Khi ấy, Gio-an đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giê-su đang đi mà nói: “Ðây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giê-su. Chúa Giê-su ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ: “Các ngươi tìm gì?” Họ thưa với Người: “Ráp-bi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người đáp: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười. An-rê, em ông Si-mon Phê-rô, (là) một trong hai người đã nghe Gio-an nói và đã đi theo Chúa Giê-su. Ông gặp Si-mon anh mình trước hết và nói với anh: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Mê-si-a, nghĩa là Ðấng Ki-tô”. Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giê-su. Chúa Giê-su nhìn Si-mon và nói: “Ngươi là Si-mon, con ông Gio-an, ngươi sẽ được gọi là Kê-pha, nghĩa là Ðá”. - Ðó là lời Chúa.
Bài đọc I kể lại câu chuyện Đức Chúa gọi Sa-mu-en và Sa-mu-en đã đáp lời: “Xin Ngài phán, vì TN2-B101
Bài đọc I kể lại câu chuyện Đức Chúa gọi Sa-mu-en và Sa-mu-en đã đáp lời: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Chính lời đáp trả này mà Đức Chúa đã ở với Sa-mu-en và “Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.”
Bài đọc II thánh Phao-lô tự vấn tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao ?” Và ngài khẳng định, “ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.”
Còn bài Tin mừng hôm nay, thuật lại biến cố Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của ông Gioan đến sống thâm tình với Người, qua đó các môn đệ của ông Gioan đã xác tín vào lời giới thiệu của thầy mình về Đấng Kitô, “đây là Chiên Thiên Chúa” vì thế họ đã tuyên nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a nghĩa là Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Như vậy tất cả những ai sống thâm tình với Thiên Chúa đều được Chúa đoái thương cư ngụ trong tâm hồn và Thiên Chúa trở nên thân thiện và hằng quan tâm chăm sóc họ trong suốt cuộc đời.
Cũng vậy nhờ được đến sống thâm tình với Đức Giêsu tại nơi ở của Người mà các môn đệ đã trải nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đối với họ qua con của Người là Đức Giêsu Kitô, đó là điều có lẽ suốt cuộc đời, họ luôn khắc ghi trong tâm hồn và thiết nghĩ đó cũng là niềm xác tín rất riêng tư nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi tín hữu về một Đức Kitô đã được trao ban cho con người và vì con người. Đó là Mầu nhiệm hiện diện của Con Thiên Chúa nơi thế gian, đặc biệt nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi con người.
Để có được trải nghiệm này không phải là chuyện dễ, thật thế làm sao chúng ta cảm nhận được một Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn và Người rất thân thiện và hằng quan tâm ủi an chúng ta ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa là ánh sáng cho trần gian ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên là đường dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa đã được sinh ra trong tâm hồn chúng ta cho chúng ta và vì chúng ta ? …
Điều quan trọng là lòng tin kiên vững mà Đức tin đã tặng ban cho chúng ta, chứ không phải là cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa. Bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa, không hệ tại vào những tài năng của linh hồn, nhưng là từ tận nơi sâu thẳm của linh hồn. Chính vì thế, điều đó lý giải tại sao mà chúng ta không lãnh hội được. Thật thế Thiên Chúa luôn thân thiện, nhưng chúng ta không có một chút cảm nhận nào. Thiên Chúa rất thân thiện với chúng ta, nhưng chúng ta lại xa Người. Thiên Chúa ở trong còn chúng ta thì ở ngoài. Thiên Chúa luôn ở trong ngôi nhà tâm hồn chúng ta, thế mà chúng ta lại là kẻ xa lạ với chính ngôi nhà của chúng ta. Như lời sách Công vụ tông đồ đã nói: "Trong Người, chúng ta sống, cử động và hiện hữu" (Cv 17:28), Ngài bao bọc chúng ta mọi nơi mọi lúc. Cũng như thánh Âu-tinh, chúng ta tin tưởng cầu nguyện với Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin che chở con, và con đã được Người che chở". Khi ấy, chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần mách bảo trong sâu thẳm tâm hồn, vì này Triều Đại Thiên Chúa "đang ở giữa các ngươi" (Lc 17:21).
Khi Đức Giêsu Kitô sinh ra vào trong thế gian như một phàm nhân, thì Người cũng được sinh ra trong tâm hồn chúng ta. Và như vậy, Người là ánh sáng soi chiếu thế gian, là ngọn đèn nội tâm dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha. Chúng ta hãy lắng nghe lời Người với một tấm lòng đơn sơ thành thật đừng ngờ vực. Nếu chúng ta chỉ lắng nghe mà không hành động theo, khi ấy chúng ta sẽ mất tất cả. Như vậy chúng ta không được biến đổi và không thể nhận biết được Thiên Chúa trong sâu thẳm tâm hồn, nơi mà chúng ta được mời gọi nhận biết Thiên Chúa trong đó.
Đức Kitô đã sinh ra trong chúng ta và chúng ta cần nuôi dưỡng mối liên hệ thân thuộc với Người. Sự sinh ra của Đức Kitô cho phép chúng ta thông phần vào bản tính Thiên Chúa; như vậy, nhân loại được liên kết với Thiên Chúa sau khi xa lìa Thiên Chúa một thời gian rất lâu vì tội nguyên tổ. Sự sinh ra của Đức Kitô là qùa tặng cao qúi của Thiên Chúa nhờ sự sáng tạo của Người; xuất phát từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa vì chúng ta. Vì thế chúng ta được kêu mời đáp trả lại tình yêu ấy theo cùng cách thức, với lòng mến chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả thân xác lẫn ý muốn cho Thiên Chúa, vì Người đã yêu chúng ta trước. Chúng ta có thể yêu Chúa qua lời cầu nguyện và qua sự phục vụ tha nhân.
Tất cả những điều nêu trên có thể lý giải cho chúng ta những vấn đề: tại sao chúng ta phải cầu nguyện, tại sao chúng ta phải ăn chay, tại sao chúng ta phải làm tất cả những việc lành, tại sao chúng ta phải rửa tội, tại sao Thiên Chúa phải trở nên phàm nhân, tại sao chúng ta phải sống thân tình với Thiên Chúa, tại sao tất cả những điều đó là cao cả nhất ? Thưa ! vì Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng ta, Người rất thân thiện và hằng chăm sóc ủi an chúng ta.
Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn ra và đến với Thiên Chúa trong sự cô liêu hoàn toàn, nhờ đó mà chúng ta tỉnh thức với những gì mà Đức Kitô mang tặng chúng ta: một thế giới mới, một thế giới nội tâm mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta và vì chúng ta. Đó là Mầu nhiệm hiện diện. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ân sủng để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Nếu chúng ta chưa nhận ra thì hãy có sự ao ước để được nhận ra, nếu chúng ta chưa thể có sự ao ước để nhận ra thì hãy ao ước có sự ao ước đó. Vì chính Đức Giêsu đã nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23).
Lạy Chúa xin ban ân sủng cho chúng con để chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Amen.
William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy TN2-B102
William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi”. Thính giác là một trong ngũ quan, nhưng là giác quan quan trọng nhất. Lắng nghe là một nghệ thuật, vì còn phải biết cách nghe.
Có thể nói rằng phải thực sự khiêm nhường mới có thể lắng nghe. Nói là gieo, nghe là gặt. Nghe có lợi hơn nói: Nói ít thì sai ít, nói nhiều thì sai nhiều, không nói thì không sai. Người ta ví von:“Người nói hay không bằng người nghe giỏi”.
Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential có một slogan thật thú vị: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Dĩ nhiên lời đó không thể tuyệt đối vì nặng tính “quảng cáo”, có chút gì đó là “nổ” mà thôi, nhưng qua đó, chúng ta biết được rằng việc “lắng nghe” có tầm quan trọng riêng. Lắng nghe là nghe thấy và chú ý, chứ không nghe cho “có lệ”, nghe vì “không điếc”. Nghe và hiểu có hệ lụy với nhau.
Tuy nhiên, hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” lại có một khoảng cách nhất định, đồng thời còn có những mức độ khác nhau, thậm chí có thể chúng ta vẫn nghe nhưng không hiểu (x. Lc 8:10), và Chúa Giêsu đã phải nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe” [ai có tai nghe thì (hãy) nghe] (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9).
Trình thuật 1 Sm 3:3-10 cho chúng ta biết về câu chuyện “nổi tiếng” về việc “lắng nghe” và “mau mắn đáp lại” của ngôn sứ “nhí” Samuen. Chuyện kể về một đêm nọ, ông Êli đang ngủ, mà mắt ông thì mờ, ông không còn thấy rõ nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuen đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Bất ngờ, Đức Chúa gọi Samuen. Cậu thưa: “Dạ, con đây!”. Rồi chạy lại với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo rằng ông không gọi cậu, cứ về ngủ đi”. Cậu đi ngủ, rồi lại có tiếng gọi lần nữa. Samuen lại dậy ngay và đến với ông Êli, nhưgn ông vẫn bảo là không gọi cậu.
Trẻ người, non dạ, nên Samuen chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Rồi cậu lại nằm ngủ, Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu nên ông bảo Samuen đi ngủ, hễ có ai gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”. Samuen về ngủ, và Đức Chúa lại đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Cậu liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10).
Đó là câu nói được trích dẫn nhiều mỗi khi nói đến việc thi hành Thánh Ý Chúa. Thi hành mau mắn và vui vẻ chứ không miễn cưỡng như “bị triệt buộc”. Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do hoàn toàn, Ngài không ép buộc ai làm bất cứ điều gì, vì thế Ngài rất đề cao sự tự nguyện, hành động vì yêu mến. Samuen đã lắng nghe, thấu hiểu, và mau mắn làm theo Ý Chúa, thế nên Samuen được Thiên Chúa bảo vệ: “Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Samuen vô cùng diễm phúc!
Diễm phúc không là tình trạng “tự nhiên” mà là động thái “có điều kiện” với lòng tự nguyện: Tổ phụ Ápraham đã “xin vâng” hoàn toàn khi rời quê hương đến Đất Hứa, ông không hề ngần ngại sát tế chính con trai mình, và Đức Maria cũng diễm phúc vì lời “xin vâng” vô điều kiện. Lắng nghe – thấu hiểu – hành động, đó là “chuỗi liên kết” như một tam-giác-đều bất biến vậy, trong đó đã tiềm ẩn và mặc nhiên có nhân đức khiêm nhường – nền tảng của mọi nhân đức.
Có điều “trái khoáy” là chúng ta luôn muốn người khác lắng nghe mình nhưng mình lại không muốn lắng nghe người khác. Sao vậy nhỉ? Đó là vì ích kỷ, vì “cái tôi” lớn quá, luôn tưởng mình là “số dzách” hơn người khác về mọi lĩnh vực. Thậm chí cả với Thiên Chúa mà chúng ta cũng dám làm vậy. Thực sự chúng ta to gan, lớn mật tới mức dám làm vậy ư? Thật, không oan đâu! Chúng ta luôn xin Ngài lắng nghe mình (Tv 30:11; Tv 51:3; Tv 55:2; Tv 77:2; Tv 86:6; Tv 88:3; Tv 141:1; Tv 143:1), nhưng hiếm khi chúng ta “nhận lỗi” (Tv 51:5) hoặc “lắng nghe điều Thiên Chúa phán” (Tv 85:9), nhất là khi ý Chúa khác hẳn ý mình.
Chắc hẳn ai cũng đủ kinh nghiệm để khả dĩ biết rằng “đời là bể khổ”, thế nên lúc nào chúng ta cũng phải cầu xin Thiên Chúa thương xót: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Và rồi chúng ta phấn khởi lắm: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:4). Thế nhưng chúng ta lại thường “ngủ quên trong chiến thắng”, chẳng khác chi chín người vô ơn bạc nghĩa trong chuyện “mười người phong hủi” (Lc 17:11-21).
Tác giả Thánh Vịnh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm, lễ vật, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Ngài không đòi chi, không cần gì, vì Ngài có tất cả. Ngài chỉ muốn một điều là chúng ta PHẢI biết mau mắn thân thưa: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Chúng ta càng thu nhỏ mình thì càng được Ngài xót thương. Và đừng quên điều này: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Chẳng có gì vĩnh cửu vì mọi sự đều có lúc, có thời mà thôi (x. Gv 3:1-8). Ngay cả sự sống và sự tự do của chúng ta cũng vậy thôi, tới một lúc nào đó sẽ không còn. Thánh Phaolô nói: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưngtôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Thật không dễ để có thể nhận thức và tự chủ được như vậy, chứng tỏ phải có sự giằng co rất mãnh liệt. Thánh nhân giải thích cụ thể:“Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!” (1 Cr 6:13-15).
Chưa cần nói vấn đề tinh thần, các vật chúng ta đang sở hữu cũng không là của chúng ta mãi mãi. Chẳng hạn tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,… Những thứ chúng ta gọi là “của mình”, tức là mình sở hữu nó. Đúng vậy, chúng ta sở hữu chúng vì chúng ta có quyền quản lý chúng, nhưng nó mãi mãi là của chúng ta, vì một lúc nào đó chúng ta không được sở hữu chúng nữa. Phũng phàng ư, thất vọng ư, buồn ư? Đời là thế nên nó thế đấy! Sự sống chúng ta đang có mà rồi cũng chẳng giữ được thì làm sao giữ những thứ khác?
Vì thế, Thánh Phaolô khuyên: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thầnsao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6:17-20). Thân xác đủ thứ nhơ nhớp, nói ra mà thấy ngượng miệng, nhưng chính cái nhơ nhớp hèn hạ đó lại được Thiên Chúa dùng làm Đền Thờ để Ngài ngự vào – thiêng liêng và cụ thể (Thánh Thể). Chúng ta là “đền thờ” thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe và thực thi Thánh Ý Ngài. Bức tượng không thể phản đối nhà điêu khắc!
Ước gì mỗi chúng ta đều biết xác định rạch ròi: “Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể” (Tv 119:14). Tâm niệm được như vậy thì chẳng có gì lo ngại. Tất cả đều NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài!
Hôm trước, khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30). Và ông đã làm chứng với mọi người: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1:32).
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông và thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Nghe vậy, hai môn đệ kia liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp:“Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Chắc hẳn nơi ở của Chúa Giêsu giản dị lắm, khó nghèo lắm, nhưng họ vẫn theo Ngài. Cái “thấy” của họ là sự vĩ đại của Ngài, họ sẵn sàng “lắng nghe” và “thực hiện” như Ngài.
Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói:“Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói:“Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1:42). Thánh sử Gioan giải thích rằng chữ Kêpha có nghĩa là Đá, đồng nghĩa với tên Phêrô (Pièrre = Đá).
Dù chỉ là ngư dân, chuyên chài lưới, nhưng hẳn là lão ngư Phêrô “có tướng có tá” lắm, chắc hẳn “tướng mạo” như ông phải có gì đó đặc biệt, vì Thầy Giêsu đã “thấu suốt” cả tâm địa của ông bộc trực: Nóng nảy nhưng tốt bụng. Và Ngài OK liền, “chấm” ngay. Thật vậy, dù tội chối Thầy lớn lắm, không chối một lần mà chối tới ba lần, nhưng không sao, “chuyện nhỏ” thôi, vì Chúa Giêsu vẫn luôn giàu lòng thương xót và cho ông “bù lỗ” bằng ba lần tuyên xưng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết rõ con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-18). Từ đó, lão ngư Phêrô trở thành Giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội lữ hành tại trần gian.
Hôm nay là ngày bắt đầu tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Mỗi người là một cá nhân, với tính cách khác nhau, nhưng mỗi người không là một ốc đảo, mà luôn phải hài hòa trong một tổng thể, mang tính liên đới đa dạng, kể cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Sự hiệp nhất rất quan trọng, cần thiết đối với mọi tổ chức hoặc nhóm. Ngay trong gia đình cũng vậy, thiếu sự đồng tâm nhất trí thì “ông nói gà, bà nói vịt”, gia đình khó có thể là một tổ ấm đích thực. Các cộng đoàn tu cũng vậy, mỗi người mỗi phách thì không thể là một cộng đoàn. Mỗi thành viên có biết lắng nghe thì mới khả dĩ hiệp nhất.
Đặc biệt năm nay là năm Tân Phúc Âm Hóa các giáo xứ và các cộng đoàn. Hai loại hình này là dạng “đời sống chung”, cần biết lắng nghe nhau để hiểu nhau và cùng nhau thực hiện điều mong muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu trong Vườn Dầu: “Xin cho họ nên một”. Tính “nên một” được Chúa Giêsu đề cập ba lần (x. Ga 17:1-24), chứng tỏ đó là tính chất đặc biệt lắm, vì đó là tính hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa, xin dạy chúng con biết những quyết định của Ngài (Tv 119:108), xin giúp chúng con biết mau mắn lắng nghe lời Ngài dạy chúng con mọi nơi và mọi lúc, xin cũng giúp chúng con biết mau mắn đáp lại và sẵn sàng thực thi Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Chúa Giêsu khi kêu gọi các môn đệ và thiết lập Nhóm Mười hai, Ngài luôn có cái nhìn của Ngài. Tin TN2-B103 Dalat
Chúa Giêsu khi kêu gọi các môn đệ và thiết lập Nhóm Mười hai, Ngài luôn có cái nhìn của Ngài. Tin Mừng cho hay Chúa Giêsu đã cầu nguyện lâu giờ, Ngài đã trò chuyện thân mật với Thiên Chúa Cha và rồi Ngài tuyển chọn các môn đệ đầu tiên. Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa, gặp gỡ Chúa. Tuy nhiên, Gioan đã không ích kỷ, không giữ riêng cho mình, Ngài đã chỉ cho các môn đệ của mình và nhiều người khác biết Đức Giêsu Kitô. Gioan Tẩy Giả khi giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho Anrê, chính ông này lại giới thiệu cho Simon là anh của mình và họ đều đi theo Chúa Giêsu. Xem ra mọi cuộc gặp gỡ của những người được Chúa chọn cũng xẩy ra như vậy. Trở về thời Cựu Ước, chúng ta cũng nhận ra Thiên Chúa gọi ai là hoàn toàn do ý của Ngài.Thiên Chúa gọi Abraham, Môsê, Isaia, Samuel là do lòng thương xót của Ngài.Vâng, mỗi cuộc gặp gỡ trong cuộc sống là dấu chỉ của Tin Mừng, mỗi cuộc gặp gỡ hằng ngày là lời mời gặp chính Đức Giêsu. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu gặp gỡ Chúa trong những công việc nhỏ của cuộc sống, Ngài thấy Chúa nơi chị em, nơi sự khó chịu mà chị em gây ra cho mình. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô gặp Chúa nơi các bạn trẻ và ngược lại các bạn trẻ nhận ra Chúa nơi Ngài. Mẹ Têrêsa Calcutta nhận ra Chúa nơi những người nghèo, nơi những người hấp hối, nơi những cô gái lỡ lầm vv…
Các môn đệ là những người đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu.Do đó, khi được giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã đến xem nơi Đức Giêsu ở, họ đã cảm nghiệm Đấng là Con Chiên Thiên Chúa là thế nào! Các môn đệ đã chứng kiến cách sống, sự hãm mình, gương sáng, những lời nói vàng ngọc chân thực của Chúa và thấy những phép lạ Chúa làm cho tha nhân. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa Lòng Thương Xót của Chúa đối với mọi lớp dân nghèo. Chúa đã tiếp xức với mọi thành phần xã hội, Ngài cho các môn đệ hiểu thấu tình thương của Ngài, qua đó, Ngài dạy các môn đệ về Tình thương, Lòng Thương Xót của Ngài đối với con người. Các môn đệ đã đi vào mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, Thầy của mình. Càng sống các môn đệ càng nhận ra sự nhân từ, lòng quảng đại của Thầy Giêsu :” Đến để chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ).Mối tương giao thân tình, mật thiết giữa Chúa Giêsu và các môn đệ càng làm cho các Ngài nhận ra Con người của Chúa Giêsu:” Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống “. Chính tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến, nhưng không đã nối kết Chúa Giêsu với các môn đệ.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã viết :” Khi đôi mắt của Chúa đã nhìn ai, người đó không thể nào cưỡng lại được “.Câu nói thật cao sâu, thâm thúy. Bởi vì, khi Chúa đã chiếm đoạt ai người ấy không thể rời Ngài được. Thánh nữ đã gặp Chúa ở mọi người, ở mọi công việc dù nhỏ bé nhất vì Thánh nhân đã sống sâu thẳm mối tình cao sâu với Chúa. Còn thánh Augustinô một Vị thánh đã cảm nghiệm thế nào về tình Chúa thương ngài, nên ngài đã thốt lên :” Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và lòng con khắc khoải cho tới khi tâm hồn con được an nghỉ trong Chúa”. Thánh Augustinô quả thật đã sống cảm nghiệm tình thương cao vời của Chúa và luôn muốn sống trong tình yêu của Ngài.
Mỗi Kitô đều được mời gọi sống với Chúa, ở lại với Ngài. Sống và ở lại với Chúa có nghĩa là được sống thân tình, sống trong sự kết hợp thâm sâu với Ngài. Sống mật thiết với Chúa, người Kitô hữu và chúng ta được chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Tuy nhiên, muốn được sống trong sự thân mật, chí tình với Chúa, chúng ta và mọi người phải lắng nghe lời của Chúa và thực hành những điều Ngài truyền cho chúng ta.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta chia sẻ đức tin của chúng ta cho những người khác.Tại sao chúng ta được Chúa cho chúng ta ơn nhận biết Ngài, tin và đi theo, ở lại với Ngài. Chúng ta đã tin vào Ngài, tại sao chung ta không mau mắn chia sẻ đức tin chúng ta đang thụ đắc cho những người khác để họ cũng nhận ra Chúa Giêsu , tin và đi theo Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy chúng con và hãy cho chúng con biết ở trên trái đất này, trên thế giới này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là nụ cười, là tiếng nói của Chúa, là con tim quảng đại của Chúa.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu ai cho Chúa Giêsu ? 2.Chiên Thiên Chúa nghĩa là gì ? 3.Người Do Thái quan niệm thế nào về Chiên Thiên Chúa ? 4.Có lúc nào Ông,Bà, Anh chị em giới thiệu Đức Kitô cho người khác ? Bằng cách nào ? 5.Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm thế nào về Chúa ?
Tin Mừng Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng cho chúng ta biết, Ba Nhà Đạo Sĩ đã nhìn thấy “ngôi sao TN2-B104
Tin Mừng Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng cho chúng ta biết, Ba Nhà Đạo Sĩ đã nhìn thấy “ngôi sao của Người” (Mt 2, 2), ngôi sao vừa “ló dạng” (c. 2,9), Ngôi sao Giêsu. Mùa Thường Niên mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Ánh sao, hay của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh mình rằng : "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1, 35). Chúng ta cùng nhau suy niệm phương cách Gioan giúp các môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, từ đó rút ra bài học về ơn gọi truyền giáo của mình.
Hai môn đệ Gioan đến hỏi Chúa Giêsu : "Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn đợi ai khác?" Đấng phải đến, theo niềm tin của người Dothái là chính Đấng Cứu Thế, Đấng họ hằng mong đợi theo ngôn sứ Malakia tiên báo: "Hãy dọn đường Chúa" (Ml 3,1).
Gioan được sai đến để làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Ông đã nhận ra Người bên giòng sông Giorđan, đã giới thiệu cho dân chúng rằng Người là : "Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian" (Ga 1,29).
Khi sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu, hẳn Gioan không phải là người không biết đến vai trò và sứ vụ của Chúa Giêsu, bởi vì khi ngài còn được tự do, chưa phải ngồi tù, chính Gioan nhận ra Chúa Giêsu ngay từ khi còn trong lòng mẹ, bằng chứng là Gioan đã nhảy mừng lên vì vui sướng khi được Đức Maria đến thăm mẹ mình là bà Elisabét. Gioan cũng thấy cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên trên vai Chúa Giêsu và có tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến :"Con là Con yêu dấu của Cha ; Con đẹp lòng Cha" (Mc 1,11); và cũng chính ông đã loan báo về Đấng đến sau mình : " Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần" (Mc 1,8). Vì uy quyền và chức vụ của Đấng ấy là Con Đấng Tối Cao, khiến ông không đáng cúi xuống cởi giây dày cho Người; sau cùng, Gioan tuyên bố : "Đây là chiên Thiên Chúa".
"Đây là chiên Thiên Chúa", lời này được cất lên từ miệng ông Gioan khi thấy Chúa Giêsu từ sông Giorđan bước lên : Chúa Giêsu đi ngang qua, lúc ấy chừng 4 giờ chiều. Gioan và ông Anrê, hai thanh niên con nhà chài lưới, nghe lời giới thiệu của thầy mình liền cất bước đi theo Chúa Giêsu, "Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy" (Ga 1,39). Người quay lại hỏi hai thanh niên, "Các ngươi tìm gì?" (Ga 1,38). Họ ngạc nhiên trước câu hỏi của Chúa, họ trả lời: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người bảo họ, "Hãy đến, và các ngươi sẽ thấy" (Ga 1,39). Cả hai cùng đến, và họ đã trở thành các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đúng là gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh. Chưa dừng lại ở đó, Anrê thấy mình biến đổi, và được đầy tràn hạnh phúc, ông đã chạy về tìm người anh kể cho anh biết, "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia" (Ga 1,41). Và ông đưa anh mình đến với Chúa Giêsu. "Chúa Chúa Giêsu nhìn Simon và nói : "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá" (Ga 1,42).
Phêrô! Simon, là Đá ư? Không ai trong số họ được chuẩn bị để hiểu những lời này. Họ không biết rằng Chúa Giêsu đã đến để xây dựng Giáo hội của Chúa bằng những viên đá sống động. Người đã chọn hai môn đệ đầu tiên là Gioan và Anrê, và đặt Simon là đá để xây Hội Thánh của Người.
Trong lịch sử cứu độ, thánh Gioan Baotixita được xem như là nhân vật lớn cuối cùng của thời Cựu Ước và là nhân vật đầu tiên của Tân Ước. Ông là nhịp cầu nối giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện, ông có sứ mệnh rất quan trọng là giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng.
Như Gioan trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải làm gì để thi hành ơn gọi truyền giáo của mình? Bằng lời rao giảng chăng? Chưa đủ, bằng đời sống đạo, đời sống bác ái chăng? Hơn thế nữa, trong thế giới hôm nay, chúng ta cần đưa mọi người đến với Chúa Giêsu, để họ nhận biết Chúa là Đấng quyền năng, giàu lòng thương xót, nhân từ, hết mực thứ và là Đấng Cứu Độ duy nhất. Người đến để mang tình yêu, sự sống và hạnh phúc cho con người. Từ đó nẩy sinh đức tin trong mọi người, biến họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta noi gương hai môn đệ của Gioan, những người đầu tiên đã theo Chúa và ở lại với Chúa, đi vào trong tương quan thân tình với Chúa để Chúa trực tiếp hướng dẫn, sau này làm chứng cho Chúa.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, chúng ta sẵn sàng lui vào hậu trường để Chúa Giêsu được lớn lên và can đảm giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác để họ tin theo và thi hành ơn gọi truyền giáo của mình. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Có một vị bề trên kia khi muốn cho môn sinh của mình tập sống đức nghèo khó, ngài không chỉ TN2-B105
Có một vị bề trên kia khi muốn cho môn sinh của mình tập sống đức nghèo khó, ngài không chỉ giảng dạy, mà hơn thế nữa, một hôm, ngài dẫn các môn sinh đi thăm một cha xứ ở ngay tại trung tâm thành phố. Khi đến nơi, các học trò rất ngỡ ngàng vì một linh mục trẻ trung trạc gần 50 tuổi, sống trong một giáo xứ quá nhỏ hẹp. Cả nhà thờ lẫn nhà xứ gói gọn trong khoảng 100 mét vuông. Phòng của ngài ở gồm sách vở, đồ dùng cá nhân và chỗ nằm vỏn vẹn khoảng 12 mét vuông. Khi tiếp cha bề trên và các môn sinh đi cùng, vị linh mục ấy tỏ ra vui vẻ và thật hạnh phúc với cuộc sống hiện tại.
Khi trực tiếp mục sở nơi ở của vị linh mục này, các môn sinh rất khâm phục ngài với đời sống đơn sơ giản dị! Hơn nữa, các môn sinh ấy khám phá ra nét đẹp tuyệt vời của một con người có Chúa và niềm vui Tin Mừng.
Khi về nhà, ai nấy xôn xao chia sẻ với nhau và rất cảm kích thái độ từ bỏ trong an vui của vị linh mục này khi theo Chúa trên con đường dâng hiến.
1. Các ông đã đến xem và ở lại với Đức Giêsu
Cách đây hơn 2000 năm, cũng có một người đã dùng phương pháp này để giáo dục môn sinh của mình, người đó chính là Gioan Tẩy Giả mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến.
Tác giả Tin Mừng kể: vào thời điểm Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, Gioan cũng có một số đông đồ đệ đi theo mình. Uy tín của Gioan ngày càng được nhiều người biết đến. Riêng với các môn sinh thì rất nể phục và thượng tôn ông. Tuy nhiên, Gioan đã ý thức vai trò và sứ mạng của mình là dọn đường, là chuẩn bị lòng dân đón chờ Đấng Cứu Tinh. Vì thế, đã có lần ông nói: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa” (Ga 1,23).
Khi xác định vị trí và ơn gọi của mình là tiền hô, là người dọn đường, là người dẫn chương trình, nên khi thấy các môn sinh của mình có xu hướng tôn vinh, Gioan Tẩy Giả đã nhường lại sân khấu cho nhân vật chính là Đức Giêsu, Đấng là đường, là sự thật, là sự sống.
Chính vì lý do này mà Gioan đã không ngần ngại khi giới thiệu Đức Giêsu là: “Chiên Thiên Chúa” cho các môn đệ.
Khi nghe thấy thế, môn đệ của Gioan đã đi theo và lên tiếng hỏi Đức Giêsu: “Thầy ở đâu?”.
Cùng lộ trình tư tưởng với Gioan, nên Đức Giêsu cũng không ngần ngại nói với các ông: “Hãy đến mà xem”.
Thế là Đức Giêsu và các môn đệ của Gioan về nơi Ngài ở để các ông tận mắt mục kích nơi sinh sống và được nghe thêm những lời Đức Giêsu nói, thấy tận mắt những việc Đức Giêsu làm và nhất là hiểu sâu xa tâm tư của Vị Tôn Sư đầy lòng nhân hậu. Quả thật, họ đã nghiệm được Đấng Cứu Thế với một trái tim luôn cảm và thấu từng nỗi đau, luôn rung động và chung nhịp đập với từng người bất hạnh và cùng đinh của xã hội, để nâng đỡ, ủi an.
Khi thấy được vị Thầy tuyệt vời như vậy, các ông đã khám phá ra Đức Giêsu chính là đối tượng đích thực của lòng trí mà bấy lâu nay họ đang tìm.
Mẫu mực cho một ơn gọi
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các môn đệ của Gioan là mẫu mực cho mọi ơn gọi của chúng ta ngày nay.
Khi nói về ơn gọi, chúng ta có hai ơn gọi căn bản, đó là: đi tu hoặc lập gia đình. Hai ơn gọi này, trước mặt Chúa đều có giá trị tuyệt đối. Hai ơn gọi này đều được mời gọi bước theo Đức Giêsu, để trở thành môn đệ và trở nên giống Ngài vì lời mời gọi hướng tới sự thánh thiện được dành cho hết mọi người.
Dựa trên bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hành trình của một ơn gọi được thực hiện dưới 4 bước sau:
- Chúa gọi
Để xác định một ơn gọi đúng nghĩa, đó là phải khởi đi từ chính Chúa. Có những người được gọi ngay từ khi còn nhỏ; lại có người được gọi lúc đã trưa hay về chiều hoặc đêm tối…. Có những người được gọi cách cụ thể, rõ rệt, mãnh liệt. Lại có người được gọi rất nhẹ nhàng, êm đềm. Có người được gọi qua một trung gian hay một biến cố….
Điều này chúng ta thấy nơi các bài đọc hôm nay: chẳng hạn như trường hợp Chúa gọi Samuen. Ơn gọi của Samuen được khởi đi từ ước muốn tạ ơn nơi bà mẹ. Bà muốn dâng đứa con thân yêu nhất của mình để tạ ơn Chúa. Ước muốn này được chắp cánh khi có thày cả Hêli làm trung gian. Còn nơi Anrê và Gioan, ngoài trung gian là Gioan Tẩy Giả, các ông còn đi tìm Chúa để thỏa mãn lòng khát khao chân lý, lẽ sống, hạnh phúc. Tất cả những điều đó, Chúa đã ghi nhận sự thiện chí và ý ngay lành nơi các ông, nên Ngài đã gọi các ông để các ông trở thành môn đệ.
- Ta đáp trả
Nếu người gọi mà không có người thưa thì không thể trở thành một ơn gọi được. Như thế, Chúa gọi, ta đáp trả mới hiện sinh một ơn gọi mới.
Khi ta nghe thấy tiếng Chúa gọi, ta đáp trả bằng trọn trái tim, lúc đó, Chúa sẽ dẫn ta đi trên một con đường mới.
Tuy nhiên, con đường mới ấy không hứa hẹn cho ta được an nhàn thư thái như bao người suy nghĩ, mà con đường ấy đòi hỏi ta phải hy sinh hơn và phải vượt qua nhiều khó khăn mới đạt được hạnh phúc viên mãn ở cuối con đường. Muốn được như thế, chúng ta phải nhạy bén như Samuen: “Lạy Chúa xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”, hay như hai môn đệ của Gioan đã quyết định bỏ lại sau lưng tất cả để đến và ở lại cũng như đi theo Đức Giêsu.
- Ở lại với Chúa
Ở lại với Chúa là một hành động mang tính quyết liệt. Nó xác định rõ nét cuộc đời của ta từ nay thuộc về Chúa để trở nên giống Chúa trong mọi hành vi và lời nói. Ở lại với Chúa cũng là mang trong mình trái tim và tâm tư của Ngài để xót thương anh chị em mình.
Như vậy, ở lại với Chúa không phải là mong được làm công việc của Chúa, cũng chẳng mong được học một số lý thuyết trừu tượng, cũng chẳng hề có ý định thỏa mãn một nhu cầu tự nhiên nào, mà điều cao trọng hơn, đó là sống thân mật với Chúa, để trong ta có Chúa và trong Chúa có ta.
- Sống đời chứng nhân
Khi đã đi vào mối tương quan riêng tư với Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ có một kinh nghiệm về Thiên Chúa nơi cuộc đời mình, khiến không ai và không có gì có thể tách ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.
Khi đã nghiệm thấu tình yêu của Thiên Chúa như vậy, chúng ta cũng không có gì khác hơn, đó là giống như Anrê, ông đã hối hả tìm gặp em mình là Phêrô và dẫn đến giới thiệu cho Đức Giêsu.
Nhìn lại ơn gọi của chính chúng ta
Trong cuộc đời của mỗi người, Chúa cũng đã gọi chúng ta nhiều lần.
Ngài gọi chúng ta qua Bí tích Rửa Tội cũng như các Bí tích khác; qua Lời Chúa; qua Giáo Lý; giáo Huấn của Giáo Hội; qua các đấng bậc; những bài giảng; hay qua người này, người kia; hoặc qua các biến cố, sự kiện….
Khi xác định như thế, ta thấy Chúa không ngừng kêu gọi chúng ta đi theo Ngài, cùng mang trong mình tâm tư của Ngài để được hạnh phúc và chia sẻ hạnh phúc ấy cho người khác.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đã biết bao lần Chúa mời gọi ta sống chân chính, ngay thẳng. Đã biết bao lần Chúa mời gọi ta làm chứng cho sự thật, xây dựng sự hiệp nhất, khước từ những điều xấu. Đã biết bao lần Chúa mời gọi ta yêu thương người nghèo, người đau khổ, người thấp cổ bé họng. Biết bao lần Chúa mời gọi ta cảm thông với người tội lỗi và yêu thương họ…. Nhưng cũng biết bao lần chúng ta đã không nhạy bén như Samuen hay như các Tông đồ, vì thế, Chúa vẫn cứ gọi mà chúng ta chẳng khác gì: “Nước đổ lá khoai” khiến cho thánh ý Chúa và ơn gọi không được nên trọn.
Mong sao mỗi người chúng ta hãy sống tâm tình như Samuen, Anrê, Gioan và Phêrô, đó là nhạy bén và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để được ở và sống với Chúa. Đồng thời sẵn sàng chia sẻ tình yêu và hạnh phúc khi có Chúa ở cùng cho chị em chung quanh. Amen.
Trong TM IV, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái khung gọi là “Tuần lễ TN2-B106
Trong TM IV, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái khung gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.
- hai ngày đầu : Gioan làm chứng (phủ định - khẳng định) ; - ngày thứ ba (“hôm sau”, Ga 1,35): lần này Gioan giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36); - đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này; - ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Nathanaen; - “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tại Cana miền Galilê.
Các mốc về thời gian này có một ý nghĩa mà chúng ta cần nắm vững, để hiểu được bản văn. Chúng ta sẽ phân tích các nghĩa này trong truyện Tiệc cưới Cana (2,1-12). 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39); 2) Anrê (1,40-42a); 3) Simôn (1,42b). 3.- Vài ghi chú về chú giải
- Ông Gioan đang đứng... (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tiền Hô (x. Mc 2,18t; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (c. 41); còn người thứ hai thì vô danh.
Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:
* Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.
* TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Nathanaen.
* Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tiền Hô, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Gioan bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.
* Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ; thật ra bản văn Mc là một bản tóm về thần học ơn gọi. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tiền Hô.
- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Gioan còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga 14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
- Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong ngôn ngữ Hy Lạp của Bản LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Kn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Hípri, “tìm” là darash; darash hattorah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.
- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? (38): Rabbi là danh xưng tôn kính để gọi các kinh sư.
- Thầy ở đâu? (38): Trên môi các môn đệ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).
- Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. Trong Ga 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.
Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức độ sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9). - Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: theo các TMNL, đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quý và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).
- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn của Cựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, “ngày” là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.
- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.
- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia” Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Nathanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.
- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ Aram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c. 38) và Mêsia (c. 41), kêpha là từ Aram; điều này khiến chúng ta lưu ý là có ba từ Aram trong cùng một đoạn văn. Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ngài cũng rất quen thuộc các thuật ngữ Aram. Bản RSV dịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vậy anh là Simôn con ông Gioan à?”. Thật ra, bản văn không gợi ý một câu hỏi. Còn việc Đức Giêsu đặt tên cho Simôn thì chúng ta hiểu: Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Dn 1,7); các người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc 1,63). 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)
Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa’” (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Người thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại Người đề cập đến (x. Ga 20,19-23).
Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga 1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời xa ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.
Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.
Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người là rabbi, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Rất có thể chi tiết này gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là rabbi. “Thưa rabbi”. Rabbi là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là Rabbi. Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.
Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữ rabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).
Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong hy-ngữ, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là rabbi. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL (x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.
Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.
Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể TM (Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?
Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1][1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa rabbi (Ga 1,38), nhưng danh hiệu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.
Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (Ga: 40 lần; truyền thống Gioan 28 lần (1 Ga: 24x; 2 Ga: 3x; Kh: 1x)[2][2].
Động từ này được TM Ga dùng theo các nghĩa sau[3][3]: (1) Nghĩa thông thường: “Ở lại” hoặc “sống” tại một nơi nào đó (1,39; 2,12; 4,40; 12,24). Thường, ý nghĩa địa dư này chuyển sang nghĩa thần học; (2) Nghĩa thần học: “Ở lại” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Người (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3). Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga 14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga 15,4.5.7). Ý nghĩa tối hậu của bí tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56). Đây là một tình trạng cánh chung mà mọi tín hữu có thể sống ngay lúc này, nếu tuân giữ giới răn yêu thương (Ga 15,10; x. 1 Ga 4,12.16).
Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả Rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menơ) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự. * Anrê (40-42a)
Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trong Ga 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc 5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Hội Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29); Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.
Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2; Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.
Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái mô hình đơn giản (pattern) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.
Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho anh. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia (messian)”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Hípri (mashiah) ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô (christos)”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.
Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như một rabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).
Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.
Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IV rút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu. * Simôn (42b)
Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.
Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Người.
Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Người nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.
Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của chương 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên Aram mới Kepha’ thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Hội Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV. + Kết luận
Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tiền Hô. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.
2. Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.
3. Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động không? Nếu không, vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?
4. Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?
Lm FX Vũ Phan Long, ofm ------------------------------------------
- C 40-42: +“Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô): Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu một thời gian mà hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã xác tín Người chính là Đấng Mê-si-a như Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu. An-rê lập tức về nhà rủ em là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Mê-si-a rồi!”. Rồi ông dẫn em đến gặp Đức Giêsu. +“Anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô): Vị tôn sư có quyền thay tên của người xin theo học bằng một tên gọi mới. Tên mới này mang ý nghĩa tượng trưng mà vị tôn sư muốn cho học trò đạt được. “Kê-pha” là tiếng A-ram mà người Do Thái thời Đức Giêsu xử dụng, nghĩa là “Tảng đá”, tiếng Việt là “Phê-rô”. Đặt tên Phê-rô cho Si-mon, Đức Giê-su muốn ông sau này sẽ nên đá tảng, trên đó Người xây dựng Hội Thánh của Người (x Mt 16,18).
4. CÂU HỎI: 1- Khi giới thiệu Đức Giê-su là con chiên Thiên Chúa, Gio-an Tẩy Giả muốn nói gì về sứ mạng cứu thế của Người? 2- Hai môn đệ của Gio-an vâng lời Thầy để theo làm môn đệ Đức Giê-su là hai ông nào? 3- Giờ của người Do thái được tính như thế nào? 4- Hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã làm gì sau khi tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai? 5- Đức Giê-su đã đặt tên Kê-pha cho ai và tên đó có ý nghĩa thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
2. CÂU CHUYỆN: GIỚI THIỆU CHÚA CHO THA NHÂN.
Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở vì bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa chính thức theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, tôi đã gặp phải trở ngại từ phía gia đình nên chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi không còn liên lạc gì nữa vì bị mất địa chỉ của ông. Từ đó, tôi để tâm tìm một người nào khác giúp đỡ. Tuy nhiên, dù đã gặp khá nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy ai sẵn sàng trao đổi với tôi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp của tôi ngày một nặng hơn. Tôi tự nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là gia nhập vào đạo công giáo. Do đó hôm nay khi nghe cô hỏi về tôn giáo thì tôi rất vui. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin theo đạo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã liên lạc và mời được một linh mục đến ban phép Rửa Tội cho ông cụ trước khi ông nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong sự thanh thản, vì giờ đây cái chết đối với ông trở thành niềm hy vọng, và là một cuộc hành trình về Thiên Đàng để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của ông.
3. SUY NIỆM:
1) Những cuộc giới thiệu Đức Giê-su trong Tin Mừng: Tin mừng Gio-an nhiều lần đề cập tới việc giới thiêu của ông An-rê. Hôm nay An-rê đã giới thiệu Đức Giê-su cho em ông là Si-mon: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga.1,41). Rồi sau đó đã dẫn em đến gặp Người. Lần khác, ông đã dẫn cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá" giới thiệu với Đức Giêsu, để rồi sau khi đã cầu nguyện tạ ơn, Người đã nhân mấy chiếc bánh và cá đó ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Rồi lần thứ ba, khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem trước cuộc khổ nạn, cũng chính An-rê đã giới thiệu mấy người Hy Lạp đến gặp Đức Giê-su, khiến Người đã nhận ra dấu chỉ đã đến giờ Người ban ơn cứu độ bằng việc chịu chết trên thập giá (x, Ga 12,31-32).
2) Hiệu quả của việc giới thiệu Chúa cho tha nhân: Nếu An-rê không giới thiệu em ông là Si-mon với Đức Giê-su thì có lẽ Hội Thánh ngày nay không được xây dựng trên Tảng Đá dức Tin của Phê-rô. Nếu An-rê không giới thiệu cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá" với Đức Giê-su, thì có lẽ sẽ không có phép lạ nhân bánh ra nhiều của Chúa Giê-su. Vậy bài học Hội thánh muốn chúng ta học nơi thánh An-rê là : Hãy giới thiệu Đức Giêsu với tha nhân và dẫn đưa họ đến gặp gỡ Người. Công cuộc rao giảng Tin Mừng thường theo thể thức: Đức Tin được truyền từ gười này đến người kia. Chúa và Hội Thánh hôm nay rất cần những tín hữu biết vững lòng tin vào Chúa và sẵn sàng chia sẻ niềm tin với người thân như An-rê đã gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
3) Hãy đến mà xem: Đức Giê-su không hối thúc người ta phải tin Người mà chỉ nới với họ: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến, đã xem thấy lối sống thân thiện, niềm nở, nồng ấm của Người. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là phát sinh một tình cảm. Khi ở với Đức Giê-su, họ cảm thấy bình an thoải mái trong tâm hồn. Nhờ tiếp xúc với Đức Giê-su, họ còn khám phá ra chính bản thân mình và quyết tâm sống theo lối sống của Người.
4) Khác biệt giữa sự áp đặt và tự nguyện theo Chúa: Những người hành quyền trên người khác thì muốn chế ngự người khác, biến họ thành nô lệ theo ý mình. Trái lại, Đức Giê-su không gò ép ai. Người cho người ta tự do lựa chọn theo hay không theo làm môn đệ Người. Chính thái độ sống và gương sáng của Đức Giê-su đã khiến các ông tự nguyện theo làm môn đệ Người
5) “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi”: Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao nhiều người công giáo lại không nhiệt tình nói về Chúa cho tha nhân ? Có thể là do ngại ngùng vì chưa nắm vững đức tin, sợ người kia vặn hỏi sẽ không biết giải thích ra sao. Cung có thể điều người công giáo đang quan tâm là tiền bạc vật chất hơn là đức tin tôn giáo. Họ chưa thấy được giá trị thực sự của đức tin nên dĩ nhiên không thiết tha với việc giúp người thân được niemf vui hạnh phúc giống như mình. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất là do không mên Chúa nên không cần giới thiệu Chúa, không quan tâm đến viêc “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” như kinh Lạy Cha dạy.
Mỗi khi gặp một người nghèo khổ bệnh tật, tôi có ý thức Chúa Giê-su đang ở trong họ và đang chờ tôi giúp đỡ hay không?
Tình yêu dành cho Chúa ở nơi tôi bây giờ ở mức độ nào? Tình yêu ấy có sức thúc bách tôi dấn thân đem Chúa giới thiệu cho người khác như An-rê đã làm trong Tin Mừng hay không?
Nếu hiện giờ tôi đang dửng dưng với vấn đề Đức Tin là do đâu?
Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì để củng cố lòng tin cậy mến Chúa nơi bản thân và sẽ sẽ đến thăm ai để giới thiệu Chúa cho họ?
5. LỜI NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, xin dạy chúng con hiểu rằng: Chúa luôn nhờ đến đôi tay chúng con để phân phát chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói và động viên an ủi những người bất hạnh; Chúa đang nhờ trái tim của chúng con để yêu thương những người cô đơn hay đang lạc xa Chúa; Chúa đang nhờ miệng lưỡi của chúng con để an ủi động viên những người tội lỗi đang lạc xa Chúa, để trình bày về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa, để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người kẻ nghèo hèn. Hôm nay Chúa vẫn đang cần dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa, để xoa dịu những đau thương bất hạnh và góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, giúp tha nhân vui mừng và hy vọng được sống trong Nước Trời của Chúa sau này.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 1:35-42)
Chúa Nhật lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa mở đầu cho sứ vụ của Người, đồng thời cũng bắt đầu mùa TN2-B108
Chúa Nhật lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa mở đầu cho sứ vụ của Người, đồng thời cũng bắt đầu mùa Thường niên trong năm phụng vụ. Cuộc truyền giáo của Chúa Giê-su không chỉ gồm rao giảng Tin Mừng, nhưng cũng là thời gian Chúa chuẩn bị thiết lập Giáo Hội, hầu tiếp nối công cuộc của Người. Để thực hiện được những mục đích trên, việc tuyển chọn và đào tạo những vị lãnh đạo cho Giáo Hội tương lai là công tác không thể thiếu. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại biến cố Chúa Giê-su kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Mỗi trường hợp kêu gọi một khác, tùy theo bối cảnh và điều kiện của từng người. Nhưng chắc chắn chúng ta đều có thể tìm thấy những đường nét chung của việc kêu gọi.
Bài Tin Mừng kể lại ba người đầu tiên được Chúa chọn làm môn đệ Người. Hai trong ba người ấy đang là môn đệ của ông Gio-an Tẩy Giả, giờ đây được ông chỉ cho biết một ông thầy khác. Cách ông Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giê-su cho hai môn đệ của ông thật là đặc biệt. Thánh sử kể: “Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa’”. Chắc chắn đã có bao nhiêu người “đi ngang qua” chứ, vậy mà ông Gio-an Tẩy Giả không nói gì cả! Như thế nhất định Chúa Giê-su phải có một điều gì rất đặc biệt. Giới thiệu ngắn gọn như vậy khiến cho hai môn đệ của ông thắc mắc muốn tìm hiểu. Tin vào lời giới thiệu của thầy mình, các ông bắt đầu một cuộc tìm hiểu vị tôn sư được gọi là “Chiên Thiên Chúa” kia là đấng nào. Thế là hai người đi theo Chúa Giê-su đến nơi Người ở. Hình như Chúa Giê-su cũng “bắt chước” cách thức của ông Gio-an khi Người úp mở nói với hai người: “Đến mà xem”. Đúng thế, Người mời họ đến xem chỗ Người ở, rồi hãy ở lại với Người. Hai môn đệ này không chia sẻ những gì họ đã thấy và tâm tình của họ khi ở lại với Chúa. Nhưng chắc chắn một điều là cuộc gặp gỡ ấy đã gây ấn tượng vô cùng sâu đậm, đến nỗi họ vẫn nhớ rõ “lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Quả thực ông Gio-an Tẩy Giả đã sống thực với châm ngôn của ông: Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi! Hai môn đệ mà ông đã dày công đào tạo giờ đây ở lại với Chúa Giê-su, không chỉ hôm gặp gỡ ấy, mà còn ở lại với Người suốt đời nữa.
Ông An-rê, một trong hai môn đệ của ông Gio-an Tẩy Giả đã được thầy chỉ cho biết Chúa Giê-su mà đi theo Người, giờ đây chỉ lại cho em mình là ông Phê-rô biết Chúa Giê-su. Ông An-rê không lập lại lời giới thiệu của thầy ông về Chúa Giê-su là “Chiên Thiên Chúa”, nhưng ông giới thiệu bằng chính những cảm nghiệm riêng khi ông “ở lại” với Chúa. Khám phá mới của ông về Chúa là: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a, nghĩa là Đấng Ki-tô”. An-rê không chỉ giới thiệu bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động “dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su” nữa. Ở trường hợp Chúa chọn ông Phê-rô, chúng ta còn nhận thấy một điểm đặc biệt là Chúa nhận định về con người ông Phê-rô. Chúa muốn khẳng định với Phê-rô rằng: Vì anh đã nhìn nhận tôi là Đấng Ki-tô, thì tôi cũng muốn trao cho anh sứ mệnh làm Kê-pha (tảng đá), nền móng Giáo Hội. Như vậy, khi Chúa gọi mỗi người chúng ta, thì Người cũng trao ban một sứ mệnh.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Tuy thánh sử Gio-an chỉ kể sơ qua về cuộc Chúa kêu gọi ba môn đệ đầu tiên, nhưng trong câu chuyện này, có rất nhiều điều chúng ta có thể học hỏi và suy nghĩ về việc Chúa kêu gọi chúng ta làm môn đệ. Trước hết chúng ta hãy “đến mà xem”. Lời mời gọi này có thể từ chính Chúa hoặc những người khác. Đó là Kinh Thánh, là cha mẹ chúng ta, là thầy cô dạy giáo lý… tất cả đều mời gọi chúng ta “đến mà xem cho biết Chúa thiện hảo dường bao”. Chúng ta cũng được mời gọi đến với Chúa qua những chia sẻ kinh nghiệm của người khác, như ông Phê-rô đã nhờ kinh nghiệm của anh An-rê mà đi theo Chúa. Dầu sao mọi lời mời gọi phải được chúng ta đáp trả. Cách hữu hiệu nhất để đáp lời Chúa gọi là hãy “đến xem chỗ Người ở” và “ở lại với Người”. Chỗ Chúa ở không hẳn chỉ là Nhà Tạm, mà Người còn ở trong Kinh Thánh, mọi nơi, mọi người, ngay cả những kẻ thù của chúng ta. Quan trọng hơn cả, là chúng ta hãy ở lại với Chúa trong cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa!
"Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô".
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ:
Trong cuộc sống đời thường vai trò của những người trung gian (môi giới hay giới thiệu) là rất TN2-B109
Trong cuộc sống đời thường vai trò của những người trung gian (môi giới hay giới thiệu) là rất quan trọng. Trong mối quan hệ chính trị hay kinh tế thế giới vai trò của những người trung gian hay môi giới cũng rất đáng nể. Ngay cả trong đời sống tôn giáo tâm linh cũng không thiếu vắng vai trò người trung gian hay giới thiệu. Thật vậy trong câu chuyên của bài Phúc âm Chúa Nhật II Thường Niên Năm B mà chúng ta đọc h6m nay, Gioan Baotixita (tẩy giả), vị ngôn sứ cuối cùng của Cụu Ước, đã đóng vai người trung gian hay môi giới giữa Chúa Giêsu Nagiaret và hai môn dệ đầu tiên là Anrê và Gioan. Đến lượt mình Anrê và Gioan lại đóng vai người giới thiệu Chúa Giêsu với Phêrô và Giacôbê là những người anh em ruột của mình.
Chúng ta hãy dành thời gian suy nghĩ về vai trò trung gian hay môi giới của những vị này và rút ra bài thực hành cho riêng mình.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 1,35-42: Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô". Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 1,35-42: Có hai nội dung trong bài Phúc Âm
3.1 Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu Nagiarét với hai môn đệ thân tín là Anrê và Gioan: Dù chỉ đóng vai người Tiền Hô và Tẩy Giả cho Đấng Mêsia, Gioan Baotixita cũng quy tụ một số môn đệ xung quanh mình, không phải để họ phục vụ mình mà đdể chuẩn bị họ làm môn đệ của Đấng “có trước mà đến sau” mà Gioan không xứng cởi giầy cho Người ấy. Hôm nay cơ hội ngàn vàng đã đến với Gioan và ngài đã không bỏ qua: “Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa".
3.2 Anrê và Gioan đã đi theo Chúa Giêsu và cuộc gặp gỡ đã diễn ra tốt đẹp: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.”
3.3 Anrê giới Chúa Giêsu với anh mình là Phêrô: Sau khi gặp được Chúa Giêsu và ở cùng Người mấy ngày “Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô". Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu” Và Phêrô đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (cũng như Giacôbê em Gioan).
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 1,35-42:
4.1 Chúng ta hãy tìm gặp và sống với Chúa Giêsu Kitô: Là người công giáo, nhờ cha mẹ, thầy cô, huynh trưởng hay bạn đời chúng ta đã biết và nhận Chúa Giêsu Kitô là Chúa của mình. Việc chúng ta cần làm thêm là tìm gặp và sống thân mật với Cúa Giêsu Kitô vì chỉ khi chúng ta gặp được và sống với Người chúng ta mới có mối quan hệ cá vị riêng tư với Chúa và mới có ước muốn và khả năng giới thiệu Chúa với những người xung quanh.
4.2 Chúng ta hãy giới thiệu Chúa Giêsu Kitô với những người thân của chúng ta: Những người đáng được chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho trước hết là những người thân trong gia đình: vợ, chồng, con cái, bà con họ hàng. Rối đến những người cùng sống trong giáo khu, giáo xứ, trong hội đoàn. Giáo dân Việt Nam thường rất e ngại nói về Chúa với những người đồng đạo: một phần vì nghĩ rằng ai cũng biết Chúa rồi không cần phải nói thêm nữa, một phần vì ngại mang tiếng là người giảng đạo, một phần vì không biết phải nói gì, nói thế nào về Chúa. Chúng ta phải vượt qua nhửng trở ngại kể trên để giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho những người thân của mình.
4.3 Chúng ta hãy giới thiệu Chúa Giêsu Kitô với những người chúng ta có dịp gặp gỡ trò truyện: Sau những người thân vùa kể, các Kitô hữu chung ta phải mạnh dạn giới thiệu Chúa Giêsu Kitô với mọi người chúng ta có cơ hội gặp gỡ: trong khu phố, công ty, xí nghiệp, trường học, khu thương mại. Ít ra là chúng ta cho người khác biết mình là người Công giáo. Nếu có điều kiện thuận lợi chúng ta sẽ nói nhiều hơn về Đạo, về Chúa, về giáo lý và niềm tin, về phong tục tập quán Kitô giáo.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 1,35-42:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho chúng con để Người mạc khải về Cha cho chúng con. Xin Cha lắng nghe lời cầu xin tha thiết của chúng con.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho hết mọi người trên thế giới này nhận được lời giới thiệu về Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mêsia mà Chúa Cha đả sai đến thế gian này.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy gặp được Chúa Giêsu Kitô và sống thân mật với Người trong cuộc đời tu hành của các vị ấy.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi người tích cục tìm đến vói Chúa Giêsu Kitô và vào sống trong nhà Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả mọi Kitô hữu có sự dũng cảm công bố mình đã gặp được Đấng Mêsia và giới thiệu Đấng ấy với mọi người xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban cho chúng con Con yêu đầu của Cha để Người dẫn chúng con về với Cha.
Xin Cha ban Thánh Thần và sức mạnh của Ngài cho chúng con để chúng con đón nhận, tuyên xưng và giới thiệu Chúa Giêsu Kitô là Con yêu dầu của Cha với mọi người chúng ta gặp trên mọi nẻo đường
Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, là Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến để đưa mọi người về với Cha. Amen.
Sàigòn ngày 15 tháng 1 năm 2021
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội (Mừng ngày sinh nhật 15/1/1943)
Có một nhà du khảo nọ đi lạc vào giữa sa mạc mênh mông, chung quanh chỉ toàn cát nóng. Cơn khát TN2-B110 TB
Có một nhà du khảo nọ đi lạc vào giữa sa mạc mênh mông, chung quanh chỉ toàn cát nóng. Cơn khát dâng lên tột cùng khiến anh ta dần kiệt sức vì không có nước để uống. Cuối cùng, người đàn ông nọ vấp phải một cành cây khô và ngã sấp mặt xuống đất. Suy kiệt vì khát, anh ta nằm bất động trong chán nản tuyệt vọng và chờ chết. Bỗng nhiên, trong lúc tưởng như vô vọng hoàn tòan, người đàn ông nọ áp sát tai vào mặt đất và nghe được một thứ âm thanh nho nhỏ rất kỳ diệu từ xa vọng lại. Đó là tiếng róc rách của một dòng nước đang chảy. Trong tĩnh lặng, anh ta đã nghe được tiếng suối reo. Thu hết tàn lực cuối cùng, người đàn ông kia lần mò tìm đến dòng nước và đã được cứu sống một cách lạ lùng.
Cũng như nhà du khảo lạc bước giữa sa mạc khô cháy, hôm nay chúng ta cũng được mời gọi đi vào sa mạc của tâm hồn để lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Trong tĩnh lặng giữa đêm khuya, Samuel đã nghe được tiếng Chúa ngỏ trao. Giữa buổi chiều thanh vắng bên bờ hồ Galilê, Anrê và Simon cũng nghe được tiếng Đức Giêsu gọi mời. Sống trong một thế giới ồn ào ngày hôm nay với biết bao bầm dập và cay đắng, chúng ta cũng cần biến tâm hồn mình thành một sa mạc vắng lặng hầu có thể nghe được tiếng Chúa nói và mau mắn trỗi dậy bước theo Ngài.
‘Lạy Chúa, xin hãy nói vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe’
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta nghe lại trình thuật về ơn gọi của Samuel. Chúa gọi ông giữa đêm khuya thanh vắng, nhưng ông ngơ ngác chẳng hiểu gì. Lúc đó, Samuel chỉ là một cậu bé cỏn con, giúp việc cho thầy cả Eli trong đền thờ. Nhưng may mắn, theo lời chỉ dạy của vị tôn sư đáng kính, sau khi nghe tiếng Chúa gọi lần thứ tư, Samuel đã đáp lại : “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Đây là điệp khúc mà Giáo hội vẫn cất lên trong các giờ kinh phụng vụ. Lời đáp trả ấy cũng thường được các khấn sinh lập lại khi được xướng tên trước lúc tiến lên đọc lời tuyên khấn. Đáp trả lời gọi mời của Thiên Chúa là một hành vi đức tin, diễn bày tâm thức của một con người luôn biết đắm chìm trong Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài. Chúa vẫn nói với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống đời thường, khi thành công cũng như khi thất bại, lúc hoan vui ngập tràn cũng như khi chìm ngập trong biết bao bầm bập và cay đắng. Để nghe được tiếng Chúa nói, chúng ta phải tập sống tĩnh lặng từ trong nội tâm, biết trút bỏ mọi lo toan, mọi bươn chải hay những chộn rộn của cuộc sống, cho dầu chúng ta vướng bận biết bao công việc đa đoan thường ngày. Chúng ta phải can đảm bịt tai lại trước những cuốn hút ầm ĩ của tiền bạc, của những toan tính ích kỷ, hay của những hận thù ghen ghét đang sục sôi nơi tâm hồn. Hình ảnh của cậu bé Samuel là hình mẫu để chúng ta học hỏi và bắt chước hầu có thể tiến sâu vào lộ trình ơn gọi và đến với Chúa.
Đến để gặp gỡ và ở lại với Chúa
Cũng vậy, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan kể lại câu chuyện Chúa gọi Simon và Anrê, hai môn đệ đầu tiên, bên bờ hồ Galilê. Hai ông chưa biết Đức Giêsu là ai. Song, khi được Gioan tiền hô giới thiệu, các ông đã đến, đã gặp được Chúa và lưu lại với Ngài. ‘Hãy đến và xem’ (Come and See). Đó là lời gọi mời của Chúa Giêsu. Các ông đã đến và đã tiếp cận với Đấng mà các các ông chưa hề biết trước. Có thể động cơ ban đầu nơi các ông chỉ là sự tò mò, nhưng hai ông đã chủ động, đã đích thân đến gặp Đấng mà Gioan tiền hô giới thiệu. Các ông đã ‘xem thấy’ Đức Giêsu, không phải chỉ là một sự trải nghiệm bằng thể lý với đôi mắt của thân xác, nhưng hai môn đệ đã xem thấy Đức Giêsu bằng con mắt đức tin, một trải nghiệm vượt xa những lý luận tự nhiên nơi đầu óc con người. Điều quan trọng nhất, là hai ông đã ở lại với Đức Giêsu và dần đi vào trong sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài. Đây là mô hình về mầu nhiệm ơn gọi cho mỗi người chúng ta ngày hôm nay, qua sự gặp gỡ và trải nghiệm sâu xa mang chiều kích linh thánh.
Sống ơn gọi Kitô hữu
Trong Giáo hội có nhiều loại hình ơn gọi. Có người được Chúa mời gọi để trở nên linh mục. Có người theo đuổi cuộc sống thánh hiến tu sĩ. Nhưng đại đa số chúng ta sống ơn gọi giữa đời như những giáo dân bình thường. Tuy nhiên, tất cả các loại hình ơn gọi này đều có một mẫu số chung, là bước theo Chúa Giêsu để trở nên môn sinh của Ngài. Điều cốt lõi và quan trọng nhất để sống hoàn thiện ơn gọi, chính là việc chúng ta đến và ở lại với Chúa như hai tông đồ Simon và Anrê. Chỉ khi nào lưu ngụ trong Chúa, chúng ta mới có thể đi sâu vào thế giới của huyền nhiệm và dần dần khám phá ra chân trời vĩ đại, rộng mở từ nơi trái tim yêu thương của Ngài. Chúa Giêsu đã kêu gọi những người học trò đầu tiên và dần dần huấn luyện các ông trở nên những ngư phủ chuyên chài lưới người. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn luôn vang vọng lời mời gọi, ngỏ trao đến tất cả chúng ta ‘Hãy đến và xem’. Muốn đi đến, chúng ta phải mạnh dạn đứng lên và dấn bước, phải can đảm từ bỏ những gì chúng ta đang cố đeo bám, như tiền bạc hoặc những danh vọng trần thế. Muốn ‘xem’ để biết Đức Giêsu là ai, chúng ta phải mở to con mắt tâm hồn, phải trải lòng mình ra để Chúa Thánh Thần tác động. Những người Do Thái ngày xưa, đặc biệt các đầu mục và nhóm Pharisêu cũng ‘xem’ thấy rất nhiều điều lạ lùng Đức Giêsu đã làm, nhưng họ ‘xem’ mà không ‘thấy’, nhìn mà không hiểu, bởi vì cho dù con mắt thể xác của họ đã mở toang, nhưng con mắt tâm hồn nơi họ vẫn mãi bị bịt kín.
Một nữ tu đã gặp mẹ Thánh Têrêsa Calcutta và nói : “Thưa Mẹ, con cảm thấy như Chúa đang mời gọi con đi tu để dấn thân phục vụ các trẻ em bất hạnh tại các trại mồ côi hoặc tại các khu ổ chuột”. Mẹ Têrêsa liền trả lời: “Không phải thế, chúng ta chỉ có một ơn gọi duy nhất, là hãy đến với Chúa Giêsu và ở lại với Ngài. Cứ đến với Chúa, rồi Ngài sẽ dạy cho con biết con phải làm gì”.
Kết luận
Ngày 13/09/1978, trong một buổi nói chuyện với các đôi tân hôn, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã kể lại một giai thoại. Tại trường Đại học Sorbonne bên Pháp có một giáo sư khá nổi tiếng tên là Frederich. Ông có một người bạn rất thân thiết là linh mục Lacordaire. Một bữa kia, vị linh mục nói với người bạn của Ngài : “Này anh bạn, anh là một con người tuyệt vời. Anh có tâm hồn đạo đức lẫn trí thông minh sắc xảo. Nếu anh đi tu làm linh mục anh sẽ giúp ích cho Giáo hội rất nhiều”. Một thời gian sau, vị Linh mục nghe tin anh bạn của mình sắp sửa kết hôn. Ngài thất vọng và nói với anh ta : “Bạn điên hay sao mà đi lấy vợ. Tại sao anh lại tự nguyện đeo một cái gông vào cổ của chính mình”. Hai năm sau, Cha Lacordaire đến Rôma và vào triều yết Đức Thánh Cha Piô IX. Đức Thánh Cha thân mật tiếp kiến và nói đùa với Cha Lacordaire : “Cha dạy giáo lý có vẻ lạc giáo đấy. Giáo hội dạy rằng Chúa Giêsu đã thiết lập 7 Bí Tích, nhưng cha lại dạy rằng, Chúa Giêsu thiết lập chỉ có 6 Bí Tích cộng thêm một cái gông để đeo vào cổ.”
Đời sống hôn nhân gia đình cũng là một ơn gọi cao quý để giúp chúng ta nên thánh khi sống giữa đời. Để sống sung mãn ơn gọi này, chúng ta hãy bắt chước Samuel luôn biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, nhất là bắt chước hai môn đệ đầu tiên để đến với Chúa và lưu lại với Ngài.
Bài Đọc I và Tin Mừng cùng đề cập đến mầu nhiệm ”ơn gọi”. Thiên Chúa kêu gọi một cách dứt TN2-B111
Bài Đọc I và Tin Mừng cùng đề cập đến mầu nhiệm ”ơn gọi”. Thiên Chúa kêu gọi một cách dứt khoát, bởi vì Ngài nhìn thấu tận cõi lòng sâu kín của con người.
1Sm 3: 3b-10, 19 Bài Đọc I, trích từ sách Sa-mu-en quyển thứ nhất, thuật lại chuyện tích về”ơn gọi”của con trẻ Sa-mu-en. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở với em mọi ngày suốt cuộc đời của em.
Ga 1: 35-42 Tin Mừng Gioan thuật lại chuyện các môn đệ lần đầu tiên gặp gỡ Đức Giê-su. Ngài đưa mắt nhìn dứt khoát trên Phê-rô, vị thủ lãnh Giáo Hội tương lai của Ngài.
1Cr 6: 13c-15a, 17-20 Trong thư thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô gợi lên phẩm giá của thân xác là chi thể của Đức Ki-tô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
BÀI ĐỌC I (1Sm 3: 3b-10, 19)
Ngôn sứ Sa-mu-en là một trong những nhân vật Cưu Ước hấp dẫn. Cuộc chào đời của ông tiên vàn là một “dấu chỉ”.
1. Đứa con của lời khẩn nguyện
Mẹ ông là bà An-na, một trong hai người vợ của ông En-ca-na quê thành Ra-ma-tha-gim. Đây vẫn còn thời đại đa thê vào thế kỷ XI trước Công Nguyên. Tuy nhiên, chỉ những bậc vị vọng và giàu có mới có thể có nhiều vợ. Chúng ta ghi nhận rằng hai sách Sa-mu-en và hai sách Các Vua không cho thấy bất kỳ trường hợp đa thê nào khác ngoài trường hợp hy hữu này. “Một vợ một chồng” là thể chế gia đình thường hằng nhất ở Ít-ra-en. Bà Pơ-nin-na có nhiều con trong khi bà An-na không có một đứa con nào. Vì thế, bà An-na rất khổ tâm và cảm thấy bà Pơ-nin-na như đối thủ đang chọc tức mình để hạ nhục mình.
Chồng bà yêu quý bà và chiều chuộng bà: “An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa trai sao?”(1Sm 1: 8). Tuy nhiên, bà An-na vẫn không nguôi nỗi phiền muộn nên rấp tâm khấn hứa cùng Đức Chúa.
Vào dịp đại lễ hằng năm, bà cùng gia đình hành hương lên thánh địa Xi-lô. Ở đó, bà khấn hứa với Đức Chúa rằng nếu Ngài ban cho bà một đứa con trai, bà xin dâng hiến trọn cuộc đời cậu để phụng sự Ngài. Khi con trẻ sinh ra, bà giữ trọn lời khấn nguyện. Vào lúc con trẻ lớn khôn, bà dẫn đứa bé lên đền thánh Xi-lô và trao gởi con mình cho thầy cả Ê-li. Vào ngày đó, bà dâng hy lễ lên Đức Chúa và hát bài hoan ca. Đây là bài “Magnificat” đầu tiên mà Đức Ma-ri-a sẽ đón nhận nguồn cảm hứng.
2. Ơn gọi
Kể từ đó, cậu bé Sa-mu-en phụng sự Đức Chúa bên cạnh thầy cả Ê-li. Nhưng Đức Chúa có những dự định lớn lao hơn đối với đứa trẻ này và rất sớm Ngài khai lòng mở trí cho cậu hiểu. Đây là câu chuyện về ơn gọi mà chúng ta đọc vào ngày lễ hôm nay.
Ơn gọi của trẻ Sa-mu-en vén mở khoa sư phạm của Thiên Chúa. Trước hết, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ bé mọn và những người yếu đuối để thi hành những ý định của Ngài. Thứ nữa, chính Ngài luôn luôn đề xuất sáng kiến. Thiên Chúa đã kêu gọi ông Mô-sê trong hoang địa theo cùng một cách thức như thế (Sh 3: 1-6) và sau này Ngài cũng sẽ kêu gọi ngôn sứ I-sai-a ở trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem theo cùng cách thức vậy (Is 6: 1-12).
Thiên Chúa ba lần đánh thức cậu trong khi cậu ngủ say trong trạng thái hồn nhiên vô tư lự. Ngài “khẽ đánh thức” cậu, vì thế cậu tỉnh dậy mà không chút sợ hải. Bản văn nói với chúng ta: “Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Chúa, và Chúa chưa mặc khải Lời Người cho cậu”. Suốt cuộc đời mình, “Chúa ở với cậu, và Người thực hiện mọi lời Người đã phán với cậu, không sót lời nào”. Sa-mu-en là vị Thủ Lãnh cuối cùng của dân Ít-ra-en, nhưng là một vị Thủ Lãnh vĩ đại nhất.
BÀI ĐỌC II (1Cr 6: 13c-15a, 17-20)
Thánh Phao-lô viết bức thư này từ Ê-phê-xô, chắc hẳn vào mùa xuân 55, gởi cho giáo đoàn Cô-rin-tô mà thánh nhân đã thiết lập. Tuy nhiên, cộng đoàn này gặp phải nhiều vấn đề. Thánh nhân vừa mới nhận được những thông tin về đạo lý thật đáng lo ngại. Vì thế, thánh nhân ra sức giáo huấn họ. Trong bức thư này, chúng ta gặp thấy những quan điểm thần học cao vời của thánh nhân.
Đoạn trích hôm nay đề cập đến những vấn đề thân xác theo những viễn cảnh Ki-tô giáo. Để hiểu được những lời khuyên bảo của thánh nhân, chúng ta phải đặt những lời khuyên này vào trong bối cảnh của thời đại thành phố Cô-rin-tô.
1. Bối cảnh thành phố Cô-rin-tô
Cô-rin-tô là một thành phố mới; thành phố xưa đã bị phá hủy vào thời đế quốc Rô-ma chinh phục vào năm 146 trước Công Nguyên. Hoàng đế Xê-da đã phục hưng thành phố này và thiết lập một thuộc địa Rô-ma vào năm 44 trước Công Nguyên. Thành phố hoàn toàn được xây dựng lại và sớm lấy lại vị thế của mình là thủ phủ thương mại.
Với hai thương cảng, một ở phía đông (biển Ê-gê), và một ở phía tây (biển I-o-ni), giữa đường từ Châu Á đến Rô-ma, thành phố này hưởng được một hoàn cảnh ưu đãi. Với số lượng phu khuân vác, thợ thủ công, hàng hóa phong phú, nhiều ngân hàng, thành phố tứ xứ này tạo nên một vùng đất thuận tiện cho việc phát triển các tệ nạn: óc con buôn, nạn hám lợi và cuộc sống xa hoa. Ngoài ra, ở đây còn có cuộc sống sa đọa do bối cảnh tế tự xa xưa còn được lưu truyền lại. Vào thuở xa xưa, thành phố đã phụng thờ nữ thần tình ái và sinh sản. Có đám đông nữ tư tế phụ trách việc tế tự này. Đây là một hình thức trụy lạc thánh, tự nguồn gốc được coi như nghi thức sinh sản và hành vi lôi kéo ân phúc của nữ thần. Thành phố Cô-rin-tô chắc chắn không là thành phố đức hạnh.
2. Sự mới mẽ của Ki-tô giáo
Thế giới ngoại giáo có những nhà luân lý của họ, họ tố cáo cuộc sống phóng túng và đề cao sự khổ chế của thân xác nhân danh chủ nghĩa nhân bản cao vời hay nhân cách lý tưởng. Thánh Phao-lô đem lại cho luân lý Ki-tô giáo một chiều kích hoàn toàn khác: tội lỗi tác hại đến “những mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa”. Người ta dể thấy điều này ở nơi cách thức sử dụng thân xác của mình. Để sống đức độ, thánh nhân công bố: “Thân xác con người không phải để gian dâm, nhưng để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”.
3. Ba luận chứng
Thánh nhân xây dựng lời công bố này trên ba luận chứng vững chắc tựa như “kiềng ba chân”. Luận chứng thứ nhất gây ấn tượng nhất và cũng mới mẽ nhất trong lịch sử tư tưởng: “thân xác của chúng ta sẽ được sống lại”. Luận chứng thứ hai được gợi ý cách ngắn gọn: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là chi thể của Đức Ki-tô sao?” Đây là một trong những đề tài chủ đạo và tâm đắc đối với thánh nhân mà ngài sẽ nhắc lại ở nơi các thư khác. Luận chứng thứ ba dẫn chúng ta lên đến một bình diện không kém cao vời: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người”. Được kết hợp với Đức Ki-tô, qua cầu nguyện, Thánh Thể, tận hiến… chúng ta không còn ý muốn nào khác ngoài ý muốn của Chúa.
Đặt nền tảng trên ba luận chứng trên, thánh Phao-lô đẩy đến cực điểm lời lên án chống lại tội gian dâm: tội duy nhất làm ô uế chính thân xác của mình. Thánh nhân nêu bật sự tương phản giữa việc kết hợp với Chúa nhờ đó chúng ta được nâng cao lên đến mức hiệp nhất “tinh thần” với Ngài và những kết hợp thấp hèn đánh mất phẩm giá của thân xác.
4. Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần
Tiếp đó, thánh nhân khai triển Bí Tích Thánh Tẩy Ki-tô giáo: thân xác chúng ta đã trở nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, vì thế, không còn thuộc về chúng ta nữa. Dâng hiến thân xác của mình cho một thần linh nào khác là tội thờ ngẫu tượng (đây cũng là đề tài trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát và thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-xô).
5. Giá máu cứu chuộc của Đức Giê-su
Lời ghi nhận cuối cùng được diễn tả đầy cảm xúc:”Thiên Chúa đã trả giá rất đắt mà chuộc lấy anh em”. Đức Ki-tô đã không khinh chê thân xác bởi vì Ngài đã mặc lấy một thân xác như chúng ta. Thân xác này, Đức Ki tô đã hiến dâng để bị tra tấn và bị đóng đinh vào thập giá, ngõ hầu, nhờ hy tế này, chúng ta được dự phần vào sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta không được làm tổn hại đến thiên ân mà Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt như thế. Vì thế, câu kết luận tất yếu phải có là:”Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”.
Trong đoạn văn đậm đặc đạo lý này, thánh nhân chỉ gợi ý, bắt đầu với ơn Phục Sinh và kết thúc với ơn Cứu Chuộc, hai thái cực bất khả phân này của khoa thần học thánh Phao-lô.
TIN MỪNG (Ga 1: 35-42)
Bài Đọc I tường thuật ơn gọi của cậu bé Sa-mu-en, cậu được thánh hiến cho Thiên Chúa ngay từ lúc còn niên thiếu. Tin Mừng Gioan trình bày hoàn cảnh ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su. Tâm hồn của họ đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị rồi.
1. Thời gian: ngày thứ ba
Hoạt cảnh được định vị ở bên bờ sông Gio-đan hay trong vùng phụ cận. Đức Giê-su trở lại từ hoang địa. Theo diễn tiến thời gian của “tuần lễ khai mạc”, hoạt cảnh này được định vị vào ngày thứ ba. Diễn ngữ thời gian: “vào ngày thứ ba” thật có ý nghĩa: nó gợi lên biến cố Phục Sinh tương lai. Chính vào buổi chiều thứ ba Phục Sinh, các Tông Đồ, sau khi đã phân tán và ẩn náo, quy tụ lại, nghĩa là Giáo Hội được khai sinh. Vì thế, việc khai sinh Giáo Hội ẩn hiện trong câu chuyện này. Ơn gọi của ba môn đệ đầu tiên trong đó có Phê-rô, vì thế, Giáo Hội được ươm mầm rồi. Chính đó là lý do tại sao thánh ký đặt việc Chúa Giê-su đổi tên ông Si-mon thành “Kê-pha” ngay từ cuộc gặp gỡ lần đầu.
2. Tước hiệu”Chiên Thiên Chúa”
Hoạt cảnh rất sống động và tự nhiên. Gioan Tẩy Giả đang nói chuyện với hai môn đệ của mình. Khi thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông chỉ Ngài cho hai môn đệ dưới tước hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu này muốn nói lên điều gì?
2.1 - Chiên Vượt Qua
Đối với người Ki-tô hữu, mà thánh ký viết sách Tin Mừng này cho họ, tước hiệu này gợi lên Hy Tế Vượt Qua của Đức Giê-su, Ngài bị kết án tử vào đúng thời điểm chiên Vượt Qua bị sát tế ở tại sân Đền Thờ (Ga 19: 14). Ngoài ra, các bản văn Kinh Thánh đã mô tả “Người Tôi Trung” bị nhục mạ, bị ngược đãi thậm tệ, chẳng mở miệng oán than, “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Chúng ta biết các Tông Đồ đã trải qua biết bao khó khăn mới có thể chấp nhận ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ và bị đóng đinh!
Rõ ràng, đây không thể là quan niệm của vị Tiền Hô khi gọi Đức Giê-su dưới tước hiệu Chiên Thiên Chúa. Xem ra đối với Gioan Tẩy Giả, “Chiên Thiên Chúa” là hình ảnh của sự tinh tuyền và thánh thiện. Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã thấy “Thần Khí ngự xuống trên Ngài” (Ga 1: 32) chính là Đức Giê-su đang đi ngang qua họ. Ngài tựa như “Chiên Vượt Qua” mà Luật đòi buộc “không tì vết”.
2.2 - Chiên Khải Hoàn
Mặt khác, vài bản văn thuộc trào lưu khải huyền Do thái đã gợi ra Đấng Mê-si-a sắp đến như một con chiên yếu đuối (không phải Thiên Chúa thường sử dụng những người bé nhỏ và yếu đuối để thực hiện những dự định vĩ đại của Ngài sao?), nhưng ở nơi con chiên này Thiên Chúa ban sức mạnh và quyền năng, vì thế, đây sẽ là con chiên khải hoàn. Trong sách Khải Huyền của mình, thánh ký lấy lại hình ảnh “Chiên Khải Hoàn” được liên kết với hình ảnh “Chiên bị sát tế”. Cả hai hình ảnh này diễn tả chỉ một nhân vật: Đức Giê-su Ki-tô.
Vì thế, như thường thấy trong Tin Mừng thứ tư, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” giả thiết nhiều mức độ đọc và hiểu khác nhau.
3. Các nhân vật
Chúng ta biết rất rõ các nhân vật của hoạt cảnh này. Tuy nhiên, thái độ của mỗi nhân vật đáng cho chúng ta gẫm suy.
3.1 - Gioan Tẩy Giả
Trước hết, Gioan Tẩy Giả là một nhân vật đáng được ngưỡng mộ. Ông biết Đấng Mê-si-a có mặt ở đó. Ông mời gọi các môn đệ của mình đến gặp Ngài. Ông sẵn sàng nhường các môn đệ thân tín của mình cho Đức Giê-su. Ông có thể đi theo Đấng mà ông tiên cảm sự cao cả của Ngài. Nhưng không, sứ mạng của ông chính là chuẩn bị các tâm hồn, niềm vui của ông chính là mặc khải cho người khác nhận ra Chúa Giê-su: “Tôi đây không phải là Đức Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3: 28-29). Ông gieo nhưng Đức Giê-su gặt.
3.2 - Ba môn đệ
Ông An-rê, một môn đệ giấu tên mà truyền thống sau này nhận dạng là Gioan, tác giả Tin Mừng thứ tư này, và ông Phê-rô là em của ông An-rê, ba người này làm gì ở trong hoang địa miền Giu-đa này? Họ là những ngư phủ đến từ biển hồ Ti-bê-ri-a để nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, vì danh tiếng của ông đã vang dội đến tận nơi họ đang sinh sống. Lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả rất nghiêm khắc, nhưng chắc chắn đã chinh phục bầu nhiệt huyết của ba ngư phủ trẻ tuổi này. Từ khi vị Tiền Hô chỉ cho họ “Chiên Thiên Chúa”, họ không chút ngần ngại bám theo Đức Giê-su. Như vậy, đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Đức Giê-su. Đoạn, họ trở về miền Ga-li-lê tiếp tục công việc chài lưới của mình. Tuy nhiên, ơn gọi của họ sẽ chín mùi; và rồi một ngày kia, trước tiếng gọi bất ngờ của Ngài: “Hãy theo tôi”, “họ rời bỏ tất cả mà theo Ngài”. Đó là lần ra đi theo đuổi ơn gọi của mình một cách dứt khoát.
3.3 - Đức Giê-su
Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan phác họa đôi nét đầu tiên và ghi lại vài lời đầu tiên của Đức Giê-su.
Chính Đức Giê-su có sáng kiến bắt chuyện với hai chàng thanh niên đang dò dẫm bước đi theo sau Ngài – và sau này cũng sẽ là như vậy khi Ngài mời gọi họ làm môn đệ của Ngài. Khi thấy hai người đi theo mình, Chúa Giê-su quay lại và hỏi: “Các anh tìm gì thế?”; họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Vào thời đó, người ta thường gặp thấy một nhóm nhỏ môn đệ thụ huấn với một tôn sư thường sống chung dưới mái nhà của thầy. Câu trả lời của Đức Giê-su thật giản dị nhưng gợi lên sự tò mò ở nơi họ: “Đến mà xem”. Thế là”họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy”. Nhưng thánh ký không nói cho biết chính xác nơi ở của Ngài, bởi vì trong cuộc đời công khai, Đức Giê-su không bao giờ có một mái nhà để trú ngụ. Thánh ký không nói cho chúng ta biết bất cứ điều gì về nơi ở của Ngài, cũng không cho chúng ta biết bất cứ điều gì về cuộc chuyện trò đầu tiên của Ngài với hai người môn đệ này. Tuy nhiên tác động của cuộc gặp gỡ đầu tiên này ghi dấu ấn không thể xóa nhòa trong tâm khảm của họ qua tiếng kêu của ông An-rê khi gặp em mình là Phê-rô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”.
Từ giây phút này, thánh ký giữ mãi kỷ niệm sống động này, vì thời gian đã trôi qua rất lâu sau đó, ấy vậy, ông không thể nào quên giây phút tuyệt vời này: “Đó là vào khoảng giờ thứ mười”(tức bốn giờ chiều). Đây là chi tiết của một chứng nhân nhưng cũng là chữ ký của người bạn đồng hành giấu tên của ông An-rê, tức là Tông Đồ Gioan, tác giả sách Tin Mừng mang tên ông.
4. Hai cái nhìn
Chắc chắn ấn tượng chúng ta có khi đọc bản văn này đó là câu chuyện bắt đầu và kết thúc trên một cái nhìn. Cái nhìn đầu tiên là cái nhìn của Gioan Tẩy Giả, cái nhìn của một vị ngôn sứ nhận ra Đấng Mê-si-a, nhưng không biết chính xác Đấng ấy sẽ như thế nào. Và cái nhìn của Đức Giê-su trên Phê-rô, cái nhìn thấu suốt đến tận cõi tâm can, cái nhìn xa trông rộng đến tận tương lai, và từ đó xác định sự chọn lựa của mình. Sẽ còn có những cái nhìn khác của Đức Giê-su trên Phê-rô… Thánh ký sẽ khai triển cái nhìn của Đức Giê-su một cách sâu xa trong Tin Mừng của mình.
Ơn gọi là một huyền nhiệm. Nó khởi nguồn từ Thiên Chúa, chứ không phải từ loài người. Thiên Chúa TN2-B112
Ơn gọi là một huyền nhiệm. Nó khởi nguồn từ Thiên Chúa, chứ không phải từ loài người. Thiên Chúa lên tiếng gọi và con người đáp trả. Các bài đọc Lời Chúa trong ngày Chúa nhật hôm nay nói về ơn gọi của Samuel, ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su (Gioan, An-rê và Phê-rô) và qua đó nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu chúng ta.
1. Ơn gọi của Samuen
Samuel là cậu bé được Đức Chúa cho sinh ra để cất nỗi nhục của người mẹ Anna trước mặt người đời. Giữ đúng lời khấn hứa với Đức Chúa, bà Anna cho cậu giúp việc thày cả Ê-li. Cậu ngủ trong Đền thờ. Đức Chúa gọi cậu 4 lần trong giấc ngủ. Ba lần đầu, cậu tưởng là thày Ê-li gọi, nên chạy đến với thày và thưa: “Dạ, con đây, thày gọi con”. Nhưng thày Ê-li bảo: “Thày không gọi con đâu. Con về ngủ đi”.
Chạy đi chạy lại như thế đến lần thứ 3, thày Ê-li hiểu là Đức Chúa đã gọi Samuel, nên bảo cậu rằng: “Con về ngủ đi và hễ có ai gọi con thì con thưa: ‘Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”.
Vâng lời thày Ê-li, Samuel về ngủ ở chỗ của mình. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi (lần thứ 4) như những lần trước: Samuel! Samuel! Samuel thưa: “Xin Ngài phán vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”.
Samuel lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.
Đó là tiến trình ơn gọi làm ngôn sứ của Samuel được mô tả trong bài đọc 1 (x. 1Sm 3,3-10.19). Tiến trình này cho thấy, nếu không có sự chỉ dạy của thày Ê-li, Samuel khó hòng mà nhận ra được Đức Chúa gọi mình.
2. Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên
Đó là các ông Gioan, An-rê và Phê-rô.
Gioan và Anrê đi theo Chúa qua lời giới thiệu, gợi ý của Gioan Tẩy giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Phêrô đi theo Chúa nhờ sự giới thiệu của anh mình là Anrê: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”.
Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi ơn gọi mỗi cuộc đời, không ai giống ai. Kẻ thì được thầy mình giới thiệu, người thì được anh mình giới thiệu, kẻ khác nữa thì được bạn bè giới thiệu.v.v. Tất cả đều trở thành những kỷ niệm đáng nhớ không thể nào quên trong tâm trí người môn đệ: Chúa gọi tôi trong hoàn cảnh này hoàn cảnh nọ. Chúa gọi tôi vào giờ này. Chúa gọi tôi ở chỗ này chỗ kia.v.v.
Gioan tông đồ người trong cuộc đã từng chẳng ghi thế này sao: “Khi ấy, ông và Anrê đang đứng ngoài bãi biển cùng với thày Gioan Tẩy Giả, thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy Giả liền chỉ: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Các ông liền bỏ Gioan Tẩy Giả lại đó mà đi theo Chúa Giêsu.
Thấy có kẻ theo mình, Chúa Giêsu quay lại bảo: “Các anh tìm gì thế? Các ông bèn đánh bạo hỏi: “Thưa Thày, Thày ở đâu”?
Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy đến mà xem”. Các ông đã đến xem chỗ Chúa ở và ở lại với Chúa ngày hôm ấy. Lúc ấy vào khoảng giờ thứ mười”.
Thật là ấn tượng! Không thể nào quên! Nhưng Phêrô cũng ấn tượng không kém. Dù Phêrô được Chúa gọi sau Gioan và Anrê, nhưng Chúa đã đổi tên cho ông: “Anh Simon, con ông Gioan, từ nay anh sẽ được gọi là Phêrô, nghĩa là đá tảng”.
Giây phút ấn tượng ấy là giây phút lịch sử, làm đảo lộn đời các ông, biến các ông trở thành người môn đệ Chúa, cùng ăn cùng ở với Chúa, cùng chung chia sứ mạng và thân phận với Chúa. Đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng và thân phận của người tôi tớ đau khổ theo thánh ý Chúa Cha hầu cứu chuộc nhân loại.
3. Ơn gọi của người Ki-tô hữu
Chúng ta các kitô hữu ngày nay cũng được Chúa kêu gọi. Chúa gọi ta vào đời. Chúa gọi ta làm con cái Chúa và Hội thánh trong đời sống hôn nhân gia đình hay đời sống tu trì.
Hành trình ơn gọi của Samuel và các Tông đồ có nhiều ấn tượng đáng ghi nhớ, thì hành trình ơn gọi của ta cũng vậy.
Chúa đã chọn gọi Samuel và các Tông đồ trong những hoàn cảnh và môi trường nhất định thì Chúa cũng chọn gọi ta trong những hoàn cảnh và môi trường nhất định nào đó.
Chúa đã chọn gọi Samuel và các Tông đồ qua các trung gian, thì Chúa cũng chọn gọi mỗi người chúng ta qua các trung gian như ông bà, cha mẹ, thày cô, bạn bè...v.v. Nhưng điều quan trọng là ta đã sống ơn Chúa gọi như thế nào ?
Thánh Phao-lô trong bài đọc 2, ngài nói rất hay về ơn gọi của chúng ta và qua đó ngài cũng dạy chúng ta phải sống ơn gọi như thế nào cho xứng đáng: “Thưa anh em, thân xác con người không phải để gian dâm mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”.
“Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần sao? Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (x.1Cr 6,13-15.17-20).
Lạy Chúa, Chúa đã cho con vào đời trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Xin ban ơn thêm sức cho con để con luôn sống xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi giữa cuộc đời này, hầu mai ngày con được ở cùng Chúa trong Nước Trời vĩnh cửu. Amen.
[1 Sm 3,3b-10.19; 1 Cr 1, 6-15.17-20; Ga 1, 35-42]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong Mùa Thường Niên sau Giáng Sinh, Phụng vụ của Hội Thánh triển khai những hoa trái TN2-B113
Trong Mùa Thường Niên sau Giáng Sinh, Phụng vụ của Hội Thánh triển khai những hoa trái của mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể đã sinh ra làm người và ở giữa loài người để đem hạnh phúc cho mọi người. Một trong những hoa trái ấy là tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời cộng tác với Người trong công trình cứu chuộc. Thế nhưng muốn nhận ra lời mời của Chúa thì phải biết lắng nghe lời hay tiếng Chúa.
Các bài Sách Thánh của Chúa Nhật II Thường Niên hôm nay tập trung vào ơn gọi mà Thiên Chúa dành cho Sa-mu-en, Gio-an, An-rê và Phê-rô và tất cả các Ki-tô hữu. Mọi người chúng ta đều được Thiên Chúa gọi và chọn làm ngôn sứ của Thiên Chúa và làm môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa không chỉ gọi chúng ta một lần, mà Người gọi chúng ta nhiều lần, thậm chí mỗi giờ, mỗi ngày. Vì thế việc lắng nghe tiếng Chúa gọi là vô cùng quan trọng. Có nghe được tiếng Chúa gọi, chúng ta mới có thể đáp lại tiếng gọi ấy một cách tương xứng.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (1 Sm 3,3b-10.19): "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe" Ngày ấy, Samuel ngủ trong đền thờ Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Chúa đã gọi Samuel; cậu trả lời: "Này con đây", rồi chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần nữa, và Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Này con, Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel chưa nhận ra Chúa, và lời Chúa chưa được mạc khải cho cậu. Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với Samuel: "Hãy đi ngủ, và nếu Người còn gọi con, thì con nói rằng: 'Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe'". Samuel trở về chỗ mình và ngủ lại. Chúa đến gần và gọi Samuel như những lần trước: "Samuel, Samuel!" Và Samuel thưa: "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Phần Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 6,13c-15a.17-20): "Thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô" Anh em thân mến, thân xác không phải vì dâm dật, mà vì Chúa, và Chúa vì thân xác. Thiên Chúa đã cho Chúa sống lại, cũng sẽ dùng quyền năng Người cho ta sống lại.
Anh em không biết thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô sao? Nhưng ai kết hợp với Chúa thì nên một thần trí. Vậy hãy xa lánh dâm dật. Mọi tội lỗi người ta phạm đều ngoài thân xác, nhưng kẻ tà dâm thì phạm tội trong thân xác mình. Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em mà anh em đã nhận lãnh nơi Thiên Chúa, vì anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh em đã được mua chuộc bằng một giá rất lớn. Vậy anh em hãy tôn vinh Chúa trong thân xác anh em.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 1,35-42): "Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người" Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô". Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá".
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Dung mạo của Thiên Chúa trong ba bài Sách Thánh:
1o) Thiên Chúa mà Sách Sa-mu-en quyển thứ nhất (1 Sm 3,3b-10.19) tường thuật là một Đấng Thiên Chúa đã thân hành đến gặp cậu bé Sa-mu-en ban đêm trong khi cậu ngủ và gọi cậu bé nhiều lần, cho đến khi cậu hiểu ra rằng đó là tiếng gọi của Thiên Chúa và có lời đáp trả thỏa đáng: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe!” Dĩ nhiên là ngôn sứ Ê-li có vai trò rất quan trọng trong việc giúp Sa-mu-en nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa và biết đáp trả tiếng gọi ấy một cách đẹp lòng Thiên Chúa.
2o) Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô (1 Cr 6,13c-15a.17-20) muốn cho tín hữu Cô-rin-tô và hết thẩy các tín hữu nhận biết là một Đấng Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết và cũng sẽ làm cho tất cả mọi người sống lại. Vì thế Thiên Chúa có quyền làm chủ cả hồn cả xác chúng ta, vì Người “đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” và đã làm cho chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Do đó cả hổn cả xác chúng ta không còn thuộc về chúng ta nữa mà đã thuộc trọn về Thiên Chúa đã là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Chúng ta chỉ có thể dùng thân xác mình mà phụng sự Thiên Chúa chứ không được dùng thân xác mà gian dâm vì gian dâm là tội nặng vừa xúc phạm đến chính mình vừa xúc phạm đến Thiên Chúa.
3o) Thiên Chúa mà Thánh Gio-an (Ga 1,35-42) muốn giới thiệu với thế giới là Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng được Gio-an Tiền Hô giới thiệu với hai môn đệ thân tín (nhất) của ông là An-rê và Gio-an. Gio-an Tiền Hô giới thiệu Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” hàm ý muốn nói: Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng có sứ mạng hiến dâng mình làm của lễ toàn thiêu để cứu chuộc nhân loại. Người bắt đầu thực hiện sứ mạng ấy bằng việc chiêu mộ các môn đệ. An-rê và Gio-an là hai môn đệ đầu tiên. Kế đến là Si-mon được anh mình là An-rê đem đến giới thiệu với Đức Giê-su và đã được Chúa Giê-su chấp nhận và đổi tên cho ông thành Phê-rô (nghĩa là Đá).
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta làm ngôn sứ và làm môn đệ và trông đợi ở mỗi người chúng ta lời đáp trả tương xứng.
Thiên Chúa muốn chúng ta nhận ra Người, nghe thấy tiếng gọi của Người (trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta) mà đáp trả bằng cách bước theo Người, thi hành sứ mạng Người giao phó như Sa-mu-en, Gio-an, An-rê và Phê-rô.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Chúa như con cái sống với cha mẹ, như đệ tử sống với Thầy, như kẻ được gọi và được chọn với Đấng gọi và chọn: Sống các mối tương quan trên trong tâm tình yêu mến, kính trọng và gắn bó mật thiết.
4.2 Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là nhận ra tiếng Chúa gọi và đáp lại tiếng gọi ấy như Sa-mu-en: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”
Để nghe được tiếng Chúa, chúng ta cần
(a) tỉnh thức,
(b) thinh lặng nội tâm, vì Thiên Chúa chỉ nói trong thinh lặng như Thánh Tê-rê-xa thành Cal-cut-ta đã nhắn nhủ.
(c) khả năng phân biệt và chọn lựa lời mời gọi của Thiên Chúa và từ khước lời mời gọi của tạo vật hay của bản thân mình tức lời mời gọi của dục vọng, của cải, quyền lực và vinh hoa trần thế.
- Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay còn là tin vào lời giới thiệu của Gio-an Tẩy Giả và của các ngôn sứ xưa và nay mà tìm đến và ở lại với Chúa Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” như An-rê và Gio-an: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.”
Để gặp gỡ và ở lại với Chúa Giê-su, chúng ta cần
(a) một tấm lòng đơn sơ, khát khao,
(b) sự nhẫn nại và
(c) chấp nhận cuộc phiêu lưu mà Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trên thế gian để họ biết lắng nghe Lời Chúa mà sống lương thiện và đạo đức xứng danh con người là tạo vật đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Sa-mu-en thưa: "Dạ, con đây!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người biết đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa như cậu bé Sa-mu-en.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Các anh tìm gì thế? - Thưa Thầy, Thầy ở đâu? - Đến mà xem - Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, có được mối tương quan và sự hiểu biết riêng tư, thân mật và sâu đậm với Thiên Chúa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Thưa anh em, thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các bạn trẻ công giáo cũng như không công giáo, để họ biết quý trọng, giữ gìn và bảo vệ thân xác mình cho xứng danh là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Có người so sánh lịch sử Cứu độ như một thiên tình sử giữa Thiên Chúa và con người. Mối tình TN2-B114
Có người so sánh lịch sử Cứu độ như một thiên tình sử giữa Thiên Chúa và con người. Mối tình này cũng có những lúc mặn nồng, cũng có khi phai nhạt. Mối tình này pha lẫn yêu thương thắm thiết và những giận dỗi hờn ghen. Kinh Thánh là cuốn sách ghi lại mối tình thân thương đó. Tuy vậy, nếu Thiên Chúa bao dung quảng đại và yêu thương vô bờ, thì con người lại nhỏ nhen thấp hèn và tội lỗi bất xứng. Dù thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn không ngừng tìm kiếm con người và con người cũng miệt mài tìm kiếm Chúa. Vì thế, chúng ta có thể khẳng định: hành trình con người và hành trình Đức tin là những nỗ lực khôn nguôi để tìm kiếm Chúa. Và, thật kỳ lạ, chính Chúa cũng đang tìm kiếm chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra Ngài và lắng nghe lời Ngài giáo huấn.
Con người tự nhiên có khuynh hướng tìm kiếm Chúa, như cây cỏ hướng về ánh mặt trời, như sông suối xuôi về nguồn cội. Thánh Augustinô đã thốt lên: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa” (Tự thú, I,1,1). Không gặp được Chúa, con người còn khắc khoải chờ mong và chưa tìm được sự an bình thực sự. Có muôn nẻo đường tìm kiếm Chúa. Người ta tìm Chúa nơi sức mạnh của thiên nhiên vũ trụ, nơi trật tự xoay vần của tứ thời bát tiết, nơi những triết lý cao siêu hay những tác phẩm nghệ thuật. Tuy vậy, những điều vừa được liệt kê chỉ phản ánh vẻ đẹp của Chúa hay quyền năng của Ngài. Cần phải gặp gỡ Chúa bằng lý trí và con tim. Lý trí tôn nhận Chúa là Chúa muôn loài. Con tim yêu mến Đấng là Tình yêu trọn vẹn.
Tin Mừng Thánh Gioan kể lại, hai môn đệ của ông Gioan Tẩy giả nghe thày mình giới thiệu về Đức Giêsu, liền đi theo. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Các anh tìm gì?”, thì các ông lại trả lời bằng một câu hỏi khác: “Thưa Thày, Thày ở đâu?”. Câu hỏi này vừa thay cho câu trả lời: “Chúng tôi muốn tìm Thày”, vừa diễn tả một cuộc tìm kiếm. Khi ở lại đàm đạo với Chúa, các ông nhận ra Người là Đấng Messia. Cuộc tìm kiếm của các ông đã có kết quả. Các ông sẵn sàng rời ông Gioan Tẩy giả để đi theo Đấng Messia. Không những thế, các ông còn giới thiệu những người khác đến với Chúa Giêsu. Ông Anrê đã giới thiệu em mình là Simon, sau này là Phêrô. Ông Simon đã nhiệt thành đến với Chúa và nhận Người là tôn sư.
Nếu con người nỗ lực khôn nguôi tìm kiếm Chúa, thì chính Thiên Chúa cũng đi tìm kiếm con người. Bởi lẽ Thiên Chúa là Đấng vô hình và thiêng liêng cao cả, chỉ nguyên nỗ lực từ phía con người mà thôi thì sẽ rơi vào bế tắc. Lịch sử Cứu độ chứng minh, nhiều lần Thiên Chúa có sáng kiến ra tay cứu giúp và cải hoá con người. Cậu bé Samuel đang phục vụ tại Đền thờ Silô. Sớm chiều quen với ánh nến và hương trầm. Một đêm kia, Chúa gọi cậu. Ở tuổi của cậu, chưa thể phân biệt được lời gọi của Chúa hay lời gọi của con người. Với hướng dẫn của thày Tư tế Hêli, cậu Samuel đã thưa với Chúa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Tác giả sách Sanuel kể lại: từ ngày đó, cậu bé Samuel chuyên cần lắng nghe lời Chúa và không để cho một lời nào ra vô hiệu. Cậu đã được gặp gỡ Chúa và được Ngài cho biết ý định của Ngài cũng như những điều Ngài sắp làm đối với dân Israel. Vâng, Thiên Chúa đã chủ động tìm kiếm con người và ngỏ lời với họ. Đó cũng là điều Ngài thường làm trong lịch sử.
Tin vào Chúa chính là gặp gỡ Ngài. Đức Giáo Hoàng Bênêđitô đề nghị một định nghĩa về Đức Tin như sau: “Tin là cuộc gặp gỡ thân tình, cá vị với Chúa. Đây không phải là cuộc gặp gỡ với một sự vật hay một sự kiện, là cuộc gặp gỡ với một Đấng, một Ai đó, một Con Người đang hiện diện giữa chúng ta” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 1). Cuộc gặp gỡ với Chúa được thực hiện bằng lời cầu nguyện và chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa. Bởi khi cầu nguyện là chúng ta tâm sự với Chúa; khi nghe Lời Chúa là lúc Ngài nói với chúng ta. Cầu nguyện là mối tâm giao, là sự trao đổi thân mật, giãi bày tấm lòng trước nhan Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta mở con tim để lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng thưa với Chúa như cậu bé Samuel trong đền thờ Silô: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Nhờ cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta được gặp Chúa trong đời, mặc dù còn nhiều ồn ào, bon chen và toan tính.
Một khi gặp gỡ Chúa, cuộc đời của chúng ta phải được canh tân biến đổi. Qua cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Chúa, được thể hiện nhờ Bí tích Thanh Tẩy, “chúng ta được hiến thánh trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giêsu là Chúa của họ và cũng là Chúa của chúng ta” (Bài đọc II). Thánh Phaolô đã diễn tả vinh dự lớn lao của những người đã được thanh tẩy. Họ trở nên thành viên của một gia đình vĩ đại, bao trùm và hiện diện trên toàn cõi địa cầu. Trong Giáo Hội của Chúa Kitô, không còn phân biệt chủng tộc hay ngôn ngữ, nhưng tất cả đều trở nên con cái Chúa, có Thiên Chúa là Cha.
Để thực sự gặp gỡ Chúa, người tín hữu cần có đời sống nội tâm sâu xa. Bởi lẽ cuộc sống ồn ào bon chen và đầy tham vọng dễ làm chúng ta quên Chúa. Hãy tìm những giây phút lắng đọng tâm hồn để gặp gỡ Chúa, để nghe Ngài khuyên nhủ và giáo huấn chúng ta. Chắc chắn những giây phút này sẽ đem lại cho chúng ta sự ngọt ngào nội tâm, cùng với niềm vui và hạnh phúc trong cuộc đời. Như hai môn đệ đầu tiên, một khi cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể giới thiệu Người cho những người xung quanh.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần này xoay quanh chủ đề ơn gọi. Ơn gọi ở đây nhấn mạnh đến TN2-B115
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần này xoay quanh chủ đề ơn gọi. Ơn gọi ở đây nhấn mạnh đến lời mời gọi của Thiên Chúa cho mọi tín hữu, những người được kêu gọi trở thành môn đệ của Chúa. Ai ai cũng được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào công việc rao giảng của Chúa Kitô trong hoàn cảnh sống của mình. Có người được gọi sống bậc gia đình; có người được gọi sống độc thân để trở thành các bậc thầy hay trở thành giáo sĩ và tu sĩ. Nói chung ai cũng được mời gọi tham dự vào công việc mở mang Nước Chúa và ai cũng cần đáp trả.
Bài đọc thứ nhất kể lại việc Chúa gọi Sa-mu-en nhưng cậu không hiểu ai đang gọi mình. Mỗi lần nghe thấy tiếng gọi, Sa-mu-en lầm tưởng là Thầy Ê-li gọi, nên mỗi lần nghe thấy tiếng gọi vang lên, cậu đã chạy đến bên Thầy để trả lời. Cuối cùng Thầy Ê-li đã ghép mọi chi tiết lại với nhau và với tư cách là người cố vấn tinh thần, hướng dẫn linh đạo, thầy đã giúp Sa-mu-en nên biết trả lời như thế nào. Thầy đã góp ý cho Sa-mu-en câu trả lời thật tuyệt vời như sau: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Và từ đó, Thiên Chúa ở cùng Sa-mu-en. Phần cậu, cậu đã không để rơi mất lời nào của Chúa mà không sinh hoa trái khi trở về với Người.
Và, trong bài Tin Mừng hôm nay, để mời gọi, Đức Giêsu hình như không nói trực tiếp. Người chỉ trả lời cho nỗi khát vọng tìm kiếm khi hỏi những ai đi theo Người rằng “các ông tìm gì?” Thật là một điều ngạc nhiên cho chúng ta khi nghe họ hỏi lại: “Thầy ở đâu?” Câu hỏi của họ có thể hiểu theo nghĩa bình thường là ám chỉ đến nơi cư ngụ của Đức Giêsu. Nhưng, theo nghĩa của Tin Mừng, thì câu hỏi này còn có thể quảng diễn như: Chúng tôi sẽ gặp Thầy ở đâu? Làm thế nào chúng tôi có thể gặp Thầy để được biến đổi? Làm thế nào chúng tôi có thể tiếp cận và chia sẻ cuộc sống với Thầy?
Đứng trước yêu cầu chính đáng của họ, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ; Người lại mời họ “Hãy đến mà xem”. Chúa không chỉ cho họ đi đến đâu và xem cái gì? Người chỉ nói “Hãy đến mà xem”. Câu nói này ám chỉ đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không trao cho họ một mớ tín điều, yêu cầu họ phải sống theo một vài tiêu chuẩn luân lý của Giáo Hội. Người kêu gọi họ thiết lập và xây dựng mối dây hiệp thông với Người. Phần những kẻ theo Người, họ không được phép đóng vai như những người đứng bên lề, như những quan sát viên. Họ cần dấn thân, chia sẻ cuộc sống và buớc đi với Người, cùng Nguời đi trên các nẻo đường khác nhau mà đến với mọi người.
Như vậy, qua lời chứng và lời giới thiệu của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giêsu mà các môn đệ của ông đã bước vào nhà của Người, đi sâu vào trong mối dây thân tình với Đức Chúa. Họ đã để cho chúng ta một bài học là những ai muốn biết Đức Giê-su ở đâu thì phải nhận ra lời mời gọi của Người, rồi đáp trả bằng cách đến với Người. Chúng ta hãy đến rồi sẽ thấy!
Tiến trình của việc tìm kiếm, đón nhận và đáp trả này không thể xẩy ra trong một giây một phút; nhưng đó chính là hành trang của cả đời kiếm tìm. Đến rồi gặp, gặp rồi lại nhớ. Vòng tròn gặp rồi lại nhớ, nhớ rồi phải gặp cứ thế thôi thúc khiến chúng ta đã nhớ lại càng nhớ thêm và cứ như thế tình của Chúa càng gặp càng cắm rễ sâu đậm hơn trong cuộc sống của chúng ta, những người môn đệ của Chúa.
Thưa anh chị em,
Dựa trên kinh nghiệm sống và các chia sẻ của anh chị em, chúng ta nhận biết rằng mối dây hiệp thông của chúng ta với Đức Giê-su không chỉ dựa trên các tiêu chuẩn như tin tưởng, thành thật, cởi mở và đón nhận mà thôi, nhưng nhất là cần lắng nghe bằng trái tim vì cuối cùng Lời mà Đức Giê-su giao tiếp với chúng ta là chính bản thân Người. Khi chúng ta lắng nghe Người, gặp Người rồi thì cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi. Bởi vì Chúa không truyền đạt sự kiện, tin tức hay dữ kiện mà Người truyền ban cho chúng ta chính bản thân Người, tình yêu của Chúa, sự sống và lòng thương xót của Chúa. Và khi chúng ta cho phép mình lắng nghe Lời mời gọi của Chúa, để cho tình yêu và lòng thương xót của Chúa chạm vào chúng ta, tức khắc chúng ta sẽ biến đổi.
Thật vậy, Thiên Chúa có trăm phương nghìn cách để nói với con người. Mỗi người là một cá thể riêng biệt. Và có bao nhiêu cá thể thì có bấy nhiêu cách qua đó Thiên chúa không ngừng dùng để tiếp cận với ta. Và có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu vì sao Thiên Chúa dùng để soi dẫn mở đường cho ta nhận biết và vâng nghe tiếng Ngài.
Cách thức của Thiên Chúa thật diệu kỳ và khó hiểu. Có nhiều trường hợp con người phải kinh qua những đau khổ, những mất mát và đổ vỡ rồi mới nhận ra tiếng Chúa. Như trường hợp của hai anh em mà chúng ta thường được nghe trong Tin Mừng của thánh Luca. Người con thứ trải qua trăm cay nghìn đắng mới nhận ra ý Chúa. Còn ông con cả thì thế nào? Anh chưa bao giờ làm trái lịnh cha. Anh sống trong khuôn mẫu, kích thước của chính anh. Cuộc sống của anh quá êm đềm; êm đềm đến độ anh cũng chẳng cần biết người khác nghĩ gì về anh, và anh cũng chẳng thèm nghĩ đến nhu cầu của người khác. Phải chăng anh chỉ là ‘một xác chết biết đi’. Nhưng mọi sự đều đổi khác khi em anh trở về. Quả thật, anh không có trách nhiệm gì về sự sai lầm của chú em. Nhưng với sự đỗ vỡ của chú ta, qua đó Thiên Chúa dùng để đánh thức anh! Nếu muốn sống thật mối tương quan cha con, anh cần chọn lựa một lối đi mới. Một lối đi khác hẳn lối đi cũ. Lối đi không bị bao vây bởi giáo điều và kinh kệ. Nhưng được phát xuất từ mối dây liên kết giữa anh và Cha.
Phần chúng ta cũng thế. Chuyện mà chúng ta cần bàn ở đây không phải là chọn lựa bậc sống này và coi thường lối sống kia. Nhưng đâu là động cơ thúc đẩy cho việc chọn lựa lối sống của mình? Điều này rất quan trọng; thiếu nó mọi công việc của chúng ta làm chẳng còn giá trị gì; thiếu nó cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là thanh la phèng phèng và chũm chọe xoang xoảng. Đó là điều mà thánh Phao-Lô đã nhận lãnh và Ngài cũng muốn truyền lại cho chúng ta bí quyết căn bản và quan trọng đó: “Giả như tôi có nói được thứ tiếng của lòai người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi… Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1 Cor.13:1-13)
Như vậy, để khám phá ra ý định của Thiên Chúa, chúng ta cần sống mật thiết với Người. Chính trong sự kết hợp của tình yêu này chúng ta sẽ được giải thóat để sống với điều đôi khi không giống với sự kỳ vọng của đám đông. Nhưng, chắc hẳn một điều là quyết định hay chọn lựa phát sinh từ lòng yêu mến của chúng ta với Chúa và dĩ nhiên điều đó rất phù hợp với ý Chúa, Đấng không ngừng yêu mến, họat động và cùng ta dấn bước.
Và nếu chúng ta cưỡng lại ý Chúa thì những lời Chúa đã phán cho Phê-rô khi xưa cũng là những điều Người sẽ nói với chúng ta: “Xa tan, lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của lòai người.” (Mc 8:33b) Vì thế, mọi chọn lựa sống theo ý Chúa đều đòi buộc lòng can đảm, vị tha và trên hết mọi sự là lòng yêu mến của chúng ta với lối sống đó.
Tóm lại, Thiên Chúa thăm viếng và nói với ai lắng nghe Người. Thiên Chúa còn dùng những con người đang sống cùng thời với ta giúp ta nhận ra tiếng của Người. Cụ thể, trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đã nhìn ra hai gương mẫu giúp người khác nhận ra ý Chúa. Thầy của Samuel đã giúp cho cậu nhận ra và đáp trả lời mời của Chúa. Các môn đệ của Gio-an cũng thế, nhờ lời giới thiệu của Thầy mà họ nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a rồi đi theo Người. Họ là những người thầy về mặt tâm linh, hướng dẫn và giúp chúng ta nhận ra ý của Chúa mà đáp trả. Chúng ta biết ơn họ.
Hơn thế nữa, qua mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa vì yêu thương đã ẩn mình trong những từ ngữ và tiếng nói của con người. Vì thế, trong cuộc sống, chúng ta cần mở ra để đón nhận nhau vì ai cũng được Thiên Chúa dùng để sinh ích lợi cho người khác. Thật vậy, không ai có thể nghe được Thiên Chúa nếu người ấy tự khép mình lại, sống cô độc, xa lánh người khác. Và, cho dù chúng ta biết rằng Chúa không hề ép buộc ai. Tuy nhiên, những ai đã nghe lời Chúa thì không thể cưỡng lại ý Chúa được.
Sống với Đức Giêsu, chia sẻ mối thâm tình của Người sẽ đem đến cho ta niềm vui, để rồi lại đến lượt chúng ta là những chứng nhân mời gọi người ta đến chia vui với mình. Vẫn biết bổn phận của người môn đệ là như thế, nhưng liệu chúng ta có dám nói với những người trong cộng đoàn, xóm giáo, gia đình của chúng ta là hãy đến mà xem cuộc sống của chúng ta rồi qua đó họ sẽ thấy Chúa không?
Thật sự, đây là một thách đố cho chúng ta là các môn đệ của Chúa, không phân biệt giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân. Tất cả đều được mời gọi để sống thân tình với Chúa và với kinh nghiệm sống thân mật với Chúa, chúng ta sẽ can đảm tuyên xưng rằng: Hãy đến mà xem chúng tôi, những người môn đệ của Chúa Cứu Thế, yêu mến nhau đến dường nào. Amen!
Rabindranath Tagore nói: “Yêu thương là hiện thực duy nhất và nó không chỉ là một tình cảm TN2-B116
Rabindranath Tagore nói: “Yêu thương là hiện thực duy nhất và nó không chỉ là một tình cảm. Đó là chân lý tối thượng nằm tại tâm của Tạo Hóa.” Đó là Ông Trời, là Đấng tạo nên mọi sự, nói gọn lại là Tạo Hóa hay Tạo Vật, chính là Thiên Chúa; còn mọi vật được tạo ra là thụ tạo, trong các thụ tạo có con người chúng ta.
Thiên Chúa là tình yêu, các thụ tạo được Ngài dựng nên cũng xuất phát từ tình yêu, nghĩa là Ngài đã khắc dấu yêu thương trong mọi người, không là dấu vết như vẽ hoặc viết, mà là dấu khắc sâu, vì thế chúng ta không thể không yêu thương nhau.
Cả xã hội và Giáo Hội đều mang tính cộng đồng, tức là sống chung, cụ thể và đơn giản nhất là gia đình – giống như “tế bào gốc” của xã hội và Giáo Hội. Đời sống chung rất cần tình yêu thương, yêu thương đòi hỏi mỗi người phải biết lắng nghe, có lắng nghe nhau mới có thể hiểu nhau và cùng nhau thực hiện điều ước nguyện của Thầy Chí Thánh Giêsu trong Vườn Dầu ngày xưa: “Xin cho họ nên một.” Tính chất “nên một” được Chúa Giêsu đề cập ba lần. (x. Ga 17:1-24) Điều đó chứng tỏ tính chất đặc biệt lắm, cần thiết lắm, bởi vì đó là tính hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi – Đấng Tam Vị Nhất Thể.
Không chỉ NGHE mà phải LẮNG NGHE. Lắng nghe là một nghệ thuật, bởi vì còn phải biết cách nghe. William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi.” Điều cuối cùng thật là đặc biệt: “Trước khi chết, hãy cho đi.”
Hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” có một khoảng cách nhất định, và cũng có các mức độ khác nhau, thậm chí có người vẫn nghe vì không điếc, thế nhưng lại không hiểu. (x. Lc 8:10) Chúa Giêsu đã nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9) Ý Ngài muốn là phải lắng nghe và phải thấu hiểu.
Liên quan vấn đề này, trình thuật 1 Sm 3:3-10 cho biết câu chuyện nổi tiếng về việc lắng nghe và của ngôn sứ Samuel. Chuyện xảy ra vào một đêm nọ, ông Êli đang ngủ, mà mắt ông thì mờ, ông không còn thấy rõ nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Bất ngờ, Đức Chúa gọi Samuel. Cậu tưởng ông Êli gọi nên chạy đến và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông cho biết rằng ông không gọi và bảo cậu cứ về ngủ đi. Cậu đi ngủ, rồi lại có tiếng gọi lần nữa. Samuel lại dậy và đến với ông Êli, nhưng ông vẫn bảo là không gọi cậu. Và cậu lại về chỗ ngủ của mình.
Còn trẻ người nên Samuel chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Cậu nằm ngủ, và rồi lại có tiếng gọi lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu nên ông dặn Samuel rằng hễ có ai gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Samuel về ngủ, và Đức Chúa lại đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuel! Samuel!” Cậu liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1 Sm 3:10)
Một câu nói tuyệt vời, được trích dẫn nhiều mỗi khi đề cập việc làm theo Ý Chúa. Thi hành mau mắn và vui vẻ chứ không miễn cưỡng, bất đắc dĩ. Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do hoàn toàn, Ngài không ép buộc ai làm bất cứ điều gì, dù là việc nhỏ bé, vì thế Ngài luôn đề cao sự tự nguyện, hành động vì yêu mến. Vì đã lắng nghe, thấu hiểu, và mau mắn làm theo Ý Chúa, nên Samuel được Thiên Chúa bảo vệ: “Samuel lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.” (1 Sm 3:19) Thật diễm phúc cho Samuel!
Cái gì cũng có nguyên lý. Sự diễm phúc không là tình trạng ngẫu nhiên hay tự nhiên, mà là động thái “có điều kiện” với sự tự nguyện: Tổ phụ Ápraham đã hoàn toàn tuân phục khi quyết định rời bỏ quê hương để đến Đất Hứa mặc dù ông không biết đó là đâu, ông cũng không hề ngần ngại sát tế chính con trai độc nhất, không có con nối dõi thì làm sao dòng dõi đông đúc như sao trên trời? Ông không hề thắc mắc hoặc đặt vấn đề. Đức Maria cũng diễm phúc vì lời “xin vâng” vô điều kiện, mặc dù Đức Maria ngạc nhiên lắm. Lắng nghe – thấu hiểu – hành động, đó là “chuỗi liên kết” như một tam-giác-đều bất biến, trong đó tiềm ẩn và mặc nhiên có tảng đá góc tường của tòa nhà nhân đức: Khiêm nhường.
Con người chúng ta luôn có sự mâu thuẫn: Muốn người khác lắng nghe mình nhưng mình lại không muốn lắng nghe người khác. Nguyên nhân là tính ích kỷ, vì “cái tôi” lớn quá, cứ tưởng mình là “bách khoa tự điển” có mọi thứ về mọi lĩnh vực. Thậm chí cả với Thiên Chúa mà chúng ta cũng dám làm vậy. Chúng ta thực sự uống thuốc liều nên mới to gan như vậy. Oan ức ư? Không hề! Chúng ta luôn xin Ngài lắng nghe mình, (Tv 30:11; Tv 51:3; Tv 55:2; Tv 77:2; Tv 86:6; Tv 88:3; Tv 141:1; Tv 143:1) nhưng hiếm khi chúng ta nhận lỗi (Tv 51:5) hoặc lắng nghe tiếng Chúa, (Tv 85:9) nhất là khi ý Chúa khác với ý mình. Sự giằng co quyết liệt lắm.
Người ta đúc kết: “Đời là bể khổ.” Có thể chưa đủ kinh nghiệm nhưng ai cũng biết điều đó. Thế nên chúng ta luôn phải cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.” (Tv 40:2) Và rồi niềm vui không thể giấu kín: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa.” (Tv 40:4) Tuy nhiên, chúng ta lại dễ “ngủ quên trong chiến thắng,” chẳng khác chín người vô ơn bạc nghĩa trong trường hợp “mười người phong hủi.” (Lc 17:11-21) Người biết Chúa thì làm ngơ, qua cầu rút ván, người không biết Chúa thì lại biết trở lại để tạ ơn. Thật là xấu hổ cho tín nhân!
Thiên Chúa không thích lễ vật lỉnh kỉnh, nghi thức rườm rà. Ngài không đòi chi cũng chẳng cần gì, nhưng Ngài chỉ muốn một điều là chúng ta PHẢI sẵn sàng và mau mắn: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con.” (Tv 40:7-9) Ai càng thu nhỏ mình thì càng được Ngài thương xót. Thánh Vịnh gia xác định: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.” (Tv 40:10) Thế thì thật tuyệt vời!
Thánh Elizabeth Ăn năn Seton (1774-1821) quyết tâm làm ba điều: “Tôi muốn công việc hằng ngày của tôi là làm theo ý Chúa; tôi làm điều đó theo cách Ngài muốn; tôi làm điều đó vì đó là ý Chúa.” Ước gì mỗi chúng ta cũng có thể quyết tâm như vậy.
Trên thế gian này chẳng có gì vĩnh cửu, bởi vì mọi sự đều có lúc, có thời, có hạn. (x. Gv 3:1-8) Ngay cả sự sống và sự tự do của chúng ta cũng vậy, tới một lúc nào đó sẽ không còn. Thánh Phaolô nói: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi.” (1 Cr 6:12) Thật không dễ để có thể nhận thức và tự chủ được như vậy, chứng tỏ phải có sự giằng co rất mãnh liệt. Thánh nhân giải thích cụ thể: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!” (1 Cr 6:13-15)
Có lẽ chưa cần nói đến vấn đề tinh thần, bởi vì các vật chúng ta đang sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi: tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,… Những thứ chúng ta gọi là “của mình,” tức là mình sở hữu nó, nhưng chúng có thể lại thuộc về người khác. Thật vậy, chúng ta sở hữu chúng vì chúng ta có quyền quản lý chúng, nhưng nó không thuộc quyền sở hữu của chúng ta vĩnh viễn. Phũ phàng, thất vọng, buồn bã. Nuối tiếc. Con người là thế. Và còn hơn thế nữa: Sự sống chúng ta đang có mà rồi cũng chẳng giữ được. Tất cả thuộc về Chúa – Đấng tạo dựng muôn loài, muôn vật.
Với “khái niệm” đó, Thánh Phaolô khuyên: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (1 Cr 6:17-20) Thân xác đủ thứ nhơ nhớp, nói ra mà thấy ngượng miệng, nhưng chính cái nhơ nhớp hèn hạ đó lại được Thiên Chúa dùng làm Đền Thờ để Ngài ngự vào – thiêng liêng và cụ thể là Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta là “đền thờ” thì chúng ta phải nỗ lực thực thi Thánh Ý Ngài. Đó là điều tất yếu!
Tất cả đều NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài. Tất cả mọi sự đều phải được quy về Ngài. Ước gì mỗi chúng ta đều biết xác định rạch ròi: “Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể.” (Tv 119:14) Tâm niệm được như vậy thì không còn phải quan ngại. An tâm và thanh thản tín thác vào Thiên Chúa.
Trình thuật Ga 1:35-42 cho biết rằng khi ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông và thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Nghe vậy, hai môn đệ kia liền đi theo Đức Giêsu. Ngài quay lại, thấy các ông đi thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Chắc hẳn nơi ở của Chúa Giêsu giản dị lắm, khó nghèo lắm, nhưng họ vẫn theo Ngài. Cái “thấy” của họ là sự vĩ đại của Ngài nên họ sẵn sàng đi theo Ngài, vì họ đã thấy, đã hiểu, và thực sự tin.
Thời điểm lúc đó khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và cho biết đã gặp Đấng Mêsia. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Nhìn ông Simôn, Đức Giêsu nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha.” Thánh sử Gioan giải thích rằng chữ Kêpha có nghĩa là Đá, đồng nghĩa với tên Phêrô.
Chỉ là dân chài lưới, nhưng hẳn là lão ngư Phêrô có ấn tượng lắm, chắc hẳn tướng mạo như ông phải có gì đó đặc biệt, vì Thầy Giêsu thấu suốt cả tâm địa của ông là người bộc trực, nóng tính nhưng tốt bụng, được việc. Và Ngài “chấm” ngay. Chắc chắn Chúa Giêsu biết trước ông sẽ nhát đảm khi gặp sự cố, tất nhiên tội chối Thầy lớn lắm, không chỉ chối một lần mà chối tới ba lần, nhưng cũng chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi. Chúa Giêsu luôn thương xót và như để cho ông có cơ hội “bù lỗ” bằng ba lần tuyên xưng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết rõ con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-18) Từ đó, lão ngư Phêrô trở thành giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội lữ hành.
Kinh Thánh ch biết rằng chúng ta nghĩ tưởng gì thì Chúa đã thấu suốt từ xa, miệng lưỡi chúng ta chưa thốt nên lời thì Ngài đã am tường hết. (Tv 139:2 & 4) Chắc chắn không ai tránh khỏi Ngài, nhưng đặc biệt là Thiên Chúa nói với mỗi tín nhân: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1) Và Ngài xác định: “Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta.” (Is 49:16)
Chúng ta đang có những cái khởi đầu: Năm mới Phụng Vụ, Mùa Thường Niên, Mùa Xuân. Những cái mới khiến con người lo lắng nhiều về tương lai, nhất là khi cuộc sống càng càng ngày càng khó khăn và trong cơn đại dịch còn gây quan ngại với biến chủng mới còn nguy hiểm hơn chủng cũ. Nhưng là tín nhân, chúng ta xin phó thác cho Thiên Chúa, vì Ngài đã “khắc dấu tình” bằng lời hứa: “Chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.” (Gr 29:11) Và đây là dấu ấn đặc biệt nhất: “Chính Ta, chính Ta đây là Đức Chúa, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11)
Nếu khước từ Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta chẳng làm được gì – dù là điều đơn giản nhất, cụ thể là con người đang hoang mang trước “sức mạnh” của con virus li ti mang tên corona.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhận mọi điều trái ý hằng ngày như món quà yêu thương Ngài dành phần cho chúng con theo sự quan phòng và tiền định mầu nhiệm của Ngài, xin dạy chúng con biết những quyết định của Ngài (Tv 119:108) để chúng con thực hiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Linh mục Matthew Francois, phụ trách họ đạo Thánh Antôn vùng Angevin (Phi Châu) đã thuật TN2-B117
Linh mục Matthew Francois, phụ trách họ đạo Thánh Antôn vùng Angevin (Phi Châu) đã thuật lại câu chuyện sau đây: có chàng thanh niên đến gặp cha xứ của anh và nói: “Thưa Cha! Con không đi nhà thờ nữa”. Vị linh mục ngạc nhiên, hỏi lại: “Con có thể cho cha biết lý do tại sao con muốn ở nhà?”. “Thưa Cha! Đi nhà thờ ở đây, con thấy: cô này nói xấu cô nọ, anh kia lên đọc sách Thánh đọc dở ẹc, ca đoàn hát lễ vừa chia rẽ vừa hát sai, còn người đi xem lễ cứ chăm chăm nhìn vào điện thoại… Đã thế, khi ra khỏi thánh đường, họ lại là những người ích kỷ, cao ngạo… thật khó ưa”.
Ông cha xứ từ tốn đáp lại: “Con có lý khi nói ra những hiện tượng ấy. Nhưng trước khi dứt khoát rời bỏ nhà thờ luôn, con có thể giúp cha một việc chứ?”. “Thưa Cha! Việc gì vậy?”. “Con hãy rót một ly nước đầy, rồi con cầm ly nước ấy đi quanh nhà thờ ba vòng mà không làm đổ một giọt nước nào. Sau đó, con có thể ở nhà bỏ giáo xứ luôn cũng được”. Chàng thanh niên tự nhủ: việc ấy quá dễ dàng! Thế rồi, anh ta mang ly nước đầy đi quanh nhà thờ ba vòng. Thực hiện xong, anh đến gặp vị linh mục và nói: “Thưa Cha! Con đã hoàn tất việc cha đã nhờ con”.
Cha xứ liền hỏi: “Khi con đi như vậy, con có thấy cô này nói xấu cô kia không?”. Anh ta trả lời: “Dạ thưa Cha! Con không thấy ạ”. / “Con có thấy người này người kia thờ ơ với nhau chăng?” “Thưa Cha, không”. / “Con có thấy người kia người nọ chúi mũi nhìn vào chiếc điện thoại của họ không?” “Không, con không thấy”. / “Thế con có biết tại sao con không thấy chăng: vì con cứ tập trung nhìn vào ly nước, vừa đi vừa ngó liên tục vào nó, để nước không bị đổ ra ngoài. Chính nhờ sự tập trung chú ý đó, mà con bảo toàn được ly nước còn nguyên vẹn, không mất một giọt nước nào”.
Cuộc đời mỗi ki-tô hữu cũng thế. Khi tâm hồn họ tập trung, qui hướng vào Đức Kitô, họ sẽ không còn thời gian để nhìn vào cái sai, cái xấu của người khác nữa. Kẻ cố tình bước ra khỏi nhà thờ vì thấy anh chị em khác đạo đức giả thì chắc chắn họ cũng sẽ không vào nhà thờ vì Đức Giêsu Kitô. Hãy tập cho quen nhìn mình để hồi tâm luyện đức còn hơn là cứ nhìn vào sai sót tha nhân mà lên án, phê phán.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật: sau khi nghe Thầy Gioan Tiền Hô giới thiệu, hai môn đệ của ông là Anrê và Gioan, đã qui hướng tập trung nhìn vào Đức Kitô, tìm gặp Chúa và ở lại với Ngài. Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh. Ta cùng suy niệm:
• Gioan Tiền Hô qui hướng về Đức Ki-tô. • An-rê và Gioan cùng tập trung vào Đức Ki-tô. • Sống hướng tâm, tìm gặp Đức Kitô trong cuộc đời.
A. Gioan Tiền Hô qui hướng về Đức Kitô.
Với bốn tuần nùa Vọng trước Lễ Giáng Sinh, ta đã làm quen khuôn mặt Gioan Tiền Hô được đề cập khá nhiều trong các bài Phúc Âm. Đúng vậy, được Chúa chọn là ngôn sứ Đấng Tối Cao, kẻ “sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1:76), Gioan Tiền Hô luôn chu toàn sứ vụ của mình: dọn cõi lòng muôn dân đón nhận Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Tinh sắp xuất hiện.
Để thi hành trọng trách cao quý ấy, Gioan Tiền Hô khiêm tốn muốn Chúa được lớn lên, còn ông phải nhỏ đi (Ga 3:30). Và từ đó, cuộc sống và sứ vụ của ông hoàn toàn qui hướng về Đức Ki-tô.
1. Từ trong hoang địa, Gioan Tiền Hô xuất hiện đi trước dọn đường cho Đức Ki-tô (Mt 3:1-3). 2. Gioan rao giảng về Đức Ki-tô, đám đông dân chúng lũ lượt kéo đến với ông (Lc 3:7-14). 3. Gioan xác nhận mình không phải là Đấng Ki-tô, nhưng chỉ là kẻ được sai đi trước mặt Người (Ga 3:28). 4. Gioan luôn đề cao, qui hướng về Đức Ki-tô:
+ Có Người sẽ đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi và có trước tôi (Ga 1:30). + Đấng ấy quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người (Mc 1:7). + Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và trong lửa (Lc 3:16).
5. Gioan tự ẩn mình đi và giới thiệu các môn đệ của mình tìm gặp và đi theo Đức Ki-tô.
+ Gioan nói với An-rê và Gioan: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). + Gioan minh chứng với các môn đệ khác: “Đức Kitô cần phải nổi bật lên, còn Thầy cần bị lu mờ”(Ga 3:30).
Sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Quả thật, Gioan Tiền Hô đã làm tất cả để vinh danh Đức Ki-tô.
B. Anrê và Gioan cũng tập trung vào Đức Ki-tô.
Nghe được lời Thầy Gioan Tiền Hô minh xác và giới thiệu, hai môn đệ của ông mau mắn lên đường đi theo Đức Ki-tô. Bước theo Chúa là can đảm từ bỏ mọi sự mình có, để dấn thân đồng hành với Ngài.
1. An-rê và Gioan đã gặp Chúa. Ngài hỏi cả hai: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1:38).
2. Được Chúa welcome gợi mở: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và ở lại với Ngài (Ga 1:39).
3. Sau đó, đang khi hành nghề ngư phủ cùng gia đình, tiếng Chúa gọi mạnh mẽ thêm, cả hai càng dứt khoát bỏ thuyền và lưới, đi theo Đức Kitô thành những kẻ chài lưới người (Mt 4:18-22).
Như thế, cuộc sống của An-rê và Gioan đã thực sự đổi đời, khi họ tập trung tương lai đời họ vào Chúa. Không những thế, cả hai còn muốn giới thiệu thêm nhiều người khác, cũng gặp và tin theo Đức Ki-tô.
4. Ta thấy Phúc Âm tường thuật những hành động tốt đẹp của An-rê làm vinh danh Chúa.
• An-rê dẫn em mình là Phê-rô đến gặp Chúa, cùng theo Ngài làm môn đệ (Ga 1:41-42). • An-rê cũng giới thiệu những người Hy Lạp đến gặp Chúa (Ga 12:20-22). • An-rê cũng trung gian dẫn một em bé dâng cho Chúa 5 tấm bánh và 2 con cá (Ga 6:9). • An-rê can trường đi rao giảng về Ơn Cứu Độ của Chúa cho lương dân nhận biết để rồi chết trên thập giá chữ X sau đó: minh chứng niềm tin vào Đức Ki-tô cho đến cuối đời.
5. Tông đồ Gioan cũng thế, ông luôn làm mọi sự để sáng danh Chúa suốt cuộc đời mình.
• Gioan dâng trọn cuộc đời thanh xuân khiết tịnh của mình, để thuộc về Chúa suốt đời. • Gioan luôn hiện diện ủi an Chúa, không để Ngài đơn côi một mình (Ga 19:25-27). • Gioan được vinh dự riêng chứng kiến Chúa hiển dung trên núi Tabor (Mt 17:1-9), được thấy Chúa làm cho kẻ chết sống lại (Mc 5:37.42), được đồng hành đặc biệt bên Chúa nơi vườn Cây Dầu (Mt 26:37). • Cùng với Phêrô, Gioan mạnh dạn nhân danh Chúa giúp anh què đi lại dễ dàng (Cv 3:7). • Theo truyền thuyết, vì Gioan luôn miệng cao rao danh Chúa nên ngài đã bị bắt bỏ vào chảo dầu sôi sùng sục, nhưng lạ lùng thay: thân xác Gioan không bị hề hấn gì.
Rõ ràng, “người môn đệ Chúa yêu” đã không ngại gian khó, luôn hy sinh mọi sự miễn là “Đức Ki-tô được rao giảng và biết đến” (Pl 1:18).
C. Sống hướng tâm, tìm gặp Đức Ki-tô trong cuộc đời.
Thánh Bonaventura sinh năm 1221 tại Toscane (Italy). Năm lên 4 tuổi, ngài bị bệnh nặng tưởng chừng không qua khỏi nhưng bà mẹ đã đem con đến nhờ thánh Phanxico d’Assisi cầu nguyện. Quả nhiên sau đó, Bonaventura được lành mạnh và tự hứa lòng mình sẽ đi tu dòng thánh Phanxico. Càng lớn, cậu càng thông minh sáng suốt. Năm 15 tuổi, Bonaventura đến Paris theo học Triết và Thần Học. Tại đây, ngài gặp Tôma Aquinô, một sinh viên tài ba lỗi lạc.
Hai người kết bạn thân với nhau. Bonaventura và Tôma Aquinô vốn hay lui tới học hỏi nhau về các môn phần đời cũng như đường nhân đức trọn lành. Thấy bạn mình quá khôn ngoan đức hạnh, Tôma Aquinô liền hỏi Bonaventura: “Bạn học được những kiến thức xuất sắc ấy ở sách nào vậy?”. Bonaventura liền chỉ vào cây Thánh giá và nói: “Tôi học với Chúa Giê-su chịu đóng đinh. Chính trong các vết thương đẫm máu của Người mà tôi tìm được mọi sự hiểu biết cho tôi”.
- Một vị thánh khiêm tốn đã nhận ra căn nguyên mọi nhận thức khôn ngoan của mình là ở nơi Chúa. - Bonaventura biết qui hướng mọi vinh quang trỗi vượt mình có được là do Đức Kitô ban tặng.
Biết hướng tâm trí mình về Chúa, tìm gặp Chúa trong mọi nơi mọi lúc là thái độ cần có của ki-tô hữu.
1. Suốt 33 năm Chúa nhập thể làm người, nhiều người khao khát muốn tìm gặp Đức Giêsu Kitô.
• Các người chăn chiên hối hả tìm đến Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ (Lc 2:15-16). • Ba nhà chiêm tinh lên đường tìm Đức Vua dân Do Thái mới hạ sinh (Mt 2:1-12). • Có mấy người Hy Lạp đến nói với Philipphê: “Họ muốn gặp ông Giêsu” (Ga 12:21). • Nathanael đã nhờ anh bạn thân Philipphê hướng dẫn mình đến gặp Chúa (Ga 1:45-51). • Thấy Chúa Giêsu chữa lành nhiều kẻ ốm đau bệnh tật được bình phục, nhiều người khác trong vùng rủ nhau đi tìm gặp Chúa (Mc 1:34-37). • Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu xuống thuyền đi sang nơi khác. Dân chúng vốn được ăn bánh no nê, lại nôn nao đến tận Capharnaum tìm Chúa (Ga 6:26).
2. Sống đạo hôm nay, người ki-tô hữu có thể tìm gặp Chúa:
• Khi hiệp thông đọc kinh cầu nguyện nhân danh Chúa (Mt 18:19-20). • Khi dành thời gian đọc Kinh Thánh, tìm hiểu lịch sử Ơn Cứu Độ. • Khi tham dự các lớp Giáo Lý, học hỏi sống đạo tại các giáo xứ. • Khi đến nhà thờ dâng lễ Misa, nghe Lời Chúa và đón nhận Thánh Thể Chúa. • Khi viếng Thánh Thể trong Nhà Tạm: tâm sự với Chúa & nghe Chúa nói với ta. • Khi hồi tâm xét mình Xưng Tội, tự vấn lương tâm mỗi ngày để hoàn thiện dần dần. • Khi dọn mình sốt sắng lãnh nhận các Bí Tích, kín múc ơn sủng cho linh hồn mình.
3. Bình thường, đến với Chúa khá dễ dàng nhưng giữ được đầu óc tập trung, liên kết mật thiết với Chúa mãi, thật là khó. Bởi lẽ: lòng dạ ta yếu đuối, tâm trí ta lo toan nhiều chuyện ngổn ngang...
Để có thể qui hướng và tập trung vào Chúa tốt đẹp, mỗi khi làm việc đạo đức, ta cần:
• Khẩn nài ơn Chúa trợ lực, giúp mình hướng thượng lên Chúa trong mọi lúc. • Luôn chú ý nhìn Chúa, không xao xuyến bởi tiếng động chung quanh gây phiền hà. • Miệng đọc kinh cầu nguyện, tâm suy niệm từng lời, từng ý nghĩa liên qua đến câu kinh. • Kềm hãm đôi mắt tập trung vào Chúa, không để nó đi du lịch lang thang ra chỗ khác. • Vào dâng lễ, nên tắt phone hoặc để phone ngoài xe hơi, khỏi phiền muộn phân tâm. • Nghe lời Chúa, tâm hồn lắng đọng chú ý nghe hơn là chăm chăm nhìn người đọc sách. • Đón nhận lời linh mục chia sẻ Phúc Âm sống đạo, không nghịch phone để đọc tin tức, hay táy máy ngón tay gửi tin nhắn, lặng lẽ chơi games riêng…
Đức giám mục Mesmillod là người có lòng sùng kính Thánh Thể Chúa cách sốt sắng. Ngài ưa quỳ tĩnh nguyện lâu giờ trước Nhà Tạm. Một ngày nọ, Đức cha giảng một bài tuyệt vời sâu xa về Thánh Thể, đến nỗi ngay sau bài giảng ấy: có người ngoại giáo tin thật vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, ông đã đến xin Đức cha chịu phép Rửa Tội.
D. Lời Nguyện kết thúc.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Con yêu mến Chúa, con ao ước được tập trung và qui hướng về Chúa luôn. Xin Ơn Thánh Chúa lôi kéo con đến gần Chúa, giúp con sống với Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Xin hỗ trợ tâm trí con hướng về Chúa mãi, đôi mắt con chăm chú nhìn Ngài không mỏi mệt, để qua đó, con có thể làm người môn đệ chân chính, trung kiên với Chúa suốt đời. AMEN.
Để có thể yêu nhau, giả thiết hai người phải gặp gỡ nhau, biết nhau. Nói cách khác, trước khi có TN2-B118
Để có thể yêu nhau, giả thiết hai người phải gặp gỡ nhau, biết nhau. Nói cách khác, trước khi có lời của trái tim, đã có lời của ánh mắt. Khoảng cách từ ánh mắt đến trái tim là hành trình tình yêu.
Như vậy sự tiếp xúc và gặp gỡ cần thiết biết chừng nào cho tình yêu...
Tôi muốn so sánh hành trình tình yêu đó với việc BIẾT và YÊU Chúa mà các tông đồ đã có. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay diễn tả cụ thể hành trình này.
Các môn đệ, sau khi được thánh Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu, đã đến gặp Chúa, ngỏ lời với Chúa: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?". Chúa mới gọi: "Hãy đến mà xem". Nhưng họ không chỉ đến xem. Tác giả Tìn Mừng ghi nhận: "Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người".
Như hai người yêu nhau, càng gặp gỡ, tình yêu càng sâu đậm. Hành trình theo Chúa cũng đòi phải "đến xem", rồi mới "ở lại với Người". Càng ở lại với Chúa bao nhiêu, lòng yêu mến Chúa trong ta càng tràn đầy, càng mạnh mẽ.
Cặp động từ "Đến xem", "ở lại" là nền tảng, là căn bản, là mấu chốt của đoạn Tin Mừng.
Không chỉ có thế, cặp động từ này còn có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. Bởi nếu không "đến xem", không "ở lại" với Chúa, không bao giờ trở thành môn đệ của Chúa. Vì thế, cặp động từ này lại càng trở thành nền tảng, căng bản, mấu chốt của sứ vụ tông đồ mà người môn đệ Chúa Giêsu cần phải có.
"Đến xem" là chứng kiến, là gặp gỡ, là tiếp xúc với Chúa để có kinh nghệm về Chúa. Nhưng kinh nghiệm thôi, chưa đủ. Cần phải có cảm nghiệm tình yêu của Chúa dành cho mình. Do đó cần "ở lại" với Chúa. "Ở lại" là lãnh nhận và cảm nhận tình Chúa yêu mình. "Ở lại" là ở lại trong tình yêu của Chúa.
Nếu gọi khoảng cách từ ánh mắt đến trái tim là hành trình của tình yêu đôi lứa, thì việc đến xem và ở lại bên Chúa của chúng ta là hành trình tình yêu của con người đáp lại Thiên Chúa đi từ giác quan đến tâm hồn.
Các tông đồ, sau khi đã có kinh nghiệm về Thầy Giêsu và cảm nghiệm lớn lao về tình yêu của Thầy, mới có thể rao giảng lời của Thầy cho mọi người, mới can đảm hy sinh cả một đời cho Tin Mừng mà Thầy truyền dạy.
Để có được hành trình tình yêu ấy, để được "ở lại" bằng chính tình yêu của mình đối với Thầy, người Kitô hữu buộc phải sống đời sống cầu nguyện.
Phải cầu nguyện nhiều mới có thể ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu. Như các tông đồ xưa, một khi đã ở lại trong tình yêu của Chúa, người tín hữu hôm nay mới có thể rao giảng Tin Mừng cách thiết thực.
Tuy nhiên, việc rao giảng không thể thực hiện bằng lời nói suông mà phải bằng đời sống bác ái, biết phục vụ, biết giúp đỡ, biết tha thứ...
Một người luôn gây sự với người khác, hay một người luôn coi mình là trên, là nhất, không bao giờ là một chứng nhân của Tin Mừng.
Vì thế, để ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu, đời sống cầu nguyện rất cần thiết, nhưng chưa đủ. Bên cạnh việc cầu nguyện, còn phải biết sống tốt, sống gương mẫu.
Khi làm được như thế, ta mới thực sự là người truyền giáo đúng nghĩa. Vì khi đó, ta thực sự chứng tỏ là mình đã và vẫn "đến xem và ở lại" với Chúa.
Nhạc sĩ Nhất Sinh gói ghém tình yêu nam nữ thật đẹp qua bài hát "Tơ Hồng": Anh đến quê em TN2-B119
Nhạc sĩ Nhất Sinh gói ghém tình yêu nam nữ thật đẹp qua bài hát "Tơ Hồng":
Anh đến quê em nơi đây có dòng sông Cầu Dự ngày hội Lim anh đã hứa khi xưa Vượt bao đèo cao bao suối sâu Nắng mưa gió sương anh không ngại Chỉ mong gặp em người em gái Hát câu dân ca người ở đừng về...
Ta chưa tham dự lễ hội hát quan họ để rồi chưa có cái cảm nghiệm của niềm vui lớn khi gặp nhau và cùng nhau hát những khúc ca quan họ. Vui lắm, tình cảm lắm, thân thương lắm để rồi ai ai cũng mong rằng "người ở đừng về".
Cảm xúc "người ở đừng về" đấy thật dễ thương bởi lẽ nó xuất phát tự đáy lòng của con người.
Đúng vậy! Là người với nhau, gặp nhau đã là quý và muốn ở lại với nhau càng lâu càng tốt nên mới nói với nhau rằng "người ở đừng về".
Thế nhưng trong đời thường, có lẽ hơn một lần ta sống cái cảm xúc "ở lại" với người thân khi họ đến thăm ta, họ đến nhà ta. Dĩ nhiên là cũng có lúc phải đi về nhưng rồi phải đi về vì ai phải trở về nhà nấy, trở về với công việc của mỗi người. Dẫu biết phải thế nhưng ai ai cũng muốn níu kéo "người ở đừng về".
Cảm xúc "người ở đừng về" đó ngày hôm nay chúng ta bắt gặp nơi các môn đệ.
Chúng ta nghe lại: Khi ấy, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
Rõ ràng, trước đó hai ông này không hề biết Chúa Giêsu và chẳng biết gì về Chúa Giêsu và dĩ nhiên không thể biết chỗ mà Chúa Giêsu ở. Nghe bảo "đến mà xem" và rồi đi đến nơi Người ở.
Thánh Gioan không nói nơi Người ở là như thế nào và Thánh Gioan cũng không nói rằng Chúa Giêsu đã mời họ ăn gì nhưng chỉ nói rằng họ ở lại với Người.
Và sau đó, ta thấy thánh Gioan nói tiếp rằng một trong hai người đi theo Đức Giêsu đã nói với Gioan rằng: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia.
Vấn đề cốt lõi là ở chỗ đó. Họ đã đến, họ ở lại và họ đã gặp Đấng Mêsia - Đấng Cứu Độ trần gian - và sau đó cuộc đời của các ông đã biến đổi.
Trở lại với bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe cũng rất hay. Samuen là đứa con cầu con khẩn để rồi sau khi cất khóc chào đời sau khi thôi bú, cha mẹ đã dâng Samuel cho Thiên Chúa. Samuel ở trong thánh điện Silô với thầy cả Hêli. Và tại nơi đây Thiên Chúa đã kêu gọi và trao sứ mạng cho Samuel.
Sau khi thầy cả Hêli qua đời, Samuel đứng lãnh đạo quốc gia suốt 20 năm (1050-1030tcn). Ông là thủ lãnh trong vai trò giải quyết các công việc cho dân chúng. Ông còn có một vai trò khác quan trọng hơn, đó là làm tiên tri (ngôn sứ): đón nghe Lời Thiên Chúa và truyền đạt lại cho dân chúng.
Ở với Thiên Chúa để rồi ngày mỗi ngày cuộc đời của Samuel có Thiên Chúa ở cùng và ân huệ Thiên Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của ông. Hiệu quả hay nói đúng hơn là ơn của sự "ở lại" với Thiên Chúa là như thế đó.
Thiên Chúa luôn mời gọi ta ở cùng với Ngài để Ngài yêu thương ấp ủ cuộc đời của chúng ta như gà mẹ ủ ấp gà con vậy. Đặc biệt, nơi Chúa Giêsu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta trong tin mừng theo Thánh Gioan: "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy"
Tuyệt vời! Chắc có lẽ không gì tuyệt vời hơn cho bằng "ở lại" trong tình yêu của Thầy. Khi ở lại trong tình yêu của Thầy thì anh em sẽ cảm nghiệm được tình yêu đó và cũng sẽ yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
Ngày nay, chẳng hiểu sao người ta cứ chạy loanh quanh như chiếc đèn cù và không có điểm dừng, cũng như không ở lại trong nhau nữa. Cũng dễ hiểu, khi người ta không ở lại trong Chúa thì làm gì có chuyện ở lại trong nhau. Hiệu quả của việc ở lại trong Chúa và ở lại trong nhau rất rõ ràng.
Có thể là vì chạy theo kinh tế thị trường, chạy theo xã hội để rồi nhiều và rất rất nhiều người sống theo cơ chế thị trường đó. Mở mắt ra, ta thấy cuộc sống bắt đầu xô dập. Từ sáng sớm đến chiều tối, vợ chồng con cái bắt đầu "cuốn theo chiều gió".
Làm cái gì cũng nhanh nhanh cho kịp thời gian theo kiểu người ta vẫn ví von như "ma đuổi". Nhanh, vội để rồi người ta thích mì ăn liền, cháo ăn liền, phở ăn liền, hủ tíu ăn liền. Sáng là như vậy, trưa thì thức ăn nhanh còn tối thì cơm hộp... Người ta bận đến độ không còn giờ dành cho nhau nữa.
Và, giờ dành cho Chúa thì như thế nào? Mỗi tuần Chúa dành cho người ta quá nhiều thồi gian: 7 nhân với 24 giờ. Chúa chỉ mời gọi người ta đến với Chúa có 1 giờ của 7 nhân với 24 thôi nhưng vẫn còn so đo tính toán.
Đến với Chúa thật buồn cười! Chuyện tưởng là cười nhưng có thật là ở Sài Gòn người ta kháo láo với nhau có 2 nhà thờ Lễ Chúa Nhật có giảng luôn tổng cộng 30 phút!!!
Đi lễ mà còn tính toán, còn chọn nhà thờ nào ngắn nhanh gọn để đến. Có khi khoảng cách từ nhà mình đến nhà thờ lễ nhanh đó thật xa nhưng miễn sao ngắn gọn là người ta cứ tìm đến. Tính làm sao lễ càng nhanh càng tốt và như thế là tròn bổn phận.
Đến với Chúa trong Thánh Lễ, quan trọng không kém việc rước Chúa là lắng nghe Lời Chúa. Chẳng may Cha nào giảng dài một tí là bắt đầu chia lòng chia trí và không ngần ngại lướt web hoặc tán gẫu. Và, có khi đi lễ là đi lễ "vọng", lễ "gốc" và thậm chí cả lễ "ôm" nữa.
Cần kiểm chứng, ta có thể rảo quanh một số nhà thờ vào các giờ lễ ta sẽ thấy sự thật đau lòng như thế.
Sau khi rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, cần lắm những giây phút linh thiêng để lòng kề lòng với Chúa, trải lòng với Chúa nhưng lại cứ mong cho mau để... đi về.
Với Chúa là Chúa, là chủ cuộc đời người ta mà người ta còn tính toán như thế huống hồ chi là với con người. Tính quá để rồi trong gia đình không có giờ cơm chung, giờ kinh chung nữa.
Ban ngày thì đổ lỗi cho đi học, đi làm. Tối đến, mạnh ai nấy ăn mỗi người một dĩa để tranh thủ thời gian lướt web, xem phim.
Đấy là lý do bận của con người ngày hôm nay. Không còn giờ ở lại với Chúa và rồi không còn giờ để ở lại với nhau nữa.
Ngày hôm nay, khủng hoảng về đời sống gia đình ắt là điều dễ hiểu bởi lẽ người ta không còn "ở lại" với nhau. Làm cái gì cũng làm lẹ thật lẹ, mau thật mau và làm cho cố xong chứ không còn tâm huyết cho nhau nữa.
Điều đặc biệt nhất mà Chúa dành cho ta đó chính là Bí Tích Thánh Thể, Bí tích Tình Yêu. Chúa ở lại với ta mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây để rồi phần ta, ta có đến, có kết hiệp, có ở lại với Chúa như Samuen, như hai môn đệ ngày xưa hay không mà thôi.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày dù bận rộn chúng ta cũng dành thời gian để kết hiệp mật thiết hơn với Chúa. Có như vậy, ta mới cảm được tình Chúa thương ta và rồi ta cũng thương Chúa và thương anh chị em như Chúa mời gọi.
Bài đọc 1, Sách Sa-mu-en kể Cậu bé Sa-mu-en gặp được Đức Chúa trong lúc phụng sự Ngài trong TN2-B120
Bài đọc 1, Sách Sa-mu-en kể Cậu bé Sa-mu-en gặp được Đức Chúa trong lúc phụng sự Ngài trong Nhà của Đức Chúa và Chúa đã biến đổi và làm cho ông trở thành một tiên tri lớn loan báo Nước Chúa sau này. Đến bài Tin Mừng, Thánh Gioan tông đô mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và hai môn đệ của ông Gioan tẩy giả. Hai môn đệ gặp Chúa và đổi đời.
Điều chú ý trước hết là các ông này gặp được Chúa là nhờ lời giới thiệu Gioan Tẩy Giả: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Và hai ông trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Rõ ràng hai môn đệ theo Chúa Giêsu rồi, tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Rồi các môn đệ đáp trả: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà... mà Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. Hãy đến và xem cái gì? Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu.
Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu. Cuối cùng, chính vì đã cảm kinh nghiệm được tình yêu của Chúa mà Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là ông Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Quả thế, Ông đã gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Và ông dẫn em mình tới và cùng với em mình là Phêrô tìm hiểu, cùng khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Thánh và ở lại với Người. Điều đáng học hỏi đây đó là niềm tin của ông Anrê càng được củng cố, càng lớn lên và trưởng thành là nhờ ông biết chia sẻ sự hiểu biết về Chúa cho người khác. Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông môn đệ đầu tiên không còn là cuộc sống như trước mà đã làm thay đổi tận căn.
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Gặp rồi, có nhớ Lời Chúa dạy làm gì không? Chúng ta có để Chúa hiện diện trong cuộc sống của chúng ta chưa? Nếu có rồi mà tại sao ta vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi, vẫn còn chia rẽ, ganh ghét nhau, chưa hiệp nhất?... Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trả lời rằng vì dục vọng, tức vì quyền, tiền và tình làm cho thân xác ta ra hoen ố mà chúng ta không biết rằng thân xác ta là Đền Thờ của Thánh Thần. Mà Thánh Thần đang ngự trong chúng ta là chính Thiên Chúa. Vậy đừng vì dục mà đánh mất Thiên Chúa nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta. Cho nên, trong Thư Chung Mục Vụ năm 2015, Hội Đồng Đức Giám Mục Việt Nam kêu gọi: “Mọi tín hữu hãy tham dự những cử hành phụng vụ cách ý thức và sống động hơn, không những để chu toàn lề luật mà còn để gặp gỡ Chúa và để Chúa biến đổi đời sống chúng ta. Như thế, Phụng vụ sẽ trở thành nguồn lực thánh hóa bản thân, đồng thời đem tinh thần Phúc Âm vào môi trường sống trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội” (số 2).
Vậy, giờ này chúng ta gặp Ngài đang gặp Chúa và lát nữa chúng ta lại đón Ngài vào nhà của chúng ta là tâm hồn của mỗi người. Chúng ta hãy để Chúa nói và dạy, đồng thời khi về với cuộc sống hãy làm theo Chúa dạy, chắc chắn đời ta sẽ thay đổi dần dần: thay vì dùng lời tục tiểu mà chửi mắn nhưng lấy lời lành mà khuyên người; thay vì lo thu vén cho mình, ích kỷ không biết cho đi, nhưng yêu thương giúp đỡ nhau khi ốm đau, khi hoạn nạn. Và nhất là biết sẵn sàng chia sẻ niềm đức tin này cho anh cho em khác nhờ đồng thời chia sẻ cuộc sống an bình của mình cho mọi người anh em, nhất là những con người nghèo khổ. Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nỗ và tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Vì vậy, Đức Thánh Cha Phan xicô nói: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.
Ước gì lời bài thánh ca này trở thành hiện thực nơi mỗi người chúng ta: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh. Nguồn suối nếu bế tắc, thì dòng sông mau cạn khô. Tình yêu không Kitô ôi tình yêu sao cằn cổi. Vì Chúa chính dòng suối nguồn yêu thương vô biên, biển yêu thương nối liền các hoang đảo với đại dương”.
Vai trò người làm trung gian để nối kết con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người TN2-B121
Vai trò người làm trung gian để nối kết con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người bao giờ cũng hết sức cần thiết. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy điều đó.
Bài đọc I, kể lại ơn gọi của Samuel: Từ nhỏ, Samuel ở lại trong đền Silô để giúp việc cho Thầy Hêli. Vào một đêm nọ, khi Samuel đang ngủ bên cạnh hòm bia Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi Samuel ba lần. Hai lần đầu, cậu tưởng là Thầy Hêli gọi, nên cậu đến trình diện. Nhưng sau đó, Thầy Hêli cho biết là tiếng Chúa gọi, nên lần thứ ba Samuel đã mau mắn đáp trả lại rằng: “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.”(1Sm 3,9). Thế rồi, Samuel được Chúa chọn thay thế thầy Hêli, làm thủ lãnh dân Do thái.
Bài Tin mừng hôm nay được thánh Gioan tường thuật lại việc các môn đệ đầu tiên gặp gỡ và đi theo Đức Giêsu chính là nhờ vai trò trung gian của Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin mừng cho biết: Khi thấy Đức Giêsu đi qua, Thánh Gioan Tẩy Giả nhìn về phía Người và giới thiệu với Anrê và Gioan rằng: “Đây là chiên Thiên Chúa.” (Ga 1,36). Thế rồi, hai môn đệ đã đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Sau thời gian đó, hai ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Khi trở về nhà, Anrê lại làm trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là Simon: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô”(Ga 1,41). Sau đó, Anrê dẫn Simon tới gặp Đức Giêsu và được Người đổi tên cho Simon là Kêpha, nghĩa là Đá (x. Ga 1,42).
Như vậy, nhờ thầy Hêli mà Samuel nhận ra tiếng Chúa gọi, nhờ Thánh Gioan Tẩy Giả mà Anrê và Gioan đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và nhờ Anrê mà Simon tin theo Đức Giêsu và trở thành Kêpha, tức là Đá. Cho nên, Thánh Gioan Tẩy Giả trở thành trung gian nối kết giữa Anrê và Gioan với Đức Giêsu, còn Anrê trở thành trung gian nối kết giữa Phêrô với Đức Giêsu. Và cứ như thế, nhờ trung gian của các Tông đồ, các môn đệ, các kitô hữu đầu tiên và của Giáo hội suốt hai ngàn năm qua mà vô số người ngoại giáo trở thành kitô hữu.
Ngày hôm nay, để cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và Thiên Chúa gặp gỡ con người cũng cần có những vai trò trung gian.
Trước hết, vai trò trung gian trong ơn gọi linh mục và tu sĩ. Samuel đã nhờ Thầy Hêli mà gặp được Chúa, trở thành lãnh tụ của dân Do Thái. Để trở thành linh mục, tu sĩ cũng cần có những người làm trung gian. Đó chính là cha mẹ, người thân, bạn bè, thầy cô giáo lý viên, cha xứ, cha đỡ đầu, những người bảo trợ…Chính nhờ gương sáng của các vị này mà nhiều bạn trẻ đã có chí hướng đi tu làm linh mục hay tu sĩ. Sống trong một đất nước nghèo như ở Việt Nam chúng ta thì sự nâng đỡ về vật chất cho các ứng sinh tu sĩ và linh mục tương lai là điều hết sức cần thiết. Vì thế, có thể nói đa số các linh mục tu sĩ trưởng thành như hôm nay có một phần đóng góp không nhỏ của những người trung gian như: cha xứ, cha đỡ đầu, người bảo trợ.
Thứ đến, vai trò trung gian trong việc giúp người tội lỗi trở về với Chúa. Qua dụ ngôn con chiên lạc, người đàn bà đánh mất đồng bạc, chúng ta thấy Đức Giêsu chú trọng đến việc “đi tìm”. Người chủ chăn đi tìm con chiên lạc. Người đàn bà đi tìm đồng bạc đã đánh mất. Chúng ta cũng phải trở thành người trung gian đi tìm “các con chiên lạc” hay “đồng tiền bị đánh mất”. Đó là những người kitô hữu nhưng sống đạo khô khan, sa vào các tệ nạn, phạm tội nặng hay thậm chí họ không còn sống đạo nữa. Họ có thể là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè của chúng ta. Chúng ta có thể giúp họ trở về với Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự khuyên bảo, dẫn dắt họ đến với các linh mục, đến với bí tích Giao hòa. Đó là trách nhiệm tái truyền giáo của chúng ta.
Thứ ba, người kitô hữu làm trung gian để giúp người ngoại giáo trở thành người kitô hữu. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho Anrê và Gioan. Anrê đã giới thiệu Đức Giêsu cho Simon. Suốt 2000 năm qua, Giáo hội không ngừng giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân. Thế nhưng con số kitô hữu trên thế giới vẫn còn là thiểu số. Tại Việt Nam, người Công giáo chỉ chiếm khoảng 10%. Vì vậy, vai trò trung gian của người kitô hữu vẫn luôn quan trọng và cấp bách. Chúng ta có thể rao giảng về Chúa cho họ, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nhưng hiệu quả hơn cả đó chính là làm gương sáng bằng chính đời sống bác ái yêu thương. Đó chính là trách nhiệm truyền giáo của chúng ta.
Nhưng để chu toàn vai trò trung gian giữa con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người thì người làm trung gian cần phải dành nhiều thời gian để: gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa như Anrê và Gioan; lắng nghe tiếng Chúa như Samuel. Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua Giáo huấn của Giáo hội, qua sự khuyên dạy của Bề trên như Cha xứ, cha mẹ hay những người khôn ngoan. Chúng ta cũng có thể lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo qua lương tâm.
Mặt khác, người trung gian cần phải có một đời sống mẫu mực, nghĩa là phải có Chúa trong mình thì mới có thể đem Chúa đến với tha nhân, vì “không ai cho cái mình không có”. Để có Chúa trong mình, cần phải xa tránh tội lỗi. Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Cônrintô, khi đã chịu Phép Rửa tội là đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần nên họ không được phạm tội tà dâm, vì như vậy sẽ làm ô uế thân xác. Ngài nói: “Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (1 Cr 18-20). Lời mời gọi các tín hữu Côrintô cũng là lời mời gọi mọi người chúng ta hôm nay. Ngày hôm nay do ảnh hưởng bởi sách báo, phim ảnh, internet nên con người lại càng dễ bị cám dỗ phạm tội dâm dục hơn. Vì thế, để tránh được tội này cần phải thường xuyên cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, đồng thời cần phải xa tránh các dịp tội bằng cách quyết tâm không đọc sách báo xấu, không vào các trang mạng xấu, không xem phim ảnh dâm ô và xa tránh những nơi ảnh hưởng đến đức trong sạch.
Xin cho tất cả mọi người kitô hữu chúng ta biết xa tránh tội lỗi nhất là tội dâm ô, để sống thánh thiện, xứng đáng làm cầu nối cho tha nhân đến với với Chúa. Amen.
Ngày nay không ai phủ nhận sự tích cực của công nghệ thông tin. Con người ngày nay đang tận TN2-B122
Ngày nay không ai phủ nhận sự tích cực của công nghệ thông tin. Con người ngày nay đang tận dụng rất nhiều về công nghệ để giải quyết công việc hằng ngày. Với thời đại hôm nay chỉ cần ngồi một chỗ là có thể làm được mọi thứ từ làm việc đến mua sắm, học tập, giải trí... Đặc biệt là công nghệ đã giúp con người giải quyết tốt các vấn đề việc làm nhờ sự phát triển đa phương tiện.
Tuy nhiên mặt tiêu cực của công nghệ thông tin cũng đưa con người vào một lối sống mới mà người ta gọi là “sống ảo”. Sống ảo là sống không thực với hiện tại, luôn có những suy nghĩ, ý tưởng dựa vào những gì xa vời mà internet mang lại. Với thế giới ảo này người ta cũng dễ phạm tội từ việc bêu xấu, đả kích nhau, lừa tiền, lừa tình... dẫn đến phạm pháp giết người cướp của tràn lan.
Theo số lượng thống kê mới đây nhất của Facebook thì Việt Nam có khoảng 30 triệu người dùng thường xuyên trên Facebook, và con số này còn tăng trưởng mỗi ngày. Như vậy với dân số hơn 90 triệu dân thì 1/3 dân số Việt Nam biết đến mạng xã hội Facebook.
Dù facebook có mặt tốt mặt xấu nhưng thực tế trong thế giới ảo đó hiện đang có số lượng người tham gia rất nhiều. Là người ky-tô hữu chúng ta có bao giờ nghĩ mình phải là gạch nối cho những con người trong thế giới đó biết Thiên Chúa, hiểu Thiên Chúa và sống gắn bó với Thiên Chúa hay không?
Thiết nghĩ đây là cánh đồng truyền mà Chúa đang nhắc nhở chúng ta nếu không nhanh tay gặt hái thì chim trời sẽ tha đi hết. Nếu người ky-tô hữu chúng ta không tận dụng những công nghệ hiện đại để tiếp cận với cánh đồng truyền giáo mênh mông này thì ma qủy sẽ cướp đi biết bao linh hồn. Ngày xưa các nhà truyền giáo phải lặn lội cả hàng tháng trời để tới những vùng sâu vùng xa mong tiếp cận với những người chưa biết Chúa để nói về Chúa cho họ. Ngày nay chúng ta chỉ cần một nút nhấn có thể gởi một thông điệp về Chúa cho hàng ngàn con người trong một giây. Tại sao chúng ta không tận dụng cơ hội giới thiệu Chúa cho anh em đang khi chúng ta có khả năng để giới thiệu Chúa?
Thánh Gioan Tẩy Giả đã luôn tận dùng mọi thời cơ để giới thiệu Đấng Cứu Thế đến cho mọi người. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông nơi hoang địa hay nơi sông Giordan. Ông tận dụng thời cơ để nói về Chúa cho các môn đệ của mình, cho bà con láng giềng của mình, và cho cả dân tộc của ông.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình ra cho nhân loại. Ngài không cần sự trợ giúp của con người. Thế nhưng, Ngài đã không tự biểu dương mình. Ngài cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu cho Ngài đến với nhân loại. Nếu con người cảm nghiệm tình yêu ngọt ngào từ Ngài thì hãy giới thiệu tình yêu ấy cho nhiều người khác. Nếu con người cảm thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Ngài thì hãy tuyên xưng Ngài cho thế trần. Đây là bổn phận của lòng biết ơn. Đây là cách chúng ta tỏ bày lòng biết ơn của mình với Đấng tạo thành khi đã nhận ơn của Ngài.
Ước gì chúng ta biết noi gương bắt chước thánh Gioan luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trong hoang địa hay đường phố. Nơi người thân hay người xa lạ. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban để làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin khi mà một lượng người rất lớn đang sống ảo thì một sứ điệp về Chúa rất cần được chúng ta loan tải trên trang cá nhân của chúng ta. Một hành vi tưởng chừng như nhỏ nhoi nhưng chúng ta tin rằng Chúa sẽ làm điều kỳ diệu qua những nỗ lực của chúng ta. Một hành vi tưởng như dã tràng xe cát biển đông nhưng với quyền năng Chúa sẽ cứu rỗi được nhiều linh hồn. Điều quan yếu là ta đã biết tận dụng phương tiện truyền thông hiện đại để nói về Chúa cho con người hôm nay. Amen.
Các bài đọc hôm nay đều nói đến ơn gọi. Chúa kêu gọi mọi người và từng người một: Chúa đã TN2-B123
Các bài đọc hôm nay đều nói đến ơn gọi. Chúa kêu gọi mọi người và từng người một: Chúa đã gọi Samuel làm tiên tri, Chúa đã gọi các Tông đồ đi theo Chúa để rao giảng Tin mừng, và qua lời khuyên nhủ của thánh Phaolô tông đồ, Chúa kêu gọi mọi tín hữu hãy tránh xa thói dâm ô, hãy giữ thân xác cho trong sạch để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải đáp trả lại tiếng Chúa gọi như Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa: ”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”, và tìm gặp Chúa:”Hãy đến mà xem” để theo Chúa:”Hãy theo Ta”. Sau khi đã theo Chúa, chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho những người khác như ông Anrê đã làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 1Sm 3,3b-10.19.
Theo tác giả sách này, Samuel được Thiên Chúa gọi làm tiên tri ngay từ nhỏ và thuộc loại tiên tri đầu tiên. Lúc ấy Samuel là cậu bé giúp lễ, hầu việc Chúa tại đền thờ Silô bên cạnh thầy cả Hêli già nua, và chính cậu sẽ thay thế vai trò của Hêli.
Bài đọc 1 cho biết: một đêm cậu Samuel đang ngủ bên cạnh hòm Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi cậu 3 lần. Lần nào cậu cũng tưởng thầy Hêli gọi và đã đến trình diện. Nhưng sau cùng, thầy Hêli cho biết đó là tiếng Chúa gọi và Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa như thầy Hêli đã dạy:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân Do thái thay thế cho thầy cả Hêli.
+ Bài đọc 2: 1 Cr 6,13-15, 17-20.
Côrintô là một đô thị hỗn tạp. Nằm trên trục lộ giao thông, nó là nơi tấp nập để trao đổi hàng hoá, tư tưởng và cả thân xác nữa... Cuộc sống phóng túng, sắc dục được coi như là tự do và tự nhiên. Vì thế, thánh Phaolô cảnh giác những độc giả của Ngài. Ngài dạy họ rằng đối với những Kitô hữu đã trở nên thân thể của Chúa Kitô do phép rửa tội, họ không được làm ô uế thân thể họ vì họ đã được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Những lời căn dặn của thánh Phaolô vẫn không mất tính cách thời sự của nó:
- Thân xác con người là đền thờ của Chúa Thánh Thần. - Thân xác đã được cứu chuộc bằng máu của Đức Kitô. - Vì thế, chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 1,35-42.
Khi Gioan Tẩy giả đang đứng ở bờ sông Giorđan giảng đạo và làm phép rửa, trông thấy Đức Giêsu đi qua, ông đã chỉ tay vào Chúa Giêsu giới thiệu cho hai môn đệ của ông là Anrê và Gioan:”Đây là con chiên Thiên Chúa”, kiểu nói đó có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe nói thế, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ ở của Ngài và ở lại đàm đạo với Ngài một ngày. Thế là từ môn đệ của Gioan, hai ông đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu.
Sau đó, Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là Simon. Chúa cũng đã nhận Simon làm môn đệ và còn đổi tên ông là Kêpha, nghĩa là đá, cho ta đoán được trước vai trò tương lai của ông.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lời gọi và đáp trả
I. LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA GỌI.
1. Phải biết lắng nghe.
Thiên Chúa luôn kêu gọi chúng ta mọi nơi mọi lúc, vì thế tâm trí chúng ta cần phải tập trung mới nghe được tiếng nói của Chúa. Ngài nói với chúng ta trong sự thinh lặng, trong sự kín đáo, trong tâm hồn tĩnh lặng không để cho ngoại cảnh làm xáo trộn tâm hồn.
Chúa đã gọi Samuel trong đêm thanh vắng và Samuel đã nghe ra được tiếng Chúa, nên đã mau mắn thưa:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Nếu ta đang bận rộn về những nỗi lo vật chất, si mê những của phù du, đầy những dục vọng, thì ta sẽ không nghe được tiếng Chúa gọi. Tiếng nói của chúng lớn quá làm át cả tiếng Chúa vì Chúa nói nhỏ nhẹ, âm thầm, phải có đôi tai thính của tâm hồn mới có thể nghe thấy.
Truyện: Dòng suối vọng từ xa.
Một nhà thám hiểm nọ, lạc mất giữa sa mạc, đi từ đụn cát này sang cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia, nơi đâu cũng chỉ thấy toàn là cát với cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ, chân ông vấp phải một cây khô, ông vấp ngã và nằm vùi trên gốc cây, ông không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu và ông cũng không còn chút hy vọng sống sót nào.
Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc: bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình, ông ngẩng đầu lên, trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận thức: đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại. Như sống lại từ cõi chết, ông định hướng nơi xuất phát của tiếng suối, rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối (Cử hành phụng vụ Chúa nhật, tr 109).
Cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào, khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra sự hiện diện của Chúa. Có thinh lặng từ cõi lòng chúng ta mới nghe được tiếng mời gọi thì thầm của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống.
2. Phải tìm gặp gỡ Chúa.
Chúng ta tin rằng Chúa ở khắp nơi mà chẳng ở nơi nào cả, nhưng nếu chúng ta tìm thì sẽ gặp được Ngài. Thực ra, Ngài đang ở giữa chúng ta, cùng đi với chúng ta, nhưng chỉ có người thiện chí mới nhận ra sự hiện diện của Ngài.
Hãy tìm gặp gỡ Chúa như ba Tông đồ Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là cuộc gặp gỡ tuyệt vời bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó:”Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều). Ngày nay chúng ta không thể gặp Ngài một cách cụ thể như ba Tông đồ xưa, nhưng chúng ta có thể tìm gặp Ngài trong các biến cố xẩy ra từng ngày: lời khuyên của một người bạn, của một người khôn ngoan, của một đoạn Thánh kinh, một sự thử thách, một sự thất bại, một tư tưởng đột xuất nào đó, đều là những dấu chỉ của Thiên Chúa, lời kêu gọi của Chúa Kitô.
Truyện: Thánh Phanxicô Borgia.
Phanxicô Borgia (1510-1572) được cắt cử tháp tùng thi hài của hoàng hậu Isabelle, một mỹ nhân sắc nước hương trời, đến chỗ an táng của hoàng tộc. Trước khi hạ huyệt, quan tài được mở ra để được xác nhận. Cảnh tượng đã làm đảo lộn cuộc đời chàng. Phanxicô từ biệt triều đình, vào dòng Tên, trở nên vị thánh. Tổng quyền thứ ba của dòng. Ngài nói:”Từ nay mọi danh vọng và lạc thú trần gian chẳng dính dáng gì đến Phanxicô nữa”! Phanxicô Borgia đã nghe một tiếng gọi từ bên trong.
Ngày hôm nay, trên khắp mọi nẻo đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi Ngài đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Ngài đã “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bờ sông Giorđan.
Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. Ngài chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Nguời ta vẫn có thể đi sát bên Ngài mà không hay biết, vẫn có thể thấy Ngài mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai “Đây là chiên Thiên Chúa”. Tuy nhiên chỉ có người nào biết tìm kiếm và khát khao chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt, mới có thể lay động và lắng nghe (Fiches dominicales B, tr 66).
II. ĐÁP TRẢ TIẾNG CHÚA GỌI.
Trong đêm tối, Chúa đã gọi Samuel và muốn ông làm tiên tri và thay thế vai trò của thầy cả Hêli, Samuel đã mau mắn đáp trả lời mời gọi ấy:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Đáp lại tiếng gọi của Chúa đòi phải có sự can đảm và liều mạng vì nhiều lúc Chúa trao cho ta sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, đau khổ, gian nan thử thách, có khi phải hy sinh cả mạng sống nữa. Sự đáp trả lại tiếng gọi của Chúa nơi Abraham đã nói lên đức tin của ông và nói lên ông đã tỏ ra can đảm thế nào trước tiếng gọi của Chúa.
Truyện: Thomas Merton.
Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia, khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton qùi gối xuống và cầu nguyện:”Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại”. Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó, ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
Phải có thiện chí đi tìm Chúa trong cuộc sống. Mặc dầu Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà muốn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.
Thánh Augustinô đã viết:”Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con”. Cứ nỗ lục tìm Chúa thì sẽ gặp được Ngài vì Chúa đã nói:”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy”. Vậy nếu ta đi tìm Chúa mà Chúa lại không muốn cho chúng ta gặp được Ngài sao? Điều đó hoàn toàn mâu thuẫn. Và khi đã gặp được Ngài ta phải tin theo.
Truyện: Phim Ben Hur.
Nhiều người đã được xem cuốn phim Ben Hur, một cuốn phim hoành tráng. Nội dung câu chuyện rút trong tiểu thuyết nhan đề Ben Hur của đại tướng Lew Wallace.
Cuốn sách thành hình có lẽ do một sự ngẫu nhiên. Hai sĩ quan cao cấp, là bạn thân với nhau gặp nhau trên một chuyến xe lửa. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, hai ông cùng giống nhau trong quan niệm vô thần. Đó là đại tướng Lew Wallace và đại tá Robert Ingersoll. Nhất là đại tá Robert Ingersoll người vô thần nổi tiếng ở Mỹ quốc.
Trong câu chuyện hai ông đề cập đến vấn đề tôn giáo, vấn đề vai trò Chúa Giêsu trong tôn giáo. Một người nói:Tôi rất bất bình khi người ta dị đoan mê tín mà đem thần thánh hóa con người Giêsu lịch sử, và coi như là con của Thượng đế.
Rốt cuộc, vị đại tướng đề nghị: Tôi thấy nên có một người nào đứng ra viết một bộ tiểu thuyết về con người Giêsu bằng xương bằng thịt thực sự. – Thưa đại tướng, tôi rất tán thành ý kiến ấy và đại tướng nên đảm nhận việc này.
Đại tướng ưng nhận và bắt đầu tìm tài liệu nghiên cứu. Ông bỏ ra khá nhiều thì giờ và công phu để nghiên cứu kỹ lưỡng về đời sống Chúa Giêsu. Ông cố gắng chứng minh Chúa Giêsu chỉ là người chứ không phải thần thánh hay con Thượng Đế gì hết.
Sau cùng, bộ tiểu thuyết được tung ra cho dân chúng, sách bán chạy như tôm tươi, vào số cuốn sách bán chạy nhất. Người ta đã đem câu chuyện đóng thành phim và cuốn phim thu hút nhiều khán giả nhất.
Nhưng một điều đặc biệt đáng chú ý là trong khi lao công khổ cực để khám phá sự thật thì đại tướng Wallace đã tìm thấy chân lý. Chân lý đảo lộn quan niệm cả cuộc đời của vị đại tướng đó là: Chúa Giêsu không phải chỉ là người không mà Ngài còn là Con Thiên Chúa nữa.
Đại tướng Wallace đã trở thành môn đệ của Chúa vậy.
Wallace đã thành tâm tìm hiểu Chúa nên đã tìm thấy sự thật. Đây cũng là thiện chí tối thiểu Chúa đòi để gặp được Chúa vậy (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 139).
III. GIỚI THIỆU CHÚA CHO NGƯỜI KHÁC.
Chúng ta đã được hân hạnh biết Chúa và tin theo Chúa. Đây là một hồng ân Chúa ban nhưng không cho chúng ta. Nếu Chúa Giêsu đã dạy:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không” thì chúng ta cũng phải chia sẻ hồng ân ấy cho người khác để họ tin theo Chúa mà được hưởng nhờ ơn cứu độ.
Hôm nay Anrê giới thiệu Phêrô em mình cho Chúa Giêsu:”Chúng tôi đã gặp Đức Messia”(Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê là người luôn đứng ra giới thiệu người khác cho Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, ba lần nhắc đến Anrê, là ba lần ông dẫn người khác đến với Chúa Giêsu: ở đây ông dẫn Phêrô đến với Chúa, thứ đến ông dẫn em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, cuối cùng ông đưa những người Hy lạp thắc mắc đến với Chúa. Anrê rất vui đưa được người khác đến với Chúa. Ông nổi bật như là một người chỉ có mong muốn là chia sẻ vinh quang, ông là người có tâm tình truyền giáo. Sau khi chính mình đã được ở gần Chúa, ông dành trọn đời mình để dẫn đưa người khác bước vào tình yêu thương đó.
Khi Anrê đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu, Ngài nhìn ông, đó là một cái nhìn tập trung chăm chú, chẳng những thấy mặt bên ngoài mà còn đọc được cả tâm trí bên trong nữa. Khi nhìn Simon, tên của ông lúc bấy giờ, Ngài bảo:”Ngươi là Simon, ngươi sẽ được gọi là Kê-pha “(nghĩa là đá). Khi một người có mối liên hệ mới đối với Chúa, cuộc đời người ấy như được bắt đầu lại, trở thành một người mới, nên cần một tên mới...
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Chúa Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh. Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong sách Tin mừng
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác ? Nếu chúng ta tin Phúc âm là Tin mừng và nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những kẻ mà chúng ta biết đang tìm kiếm một niềm tin ?
Chúng ta có nhiều cách giới thiệu Chúa cho người khác, tùy theo sáng kiến mà Chúa soi sáng cho mỗi người. Nhưng giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống gương mẫu, đời sống tốt đẹp của chúng ta. Thực tế đã chứng minh: nhiều người trở lại tin Chúa vì thấy đời sống gương mẫu, bác ái của các tín hữu. Chính nếp sống đạo đức, thánh thiện, ngay thẳng, chân thành của chúng ta là một tấm gương trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn nhiều bài giảng hùng hồn.
Người ta thường nói:”Trăm nghe không bằng một thấy”, chính cái hình ảnh tốt đẹp in sâu vào tâm hồn người ta, khiến họ phải suy nghĩ và có một sức lôi kéo mãnh liệt khiến họ không thể chống lại được. Vì thế, người ta cũng thường nói:
Lời nói như gió lung lay, Gương bày như tay lôi kéo.
Truyện: Gương sáng của một Linh mục.
Chuyện kể rằng: một hôm, trên đường trở về nhà xứ, một linh mục kia vừa đi vừa cầm trí đọc kinh. Có hai thanh niên cùng về chung đường. Khi đã đi cách linh mục kia một đoạn khá xa, họ gặp một người hành khất ngồi bên lề đường giơ tay xin họ. Một anh cho ông ấy mấy đồng lẻ trong khi anh kia nảy ra một ý tưởng, anh nói với bạn:
- Ông cha hồi nãy thế nào cũng đi qua đây. Tôi cá với anh là ông ta chẳng bố thí cho người ăn mày này đâu, chúng ta thử rình xem.
Cả hai trốn vào bụi cây gần đó. Ít phút sau, vị linh mục kia đi tới. Ngài đứng lại nhìn người ăn mày, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi nói với người ăn mày:
- Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc tôi chẳng có đồng nào giúp ông.
Hai thanh niên nghe thấy thế thì khúc khích cười nói:
- Anh thấy chưa, tôi nói có sai đâu.
Lúc ấy người ăn mày lại tiếp tục nài xin. Vị linh mục nhìn người ăn mày rồi bảo ông ta:
- Ông đợi tôi một chút.
Ngài nhìn trước nhìn sau, rồi chui vào bụi cây gần đó, loay hoay một hồi rồi bước ra, tay cầm một chiếc quần dài đã cuộn gọn lại. Ngài đưa cho người ăn mày và ân cần nói:
- Đây, ông bạn cầm đỡ chiếc quần này, tuy nó hơi cũ lại đang mặc dở dang, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng kể cho ai nghe đấy. Thôi tôi đi nhé.
Hôm sau, có hai người khách lạ đến bấm chuông nhà xứ rất sớm và xin xưng tội. Vị Linh mục nhận ngồi toà giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được hai thanh niên thuật lại, lòng hối hận, dạ chân thành ăn năn. Vị Linh mục ngẩn ngơ thốt lên:
- Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một chiếc quần cũ thôi mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn. Tạ ơn Chúa.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người trong chúng con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ bàn tay chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn ; Chúa chỉ biết dùng trái tim chúng con để ôm ấp những kẻ cô đơn ; Chúa chỉ nhờ giọng nói của chúng con để chia sẻ sứ điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng con”.
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa” (M. Link).
Nhìn thấy Đức Giêsu đi qua, ông Gioan tiền hô liền giới thiệu hai môn đệ của mình cho Chúa: Đây là Chiên Thiên Chúa (Ga 1:36).
Một trong hai môn đệ đi theo Chúa thì Phúc âm hôm nay nêu danh tính là Anrê, còn ông kia TN2-B124
Một trong hai môn đệ đi theo Chúa thì Phúc âm hôm nay nêu danh tính là Anrê, còn ông kia được giấu tên. Tuy nhiên học giả Thánh kinh đoán là ông Gioan tông đồ vì ông có khuynh hướng hay giấu tên mình. Hai trường hợp khác ông cũng giấu tên là khi ông viết: Người môn đệ mà Chúa yêu (Ga 13:23; Ga 19:26-27; Ga 20:2) và ông còn tường thuật về: Người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước (Ga 20:4). Hai môn đệ của ông Gioan tiền hô chấp nhận lời mời gọi của Chúa: Hãy đến mà xem (Ga 1:39). Họ đến xem nơi Chúa ở và quyết định ở lại với Người và đi theo Người. Gioan tiền hô không đặt vấn nạn về việc hai môn đệ đào ngũ đi theo Chúa, vì ông chủ trương Đấng cứu thế phải được tỏ hiện, còn ông phải rút lui vào bóng tối (Ga 3:30).
Hành động đầu tiên của Anrê khi tìm thấy nơi Chúa ở là đi tìm anh mình là ông Simon để giới thiệu với Chúa. Khi Simon đến gặp Chúa, Chúa liền đổi tên ông thành Phêrô, có nghĩa là đá. Chúa đặt cho ông tên này vì Chúa biết trước Người sẽ đặt ông làm đầu Giáo hội. Ông sẽ trở nên như tảng đá vững chắc cho toà nhà Giáo hội của Chúa.
Các ông đi theo Chúa, chắc chắn trăm phần trăm không phải vì Chúa ở nhà cao cửa rộng. Trong đời sống ẩn dật, Chúa ở tại nhà Nadarét. Còn trong đời sống công khai, Phúc âm chỉ nhắc Chúa ở lại nhà ông Dakêu (Lc 19:5) và có những lần ở nhà ba chị em Mác-ta, Maria và Ladarô (Lc 10:38; Ga 12:2). Những trường hợp khác ta có thể đoán khá chắc chắn rằng Chúa sống kiểu bụi đời: nay đây mai đó, có thể tá túc ở túp lều vải lưu động để che mưa nắng, đi thì gấp vào rồi mang theo. Lối sống vô gia cư này được Chúa xác nhận khi có người trong Phúc âm muốn đi theo Chúa, thì Chúa bảo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Mt 8:20; Lc 9:58). Theo Chúa trong trường hợp và hoàn cảnh như vậy phải kể là mạo hiểm, nếu chưa nói là liều lĩnh vì nước Trời. Bài trích sách Sa-mu-en quyển một cho thấy câu chuyện Chúa gọi Samuen để thi hành sứ mệnh lãnh đạo dân Chúa và làm ngôn sứ. Samuen trả lời sẵn sàng: Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe (1Sm 3:10).
Nói đến ơn gọi nhiều người nghĩ rằng chỉ có linh mục và tu sĩ nam nữ mới được ơn Chúa gọi làm việc tông đồ truyền giáo. Thực ra mỗi người tín hữu đều có ơn gọi. Nói chung có ba thứ ơn gọi khác nhau: ơn gọi làm linh mục tu sĩ nam nữ, ơn gọi sống đời hôn nhân, ơn gọi sống độc thân giữa đời. Người giáo dân sống độc thân hay có gia đình qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều được gọi để làm việc tông đồ giáo dân bằng lời cầu nguyện, gương sáng, bằng việc bác ái phục vụ theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo thánh Phaolô thì trong Giáo hội có những ơn gọi, những chức vụ và vai trò khác nhau khả dĩ để xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô (1 Cr 12:12-34). Công đồng Vaticanô II trong Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân, kêu gọi người giáo dân làm việc tông đồ nơi gia đình, trong xã hội, trên bình diện quốc gia và quốc tế qua việc tông đồ cá nhân, việc tông đồ tập thể. Công Đồng ghi nhận: Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hoá. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa (TĐGD # 6).
Như vậy có ơn gọi nọ giá trị và cao qui hơn ơn gọi kia chăng? Cổ nhân thường nói: Tu là cõi phúc, tình là giây oan. Tuy nhiên tu mà không trọn kiếp thì cũng không hẳn là có hạnh phúc. Điều quan trọng là mỗi người sống ơn gọi của mình, tìm cách phát triển và hoàn thành ơn gọi. Trong một vở kịch mà tài tử chính diễn dở thì làm cho vở kịch kém giá trị. Trái lại người đóng vai phụ mà diễn hay, thì cũng được khen thưởng.
Sống ơn gọi là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Ngày chịu chức linh mục không phải là dừng bước làm linh mục. Ngày chịu chức linh mục mới chỉ là bước khởi đầu cho đời sống linh mục. Đời sống hôn nhân cũng vậy. Hôn nhân không dừng lại trong ngày đám cưới, trong tuần trăng mật. Tình yêu và đời sống hôn nhân phải được nuôi dưỡng và phát triển từ ngày này qua ngày khác, từ năm nọ qua năm kia. Ơn gọi làm người Kitô hữu cũng không dừng lại khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy hay Bí tích Thêm sức. Chứng chỉ rửa tội không phải là giấy thông hành để vào nước Trời, nếu người ta không sống và thực hành lời Chúa và không giữ giới răn Chúa. Mỗi người tín hữu cần tiếp tục học hỏi về đạo giáo và đường lối Phúc âm hầu làm tăng triển mối liên hệ với Chúa, sống đức tin và làm đổi mới đức tin.
Đó là tíến trình của việc làm môn đệ. Mỗi người Kitô hữu đã chịu Phép Thanh tẩy gồm cả linh mục, nam nữ tu sĩ đều được gọi để làm môn đệ Chúa. Việc người tín hữu đáp lại tíếng Chúa mời gọi không phải là một lần. Mỗi ngày đòi ta làm mới lại việc đáp trả. Còn việc chấp nhận hay không là tùy thuộc vào mỗi người. Bản tính loài người là yếu đuối, nhưng khi Chúa mời gọi ta làm việc nọ chuyện kia, Người ban đủ ơn để ta thi hành công việc.
Lời Chúa mời gọi không phải là tiếng gọi một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả và cộng tác với ơn Chúa. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn và cộng tác của mỗi người.
Lời cầu nguyện: xin cho được đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày: Lậy Chúa! Chuá hằng kêu gọi mỗi người đến những vai trò và phận vụ khác nhauđể phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại. Xin cho những người đứng giữa ngã ba đường không biết phải theo đường nào được nhận ra đường Chúa muốn họ đi để họ có thể đáp trả và theo đuổi. Và xin ban ơn để con hoàn thành ơn gọi. Amen.
Sau khi những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật TN2-B125
Sau khi những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng, người ta đến kể lại cho Chúa Giêsu nghe. Nhưng Ngài thản nhiên nói với họ: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy” (Lc 13:2-5).
Mặc dù Chúa Giêsu không hề dùng chữ “đổi đời” nhưng ý Ngài muốn chúng ta đổi đời, tức là Ngài muốn chúng ta biến đổi (thay đổi, canh tân) để nên thánh. Muốn vậy thì phải từ bỏ ý riêng mà chấp nhận theo ý Chúa, nếu không chấp nhận thì không thể vâng lời – tuân phục. Lô-gích lạ lùng quá! Quả thật, tuân phục Thánh Ý Chúa là điều vô cùng quan trọng trong đời sống Kitô hữu, chính Đức Maria đã tiên phong nêu gương nhân đức này qua lời “xin vâng” khi được Sứ thần Gabriel truyền tin (x. Lc 1:38). Quá trình tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, chấp nhận và hành động theo Ý Chúa lại càng khó hơn. Trong cuộc sống, không ai lại không muốn theo ý mình, thậm chí nhiều khi người ta còn muốn biến Ý Chúa theo ý mình. Thế nên, việc bỏ ý riêng mà hoàn toàn tuân phục Ý Chúa là điều rất quan trọng.
Có nhiều dạng biến đổi – đơn giản nhất là thay chiếc áo, và “cao cấp” hơn là từ bỏ một thói quen, nhưng dạng đặc biệt nhất là Sự Chết. Ngưỡng-Sinh-Tử là “khoảng” thực sự kỳ diệu nên được gọi là “mầu nhiệm sự chết” như Thánh Phaolô xác định: “Không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1 Cr 15:51).
CHÂN THÀNH LẮNG NGHE
Cuộc sống luôn có những hệ lụy hợp lý, tương tự một tam đoạn luận (*). Muốn tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa thì trước tiên phải biết lắng nghe, đặc biệt là lắng nghe tiếng Chúa – điều Thiên Chúa mặc khải. Kinh Thánh cho biết: Một đêm nọ, Chúa gọi Samuel, mà cậu cứ tưởng ông Êli gọi nên vội chạy đến bên ông, nhưng ông Êli bảo ông không gọi. Cậu lại đi ngủ. Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel lại dậy, đến với ông Êli, nhưng ông Êli xác định là ông không hề gọi cậu. Lúc đó Samuel chưa nhận biết Chúa, vì “lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (1 Sm 3:7).
Sau đó, Đức Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi nên nói Samuel cứ đi ngủ, và dặn rằng hễ nghe gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9). Samuel đi ngủ. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuel! Samuel!”. Samuel liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10). Động thái mau mắn của Samuel là bài học và là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta, vì Chúa gọi là việc của Chúa, hợp tác hay không là việc của chúng ta. Samuel đã lắng nghe, đã nhận biết tiếng Chúa và đã tích cực hợp tác, do đó “Đức Chúa ở với Samuel và Ngài không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Tuyệt vời!
Tuy là Đấng chí thánh và cao cả, nhưng Thiên Chúa không xa cách mà rất gần gũi chúng ta. Phần chúng ta là phải đáp lại Ngài để có thể vui mừng và hãnh diện nói được như Thánh Vịnh gia: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Thiên Chúa thật giản dị và rất bình dân, Ngài không đòi hỏi gì vì Ngài có tất cả: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Ngài chỉ muốn chúng ta thành tâm yêu mến Ngài. Và thật lạ, ngay cả khi chúng ta ca tụng Ngài thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài mà chỉ thêm ích lợi cho chính chúng ta, và Ngài chỉ cần chúng ta mau mắn đáp lại bằng cách nói ngay: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:28-9). Một khi nhận biết Ngài rồi thì chúng ta phải “loan truyền đức công chính của Ngài” và không được “ngậm miệng làm thinh” (x. Tv 40:10). Vô tri bất mộ – không biết thì không mến, nhưng biết rồi thì không thể không hành động.
Cuộc đời có thuận lý và cũng có nghịch lý, cả phương diện xã hội lẫn tinh thần. Những người dám sống theo Ý Chúa thì thường bị ghen ghét. Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! Tôi nói thế cho anh chị em phải xấu hổ. Anh chị em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh chị em rồi” (1 Cr 6:4-7). Người sống theo Ý Chúa thì luôn cố gắng bảo vệ công lý, kiến tạo hòa bình và tôn trọng nhân quyền. Không thể nói rằng sống theo Ý Chúa mà lại ăn ở bất công, bóc lột, ức hiếp đồng loại, như vậy chỉ là bất chính. Chắc chắn “những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9). Tuy nhiên, cũng nên cảnh giác vì cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính”. Cơn giận cũng khiến người ta hóa bất chính. Thật lạ lùng và cũng thật đáng sợ!
QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG
Lắng nghe không dễ thực hiện, hành động lại càng khó hơn. Vì chúng ta là “người xấu” (Lc 11:13 ) nên dễ “nhìn xuống” mà khó “nhìn lên”, bởi vì “tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Thật là khốn nạn quá! Thánh Phaolô liệt kê một số “bất chính” điển hình: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9-10). Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân khốn kiếp, “nhưng chúng ta đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (x. 1 Cr 6:11). Đó là niềm hạnh phúc lớn lao lắm!
Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Tham ăn tham uống là ngoại tại, nhưng lại có hệ lụy với nội tại: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6:13). Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại, chính Ngài cũng sẽ dùng quyền năng mà làm cho chúng ta sống lại, thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô, vì thế chúng ta phải có trách nhiệm với thân xác của mình. Có sự liên đới giữa ngoại tại và nội tại, giữa thể lý và tinh thần.
Về phần thể lý, Thánh Phaolô nói: “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình” (1 Cr 6:18). Không chỉ vậy, thân xác còn là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6:19), Thánh Thần đó là Thánh Thần do chính Thiên Chúa đã ban tặng. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta (x. 1 Cr 6:20). Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa ngay nơi thân xác của mình.
Trình thuật Ga 1:35-42 kể rằng khi ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ, ông chợt nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua thì ông liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Nghe ông Gioan nói vậy, hai môn đệ của ông Gioan liền đi theo Đức Giêsu, không hề so đo chi ráo trọi. Chắc hẳn họ đã nhận ra Chúa Giêsu là ai nên họ sẵn sàng đi theo Ngài. Động thái “mau mắn theo Chúa” là điều luôn cần thiết trong cuộc sống. Sau đó, Đức Giêsu quay lại và thấy các ông đi theo mình nên Ngài hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài không trả lời rõ ràng mà lại bảo họ: “Đến mà xem!”. Họ cũng không thắc mắc và liền đến xem chỗ Chúa Giêsu cư ngụ, và họ ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Họ nhận biết Chúa nên họ luôn nghe lời Ngài dạy bảo. Đó là hệ lụy tất yếu của động thái nhận biết và tin tưởng.
Một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu đó là ông Anrê, anh của ông Simôn Phêrô. Ông Anrê gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô, Đấng Thiên sai). Rồi ông dẫn em trai đến gặp Đức Giêsu. Lúc đó, Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” – Kêpha tức là Phêrô, nghĩa là Đá.
Cuộc đời có nhiều dạng thay đổi, thậm chí có khi là thay tên đổi họ. Chúa Giêsu đã đặt tên mới cho ông Simôn và biến đổi cuộc đời ông. Cái tên có thể ảnh hưởng cả cuộc đời, thay tên đổi họ cũng có nghĩa là cuộc đời sang trang mới. Những người tuân phục Ý Chúa cũng sẽ sớm trở thành “con người mới”, và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Khi thực sự nhận biết Chúa, người ta sẽ can đảm theo Ngài và sẵn sàng tuân phục Ngài, tức là luôn làm theo giáo huấn của Ngài.
Đó là hệ lụy tất yếu trong quá trình biến đổi, “thay tên, đổi họ” vì họ không còn thuộc về thế gian mà thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Được Ngài tiếp nhận tức là được trở nên con cái, tất nhiên con cái cũng có trách nhiệm và bổn phận riêng.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết Ngài để có thể lắng nghe và tuân phục Ngài, đồng thời luôn can đảm từ bỏ ý riêng mà hành động theo Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin biến đổi con theo sự quan phòng và tiền định của Ngài, làm cho con trở nên khí cụ bình an của Ngài để minh chứng Lòng Thương Xót vô biên của Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
---------------------------- (*) Tam đoạn luận [syllogism] là hình thức suy luận diễn dịch gồm 3 mệnh đề: tiền đề lớn, tiền đề nhỏ, và kết luận. Ví dụ: Mọi người đều phải chết, tôi là người, vậy tôi cũng phải chết. Kết luận của tam đoạn luận có giá trị chặt chẽ, vì nó là một kết quả tất yếu, không thể chối bỏ nếu đã thừa nhận tiền đề. Nếu tiền đề đúng, kết luận phải đúng. Nếu tiền đề không đúng, kết luận không thể đúng, nhưng vẫn hợp lý.
Tuân phục Thánh Ý Chúa là điều quan trọng trong đời sống người Kitô giáo, và Đức Maria nêu TN2-B126
Tuân phục Thánh Ý Chúa là điều quan trọng trong đời sống người Kitô giáo, và Đức Maria nêu gương tiên phong trong việc này qua lời “xin vâng” khi được Sứ thần Ggabriel truyền tin (x. Lc 1:38). Quá trình tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, chấp nhận và hành động theo Ý Chúa lại càng khó hơn. Trong cuộc sống, không ai lại không muốn theo ý mình, thậm chí nhiều khi người ta còn muốn biến Ý Chúa theo ý mình. Thế nên, việc bỏ ý riêng mà hoàn toàn tuân phục Ý Chúa là điều rất quan trọng.
Lắng nghe
Muốn tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa thì trước tiên phải biết lắng nghe. Một đêm nọ, Chúa gọi Samuen, mà cậu cứ tưởng ông Êli gọi nên vội chạy đến bên ông, nhưng ông Êli bảo ông không gọi. Cậu lại đi ngủ. Chúa lại gọi Samuen lần nữa. Samuen lại dậy, đến với ông Êli, nhưng ông Êli xác định là ông không hề gọi cậu. Lúc đó Samuen chưa nhận biết Chúa, vì “lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (1 Sm 3:7).
Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi nên nói Samuen cứ đi ngủ, hễ nghe gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9). Samuen đi ngủ. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Samuen thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10). Động thái mau mắn của Samuen là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta, vì Chúa gọi là việc của Chúa, hợp tác hay không là việc của chúng ta. Samuen đã lắng nghe, đã nhận biết tiếng Chúa và đã tích cực hợp tác, do đó “Đức Chúa ở với Samuen và Ngài không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19).
Thiên Chúa chí thánh và cao cả, nhưng Ngài không xa cách mà rất gần gũi chúng ta. Phần chúng ta là phải đáp lại Ngài để có thể vui mừng và hãnh diện nói được như tác giả thánh vịnh: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Chúa giản dị và rất bình dân, không đòi hỏi gì vì Ngài có tất cả: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Ngay cả khi chúng ta ca tụng Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài mà chỉ có lợi cho chính chúng ta, Chúa chỉ cần chúng ta mau mắn đáp lại bằng cách nói ngay: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:28-9). Nhận biết Chúa rồi thì phải “loan truyền đức công chính của Ngài” và không được “ngậm miệng làm thinh” (x. Tv 40:10). Vô tri bất mộ, nhưng biết rồi thì không thể không hành động.
Người dám sống theo Ý Chúa thì thường bị ghen ghét. Thánh Phaolô cảnh báo: “Khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! Tôi nói thế cho anh chị em phải xấu hổ. Anh chị em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh chị em rồi” (1 Cr 6:4-7). Người sống theo Ý Chúa thì luôn bảo vệ công lý, kiến tạo hòa bình và tôn trọng nhân quyền. Không thể nói là sống theo Ý Chúa mà lại ăn ở bất công, bóc lột, hiếp đáp đồng loại, như vậy là bất chính. Chắc chắn “những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9). Đừng lầm tưởng! Cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính”. Cơn giận cũng khiến người ta hóa bất chính.
Hành động
Thánh Phaolô liệt kê một số “bất chính” điển hình: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9-10). Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân khốn kiếp, “nhưng chúng ta đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (x. 1 Cr 6:11).
Thánh Phaolô xác định: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Tham ăn tham uống là ngoại tại, nhưng lại có hệ lụy với nội tại: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6:13). Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại, chính Người cũng sẽ dùng quyền năng mà làm cho chúng ta sống lại, thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô, vì thế chúng ta phải có trách nhiệm với thân xác của mình.
Thánh Paolô nói về thân xác: “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình” (1 Cr 6:18). Không chỉ vậy, thân xác còn chính là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6:19), Thánh Thần đó là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban tặng. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta (x. 1 Cr 6:20). Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác của mình.
Trình thuật Ga 1:35-42 kể lại chuyện ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông Gioan lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông Gioan nói vậy, họ liền đi theo Đức Giêsu, không hề so đo gì. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu nên họ sẵn sàng đi theo Ngài. Động thái “mau mắn theo Chúa” là điều luôn cần thiết. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Họ nhận biết Chúa nên họ luôn nghe lời Ngài dạy bảo.
Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Ông Anrê gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô, Đấng Thiên sai). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” – Kêpha tức là Phêrô, nghĩa là Đá.
Ông Simôn có tên mới. Những người tuân phục Ý Chúa cũng sẽ sớm trở thành “con người mới”, và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Nhận biết Chúa thì sẽ can đảm theo Ngài, theo Ngài thì sẽ tuân phục Ngài, tuân phục Ngài là làm theo lời Ngài dạy. Đó là hệ lụy tất yếu trong quá trình biến đổi, “thay tên, đổi họ” vì họ không còn thuộc về thế gian mà là thuộc về Chúa. Thật vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận biết Chúa để có thể lắng nghe và tuân phục Ngài, đồng thời luôn can đảm từ bỏ ý riêng mà hành động theo Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa để rao truyền Lòng Chúa Thương Xót. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
----------- [1][1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng. [2][2] X. MORGENTHALER, Statistik, 119, và R. E. BROWN, John I, 510. Các tác phẩm Tân Ước khác: TMNL: 12x [Mt 3x; Mc 2x; Lc 7x]; Cv: 13x; Phaolô: 17x (Rm 1x; 1 Cr 8x; 2 Cr 3x; Pl 1x; 1 Tm 1x; 2 Tm 3x); Dt: 6x; 1 Pr: 2x. [3][3] Có thể đọc những gợi ý phong phú về ý nghĩa của menô trong LÊ MINH THÔNG, Tình yêu và tình bạn, 65-78.
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều kể chuyện Đức Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên, gồm hai cặp anh TN 2-B127
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều kể chuyện Đức Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên, gồm hai cặp anh em ruột. Để đáp lại, họ phải bỏ nghề đánh cá, bỏ lưới và thuyền, bỏ cha mẹ, bỏ gia đình thân yêu. Đó là những điều cao quý và thân thương đối với họ. Họ chấp nhận bỏ để theo Đức Giêsu, bước vào cuộc sống mới, bấp bênh hơn, phiêu lưu hơn. Bài Tin Mừng hôm nay cũng kể chuyện Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Không thấy nói đến chuyện họ bỏ gia đình hay nghề nghiệp, nhưng hai môn đệ đầu tiên đã phải bỏ một điều khác. Họ đã bỏ vị thầy cũ của họ là Gioan Tẩy giả để đi theo vị thầy mới là Đức Giêsu. Con đường đến với Thầy Giêsu gồm nhiều bước. Các bước này xâu thành một chuỗi, gắn kết với nhau. Bước trước chuẩn bị cho bước sau. Bước sau lại chuẩn bị cho bước kế tiếp. Lỡ một bước là làm hỏng cả hành trình, vì mỗi bước đều có tầm quan trọng như nhau. Hai môn đệ của Gioan Tẩy giả đã mở lòng để dấn bước. Và Đức Giêsu cũng mở lòng để mời gọi hai ông. Như một sự tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua chỗ Gioan và hai môn đệ của ông đang đứng. Bước một bắt đầu bằng lời giới thiệu của Gioan. Lời này không dễ hiểu: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,36). Trước đây Gioan đã từng làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Dù chưa hiểu tại sao thầy mình gọi vị này là Chiên Thiên Chúa, nhưng hai môn đệ vẫn nghe và tin vào lời của thầy. Họ đã đáp lại bằng hành động đi theo Đức Giêsu: đó là bước hai. Đi theo có thể coi là bắt đầu hành trình làm môn đệ. Đức Giêsu đi trước, hai môn đệ đi sau (Ga 1,37). Không rõ họ đi như vậy bao lâu, chẳng ai nói một câu. Hai ông ngần ngại, nhút nhát không dám lên tiếng trước. Đức Giêsu có biết rằng hai người này đang đi theo mình không, hay đơn giản chỉ là tình cờ đi chung đường? Có. Ngài biết rõ hai ông cố ý đi theo mình. Và Ngài đã quay lại, đã nói câu nói đầu tiên: “Các anh tìm gì?” Đây là bước thứ ba, bước của Đức Giêsu (Ga 1,38). Các anh theo tôi để tìm gì? Các anh nghĩ tôi có thể cho cái gì? Câu hỏi của Đức Giêsu bắt người ta đi vào lòng mình để nhận ra đâu là khao khát sâu thẳm của trái tim. Đức Giêsu đã mở lời, bắt đầu cuộc đối thoại. Câu hỏi của Ngài đã được trả lời bằng một câu hỏi khác: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu?” (Ga 1,38): đó là bước thứ tư, biểu lộ lòng khao khát. Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn thăm nhà Thầy. Muốn biết nhà Thầy vì chúng con muốn biết chính Thầy. Muốn biết rõ một người thì chỉ mong đến nhà người ấy. “Các anh hãy đến mà xem”: đó là bước thứ năm (Ga 1,39). Lời mời của Đức Giêsu đáp lại lòng mong mỏi của họ. Ngài mời họ đến nhà để vén mở cho họ thấy thế giới của mình. Hai ông vui sướng đáp lại ngay, đó là bước thứ sáu (Ga 1,39). Họ đã đến, đã xem thấy nơi ở, và đã ở lại với Đức Giêsu. Có thể họ đã ở lại cả đêm để trò chuyện với vị Thầy mới. Ngây ngất và hạnh phúc như người khám phá ra kho tàng, Anrê nhận ra vị Thầy này chính là Đấng Mêsia (Ga 1,41). Bao giờ cũng cần những người giới thiệu như Gioan Tẩy giả. Và bao giờ cũng cần những người giới thiệu như Anrê. Ông đã hưởng niềm vui quá lớn đến độ vào hôm sau ông đã lập tức đi tìm người em là Simôn (Ga 1,41-42), rối rít khoe với em về khám phá mới, và không cần nhiều bước, ông dẫn em đến ngay với Đức Giêsu. Philipphê cũng sẽ giới thiệu Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45). Chuyện giới thiệu Đức Giêsu sẽ còn kéo dài đến tận thế. Nói chung rao giảng Tin Mừng là tiếp tục giới thiệu. Không ai có thể giới thiệu Đức Giêsu nếu đã không đích thân gặp Ngài và tin Ngài. Không ai thực sự gặp Đức Giêsu và tin Ngài mà lại không muốn giới thiệu Ngài cho người khác.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin hãy đi trước con và làm thầy dẫn lối. Con xin đi theo Ngài từng bước thôi. Xin hãy đi sau con và làm người bảo vệ. Con sẽ đưa Ngài đến thăm tệ xá của lòng con. Xin hãy đi bên con và làm người bạn đường. Con sẽ trò chuyện với Ngài suốt đường đi. (gợi hứng từ Saint Exupéry)
Bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta một khuôn mẫu của hành trình trở nên người môn đệ của TN 2-B128
Bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta một khuôn mẫu của hành trình trở nên người môn đệ của Đức Giê-su. Hành trình bao gồm ba bước.
1. Bước thứ nhất: được giới thiệu
Thầy Gioan giới thiệu Đức Giê-su cho hai anh học trò của mình: Đây là Chiên Thiên Chúa.
(c. 36)
Lời giới thiệu này chất chứa cả một mầu nhiệm cứu độ và vì thế, trở thành bất hủ, vì được tuyên xưng tới bốn lần trong mỗi Thánh Lễ: sau khi chúng ta chúc bình an, cộng đoàn phụng vụ đọc hay hát: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…” (3 lần); tiếp đến, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh trên Chén Thánh (hoặc Dĩa Thánh), long trọng công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”.
Trong hành trình trở thành người môn đệ của Đức Kitô trong ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, chúng ta cũng cần có những “Gioan” giới thiệu, giúp chúng ta hiểu, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô, là “Chiên Thiên Chúa”.
* Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội, nhưng lại mang vào mình mọi tội lỗi của từng người và loài người chúng ta, như Người Tôi Tớ Đau Khổ, để ban cho chúng ta sự vô tội của Ngài.
* Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội bị sát tế, để bày tỏ sự tín thác tuyệt đối vào đức công chính và sự sống mạnh hơn sự chết nơi Thiên Chúa, thay vì tự mình xét xử và lên án, để trở thành Đường Đi và Sự Sống cho chúng ta.
* Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên hiền lành, thay vì dùng bạo lực chống lại bạo lực, diễn tả khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu thì hiền lành.
2. Bước thứ hai: đi theo và gặp gỡ
Hai môn đệ, một trong hai mang tên Anrê, đi theo Đức Giê-su.
Hai môn đệ nghe ông (Gioan) nói, liền đi theo Đức Giê-su.
(c. 37)
Chúng ta được mời gọi thán phục hai người môn đệ này, vì hai ông đã đặt hết lòng tin nơi lời giới thiệu của thầy Gioan và đã liều lĩnh đi theo người mà mình chưa thực sự hiểu biết và gặp gỡ. Điều này giả định hai ông phải có khát khao gặt gỡ và tìm kiếm “Chiên Thiên Chúa”, tìm kiếm Đấng Cứu Độ; và việc hai ông “liền đi theo Đức Giê-su” cũng giả định sức thu hút của Người, cho dù Người chưa lên tiếng hay chưa làm gì cho hai ông.
Chúng ta hãy hình dung ra hình ảnh rất đẹp này: Đức Giêsu đi trước, hai người đi sau: hai bên vẫn chưa quen nhau, vẫn còn khoảng cách, nhưng lòng đã hướng về nhau rồi.
* * *
Đây là bước quyết định hay bước ngoặt. Đức Giê-su biết có hai người đi theo mình, nhưng có lẽ cố ý để như thế một hồi lâu. Hai người chủ động đi theo Đức Giêsu, nhưng chính Ngài dừng bước, quay lại, thấy và lên tiếng trước:
Hai anh tìm gì vậy?
(c. 38)
Câu hỏi này xem ra thật bình thường, vì chúng ta vẫn hay hỏi nhau với những câu hỏi tương tự như thế trong đời thường. Nhưng vì là của Đức Giêsu, nên câu hỏi này mãi mãi và mỗi ngày đụng chạm đến nơi sâu thẳm của hai môn đệ và của tất cả những ai đang đi theo Đức Giêsu, trong đó có chúng ta.
Thật vậy, trong hành trình đi theo Chúa của chúng ta, ở mỗi giai đoạn sống, ở mỗi ngày sống, trong mỗi dự định và lựa chọn, trong mỗi công việc lớn nhỏ, và trong Thánh Lễ này nữa, Đức Giêsu cũng hỏi chúng ta: “Con tìm gì vậy?” Nếu Đức Giêsu hỏi đích thân từng người chúng ta, hỏi Cộng Đoàn chúng ta, chúng ta sẽ trả lời làm sao? Coi vậy mà không dễ trả lời, vì một đàng, điều chúng ta đi tìm đôi khi rất khó nói ra; đàng khác, điều chúng ta đi tìm, có thực sự là điều chúng ta khao khát trong sâu thẳm tâm hồn và một cách bền vững hay không, bởi lẽ lòng ước ao của chúng ta luôn vượt quá những gì những cụ thể, những gì được xác định hay phát biểu. Quả vậy, vì khó trả lời, và hơn nữa bị hỏi rất bất ngờ nên hai người trẻ đã đáp lại hẳn là với sự bối rối bằng một câu hỏi:
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
(c. 38)
Và câu hỏi này cũng thật kì cục, vì chưa làm quen gì hết mà đã hỏi người ta ở đâu! Tuy nhiên, Đức Giêsu chẳng bắt bẻ gì hết, ngược lại, Ngài như đã quen biết hai anh từ lâu, nên mời đến tham quan nơi ở của Ngài, Ngài nói với họ: Hãy đến và các anh sẽ thấy.
(c. 39)
Và họ đã không chỉ đến tham quan chỗ ở của Ngài, nhưng còn lưu lại với Ngài. Sau này, hai môn đệ này và tất cả những ai đi theo Đức Giê-su, trong đó có chúng ta, sẽ nhận ra rằng Đức Giêsu không có một nơi ở nào cố định hết trên trần gian này. Ngài đến từ Thiên Chúa và Ngài sẽ đi về cùng Thiên Chúa (x. Ga 13, 3). Đây cũng chính là hành trình của các môn đệ, của mỗi người chúng ta; và chúng ta được mời gọi “lưu lại với Ngài” mọi nơi mọi lúc, bởi vì Ngài là đường đi và chính Ngài cũng lưu lại với chúng ta mọi nơi mọi lúc, với mầu nhiệm Thánh Thể của Đấng đã chết, đã Phục Sinh, đang sống và hiện diện giữa và trong chúng ta.
3. Bước thứ ba: giới thiệu Đức Giêsu
Vẫn còn một bước nữa, đó là, sau khi đến xem nơi ở của Đức Giêsu và lưu lại với Ngài, một trong hai người là Anrê đi giới thiệu Đức Giê-su cho người khác. Người khác ở đây không phải là người xa và lạ, nhưng là Simon, em của mình. Thực vậy, Anrê gặp em mình và nói:
Chúng tôi đã gặp Đấng Messia.
(c. 41)
Và Anrê không chỉ giới thiệu thôi, nhưng còn dẫn em Simon đến gặp Đức Giêsu. Như thế, ông Anrê đóng vai trò của thầy Gioan Tẩy Giả đối với em mình.
Một khi đã gặp được và tin vào Đức Giêsu, ai trong chúng ta cũng có sứ mạng giới thiệu Ngài cho những người thân cận và thân yêu và dẫn họ đến gặp Đức Giêsu. Và điều này rất tự nhiên, bởi vì gặp được Đức Giêsu là niềm vui, bởi vì Ngài mang lại ý nghĩa cho cuộc đời đầy khó khăn thử thách của chúng ta, và Ngài là ánh sáng và là con đường dẫn chúng ta ngay hôm nay đến với Nguồn Sự Sống, là chính Thiên Chúa.
* * *
Bốn bước (được giới thiệu về Đức Giêsu, đi theo Đức Giêsu, gặp gỡ Đức Giêsu và giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, nhất là cho những người thân cận) diễn tả cho chúng ta bốn chặng đường làm nên hành trình trở nên môn đệ của Đức Giêsu. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không bao giờ trải qua từng bước một lần là xong. Vì thế, bốn bước này cũng còn là bốn yếu tố lúc nào cùng phải có trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta: lúc nào chúng ta cũng cần được giới thiệu và dạy dỗ về Đức Ki-tô, lúc nào cũng cần đi theo Ngài, gặp gỡ Ngài đích thân, và lúc nào chúng ta cũng cần giới thiệu, loan báo, trình bày Ngài bằng lời và nhất là bằng cách sống cho người khác.
Chưa bao giờ nhân loại đứng trước nhiều lựa chọn như ngày hôm nay, dễ dàng tìm kiếm như ngày TN 2-B129
Chưa bao giờ nhân loại đứng trước nhiều lựa chọn như ngày hôm nay, dễ dàng tìm kiếm như ngày hôm nay. Giữa một khối lượng thông tin khổng lồ, con người dường như bị chìm đắm trong thế giới thông tin. Chắc chắn không phải tất cả mọi thông tin đều có lợi cho mỗi người. Tìm kiếm rồi sở hữu cái đúng cái tốt thì giúp mình triển nở. Và ngược lại, tìm kiếm và thủ đắc cái xấu, cái độc thì làm cho ta bị băng hoại. Các bài đọc Sách thánh trong Chúa nhật II thường niên B đưa ta đến thái độ cần phải có trên con đường ta đi tìm kiếm giữa cuộc sống hôm nay. Tâm hồn ta đang hướng về đâu
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Samuel (1Sm 3, 3b-10.19) kể về câu chuyện Thiên Chúa gọi Samuel. Trong đêm tối, Thiên Chúa đã cất tiếng gọi Samuel; thế nhưng Samuel đã không nhận ra tiếng Chúa; Cậu tưởng tiếng của thầy Eli. Tiếng Chúa liên tục kêu gọi bên tai cậu nhưng cậu chỉ nghĩ đến thầy Eli mà thôi. Cậu nghe thấy tiếng Chúa nhưng lại nghĩ đến thầy mình. Vì chỉ nghĩ đến thầy, chỉ biết có thầy nên cậu không nghe được tiếng Chúa.
Quả thực, lòng ta hướng về điều gì thì ta sẽ dễ dàng nhận ra điều ấy hơn; và thậm chí ta còn đồng hoá những thứ khác với điều ta đang quan tâm. Người ta thường nói: bác sỹ thì nhìn đâu cũng thấy bệnh; cảnh sát nhìn đâu cũng thấy tội phạm; doanh nhân nhìn đâu cũng thấy lợi nhuận; người đang yêu thì nhìn đâu cũng thấy người mình yêu… Bởi khi ấy, tâm hồn ta hướng chiều về đối tượng và bị đối tượng ấy chiếm hết cả tâm hồn mình.
Giữa một xã hội bôn ba ngược xuôi tìm kiếm: người thì đi tìm tiền; người thì đi tìm tình; người đi tìm danh; người lo kiếm chữ; kẻ lo tìm nhà. Tất cả đang nháo nhác đi tìm. Vậy nên chẳng lạ gì khi cỗ máy tìm kiếm Google đã trở nên công ty hàng đầu trên thế giới chỉ sau ít năm thành lập. Nếu bạn quan tâm tới điều gì, bạn sẽ bị lôi cuốn vào con đường tìm kiếm cái đó. Thậm chí, thế giới điện toán internet sẽ quẳng vào xung quanh bạn toàn là những thứ bạn đang quan tâm.
Chính các môn đệ trong bài Tin Mừng của Chúa nhật này cũng đi tìm kiếm. Thế nhưng chỉ khi Đức Giêsu hỏi các ông “Các anh tìm gì?” (Ga 1,38) thì các ông mới thực sự đối diện với thực tại lòng mình.
Thái độ cần có
Đối diện với câu hỏi của Chúa Giêsu, các môn đệ đã tìm lại được thái độ căn bản của cuộc tìm kiếm: “Lạy Thầy, Thầy ở đâu”. Các ông đã không còn khơi khơi chạy theo dư luận, tìm kiếm giá trị trần gian. Các môn đệ đã muốn tìm gặp chính Thiên Chúa.
Chính thái độ khẳng định sự tìm kiếm Thiên Chúa trong cuộc đời đã dẫn đưa các môn đệ đến gặp Chúa, ở với Chúa, cảm nghiệm về Chúa. Thái độ khát khao tìm kiếm Thiên Chúa sẽ giúp con người nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa giữa đủ mọi màu sắc của cuộc sống, nhận ra được tiếng nói của Thiên Chúa giữa muôn vàn cung điệu.
Bài đọc thứ hai được trích trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Corinto (1 Cr 6, 13c-15a, 17-20). Thánh Phaolô đã bàn giải về thái độ tìm kiếm ấy càng rõ rệt hơn. Cũng là thân xác con người, nhưng nếu bạn chỉ tìm kiếm sự vui thú xác thịt, chỉ thoả mãn dục vọng thì bạn chỉ thấy nơi thân xác con người là sự dâm ô. Trái lại, với thái độ luôn tìm kiếm Thiên Chúa, Thánh nhân đã nhận ra thân xác chính là đền thờ của Chúa Kitô; Ngài nhận ra uy quyền của Thiên Chúa và lời mời gọi nên thánh trong chính thân xác của mình.
Tìm kiếm Thiên Chúa, nền tảng của cuộc sống
Gặp được Thiên Chúa là bạn có tất cả. Có thể bạn phải tìm kiếm của cải trần gian, miếng cơm manh áo để đảm bảo cho đời sống này; nhưng bạn đừng quên chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên bạn và mọi thứ trên trần gian này. Có thể bạn đang tìm kiếm sự ổn định đời sống gia đình, chuẩn bị cho tương lai; nhưng bạn đừng quên Thiên Chúa là nguồn cội và là cùng đích bạn tìm về. Chỉ nơi Ngài bạn mới có nguồn bình an hạnh phúc đích thực trường cửu. Có thể bạn đang tìm kiếm người bạn đời tri âm tri kỷ; nhưng bạn đừng quên chính Thiên Chúa đã đến để tìm cách ở cùng bạn, chia sẻ vui buồn với bạn.
Chính khi bạn gặp gỡ Thiên Chúa là bạn gặp lại được chính mình. Chính ở nơi Thiên Chúa bạn mới thấy mình không phải là kẻ vô danh nhưng là con Thiên Chúa; bạn thấy cuộc đời có ý nghĩa này đưa bạn vào đời sống vĩnh cửu chứ không phải nó qua đi rồi hết; bạn mới thấy giá trị của lao nhọc và khổ đau, thấy giá trị của sự cố gắng vươn lên trong cuộc sống của bạn; và bạn mới thấy được mình cần phải vượt ra khỏi vũng lầy của tội lỗi, của chán trường; bạn mới biết thanh lọc những giá trị trong cuộc sống.
Trong buổi tiếp kiến với hơn 9000 khách hành hương ngày 17 tháng 9 năm 2008, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô đã khẳng định: “Tìm kiếm Thiên Chúa là nền tảng của mọi nền văn hoá”.
Nếu thực sự khát khao và lên đường đi tìm kiếm Thiên Chúa, chắc chắn bạn sẽ gặp Ngài. Bởi chính Ngài đang tìm kiếm bạn, đang chờ đợi bạn.
Lạy Chúa Giêsu, xin khơi lên trong con lòng khao khát Chúa như xưa Chúa đã khơi lên trong lòng các môn đệ. Xin cho con được ở lại với Ngài để con được xác tín sự hiện diện của Ngài trong con. Xin dẫn con đi và xin kéo con về mỗi khi con lang thang lạc bước trên đường tìm kiếm Nước Trời.
Có những cuộc gặp gỡ thay đổi hẳn cuộc đời của chúng ta. Cuộc gặp gỡ làm nảy sinh tình yêu TN 2-B130
Có những cuộc gặp gỡ thay đổi hẳn cuộc đời của chúng ta. Cuộc gặp gỡ làm nảy sinh tình yêu hay nối kết những cuộc đời với nhau. Tường thuật của thánh Gioan hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc gặp gỡ quyết định của hai thanh niên với Chúa Giêsu. Chắc không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu đi ngang qua chỗ Gioan Tẩy Giả đang giảng và làm phép rửa. Ngài đã biết trước những gì Ngài muốn làm. Ngài đang chờ hai môn đệ của Gioan. Ngài thi hành sứ mệnh rao giảng Nước Trời, nhưng không chỉ có một mình, Ngài cần có những môn đệ để tiếp nối công trình dài hạn của Ngài.
Gioan đang đứng với hai môn đệ, thấy Chúa Giêsu đi qua, ông giới thiệu với hai môn đệ: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa”.
Họ hiểu ngay, vì họ biết Con Chiên Thiên Chúa là ai, vì Kinh Thánh đã nói nhiều đến Con Chiên này. Con chiên quen thuộc nhất và được nhắc đi nhắc lại hằng năm là con chiên vượt qua thời ông Môsê. Máu con chiên đó được bôi lên cửa của những người Do Thái, nhờ đó họ thoát khỏi sự tàn sát của sứ thần và nhờ đó họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Và mỗi năm, vào dịp lễ Vượt qua, mọi nhà đều ăn con chiên theo nghi thức đã được ban truyền.
Con chiên được nhắc đến cũng là con chiên bị đưa đến lò sát sinh mà không hở môi. Con chiên đó gánh lấy tội của nhân loại, là người đầy tớ của Thiên Chúa. Họ hiểu ngay lời của thầy Gioan Tẩy Giả, và họ bước theo người được giới thiệu là Con Chiên Thiên Chúa. Họ chưa biết rằng cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ quyết định cuộc đời của họ.
Hai môn đệ của Gioan là Anrê và người môn đệ không tên đi theo Chúa Giêsu. Thánh Gioan thánh sử thường giấu tên ngụ ý rằng người môn đệ vô danh đó có thể là chúng ta. Hai môn đệ đến gần Chúa Giêsu, Ngài quay lại hỏi: “Anh em tìm gì thế?” Các ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đến mà xem”. Đây là cách nói của người Do Thái, nếu nói theo kiểu Việt Nam, chúng ta sẽ dịch ra như sau: “Mời các anh đến chơi cho biết”. Tuy nhiên, chúng ta vẫn giữ theo tiếng Do Thái vì ý nghĩa của câu nói Do Thái mạnh hơn. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy gì? Khởi đầu là một tìm kiếm, là một gặp gỡ. Họ ở lại với Ngài, và sau cùng nhìn nhận Ngài và gắn bó với Ngài. Tâm hồn của họ đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị, họ khao khát, họ tìm kiếm một cái gì đó sâu xa hơn. Họ cảm thấy còn thiếu một cái gì mà họ chưa có thể nhận ra. Tâm hồn họ như nai rừng khao khát tìm về suối nước trong, như mảnh đất khô cằn không giọt nước.
Chúa Giêsu đến mang lại điều họ đang cảm thấy cần. Ngài là Con Chiên Thiên Chúa. Họ đã từng nghe nói đến nhưng hôm nay, thầy của họ mới chỉ cho thấy. Ngài là Con Chiên Thiên Chúa? Có thật vậy không? Và họ đã đến với Ngài, tìm Ngài. Họ đã gặp. Nhưng không phải chỉ nói vài câu xả giao, mà họ muốn biết Ngài sâu xa hơn. “Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Nghĩa là Thầy là ai? Thầy sống như thế nào? Đáp trả sự tìm kiếm của họ, Chúa Giêsu mời họ đến nhà và họ được ở lại với Ngài ngày hôm ấy.
Ở lại với Ngài, và lúc ấy mới bốn giờ chiều. Trong đêm đó, họ đã trao đổi những gì với nhau? Thánh sử không nói đến, nhưng câu chuyện đưa họ đi đến niềm tin. Họ đã gặp được Đấng họ đang mong chờ. Họ vui mừng loan báo cho anh em mình: “Chúng tôi đã gặp được Đấng Mêsia!” Họ đã gắn bó với Ngài. Ngài đã chinh phục được những môn đệ đầu tiên, những con người sẽ theo Ngài vô điều kiện, sẽ sống chết với Ngài. Ông Simon, anh của Anrê cũng được ông dẫn đến với Chúa Giêsu và ông này đặc biệt đã được đổi tên mới: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô”. Đổi tên, theo tục lệ Do Thái, là dành riêng người này cho một công việc quan trọng. Và đúng thế, sau này Phêrô là vị lãnh đạo nhóm Mười Hai, tiếp tục công việc của Ngài.
Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đến với Ngài, vì Ngài là sự sống, là tình yêu, là những gì làm cho cuộc sống hôm nay của chúng ta mang một ý nghĩa vững bền và tươi sáng. Giáo hội không ngừng giới thiệu Ngài cho chúng ta. Và “dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ”. Thế nhưng chúng ta có tìm kiếm Ngài như hai môn đệ kia không? Tìm kiếm mới có thể gặp được. Chúng ta có thích ở lại với Ngài không? Hay chúng ta chỉ thích bay nhảy theo những mời gọi của thế gian? Ông Nicôđêmô ban đêm đã đến tìm Ngài và ông đã được mãn nguyện. Ông Giakêu, khao khát được nhìn thấy và ông đã được Chúa nhìn đến ông. Những cuộc gặp gỡ đã thay đổi cả cuộc đời. Chúng ta có muốn cho cuộc sống chúng ta tươi đẹp không? Hãy đến với Ngài, ở lại với Ngài, chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Ngài đang chờ những Anrê, những Simon thời đại này. Ngài kêu gọi mọi người không trừ ai vì “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
Chúng ta có sẵn sàng dấn thân theo Ngài không?
“Hãy đến mà xem”. Chúng ta xem gì? Có phải là cây lau phất phơ trước gió không? Chắc là không. Chúng ta sẽ thấy một con người như mọi người nhưng là Con Thiên Chúa, Đấng đang mời gọi chúng ta vào thân mật với Ngài, chia sẻ thân phận cứu thế với Ngài. Sống như kẻ không nhà, không có nơi gối đầu, luôn sống theo ý Cha trên trời, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Đó là khuôn mặt của Con Chiên Thiên Chúa.
“Đến mà xem” không phải chỉ để xem mà để theo. Theo Ngài, chia sẻ sứ mệnh của Ngài, đó là tiếng gọi, không dành cho một số người được biệt đãi mà cho mọi người tin. Tin mà không đồng hành với Ngài thì không gọi là tin. Tin chính là dấn thân triệt để với Ngài, Đấng đã nhìn đến phận hèn của chúng ta và đã kêu gọi chúng ta. Tin là đáp trả lời mời gọi của Chúa: “Hãy đến mà xem”. Nhưng không chỉ xem mà “ở lại trong tình thương của Ngài”, loan báo cho người khác: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Đó là tin mừng mà chúng ta cần loan báo. Nam hay nữ, chúng ta đều phải loan báo cho mọi người hồng ân Chúa ban cho chúng ta là được biết Ngài. Bà Mađalêna trước mộ Chúa đã gặp được Ngài và đã loan báo cho các môn đệ, người phụ nữ Samari, ngỗ ngáo và lăng loàng, sau khi đã gặp Ngài, đã vội chạy về làng báo tin: “Tôi đã gặp Đấng Mêsia”.
Chúng ta có gặp được Ngài chưa? Có lẽ chúng ta đã gặp Ngài thường xuyên, trong thánh lễ, trong những lúc cầu nguyện, nhưng những cuộc gặp gỡ đó đã mang lại gì cho chúng ta? Chúng ta có cảm thấy muốn ở lại với Ngài không hay chúng ta chỉ gặp vì bắt buộc, vì thói quen và chúng ta mong mau về nhà để lo việc khác? Chúng ta có thực sự gắn bó với Ngài không? Ngài chiếm chỗ nào trong tâm hồn chúng ta? Ngài luôn mời gọi, nhưng chúng ta có đáp lại không?
“Hãy đến mà xem”. Hãy đến vì Ngài đang ở nơi bàn thờ. Ngài là Con Chiên đến để gánh tội trần gian và cũng để ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Hãy đến với Ngài, đáp trả tình yêu của Ngài. Hãy ăn lấy Ngài vì Ngài là của ăn ban sự sống. Ăn lấy Ngài để biết tình yêu của Ngài êm dịu như thế nào và loan báo tình yêu đó cho mọi người, để tất cả đều được chia sẻ hạnh phúc mà Ngài đã mang đến cho chúng ta.
Chủ đề: “Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1Sm 3, 10).
Kính thưa quý anh chị em,
Lắng nghe và thực hành chân lý làm con người khôn ngoan trong mọi lãnh vực. Điều này lại TN 2-B131
Lắng nghe và thực hành chân lý làm con người khôn ngoan trong mọi lãnh vực. Điều này lại càng đúng trong lãnh vực mạc khải, vì Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan vô cùng, dạy bảo con người nhận biết Chúa và đạt tới chân lý, để được hạnh phúc và cứu độ.
Adam/Eva, thủy tổ loài người, đã không khôn khi bỏ ngoài tai lệnh truyền của Chúa, làm theo ý riêng, đã gieo đau khổ và sự chết cho hết thảy mọi người.
Chúa Giê-su, chuộc lại sự bất trung của Adam bằng vâng phục trọn vẹn ý Cha, đã nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai muốn lắng nghe và thực thi ý Cha trên trời: “Ai giữ Lời Chúa Kitô, thì quả thực, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (1Jn 2, 5).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy cách thức lắng nghe, nhận diện, đáp trả lời mời gọi của Chúa theo một tiến trình sư phạm phù hợp khả năng con người.
Bài đọc I, trích sách Samuel, được xem như bản mẫu trong việc biện phân ơn gọi. Samuel, cậu bé giúp việc cho thầy cả Ê-li, ngủ trong đền thờ Chúa. Đó là môi trường thiêng thánh thích hợp cho việc gặp gỡ giữa Chúa và con người.
Thoạt nghe gọi tên mình, Samuel chưa xác định tiếng Chúa, nên đã chạy lại Ê-li để nghe lời dạy bảo của thầy. Thái độ nhanh nhẹn muốn đáp trả và phục vụ của cậu làm tiền đề cho sự dễ dạy, nhiệt thành của vị ngôn sứ đáng kính khi nhận chỉ thị của Đức Chúa.
Ơn gọi của Samuel luôn cần sự nâng đỡ, đồng hành, hướng dẫn của Ê-li: “con về ngủ đi, và hễ có ai gọi, thì con thưa: lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1Sm 3, 9). Nhờ Ê-li, Samuel nhận ra ơn gọi của mình: được Đức Chúa ở cùng, ông không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu (cf. 1Sm 3, 19).
Theo cách thức Ê-li, Hội Thánh đặc biệt coi trọng việc đồng hành giúp biện phân và thanh lọc động lực ơn gọi, nhất là trong việc đào tạo hàng giáo sỹ.
Người theo Chúa phải như Samuel, không nhằm mục đích danh, lợi, thú, nhưng trên tất cả, gắn bó mật thiết với “Lời”, nhằm phát sinh hiệu quả, đem lại sự sống trần gian.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, mời gọi hai môn đệ Gio-an: hãy đến và hãy nhìn xem, để học biết Giê-su trước khi muốn theo làm môn đệ. Thật vậy, lòng chân thành khát khao chân lý là sức mạnh nứu kéo các ngài đến và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Ở lại ngày hôm ấy là đặt mình trong trường Giê-su, chấp nhận để được đào tạo theo mô hình của vị tôn sư Giê-su “Hiền lành và khiêm nhường”.
Ở với Giê-su, các ngài đã được hấp thụ lửa nóng tông đồ, nên ngay sau đó, đã không ngại giới thiệu cho em mình là Simon Phê-rô: “Chúng tôi đã gặp Đấng mê-si-a” (Jn 1, 41).
Lời mời gọi của Chúa Giê-su: “Hãy đến và hãy nhìn xem”, vừa là một sự thôi thúc khám phá kiếm tìm sự thật, vừa là thách thức cần vượt qua chính mình: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24).
Chúa không hề ru ngủ môn đệ bằng những ảo tưởng hão huyền: danh vọng, lợi, thú, nhưng đảm bảo cho họ được gấp trăm ngay ở đời này và nhất là hạnh phúc đời đời, khi họ bền tâm bước theo Ngài trên con đường thập giá.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, cảnh báo đỏ đối với những kẻ chỉ lo sống theo xác thịt cho thỏa các đam mê. Những người đó không được Nước Thiên Chúa làm phần gia nghiệp.
Đối với Phao-lô, người môn đệ không rập theo thói đời này, không chiều theo lối sống hưởng thụ của số đông, trái lại: sống thánh thiện trong mọi hoàn cảnh để nên giống Chúa là Đấng chí thánh đã kêu gọi và tuyển chọn họ giữa thế gian.
Hãy luôn ý thức mình là người được chọn của Thiên Chúa, nên phải mặc lấy những tâm tình: từ bi, nhân hậu, khiêm cung, nhẫn nại, ôn hòa chịu đựng lẫn nhau và hãy biết tha thứ cho nhau thật lòng. Hãy lấy yêu thương làm dây ràng buộc mọi điều toàn thiện.
Như vậy, anh chị em làm phải, Thiên Chúa tình yêu và sự sống sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi.
Chúa sẽ vui, vì thấy chúng ta là môn đệ đích thật và sinh nhiều hoa trái thánh thiện. Đó là cách tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
* Một là: Sống đúng, sống đẹp ơn gọi kitô hữu của mình. Kitô hữu, không phải là một danh xưng thuộc về một cộng đoàn, nhưng là một sứ vụ phải chu toàn, vì khi chịu phép rửa tội, người môn đệ trở nên men, muối và ánh sáng trần gian. Sống công chính, liên đới, hiệp thông yêu thương, đầy lòng bác ái, vị tha, đích thực là men, là muối và là ánh sáng cho đời. Người ta cứ dấu này mà nhận ra chúng con là môn đệ Thầy, là yêu thương nhau.
* Hai là: Nhẫn nại, bền chí vác thập giá mình hằng ngày theo Chúa là cách biểu lộ lòng tín trung với đức tin. Đó mới là đức tin thật. Đức tin có việc làm. Đức tin đem lại niềm vui, hạnh phúc và sự sống muôn đời.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho chúng ta luôn mãi! Amen.
“LẠY CHÚA, XIN HÃY PHÁN... VÌ CON ĐANG LẮNG TAI NGHE!”
Ngày kia, có một chị giáo dân rất năng động, đầy nhiệt huyết đến gặp Cha xứ sau giờ lễ sáng TN 2-B132
Ngày kia, có một chị giáo dân rất năng động, đầy nhiệt huyết đến gặp Cha xứ sau giờ lễ sáng. Vừa thấy Cha, chị liền chào và đi ngay vào điều chị ấy muốn hỏi.
- Thưa Cha, con cầu nguyện biết bao nhiêu lần, nhưng con chưa bao giờ cảm nghiệm được việc Chúa đáp lời con!?
Cha xứ mỉm cười, hỏi lại chị: - Thế chị cầu nguyện thế nào? - Dạ, sau khi cảm tạ Chúa, con đi ngay vào vấn đề...và cứ thế con cứ nói chuyện với Chúa thao thao bất tuyệt, hàn thuyên với Ngài như chưa bao giờ được hàn thuyên, đại loại là vậy đấy Cha!!!
Dĩ nhiên, câu chuyện trên chưa kết thúc, và có thể còn dài lê thê, vài trường thiên đoạn tình nữa cơ. Thế nhưng, thưa quý ông bà anh chị em, chúng ta có thể dừng câu chuyện ấy, và hướng nhìn về gương cầu nguyện, đáp lời và lắng nghe của tiên tri Sa-mu-en trong bài đọc I hôm nay. Sa-mu-en cảm nghiệm, nghe lời Chúa gọi ông ít nhất ba lần. Làm sao Sa-mu-en lại nghe được tiếng đáp lời của Chúa, mà chị giáo dân trẻ kia lại không thể nghe dù chỉ một lần Chúa nói chuyện với chị? Thiết nghĩ, đây cũng là câu trả lời của vị linh mục trong câu chuyện trên: chị nói chuyện với Chúa thao thao bất tuyệt, thế thì làm gì mà chị có thời giờ để nghe Chúa nói chuyện, mặc dù Chúa cũng tha thiết ước mong hàn thuyên đôi điều với chị!
Và khi nghe được tiếng Chúa mời gọi trong cung lòng sâu thẳm tâm hồn, Sa-mu-en đã không chút do dự, dâng toàn tâm trí của ông cho Chúa, và hướng cả con người mọn hèn của ông lên cùng Chúa, hầu chú tâm lắng nghe điều Chúa muốn nhắn gửi ông “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3, 10). Kinh nghiệm từ đời sống cầu nguyện cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa nói chuyện và lắng nghe chúng ta, tương ứng với hành động của chúng ta: lắng nghe và nói chuyện với Người. Một cuộc đàm thoại thân tình, một cuộc hội ngộ, đối thoại của hai con tim!
Thứ đến, tiên tri Sa-mu-en cũng để lại cho ta gương sống tín thác khi cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1Sm 3, 10). Ông không van nài, xin Chúa hãy nói những điều mà ông muốn nghe, những điều làm thoả trí toại lòng của ông, nhưng ông xin Chúa cứ phán bảo những gì Chúa muốn thổ lộ và thực hiện nơi ông. Trong khi cầu nguyện, mỗi lúc tham dự Thánh lễ, lắng nghe bài giảng của vị chủ tế, chúng ta thường có xu hướng chỉ thích nghe những điều chúng ta muốn, những điều thuận với ý riêng, kế hoạch, đề án của chúng ta; mà chúng ta quên một điều tối quan trọng, đó là: Lời Chúa sống động như con dao hai lưỡi, đánh động tâm can chúng ta dẫu rằng chúng ta không muốn mở đôi tai, mở tâm hồn để đón nhận!!! Chỉ có tâm hồn luôn mở rộng, mới có thể vui tươi đón nhận bất cứ điều gì mà Chúa muốn nhắn bảo, gửi đến cho chúng ta. Và chỉ trong tâm tình tin tưởng và tín thác như vậy, chúng ta mới có thể ‘ở lại với Chúa’ (x. Ga 1, 39) như các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã làm trong bài Tin Mừng ngày hôm nay. Được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giê-su ‘Đây Chiên Thiên Chúa’ (x. Ga 1, 36), các ông ước ao muốn biết, tận mắt chứng kiến chỗ của Chúa Giê-su, và sau khi đến xem thì các ông đã ở lại với Người. Thái độ, hành vi ‘ở lại’ trong Tin Mừng Gio-an có một ý nghĩa rất sâu sắc. Không chỉ đơn thuần là cử chỉ ở cùng, hàn thuyên, tâm sự với ai đó thôi, mà con ước ao kết hiệp mật thiết, trở nên đồng hình đồng dạng với người đó nữa. Trong trường hợp này, các môn đệ ước ao được trở nên một với Chúa Giê-su qua cách ăn ở, cách sống, lối suy nghĩ, cách đối nhân xử thế, v.v...Như thế, nơi các ông luôn chan chứa niềm vui bất tận vì cũng được Người ở cùng, và Chúa Cha đồng hành với các ông như câu khẳng định của Chúa Giê-su ‘ai ở trong Thầy, thì Thầy ở trong người ấy, và Cha Thầy cũng ở trong người ấy’ (x. Ga 14, 23). Điều này cũng xác thực nơi tiên tri Sa-mu-en. Sau khi, ông tín thác, dâng hiến hoàn toàn cho Chúa và lắng nghe làm theo Lời Người, thì ông ‘ở lại’ và ‘lớn lên’ trong Chúa “...Sa-mu-en ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa” (1Sm 3, 19).
Trong đời sống đức tin, và cuộc sống thường nhật của chúng ta, Thiên Chúa cũng ước mong ta chuyện trò với Người, và Ngài mong mỏi chúng ta biết lắng nghe Lời của Ngài, một sứ điệp tình yêu mang lại niềm hạnh phúc vô biên, và giải thoát chúng ta khỏi những lo toan, mệt nhọc chán chường của tâm thể thần lực con người; để rồi chúng ta có thể ‘ở lại trong Chúa’ và ‘ở lại với anh chị em’. Lạy Chúa giàu lòng xót thương, xin đoái đến chúng con là những kẻ yếu đuối, dễ ngã xa, tách lìa khỏi tình yêu bao dung của Người và lòng yêu thương của anh chị em. Xin ban cho chúng con một trái tim luôn biết rộng mở, lắng nghe thấu đáo, chấp nhận hoàn toàn chương trình của Chúa trong cuộc đời của mỗi người chúng con.
Đáp tiếng Chúa gọi mời Sa-mu-en cất lời: “Xin Ngài hãy phán dạy, Con chú tâm nghe Lời” Khi con còn trong nôi Nghe tiếng ru à ơi Đến lúc con thành người Vẫn nhớ Lời Hằng Sống. Amen!
Vào Chúa Nhật II Thường Niên năm B, Bài Đọc I và Tin Mừng cùng đề cập đến mầu nhiệm “ơn TN 2-B133
Vào Chúa Nhật II Thường Niên năm B, Bài Đọc I và Tin Mừng cùng đề cập đến mầu nhiệm “ơn gọi”. Thiên Chúa kêu gọi một cách dứt khoát, bởi vì Ngài nhìn thấu tận cõi lòng sâu kín của con người.
1Sm 3: 3b-10, 19
Bài Đọc I, trích từ sách Sa-mu-en quyển thứ nhất, thuật lại chuyện tích về “ơn gọi” của con trẻ Sa-mu-en. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở với em mọi ngày suốt cuộc đời của em.
1Cr 6: 13c-15a, 17-20
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô gợi lên phẩm giá của thân xác là chi thể của Đức Ki-tô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Ga 1: 35-42
Tin Mừng Gioan thuật lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của các môn đệ với Đức Giê-su. Ngài đưa mắt nhìn dứt khoát trên Phê-rô, vị thủ lãnh Giáo Hội tương lai của Ngài.
BÀI ĐỌC I (1Sm 3: 3b-10, 19)
Ngôn sứ Sa-mu-en là một trong những nhân vật hấp dẫn của Cựu Ước. Cuộc chào đời của ông tiên vàn là một “dấu chỉ”.
1. Đứa con của lời khẩn nguyện.
Mẹ ông là bà An-na, một trong hai người vợ của ông En-ca-na quê thành Ra-ma-tha-gim. Đây vẫn còn thời đại đa thê vào thế kỷ XI trước Công Nguyên. Tuy nhiên, chỉ những bậc vị vọng và giàu có mới có thể có nhiều vợ. Chúng ta ghi nhận rằng hai sách Sa-mu-en và hai sách Các Vua không cho thấy bất kỳ trường hợp đa thê nào khác ngoài trường hợp hy hữu nầy. “Một vợ một chồng” là thể chế gia đình thông thường nhất ở Ít-ra-en. Bà Pơ-nin-na có nhiều con trong khi bà An-na không có một đứa con nào. Vì thế, bà An-na rất khổ tâm và cảm thấy bà Pơ-nin-na như đối thủ đang chọc tức mình để hạ nhục mình.
Chồng bà yêu quý bà và chiều chuộng bà: “An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa trai sao?” (1Sm 1: 8). Tuy nhiên, bà An-na vẫn không nguôi nỗi phiền muộn nên quyết tâm khấn hứa với Đức Chúa.
Vào dịp đại lễ hằng năm, bà cùng gia đình hành hương lên thánh địa Xi-lô. Ở đó, bà khấn hứa với Đức Chúa rằng nếu Ngài ban cho bà một đứa con trai, bà xin dâng hiến trọn cuộc đời cậu để phụng sự Ngài. Khi con trẻ sinh ra, bà giữ trọn lời khấn nguyện. Khi con trẻ lớn khôn, bà dẫn đứa bé lên đền thánh Xi-lô và trao gởi con mình cho thầy cả Ê-li. Vào ngày đó, bà dâng hy lễ lên Đức Chúa và hát bài ca chúc tụng Thiên Chúa. Đây là nguồn cảm hứng đầu tiên mà Đức Ma-ri-a đón nhận khi Mẹ hát lên bài ca “Magnificat” của Mẹ.
2. Ơn gọi.
Kể từ đó, cậu bé Sa-mu-en phụng sự Đức Chúa bên cạnh thầy cả Ê-li. Nhưng Đức Chúa có những dự định lớn lao hơn đối với đứa trẻ nầy và rất sớm Ngài khai lòng mở trí cho cậu hiểu. Đây là câu chuyện về ơn gọi mà chúng ta đọc vào ngày lễ hôm nay.
Ơn gọi của trẻ Sa-mu-en vén mở khoa sư phạm của Thiên Chúa. Trước hết, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ bé mọn và những người yếu đuối để thi hành những ý định của Ngài. Thứ nữa, chính Ngài luôn luôn đề xuất sáng kiến. Thiên Chúa đã kêu gọi ông Mô-sê trong hoang địa theo cùng một cách thức như thế (Sh 3: 1-6) và sau này Ngài cũng sẽ kêu gọi ngôn sứ I-sai-a ở trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem theo cùng cách thức vậy (Is 6: 1-12).
Thiên Chúa ba lần đánh thức cậu khi đang cậu ngủ say trong trạng thái hồn nhiên vô tư lự. Ngài “khẻ đánh thức” cậu, vì thế cậu tỉnh dậy mà không chút sợ hải. Bản văn nói với chúng ta: “Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Chúa, và Chúa chưa mặc khải Lời Người cho cậu”. Suốt cuộc đời mình, “Chúa ở với cậu, và Người thực hiện mọi lời Người đã phán với cậu, không sót lời nào”. Sa-mu-en là vị Thủ Lãnh cuối cùng của dân Ít-ra-en, nhưng là một vị Thủ Lãnh vĩ đại nhất.
BÀI ĐỌC II (1Cr 6: 13c-15a, 17-20)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-rin-tô từ Ê-phê-xô, chắc hẳn vào mùa xuân 55. Giáo đoàn Cô-rin-tô là một trong những giáo đoàn thánh nhân đã thiết lập. Tuy nhiên, cộng đoàn nầy gặp phải nhiều vấn đề. Thánh nhân vừa mới nhận được những thông tin thật đáng lo ngại về đạo lý, vì thế thánh nhân ra sức giáo huấn họ. Trong bức thư nầy, chúng ta gặp thấy những quan điểm thần học cao vời của thánh nhân.
Đoạn trích hôm nay đề cập đến những vấn đề thân xác theo những viễn cảnh Ki-tô giáo. Để hiểu được những lời khuyên bảo của thánh nhân, chúng ta phải đặt những lời khuyên này vào trong bối cảnh thành phố Cô-rin-tô đương thời.
1. Bối cảnh thành phố Cô-rin-tô.
Cô-rin-tô là một thành phố mới; thành phố xưa đã bị phá hủy vào thời đế quốc Rô-ma chinh phục vào năm 146 trước Công Nguyên. Hoàng đế Xê-da đã phục hưng thành phố nầy và thiết lập thành một thuộc địa Rô-ma vào năm 44 trước Công Nguyên. Thành phố hoàn toàn được xây dựng lại và sớm lấy lại vị thế của mình là thủ phủ thương mại.
Với hai thương cảng, một ở phía đông (biển Ê-gê), và một ở phía tây (biển I-o-ni), giữa đường từ Châu Á đến Rô-ma, thành phố nầy được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi. Với số lượng phu khuân vác, thợ thủ công, hàng hóa phong phú, nhiều ngân hàng, thành phố tứ xứ nầy tạo nên một vùng đất thuận tiện cho việc phát triển các tệ nạn: óc con buôn, nạn hám lợi và cuộc sống xa hoa. Ngoài ra, ở đây còn có cuộc sống sa đọa do bối cảnh tế tự xa xưa còn được lưu truyền. Vào thuở xa xưa, thành phố đã phụng thờ nữ thần tình ái và sinh sản. Có đám đông nữ tư tế phụ trách việc tế tự này. Đây là một hình thức trụy lạc thánh, tự nguồn gốc được coi như nghi thức sinh sản và hành vi lôi kéo ân phúc của nữ thần. Thành phố Cô-rin-tô chắc chắn không là thành phố đức hạnh.
2. Sự mới mẽ của Ki-tô giáo.
Những nhà luân lý ngoại giáo tố cáo cuộc sống phóng túng và đề cao sự khổ chế của thân xác nhân danh chủ nghĩa nhân bản thanh cao và lý tưởng. Thánh Phao-lô đem lại cho luân lý Ki-tô giáo một chiều kích hoàn toàn khác: tội lỗi tác hại đến “những mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa”. Người ta dễ thấy điều nầy ở nơi cách thức sử dụng thân xác của mình. Để sống đức độ, thánh nhân công bố: “Thân xác con người không phải để gian dâm, nhưng để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”.
3. Ba luận chứng:
Thánh nhân xây dựng lời công bố này trên ba luận chứng vững chắc tựa như “kiềng ba chân”. Luận chứng thứ nhất gây ấn tượng nhất và cũng mới mẽ nhất trong lịch sử tư tưởng: “Thân xác của chúng ta sẽ được sống lại”. Luận chứng thứ hai được gợi ý cách ngắn gọn: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là chi thể của Đức Ki-tô sao?”. Đây là một trong những đề tài chủ đạo và tâm đắc mà thánh nhân sẽ nhắc lại ở nơi các thư khác. Luận chứng thứ ba dẫn chúng ta lên đến một bình diện không kém phần cao vời: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người”. Được kết hợp với Đức Ki-tô, qua cầu nguyện, Thánh Thể, tận hiến, vân vân, chúng ta không còn ý muốn nào khác ngoài ý muốn của Chúa.
Đặt nền tảng trên ba luận chứng trên, thánh Phao-lô đẩy đến cực điểm khi lên án chống lại tội gian dâm: tội duy nhất làm ô uế thân xác của mình. Thánh nhân nêu bật sự tương phản giữa việc kết hợp với Chúa nhờ đó chúng ta được nâng cao lên đến mức hiệp nhất “tinh thần” với Ngài, và những kết hợp thấp hèn đánh mất phẩm giá của thân xác.
4. Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
Tiếp đó, thánh nhân khai triển phép Rửa Ki-tô giáo: thân xác chúng ta đã trở nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, vì thế, không còn thuộc về chúng ta nữa. Dâng hiến thân xác của mình cho một thần linh nào khác là tội thờ ngẫu tượng (đây cũng là đề tài trong thư gởi tín hữu Ga-lát và thư gởi tín hữu Ê-phê-xô).
5. Giá máu cứu chuộc của Đức Giê-su.
Lời ghi nhận cuối cùng được diễn tả đầy cảm xúc: “Thiên Chúa đã trả giá rất đắt mà chuộc lấy anh em”. Đức Ki-tô không khinh chê thân xác bởi vì Ngài đã mặc lấy một thân xác như chúng ta. Thân xác này, Đức Ki tô đã hiến dâng để bị đóng đinh vào thập giá, ngõ hầu nhờ hy tế nầy, chúng ta được dự phần vào sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta không được làm tổn hại đến thiên ân mà Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt như thế. Vì thế, câu kết luận tất yếu phải có là: “Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”.
Trong đoạn văn đậm đặc đạo lý nầy, thánh nhân chỉ gợi ý, bắt đầu với ơn Phục Sinh và kết thúc với ơn Cứu Chuộc, đây là hai thái cực bất khả phân của khoa thần học thánh Phao-lô.
TIN MỪNG (Ga 1: 35-42)
Bài Đọc I tường thuật ơn gọi của cậu bé Sa-mu-en, cậu được thánh hiến cho Thiên Chúa ngay từ lúc còn niên thiếu, trong khi Tin Mừng Gioan trình bày hoàn cảnh ơn gọi của các môn đệ tiên khởi của Đức Giê-su; tâm hồn của họ đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị rồi.
1. Thời gian: ngày thứ ba của Tuần Lễ Khai Mạc.
Hoạt cảnh được định vị ở bên bờ sông Gio-đan hay trong vùng phụ cận. Theo diễn tiến thời gian của “tuần lễ khai mạc”, hoạt cảnh nầy được định vị vào ngày thứ ba sau ngày thứ nhất Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Giê-su trước giáo quyền Do thái và ngày thứ hai ông làm chứng cho Đức Giê-su trước đám đông dân chúng. Hoạt cảnh diễn ra cuộc cuộc gặp gỡ này được định vị “vào ngày thứ ba” thật có ý nghĩa, nó gợi lên biến cố Phục Sinh tương lai. Chính là vào buổi chiều “ngày thứ ba” của biến cố Phục Sinh sau khi Đức Giê-su đã chịu chết và mai táng trong mộ, các Tông Đồ đã phân tán, nay quy tụ lại, nghĩa là Giáo Hội được khai sinh. Vì thế, việc khai sinh Giáo Hội ẩn hiện trong câu chuyện nầy. Ơn gọi của ba môn đệ đầu tiên trong đó có Phê-rô, vì thế, Giáo Hội được ươm mầm rồi. Chính đó là lý do tại sao thánh ký đặt việc Chúa Giê-su đổi tên ông Si-mon thành “Kê-pha” (“Phê-rô”) ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên.
2. Tước hiệu: “Chiên Thiên Chúa”.
Hoạt cảnh rất sống động và tự nhiên. Gioan Tẩy Giả đang đứng với hai môn đệ của mình. Khi thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông nói với hai môn đệ về Đức Giê-su dưới tước hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu nầy muốn nói lên điều gì?
2.1-Chiên Vượt Qua.
Đối với người Ki-tô hữu, mà sách Tin Mừng thứ tư này viết cho họ, tước hiệu nầy gợi lên Hy Tế Vượt Qua của Đức Giê-su, Ngài bị kết án tử vào đúng thời điểm chiên Vượt Qua bị sát tế ở tại sân Đền Thờ (Ga 19: 14). Ngoài ra, các bản văn Kinh Thánh đã mô tả “Người Tôi Trung” bị nhục mạ, bị ngược đãi thậm tệ, chẳng mở miệng oán than, “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Chúng ta biết các Tông Đồ đã trải qua biết bao khó khăn mới có thể chấp nhận ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ và bị đóng đinh.
Rõ ràng đây không thể là quan niệm của vị Tiền Hô khi gọi Đức Giê-su dưới tước hiệu Chiên Thiên Chúa, vì thánh nhân không được diễm phúc thấy cuộc Hiến Tế của Đức Giê-su như Con Chiên bị sát tế. Xem ra đối với Gioan Tẩy Giả, “Chiên Thiên Chúa” là hình ảnh của sự tinh tuyền và thánh thiện. Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã thấy “Thần Khí ngự xuống trên Ngài” (Ga 1: 32), được sánh ví với “Chiên Vượt Qua” mà Luật đòi buộc “không tì vết”.
2.2-Chiên Khải Hoàn.
Mặt khác, vài bản văn thuộc trào lưu khải huyền Do thái đã gợi ra rằng Đấng Mê-si-a sắp đến như một con chiên yếu đuối, nhưng ở nơi con chiên nầy Thiên Chúa ban sức mạnh và quyền năng, vì thế, đây sẽ là con chiên khải hoàn (không phải Thiên Chúa thường sử dụng những người bé nhỏ và yếu đuối để thực hiện những dự định vĩ đại của Ngài sao?). Trong sách Khải Huyền của mình, thánh Gioan Tông Đồ lấy lại hình ảnh “Chiên Khải Hoàn” được liên kết với hình ảnh “Chiên bị sát tế”. Cả hai hình ảnh nầy diễn tả chỉ một nhân vật: Đức Giê-su Ki-tô.
Vì thế, như thường thấy trong Tin Mừng thứ tư, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” giả thiết nhiều mức độ đọc và hiểu khác nhau.
3. Các nhân vật.
Chúng ta biết rất rõ các nhân vật của hoạt cảnh nầy. Tuy nhiên, thái độ của mỗi nhân vật đáng cho chúng ta gẫm suy.
3.1-Gioan Tẩy Giả.
Trước hết, Gioan Tẩy Giả là một nhân vật đáng được ngưỡng mộ. Ông biết Đấng Mê-si-a có mặt ở đó. Ông mời gọi các môn đệ của mình đến gặp Ngài. Ông sẵn sàng nhường các môn đệ thân tín của mình cho Đức Giê-su. Ông có thể đi theo Đấng mà ông tiên cảm sự cao cả của Ngài. Nhưng không, sứ mạng của ông chính là chuẩn bị các tâm hồn, niềm vui của ông chính là mặc khải cho người khác nhận ra Chúa Giê-su: “Tôi đây không phải là Đức Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3: 28-29). Ông gieo nhưng Đức Giê-su gặt.
3.2-Ba môn đệ.
Ông An-rê, một môn đệ ẩn danh mà truyền thống sau này nhận dạng là Gioan Tông Đồ, tác giả của Tin Mừng thứ tư này, và ông Phê-rô là em của ông An-rê. Ba người này làm gì ở trong hoang địa miền Giu-đa này? Họ là những ngư phủ đến từ biển hồ Ti-bê-ri-a để nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, vì danh tiếng của ông đã vang dội đến tận nơi họ đang sinh sống. Lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả rất nghiêm khắc, nhưng chắc chắn đã chinh phục bầu nhiệt huyết của ba ngư phủ trẻ tuổi này. Từ khi vị Tiền Hô chỉ cho họ “Chiên Thiên Chúa”, họ không chút ngần ngại bám theo Đức Giê-su. Như vậy, đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Đức Giê-su. Đoạn, họ trở về miền Ga-li-lê tiếp tục công việc chài lưới của mình. Tuy nhiên, ơn gọi của họ sẽ chín mùi; và rồi một ngày kia, trước tiếng gọi bất ngờ của Ngài: “Hãy theo tôi”, “họ rời bỏ tất cả mà theo Ngài”. Đó là lần ra đi theo đuổi ơn gọi của mình một cách dứt khoát.
3.3-Đức Giê-su.
Trong đoạn Tin Mừng nầy, thánh Gioan phác họa đôi nét về Đức Giê-su và ghi lại vài lời đầu tiên của Ngài.
Chính Đức Giê-su có sáng kiến bắt chuyện với hai người thanh niên đang dò dẫm bước đi theo sau Ngài – và sau này cũng sẽ là như vậy khi Ngài mời gọi họ làm môn đệ của Ngài. Khi thấy hai người đi theo mình, Chúa Giê-su quay lại và hỏi: “Các anh tìm gì thế?”; họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu trả lời của Đức Giê-su: “Đến mà xem”, thật giản dị nhưng gợi lên sự hiếu kỳ ở nơi họ. Thế là “họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy”. Nhưng thánh ký không nói cho chúng ta biết chính xác nơi ở của Ngài, bởi vì trong cuộc đời công khai, Đức Giê-su không có một mái nhà để trú ngụ. Thánh ký không nói cho chúng ta biết bất cứ điều gì về nơi ở của Ngài, cũng không cho chúng ta biết bất cứ điều gì về cuộc chuyện trò đầu tiên của Ngài với hai người môn đệ này. Tuy nhiên, tác động của cuộc gặp gỡ đầu tiên này ghi dấu ấn không thể xóa nhòa trong tâm khảm của họ qua tiếng reo vui của ông An-rê khi gặp em mình là Phê-rô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”.
Từ giây phút nầy, thánh ký giữ mãi kỷ niệm sống động nầy, vì thời gian đã trôi qua rất lâu sau đó, ấy vậy, ông không thể nào quên giây phút tuyệt vời này: “Đó là vào khoảng giờ thứ mười” (tức bốn giờ chiều). Đây là chi tiết của một chứng nhân nhưng cũng là chữ ký của người bạn đồng hành ẩn danh của ông An-rê, tức là Tông Đồ Gioan, tác giả sách Tin Mừng mang tên ông.
4. Hai cái nhìn.
Chắc chắn ấn tượng chúng ta có khi đọc bản văn nầy đó là câu chuyện bắt đầu và kết thúc trên một cái nhìn. Cái nhìn đầu tiên là cái nhìn của Gioan Tẩy Giả, cái nhìn của một vị ngôn sứ nhận ra Đấng Mê-si-a, nhưng không biết chính xác Đấng ấy sẽ như thế nào. Và cái nhìn của Đức Giê-su trên Phê-rô, cái nhìn thấu suốt đến tận cõi tâm can, cái nhìn xa trông rộng đến tận tương lai, và từ đó xác định sự chọn lựa của mình. Sẽ còn có những cái nhìn khác của Đức Giê-su trên Phê-rô. Thánh ký sẽ khai triển cái nhìn của Đức Giê-su một cách sâu xa trong Tin Mừng của mình.
Theo tâm sinh lý, thông thường các em nhỏ thích, muốn bắt chước làm theo những gì mà chúng TN 2-B134
Theo tâm sinh lý, thông thường các em nhỏ thích, muốn bắt chước làm theo những gì mà chúng thường chứng kiến, điều mà thường xảy ra và lặp đi lặp lại nhiều lần. Tại các Trường Mầm Non ở Nhật Bản, hằng tháng họ đều có những hoạt động để tổ chức mừng sinh nhật cho các em. Một trong những việc đó là, khuyến khích các em viết ra, đứng lên và đọc trước toàn thể mọi người những ước muốn-nguyện cầu của mình. “Khi lớn lên, con ước muốn trở nên người làm nghề gì?” Đa phần các em thích trở thành giáo viên, số còn lại là muốn làm thợ làm bánh, thợ làm cơm hộp, tài xế xe bus…khi được hỏi tại sao con thích, thì các em chỉ cười và không biết vì sao, nhưng sau này khi lớn lên, nhìn lại những ước mơ thuở ban đầu ấy, các em nhớ lại và cho biết, đây chính là những người, với những nghề nghiệp mà hằng ngày các em được gặp gỡ, tiếp xúc. Trong đời sống ơn gọi và đức tin của mỗi người, chúng ta đều được mời gọi “Hãy đến mà xem”. Nhưng đến đâu và xem điều gì? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng dẫn, soi sáng và minh chứng cho chúng ta biết thánh ý của Thiên Chúa cho mỗi người qua việc chúng ta đến với Chúa qua Hội Thánh và qua các bí tích ban ơn sủng để cảm nghiệm và nhận ra ơn gọi làm tông đồ và ơn gọi nên thánh của chính mình.
Cậu bé Samuel trong bài đọc một đã dần dần khám phá ra chính ơn gọi của mình do bởi người mẹ trước hết đã dẫn cậu vào đền thờ, dâng cậu cho Chúa và gởi cho tiên tri Heli để cậu được hướng dẫn, giáo dục. Vì được ở trong đền thánh, nên ban đầu khi nghe tiếng gọi tên mình, Samuel đã chạy đến với Tiên tri vì cứ ngỡ Ngài đã gọi mình, nhưng sau khi được Heli hướng dẫn, Samuel mới biết đó không phải là tiếng của thầy mình mà là tiếng Chúa gọi nên cậu đã thưa: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe”. Khi ý thức được ơn gọi mà Chúa ban cho, cùng với sự hướng dẫn của thầy Heli, “Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa”. Chính Samuel sau này cũng đã được tuyển chọn để trở nên Ngôn sứ của Thiên Chúa. Thật vậy, trước ơn kêu gọi để ra đi thực thi ý Chúa, thật quá nhiệm mầu, không thể hiểu và diễn tả, mà chỉ biết dâng lời cảm tạ tri ân.
Thánh vịnh 39 trong bài Đáp ca mời gọi chúng ta, mỗi khi ai đó nhận ra được tiếng Chúa kêu mời, thì tiếng Chúa thúc bách và làm cho họ không thể cưỡng lại trước lời mời gọi này, cho tới khi họ thốt lên lời đáp trả: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”. Ơn kêu gọi để làm môn đệ Chúa, để làm Tông đồ, để ra đi thực thi thánh ý và huấn lệnh Chúa được diễn tả cách thiết thực hơn trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi Gioan Tẩy Giả giới thiệu và nói về Chúa Giêsu cho môn đệ của ông, chính qua lời giới thiệu này, Anrê một trong hai môn đệ của Gioan đã tìm đến để xin gặp Chúa Giêsu; khi gặp Chúa họ đã hỏi về nơi Ngài cư ngụ. Thật thú vị là, Chúa đã không trả lời điều mà họ muốn hỏi, nhưng Chúa lại muốn mời gọi họ hãy tự đến khám phá, chứng kiến, cảm nghiệm để mà biết: “Hãy đến mà xem. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười”. Đây chính là sự cảm nghiệm của đời sống đức tin. Tường thuật của Tin mừng về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu lại càng thú vị hơn, chính Anrê, một khi ông đã cảm nghiệm và nhận biết về Chúa; biết ở đây không còn phải là nơi chốn mà Chúa Giêsu ở, nhưng ông biết rõ Chúa Giêsu là ai: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô”. Biết ở đây chính là mối tương quan với Chúa Giêsu, cho nên Anrê đã mau mắn, mạnh dạn giới thiệu để đem Simon anh mình đến với Chúa Giêsu nữa. Cuối cùng, không một chút chần chừ, Simon cũng đã mau mắn đáp trả lại lời kêu mời để đến với Chúa. Với ơn kêu gọi này đặc biệt này, Simon đã được biến đổi trở nên nền tảng ơn gọi và đức tin vững chắc “Kêpha-Đá” cho những ai muốn tin, đi theo ơn kêu gọi làm tông đồ của Chúa Giêsu. “Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá”.
Anh chị em rất thân mến, là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều được mời gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, để cùng với Ngài cảm nếm ơn thánh Chúa ban và cộng tác với Ngài để chuyển trao ơn Chúa cho tha nhân. Thật vậy, ơn kêu gọi này của chúng ta phải được đáp trả trước hết trong “cái nôi của gia đình” nơi mà quý cha mẹ và những người thân yêu là những người gieo mầm, nuôi dưỡng, giới thiệu và quãng diễn về ơn gọi. Thứ đến, ơn gọi này không thể nào sinh hoa kết quả, nếu chúng ta không đến với chính nguồn mạch là Đức Giêsu Kitô qua các bí tích của ân sủng. Cuối cùng, ơn gọi làm tông đồ được minh định với sự chứng thực và sai đi của Hội Thánh vì chính Đức Kitô là đầu của Hội Thánh và Thánh Thần là Đấng tuyển chọn và sai chúng ta ra đi.
Xin Chúa ban ơn giúp sức cho mỗi người chúng con biết đến với Chúa, để cảm nếm và nghiệm ra được chính ơn thánh Chúa đang kêu mời, tuyển chọn và sai chúng con ra đi để nên chứng tá tình yêu thương, ơn cứu độ của Chúa cho anh chị em trong mỗi môi trường mà chúng con đang sống. Amen.
Tin mừng Ga 1: 35-42: Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" cho các môn đệ của mình. Các ông bỏ Thầy mình để theo Chúa, trở nên những môn đệ dầu tiên của Chúa Giêsu.
Cả ba bài đọc KinhThánh của Chúa Nhật hôm nay đều cùng chung một đề tài, nói về Ơn gọi TN 2-B135
Cả ba bài đọc KinhThánh của Chúa Nhật hôm nay đều cùng chung một đề tài, nói về Ơn gọi. Samuel, các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, những ai được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, trở nên chi thể của Đức Kitô, tất cả đều được Thiên Chúa kêu gọi. Thiên Chúa kêu gọi mọi người và từng người để họ liều mình đi theo Đức tin và phục vụ Thiên Chúa trong kế hoạch cứu rỗi của Ngài. Mỗi người đều có một ơn gọi riêng trước Chúa. Cần phải có con tim yêu mến và tự do đáp trả tiếng Chúa kêu mời. Hãy thưa lên với Chúa như Samuel: Lạy Chúa xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe! Hãy can đảm từ bỏ mọi sự để đến với Chúa như các môn đệ đầu tiên, vì Ngài cũng đang mời gọi mỗi người: hãy đến mà xem.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng ( Ga 1, 35-42)
Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" cho các môn đệ của mình. Các ông bỏ Thầy mình để theo Chúa, trở nên những môn đệ dầu tiên của Chúa Giêsu. Từ các môn đệ đầu tiên này, những người khác được giới thiệu và được tuyển chọn. Nhân loại bắt đầu bứơc từ Giao Ước cũ qua Giao Ước mới. Bỏ Do Thái Giáo, bỏ Gioan tẩy Giả để theo Chúa Giêsu và ở với Người.
1. " Hai môn đệ nghe ông nói liền theo Chúa Giêsu.": Sau lời giới thiệu của Gioan, hai môn đệ ông liền quyết định bỏ thầy mình để theo Chúa Giêsu. Cũng giống như trường hợp của Samuel ( Bài đọc I), ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được gợi lên do một người khác. Thiên Chúa có nhiều cách thế để gọi mỗi người, Ngài thường gọi qua một trung gian. Ở đây cũng có một diểm thú vị nơi Gioan Tẩy Giả, ông giới thiệu Chúa Giêsu với môn đệ của mình và chấp nhận để họ theo Chúa. Quả là một con người khiêm nhường, biết tự hạ, nhận rõ vai trò trung gian ơn gọi của mình. Chính ông cũng đã từng tuyên bố: Tôi phải nhỏ bé đi để Người được lớn lên. Vì thế, khi Chúa xuất hiện ông biết rút lui đúng lúc. Chính nhờ Gioan các môn đệ biết Chúa Giêsu, tin vào Người và đi theo Người.
2. Các ngươi tìm gì?": Câu hỏi này là lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng thứ IV. Cũng một câu hỏi như thế sẽ là lời đầu tiên của Đấng phục Sinh khi hỏi Maria Mađalêna: "Bà Tìm ai?" Một câu hỏi có ý hướng dẫn người đối thoại đến việc tìm gặp chính Chúa, là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia.
3. "Hãy đến mà xem.": khi trả lời các môn đệ hỏi Người: "Thầy ở đâu?", Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp vào ý chính của câu hỏi. Người nói nơi chốn nào Người ở nhưng lại mời gọi các ông hãy đến mà xem. Người có ý muốn cho các ông biết rằng: không thể biết Người ở đâu nếu không đích thân đến xem Người. Động từ Hy lạp 'xem' ( Horân) không chỉ nói lên việc xem thấy bằng con mắt thể lý, nhưng còn bao hàm sự nhận thức và hiểu thấu một thực tại thiêng liêng. Điều này đòi hỏi không thể chỉ là sự chứng kiến những sự việc bên ngoài mà con là một quá trình dấn thân gắn bó với thực tại thiêng liêng ấy. Câu trả lời của Chúa Giêsu bao hàm hai ý nghĩa: khám phá nơi Người ở dưới đất tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá nơi ở thiêng liêng của Người, chính là Thiên Chúa Cha.
4. "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô" Andrê sau khi gặp Chúa Giêsu, đến ở với Người đã xác tín Người là Đấng Messia, và về giới thiệu cho người anh em của mình là Phêrô. Andrê vui mừng vì khám phá mới mẻ này. Niền vui ấy ông không giữ cho riêng mình nhưng đã chia sẻ với Phêrô, dẫn anh mình tới với Chúa Giêsu, Đấng Messia mà ông đã tin nhận. Từ Gioan, các môn đệ đầu tiên gặp gỡ Đấng Messia, rồi từ các ông, Philipphê, được giới thiệu, rồi tới Nathanael … và sau này đến toàn thể nhân loại. Một dây loan truyền Tin mừng vĩ đại đã xuất hiện để loan báo Đấng Messia đã đến và mời gọi mọi người đến với Người. Sự gặp gỡ và khám phá Đấng Messia khiến cho ai gặp được Người cũng vui sướng, được thay đổi vận mạng và mong muốn cho những ai mình gặp cũng được khám phá về người. Đây cũng chính là huyền nhiệm ơn gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, làm Kitô hữu. Được gọi để gặp gỡ khám phá và đưa Chúa Giêsu Kitô đến cho người khác.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Trong Tin mừng hôm nay, hai từ được dùng để chỉ Chúa Giêsu: Một của Gioan giới thiệu Người là 'Chiên Thiên Chúa' và nơi môi miệng của Andrê xác tín Người là 'Đấng Messia'. Cả hai từ này đều nói lên sứ mạng và bản tính của người. Người là Đấng Cứu thế. Người đến cứu độ nhân loại bằng việc tự hiến chính mình làm của lễ toàn thiêu đền tội thay cho nhân loại. Chúa Giêsu đến cứu độ chúng ta, vì yêu thương Người đã hoàn toàn tự hiến cho nhân loại. Người yêu thương đến độ chết cho người mình yêu. Không chỉ được Người yêu thương cứu độ, chúng ta còn được Người mời gọi đến ở với Người, chia sẻ sự sống thần linh với Người và tham gia vào công trình cứu độ của Người. Chiên ngưỡng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, nhận ra tình yêu của người, mỗi người chúng ta cũng khám phá ra huyền nhiệm ơn gọi Kitô hữu của mình. Được trở nên nghĩa thiết với Người và giới thiẹu cũng như đưa anh chị em chung quanh nghĩa thiết với Người như chúng ta.
III. Gợi Ý bài Giảng
1. Được gọi làm Kitô hữu là để đến ở với Chúa Giêsu Kitô: "Các ông đã ở lại với người ngày hôm đó". Các môn đệ được gọi trước hết là để đến ở với Chúa. Ở với Chúa chính là giai đoạn đầu của một cuộc sống chung hiệp thông sâu xa với Chúa. Sau này chính Chúa Giêsu luôn luôn kêu gọi các môn đệ hãy ở với Người: " Các con hãy ở lại trong tình yêu của thầy; hãy ở trong Thầy". Như cành nho gắn liền với cây nho thế nào, người Kitô hữu môn đệ của Chúa cũng được mời gọi ở lại và nên một với Người như vậy. ( Tc Ga 15, 1-16) Chính nhờ việc ở lại với Chúa mà người ta mới hiểu biết, mới khám phá được Người là ai, Người làm gì? Sau khi đến và lưu lại với Chúa một ngày, Andrê mới khám phá ra Chúa Giêsu chính là Đấng Messia. Làm Kitô hữu là bạn hữu của Chúa Kitô. Là bạn có nghĩa là đi vào cuộc sống thân tình gắn bó với nhau.
2. Dấn thân vào ơn gọi Kitô hữu: Trình thuật Tin Mừng ghi lại sự kiện các môn đệ đầu tiên được gặp gỡ, tiếp xúc và đi theo Chúa Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ đã biến đổi các ông từ những con người quê mùa thành Tông Đồ của Đấng Messia; từ những môn đệ của Gioan Tẩy Giả thuộc giao ứơc cũ trở nên những chứng nhân Tin Mừng của giáo ứơc mới trong Đức Kitô. Các ông đã dấn thân vào một hành trình mới, vào một tôn giáo mới, vào một cuộc đời mới. Khởi đi từ việc gặp gỡ Chúa qua sự giới thiệu của Gioan Tẩy giả, các ông đã lắng nghe tiếng Chúa gọi mời: "Hãy đến mà xem", khi gặp gỡ Chúa, khi thấy Người, sống với Người các ông đã nhận ra Người là Đấng Messia và quyết tâm đi theo Người. Tin Mừng chỉ ghi lại cách vắn tắt xem ra câu chuyện chỉ diễn ra trong một ngày, nhưng đó lại là cả một hành trình dấn thân theo ơn gọi làm Tông đồ của Chúa. Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng được mời gọi theo Chúa, do đó, cũng phải băng mình dấn thân theo hành trình các tông đồ đã đi khi trước để sống ơn gọi Kitô hữu của mình. Cũng cần phải gặp được Chúa. Người vẫn đang hiện diện, đang đồng hành trên nẻo đường đời với chúng ta cần phải có thái độ thành tâm thiện chí muốn gặp Người chúng ta mới có thể thấy Người. Một lời giới thiệu của bạn hữu chung quanh, một sự kiện một biến cố trong cuộc sống, một lời khuyên của người khôn ngoan, một bản văn Kinh Thánh, một thử thách … đều có thể là những dấu chỉ đường dẫn chúng ta đến gặp Chúa; đều là những tiếng Chúa kêu mời chúng ta theo Người. Nhận ra Người đòi hỏi phải dấn thân lên đường, không chỉ thấy Người, nghe Người gọi là có thể thành Kitô hữu. Kitô hữu là ơn gọi đòi hỏi phải dấn thân suất cả cuộc đời. Ơn gọi Kitô hữu không thể chỉ một lần tin, một phép rửa là thành tựu viên mãn, nhưng nó là một hạt giống cần phải được chăm bón để lớn lên, để trổ sinh hoá trái. Ơn gọi Kitô hữu là một sự biến đổi không ngừng bản thân theo ánh sáng Tin Mừng để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô.
IV. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu đã yêu thương tuyển chọn chúng ta làm môn đệ của Người. Trong tâm tình vui mừng và cảm mến, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội Chúa từ giáo sĩ cho đến giáo dân luôn trung thành và chu toàn sứ mạng Kitô hữu của mình theo đúng ơn gọi riêng mà Chúa đã kêu mời tuyển chọn, để nhờ đó, mà Nước Chúa ngày càng phát triển.
2. Chúng ta cùng cầu nguyện cho con người và thế giới hôm nay. Xin cho mọi người, mọi quốc gia và dân tộc được nghe sứ điệp Tin Mừng nhờ công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo Hội ngày càng phát triển và thu được kết quả tốt đẹp, ngõ hầu muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Giêsu theo như ý muốn của Người.
3. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta. Xin cho mọi người, mọi gia đình luôn biết nỗ lực thực thi Lời Chúa, gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể để luôn luôn xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu của mình.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương tuyển chọn chúng con làm Kitô hữu, môn đệ của Chúa và sai chúng con đem Tin mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Xin cho chúng con có đức tin và ơn sủng để luôn sống trung thành với ơn gọi của mình. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Tin mừng Ga 1: 35-42: Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta là những người đang theo Chúa "hãy đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người".
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người giới thiệu. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong TN 2-B136
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người giới thiệu. Người giới thiệu hết sức cần thiết.
Trong thương trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế ẩm.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ theo Ngài: “đây Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu này nhất định hấp dẫn trong cộng đoàn của Gioan Tẩy Giả, bởi vì nó khích động sự tò mò của hai môn đệ đối với Chúa Giêsu và khiến họ lìa bỏ sư phụ của mình để theo Chúa Giêsu. Một trong hai người là Anrê. Còn người kia không được nêu tên. Nhiều người cho rằng có thể đó là người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, Gioan, con ông Giêbêđê. Hai môn đệ Gioan và Anrê đã “ở lại” với Chúa Giêsu. Động từ “ở lại” được dùng ba lần ở đây. Đối với Gioan, đó là một từ ngữ thần học đánh dấu đức tin được thực hiện và gắn bó với Chúa Giêsu (xem ví dụ 6,56; 8,31; 10,40; 15,4).
1. Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người
Họ đã đến và đã xem. Họ thấy Ngài thân thiện, niềm nở, nồng ấm. Họ biết mình đã gặp được một sư phụ tuyệt vời, và thế là một tình nghĩa gắn bó được phát sinh. Khi ở với Ngài, họ cảm thấy hoàn toàn bình an thanh thản. Qua tiếp xúc với Ngài, họ còn khám phá chính bản thân họ. Thấy cung cách của Ngài, họ cảm mến và thấy rằng mình cũng phải cố gắng sống theo cung cách ấy.
2. Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người
Đó là tiến trình mà mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi thực hiện trong đời sống tôn giáo của mình. Tin thường thông qua những trung gian loài người, nhưng điều cốt yếu hệ tại ở lời kêu gọi của Chúa cũng như ở sự tự do và bằng lòng gắn bó với Chúa Giêsu.
- Thomas Merton: Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện:
- "Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không, nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa này".
- Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
3. Lời mời gọi "đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người"
Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người là một lời mời dịu dàng khởi đầu tình bạn mà các môn đệ đang đi tìm. Thời gian và sự tiếp xúc cá nhân với Chúa là cần thiết để các ông vững mạnh trong ơn gọi của mình. Lúc đó khoảng 10 giờ tức là 4 giờ chiều, họ đã ở lại với Người. Đức tin không chỉ là sự tò mò thuần lý, nhưng là một sức mạnh ảnh hưởng trên cuộc sống: không thể hiểu đức tin nếu không sống đức tin. Vì thế, lúc đó Chúa không nói chi tiết về lối sống của Người mà chỉ mời họ ở lại. Thánh Tôma giải thích: Chúa nói giọng nhỏ nhẹ, thần bí vì Thiên Chúa chỉ có thể hiểu bằng cảm nghiệm, lời nói không thể diễn tả. Chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết này bằng chiêm ngắm những gì thuộc về Chúa, bằng lòng khát khao nếm sự ngọt ngào của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đến với Chúa, xem chỗ Người ở và ở lại với Người và các ông đã khám phá ra con người của Chúa.
4. Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người
Phải đến, đến gần Đức Giêsu thì mới hiểu Người rồi mới có thể làm môn đệ Ngài. Không thể hiểu nổi kiểu môn đệ lại ở xa Thầy, không thường xuyên đến gần Thầy mình. Rồi phải xem nữa. Môn đệ không chỉ nghe Thầy dạy, mà còn phải xem cách Thầy sống để sống theo. Không thể chấp nhận kiểu môn đệ mà không sống theo gương Thầy.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta là những người đang theo Chúa "hãy đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người". Amen.
Tin mừng Ga 1: 35-42: Mỗi người là một kiệt tác vô cùng độc đáo mà Thiên Chúa dựng nên. Ngài đã kêu gọi mỗi người làm môn đệ Ngài theo những cách khác nhau. Suy Niệm
Mỗi người là một kiệt tác vô cùng độc đáo mà Thiên Chúa dựng nên. Ngài đã kêu gọi mỗi người TN 2-B137
Mỗi người là một kiệt tác vô cùng độc đáo mà Thiên Chúa dựng nên. Ngài đã kêu gọi mỗi người làm môn đệ Ngài theo những cách khác nhau. Người được Chúa gọi lập gia đình để cộng tác với Chúa tiếp tục trong công trình tạo dựng, người sống đời độc thân vui tính để loan báo Tin mừng giữa đời, người thì lo cho nước Chúa lớn mạnh trong ơn gọi dâng hiến. Mỗi người đều được Chúa ưu ái chọn gọi để chia sẻ đức tin của mình cho anh chị em.
Bài đọc I trích sách Samuel thuật lại việc cậu bé Samuel sống trong đền thờ với lời hứa của bà Anna mẹ người trước Chúa, vì bà liên lỉ xin Chúa cho bà sanh được một đứa con, bà sẵn sàng dâng đứa duy nhất của mình cho Chúa. Chúa đã đáp lời bà. Đang đêm ngủ trong đền thờ, cậu bé Samuel đã nghe tiếng gọi, mơ mơ màng màng không biết từ đâu, cậu nhanh nhẹn đáp lại bằng cách chạy đến bên thầy cả Hêli. Sau ba lần, thầy cả Hêli giúp cậu nhận ra tiếng Chúa, để rồi cậu đáp lại: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe”.
Mỗi người chúng ta được mời gọi hãy tập cho mình có một kinh nghiệm gặp gỡ và lắng nghe tiếng Chúa. Muốn thế, chúng ta hãy theo lời dạy của Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô. Ngài đã chia sẻ đức tin của mình rằng thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta hãy biết gìn giữ thân xác mình được sạch trong, thanh thoát mới có thể dễ dàng đến được với Chúa. Một kinh nghiệm có thể gặp gỡ Chúa mà bài học Gioan Tẩy Giả hôm nay trong đoạn Tin mừng, ngài sẵn sàng chia sẻ đức tin của mình, giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ, chấp nhận việc thất thoát thua thiệt, mất học trò để họ đi tìm chân lý. Sở dĩ Chúa quay lại hỏi họ: Các ông tìm gì? vì ngày nay có những người tìm kiếm theo đuổi những mục tiêu khác nhau nào là tiền tài, danh vọng, địa vị, thú vui, đam mê… chứ không phải đức tin, không phải chân lý cứu độ.
Với lời giới thiệu của Gioan, hai môn đệ đã tin, nên đã lên đường đến với Chúa Giêsu. “Họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó”, điều này khiến họ đáng được trở nên những tông đồ tiên khởi. Câu nói “Ở lại với Chúa Giêsu”, đồng nghĩa với việc mong muốn tham dự vào sự sống, vào nguồn hạnh phúc, muốn chia vui sẻ buồn với Chúa. Như lời bài hát “Em ơi ở lại” với ca từ “Em ơi em ở lại, ở lại với anh đi em ở lại…”, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi chúng ta như thế để có thể khám phá niềm vui kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu đã khiến Anrê, một tâm hồn quảng đại sẵn sàng chia sẻ đức tin của mình với người này người khác. Chính những điều Anrê và các môn đệ nhìn thấy đã thay đổi cuộc đời các ông, và cũng đã làm cho cuộc đời các ông hoàn toàn mới, đã can đảm từ bỏ tất cả để bước theo Đấng mà mình đã có kinh ghiệm về Người, thậm chí dám dùng chính mạng sống minh chứng điều mình đã rao giảng. Ngày nay không thiếu những người chính vì có kinh nghiệm thực sự về Chúa Giêsu đã sẵn sàng loan báo Tin mừng. Ngày 30/12/2020, hãng tin Fides của Thánh Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc đã công bố báo cáo thường niên về con số 20 nhà truyền giáo bị sát hại trên toàn thế giới trong năm 2020. Họ là tất cả những người đã được rửa tội, vì “nhờ Bí tích Rửa tội, mỗi thành phần Dân Chúa đều trở thành môn đệ truyền giáo. Thậm chí ngày nay nhiều vị tử đạo hơn trong những thế kỷ đầu tiên.
Như ngạn ngữ có câu: “Hãy cho tôi biết anh tiếp xúc với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là người thế nào”. Xin Chúa Giêsu cho mỗi người chúng con thường xuyên tiếp xúc với Chúa, ở lại lâu giờ với Chúa bên Nhà Chầu trong cầu nguyện, sống trong tình thân mật với Người qua lời kinh nguyện ngắm. Nhờ đó, chúng con sẽ dần dần chúng con sẽ được biến đổi, trở nên môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
BẠN SẴN SÀNG NHƯ THẾ NÀO ĐỂ CHẤP NHẬN TIẾNG GỌI CỦA THIÊN CHÚA?
Các bài đọc Chúa nhật 2 Thường niên năm B giúp hiểu biết về tầm quan trọng của những khởi đầu TN 2-B138
Các bài đọc Chúa nhật 2 Thường niên năm B giúp hiểu biết về tầm quan trọng của những khởi đầu mới và việc đáp trả ơn gọi phục vụ.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe về ơn gọi ngôn sứ của Samuen. Phục vụ dưới quyền tư tế Êli, Samuen đã nghe tiếng Chúa gọi trong Đền thờ. Chúa gọi tên ông. Samuen đáp lại “Hineni”, là từ Do Thái thường được dịch là “Này con đây”. Thiên Chúa gọi Samuen ba lần và cứ mỗi lần như vậy Samuen đều đáp lại “Hineni”, “Này con đây”. Lời đáp trả của Samuen không chỉ nói rằng ông đang hiện diện.Từ “Hineni” thường xuất hiện như một lời đáp trả trước những chỉ dẫn và tiếng gọi của Thiên Chúa. Ý nghĩa của từ này có thể nhìn nhận tình trạng hiện diện trước nhan Chúa, và biểu lộ sự mở lòng để lắng nghe và đáp trả tiếng gọi của Ngài.
Câu chuyện tiếng gọi ngôn sứ của Samuen kể lại việc Thiên Chúa tuyển chọn và Samuen sẵn sàng đón nhận. Trong khi đa phần chúng ta hầu như không nghe Thiên Chúa gọi mình, chúng ta nên chú tâm đến thế giới và, giống như Samuen, mở lòng đáp trả tiếng Chúa gọi chúng ta.
Bài Tin mừng của thánh Gioan hôm nay nói về thời gian đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Sau khi chịu phép rửa, hành động tiếp theo của Ngài là gọi các môn đệ. Trong trình thuật của thánh Gioan, hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy giả đã đi theo Chúa Giêsu. Anrê mời em ông là Simon đến gặp Chúa Giêsu và khẳng định Ngài là Đấng Mêsia. Khi Simon đến, Chúa Giêsu nói, “Ạnh sẽ được gọi là Kêpha” (được dịch là Phêrô). Đối với Phêrô, được gọi bằng một danh xưng mới tượng trưng cho một khởi đầu mới và một cái nhìn trước về vai trò của ông dựa trên tác vụ của Chúa Giêsu. Nguồn gốc của những danh xưng này nối kết với từ “kepha” trong tiếng Aram và “petra” trong tiếng Hy lạp, và cả hai đều có nghĩa là “đá”.
Năm 2020 đầy khó khăn về mọi phương diện; và chúng ta hy vọng tháng Giêng năm 2021 sẽ là sự khởi đầu của một giai đoạn ít biến động hơn. Bên cạnh niên lịch mới, tuần trước chúng ta đã bắt đầu Mùa Thường Niên. Chúng ta nên dành thời gian này để tạ ơn vì những khởi đầu mới, để suy ngẫm về quá khứ và đón chờ những cơ hội xuất hiện trong tương lai.
Trong các bài đọc hôm nay, cả Samuen và Phêrô đều đóng vai trò như những hình mẫu về cách phản ứng lại trước những khởi đầu mới và những tiếng gọi phục vụ: hãy mở lòng. Chúng ta phải mở tâm trí và con tim trước những gì Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta thực hiện. Samuen được kêu gọi phục vụ như một ngôn sứ, một vai trò khó khăn nhưng có ý nghĩa, vì ông phải khích lệ và phê phán dân chúng để giúp họ sống ngay chính. Tương tự như vậy, các môn đệ mà Chúa Giêsu kêu gọi phải mở lòng ra trước những cơ hội cũng như trở ngại mà họ chưa biết khi gắn kết với Chúa Giêsu. Những môn đệ đầu tiên này cuối cùng đã trở thành những nhà lãnh đạo phục vụ cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Chúng ta hãy để mình được truyền cảm hứng bởi những mẫu gương Kinh thánh này và hãy bước tới tương lai với sự cởi mở và sẵn sàng phục vụ.
Trong Tin Mừng Gioan, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái mà người ta TN 2-B139
Trong Tin Mừng Gioan, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái mà người ta gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”. - hai ngày đầu: Gioan Tẩy Giả làm chứng (phủ định - khẳng định); - ngày thứ ba (“hôm sau”, 1,35): lần này Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36); - đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này; - ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Natanaen; - “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tạiCana miền Galilê.
2.- Bố cục Bản văn có thể chia thành ba phần: 1) Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39); 2) Anrê (1,40-42a); 3) Simôn (1,42b).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Ông Gioan đang đứng... (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tẩy Giả (x. Mc 2,18t và //; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (41); còn người thứ hai thì vô danh.
Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:
+ Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.
+ TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Natanaen.
+ Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tẩy Giả, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Vị Tẩy Giả bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.
+ Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tẩy Giả.
- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Vị Tẩy Giả còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
- Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong tiếng Hy Lạp LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Hn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Híp-ri, “tìm” là darash; darash ha Torah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.
- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? Trên môi họ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).
- Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. Trong Ga 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.
Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
- Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quí và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).
- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn của Cựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, ngày là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.
- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.
- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia” Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Natanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.
- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ A-ram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c.38) và Mêsia (c.41), kêpha là từ A-ram (Chúng ta lưu ý là có ba từ A-ram trong cùng một đoạn văn). Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ông cũng rất quen thuộc các thuật ngữ A-ram. Bản RSV dịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vây anh là Simôn con ông Gioan à?”. Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Đn 1,7); người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc 1,63).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)
Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Ngài thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại ngài đề cập đến (x. Ga 20,19-23).
Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga 1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.
Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.
Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người là “Rabbi”, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là Rabbi. “Thưa Ngài” (Kyrie) là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là “Kyrie”. Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.
Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữ Rabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).
Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là “Rabbi”. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL (x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.
Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.
Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể Tin Mừng (Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?
Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa “Rabbi” (Ga 1,38), nhưng danh hiêu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.
Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (67 lần trong truyền thống Gioan; 40 lần trong TM IV; 51 lần trong phần còn lại của Tân Ước).
Mặc dù thỉnh thoảng tác giả sử dụng động từ này theo nghĩa thông thường là “ở lại, stay” hoặc “sống, live”, ngài rất thường dùng từ này theo một nghĩa thần học sâu sắc. “Ở [lại]” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ (Để diễn tả ý nghĩa này, có những tác giả dịch là “abide”). Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Ngài (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3).
Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga 14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga 15,4.5.7). Các môn đệ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu (Ga 15,9.10), và các lời Người ở lại trong họ (Ga 15,7). Ý nghĩa tối hậu của Bí Tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56).
Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả-rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menô) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như ông Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.
* Anrê (40-42a)
Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trong Ga 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc 5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Họi Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29); Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.
Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2; Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.
Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái pattern (mô hình đơn giản) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (Ga 4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.
Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho ông. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Híp-ri ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của ông Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của ông Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (Ga 1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.
Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như một rabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (Ga 1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).
Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.
Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IV rút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.
* Simôn (42b)
Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (Ga 1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.
Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Ngài.
Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Ngài nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.
Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của ch. 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên A-ram mới “Kêpha” thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Họi Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.
+ Kết luận
Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.
2. Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.
3. Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động? Vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?
4. Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?
------------------ [1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.
Tin mừng Gio-an đã thuật lại việc ông An-rê đã giới thiệu em là Si-mon với Đức Giê-su như sau TN 2-B140
1) Tin mừng Gio-an đã thuật lại việc ông An-rê đã giới thiệu em là Si-mon với Đức Giê-su như sau: An-rê là anh của Si-mon Phê-rô, ông đã được thầy là Gio-an Tẩy giả giới thiệu Đức Giê-su với ông. Ông đã đi theo Đức Giê-su đến nơi Người ở và ở lại với Người ngày hôm đó. Sau khi đã tin Người là Đấng Thiên Sai, An-rê liền đi gặp em là Si-mon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga.1,41), rồi dẫn em đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn Si-mon và nói: “Anh là Si-mon, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” nghĩa là Đá. Ngày nay Chúa Giê-su cũng muốn chúng ta giới thiệu Người với những ai chưa nhận biết, để họ tin và được hưởng ơn cứu độ của Người.
2) Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở do bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông đã tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, do gặp cản trở từ phía gia đình nên tôi chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn trực tiếp với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi mất liên lạc do không biết địa chỉ của ông. Từ đó, tôi ước mong có một người công giáo nào khác giúp tôi theo đạo. Tuy nhiên, dù đã gặp nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy có ai sẵn sàng trao đổi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp ngày một nặng hơn. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là được theo đạo công giáo. Hôm nay tôi rất vui khi nghe cô hỏi về tôn giáo. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin gia nhập đạo công giáo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã mời một linh mục đến dạy đạo và ban phép Rửa Tội trước khi ông cụ nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong an bình thanh thản, vì giờ đây cái chết không còn là đi vào chốn vô định, nhưng là một cuộc hành trình lên trời để gặp Thiên Chúa là Cha của ông.
3) Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao có nhiều tín hữu công giáo lại có thái độ thờ ơ, không nhiệt thành giới thiệu Chúa cho người thân và bạn bè để họ cũng được ơn cứu độ giống như mình?
- Có thể do họ nghĩ việc loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của các linh mục, mà chưa ý thức đó cũng là trách nhiệm của mọi tín hữu. Thực vậy, do đã được chịu phép rửa tội và Thêm Sức, họ được trở nên con Thiên Chúa và môn đệ Đức Giê-su, nên cũng có sứ mệnh làm chứng cho Người như lời Chúa phán với các môn đệ trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
- Có thể do họ chưa ý thức giá trị của thức ăn tinh thần là Lời Chúa, nên chỉ biết lo tìm kiếm cơm ăn áo mặc vật chất, đang khi Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
- Có thể do họ mang mặc cảm tự ti về vốn liếng giáo lý Thánh kinh ít ỏi của mình, nên không dám mạnh dạn đề cập về đức tin tôn giáo với những người không cùng tín ngưỡng.
- Nhưng lý do chính yếu là do thiếu lòng tin yêu Chúa, do chưa được tái sinh bởi Thánh Thần, nên họ không thiết tha với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Nếu có lòng tin yêu Chúa thật sự, thì chắc mỗi người chúng ta sẽ nhiệt tình giới thiệu Chúa như thánh Phao-lô đã viết: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14); “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16); Từ nay “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
4) Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn chúng con làm chứng cho Chúa cụ thể bằng đôi tay sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói; Chúa nhờ trái tim của chúng con để yêu thương tha nhân, nhất là những người đau khổ bất hạnh; Chúa nhờ miệng lưỡi của chúng con để giới thiệu Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa. Ước gì chúng con nên khí cụ bình an của Chúa, để xây dựng hòa bình và tích cực góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới, bắt đầu từ gia đình, đến khu xóm và môi trường chúng con đang sống.- Amen.
Khởi đầu Mùa Thường Niên, các bài đọc phụng vụ xoay quanh chủ đề “Đức Giêsu kêu gọi những TN 2-B141
Khởi đầu Mùa Thường Niên, các bài đọc phụng vụ xoay quanh chủ đề “Đức Giêsu kêu gọi những cộng sự viên đầu tiên”, là các Tông Đồ tương lai của Ngài.
Như những người đứng đầu các tổ chức, đoàn thể cần có bên mình những cộng sự viên thân tín, trung thành và đắc lực để khởi động chương trình, thực hiện đường hướng, khai triển chủ trương, tiến hành kế hoạch, Đức Giêsu cũng cần và đã tìm cho mình một nhóm cộng sự viên để cùng Ngài loan báo Nước Thiên Chúa, rao giảng Tin Mừng cứu độ, như sứ vụ được Chúa Cha trao phó.
Theo Tin Mừng Gioan của chúa nhật này thì Đức Giêsu đã không trực tiếp gọi hai anh em ngư phủ có tên Anrê và Simon và hai anh em ruột khác là Giacôbê và Gioan cũng làm nghề đánh cá, khi “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê” (Mc 1,16), nhưng Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai anh em Anrê và Simon vốn là môn đệ của ông, khi ông đang đứng với họ, và “thấy Đức Giêsu đi ngang qua” (Ga 1,35-36).
Điều rất ấn tượng ở đây là thọat nghe Gioan giới thiệu “Đây là Chiên Thiên Chúa”, hai ông Anrê và Simon đã không do dự, ngần ngại, nhưng “liền đi theo Đức Giêsu” (Ga 1,37). Và khi Đức Giêsu quay lại thấy hai ông lẽo đẽo đi theo mình, thì hỏi : “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp : “Thưa Rápbi (nghiã là thưa Thầy), Thầy ở đâu? ”. Người bảo họ : “Đến mà xem!. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,38-39).
Qủa thực, thánh sử Gioan vừa kể cho chúng ta nghe câu chuyện gặp gỡ của một tình yêu thuộc dạng “sấm sét” giữa Đức Giêsu và hai anh em ông Anrê, Simon, và tình yêu sấm sét ấy đã không khác những “tiếng sét ái tình” thi thoảng xẩy ra trong đời thường làm hai người nam nữ chỉ mới thoạt nhìn, thoáng gặp đã “say nắng, phải lòng”, yêu nhau đắm đuối cuồng nhiệt.
Là tình yêu sấm sét, bởi chỉ thoáng thấy Đức Giêsu đi ngang qua, hai ông Anrê, Simon đã náo nức, nôn nao muốn đi theo Ngài ngay, như lời đề nghị của Gioan Tiền Hô, và không chờ thầy mình dứt lời giới thiệu về Đức Giêsu, hai ông đã khấp khởi nhanh chóng rời bỏ Gioan đi theo Đức Giêsu, dù Ngài chưa biểu lộ đồng tình, đồng ý. Bằng chứng là khi “quay lại, Đức Giêsu mới thấy các ông đi theo mình” (Ga 1,38), và hỏi : “Các anh tìm gì thế?”
Là tiếng sét ái tình, hai ông đã không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, nhưng đáp lại bằng đặt cho Ngài một câu hỏi khác chỉ dành cho người đã yêu, đang yêu : “Thầy ở đâu? ”, bởi các ông đâu cần tìm gì hay tìm ai nữa, vì đã được gặp Đức Giêsu, đối tượng lý tưởng của tình yêu, Đấng chỉ trong một giây ngắn ngủi đã chiếm trọn trái tim và cuộc đời các ông.
Không trả lời thẳng câu hỏi của Đức Giêsu là cách tỏ tình trực tiếp, tế nhị, và sâu sắc của hai ông với Ngài, bởi chỉ những người yêu nhau da diết, nồng nàn mới hỏi thăm, tìm đến “nơi ăn chốn ở” của nhau, vì nhớ nhau, và để được ở với nhau, chung nhau một đời sống. Và tình yêu sấm sét ấy đã được Đức Giêsu ân tình, qủang đại và cởi mở đáp lại khi trìu mến bảo hai ông : “Đến mà xem!”.
Như hai anh em Anrê và Simon là những tông đồ đầu tiên được tình yêu Đức Giêsu chiếm hữu và thúc đẩy ngay phút đầu gặp gỡ, chúng ta cũng sẽ được Đức Giêsu quay lại nhìn và hỏi han, mời gọi, nếu chúng ta thành tâm và kiên nhẫn đi tìm Ngài, vì Ngài không bỏ quên, từ chối ai, cũng không dửng dưng lạnh lùng trước bất cứ người nào ngỏ lời yêu mến và muốn đi theo Ngài.
Như hai anh em Anrê, Simon đã gặp được Đức Giêsu, Lẽ Sống và Gia Nghiệp đời mình, vì nghe lời Gioan Tiền Hô, chúng ta cũng cần những người khôn ngoan hướng dẫn, dìu dắt, giới thiệu, bởi Thiên Chúa cần con người để cứu độ con người, và muốn mọi người biết đồng hành với nhau trên hành trình đi tìm Ngài.
Và như Gioan Tiền Hô đã không giữ cho mình hai môn đệ Anrê, Simon, nhưng vui vẻ giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ của mình, và sẵn lòng để họ bỏ mình đi theo Ngài, đúng vai trò Tiền Hô, và sứ vụ “dọn đường, chuẩn bị cho Thiên Chúa đến”, với ý thức và tâm nguyện : “Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,30), “tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27), và như thế, “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga 3,30), chúng ta cũng cần biết từ bỏ mình, quên mình, xóa mình cho vinh danh Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta tình yêu nồng nàn như tình yêu “sấm sét” của hai tông đồ Anrê, Simon, và lòng khiêm tốn sâu thẳm của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế, bởi chỉ với tình yêu cháy bỏng, quyết liệt và trái tim khiêm nhường, chúng ta mới được Chúa biến đổi để trở thành những cộng sự viên trung tín, và đắc lực của Đức Giêsu trên cánh đồng truyền giáo.
Làm sao để nên giống Chúa?”. Câu hỏi của chị đã giúp ta nhìn lại mối tương quan của mình với TN 2-B142
“Làm sao để nên giống Chúa?”. Câu hỏi của chị đã giúp ta nhìn lại mối tương quan của mình với Thầy Giêsu. Là môn đệ của Thầy, ta ao ước được trở nên giống Thầy mỗi ngày một hơn. Chị đã nhắn nhủ ta hãy luôn lắng nghe và thi hành lời Chúa Giêsu: hãy nghe, hãy nhìn xem cách Thầy Giêsu đã sống, hãy làm như Thầy đã làm. Muốn trở nên giống ai, ta phải đem lòng yêu mến người đó. Muốn yêu mến ai, ta phải dành thời gian để ở lại với họ, cùng trò chuyện thân tình để hiểu biết về nhau, làm sao để mối tương quan giữa đôi bên ngày càng thêm đậm đà thắm thiết. Trong mối tình với Chúa, ta luôn được yêu rất nhiều. Ngài luôn là người đi bước trước.
Hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rapbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười ( Ga 1, 35-39). Mỗi ngày, trong Thánh lễ, ta cũng được giới thiệu về “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Người đã bày tỏ cho ta thấy tình yêu lớn lao mà Người dành cho ta, một tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa. Không phải vì ta đã yêu mến Thiên Chúa để được Người đáp lại nhưng chính Người đã tự hiến vì yêu ta. Đúng như lời Thánh Gioan đã khẳng định: “Tình yêu cốt ở điều này, không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10). Ta là ai để được Thiên Chúa yêu thương? Ta không phải là người xứng đáng để được yêu thương nhưng Thiên Chúa đã yêu thương ta với một tình yêu tròn đầy và duy nhất. Cảm nhận tình yêu của Chúa, ta hạnh phúc đón lấy tình yêu của Người, đón nhận chính Tình Yêu vào trong tâm hồn. Ta nghe được lời Người mời gọi: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4, 21). Muốn trở nên giống Chúa Giêsu, ta hãy yêu thương anh em mình như Chúa đã yêu thương ta.
Ông Anrê đã ở lại với Thầy Giêsu, đã đón nhận tình yêu của Thầy. Sau khi trở về, ông đã mau mắn giới thiệu Đấng Mêsia với em mình. Tin Mừng thuật lại: “Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu” (Ga 1, 41-42). Ông hạnh phúc khi được gặp Đấng Mêsia, ông cũng muốn chia sẻ cho em niềm hạnh phúc ấy, bởi vì ông rất yêu thương em. Sau khi gặp Chúa, ta có mang Chúa đến với người khác không? Được đón Chúa vào lòng, được ở với Chúa rồi, ta có làm cho người khác nhận ra Chúa nơi mình không? Chỉ khi yêu thương, ta mới có thể diễn tả khuôn mặt của Thiên Chúa- Đấng là Tình yêu đang hiện diện trong ta. Tình yêu làm cho ta có khả năng mở ra với người khác và đến với họ, chia sẻ với họ niềm hạnh phúc mà mình đang có.
Mỗi ngày, ta hãy nhìn sâu vào lòng mình để thấy được khát khao muốn ở lại với Chúa. Những giờ thờ thượng sẽ luôn là một điểm hẹn tuyệt vời mà ta luôn mong chờ. Ở lại với Thầy Giêsu, ta sẽ lắng nghe Lời Thầy dạy dỗ. Hãy đọc thật chậm rãi từng câu Tin Mừng, và hãy lắng nghe thật kỹ từng lời ấy. Đó là Lời mà Chúa đang nói với ta.
Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã yêu thương con trước. Tình yêu Ngài dành cho con thật lớn lao, cao vời. Cảm tạ Chúa đã ban cho con có một trái tim biết yêu thương và dạy con biết yêu người anh em. Con nhận ra tình yêu trong con có nhiều lúc còn mờ nhạt, chưa đủ mãnh liệt để vượt thắng sự ích kỷ của con người tự nhiên trong con. Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin đốt lòng con yêu mến Chúa! Để khi yêu Chúa, con cũng biết yêu thương anh em mình: yêu thương bằng trái tim, bằng đôi tay, ánh mắt, cử chỉ, lời nói… và trọn cả con người con. Amen.
Ngày nay truyền thông phát triển, dường như con người dễ dàng tìm thấy được điều mình muốn. Chỉ TN 2-B143
Ngày nay truyền thông phát triển, dường như con người dễ dàng tìm thấy được điều mình muốn. Chỉ cần kết nối Internet, con người có thể bước đến mọi nơi trên thế giới dù họ vẫn đang ở nhà. Tuy nhiên, không phải cái gì con người cũng có thể tìm thấy được nhờ truyền thông. Có rất nhiều điều họ cần phải nghe, phải đi tìm và phải gặp được, chẳng hạn như tình yêu, niềm vui của trao ban và gặp gỡ… Con người phải đi đâu mới tìm thấy được tình yêu nơi đâu? Ai đếm và ở lại trong Thiên Chúa thì sẽ gặp được tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4,16).
Thánh sử Gioan đã thuật lại rằng: Ông Gioan Tẩy Giả thấy Đức Giêsu đi ngang qua liền lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36). Hai môn đệ của ông vừa nghe thầy giới thiệu liền đi theo Đức Giêsu. Thấy hai môn đệ ông Gioan đi theo mình, Đức Giêsu nói: “Các ông tìm gì thế?”. Các ông trả lời: “Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Hãy đến mà xem!” (Ga 1, 38-39). Hai môn đệ đã nói lên được niềm khao khát của mình với Đấng mà các ông đi theo. Và họ được toại nguyện. Họ đến tận nơi và ở lại với Người. Họ đã no thỏa sự khao khát trong lòng. Họ trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, lòng tràn đầy niềm vui và sự bình an. Một trong hai môn đệ là ông Anrê hớn hở trở về và nói với em mình là Simôn Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41), và ông đã dẫn em mình đến với Ngài.
Chúng ta cứ nghĩ rằng cái gì chúng ta cũng có thể tìm được nhờ truyền thông. Nhưng không, chúng ta muốn có tình yêu đích thực, muốn là con Thiên Chúa, muốn có hạnh phúc đích thực, muốn có sự bình an trong tâm hồn, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa và đi tìm Ngài trong Bí tích Thánh Thể. Có thế, chúng ta mới được Ngài ở lại và ở với Ngài, mới no thỏa nỗi khao khát đang tìm kiếm.
Bài hát “Có Chúa là có tất cả” của nữ tu Têrêsa đã cho thấy món quà vô giá mà mỗi người cần tìm kiếm. Như vậy, để có Chúa, chúng ta hãy rời khỏi lối suy nghĩ, quan điểm lệ thuộc truyền thông kỹ thuật số. Đó chỉ là phương tiện giúp chúng ta kết nối với người thân và giúp chúng ta thi hành sứ mạng Chúa trao. Đã không ít người bị lệ thuộc vào truyền thông mà quên đi trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, cũng không ít bạn trẻ đã chiều theo đam mê đến nỗi bỏ cả ăn cùng giấc ngủ để “lướt” Facebook. Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra tình trạng của mình và can đảm bắt đầu lại từ đầu, với tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa về tất cả mọi sự. Chúng con không tự sức mình thoát ra khỏi những cám dỗ của thế gian. Xin Chúa hằng luôn nâng đỡ tiếp sức cho chúng con, để chúng con vượt qua mọi cám dỗ của thế gian, buông bỏ tất cả và đặt Chúa là niềm vui duy nhất của cuộc đời mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Chúa chúng con. Amen.
Thánh Gioan Tẩy Giả nhìn thấy Đức Kitô đi ngang, ông liền giới thiệu Ngài với môn đệ mình. Trong TN 2-B144
Thánh Gioan Tẩy Giả nhìn thấy Đức Kitô đi ngang, ông liền giới thiệu Ngài với môn đệ mình. Trong số các môn đệ hiện diện có hai vị tiên phong trong việc theo chân Đức Kitô. Đức Kitô thấy họ đang tiến về phía mình, Ngài lên tiếng hỏi ‘Các bạn tìm gì thế?’ Họ đáp: Thưa, Thầy ở đâu? Đức Kitô nói với họ: Đến mà xem Gn 1,38. Hai vị theo chân Đức Kitô và ở lại với Ngài ngày hôm đó. Lời mời gọi vắn gọn, vỏn vẹn có ba chữ, trong đó có hai từ hoạt động. Từ ‘đến’ và ‘xem’ thường được diễn tả là động từ.
Không dấn thân thì không thể đến. Như thế đến tham dự điều gì chính là dấn thân làm công việc đó. Trong trường hợp này, hai ông đến xem nơi Đức Kitô ở. Đến nơi, các ông nhận ra không có gì để xem, bởi có lần chính Đức Kitô nói: ‘Chim trời có tổ, thú vật có hang, Con Người không chốn dựa đầu’ Mat 8,20. Không đền đài, không biệt thự, không nhà cao, vườn rộng, không của cải vật chất. Thiên Chúa dựng nên đất trời. Là Thiên Chúa Đức Kitô làm chủ toàn thể vũ trụ; là ‘Con Người’ trần thế Đức Kitô không của, không tài sản. Điều Đức Kitô làm chủ là điều mắt thường không thể nhìn thấy. Muốn thấy phải nhìn bằng con mắt đức tin. Mà con mắt đức tin đòi phải có niềm tin vào Đức Kitô thì mới có thể nhìn thấy tình yêu vô bờ bến Ngài dành cho nhân loại.
Đến mà xem. Điều gây ảnh hưởng mạnh trong tâm hồn người xem thường là những gì lần đầu tiên nhìn thấy. Nhìn thấy gì? Thưa Anrê nhìn thấy lối sống đơn sơ, thanh bần nơi Đức Kitô. Ông vừa kinh ngạc, vừa thán phục. Kinh ngạc và thán phục bởi Đức Kitô đặt giá trị tinh thần vượt lên trên mọi giá trị vật chất. Người không ‘ tôn thờ ‘ vật chất thường quí món quà tinh thần. Bởi không có gì để coi nên Đức Kitô ban cho các ông món quà khác. Món quà tinh thần. Đó là nghe Đức Kitô rao giảng. Bài đọc cho biết các ông ở lại với Ngài trọn ngày hôm đó. Nghệ thuật lắng nghe chính là tinh thần cởi mở, và điều đó dẫn đến quyết định. Tin hay không tin, theo hay không theo. Phúc âm thuật lại một môn đệ Gioan trở thành môn đệ Đức Kitô, người đó là Anrê. Sau này, Đức Kitô tuyên bố nhận biết Ngài và tin theo Ngài chính là món quà tinh thần cao quí, là quà tặng Chúa ban, bởi ‘Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe’ Mt 13,17. Anrê nhận ra điều đó ngay lúc nhìn thấy nơi Đức Kitô sống.
Chúng ta được mời gọi trở thành môn đệ Đức Kitô khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Cha mẹ và thân nhân cùng giúp chúng ta trở thành con cái Chúa, bởi họ biết điều đó là điều tốt lành, cần làm. Đó là hành động yêu thương. Tặng cho con cái món quà tình yêu đến từ Thiên Chúa. Vì yêu con cái và yêu Thiên Chúa nên dâng hiến con mình cho Thiên Chúa. Chúng ta lớn lên trong đức tin ấy. Sống phụng thờ Chúa, sống yêu thương tha nhân, thực hành điều Chúa dậy. Thiên Chúa là mục đích tối hậu của đời ta.
Hai môn đệ Gioan ở lại với Đức Kitô ngày hôm đó. Lắng nghe Đức Kitô nguyên ngày là hiện thực. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm khi gặp lại người thân có thế nói chuyện cả buổi, lan man hết chuyện này đến chuyện khác, chuyện gia đình, chuyện xóm ngõ, chuyện mới, chuyện xưa, cứ thế lan man. Hết giờ thì có, hết chuyện thì không. Anrê càng nghe Đức Kitô càng thích, càng thán phục. Ông về nói với anh mình là Phêrô và giới thiệu Phêrô với Đức Kitô. Sau này cả hai trở thành môn đệ đầu tiên, tông đồ đầu tiên của Đức Kitô. Gặp gỡ Đức Kitô, Anrê trở thành nhà truyền giáo mà ông không bao giờ nghĩ đến, nhưng việc giới thiệu Phêrô với Đức Kitô là việc rao giảng Tin Mừng mà Anrê là người môn đệ đầu tiên làm công việc rao giảng đó.
Chúng ta được mời gọi ‘đến mà xem’. Chúng ta xin tinh thần lắng nghe giáo huấn Đức Kitô với tinh thần cởi mở, con tim hân hoan đón nhận Lời Chúa.
Trong mỗi Thánh lễ, vị chủ tế nâng cao Mình Máu Thánh Chúa Giêsu và giới thiệu với cộng đoàn TN 2-B145
Trong mỗi Thánh lễ, vị chủ tế nâng cao Mình Máu Thánh Chúa Giêsu và giới thiệu với cộng đoàn: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”, ngài lặp lại lời Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu với môn đệ: “Hôm ấy, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình liền nói : Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Danh hiệu Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian bao trùm từ đầu đến cuối sách Tin Mừng thứ tư mà tột đỉnh là cuộc tôn vinh Chúa Giêsu trên thập giá và trong ánh sáng phục sinh.
Con Chiên Thiên Chúa Người Do Thái có tục sát tế chiên trên bàn thờ để thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa, để xin ơn và để đền tội. Tục lệ này bắt nguồn từ thời Abel, con trai thứ của Ađam. “Aben làm nghề chăn chiên” (St 4,2) nên để thờ phượng và tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, “Aben dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng” lên Ngài (St 4,4).
Đến thời dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ, Môsê ra lệnh cho mỗi nhà người Do Thái phải sát tế một con chiên, bôi máu lên khung cửa (x.Xh 12,2-7). Đêm ấy, tất cả những nhà trên đất nước Ai cập không có máu chiên nơi khung cửa đều bị chết đứa con trai đầu lòng (x.Xh12,29-30). Chỉ có người Do Thái nhờ máu chiên trên khung cửa mà không bị như thế. Từ đó, việc sát tế chiên mang thêm ý nghĩa: chiên chết thay người.
Về sau, tại đền thờ, các tư tế Do Thái đều sát tế mỗi ngày hai con chiên làm của lễ toàn thiêu: sáng sớm một con, chập tối một con, để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội cho dân (Xh 29,38-46). Đúng ra ai phạm tội thì chính người ấy bị phạt, mà phạm đến Thiên Chúa thì chỉ có hình phạt chết mới xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa nhân lành không muốn con người phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23). Luật công bằng đòi hỏi tội phải đền; nên để con người còn được sống mà ăn năn hối cải, Thiên Chúa chấp nhận cho con người lấy chiên đền mạng. Như vậy chiên bị sát tế là để chết thay cho con người lẽ ra phải chết vì tội lỗi mình.
Các tiên tri trước Gioan đã nói về người tôi tớ kỳ diệu của Thiên Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên. Isaia mô tả : “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8); “Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi”(Is 53,6-7.12).Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Chúa Giêsu : “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi”(Gr 11,19).
Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” bị sát tế để cứu nhân loại
Theo lẽ thường, gọi Đức Giêsu là chiên thì quả là xúc phạm. Nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu phải bị giết chết để đền tội thay cho con người, tương tự như những con chiên bị sát tế trong đền thờ để chết thay cho người tội lỗi. Gioan đã thấy trước số phận tương lai của Đức Giêsu như thế nên giới thiệu cho mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta”(1Cr 5,7). Sách Khải Huyền cũng dùng đến 27 lần từ “Con Chiên” để chỉ về Đức Giêsu, thánh Gioan còn xác quyết: Đức Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Thánh Phaolô viết: “Nếu máu các con dê, con bò còn thánh hóa được con người, làm cho họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy” (Dt 9,13-14). Hiệu lực đến nỗi Ngài chỉ cần chết một lần là đủ xóa được tội lỗi toàn nhân loại: “Chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ’ (Dt 10,10), vì Ngài là “Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết” (1Pr 1,19), nhất là vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa, nên giá trị cứu chuộc của Ngài là vô cùng. “Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben” (Dt 12,24). “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Đặc tính của con chiên là sự ngây thơ, hiền lành, nhẫn nhục, trong sạch. Đó là những đức tính quý báu của Đức Giêsu Kitô, con chiên không tì vết.
Đấng xóa bỏ tội trần gian.
Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy Giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa bỏ tội trần gian.
Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa nên Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân lọai. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ cho hân loại.Chỉ có Con Chiên thanh sạch và hiền lành, Con Chiên bị sát tế mà không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi. Chỉ có Đấng vô tội, mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Ađam cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại. Từ nay nhân loại đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.
Mặc dù chúng ta là người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng Máu của Con Chiên Thiên Chúa, và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể.
Người tín hữu thường được gọi là “con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại “chiên” trong ngày phán xét. Ðược đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Ðược vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Triết lý nhà Phật cho rằng: nếu không nợ nhau, làm sao gặp gỡ ! Tiền nhân ta cũng góp thêm kinh TN 2-B146
Triết lý nhà Phật cho rằng: nếu không nợ nhau, làm sao gặp gỡ ! Tiền nhân ta cũng góp thêm kinh nghiệm: ngàn chữ duyên không bằng một chữ nợ, tình lỡ rồi, trách gì nợ với duyên. Cụ Nguyễn Du thì nói: người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không ? Ngổn ngang trăm mối bên lòng, nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. Có phải những cặp đôi “trai tài gái sắc”, sẽ dệt nên tích truyện đẹp ? Phải chăng bậc hiền tài cho dẫu có âm thầm hay sôi nổi, đều đáng được hậu thế vinh danh, dù thời điểm đó khắc nghiệt nhiều ít, xã hội ghi nhận sự kiện anh hùng tạo thời thế không hề sai. Gặp bậc quân tử, gặp đại gia, gặp thần tượng, có thể ta gặt hái được kiến thức, được kinh nghiệm làm kinh tế, nhưng gặp được niềm vui, hạnh phúc, mới là trọng tâm, là cùng đích đời người ?
Cuộc gặp gỡ giữa thầy trò Gioan và Đức Giêsu giống như chuyện tình cờ, nhưng vẫn để lại trong hậu thế nhiều suy nghĩ về Đấng giầu lòng thương xót đang ở giữa nhân loại, Đấng không ngần ngại gọi mọi người là anh chị em, là môn đệ. Ca dao tục ngữ có câu: công anh bắt tép nuôi cò, cò ăn cò béo cò dò lên cây, quả thật là thê thảm, nếu người ta chỉ hiểu về Gioan theo cảm tính trần tục. Về phương diện siêu nhiên, Gioan biết và nói hết sức tự tin: “đây Chiên Thiên Chúa…”, ông tiền hô, sống tốt sứ mạng dọn đường, chỉ đường, dù tâm tư ông có vui buồn, nhớ thương, khi phải chia tay các học trò của ông. Cuộc gặp hôm đó, có chút thay đổi với những kẻ chài lưới, và từng bước các ông thật sự được lịch sử ghi tên các ông vào số các học trò “tầm cỡ” của Đức Giêsu.
Ngày hôm nay, chúng ta hiểu thế nào là gặp gỡ đích thực, chắc không phải là gặp đại gia, gặp nguyên thủ quốc gia, gặp bậc thần tiên, gặp người giầu kiến thức, ít ra thì nhiều người vẫn giữ quan điểm: giầu tiền giầu của thì lo, giầu tình giầu nghĩa mới cho là giầu. Với sự trân trọng, Đức Giêsu không đặt vấn đề lý lịch, không dò hỏi quá khứ, cũng chẳng quan tâm bạn giầu nghèo, kiến thức ít hay nhiều, Ngài mở lời: “các anh tìm gì” ? Cảm giác chung của người đọc, người nghe, về lần đầu gặp gỡ giữa Đức Giêsu và hai chàng trai vừa vô duyên vừa thiếu phúc đức, quá đơn giản và tẻ nhạt trong đối đáp: “Rabi”, “hãy đến mà xem” !
Đích thực là lần gặp gỡ để đời, đích thực họ tìm gặp được Vị Thầy “trên cả tuyệt vời”, đúng như lời giới thiệu và chứng thực của Vị tiền hô: “phần tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi giây dầy cho Người”. Chúng ta không được nghe, không được tường thuật rõ về cuộc trò chuyện, không biết các ông đã xem xét nơi ở của Thầy Giêsu thế nào, chỉ biết rằng họ đã sớm trở thành sứ giả việc loan báo tin vui, tin mừng. “Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: chúng tôi đã gặp Đấng Mesia, nghĩa là Đấng Kitô, và ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giêsu”. Ngoài xã hội họ nói: tiếng lành đồn xa, rồi lần tìm, gặp gỡ, có thể họ thành công. Trong Đức Giêsu, ta cần phải nghe được lời mời gọi: “bạn tìm gì”, và hãy mau đáp trả ân tình đó, “hãy đến mà xem”, rồi phải qua thời gian biến đổi, mới tới hạnh phúc.
Sinh ra làm người, dù có địa vị sang hèn, dù mức độ hiểu biết giới hạn, Đức Giêsu vẫn cho chúng ta cơ hội để gặp, để nghe, để quyết tâm “đến mà xem”, để hồn an xác mạnh và ta có thể nói: “đích thực là gặp gỡ”. Dù sao thì sống ở đời: ta biết xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt, nhưng tốt hơn hết là biết xấu hổ trước lương tâm của mình. Dù sao đi nữa, biết tìm gặp và đến với Thầy Giêsu đã là tốt rồi, nhưng ta không để Ngài sửa chữa tâm tính, không chấp nhận để Ngài biến đổi, hẳn không ai công nhận ta “đã gặp Thầy Giêsu”. Đích thực là gặp gỡ, hẳn sẽ còn nhắc nhớ chúng ta về thông điệp của Đức Giêsu: hãy cầu nguyện, hãy đến mà xem, hầu ta biết chọn lựa và sống tốt trước bổn phận làm người và làm con Chúa.
Ngày hôm nay, người ta vẫn đưa ra những lập luận rất kêu: quyết đoán là tính cách của những người phụ nam phụ nữ năng động, bởi vì quyết định nào cũng quý hơn là người không dám quyết định bất cứ việc gì, dù là nhỏ bé. Ngày hôm nay, nhiều người đã cầu nguyện, đã tin và đã hiểu: tình yêu nơi Đức Giêsu là tình yêu không tính toán, Ngài vẫn đang gọi các nam thanh nữ tú, người già người trẻ, không phân biệt bằng cấp sang hèn, cơ hội làm vườn nho ở trong tay mỗi người. Tình yêu mà người ta cho đi, hiến dâng công sức tiền của, chính là tình hiệp thông với Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, Ngài sẽ dẫn dường chỉ lối ta đi cùng tận của niềm vui và bình an. Nếu ta thành công, nếu ta chiến thắng được cái tôi của mình, ta không cần giải thích, nếu đích thực ta gặp Thầy Giêsu, ta cũng không cần phải thanh minh hay tự cao tự đại gì nữa, vì Thầy sẽ biến đổi tâm tính của ta nên xứng hợp với tình yêu của Ngài. Amen.
Một giáo sư tại đại học đã ra một câu hỏi trắc nghiệm cho 37 học sinh với câu hỏi: Ngày lễ giáng TN 2-B147
Một giáo sư tại đại học đã ra một câu hỏi trắc nghiệm cho 37 học sinh với câu hỏi:
Ngày lễ giáng sinh là ngày gì?
Lần lượt được các em trả lời là ngày đi chơi, là ngày đi xem hang đá, xem cây thông, xem đèn sao lấp lánh, nhưng không một em nào nói đúng được trọng tâm ngày lễ giáng sinh. Cuối cùng vị giáo sư đó nói: ngày lễ giáng sinh là ngày Chúa sinh ra đời và ở cùng chúng ta.
Dường như ngày lễ Chúa giáng sinh đã bị chúng ta giản lượt thành lễ “giáng sinh” không có Chúa. Ở các con phố hay công viên người ta làm những cây thông thật đẹp để trang trí và chụp hình. Ở những quán ăn hay quán Cà phê người ta quấn dây đèn và trang trí thêm dây thông để tạo bàu khí ấm cùng cho mùa đông tuyết rơi.
Ở các nhà thờ ngày xưa người ta làm các hang đá thật lớn, thật đẹp để mọi người đi xem hang đá. Có khi Chúa thật nhỏ nhưng hang đá thì thật hoành tránh. . . Dần dần càng ngày với tâm lý “Con gà tức nhau tiếng gáy” là sự đua đòi, làm để thể hiện sự tài năng và giầu có của mình. Những năm gần đây người ta lại đua nhau làm ngôi sao chổi với lập trình cả hàng ngàn kiểu chạy lập lèo xanh đỏ. Xứ sau luôn phải làm to và siêu sao hơn xứ trước.
Và hôm nay thì sự biến thế đi quá xa khi nhiều xứ đạo bỏ hàng trăm triệu để đầu tư cho những ngôi sao chổi lập lèo, thậm chí hàng tỉ đồng cho một cây thông vĩ đại, và biết bao cung đường với hang động cả 1 cây số chỉ mục đích giúp cho người trẻ có nơi vui chơi và check in chụp hình!
“Con gà tức nhau tiếng gáy” hình như đang đi vào trong những sinh hoạt tôn giáo để đánh bóng tên tuổi mình. Giáng sinh là dịp để mọi người ca tụng cha xứ này, giáo xứ nọ hoành tráng, còn ý nghĩa thực của ngày Con Thiên Chúa giáng trần đang lu mờ trước những công trình vĩ đại của con người. gay trên các thiệp giáng sinh chỉ thấy dòng chữ “Chúc mừng Giáng sinh”. Người đời cố tình bỏ chữ Chúa giáng sinh và người có đạo vẫn mừng giánng sinh không có Chúa. Thế nên, ngày Chúa giáng sinh ta chỉ thấy cái tôi của ai đó được tôn vinh còn Thiên Chúa cũng vẫn lạc loài ở một nơi nhỏ bé âm thầm ít ai biết đến?
Tôi nhớ có một bài hát sinh hoạt với lời nhắc như thế này: “Hãy quên đi cái tôi để mang Chúa đi vào đời”. Xem ra để mang Chúa vào đời phải quên đi cái tôi của riêng mình để sống cho Thiên Chúa. Xem ra để mang Chúa vào đời phải từ bỏ tham vọng của cái tôi ích kỷ để Chúa được lớn lên trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Vì ở đời ai cũng thích danh vọng. Ai cũng mong cho mình được nổi tiếng, được trở thành ân nhân của xã hội. Những con người ham danh thường tìm vinh quang về mình. Thích được tán thưởng. Thích được biết ơn. Và được khao danh giữa đời.
Thánh Gioan Baotixita đã sống quên đi cái tôi của mình. Ngài được nhiều người yêu mến và tôn vinh. Nhưng ngài đã không nhận phần vinh dự về mình, khi ngài nói: “Có Đấng đến sau tôi. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”. Ngài đã từng mong ước cho đời sống chứng nhân của ngài luôn “nhỏ bé để Chúa được lớn lên”. Ngài chỉ muốn những việc ngài làm sẽ dẫn người khác đến với Chúa.
Phúc âm kể rằng khi đang ở cùng với các môn đệ thì bất chợt thấy Chúa Giê-su. Gioan đã giới thiệu cho các môn đệ về danh tính của Đấng Messia. Đây mới chính là Chiên Thiên Chúa. Đây mới xứng đáng là Thầy mà các ngươi cần đi theo. Ngài sẵn lòng để các môn đệ ra đi. Ngài biết phận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Tinh nhân trần.
Ước gì ở đời có nhiều tâm hồn quảng đại sẵn lòng dấn thân làm chứng cho tin mừng của Chúa nhưng vẫn luôn khiêm tốn và ẩn mình đi. Dấn thân một cách vô vị lợi. Dấn thân một cách quên mình. Dấn thân để tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh bản thân. Dấn thân để làm vinh quang Thiên Chúa, chứ không làm thật to, thật hoàng tráng để mình được tâng bốc tán dương. Ước gì chúng ta luôn nhỏ bé, khiêm tốn, đừng đề cao mình quá đáng, đừng tìm cách tán dương mình mù quáng. Hãy để những công việc mình làm cho danh Chúa được cả sáng.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng thích được tán dương, được khen thưởng, được đề cao giữa mọi người. Chính vì vậy mà cuộc đời không thiếu những thị phi, những bất công. . . Xin cho chúng con luôn khiêm tốn, bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Amen.
Thiên Chúa gọi chúng ta qua nhiều cách. Có thể là qua trung gian người này, người kia, qua một TN 2-B148
Thiên Chúa gọi chúng ta qua nhiều cách. Có thể là qua trung gian người này, người kia, qua một biến cố hay qua Lời của Người. Ơn gọi của ta khởi sự từ tình yêu bao la và sự chọn lựa tự do của Thiên Chúa. Ơn gọi được nới đến ở đây không bó buộc trong ơn gọi linh mục hay tu sĩ nhưng được mở rộng ra trong ơn gọi làm con Chúa. Không phải bởi ta tài giỏi, nhiều ưu điểm nhưng đơn thuần chỉ là vì tình yêu nhưng không của Ngài. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta như xưa Ngài đã mời gọi hai môn đệ đi theo Ngài: “Đến mà xem” (Ga 1, 39). Chúng ta cũng hãy đến xem và ở lại với Người. Ngài sẵn sàng đón tiếp chúng ta.
Chúng ta rất dễ bị lầm tưởng rằng, chính chúng ta là người chủ động theo Chúa. Nhưng như lời Đức Giêsu khẳng định:“Không phải anh em đã chọn thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em (Ga 15, 16). Theo Chúa là một hành trình đáp trả lời mời gọi yêu thương Chúa dành cho ta. Theo Chúa là đến và ở lại với Người, để Người sai đi nơi nào Người muốn. Điều này thật sự quan trọng. Vì chỉ khi dành thời gian, đến và ở lại với Người, ta mới có kinh nghiệm, có được tương quan cá vị với Ngài. Cũng nhờ đó, ta nhận ra Chúa là ai trong cuộc đời ta và ta là ai trong cuộc đời này.
Tin Mừng kể lại, sau khi đến xem và ở lại với Người ngày hôm ấy, việc đầu tiên Anrê làm là tìm đến với Simon em mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41) và rồi dẫn em mình đến với Đức Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải là những cuộc gặp gỡ không ngừng với “Đấng ấy”. Đức cha Lambert de la Motte, Đấng Sáng lập dòng Mến Thánh Giá có dạy: “Để gia tăng đời sống thiêng liêng, không có phương thế nào hữu hiệu bằng sự đối thoại thường xuyên với Thiên Chúa và lòng trung thành luôn mãi với tác động của ân sủng Ngài” (x. Tuyển tập bút tích của Đức cha Lambert de la Motte, Thư gửi cha Halle,20).
Để đối thoại với một ai đó, ta cần đi đến một cuộc gặp gỡ. Hội thánh thật sự khôn ngoan khi kêu mời con cái mình năng tham dự thánh lễ, cử hành Phụng vụ Lời Chúa, giờ kinh, đặc biệt là lãnh nhận các Bí tích. Đó là những phương thế giúp ta gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Nhờ đó, ta có được tương quan cá vị với Ngài. Sở dĩ Anrê nói được rằng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” là vì ông đã có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài (Ga 1, 41). Nếu muốn có kinh nghiệm đó, chúng ta cần dành thời gian đến và ở lại bên Ngài. Mặt khác, chúng ta phải có sự khao khát gặp gỡ Ngài, nhận ra sự quan trọng của cuộc gặp gỡ. Nhưng thử hỏi, bấy lâu nay, ta đã và đang đến với Chúa bằng tâm tình, thái độ nào? Cuộc sống bận rộn thường dễ làm cho ta cảm thấy phiền, căng thẳng khi phải tham dự thánh lễ, giờ kinh, cầu nguyện. Có khi, ta dễ cảm thấy bị mất giờ vì những việc đó.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng đón tiếp ta. Ta hãy đến và ở lại với Ngài qua Con Một yêu dấu là Đức Giêsu. Qua những cuộc gặp gỡ, Ngài sẽ cho ta biết phải làm gì, nói gì. Hơn hết, đến với Ngài cuộc sống của ta sẽ đổi mới, sẽ khác. Như Simon được Chúa đổi tên thành Phêrô, ta cũng sẽ được Ngài biến đổi nên tốt hơn nếu ta thật sự nghiêm túc và khao khát gặp gỡ Ngài. Ngay từ bây giờ, ta hãy dành ưu tiên cho việc gặp gỡ và ở lại với Ngài.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Giêsu với các môn đệ: Đây là Chiên Thiên Chúa. Lời TN 2-B149
Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Giêsu với các môn đệ: Đây là Chiên Thiên Chúa. Lời giới thiệu thật đơn giản. Hai môn đệ đi theo Chúa. Họ muốn tìm hiểu về cuộc sống của Chúa. Chúa mời: Hãy đến mà xem. Chúng ta không biết họ đã xem thấy gì. Nơi Chúa cư ngụ có lẽ rất đơn sơ và nghèo khó. Họ ở lại với Chúa ngày hôm đó. Hai môn đệ đã gặp Chúa và nhận ra Ngài chính là Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô. Từ đó họ gọi nhau tìm đến với Chúa, Anrê mời Phêrô đến gặp Chúa. Khởi đầu Giáo Hội Chúa ở trần gian chỉ giản dị như thế. Chúa bắt đầu qui tụ các môn đệ. Ngài chọn và gọi các môn đệ từ những người ngư phủ. Ngư phủ không được học hỏi nhiều ở trường lớp. Họ không có địa vị chức quyền trong xã hội. Họ không phải là những người giầu có sang trọng. Chúa gọi họ là những người bình thường để thi hành những công việc phi thường.
Ơn gọi là một mầu nhiệm. Như xưa, ông Encana và bà Anna đã cầu xin cùng Chúa và Chúa đã ban cho hai ông bà được một người con tên là Samuel. Ông bà hứa sẽ dâng đứa con cho Chúa. Ngay khi tuổi còn trẻ, Samuel đã ở trong đền thờ Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Chúa đã gọi Samuel trong giấc ngủ. Cậu đáp lại “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe”. Samuel đã lắng nghe và đáp lời Chúa suốt cuộc đời. Ông sống trong ơn nghĩa của Chúa và thực thi các huấn lệnh của Ngài.
Chúa gọi Phaolô theo cách thức riêng biệt. Phaolô từng bách hại và đánh phá Giáo Hội, Chúa đã chọn ông trở thành tông đồ Dân Ngoại. Thư của Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Côrintô đã nhắc nhở mọi Kitô hữu rằng thân xác của chúng ta là chi thể và là đền thờ của Chúa. Nhờ công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta được chung hưởng sự sống mới nơi Đức Kitô. Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta trở nên chi thể của Đức Kitô được thông phần vào các chức vụ tư tế, tiên tri và vương đế đến cõi sống muôn đời. Thánh Phaolô dạy: Thân xác không phải vì dâm dật, những kẻ tà dâm thì phạm tội trong thân xác mình. Một đòi hỏi vượt thắng những khát vọng bản năng.
Chúng ta có thể suy tư về ơn gọi của chính mình. Chúa gọi mỗi người theo ơn gọi bậc sống riêng trong những hoàn cảnh khác nhau. Ơn gọi nào cũng là ơn gọi thánh. Nên thánh trong bậc gia đình. Nên thánh trong bậc độc thân. Nên thánh trong ơn gọi tu trì. Có những ơn gọi tu Dòng, giữ ba lời khấn: Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng lời. Có những ơn gọi hiến dâng trong bậc tu Triều phục vụ tha nhân nơi xứ đạo, cộng đồng. Có những ơn gọi hiến thánh tại thế trong đời sống truyền giáo. Mỗi người tự lắng nghe tiếng Chúa để đáp lời: Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe. Biết lắng nghe là một khởi đầu tốt. Tiếng Chúa thì thầm qua mọi biến cố của cuộc đời. Cần có sự thinh lặng và tịnh tâm để nhận biết tiếng Chúa.
Lời thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô luôn nhắc nhở mỗi người chúng ta “Hãy tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác chúng ta”, vì chúng ta đã được mua chuộc bằng giá rất lớn. Trong bất cứ ơn gọi nào, chúng ta đều phải cố gắng phấn đấu không ngừng. Chúng ta không thể cậy dựa vào sự hiểu biết khôn ngoan hay sức riêng mình, mà hãy luôn cậy trông vào ơn Chúa giúp vì “ Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Đường theo Chúa còn dài và cuộc sống còn nhiều chông gai, chúng ta cần có những thời gian tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa. Lắng nghe lời Chúa qua Kinh Thánh, sự giảng dạy của Giáo hội, cầu nguyện, việc nhận lãnh các Bí Tích và qua những lời chỉ dạy khôn ngoan của các vị linh hướng.
Chúa mời gọi mỗi người: Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào (Is 55,1). Chúa ban ơn dồi dào cho chúng ta một cách nhưng không. Mỗi người đã lãnh nhận biết bao ơn lộc của Chúa. Xin cho nguồn ơn thánh của Chúa biến đổi tâm hồn chúng ta nên quảng đại và dám dấn thân làm nhân chứng cho Chúa trên mọi nẻo đường.
Đức Giáo Hoàng Bênêđitô đã đề nghị một định nghĩa về Đức Tin như sau: “Tin là cuộc gặp gỡ TN 2-B150
Đức Giáo Hoàng Bênêđitô đã đề nghị một định nghĩa về Đức Tin như sau: “Tin là cuộc gặp gỡ thân tình, cá vị với Chúa. Đây không phải là cuộc gặp gỡ với một sự vật hay một sự kiện, là cuộc gặp gỡ với một Đấng, một Ai đó, một Con Người đang hiện diện giữa chúng ta” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 1). Cuộc gặp gỡ với Chúa được thực hiện bằng lời cầu nguyện và chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa. Bởi khi cầu nguyện là chúng ta tâm sự với Chúa; khi nghe Lời Chúa là lúc Ngài nói với chúng ta. Cầu nguyện là mối tâm giao, là sự trao đổi thân mật, giãi bày tấm lòng trước nhan Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta mở con tim để lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng thưa với Chúa như cậu bé Samuel trong đền thờ Silô: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Nhờ cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta được gặp Chúa trong đời, mặc dù còn nhiều ồn ào, bon chen và toan tính. Gặp Chúa trong đời, đó cũng là mục đích của đời sống Kitô hữu. Cuộc gặp gỡ này còn được gọi là “đời sống nội tâm”, tức là sự gắn bó giữa tâm hồn ta với Chúa. Sự gắn bó này vừa thân tình, vừa bền vững và cá biệt, tức là riêng tư chứ không phải chạy theo phong trào. Những ai nhận mình là tín hữu, mà không gặp gỡ Chúa trong đời, thì đức tin của họ còn mơ hồ và chỉ dừng lại ở lý thuyết. Tác giả Tin Mừng thứ bốn kể lại cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai môn đệ và Chúa Giêsu. Các ông đã ở lại với Chúa ngày hôm ấy. Cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy vừa thân tình vừa sâu lắng, đến nỗi hôm sau, các ông có thể khẳng định với người thân của mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a“. Chắc hẳn trong cuộc gặp gỡ thân tình này, Chúa Giêsu đã mặc khải cho hai ông nhiều điều quan trọng, giúp các ông mở trí để nhận ra Người chính là Đấng muôn dân mong đợi. Các ông đã hoàn toàn “tâm phục, khẩu phục”, để rồi sau này, các ông trung thành theo Chúa, chấp nhận sống chết với Thày mình. Cuộc gặp gỡ ấy đã tạo nên nơi các ông sự gắn bó, lòng trung thành và tâm tình mến yêu. Nếu chúng ta đọc tiếp Tin Mừng Thánh Gioan, chúng ta sẽ thấy một chuỗi những chứng từ mang tính “dây chuyền”, có nghĩa là những ai đã gặp Chúa Giêsu, đều thuyết phục người thân của mình để họ tin Chúa. Anrê, một trong hai môn đệ đầu tiên đến gặp Chúa Giêsu, đã về kể lại cho anh mình là Phêrô. Philiphê, sau khi gặp Chúa, đã về kể lại cho Nathanaen và dẫn ông tới gặp Chúa. Hai mươi thế kỷ đã qua, Giáo Hội của Chúa được lan rộng đến mọi miền thế giới, cũng là nhờ những Kitô hữu đã nhiệt thành “kể lại” cho mọi người về kinh nghiệm gặp gỡ Chúa. Họ cũng chia sẻ niềm hạnh phúc của người tín hữu khi đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Khẳng định “đã gặp gỡ Chúa” là một cảm nghiệm sâu xa về sự hiện diện của Người. Đó cũng là kinh nghiệm của một đức tin chắn chắn, đến từ tâm tình lắng nghe lời giáo huấn của Chúa. “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!” là tâm tình của cậu bé Samuen trong đền thờ tại Silô (Bài đọc I). Tác giả của cuốn sách mang tên ông đã kể lại với chúng ta: “Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với cậu và cậu không để một lời nào của Người ra vô hiệu”. Nhờ việc sẵn sàng thực thi những lời Chúa dạy, sau này, Samuen trở thành một vị ngôn sứ trung thành và là cố vấn cho vua Saun, vị vua đầu tiên trong lịch sử Israen. Chúa nhật thứ hai của mùa Thường niên, Phụng vụ kêu gọi chúng ta hãy gặp gỡ Chúa Giêsu để nhận ra nơi Người là Đấng Cứu độ trần gian. Làm sao để mỗi người tín hữu có thể khẳng định với thế giới hôm nay rằng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”?. Lời khẳng định ấy không chỉ là ngôn từ, nhưng còn là lối sống thấm đượm tinh thần Phúc âm. Hôm nay, nhân loại vẫn đang khao khát Đấng Mê-si-a. Người là Thiên Chúa, Đấng có thể lấp đầy những khát vọng sâu xa của con người. Thực ra, Người đang hiện diện vô hình và thiêng liêng giữa chúng ta. Nếu mỗi người Kitô hữu đều có thể khẳng định: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” như hai môn đệ Anrê và Gioan, thì xã hội hôm nay sẽ có rất nhiều người tin Chúa. Điều đáng tiếc là nhiều người mang danh Kitô hữu mà sống trái ngược với danh xưng ấy. Vì thế, họ làm cho hình ảnh Giáo Hội của Chúa bị biến dạng và tạo cớ cho những người không cùng tôn giáo với chúng ta hiểu sai về dung mạo của Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và là Cha nhân hậu. Muốn khẳng định Chúa hiện diện trong cuộc đời, điều quan trọng đầu tiên là thánh hóa bản thân. Thánh Phaolô đã đưa ra những lời khuyên rất thiết thực qua lời nhắn nhủ các tín hữu Côrinhtô: Thân xác chúng ta là Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Anh em hãy tôn vinh Chúa nơi thân xác anh em. Thánh nhân khuyên mọi người hãy tránh xa những hành động dâm dật ô uế, để cuộc đời và tâm hồn được thanh thản (x.Bài đọc II). Hành trình nên thánh khởi đi từ những cố gắng cụ thể, ngay chính trong thân xác mình, để rồi chính con người cá nhân của chúng ta được biến đổi, nên giống Đức Giêsu, Đấng vô tội, tinh tuyền và thánh thiện. Gặp Chúa trong đời, đó là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Đó cũng là kết quả của những cố gắng hy sinh. Bởi lẽ, Chúa chỉ tỏ mình cho những ai có tâm hồn trong sạch và một trái tim rộng mở chân thành. Được gặp Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ bình an, cuộc đời này sẽ chan chứa niềm vui và hạnh phúc, Nước Trời sẽ khởi đầu từ đây.