kẻ” phải chết” là thần thánh, mà hãy tôn thờ Đấng đã chết và PHỤC SINH vì chúng ta.

Quyền lực chính trị sẽ dẫn chúng ta đến hố diệt vong, còn Lời Chúa mới đưa chúng ta đến chổ siêu thoát.

Nhưng, tôn giáo không thể đứng ngoài nhìn khi quyền lực chính trị bị khuynh đảo. Tôn giáo không tham dự chính trị, nhưng tôn giáo không khoanh tay để cho chính trị khuynh loát. Tôn giáo chân chính là một tôn giáo không để cho một thế lực chính trị “ bất minh” chà đạp” lương tâm “ nhân loại. Tình yêu của Thiên Chúa thúc bách chúng ta làm việc thiện, không có nghĩa chúng ta chiều theo sự bất công của xã hội. Người Công giáo chân chính là người Công giáo bước theo Giáo Huấn của Chúa Giêsu khi cần “lánh nạn “ , cũng như khi cần “ công khai ” . Chúng ta thử cảm nghiệm xem, một ngày sống của chúng ta, nếu thiếu “tình yêu” của Thiên Chúa, thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Vì, mục đích sống trên trần gian không phải  chỉ để hưởng thụ theo cách “ tham, sân , si ”, mà là để được siêu thoát ./. Amen

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian hầu đem lại sự sống viên mãn cho thế gian, nhưng ngày nay vẫn còn nhiều thế lực bất minh do nhân thế đã bị “ nhiễm độc” tham , sân , si quá nặng. Xin cho những ai muốn cộng tác vào công trình cứu độ nhân loại của Chúa , biết nhận ra chân lý giải thoát của Chúa mà gioe vãi, hầu gặt hái được hoa trái vĩnh cửu mà Chúa muốn ./. Amen.

----------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây