Cứ như sách Lêvi ký qui định thì người bệnh phong trong Tin mừng hôm nay tuy còn sống nhưng đã chết về mặt tôn giáo và xã hội (le mort vivant). Ông ta phải để tang chính mình (porter son propre deuil). Nghe qua thật là thê thảm: “phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lớn tiếng; “Ô uế ! Ô uế !… phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.” Khi nghe biết Chúa Giêsu có mặt, người bệnh phong vượt qua hết mọi điều lề luật cấm đoán và liều mình chịu ném đá chết, để chạy đến xin Chúa Giêsu cứu chữa : “Vừa thấy Người anh liền sấp mặt xuống đất van xin rằng: Thưa Ngài, nếu Ngài muốn Ngài có thể cho tôi được sạch.” (Lc 5, 12). Chúa động lòng thương xót cũng liều cứu vớt, giơ tay đụng đến người anh ban cho anh được thanh sạch tức thời. Đáng lý đây là một Tin vui. Tuy nhiên tình thế hình như lại vượt ra ngoài tầm tay Chúa Giêsu: “Đến nỗi Ngài không thể vào thành được, mà phải ở lại nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.” (1,45) Ngày nay cũng còn nhiều căn bệnh khiến người ta khiếp sợ, như HIV-AIDS, ung thư cách loại, Alzheimer, phong cùi v.v. Những người giàu có mắc bệnh, nếu phát hiện sớm sẽ có phương tiện cứu chữa được. Người nghèo thì không, đành chịu mang bệnh cho đến chết, tỉ như ở Phi Châu, Ấn Độ, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan… Trong xã hội cũng còn nhiều hình thức loại trừ, đổ lỗi cho người mắc bệnh : Ăn ở nhơ bẩn, bừa bãi, sì ke, ma tuý, hút thuốc, uống rượu nhiều quá… Về mặt tinh thần thiên hạ vẫn gán cho những bệnh nhân ấy hình phạt bởi các tội lỗi họ gây nên. Khoẻ mạnh là do nếp sống thanh đạm, thánh thiện. Bệnh tật là do bê tha tội lỗi. Như vậy loại trừ là biện pháp tốt nhất : Xa mặt cách lòng (out of sight, out of mind). Quên đi là xong hết mọi chuyện. Thời Chúa Giêsu, tâm lý này còn nặng nề hơn gấp bội. Dân trí thấp kém, hiểu biết về bệnh tật thô sơ cho nên còn nhiều định kiến bất di dịch. Nếu bạn mắc bệnh, nhất định bạn đã phạm tội và đáng chịu hình phạt của hành vi xấu xa đó. Vì thế bệnh tật gắn liền với các định chế tôn giáo. Xin hãy suy nghĩ những quy định khủng khiếp của tôn giáo trên người bệnh phong hôm nay khắc rõ. Bất kể bệnh ngoài da nào cũng được gán nhãn hiệu phong cùi, phải loại trừ khỏi cộng đồng và các buổi cầu nguyện chung vì sợ lây nhiễm. Tư tế có nhiệm vụ xác định các trường hợp lành bệnh. Hậu quả là bệnh nhân có tâm lý tự kỷ ám thị, coi như mình đã bị Thiên Chúa loại trừ. Nhưng thực tế Thiên Chúa có chống lại họ không, hay chỉ là lề luật loài người ? Một điều ghê gớm nữa là trong sách Xuất hành (9, 8-12) Thiên Chúa trừng phạt dân Ai cập cứng lòng bằng hình thức ung nhọt (hình phạt số 6). “Các ông lấy mồ hóng trong lò, rồi đến đứng trước mặt Pharaô. Ông Môsê tung lên trời và mồ hóng biến thành ung nhọt, mưng mủ nơi thân thể người ta và thú vật”. Hiện tượng này bây giờ xuất hiện nơi con cái Israel, như vậy rõ ràng những người phong cùi là tội nhân giống như dân Ai cập. Làm sao chối cãi ? Cho nên “họ phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu to : Ô uế ! Ô uế !” Chẳng còn hình phạt nào nặng nề hơn ngoại trừ cái chết, đúng như từ tiếng Pháp chúng tôi trưng ra ở trên : le mort vivant. Khi tư tế tuyên bố một người phong cùi nào đó được lành sạch ông ta không còn phải sống ngoài trại nữa mà đã được hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu hôm nay truyền cho người khỏi bệnh đi trình diện tư tế và dâng lễ vật theo luật Môsê là với mục tiêu đó. Ngài đã ban cho ông ân huệ vượt xa sự lành bệnh, đó là nối lại các quan hệ xã hội cũ, không còn bị loại trừ, sống cô độc nơi hoang vắng, mà được trở về với gia đình và xã hội. Hay nói cách khác ông ta đã được phục hồi nhân phẩm, được sống lại từ tình cảnh tưởng như đã qua đời. Tuy nhiên, Chúa Giêsu phải liều “giơ tay đụng vào anh” tức là đụng vào một đối tượng nhơ bẩn. Lề luật cấm người Do thái làm như vậy, kẻo chính mình cũng bị nhơ. Để bắc được chiếc cầu liên lạc với người phong cùi, Chúa Giêsu đã sẵn lòng mắc nhơ theo lề luật thanh sạch của người Do thái. Cũng xin lưu ý đến từ lành bệnh mà thánh Marcô đã dùng. Từ đó là “anh được sạch”, một thuật ngữ thuộc ngôn từ lề luật. Người được sạch là người Do thái, không phải dân ngoại. Đây là bài học lớn cho các tín hữu. Chúng ta cũng phải vươn ra với thế giới bên ngoài, đổ vỡ, nhơ bẩn, lạc loài chung quanh mình. Không vươn ra với họ, sợ bị nhơ bẩn, thì làm sao có thể cứu vớt đồng loại ? Thực ra, chính qua chúng ta mà Chúa Giêsu đến với các xóm ổ chuột, đĩ điếm, trộm cướp, nghèo đói, ngu dốt, di dân, kỳ thị… Chúng ta cung cấp tiền bạc để giúp người khác, nhưng đó không phải là hình thức dấn thân duy nhất mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ bước theo Ngài. Chúa Giêsu cương quyết với người khỏi bệnh, bắt buộc ông phải đi trình diện với tư tế “để làm chứng cho người ta biết”. Chứng cớ về điều chi ? Nếu như các cấp lãnh đạo đền thờ chính thức công nhận phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người phong cùi, lúc đó họ phải chấp nhận quyền năng tha tội của Ngài và những hậu quả phát sinh từ quyền năng đó. Quyền bính đền thờ sẽ công nhận đích thực Ngài được Thiên Chúa sai đến. Tác động của Ngài nơi dân chúng rất lớn. Người ta sẽ đón tiếp Ngài như vị cứu tinh, giải phóng dân tộc, chấp nhận sứ điệp Ngài rao giảng và nhanh chóng phổ biến sứ điệp đó. Bất hạnh thay, điều ngược lại đã xảy ra, người được lành bệnh không đến với tư tế đền thờ. Tự thân ông rao truyền trường hợp khỏi bệnh của mình và chư dân đổ xô đến gặp Chúa Giêsu. Ngài không thể công khai vào thành được mà phải dừng lại ở nơi hoang vắng. Đúng như số phận người bệnh phong trước kia. Ngài thực sự đã trở thành cùi hủi như sách Lêvi ký mô tả: “Họ phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.” Chúa đã mặc lấy thân phận tội lỗi của nhân loại, để nhân loại dễ dàng lui tới với người cùng cảnh ngộ. Chương trình của Chúa Giêsu là như thế đó. Còn chúng ta thì sao ? xin mọi người cật vấn lương tâm và uốn nắn cuộc sống của mình cho phù hợp với gương sáng của Chúa Giêsu. Còn một căn tính khác của Chúa trong bài đọc Phúc âm hôm nay : Cũng như ở nhiều đoạn văn sau này, thánh Marcô ngầm nói đến “bí mật thiên sai”. Nghĩa là mỗi lần Chúa Giêsu thực hiện một phép lạ, Ngài đều nghiêm cấm kẻ thụ ơn phổ biến tin tức đó cho quảng đại quần chúng. Tại sao như vậy ? Có phải Ngài sợ quyền bính đền thờ ? Không đúng. Chúa Giêsu trong Tin mừng thánh Marcô không chỉ là chủ thể làm phép lạ, Ngài còn hơn thế nhiều. Và Ngài muốn chúng ta ý thức rõ ràng về điều đó. Nếu chúng ta chỉ hiểu Chúa Giêsu theo chiều hướng ấy, thì khi không cầu khẩn được phép lạ không được ơn mình xin thì chắc chắn lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu sẽ sút giảm hẳn. Chúng ta sẽ dễ dàng thất vọng về Ngài. Căn cước đầy đủ của Ngài chỉ có thể nắm bắt được từ trên cây thánh giá: “Khi các ông giương Con Người lên, các ông sẽ biết tôi là ai” (Ga 8,28). Tương tự như thế tất cả những công việc Chúa làm, những lời giảng dạy chỉ có ý nghĩa khi liên hệ với cây thập tự của Ngài. Đó là bí mật thiên sai của Phúc âm theo thánh Marcô. Chúa Giêsu không phải là giải pháp dễ dãi cho các vấn đề của chúng ta. Đám đông thời Ngài đã muốn biến Ngài thành như vậy, nên họ đổ xô tìm kiếm sau khi Ngài chữa lành người phong cùi: “Nếu như Ngài cho người cùi hủi được sạch tức thời, thì Ngài cũng có thể cứu vớt tôi.” Ngày nay chúng ta cũng có khuynh hướng đặt câu hỏi tương tự : “Tại sao Ngài không cứu chữa thân nhân của tôi. Ngài đã chữa lành người cùi hủi kia mà ?” Cho nên thánh Marcô đã chỉ cho chúng ta hiểu rằng: Môn đệ đích thực của Chúa Giêsu không được kỳ vọng vào giải pháp tức thời, các phép lạ cứu chữa, mà phải tin cậy vào lượng từ bi của Ngài. Ngài là Đấng Cứu Thế chứ không phải thầy lang, bác sĩ hay kẻ làm phù phép. Ngài không vô cảm trước các đau khổ của chúng ta. Ngài không ngồi trên cao tít tắp nhìn xuống nhân gian để cổ vũ chúng ta trong cuộc sống. Ngài giơ tay đụng đến người phong cùi, cảm thương ông ta. Ngài cũng hằng quan tâm đến số phận mỗi người, nhất là những ai bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Gần đây, tôi ngồi suy gẫm bài Tin mừng hôm nay với một nhóm thanh niên nam nữ. Họ nhất trí không thích từ “thương xót” (pity). Nói rằng nó mang tính kẻ cả, từ trên cao nhìn xuống kẻ hèn hạ. Họ chẳng cần ai thương xót. Tự thân, tự lập là hơn hết, cứng rắn trong tình cảm và kinh tế. Điều đó rất tốt, rất hoan nghênh nếu hiểu theo nghĩa phổ thông. Nhưng trong Phúc âm nó có nghĩa khác. Đó là một cảm xúc mạnh mẽ phát xuất từ tình yêu chân thật và tính dịu dàng của Thiên Chúa, giống như cha mẹ thương xót đứa con bệnh tật hiểm nghèo. Nó không mang tính chất khinh bỉ ai, hạ thấp ai, mà là phản ứng tự nhiên của lòng yêu mến. Nó thúc đẩy người ta dính líu vào hoàn cảnh đau thương của người khác, tìm những giải pháp tốt nhất để cứu giúp nạn nhân ra khỏi hoàn cảnh khó khăn. Thiên Chúa thương xót nhân loại là một từ chính xác, bởi Ngài có đủ quyền năng để giải cứu chúng ta. Trong ngôn ngữ Tây phương từ này là compassion, gồm hai chữ com (cum) và passion. Tiếng Latinh cum là cùng, với. Passion là đam mê (nghĩa tốt). Do đó compassion của Thánh kinh luôn luôn ám chỉ sự thúc đẩy người ta thi hành bác ái với cảm xúc cao độ - passion. Cuộc sống người tín hữu hàng ngày phải đối mặt với màu nhiệm đau khổ. Tại sao Chúa Giêsu không hành động cứu giúp mau lẹ, dứt khoát và rõ ràng ? Tại sao Ngài cứ để nạn nhân quằn quại trong tủi nhục, đớn đau, khắc khoải ? tại sao Ngài lại chọn chia sẻ với nhân loại thân phận bất lực, hy sinh và cái chết ? Liệu Ngài có hành động với chúng ta, qua chúng ta và trong chúng ta để giúp đỡ những kẻ bất hạnh trên thế giới ? Mầu nhiệm vẫn tỏ hiện nguyên hình khi chúng ta thành công chính vào lúc thất bại, mạnh mẽ chính vào lúc yếu đuối, vẻ vang chính vào lúc nhục nhã nhất, như Ngài đã cảm nghiệm trên thánh giá. Đó không phải là chương trình hành động mà chúng ta ưa thích. Khi viết những dòng này tôi cũng chẳng ham. Dầu sao, chúng ta nên tin tưởng vào chương trình đó và khi tham dự thánh lễ này, rước thánh thể Chúa vào lòng, chúng ta sẽ được khả năng bước thêm một bước, ẵm lấy Ngài và đường lối của Ngài. Amen. Fr. Jude Siciliano, op
Sách Lêvi mô tả việc đối phó với bệnh truyền nhiễm phong cùi rất nghiêm khắc: “Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Họ phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: Ô uế! Ô uế! Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.” Trên thực tế người có bệnh truyền nhiễm phải hành xử như người có đại tang, đại tang chính mình trong khi còn sống. Có thân xác nổi phong ghẻ lở đã khổ lắm rồi. Lúc này nếu tư tế tuyên bố bất lợi thì là hình phạt ghê gớm, ghê gớm hơn cái chết. Thân xác hàng ngày tiêu hao mòn mỏi vì bệnh tật gặm nhấm, ăn mòn. Tinh thần phải cách ly khỏi mọi niềm an ủi, nâng đỡ. Sống ngoài doanh trại, không được đến gần thành phố, làng mạc và những người lành lặn. Còn nỗi cô đơn nào lớn hơn ? Nỗi nhục nhã quả là tột điểm. Ngày nay với thuốc chữa trị tân tiến mà người ta còn phải khiếp sợ căn bệnh này như một đại hoạ, thì vào thời Chúa Giêsu, thuốc thang còn lạc hậu thì tưởng tượng nỗi kinh hoàng gớm ghê biết mấy. Chúng ta phải ghi nhớ điều này để suy gẫm phần thứ hai của đề tài Phúc âm hôm nay. Thời Chúa Giêsu, tình cảm gia đình là căn bản để xác định căn cước của một người. Nó rất chặt chẽ đến nỗi một người tách khỏi gia đình, họ hàng, làng xóm là mất luôn căn cước, trở thành kẻ vô lại. Ngoài ra những người mắc bệnh cùi còn phải chịu hình phạt ghê gớm nữa là không được dự phần vào các sinh hoạt tôn giáo, điểm tựa tinh thần của mọi người dân Israel, bị đẩy ra khỏi cộng đồng tuyển dân, không được gần gũi ai. Cho nên mô tả họ là những người đã chết không phải là quá đáng. Một điểm khác không kém phần tệ hại và bất công đó là trình độ y tế còn quá thô sơ cho nên nhiều bệnh ngoài da được xếp chung là phong cùi cả. Ví dụ mụn nhọt, lở loét, sởi, đậu, dị ứng, ngứa sẩn, vẩy chàm vv. Những bệnh này không có vi trùng Hansen phá hoại, nhưng vì tính chất bề ngoài làm méo mó cơ thể, nên cộng đồng sợ hãi, cho cách ly tất cả, kẻo lây nhiễm sang các phần tử khác. Vì vậy có những trường hợp khỏi bệnh. Và người ta phải thành lập tiến trình xét nghiệm và tuyên bố “thanh sạch”. Tiến trình này mất nhiều thời gian. Các người có thẩm quyền lại là các tư tế chứ không phải thầy lang. Cho nên sự lầm lẫn không thể tránh khỏi. Khi được tuyên bố khỏi bệnh, đương sự được trở về với cộng đồng và tôn giáo. Vào thời các tín hữu tiên khởi, tục lệ này vẫn còn phổ thông. Bởi vẫn sợ các hậu quả của nó. Với trình độ vệ sinh thời ấy, sự lây nhiễm rất dễ dàng. Cho nên bệnh phong cùi trở thành biểu tượng Kinh thánh về tội lỗi. Sự tàn phá của nó luôn đè nặng lên cá nhân tín hữu và cộng đoàn. Giống như phong cùi, tội lỗi tấn công các cộng đoàn tiên khởi, gây chia rẽ, gương xấu và diệt vong. Ngày nay sự khủng khiếp bớt phần nặng nề vì số các tín hữu trong cộng dân cư khá đông đúc. Thời ấy số này còn ít ỏi nên tội lỗi gây ra những tai hoạ đau đớn hơn. Tuy nhiên bản chất phá hoại của nó lúc nào cũng vậy, cho cá nhân và cho toàn thể Hội thánh. Chỉ hoàn cảnh là khác nhau mà thôi. Chúng ta nên suy nghĩ và tránh tội kẻo làm thiệt hại đời sống thánh thiện của cộng đoàn. Ăn ở vô tâm vô tính là không xứng hợp với đường lối môn đệ Đức Giêsu. Tội thầm kín đến mấy rồi cũng biết tới. Lịch sử đã chứng minh sự thật đó. Chúa Giêsu đã đề cập đến khía cạnh này trong bài giảng trên núi. Bệnh phong cùi làm sói mòn da thịt con người. Tội lỗi cũng sói mòn lương tâm tín hữu. Tiếp xúc với người khôn ngoan, ắt bạn sẽ trở nên khôn ngoan, với người công chính, ắt bạn sẽ trở nên công chính, với người tội lỗi, không chóng thì chày, bạn sẽ trở nên điêu ngoa, gian giảo. Đó là nguyên lý thường tình. Ngôn ngữ Pháp có câu: “Bạn hãy nói cho tôi biết bạn năng lui tới với hạng người nào, tôi sẽ nói cho bạn hay bạn là ai.” Xin hãy nghĩ đến ích kỷ, bạo lực, duy vật chất, dâm ô, bất lương. Những căn bệnh đó chắc chắn làm soi mòn đời sống thiêng liêng của con người. Dĩ nhiên chúng có tính truyền nhiễm và lây lan ra cả cộng đồng. Người ta đã khám phá ra rằng, bệnh liệt kháng, bệnh tiêm la, lậu, lao đều do các nguyên nhân kể trên gây nên. Nó làm cho cả cộng đồng các quốc gia trở nên ô uế. Làm thế nào tránh khỏi các tai nạn ấy ? Các chính phủ trên thế giới đang cố gắng loại trừ và khắc phục các hậu quả. Nhưng không thành công nhiều, bởi chỉ là chữa cháy bên ngoài. Điều cần thiết là chỉnh đốn từ bên trong. Chúng ta cần có bàn tay Thiên Chúa trợ giúp. Không có ơn Chúa người ta chẳng thể thành công trong bất kỳ tình huống nào. Giống như trường hợp người phong cùi hôm nay, chúng ta cũng cần bàn tay Chúa làm cho sạch. Đúng hơn cả nhân loại đều cần Chúa để được thanh sạch về phần linh hồn. Sự thật này là căn bản. Kiêu căng từ chối là một tai hoạ khủng khiếp. Mỗi lần chúng ta đến thánh đường tham dự bàn tiệc Mình Máu Thánh Chúa Kitô thì Thiên Chúa muốn chúng ta nên thanh sạch như vậy. Khi người phong cùi được chữa lành. Chúa Giêsu cấm ông ta không được loan tin ấy ra cho dân chúng. Phúc âm thánh Marcô kể: “Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo anh: coi chừng đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy trình diện với tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta biết.” Nghĩa Chúa muốn anh ta theo đúng tiến trình của lề luật qui định. Nhưng vì quá vui mừng, anh ta không thể giữ im lặng được mà lập tức công khai hoá ơn lành vừa nhận được, đến nỗi Chúa không thể vào thành nào được vì dân chúng quá hồ hởi về trường hợp của anh. Như vậy là anh bất chấp cả lề luật. Đây là một thiệt thòi lớn, bởi anh cần tư tế xét nghiệm và tuyên bố “được sạch” để có thể hội nhập với xã hội và tham dự các cuộc thờ phượng tại đền thánh. Chúa muốn người phong cùi theo đúng lễ nghi sách vở, ngõ hầu các tư tế biết rõ sự thật và quyền năng của Ngài. Và có lẽ họ sẽ chuẩn nhận công việc của Ngài ? Ngược lại, vì quá vui mừng anh tung tin khỏi bệnh và toàn thể phép lạ khiến Người phải ở lại ngoài thành. Thánh Marcô kể tiếp: “Nhưng vừa đi khỏi, anh bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp nơi.” Trước một biến cố quá vĩ đại, một cuộc thay đổi đến tận gốc rễ. Một sự sống lại từ cõi chết, cá nhân, tôn giáo, xã hội, như vậy liệu có ai đủ kiên nhẫn đi theo tiến trình “lề luật” ? Chúng ta chẳng thể trách cứ người phong cùi này ? Ngược lại nên bắt chước ông ta mà cao rao ơn huệ của Thiên Chúa qua tay Đức Giêsu. Con người một vài phút trước còn phải đội tang chính mình, che râu, bịt miệng, mặc áo rách, kêu lớn tiếng ô uế ô uế và không được tới gần người khác, thì nay phút chốc được chữa lành, da thịt tươi tắn như con trẻ, tự do tiếp xúc với mọi người, mọi tầng lớp xã hội. Thử hỏi không vui mừng sao được ? Thử hỏi không “phá” luật sao được ? Từ mà thánh Marcô dùng ở đây là: Công chúng hoá và loan truyền tin vui. Tương tự như chúng ta công bố và loan truyền Lời hôm nay. Các độc giả lúc ấy nghe đọc tại các cuộc hội họp liên tưởng ngay đến việc cử hành Bí tích rửa tội. Lời hằng sống cũng được đọc to lên cho mọi người nghe cùng với ơn tha tội cho đương sự. Tức lành sạch hết mọi tội khiên, được khỏi ngay tức khắc bệnh phong cùi thiêng liêng. Cho nên tất cả mọi tín hữu cũng phải nhẩy mừng như cùi hủi trong Phúc âm. Có lẽ phải vui mừng hơn nữa vì căn bệnh phong cùi thiêng liêng còn khốc liệt hơn bệnh phần xác nhiều lần. Tại sao chúng ta thờ ơ ? Tại sao chúng ta khinh thường ? Có lẽ việc Chúa chữa lành chúng ta về phần linh hồn không khả giác như phần xác ? Nhưng đó chẳng phải lý do của đức tin. Nếu chúng ta có lòng tin mạnh mẽ thì quả thật công việc của Chúa trên các tín hữu còn huy hoàng nhiều hơn bội phần. Vậy thì để xứng đáng với đức tin của mình, chúng ta cũng phải can đảm công khai hoá các ơn Chúa ban cho mình. Tại sao chúng ta xấu hổ ? Tại sao chúng ta dấu kín những ơn vĩ đại Chúa ban ? Xin hãy mạnh dạn chia sẻ nó với láng giềng, người thân cận, kẻo phí uổng các cơ hội để cao rao Danh thánh Chúa. Chúa Giêsu không sợ lây nhiễm ô uế. Ngài giơ tay đụng vào anh và anh được lành mạnh. Vào trường hợp những người Do thái khác, họ không dám làm như vậy. Bởi lẽ vì lề luật và sợ bị lây nhiễm, cử chỉ của Chúa cũng là “phá” luật. Nhưng do lòng thương xót của Ngài trên tội nhân. Chính Ngài đã nói ra điều đó: “Ta muốn anh hãy được sạch”. Hành động này Chúa đáp trả sự tôn kinh mà anh cùi đã bày tỏ trước tôn nhan Ngài: “Khi ấy có người phong cùi đến gặp Đức Giêsu, anh ta quì xuống van xin Ngài rằng.” Thánh Matthêu nói: “Anh ta phủ phục trước mặt Ngài”. Thánh Luca nói mạnh hơn: “Anh ta sấp mặt xuống đất.” Cả ba thánh sử đều mô tả lòng khiêm tốn của người cùi, như thể thờ phượng Ngài là Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại xua đuổi anh ta vì sợ lây nhiễm theo lề luật ? Chúa đã giơ tay đụng vào thân thể anh và làm cho được nên thanh sạch. Trường hợp các tư tế, linh mục, họ xua đuổi thẳng thừng như chúng ta thường gặp. Cho nên chúng ta noi gương lòng nhân lành của Chúa mà cư xử với đồng loại. Và cũng đặt hoàn cảnh mình vào trường hợp người cùi mà chia sẻ đức tin, niềm vui với đồng loại. Thực ra, không phải một mà là nhiều lần chúng ta được Chúa chữa lành bệnh cùi tội lỗi, tội hận thù, đố kỵ, ghen ghét, dâm ô, chia rẽ, tham lam, hà tiện. Tất cả đều là phong cùi cuả linh hồn. Chúa đã chữa lành chúng ta, nên đừng để lỡ cơ hội mà công bố chú ý của mình tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô. Chúng ta không muốn người ta gọi mình là “quá khích”. Chúng ta chẳng có bụng dạ xua đuổi thiên hạ. Nhưng chúng ta đưa ra những thoái thác: Tôi chưa được huấn luyện thần học. Người phong cùi không có ý nghĩ như vậy. Tuy nhiên trước tôn nhan Chúa Giêsu anh ta cảm nghiệm điều ghê gớm đã xảy ra nơi thân xác mình. Nó lật ngược lại toàn bộ cuộc đời anh ta. Anh ta nói với người khác về kinh nghiệm bản thân, không suy đoán, không bày đặt, không nói dối. Vậy thì Phúc âm hôm nay cũng đòi hỏi chúng ta có bấy nhiêu thôi nơi bản thân mình. Không cầu khoa trương, bịa đặt, tâng bốc. Ngần ấy cũng đủ để thiên hạ nhận ra ơn lành của Thiên Chúa trong cuộc đời mỗi người. Nó vượt xa biển rộng, trời cao. Chúng ta chẳng phải đứng trên bụng giảng, bệ cao mới gọi là nhà giảng thuyết Phúc âm. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta hành động theo Tin mừng trong hoàn cảnh riêng biệt của mình, lợi dụng mọi cơ hội để cao rao Danh Thánh Chúa. Đó cũng là phương cách công bố Tin mừng hữu hiệu. Còn một phương pháp khác cao rao Danh Thánh Chúa, như thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Chúa Kitô.” Chúng ta công khai hoá và gieo rắc khắp nơi đức tin của mình bằng hành động. Nếu như cuộc sống phản ánh điều chúng ta tin, thì đó là công bố cách rõ ràng nhất Tin mừng Chúa Giêsu. Thánh Phaolô trong một đoạn văn ngắn đưa ra nguyên tắc sống đẹp lòng Thiên Chúa và vui lòng mọi người khi viết: “Thưa anh em, dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa, anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là người Do thái hay người ngoại hoặc cho hội thánh của Thiên Chúa”. Nghĩa là chúng ta phải có ý hướng trong sạch, tránh mọi bệnh cùi hủi trong cuộc sống hằng ngày, đừng gây gương xấu cho người khác nhưng hãy xây dựng cho nhau bằng những công việc lành thánh. Tư tưởng này là chủ yếu trong những lời khuyên của thánh Phaolô: Chúng ta hãy có tâm tình Chúa Kitô trong linh hồn mình. Thánh nhân khuyên nhủ các tín hữu tiên khởi trong hầu hết các lá thơ. Như vậy cùi hủi và lây nhiễm không còn khả năng chui vào đời sống các tín hữu và phá hoại Giáo hội. Than ôi chúng ta lười đọc và suy gẫm tư tưởng của vị thánh, thành ra căn bệnh kinh niên vẫn tồn tại trong các giáo xứ, các cộng đoàn. Ước gì Phúc âm mở mắt linh hồn mọi người xem thấy sự ghê tởm của cùi hủi thiêng liêng ngõ hầu xin Chúa cứu chữa cho lành sạch. Nhiều ngõ ngách trong tính nết người ta xem chừng không ai chạm tới được, thì hôm nay xin Chúa tới để chữa lành, như Người đã đụng “tới” anh phong cùi trong Phúc âm. Phải chăng bài Phúc âm là tiêu biểu của mỗi tâm hồn ? Lòng thương cảm của Chúa thúc đẩy Ngài chữa lành chúng ta trong Bí tích rửa tội. Nó là bảo chứng vững chắc nhất Ngài sẽ tha thứ và tẩy rửa chúng ta khi trở lại với Ngài. Hơn nữa, giống như người phong cùi hôm nay, điều chi Chúa thực hiện nơi mình, hay chuyển sang cho tha nhân, đừng ích kỷ, ỷ lại, đừng sợ hãi vươn tới những kẻ có nhu cầu cần đến lòng thương xót, thông cảm và tha thứ của Chúa Giêsu. Amen. Lm. Jude Siciliano, OP (Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Theo sách Lêvi trình bày thì cách người ta đối xử với người phong cùi rất khắc nghiệt. Tuy nhiên, không vì vậy mà chúng ta coi thường người Isra¸l. Vì# ít kiến thức về bệnh này nên khi thấy vết lở trên người bệnh nhân thì họ cho là phong cùi, mà xã hội thời bấy giờ rất sợ lây nhiễm bệnh phong cùi. Do vậy để cho an toàn, họ đã cách ly người cùi ở một nơi riêng, cách biệt khỏi cộng đồng xã hội. Những chuẩn đoán thường dựa trên những dấu hiệu gần giống với căn bệnh này như vết thương lở lói hay da bị sần sùi vì ghẻ liền bị gán cho là bệnh cùi. (Sách Lêvi mô tả vết lở là dấu hiệu của bệnh phong cùi) Theo sách Lêvi, các tư tế Lêvi được hướng dẫn chẩn đoán các triệu chứng để nhận ra có phải bệnh cùi hay không và quyết định người bị bệnh ngoài da đó có nên cách ly khỏi cộng đồng hay không. Bị bệnh cùi đã là một đau đớn rồi, nhưng khi bị cách ly phải ra ở riêng thì, như đối với người dân Địa Trung Hải, việc bị loại trừ khỏi cộng đồng coi như là một bản án tử hình. Con người sống phải cần đến cộng đồng. Thật thế, trong một thế giới đầy tranh chấp, nơi mà sự hỗ trợ của cộng đồng rất cần thiết để tồn tại, sự mất đi cộng đồng của bạn có thể mang ý nghĩa là cái chết. Trong xã hội người Isra¸l, Thiên Chúa được thờ phượng trong cộng đoàn. Nếu một người bị đẩy ra khỏi cộng đoàn là người đó bị đẩy ra khỏi Thiên Chúa. Thêm vào đó lại có nhiều người nghĩ, bệnh cùi là hình phạt do tội lỗi. Vì thế, người cùi thời ấy phải mặc áo trùm kín và đi đến đâu phải la lên: "Ô uế! Ô uế!". Điều này có không khác gì người đó la lên là "Tôi là kẻ có tội, tôi là kẻ có tội". Bởi thế người cùi nếu lành bệnh, được coi như một người đã chết nay sống lại. Người cùi cần được Thiên Chúa chạm tay đến họ, và người đó được Chúa Giêsu chữa cho lành qua bàn tay nhân từ của Ngài. Cộng đoàn luôn muốn tất cả các thành viên cộng tác vào công việc chung. Vì vậy người cùi được lành bệnh thì được nhập trở lại cộng đoàn ngay. Khi Chúa Giêsu chữa người cùi lành, thì người đó được phục hồi lại vị trí của mình và trở về với cộng đoàn. Đối với bạn bè hàng xóm và gia đình anh ta thì người đó được chữa lành về phần thể xác cũng như về tinh thần. Hết bệnh là hết tội, vì tội là gốc của bệnh cùi. “Chúa Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi !". Việc Chúa chữa người cùi, chứng tỏ Ngài có thể tha tội. Nhưng, Chúa Giêsu không muốn việc đó chỉ là việc riêng giữa Ngài và người cùi mà thôi. Vì vậy Ngài bảo người cùi đi trình diện thầy tư tế. (Xem chương 14: 2-3 sách Lêvi: 2Nó sẽ được đưa đến với tư tế; 3 tư tế sẽ ra khỏi trại v.v....."). nhưng hơn thế nữa, Ngài còn muốn các tư tế và cộng đoàn cũng dự phần vào việc Ngài chữa người cùi để cho họ hiểu là Con Người đã đến để giúp họ khỏi tội và được hưởng thành quả của việc ấy. Hậu quả của tội là vết phong lở. Trong cộng đoàn chúng ta, ai là người chưa chịu hậu quả của tội lỗi trong đời sống cá nhân và đời sống chung của cộng đoàn? Hậu quả của lòng ích kỷ làm chúng ta cắt lìa bản thân ra khỏi gia đình, khỏi bạn hữu. Và khi có sự dối lừa, tài sản bị mất mát; tranh giành ghen tị giữa anh em, sự bênh vực thiên vị của cha mẹ đối với con cái ; cãi vả giữa vợ chồng không muốn ai can thiệp, khi người ta chỉ chú trọng đến tiền bạc. Ở trường, hoc sinh chỉ lo gian lận, lừa đảo, đó là những bệnh hoạn do tội lỗi gây ra. Bệnh cùi là bệnh có thể chữa được. Nhưng tội lỗi và những hệ quả của nó khó lòng chữa hết hẳn được. Đến đây chúng ta nghe Phúc âm thánh Mác-cô : khi thánh Gioan Tiền Hô hứa với dân chúng "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi... Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần". Và trong đoạn Phúc âm hôm nay, lời hứa của thánh Gioan đã ứng nghiệm. Dân chúng đáng lẽ đã nhận được dấu chỉ của những lời hứa là "nếu ông ấy chữa được phong cùi thì ông ta phải có quyề#n phép tha tội ". Chúa Nhật tuần sau, Phúc âm sẽ nhắc đến sự liên quan giữa tội với bệnh tật và Chúa Giêsu có quyền chữa cả hai thứ. Thánh Mác-cô cho chúng ta biết là : mỗi người nghe Phúc âm đều được hưởng lòng thương xót của Chúa Giêsu và Ngài muốn chữa chúng ta. Lời Ngài nói với người cùi là lời nói với xã hội tội lỗi và với chúng ta. Nơi Bàn tiệc thánh hôm nay, chúng ta như người ăn xin kêu van tới Chúa Giêsu : "Nếu Ngài muốn, xin Ngài cho chúng con được lành bệnh". Và chúng ta đừng quên là Phụng vụ hôm nay áp dụng Phúc âm vào thế giới và cả với chúng ta. Hãy đem những dữ kiện nói đến lòng thương xót Chúa trong việc, chữa sạch, tha thứ, ân phúc, sự cứu rỗi, chữa lành bệnh v.v... Như kinh nguyện đọc trên của lễ bánh và rượu: "Lạy Chúa, chúng con dâng của lễ này trước tôn nhan Chúa. Xin cho của lễ rửa sạch tâm hồn và hoán cải chúng con và cho chúng con được hưởng hạnh phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhờ …." Đây, chúng ta kêu van đến Thiên Chúa, xin Ngài chữa lành chúng ta qua Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mau lẹ trả lời cho người cùi: Tôi muốn, anh sạch đi’’ chính là niềm an ủi cho chúng ta . Nhưng bệnh cùi của tội lỗi không phải là chuyện của riêng ai, nó làm rúng động, làm ảnh hưởng đến xã hội và thế giới loài người. Điều này rất dễ thấy : Vừa rồi, tôi đi máy bay nên không thể đem máy vi tính theo để tìm đọc đề tài nói về ảnh hưởng của tội lỗi trên thế giới. Nhưng tôi nhận được một tờ báo, mà ngay ở trang đầu đã nói về những ảnh hưởng của tội lỗi. Đó là những tin nói về nền kinh tế đang khủng hoảng: Một ngân hàng lớn cắt giảm hằng trăm triệu dollar đầu tư vào ông Madoff khi phát hiện ông ta chiếm đoạt gần 50 tỷ dollar của dân chúng. Nhưng ngân hàng đó không hề cho những người đầu tư khác biết chuyện ấy, và có lẽ các trương mục của họ cũng “rỗng tuếch”. Rồi lại thêm tin tức về thị trường chứng khoán sụp đổ nhiều tỷ đô la. Một số lớn các tổ chức tài chính, một số tên nổi bật nhất trong các doanh nghiệp trên thế giới được thu thập một ước tính khoảng 18,4 tỷ đồng tiền thưởng trong năm ngoái. Lại có tin người ta tự đốt nhà để khai gian tiền bảo hiểm. Năm bị can, bị cáo là các thanh thiếu niên đã giết chết một người đàn ông La tinh và tấn công những người khác trên Long Island. Tin người ta chém giết nhau vì phân biệt chủng tộc, tin những vụ chém giết khác trong các lao tù. Trên trang thể thao thì lại có tin dùng thuốc kích thích để nâng cao khả năng trong thi đấu thể thao v.v.... Tin tức về chiến tranh ở Afghanistan, bên Châu Phi, ở vùng Gaza với người Do Thái, tin nạn đói, tin khí hậu thay đổi quá độ v.v... Đây là những tin về hậu quả của tội lỗi trên thế giới chúng ta đang sống. Biết bao giờ chúng ta mới ý thức được đời sống cộng đoàn nhân loại, hay chúng ta cứ để bệnh cùi kéo mãi trên chiếc xe loài người chúng ta sao? Những người có bệnh nghiêm trọng hoặc bị tật nguyền trong một thời gian dài, họ cảm thấy bị xa rời cộng đoàn, làm như họ là những người cùi. Xã hội hầu như quên hẳn những người ấy, và chỉ lo riêng cho mình thôi. Nhưng trong giáo đoàn chúng ta, sẽ không quên những anh chị em yếu đuối hay bị tật nguyền. Chúng ta có những người tình nguyện đem Mình Thánh Chúa đến cho họ, đến những nhà dưỡng lão và những lao tù. Những người tình nguyện thay mặt chúng ta và qua họ, Chúa Giêsu nhắc chúng ta nhớ họ là phần tử của giáo đoàn chúng ta. Vậy chúng ta là ai ? Chúng ta là một cộng đoàn gồm những phần tử luôn cần được chữa lành, và chúng ta đưa tay ra kêu van cùng Chúa Giêsu : "Nếu Thầy muốn, xin Thầy hãy chữa chúng con lành". Và Ngài sẽ trả lời với một giọng đầy tình thương xót là "lẽ cố nhiên Thầy muốn, Thầy muốn các con được lành ". Giacôbê Phạm Văn Phượng op
Sống cách nhau gần cả hai ngàn năm, mà có thể là bạn của nhau được sao? Thưa được! Vì tuy xa, nhưng cả hai đều mắc phải một căn bệnh nan y: Bệnh phong cùi. Để đỡ ghê, ngày nay y học chỉ còn gọi là bệnh phong, bỏ chữ cùi đi cho đỡ gớm. Bệnh phong gây đau khổ cùng cực cho bệnh nhân, vì vi trùng luôn tấn công các đường dây thần kinh, ăn mòn các khớp xương, và làm thối thịt. Người bệnh phong hôm nay, may mắn, được gặp Chúa Giêsu. Quá mừng rỡ, anh quỳ mọp xuống trước mặt Chúa và tha thiết van nài: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể cho tôi được sạch”. Một lời cầu xin vắn gọn, nhưng chứa đầy một nội dung sâu xa. Nếu Ngài muốn. Thốt lên điều này, có nghĩa là anh đã tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Bởi chỉ có một mình Thiên Chúa, mới chỉ muốn thôi, sự việc đã được hình thành. Mang theo căn bệnh trầm kha này trong người, anh đã cảm nghiệm được nỗi đau khổ cùng cực, cũng như, cảm nghiệm được nỗi thất vọng nơi khả năng của con người. Chẳng có ai có thể cứu chữa được anh. Anh tin vào ông trước mặt: Ông Giêsu, và tin Ngài là Đấng Thánh quyền năng. Lòng tin của anh đã được đáp đền: “Ta muốn anh được sạch”. Chứng bệnh biến mất, và da dẻ anh bỗng chốc trở nên trắng sạch. Không giống như anh, người bạn anh, nhà thơ nổi tiếng trong nhóm “top ten” của Việt Nam. Hàn Mặc Tử, anh cũng bị bệnh. Anh cũng đã tin vào Chúa, anh cũng đã được Chúa chữa khỏi, nhưng bằng một cách khác hẳn. Nhìn bên ngoài, thì Chúa không chữa cho anh, vì căn bệnh thân xác anh vẫn còn nguyên đó. Nhưng thực ra. Chúa đã chữa cho anh một cách diệu kỳ: Chúa đã cho anh vượt qua, và vượt cao hơn căn bệnh. Đọc lại những vần thơ của anh, trong tập thơ anh để lại. Ta thấy có những bài thơ trở thành tuyệt tác. Tuyệt tác, bởi trong đó, ta thấy hồn anh bay đi, thanh thản, nhẹ nhàng. Ngôn từ anh dùng thanh thoát lạ lùng. Anh như đang chơi vơi trong một thế giới thực tại, ngọt ngào hạnh phúc và đầy cảm giác sướng vui. Những bài thơ ấy, được dệt nên trong lúc cơn đau ùa đến. Anh đã vượt qua cơn đau, hay nói cách khác, cơn đau đã đưa anh lên cao. Chẳng hạn trong một cơn đau ập đến, vào một chiều thứ bảy, hồn anh đã bay đi. Và anh đã thốt lên: Maria linh hồn tôi ớn lạnh Run như run thần tử thấy long nhan Run như run hơi thở chạm tơ vàng. Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn cứu rỗi. Hai người cùng phong, cả hai cùng được Chúa chữa, nhưng hai cách chữa khác nhau. Ta muốn ngươi được sạch. Sạch về thân xác hay sạch về linh hồn. Tất cả đều cần thiết. Gợi ý suy niệm: 1- Đã mấy lần bạn xin với Chúa làm sạch hồn bạn? 2- Bạn có thể vượt lên cơn đau không? Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Theo luật Do Thái, những người phong cùi không được sống trà trộn với dân chúng. Đồng thời ai nấy phải lo giữ mình, không được động chạm tới họ. Họ phải sống riêng biệt ngoài thành, mặc áo rách, để tóc dài, không cạo râu. Nếu chẳng may gặp người mắc bệnh thì phải hô to lên để những người khác tìm lối tránh. Những người mắc bệnh không những chỉ đau khổ phần xác mà còn đau khổ phần hồn vì họ luôn phải sống trong một tình trạng cô đơn và tuyệt vọng. Đối với ngày xưa, cũng như đối với hôm nay, chứng bệnh này vẫn còn là một nan y khó chữa, chính vì thế chúng ta hiểu được tại sao người bệnh qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã bất chấp lề luật, chạy đến tìm gặp Chúa Giêsu, vì anh nghĩ rằng mình không còn phương tiện nào khác để được khỏi. Niềm hy vọng duy nhất của anh trong lúc bấy giờ là Chúa Giêsu. Bởi đó, anh đã quỳ xuống, sụp lạy Ngài và xin Ngài cứu chữa. Còn Chúa Giêsu đã đón nhận anh một cách nhân từ, chữa lành cho anh và bảo anh phải đi trình diện với hàng tư tế để được chứng nhận là mình đã khỏi thực sự. Qua cử chỉ và thái độ của Chúa, chúng ta nhận thấy Ngài thực tình thương xót như tiên tri Isaia đã viết: Ngài coi mọi bệnh tật của chúng ta như là của riêng Ngài, Ngài mang lấy hết mọi tai ương của chúng ta. Trước thái độ tin tưởng của người phong cùi, Chúa Giêsu đã đặt tay trên anh và chữa lành cho anh, cũng như Ngài đã từng cứu chữa biết bao những kẻ bệnh hoạn tật nguyền tìm đến với Ngài. Tình thương này không phải chỉ được biểu lộ với những người đau khổ thân xác, mà còn đối với những người đau khổ phần hồn, tức là những kẻ tội lỗi. Chính Ngài đã xác định lập trường: Ta đến để kêu gọi những kẻ tội lỗi. Một người tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối. Chính vì vậy, Ngài không ngần ngại ngồi ăn uống với những người mà bọn biệt phái liệt vào hạng tội lỗi như Lêvi và Giakêu. Đồng thời Ngài còn sẵn sàng tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, cho tên trộm lành và nhiều người khác nữa. Hẳn chúng ta đã biết qua về cuộc đời của cha Đamiêng, vị tông đồ người hủi. Ngài sinh tại nước Bỉ, gia nhập dòng Trái Tim Chúa và Mẹ Maria. Sau khi làm linh mục, ngài được sai đi giảng đạo tại Hạ Uy Di. Sau đó ngài tình nguyện đi giúp những người cùi ở Molokai. Ngài đã hy sinh trót cả cuộc đời, sống với họ, giúp đỡ họ và chết giữa họ. Như chúng ta đã biết, phong cùi là một chứng bệnh nan y và ghê sợ, nó làm cho cơ thể bị lở loét, người mắc bệnh mặc dù còn sống nhưng thực sự chỉ là một thây ma biết đi với một thân hình hôi thối. Đó cũng chính là hình ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì tội lỗi cũng sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở thành nhơ nhớp, hôi thối và chết đi như vậy. Tuy nhiên chúng ta đã có một vị lương y thần diệu đó là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa lành, chúng ta hãy bắt chước người phong cùi chạy đến sấp mình trước mặt Chúa, xin Ngài xót thương. Ngài cũng sẽ bảo chúng ta trình diện với linh mục, nghĩa là hãy chạy đến toà giải tội với tâm tình thống hối ăn năn, hầu nhờ đó mà chúng ta sẽ được chữa lành, được tha thứ.
Một khi đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời rao giảng, các tín hữu tiên khởi tiếp tục tìm hiểu về Đức Giêsu qua những gì các tông đồ kể lại, và phần lớn những điều này được ghi lại nơi các sách Tin Mừng. Niềm tin vào Đức Giêsu làm thay đổi cuộc đời tín hữu, khi họ nhận ra Thiên Chúa hằng yêu thương họ, một cách rất đặc biệt qua Đức Giêsu. 1) Tội còn khủng khiếp hơn bệnh phong cùi nhiều Ngày nay với tiến bộ của y khoa, người ta đã chế ngự được bệnh phong. Bệnh phong ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao bệnh khác. Ngày nay người ta hay có thái độ xa cách đối với những người mắc bệnh hư miễn nhiễm (HIV, AIDS) như ngày xưa người ta đã có đối với những người mắc bệnh phong cùi. Kitô hữu tuy phải khôn ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng không được có thái độ thiếu bác ái trong cách cư xử đối với những người anh chị em bị mắc những bệnh này. Ngày xưa khi chưa khắc phục được bệnh phong cùi, thì bệnh này là một nỗi kinh hoàng cho những người bị nhiễm và cho cả những thân nhân của người bệnh nữa. Vì là bệnh truyền nhiễm nên người ta đã phải có biện pháp để bảo vệ những người khác cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là, bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu diệt, vì thế thậm chí đôi khi người ta áp dụng những biện pháp rất khắc nghiệt. Người bệnh phải sống tách biệt với người khác, kể cả những người thân thuộc như vợ chồng con cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống xa cách, và không được phép lại gần nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai người nam nữ yêu nhau, nhưng cả đối với người mẹ và người con còn thơ dại. Mọi tật bệnh và đặc biệt bệnh phong cùi, theo quan điểm của người Do Thái, là hậu quả của tội. Qua cái gì cụ thể hữu hình là bệnh, người ta thấy nơi tội một cái gì tương tự như bệnh phong cùi gây cho con người. Tội là thái độ hận thù ghen ghét anh chị em mình và không sống như con Thiên Chúa. Tội làm người ta xa nhau, làm người ta bị cô lập với cộng đoàn, làm người ta mất bình an mất vui và không được hạnh phúc. 2) Đức Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện Nếu đặt mình vào trường hợp và tâm trạng của anh bị bệnh phong được Đức Giêsu chữa lành hôm nay, người ta sẽ thấy anh ta mong ước được khỏi bệnh “khủng khiếp” này đến độ nào. Ao ước này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta có vợ và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như niềm hy vọng của anh ta. Anh ta đã qùy xuống nài xin Đức Giêsu! “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi!” Làm sao anh ta có thể tin Đức Giêsu như vậy? Qua cách sống, lời giảng dạy, và những dấu lạ Đức Giêsu làm, người ta tin vào Đức Giêsu hơn. Xưa tiên tri Elisa cũng đã chữa viên quan Naaman của Syria, một người bị bệnh cùi chỉ bằng lời truyền cho ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan (2V.5, 1-27); bây giờ, nếu Thiên Chúa muốn, nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì Ngài cũng có thể làm như tiên tri Elisa đã làm chứ. Đức tin của người bệnh phong cùi này phản ảnh đức tin của con người thời đó đối với Đức Giêsu; hơn nữa, qua anh ta người ta nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi anh ta, làm anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu. Đức Giêsu đã xúc động và thương anh ta thật sự. Ngài đọc được nỗi khổ của người bị bệnh phong cùi này. Ngài thấy được khao khát của anh ta qua việc anh qùy gối trước Ngài để nài xin ân huệ được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã đưa tay ra, chạm vào anh và nói: “dĩ nhiên là tôi muốn, anh hãy lành đi.” Đức Giêsu thương anh ta, và qua anh ta, thương tất cả con người đang đau khổ bệnh tật. Đức Giêsu thương con người, Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa không muốn con người khổ não, Ngài muốn con người bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện để yêu thương, để chữa lành và nối kết con người lại với nhau và với Thiên Chúa. 3) Đức Giêsu không chỉ là một con người Tại sao Đức Giêsu không chữa tất cả những người bị bệnh phong cùi thời đó? Tại sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả mọi bệnh tật của con người? Tại sao Đức Giêsu không biến đổi tất cả để làm con người đừng thù ghét nhau nữa nhưng luôn yêu thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu là một người như tất cả mọi người, nên Ngài không thể làm được điều đó. Nếu Ngài làm được điều đó, người ta sẽ nói Ngài không là người thật vì Ngài không chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ của con người. Ngài là người, Ngài bất lực và thậm chỉ không biết cả tương lai nữa. Những gì con người không biết và không làm được, mà Ngài biết và làm được, thì đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa ban để giúp con người nhận biết chân tướng của Ngài mà thôi. Đức Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như tiên tri Elisa đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, nhưng bằng một lời: “tôi muốn chứ, anh khỏi đi.” Cách chữa bệnh bằng lời của Đức Giêsu, cho người ta biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy quyền, trổi vượt hơn cả các tiên tri trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người chống đối ông bị phạt mắc bệnh phong cùi; những người này đã hoảng sợ và xin ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã cho họ được khỏi. Đức Giêsu đã không chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm như thể Ngài có quyền chữa bệnh vậy, và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như thể quyền đó từ Ngài mà ra. Qua cách trình bày của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu là người rất đặc biệt. Ngài thương yêu con người, rung động trước nỗi khổ của con người, Ngài yêu thương và chữa lành con người, giúp họ trở lại với cộng đoàn con người, trở lại với người thân yêu và nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương họ. Đức Giêsu còn là một người trổi vượt hơn những người khác, hơn các tiên tri nổi tiếng ngày xưa là Elisa và Môsê. Như thể tự Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh tật. Ngài là người, và hơn là một con người. Ngài là Đấng “từ trên.” Câu hỏi gợi ý chia sẻ 1. Với cách hành xử của Đức Giêsu hôm nay, bạn được đánh động ở điểm nào? Xin chia sẻ? 2. Thánh Phaolô viết: “vậy dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm được điều này không? bằng cách nào?
Trong tác phẩm “Bàn về sự nhiễm uế và tội lỗi trong nền văn hóa Do Thái cổ đại”, tác giả Jonathan Klawans đã nêu ra sự khác biệt giữa sự nhiễm uế do tội lỗi, và sự nhiễm uế do tập tục. Sự nhơ uế mang tính luân lý gồm những tội như ngoại tình và giết người, hàm ngậm những hành vi tội lỗi và dơ bẩn. Còn sự nhơ uế do phong hóa mang tính tập tục bao gồm những tiến tình tự nhiên, như việc sinh nở, hành vi giao phối vợ chồng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ v..v.. Những quy trình tự nhiên này không liên quan gì đến hành vi tội lỗi cả. Bệnh phong hủi, là một trong những bệnh ngoài da vẫn được người ta xem như một thứ nhơ uế, nhưng chỉ mang tính phong hóa theo tập tục thời bấy giờ mà thôi. Cho dù một người mắc bệnh ngoài da, như những người bệnh phong, sẽ không bị kết án là có tội, nhưng theo sách Lêvi “ người đó vẫn bị coi là nhơ uế bao lâu còn mang bệnh tật trong người. Họ phải sống một mình, tách khỏi lều trại nơi cộng đồng sinh sống (Lv 13,45-46)”. Nhiều người nhiễm bệnh phong hủi còn bị cắt đứt sự tương giao hoàn toàn, cả về mặt xã hội và cả trong đời sống tôn giáo. Những sự nhiễm uế khác theo tập tục, như sinh nở, kinh nguyệt, chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thường một ngày hay một tuần, nhưng cách riêng nhiễm uế do bệnh cùi có thể trở thành vĩnh viễn suốt cả một đời người. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi một người phong hủi đi tìm kiếm và đến gặp Đức Giêsu. Anh ta nài xin Ngài giúp anh ta trở lại hòa nhập với cộng đồng. Qùy gối trước mặt Đức Giêsu, anh ta khẩn xin tha thiết với một ước muốn giản đơn “ Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Mặc dù bệnh nhân không nài ép Chúa với một cung điệu ai oán và trang trọng, nhưng anh ta bày tỏ mong ước với một động thái xác quyết và tin tưởng, vì “ Ngài có thể làm việc này”. Đây là một thái độ biểu tỏ đức tin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Đức Giêsu và tín thác nơi lòng trắc ẩn của Ngài. Đức Giêsu chạnh lòng thương đối với bệnh nhân. Marcô sử dụng hạn từ Splanchnizomai trong tiếng Hy lạp, diễn tả một tình cảm sâu xa, một sự thương cảm và yêu thương dạt dào. Trái tim của Đức Giêsu đã lay động trước hoàn cảnh bi thương của người bệnh và Ngài giơ tay chạm vào anh ta. “Ngài nói: Tôi muốn, anh hãy được sạch. Lập tức bệnh phong hủi biến mất và anh ta được lành sạch (Mc 1,42)”. Khi chạm vào người cùi, Đức Giêsu có làm điều gì sai trái không? Chắc chắn không và tuyệt đối không. Cho dù bệnh cùi là căn bệnh lây lan, và luật Do Thái vẫn coi sự sờ chạm đến bệnh nhân là một sự nhiễm uế, nhưng sự nhiễm uế này hoàn toàn không phải do tội lỗi. Khi Đức Giêsu chạm đến người cùi để chữa lành cho anh ta, có thể đó là một hành vi phản khoa học, khiến dễ bị lây nhiễm, nhưng tuyệt đối nơi Ngài không thể có sự nhiễm uế. Động thái này có nghĩa là gì? Chúng ta thấy Đức Giêsu vẫn cẩn thận tuân thủ lề luật và Ngài không tỏ ra khinh suất lề luật chút nào. Sau khi bệnh nhân đã hoàn toàn được lành lặn, Đức Giêsu nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay và còn căn dặn kỹ lưỡng “ Đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta biết (Mc 1,44). Sự đồng cảm của Đức Giêsu được thể hiện không phải bằng một cái ôm hôn thắm thiết để chúc mừng anh ta, vì anh được trở lại hòa nhập với cộng đồng. Nhưng, Ngài nói với người được chữa lành là hãy đi thực hành những gì mà luật Môsê dạy bảo, như đã viết trong sách Lêvi 14,1-32. Bệnh nhân sau khi được lành bệnh, phải thực hiện điều luật, để được đón nhận trở lại hội nhập với cộng đồng. Vị tư tế sẽ còn phải kiểm tra, như sách Lêvi đã dạy, và sự kiểm tra này kéo dài suốt cả tuần lễ. Anh ta đang trên đường để tái hòa nhập, và lúc Đức Giêsu chữa lành cho anh ta, anh ta vẫn chưa có thể trở lại với cộng đồng một cách hoàn toàn lúc bấy giờ. Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nghiêm giọng bảo anh ta đừng nói gì cho ai biết? Có phải thực sự Đức Giêsu mong muốn người bệnh đã được chữa lành phải câm lặng tuyệt đối hay không? Có phải bệnh nhân sau khi được lành sạch sẽ không nói cho vị tư tế biết ai đã chữa lành cho mình? Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu là mời gọi mọi người tiến vào Vương quốc Nước Trời, thế thì tại sao Ngài lại nghiêm cấm người vừa được chữa lành do quyền năng của Ngài lại phải câm nín? Người được Đức Giêsu cứu chữa chắc chắn không thể im miệng được. Anh ta ra đi và bắt đầu công bố cho mọi người, quảng bá rộng khắp tin vui mà mình mới được lãnh nhận. Vì vậy số người đến tìm gặp Đức Giêsu ngày càng đông đến mức độ Ngài không thể công khai vào thành nào, mà chỉ có thể ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành ( Mc 1,45) . Dường như có sự mâu thuẫn và đối kháng giữa chỉ thị của Đức Giêsu cấm người bệnh đừng nói gì với ai, với sứ mệnh quảng bá Vương quốc Nước Trời. Trong Tin mừng Marcô, chúng ta thấy nhiều lần Đức Giêsu đã nói như vậy. Các học giả kinh thánh gọi đó là “Bí mật Thiên Sai”. Một đàng, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy bước theo Ngài và Ngài đã chữa lành các bệnh nhân một cách công khai, một đàng lại có vẻ như Ngài muốn bịt miệng các chứng nhân, cấm họ nói bất kỳ điều gì. Có phải đây là một sự đánh đố mang tính tâm lý mà Đức Giêsu khởi xướng, hay chỉ là một kỹ xảo chơi chữ theo kiểu văn chương mà Marcô đã sử dụng? Các học giả cho chúng ta thấy thái độ phản ứng của bệnh nhân được chữa lành nói lên câu trả lời cho vấn nạn này. Niềm vui Tin Mừng vọt trào nơi tâm hồn những con người mà Đức Giêsu đã sờ chạm đến, phải được công bố và được nhân rộng. Niềm vui đó cần được sẻ chia, cần được quảng bá rộng khắp cho mọi người. Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay đã chu toàn những gì lề luật đòi hỏi, nhưng anh ta biết rằng mình không thể câm lặng, ôm giữ cho riêng mình niềm vui sung mãn và ngập tràn đó. Sau khi đã trải nghiệm sự vui mừng lớn lao vì được thụ lãnh quyền năng chữa lành của Đức Giêsu, anh ta ra đi và nói cho mọi người biết. Đây là hình mẫu và là chân dung của một nhà truyền giáo đích thực, mà mỗi người chúng ta cần phải sao chép.
Từ câu 1:39, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu đã bắt đầu mở rộng hoạt động khắp miền Galilê. Tiếp theo là câu chuyện chữa lành người phong hủi. Và trong câu kết (1:45), Marcô cho thấy dân chúng ở Galilê cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi Chúa Giêsu. Họ đến với Người từ mọi vùng, như dân chúng ở Capharnaum đã làm (1:35-37). Câu chuyện chữa lành người phung hủi được thuật lại riêng, không chung với các bệnh nhân khác. Hầu hết các bệnh nhân đều được mang đến cho Chúa Giêsu để được chữa lành (1:32-34), chỉ có bệnh nhân phung hủi nầy tự mình tìm đến với Người. Lý do là vì sợ bị ô uế, mà chẳng ai dám đụng đến người phung hủi. Hành động và lời nói của người phung hủi đã được làm nổi bật cách đặc biệt trong trình thuật nầy. Hành động đầu tiên của bệnh nhân là đến lại gần và quỳ gối trước mặt Người. Theo luật Môisen, bệnh phong hủi là một bệnh ghê tởm. Người mắc bệnh bị xem như người ô uế, bị loại ra khỏi hàng ngũ của dân Thiên Chúa thánh thiện, và phải xa lánh mọi người (Lv 13). Bệnh nầy bị đánh giá như là một sự hủy hoại không những thân xác, mà cả mọi tương quan của bệnh nhân với Thiên Chúa và xã hội. Do đó, đến gần và quỳ gối trước Chúa Giêsu là một thái độ đức tin. Ông đến với Chúa Giêsu vì đã thấy Người đã chữa lành nhiều người (1:21-28; 32-34). Và ông cũng thấy Người có quyền năng hơn cả các luật sĩ (x.1:22), nên ông bất kể luật Môisen mà đến với Người. Ông đến để cầu xin chữa bệnh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Lời cầu xin nầy xác nhận đức tin thúc đẩy ông đến với Chúa Giêsu (x. 1:15). Ông tin Người có quyền năng, và Người có thể làm được nếu Người muốn. Ông phó thác vào ý muốn của Người. Lời cầu xin cũng phản ánh hiện trạng của ông: bệnh phong hủi làm cho ông bị ô uế, bị ruồng bỏ và chỉ có Chúa mới làm cho ông được sạch. Đáp lại cử chỉ đức tin của người phong hủi, Chúa Giêsu đưa tay đụng đến anh và nói lời chữa bệnh. Đưa tay ra là dấu hiệu hành động của quyền năng Thiên Chúa (Xh 3:20; 7:5; Tv 138:7), hoặc hành động nhân danh Thiên Chúa (Xh 14:16.21.27). Đụng đến người phung hủi theo Luật là vấy uế. Nhưng vì Chúa Giêsu ở trên Luật Môisen (x. 2:10-12), nên khi đụng đến ông, Người không bị ô uế. Ngược lại, Người làm cho người bị kể là ô uế được lành sạch hoàn toàn. Cũng đáp lại lời tuyên xưng đức tin của người phung hủi, Chúa Giêsu dùng lại lời của ông mà chữa ông lành:”Tôi muốn, anh sạch đi!”. Lý do Chúa Giêsu muốn người phung hủi ra về trong thinh lặng là để ông có thể cảm nghiệm lâu dài và cách cá nhân quyền năng của Thiên Chúa, biểu lộ trong Chúa Giêsu, đang thực hiện trong ông. Quyền năng ấy đã chữa ông lành bệnh phong hủi, đã đưa ông vào lại trong tương quan và hiệp thông với Thiên Chúa và con người (x. Lv 14:1-32). Nhưng Chúa Giêsu không thành công. Người không thể kiềm hãm được người phong hủi. Ông được chữa lành, và ông kinh nghiệm bản thân về lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa quá lớn lao trong ông, khiến ông chỉ có một cách là “rao giảng” kèrussò, tin mừng ấy cho mọi người biết. Sau Gioan (1:4), Chúa Giêsu (1:14.38. 39), ông là người thứ ba rao giảng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa (1:45), và những người khác sau ông (3:14; 5:20; 6:12; 7:36). Chúa Giêsu đến để hội nhập lại những người ngoài trật tự của con người và Thiên Chúa. Người thực hiện điều ấy với quyền năng và lòng thương xót, nên danh Người vẫn được loan truyền giữa con người.
Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Đến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này. Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi: - Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không? Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói: - Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em. Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật. Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết. Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.
Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46). Người ấy phải mặc quần áo rách, để tóc bù xù, che môi trên, phải vừa đi vừa kêu lên: “Ô uế ! ô uế !” để người ta biết mà tránh xa. Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại… Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này. Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh, người phong phải trình tư tế, phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày, và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14). Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê. Anh dám lại gần Đức Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch, mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh, chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó. Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép. Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh, đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh, dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh. Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế. Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong. Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá. Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao. Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành. Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa! Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước. Tại nhiều trại phong ở Việt Nam, ta thấy bóng dáng của các nữ tu. Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn… Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong, đụng đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ. Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người phong, ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ. Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi, và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo Hội. Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Bài Tin Mừng Mc 1,40-45 thuật lại việc Đức Giêsu chữa một người mắc bệnh phong hủi và những gì xảy ra sau đó. Không phải tình cờ khi bản văn lặp đi lặp lại bốn lần từ “sạch”, trong đó 3 lần là động từ katharizô: “sạch” (Mc 1,40.41.42) và 1 lần danh từ katharismos “sự sạch” (1,44). Người mắc bệnh phong “muốn được sạch” và Đức Giêsu “muốn anh ta được sạch”. Hai ước muốn gặp nhau và lập tức anh ta được sạch. Sau đó Đức Giêsu nói anh ta đi trình diện tư tế, để xác nhận “sự sạch” (được chữa lành) nơi anh ta. Như thế, bệnh phong hủi làm người ta trở thành “không sạch” và bị cách ly khỏi xã hội. Bệnh phong làm cho sự giao tiếp và tương quan của người bệnh với người khác bị cắt đứt. Vậy làm thế nào để biến đổi từ tình trạng “không sạch” trở thành “được sạch”, từ tình trạng “tương quan bị cắt đứt” trở thành “có tương quan với người khác”? Điều lạ lùng trong cách hành văn là sau khi chữa lành, Đức Giêsu lại đuổi anh ta đi ngay, dặn anh ra không nói gì với ai và đi trình diện tư tế, nhưng anh ta đã không giữ lời Đức Giêsu căn dặn. Thay vì giữ im lặng thì người được chữa lành lại đi “rao giảng nhiều nơi, đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai đi vào thành” (1,45). Sự việc anh ta không giữ lời Đức Giêsu trong bản văn có ý nghĩa gì? Bài viết sẽ bàn về việc chữa lành bệnh phong hủi và phản ứng lạ lùng của người được chữa lành. Cụ thể là (1) Người mắc bệnh phong đã làm gì trước khi được chữa lành, (2) đã phản ứng thế nào sau khi được chữa lành và (3) tại sao không làm theo lời Đức Giêsu căn dặn. 1. Hành động trước khi được chữa lành Câu chuyện mở đầu bằng việc người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin để Người làm cho anh được sạch. Về phía Đức Giêsu, Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và nói: “Tôi muốn, anh hãy được sạch” (1,41). Lập tức bệnh phong biến khỏi và anh ta được sạch. Như thế, việc chữa lành được thực hiện từ cả hai phía. Ba động tác về phía người mắc bệnh phong hủi là “đến với”, “quỳ xuống” và “van xin Đức Giêsu” bằng một lời nói: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch” (1,40). Về phía Đức Giêsu, Người cũng thực hiện ba bước, trước hết Người chạnh lòng thương, thứ đến Người đụng vào người phong hủi và sau cùng Người nói lên ý muốn của Người: “Tôi muốn, anh hãy được sạch” (1,41). Trong hai lời nói của hai nhân vật, đều xuất hiện động từ “muốn” (thelô) và động từ “sạch” (katharizô). Như thế, “ước muốn được sạch” của người bệnh phong chỉ có thể được thực hiện khi anh ta đối diện với một người vừa “muốn chữa lành”, vừa “có khả năng chữa lành”. Nếu “không muốn” và “không xin” thì chẳng có gì để nói, nhưng nếu “muốn” và “van xin” mà không gặp được “có khả năng” thì cũng không có gì xảy ra. Bản văn vừa đề cao hành động của người bị phong hủi: “Đến với Đức Giêsu” và “van xin Người”. Đây là hành động “cầu xin” dựa trên niềm tin, bởi vì đây không phải là cách chữa bệnh bình thường. Đồng thời bản văn đề cao “ước muốn” và “khả năng chữa lành” của Đức Giêsu. Người là Đấng có quyền năng làm cho người mắc bệnh phong “được sạch”, nghĩa là làm cho một người bị loại trừ khỏi cộng đoàn được hội nhập trở lại và có thể thiết lập tương quan với mọi người trong cộng đoàn. 2. Phản ứng sau khi được chữa lành Sự hội nhập cộng đoàn của người được chữa lành diễn tả qua sự đảo ngược cách ngoạn mục. Từ chỗ anh ta không được tiếp xúc với cộng đồng đến chỗ trở thành người rao giảng về lời của Đức Giêsu. Người thuật chuyện cho biết: “Vừa đi khỏi, anh ta đã bắt đầu rao giảng nhiều nơi và loan truyền lời ấy” (1,45a). Câu kết của bài Tin Mừng cho thấy tầm ảnh hưởng lời rao giảng của anh ta: “...đến nỗi Người (Đức Giêsu) không thể công khai đi vào thành, Người đành ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,45b). Người mắc bệnh phong được chữa lành là người đã thi hành sứ vụ của Đức Giêsu: “Rao giảng” (kêrussô). Thực vậy, trước đoạn văn Mc 1,40-45, tác giả Tin Mừng Máccô cho biết ở Mc 1,39: “Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng (kêrussô) trong các Hội đường.” Đến Mc 1,45, chính người được chữa lành đi “rao giảng nhiều nơi”, còn Đức Giêsu, Người lại không di chuyển để “giảng dạy” mà “ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,45b). Chi tiết: “Người ta từ khắp nơi đến với Người” cho thấy kết quả lời rao giảng của người bị bệnh phong được chữa lành là ngoài sức tưởng tượng. Đầu đoạn văn, người phong “đến với Đức Giêsu” chứ không phải Đức Giêsu đến với anh ta; đến cuối đoạn văn, Đức Giêsu lại không thể công khai vào thành, vì người được chữa lành đã làm cho nhiều người khác từ khắp nơi “đến với Đức Giêsu”. Bản văn muốn nói với độc giả rằng ai đã thực sự gặp được Đức Giêsu và được Người “chữa lành bệnh tương quan”, thì người ấy sẽ phản ứng bằng cách “rao giảng về Đức Giêsu” và làm cho “nhiều người khác”, “đến với Người”. Điều lạ trong bản văn là “lời rao giảng thành công” của người được chữa lành là do “không giữ lời Đức Giêsu”. 3. Ý nghĩa của việc “không vâng lời” ở Mc 1,44-45 Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu đã làm gì và nói gì với anh ta? Người nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (1,44). Người được chữa lành đã hoàn toàn không giữ lời Đức Giêsu dặn. Đức Giêsu nói “Coi chừng, đừng nói gì với ai” thì anh ta lại “loan truyền lời ấy cho cả thành biết”. Đức Giêsu bảo “hãy đi trình diện tư tế và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền” thì anh ta lại không đi trình diện tư tế và dâng của lễ mà đi vào thành rao giảng và nói với mọi người về việc anh ta được chữa lành. Tại sao anh ta không giữ lời Đức Giêsu căn dặn? Kiểu hành văn này có ý nghĩa gì? Lời dặn của Đức Giêsu có thể hiểu là nhằm tránh sự hiểu lầm về tư cách Mê-si-a của Người và Người có thể vào các thành rao giảng. Điều đáng chú ý là việc người được chữa lành không giữ lời dặn của Đức Giêsu trong đoạn văn mang lại những hiệu quả tích cực. Có thể liệt kê ba ý sau: (1) Điều tích cực thứ nhất là anh ta nói về Đức Giêsu cho mọi người, nhưng lời rao giảng của anh ta không thay thế lời rao giảng của Đức Giêsu, ngược lại, lời rao giảng của người được chữa lành đã làm cho “mọi người đến với Đức Giêsu”. (2) Điều tích cực thứ hai là thay vì Đức Giêsu vào thành, đi rao giảng cho đám đông, thì bây giờ dân chúng từ khắp nơi đến với Người. Nhờ lời rao giảng của người được chữa lành, Đức Giêsu có thể giảng dạy mà không phải đi đâu cả. Đồng thời, nhờ anh ta mà cử toạ được chuẩn bị trước, dân chúng chủ động đến với Đức Giêsu nghĩa là họ thực sự muốn nghe lời Người. (3) Điều tích cực thứ ba của việc “không giữ lời dặn của Đức Giêsu” là cách thức bày tỏ tác động lớn lao của việc chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta có thể im lặng khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu. Dân chúng khắp nơi đã cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc ấy, nên họ đã kéo đến với Đức Giêsu, để cũng “được sạch” tâm linh, nghĩa là có thể thiết lập tương quan với Đức Giêsu và tương quan với người khác. Đề tài người được chữa lành “không giữ lời Đức Giêsu dặn” (Mc 1,44-45) còn xuất hiện ở các nơi khác trong Tin Mừng Mác-cô và đây là một trong những kiểu hành văn độc đáo của văn chương Mác-cô. Đề tài tương phản: “Càng cấm, càng nói” đã được phân tích phần nào trong bài viết: “Bí mật công khai”. Cấm không được nói mà ai cũng biết! (http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/05/tim-hieu-tm-mc-bi-mat-cong-khai-cam.html). Chi tiết “không vâng lời Đức Giêsu” trong Mc 1,40-15, nhằm cho độc giả biết hai thông tin: (1) Theo truyền thống Do Thái, để người bệnh phong hủi chữa lành có thể hội nhận vào cộng đồng, người ấy phải “trình diện tư tế, và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền” (1,44). (2) Đối với độc giả dân ngoại (cũng là độc giả qua mọi thời đại), họ được mời gọi hành động như người phong được chữa lành: Ra đi rao giảng để mọi người từ khắp nơi đến với Đức Giêsu. Kết luận Đoạn Tin Mừng Mc 1,40-45 giúp độc giả suy gẫm về hai đề tài lớn: (1) “Tương quan” và “hội nhập cộng đoàn”, “hội nhập xã hội”; (2) Thể hiện niềm vui và hạnh phúc được chữa lành bằng cách rao giảng “lời ban sự sống” đã đón nhận để mọi người đến với Đức Giêsu. Con người có thể “cô đơn” và “đơn độc” ngay giữa đám đông. Có những người hoàn toàn khoẻ mạnh về thể lý, nhưng tương quan với người khác lại có thể bị tổn thương, bị rạn nứt, thậm chí bị cắt đứt, đổ vỡ, nghĩa là trở thành những người “bị tách rời khỏi cộng đoàn” hay “tự mình cắt đứt tương quan với người khác”. Bài Tin Mừng dùng hình ảnh “bệnh phong hủi” để diễn tả “tương quan bị cắt đứt” giữa cá nhân và cộng đoàn. Vì thế, cần đến với Đức Giêsu để được Người chữa lành. Hành trình của người mắc bệnh phong trong bản văn là lời mời gọi độc giả hãy “đến với và van xin” Đức Giêsu. Người sẽ chữa lành họ, vì Người là “Đấng muốn chữa lành” và “có khả năng chữa lành”. Nghĩa là Đức Giêsu có khả năng làm cho độc giả được thanh tẩy, được sạch, được hội nhập cộng đoàn và bước vào tương quan tốt đẹp với người khác. Đồng thời, một khi đã được chữa lành, độc giả sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc khôn tả, đó là niềm vui và hạnh phúc được bước vào tương quan với Đức Giêsu và với mọi người. Niềm vui và hạnh phúc lớn lao này sẽ thúc đẩy những ai được chữa lành lên đường, ra đi rao giảng và loan báo về Đức Giêsu để mọi người cũng được đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy bằng cách tìm đến với Đức Giêsu. Cách thức rao giảng mà bản văn đề cao là rao giảng như thế nào đó, để không phải mọi người đến với mình, nhưng để họ “đến với Đức Giêsu”, “lắng nghe Đức Giêsu” và tin vào Người. Ước mong độc giả thực sự gặp gỡ Đức Giêsu, bước vào tương quan tràn đầy sức sống với Người và với mọi người. Từ đó hân hoan ra đi rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đã lãnh nhận cho những người xung quanh mình./. Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/02/mc-140-45-tai-sao-nguoi-uoc-chua-lanh.html
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy Chúa Giêsu đã chữa lành bện phong cùi cũng như đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền khác nữa. Tuy nhiên, ngài còn là một vị bác sĩ thiêng liêng, chữa lành những đau yếu phần hồn của chúng ta. Thật vậy, trước hết ngài chữa lành những vết thương trong tâm hồn bằng những lời giảng dạy đầy khôn ngoan. Đúng thế, Tin Mừng sẽ làm cho con người được hạnh phúc, được khoẻ mạnh và được tự do. Nếu như tất cả chúng ta đều tuân giữ những điều chì dạy của vị lương y thần linh này, thì thế giới đã thoát khỏi biết bao nhiêu tai hoạ khủng khiếp. Chúng ta chỉ cần nhắc lại một vài nét đại cương, chẳng hạn với bài giảng trên núi, Chúa bảo: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, yêu chuộng hoà bình, phúc cho ai dịu hiền và khổ đau. Rồi Ngài còn xác định rõ ràng: Hãy yêu thương kẻ thù địch. Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Bằng đó cũng đã đủ để chúng ta thấy được con đường giải thoát bản thân chúng ta cũng như toàn thể thế giới. Tiếp đến Ngài chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta bằng những phương tiện hữu hiệu, đó là các bí tích. Nhất là với bí tích Giải Tội và Thánh Thể. Thực vậy, nhờ hai bí tích này mà Chúa Giêsu chữa lành những tâm hồn tội lỗi, an ủi, bổ dưỡng và đem lại sự bình an mà thế gian không thể trao ban. Một ông bác sĩ đã viết: Ngoài bí tích Giải Tội và Thánh Thể, chúng ta sẽ không thể tìm thấy một phương tiện nào khác, khả dĩ đem lại sự nâng đỡ, sức mạnh và bình an cho tâm hồn, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hay như một mục sư Tin Lành cũng đã nói: Việc xưng tội riêng là điều cần thiết để tâm hồn được khoẻ mạnh và bình an, cũng như làm cho thần kinh giảm bớt đi được sự căng thẳng. Sau cùng, Chúa Giêsu chữa lành những vết thương trong tâm hồn bằng sự hiện diện đầy tình thương xót của Ngài. Thực vậy, là vị lương y, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta trong những giờ phút đau khổ, Ngài lắng nghe những lời chúng ta kêu cầu ngày cũng như đêm. Nhất là trong nhà thờ với bí tích Thánh Thể như lời Ngài đã phán: Này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta hãy nhớ lại quang cảnh người phong cùi tìm đến gặp Chúa và nói: Lạy Thầy, xin thương xót đến tôi cùng. Nếu những người bệnh biết tìm đến bác sĩ, thì sự đau yếu của họ sẽ được chữa trị, nếu chúng ta biết tìm đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta sẽ được an ủi và khích lệ trước những khổ đau gặp phải. Bởi đó hãy chạy đến với Chúa và hãy kêu xin Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con. Và lúc bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ ngập tràn niềm vui mừng và hy vọng, như lời Chúa đã bảo: Không phải những người khoẻ mạnh mà là những kẻ đau yếu mới cần đến thầy thuốc.
Trong chuyến đi từ Sàigòn đến Quy Nhơn năm 1960, tôi giữ mãi một kỷ niệm, không phải kỷ niệm thăm bến cảng, tháp chàm Chiêm Thành hay tường thành Đế đô Quang Trung, nhưng là một làng cùi. Đi đầu đoàn là Giám Mục, Linh mục rồi đến chủng sinh, phải vượt qua mấy ngọn đồi hoang vắng mới đến làng cùi. Bước tới cổng làng, mọi người đều xúm quanh một ngôi mộ của một người cùi nổi tiếng: thi sĩ thời danh Hàn Mặc Tử. Một người cùi đã biến những rung cảm trong sầu khổ thành những vần thơ tuyệt diệu, óng mượt như tơ vàng, nhẹ nhàng như hơi thở, run run như giây đàn. Từ cổng làng vào đến trại, ai nấy đều im lặng, một thứ im lặng rờn rợn sởn gai ốc, vì những ý nghĩ đen tối ghê tởm về bệnh cùi đang lởn vởn trong đầu óc. Họ đó, người cùi đó. Đó là những dì phước mặc áo trắng đi đầu hàng những người cùi ra đón phái đoàn. Họ vui vẻ, tươi cười, không một chút lo ngại, không một chút mặc cảm tủi hổ về thân phận của mình. Chúng tôi bỡ ngỡ, ngó qua ngó lại. Một đám trẻ cùi đang xích lại gần chúng tôi. Chúng tôi ái ngại nhìn chúng từ đầu đến chân. Con những người cùi đó. Họ ở trong những căn nhà xây nho nhỏ, sạch sẽ dưới những hàng dừa mát rợi. Nhưng tội nghiệp biết bao! Họ cụt tai, rụng mũi, đục mắt, mất răng, xún lợi, hở hàm, trông như những chiếc đầu lâu cải mả. Chân tay họ như không còn ngón nào. Họ bị sống xa xã hội như bị lưu đầy trong hoang địa rừng rú. Chỉ có mươi bà phước đang sống lăn lộn với họ. Đó là nguồn ủi an duy nhất của họ ngoài niềm tin ra. Lạy Chúa Giêsu, chỉ một mình Người đã thấu nỗi lòng sầu thảm của người cùi. Người đã đến với họ, thương yêu an ủi họ, tiếp đón họ và cứu chữa họ lành mạnh cả thể xác tâm hồn. Người đã quý mến họ hơn tất cả châu báu thế gian … vì họ là quý tử của nước Trời. Thế gian xưa cũng như nay, Do thái cũng như Hy lạp, phương Đông cũng như phương Tây đều ghê tởm xua đuổi họ. Nhưng chỗ nào có tiền của, có bụi vàng, có địa vị, có thú vui, thế gian xô nhau đến luồn cúi, lăn lộn, đào bới, moi móc đến bỏ mạng. Thế gian quý vật chất hơn quý người. May thay, Hội thánh Chúa luôn luôn theo chân Đấng Cứu Thế phục vụ con người, dù đó là ai, nghèo đói, bệnh tật, khốn cùng, da vàng hay da đen, tự do hay nô lệ đều được con cái Hội thánh Chúa, như cha Đamiêng, Đức Giám mục Catxe (Cassaigne) đã phục vụ người cùi cho đến hơi thở cuối cùng. Hàng trăm hàng ngàn tu sĩ đã săn sóc người cùi như anh em một nhà. Còn chúng ta, chúng ta được phúc là những người lành mạnh, được sống chung với gia đình, sống chung với nhau, được tự do đi đây đó, sao không biết cảm tạ Thiên Chúa? Sao không biết sống hòa thuận ấm cúng thương yêu nhau? Sao không biết giúp đỡ nhau, đưa Tin mừng cho những người nghèo khổ, an ủi kẻ đau yếu, tật nguyền? Xin cho chúng ta biết luôn tạ ơn Chúa trong việc thương giúp những người bé mọn khổ đau.
Ngày 20 tháng 9, 1940, Nguyễn Trọng Trí nhập trại phong Quy Hòa, thời Mẹ Maria Juetta. Sau ba tuần, nhờ sự chăm sóc tận tụy của các nữ tu dòng Phan Sinh (Franciscaine), bệnh tình Trí thuyên giảm.. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của Trí đều đều như kinh Nhật Tụng: 5 Giờ sáng dậy đi nhà nguyện đọc kinh, sốt sắng dâng lễ, rước lễ. 7 Giờ cùng anh em bệnh nhân dùng điểm tâm cháo trắng với đường tán đen. 8 Giờ được băng bó, uống thuốc hoặc chuyện vãn với anh em đồng bệnh. 11 Giờ cơm trưa rồi nghỉ ngơi. 14 giờ 30 Lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ dùng cơm chiều… Trí là một người rất sùng kính Đức Mẹ Maria, lúc nào cũng cầu xin Đức Mẹ và thứ bảy nào cũng xưng tội.. Suốt hơn một tuần, từ 30 tháng 10, 1940 đến 7 tháng 11, 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên mất sức! Đêm ngày 8. 11. 1940 Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de l' Âme (Tâm Hồn Thanh Khiết) để ca tụng Đức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu và các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc Trí. Đây là bút tích cuối đời của Trí. Khi ông Nguyễn Văn Xê đưa Mẹ Nhất Maria Juetta, người Pháp, đọc bài viết này, Mẹ Juetta nói: “Giỏi quá, uổng quá, Hàn Mạc Tử là một thiên tài hiếm có! Nhưng Mẹ xin phép tác giả đổi chữ "nénuphards" (hoa súng) thay cho chữ "lotus" (hoa sen) vì cuộc đời tu sĩ của chúng tôi tại đây với các bệnh nhân phong, chính là những bông hoa súng lên xuống theo con nước và bập bềnh trôi nổi như mọi vật trong hồ, chứ không dám tự nhận mình như những bông hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi. (Lm Trần Quý Thiện, Tưởng niệm nhà thơ Công giáo Hàn Mặc Tử) Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã sống 52 ngày cưối đời thật trong sáng với tinh thần sám hối trở về, hân hoan chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, tán dương Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc qua những vần thơ tuyệt vời. Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô tường thuật Đức Giêsu chữa lành người phong, căn dặn đi trình thầy tư tế và không được tiết lộ. Nhưng khi được chữa lành, anh không thể nín lặng, công khai vui mừng rao truyền và loan tin vui. Lời cầu xin của anh là gương mẫu cho bất cứ ai thành tâm nguyện cầu, xin Chúa xót thương cứu giúp: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Anh hoàn toàn xin vâng theo Thánh Ý Chúa toàn năng, khiến Đức Giêsu chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Vâng phục “Nếu Ngài muốn,” Với lời khẩn cầu tha thiết, trân trọng Đấng Thiên Sai, anh bệnh phong tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, toàn quyền nắm giữ sinh mệnh, cũng như sức khỏe, hạnh phúc, bình an của mình. Lời nguyện xin khiêm hạ này cũng gợi nhớ “Xin Vâng” của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” (Lc 1, 38) Người bệnh phong không dám biểu lộ ý riêng của mình, vả lại không thân thưa, thì Đức Giêsu cũng đã thấu suốt nguyện vọng ấp ủ từ bao lâu rồi. Anh hoàn toàn vâng theo Thánh Ý toàn năng, sẵn sàng chấp thuận Thiên Chúa định đoạt thân phận, không hề oán than. Một đức tin vững chãi qua cơn thử thách thật nặng nề. Trước cuộc khổ nạn kinh hoàng, Đức Giêsu cũng làm gương sáng chói về đức vâng lời, Người ba lần cầu nguyện: “Cha ơi, nếu được xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. ” (Mt 26, 39-44) “Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu của Ngài: “Vâng lời đến chết!” (Đường Hy Vọng, số 395) Tín thác “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Hoàn toàn tín thác vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, người bệnh phong công khai tin cậy, trao thân gửi phận cho Đức Giêsu cứu giúp. Người Kitô hữu liệu có luôn xác tín vào Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, được Chúa Giêsu truyền cho chị nữ tu Faustina Kowalska hay chăng? “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa.” Có hoàn toàn vững tin như lời nguyện Hiệp Lễ chăng? “Lạy Chúa, con không đáng rước Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch.” Vì đặt trọn niềm tin và hy vọng vào Chúa, người phong không ngần ngại lỗi luật Do Thái, phải chịu cách ly với người lành. Đức Giêsu vì thương yêu, chí nhân chí ái, cũng vô tư vượt qua điều luật này, khi Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” “Con người hy vọng để sống, để tiếp tục sống. Con người sẽ quay về với ai có thể mang lại cho họ niềm hy vọng lớn lao nhất: Niềm hy vọng ấy, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10). Niềm hy vọng ấy, Chúa ban qua tay Mẹ Maria:”Nguồn hy vọng của chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 962) Tri ân Được chữa lành, anh quên ngay lời Đức Giêsu căn dặn “đừng nói gì với ai cả.” Bởi vì lòng anh tràn ngập niềm tri ân, cảm tạ Thiên Chúa. Anh không thể giữ niềm vui, ân huệ cho riêng mình, mà hân hoan công khai chia sẻ với mọi người về hồng ân mới lãnh nhận nhưng không.Nên vừa đi khỏi, anh đã rao truyền và loan tin ấy khắp nơi.” Lòng Mến tràn đầy của anh đã lan tỏa khắp nơi, khiến dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Đức Giêsu. Niềm tri ân, lòng cảm mến đã biến anh thành chứng nhân sống động, rao giảng Tin Mừng đến tha nhân. Anh không sở hữu ơn cứu độ cho riêng mình, mà trái lại anh đã thực hiện đúng ba bước như mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích. Ngài cho rằng có ba tiêu chuẩn để không không tư nhân hóa sự cứu rỗi: “Đức Tin vào Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta, Đức Cậy khích lệ chúng ta nhìn tới những lời hứa và tiến đi về phía trước và Đức Mến là chăm sóc lẫn nhau, khuyến khích tất cả chúng ta thực hành bác ái và các việc lành." (Đồng Nhân, Vietcatholic, ĐTC: Thành phần ưu tú của Giáo hội không được biến đức tin làm của riêng mình) Lạy Chúa Giêsu, xin cứu thoát chúng con khỏi bệnh phong, khỏi bệnh liệt kháng tâm hồn, xin cứu chúng con khỏi vũng lầy tội lỗi, khỏi thung lũng đầy nước mắt này, xin ban cho chúng con biết sám hối, ăn năn trở về cùng Chúa hằng ngày. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn che chở chúng con khỏi những căn bệnh nan y thời đaị là đánh mất Tin, Cậy, Mến. Xin Mẹ cầu bầu, cứu giúp chúng con thoát khỏi cạm bẫy ba thù, để được Mẹ dắt dìu chúng con theo Chúa luôn. Amen.
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi vị bỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: “Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy”. Thế mà hai năm sau, với niềm tự tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được. Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khôn của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học. Tại đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này. *** Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch. Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên “ô uế” để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: “Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch” (Mc 1,40). Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh” (Mc 1,41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch. M. Carré có nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông”. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách. Chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy, người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người. Vì thế, Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thế xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra p hép lạ”. Bí quyết trở nên hgùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: “In God We trust” (chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salesio nói: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”. Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người. Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen.
Một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người, đó là tính hợp quần, tính đoàn thể: Bất cứ con người nào cũng đều mang trong mình nhu cầu muốn được giao lưu với người khác, muốn được thuộc về một gia đình, muốn được thuộc về một đoàn thể hay một cộng đồng. Vì thế, sự đau khổ lớn nhất của một bệnh nhân phong cùi không chỉ là bệnh tật đang ngày đêm gặm mòn cơ thể anh, nhưng trước hết là sự ghê tởm và xa tránh của đồng loại, là sự bị cô lập khỏi xã hội loài người. Anh không còn được sống trong gia đình, không còn được tiếp xúc với người khõe mạnh hay không còn được sống chung trong làng xóm với người khác, nhưng phải sống ở một nơi biệt lập hẳn với người khác, ở trong những túp lều hay trong những hang động xa xôi hẻo lánh. Vì sợ lây bệnh, nên không một ai dám bắt tay hay động vào người anh. Đó thật là một bản án vô cùng nặng nề, là cả một cực hình khủng khiếp nhất mà con người phải gánh chịu. Vì thế, trong một cuốn tiểu thuyết nổi danh tựa đề là “La Peste“ - Bệnh Dịch, Albert Camus đã trình bày rất ấn tượng về tình trạng của người bị mắc bệnh dịch: phải sống ra sao, bị đối xử như thế nào, v.v... Nhất là ông đã làm cho người đọc hiểu được sự tác động của bệnh dịch trên tâm trạng và trên cả cuộc sống người bệnh trầm trọng như thế nào! Ngày nay bệnh phonh cùi hay bệnh hủi không còn mang tính cách nghiêm trọng nữa, vì nó có thể chữa lành. Một thứ bệnh khủng khiếp từng tiêu hủy bao nhiêu triệu nhân mạng trong hằng thế kỷ qua đã hoàn toàn bị chận đứng. Đó thật là một niềm vui quá to lớn, là một ơn lành vô cùng trọng đại cho toàn thể nhân loại. Con người có thể thở phào nhẹ nhõm và sống tin tưởng lạc quan hơn. Thế nhưng ngày nay, một loại vi khuẩn của bệnh “phong cùi “kiểu mới đã tái xuất hiện dưới những dạng thức và danh xưng hoàn toàn khác hẳn, đang tác hại trên nhân loại và đã biến bao nhiêu người thành “người hủi thời đại“. Dĩ nhiên, ở đây tôi không muốn chỉ đề cập tới những bệnh nhân bị nhiễm vi trùng Xi-đa, HIV hay những người nghiện xì ke ma túy, nhưng cả những người bị tàn tật đang phải sống nhờ vào sự bố thí của xã hội, những người vô gia cư đang lang thang đầu đường xó chợ hay những tội phạm và thân nhân của họ, v.v.... Có lẽ con người trong bất cứ thời đại hay trong bất cứ xã hội nào cũng phải mang ơn những người bệnh phong cùi, những người đang bị đẩy ra ngoài lề xã hội, bởi vì nhờ họ bệnh mà chúng ta mới biết được rằng mình còn có quá nhiều may mắn và hạnh phúc là không bị nhiễm những thứ vi trùng của những căn bệnh độc hãi đó. Và cũng nhờ vậy mà chưa bị xã hội cô lập, tẩy chay, chưa bị đẩy ra ngoài lệ xã hội. Tuy nhiên, ai tự quá đề cao mình, cho mình là quan trọng, là “cái rốn “ của vũ trụ, người đó đương nhiên coi kẻ khác là đối thủ nguy hiểm của mình và không thể chấp nhận cùng cho đứng trên một chiến tuyến với mình đươc, nhưng tìm cách gạt bỏ ra ngoài lề xã hội. Vâng, theo tâm lý, khi thấy có ai đó có lối sống khác với chúng ta, tư duy khác với chúng ta, có tư tuởng chính trị khác với chúng ta hay giao lưu với những người chúng ta không quen biết,nhất là với những người chúng ta không ưa, v.v... tự nhiên chúng ta cảm thấy anh ta là người xa lạ, cảm thấy mình đang bị đe dọa và rôi tìm cách xa lánh, cô lập anh ta và tìm cách đẩy anh ta ra ngoài lề: Loại người này không thể chấp nhận được, y không thuộc về quỉ đạo của chúng tôi. Tiếp đế, vì không ưa nên đổ thừa cho bỏ ghét, cốt tìm cách loại trừ cho bằng được loại đối tượng mà chúng ta không ưa như thế! Trong khi đó, Đức Kitô, Đấng mà chúng ta được mang trên mình tên gọi của Người - Kitô hữu - lại có quan điểm và cách cư xử hoàn toàn khác hẳn. Đối với Người, trước hết tất cả mọi người đều là con cái Thiên Chúa, được Thiên Chúa dựng nên, được Thiên Chúa vô cùng yêu thương và đã được Người kêu mời hưởng ơn cứu rỗi. Đức Giêsu không chỉ dạy cho con người biết rằng họ đều là anh chị em với nhau, bởi vì họ có một Cha chung trên Trời, nhưng chính Người đã sống như thế. Sự cố Đức Giêsu chữa lành người bệnh cùi được tường thuật lại trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay là một ví dụ điển hình về thái độ và cách xử sự đầy nhân bản của Đức Giêsu. Trước hết, một cuộc sống như người bị bệnh phong này đang sống, kể như là không còn sống nữa, sống mà cũng như đã chết. Đó là cái chết về mặt tinh thần, cái chết “xã hội, trước khi chết thực sự về mặt y khoa. Do đó Đức Giêsu đã thương cho số phận của anh ta nên đã giơ tay ra và nói với người bệnh đáng thương đang đứng trước mặt mình: “Tôi muốn cho anh nên sạch và khỏi bệnh!” Vâng, tình thương của Đức Giêsu đối với loài người chúng ta không chỉ bằng lời nói suông, không chỉ bằng tâm tình thông cảm và an ủi lý thuyết, nhưng bằng chính việc làm cụ thể, bằng sự dấn thân trọn vẹn. Bởi vậy, chúng ta cần phải thành thực tự hỏi lòng mình: - Làm thế nào để những người mắc phải những thứ bệnh khủng khiếp như phong hủi hay Xi-đa - xưa kia cũng như ngày nay - có thể tin tưởng được rằng họ vẫn được chấp nhận, khi chính họ lại không cảm nghiệm được điều đó trong đời sống hằng ngày? - Làm thế nào để cho vợ con và thân nhân của của những người phạm pháp còn tin tưởng vào sự thiện hảo và lòng tốt của đồng loại được, khi họ đang bị người láng giềng lối xóm nghi kỵ, tránh né và cô lập? - Làm thế nào để những người vợ/chồng ly dị nhau và nay lại lập gia đình với người khác, còn tin tưởng vào lòng thương xót và khoan dung vô bờ của Thiên Chúa, khi họ bị chính nghững người Kitô hữu khác đối xử một cách bất khoan dung với họ, xua đuổi họ, nhất là tẩy chay không cho họ được lãnh nhận các Phép Bí Tích? - Làm thế nào để một người luôn bị thất bại trong cuộc đời, luôn chỉ gặp đau khổ và cảm thấy mình bỏ rơi, còn có thể sống lạc quan và tin tưởng vào hạnh phúc được, khi không có lấy một người còn biết thông cảm và chia sẻ số phận hẩm hiu của anh ta, cùng đồng hành và động viên anh ta, giơ tay mắn chặt tay anh ta và thăm hỏi thân tình? Chắc chắn rằng xã hội chúng ta, Giáo Hội chúng ta cũng như mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ không bị mất mát hay thiệt hại gì cả, nếu chúng ta biết gạt bỏ những định kiến và cố gắng đem đến cho cuộc sống xã hội thêm chút tình người, thêm chút tình nhân bản nữa, một chút nữa thôi! Nếu được như thế, bài Tin Mừng về biến cố Đức Giêsu chữa lành người phong cùi trong Chúa Nhật hôm nay khi được đọc trong tất cả các nhà thờ trên toàn thế giới sẽ không trở thành uổng công vô ích! Nếu được như thế, phép lạ Đức Giêsu đã làm để chữa lành bệnh xưa sẽ còn được tái diễn mãi, ít là được “lành bệnh“ về mặt tinh thần, và giải cứu “người bị bệnh phong“ ra khỏi chốn ngục tù sự chết và đem anh ta trở lại cuộc sống mới trong tin tưởng và an hòa.
Con người luôn muốn được khoẻ mạnh, sống chan hoà với mọi người trong xã hội. Cho nên, hôm nay phúc âm kể lại việc Chúa Giêsu đã chữa bệnh cho một người cùi, đem anh ta trở về với Thiên Chúa, trở về với chính mình và trở về gia nhập vào đời sống cộng đoàn. Thời Chúa Giêsu, y học chưa phát triển nên bệnh cùi là một bệnh nan y. Bệnh cùi gây nhiều khổ đau, khổ sở cho người mắc phải. Nó làm cho cơ thể người bệnh đau đớn nhức nhối, chết dần chết mòn. Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh dễ lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Trong đạo Do Thái, người mắc bệnh này bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: "ô uế, ô uế" cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh cùi đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh này bị coi như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người cùi. Thế nên ta thấy cảm thương và đau xót cho người cùi. Bởi lẽ người cùi không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt. Họ bị xã hội khinh dễ và loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị coi như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết ảnh hưởng dần dần. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người cùi không phải là căn bệnh cùi gây ra, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ. Do đó, chúng ta không lạ gì khi biết người cùi mặc cảm chán nản sợ sệt. Họ thất vọng về chính bản thân mình, họ chán nản và căm ghét xã hội đã bỏ rơi họ, xã hội đã cách ly và tránh xa họ. Hơn nữa, người mắc bệnh cùi không được cử hành việc tế tự. Họ mắc bệnh thì không được ở trong cộng đoàn để lo phụng sự Thiên Chúa. Từ những dữ kiện trên cho ta thấy những người cùi khao khát được lành sạch, thoát khỏi bệnh tật để được sống tự do sinh hoạt như những người khoẻ mạnh khác, được sống chung với cộng đoàn và cũng được thi hành việc tế tự thờ phượng Thiên Chúa theo bổn phận mình. Chính niềm khát khao đó và cộng thêm niềm tin nên người cùi này hết sức can đảm đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho mình. Người cùi đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị dơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch". Anh mong được khỏi bệnh. Anh mong được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được. Trước niềm tin này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã chữa anh ta. Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Kết quả của đức tin và sự nỗ lực hết mình là phép lạ của Chúa Giêsu xảy ra cho anh. Khi chữa bệnh, Chúa Giêsu đã giải thoát anh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành sạch. Anh được gia nhập cộng đoàn. Khi chữa anh khỏi bệnh, Chúa Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Chúa Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh. Anh đã được Thiên Chúa tái tạo con người tốt đẹp như thuở ban đầu trong ý định của Thiên Chúa. Bên cạnh đó, một lần nữa, Chúa Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người cùi. Không những Ngài đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương xót đã khiến Chúa Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn dành cho con người nhữg điều tốt đẹp nhất. Có thể nói hình ảnh của bệnh cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa trước mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống ân sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh. Ngày nay, người ta mất ý thức về tội. Người Kitô hữu coi phạm tội là việc bình thường. Người ta cứ phạm tội. Tội lỗi mỗi ngày một nhiều hơn, nó tràn ngập khắp nơi. Nó ảnh hưởng xấu đến đời sống vật chất, tinh thần và cuối cùng là sự chết. Tội lỗi làm cho chúng ta mất liên lạc. Tội lỗi làm cho con người không hiệp thông với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Vì thế, sau khi đã tái nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy quyết tâm thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa. Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với thượng tế theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Chúa Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người. Phần chúng ta, là người Công giáo, chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta hãy sám hối, khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi của mình và can đảm đi xưng tội. Nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Bởi vì bí tích Giải tội chính là Bí tích của lòng thương xót của Thiên Chúa. Và tòa Giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa. Chắc trong chúng ta ít nhiều ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, có những vết thương sâu kín, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm an ủi được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta. Hơn nữa, bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không loại trừ anh em mình ra khỏi lòng mình, khỏi xã hội. Hãy can đảm và vui lòng đến với những người bị bỏ rơi, biết an ủi những người đang buồn khổ, biết tránh cho tha nhân những mặc cảm nặng nề, tôn trọng danh dự và nhân phẩm của tha nhân, giúp cho tha nhân được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Chúng ta hãy mạnh dạn diệt trừ bệnh chia rẽ, loại trừ, phân biệt, nghi kị... anh em mình. Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã chữa lành người cùi trong đoạn phúc âm hôm nay. Xin Chúa cũng chữa lành những thương tích do tội lỗi đang phá hoại linh hồn chúng con. Xin cho chúng con can đảm đến với Bí tích Giải tội để được tha thứ, để đón nhận lòng thương xót và ân sủng của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con không loại trừ tha nhân nhưng luôn biết thương yêu và giúp đỡ họ. Amen.
Khi nhận được tin vui sẽ có hai sự kiện xảy ra trong tim ta. Một là niềm vui làm cho tim ta thổn thức khôn nguôi. Một khi niềm vui làm cho con tim thổn thức thì con tim không thể cầm giữ niềm vui rộn ràng đó cho chính nó nhưng nó đòi được bộc phát ra, chia sẻ với thân nhân, thân hữu. Điều kì lạ là càng chia sẻ niềm vui thì niềm vui đó càng lớn mạnh và rộn ràng hơn. Đây chính là kinh nghiệm bản thân anh chàng mắc bệnh phong hủi trong sách Thánh Macô 1-40-50. Thời đó ai mắc bệnh cùi hủi coi như đời tàn vì không những bệnh nan y mà còn bị loại ra khỏi cộng đoàn đang sống. Bệnh khiến mọi người kinh tởm, sợ, tránh xa vì sợ lây bệnh nên đẩy người bệnh ra khỏi cộng đoàn. Một hiểu lầm tai hại, giết người đáng tiếc là xã hội thời đó liệt kẻ bệnh vào hàng tội lỗi, bị trừng phạt bệnh nan y. Người phong hủi gặp Đức Kitô và xin Ngài chữa lành. Đức Kitô tỏ lòng thương chữa anh lành bệnh. Ngài dặn anh giữ im lặng đừng nói cho công chúng nhưng báo cho linh mục và dâng lễ vật tạ ơn. Báo cho linh mục để anh được công nhận và đón trở về cộng đoàn. Dâng lễ vật tạ ơn để nói lên tâm tình tạ ơn của anh với Thiên Chúa. Niềm vui của anh quá lớn, trào dâng anh đã làm nửađiều Đức Kitô dặn, dâng lễ vật, còn im tiếng thì không. Anh lên tiếng ca tụng Thiên Chúa trước đám đông. Kết quả của việc không vâng lời dẫn đến hậu quả. (Đức Kitô) không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người c.45 Đức Kitô ngăn cấm người phong hủi nói về Đức Kitô vì anh không biết rõ Ngài lài ai. Thực ra không phải mình anh mà hầu như không ai biết rõ về Đức Kitô và sứ mạng của Ngài. Người gọi Ngài là tiên tri đại tài; kẻ khác bác sĩ lừng danh; người nữa một thanh niên đạo đức; một số cho Ngài là nhà lãnh đạo đầy triển vọng xuất hiện đến giải thoát dân chúng khỏi ách đô hộ của hoàng đế Roma. Đức Kitô xuống thế không phải làm những điều như người ta tưởng. Sứ mạng của Ngài là mang tình yêu Chúa đến tha nhân. Sứ mạng Ngài là đem con người ra Ánh Sáng thoát bóng tối sự chết. Sứ mạng Ngài là giải thoát con người khỏi nô lệ của ma quỉ. Sứ mạng Ngài là dậy con người biết vâng phục Thánh Ý Chúa Cha. Đức Kitô ngăn cấm người phong hủi nói về Người bởi thời gian được chọn mặc khải Đức Kitô là ai là do chính Đức Kitô chọn, không phải ma quỉ hay con người có quyền chọn lựa mà Chính Chúa. Vì thế Đức Kitô ngăn cấm ma quỉ nói Ngài là ai. Thiên Chúa là Đấng duy nhất quyết định khi nào đến lúc mặc khải về Ngài. Ngày nay chúng ta biết thời gian mặc khải Đức Kitô là Con Thiên Chúa xảy ra sau Phục Sinh. Sau khi chịu khổ hình thập giá và sống lại vinh quang là lúc Đức Kitô tỏ vinh quang của Ngài một cách rõ ràng cho muôn dân. Đức Kitô dậy các môn đệ làm điều đó khi sai các ông đi rao giảng về Đức Kitô. Có lẽ những ai đã từng biết người bị phong hủi trước kia nay thấy anh bình phục mừng thay cho anh và cùng với anh loan tin vui đó cho mọi người. Còn người đi đường không biết khi thấy anh vui mừng, rạng rỡ. Họ kinh ngạc và hỏi nhau điều chi làm cho con người mạnh khoẻ vui hơn hội xuân thế. Đức Kitô không những chữa anh lành bệnh mà còn phục hồi chức vị thành viên cộng đoàn, ban cho anh đời sống mới, con tim hoan lạc và ban thêm niềm tin nhỏ xíu của anh thành một người đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi cầu xin Đức Kitô chữa bệnh cho mình hoặc thân nhân mà có khi lời cầu xin được nhận lời; khi không được Chúa đáp ứng. Đức Kitô chữa bệnh để tỏ lộ quyền năng của Thiên Chúa trên bệnh tật và sự dữ, thần ác. Sứ mạng cao cả của Đức Kitô là ban ơn cứu độ cho muôn dân, giải thoát họ khỏi xiềng xích tội lỗi và chỉ dẫn con đường về cùng Chúa Cha. Đấng có quyền quyết định cho gì, cho bao nhiêu, lúc nào thuộc về Chúa là Đấng ban phát, không phải kẻ xin là chúng ta có quyền quyết định. Kẻ xin chỉ biết đón nhận với tâm tình tạ ơn, miệng cao rao ca tụng Thiên Chúa, như người phong hủi đã làm.
Đáng lẽ những bài tường thuật phép lạ phải có tính lịch sữ cao. Nhưng vì được viết lâu sau Phục Sinh và dưới ánh sáng Phục Sinh lại nằm trong ý đồ của tác giả nên bị cắt xén và sữa đổi ngay cả với những chi tiết có tính lịch sữ như thời điểm và địa điểm. Mc chỉ muốn hé mở từ từ 'bí mật thiên sai' của Đức Giêsu nên 'cấm không cho nói'. Có lẽ ý chính của đoạn nầy là cách cầu nguyện có hiệu quả: cầu nguyên theo ý Chúa 'nếu Chúa muốn' chứ không xin theo ý ta vì như vậy là ép buộc Chúa, không để Chúa tự do. Chuá không thể chấp nhận. Vài điểm CHÚ GIẢI - Một người cùi đến gặp Người: kẻ cùi phải tránh xa mọi nguời và phải la lên 'cùi,cùi' Anh nầy bạo gan mới dám 'đến gặp'. Lòng tin mạnh mẻ khiến anh 'liều'. - Anh ta quì xuống van xin 'nếu Ngài muốn Ngài có thể làm cho tôi được sạch': Khiêm tốn. Xin tận đáy lòng. Dấu chỉ nữa của lòng tin mạnh. Xin thì phải theo ý người cho. Ngài có thể. Tin chắc. Muốn là quyền của Ngài. Ép buộc không được. Vô phép! Chúa chỉ làm theo ý Chúa - Người động lòng thương giơ tay chạm vào anh: Thấy lòng tin Người động lòng thương. Chỉ lòng tin mạnh mới làm cho Người động lòng và chạm vào. Ít được chú ý nên xin không được. - Và bảo 'Ta muốn, anh hãy sạch đi': Chúa vô cùng yêu thương luôn muốn cứu chữa và ban ơn. Chúa muốn nhưng 'anh hãy sạch đi'. Sạch hay không là cuối cùng tuỳ ở anh. Anh không tự muốn bằng lòng tin mạnh thì cái 'Ta muốn' của Chúa không đến được với anh. Không có kết quả dù cái 'Ta muốn' có toàn năng. Là ý chính của tác giả khi thuật câu chuyện nầy để dạy cách cầu nguyện hiệu quả. Chỉ cầu nguyện cách nầy là có hiệu quả. Đức Giêsu đã nói 'cầu nguyện mà tin thật trong lòng thì được ngay'. Phải cho Chúa thấy lòng tin. Đức tin làm cho người ta cầu nguyện khiêm tốn và xin theo ý Chúa. Chúa chỉ làm theo ý Chúa chứ không làm theo ý bất cứ ai. Không xin theo ý Chúa là không biết xin vì Chúa không cho. - Lập tức bệnh cùi biến khỏi anh và anh được sạch: Chúa cho thì kết quả tức khắc dù là bệnh nan y vì không có gì là không thể đối với Chúa. - Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo 'coi chừng đừng nói với ai: Có lẽ chỉ có mình anh ta vì anh ta dám đến gần và Đức Giêsu không muốn cho người ta biết (sẽ phiền phức) nên mới đuổi. Hơn nữa chưa đến giờ trong chương trình của Chúa Cha (sau thập giá và Phục Sinh). Bây giờ chưa hiểu đúng về Đấng Messia của Thiên Chúa vì người ta đang mong đấng 'Messia do thái'. - Nhưng hãy đi trình diện với tư tế.....: Phải giữ trọn lề luật và Đức Giêsu còn muốn anh ta nhờ giữ luật mà được chính thức phục hồi tư cách làm người bình thường mà bệnh cùi đã tước mất. - Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền tin ấy khắp nơi......: Không vâng lời Chúa. Khi xin thì tin mà được rồi thì hết tin. Phúc Âm khó hiểu vì lẫn lộn chi tiết lịch sử trong ánh sáng Phục Sinh. Máccô được viết năm 67-70 khi mệnh lệnh rao giảng đang được thực hiện rộng rãi. Cầu nguyện - cầu xin - là việc làm chiếm phần lớn sinh hoạt giữ đạo của người tín hữu. Nhưng cầu xin nhiều mà chẳng thấy được bao nhiêu vì không quan tâm và không làm đúng như Đức Giêsu dạy. Mở miệng ra là xin, lời nguyện nào cũng chỉ là xin mà không xin với những điều kiện Đức Giêsu dạy Xin mà tin thật trong lòng thì được. Người ta chỉ cầu nguyện bằng môi miệng mà không xin bằng cả tấm lòng nên không thấy được. Phải cho Chúa thấy lòng tin 'thấy lòng tin của họ' Đức Giêsu nói với người bại liệt 'cùi thiêng liêng' tội con đã được tha. Điều kiện thứ nhất phải là sạch tội. Người cùi đến gặp Đức Giêsu quì xuống van xin. Khiêm tốn trước mặt Chúa dù là cùi Chúa cũng động lòng thương. Phải có lòng tin mới làm được cử chỉ nầy. Điều kiện thứ hai là 'nếu Ngài muốn' xin theo ý Chúa. Chúa muốn thì không gì là không thể. Phải để Chúa muốn theo ý Chúa. Đừng bắt Chúa muốn theo ý ta: là không có lòng tin, phải để Chúa tự do muốn. Làm cho Chúa muốn là tin: Chúa yêu thương, Chúa tốt lành. Mọi điều Chúa muốn đều là tốt nhất cho ta. Đừng dạy Chúa muốn thế nầy thế kia. Chúa biết cùi là không tốt. Chúa muốn cho người cùi hết bệnh. Phần người cùi phải cho Chúa thấy lòng tin. Tin thì sám hối, bỏ tội làm ngăn cách với Chúa như bệnh cùi cách ly người cùi với cộng đoàn dân thánh. Tin-sám hối là khiêm tốn phó thác vào tình yêu và sự tốt lành của Chúa. Một chi tiết không được quan tâm là Đức Giêsu bảo 'đừng nói với ai' nhưng ra khỏi đó thì anh ta 'rao truyền khắp nơi' làm hại Đức Giêsu 'không thể vào thành hay làng nào được mà phải dừng lại ở những nơi vắng vẻ'. Khi xin thì biết xin theo ý Chúa mà được rồi thì bỏ ý Chúa làm theo ý thích của mình nên 'làm hại Đức Giêsu'. Phải luôn làm ý Chúa. Xin Chúa thì theo ý Chúa là tỏ lòng tin còn khi làm thì cũng phải làm theo ý Chúa luôn mới nói lên lòng tin thật sự. Lâu dài mới đủ chứng minh. Lạy Ngài nếu Ngài muốn ......
Có một bài hát sinh hoạt như sau: "Tôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi, Đâu phải ai xa lạ mà là người đang sống bên tôi, Thế giới này không ai là một hòn đảo, Vườn hoa này không có loài hoa lạc loài." Đúng vậy, một trong những điều đáng sợ đối với một con người là bị mọi người xa lánh và ghê tởm. Bởi ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên con người là hai chứ không phải là một (St 1, 22 - 23). Cho nên, tự bản chất con người được dựng nên để sống với, sống chung, sống cho và sống vì người khác. Hay nói cách ngắn gọn tự bản tính con người được kêu gọi để sống cộng đoàn. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy anh thanh niên bị bệnh phong cùi đã rất khổ tâm. Vì đối với người Do thái ngày xưa bệnh phong cùi là một trong những căn bệnh được xem là ô uế. Do vậy, chính người bệnh không được phép chủ động để tiếp xúc với bất cứ người nào lành sạch. Cũng thế, những người lành sạch thấy người bệnh phải tránh xa nếu như muốn không bị lây nhiễm ô uế. Trong hoàn cảnh bị cô lập như thế, anh thanh niên này hầu như tuyệt vọng. Giờ đây anh chỉ còn biết cậy trông vào Chúa Giêsu. Quả thật, sự cậy trông và tin tưởng của anh vào Người đã đem lại cho anh kết quả tốt. "Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi! " (Mc 1, 41). Đây là cử chỉ hết sức đẹp mà anh đã được Chúa Giêsu ban tặng cho anh. Sau khi được lành sạch Chúa Giêsu còn căn dặn anh:: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." (Mc 1, 44). Đi trình diện với tư tế để làm chứng rằng từ nay anh chính thức được trở lại với cộng đoàn theo đúng bản tính của mình. Mỗi khi sống trong tình trạng tội lỗi là mỗi khi chúng ta đã tự tách mình ra khỏi cộng đoàn dân thánh của Chúa. Những khi ấy chúng ta hãy mau mắn đến với Toà giải tội để được hoà nhập lại với cộng đoàn thiêng liêng quý giá ấy. Còn đối với đời sống chung nhiều khi vì ích kỷ, tự ái, ganh tỵ và ghen ghét chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đoàn anh chị em của mình hay làm cho mọi người phải ghê sợ khi phải tiếp xúc với mình. Những lúc ấy chúng ta hãy can đảm dẹp bỏ những lợi ích riêng tư để hoà nhập với anh chị em của mình. Đồng thời, chúng ta cũng luôn có thái độ thông cảm đón nhận anh chị em mình. Dù họ có tệ rạc cách mấy thì họ vẫn được chính Máu cũa Chúa Giêsu cứu chuộc nên chúng ta không nên có bất cứ thái độ nào để cô lập anh chị em của mình.
Trong một giáo xứ, cha sở đã lập một ban Hội đồng mục vụ. Ngài chọn những người đạo đức gương mẫu vào ban này. Ngài luôn khuyến khích nâng cao tinh thần tông đồ và lòng vị tha cho họ. Dầu vậy, một người trong ban đã sa ngã phạm tội làm gương xấu, phần đông bổn đạo đều biết và xầm xì bàn tán. Người đó lại là người trước nay rất đạo đức, hăng hái hoạt động tông đồ. Thấy vậy cha sở rất đau lòng. Ngài cầu nguyện cách riêng cho ông và tìm cách khuyên mời ông ăn năn hối cải. Ngài hỏi ý kiến một vị trong Hội đồng: - Ông nghĩ sao về gương của người đó? - Thưa cha, một người trong Hội đồng mà làm gương xấu như thế thì không thể chấp nhận được. Cha hỏi người khác, ông này nói: - Con đề nghị sa thải ông ấy, nếu không cả Hội đồng sẽ mang tiếng và khó làm việc. Thấy một người ngồi im lặng có vẻ nghĩ ngợi, cha sở hỏi: - Còn ông, ông nghĩ sao? - Thưa cha, theo con nghĩ: ông ta chưa đến nỗi tệ. Nếu con lâm vào hoàn cảnh ông ấy chắc con còn tồi tệ hơn. ---------- Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người mắc bệnh phong cùi. Phải chăng gương xấu của người trong Hội đồng mục vụ trên đây cũng là một loại phong cùi, phong cùi vì gương xấu của ông ta. Loại bệnh này cũng lây nhiễm nguy hiểm cho người khác: nhất là ông ta là người có chức quyền trong họ đạo, thì ô nhiễm của ông ta càng trầm trọng hơn. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta trong thư gởi giáo đoàn Côrintô hôm nay: “Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai”. Vậy Chúa Giêsu đã phán: Ai làm gương xấu, hãy treo đá vào cổ nó và xô xuống biển cho nó chết. Tại sao Chúa kết án nặng cho kẻ làm gương xấu như thế? Vì nó rất nguy hiểm, nó làm cớ cho kẻ khác bắt chước phạm tội như nó. Nó là một thứ phong cùi hay lây nhiễm ô uế xấu xa. Nhưng Chúa vẫn thương cứu chữa những kẻ ấy. Lẽ nào chúng ta không thương giúp?... (Theo “Maria, Mẹ tuyệt mỹ”). 2. Anh tung tin khắp nơi Dưới thời tổng thống Sutacô Gaiep bắt đạo, Giáo hội Công giáo tại Mêhicô phải chịu bách hại dữ dằn. Hai mươi ngàn nhà thờ bị đóng cửa. Đặc sứ Tòa Thánh và các linh mục tu sĩ nước ngoài bị trục xuất. Hàng ngàn Linh mục và giáo dân bị xử bắn vì không chịu chối Chúa bỏ đạo. Tại thành phố Pueblo có cụ Jose Saphan là Kitô hữu can đảm. Cụ có tiệm tạp hóa nhỏ, và bất chấp lệnh cấm đạo, cụ treo tấm bảng trước cửa tiệm với hàng chữ lớn: “Vạn tuế Chúa Kitô” Đây là khẩu hiệu của các tín hữu Kitô ở Mêhicô… Ngày 20 tháng 07 năm 1926, viên tướng tư lệnh quân đội tại thành phố Pueblo đi ngang cửa tiệm cụ, thấy tấm bảng với hàng chữ đó. Ông tức giận truyền cho cụ phải tháo gỡ. Nhưng cụ cương quyết trả lời “Không” với viên tướng. Thế là cụ bị bắt giam ngục. Và hôm sau bị dẫn đem đi bắn. Nhưng chưa tới nơi hành quyết, cụ đã bị một tên lính bắn chết nằm bên vệ đường Tin mừng hôm nay thuật lại, sau khi Chúa Giêsu chữa người phong hủi được sạch, “Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả… Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi” (Mc.1,43-45). Mặc dầu bị Chúa Giêsu cấm đoán, người phong hủi được Chúa chữa lành cũng can đảm “rao truyền và tung tin ấy khắp nơi” cho con người nhận biết quyền năng vô cùng của Chúa, để mọi người nhìn nhận Người, tin kính Người là Đấng Cứu Thế Chúa Cha sai đến để cứu rỗi con người. Cụ Jose Saphan trong câu chuyện trên đây tuy bị cấm cách tù ngục cũng vẫn mạnh mẽ tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô. Cụ biết nhà cầm quyền sẽ dứt bỏ biểu ngữ tuyên xưng niềm tin của cụ và sẽ giết cụ, nhưng cụ vẫn can đảm nói lên xác tín chỉ có Chúa Kitô là Thiên Chúa duy nhất cứu rỗi con người, đem lại hạnh phúc đích thực và vững bền cho loài người. Phải chăng đó là những tấm gương tuyệt vời cho các Kitô hữu chúng ta hôm nay. Dù khó khăn cam khổ thế nào cũng mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin vào Đấng cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Kitô. (Theo “Phép lạ trên biển cả”). --------- 3. Chiếc vĩ cầm bị bể Năm 1981, Peter Cropper nhạc sĩ vĩ cầm danh tiếng nước Anh được mời đến Phần Lan trình diễn trong buổi hòa nhạc đặc biệt. Anh đã được nhạc viện hoàng gia tặng cho chiếc vĩ cầm vô giá đã chế tạo cách đó 285 năm. Anh luôn sử dụng nó trong các buổi hòa nhạc. Hôm nay anh mang nó đến Phần Lan để trình diễn. Nhưng rủi thay khi bước lên sân khấu, anh trợt chân té xuống, làm chiếc vĩ cầm vô giá của anh vỡ tan từng mảnh!... Thế là anh trở về Luân Đôn, lòng trí khủng hoảng tột độ. Dù vậy anh không chán nãn ngã lòng. Anh mang nó đến một người thợ chuyên sửa đàn đầy kinh nghiệm tên là Charles Beare và nhờ ông sửa chữa. Cuối cùng ông đã lắp ráp lại được toàn bộ các mảnh vỡ, làm thành cây đàn nguyên vẹn như trước. Ông giao chiếc đàn lại cho Peter. Người nhạc sĩ vĩ cầm lấy cây đàn hồi hộp trổi nhạc. Âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như trước và xem ra còn xuất sắc hơn trước khi nó bị bể vỡ nữa. Từ đó anh mang nó đi trình diễn khắp nơi và nó đem lại cho anh biết bao lời hoan hô nồng nhiệt. ---------- Câu chuyện chiếc vĩ cầm trên đây là một hình ảnh tuyệt hảo cho những gì đã xảy ra nơi người phong cùi trong Tin mừng hôm nay. Ai cũng gớm ghiếc anh ta vì sợ lây nhiễm, chính anh ta cũng ghê tởm chính mình như Thánh vịnh 31 mô tả: “Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi trông thấy tôi ngoài đường là họ xa lánh! …Tôi chẳng khác nào đồ phế thải”. Thế mà đối với người phong cùi ghê tởm đó, Chúa Giêsu đã đưa tay trìu mến chạm vào, chữa cho anh khỏi bệnh. Điều đó đem đến cho chúng ta một sứ điệp quan trọng. Nếu một điều gì chẳng may xảy đến cho chúng ta, như một tai nạn, một bạn bè phản bội, một người thân mất, một nghèo đói bệnh tật, vv… làm cho chúng ta đau đớn khổ sở trầm trọng giống như người mắc bệnh cùi, như nhạc sĩ Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm… Chúng ta chỉ cần chạy đến Chúa Giêsu và kêu xin Người. Người sẽ chữa lành cuộc đời tan nát của chúng ta như ông thợ tài giỏi đã sửa chữa chiếc vĩ cầm tan vỡ. Và Người còn làm được hơn thế nữa. Người sẽ biến cuộc đời tan nát chúng ta tốt hơn, đẹp hơn trước nữa. (Theo “Sunday Homilies”). 4. Bệnh phong cùi Một vụ nổ làm chú bé 7 tuổi bị phỏng nặng hai chân, đến nỗi bác sĩ không chữa được, bảo phải cưa đôi chân. Và như thế nó sẽ phải tàn phế suốt đời!... Thế mà hai năm sau với niềm tin mãnh liệt, cậu đã bỏ cặp mạng, tự đi được và còn chạy được nữa. Cậu thi đậu đại học, và chọn môn ngoại khóa là chạy đua. Và cậu làm cho mọi người kinh ngạc, cậu phá kỷ lục môn này… -------- Cậu bé tưởng chừng phải tàn phế suốt đời đã trở thành vận động viên xuất sắc nhờ niềm tin vào khả năng của mình. Với niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa, người phong cùi đã được lành sạch. Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người bị phong hủi đến với Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc.1,40-42). Đối với người Do thái xưa, kẻ mặc bệnh cùi là bị Chúa phạt vì tội lỗi của họ, và xã hội xa lánh vì sợ lây nhiễm, lây nhiễm phong cùi và nhất là lây nhiễm ô uế xấu xa. Trong tình trạng bi đát đau khổ đó, người phong cùi đã biết tin tưởng Chúa, chạy đến chúa, quỳ xuống van xin: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh. Đức Giêsu động lòng thương, đưa ty chạm đến anh và bảo: Tôi muốn. Tôi cho anh khỏi bệnh. Ngay tức khắc, anh được lành sạch. (Mc.1,40-42). M. Carré nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, chúng ta phải là những nhà chuyên môn của tin tưởng trông cậy”. Và G. Bossis mời gọi chúng ta: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
Tin Mừng Thánh Marcô trình bày cuộc sống Chúa Giêsu một cách đơn giản và gần gũi với con người. Thánh Marcô vẽ ra một bức tranh rất thực về con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không vì thế mà Marcô bỏ quên phương diện thần tính của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ là một người ở giữa loài người. Ngài còn là một Thiên Chúa đang sống giữa con người. Ngài luôn khiến tâm trí con người cảm động trước những lời nói và việc làm của Ngài. Qua phép lạ Chúa Giêsu chữa lành anh bệnh phong hôm nay, tôi muốn chia sẻ về niềm tin vào lòng thương xót củaThiên Chúa. Sứ mạng cứu chữa Hành động của Chúa Giêsu hôm nay khiến con người phải ngỡ ngàng trước tình thương của Thiên Chúa. Phong hủi là thứ bệnh ghê tởm nhất thời Chúa Giêsu. Không có bệnh nào lại huỷ hoại con người lâu dài và ghê gớm như bệnh này. Nó khiến cơ thể bị lở loét, tanh hôi và rụng mất dần từng chi thể. Tệ hại hơn, những người bệnh phong bị coi như là "người đã chết". Họ hoàn toàn bị khai trừ khỏi xã hội loài người. Mọi người khi thấy họ thì tránh xa vì sợ bị ô uế. Chúa Giêsu không hề xa tránh anh. Hành động của Ngài hoàn toàn khác hẳn với những người khác. Ngài đến giơ tay và đụng chạm vào anh. Tình thương của Ngài làm cho chứng phong cùi được chữa khỏi. Chứng phong hủi không lây được sang Ngài, trái lại sự thanh sạch của Ngài đã lan tràn sang anh, khiến anh được sạch. Sứ mạng yêu thương Chúa Giêsu mỗi khi xuất hiện Ngài luôn giữ vai trò là người gieo rắc tình thương: bệnh tật được chữa lành, tang tóc được hân hoan, tội lỗi được tha thứ, ngay cả cái chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an. Ở Naim, ngài đã biến đổi giọt nước mắt của người mẹ khóc thương con mình thành những giọt lệ vui mừng khi Ngài cho con bà sống lại. Cho đến nỗi, khi bị treo trên thập giá, tình thương Ngài vẫn tiếp tục cho anh trộm lành trong tuyệt vọng được tham dự vào Nước Ngài. Hành động Chúa Giêsu khiến cho con người nhận thấy quyền năng của Ngài là tình yêu chứ không phải là sức mạnh của binh lực. Ngài đến mang cho con người sự sống chứ không phải là kẻ tiêu diệt sự sống. Đáp đền trong tin tưởng Về phía anh phong hủi, anh đã không lầm khi dám liều mình tiến đến van nài trước vị Thầy đầy tình thương: "Nếu Ngài muốn, ngài có thể làm cho tôi được sạch". Chính lòng tin đã thúc giục anh vượt qua những lời chê cười, khinh bỉ của bao cặp mắt người đời. Thông thường nếu anh đến với một thầy Rabbi hay mô#t thầy giáo luật chắc hẳn anh sẽ bị ném đá đuổi đi. nhưng với Chúa Giêsu, anh đặt hết niềm tin tưởng vào Ngài. Anh tin rằng, Ngài có thể làm được điều mà người khác không thể. "Nếu Ngài muốn", một lời mở đầu cho lời cầu xin đầy tin tưởng vào phó thác hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không hề bận tâm đến bề ngoài xấu xí, hôi tanh của anh, nhưng Ngài nhìn thấy tận trong tim anh một nỗi khát khao được chữa lành. Hôm nay anh bệnh phong này đã làm được điều mà nhiều người chưa hề dám nghĩ. Đức tin của anh đã phát sinh hiệu quả khi gặp được tình thương của Chúa Giêsu. Đức tin là dám nghĩ rằng tình thương Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ta mặc dầu mọi bằng chứng đều cho thấy ngược lại. Tin là dám nghĩ rằng Thiên Chúa đang ở bên ta mặc dù thực tế ta thấy Ngài còn quá xa cách. Tin là dám nghĩ Ngài vẫn yêu thương ta dù ta chẳng có gì đáng yêu. Tin là dám nghĩ rằng Ngài vẫn hành động liên lĩ trong ta để biến đổi ta cho dù có khi ta nghĩ Ngài đã chết rồi. Anh phong hủi hôm nay đã dám nghĩ, dám làm điều mà nhiều người không dám làm, dám nghĩ. Một điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là: Lòng thương xót Chúa thì không có giới hạn, thế nhưng Chúa Giêsu không chữa lành hết mọi bệnh nhân phong cùi của xứ Palestine. Ngài cũng không tiêu diệt tận gốc bất kỳ một thứ bệnh tật nào. Chúa Giêsu chỉ chữa một vài người mà Ngài gặp trên đường và xin Ngài cứu chữa. Điều đó nói lên rằng lòng thương xót không cho phép Ngài chữa một lần cho tất cả mọi bệnh tật rồi "cuốn goi" ra đi. Nhưng Ngài muốn cứu chữa từng người để cho con người thấy rằng Ngài vẫn đang còn hiện diện nơi đây để sẵn sàng cứu chữa những ai cần đến Ngài. Hiện nay bệnh tật vẫn còn đó đây trên khắp thế giới. Những chứng bệnh nan y vẫn lan tràn và sự dữ vẫn còn nhan nhản. Những thứ bệnh tiểu đường, béo phì, HIV, siêu vi B... đủ làm cho nhiều người phải lo lắng. Tuy nhiên những chứng bệnh tâm hồn lại khiến con người càng lo lắng hơn. Những thiếu sót, lỡ lầm làm cho đời sống của ta bị tanh hôi, lở loét. Nó khiến tình yêu Thiên Chúa bị che mờ đến mức ta không nhìn thấy được nữa. Tội lỗi dễ khiến ta mất tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn tìm cách lánh xa Ngài. Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng: Bất luận ta nghĩ mình xấu xa như thế nào; bất luận tội lỗi làm cho ta ô uế ra sao. Chúa Giêsu luôn thấu suốt tận thâm sâu của mỗi người. Ngài sẵn sàng cứu chữa cho những tâm hồn biết tin tưởng cầu xin. Những lỗi lầm trong quá khứ, những thử thách trong hiện tại dễ làm cho ta trở nên lạnh lùng khi đối diện với Thiên Chúa. Chúng ta hãy vững tin như người phong cùi trong Tin mừng hôm nay. Anh đã mạnh dạn tiến đến Chúa Giêsu. Chỉ một lần can đảm của anh khiến cho anh được sạch. Ước gì mỗi ngày ta càng thêm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta mạnh dạn đến với Ngài để tình yêu của Ngài luôn được hoạt động cách mạnh mẽ và hiệu quả trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
Mẹ Têrêsa Calcutta đang chăm sóc một người bệnh đầy ghẻ lỡ bên đường. Anh hôi thối bẩn thỉu lắm. Khi Mẹ đang lau rửa cho anh, một nguời đi đường trông thấy nói với Mẹ: "Trả cho tôi một triệu đô la, tôi cũng không làm cái việc này." Mẹ nghe nói ngẩng đầu lên trả lời: "Phần tôi, tôi cũng vậy."... Đúng thế, điều Mẹ Têrêsa muốn nói ở đây là, Mẹ và Tu hội của Mẹ lo lắng cho người nghèo không phải vì tiền, nhưng vì Chúa Giêsu... Chúa Giêsu yêu thương người đau yếu, bệnh tật, người tội lỗi hèn kém biết bao; Chúa luôn muốn chữa lành và chúc phúc cho họ. Chính vì điểm này mà Mẹ và Hội dòng của Mẹ, đã quyết tâm lo lắng cho người nghèo. Đây chính là chủ đề mà Hội thánh mong muốn chúng ta tìm hiểu hôm nay. a/. Trước hết, xin nói về quan niệm và Luật lệ của Do thái về bệnh cùi: + Họ coi bệnh cùi là một thứ bệnh rất ngặt nghèo, không chỉ khủng khiếp về thể xác mà còn là dấu hiệu của hình phạt do đã phạm một tội nào đó. Đọc qua bài Cựu Ước, trích sách Lê vi ở trên, ta thấy những qui định của Lề luật dành cho người lây nhiểm bệnh cùi thật là khủng khiếp (Levi 13, 2.44-46): "Nếu ai mắc bệnh phong cùi, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Người ấy phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu. Gặp ai phải tránh xa và kêu lên: ô uế! ô uế! Phải ở riêng ra; chổ ở của họ là bên ngoài trại." + Ta thử nhìn lại về những qui định dành cho người bị bệnh cùi: Trước hết, khi trên da thịt của người nào có dấu hiệu nhọt, lát, hoặc đốm, mà đã được tư tế xác nhận là dấu hiệu bệnh cùi, ông sẽ tuyên bố người đó bị ô uế. Nhưng ta thử nghĩ, thời Chúa Giêsu, làm gì có những dụng cụ thử nghiệm chính xác như của ngày hôm nay, nên sẽ có rất nhiều lầm lẫn, nhất là khi tư tế không có cảm tình với người đó, kể cả vì ganh tị, hay để trả thù...Kế đến, vị tư tế sẽ công bố người bị phong cùi là hạng ô uế. Mà nếu bị coi là ô uế, cuộc đời của họ kể "tàn rồi", vì họ coi bệnh cùi là không chữa được, và hầu như vĩnh viển bị loại trừ ra khỏi cộng đồng xã hội, nhất là lễ nghi thờ phượng của người do thái. Lúc đó, người bệnh còn sống mà kể như đã chết. Cộng đồng coi người cùi là đáng sợ, vì họ ô uế, nên nếu cho họ gia nhập cộng đồng, cộng đồng sẽ bị ô uế luôn. Sau cùng, người bị bệnh phong cùi ít đau khổ thể xác hơn là tinh thần, vì họ cảm thấy bị mọi người sợ hải, cảm thấy bị khinh miệt, bị ghê tởm, nhất là bị xếp loại vào hạng người đang sống dưới ách của thần ô uế, bị phán xét là tội lỗi, bị Chúa chúc dữ và trừng phạt. b/. Phần này chúng ta nói về việc anh cùi đến với Chúa Giêsu và cách Chúa chữa lành cho anh ta. + Bài Tin mừng thuật lại việc anh đi đến với Chúa Giêsu rất cụ thể: Anh đến bên Chúa Giêsu, quì xuống và van xin: "lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.." Đối với anh cùi, Chúa Giêsu là Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật cho anh, vì anh tin Chúa có sức mạnh chiến thắng thần ô uế. Anh đặt hết niềm tin vào Người. Có thể lâu nay, anh nghe người ta nói về Thầy Giêsu có quyền năng cao cả như thế, và anh chỉ tin vào Thầy Giêsu, không tin vào ai cả, kể cả các tư tế, hay chính gia đình anh nữa. Vì thế, anh không tuân theo qui chế dành cho người cùi, gặp người khác là bỏ chạy còn la "ô uế" nữa. Anh đã lên đường, lên con đường của lòng tin, con đường dẫn đến Đấng chữa lành cho nhân loại, và với lòng tin mạnh mẻ, anh nói: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể....." + Phần Chúa Giêsu, Phúc âm nói: "Chúa chạnh lòng thương..." vì Nguời hiểu được tâm trạng của anh cùi, hiểu được lòng tin của anh, nên Người đã chữa cho anh ngay: "Ta muốn, anh hãy được sạch". Chúa không chỉ chữa lành cho anh tật bệnh phần xác, mà chữa lành cho cả tật bệnh tâm hồn. Người chữa cho anh khỏi bị nguyền rủa là ô uế, chữa cho anh khỏi tiếng oan rất nặng nề là bị Chúa trừng phạt, giải thoát cho anh khỏi mặc cảm hèn kém, phục hồi cho anh tình trạng nguyên vẹn là một con người được bình đẳng trong xã hội, cả trong nghi lễ phụng thờ tôn giáo của do thái nữa... Đó chính là Lời Thiên Chúa có sức chữa lành cho anh. Lời Thiên Chúa muốn anh lành mạnh, muốn anh không yếu đuối, muốn anh sống trong niềm tự tin, không mặc cảm, muốn anh không khuất phục quyền uy của ma quỉ, muốn anh sau khi chữa lành, được phục hồi toàn vẹn "hình ảnh của Thiên Chúa" lúc tạo dựng, nhờ cái chết của Con Chí ái của Ngài... c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Anh cùi trong Tin mừng hôm nay, đã quá đau khổ thể xác, cũng quá đau khổ trong tâm hồn. Chúa Giêsu hiểu anh ta lắm, cả lòng tin của anh ta nữa, nên Chúa đã chữa lành cho anh ta. Phần chúng ta hôm nay, khi yếu đuối, sa ngã, ta có muốn Chúa Giêsu chữa lành tội lỗi của ta, là tật bệnh phần hồn không?
Hằng ngày khi nhìn lên Thánh giá, mỗi người không khỏi tự vấn: tại sao chúng ta lại tôn thờ một Giêsu chết treo tất tưởi trên cây gỗ giá!? Điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23). Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta câu hỏi này khi chia sẻ với tín hữu Ga-lát: Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh với tôi, và tôi với thế gian. (Gl 6,14). Đó là niềm vinh dự của thánh nhân và cũng là của chúng ta. Vì đó là cách Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót và tình yêu của Người cách tột cùng - vì bên kia sự chết là sự sống vinh quang. Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói: cứu độ là như sen ngụp lặn dưới bùn lầy nhơ nhớp, hút lấy tất cả những gì của bùn lầy để dâng cho đời đoá sen tươi thắm thì đây còn hơn thế. Chính Đức Giêsu đã mang lấy toàn bộ tội lụy và nhuốc nhơ của chúng ta vào mình mà đưa lên cây thập giá và cho nở hoa vinh quang. Vinh quang này biến đổi chúng ta thành một con người hoàn toàn mới - con người trong mối hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Mối thông hiệp bị phá vỡ do nguyên tội nay được kết nối lại. Cuộc kết nối này được tiên báo nhiều lần trong Cựu Ước và nhiều việc làm thi thố lòng thương xót của Đức Giêsu. Trình thuật chữa lành người phong hủi hôm nay là một trong những hình ảnh báo trước: Thứ nhất: Đức Giêsu - Thiên Chúa - không đứng từ đàng xa dùng quyền năng của Người mà chữa anh nhưng đã chạnh lòng thương, cúi xuống, đụng tới anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Tức thì anh được sạch. Được chữa lành, anh được trở lại mối thân tình với Thiên Chúa, vì vào thời đó, dân Do Thái cho rằng: bệnh tật, nhất là phong hủi được coi như án phạt của Chúa trên kẻ có tội. Thứ hai: việc người truyền anh trình diện với tư tế để anh được chứng thực khỏi bệnh đồng nghĩa với việc anh được hội nhập trở lại cộng đồng. Vì vào thời Đức Giêsu người phong hủi phải sống tách biệt khỏi cộng đồng. Như thế không phải là hình ảnh báo trước cuộc kết nối trọn hảo chính Đức Giêsu sẽ thực hiện nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người! Nhưng để có thể được kết nối trở lại thì chúng ta cần có thái độ nào. Chính người phong hủi là tấm gương sống động cho mỗi người. Chính anh đã bước ra khỏi bản thân để đến với Đức Giêsu và xin Người: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. (Mc 1, 40). Anh xin điều Đức Giêsu - Thiên Chúa muốn mà không phải theo ý anh; trong khi, thường chúng ta hay xin theo ý của ta và than trách Người khi không được như ý. Anh tin tưởng và phó thác một cách đơn thành cho tình thương và lòng thương xót của Đức Giêsu. Chính vì thế, Đức Giêsu đã thực hiện khoản luật trên hết mọi khoản luật - luật yêu thương - khi người cúi xuống, đụng tới và chữa lành anh. Điều Người không thể thực hiện tại quê hương của mình khi dân chúng chỉ xin theo ý họ và không tin (Mc 6, 1-6; Mt 13, 54-58; Lc 4, 16-30). Thật vậy, Thiên Chúa như người cha giàu lòng thương xót trong dụ ngôn người con hoang đàng. Người luôn chờ mong và sẵn sàng mở rộng vòng tay yêu thương và tha thứ khi người con biết nhìn nhận bản thân, tin tưởng và mở lòng ra với cha mình. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Đâu đó vẫn còn tình trạng phân biệt kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. Đâu đó vẫn còn hàng rào ngăn cách đối với những người HIV, lao; những người khuyết tật; những người tù tội; những người cơ nhỡ… Đó là thứ phong hủi thời đại mới. Thứ bệnh nhiều khi chính mình mắc phải mà chẳng hay. Xin thêm đức tin cho chúng con. Xin cho con biết phó thác, tin tưởng nơi Người, để Người ra tay chữa lành chứng phong hủi trong tâm hồn con. Xin cho con là cánh tay nối dài của tình yêu thương của Chúa trong thời đại hôm nay. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Cây Thánh giá gồm hai thanh: thanh dọc nối Trời và Đất, thanh ngang nối người với người. Xin cho con mang trọn thập giá đời mình không phải riêng thanh ngang hay thanh dọc vì Chúa dạy con: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo tôi. (Mc 8, 34). Xin dùng con để con trở thành mối dây hiệp thông nơi mình sinh sống để Tình Chúa Tình Người mãi nở hoa. Amen.
Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra sự xuyên suốt của sợi chỉ đỏ, giúp chúng ta hiểu được Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa : Vị Thiên Chúa làm người, đã tiếp xúc với mọi lớp người, đặc biệt những con người bé nhỏ, thấp hèn, những con người bị thương tổn trong xã hội, những bệnh nhân tật nguyền, những người bị quỷ ám, những con người thấp cổ bé họng vv…Chúa chữa lành mọi thứ bệnh và xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị quỷ ám. Thiên Chúa qua Con của Người là Đức Giêsu Kitô đã mang sứ điệp tình thương cho con người, đem bình an cho nhiều người. Sứ điệp ấy là Tin Mừng cứu độ, là sự an bình cho những người thiện chí tay sạch lòng thanh. Chúa đã cứu vớt nhiều người, những bệnh nan y, những bệnh tật mà xã hội tránh xa, nguyền rủa. Sứ điệp hòa bình hay Tin Mừng cứu rỗi cần phải được loan truyền cho nhiều người để càng nhiều người biết càng quý hóa, càng quan trọng.Tuy nhiên, hôm nay Chúa lại nghiêm cấm người được Ngài chữa bệnh phong cùi : “ Không được nói với ai và hãy đi trình diện với tư tế vì anh ta đã được chữa lành “. Bệnh phong cùi không biết đã có từ lúc nào, nhưng trong luật Môsê đã có những khoản rất tỉ mỉ qui định cho các người mắc bệnh phong cùi. Đến thời Chúa Giêsu, bệnh này vẫn còn xuất hiện trong nước Do Thái và vẫn có những khoản luật rất khắt khe đối với những người mắc bệnh phong cùi.Theo quan niệm của thời đó, người mắc bệnh phong cùi là người có tội nặng, bị phạt, bị nguyền rủa vv…Chúa Giêsu thương xót những người này, Ngài không xua đuổi, không né tránh họ, ai tới với Ngài xin Ngài chữa lành Ngài đều làm phép lạ chữa lành họ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nghiêm cấm người phong cùi được Ngài chữa lành không được cho ai biết anh ta đã được Ngài chữa lành. Có lẽ Chúa Giêsu không muốn cho người khác hiểu mình chỉ là một lương y chữa bệnh. Bởi Ngài là Thiên Chúa và họ phải nhìn nhận, biết Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng, người được chữa lành không thể giữ được điều lạ lùng, kỳ diệu anh ta nhận được nơi Chúa, do đó, vừa ra khỏi nơi Đức Giêsu chữa lành, anh ta liền nói về Người. Anh ta rao truyền, loan báo về quyền năng vô biên, tuyệt đối của Chúa Giêsu, Đấng vừa chữa lành cho anh. Anh ta loan báo, cao rao to tiếng khắp nơi, đến nỗi Đức Giêsu Kitô không thể công khai vào thành. Chúa dạy chúng ta bài học nhớ đời :” Việc rao giảng Tin Mừng luôn cần thiết mọi nơi, mọi chỗ, mọi lúc “. Người loan báo Tin Mừng cần nhiệt thành, cần có tấm lòng quảng đại và cần có sự lắng nghe và thực hành lời Chúa. Người loan báo Tin Mừng, giới thiệu Đức Kitô trước tiên phải là người đón nhận Tin Mừng từ Đức Giêsu và lãnh nhận sứ vụ được sai đi của Chúa. Mọi Kitô hữu chúng ta đều được mời gọi sống Lòng Thương Xót của Chúa và làm chứng cho quyền năng, sự tha thứ và con người nhân từ của Chúa. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tha thiết tìm kiếm và học hỏi Ngài để khi tìm được Ngài, chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống yêu thương, hiệp nhất và gắn bó với Chúa. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Tại sao Chúa lại nghiêm cấm người phong cùi được chữa lành không được noi với ai ? 2.Tư tế là ai ? 3.Phong cùi đã có thừ thời nào ?
Có một cô gái đẹp và tính tình rất tốt. Nhan sắc cũng như đức tính của cô làm mê hồn nhiều chàng trai, khiến biết bao trai tráng trong làng mê mẩn đến điên cuồng và rất nhiều người muốn được làm chồng cô trong tương lai! Tuy nhiên, một tai ương ập đến với cô, đó là: một hôm, cô đang nấu ăn ở trong bếp, bỗng nhiên bình ga bốc nổ, khiến lửa bốc cháy dữ dội và bén vào người làm cô bị bỏng rất nặng. Người thân của cô đưa cô đến bệnh viện, nhưng các bác sĩ chỉ có thể cứu sống cô, họ không thể làm thêm được gì hết! Kết cục, khuôn mặt và thân hình của cô bị biến dạng, trông ghê rợn hãi hùng! Cũng kể từ thời điểm đó, cô không được sự ngưỡng mộ của những thanh niên cùng trang lứa. Chẳng ai thèm để ý và hy vọng được làm chồng của cô như trước nữa. Ai nhìn thấy cô, họ cũng đều sợ hãi vì sự dị dạng bất thường nơi cô. Nhiều người còn buông ra những lời nguyền rủa không thương tiếc cho số phận hẩm hiu của nàng. Nói chung, họ đều xa tránh cô, khiến cô rất đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần! Hôm nay, câu chuyện Tin Mừng cũng trình bày về số phận của người bị phong cùi. Anh ta cũng trải qua biết bao đau đớn về thể xác và chịu đựng nỗi khốn khổ khôn nguôi về tinh thần. Tuy nhiên, may mắn cho anh cùi trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, giữa biết bao người khinh miệt, ruồng bỏ, hất hủi, loại trừ, chà đạp và xúc phạm, anh đã gặp được quý nhân phù trợ. Đức Giêsu đã không chỉ thương anh bằng tình thương của con người với nhau, mà Ngài còn thương anh bằng trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa, nên anh đã được chữa lành không chỉ thể xác, nhưng còn được chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn mà bấy lâu anh đã lãnh chịu.
Căn bệnh thế kỷ và nỗi khổ khôn nguôi
Để hiểu được nỗi khổ tâm đến xót xa của người bệnh và thấy được lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu, chúng ta cần tìm hiểu về quan niệm, lối nhìn của người Dothái thời bấy giờ về căn bệnh quái ác này và thái độ của họ đối với người không may mắc phải. Vào thời Đức Giêsu, người ta rất sợ hãi nghe được hay nhìn thấy hoặc đụng trạm đến những người bị bệnh phong. Họ coi những người này như một thứ quái dị, đồ bỏ. Vì thế, những người bị mắc phải bệnh cùi, họ bị chính người thân trong gia đình và xã hội loại ra bên lề. Theo quan niệm của người Dothái, bất cứ ai tiếp xúc với người bệnh phong thì đều bị coi là ô uế và nếu đụng chạm tới thì mắc tội trọng. Người mắc bệnh phong cùi thì không bao giờ được vào thành Giêrusalem cũng như bất cứ thành phố nào được bảo vệ bằng tường bao. Người phong cùi mà vô tình thò đầu vào nhà nào thì nhà ấy trở thành nhà ô uế và ngay cả cái kèo trên mái nhà cũng bị ô uế theo. Khi ra ngoài đường, họ không được chào hỏi ai và cũng chẳng được ai chào hỏi. Khoảng cách mà người bệnh và người khỏe phải giữ với nhau, đó là gần hai mét. Nếu vô tình, người bệnh đứng ở đầu gió, thì những ai ở cùng hướng gió phải cách 45 mét. Hơn nữa, người ta kiêng kỵ đến độ những vật bày bán ở nơi người phong đi qua, cũng không nên mua và chắc chắn là không ăn. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở góc độ bị coi thường khinh miệt, mà chính bản thân họ, họ cũng phải tự mình ý thức là người đáng bị kinh tởm và tự nhận mình là người gây nên sự bất tiện cho mọi người. Để hiểu rõ điều này, chúng ta thấy sách Lêvi có đề cập đến như sau: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46). Chính vì sự phân biệt phũ phàng đến như vậy, nên họ bị đẩy vào rừng sâu hay nơi sa mạc hoặc ra nơi đồng ruộng để tồn tại. Trong hoàn cảnh đó, những người bị bệnh, họ đau đớn tột cùng về thể xác, nhưng có lẽ nỗi đau tinh thần còn lớn hơn gấp bội qua việc bị khinh thường và loại trừ ngay từ những người thân. Nỗi ám ảnh về số phận và tự ti vì bị coi là tội lỗi nên mới phải chịu thứ bệnh quái ác này đã làm cho họ bị dằn vặt tinh thần rất nhiều! Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu và chính anh cùi đã lội ngược dòng với những quan niệm của người Dothái đương thời, để giữa Ngài và anh có một mối liên hệ mật thiết qua lòng trắc ẩn của Đức Giêsu và nơi đức tin mạnh mẽ của anh, khiến Đức Giêsu đã làm phép lạ để giải thoát anh cách toàn diện, trọn vẹn.
Đức tin và lòng thương xót
Vượt qua ranh giới, bất chấp lề luật, chẳng sợ lây nhiễm, nên Đức Giêsu đã tiến lại và chạm vào người bị phong cùi. Đây là hành vi phi thường đến dợn tóc gáy mỗi khi người Dothái nghĩ tới! Còn nơi người phong cùi, anh ta có thái độ tin tưởng quá phi thường và thái độ tôn thờ đến tuyệt đối, nên đã dám đến gần Đức Giêsu, quỳ gối và van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Thái độ này của Đức Giêsu hoàn toàn đi ngược lại với những nhà lãnh đạo và quan niệm của dân chúng thời bấy giờ. Nơi Đức Giêsu, Ngài không thể ngồi đó xem cách hành xử bất công của người Dothái và sự tủi nhục của người bệnh. Không! Ngài coi nó như bổn phận buộc mình phải thi hành. Điều này làm toát lên dung mạo xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Bài học cho chúng ta
Sống trong xã hội loài người, dù thời điểm nào, người ta cũng cần lắm một tấm lòng cảm thông đối với người bất hạnh. Mặt khác, nếu chúng ta là những người bị coi là bất hạnh, thì chính mình phải là người can đảm chạy đến với Chúa để được Ngài xót thương. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: Thứ nhất, hãy noi gương Đức Giêsu, luôn yêu thương và không loại trừ anh chị em chúng ta, nhất là những người bất hạnh, nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, buồn khổ, mặc cảm, tự ti…. Luôn biết hàn gắn những vết thương tâm hồn và tôn trọng nhân phẩm của người khác. Tránh xa sự chia rẽ và thái độ phân biệt đối xử để sống sự liên đới với mọi người. Thứ đến, cần tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Luôn sống tình bác ái yêu thương, nhất là hãy hành động vì đức ái. Có thế, chúng ta mới đụng chạm được cốt lõi của Tin Mừng và mới có cơ hội ngửi, cảm, thấu nỗi đau khổ của anh chị em xung quanh và ra tay nâng đỡ họ. Cần can đảm loại trừ những gì làm thui chột tình thương và không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Thứ đến, noi gương người phong cùi, hãy khiêm tốn và can đảm đứng dạy để tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài sẽ chữa lành những ai bệnh tật, xoa dịu những tâm hồn đau thương, băng bó những cõi lòng tan nát, an ủi những ai sầu khổ và cứu chuộc những ai có lòng tin. Lạy Chúa Giêsu, xin cho đôi mắt của chúng con được mở ra và nhìn thấy những người bất hạnh; cho trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương; cho khối óc biết nghĩ đến người đau khổ; cho đôi chân biết đi tới những nơi cần sự giúp đỡ; cho đôi tay biết mở ra để ban phát, và, cho đôi tai biết lắng nghe để cảm thông. Amen.
Bệnh phong cùi đã có từ bao đời nay. Bệnh này thường bị coi là căn bệnh nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm. Người Do Thái thời xưa rất sợ bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bất trị thường gặp lúc bấy giờ. Căn bệnh đáng sợ này có thể tấn công các đầu dây thần kinh của người bệnh, làm cho cơ thể bị thương tổn và biến dạng vĩnh viễn. Vào thời đó, người ta không biết cách chữa căn bệnh này. Người bệnh bị cách ly và bắt buộc phải cảnh báo người khác về căn bệnh của mình (x. Lv 13, 1-2. 44-46). Giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đặt thêm luật về bệnh phong cùi, khiến cho cuộc sống của người bệnh gặp khó khăn một cách không cần thiết. Chẳng hạn, luật lệ của giới ráp-bi cấm bất kỳ ai đến gần người phong cù, phải ở xa họ khoảng khoảng 2m. Nhưng nếu đang có gió, không ai được đến gần trong vòng khoảng 45m. Sách Lêvi đưa ra điều luật là người phong cùi phải sống "phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại"(x. Lv 13, 44-46). Tuy nhiên, một số chuyên gia luật Do Thái giải thích rằng điều luật này có nghĩa là những người phong cùi không được sống trong các thành có tường thành. Vì vậy, khi thấy một người phong cùi trong thành, một ráp-bi sẽ ném đá vào người đó và nói: “Hãy trở về chỗ ngươi ở, đừng làm ô uế người khác”. Về mặt tôn giáo, bệnh phong cùi làm cho người ta trở nên ô uế, tội lỗi. Người Việt Nam chúng ta cũng na ná tương tự như người Do Thái, ai bị bệnh thì phải xa nhà xa cả người thân, địa phương xa lánh người gần người xa, khiến người bệnh cay đắng cực lòng. Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi vẫn bị liệt vào loại bị cấm tiếp xúc, người bị bện phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Người đến để yêu thương và cứu giúp mọi người, nên Người đã chữa lành cho người mắc bệnh phong cùi như trong Tin Mừng Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay. Người ta coi người cùi là hạng người ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu đã dám đưa tay chạm tới người cùi này. Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Chúa về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật còn là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối vớ tội lỗi con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật của con người. Ngày nay bệnh cùi không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn nhiều loại "Người cùi" kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người dơ dáy, hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc, họ bị liệt ra bên ngoài xã hội, thiếu sự cảm thông và tình liên đới cộng đồng. Con người ta, sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình. Bệnh tật là điều phải có trong kiếp sống làm người. Ai cũng có bệnh, không nhẹ thì nặng, chẳng ai thoát khỏi căn bệnh ở đời. Vì thế, chúng ta phải liên đới, hiệp thông và trợ giúp lẫn nhau với tình yêu thương, đặc biệt với những ai mắc bệnh hiểm nghèo. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vì yêu mà vượt qua ranh giới giữa Thiên Chúa với con người, giữa người khỏe với kẻ bệnh tật để chữa lành họ. Xin trợ giúp chúng con làm được những điều Chúa muốn. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Huynh đoàn các đan viện tại Giêrusalem viết :” Và đây Chúa Giêsu “đầy lòng thương xót” : bị người phong cùi làm cho chạnh lòng, đến lượt Người lại chạnh lòng chữa lành ông. Người không chỉ đem lại cho ông sức khỏe thể xác mà còn cả phẩm giá về xã hội và tôn giáo nữa.Người đã thực sự chữa ông khỏi sự trói buộc của luật Do Thái.Còn chúng ta, chúng ta có nhìn thấy bệnh cùi nội tại và tâm linh của chúng ta, nó đã làm đen tối linh hồn chúng ta, nó giam giữ chúng ta trong tính ích kỷ và kiêu ngạo, nó làm chúng ta xa lánh kẻ khác và mất sự thân tình với Thiên Chúa ? “ Trên thế giới ngày nay, bệnh phong cùi không còn là bệnh nan y nữa nhưng mặc cảm đối với căn bệnh này vẫn không phải là đã chấm dứt. Người ta vẫn sợ bệnh này và vẫn còn cái nhìn kinh sợ, thiếu thiện cảm với những con người xấu số này. Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi bị liệt vào loại bị cấm kỵ tiếp xúc, người bị bệnh phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Thật là một căn bệnh nguy hiểm đối với xã hội lúc đó. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Ngài luôn yêu thương mọi người và cứu vớt mọi người, Ngài đã chữa lành cho người bị bệnh phong cùi như đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay. Theo quan niệm của người Do Thái , bệnh hoạn là do tội lỗi gây ra, bệnh càng nặng tỏ dấu là người ấy có tội nặng nề. Chính vì thế, đối với bệnh cùi hủi, người Do Thái cho rằng đây là căn bệnh bất trị, người mắc bệnh này là người bị Chúa phạt, Chúa nguyền rủa bởi vì họ quá tội lỗi.Người Do Thái quan niệm như thế, nên họ xa lánh người bị bệnh phong cùi, đẩy những người phong cùi ra khỏi xã hội và ghép họ vào những thành phần bất hảo, còn sống nhưng coi như đã chết rồi.Bệnh phong trên thế giới ngày nay dù rằng không còn phải là bệnh nan y nữa nếu được phát hiện và được điều trị sớm sủa. Tuy nhiên, không phải mọi người đều chấp nhận dễ dàng và có thiện cảm với những người bị mắc bệnh cùi hủi. Người Do Thái sợ bệnh phong làm cho họ lây nhiễm. Người ngày nay cũng không khác gì bởi vì tâm lý con người lúc nào cũng sợ căn bệnh quái ác này và né tránh.Tâm lý thông thường của con người là sợ bị lây nhiễm. Thời Chúa Giêsu không hiểu có bao nhiêu người phong bị đẩy ra khỏi xã hội Do Thái, nhưng có lẽ khá đông. Chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng nhiều trường hợp những người phong đến xin Chúa Giêsu chữa lành và Chúa đã chữa lành cho họ. Sách Lêvi đã có một chương rất chi tiết đối với những người mắc bệnh phong cùi. Bệnh phong quả thực đã có từ bao đời nay. Bao giờ bệnh phong cũng bị coi là bệnh thật nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm.Đối với Chúa Giêsu, Ngài yêu thương mọi người và vì Ngài là Thiên Chúa, có uy quyền tuyệt đối trên sự sống, sự chết và bệnh hoạn tật nguyền. Do đó, Ngài chữa đủ mọi chứng bệnh hoạn mà không cần đến bất cứ một thứ thuốc nào cả. Tin Mừng của thánh Marcô đoạn 1, 40-45 cho chúng ta thấy việc làm nhân từ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thấy người phong hủi van xin :” Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ ( Mc 1, 40 ). Thấy lòng tin của người phong, Chúa lập tức giơ tay đụng vào người bị phong hủi và da người này được sạch. Không những Chúa chữa lành cho người phong hủi này, nhưng Ngài còn làm nhiều hơn nữa, còn đi xa hơn nữa hơn là chỉ chữa lành : bệnh nhân được gia nhập lại vào xã hội, một xã hội đã coi người này như bị ô uế, như đã chết, và ngay từ lúc được Chúa chữa lành, người phong sẽ được gia nhập xã hội như mọi người khác và không bị mọi người xa tránh nữa. Và vì thế, luật của Thiên Chúa và luật xã hội sẽ công nhận phẩm giá của người phong cùi được chữa lành. Như thế, chúng ta hiểu được tấm lòng cao cả và bao la của Thiên Chúa yêu thương con người biết là chừng nào. Mặc dầu vẫn còn nhiều e dè và còn nhiều người có thái độ ghê sợ, né tránh những người bị bệnh phong cùi. Nhưng ngày nay, chúng ta phải nhìn nhận quan niệm quá khắt khe và sợ sệt đối với những người mắc bệnh phong cùi đã chuyển biến rất rõ rệt. Nhiều người và nhiều tổ chứa xã hội từ thiện đã và đang xả thân giúp đỡ những bệnh nhân bị cùi hủi. Nhiều trại phong trên thế giới đã được các nhà nước, các cơ quan từ thiện thiết lập để chăm sóc, giúp đõ những người bệnh xấu số này. Thuốc thang, vật chất đã được nhiều nước đổ ra để săn sóc và an ủi những người đáng thương này. Người ta làm một bản thống kê tương đối chính xác cho hay trên thế giới đã có khoảng 15 đến 20 triệu người bệnh phong cùi. Với số bệnh nhân này, quả thực họ là những người thật đáng quan tâm. Bệnh tật là điều bình thường của kiếp sống con người. Không phải có tội là bị bệnh, có người bị bệnh nhưng không có tội. Bệnh là do định luật tự nhiên của mỗi người. Ai cũng có bệnh, không bệnh lớn thì bệnh nhỏ. Chẳng ai thoát khỏi bệnh hoạn ở đời. Do đó, chúng ta phải cảm thông, giúp đỡ và chia sẻ với những người bị bệnh. Đặc biệt đối với những người có căn bệnh hiểm nghèo. Bởi vì, chúng ta phải có tâm tình như thánh Phaolô “ Vui với người vui. Khóc với người khóc “ và phải sống như Chúa Giêsu :” yêu thương như Thầy yêu thương “ ( Ga 15, 12 ). GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Bệnh phong cùi đối với người Do Thái là gì ? 2.Người bị bệnh phong cùi là người làm sao ? 3.Chúa chữa người bị phong cùi ám chỉ Chúa chữa gì ? 5.Hiện giờ bệnh phong có chữa trị được không ?
TN6-B129: Tôn vinh quyền năng chữa lành của Chúa Giê-su
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng(Mác-cô 1:40-45)
Thường chúng ta vẫn không sao làm quen được với những khuôn mặt và tay chân bệnh nhân phong cùi bị biến dạng vì căn bệnh hiểm nghèo. Ngày nay nhờ khoa học và hiểu biết, bệnh cùi không còn ghê sợ như ngày xưa nữa. Nhưng thử đặt mình vào văn hóa thời Chúa Giê-su tại Do-thái, chúng ta sẽ thấy phong cách đối xử của Chúa Giê-su thực là phi thường, phi thường vì đó là kết quả của thái độ “chạnh lòng thương”. Còn người được lành bệnh thì có những phản ứng có vẻ bất lợi cho tác vụ của Chúa Giê-su, nhưng chắc chắn anh ta có những lý do riêng để làm như thế. Chúng ta hãy đi vào những tâm tình của Chúa Giê-su và của người mắc phong cùi. Trước hết, đến gần được Chúa Giê-su, người mắc phong cùi đã phải vượt thắng nhiều trở ngại. Anh sẽ phải sẵn sàng chấp nhận những xua đuổi của dân chúng nếu họ phát hiện ra anh. Nhưng có lẽ trở ngại lớn hơn cả là lòng tự trọng của anh. Với thân tàn ma dại, liệu anh có đủ can đảm để xuất hiện trước mặt người khác không? Vậy mà anh đã đến với Chúa và biểu lộ một cử chỉ rất cảm động: quỳ xuống van xin Chúa. Quả thực đây là một cử chỉ của lòng tin. Tuy nhiên anh vẫn cho như thế là chưa đủ, mà cần phải tuyên xưng lòng tin ấy nữa. Cho nên anh đã thưa với Chúa: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Đối với anh, Chúa Giê-su có đầy đủ quyền năng chữa lành cho anh. Vấn đề duy nhất là Người có muốn chữa lành hay không mà thôi. Đúng vậy, khi nói những lời trên, anh đã hoàn toàn phó thác đời mình trong tay Chúa và trong tình thương xót của Người. Trong khi người mắc bệnh phong làm tất cả những gì có thể để biểu lộ lòng tin của mình, thì Chúa Giê-su cũng làm tất cả những gì để biểu lộ lòng thương của Người. Cử chỉ ý nghĩa nhất để biểu lộ là Người “giơ tay đụng vào anh”. Người giơ tay đưa anh trở về với xã hội đã xua đuổi anh. Người giơ tay trả lại cho anh tình yêu thương anh đã bị tước đoạt. Nhưng đáng quý nhất, Người giơ tay đụng vào anh để anh cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương anh như thế nào. Rồi Người nói với anh: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Hoặc đúng hơn, Chúa muốn nói: Tôi yêu thương anh, Tôi cho anh được khỏi bệnh. Không những Chúa Giê-su chữa lành anh, Người còn lo lắng cho tương lai của anh nữa, nên căn dặn anh hãy làm tất cả những gì luật dạy, nhất là “đừng nói với ai cả”, để anh hoàn toàn phục hồi được những gì đã mất bấy lâu. Vậy mà anh đã không làm như Chúa dạy. Tại sao? Vì anh thấy tương lai của anh chẳng là gì so với việc tôn vinh Đấng đã chữa cho anh được lành. Do đó, thay vì đến gặp tư tế để họ làm chứng anh đã được khỏi, thì anh lại bắt đầu đi “làm chứng” cho Chúa Giê-su, bắt đầu “rao truyền” về Người! Việc làm này có vẻ như làm tổn hại cho việc “vào thành” của Chúa, nhưng ngược lại, thay vì Chúa phải vào thành để gặp người ta, thì “dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người”. Phải chăng một phần vì anh đã rao truyền và loan tin về Chúa, nên người ta từ khắp nơi đã đến với Chúa? Sống sứ điệp Tin Mừng Câu chuyện Tin Mừng hôm nay là một câu chuyện rất cảm động. Lòng can đảm của người mắc bệnh phong cùi giúp anh đến với Chúa và hết lòng tuyên xưng đức tin vào Người. Chúng ta cảm phục cách thức anh biểu lộ lòng tin vào Chúa bằng cử chỉ và lời nói. “Nếu Ngài muốn” là những lời dạy chúng ta nhiều bài học, nhất là khi chúng ta cầu xin Chúa điều gì. Nhìn vào bản thân mình khi cầu nguyện, chúng ta hãy thưa với Chúa: Nếu Chúa muốn…, xin Chúa giúp con giải tỏa mối hận thù này; xin Chúa chữa lành vết thương lòng do người thân yêu làm con đau đớn; xin Chúa đem đứa con đang mất đức tin của gia đình con trở về với Chúa… Chúng ta xin gì cũng được, nhưng đừng quên mở đầu bằng “Nếu Chúa muốn”! Chúng ta cũng không quên theo gương người mắc bệnh phong được chữa lành là hãy biết tôn vinh và cảm tạ Chúa. Chúng ta nhận được ơn lành Chúa ban thì phải biết rao truyền cho mọi người rõ lòng thương của Chúa. Bao nhiêu người vẫn chưa biết là Chúa “chạnh lòng thương”! Cho nên chúng ta hãy chia sẻ điều này với người khác. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi