Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN5-B Bài 51-100 Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau ------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 29-39:“Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.
Hạnh phúc như gần mà như xa. Làm sao thực hiện được những lời cầu chúc đầu xuân giữa: TN5-B51
Hạnh phúc như gần mà như xa. Làm sao thực hiện được những lời cầu chúc đầu xuân giữa một nhân loại còn đầy những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài lề xã hội ? Làm sao hạnh phúc khi con người chưa được làm người vì bị đè bẹp dưới những cơ chế bất công và truyền thống lỗi thời ?
THỰC TẾ CON NGƯỜI VÀ SỨC MẠNH THIÊN CHÚA
Ngoài Thiên Chúa, không ai có thể đem lại mùa xuân cho nhân loại. Đức Giêsu đã mạc khải cho mọi người thấy sức mạnh phá tan mọi đau khổ, đem lại hạnh phúc cho muôn người, phát xuất tự nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là sức mạnh đó. Người biết rõ đau khổ xuất phát tự mối tương quan bị đổ vỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nguyên nhân chính của sự đổ vỡ đó là ma quỉ. Nhưng ma quỉ cũng không làm gì được nếu con người không muốn. Cuối cùng chính vì lòng tham dục của con người, tội lỗi đã lọt vào trần gian và gây nên đau khổ, chết chóc. Như vậy, thực sự không có gì mâu thuẫn giữa quan điểm Phật giáo và Kitô giáo về đau khổ. Chỉ khác nhau một điểm, Kitô giáo phân biệt những dục vọng tốt và xấu. Dục vọng xấu xa nhất chính là tính kiêu ngạo đã đẩy con người lên cõi mơ ngang hàng với Thiên Chúa. Con người đã vỡ mộng. Do đó có đau khổ. Hạnh phúc trở thành giấc mơ.
Nhưng có những đau khổ không tùy thuộc vào dục vọng hay ý muốn con người. Có những nạn nhân vô tội chịu đựng những thiên tai khủng khiếp. Biết bao sinh linh đã bị chìm ngập trong dòng nước lũ tại miền Trung hay tại Venezuella. Chính ông Job đã kinh nghiệm sâu xa về nỗi oan ức đó. Ông không thể hiểu nổi chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Cuộc đời như chìm trong sự nhàm chán, tuyệt vọng. Giữa đau khổ, ông đã thốt lên: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hi vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (Jb 7:6-7).
Đức Giêsu cũng là nạn nhân vô tội của một cơ chế bất công. Nhưng Người đã tìm thấy ý nghĩa và niềm hi vọng ngay trong những đau khổ. Người không thể chịu đựng nổi trước những đau khổ của con người. Bởi thế, Người đã ra tay hành động để trấn át ác thần đang hoành hành trong thân xác và tinh thần con người. Điển hình, Người đã chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (Mc 1:30). Khắp nơi “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (c.34). Người đi ngang qua những khổ đau như giới hạn nhốt chặt thân phận con người. Chính vì thế, quyền năng Thiên Chúa đến như một sức mạnh giải thoát. Nếu đời là bể khổ, Đức Giêsu đã lặn ngụp xuống bể khổ đó và đẩy nhân loại lên bằng chính sức mạnh Tin Mừng. Người đã dùng chính những cay đắng của bể khổ đó để tẩy rửa những vết thương trần gian. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, nước bể khổ đó cũng có sức mạnh thanh tẩy những bụi bặm và hôi hám thế tục. Nhờ đó, hình ảnh Thiên Chúa xuất hiện nguyên vẹn trong con người và cuộc đời Kitô hữu.
SỨ MỆNH GIẢI THOÁT
Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa để đẩy mạnh công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tự bản chất, Tin Mừng là một sức mạnh giải thoát con người. Thế nên, Tin Mừng được rao giảng tới đâu, niềm vui dâng cao tới đó. Bằng chứng sau khi khó nhọc tìm Đức Giêsu, các môn đệ reo lên: “Mọi người đang tìm Thầy đấy !” (c.37).
Nhưng chính lúc mọi người tìm Thầy, Thầy lại không muốn dừng lại để hưởng trọn lòng ngưỡng mộ đó. Thầy không bằng lòng với những gì đã làm. Thầy muốn đi xa hơn những thành công hôm qua. Còn nhiều nơi khác, nhiều người khốn cùng khác đang chờ đợi bước chân Thầy. Chính Thầy đánh thức các ông khỏi cơn mê ngủ với danh vọng của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (c.38). Tin Mừng phải hướng tới những nơi đang phủ đầy bóng đêm tội lỗi. Cảnh nhân loại khổ đau đã thôi thúc Thầy tiến tới không ngừng:“Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (c.39).
Đó là cách Người thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “đối với thánh Marcô, Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa bao gồm toàn thể biến cố, lời nói và hành động” (Dupuis 1995:279). Thật vậy, Người hành động khi làm phép lạ, tiếp xúc với quần chúng, dẹp yên những ảnh hưởng tà thần. Ngay những dụ ngôn cũng đầy dẫy những hình ảnh linh động. Ngang qua hành động, Tin Mừng đã được công bố cho muôn dân. “Phép lạ là Tin Mừng đang hành động” (Dupuis 1995:280). Cộng thêm với lời Đức Giêsu nói, các phép lạ thúc đẩy con người chấp nhận Nước Thiên Chúa. Nhất là khi trừ quỷ, Đức Giêsu càng tỏ rõ uy quyền Thiên Chúa vàsức mạnh Tin Mừng giải thoát. Lực lượng thần dữ đã đến ngày tàn. Đức Giêsu đã mở ra một chân trời mới, phóng tầm nhìn nhân loại tới Nước Trời, nơi chan chứa niềm vui và tự do. Từ nay con người sẽ không còn phải gò bó trong những đòi hỏi luân lý cứng ngắc, nhưng hoàn toàn sống tự do theo Tin Mừng vì Nước Trời đã đến nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Tin Mừng Đức Giêsu đã đem lại nguồn an ủi và hi vọng lại cho bao người sầu khổ và thất vọng. Vì Đức Giêsu đã hoàn toàn đồng hóa với những người nghèo và Tin Mừng đã được rao giảng cho họ trước tiên. Tất cả những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài xã hội đều góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa. Vì chính họ sẽ được hưởng trọn niềm vui giải thoát nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Người không chấp nhận đối xử phân biệt với những người kém may mắn về vật chất. Người muốn chống lại những cơ cấu xã hội và tôn giáo bất công, nguyên nhân gây nên cảnh khốn cùng cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Bởi vậy Tin Mừng có một chiều kích giải phóng toàn diện con người. “Người không phải là một nhà cách mạng chính trị, nhưng cuộc sống và cái chết của Người có một chiều kích chính trị, vì Người có những thái độ thách thức và đe dọa những nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị” (Dupuis 1995:281).
Cũng thế, Giáo hội không phải là một tổ chức chính trị. Nhưng Giáo hội không thể im lặng trước những cảnh người nghèo bị đàn áp bất công. Vì “thúc đẩy thực hiện công lý và tham gia vào việc biến đổi thế giới là một “chiều kích cốt yếu” của sứ mệnh Phúc Âm hóa của Giáo hội.” (Dupuis 1995:282) Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mệnh Giáo hội càng cấp thiết. Nhân loại hôm nay đang quằn quại dưới những cơ chế tôn giáo và xã hội bất công, người môn đệ Đức Kitô có nghe thấy những tiếng rên siết của bao người bất hạnh đó không ? Rao giảng Tin Mừng là đang đem lại mùa xuân cho nhân loại. Mùa xuân đang đến trên quê hương, vì các môn đệ Đức Kitô đang xông pha đem Tin Mừng đến cho tất cả những ai nghèo khổ. Tôi có được kể vào số những môn đệ đó không ? Tôi có sẵn sàng đối thoại với mọi người thiện chí và can đảm đối diện với những thách đố thời đại để đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người không ?
Đức Giêsu là gương mẫu của sự cầu nguyện. Cách đây không lâu, Đức Giêsu đã lên rừng ăn chay cầu: TN5-B52
Đức Giêsu là gương mẫu của sự cầu nguyện. Cách đây không lâu, Đức Giêsu đã lên rừng ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Thánh Marcô hé mở cho ta biết Đức Giêsu một mình sáng sớm lên nơi thanh vắng để cầu nguyện. Suốt ngày Ngài bận rộn với công việc rao giảng Tin Mừng: giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh, trừ qủi, tiếp xúc với mọi người, trưa về nhà tiếp xúc với môn đệ. Trong khi mọi người còn ngon giấc thì Đức Giêsu đã lên núi cầu nguyện một mình. Đây không phải là lần cuối, mà luôn luôn như vậy. Ngài đã tỏ ra rất ham mộ cầu nguyện, nhất là trước những việc trọng đại.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Đức Giêsu đã đi cầu nguyện và cầu nguyện nơi thanh vắng: Vừa khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, Chúa lắng sâu trong cầu nguyện và đồng thời cửa mở ra (Lc 3,21 ; Ga 1,32-34).
Năm đầu cuộc đời công khai, ngày Sabat Chúa vào hội đường cầu nguyện (Lc 5,16). Đêm áp ngày Chúa chọn 12 tông đồ, Chúa đã lên núi và cầu nguyện suốt đêm (Lc 6,12).
Trước khi Chúa hỏi các tông đồ về dư luận dân chúng về Ngài, Chúa đã tìm nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Lc 9,18). Trước khi biến hình Chúa đã lên núi cầu nguyện (Lc 9,28) và trong khi cầu nguyện thì Ngài biến hình.
Lần kia, sau khi thấy Chúa rời các ông để cầu nguyện, các tông đồ xin Chúa dạy các ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông. Và Chúa đã dạy các ông kinh Lạy Cha (Lc 11,1-4). Hơn nữa, nhất là trong giờ hấp hối trong vườn Cây Dầu, Chúa đã cầu nguện thống thiết tới 3 lần (Lc 22,40-45).
Tại sao Đức Giêsu lại hối hả đi cầu nguyện như vậy ? Trước hết là vì Ngài khao khát sống một mình với Cha Ngài, và lấy làm sung sướng khi ở riêng với Cha Ngài. 2. Đức Giêsu dạy ta cầu nguyện.
Đức Giêsu đã cầu nguyện và đã làm gương cho ta về sự cầu nguyện. Rất nhều lần Ngài đã khuyên các môn đệ cầu nguyện. Ta chỉ ghi ra đây một số trường hợp:
Cầu nguyện trong thinh lặng: vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha nơi kín ẩn (Mt 6,6). Cầu nguyện với lòng tin: Thiên Chúa có thể ban mọi sự (Mc 11,23-24). Cầu nguyện với Cha chúng ta ở trên trời (Lc 11,13). Cầu nguyện không nhiều lời (Mt 6,7).
Biết tha thứ cho người khác để Cha trên trời có thể tha thứ cho chúng ta (Mc 11,25).
Với lòng khiêm tốn và thống hối như người thu thuế tội lỗi (Lc 18,9-14). Cầu nguyện không ngừng (Lc 19,1). Cầu nguyện chung với người khác (Mt 1118,119). Nhận biết ân huệ của Thiên Chúa (Ga 4,10). Xin những sự trên trời (Ga 6,27). Kinh Lạy Cha (Lc 11,2t ; Mt 6,9-13).
Đức Giêsu đã cảnh báo Phêrô về nguy cơ ma qủi làm cho ông bị sa ngã, phải luôn tỉnh thức và đề cao cảnh giác: “Phêrô, ma qủi nó sàng con như sàng gạo”. Sức riêng của loài người không thể chống lại được sức mạnh của ma qủi, nên phải cậy nhờ vào ơn Chúa, đừng cậy vào sức riêng mình.
Về điểm này, Đức Cha Tihamer Toth đã nói chuyện với thanh niên như sau: ”Bạn không muốn sao lãng những công việc bề bộn, thế thì, bạn ơi, hãy nghe tôi: Đây là chiếc tầu vượt đại dương bắt đầu mở máy giữa lúc giông tố nổi to, và một đoàn hải điểu theo bên như những tầu khác khởi hành. Chiếc tầu nọ mở hết tốc lực mà không vượt được những làn sóng dữ dội. Gió ngược mạnh vô cùng, chiếc tầu nghiêng ngả. Cả bộ máy rung chuyển, nhưng chiếc tầu chỉ tiến khó khăn được đôi chút. Một hành khách thương hại nói: “Khốn nạn đàn hải điểu. Mở máy tới hàng trăm, hàng ngàn mã lực thế mà chúng ta chỉ tiến được đôi chút thôi. Chim ơi, chim làm được gì với đôi cánh mong manh và bắp thịt yếu đuối” ?
Nhưng người hành khách thương hại bỗng nói và cảm động vô ngần: “Đàn hải điểu nhẹ nhàng bay lượn với đôi cánh Đức Chúa Trời ban cho. Chúng gối lưng lên gió vật. Và trong khi chỉ còn một việc, chỉ trông cậy có máy móc, người ta tiến rất khó khăn, rất vất vả, thì đàn hải điểu vượt nhẹ nhàng lên trước chiếc tầu với đôi cánh khéo léo, bay lượn thay cho sức yếu đuối của mình”. Bạn ơi, chiếc tầu đó là hình ảnh kẻ muốn thắng bằng sức riêng mình. Đôi cánh chim hải điểu là hai tay người ta giơ lên trong lúc cầu guyện. Bạn có còn cho rằng thời giờ bạn nguyện ngắm là thời giờ bỏ phí không ? Bạn có còn nói rằng bạn không có thời giờ cầu nguyện không”?
(Tihamer Toth. Chúa Cứu thế với Thanh niên, tr 209)
3. Giáo huấn của Giáo hội.
Việc cầu nguyện phát xuất do chức Linh mục vương giả: “Phần tín hữu nhờ chức Linh mục vương giả, cộng tác dâng Thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn. Bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực” (Hiến chế về Giáo hối, số 10).
“Mọi người phải nhớ rằng nhờ phụng vụ và cầu nguyện, nhờ sám hối và tự ý chấp nhận công việc cũng như những khổ cực của cuộc đời làm cho nên giống Chúa Kitô đau khổ, họ mới có thể ảnh hưởng tới mọi người và đem ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 16).
II. Chúng Ta VỚi SỰ CẦu NguyỆn.
1. Nói về sự cầu nguyện.
a) Cầu nguyện là gì ?
Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nói: “Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình.
Với con, cầu nguyện chỉ là một cơn lòng sốt sắng, một liếc mắt nhìn lên trời, một tiếng kêu tri âm, một lời nói tình giữa lúc phải gian nan khốn cực, cũng như khi được bình an vui sướng. Và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao thượng, siêu nhiên cởi mở lòng, phơi giãi linh hồn, trao đổi lại tâm tình, để được kết hợp cùng Chúa cách chí thiết”. (Trích Một tâm hồn, Kim Thiếu dịch, tr 204)
Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội. Muốn biết bơi thì phải nhào xuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ vừa lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như việc học gia chánh. Muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn. Muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải phân bón, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong lớp “cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện. (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).
b) Cấp độ của sự cầu nguyện.
Có nhiều cách cầu nguyện. Thường thường người ta cho rằng cầu nguyện là chuyện vãn với Chúa, là một cuộc đối thoại, mình phải nói với Chúa, nói cho nhiều cho Chúa nghe. Cũng có người có ý kiến cao hơn: cầu nguyện là lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện chỉ là cơ hội để Chúa nói với ta. Tất cả đều đúng. Nhưng cầu nguyện cao nhất là sự thinh lặng tuyệt đối, trong đó chẳng ai nói mà cũng chẳng ai nghe vì lúc đó giữa Chúa và ta có một sự kết hợp mật thiết rồi, một sự kết hợp cao độ đến nỗi không con phân biết giữa Chúa và ta nữa. Tư tưởng này đã được Cha Anthony de Mello diễn tả trong câu chuyện sau đây:
Truyện: Sự im lặng tuyệt đối.
Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm. Ngày kia, người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không? Cụ già chậm rãi trả lời: Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi. Vậy thì cụ nói những gì với Chúa? Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi. Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:
Lão thấy có 4 giai đoạn trong đời sống cầu nguyện. Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe. Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe và có lẽ giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe. Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối (Dựa theo truyện của Anthony de Mello, Taking Flight).
Một trong những yếu tố quan trọng trong việc cầu nguyện là sự thinh lặng. Chúng ta cần sự thinh lặng, vì chính trong sự thinh lặng này – một sự thinh lặng mà người “hướng ngoại” không thể nào chịu nổi – Chúa Cha sẽ nói với ta lời của Ngài, Chúa Kitô sẽ chia sẻ với chúng ta ý nghĩa của mầu nhiệm Chết và Phục sinh của Người, và Chúa Thánh Thần sẽ thôi thúc để chúng ta tìm ra đường hướng Chúa muốn chúng ta đi. Ngày nay, con người dường như rất sợ sự thinh lặng, do đó con người tạo ra trăm ngàn cớ để chạy trốn cái giây phút tĩnh lặng trước mặt Chúa, Đấng lột trần cho thấy sự hư vô tột cùng của kẻ từ chối chấp nhận mình nghèo khó và yếu đuối. (Thanh Thủy, op. cit. tr 203-204)
c) Cầu nguyện rất cần thiết.
Việc cầu nguyện có thể ví được như cách điều chỉnh radio và vô tuyến truyền hình. Chúa và ân sủng của Ngài lúc nào cũng sẵn sàng, bàng bạc khắp không gian như luồng điện. Con người nào không cầu nguyện cũng ví như máy thu thanh và vô tuyến truyền hình không bao giờ dùng tới. Muốn cho các máy đó bắt đúng luồng sóng, đúng tần số, ta cần điều chỉnh nhẹ nhàng, trong thinh lặng để các máy đó bắt đúng tần số; bằng không, vẫn chơ vơ một mình, đơn chiếc, lẻ bóng và chẳng ích lợi gì.
Hơn nữa, việc cầu nguyện còn có thể ví như “xạc” bình điện. Chúng ta ưa phóng ngoại, để chạy theo những cái hào nhoáng, những hấp dẫn bên ngoài, thích chạy trên chính mình chẳng khác gì bình điện xài luôn nên hết điện, hết năng lực. Thế nên cần phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng để “xạc” lại bình, để hấp thụ và để bắt liên lạc với chính nguồn điện lực. Giờ cầu nguyện là lúc bồi dưỡng, chuyển hóa, thăng hoá chính bản thân mình như bắt lại với chính nguồn là Thiên Chúa, chính Thánh Thần là Tình Yêu, để ta được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8,1-5 ; Gl 5,22-26). Nhờ đó con người được đổi mới (Cl 3,9-11) tìm lại được con người nội tâm (Rm 7,22) của chúng ta. Tìm gặp, biến thể và hoà đồng với chính Tình yêu.
Thật vậy, ta có thể nhận ra và cảm nghiệm được kết quả của việc cầu nguyện qua biến thể tâm hồn và đổi mới của thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacóp; hoặc như hai môn đệ đi Emmau trong lúc lòng buồn và chán nản, xa rời tập thể, thế mà sau khi đã tâm sự với Chúa cải trang thành bộ hành, các ông đã nhận ra Chúa, tìm lại niềm tin vui và vội vã trở về với cộng đoàn (Lc 24,13-35) (Thái Hoà, Cải tiến Công giáo VN, số 7-8, tr 130-131).
Truyện: Luther bỏ cầu nguyện.
Tại bảo tàng viện ở Wittenberg (Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau: “Tôi quá bận rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ... nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.
Tuy thế, có những người vần chưa công nhận sự cầu nguyện là cần thiết, mà còn bác bỏ và chê trách sự cầu nguyện. Thi sĩ Alfred de Vigny đã nói: “Thở than khóc lóc, cầu khẩn là hèn nhát”.
Phải phân biệt hai lối cầu nguyện: thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái độ của kẻ ươn hèn, muốn được điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ chỉ há miệng chờ sung hay ôm gốc cây chờ thỏ. Trái lại cầu nguyện chủ động là tính cách của người vừa cầu nguyện vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu xin: Aide-toi, le Ciel 1’aidera!
Câu nói trên của Alfred de Vigny chỉ đúng cho những kẻ cầu nguyện thụ động. Còn chính nhà khoa học lừng danh Alexis Carrel đã nói: “Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta vẫn phải nhận là đúng rằng kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ”. Một nhà khoa học đã từng được giải Nobel vào năm 1912 còn tin tưởng như vậy, thì sự cầu nguyện đã rõ ràng không phải là sự mơ hồ.
Văn hào Cronin đã than thở cho những kẻ mất lòng tin tường, những kẻ không cầu nguyện: “Địa ngục là khi lòng mất hy vọng”. Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì còn sống làm sao? Chính vỉ vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng, những kẻ không biết có sự cầu nguyện.
d) Ích lợi của sự cầu nguyện.
Cầu nguyện đem lại cho con người rất nhiều lợi ích cho linh hồn. Điều đó chúng ta đã nói nhiều ở trên. Cầu nguyện cũng còn lợi ích nhiều cho đời sống tâm lý và thể lý nữa. Chính những nghiên cứu của các nhà khoa học thời danh đã chứng minh điều đó.
Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh
nói:
Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.
Bác sĩ là một người Công giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:
Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.
Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách nghiêm chỉnh. Một tuần lễ sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.
Bác sĩ Carl Jung cho biết: “Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng”.
Giải pháp ông nói đây rõ ràng là CẦU NGUYỆN. (Viết theo Vũ minh Nghiễm, Sống sống, tr 44-45)
2. Thực hành cầu nguyện.
Đức Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều trong công cuộc truyền giáo. Tuy rất bận rộn với công việc rao giảng, chữa bệnh, trừ qủi và tiếp xúc với mọi hạng người, nhưng Ngài không quên cầu nguyện, Ngài tranh thủ những lúc vắng vẻ, những đêm tĩnh lặng để tiếp xúc với Cha Ngài. Ngài đã làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện và còn thúc giục chúng ta cầu nguyện. Do đó, chúng ta không còn hoài nghi về sự cần thiết và ích lợi của sự cầu nguyện.
Hãy theo gương Đức Giêsu mà cầu nguyện trong đời sống hằng ngày, mặc dầu chúng ta rất bận rộn với công việc. Trong khi cầu nguyện chúng ta hãy lưu ý đến hai điểm này:
a) Cầu nguyện đơn sơ.
Chúa không đòi chúng ta phải cầu nguyện bằng những lời lẽ hoa mỹ hay bằng những hình thức gò bó, mất tự nhiên, nhưng hãy cầu nguyện đơn sơ như một em bé nói chuyện với cha mình, nói lên tất cả tâm tình của mình, nói lên những việc lớn cũng như việc nhỏ trong cuộc sống, cầu nguyện như thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã làm. Về điểm này Cha Charles khuyên:
“Khi bạn qùy gối trước nhan Chúa, bạn đừng xua đuổi những cái khác ra ngoài, nhưng hãy làm ngược lại. Khi bạn thưa chuyện với Chúa Giêsu Kitô, bạn đừng bỏ bớt ba phần tư từ ngữ quen dùng của bạn đi, bạn đừng dùng những từ ngữ ít gặp và đừng tránh không nói đến những chuyện tầm thường. Đừng giả vờ biến thành một người khác. Bạn hãy dám thưa với Chúa Giêsu rằng: “Bạn bị nhức đầu, bạn bị bực mình khó chịu, bạn làm bữa cho gia đình trễ quá rồi” (Charles, La priere de toutes les heures, tr 10)
Cũng cần lưu ý thêm khi cầu nguyện trong những biến cố quan trọng: “Dĩ nhiên rằng khi một biến cố quan trọng xẩy ra, nhất là một thử thách xẩy đến trong đời bạn, bạn đem ra thưa với Chúa trong kinh nguyện của bạn, nhưng đàng khác cũng có một nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ không đưa vào kinh nguyện của bạn hàng ngàn chuyện lặt vặt xẩy ra hàng ngày, nhưng quan trọng đối với bạn và làm thành những đường chính yếu dệt nên đời sống độc điệu của bạn”
(Gaston Dutil, Đạo trong đời bạn, tr 29).
b) Làm việc và cầu nguyện.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Người ta tưởng rằng cầu nguyện là phải chu chu chăm chắm, nhắm mắt nhắm mũi lại mà cầu nguyện, chứ còn làm việc nữa thì làm sao mà gọi là cầu nguyện được ? Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
Truyện: Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo: một cái đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.
Người thanh niên nói kháy cụ già:
Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo chiếc có hai chữ “làm việc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.
(GM Tihamer Toth, Dieu, La Providence, Sermons, tr 81)
Gaston Dutil nói một cách quả quyết: “Ngày nào mà bạn đem tất cả đời sống bạn vào lời cầu nguyện, thì bạn sẽ thấy ngày ấy bạn say mê cầu nguyện”.
Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên các nguyên: TN5-B53
Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên các nguyên tổ rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ "canh tác và giữ vườn". Chính Ðức Giêsu cũng làm việc bận rộn từ sáng tới tối.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ý thức giá trị của việc làm, đồng thời giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương Chúa.
II. GỢi ý sám hỐi
Xin Chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc.
Xin Chúa tha thứ vì chúng ta không biết thánh hóa những công việc mình làm.
Xin Chúa tha thứ cho những việc làm sai trái của chúng ta.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I G 7, 1-4. 6-7
Ðoạn sách Gióp này đưa ra một cái nhìn bi quan về công việc con người phải làm trong cuộc sống:
Làm việc là cực nhọc như "nô dịch" Con người giống như một người làm công.
Và cuộc đời với những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.
Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Ðức Giêsu trong bài Tin Mừng.
2. Ðáp ca Tv 146
Thánh vịnh này đặc biệt ca tụng một loại "công việc" đặc biệt của Thiên Chúa, đó là việc "cứu chữa": Ngài là Ðấng "cứu chữa những kẻ dập nát tâm can".
3. Bài đọc II 1 Cr 9, 16-19. 22-23 (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô trình bày quan niệm của ngài về việc rao giảng Tin Mừng:
Ðó là một nhu cầu: "Nếu tôi rao giảng Tin Mừng thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi"
Ðó là nguồn hạnh phúc: "Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng"
Vì thế phải làm việc rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện chứ không phải do bị bó buộc.
4. Tin Mừng Mc 1, 29-39
Ðoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Ðức Giêsu:
Giảng dạy ở hội đường
Giảng vừa xong thì đến nhà nhạc mẫu của Simon để chữa cho bà này khỏi bệnh sốt.
Tiếp tục chữa bệnh và trừ quỷ từ chiều cho đến tối. Sáng tinh sương hôm sau, Ngài cầu nguyện ở một nơi thanh vắng.
Người ta lại tìm đến với Ngài để được chữa bệnh. Nhưng Ngài đành phải ra đi, bởi vì còn phải rao giảng Tin Mừng ở những nơi khác nữa.
Tóm lại, Ðức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Việc làm của Ngài là rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Lao động là vinh quang
Ông Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười biếng thì than thở như trong sách Gióp được trích đọc trong bài đọc thứ nhất: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Chính để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị của lao động nhọc nhằn mà Ðức Giêsu Kitô đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người lao động vất vả. Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa. Nhưng Ðức Giêsu đành phải từ chối và nói "Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để rao giảng Tin Mừng nữa".
Chính Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Ðức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động nhọc nhằn: lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn.
Vì hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolô đã hăng hái chu toàn những công việc nặng nhọc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài trích thư gởi tín hữu Côrintô. Là một tông đồ, công việc chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Ngài đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Ngài còn nói "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng". Ngài còn nói thêm: "Giả như tôi tự ý đảm nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì bị ép buộc thì tôi còn mang phần thưởng ở đâu nữa! Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolô đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.
Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay thật ích lợi vì vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc ấy. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy. Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp. Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác. Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian.
* 2. Vấn đề đau khổ
Bài Tin mừng cho thấy một ngày bận rộn của Ðức Giêsu.
Giảng xong trong hội đường thì đến chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô. Ðến chiều còn cả đám đông bệnh nhân đủ loại.
Ðêm đến đi cầu nguyện còn được môn đệ mời về chữa bệnh. Và còn phải đi đến nhiều thành nhiều vùng khác nữa.
Ðức Giêsu như một chiếc phao giữa biển khổ cuộc đời mà vô số người bám. 20 thế kỷ qua rồi, nhưng ngày nay đau khổ nhân loại vẫn còn chồng chất: cả thể xác lẫn tinh thần. "Ðời là bể khổ" câu giáo lý nhà Phật vẫn còn là một nhận xét thật đúng.
Nhưng từ nhận xét đó ta chớ vội kết luận.
Hoặc theo kiểu bi quan như những người chán đời tự tử.
Hoặc theo kiểu thả trôi ăn chơi kẻo hết đời "chơi xuân kẻo hết xuân đi". Mà hãy bình tỉnh nhận định về vấn đề đau khổ.
Có những cái khổ tự mình gây ra: tham ăn đau bụng.
Có những cái khổ do người khác xấu bụng gây ra cho mình: thằng ăn cắp làm cho người ta mất của.
Có những cái khổ là do quy luật thiên nhiên như thế: trước khi sinh con thì phải mang nặng đẻ đau. Muốn được mùa thì phải cực nhọc cầy cấy.
- Trước cái khổ cũng có nhiều thái độ:
Có thứ khổ sinh buồn chán: nhậu nhẹt, tự tử.
Có thứ khổ làm cho con người trưởng thành: người lao động biết quý trọng đồng tiền, người lính chiến trở nên anh dũng.
Có thứ khổ người ta sung sướng chịu đựng: khổ vì yêu mà lo cho người yêu.
Sau khi phân tích như thế, ta thấy cái khổ mặc khải 3 vấn đề:
Trần thế không phải là nơi hoàn hảo.
Tội lỗi là một nguyên nhân lớn của khổ đau.
Khổ đau chứng minh cho tình yêu.
Lạy Chúa, xin cho con có một nhận định sáng suốt trước đau khổ. Cho con đừng tự gây đau khổ cho con hay cho người khác do tính ích kỷ của con. Cho con kiên trì đấu tranh làm giảm những đau khổ cho con và cho người khác.
Cho đau khổ đừng làm con gục ngã nhưng giúp con vươn lên cao hơn cõi đời này hướng về quê hương không đau khổ trên cao. Cho con biết chịu khổ vì yêu.
* 3. Nan đề đau khổ
Vấn đề đau khổ của loài người, đặc biệt của người lành, là một nan đề. Gióp đã vật lộn với nan đề này mà không tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Ngày nay đau khổ cũng vẫn là một nan đề. Ngày nay có rất nhiều người cùng cảnh ngộ với ông Gióp ngày xưa. Ðó là những người đau khổ vì nghèo, đói, bệnh, bất công, áp bức v. v. Thời Cựu Ước, người ta nghĩ rằng đau khổ là hình phạt của Chúa.
Phần Ðức Giêsu, Ngài không chấp nhận quan niệm coi đau khổ là hình phạt của Chúa, bởi Chúa không làm điều xấu, mà đau khổ là điều xấu. Ðức Giêsu không trả lời cho câu hỏi "Tại sao đau khổ" nhưng Ngài dạy phải làm gì trước đau khổ.
Trong bài Tin Mừng này, chúng ta thấy những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần bao quanh Ðức Giêsu. Ngài không tránh xa, nhưng hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Gặp người đau khổ, Ðức Giêsu không chỉ khuyên họ hãy nhẫn nhục chịu đựng như chúng ta quen khuyên. Ngài ra tay hành động, cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ.
Vần đề đau khổ còn là cơ hội để Ðức Giêsu tỏ cho người ta biết Thiên Chúa. Qua cách Ngài tận tuỵ cứu giúp người đau khổ, Ðức Giêsu cho người ta thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ đau khổ.
Sự đau khổ của người khác cũng là cơ hội cho chúng ta. Tuy chúng ta không có khả năng cứu chữa nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc. Mà chăm sóc cũng là một cách cứu chữa. Chỉ cần ở bên người đau khổ thôi cũng là một điều gì đáng quý rồi. Nhưng ở bên người đau khổ mà với hai bàn tay không thì có thể làm gì được? Ðược chứ, vì với hai bàn tay, chúng ta có thể an ủi họ. Ðiều họ cần nơi chúng ta nhất là chúng ta đừng bỏ rơi họ. Khi chúng ta ở bên họ thì cũng giống như ngày xưa Ðức Maria ở bên Thập giá Ðức Giêsu.
Còn đối với những đau khổ của bản thân chúng ta, đó cũng là điều không thể tránh của thân phận làm người. Tuy nhiên thật là an ủi cho chúng ta vì chính Ðức Giêsu cũng đi con đường đau khổ như chúng ta, và Ngài đi tới cùng. Và cũng thật vui mừng khi chúng ta biết rằng sau khi đi đến tận cùng đau khổ thì Ðức Giêsu đã tới vinh quang. Như thế, đối với kitô hữu, đau khổ là cơ hội cho chúng ta chia xẻ cuộc chịu nạn của Ðức Giêsu, trong hy vọng cũng sẽ được chia xẻ vinh quang phục sinh của Ngài (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Niềm vui được chữa lành
Ðầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: Bệnh bò điên (Mad-Cow disease). Người những mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu người ta phát hiện có mười người mắc bệnh này ở Anh Quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố: "Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt - Jacob nơi con người"
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỷ đôla.
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng, Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Ðức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon - Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Ðức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x. Ds. 5, 3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Ðức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Ðức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định: "Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng".
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật, linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền. V. Ghika có viết: "Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người".
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Cực nhọc
Ba bài đọc hôm nay đều nói về làm việc. Nhưng bài đọc Cựu Ước (trích sách Gióp) thì than rằng làm việc là một gánh nặng quá cực nhọc. Còn 2 bài đọc Tân Ước thì nêu gương Ðức Giêsu và thánh Phaolô làm việc cách hăng say và vui vẻ. Cũng là làm việc, nhưng người thì thấy nặng nhọc, kẻ thì thấy vui vẻ. Tại sao?
- Thánh Phaolô cho biết lý do thứ nhất: làm việc vì bó buộc hay làm vì tự nguyện: "Tôi mà tự ý làm việc thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công"
- Thánh Augustinô đưa ra lý do thứ hai: Ubi amatur, non laboratur (Khi nào người ta yêu thì người ta không cảm thấy nhọc mệt)
6. Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại.
"Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh". Câu kinh đọc trước rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Ðức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin mừng. Ðàng khác, nếu không chữa bệnh làm sao Ðức Giêsu chứng tỏ mình là Ðấng Mêssia được? Ðó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Ðức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ. Người không bảo: "Ðức tin đã chữa lành con" nhưng: "Ðức tin đã cứu con". Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Ðức Kitô, dù khi khỏe mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định, mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài tin mừng về phép lạ Ðức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú) nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa". (H. Denis, trong "100 mots pour dire", Desclée de Brouwer, trang 183. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B).
7. "Ngài đi ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện"
Người kia có thói quen một mình đi vào một khu rừng hẻo lánh. Một hôm, người bạn của người đó tò mò đi theo. Khi thấy người này ngồi im trong rừng thì ngạc nhiên hỏi:
Anh làm gì ở đây thế?
Tôi cầu nguyện.
Nhưng cần gì phải đến một nơi xa xôi hẻo lánh như thế này để cầu nguyện chứ?
Vì ở đây tôi thấy mình gần Chúa hơn.
Nhưng Chúa ở khắp mọi nơi kia mà. Ở đâu mà Chúa chẳng gần ta.
Chúa thì như thế thật, nhưng tôi thì không như thế.
Ðành rằng Chúa ở khắp mọi nơi nên ở đâu ta cũng có thể gặp Chúa, tuy nhiên nếu thỉnh thoảng ta lui vào một nơi yên tĩnh nào đó thì ta sẽ cảm thấy Chúa gần gũi hơn và thân thiết hơn. Ở những nơi yên tĩnh như thế, một mặt tất cả mọi sự đều nhắc chúng ta nhớ đến sự hiện diện của Chúa, từ một làm gió, một cánh hoa, một dòng nước, một tiếng chim hót cho đến cả sự im lặng; và mặt khác con người chúng ta thư thái hơn, bình lặng hơn nên dễ cởi mở tấm lòng ra với Ngài hơn. (Viết theo Flor Mc Carthy)
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
CT: Anh chị em thân mến
Lao động là nhọc nhằn, nhưng lao động cũng là nguồn vui, là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo dịp cho chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Ngày xưa Ðức Giêsu đã bảo các môn đệ rằng "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành thị lân cận để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Ngày nay Hội Thánh tiếp tục làm theo lời dạy ấy của Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh được nhiều thuận lợi và nhiều kết quả.
2. Ðất nước chúng ta còn nghèo. Rất nhiều người chưa có công ăn việc làm xứng đáng và đủ nuôi sống gia đình mình. Chúng ta hãy cầu xin cho các vị lãnh đạo đất nước có những đường lối chính sách đem lại công ăn việc làm cho mọi công dân, để cuộc sống mọi người đều ấm no hạnh phúc.
3. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến những người thất nghiệp và những người vì hoàn cảnh bó buộc phải làm những công việc không xứng với nhân phẩm và đạo đức. Xin Chúa giúp cho những anh chị em ấy sớm thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện tại.
4. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho mọi người trong cộng đồng giáo xứ chúng ta biết siêng năng làm việc, để vừa nuôi sống bản thân mình, vừa góp phần xây dựng xã hội và Giáo Hội.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng đến tối; Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà còn để cứu giúp mọi người. Chúng con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng con. Xin Chúa thánh hóa những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt lành. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Ðức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.
Chủ đề: "Giữa những bận rộn của cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế"
Vài năm trước đây tạp chí Thế Giới Ngoài Trời (Outdoor World) có đăng một bài rất hay của Barry: TN5-B54
Vài năm trước đây tạp chí Thế Giới Ngoài Trời (Outdoor World) có đăng một bài rất hay của Barry Lopez.
Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương. Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói: "Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy Đức Giêsu cũng thường một mình đi đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện như vậy. Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm điều ấy, là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Phúc Âm thánh Maccô thuật lại Đức Giêsu đã chữa bệnh cho dân chúng suốt ngày hôm trước khiến Ngài như kiệt lực về mặt tâm linh. Về sau trong Phúc Âm của mình, thánh Maccô giúp cho chúng ta có một cái nhìn về giá trị tâm linh mà Đức Giêsu phải trả để có thể chữa bệnh cho dân chúng. Một phụ nữ bệnh đã 12 năm xô lấn đám đông để chạm cho được Chúa Giêsu. Ngay khi đụng được vào Ngài, bà ta lập tức được chữa lành, tức thì, theo lời kể của thánh Maccô Chúa Giêsu biết được năng lực ấy đã xuất ra khỏi mình (Mc 5: 30)
Việc chữa lành bệnh đã làm cạn đi năng lực của Chúa Giêsu. Tương tự như thế, khi làm việc cho tha nhân, chúng ta cũng bị hao tổn sinh lực, thế nên chúng ta cần phải làm như Chúa Giêsu, tức là cần phải biết hồi phục sức lực cho mình về mặt tâm linh. Có thể chúng ta không thể làm được vịêc này bằng cách đi một mình vào rừng. Có thể chúng ta cũng thể kiếm được chỗ yên tĩnh để ở một mình ngay trong nhà chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn có thể làm một điều gì đó; ít là thỉnh thoảng chúng ta dừng lại nghỉ ngơi khỏi dòng công việc để hồi tâm và lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn chúng ta. Tôi xin chứng minh điều này quan trọng như thế nào.
Một con tàu của hải quân Anh bị tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu "Lặng Yên". Tín hiệu này có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm những gì thật khôn ngoan".
Trước khi tín hiệu vang lên, ít có thuỷ thủ nào biết được điều nào là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay lúc đó. Thế rồi chúng ta la toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?". Thực sự, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ ngơi thường tạo nên điều kiện để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta có biết noi theo những gương Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta khi Ngài còn ở dương trần không? Chúng ta có biết thỉnh thoảng nghỉ ngơi để hồi tâm xét mình lại không? Thỉnh thoảng chúng ta có biết dừng lại để lắng nghe tiếng Chúa trong lòng chúng ta không?
Một hôm, nhạc sĩ André Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần như kiệt sức. Matisse nhận ra tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa nói; "Này ông bạn, ông phải tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của ông." Nói xong, ông ta nắm tay dẫn Kostelanetz ra khu vườn nhà ông. Khi cả hai đến gần một đám cây Áctisô, Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi buổi sáng sau khi làm việc một lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng đó ngắm nhìn đám Acstisô. Đoạn Matisse nói thêm: "Dầu tôi đã vẽ được trên 200 bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu tổng hợp những màu sắc mới cũng như tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được phép quấy rầy tôi khi tôi lặng yên đứng ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn hứng mới, một sự xả hơi cần thiết cũng như một triển vọng mới cho công việc của tôi".
Mỗi người chúng ta nên ghi vào lòng lời Matisse khuyên nhủ André Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám Actisô cho đời chúng ta, hoặc nói cách khác chúng ta phải làm giống như Barry Lopez đã làm. Chúng ta cũng phải thỉnh thoảng một mình đi dạo vào rừng buổi sáng. Chúng ta nên làm điều các thủy thủ Anh Quốc đã làm trong những tình trạng khẩn cấp, nghĩa là phải nghỉ ngơi và yên lặng. Chúng ta nên làm điều Đức Giêsu đã thường làm. Thỉnh thoảng chúng ta phải dậy sớm dùng lời cầu nguyện để tăng cường sức mạnh cho mình.
Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay. Sứ điệp này thực là quan trọng. Chúng ta có thể tóm tắt như sau; Dù bận rộn rất nhiều trong cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời giờ nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế.
Xin cho trái tim con trĩu nặng được thư thái, Tâm trí xôn xao được lặng yên. thần kinh rã rời được dịu lại gân cốt mệt nhoài được giãn ra.
Xin dạy cho con nghệ thuật Dùng những lúc nghỉ ngơi đôi ba phút, trở lại tiếp xúc với lòng mình, lắng nghe tiếng Chúa và từ đó rút ra nguồn sáng mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới.
Tại thánh điện mênh mông nơi đền thờ của Hiệp Hội Phật Tử vì Thế Giới Hiệp Nhất ở Tokyô, mười ngàn: TN5-B55
Tại thánh điện mênh mông nơi đền thờ của Hiệp Hội Phật Tử vì Thế Giới Hiệp Nhất ở Tokyô, mười ngàn người Nhật lắng nghe một giáo dân Công giáo kể lại kinh nghiệm của mình trong gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong khi đó hơn một chục máy thu và phát hình của cuộc nói chuyện đó cho nhiều người không tìm được chỗ bên trong thánh điện nên ngồi la liệt nơi hành lang và ở ngoài sân.
Ðó là ngày 28 tháng 12, 1981. Lần đầu tiên một giáo dân từ một nước Tây phương được mời nói chuyện đạo cho đám đông Phật tử khổng lồ đến như vậy:
Ngày 31 tháng 3, 1990, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói về chị giáo dân ấy rằng: "Chỉ cần nhắc đến danh xưng CHIARA mọi người đều hiểu." Ðức Thánh Cha nói lời đó trước 20 ngàn người trẻ từ khắp nơi trên thế giới tụ họp tại cung điện thể dục thể thao Aâu Châu ở Roma. Hôm đó diễn từ của Ðức Thánh Cha và của chị Chiara Lưu Bích được truyền đi qua vệ tinh Oâlympic trở thành biến cố toàn cầu. Khi ấy tại Los Angeles 5 giờ sáng thì ở Hồng Kông 23 giờ đêm và ở Melbourne 3 giờ trước tảng sáng. Có hàng triệu người nghe tiếng nói của Ðức Gioan Phaolô và của chị Lưu Bích.
Trong thời gian diễn ra cuộc chiến vùng Vịnh, cũng chính chị giáo dân này huy động một triệu rưỡi người cứ giữa trưa ngưng mọi sinh hoạt để cầu nguyện cho hoà bình.
Nữ phóng viên nổi tiếng của Italia Franca Zambonini nêu những sự kiện nói trên trong lời dẫn nhập cho cuộc phỏng vấn được in thành sách dưới nhan đề tạm dịch là CHIARA LƯU BÍCH TRONG CUỘC MẠO HIỂM ÐỂ HIỆP NHẤT THẾ GIỚI (L'avventura dell'unità). Ba thời điểm được nhà phóng viên này ghi nhận là quan trọng cho cuộc mạo hiểm đó là: ngày Chiara trong bí mật dâng cuộc sống mình cho Thiên Chúa (7 tháng 12, 1943); ngày 13 tháng 5, 1944, Tân Ðô, tức Trentô, bắc Italia bị dội bom dữ dội khiến gia đình Chiara phải chạy tị nạn, nhưng Chiara xin ở lại với mấy chị em đầu tiên của cuộc mạo hiểm; và ngày 17 tháng 9, 1948 là ngày Chiara gặp dân biểu Igino Giordani, sau này được kể là người đồng sáng lập Phong trào Tổ Aám Focolare hiện lôi cuốn hàng triệu người tham gia cuộc mạo hiểm.
Khởi hứng từ cầu nguyện tại căn nhà Ðức Mẹ
Riêng với Chiara, khởi hứng đầu tiên cho cuộc mạo hiểm xảy ra cách riêng tư tại Loretô, miền Nam Italia, năm 1939. Chiara tới đó dự đại hội nữ sinh viên Công giáo nhưng ngày nào cô cũng một mình đi viếng căn nhà Ðức Mẹ được trưng bày trong lòng nhà thờ Loretô. Lần đầu tiên bước vào căn nhà nhỏ này, cô sinh viên 19 tuổi ấy vô cùng xúc động vì được ơn trầm mình trong mầu nhiệm mà căn nhà nhỏ này gợi lên. Chiara bắt đầu suy niệm về tất cả những điều đã từng xảy ra nơi mái ấm gia đình này, như: biến cố truyền tin cho Ðức Maria, đời sống gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Không chỉ suy niệm trong lòng, Chiara còn lấy làm sung sướng lấy tay đụng chạm từng phiến đá, từng tấm ván, lấy mắt nhìn xem và tưởng tới công cuộc xây dựng của thánh Giuse. Chiara còn như được nghe văng vẳng tiếng cậu bé Giêsu ngày ngày chạy qua lại nơi căn nhà nầy. Khi nhìn bốn bức tường, tai Chiara như còn được nghe vang dội lời nói hoặc câu hát của Ðức Maria.
Trong suốt cuộc đại hội, tất cả các sinh viên tới dự đều ở lại nhà trọ, một mình Chiara không thiếu mặt trong sinh hoạt đại hội, nhưng ngày nào cũng tìm được thời giờ đến viếng căn nhà Nadarét. Và ngày nào Chiara cũng cảm nhận được một ấn tượng sâu đậm. Trọn con người của người sinh viên này như được bao bọc bởi một hồng ân đặc thù của Thiên Chúa với một sức mạnh áp đảo.
Tất cả những điều vừa nói đều diễn ra trong chiêm niệm và cầu nguyện cho phép Chiara như được sống với Ðức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse tại căn nhà Nadarét. Thế rồi cuộc đại hội kết thúc với thánh lễ mà Chiara đã tham dự rất sốt sắng tại nhà thờ Loretô. Chiara được ban cho ơn để hiểu mình đã tìm ra con đường độc đáo và trên con đường ấy nhiều người sẽ cùng đồng hành với mình.
Hơn nữa thế kỷ đã qua kể từ ngày người nữ sinh viên ấy ngày ngày một mình tới cầu nguyện tại căn nhà của Ðức Mẹ tại Loretô. Trong bốn năm tiếp theo, cuộc đời của cô trở lại bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thế rồi bỗng một cuộc dội bom dữ dội tại Tân Ðô ngày 13 tháng 5, 1944, khiến nhà gia đình của Chiara bị sập. Ðó là lúc cô gái 23 tuổi này xin phép bố mẹ ở lại thành phố bị đổ nát, để bắt đầu cuộc mạo hiểm hoàn toàn do Thiên Chúa xui khiến.
Hoàn toàn do Chúa xui khiến
Nhân sự ban đầu cho cuộc mạo hiểm chỉ gồm CHIARA, giáo viên trung học; NGA (Natalia Dallapiccola), cô gái 16 tuổi có bố mất sớm nên phải đi làm để giúp gia đình trong khi vẫn tiếp tục học; ÐỖ THỊ RI (Doriana Zamboni), cô học trò trượt phải ở lại lớp, được Chiara kèm để học cho xong.
Thành phố Tân Ðô còn tiếp tục bị dội bom. Biết bao người lâm cảnh màn trời chiếu đất, bụng đói cật rét, già nua và bệnh tật, mà chị em có thể phục vụ theo giới răn yêu thương. Nhưng Chúa an bài, cộng đoàn chị em gia tăng mau lẹ ngay dưới lằn bom đạn. Và, như được ghi lại trong cuộc phỏng vấn: sau bốn mươi bảy năm hiện hữu và phổ biến tại 156 quốc gia, ngày nay có hàng triệu người được sinh động do linh đạo hiệp nhất, trong số đó hơn 80 ngàn thành viên Focolare thuộc hai nhành nam và nữ đã tuyên khấn hoặc tuyên hứa hiến thân phục vụ công trình của Ðức Maria, như Chiara đã được khởi hứng tại căn nhà của thánh gia thất ở Loretô.
Ðiều đáng lưu ý là ban đầu Chiara và các bạn chỉ muốn sống đơn giản như mọi Kitô hữu phải sống mà thôi, chứ không muốn mang danh hiệu nào đặc biệt. Chỉ vì vâng lời Ðức Giám Mục giáo phận Tân Ðô nên danh xưng Focolare mới đươc chấp nhận với ý nghĩa để nhấn mạnh về ngọn lửa tình yêu của Chúa Giêsu cần được thắp sáng lên và được lan tỏa ra cho cả gia đình nhân loại. Ngọn lửa ấy đã được định nghĩa rất rõ do chính Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly khi Người tuyên bố: "Thầy ban cho anh em một giới răn mới: đó là anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34) và "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu" (Ga 15,13). Nhưng điều mà Focolare nhấn mạnh nơi lửa tình yêu của Chúa Giêsu, đó là tính hiệp nhất nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu: "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa họ." (Mt 18,20) và "Con không chỉ cầu nguyện cho những người này (là nhóm 12) nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta" (Ga 17,20-21).
Gương Chúa Giêsu về hiệp nhất thế giới
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả sinh hoạt của Ðức Giêsu trong một ngày tại Caphanaum. Những người giáo dân nhiệt thành như chị Chiara Lưu Bích được sung sướng biết bao khi nhận ra chính Ðức Giêsu đang tiếp tục công trình của Người. Người vẫn tiếp tục làm cho thế giới nên một trong tình yêu của Người như xưa tại Caphanaum.
Tại Caphanaum, Ðức Giêsu tỏ ra là một ngọn lửa tình yêu năng nổ. Chúa đã từng rao giảng tại Galilê (c.14), nơi bờ biển (cc.16.19), nơi hội đường (c.21), nơi cửa thành, tức quảng trường (c.33), đi rao giảng nơi khác, đến các làng xã lân cận (c.38), Người đi rao giảng khắp xứ Galilê (c.39).
Cũng tại Caphanaum, Ðức Giêsu tỏ ra là một con người gương mẫu về cầu nguyện. Người khiêm tốn chọn cho mình nơi thích hợp để cầu nguyện: "sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó" (c.35). Chính trong cầu nguyện Ðức Giêsu làm cho thế giới được hiệp nhất, qui về một mối. Mọi sự đều từ Chúa Cha mà có và được Ðức Giêsu đưa trở về cùng Cha. Thành phố là nơi hoạt động, còn sa mạc là nơi môi trường của đời sống cầu nguyện đơn độc. Nhưng sa mạc là nơi chuyển "đi nơi khác". Ðối với sứ vụ không có vấn đề độc hữu. Nhưng chính sa mạc, chính sự thanh vắng làm phát động lại sứ vụ tông đồ.
Tại Caphanaum, Ðức Giêsu tỏ ra là một người năng nổ nhưng không chủ trương duy hoạt động. Người là một con người chìm sâu trong cầu nguyện để đưa mọi người và mọi sự trở về nguồn gốc là Thiên Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn tâm đắc gì về cuộc mạo hiểm để hiệp nhất thế giới do chị giáo dân Lưu Bích: người giáo dân này đã được ơn chìm sâu trong cầu nguyện tại căn nhà Ðức Mẹ? Chị Lưu Bích kể lại kinh nghiệm về gặp gỡ Chúa cho 10 ngàn Phật Tử Nhật Bản nghe? Chị đã huy động một triệu rưỡi người cứ giữa trưa ngưng mọi hoạt động để cầu nguyện cho hoà bình khi chiến tranh Vùng Vịnh kéo dài?
Bài Tin Mừng hôm nay cho bạn thấy Ðức Giêsu là con người năng nổ như thế nào trong việc rao giảng Tin Mừng? Bạn cũng được thấy Chúa tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện như thế nào?
Một chàng thanh niên trẻ tuổi trông có vẻ chán đời đang ngồi trong một quán rượu. Đôi mắt anh chăm: TN5-B56
Một chàng thanh niên trẻ tuổi trông có vẻ chán đời đang ngồi trong một quán rượu. Đôi mắt anh chăm chăm nhìn vào ly rượu để trước mặt. Anh cứ ngồi yên cả nửa tiếng đồng hồ nhìn ly ruợu. Thấy như thế, một anh lái xe vận tải tướng có vẻ nghêng ngang khiêu khích bước đến bên cạnh cầm lấy ly rượu của anh thanh niên chán đời và uống cạn hết. Sau đó anh ta đẩy cái ly lại để trước mặt chàng thanh niên đó.
Anh thanh niên chán đời òa lên khóc. Người tài xế xe vận tải tỏ vẻ hối hận nên phân minh dỗ dành, "Này anh bạn, tôi chỉ đùa thôi mà! Tôi sẽ mua trả lại cho anh ly rượu khác. Tôi không thể chịu được khi nhìn thấy một chàng trai như anh mà lại khóc như thế."
Người thanh niên chán đời trả lời, "Không phải vậy. Ngày hôm nay là ngày sui sẻo nhất trong đời tôi! Sáng nay tôi ngủ quên nên bị trễ một cuộc họp quan trọng trong hãng. Ông chủ tôi đã tức giận nên đuổi tôi khỏi hãng. Khi tôi rời sở ra chỗ đậu xe để đi về thì xe của tôi đã không cánh mà bay. Cảnh sát bảo là họ không thể tìm lại xe cho tôi. Tôi phải thuê xe Taxi đi về nhà. Sau khi trả tiền thì xe Taxi chạy đi. Lúc ấy tôi mới nhận ra rằng bóp của tôi đã bị rơi lại trên xe taxi. Về đến nhà mở cửa bước vào thì tôi bắt gặp vợ tôi đang nằm ngủ với một người đàn ông khác. Đó lại là người làm vườn của nhà tôi. Tôi buồn chán quá, đi ra quán rượu. Trong khi tôi đang ngồi đây suy nghĩ định kết liễu cuộc đời thì ông lại uống mất ly ruợu có pha thuốc độc của tôi..."
Cái Khổ của Kiếp Người
Cao Bá Quát, một thi sỹ của Việt Nam đã nhận định, "Vừa sinh ra đà chí chóe, đời có vui sao chẳng cười khì!" "Nếu đời vui và sung sướng thì tại sao khi đứa bé vừa chào đời nó đã khóc oe oe." Phần Lời Chúa hôm nay cũng nêu lên khía cạnh đau khổ của con người. Thứ nhất là thực tế ảm đạm và đau buồn của kiếp sống con người như trường hợp của ông Giob trong bài đọc thứ nhất. Ông đã than thở, "Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụi đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc." Ông Giob là thí dụ điển hình cho hoàn cảnh sống của nhân loại. Đời sống con người rất mỏng dòn và đầy dãy đau thương than khóc. Tuy nhiên những đau khổ của con người không phải là không có lối thoát.
Đức Kitô là Hy Vọng
Trong bài Phúc âm, thánh Macô cho chúng ta thấy cảnh đau thương, bệnh tật, yếu đau, nghèo đói của dân chúng. Nhưng Macô cũng khơi lên cho chúng ta niềm hy vọng nơi Đức Giêsu. Ngài xuất hiện từ Hội đường đi đến nhà Simon và đã chữa lành bệnh cho bà mẹ vợ của ông. Tin mừng về Ngài đã mau lẹ truyền đi. Người ta đã dẫn đến cho Ngài tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám. Người chữa nhiều người đau ốm với những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ. Người ta đã ngưỡng mộ Ngài đến nỗi sáng hôm sau Phêrô phải nói lên, "Mọi người đều đi tìm Thầy." Việc làm của Đức Giêsu nói lên cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa muốn xoa dịu mọi nỗi đau khổ cho con người. Đau khổ phần xác cũng như đau khổ phần tinh thần. Chúng ta đọc thấy rất nhiều dấu chứng về lòng thương của Đức Giêsu đối với dân chúng kể lại trong Phúc âm. Ngài đã cảm thấy cái đói và mệt của năm ngàn người đi theo nghe Ngài giảng dạy. Ngài thương họ vì họ giống như chiên không có người chăn giắt, như dân không người lãnh đạo. Họ đói cả tinh thần lẫn thể xác, và Ngài đã cho họ ăn. Ngài nhìn thấy cảnh tang chế của bà góa thành Nain đang khóc thương đứa con duy nhất bị chết. Ngài đã không cầm lòng được nên làm phép lạ cho con bà sống lại. Tóm lại, Ngài chữa lành mọi thứ người đau yết tật nguyền, từ người mù đến người què, người hủi, người bị bệnh loạn huyết, bị quỷ nhập, bị chết, người tội lỗi cũng như người bị ức hiếp hay bị cáo gian. Sau cùng Ngài chịu chết để chúng ta được sống.Trong Đức Giêsu chúng ta nhìn thấy tình thương yêu của Thiên Chúa. Ngài là niềm hy vọng của nhân loại.
Mô Thức Kitô
Đức Kitô đã nhìn thấy những nhu cầu của dân chúng. Nhu cầu thể xác cũng như nhu cầu tinh thần. Ngài đã cảm thương khi nhìn thấy những nhu cầu đó. Và Ngài đã cảm thấy sự thúc bách phải thi ơn giúp đỡ và phải rao giảng. Đó chính là Mô Thức Kitô. Ngài đã áp dụng nguyên tắc: Lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Mô thức Kitô có nghĩa là rao giảng và chữa lành luôn phải đi đôi với nhau, từ chữa lành phần xác đến chữa lành phần linh hồn. Rao giảng mà không có những dấu chứng của những việc thiện giúp đỡ và chữa lành cho người khác thì không phải là mô thức của Đức Giêsu. Chữa lành xoa dịu phần xác mà không dẫn đến chữa lành xoa dịu phần linh hồn thì cũng chưa phải là mô thức của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã rao giảng, nhưng để lời rao giảng của Ngài có hiệu lực khiến người nghe dễ tin nhận, Ngài đã làm nhiều phép lạ. Ngài đã làm việc giúp đỡ và thi ơn cho người khác không biết mỏi mệt. Chính vì thế mà những người gặp Ngài và nghe lời Ngài không thể không chú ý và hướng lòng tin theo. Cũng vậy, để cho những lời nói và truyền rao đạo Chúa của chúng ta có hiệu lực, chúng ta cũng phải bắt chước Đức Giêsu, nỗ lực thực hiện những phép lạ trong việc giúp đỡ và làm ích cho người khác để họ có thể hướng lòng tin nhận những lời chúng ta rao truyền.
Chúng ta có thể bắt chước bằng cách nào?
Thứ nhất chúng ta cần mở mắt ra để quan sát và nhìn thấy những đau khổ của người khác.
Thứ hai chúng ta phải mở lòng ra để biết cảm thương những đau khổ của người khác.
Thứ ba chúng ta phải bắt tay vào việc làm phép lạ để chữa lành và xoa dịu những vết thương của người khác.
Nếu chúng ta chú tâm để thực hành trong cuộc sống những điều trong Kinh Mười Bốn Mối là chúng ta cũng đang rao giảng Tin mừng và làm những phép lạ giống như Đức Giêsu đã làm:
Thương xác bẩy mối: Cho kẻ đói ăn; cho kẻ khát uống; cho kẻ rách rưới ăn mặc; viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; cho khách đỗ nhà; chuộc kẻ làm tôi; chôn xác kẻ chết.
Và thương linh hồn bẩy mối: Lấy lời lành mà khuyên người; mở dạy kẻ mê muội; yên ủi kẻ âu lo; răn bảo kẻ có tội; tha kẻ dể ta; nhịn kẻ mất lòng ta; cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Là Kitô hữu đúng nghĩa thì chúng ta sẽ cảm thấy sự thôi thúc phải thực hiện những điều này trong cuộc sống. Chính Thánh Phaolô cũng đã cảm nghiệm được điều này và ngài đã thốt lên, "Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Phúc Âm thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm... Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi" (1 Cor 9: 22 -23).
(Sách Yob 7,1-4.6-7; Thư 1 Corintô 9,16-19.22-23; Tin Mừng Marcô 1,29-39) Phúc Âm: Mc 1, 29-39
"Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Suy Niệm:
Chúa Nhật V Thường Niên Năm B
Chúng ta đọc: Sách Yob 7,1-4.6-7; Thư 1 Corintô 9,16-19.22-23; Tin Mừng Marcô 1,29-39
Chúa nhật trước Phụng vụ cho chúng ta thấy Ðức Yêsu là vị tiên tri có uy quyền; và Lời của Người TN5-B57
Chúa nhật trước Phụng vụ cho chúng ta thấy Ðức Yêsu là vị tiên tri có uy quyền; và Lời của Người ở trong Giáo hội hiện nay có sức mạnh giải thoát người ta khỏi tà thần khi người ta kết hợp với Người trong mầu nhiệm tử nạn. Hôm nay, Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một Ðức Yêsu đến cứu chữa nhân loại khỏi đau khổ lầm than. Và cho được như vậy phụng vụ đã bắt đầu cho chúng ta nghe một đoạn sách Yob để dẫn vào bài Tin Mừng. Còn bài Thánh thư có ý đề nghị với chúng ta thái độ phải có để hành vi cứu khổ của Chúa Yêsu được tiếp nối trong đời sống con người hiện nay. 1. Ðời Là Bể Khổ
Chúng ta hết thảy đã biết truyện ông Yob. Ông là người công chính, nhưng gặp toàn hoạn nạn đau thương. Không những nhà cửa bỗng dưng trở thành tro bụi và con cái lăn đùng ra chết mà chính thân thể ông cũng đâm ra ghẻ lở hôi thối. Người ta khiêng ông đặt trên đống tro. Người người đàm tiếu ông bị trời phạt. Ngay bà vợ ông cũng đay nghiến ông suốt ngày. Ông trở thành kiểu mẫu những con người khổ sở. Và đoạn văn hôm nay cho chúng ta nghe một trong nhiều lời ông than thở.
Ôi thôi, đời người như cảnh nô lệ, như kiếp sống làm thuê. Người nô lệ mong được nghỉ, người làm thuê chờ đồng lương. Thế mà thân tôi chẳng bao giờ được trả công; và ngủ nghỉ cũng chẳng được. Bởi vì vừa nằm xuống, đau khổ đã đầy ứ tâm hồn và tôi chỉ chờ sáng... Nhưng sáng trời thì lại thấy đời mau qua như con thoi trên khung dệt, tàn lụi không hy vọng.
Ðiều đáng để ý trong lời than này là Yob rất thực tế và chân thực. Ông khác hẳn tác giả bài tường thuật về việc Adong sa ngã. Ở bài sách Khởi nguyên đó, lao động bị coi như là hình phạt của tội lỗi. Còn ở đây, Yob biết những vất vả của lao động và ngay cả cảnh làm thuê và nô dịch nữa. Nhưng ông vẫn còn ao ước được hạnh phúc như thế. Cái khổ của ông là không được điều kiện như những người lao động bình thường.
Ông cũng chân thực lắm khi khổ mà vẫn phàn nàn vì đời sống như thoi đưa, không có hy vọng nào. Nhất là ông chân thật ở chỗ gạt bỏ hết mọi luận lý của người đời về đau khổ... Ông ngước mắt lên Chúa mà cầu nguyện: Xin Chúa hãy nhớ...
Và đây là điểm chúng ta phải để ý. Khi nghe tin Yob gặp tai ương hoạn nạn, bạn bè ông đã đến. Chẳng giúp đỡ ông cụ thể thì chớ, họ còn lấy giọng đạo đức khuyên ông nên nhận ra lỗi mình: không có tội thì làm sao lại bị trời phạt như thế? Yob không chấp nhận được thứ triết học đó và mọi thứ triết lý khác về đau khổ. Lương tâm của ông thấy rõ trường hợp của ông không đúng với phán quyết của mọi luận điệu suy tư kia. Yob phủ nhận mọi lý thuyết khôn ngoan của người đời. Và trung thành với đức tin của mình, ông quay mặt về Chúa: "Xin Ngài hãy nhớ...".
Những ai đã đọc Thánh Kinh sẽ nhận ra đây là Lời cầu nguyện căn bản của Dân Chúa trong những thời kỳ lầm than. Gặp cảnh tuyệt vọng, họ chỉ còn niềm tin duy nhất: xin Chúa hãy nhớ Ngài là Ðấng nhân ái và trung tín. Ngài đã ban lời giao ước và nhất quyết thi hành cả khi loài người bất nghĩa. Ngài sẽ ra tay cứu độ chúng tôi khỏi cảnh lầm than khổ sở.
Như vậy bài sách Yob hôm nay không dừng lại ở cái nhìn bi quan yếm thế và mô tả đời là bể khổ. Nó chỉ tựa vào đó để đưa lòng chúng ta vươn lên tới Chúa. Yob khuyên nhủ mọi kẻ đang đau khổ lầm than cầu xin ơn cứu độ. Yob là hình ảnh và hiện thân của Cựu Ước hướng về Ðấng Thiên Sai cứu đời; và như vậy ông cũng là gương mẫu của chúng ta đang hành trình trần gian phải nhìn về Trời mới và Ðất mới. 2. Ðấng Cứu Ðời Ðã Ðến
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Ðức Yêsu sau khi đã trừ một thần ô uế, đã ra khỏi hội đường Capharnaum. Người là vị tiên tri có uy quyền trong lời nói. Người đã khởi sự chữa lành người ta trong hội đường Dothái, thì bây giờ Người bắt đầu ra đi cứu đời rộng rãi hơn nữa. Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Marcô nhấn mạnh đến địa danh Galilêa dân ngoại để nói ảnh hưởng của Chúa phải lan đến khắp các dân tộc.
Vậy Người đến nhà của Simon và Anrê. Gặp bà gia của Simon nằm liệt vì sốt, Người đã chữa bà. Câu truyện này Marcô kể rất vắn tắt; nhưng bối cảnh của nó cũng như những từ ngữ mà Marcô dùng lại rất ý nghĩa. Người Dothái quan niệm bệnh tật là việc của ma quỷ làm. Nên việc Ðức Kitô chữa bệnh cũng có giá trị và ý nghĩa như việc Người trừ quỷ. Marcô lại nói Người đã cầm lấy tay bà và cho bà chỗi dậy. Ông muốn gợi lên hình ảnh của mầu nhiệm phục sinh, làm cho người ta chỗi dậy khỏi chỗ sa ngã mà ma quỷ đã đưa người ta vào. Và chỗi dậy rồi, tức là được ơn phục sinh xong, người ta phải bắt chước bà gia của Simon mà "bắt đầu phục vụ Người" như chính Người đã đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, đến nỗi hiến cả mạng sống mình cho người ta.
Chúng ta phải thán phục Marcô. Với một hai câu văn, người đã nói lên được nhiều ý tưởng thâm trầm. Và việc mà Ðức Kitô làm cho một người, Marcô còn thấy Người đã làm cho mọi người. Vì kìa, khi mặt trời lặn, người ta đem lại cho Người mọi kẻ ốm đau và mọi kẻ bị quỷ ám. Ðó là tất cả mặt đất đầy đau thương dưới sự khống chế của tà thần. Ðó là thế giới đang sống trong tối tăm. Cả thành đứng đó nhưng chẳng ai làm gì được... Loài người tất cả chờ mong Ðức Yêsu. Người chữa nhiều bệnh nhân đủ loại và đuổi nhiều thứ quỷ.
Nhưng tại sao Người đã không chữa hết mọi con bệnh và trừ hết mọi tà thần? Marcô có ý để cho chúng ta suy nghĩ. Chúa không cứu được chúng ta nếu chúng ta không muốn. Người đòi chúng ta phải có niềm tin... Hơn nữa, như bản Tin Mừng Chúa nhật trước nói: Lời Chúa rất uy quyền. Nhưng kẻ được nghe Lời ấy và kêu cả Danh Chúa nữa mà không muốn theo Người đi vào mầu nhiệm thánh giá, thì vẫn không lãnh nhận được ơn cứu độ của Người. Thế nên, luôn luôn thánh Marcô nhắc đi nhắc lại điều này: không ai được nói đến Danh Chúa Yêsu và ca tụng công việc của Người trước khi thấy Người trên thập giá. Những lời khen ngợi ấy chỉ vụ lợi và khiến người ta hiểu lầm rằng Ðức Yêsu đem lợi lộc trần gian đến cho con người. Phải nhìn vào thánh giá mới hiểu được Người. Và tuyên xưng Danh Người lúc đó mới có công, vì đó sẽ là Lời của lòng tin.
Do đó, trong bài Tin Mừng này, thánh Marcô cho chúng ta thấy Ðức Yêsu đã đến để cứu đời. Người xua đuổi tà thần và chữa lành mọi thương tích cho nhân loại ốm đau vì tội lỗi. Người dùng mầu nhiệm phục sinh của Người mà nâng đỡ nhân loại chỗi dậy, để mọi người sẽ được sức sống của Người là sự sống để phục vụ và phục vụ cho đến chết. Nhưng với điều kiện: người ta phải có lòng tin và cùng Người đi đến mầu nhiệm thánh giá.
Tiếc thay, nhiều người không hiểu như vậy. Họ chỉ muốn giữ lại hình ảnh một Ðấng Cứu thế làm nhiều phép lạ để chữa phần xác con người, tức là ban phát nhiều lợi lộc vật chất. Thế nên Ðức Yêsu còn phải cầu nguyện cho người ta... Người cầu nguyện khi họ đang còn ngủ, tức là đang còn sống trong tối tăm. Simon và các tông đồ cũng sớm biết đi tìm Người. Nhưng Người còn phải đưa họ ra khỏi cái tâm lý chung kia. Họ thưa Người: "Tất cả đang tìm Thầy", nghĩa là tất cả muốn Thầy trở về làm phép lạ, chữa lành thân xác người ta, vì người ta chỉ muốn Thầy cứu thế theo nghĩa trần gian. Ðó là cám dỗ Người phải đưa các môn đệ và Hội Thánh của Người ra khỏi. Nên Người bảo họ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận, để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi".
Nhưng tiếng cuối cùng là những lời khó hiểu nhất. Ý nghĩa của chúng chỉ hiện ra đầy đủ khi chúng được đặt bên cạnh một câu trong sách Tin Mừng Yoan (12,24): "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì thế mà con đã đạt thấu giờ này". Nghĩa là Ðức Yêsu đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, không phải để làm thỏa mãn những yêu cầu trần tục của người ta, nhưng để dâng mình làm giá cứu chuộc mọi người, không phải để đứng mãi ở một nơi, nhưng để ra đi không ngừng rao giảng Lời cứu thoát linh hồn người ta. Thế nên bài Tin Mừng hôm nay đã kết luận: "Và Người đã đi khắp xứ Galilêa, rao giảng trong các Hội đường và xua trừ ma quỷ". Người mở đường cho Giáo Hội đi khắp các dân tộc, rao giảng Tin Mừng cứu độ để tiêu diệt ảnh hưởng của tà thần. Người kêu gọi chúng ta đi vào đường lối cứu đời của Người. 3. Tiếp Nối Sứ Mệnh Cứu Ðời
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay chứng tỏ là người đã hiểu biết và thực hành đường lối của Chúa. Người không đi làm tông đồ vì ham hố, hay cầu mong lợi lộc. Người không coi chức năng rao giảng Tin Mừng là một tước hiệu đáng vênh vang theo kiểu loài người. Ngược lại đó là một gánh nặng, một sự bó buộc, một điều khẩn thiết, nói tắt một dịch vụ giáng xuống trên người. Chúa đã chọn người làm tông đồ. Và khi Chúa đã chọn ai, không những họ phải vâng lời, mà còn phải đi vào đường lối của Chúa là đường lối luôn luôn khó khăn, khổ sở.
Tất cả Kinh Thánh làm chứng, Chúa luôn luôn chỉ cho, chỉ biếu, chỉ làm giàu cho con người. Kẻ được Chúa chọn làm việc cho Người cũng phải như vậy, nên Phaolô chỉ đem Tin Mừng biếu không, không hưởng cả quyền lợi của Tin Mừng. Hơn nữa, bắt chước Ðức Yêsu, Người còn tự làm nô lệ mọi người, yếu cả với những người yếu, để với mọi người, người trở nên mọi sự cho họ, ngõ hầu cứu được ít người, vì sự rỗi dẫu sao vẫn còn tùy thuộc ở người ta.
Rõ ràng thánh Phaolô đã đi vào đường lối của Chúa Yêsu. Người làm tông đồ cho mọi người để tiếp nối sứ mệnh cứu đời của Chúa. Người trung thành theo đúng cung cách của Chúa để việc tông đồ của Người quả thật là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ.
Chúng ta có muốn bắt chước người không?
Có lẽ để khởi sự chúng ta phải đọc lại câu truyện ông Yob để nhìn thấy chung quanh chúng ta hiện nay có rất nhiều người giống như ông. Chúng ta đừng làm ngơ trước những đau khổ của người khác. Hãy để cho tiếng kêu khổ vang vào tâm hồn ngõ hầu trái tim chai đá của chúng ta mềm ra như những trái tim thịt. Chúng ta biết thương nhân loại lầm than, không phải chỉ để hợp lời cầu nguyện cho thế giới này đỡ khổ, nhưng còn để biết nghe tiếng Chúa gọi tiếp tay với Người để cứu đời.
Và chúng ta phải đọc lại bài Tin Mừng hôm nay để thấy Chúa cứu nhân độ thế thế nào. Lúc đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn lời của thánh Phaolô và chúng ta sẽ cố gắng bắt chước Người. Cứu đời đối với chúng ta không phải là chức năng để vênh vang, nhưng là một thúc bách, một bó buộc giáng xuống trên chúng ta. Nó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chịu thiệt, phải đi vào mầu nhiệm thánh giá của Ðức Kitô.
Mầu nhiệm này bây giờ được tái hiện trên bàn thờ để chúng ta thấy Chúa Yêsu hy sinh đến chết để cứu đời, hầu kêu gọi chúng ta kết hợp với Người, chia sẻ tinh thần của Người, tiếp nối sứ mệnh cứu đời của Người ở trong thời đại chúng ta. Chúng ta hãy sốt sắng dự lễ và trở về sống theo đường lối của Ðức Yêsu, Chúa chúng ta. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Sống trên trần gian này quả thực con người không lúc nào được yên thân.Người ta đấu tranh đe: TN5-B58
Sống trên trần gian này quả thực con người không lúc nào được yên thân.Người ta đấu tranh để sống: lương thực, vật chất, tiền của luôn là những vấn đề sống còn của con người. Tuy nhiên, vấn đề bệnh hoạn, tật nguyền vẫn là vấn đề đeo đuổi cả kiếp người. Hết bệnh này được chữa trị, thì bệnh khác quái ác hơn lại xuất hiện. Y khoa đã tìm ra được nhiều loại thuốc để chữa trị bệnh nhưng tìm được loại vi trùng này thì lại có loại vi trùng khác quái ác hơn xuất hiện. Y khoa luôn phải cố gắng và sáng chế, tìm kiếm không ngừng. Tin Mừng Chúa nhật V thường niên, năm B cho thấy hôm nay Chúa Giêsu chữa cảm sốt cho bà nhạc gia Ông Simon Phêrô…
Tin Mừng thuật rằng, hôm ấy vừa ra khỏi hội đường Capharnaum, Chúa Giêsu và các môn đệ đi đi đến nhà hai ông Simon và Anrê ( Mc 1, 29 ). Bà nhạc gia ông Simon Phêrô bị sốt, nằm trên giường. Bệnh sốt không phải là một căn bệnh nan y nhưng thực tế bị sốt nặng con người sẽ không dậy được, những cơn rét run lên nếu không được chữa trị kịp thời vẫn gây ra những hậu quả không tốt. Đức Giêsu lúc nào cũng đem an bình, và niềm vui đến cho con người, đặc biệt là những con người đau khổ, bệnh hoạn, tật nguyền. Ngài đem niềm vui lớn đến cho bà nhạc gia ông Simon và cả gia đình của ông Simon và Anrê. Bởi vì với một cử chỉ nhẹ nhàng, Ngài lại gần bà nhạc gia của ông Simon, cầm lấy tay bà và đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà đứng dậy, đi lại và phục vụ các ngài. Đức Giêsu không nói một lời nào, Ngài chỉ dùng một cử chỉ thân ái, cầm tay bà nhạc gia của ông Simon, tức thì cơn sốt biến mất. Quả thực một cách chữa trị quá đơn giản, một cử chỉ nhẹ nhàng, thân ái…Vâng, Chúa Giêsu đã từng cầm lấy tay đức con trai ông trưởng hội đường, cậu bé đã chết, liền trỗi dậy và được cứu sống. Chúa cầm tay một cậu bé bị động kinh nằm trên đất và cậu đứng dậy, được chữa lành. Chúa Giêsu cầm lấy tay Phêrô khi ông thiếu lòng tin, nghi ngờ Chúa, nên ông sắp sụp xuống dưới nước.
Tin Mừng lại thuật tiếp, nghe tin đó, rất nhiều người chiều tối cũng đem những người bị đủ mọi chứng bệnh đến để xin Chúa Giêsu chữa trị. Căn nhà của Simon có lẽ có chật hẹp, do đó, nhiều người phải nằm, phải đứng ở ngoài sân. Người ta không biết Chúa Giêsu đã chữa biết bao thứ bệnh nhưng có lẽ Ngài đã chữa rất nhiều người khỏi bệnh hoạn thể xác hoành hành. Ngài đã chạm đến những nỗi đau khổ nhất của con người, và Ngài đã xoa dịu nỗi khổ của con người cả thể xác lẫn tinh thần, Ngài xua trừ ma quỷ. Đúng biển khổ của con người luôn còn đó, nhưng Chúa Giêsu đã làm cho vơi đi những điều mệt mỏi, những sự đau khổ chồng chất của con người.
Thế giới chúng ta đang sống vẫn luôn phải đương đầu với nhiều thứ bệnh nguy hiểm như ung thư, sơ gan cổ trướng, siđa, Hiv, tim mạch, áp huyết vv…Nhân loại luôn cần những thầy thuốc giỏi, tận tâm vì nghề nghiệp, vì yêu thương. Con người luôn cần những khám mới lạ và hiệu nghiệm của y khoa để chữa trị bệnh hoạn, tật nguyền…
Một ngày mệt nhọc và hết sức bận rộn với dân chúng, Chúa Giêsu thức dậy rất sớm sáng hôm sau khi các môn đệ còn ngủ vùi, Ngài đi tới một chỗ vắng đề cầu nguyện. Chúa luôn yêu thích sự cầu nguyện vì cầu nguyện giống như hơi thở của Ngài. Chúa Giêsu cầu nguyện để tạ ơn Thiên Chúa Cha, Ngài cầu nguyện để kết hợp với Chúa Cha và gần gũi Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để xin Chúa Cha cảm thông với nhân loại vì những đau khổ thể xác,tâm hồn họ phải gánh chịu và cuộc chiến đấu một còn một mất giữa họ và quyền lực sự dữ. Chúa Giêsu cầu nguyện để đến với loài người, với con người và làm việc, chữa lành để Ngài đến với Cha của Ngài.
Chúa cầu nguyện lâu giờ, Simon và các môn đệ đi tìm Ngài và cho Ngài hay:” Mọi người đang tìm Thầy “. Đúng thật, nhiều người đang rất cần Chúa Giêsu. Nhưng Chúa không chỉ dừng lại ở Capharnaum, mà Ngài còn phải đi nhiều nơi khác để rao giảng, để chữa lành. Tin Mừng phải được loan báo mọi nơi. Ơn cứu độ phải được tung vãi cho mọi người. Chính vì thế, Chúa và các môn đệ lại tiếp tục lên đường.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một quả tim mới để chúng con luôn biết nhạy cảm trước những đau khổ của con người. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa Giêsu chữa bệnh sốt cho bà nhạc gia ông Simon Phêrô làm sao ? 2.Bệnh sốt có phải là bệnh nan y không ? 3.Cử chỉ cầm tay nói lên gì ? 4.Tại sao khi chữa bệnh Chúa không nói gì ? 5.Ma quỉ có sợ Chúa không ? 6.Tại sao thành công ở Capharnaum, Chúa lại không dừng ở nơi đó ? 7.Chúa lên đường có nghĩa gì ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 1:29-39)
Người ta nhấn mạnh đến sự quân bình và hỗ trợ nhau giữa hoạt động và cầu nguyện. Vậy mà: TN5-B59
Người ta nhấn mạnh đến sự quân bình và hỗ trợ nhau giữa hoạt động và cầu nguyện. Vậy mà hầu hết chúng ta thường hoạt động thật nhiều, nhưng lại thiếu cầu nguyện. Bài Tin Mừng hôm nay nêu lên một hình ảnh lý tưởng về sự quân bình ấy, đó là “một ngày của Chúa Giê-su” vô cùng hài hòa giữa hoạt động và cầu nguyện. Qua tường thuật của thánh sử Mác-cô, chúng ta hãy xem Chúa Giê-su cho thấy cầu nguyện cần thiết trong đời sống hằng ngày như thế nào.
Một ngày sống của Chúa Giê-su là dành cho tha nhân. Người giảng dạy cho dân chúng tại hội đường Ca-phác-na-um. Người vội vã đến chữa cho bà mẹ vợ ông Si-môn khỏi cơn sốt. Mặc dù trời đã bắt đầu tối, những người ốm đau và bị quỷ ám vẫn ùn ùn kéo đến xin Người chữa lành. Chắc là sinh hoạt của Người còn kéo dài thêm và Người chỉ còn ít giờ để ăn vội bữa tối rồi nghỉ ngơi. Tuy nhiên điều mọi người không ngờ là “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”. Tại sao Người phải dậy sớm, đến chỗ vắng vẻ để cầu nguyện? Là vì Người xác tín sự cần thiết của việc cầu nguyện. Người đã dành nhiều thì giờ cho tha nhân. Người cũng cần dành thì giờ cho chính mình và nhất là cho Chúa Cha khi Người cầu nguyện. Đối với Người, cầu nguyện là bắt đầu cho một ngày sống. Cái bắt đầu này sẽ đem lại sinh lực và ý lực cho ngày sống. Điểm đặc biệt nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện đã giúp cho Chúa Giê-su ngày hôm ấy làm một quyết định sáng suốt, phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Đó là Người quyết định cùng với các môn đệ “đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Người còn rao giảng ở đó nữa”.
Chúng ta thử nghĩ xem: “Mọi người đang tìm Thầy!” Nghĩa là dân chúng đang cần Chúa Giê-su, ngưỡng mộ Người và lắng nghe Người giảng dạy. Nói tóm lại, Người rất thành công trong sứ vụ tại Ca-phác-na-um. Thế mà sau một sáng sớm cầu nguyện, Người đã quyết định rời Ca-phác-na-um để đến các nơi khác! Đâu là lý do để Người đi nơi khác? Chúa Giê-su trả lời: “Thầy còn rao giảng ở các nơi đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Việc chính của Chúa Giê-su là tiếp tục ra đi rao giảng Tin Mừng, chứ không phải dừng chân lại một chỗ để được hoan hô, được ngưỡng mộ. Nhờ cầu nguyện, Người mới thấy rõ cần phải ra đi. Nếu thiếu cầu nguyện, Tin Mừng sẽ bị giới hạn và quanh quẩn ở Ca-phác-na-um mà thôi! Cầu nguyện đã giúp Chúa Giê-su không bị trói chân tại Ca-phác-na-um, nhưng để “Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”. Cuộc chiến giữa Chúa Giê-su và quyền lực của ma quỷ không chỉ thu hẹp tại một địa điểm, nhưng là khắp nơi. Do đó, nhờ cầu nguyện, Chúa Giê-su đã đem quyền lực của Thiên Chúa đi tiêu diệt ma quỷ và sức mạnh của nó ở mọi nơi.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta thường bận rộn nhiều công việc, nhưng chắc chắn không bận đến nỗi không thể dành được mỗi ngày ít phút để cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện thì mỗi ngày sống của chúng ta sẽ khập khiễng như người mất thăng bằng. Nơi thanh vắng của chúng ta không hẳn chỉ là nhà thờ, nhưng có thể là trong xe trên đường đi làm, ngồi trên băng ghế một ít phút sau giờ ăn trưa ở sở làm… Dành chút thì giờ và kiếm một chỗ thuận tiện thực ra không khó khăn, mà khó khăn là tại chính chúng ta không nhìn nhận sự cần thiết của cầu nguyện.
Một ngày sống, chúng ta phải làm nhiều quyết định, từ nhỏ nhặt nhất cho đến những quyết định quan trọng, làm sao phải là những quyết định đúng. Một ngày sống bận rộn của Chúa Giê-su cũng đầy những quyết định phải làm giống như chúng ta. Nhưng khác với chúng ta là Người đã cầu nguyện cho được thấu rõ thánh ý Chúa Cha và được đầy tràn Thánh Thần để có thể quyết định mọi sự theo đường lối của Thiên Chúa. Quyết định ra đi của Chúa Giê-su được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay khiến chúng ta ngạc nhiên, nhưng phải là điều giúp chúng ta hiểu sự cần thiết tuyệt đối của cầu nguyện. Ước mong cầu nguyện sẽ giúp thay đổi thời khóa biểu và làm cho ngày sống của chúng ta được hài hòa!
Mc 1:29-39: 29 Vừa ra khỏi hội đường Capharnaum, họ vào nhà ông Simôn và Anrê, cùng với Giacôbê và Gioan.30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người về bà.31 Tiến lại gần, cầm lấy tay mà đỡ bà dậy. Cơn sốt rời khỏi bà và bà phục vụ họ.
32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám đến.33 Cả thành tụ tập trước cửa.34 Và Người đã chữa nhiều kẻ ốm đau đủ thứ bệnh tật, và xua trừ nhiều quỷ, và không cho quỷ nói, vì chúng đã biết Người.
35 Sáng sớm, lúc trời còn tối, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và ở đó Người cầu nguyện.36 Ông Simôn cùng với những người theo ông đi tìm Người.37 Khi đã gặp Người, họ nói: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” 38 Người nói với họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng lân cận, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa; vì điều nầy mà Thầy đã đi ra.” 39 Và Người đi rao giảng trong các hội đường của họ khắp miền Galilê, và xua trừ quỷ.
Cùng văn mạch với tin mừng tuần trước, đoạn 1:29-39 kể tiếp những công việc khác của Chúa: TN5-B60
Cùng văn mạch với tin mừng tuần trước, đoạn 1:29-39 kể tiếp những công việc khác của Chúa Giêsu: chữa bệnh cho bà gia của Simôn (1:29-31), chữa các thứ bệnh người ta mang đến trước nhà Simôn vào ban chiều (1:32-34), và hôm sau, Người đi cầu nguyện và đi rao giảng ở các vùng khác của Galilê (1:35-39).
Một khía cạnh khác trong những hoạt động của Chúa Giêsu là chữa bệnh. Trong lần đầu tiên nầy, Người chữa lành một phụ nữ, trong khung cảnh và tương quan của một gia đình. Người còn chữa thêm những lần khác nữa, theo sự khẩn nài của cha mẹ xin cho con cái (5:21-43; 7:24-30; 9:14-27). Ở đây, con rể xin Chúa chữa cho bà gia. Trong mọi trường hợp, Chúa đều chữa lành hoàn toàn, đến nỗi người phụ nữ nầy có thể tiếp đãi Chúa Giêsu và các môn đệ tức thì.
Tiếng tăm của Chúa Giêsu lan ra rất nhanh, đến nỗi cả thành Capharnaum đều biết. Họ đã mang đến cho Người đủ mọi thứ bệnh nhân ngay chiều hôm đó (1:32-34). Dân chúng đặt hy vọng vào Người và Người đã giúp họ bằng quyền năng của Người. Tuy nhiên, Người không phải là bác sĩ chuyên nghiệp, mà là sứ giả của Thiên Chúa, đến để loan báo Nước Thiên Chúa đang đến (1:15). Vì thế, việc chữa bệnh là dấu hiệu quyền năng của Nước Thiên Chúa đang biểu hiện giữa con người. Quyền năng ấy sẽ biệu hiện cách viên mãn trong việc đánh bại sự chết - nguồn gốc mọi đau khổ, và trong việc phục sinh Chúa Giêsu. Hoán cải và tin vào Chúa Giêsu (1:15), thì sẽ được tham dự vào sự sống hoàn hảo của Người.
Sáng sớm, Chúa Giêsu bỏ thành Capharnaum ra đi cách âm thầm, để cầu nguyện và để đi nơi khác (1:35-38). Người là Con được yêu mến của Chúa Cha (1:10-11.24), nên luôn gắn bó mật thiết với Cha của Người. Người tìm mọi dịp để cầu nguyện trong thanh tịnh với Cha của Người (6:46), nhất là khi Người sắp làm một thay đổi lớn: khởi đầu, lúc mở rộng hoạt động (1:38), cuối cùng, lúc sắp sửa nộp mình chịu chết (14:32-42).
Chúa Giêsu nói rõ lý do tại sao Người ra đi nơi khác: “Vì điều nầy mà Thầy đã đi ra” (1:38). Không có một bổ ngữ nào để xác định Chúa Giêsu đã đi ra từ đâu. Tuy nhiên, có thể hiểu là Người đã đi ra từ Chúa Cha. Nói cách khác, “Vì điều nầy mà Cha đã sai Thầy đến”. Sứ mạng của Chúa Giêsu là đến và đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Không bị giới hạn một nơi nào cả. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỉ và bệnh tật (1:24), đến để kêu gọi người tội lỗi (2:17), và đển để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (10:45).
Chúa Giêsu đã thiết lập cách hành động của Người: Sứ mạng rao giảng mà Thiên Chúa giao phó quyết định hành trình của Người.
Đã có nhiều định nghĩa về Thiên Chúa. Chúng ta thường gọi Thiên Chúa là Trời, Ông Trời: TN5-B61
Đã có nhiều định nghĩa về Thiên Chúa. Chúng ta thường gọi Thiên Chúa là Trời, Ông Trời (God, Dieu). Theo triết học cổ Hy Lạp thì Thiên Chúa là căn nguyên của mọi căn nguyên (Causa Causorum), từ Ngài mà sinh ra mọi sự; Ngài là Đấng Tạo Hóa; Ngài dựng nên mọi loài (thụ tạo). Người Trung Hoa định nghĩa Thiên Chúa là Thượng Đế, là Vua trên các Vua, các vua trần gian là con của Ngài nên gọi là Thiên Tử (Con Trời). Còn Thánh Gioan, Ngài định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu.”
Vì tình yêu, Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Chúa”, cho làm chủ mọi loài (Sách Khởi Nguyên 1, 26). Cũng vì tình yêu, Thiên Chúa đã xuống thế làm người, ở giữa chúng ta, chia sẻ cuộc sống trần gian như mọi con người, ra đi rao giảng Tin Mừng cứu rỗi, chấp nhận mọi khổ đau trong cuộc sống, chịu khổ nạn trên thập giá, sống lại và lên trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.
Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu luôn hiện diện như Nhân Chứng Tình Yêu của Thiên Chúa giữa mọi người, nhất là những người nghèo, người bệnh, dù chứng bệnh hay lây như bệnh phong cùi, phải ở riêng, không được đến gần những người khác (Bài Đọc I: Lêvi 13, 1-2, 44-46). Họ bị mọi người xa lánh, chẳng những vì bệnh phong cùi dễ lây, mà người phong cùi còn bị coi như tội lỗi. Nhưng trong bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 1, 40-45), Chúa Giêsu đã không xa lánh những người phong cùi đến xin chữa lành, Ngài đã gần gũi với họ, “đặt tay và chữa lành họ.” Thánh Phaolô (Bài Đọc II) đã noi gương Chúa Giêsu, cố gắng trở nên nhân chứng Tình Yêu của Chúa giữa mọi người; không ích kỷ, không tìm lợi ích, tiện nghi cho riêng mình; nhưng tìm lợi ích cho mọi người để mọi người được ơn cứu rỗi!”(1 Corintô 10,31-11,1).
Trong Phúc Âm (Gioan 14, 6), Chúa Giêsu nói với chúng ta “Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Chúa Giêsu.”
Chúng ta là những Tín hữu của Chúa, chúng ta chỉ “đến được với Chúa Cha”, nếu chúng ta đi theo đướng lối của Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô đã đi theo đường lối của Chúa và bảo chúng ta: ‘Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Chúa Giêsu.’ (1 Corintô 11,1).
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người chúng ta, dù ở địa vị nào (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân), chúng ta luôn cố gắng là chứng nhân tình yêu của Chúa giữa mọi người, yêu thương và phục vụ mọi người trong tinh thần khiêm tốn và hòa hợp, để chúng ta có thể (như Thánh Phaolô) “đem tình thương và ơn cứu rỗi đến cho mọi người.” Trước hết là những người trong gia đình (giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái), trong khu xóm, trong cộng đồng giáo xứ, trong sở làm, khắp nơi mà chúng ta có dịp hiện diện trong suốt cuộc đời. Chúng ta hãy hát lên bài “Nhân Chứng Tình Yêu”
( Nguyễn Duy), xin cho chúng ta trở nên “Nhân Chứng Tình Yêu của Chúa!... Được Chúa Thánh Thần thánh hiến… và sai chúng ta đi mọi nơi, để gieo rắc tin vui cho muôn người… Trung kiên làm chứng nhân Nước Trời, thắp lên hạnh phúc cho muôn người!”
Rao giảng Tin Mừng là sứ mệnh của Chúa Ki-tô và các môn đệ, nhưng rao giảng cho ai cũng: TN5-B62
Rao giảng Tin Mừng là sứ mệnh của Chúa Ki-tô và các môn đệ, nhưng rao giảng cho ai cũng là điều hết sức quan trọng. Người rao giảng không những phải hiểu rõ ý nghĩa điều mình giảng, mà còn phải am hiểu hoàn cảnh của những người đón nhận lời giảng nữa. Các bài đọc hôm nay cho ta biết một số khía cạnh chính của con người, đối tượng của việc rao giảng Tin Mừng.
1. Con người thao thức khát mong được nghe Tin Mừng (bài đọc Cựu Ước – G 7:1-4.6-7)
Đời là bể khổ. Cuộc sống của con người trên trần gian là “thời khổ dịch, chuỗi ngày lao lung” như ông Gióp đã phát biểu. Hình ảnh ông Gióp với những thăng trầm trong cuộc sống mô tả thân phận chung của mọi người với “những tháng vô vọng, những đêm đau khổ ê chề”. Thời gian trôi nhanh càng làm cho con người thêm hoang mang về tương lai của họ.
Tuy nhiên nỗi lo lắng ưu tư của con người không chỉ là những đau khổ trĩu nặng, cũng không chỉ là sự vắn vỏi của cuộc đời, nhưng là hạnh phúc vĩnh cửu. Do đó, khi nói lên nỗi ưu tư lớn lao nhất này, ông Gióp đã hướng về Chúa và dâng lời cầu khẩn Người: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7). Đấy, lo lắng cuối cùng và lớn lao nhất của con người vẫn là vấn đề hạnh phúc, không chỉ hạnh phúc tạm đời này mà còn là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Nhưng hạnh phúc vĩnh cửu không thể tìm thấy ở đời này. Cuộc đời ông Gióp là một chứng minh hùng hồn. Đã có lúc ông được mọi sự con người hằng khát mong trên trần gian. Nào vợ đẹp con khôn, nào nhà cao cửa rộng, giàu có sang trọng, được mọi người kính nể. Thế rồi sau cơn thử thách, trong chớp mắt mọi sự đều tan biến, bỏ lại một ông Gióp ốm yếu ghẻ lở ngồi bên đống tro tàn và bà vợ không ngớt lời xỉa xói thách thức ông còn tin vào Chúa nữa hay không. Với ông, nếu không còn niềm tin và hy vọng vào hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban thì cuộc sống con người quả là vô nghĩa. Ông Gióp không mất niềm tin và hy vọng. Ông nhìn nhận sự vắn vỏi của cuộc sống và nhất là nỗi bất lực của con người. Tự sức mình, ông “sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ”. Ông chỉ còn biết trông cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi và ông xin Người đừng quên ông, đừng bỏ rơi ông. Giữa những tin buồn người ta dồn dập báo cho ông Gióp, như đoàn vật và tôi trai tớ gái của ông đã bị cướp sạch, con cái ông lăn ra chết hết, gia tài tiêu tan, ngay đến mái nhà trú ngụ cũng bị cháy rụi, ông vẫn thấy bừng lên một tin mừng, là Thiên Chúa vẫn nhớ đến ông, vẫn ôm ấp ông trong vòng tay nhân hậu của Người.
Ông Gióp là biểu tượng của một nhân loại khát khao đón nghe Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã nhận biết hình ảnh ông Gióp nơi mọi người đến với Người để nghe Người giảng và được Người chữa lành mọi bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn. Vì thế, thấy họ là Chúa Giê-su “chạnh lòng thương” như sách Tin Mừng thường ghi lại. Chúa Giê-su ý thức sứ mệnh của Người là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4:18), Tin Mừng về một cuộc sống vĩnh cửu chứ không phải cuộc sống vắn vỏi dương thế, một hạnh phúc vĩnh viễn chứ không phải hạnh phúc tạm bợ dựa trên những tiện nghi vật chất và thú vui đời này. Chúa Giê-su vẫn tiếp tục đem Tin Mừng đến cho ta, những “ông Gióp” của mọi thời. Nhưng liệu ta có nhìn nhận thân phận khốn khổ của ta và nhu cầu cần được nghe Tin Mừng hay không? Ông Gióp và niềm tin của ông phải là gương mẫu giúp ta có những thái độ cần thiết để đón nghe Tin Mừng cứu độ Chúa ban cho ta.
2. Chúa Giê-su chính là Tin Mừng cứu độ Thiên Chúa ban cho ta (bài Tin Mừng – Mc 1:29-39)
Con người mang kiếp khổ đau như hậu quả của tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa không ngoảnh mặt làm ngơ trước tình trạng tuyệt vọng của họ, bởi vì “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành… Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy; bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 148:3.6). Nhìn thấu nỗi lòng con người đang sống trong đêm tối mong nhìn thấy trời sáng (G 7:3-4), Thiên Chúa đã sai Con Một đến làm ánh sáng trần gian. Giữa cảnh tuyệt vọng của nhân loại (G 7:6), Thiên Chúa đặt Chúa Ki-tô như đích điểm để “mọi người đang tìm Thầy” (Mc 1:37). Người giảng dạy trong hội đường cũng như bất cứ nơi nào, dù là bãi cỏ hay trên con thuyền. Người chữa mọi bệnh tật của tất cả những ai đến với Người, người thân quen như bà mẹ vợ ông Phê-rô hay những người xa lạ. Người trị cả căn bệnh tâm hồn gây nên do quỷ ám. Người chữa bệnh cho mọi người và bất cứ lúc nào, sáng trưa chiều tối. Địa bàn rao giảng càng rộng càng tốt, không thể bám trụ ở một nơi mãi, vì như thế dễ lo lắng cho lợi nhuận riêng tư. Do đó, Người ra lệnh cho các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38). Thánh Mác-cô tóm tắt sứ vụ của Chúa Giê-su tại Ga-li-lê bằng một câu: “Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (Mc 1:39), rao giảng một giáo lý mới đầy uy quyền và khu trừ ma quỷ núp bóng dưới những hình thức như bệnh tật, ám ảnh người ta.
Chiêm ngưỡng Chúa Giê-su thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, ta không thể không nghĩ đến động lực thúc đẩy Người hành động. Đó là vì Người cảm thông với thân phận khốn khổ của nhân loại. Chính Người đã mặc lấy thân phận người phàm để cảm thông với ta và muốn xác tín với ta về Tin Mừng này, là Thiên Chúa yêu thương ta đến nỗi trao nộp Con Một Người cho ta để cứu độ ta (Ga 3:16). Làm như thế, trước hết Người nhắc nhở ta về thân phận yếu đuối bất lực của ta và mời gọi ta hãy tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Những người “đang tìm Thầy” trong câu truyện Tin Mừng hôm nay phải là chính ta, những kẻ ý thức mình đang cần Chúa. Bài Tin Mừng không chỉ nói đến một ngày sinh hoạt của Chúa Giê-su, nhưng còn gián tiếp nói đến thực trạng của một nhân loại cần được cứu độ. Một nhân loại hãy đưa tay ra cho Người nâng dậy như Người đã đỡ bà mẹ vợ ông Phê-rô dậy. Một nhân loại đang bị quỷ ám cần được Người thanh tẩy. Một nhân loại mắc đủ thứ bệnh tật thể xác và tâm hồn mong chờ bàn tay chữa lành của Người chạm đến. Mỗi người chúng ta thuộc về tập thể nhân loại ấy, nên cũng không thể chối bỏ thân phận mình và tình thương cứu độ của Thiên Chúa đến với ta qua Đức Ki-tô.
3. Rao giảng Tin Mừng cũng là bổn phận của mọi Ki-tô hữu không trừ ai (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 9:16-19.22-23)
Tin Mừng là chính Chúa Ki-tô, nên rao giảng Tin Mừng là đem Chúa Ki-tô đến với anh chị em. Nói như thế thì ai cũng có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng, chứ không phải đó là độc quyền của giáo sĩ hoặc tu sĩ. Bổn phận rao giảng giống nhau, nhưng phương thức rao giảng thì khác biệt. Giáo sĩ có thể rao giảng trên tòa giảng, còn giáo dân rao giảng ngay trong gia đình, nơi sở làm hoặc bất luận nơi nào họ lui tới. Nếu vậy thì thánh Phao-lô hoàn toàn có lý khi ngài phát biểu: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16).
Quả thực Phao-lô rất khiêm tốn. Ngài được ơn trở lại, được Chúa Giê-su trao phó sứ vụ rao giảng Tin Mừng, cho nên ngài coi đó là bổn phận phải làm chứ không phải là danh dự để vênh vang tự đắc. Mà đã là bổn phận thì ta phải chu toàn chứ không phải để lấy làm lý do đòi Chúa phải thưởng công. Có nhận thức được việc rao giảng Tin Mừng là một bổn phận, ta mới có thể “là một người tự do” (1 Cr 9:19), giữ lòng mình thanh thản, không bị ràng buộc chi phối do những tham vọng và lợi nhuận. Ở đây thánh Phao-lô đã xây dựng một nguyên tắc căn bản cho bổn phận rao giảng Tin Mừng. Điều này làm cho ta phải suy xét nhiều lắm. Tại Hoa-kỳ này, biết bao nhiêu giám mục cũng như linh mục đã làm công việc rao giảng Tin Mừng như một “nhân viên” cho một “sở làm” là giáo phận. Cấu trúc giáo hội ở đất nước này nhiều khi đã biến việc “rao giảng Tin Mừng” thành một thứ business, một thứ dịch vụ mang tính chất đời nhiều hơn đạo! Người giáo dân cũng khó tránh khỏi cảnh tranh giành chức tước trong cộng đoàn. Bao nhiêu thừa tác viên trao Thánh Thể, đọc Sách Thánh, chủ tịch hội đồng mục vụ hoặc trưởng ban này ban kia đã làm việc trước là sáng danh Chúa, sau là sáng danh con! Điều thánh Phao-lô nêu ra ở đây đã diễn giải rõ ràng nguyên tắc của Thầy Chí Thánh Giê-su: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Thánh Phao-lô đã đạt được mức độ tự do ấy, cho nên ngài mới có thể “trở nên tất cả cho mọi người”, làm tất cả miễn là Chúa Ki-tô được rao giảng.
4. Sống Lời Chúa
Ta vừa là người đón nhận tin Mừng vừa là người rao giảng Tin Mừng. Để chu toàn hai điều ấy, trước hết ta phải nhìn nhận thân phận bất lực của ta để hoàn toàn trông cậy vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Có như vậy, ta mới cảm nhận nhu cầu cần được đón nhận Tin Mừng cứu độ. Đồng thời để rao giảng Tin Mừng ngay trong bậc sống và môi trường sống của ta, ta sẽ ý thức việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận phải chu toàn trong tinh thần phục vụ Chúa và anh chị em.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” Lời này bắt tôi phải suy nghĩ thế nào về mình? Tôi đã làm gì để đem Chúa Ki-tô đến với những người chung quanh? Bằng gương sáng, giúp đỡ, cầu nguyện, đóng góp, phục vụ trong cộng đoàn…? Tôi có làm với lòng tự do thanh thản, vì ích lợi của Chúa Ki-tô và Giáo Hội, hay để vênh vang tự phụ?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin nhìn xem gương mặt Đức Ki-tô mà nhớ lại rằng: chính Người đã hy sinh chịu chết để muôn người được ơn cứu độ. Xin Chúa cho các dân tộc trên khắp cùng trái đất được nhờ Người mà nhận biết Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Tiến lễ, lễ cầu cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc).
Có lẽ chúng ta cần đọc lại vấn đề của giáo đoàn Cô-rin-tô được nói trong chương 8 để hiểu rõ: TN5-B63
Có lẽ chúng ta cần đọc lại vấn đề của giáo đoàn Cô-rin-tô được nói trong chương 8 để hiểu rõ hơn những gì thánh Phao-lô nói về chính ngài trong chương 9. Vấn đề là sau những bữa tiệc tế thần của người ngoại giáo tại Cô-rin-tô, thịt đã cúng tế còn dư được đem ra chợ bán, vậy Ki-tô hữu có được phép mua về dùng không? Thánh Phao-lô trả lời: Ki-tô hữu được tự do làm; nhưng vì đức ái, nếu việc ấy làm cho những người có lương tâm bối rối càng thêm bối rối và gây gương xấu cho họ, thì người ta cần phải hy sinh đừng ăn và đừng sử dụng quyền lợi của mình. Ngài đưa ra nguyên tắc: "Nếu của ăn làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã" (8:13).
Vậy trong chương 9, thánh Phao-lô quảng diễn nguyên tắc của bác ái. Ngài trưng dẫn việc hy sinh tự do cá nhân của chính ngài vì ích lợi của anh chị em tín hữu. Để có thể rao giảng Tin Mừng cho Dân ngoại một cách hữu hiệu hơn, thánh Phao-lô đã từ khước tất cả những gì ngài có quyền hưởng "để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô" (9:12). Ngài nói với chúng ta về ngài, không phải để khoe khoang, nhưng với tính cách một người cha để dạy bảo con cái bằng chính kinh nghiệm bản thân. Kinh nghiệm Phao-lô hy sinh quyền lợi cá nhân vì rao giảng Tin Mừng như thế nào?
a)Rao giảng Tin Mừng là một bổn phận
Để hy sinh cho việc rao giảng Tin Mừng thì trước hết phải biết tầm quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng. Hy sinh cho một công việc ruồi bu thì đâu có phải là hy sinh. Thánh Phao-lô ý thức việc rao giảng Tin Mừng là quan trọng như thế nào!"Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!" (9:16). Mà nếu đã là một nhiệm vụ, thì sau khi chu toàn, người rao giảng chỉ có thể nói: "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17:10).
Rao giảng Tin Mừng là một bổn phận, đồng thời cũng là một phần thưởng. Chúng ta có thể tưởng tượng Phao-lô viết dòng chữ sau đây với tâm tình nào? Phần thưởng là "khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công." Ý Phao-lô muốn nói ngược lại là: Tại sao lại bảo là không công? Tôi được vinh dự Chúa chọn và sai đi rao giảng Tin Mừng cho anh em Dân ngoại, thì nguyên vinh dự ấy đã quá đủ là phần thưởng cho tôi rồi! Chính xác tín này đã giúp cho Phao-lô thấy những quyền lợi của mình chẳng là gì cả so với bổn phận rao giảng Tin Mừng, cho nên dù hy sinh mấy cũng chưa đủ.
b)Hy sinh quyền tự do cho việc rao giảng Tin Mừng
Đối với con người, quyền tự do là điều tối quan trọng, đến nỗi người ta nổi dậy, thà chết để tranh đấu đòi lại quyền tự do cho mình. Lịch sử đấu tranh cho tự do đã quá nhiều trên thế giới đầy áp bức này. Thế mà vì muốn rao giảng Tin Mừng, Phao-lô, "một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người" (9:19). Từ đầu chương 9, Phao-lô đã đề cập tới đủ thứ quyền lợi của ngài. Cuối cùng ngài đã kết luận: "Nhưng phần tôi, tôi đã không dùng một quyền nào trong những quyền ấy" (9:15). Quyền tự do gắn liền với con người và cho con người một phẩm giá. Cho nên hy sinh quyền ấy có nghĩa là hy sinh chính bản thân.
Đáp lại lời gọi đi rao giảng Tin Mừng không chỉ đòi chúng ta phải hy sinh quyền tự do, mà còn biến chúng ta thành nô lệ của mọi người.Điều này có nghĩa là tôi không còn gì cho mình nữa, mà phải "trở nên tất cả cho mọi người," tôi phải đi theo cùng con đường của Đức Ki-tô là vị Thừa sai gương mẫu đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2:7). Nếu Đức Ki-tô đã không giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để trở nên Lời Thiên Chúa trong xác phàm, thì cũng thế, người rao giảng Lời Thiên Chúa phải trút bỏ mọi thứ "vinh quang" đời này vì đại cuộc Tin Mừng. Phao-lô đã nhìn lên gương mẫu của chính Đấng đã kêu gọi ngài trên đường đi Đa-mát (Cv 9:1-19) và chia sẻ kinh nghiệm ơn gọi của mình với tín hữu Cô-rin-tô.
c)Hy sinh như thế không phải là chuyện dễ
Nếu đọc tiếp những câu còn lại của chương 9 (cc. 24-27), chúng ta mới thấy không phải Phao-lô đã thực hiện lý tưởng hy sinh một cách dễ dàng đâu. Ngài mượn hình ảnh người lực sĩ đã phải khổ công luyện tập hằng ngày để nói lên cuộc chiến nội tâm làm sao tiếp tục sống hy sinh.Hy sinh không phải dễ như "đấm không khí," nhưng là đấm vào địch thủ đầy dẫy trong con người mình:địch thủ ích kỷ, vinh thân phì gia, bả danh lợi tiếng tăm... Ngay cả đến thể xác cũng là một địch thủ lợi hại: đói khát, bị đánh đập, tù đày, gian nan cực khổ trên đường truyền giáo... Vậy đâu là bí quyết để khắc phục mọi khó khăn ấy? "Nhờ Đức Ki-tô, Chúa của tôi." Đó chính là bí quyết, là chìa khóa để giải quyết mọi vấn đề và là tư tưởng cốt lõi luôn được nói lên trong mọi thư từ và lời giảng của Phao-lô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
"Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng."Lời này thực sự nói với bản thân tôi điều gì?
Tôi có là một người lúc nào cũng đặt nặng quyền lợi của mình?Là cha mẹ, tôi muốn tỏ ra "quyền" quyết định, xét đoán... trên con cái? Là con cái, tôi muốn "bảo vệ" quyền tự do muốn làm gì tùy ý, không muốn vâng phục cha mẹ?
Trong hoàn cảnh sống hiện thời của tôi, lý tưởng rao giảng Tin Mừng đòi hỏi nơi tôi những hy sinh nào cụ thể nhất?Tôi có thực hiện được phần nào không? Tại sao không?
Cầu nguyện kết thúc
Sau những lời nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc kinh "Xin ơn quảng đại":
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa.A-men.(Thánh I-Nhã)
Hiệu quả trực tiếp của sự tiếp xúc với Đức Giêsu và của kinh nghiệm về sức mạnh của Người: TN5-B64
Hiệu quả trực tiếp của sự tiếp xúc với Đức Giêsu và của kinh nghiệm về sức mạnh của Người, chính là hành động được cụ thể hóa trong việc phục vụ những người xung quanh.
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,29-39) gồm ba phần: Đức Giêsu chữa cho bà mẹ vợ ông Simon khỏi sốt (cc.29-31), Người chữa bệnh và trừ quỷ cho đám đông dân chúng “xúm lại ở cửa” (cc.32-34) và Người âm thầm rời Caphacnaum đi rao giảng Tin Mừng khắp miền Galilê (cc.35-39).
1. Trong nhà ông Simon (cc.29-31)
“Vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo” (c.29). Đức Giêsu ra khỏi hội đường sau khi đã chữa lành một người bị quỷ ô uế ám và đang khi dân chúng còn kinh ngạc và chưa hiểu ý nghĩa của phép lạ trừ quỷ ấy. Sau đó, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Hình như tác giả Mc cố ý đặt đối lập hội đường với nhà ông Simon, được coi như hình ảnh của Hội Thánh. Sự kiện ra khỏi hội đường, vì thế, có thể hiểu là một sự kiện mang tính biểu tượng, có ý nói rằng cần phải ra khỏi hội đường thì người ta mới có thể trở thành đồ đệ của Đức Giêsu được.
“Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (c.30a). Người xưa thường hiểu những cơn sốt, vốn đôi khi đưa đến tử vong, là một trong các hình phạt mà YHWH giáng trên kẻ bất trung. Người ta ưa gán cơn sốt cho một nguồn gốc thuộc thế giới ma quỷ. Bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, đó là hình ảnh của một người đang phải sống dưới sự tác động và khuấy khuất của sự ác; điều đó khiến bà phải nằm bất động trên giường, hình ảnh của một tình trạng không có sức lực để hoạt động, hình ảnh của một người như đã chết rồi.
“Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay” (cc.30b.31a). Đức Giêsu lập tức hành động vừa khi nhận được thông tin về tình trạng của bà mẹ vợ ông Simon. Người đàn bà bị sốt nằm trên giường, không thể đến gần Đức Giêsu để xin Người chữa lành. Đối diện với tình cảnh đó của bà, Đức Giêsu đã chủ động lại gần bà. Hành động này cho thấy tình yêu, sự quan tâm ân cần và niềm ao ước của Người muốn chấm dứt tình cảnh bi đát của bà. Người muốn giải thoát bà khỏi những sức ép đang khiến bà thiếu sức sống và không thể hoạt động được.
Khác với hành động tại hội đường lúc trước, ở đây, Đức Giêsu không nói một lời nào. Người chỉ cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. “Đỡ dậy”, trong bản văn Hy Lạp của Mc là động từ egeirô ở dạng ngoại động, có nghĩa là “làm cho trỗi dậy”, đã trở thành một thuật ngữ để diễn tả sự sống lại. Đức Giêsu ban sức sống của Người cho người đàn bà đang phải nằm bẹp trên giường vì sốt cao và giúp bà trỗi dậy; cơn sốt biến mất ngay lập tức.
“Và bà phục vụ các ngài” (c.31b). Đây là dấu hiệu cho thấy cơn sốt đã thực sự biến mất. Hiệu quả trực tiếp của sự tiếp xúc với Đức Giêsu và của kinh nghiệm về sức mạnh của Người, chính là hành động được cụ thể hóa trong việc phục vụ những người đang hiện diện. Phục vụ các thành viên của cộng đoàn là hành động đặc trưng của những đồ đệ Đức Giêsu và là dấu chỉ của sự hiện diện của Nước Trời giữa nhân loại.
Với phép lạ chữa bà mẹ vợ ông Simon khỏi sốt này, vốn là phép lạ chữa lành bệnh đầu tiên trong Tin Mừng Mc, Đức Giêsu cho thấy Người chính là sứ giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã loan báo. Thời cánh chung đã đến. Thời thiên sai đã điểm: Đức Giêsu hành động với quyền năng và sức mạnh của chính Thiên Chúa.
2. Trước cửa nhà ông Simon (cc.32-34)
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người” (c.32). Động từ “đem” (pherô) được chia ở thời vị hoàn, chỉ sắc thái kéo dài và liên tục của hành động, có nghĩa là “người ta vẫn cứ đem đến...”. Dân chúng biết Đức Giêsu đang ở nhà ông Simon, nhưng họ đã chờ cho đến khi ngày sabat qua đi để không vi phạm luật giữ ngày sabat, rồi mới đưa những kẻ ốm đau và những kẻ bị quỷ ám đến cho Người. Đức Giêsu đã chữa lành cho bà mẹ vợ ông Simon dù chưa hết ngày sabat, nhưng đối với dân chúng, ngày sabat, vốn là thời gian thánh và là ngày của phúc lành (St 2,3), trong thực tế đã trở thành như ngày của sự chúc dữ, ngăn cản họ đạt được ơn giải thoát và sự chữa lành!
“Cả thành xúm lại trước cửa” (c.33). Đây là trước cửa nhà ông Simon, nơi Đức Giêsu đang hiện diện. Đám đông dân chúng này đã chứng kiến sự kiện Đức Giêsu trục xuất quỷ khỏi một người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum; nhưng ở đó, họ chỉ kinh ngạc và bàn tán với nhau, chứ chưa tin vào Đức Giêsu, dù đã nhận thấy uy quyền của Người (1,27). Sau đó, họ cẩn thận giữ ngày sabat (c.32), tức là họ vẫn tiếp tục ở dưới sự kềm tỏa của Luật. Rõ ràng họ chưa thay đổi nhận thức về các nguyên tắc và giá trị. Họ chưa sẵn sàng sống những thực tại mới mẻ do Đức Giêsu đem lại, mà chỉ tìm đến với Người như đến với một vị thầy mới. Họ chưa biết căn tính đích thực của Người. Họ chưa thể bước vào nhà, mà mới chỉ có thể “xúm lại trước cửa”.
“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (c.34a). Không có bất cứ điều kiện nào được đưa ra cho việc chữa lành và trừ quỷ. Tác giả Mc cũng không mô tả cách thức Đức Giêsu thực hiện những công việc đó, mà chỉ tập trung chú ý trên hành động và kết quả của hành động. Điều quan trọng là quyền năng, lòng nhân lành và sự quan tâm của Đức Giêsu đối với tình trạng bi đát của nhân loại được thể hiện nơi đám đông đau khổ này. “Nhưng Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (c.34b). Quỷ muốn nói về Đức Giêsu, tức là, như trong hội đường Caphácnaum vài giờ trước (x.c.24), chúng muốn hô lên rằng Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là Đấng Mêsia mà dân chúng đang mong đợi. Nhưng Đức Giêsu không cho phép chúng làm như thế. Có thể nói đến hai lý do. Thứ nhất, Người không muốn có sự hiểu lầm, vì dân chúng chưa thể hiểu đúng căn tính của Người. Thứ hai: quỷ không đủ tư cách công bố về căn tính của Đức Giêsu, cho dù chúng biết Người là ai.
3. Đức Giêsu âm thầm rời Caphácnaum và đi khắp miền Galilê (cc.35-39)
Sau những gì Đức Giêsu đã thực hiện tại Caphácnaum, thật dễ hiểu những toan tính của dân chúng trong thành muốn giữ Người như là một thủ lãnh quyền thế ở giữa họ, bảo đảm cho họ không còn phải bệnh tật và đau đớn. Họ hiểu sai về sứ mạng của Đức Giêsu. Người không phải là một thầy lang tài năng, có thể chữa bá bệnh. Người là Đấng công bố Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã đến gần (1,15). Vì thế, Người phải âm thầm nhưng cương quyết rời đi. Sự kiện này cho thấy rõ sự căng thẳng giữa điều mà Người phải thực hiện theo ý muốn của Chúa Cha với điều mà dân chúng mong mỏi nơi Người.
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (c.35). Nơi hoang vắng là nơi đối ngược với tình cảnh của phố thị, tức là nơi không người cư ngụ và là nơi xa cách xã hội con người. Nơi hoang vắng này nhắc người ta nhớ đến hoang địa, nơi Đức Giêsu đã được Thần Khí đẩy vào (1,12.13) và nhắc đến một thực tại: sự cắt đứt đối với những giá trị và thực tại trong xã hội Do Thái đương thời. Đức Giêsu đi vào “nơi hoang vắng” và cầu nguyện ở đó.
“Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" (cc.36-37). “Mọi người” ở đây là dân chúng thành Caphácnaum, những kẻ đã xúm lại trước cửa nhà vào buổi chiều hôm trước. Ông Simon và các bạn ông chia sẻ và ủng hộ cái ước muốn của dân chúng. Họ tự biến mình thành phát ngôn viên của đám đông và tự gán cho mình vai trò làm trung gian giữa những người hâm mộ và Đức Giêsu. Họ tự cho mình nhiệm vụ phải tìm cho được Đức Giêsu, trình bày với Người ý muốn của đám đông dân chúng và tìm cách giữ Người lại Caphácnaum. Động từ “zçteô” (tìm/xin), trong Mc, thực ra luôn có sắc thái tiêu cực, tiền giả định một ý định sai lầm hoặc không tốt, ví dụ trong 3,32; 8,11t; 16,6; trong các đoạn văn khác, động từ này luôn có chủ ngữ là các nhà lãnh đạo Do Thái hoặc Giuđa, những người tìm cách đẩy Đức Giêsu vào chỗ chết: 11,18; 12,12; 14,1.11.55.
Trong lời ông Simon và các bạn nói với Đức Giêsu khi gặp Người, ta không thấy có bất cứ yếu tố lễ phép nào. Không có lời thưa gửi, không có tước hiệu nào được thưa lên, họ chỉ nói với Người bằng một câu nói có giọng điệu khiển trách. Họ không nói nhân danh chính mình, mà là nói lên ý muốn của đám đông.
Trả lời cho câu nói ấy, “Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (c.38). Đối ngược lại với ý muốn của đám đông, Đức Giêsu quyết định tiếp tục cuộc hành trình của Người, và bằng cách đó, Người từ chối tất cả những gì người ta tính toán khi đi tìm Người. Người không ở lại Caphácnaum, cũng không rơi vào cạm bẫy của quyền lực và sự thành công nhất thời. Hơn nữa, Người còn mời gọi những người vừa đi tìm Người hãy đi cùng với Người (“Chúng ta hãy đi...”), tức là ngầm mời gọi họ từ bỏ những toan tính và chủ đích trước đây của họ. Sau cùng, Người khéo léo nhắc họ: điều căn bản trong sứ mạng của Người là loan báo Tin Mừng. “Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (c.39).
Để kết luận bài suy niệm, có thể nói: liên quan đến những hành động quyền năng của Người, Đức Giêsu thấy trước một nhiệm vụ kép. Với các hành động quyền năng đó, Người muốn khẳng định và cho thấy sứ điệp Tin Mừng của Người, nhưng đồng thời Người cũng muốn và phải cho thấy những sai lầm của những ai tưởng rằng đích nhắm của sứ mạng mà Người đang thực hiện thì nằm ở trong những công trình quyền năng đó. Điều đó giải thích sự kiện rằng một đàng, Người đón tiếp những bệnh nhân và những người cần được giúp đỡ với tất cả quyền năng của Người, nhưng đàng khác, Người cố tình giữ khoảng cách với những người đặt khía cạnh phép lạ lên tầng thứ nhất của công trình mà Người đang thực hiện.
Thái độ đúng đắn khi đã được hưởng nhờ những hành động quyền năng và những ơn huệ của Người, có lẽ là thái độ của bà mẹ ông Simon trong phần thứ nhất của bài Tin Mừng hôm nay: phục vụ (c.31b). Hiệu quả trực tiếp của sự tiếp xúc với Đức Giêsu và của kinh nghiệm về sức mạnh của Người, chính là hành động được cụ thể hóa trong việc phục vụ những người xung quanh.
Việc phục vụ các thành viên của cộng đoàn chính là hành động đặc trưng của những đồ đệ Đức Giêsu và là dấu chỉ của sự hiện diện của Nước Trời giữa nhân loại.
Đau khổ vẫn còn triền miên trong cuộc sống con người, nhưng hình ảnh những ông Gióp: TN5-B65
Đau khổ vẫn còn triền miên trong cuộc sống con người, nhưng hình ảnh những ông Gióp – đau khổ nhưng không tuyệt vọng- trong thời đại nầy vẫn không thiếu, vì Chúa luôn yêu thương nâng đỡ người đau khổ biết mình cần đến Chúa.
Nỗi đau của những căn bệnh quái ác gặm nhấm từng phút thời gian, làm cho ông Gióp nhìn thấy thời gian là “thời khổ dịch”, “chuỗi ngày lao lung” “tháng vô vọng” “đêm đau khổ” “buồn sầu mãi đến tối”, “ngày đời thấm thoát thoi đưa”…nhưng lại giúp cho ông nhận ra cái hạnh phúc không phải ở đời nầy. Thiết nghĩ, ông không than thở, nhưng nhờ đau đớn phần xác mà ông đã đưa ra những nhận định đúng đắn về cuộc sống ở trần gian, và ông đã đặt niềm tin vào đúng chỗ: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (x.G 7,1-4.6-7)
Nỗi khổ của những căn bệnh tinh thần còn tệ hại hơn. Có người không đau mà vẫn khổ, giàu có cũng khổ, nghèo hèn cũng khổ. Nỗi khổ tâm cũng không loại trừ thành phần nào, giai cấp nào trong cuộc đời. Nỗi khổ vì nghèo, khó tạo được hạnh phúc ở trần gian, nỗi khổ vì giàu chưa phải là hạnh phúc, nỗi khổ vì biết hạnh phúc không dựa trên sự giàu nghèo hay sức khỏe, nhưng là sự bình an thật trong tâm hồn mà vẫn chưa tìm ra.
Biết bao người đang đau khổ, trong đó có cả tôi, cả bạn, cả chúng ta. Nếu dừng lại ở tình trạng than trời trách đất, và không có một niềm tin vào hạnh phúc thật là Thiên Chúa và cuộc sống mới trong Thiên Chúa, thì không ai có thể chấp nhận đau khổ; càng không thể nhận ra hạnh phúc thật, bình an thật qua những đau khổ. Đau khổ dứt khoát không phải là sự trừng phạt của Thiên Chúa ở đời nầy, nhưng là điều tất yếu theo hệ lụy của tội nguyên tổ. Chính nhờ những đau khổ do “sinh, lão, bệnh, tử” mà con người nhận ra cái hữu hạn của mình trước một Thiên Chúa vô cùng. Cũng chính nhờ đau khổ mà tấm lòng Thiên Chúa từ trên cao vời vợi, đã xuống tận sâu thẳm cái cùng cực của con người, để con người được hạnh phúc. Vì thế, không dừng lại tâm thức ở mức bi quan yếm thế những người tin vào Thiên Chúa tình thương đã vươn lên một tầm cao siêu nhiên hơn đẻ xác tín rằng đau khổ là một hồng ân. Ấy chính lúc họ đã gặp được niềm vui của Tin Mừng: Một tin mừng tràn đầy niềm hy vọng. Tin Mừng ấy không chỉ có sức biến đau khổ thành niềm tin, niềm vui, mà còn có sức thôi thúc chia sẻ cho những người đau khổ khác, để họ cũng được niềm vui chấp nhận và niềm tin vào hạnh phúc thật.
Nhờ tin tưởng và hy vọng, con người mang tấm lòng của Chúa, nhận ra quanh mình có những mảnh đời vừa đau lại vừa khổ. Đau vì bệnh, khổ vì bị bỏ rơi. Đau vì thiếu đói, khổ vì nhục với cái nghèo. Đau vì “giận no hơi, buồn thúi ruột”, khổ vì không tìm được lối thoát, tự mình giam hãm trong cái vỏ ốc của mình.
Không lẽ nào không nhìn thấy, chuyện đau yếu bệnh tật đang trở nên quá lộ liễu trong thời đại chúng ta. Không phải vì thời trước không có, nhưng khoa học càng văn minh tiến bộ càng cho con người thấy rõ sự yếu hèn của mình. Có người không dám đi khám bệnh, vì sợ ra bệnh, ra lo, rồi thêm bệnh. Cũng có người chỉ cần mỗi một cái hắt hơi nhẹ cũng hoảng lên vì sợ. Con người không ai thoát khỏi cái cảnh đau, cảnh khổ, nhưng thường thì chỉ biết cái đau, cái khổ của mình, và hầu như muốn nhận cho mình là người đau khổ nhất. Nếu không loại ra khỏi lòng mình tính ích kỷ, thì làm sao hiểu được đau khổ của kẻ khác; nếu không hạ mình xuống chạm đến nỗi đau kinh khủng nhất của người khác, thì làm sao loan tin mừng bình an cho họ.
Về điểm nầy, Thánh Phaolô nêu gương cho chúng ta “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm”. Ngài đề nghị một cách loan tin mừng cụ thể nhất: là tha thiết với việc trở nên “người yếu đau” giữa những người yếu đau để chinh phục người yếu đau. Chính Ngài cũng đã từng khổ tâm khi chưa được tìm được bình an thật, và khi đã ngộ ra bình an thật chính là Tin Mừng, chính là qua Đức Giêsu Kitô tan hòa với hạnh phúc thật là Thiên Chúa, thì Ngài nhận ra rằng mình được giao phó loan báo tin mừng ấy cho mọi người. Ngài tự thấy “khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Ngài bằng lòng làm nô lệ cho mọi người. Cách nói “nô lệ cho mọi người” cho thấy tinh thần phục vụ của Ngài đã vươn tới đỉnh cao của lòng bác ái, đồng hình đồng dạng với Đức Kitô tự do, đã tự nguyện làm con chiên đền tội cho nhân loại, trở nên tất cả cho mọi người để cứu rỗi mọi người.
Ý hướng loan tin mừng cho người đau khổ trở thành mối bận tâm lớn và thôi thúc thánh nhân biến thành công việc cụ thể để tất cả - trong đó có, tất cả thời gian- cho mọi người, như Chúa Giêsu bắt chước Cha mình, làm việc liên lỉ.
Việc của Chúa Giêsu, của Thiên Chúa Cha, là công việc của yêu thương, bác ái, là công việc đem lại bình an thật cho con người đau khổ, là mời gọi con người tìm đến một hạnh phúc thật không chỉ nơi Nước Trời, mà còn ngay trên trần gian này nhờ niềm tin yêu hy vọng. Đoạn Tin mừng theo Thánh Marco 1,29-39 cho biết Chúa Giêsu đã chữa lành cho nhiều kẻ ốm đau do mắc đủ thứ bệnh tật và cả những người bị quỷ ám. Những phép lạ kèm theo với lời rao giảng cho thấy một Thiên Chúa Quyền Năng trong Đức Giêsu Kitô luôn dùng quyền năng của mình để bắt đầu cho con người một hành trình Đức Tin dẫn đến hạnh phúc.
Các Kitô hữu công giáo thời nay vẫn còn mong những dấu lạ, mà quên rằng hành trình đến Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của mình đã bắt đầu bằng đức tin. Sống trong đức tin với bao lần tuyên tín mà vẫn mong chờ một dấu lạ được nhìn thấy bằng con mắt phàm trần. Và khi không được nhìn thấy một hạnh phúc mà họ mong muốn theo dục vọng của mình, theo lòng tham lam vô độ, thì họ vẫn còn đau khổ.
Tinh thần loan tin mừng cho người đau khổ trong thời đại chúng ta, thời đại của Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đã thấm nhuần nơi các tín hữu, không còn lệ thuộc vào những dấu lạ mắt thường trông thấy, mà là những biến đổi tận căn trong ý thức con người. Là Kitô hữu công giáo, là phải thể hiện đời sống bình an thật, hạnh phúc thật, trước những đau khổ ở đời, ít nhất là như ý thức của ông Gióp: một hạnh phúc thật không có trên trần gian; và hơn nữa, là ý thức Đức Kitô đang chữa lành mọi nỗi khổ đau cho chúng ta. Phải tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu, Ngài đang nhìn thấy rõ mọi khổ đau của từng Người, và Ngài luôn động lòng trắc ẩn. Ngài đang chữa cho con người lành bệnh, nếu việc lành bệnh sinh ích lợi thiêng liêng, sinh hạnh phúc thật cho con người. Cũng thế, Ngài đang ban hạnh phúc thiên thu cho con người khi con người chấp nhận được những khổ đau làm bậc thang tiến lên trong ân sủng.
Điều đáng buồn nhất, tệ hại nhất, của con người thời nay, là không thấy mình mắc bệnh, không thấy mình đau, cũng không thấy mình khổ. Không bệnh, không đau, không khổ vì lầm tưởng rằng ta đang mạnh khỏe, ta đang hạnh phúc, ta đủ sức chiến đấu đến cùng. May mắn thay, con số này không nhiều lắm. Vì kể cả những người không cần đến Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, cũng có một lúc ngộ ra rằng: đời mình là có thật, mà đời sau cũng có thật. Không lẽ đời mình chỉ có thế thôi sao!
Ở chỗ tôi có vài hình ảnh. Ở chỗ bạn có không? Này nhé, có người suốt đời tận tụy tín trung cho một chủ trương không Thiên Chúa, vì đã có tất cả, chức quyền, vợ đẹp, con ngoan, tiền bạc dư thừa mặc dù không cần biết tiền công chính hay bất chính, bảo hiểm sức khỏe lo tới tận nhà…thế mà, trong cơn bỉ cực, khi không còn danh vọng chức quyền, vợ không còn trẻ đẹp, con không còn ngoan như hồi cha nó làm ăn được, nằm một chỗ nghe từng đốt xương ca bài ca thương thân… mới ngộ ra rằng, hạnh phúc trần gian chưa thật. Và hình ảnh Thiên Chúa bị phủ nhận trước đây, bây giờ đang hiển hiện, mỗi lúc một rõ.
Chúa Giêsu không bao giờ bại trận trong cuộc chiến đem tin mừng cho người đau khổ. Thiên Chúa vẫn yêu thương người đau khổ, vì Ngài mặc cho khổ đau trong đời một giá trị tuyệt vời trong chương trình của Ngài.
Chúa đang chữa lành cho chúng ta những bệnh phần hồn phần xác. Điều quan trọng là phải biết mình đang mắc bệnh, nhất là những căn bệnh tâm linh. Và khi đã hiểu ra được lòng thương cứu chữa của Chúa, đem lại cho chúng ta bình an thật, hạnh phúc thật, thì bổn phận, cũng là việc tạ ơn, là phải loan báo cho mọi người biết tình thương của Chúa. Luôn tin tưởng Chúa thương cứu mọi người, để chúng ta nhìn những người con người đau và khổ- trong bất cứ tình huống nào - bằng cái nhìn yêu thương, phát xuất từ trái tim yêu thương của Chúa, qua Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cầm lấy tay con mà đỡ con đứng dậy, để con đi phục vụ Chúa trong mọi người.
Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng đức Giê-su coi việc chữa lành người bệnh tật: TN5-B66
Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng đức Giê-su coi việc chữa lành người bệnh tật ốm đau chỉ là một công tác phụ, trong khi sứ mệnh chính của Người là rao giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần đa họ tìm đến với Ngài trước hết vì được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền. “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa lành mà dân chúng tin vào lời Ngài giảng dạy. ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ (c.22).
Tuy nhiên hình như chính đức Giê-su cũng ý thức rõ hơn ai hết: không lời giảng dạy nào về một Thiên Chúa nhân ái đối với con người nhân loại lại hữu hiệu và hùng hồn cho bằng nhân danh Thiên Chúa rộng tay chữa lành các thương đau phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn. Ngay cả đối với các môn đệ mới chiêu mộ, Người cũng đã hoàn toàn chủ động chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù không được ai yêu cầu. Phải chăng đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo cách nói của Gio-an sau khép lạ nước hóa rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 1, 18)? Khi dài dòng thuật lại rất nhiều phép lạ đức Giê-su đã thực hiện, tác giả Mác-cô muốn tô đậm nét ông thầy thuốc nơi Người ‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; đó chính là hình ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2, 17).
Như vậy đối với đức Giê-su, rao giảng và chữa bệnh không phải là hai công việc tách biệt nhau. Bởi nếu nội dung sứ điệp Tin Mừng Người chính là <Thiên Chúa nhân ái quan tâm đến số phận con người yếu hèn trong cả lãnh vực thể lý lẫn tinh thần>, thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và sắc bén nhất sẽ phải là ‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘xua trừ ma quỉ’. Đức Giê-su hẳn có ý nói điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn ghi nhận thêm ‘Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ’ (NB. Người Do Thái thời đức Giê-su cho rằng mọi bệnh tật đều do ma qui gây ra). Người chỉ muốn cho toàn thể nhân loại được biết: Thiên Chúa từ nhân đang thật sự ở giữa họ, đồng hành với họ, cảm thông nỗi thống khổ của họ, và tích cực can thiệp theo cách thức của Người.
Suy niệm trên chẳng có gì là quan trọng cho lắm, tuy nhiên nó sẽ giúp tôi tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải, đó là cho rằng Tin Mừng hệ tại ở các tín điều cao siêu lắm (công thức phức tạp của Kinh Tin Kính chẳng hạn)… Và cho rằng làm bác ái là tùy nghi, tùy khả năng mỗi người, và chỉ có mục đích gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo phần rỗi linh hồn mình. Khi đọc Phúc Âm tôi sẽ không còn nghĩ là đức Giê-su thực hiện các phép lạ chẳng qua chỉ vì muốn chứng tỏ quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời mình..; khi mà các học thuyết Người dạy thì chủ yếu gồm toàn các qui định luân lý và giới luật này nọ. Hơn bao giờ hết tôi nhận ra Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy thuyết phục. <Đức Giê-su - Lời> nói lên sứ điệp tình yêu của ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…’ và tình yêu đó thật cụ thể ‘Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ’ (Ga 3, 16.17). Toàn thể cuộc đời đức Giê-su chỉ là Lời tình yêu cứu độ: Lời trong sứ điệp, Lời trong hành động, Lời nơi các phép lạ, Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá, và Lời trong sự Phục Sinh chứa chan niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ nội dung duy nhất của sứ vụ đức Giê-su trên trần gian là quảng bá và thể hiện mọi nơi mọi chốn một ‘Thiên Chúa yêu mến thế gian’ với trọn con người Ngài.
Là tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi dám áp dụng cho đức Giê-su câu nói mà chúng tôi vẫn thường dùng để ám chỉ Don Bosco: “Người không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà không phải vì…(phần rỗi giới trẻ)… chứng tỏ và thể hiện Thiên Chúa yêu mến thế gian tột độ”.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho con được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho Tin Mừng tình yêu nhân ái được thể hiện và nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng xã chung quanh nữa’. Con muốn rằng, là linh mục của Chúa, con không chỉ giảng dạy sứ điệp này bằng lời nói suông, mà phải bằng cả thái độ và hành động của mình. Xin cho con quảng đại dấn thân phục vụ mọi nơi và với hết mọi người. Amen
Văn hoá Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, vẫn đề cao tình làng nghĩa xóm: “tối lửa tắt: TN5-B67
Văn hoá Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, vẫn đề cao tình làng nghĩa xóm: “tối lửa tắt đèn có nhau”. Sự liên đới yêu thương đùm bọc lẫn nhau tha thiết đến độ: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Sự liên đới đó không chỉ dừng lại ở thôn xóm, dòng tộc mà bao quát cả dân tộc trong tình thương giữa người với người như câu ca dao ngày nào vẫn phảng phất du dương: “Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Thế nhưng, truyền thống đó đang mất dần trong thế giới hôm nay. Một thế giới ích kỷ và hưởng thụ. Một thế giới theo chủ trương “Mackeno” đang làm tan rã tình người. Người ta lo cho bản thân. Người ta sẵn sàng vì quyền lợi của mình mà chà đạp lên người khác, mà chồng chất nỗi đau lên tha nhân. Con người hôm nay chỉ nghĩ đến mình nên nhẫn tâm bỏ rơi đồng loại trong khổ đau và tuyệt vọng. Sống bên nhau, nhưng thương nhau thì ít mà đầy đoạ nhau thì nhiều. Sống với nhau nâng đỡ nhau thì ít mà loại trừ nhau thì nhiều. Đỉnh cao của sự tàn nhân, vô tâm trước khổ đau của đồng loại chính là thái độ thiếu trách nhiệm với nỗi khỗ của anh em.
Có một tai nạn xảy ra trên quốc lộ 1A, một chiếc xe vận tải chở gỗ tràm đi theo hướng từ Bắc vào Nam, đã đâm trực diện một chiếc xe vận tải chở trái cây, chạy theo hướng từ Nam ra Bắc. Vụ tai nạn này đã khiến buồng lái của chiếc xe Bắc vào Nam bị bẹp dúm, còn chiếc xe từ Nam ra Bắc thì bị lật ngang, trái cây đổ tung tóe trên đường. Ðáng lưu ý là trong khi cả hai tài xế và hai phụ xe của hai chiếc xe cùng bị trọng thương, cần cấp cứu thì dân chúng quanh đó lại đổ đến để... cướp trái cây. Mặc người bị nạn. Điều người ta quan tâm chính là hôi của, là ăn cắp hội đồng.
Xem ra cuộc sống hôm nay quá vô tâm! Có phải vì đói, vì thèm khát một quả trái cây mà hành động như vậy chăng? Chắc chắn là không. Chắc chắn là không ai nghèo đói đến độ không có một quả trái cây mà ăn. Có chăng là vì họ thiếu vắng tình người, sự liên đới và trách nhiệm với tha nhân! Không ai nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm trước sự sống còn của tha nhân. Không ai bận tâm trước những rủi ro bất hạnh của anh em. Tình người xem như đang mất dần trong xã hội đề cao vật chất và hưởng thụ hôm nay.
Phải chăng cách hành xử thiếu tình người đó đang là vấn đề cần phải cải thiện của xã hội hôm nay? Phải chăng khi người ta đề cao vật chất thì tình người lại bị coi thường và chà đạp? Dường như là vậy. Nhiều người quá đau khổ vì không tìm được sự nâng đỡ của anh em trong những lúc gian nan. Nhiều người quá tuyệt vọng vì sự lạnh lùng, thờ ơ và bỏ rơi của gia đình và bạn bè.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giê-su. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng vị tha như Chúa, thì dòng đời sẽ không còn những cái khổ triền miên như ông Gióp. Nếu cuộc đời ai cũng biết có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng như ông Gióp. Ông Gióp khi đối diện với nghịch cảnh của dòng đời đã không tìm được sự nâng đỡ từ bạn bè và người thân, ông còn bị người đời chế giễu và vợ con bỏ rơi. Nỗi khổ đau và sự cô đơn đã khiến ông kêu lên trong u buồn, sầu thảm: “Số phận của tôi phải chăng là những đêm đau khổ ê chề?”.
Vâng, số phận của ông Gióp và số phận của hàng vạn người quanh ta vẫn đang cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Vẫn còn đó những người chồng, người vợ đang tuyệt vọng vì đời sống thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của: TN5-B68
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, thu tó#m thật nhiều cho mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái lại, Chúa Giê-su chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho sự phục vụ tận tuỵ của Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
Tin Mừng Mác-cô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giê-su luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm than khốn khổ:
Hôm ấy, “vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ.”
Sáng hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giê-su không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giê-su không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
Nói tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa Giê-su mà không được Chúa quan tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa mà chẳng được Chúa dủ lòng thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người, yêu thương hết mọi người và hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.
Noi gương Chúa Giê-su, chúng ta vui lòng hy sinh phục vụ bao người chung quanh. Mỗi người là một tế bào, là một bộ phận trong một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Mỗi cá nhân được tồn tại và tăng trưởng là nhờ xã hội và xã hội được phát triển cũng là nhờ vào từng cá nhân.
Vì thế, mỗi người không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giê-su.
Một cây cam được xem là đáng quý khi nó cống hiến nhiều quả ngon trái ngọt cho chủ vườn. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp cho đời sẽ làm cho bản thân mình trở nên cao quý hơn.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã sống hết mình vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho người khác, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay tuy vắn gọn, nhưng rất rành mạch và súc tích, để mô tả khái quát một: TN5-B69
Bài Tin Mừng hôm nay tuy vắn gọn, nhưng rất rành mạch và súc tích, để mô tả khái quát một ngày tất bật và vất vả trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Những ai tình nguyện đi theo Người, thì không thể không tuân thủ theo thời khóa biểu khít khao và tận tụy đến như thế.
Việc đầu tiên: Cầu nguyện.
Ngay sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc 1, 35) Khởi đầu cho môt ngày rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu lặng lẽ cầu nguyện, để kết hợp mật thiết với Chúa Cha., để tìm hiểu và đón nhận Thánh Ý nhiệm mầu, để bổ sung nguồn lực yêu thương, để bù đắp thêm sức mạnh Thánh Thần.
Khi siêng năng chạy đến cùng Chúa Cha mỗi sáng sớm tinh mơ, Người muốn nhắn nhủ và dạy bảo các môn đệ, giờ phút cầu nguyện quan trọng biết dường nào trong sứ vụ Đi Gieo. Không cầu nguyện thì tựa như đánh mất mối giao hảo thánh thiêng với Thiên Chúa, các môn đệ sẽ dần xa cách Chúa, sẽ dần xa vời nguồn lực nuôi dưỡng và bổ sung quan trọng cho Ơn Gọi.
Việc thứ nhì: Đi Gieo
Sau khi đã thỉnh Thánh Ý, gia tăng thần lực, Chúa Giêsu mới đến với con người, tận tâm rao giảng Tin Mừng. Người không chỉ dùng lời nói xuông, mà còn cả thái độ khiêm tốn và hành vi ân cần, để gần gũi chăm sóc đoàn chiên. Khi được biết bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường, Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (Mc 1, 31)
Như thế, Đi Gieo còn có ý nghĩa là tri hành hợp nhất. Dùng ngay hành động để minh chứng cho lời nói. mới phù hợp với nhu cầu cấp bách hiện đại. Thời nay, người ta cần những chứng nhân hơn thầy dạy, hoặc nếu cần thầy dạy thì trước tiên người ấy phải là chứng nhân. (Đức Phao-lô đệ lục)
Việc thứ ba: Phục vụ
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, chẳng kịp nghỉ ngơi Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. (Mc 1, 34) Chúa Giêsu luôn quên cả bản thân, luôn lắng nghe, luôn đáp ứng và phục vụ những nhu cầu của mọi người, để giúp đỡ, an ủi, chữa lành những vết thương thể xác lẫn tinh thần. Noi gương Người, thánh Phaolô sau này, đã chia sẻ với tín hữu Côrintô: Phải, tôi là người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ cho mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được thông chia phần phúc của Tin Mừng. (1Cr 9, 19, 22-23)
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn gần gũi với Chúa hằng ngày bằng lời cầu nguyện, để con được thêm sinh lực theo đuổi Ơn Gọi mà Chúa trao phó.
Lạy Mẹ chí ái, xin đốt lửa mến trong lòng con, để con siêng năng tâm tình với Chúa, cũng như ban cho con thêm đức ái, để luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
Chỉ trong một đoạn Tin Mừng vắn vỏi, thánh Maccô đã tường thuật một ngày sống của Chúa: TN5-B70
Chỉ trong một đoạn Tin Mừng vắn vỏi, thánh Maccô đã tường thuật một ngày sống của Chúa Giêsu: Một ngày sống bình thường trong suốt 3 năm rao giảng, một ngày sống không có nhiều biến động.
- Không có bánh hóa ra nhiều. - Không có biệt phái và luật sĩ thách thức. - Không có tranh cãi, kiện tụng…
Có thể nói, đây là một ngày tiêu biểu mà Chúa Giêsu muốn môn đệ Người phải sống. Một ngày vắn vỏi nhưng cũng đủ cho Chúa thực hiện 3 tác vụ: Tiên tri, Tư tế và Vương đế.
- Tiên tri: Rao giảng trong hội đường, làng mạc…
- Vương đế: Chăm sóc đoàn dân cả về tinh thần lẫn thể xác: Chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Vì: “Ai làm đầu phải phục vụ anh em mình” (Mt. 20: 26)
- Tư tế: Sống kết hiệp với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện, vì: “Thân xác anh em chính là đền thờ Chúa Thánh Thần” (Cr1. 6: 19)
Xem ra, thực hiện những việc này không phải là khó lắm!
- Tôi cũng thích làm ngôn sứ, thích nắm mi-crô ở những chỗ đông người, thích có cơ hội để “phun châu nhả ngọc”, thích dùng những mỹ từ có cánh ca tụng Chúa… Tuy nhiên, thỉnh thoảng tôi cũng không bỏ qua dịp tốt để phê phán người này kẻ nọ, những kẻ giả hình mà theo tôi, Chúa cũng từng lên án. Tất nhiên, tôi không bỏ qua bất cứ cơ hội nào có thể trích dẫn Lời Chúa để “lời mình” tăng sức thuyết phục. Tôi làm ngôn sứ để nói “lời mình” và chờ những phản hồi tích cực đại loại như: “Vị” này thuyết giảng hay, đậm chất trí tuệ, thông minh uyên bác… Nếu có ai đó bĩu môi: “Thằng cha này đầy rượu rồi!” (Cv. 2: 13) hay “Con vẹt đó muốn nói gì vậy?” (Cv. 17: 18) , thì đừng hòng yên thân với tôi. Tôi không đủ kiên nhẫn như các Tông đồ ngày xưa, vì ngọn lửa Thánh Linh đâu có thiêu đốt tôi khi tôi chỉ “làm chứng” cho chính tôi!? Tôi chỉ có “lửa căm giận” khi gặp phải những kẻ “bất đồng quan điểm”, những kẻ thụ động trong Đức Tin, những kẻ lười nhác trong cách sống đạo… Nói chung là những kẻ không dám… “làm chứng” cho Chúa như tôi!
- Rồi tôi cũng tham dự những công tác từ thiện: Những dịp phát thuốc, phát quà… Những lần thăm nom vùng sâu, vùng xa… Lúc nào cũng phải lo kèn cựa sao cho “hội” của mình phải hơn những “hội” khác để tạo ảnh hưởng, để gây ấn tượng… Tôi quên rằng khi chữa bệnh và xua đuổi ma quỷ cho dân chúng, Chúa Giêsu đã “không cho ma quỷ nói, vì chúng biết Người” (Mc. 1: 34). Chẳng phải mới trước đó, trong hội đường Ca-phác-na-um, một tên quỷ đã hét lên: “Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc. 1: 24). Tôi thì chỉ chờ thiên hạ tôn vinh mình là ngôn sứ của Chúa, tôi muốn họ biết đến Chúa qua tôi chứ không phải qua ai hay biến cố nào khác. Tóm lại, vai trò ngôn sứ của tôi phải “độc quyền”, không… đụng hàng!
- Cầu nguyện à? Cái này thì hơi phức tạp một chút đây! Những lúc cầu nguyện thường thì tôi chỉ nhớ đến mình: Tôi xin cho được sức khỏe, làm ăn tấn tới, gia sự bình an đặng còn phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân… Tôi biết Chúa thừa thông minh để hiểu đó là “điều kiện ắt có và đủ”!?!
Có lần đi dự một Thánh Lễ Mở Tay, cha nghĩa phụ của Tân Linh Mục giảng lễ có nhẹ nhàng đặt một câu hỏi: “Thời nay, chúng ta dễ dàng phê phán và ngay cả lên án các linh mục. Nhưng đã có khi nào chúng ta thực sự cầu nguyện cho các linh mục chưa?”
Tôi giật mình nhớ lại: Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã được chọn làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo chỉ nhờ vào đời sống cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, Đức Chân Phước Gioan Phaolô II dành rất nhiều thời gian trong ngày để cầu nguyện cho Giáo Hội và thế giới mặc dù bận rất nhiều công việc ở ngôi Giáo Hoàng… Đời sống cầu nguyện chỉ phát xuất từ Tình yêu.
- Vì yêu, ta luôn muốn làm được điều tốt nhất cho người mình yêu. - Vì yêu, ta luôn nghĩ đến người mình yêu trong mọi lúc và mọi nơi. - Vì yêu, ta mong muốn ký thác người mình yêu vào nơi đáng tin nhất, vững chãi nhất.
Không phải đợi đến lúc chịu khổ hình Thập Giá Chúa Giêsu mới thể hiện Tình yêu trao hiến, nhưng Người đã yêu thương con người trong từng ngày sống. Yêu thương và thông cảm với thân phận người trong từng cái đói, trong từng cơn bệnh, trong từng nỗi lo, trong sự điên dại, trong cơn bội phản, trong vẻ hững hờ… Yêu thương và không ngừng mời gọi, ngóng chờ… Mặc dù đã chữa cho lành bệnh, Người vẫn không ngừng cầu nguyện cùng Chúa Cha cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết sống yêu thương thật sự, để mỗi một việc chúng con làm cho anh em đều chan chứa Tình yêu kế thừa từ Thiên Chúa nhờ luôn đi kèm với lời cầu nguyện. Và nhất là, chúng con luôn thực thi vai trò ngôn sứ chỉ để sáng danh Chúa chứ không nhằm vinh danh bản thân mình. Amen.
Trong lúc đọc Phúc âm thánh Mác-cô, tôi nghĩ đến vở nhạc kịch "Jesus Christ, Superstar": TN5-B71
Trong lúc đọc Phúc âm thánh Mác-cô, tôi nghĩ đến vở nhạc kịch "Jesus Christ, Superstar" (đã được dựng phim). Tôi nhớ đến những cảnh có rất nhiều tiếng hô to của đám đông dân chúng xô đẩy nhau để có thể với tới Chúa Jesus, họ kêu gào để xin Ngài thương cứu họ: "Xin ông hãy làm gì cho tôi". Đám dân chúng xem Chúa Giêsu như là một "tài tử tuyệt vời", một người có thể giúp họ ngay lúc đó. Phúc âm thánh Mác-cô khiến tôi thoáng nghĩ đến những phim thời xưa, với những tài tử nhanh lẹ hơn người thường.
Chúa Giêsu đang dạy trong đền thờ, thì bị một người bị quỷ ám chặn Ngài. Sau khi trừ quỷ, Ngài ra khỏi đền thờ để đến nhà hai ông Simon va An-rê. Các ông đưa Ngài đến bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng. Chúa Giêsu chữa cho bà hết bệnh, rồi Ngài lại vội vã ra đi vì trời đã xế chiều. Dân chúng lại kéo nhau đem đến cho Ngài những người đau ốm, và cả những người bị quỷ ám. Và hơn nữa, "cả thành xúm lại trước cửa". Thật là những hành vi nhanh lẹ, dân chúng vội vã ngóng trông Chúa Giêsu làm phép lạ để giúp đỡ họ. Các Tông đồ cũng tìm Ngài. Cứ như sự mô tả của Phúc âm, họ như là những thợ săn đi tìm thú. Trong đó các ông đi tìm Chúa Giêsu và đem Ngài về lại để gặp dân chúng, và rồi các ông cũng được người ta săn lùng nữa.
Phúc âm cho chúng ta biết là Chúa Giêsu không muốn dân chúng nghĩ Ngài chỉ là một người làm phép lạ. Để tránh đám đông dân chúng, và để tìm nơi yên tĩnh cầu nguyện, Ngài dậy sớm, đến nơi hoang vắng. Nhưng ông Simon và các ông khác đi tìm Ngài. Đọc trong Phúc âm, các ông đi tìm Chúa Giêsu như thợ săn đi tìm mồi. Các ông muốn đem Ngài về lại nhà để gặp dân chúng, và nhờ Ngài mà các ông cũng được dân chúng quan tâm sát sao.
Trong giáo xứ chúng ta có nhiều người làm việc có lương và cũng có nhiều người làm việc tình nguyện. Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy như vậy. Việc của chúng ta không bao giờ được ngưng nghỉ. Các chức việc cũng như phụ huynh là những người cùng nhau hợp tác liên tục. Những việc tốt họ làm hình như không bao giờ đủ. Công việc của Chúa Giêsu làm cũng vậy, có vẻ như không lúc nào ngưng nghỉ. Ngay cả những lúc Ngài vào đền thờ, thiên hạ cũng tìm đến Ngài để xin Ngài giúp đỡ.
Sau đây là những việc Chúa Giêsu làm: Ngài thường giúp đỡ người khác ở ngoài thánh đường. Ngài thường chữa bệnh ở nhà như chữa bà mẹ vợ thánh Phêrô. Ngài chữa bệnh trên đường đi, trên sườn đồi, và làm phép lạ ngay cả trên tàu đánh cá. Phúc âm thánh Mác-cô tường trình những việc Chúa Giêsu làm cũng giống như công việc chúng ta phải làm. Chúng ta không phải sống đời Kitô hữu bán thời gian. Hể ở đâu có việc cần là chúng ta phải làm, bất kể ngày giờ.
Vì thế, chúng ta luôn cảm thấy phải phục vụ. Chúng ta phải ngưng việc làm thường nhật để giúp một đứa bé, hay giúp một người bạn vừa được giải phẫu, giúp một phụ nữ bị ngược đãi, đưa một người thân lớn tuổi đi bác sĩ, hay lo đám cưới cho một đứa con, giúp một đứa con khác bị người yêu bỏ rơi. Rồi chúng ta lại phải đi mua sắm thức ăn, và nấu nướng. Chúng ta phải giúp một người bà con bị mất việc. Lại còn bao nhiêu việc ở giáo xứ và ở cộng đoàn nữa...Nhân danh Chúa Giêsu, chúng ta giúp kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới mặc, thăm viếng người bệnh, và người trong lao tù. Chúng ta còn phải đi rao giảng Tin mừng .
Phúc âm thánh Mác-cô cho chúng ta thấy cần phải thận trọng như các môn đệ Chúa Giêsu. Vì thế, ngay cả các tông đồ cận kề bên Chúa Giêsu cũng không thấy rõ Ngài là ai và sứ vụ của Ngài là gì. Các ông bị mất hướng vì thấy dân chúng ngưỡng mộ Chúa Giêsu. Các ông thấy Ngài rao giảng Tin mừng cho dân chúng thì các ông lại tưởng nhờ vào đó, các ông cũng được dân chúng tán thưởng vì sống gần Ngài. Vì thế, sau đó ông Gia-cô-bê và ông Gioan mới xin được kẻ ngồi bên hữu, người ngồi bên tả Chúa. Chúa Giêsu phải nhắc cho các ông biết là các ông chỉ nghĩ đến vinh quang, họ không biết phục vụ là gì. Trong lúc danh tiếng Chúa Giêsu lan tràn khắp vùng ngày càng nhiều thì Ngài làm gì? Trong lúc đám đông ngưỡng mộ theo Ngài để xin Ngài chữa bệnh thì dựa vào đâu mà Ngài chỉ chú trọng đến sứ vụ của Ngài?
Rất dễ nói về Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa", vì Ngài luôn biết chắc rằng Ngài phải làm gì và nói những gì. Thánh Mác-cô nhấn mạnh đến nhân tính của Ngài như trong lời kinh nguyện Thánh thể IV "Ngài giống chúng ta mọi điều, trừ tội lỗi". Khi Chúa Giêsu ra đi cầu nguyện một mình ở nơi "thanh vắng", để tránh sự ồn ào náo nhiệt của đám đông quần chúng, và tránh sự tìm kiếm danh vọng của các môn đệ, Ngài làm như vậy để chú trọng đến việc Ngài cần phải thi hành nhiệm vụ của Đấng đã sai Ngài.
Hình như trong lúc cầu nguyện, Chúa Giêsu để Thiên Chúa làm việc cho Ngài như Ngài đã chữa cho mẹ vợ ông Simon. Ở nơi thanh vắng, Chúa Giêsu cầm mình nghĩ đến Chúa Cha nắm tay Ngài ngay cả lúc Ngài đau đớn cùng cực, ngay cả lúc Ngài chịu đau khổ nhục nhả vì bị treo trên thập giá. Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện, không phải là để làm việc ít lại. Thật ra, Ngài muốn làm nhiều hơn nữa như Ngài đã nói với Simon "chúng ta hãy đi nơi khác đến các thôn làng chung quanh, để thầy còn rao giảng nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó". Ngài biết chắc Ngài sẽ phải làm gì và sẽ phải đến thành Jêrusalem.
Chúng ta không phải là những tu sĩ ẩn thân. Nhưng chúng ta cũng cần phải tìm nơi thanh vắng như Chúa Giêsu đã làm. Những Kitô hữu chúng ta đã phải làm việc nhiều, và chúng ta cần có thời giờ dành riêng cho Thiên Chúa; Tìm nơi yên tĩnh, lắng đọng tâm hồn để Ngài nói chuyện với chúng ta; để sau đó chúng ta có thể trở về với công việc hằng ngày mà chúng ta phải làm. Lối sống như thế chắc không làm chậm bớt công việc nhiều đâu. Do còn bị cám dỗ vì không chú tâm đến mục tiêu đời chúng ta, chúng ta vẫn còn chú trọng đến sự thành công như các môn đệ Chúa Giêsu đã làm. Trên đường đời, chúng ta sẽ còn gặp những người ra đi trước chúng ta, và chúng ta sẽ còn gặp những thất bại, thất vọng. Nhưng Phúc âm hôm nay cho chúng ta biết là Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Ngài không làm chúng ta nhụt ý chí, dẫn đến thấy chán nản. Ngài luôn vực dậy nhiệt huyết của chúng ta như Ngài đã chữa cho mẹ vợ ông Simon.
Chúa Giêsu tiếp tuc đi rao giảng và Ngài không để thời gian và không gian ngăn chận Ngài lại. Ngài sẽ đến với chúng ta nơi bàn Tiệc thánh. Ngài sẽ đưa tay ra để dẫn dắt chúng ta trên đường đời cùng đi với Ngài. Mỗi khi chúng ta cần sức mạnh để phục vụ kẻ khác, Ngài sẽ giúp chúng ta. Đến dự Tiệc thánh hôm nay, giúp chúng ta đến nơi thanh vắng chung với cộng đoàn đức tin là những người mà Ngài cũng sẽ đưa tay dẫn dắt để nâng đỡ và khuyến khích.
Tôi quen gia đình Chị Hoa ở California trạc, chị chừng 27 tuổi, rất có lòng bác ái và thương: TN5-B72
Tôi quen gia đình Chị Hoa ở California trạc, chị chừng 27 tuổi, rất có lòng bác ái và thương người nghèo khổ. Chị có gia đình và hai con, chị mắc chứng bệnh sốt kinh niên, nhiều lần cơn sốt lên chị đắp 3 lần chăn mà vẫn còn thấy lạnh. Đi bác sĩ nhiều lần rồi mà vẫn “tiền mất tật mang”. Chị nghĩ chỉ còn phương pháp chạy đến cửa trời, thế rồi vào dịp Thánh Mẫu năm 2005, chị cương quyết bồng bế con cái và đưa cả gia đình lên cầu Đức Mẹ. Chị để con cho chồng trông nom rồi một mình cả đêm cầu khẩn bên Tòa Mẹ, nài nỉ xin Mẹ cứu giúp.
Thế rồi chị ra lấy nước suối Đức Mẹ uống suốt 3 ngày liền. Chị tả: “Con uống nước Đức Mẹ vào đến đâu thì thấy người êm nhẹ đi ngần ấy. Con tin là Mẹ đã cầu bầu Chúa cho con. Con uống tiếp mấy ngày Đại Hội, đến ngày trở về, tâm hồn và thân xác con nhẹ nhõm, ngủ ngon không bực dọc như ngày đi Đại Hội. Con đã được Đức Mẹ chữa trị và suốt hai tuần liền con thấy sảng khoái trong mình, hết nhức đầu, hết trùm chăng mà run nữa. Con nói với chồng là con đã được Mẹ chữa khỏi bệnh nhức đầu rồi". Chồng con bảo con: ”Em hãy viết thư lên Đền Thánh để cảm tạ lòng nhân lành của Mẹ đi”. Con vội viết thư này lên Đền Mẹ để cảm tạ lòng nhân lành của Mẹ đã thương cứu giúp một người con nghèo hèn trong lúc hoạn nạn.
Điều mà người thiếu phụ trẻ trên đây vừa diễn tả mối cảm nghiệm đầy tin tưởng vào Thiên Chúa, cũng nói lên niềm tin của bà mẹ vợ ông Phêrô trong cơn sốt nặng nề, dằn vặt mà Phúc Âm Thánh Marcô diễn tả hôm nay. Bà đang lên cơn sốt thì gặp Chúa đến nhà, bà đã thì thầm cầu khẩn Chúa và Chúa biết ý đã cầm tay bà và thầm chữa lành cho bà. Tức thì bà ngồi dậy rồi đi dọn bữa tiếp đón Chúa và các môn đệ.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy đến với Chúa là Đấng hay thương xót. Người thiếu phụ trên đây đã biết nhờ đến với Đức Mẹ Đấng trung gian của tình thương đầy ân phúc. Chị đã dành cả đêm để tin yêu và thân thưa với Mẹ, thì Mẹ nào mà không cứu giúp. Tôi đã từng chứng kiến bao người thành khẩn kêu cầu Mẹ như chị và cũng đã được Mẹ đáp lời. Tôi phải ca rao danh Mẹ “Mẹ là Mẹ đầy tình thương, Mẹ là Mẹ hay cứu giúp” để mọi người biết mà đến kêu cầu Mẹ kẻo uổng một đời trông chờ thứ thuốc trần gian ban tặng. Chúng ta có biết mình hèn kém chưa? Hãy đặt hết tin tưởng như trường hợp của chị là chạy đến cùng Đấng nhân lành. Hãy phó thác hết mọi nỗi âu lo nơi Đấng cầu bầu hay thương xót đi.
Muốn được thế, Chúng ta hãy cố gắng để trả bằng cái giá “Hy sinh đời sống mình để làm việc thiện cho tha nhân“. Tôi chắc chắn đã có nhiều lúc người thiếu phụ trên đã được chữa lành, cũng là nhờ tình thương sả thân cho đồng bạn.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một tình yêu xả thân biết hy sinh nhường cơm sẻ áo, chia phần cho đồng loại. để con có được một tình thương như Chúa. Xin ban cho con biết nhân từ với những người xung quanh con mà không kể gì đến cái giá con phải trả. Xin cho con biết giơ cánh tay nâng đỡ người khác trước khi con xin Chúa cứu giúp con.
Sống trên đời ai cũng phải trải qua những đau khổ phần xác là bệnh tật. Có nhiều thứ bệnh: TN5-B73
Sống trên đời ai cũng phải trải qua những đau khổ phần xác là bệnh tật. Có nhiều thứ bệnh khác nhau, có khi chỉ cảm cúm sơ sài, có những bệnh chữa trị một thời gian sẽ khỏi, nhưng cũng có những bệnh phải mang cho tới lúc chết. Vậy khi bị bệnh chúng ta muốn gì? Chắc chắn là chúng ta muốn được lành bệnh, vì người bệnh cảm thấy rất khó chịu, không muốn ăn uống và chán nản tất cả mọi sự. Có cho tiền hay cho vàng cũng không qúy bằng được khỏi bệnh.
Chúa Giêsu rất thực tế và thấu hiểu những khó khăn đó nên khi Chúa đến nhà mẹ vợ của Phêrô và biết bà đang bệnh liền chữa cho bà như đã thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa còn thiết lập bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa bệnh phần xác cũng như phần hồn. Thánh Giacôbê đã đề cập trong thư của Ngài như sau: "Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của hội thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy phạm tội thì sẽ được Chúa tha" (Gc 5, 14-15).
Những ai cần được xức dầu bệnh nhân?
Giáo Luật điều 1004 câu 1: "Có thể ban bí tích xức dầu bệnh nhân cho một tín hữu đã biết xử dụng trí khôn, khi họ lâm cơn hiểm nghèo vì bệnh tật hay tuổi già". Như vậy nhiều người đã hiểu lầm bí tích Xức dầu bệnh nhân là chỉ dành cho người già, nhưng theo giáo luật thì khi đã có trí khôn là có thể lãnh nhận nếu bệnh nặng.
Câu 2 nói tiếp: "Bí tích này có thể lập lại, nếu bệnh nhân, sau khi phục sức, lại ngã bệnh nặng, hay, nếu trong cùng một cơn bệnh kéo dài, bệnh tình trở nên trầm trọng hơn". Do đó bí tích Xức dầu bệnh nhân không phải chỉ được lãnh nhận một lần mà mỗi khi lâm bệnh nặng, vì bí tích Xức dầu là ân sủng của chính Chúa Giêsu ban để thêm sức cho linh hồn mà nhiều khi còn chữa bệnh phần xác nữa như lời Thánh Giacôbê đã nói ở trên.
Khi nào thì nên mời linh mục đến ban bí tích Xức dầu bệnh nhân? Thường ta hay chờ đến lúc người bệnh kiệt sức, hay không còn biết gì nữa mới vội vã đi mời linh mục. Giáo luật điều 1006 dậy rằng: "Bí Tích này cũng được ban cho những bệnh nhân nào mà lúc còn tỉnh táo, đã xin lãnh nhận ít là cách mặc nhiên".
Những phép lạ Chúa làm để chữa nhiều người khỏi bệnh có ý cho biết: Chúa là Đấng loài người trông chờ để được giải thoát. Chúa đến để chữa những tật bệnh nơi tâm hồn là tội lỗi. Muốn được Chúa chữa lành bệnh, chúng ta hãy siêng năng cầu nguyện như chính Chúa đã cầu nguyện nhiều lần với Chúa Cha trong suốt thời gian đi rao giảng Nước Trời.
Tôi vất vả quá! Đời tôi sao vất vả quá!” Mang thân phận con người, chúng ta ai cũng vất vả: TN5-B74
“Tôi vất vả quá! Đời tôi sao vất vả quá!” Mang thân phận con người, chúng ta ai cũng vất vả: vất vả tinh thần, vất vả thể xác. Vất vả thể xác được gọi là lao lực. Còn vất vả tinh thần được gọi là lao tâm.
Nếu so sánh giữa tinh thần và thể xác, thì sự vất vả tinh thần có tầm ảnh hưởng sâu sa và lắng đọng hơn. Nó đòi hỏi một sự chấp nhận, chịu đựng mãnh liệt hơn. Chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt này bằng cảm nghiệm của bản thân mình, hoặc do kinh nghiệm học hỏi từ người khác. Thí dụ, một người bị lo lắng dằn vặt tâm hồn lâu ngày sẽ mất ăn, mất ngủ, đôi khi đi đến tâm bệnh. Ngược lại, một người mệt mã vì công việc tay chân, đêm về được dịp nghỉ ngơi lại thấy khỏe khoắn và dễ dàng lăn ra ngủ. Dù là lao tâm hay lao lực, cả hai cũng đều đặt con người vào sự chịu đựng và thử thách. Và cả hai đều bị con người sợ hãi và trốn chạy. Hoặc nếu bất đắc dĩ mà phải chịu đựng, thì sự chịu đựng ấy đa số chỉ là miễn cưỡng. Bất đắc dĩ mà phải chịu.
Tuy nhiên, có một người mà vất vả không thể động đến được, không hề bị ảnh hưởng của vất vả chi phối. Nhưng người này lại ôm lấy vất vả, đón nhận vất vả, và làm bạn với vất vả. Cuộc đời người ấy từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt lìa đời được dệt bằng những vất vả triền miên. Đó là Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân trần. Định mệnh của ngài là sinh ra và chịu vất vả như chính Ngài đã nói: “Con Người đến là để phục vụ chứ không hưởng thụ”.
Trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh ký Máccô đã cho chúng ta thấy thời khóa biểu làm việc của Chúa Giêsu dầy đặc và đầy áp những vất vả. Vừa ra khỏi hội trường là chạy lại nhà của Simon và Andrê. Đến đó rồi, thì lại lo chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon. Sau đó là đoàn lũ dân chúng đến vây quanh, người xin được chữa lành, người xin khỏi quỉ ám. Thánh ký ghi nhận: “Cả thành tụ họp trước cửa nhà” (Mc 1: 33). Bận rộn như vậy, mà mới sáng tinh sương ngài đã vào nơi thanh vắng để cầu nguyện.
Điều hiển nhiên là Chúa Giêsu tự ý chấp nhận và tự ý bận rộn. Ngài làm thế vì Ngài muốn thế chứ không phải vì bắt buộc. Thái độ chấp nhận vất vả của Ngài là điều khiến chúng ta phải nhìn lại những vất vả của chính mình và từ đó tìm cho những vất vả, đau khổ ấy một ý nghĩa.
Thật vậy, Chúa Giêsu vất vả vì các linh hồn. Ngài vất vả, vật lộn với ma quỉ, với những thử thách vì phần rỗi và vì ơn cứu độ của nhân loại. Đây là điểm mà Kitô hữu chúng ta phải rút ra từ những vất vả của cuộc sống thường ngày. Chúa vất vả vì ta và cho ta. Ta cũng phải vất vả vì chính ta và vì những người khác. Chúng ta có bao giờ tự hỏi, tại sao Thánh Kinh đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau để diễn tả sự vất vả của con người, thí dụ, hình ảnh của những người làm công, hình ảnh những ngư phủ chài lưới, hình ảnh những người nông dân dầm sương dãi nắng gieo vãi, gặt hái. Nếu có thì câu trả lời là vì trong tất cả những hình ảnh tượng trưng cho sự vất vả ấy, đàng sau bao giờ cũng thấy xuất hiện hình ảnh của cứu độ, của giải thoát, và của trường sinh bất tử. Có thể nói, Chúa dùng những vất vả, những thử thách và đau khổ của cuộc sống để cho con người dễ dàng đạt được mục đích đời đời, và đạt được phần thưởng cứu độ.
Vậy nếu Chúa Giêsu, Đấng không hề bao giờ cần đến sự vất vả, lại chấp nhận vất vả cho đến chết vì ta, thì đến lượt chúng ta, liệu có thể trốn tránh hoặc coi thường vất vả. Cái mầu nhiệm của vất vả nằm ngay trong ý nghĩa và hành động của Chúa Giêsu. Qua sự chấp nhận, Ngài đã ban cho vất vả một ý nghĩa và giá trị cứu độ. Ngài đã không cứu độ và giải thoát con người bằng những hành động cao cả, và những việc làm phi thường nhưng bằng những vất vả và cực khổ của kiếp người. Và đến lượt con người, thì con người đâu cần phải tìm gì xa xôi để được giải thoát và cứu độ. Hành động cứu độ và giải thoát nằm ngay trong bản chất của cuộc sống, và nằm ngay trong ý nghĩa cuộc đời. Và đó là điều yên ủi, khích lệ chúng ta.
Thay vì khóc lóc, than thở, phiền trách Chúa, phiền trách mình. Thay vì phải vất vả, ngược xuôi để tìm ơn giải thoát, thì sự giải thoát và ơn cứu độ lại có sẵn trong cuộc đời của chính mình. Điều này những tâm hồn thiện chí, những tâm hồn khao khát chân thiện mỹ đều hiểu rõ và sẵn sàng đón nhận. Ngoài ra, phần đông nhân loại vẫn là chạy trốn và khinh bỉ vất vả. Tâm lý này được tìm thấy ngay trong đời sống thường ngày. Ai cũng muốn mình có việc làm nhẹ, lương cao và được trọng dụng. Ngược lại, ai cũng cho mình là người đau khổ và bất hạnh nhất trần gian.
Nhưng khi nhìn vào sự vất vả và chịu đựng của Chúa Giêsu, Kitô hữu chúng ta mới chợt nhận ra rằng, chúng ta đã trốn chạy một điều không bao giờ có thể trốn chạy được, đó là sự vất vả và chịu khó. Ngược lại, khi trốn chạy đau khổ và vất vả, chúng ta đã bỏ lại sau lưng bao nhiêu kho tàng quí giá có khả năng đem lại hạnh phúc và phần rỗi cho chính mình cũng như những người khác. Đó là chúng ta đã bỏ qua rất nhiều cơ hội để chấp nhận và thánh hóa những vất vả của mình theo gương Chúa Giêsu.
Theo gương Chúa Giêsu. Vâng! Chỉ khi nào con người biết nhìn lên Chúa Giêsu để bằng lòng với cuộc sống của mình, thánh hóa nó và cho nó một giá trị cứu độ, thì lúc đó con người mới nhận được giá trị và yêu mến những vất vả của mình. Và lạ lùng thay, chính khi con người biết nhận ra những vất vả của mình, thì cũng là lúc những vất vả ấy biến thành niềm vui và hạnh phúc. Vì nó đã được thánh hoá và ban cho một giá trị cứu độ nhờ vào những vất vả của Chúa Giêsu.
Và cũng để theo gương Chúa Giêsu, chúng ta phải kết hợp với Ngài bằng kinh nguyện, bằng học hỏi Lời ngài trong Thánh Kinh và bằng tham dự các Bí Tích, đặc biệt là Thánh Lễ Misa. Thánh Máccô ghi nhận trong ngày Chúa mệt nhọc và vất vả với con người, nhưng sáng sớm ngài đã tìm vào thanh vắng để kết hợp với Chúa Cha.
Vất vả, lầm than và đau khổ. Vất vả thể xác. Vất vả tâm hồn. Cuộc sống con người là một chuỗi dài nối tiếp những vất vả. Nhưng trong chuỗi vất vả ấy chính là chuỗi hạnh phúc, chuỗi giải thoát. Vì chỉ cần chúng ta khám phá ra giá trị của nó, lập tức những vất vả kia sẽ là niềm vui và hạnh phúc. Chúa Giêsu đã vất vả để chúng ta được hạnh phúc. Ngài chấp nhận vất vả vì chúng ta và cho chúng ta. Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải đón nhận những vất vả của mình cho phần rỗi mình và phần rỗi nhân loại. Và cùng với Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhau vất vả.
Chúng ta đã vui vẻ mừng Mùa Giáng Sinh, rồi Năm Mới Dương Lịch 2006 và vừa mừng những: TN5-B75
Chúng ta đã vui vẻ mừng Mùa Giáng Sinh, rồi Năm Mới Dương Lịch 2006 và vừa mừng những ngày đầu Năm Mới Bính Tuất. Bây giờ chúng ta lại bắt đầu cuộc sống bình thường với bao công việc vất vả hằng ngày, với bao lao công và khổ đau trong cuộc sống. Hôm nay khi đến dâng Thánh Lễ cuối tuần, chúng ta nghe Bài đọc I, Ông Giop than thở: “Lao nhọc là đời sống của con người trên trái đất…” và “Đời sống của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa…”
Thực tế là như vậy. Cuộc đời con người là sinh ra, lớn lên, vất vả làm ăn, bịnh hoạn và cuối cùng là cái chết. Đúng là: “Sinh, Lão, Bịnh, Tử…” Tuy nhiên, đối với chúng ta là những người có niềm tin nơi Chúa là Cha chúng ta, chúng ta không bi quan, yếm thế. Đó chỉ là một thực tế mà mỗi người đều phải trải qua. Chính Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, đã “xuống thế làm người” và sống một cuộc sống lao động vất vả như mọi người suốt 30 năm tại Nazarét. Trong cuộc đời rao giảng, Ngài cũng vất vả, lao nhọc, suốt ngày lang thang trên bước đường truyền giáo: “Con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không có chổ dựa đầu…”. Ngài cũng chịu đựng mọi khổ đau, hiểu lầm, chống đối, và sau cùng là cái chết đau đớn trên Thánh Giá, táng xuống lòng đất; nhưng Ngài đã sống lại, lên trời để mở đường về trời cho chúng ta.
Vậy chúng ta hãy can đảm và vui vẻ sống cuộc sống của mỗi người chúng ta trong khi noi gương cuộc sống của Chúa nơi trần gian: chúng ta hãy siêng năng cầu nguyện, chấp nhận mọi gian lao thử thách, lo chu tòan bổn phận hàng ngày, kể cả bổn phận “đem Tin Mừng tình thương của Chúa đến cho mọi người”.
"Hãy đến thờ lạy Chúa, hãy tiến bước trước nhan Chúa, Đấng tạo thành chúng ta…” (Ca Nhập Lễ).
Xin Chúa chúc lành Năm Mới cho mọi người chúng ta và cầu nguyện chung cho nhau.
Ngày đầu năm theo lịch Tây nằm vào cao điểm mùa đông giá lạnh, cảnh vật tiêu điều: TN5-B76
Ngày đầu năm theo lịch Tây nằm vào cao điểm mùa đông giá lạnh, cảnh vật tiêu điều. Trái lại, ngày Tết của mình mang đầy ý nghĩa, nhằm vào lúc trời đất bắt đầu cựa mình khai mở mùa xuân. Đúng là ngày khởi đầu một tiết nhịp mới.
TẮM NẮNG ĐÀO
Ngày Tết mà nhà không có một cành mai hay cành đào thì xem ra như thiếu vắng một cái gì rất quan trọng. Người trồng mai thì biết nhịp vũ "đạo sống" của mai. Trước Tết cả tháng đã phải vặt hết lá cho cành thật trơ trụi. Ai không thấy được "lẽ đạo" của mai thì cho chuyện vặt trụi lá như vậy là kỳ cục, đang tự nhiên tự lành đi làm cho "con nhà người ta" ra xơ xác, xem ra bị tước đoạt mất hết chả còn gì! Vậy mà lạ lắm, gần đến ngày Tết thì những cành trơ trụi kia bắt đầu đơm nụ, và đúng buổi sáng sang xuân thì nở rộ những bông hoa tươi thắm đầy sinh động.
Thì ra trời đất vẫn xoay vần theo nhịp theo điệu. Có lúc thì xuống thật thấp, như những củ thủy tiên bị vùi dập cho “chết” đi từ tháng mười năm trước, nằm im lìm sâu dưới “lòng đất lạnh”. Vậy mà sức gì lạ lắm: đúng tiết đúng nhịp thì bật lên những mầm non đầy nhựa sống. Rồi nở ra những bông hoa rực rỡ đủ màu hấp dẫn quá chừng. Như vậy thì trời đất có lễ nghi giao thừa đàng hoàng đấy chứ. Khi “chết” thì biết mình chết, không giẫy giụa la hét như con người. Vì củ thủy tiên khi bị vùi dập đã “thấy” trước ngày lễ bàn giao của sự cựa mình đất trời mà hòa vào khúc luân vũ. Nó “thấy” được bên dưới đợt sóng sinh tử chuyển vần là một sức sống Thần Linh duy nhất, nên nó an nhiên nhảy múa theo nhịp dòng đời.
Con trăng có nhịp, con nước thủy triều có nhịp lên xuống. Con tim cũng có nhịp. Có những lúc sau một thời gian u ám tối tăm như hết đường, thì tự nhiên một sức đột biến thật lạ. Khúc Hát Dâng Tình trong Kinh Thánh đã diễn tả sức đột biến này bằng một hình ảnh hết sức tình tứ, như lời Chúa Xuân nói với con người:
Lời chàng văng vẳng bên rào
Em ơi tỉnh dậy ra chào Chúa xuân.
Mưa ngớt tạnh đông tàn băng giá
Hoa đồng nhà muôn đóa khoe tươi
Nhạc xuân rộn rã nơi nơi
Ngàn chim đua hót vang trời líu lo.
Trái vả chín hồng tô rực rỡ
Nụ nho tươi thắm nở ngọt ngào
Lời chàng nồng ấm siết bao
Dậy mau mình tắm nắng đào đầu năm.
(Diễm Tình Ca 2:10-13, Đào Mộng Nam chuyển thơ)
BẮT LẠI NHỊP MỚI
Công thức diễn tiến cuộc đột biến rất giống nhau, như nhịp vũ của bánh dầy bánh chưng trong văn hóa Việt tộc: cành mai phải xả trống cái hộp vuông bưng bít nhốt giam mình lại là những chiếc lá cũ vốn làm dáng cho mình, để hòa nhập đón nhận sức sống mới của Trời tròn bánh dầy viên mãn làm bừng nở những nụ hoa xuân. Mọi sự bỗng trở thành mới, với trời mới và đất mới, trong một tiết nhịp mới.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong bài tùy bút Đẹp Lòng đã diễn tả cái cảm nghiệm đột biến thật kì thú này trong một sự chuyển mình đột ngột:
“Sớm nay tự nhiên tôi đâm bỡ ngỡ đứng trước cuộc sống đầy sinh thú. Cuộc sống có thể sán lạn đến thế kia ư? Và tôi lại được có, để mà thấy mọi cái sán lạn? Tôi muốn tỏ một lời cám ơn... Ta chỉ biết có đạo sống. Ta cũng bắt chước tín đồ kia, nói lên một lời để công nhận phép mầu của đạo Sống, vì chưng một buổi sớm mai này, phép đó đã cho ta thấy rõ ý nghĩa cuộc sống. Nếu ta còn bị Buồn, Hờn ám ảnh đến nỗi quên điều vui trong đạo sống, là chỉ tại ta thiếu hẳn thành kính với cuộc sống. Bắt đầu từ nay, ta thắp một nén hương trong tâm vui để mà sống để khỏi phụ những cái gì đã cấu tạo nên ta. Lòng ta sẽ rung động trước mọi cái hiền lành thơm ngát...
"Lòng tôi đang như một đóa hoa gặp thời nở đủ. Bao nhiêu cái thuần túy, thơm tho, lành đẹp của tâm hồn, tôi đều muốn được tiết ra ngoài cho mọi người thấy.
"Là một đóa hoa nở tung, lòng tôi còn có thể nhận được mọi cái từ ngoài đưa vào, bất cứ là lành hay độc… Lòng tha thứ ở người tôi, lúc này rất thừa thãi. Tôi muốn đem nó ra dùng với tất cả mọi người. Nghĩ đến tội lỗi của mọi người đã gây nên và có thể gây thêm ra nữa, tôi muốn viện những trường hợp giảm đẳng ra để bào chữa cho họ.
"Nghĩ đến mọi sự bất công xã hội này, tôi chỉ lạc quan đặt mong mỏi của mình vào lẽ tiến hóa của loài người rồi thế nào một ngày nào cũng phải đi tới chỗ tận thiện tận mĩ...
"Sáng nay tôi vui vẻ với tất cả người ngoài đường. Và mọi người nhìn tôi với bao vẻ hiền từ.
"Trời hôm nay, là một trời đầy màu sắc. Tương lai; tôi thở toàn những khí lành của của bầu không khí không vấn tí bụi, trong như thủy tinh...
Tôi đang sung sướng vì thấy lòng mình vui, rộng, và biết yêu mọi người, mọi vật, và tôi tưởng mình từ giờ về sau có thể không bao giờ làm được tội ác, phải nói dối hay là để lụy phiền đến ai...”
TIN VUI NHẬN DÒNG NHỰA MỚI
Cảm nghiệm của nhà văn Nguyễn Tuân đúng là một thể hiện sức đột biến trong ngày đầu năm mới. Những gì xem ra ứ đọng ám ảnh và bệnh hoạn tự nhiên tan biến khi hòa mình được vào một dòng sống mới, tiết nhịp của đất trời. Sự đột biến luôn kinh ngạc lạ lùng, không do sức riêng của mình nữa. Đó là những phép lạ của đời sống.
Trong Kinh Thánh, Đức Giêsu đã thể hiện sự đột biến này nơi những người đau ốm bệnh tật:
"Chiều đến khi mặt trời lặn, người ta dẫn đến người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỉ ám, và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỉ…" (Mc 1:32-34).
Bí mật gì đã làm cho Đức Giêsu đầy quyền năng như vậy? Câu trả lời thật đơn giản: "Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó" (Mc 1:35).
Đúng thế, khi làm người, Đức Giêsu cũng mang thân phận yếu sức như bất cứ ai, nhưng Ngài đã buông xả cái hộp vuông bánh chưng vật chất của tiểu ngã để hòa nhập được vào cõi tròn đầy bánh dầy đại ngã tâm linh là chính Chúa Trời Đất toàn năng và luôn hiện diện. Diễn tiến cuộc đột biến bắt được nhịp này thường vẫn được gọi là cầu nguyện, là tĩnh niệm, là kết hợp với Chúa.
PHÚT CẢM NHẬN
Dịp đầu năm mới, chả lẽ mình cứ chịu nhốt tù trong cái hộp vuông cũ rích, khư khư giữ lấy nếp sống duy vật hiện tại khiến đời sống mình mỗi ngày mỗi cằn cỗi? Theo phong tục Việt vào dịp Tết, mình mặc chiếc áo mới, tha thứ xả buông mọi ứ đọng, từng lời ăn tiếng nói đều mới. Ngày Tết đúng là một ngày mẫu, ngày điển hình cho mỗi ngày trong năm. Cây mai hay cây thủy tiên đều có đạo, đều biết cầu nguyện. Chả lẽ mình là con người lại không biết đạo Trời?! Chả lẽ mình không để ra được 10 hay 15 phút mỗi ngày để đi vào tĩnh lặng, tìm nối được vào dòng sức sống là chính Thần Linh Chúa vẫn đang hiển hiện? Và kìa lạ quá: "Đầu cành khô bỗng hoa nở tràn".
Bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên tuần này Thánh Marcô tiếp tục cho: TN5-B77
Bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên tuần này Thánh Marcô tiếp tục cho chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ mình ra, cho cả dân chúng lẫn bốn người môn đệ đầu tiên của Người là Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan, những người môn đệ, sau khi tận tai nghe thấy những lời giảng siêu phàm của Người, nhất là chứng kiến tận mắt thấy những việc phi thường Người làm, như trừ thần ô uế được Phúc Âm tuần trước nhắc đến, đã bắt đầu tỏ ra tin tưởng Người. Ở chỗ, như đầu bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, “sau khi rời hội đường (là nơi Người trừ thần ô uế), Người cùng với Giacôbê và Gioan vào nhà của Simon và Anrê. Bà mẹ vợ của Simon bị cảm sốt, nên việc đầu tiên họ làm là nói với Người về bà”.
Theo như mạch văn của bài Phúc Âm và thái độ của “họ”, tức của các người môn đệ nói chung chứ không phải của một ai trong các vị, một thái độ sốt sắng làm ngay, người ta cảm thấy bề ngoài hình như các vị lo cho bà mẹ vợ của Simon. Nhưng nếu Chúa Giêsu chỉ là một người bạn chài lưới khác của họ bấy giờ thì chắc họ đã không tỏ thái độ sốt sắng lo cho bà như vậy, hay chỉ nói chuyện làm ăn với nhau vậy thôi, hoặc có đề cập đến bà thì cũng là một chuyện phụ, không quan trọng lắm, vì bệnh cảm sốt của bà không đến nỗi nặng lắm, không khẩn cấp như trường hợp của Lazarô. Vậy tại sao bệnh tình “không đến nỗi chết” (Jn 11:4) của bà mẹ vợ Simon này lại có vẻ khẩn trương với bốn người môn đệ này như vậy, chứ không riêng gì Simon là con rể của bà, đến nỗi “việc đầu tiên họ làm” khi vừa vào nhà “là nói với Người về bà”? Nếu không phải vì họ tin rằng Chúa Giêsu sẽ ra tay chữa bà khỏi bệnh, và Chúa Giêsu chắc chắn sẽ dư sức làm được điều ấy. Quả nhiên họ đã được như ý. Phúc Âm kể tiếp, “Người đã đến với bà, cầm lấy tay bà, nâng bà dậy, làm bà hết bị cảm sốt”. Kết quả là, “bà liền bắt đầu phục vụ họ”, tức phục vụ cả Chúa Giêsu lẫn bốn người môn đệ của Người. Trường hợp của bà mẹ vợ môn đệ Simon ở đây cho chúng ta thấy hai điều: sức khỏe là do Chúa ban và vì thế sức khỏe ấy phải được dùng để phụng sự cả Chúa lẫn tha nhân.
Ở đây, Phúc Âm không cho chúng ta thấy dung nhan hay tên tuổi người vợ của Simon, người môn đệ duy nhất được Phúc Âm rõ ràng cho biết là có vợ. Không biết người vợ của Simon bấy giờ còn sống hay chăng? Hai người đã có con với nhau hay chưa? Chỉ biết rằng hai anh em Anrê và Simon chung sống với nhau trong ngôi nhà này với bà mẹ vợ của Simon, như chi tiết được Phúc Âm cho biết: “Người cùng với Giacôbê và Gioan vào nhà của Simon và Anrê”. Trong 12 tông đồ, các Phúc Âm chỉ cho biết rõ về trường hợp lập gia đình của Simon mà thôi. Tuy nhiên, sau khi được tuyển gọi, Simon đã bỏ hết mọi sự, chẳng những nghề nghiệp mà còn cả gia đình của mình nữa để “theo Thày”, đúng như những gì sau này khi nghe Người nói về sự nguy hiểm của giầu sang phú quí ngài đã thưa với Chúa Giêsu: “Chúng con đã bỏ hết mọi sự mà theo Thày” (Mk 10:28). Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ý nghĩa sâu xa về đời sống tông đồ, đời sống theo Chúa, một đời sống chuyên tâm tìm Chúa, ở chỗ, “chọn phần tốt hơn” (Lk 10:42), “tốt hơn” không phải tự bản chất của ơn gọi “tận hiến” tu trì so với ơn gọi hôn nhân gia đình, cho bằng “tốt hơn” vì hoàn cảnh thuận lợi hơn, được ở gần Chúa hơn, chuyên tâm phụng sự Người hơn, không bị chi phối bởi những lo toan về gia đình, về trần gian, một trạng thái “tốt hơn” được vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô chia sẻ cảm nghiệm và kêu gọi tín hữu giáo đoàn Côrintô trong Thư Thứ Nhất của ngài gửi họ (x 7:32-34).
Theo tinh thần Phúc Âm và tông đồ này, tuy công nhận tự bản chất thiên chức linh mục không buộc phải sống độc thân, Giáo Hội Công Giáo đã có luật buộc hàng giáo sĩ, trong đó bao gồm cả ba chức thánh phó tế, linh mục và giám mục (xem Sắc Lệnh về Việc Đạo Tạo Linh Mục của Công Đồng Chung Vaticanô II, đoạn 10, và Sắc Lệnh về Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục cũng của Công Đồng Chung Vaticanô II, đoạn 16). Không kể chức phó tế chuyển tiếp để tiếp tục tiến đến chỗ lãnh chức tư tế thừa tác, chức phó tế vĩnh viễn giành cho giáo dân cũng buộc thành phần nếu đã có gia đình phải sống độc thân sau khi người vợ qua đời.
Vấn đề sống độc thân để có thể theo sát Chúa hơn và phục vụ tha nhân hơn đã được thể hiện sống động nơi gương của Chúa Giêsu hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và tha nhân trong bài Phúc Âm hôm nay. Theo Phúc Âm cho thấy, Chúa Giêsu rất bận bịu với dân chúng, chẳng những do họ kéo đến với Người mà còn do chính Người muốn đến với họ nữa. Không phải dân chúng đã kéo đến với Chúa Giêsu để xin được Người cứu giúp hay sao, đến nỗi, như Phúc Âm thuật lại, họ bất chấp giờ giấc của Người, thậm chí “sau khi mặt trời lặn, màn đêm buông xuống, họ đã mang đến cho Người tất cả những ai yếu bệnh và bị quỉ ám. Trước đó cả tỉnh tụ lại trước cửa nhà (của Simon) đã lâu”, và cả ngay từ sáng sớm, như các môn đệ thưa với Người sau khi tìm thấy Người: “Hết mọi người đang đi tìm Thày”.
Và Người, chẳng những không xa lánh họ, trái lại, ngay buổi tối hôm đó, không biết kéo dài tới mấy giờ khuya, đã ra tay “chữa nhiều người bị các chứng bệnh khác nhau và khu trừ ma quỉ”, mà Người còn tự động muốn tìm đến với nhiều người hơn nữa, như phần cuối của bài Phúc Âm cho thấy, qua câu Người nói với các môn đệ về mục đích Người đến thế gian: “Chúng ta hãy đi đến các làng mạc lân cận để loan báo tin mừng ở đó nữa. Đó là những gì Thày đến để làm”. Và Phúc Âm kể tiếp, “vậy Người đã đi vào các hội đường của họ giảng dạy tin mừng và khu trừ ma quỉ khắp cả miền Galilêa”. Thử hỏi, một con người sống đời gia đình, vừa làm ăn sinh sống, vừa chăm lo vợ con, làm sao sống trong một hoàn cảnh thuận lợi để làm được những việc bất kể giờ giấc sáng tối như Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay chăng, nhất là làm sao tâm trí của họ có thể chỉ biết chuyên chú đến đệ nhất ưu tiên Nước Thiên Chúa (x Mt 6:33), và sinh lực của họ dồn lực vào việc chủ động dấn thân rao giảng Nước Trời để nhờ đó tìm kiếm mang về cho Người đủ mọi thứ chiên lạc hay chăng? Chắc chắn là không, không thể nào họ có thể làm nổi.
Trường hợp đã đi đến chỗ đổ vỡ hôn nhân và tan nát gia đình vì tình trạng hăng say làm việc tông đồ giáo dân không phải là hiếm trong thời điểm giáo dân sau Công Đồng Chung Vaticanô II tới nay, cách riêng trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại. Không nói gì đến giáo dân có gia đình, chính đời sống giáo sĩ độc thân mà nhiều khi còn không thực hiện nổi sứ vụ thiên sai của mình nữa, đến nỗi nhiều người trong các vị đã phải bỏ cuộc, khiến cho tình trạng ơn gọi giáo sĩ đặc biệt ở Tây Phương càng ngày càng khan hiếm, một tình trạng khiến cho một số đầu óc cấp tiến nghĩ đến việc Giáo Hội cần phải truyền chức tư tế thừa tác cho cả thành phần giáo dân đã lập gia đình nữa mới có thể cứu được hay giải quyết được tình trạng khủng hoảng ơn gọi giáo sĩ hiện nay. Tại sao thế? Tại sao sứ vụ giáo sĩ lại trở nên nặng nề đến nỗi nhiều vị đứt gánh thảm thương như thế, trong khi đó, chính những người tiến lên Bàn Thánh này đã thấy trước được điều đó nhưng vẫn chấp nhận dấn thân đáp lại ơn gọi cao cả của mình theo tiếng Chúa tác động sâu xa trong tâm hồn? Nếu không phải tại vì họ đã không thực hiện đúng như những gì Chúa Giêsu làm trong bài Phúc Âm hôm nay.
Đúng thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không phải chỉ làm phép lạ trong việc chữa lành đủ mọi thứ bệnh tật và khu trừ ma quỉ cho dân chúng vào giờ giấc bất tiện của mình nhưng thuận tiện cho nhu cầu của dân chúng, cũng như trong việc Người tỏ ra hăng say đi khắp các nơi để rao giảng và khu trừ ma quỉ, mà, chính ở ngay giữa những hoạt động này, giữa buổi tối là lúc cả thành kéo đến với Người và buổi sáng là lúc hết mọi người đã đến tìm kiếm Người, Người đã âm thầm đi cầu nguyện ở nơi thanh vắng: “Chỗi dậy từ sáng sớm, Người đi đến một nơi cô tịch hoang vắng; ở đó Người ngất ngây nguyện cầu”. Nếu hơn 300 vị linh mục Hoa Kỳ, trong số trên 40 ngàn vị, bị tố cáo đã lạm dụng tình dục trẻ em từ đầu năm 2002 tới đầu năm 2003 này biết “chỗi dạy từ sáng sớm” để sốt sắng “nguyện cầu” như Chúa Giêsu, thì không biết Giáo Hội ở Hoa Kỳ có thảm thương xẩy ra tình trạng khủng hoảng hầu như phá sản về ngân quĩ (ở một số giáo phận) nói riêng, nhất là cuộc khủng hoảng hoàn toàn phá sản (nơi một số tín hữu đã đi đến bỏ đạo và phản đạo) về mối liên hệ giữa mục tử và đàn chiên nói chung hay chăng? Tuy nhiên, qua hiện tượng linh mục lạm dụng tình dục trẻ em này, không phải một vài vị mà là hơn 300 vị, không phải một lần mà có vị phạm rất nhiều lần, cũng như qua hiện tượng Âu Mỹ càng ngày càng suy giảm ơn gọi giáo sĩ cũng đủ cho chúng ta thấy sứ vụ giáo sĩ không phải là tầm thường và nhẹ nhàng, sức tự nhiên không thể nào đảm đương nổi, nếu không có ơn Chúa, một nguồn ơn lúc nào cũng có cho những ai biết “chỗi dạy từ sáng sớm” để sốt sắng “nguyện cầu”.
Việc Chúa Giêsu đi cầu nguyện giữa hai thời điểm tối và sáng là những lúc dân chúng kéo đến với Người như Phúc Âm hôm nay thuật lại đây cho chúng ta thấy tầm quan trọng và khẩn thiết của việc cầu nguyện trong hoạt động tông đồ và cho hoạt động tông đồ. Ở chỗ, con người tự nhiên cần phải cầu nguyện chẳng những để lấy lại sức thiêng, nhất là để qui hoa trái tông đồ về nguồn thần linh của chúng, mà còn để sửa soạn lấy sức cho những gì cần phải làm nữa, bằng không, con người sẽ không đủ tinh thần và sinh lực để tiếp tục sứ vụ, từ từ sẽ đi đến chỗ ngã gục, hay thậm chí đi đến chỗ cấp tiến, như thực tế hiển nhiên và phũ phàng cho thấy. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là, nếu cầu nguyện tự bản chất là việc Giao Tiếp Thần Linh (x Jn 4:23-24; Lk 6:12), thì còn giao tiếp thần linh nào bằng Phụng Vụ nói chung và Thánh Lễ nói riêng. Vậy thì tại sao các vị linh mục vẫn dâng lễ hằng ngày, vẫn được diễm phúc Giao Tiếp Thần Linh như vậy, đến nỗi, có những vị chỉ đặt nặng Phụng Vụ và tỏ ra coi thường đả kích Kinh Mân Côi, mà lại có thể sa ngã hay trở nên rối loạn đạo giáo được? Phải chăng vì các vị được thực sự Giao Tiếp Thần Linh về Phụng Vụ nhưng không Cảm Nghiệm Thần Linh theo Tu Đức và Giao Tiếp Thần Linh bằng Đức Tin?
Thật vậy, cầu nguyện, về thực tại, chẳng những là trạng thái Giao Tiếp Thần Linh, một giao tiếp trực tiếp liên quan đến Mạc Khải Thần Linh, đến Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm được hiện thực nơi Phụng Vụ và qua Phụng Vụ, về tác động, còn là việc Cảm Nghiệm Thần Linh nữa, một cảm nghiệm trực tiếp liên quan đến con người, đến Đức Tin Tuân Phục, đến tâm linh của con người trước Thực Tại Thần Linh, đến lòng con người khao khát Thần Linh, tìm kiếm Thần Linh và gắn bó với Thần Linh, thậm chí nhờ đó họ có thể thốt lên “những lời than khôn tả” (Rm 8:26), như Chúa Giêsu đã thốt lên vào cuối Bữa Tiệc Ly qua Lời Nguyện Hiến Tế (xem Jn cả đoạn 17), cách riêng trong Vườn Cây Dầu (x Mk 14:36) và trên cây thập tự giá (x Mk 15:34), những lời than nói lên cho thấy tâm nguyện thiết tha duy nhất của Người là lúc nào Người cũng chỉ muốn làm trọn ý Cha của Người với bất cứ giá nào cho đến khi hoàn tất ý muốn tối thượng của Cha. Bởi thế, “những lời than khôn tả” nào làm cho cả người nói lẫn người nghe chẳng hiểu gì được, như một người bạn của tôi vào năm 2000 diễn tả khi chị nói tiếng lạ suốt mấy tiếng liền, cho là “cầu nguyện bằng tiếng lạ”, thì cần phải xét lại. Tình trạng ngất ngây cầu nguyện của Chúa Giêsu là tình trạng cho thấy Người hoàn toàn tỉnh táo kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, chứ không phải tình trạng bị tối tăm mặt mũi lại rồi lăn đùng ra chẳng biết gì nữa, như trường hợp của bà nhạc mẫu của tôi cảm nghiệm vào cuối thập niên 1980 kể lại cho tôi nghe. “Thiên Chúa là ánh sáng và trong Ngài không có tối tăm” (1Jn 1:5), do đó, ai đến với Ngài hay được Ngài thu hút, chiếm đoạt thì phải ở trong tình trạng tỉnh thức, trong Ánh Sáng Thần Linh, nhờ đó, họ mới càng trở nên khôn ngoan hơn và mãnh lực hơn để có thể làm trọn ý của Ngài, như trường hợp của Lời Nhập Thể Giêsu Kitô.
Thế nhưng, để dễ dàng cầu nguyện, tức dễ dàng Cảm Nghiệm Thần Linh, Giao Tiếp Thần Linh, con người tự nhiên vốn hay có khuynh hướng “chia lòng chia trí”, cần phải để ý đến môi trường cầu nguyện nữa, đó là, như Chúa Giêsu, Vị Thiên Chúa Làm Người vẫn nêu gương trong Phúc Âm, tìm đến những nơi thanh vắng và vào giờ tĩnh mịch của đêm khuya hay sáng sớm. Thật ra, Chúa Giêsu lúc nào cũng cầu nguyện, cũng Giao Tiếp Thần Linh, cũng ở trong Cha và Cha ở trong Người (x Jn 14:10), chứ không phải đợi cho tới khi Người đi đến nơi thanh vắng vào phút tĩnh lặng để cầu nguyện Người mới thực sự Giao Tiếp Thần Linh, hay mới trở về giao tiếp với Cha của Người.
Bởi vì, ngay từ giây phút nhập thể trong lòng trinh nguyên của Mẹ Maria, hai bản tính của Người, Thần Tính và nhân tính, bởi Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp, đã nên một thực thể duy nhất là Ngôi Vị Giêsu. Nhưng cũng chính vì Ngôi Vị Giêsu là một con người thật sự, tức một Con Người có bản tính nhân loại, ở chỗ có lý trí để nhận thức và ý muốn hoàn toàn tự do, mà Con Người Giêsu lúc nào cũng phải ý thức được Ngôi Vị Nhân Thần của mình, ý thức Cha ở trong Người và Người ở trong Cha. Ý Thức Thần Linh Người “từ đâu đến và sẽ đi đâu” (Jn 8:14) này đã được thể hiện qua tất cả mọi lời Người nói và việc Người làm. Cả cuộc đời của Người đến là để làm chứng cho chân lý (x Jn 18:37), đó là dấu chứng tỏ Ý Thức Thần Linh này luôn ở nơi Người, và từng giây từng phút của cuộc đời Người đều được diễn tiến trong tinh thần cầu nguyện liên lỉ, một tinh thần được thể hiện cụ thể nhất vào những lúc Người cầu nguyện ở những nơi thanh vắng và vào những lúc tĩnh lặng.
Nếu tình trạng Giao Tiếp Thần Linh nơi Ngôi Vị Giêsu được thể hiện bằng hai cách, cách thứ nhất nơi Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp, và cách thứ hai nơi Sứ Vụ Thiên Sai, một sứ vụ được hoàn tất nơi Mầu Nhiệm Tử Giá, thì Giao Tiếp Thần Linh nơi Kitô hữu cũng có hai cách, cách thứ nhất là nhờ Phụng Vụ, và cách thứ hai là bằng Tu Đức, ở tình trạng Hiệp Nhất Nên Một, khi Kitô hữu hoàn toàn tuân hợp Thánh Ý Chúa trong mọi sự. Bởi thế, đối với Kitô hữu, nói đến cầu nguyện là nói đến một tiến trình, từ khởi điểm tác động thần linh, để con người có thể hướng về thần linh và khao khát thần linh, nhờ đó họ có thể từ từ cảm nghiệm thần linh và một lúc nào đó có thể được thần linh thu hút chiếm đoạt, tới độ cuối cùng họ tiến tới chỗ giao tiếp thần linh, hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, Đấng ở trong họ qua Thánh Sủng. Như thế, Kitô hữu cầu nguyện là giây phút Kitô hữu ngây ngất với Ý Thức Thần Linh trong tâm hồn mình vậy.
Nhưng, thực tế sống đạo và tiến trình tu đức cho thấy, để đạt tới trình độ tuyệt đỉnh nguyện cầu là thần hiệp này, con người cần phải hội đủ hai điều kiện, đó là được Chúa thu hút và có tấm lòng thanh sạch. Tiến trình này chính là tiến trình tỏ mình ra của Thiên Chúa, như tiến trình của ánh sáng mặt trời lên làm màn đêm tan biến khi ngày đến. Con người thật sự trở nên thanh sạch hay có lòng thanh sạch để được thấy Thiên Chúa (x Mt 5:8) chỉ khi nào được Thiên Chúa là ánh sáng tỏ mình ra cho mà thôi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly là “các con đã được nên thanh sạch nhờ những lời Thày nói với các con” (Jn 15:3). Thế nhưng, mỗi lần Thiên Chúa là ánh sáng tỏ mình ra cho con người, tức mỗi lần đứng trước một cuộc thần hiển nội tâm, con người tự nhiên, với đầy những ý nghĩ, ý thích và ý riêng, cho dù là vô tội, những gì làm nên bản vị của họ, làm nên sự sống của họ, họ sẽ cảm thấy hoàn toàn như ở trong một đêm tối tăm, như mất đi sự sống mình, mất đi bản thân mình (x Mt 16:25; Jn 12:25).
Thế nhưng, chính những lúc tăm tối ấy là lúc “Thiên Chúa là thần linh” (Jn 4:24) đang tỏ mình ra cho linh hồn, đang thanh tẩy linh hồn, đang làm cho con người Cảm Nghiệm Thần Linh để có thể tiến đến chỗ Giao Tiếp Thần Linh “trong tinh thần và chân lý” (Jn 4:24). Kết quả là, như người đàn bà quằn quại sinh con, sau đó sẽ quên hết đớn đau vì đã hạ sinh một con người thế nào (x Jn 16:21), linh hồn được Chúa thử thách và thanh tẩy cũng thế, họ sẽ cảm thấy sầu khổ trong bình an, một an bình chan chứa niềm vui khôn tả, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly: “Các con sẽ bị sầu khổ trong một thời gian, song nỗi sầu khổ của các con sẽ trở thành niềm vui cho các con” (Jn 16:20); một niềm vui tràn đầy ngay trong lúc bị bắt bớ (x Acts 5:41) như thế chứng tỏ con người môn đệ Chúa Kitô đã thực sự Cảm Nghiệm Thần Linh đến độ “được sự sống và là một sự sống viên mãn” (Jn 10:10).
Trước khi triết gia Paul Wust giã từ trần gian năm 1940, các sinh viên tỏ lòng mến thương tới: TN5-B78
Trước khi triết gia Paul Wust giã từ trần gian năm 1940, các sinh viên tỏ lòng mến thương tới vây quanh giường thầy, và tỏ lòng tin tưởng xin triết gia ban cho các đệ tử một bí quyết sống. Triết gia đã chân thành khiêm tốn trả lời: "Các con muốn thầy cho các con một bí quyết sống, các con lầm. Bí quyết của cuộc sống không phải là quan điểm triết học, nhưng là lời cầu nguyện. Cầu nguyện là một hành động đạo đức hoàn hảo, làm cho chúng ta phục hồi sức sống, làm cho chúng ta biết khách quan. Nhờ cầu nguyện, chúng ta trở nên khiêm tốn. Cầu nguyện là một hành động khiêm tốn nhất của trí khôn chúng ta. Chỉ có cầu nguyện mới cho chúng ta đạt được sự cao cả nhất của đời sống con người. Lời cầu nguyện sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm, khi gặp đau khổ".
Một triết gia chân chính và đạo đức như Paul Wust, mới dám chân thành thú nhận sự bất lực của triết học, và khiêm tốn nói lên niềm xác tín của mình nơi lời cầu nguyện như một lẽ sống của cuộc đời.
I. CHÚA KITÔ, MẪU GƯƠNG CẦU NGUYỆN
Chúa Giêsu Kitô, Đấng là chính Thiên Chúa nhập thể đã coi việc cầu nguyện như một lẽ sống, giúp Ngài thực thi sứ mạng Cứu Thế của Ngài; mặc dầu Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đồng hằng hữu, đồng quyền năng và là một Thiên Chúa duy nhất với Chúa Cha; nhưng Ngài đã luôn cầu nguyện, để tỏ lòng thuần phục, khiêm tốn, tin tưởng như thân phận một thụ tạo đặt nơi Đấng Tạo Hóa, để nêu cho chúng ta mẫu gương phải noi theo bắt chước.
Chúng ta thấy Tin Mừng thường thuật lại: Sau một ngày làm việc mục vụ vất vả mệt nhọc; khi màn đêm buông rủ, Chúa Kitô đã tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện, tâm giao với Chúa Cha; nhờ đó Ngài phục hồi lại sinh lực đã hao mòn kiệt quệ vì phần rỗi các linh hồn. Rồi mỗi buổi sáng lúc còn tinh sương, trước khi bắt đầu một ngày mới truyền bá Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Kitô cũng tìm đến nơi thanh vắng, để cầu nguyện truyện vãn với Chúa Cha. Nhờ vậy, Ngài đã kín múc được nguồn sinh lực sung mãn để phân phát, đễ trao ban cho nhân loại. Nhất là mỗi khi thi hành một việc quan trọng, làm phép lạ phục sinh một người đã chết, cứu chữa một người què, một kẻ câm, một người điếc, một người phong cùi, khi trừ ma quỉ khỏi một người bị nó xâm nhập, hoặc làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi bao nhiêu ngàn người đang bị đói, vì đã nhiều ngày đêm đi theo, say mê nghe Ngài giảng dạy, đến hết cả lương thực nuôi thân... Trước tất cả những dịp đặc biệt đó, Ngài thường quen ngước mắt lên trời, dâng niềm tri ân lên Chúa Cha và xin Ngài phù trợ... Tóm lại, trong tất cả mọi việc to nhỏ, mọi hoàn cảnh, mọi giây phút, Chúa Kitô đã không ngừng khăng khít kết hợp với Chúa Cha như một lời cầu nguyện liên lỷ.
II. CẦU NGUYỆN CẦN THIẾT CHO CON NGƯỜI
Cầu nguyện rất cần thiết cho con người, vì ngoài ơn Chúa phù trợ, con người không thể tự mình làm được một việc gì, dù trong lãnh vực tự nhiên hay siêu nhiêu.
Từ việc được tạo dựng, việc sinh tồn cho tới việc đạt tới cứu cánh của đời sống con người, tất cả đều phải lệ thuộc nơi Đấng Tạo Hóa. Như chính lời Chúa đã phán: "Ngoài Ta ra, các con không thể tự mình làm được việc gì" (Jn 15:5). Trong thực tế của cuộc sống con người, ai trong chúng ta cũng đều thực nghiệm được sự bất lực của mình, điều chúng ta muốn chúng ta cũng chẳng làm được: Muốn khỏe mà nó cứ bệnh, muốn giỏi mà nó cứ dốt, muốn trẻ mà nó cứ già theo định luật tự nhiên; nhiều khi muốn chừa bỏ nết xấu này, tập nhân đức kia cũng phải bó tay; tâm hồn muốn vươn lên cao, xác thịt lại cứ chúi xuống. Nếu không có ơn Chúa giúp, chúng ta đều bất lực. Vì thế, Chúa truyền dạy như một nghĩa vụ khẩn thiết buộc chúng ta phải cầu nguyện, phải cậy trông vào ơn Chúa giúp: "Chúng con hãy cầu nguyện luôn không được nhàm chán" (Lc 21:36). Chúa còn truyền dạy: "Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ" (Mt 26:42). Ngài lại hối thúc: "Các con hãy đến, Ta sẽ cứu các con, các con hãy kêu cầu, Ta sẽ nhận lời các con" (Jer 33:3).
Theo ý kiến chung của các Thánh Giáo Phụ: "Người nào không cầu nguyện không thể được Ơn Cứu Rỗi". Thánh Bisiliô, Augustinô, Gioan Kim Khẩu và nhiều nhà thần học đều đã quả quyết: "Có luật buộc ngặt, những ai đến tuổi khôn, phải cầu nguyện, vì cầu nguyện một là phương thế rất cần thiết cho phần rỗi linh hồn".
III. NHỮNG ĐIỀU SAI LẦM CẦN SỬA ĐỔI
Có nhiều người lầm tưởng cho rằng: Dành nhiều thời giờ vào việc cầu nguyện là uổng phí, vì biết bao nhiêu việc tông đồ, việc bác ái cần phải thực hiện hơn... Tệ hơn nữa, có những người muốn triệt hạ tôn giáo, như những người vô thần cộng sản chẳng hạn, họ cấm các giờ tụ họp cầu nguyện, tham dự việc phụng vụ, để đi khai thác, đi nhân công, đi canh tác để phục vụ cho bác, cho đảng. Họ đã quá sai lầm: Nếu con người không được thoải mái sống niềm tin theo tín ngưỡng của họ, để có sự bình an thư thái tâm hồn, được sự hỗ trợ của Thượng Đế, làm sao họ có sáng kiến, có sức mạnh, có sự an ủi, hầu có thể hoạt động tăng năng xuất, mang lại nhiều thành quả tốt đẹp hơn được.
Có người lại cho rằng: Người thánh thiện, đạo đức không thể làm chính trị, không thể tham gia việc lãnh đạo Quốc Gia, việc Chính Quyền... Chỉ một kết quả sau đây đủ phá tan những lầm tưởng đó: Sau đệ nhị thế chiến, nước Ý hầu như hoàn toàn tan nát vì bom đạn, vì ách phát xít của nhà độc tài Mussolini. Ông De Gasperi đã can đảm, sáng suốt đứng lên lãnh đạo Quốc Gia, điều khiển việc phục hưng xứ sở về mọi mặt cách rất tốt đẹp. Sau khi ông qua đời (1954), người ta đã khám phá ra trong phòng ông có hai rương đầy ắp các giấy tờ; tìm hiểu thì thấy toàn là những bài suy niệm mỗi ngày, do chính tay ông viết ra từ năm này qua tháng nọ. Ai nấy đều ngạc nhiên và càng thêm lòng thán phục, quí mến một chính trị gia khéo léo; đồng thời là một vị Tông Đồ thánh thiện, đã hy sinh trọn cuộc đời cho dân tộc, tận tụy với bao công việc, mà vẫn không bỏ qua những giây phút sống thân mật với Thiên Chúa, trong việc cầu nguyện, suy ngắm.
Tổng Thống De Gasperi đã làm việc tông đồ vinh danh Chúa và Giáo Hội, ngay trong sứ mạng lãnh đạo Quốc Gia và trong môi trường chính trị... Để ân thưởng công đức và nêu gương thánh thiện của Tổng Thống De Gasperi, Đức Thánh Cha Pio XII đã cho mai táng ngài trong đền thờ Thánh Laurensô, bên cạnh mồ Đức Thánh Cha Pio IX.
Bằng chứng lịch sử cho chúng ta thấy: Những nhân vật hoạt động hữu hiệu nhất, chẳng hạn Thánh Maximilien Kolbê, Thánh Don Bosco, Mẹ Terexa Calcutta... là những nhân vật có nhiều giờ cầu nguyện, có nhiều giờ sống thân mật tâm giao với Thiên Chúa. Nhờ đó, mà các ngài là những vị đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta cảm nghiệm được giá trị đích thực của việc cầu nguyện, và lấy việc sống đời cầu nguyện, tâm giao kết hợp với Thiên Chúa như hơi thở, như một nhu cầu khẩn thiết để sống cách sung mãn, và hơn nữa cầu nguyện còn phải trở thành hồn sống của mọi công việc hằng ngày.
Mẹ Maria đã luôn suy ngắm Lời Thiên Chúa trong tâm trí và thực hành trong đời sống, như một mẫu gương đời sống cầu nguyện, đáng chúng ta noi theo bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng con sống như Mẹ đã sống.
Chẳng cần phải đến bệnh viện, mới thấy cuộc đời sao quá nhiều đau khổ. Đau khổ dàn trải trong mọi: TN5-B79
Chẳng cần phải đến bệnh viện, mới thấy cuộc đời sao quá nhiều đau khổ. Đau khổ dàn trải trong mọi ngóc ngách của cuộc sống. Chưa muốn nói đến những nỗi đau khổ tinh thần, là những nỗi đau khốc liệt và day dứt nhất; những đau khổ về thân xác, về bệnh tật không thôi, cũng đủ làm ta choáng ngợp rồi.
Đoạn Tin Mừng ta vừa nghe, vẽ ra cho ta thấy, cả một biển đau khổ, diễn ra trong suốt một ngày. Từ sáng sớm, mở đầu, đã là cơn sốt của bà nhạc gia Phêrô. Rồi trong suốt cả ngày, cho tới chiều tà, biết bao là con bệnh đã được ùn ùn đem đến để xin Chúa chữa lành. Đó mới là một góc nhỏ xíu của thế giới. Tất cả đã được Chúa chữa khỏi. Như thế: rõ ràng, đau khổ không phải là ý muốn của Thiên Chúa.
Nhưng sao con người lại cứ phải bệnh tật và đau khổ. Tại đâu? Có nhiều nguyên do. Nhưng đầu tiên là tại bản chất của con người. Xác thân con người là vật chất, hay nói theo Thánh Kinh là bụi đất. Bản chất của vật chất, là phân hủy và tan biến. Làm gì có thứ vật chất nào là thứ bất biến, trường cửu. Cho nên, việc xác thịt con người bị hư hỏng là điều tất nhiên.
Bên cạnh đó, một yếu tố hết sức to lớn tạo nên đau khổ cho con người, chính là con người. Con người tự gây đau khổ cho chính mình, như là phung phí sức khỏe: rượu, thuốc, xì ke, ăn chơi. Con người gây khổ cho nhau. Con người tàn phá thiên nhiên, khiến thiên nhiên quay trở lại làm khổ con người.
Nhưng ở đây có một điều hệ trọng mà ta không thể không chú ý: là sau khi chữa xong, Chúa đã bảo các môn đệ là: Ngài còn phải đi rao giảng. Điều ấy nghĩa là gì? Chữa bệnh thân xác không phải là mục đích của Thiên Chúa. Chữa bệnh mới chỉ là giải quyết phần ngọn. Chúa muốn chữa tận gốc. Cả đau khổ thân xác lẫn tinh thần.
Đau khổ là điều phải có, nhưng phải nhìn thẳng vào nó, để hiểu đúng sự thật về nó. Nó chỉ là nỗi sợ hãi, hay còn có ý nghĩa nào khác? Và cái nguyên nhân chính yếu gây nên đau khổ là gì? Suy đi nghĩ lại, phải chăng là: Do ta đi ngoài đường lối của Chúa. Ta phá hỏng các định luật, các quy luật mà Thiên Chúa đã sắp đặt cho ta và cho vũ trụ. Ta đã lạm dụng tự do một cách thái quá để phá hỏng đường lối của Chúa. Vậy đường lối của Chúa là gì? Đó là chân lý căn bản, mà Chúa cần đi để rao giảng cho con người.
Gợi ý suy niệm:
1- Với bạn đau khổ là gì? 2- Bạn sợ hãi khi gặp đau khổ, hay can đảm chấp nhận?
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi nhận thấy cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự dung hoà tốt đẹp: TN5-B80 (http: Cần Thơ)
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi nhận thấy cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự dung hoà tốt đẹp giữa đạo và đời. Thực vậy Ngài không phải chỉ hăng say rao giảng Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của chúng ta mà hơn thế nữa, bằng những hành động bác ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu những nỗi đớn đau và thống khổ của chúng ta. Ngài đã đẩy lui cơn sốt cho bà mẹ vợ của Phêrô, Ngài đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và dân chúng tuốn đến với Ngài thật đông đảo. Phải chăng đây cũng là điều chúng ta cần noi gương bắt chước và thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó bản thân chúng ta trở nên những chứng nhân sống động của Chúa và mọi người cũng nhờ đó mà nhận biết tình thương của Ngài.
Tại một trung tâm y tế thuộc mạn đông nam bang Carolina bên Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân ghi nhận được, đó là nụ cười của cụ bà Florence. Từ 6 giờ sáng, bà cụ lái xe khoảng 10 cây số đến bệnh viện và ở lại đó 8 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh nhân để chăm sóc họ và an ủi những thân nhân của họ. Còn những lúc rảnh rỗi, bà cụ lại cặm cụi đan những đôi vớ cho các bệnh nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan được 395 đôi. Bà cụ không phải là một người có trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc còn nhỏ, thân phụ bà cụ không muốn cho các con gái của mình được học hỏi nhiều. Lập gia đình, bà cụ có 7 người con và làm việc trong một tiệm thuốc tây. Tháng 4 năm 1983, sau một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt đầu xuất hiện trong bệnh viện với chiếc nạng gỗ nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365 ngày bà đã có mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu được khoẻ mạnh thì tôi vẫn còn đến đây với nụ cười trên môi.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy nỗi đau khổ của bản thân sẽ được vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế, đau khổ không được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa cử chúng ta làm cho người khác. Bà cụ trong câu chuyện hẳn không phải là người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, có ai mà lại thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười trên môi, với đôi chân khập khiễng bà cụ đã ra khỏi chính mình để đến với người khác. Ra khỏi chính mình đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt nỗi khổ đau riêng tư. Có ai sống mà lại không có khổ đau, không có thập giá, thế nhưng sức nặng của thập giá sẽ vơi nhẹ nếu như chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, giúp đỡ và xoa dịu nỗi khổ đau của người khác. Không ai quá nghèo để không thể cho đi. Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm nhỏ bé được chia sẻ với tất cả tấm lòng yêu thương, phải chăng đó là những cái chúng ta có thể cho đi, phải chăng đó là những cái mà nhiều người đang mong đợi nơi chúng ta. Chính trong lúc cho đi như thế chúng ta cảm nghiệm được một niềm vui trong lành, vì cho đi thì vui sướng hơn là lãnh nhận và lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô còn vang vọng như một câu kết luận: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Quang cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc sống con: TN5-B81
Quang cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc sống con người biết mấy. Thực vậy, Ngài vừa mới rao giảng ở hội đường xong, liền đi về nhà của Phêrô và Andrê. Không một hoàn cảnh đau thương nào mà không gởi lên nơi cõi lòng Ngài một nỗi cảm thông chia sẻ. Vì thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm tay và chữa lành cho bà mẹ vợ của Phêrô đang lên cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người trong thành đã tuốn đến với Ngài, xin Ngài cứu chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở những ốm đau phần xác, mà hơn thế nữa, Ngài còn muốn cứu chữa những tật bệnh phần hồn. Đây mới là điểm quan trọng trong sứ mạng của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã phán với các môn đệ: Chúng ta hãy đi tới những nơi khác để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở đó nữa.
Trải qua dòng thời gian Giáo Hội đã noi gương bắt chước Chúa Giêsu, đẩy mạnh hai cố gắng, hai hoạt động, đó là xoa dịu những đớn đau cho những người bất hạnh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Để xoa dịu những đớn đau phần xác Giáo Hội đã lập nên biết bao nhiêu nhà thương; biết bao nhiêu viện dưỡng lão, biết bao viện cô nhi. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng ý thức bổn phận chính yếu của mình là đem Chúa đến cho mọi dân tộc. Vì thế, từ xa xưa cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội không ngừng gởi các môn đệ, các thừa sai, các tông đồ của mình tới những vùng đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho tất cả những ai chưa nhận biết Chúa. Chữa lành những tật bệnh phần xác đã là điều tốt, huống nữa là chữa lành những tật bệnh phần hồn, bởi vì chính linh hồn mới là một kho tàng quý giá, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ, phải bảo toàn, phải cứu độ như lời Chúa Giêsu đã nói: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi gì?
Ringhoff là một thuỷ thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp đến thăm viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ thủ già, bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được tất cả 126 người khỏi chết đuối.
Câu chuyện này hẳn phải làm cho chúng ta suy nghĩ. Đúng thế, cứu vớt người khỏi chết về phần xác là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào? Và trong ngày sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta làm được những gì để xoa dịu những đớn đau của người khác và hơn thế nữa, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng Chúa.
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha và vì: TN5-B82
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa" nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại, Người đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
"Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài." (Dt 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
"Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta" (Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người" (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ hôi máu:
"Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi." (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Máccô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
"Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai."
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
"Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó."
Cầu nguyện chưa được bao lâu, "Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên "Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ."
* * *
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
* * *
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử#cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi# không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
Với Kitô hữu, Đức Giêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là trung gian giữa con người và Thiên Chúa: TN5-B83
Với Kitô hữu, Đức Giêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là trung gian giữa con người và Thiên Chúa, Ngài là đường dẫn con người tới với Thiên Chúa, và Ngài cũng chính là sự sống. Trong cuộc sống bình thường của Ngài, hàm chứa sự sống vĩnh cửu mà mỗi Kitô hữu được mời gọi để nhận ra mầm sống vĩnh cửu nơi cuộc đời mình.
1) Đức Giêsu giảng dạy nơi hội đường Do Thái
Đức Giêsu giảng dạy ở bất cứ đâu: ở hội đường (Mc. 1, 21), tại tư gia (Mc. 2, 2), ngoài bờ biển (Mc.2, 13). Đức Giêsu rao giảng ở bất cứ chỗ nào Ngài có thể rao giảng được. Có thể nói, nghề của Đức Giêsu là rao giảng (Mc. 1, 38).
Đức Giêsu giảng gì? Đâu là nội dung điều Đức Giêsu rao giảng? Đức Giêsu rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa là ai. Ngài là Đấng yêu thương mọi người, và mời gọi người ta tin tưởng phó thác cuộc đời họ cho Thiên Chúa tình yêu (Mt. 6, 25tt). Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên mọi người hãy yêu thương nhau (Mt. 5, 43-48). Hãy trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng trọn lành (Mt. 5, 48).
Nếu chỉ căn cứ vào Tin Mừng, chúng ta thấy những điều Đức Giêsu rao giảng không nhiều lắm. Có thể vì các tông đồ không có tài nhớ, nên không kể lại được nhiều; nhưng cũng có thể chỉ vì nội dung Đức Giêsu rao giảng cũng đơn sơ, vì điều quan trọng thì không nhiều. Biết là điều rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn lại là sống điều mình biết. Một khi người ta biết Thiên Chúa là ai một cách chân thực, người ta sẽ sống trong an bình và hạnh phúc hơn.
2) Người ta tuôn tới với Đức Giêsu để được chữa lành
Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng tuốn tới với Đức Giêsu để được Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật. Có lẽ với dân chúng, nghe rao giảng cũng là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là những gì thật cụ thể và liên hệ đến chính bản thân con người. Đức Giêsu cũng hành xử một cách rất “người”. Làm được gì, Ngài làm cho con người. Một cách cụ thể, Ngài thương cảm và chữa lành tật bệnh của những người tin vào Ngài, đến với Ngài.
Bệnh tật, là cái gì rất tự nhiên và tuân theo luật lệ thiên nhiên. Những gì thuộc vật chất hữu hình đều biến đổi với thời gian, có trẻ có già, có sinh có tử. Đây là ý định của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu chữa lành bệnh tật, là Ngài diễn tả lòng thương cảm của Ngài đối với con người. Hơn nữa, khi chữa lành bệnh tật, Ngài mặc khải cho con người chân tướng của Ngài. Một thầy thuốc chữa lành người khác, là người biết vận dụng những dược chất nơi những cây cỏ để chữa trị bệnh tật; còn Đức Giêsu Ngài chỉ dùng lời, nghĩa là, Ngài dùng quyền năng được ban cho Ngài hoặc chính Ngài có.
Bệnh tật cũng là yếu tố giúp con người tới gần Thiên Chúa hơn; bệnh tật cũng là cơ hội để giúp con người nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc con người. Trong nhãn quan của những người thuộc về Thiên Chúa, bệnh tật hay sức khỏe không có giá trị tuyệt đối, nên mỗi người hãy bình tâm với bệnh tật. Điều quan trọng là, qua sức khỏe hay bệnh tật, con người vẫn nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người.
3) Đức Giêsu cầu nguyện
Cuộc sống của Đức Giêsu dường như bị chi phối đặc biệt bởi tình yêu đối với con người. Vì lợi ích của con người, Ngài rao giảng về Thiên Chúa cho dân chúng. Đứng trước nỗi khổ của dân, Ngài chữa lành bệnh tật cho họ, như một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương dân Người. Nhưng chỉ như vậy thôi chưa đủ, Ngài đi tới nơi hoang vắng cầu nguyện từ sáng sớm (Mc.1, 35).
Hội Thánh dạy Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa; thế nhưng, chúng ta phải hiểu đúng giáo huấn của Hội Thánh. Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu là một Đấng khác với Thiên Chúa qua việc Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa. Đức Giêsu là một với Thiên Chúa, nhưng lại là Đấng khác với Thiên Chúa. Cái khác ở đây các nhà thần học dùng từ ngữ “ngôi vị” để diễn tả. Đức Giêsu không bao giờ LÀ Chúa Cha. Đức Giêsu là Ngôi Hai, hay Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng ở đây chữ ngôi vị khác với chữ “ngôi vị, bản vị” (person) được dùng cho con người.
Tôi và bạn, chúng ta là hai ngôi vị độc lập và tách biệt tuy dù chúng ta cùng một bản tính con người; nhưng điều này không đúng khi nói về Đức Giêsu- “ngôi hai” Thiên Chúa và Thiên Chúa Ngôi Cha. Nếu chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai ngôi vị, tương tự như tôi và bạn là hai ngôi vị độc lập nhưng cùng một bản tính (một đàng là bản tính người, và một đàng là bản tính Thiên Chúa) thì lúc đó chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai chúa khác nhau; điều này không đúng giáo huấn của Giáo Hội. Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là hai ngôi vị, nhưng cả hai không chỉ là cùng bản tính Thiên Chúa mà Đức Giêsu còn tùy thuộc Thiên Chúa đến độ không thể nói là hai Chúa, mà phải nói là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, chỉ có một hiện hữu Thiên Chúa duy nhất. Điều này Giáo Hội diễn tả bằng từ ngữ “không có ngôi nào có trước ngôi nào tuy dù Chúa Cha sinh Chúa Con, không có ngôi nào hơn kém ngôi nào.” Đây là những từ ngữ để diễn tả về mầu nhiệm Giêsu, con người vô cùng đặc biệt mà dường như không từ ngữ nào diễn tả hoàn toàn được. Hội Thánh cũng cố gắng diễn tả hết sức mình, để các tín hữu hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô thôi.
Đức Giêsu cần cầu nguyện, vì dường như cầu nguyện làm Ngài là Ngài hơn, giúp Ngài kết hợp với Thiên Chúa hơn, làm Ngài triển nở và trọn vẹn hơn. Cầu nguyện diễn tả Ngài là một với Thiên Chúa tuy dù lúc nào Ngài cũng kết hợp với Thiên Chúa. Cầu nguyện diễn tả Ngài tùy thuộc hoàn toàn Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa muốn gì Ngài sẽ thực hiện như vậy. Qua cầu nguyện, Ngài là Ngài, Ngài triển nở và hạnh phúc. Chính khi Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa hoàn toàn, cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta được được nên giống Đức Giêsu hơn, làm một với Thiên Chúa hơn, trở nên con của Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, cầu nguyện có được lợi ích gì không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa hoặc những lợi ích bạn được qua việc cầu nguyện. 2. Có điểm nào cuộc sống của bạn giống cuộc sống của Đức Giêsu? Đức Giêsu và bạn, giống nhau và khác nhau ở những điểm nào?
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung một vị Thầy thuốc tài ba và: TN5-B84
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung một vị Thầy thuốc tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những người bệnh đến với Ngài. Chúng ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái, bệnh tật được gắn liền với tội lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin rằng bệnh tật là một hình phạt từ Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi. Những người bệnh tật bị cộng đồng loại trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ, miệt thị. Chính vì vậy, mỗi khi Chúa Giêsu chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng “Tội của con đã được tha” hay “Đức tin của con đã cứu con”. Chúa Giêsu không chỉ là bác sĩ thể lý, mà quan trọng hơn, Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa hết những vết thương tâm hồn, đưa họ trở lại với nhân phẩm của con người, đưa họ trở lại với vai trò làm con của Thiên Chúa, và ban cho họ niềm vui - bình an - hi vọng để họ sống và sống dồi dào. Người được Chúa Giêsu chữa lành, có khả năng hoán cải, và trở thành nhân chứng cho Ngài.
Những ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa bệnh với những cách thức và phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa lành là rất lớn, vì y học hiện nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời đại ngày nay, có những căn bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức, bệnh về ý thức hệ, … là hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống thiên về hưởng thụ, ích kỷ, cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa tới chúng ta, nhất là giới trẻ.
Ở đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là tình trạng tự tử của giới trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO), trên toàn thế giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này là 1 triệu người, số người có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại Trung Quốc có tới 250.000 người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật mỗi năm có khoảng trên 30.000 người tự tử, …
Một căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý tưởng” hay lý tưởng sống quá thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo hàng loạt các căn bệnh khác, gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường đạo lý của người việt, làm sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và ích kỷ, lấy vật chất làm nền tảng cho suy nghĩ và hành động.
Đây là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì để tìm ra thuốc ngừa và thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của thế giới, Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra phương cách chữa chị và phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều kiện, với cung cách của một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất cả chúng ta, là những người ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những người tội lỗi […] chỉ người bệnh mới cần thầy thuốc”. Mỗi người chúng ta cũng nên tự hỏi rằng: “Chúa Giêsu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay “Tôi là một giáo lý viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành, hay tôi là một linh mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng “Tôi rất là OK, cuộc sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có bệnh gì!!!
Chúa Giêsu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý thức mình tội lỗi, bị bệnh và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy chúng ta đến “gặp gỡ” Ngài. Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”, thì cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trở nên rất khó khăn: “lạy Chúa con cảm ơn Chúa vì con là người công chính … không như cái thằng thu thuế bên kia”.
Chúng ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì chúng ta là những người thánh thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng của Thiên Chúa, nhưng chúng ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội nhân được tha thứ” một cách vô điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách “miễn phí” kho tàng Bình An - Hi Vọng, kho tàng Sự Sống – Ơn Cứu Độ từ Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng phải ra đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách “miễn phí”, như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7), con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong các Bí Tích và trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu trở về một căn nhà của một gia: TN5-B85
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu trở về một căn nhà của một gia đình quen biết, gia đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài. Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt. Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy. Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm, nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được, gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại. Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé. Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này. Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế. Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an. Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách. Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng, phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin cho mọi người biết nhìn nhận vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà, và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội. Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu: TN5-B86 Ephata
Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).
Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính trong bài tin mừng hôm nay:
- Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác nhau, trừ quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. ma quỷ.
- Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.
- Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người. Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên Chúa muốn con người được cứu độ.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự, bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích bài giảng của ĐGH Benêđictô).
Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:
“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.
Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.
Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute de Silence).
Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng, chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện: TN5-B87
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc: Giảng dạy trong hội đường rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; Buổi chiều cho đến tối mịt, Chúa chữa lành dân chúng đủ loại bệnh hoạn tật nguyền; Sáng sớm tinh mơ, Chúa dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha.
Công việc bề bộn mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.
a. Cầu nguyện:
“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” ( 1, 35 ). Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Người cần có thời gian sống riêng tư một mình. Người cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nổi đau khổ của loài người, về cuộc chến chống Satan. Người thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng.Người cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
b. Rao giảng
Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng. “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy”( 1, 21 ). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” ( 1, 22 ). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Người đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Người không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.
c. Chữa lành thể xác tâm hồn
Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy;cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như có lần Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được ( Mc 5, 41 ), lần khác Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên ( Mc 9, 27 ).
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.
Tác giả Thánh Vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công Vụ Tông Đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” ( Cv 10, 38 ).
Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Người không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu đầy ắp yêu thương trong mọi công việc phục vụ. Người có một trái tim rung động luôn “chạnh lòng thương”, có một tấm lòng bao dung vô bờ bến. Rao giảng Tin Mừng yêu thương, làm phép lạ chữa lành, mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ những kẻ tội lỗi. Chúa chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn con người. Gặp Chúa, những ai sống ích kỷ đều trở nên quảng đại, những ai ghen ghét hận thù đều trở thành yêu thương tha thứ. Gặp Chúa, con người tìm được mùa xuân cuộc đời.
Ngày làm việc bận rộn của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động ( số 23 ). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” ( số 2725 ).
Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, Thánh Lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên
“Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: Mọi người đang tìm Thầy !” Chúa Giêsu muốn đi đến nhiều nơi. Vì vậy “Người bảo các ông: Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.
Galilê là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin Mừng, chọn gọi các Tông Đồ, tuyên bố Luật mới.
Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời Ngôn Sứ Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ( Lc 4, 17-20 ).
Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” ( Mt 9, 13 ). Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo ở xứ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” ( Ga 4, 21-24 ).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Hiện nay, Mẹ Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ không chỉ nói. ( x. Tin Mừng cho người ngoại biên, Giám Mục Bùi Tuần ).
Thời nay, nói theo ngôn ngữ của Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, những biên cương mới mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến. Các biên cương cần quan tâm chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ, là mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi kết hôn, chăm sóc và bảo vệ thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền thông và mục vụ di dân.
Chúa đến với những biên cương mới dẫu cho khó khăn hay thập giá.Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc "chinh phục các linh hồn" cho Chúa càng nhiều càng tốt, ( chúng ta không chạy theo số lượng ) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm "vùng đất ngoại bang", và noi gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta đến.
Cảm nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên. Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục.” ( EG 49 ).
Tháng 8 năm 1995, Liên Hiệp Bệnh Viện Phong Quốc Tế ( International Leprosy Union ) của: TN5-B88
Tháng 8 năm 1995, Liên Hiệp Bệnh Viện Phong Quốc Tế ( International Leprosy Union ) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc Tế Gandhi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác Sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác Sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thư đề ngày 9 tháng 10 năm 1995: “Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản.”
Sau đó qua các cơ quan y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn: “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của anh. Đề nghị anh làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, ngành và cá nhân. Sau này anh dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư này, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác Sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết: “Quỳnh Giao có biết Bộ Trưởng nói gì với tôi không ? Anh nhận đi, một phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ.” ( Giải thưởng là 30.000 USD ). Tôi buộc phải trả lời: “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ.” Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên.
Nhiều nhà báo sau đó đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lời: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của Dòng Tu này mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản: “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại.”
Nhiều tấm gương của Dòng Tu này đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về soeur Charles Antoine, nguyên là giám đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống. ( Trần Thị Quỳnh Giao – FMM, Một con người, một bác sĩ, một tín hữu ).
Trích đoạn trên thuật lại thời gian Bác sĩ Trần Hữu Ngoạn bỏ tương lai, bỏ phố xá, bỏ cả gia đình, vợ con, để chuyên tâm phục vụ trại phong xa xôi, hẻo lánh. Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô tường thuật một ngày trong đời rao giảng của Đức Giêsu. Vừa chữa xong nhạc mẫu ông Phêrô khỏi cơn sốt rét, Người còn tiếp tục chữa nhiều bệnh nhân và trừ quỷ. Sáng sớm hôm sau, Người đã ra nơi thanh vắng cầu nguyện. Rồi mời gọi các môn đệ tiếp tục lên đường rao giảng Tin Mừng.
Cầu nguyện
Suốt cuộc đời Đức Giêsu luôn kết hiệp mật thiết, gặp gỡ Thiên Chúa Cha, luôn lắng nghe Thánh Ý qua những giờ cầu nguyện hằng ngày. Để chuẩn bị cho sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã vào hoang mạc trọn 40 ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện ( Mt 4, 2 ). Bước vào cuộc đời công khai rao giảng, Người cũng thường xuyên sớm tối cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” ( Mc 1, 35 ).
Người còn sốt sắng cầu nguyện nhiều đêm liền trước khi quyết định chọn các Tông Đồ: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông, gọi là Tông Đồ” ( Lc 6, 12-13 ).
Sau khi làm phép hóa năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông no nê, “lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, về phía thành Betsaiđa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện” ( Mt 6, 45-46 ). Vì thế, Người luôn làm đẹp lòng Chúa Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” ( Mc 1, 11 ). Đức Giêsu hiệp nhất với Chúa Cha đến nỗi Người đã phán: "Bất kỳ ai thấy Ta là thấy Cha Ta" ( Ga 14, 9 ).
“Con hãy cầu nguyện luôn, bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.” ( Đường Hy Vọng, số 123 ).
Yêu thương và khiêm tốn phục vụ
Đức Giêsu không chỉ ân cần giảng dạy, mà còn thương yêu, gần gũi, chữa trị, phục vụ những ai đau yếu, bệnh hoạn tìm đến, hoặc chính Người tìm thấy: “Lập tức họ nói cho Người về tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” ( Mc 1, 30-31 ). Không cần lời van xin, không chần chừ e ngại đụng chạm, cứu nhân như cứu hỏa, Đức Giêsu hành động ngay, bằng một cử chỉ thân thương, gần gũi, nhân ái, giải thoát bà nhạc mẫu của ông Phêrô khỏi cơn sốt rét. Người cũng giải thoát mọi người khỏi ma quỷ ám hại, khỏi sự dữ, khỏi tội lỗi và sự chết: "Này con, con đã được tha tội rồi." Người đã phán khi chữa lành người bất toại ở Capharnaum. ( Mc 2, 5 )
Hoàn toàn xả kỷ, vị tha, hy sinh, hiến mình cho tha nhân, Người chẳng nề hà liên tục chữa bệnh, trừ quỷ cho tất cả bệnh nhân nào tìm đến cả suốt buổi chiều cho đến tận tối khuya: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” ( Mc 1, 31-34 ). Khiêm tốn ẩn mình đằng sau những phép lạ, Đức Giêsu tránh khoa trương tự mãn theo thói đời. Cũng như không muốn các môn đệ nhiễm thói kiêu căng, tự phụ, tự đắc, Người bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, ngay sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.
“Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu dấn thân sâu hơn: “Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công” ( Đường Hy Vọng, số 605 ).
Quảng đại đi gieo
Ơn cứu độ vốn phổ quát cho mọi người, Không dành riêng độc quyền cho ai hay nhóm nào, cộng đoàn nào, hoặc dân tộc nào, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ nhanh chóng tiếp tục lên đường đến các cánh đồng mới. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ" ( Mc 1, 38-39 ).
Ơn gọi truyền giáo là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn thể Dân Chúa. Hồng ân nhận biết Chúa được lãnh nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi nhưng không.“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” ( Mt 28, 19 ).
“Chúa bảo con: “Hãy đi rao giảng Phúc Âm.”Chúa không ra thời khóa biểu, không vạch kế hoạch, Chúa để con sáng kiến thực hiện, niễn là con mang Phúc Âm” ( Đường HY Vọng, số 74 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chữa bệnh tật chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi tội lỗi, xin dạy chúng con cầu nguyện liên lỷ và xin ban chúng con can đảm rao giảng Tin Mừng đến với mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu chúng con biết ăn năn, sám hối, canh tân cuộc đời. Xin Mẹ nhắc nhở chúng con siêng năng cầu nguyện, để luôn được sống bên Chúa, cũng như được trở nên ngọn đuốc giữa thế gian đen tối. Amen.
Một tác giả đã viết: “Hạnh phúc không phải là đích đến. Nó là một hành trình kết thành từ nhiều TN5-B89
Một tác giả đã viết: “Hạnh phúc không phải là đích đến. Nó là một hành trình kết thành từ nhiều lựa chọn. Trên con đường đời, bạn có thể chậm rãi bước trên những lối đi êm mát với bao hoa cỏ xinh tươi quấn quýt bên mình; hoặc bạn có thể băng băng tiến về phía trước để đuổi theo những sắc mầu lấp lánh ở cuối chân trời, nơi bạn thấy hiển hiện ánh cầu vồng mê hoặc nhưng thực ra chỉ là một khoảng không vô định. Tất cả tùy thuộc vào sự lựa chọn của bạn” (Tìm về sức mạnh vô biên, nxb Văn Hóa, tr. 7). Với những dòng trên, tác giả muốn nói với chúng ta: hạnh phúc chẳng phải ở đâu xa, mà ở trong tầm tay của chúng ta. Khi chúng ta chỉ coi hạnh phúc như một mục đích, lúc đó chúng ta sẽ dồn hết sức lực để đi kiếm tìm, như thể mục đích đang ở xa xa phía chân trời. Nhưng tiếc thay, khi đi kiếm tìm hạnh phúc như vậy, chúng ta quên mất hạnh phúc đang ở xung quanh mình. Mặt trời vẫn luôn hiện hữu, nhưng những người khiếm thị lại không nhìn thấy mặt trời.
Không ai dựa vào sự kiện những người khiếm thị để khẳng định mặt trời không tồn tại. Dù cuộc đời còn nhiều gian nan thử thách, những niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào vẫn luôn hiện diện bên ta. Một cách cụ thể, trong cuộc sống, chúng ta có bao niềm vui nơi bạn bè, gia đình và môi trường xã hội, để rồi, chúng ta luôn có cái nhìn lạc quan và trân trọng những giá trị đang hiện hữu xung quanh. Đối với người tin Chúa, mỗi giây mỗi phút trong đời đều là những cơ hội để chúng ta nhận ra tình thương bao la của Ngài. Mỗi hoàn cảnh đều có thể là cơ hội để ta thực thi lòng mến Chúa yêu người. Thời gian là một quà tặng vô giá của Thiên Chúa. Biết trân trọng thời gian là một trong những nỗ lực đạt tới sự hoàn thiện.
Ông Gióp trong Cựu ước là một người thánh thiện và sống đẹp lòng Chúa. Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp. Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi. Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dạy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông”. Ông Gióp là hình ảnh của biết bao người bi quan khi gặp thử thách trong cuộc sống. Đối với họ, cuộc sống mang màu sắc ảm đạm. Họ sống mà không có niềm hy vọng vào tương lai. Tuy vậy, cần lưu ý đây chỉ là một giai đoạn nhất thời của cuộc đời ông Gióp. Sau đó, Chúa mạc khải cho ông thấy ý nghĩa của sự đau khổ và nhờ xác tín cậy trông vào Chúa, ông tìm lại được niềm vui và hạnh phúc.
Nếu chúng ta cảm thấy thời gian đơn điệu vô nghĩa, là vì chúng ta chưa biết sử dụng thời gian một cách đúng đắn, nhằm để đem lại hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Thời gian vẫn lặng lẽ trôi, mặc chúng ta có để ý hay không. Dòng sông cuộc đời vẫn âm thầm chảy, dù con người thánh thiện hay tội lỗi. Nếu chúng ta biết trân trọng thời gian như một quà tặng của Thiên Chúa, thì thời gian sẽ mang lại biết bao điều tốt đẹp, và mỗi ngày sống đều đong đầy ý nghĩa. Thánh Mác-cô kể lại một ngày sống và làm việc của Chúa Giêsu. Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất bận rộn. Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu luôn là một cuộc lên đường. Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng. Lộ trình của Chúa không có điểm kết thúc. Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho hết mọi người.
Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm. Bạn hãy tự xét xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không. Đừng quá chú trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành công nho nhỏ bạn đã đạt được. Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì xung quanh ta có biết bao bạn thân. Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời.
“Lương thực của Thày là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thày” (Ga 4, 3). Noi gương Chúa Giêsu, mỗi chúng ta hãy chuyên cần làm việc, tùy theo khả năng và địa vị của mình. Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì người khác và đem cho họ niềm vui. Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm vui. “Nhàn cư vi bất thiện”, cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục.
Lời Chúa mời gọi tôi yêu mến cuộc đời này hơn, vì tất cả những gì tốt lành tôi làm ở đời này, sẽ theo tôi đến cõi trường sinh. Ước gì ngay ngày hôm nay, tôi biết quý trọng những người xung quanh tôi, vì họ là những người Chúa gửi đến cho tôi để đồng hành cùng tôi trên đường về quê trời.
Ông bà anh chị em thân mến. Nhìn vào cuộc sống với những công việc và bổn phận phải chu toàn cho TN5-B90
Ông bà anh chị em thân mến. Nhìn vào cuộc sống với những công việc và bổn phận phải chu toàn cho cá nhân và cho gia đình, cũng như nhìn vào những sự hy sinh tham gia trong những công việc và sự quảng đại đóng góp tái chánh cho giáo xứ, một câu hỏi quan trọng mà tôi nghĩ thường làm cho chúng ta tự hỏi “Đâu là mục đích hay ý nghĩa của cuộc đời?” Tùy vào câu trả lời cho câu hỏi này, con người chúng ta có hai cái nhìn về cuộc đời: lạc quan hy vọng hay bi quan yếm thế. Và tùy theo cách nhìn về cuộc đời, con người sẽ có thái độ, cách sống thích ứng trong cuộc sống, hoặc là làm việc, hoạt động tích cực, dấn thân cố gắng hy sinh tham gia, có lòng quảng đại, với tinh thần vui mừng và hy vọng, và có cuộc sống sống động để đạt được mục đích, hay là lười biếng, sống ích kỷ, thu hẹp hay nằm dài than thân trách phận chờ thần chết đến giải thóat cuộc sống vô nghĩa.
Các bài đọc Kinh thánh trong Thánh lễ hôm nay tập trung trong câu hỏi về mục đích, ý nghĩa của cuộc đời, và cho chúng ta những ý nghĩ, suy tư để chúng ta tìm được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng, cũng như tình yêu và ân sủng của Chúa. Bài đọc 1 kể cho chúng ta câu chuyện của ông Gióp, một người trước kia rất giàu có và sung sướng, nhưng hôm nay đang trong hoàn cảnh thương đau vì mất mát người thân yêu, và trong tình trạng đau khổ vì bệnh tật. Ông chỉ mong giấc ngủ kéo dài từ sáng đến chiều tối, để quên đi những buồn phiền và đau khổ của cuộc đời. Ông nhận thức đời sống ngắn ngủi và nếu như sống trong tình trạng và hoàn cảnh như vậy thì cuộc đời không có giá trị. Và có lẽ đây cũng là tâm trạng của chúng ta khi phải đối diện với hoàn cảnh tương tự của ông Gióp. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô cũng cho chúng ta biết ngài đang phải đương đầu với một hoàn cảnh khó khăn vì mang trong người một sứ mệnh trọng đại là rao giảng Tin mừng mà Chúa Kitô đã trao phó. Thánh Phaolô cảm thấy lo lắng và ưu tư vì biết rõ khả năng và sức lực của chính mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho bà mẹ vợ ông Simon Phêrô và những người có nhiều chứng bệnh khác nhau cũng như nhiều người bị ma quỉ chiếm giữ. Tất cả những người này đều có những đau khổ buồn phiền trong cuộc sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Ông Gióp than thở và trong tình trạng đau khổ nhưng ông luôn tin vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa sẽ cứu giúp ông vượt qua khỏi cảnh bất hạnh và đau khổ, và nếu chúng ta tiếp tục đọc câu chuyện của ông, thì đã xảy ra đúng như niềm tin của ông. Thánh Phao-lô, khi đã nhìn ra sự quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng là đem lại sự bình an, tình yêu của Chúa và nhất là ơn cứu độ cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau cho mọi người, ngài sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời nhiệt thành rao giảng, và sẵn sàng trở nên mọi sự cho mọi người để kêu gọi mọi người tin vào Chúa, và để đem các linh hồn về cho Thiên Chúa. Và chúng ta thấy, Chúa Giê-su tuy bận rộn trong công việc đến độ không có thời giờ ăn uống để rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cũng như trục xuất quỉ thần, nhưng Người vẫn luôn sống hiệp thông với Thiên Chúa trong đời sống suy niệm cầu nguyện. Chúa Giê-su cầu nguyện với Thiên Chúa Cha trước khi bắt đầu một ngày. Tin mừng cho chúng ta biết, từ sáng sớm, lúc trời còn tối, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện. Thật vậy, Chúa Giêsu bắt đầu một ngày mới bằng việc kết hợp với Thiên Chúa để nhận ra ý nghĩa, mục đích công việc phải làm, những hy sinh nhục nhằn, đau khổ phải chịu. Cầu nguyện là điều rất quan trọng và cần thiết cho tất cả chúng ta, để tìm được niềm vui mừng và hy vọng trong công việc, cũng như có sức mạnh đối diện với những đau buồn trong cuộc sống, cũng như tìm ra được ý nghĩa, mục đích cho đời sống cá nhân, cho gia đình và nhất là cho đời sống Ki-tô hữu.
Có một màn kịch trong đó một người đàn ông và một người đàn bà ngồi trong một văn phòng, hình như có vẻ hoàn toàn xa lạ. Sau một lúc im lặng, người đàn ông bắt đầu câu chuyện. Cuộc nói chuyện giữa hai người rất ngượng nghịu, khó chịu, và qua cuộc đối thoại, khán thính giả nhận ra những sự trùng hợp thật khó tưởng tượng trong cuộc sống của người đàn ông và đàn bà này. Hai người đều sinh ra trong 1 thành phố, có 1 người con gái có tên giống nhau. Hai người bây giờ sống trong 1 thành phố, cùng một con đường và cùng một building. Đến đây khán giả càng ngạc nhiên hơn khi biết hai người cùng sống trong một chung cư, hai người là đôi chồng và vợ. Sau những sự sửng sốt và buồn cười, khán thính giả biết được mục đích và ý nghĩa của vở kịch đôi vợ chồng tuy sống chung trong một nhà và đã có 1 đứa con với nhau, nhưng trong thân tâm họ không biết nhau, không hiểu nhau. Họ thật sự là những người xa lạ với nhau.
Ông bà anh chị em thân mến. Sự thật trong vở kịnh cũng là thảm kịch của rất nhiều vợ chồng trong xã hội ngày nay. Vợ chồng sống chung trong một nhà nhưng không biết và hiểu nhau, không có một sự liên hệ mật thiết với nhau, vì không có thời giờ tâm sự chia sẻ với nhau. Họ dùng nhiều thời giờ cho công việc, xử dụng facebook liên hệ với người khác hơn là với nhau, cho nên tuy sống chung trong một nhà nhưng họ là những người xa lạ với nhau, không có yêu thương, hòa thuận và hạnh phúc, cũng như không tìm ra ý nghĩa và mục đích của hôn nhân gia đình vợ chồng của họ. Đây là thảm kịch của nhiều đôi vợ chồng trong xã hội ngày này.
Và thưa ông bà anh chị em. Đây cũng là thảm kịch trong đời sống của nhiều Ki-tô hữu ngày này. Là những Ki-tô hữu, nhưng không có một sự liên hệ mật thiết với Chúa Giê-su Ki-tô. Bên ngoài, hình như họ có liên hệ với Chúa như đi nhà thờ, đọc kinh, nhưng tận trong tâm hồn thì xa Chúa, vì không có một đời sống suy niệm cầu nguyện. Họ không có thời giờ thình lặng để tâm sự và cầu nguyện với Chúa. Không noi gương, bắt chước Chúa Giê-su cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Muốn trở thánh những Ki-tô hữu chân chính, đích thực, chúng ta phải có một đời sống cầu nguyện sốt sắng và thích hợp. Cầu nguyện là nhu cầu quan trọng và cần thiết, cũng là lương thực đích thực của chính Chúa Giêsu, để Người vượt qua những khó khăn và đau khổ của thập tự giá, để luôn trung thành, sốt sắng và hy sinh đem bình an, tình yêu và ơn cứu độ đến cho mọi người. Cầu nguyện đã giúp Người có sức mạnh chữa được những bệnh tật và loại trừ ma quỉ ra khỏi con người. Cho nên, chúng ta cũng phải có một đời sống cầu nguyện như Chúa để có sức mạnh vượt qua khỏi những hoàn cảnh đau khổ và lo âu, loại trừ được những sự dữ đang xiềng xích trói buộc cuộc sống chúng ta. Ông bà anh chị em thân mến. Khi đề cập đến cầu nguyện thì chúng ta có thái độ là đã biết rồi, đã cầu nguyện nhiều rồi, và đã vào hội nọ, nhóm kia rồi. Nhưng chúng ta hãy tự hỏi đời sống cầu nguyện của chúng ta có tạo một sự liên hệ mật thiết với Chúa không? Sự cầu nguyện của chúng ta có tạo nên những kết quả tốt trong đời sống đức tin không? Có giúp chúng ta trở nên khiêm nhường hơn tốt lành, sốt sắng, hy sinh và quảng đại hơn trong sự vui mừng, tin tưởng vào Chúa hơn không?
Xin Chúa giúp chúng ta biết hy sinh thời giờ suy niệm cầu nguyện. Cầu nguyện một cách chân thành, để chúng ta luôn được kết hợp mật thiết với Chúa. Cầu nguyện để chúng ta biết ý nghĩa, mục đích của cuộc sống. Cầu nguyện để gia đình được hòa thuận, hạnh phúc. Cầu nguyện để có sự vui mừng hy sinh phục vụ Chúa, để có sự khiêm nhường, bác ái, quảng đại, và sống trong bình an, tình yêu và ơn sủng của Chúa. Cầu nguyện để có sức mạnh vượt qua được những khó khăn, đau khổ và lo âu trong cuộc sống, chu toàn bổn phận và sứ mệnh chứng nhân cho Chúa.
Giúp người đói khổ thực tế nhất, vẫn là cho họ cơm ăn áo mặc, nói văn hoa hơn, khi giúp người TN5-B91
Giúp người đói khổ thực tế nhất, vẫn là cho họ cơm
ăn áo mặc, nói văn hoa hơn, khi giúp người nghèo nên giúp họ: cá, cần câu, mồi câu nữa. Muốn chia sẻ vật chất, ta cần có vật chất, và phải phát hiện được đâu là đối tượng túng thiếu cần trợ giúp. Nhắc đến giầu nghèo, tiền nhân chúng ta thật bức xúc nói lên rắc rối nơi xã hội: người ăn chẳng hết người lần chẳng ra. Biết bao người đã nghĩ đến câu tục ngữ: lực bất tòng tâm; dường như ít nhiều trong chúng ta đã có ước mơ tôi sẽ đầu tư, dấn thân, nhằm giúp làng xóm giảm bớt đi tình trạng bất cân đối giữa giầu nghèo.
Thế nào là giầu ? đâu là người nghèo cần giúp đỡ ? tưởng đó là câu hỏi “ngớ ngẩn”, nhưng thực ra suy nghĩ một chút thôi, ta sẽ thấy thấm thía lắm, vì trong cuộc sống ai cũng cần được yêu thương. Cái vòng luẩn quẩn, cùng với “cá tính” phức tạp hay đầy mâu thuẫn, chẳng biết đã có sẵn trong mỗi chúng ta không biết từ bao giờ ? Có người bị xem thường chỉ vì nghèo, nên anh quyết tâm làm giầu, sau khi giầu, anh lại không dám tiêu xài, chi phí, chia sẻ cho ai…., rồi cuối cùng người ấy chết như kẻ nghèo hèn, chẳng mấy ai biết đến ! Anh bạn khác, tính hào phóng lại hay thương người, bất luận gặp ai thiếu tiền, thiếu đồ dùng, …..anh sẵn lòng chia sẻ không hề suy tính, rồi cuối cùng xã hội xếp anh có tình bác ái ấy vào đối tượng nghèo, vì gia đình anh lúc nào cũng thiếu trước hụt sau.
Sách ông Gióp hôm nay nói lên một ưu tư, nếu con người không quan tâm đến mục đích sống ở đời này “là cho đi, là yêu thương”, dù ta có vất vả làm ăn hay tích cóp hưởng thụ, sống như thế ta sẽ chẳng bao giờ với tới hạnh phúc được. Thánh Phaolô nơi bài đọc II, ông đã tìm thấy ý nghĩa cuộc đời là rao giảng Tin mừng, vì thao thức và nhu cầu mọi người đều cần được yêu thương, cần được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu, niềm vui lớn nhất là giúp được người đau bệnh thoát khỏi những ưu tư lo lắng về phần xác. Một số chúng ta chủ trương: có thực mới vực được đạo; Chúa Giêsu như đang muốn nói với từng người: được no ấm về thân xác, là bước một để ta tiến tới bước kế tiếp, đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Nhiều người có suy nghĩ: cho tiền cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn, đúng là không ai có thể chia sẻ, giúp bạn mình suốt đời, nghĩa là cần giúp người anh em mình bước đi bằng bước chân thật của họ. Lập luận như vậy có lý lắm, nhưng nếu soi lòng mình vào đoạn Tin mừng hôm nay, ta sẽ thấy mình ích kỷ, còn sống thủ thế thủ thân thật bất xứng ! Trong khi Chúa Giêsu có ngày làm việc với thời gian kín mít: giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỷ, không quên kết hợp cầu nguyện với Chúa Cha. Nguyễn Du diễn tả vì Thúy Kiều thương cha nên không tiếc phận tiếc thân: gặp cơn mưa gió nặng nề, thương gì tới ngọc tiệc gì tới thân. Chúa Giêsu cho ta thấy phận người cần được yêu thương, mọi người cần được ơn cứu độ, nên bất luận điều kiện, thời gian…. Chúa vẫn hết lòng tận tụy chia sẻ.
Kinh nghiệm vẫn đang nói cho ta biết, động lực chính để con người làm việc không biết mệt mỏi, đó là tần tảo lao động, mang lại nhu cầu vật chất lo giúp gia đình, giúp cho con cái. Ước mong đầu tiên và cuối cùng của người Kitô hữu là thuộc về Chúa, và mai này được hưởng hạnh phúc thiên đàng với những ai cùng chung niềm tin. Đối với Chúa Giêsu, niềm vui lớn nhất là được chia sẻ tình yêu thương của Thiên Chúa Cha, cứu chữa mọi vết thương tâm hồn, và thực hiện trọn vẹn sứ mạng cứu độ.
Tiền nhân chúng ta có chia sẻ cho con cháu, những ai sống trong thời chiến, người ấy sẽ thấy cần thiết phải sớm có hoà bình để không đổ máu. Chỉ những ai đã từng đói ăn khát uống, người ấy mới hiểu rõ câu thành ngữ thế nào là một miếng khi đói bằng gói khi no. Cũng trong ý tưởng đó, nếu ai đang đau ốm, mắc bệnh nan y, hẳn người ấy sẽ cần đến thầy thuốc giỏi như Chúa Giêsu biết chừng nào. Với chúng ta, ai có nguyện ước làm sứ giả tình yêu thương, chắc chắn ta sẽ không khỏi ưu tư dấn thân, phục vụ như thế nào, hầu giúp các tâm hồn gặp được ơn Chúa cứu độ.
Đúng là phải hỏi các môn đệ, các ngài đã từng sống sát, sống gần Chúa Giêsu, các ông sẽ nói rõ hơn cho ta tin tưởng: chia sẻ yêu thương là hạnh phúc, cho đi lòng mến yêu để Nước Chúa hiện diện luôn cấp bách. Muốn làm được những việc như Đức Giêsu, thiết nghĩ chúng ta phải có tình yêu thương thật sự và cao độ như Ngài.
Đức Giêsu xưa nay vẫn trung thành với sứ mạng: loan báo một Tin mừng cho toàn dân, Chúa đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Ngài không mong múc cạn khổ đau của từng người, chỉ mong làm vơi đi phiền muộn, chỉ mong các môn đệ và chúng ta cùng chia sẻ, giúp nhau sống trọn vẹn nghĩa tình với Chúa, với anh chị em mình. Thế giới hôm nay luôn phải đối đầu với nhiều thứ bệnh lạ, bệnh nan y đáng sợ, rất cần có những người làm vơi nhẹ nỗi đau thể xác tâm hồn như Đức Giêsu. Và tất nhiên, chúng ta có thề dự phần vào việc chữa bệnh của Thầy Giêsu, đó là cầu nguyện, là dâng hy sinh, là đóng góp vật chất, chia sẻ sự hiểu biết của mình cho người khác, bằng chính công tác tông đồ tại gia đình giáo xứ của mình. Amen.
Cuộc sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau để tồn tại. Con người cũng phải liên đới TN5-B92
Cuộc sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau để tồn tại. Con người cũng phải liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh phúc cho nhau. Đó là chân lý, là lẽ sống của muôn loài.
Đó cũng là điều mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã nói:
Tôi hỏi đất: –Ðất sống với đất như thế nào? – Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước: –Nước sống với nước như thế nào? – Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ: –Cỏ sống với cỏ như thế nào? – Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người: – Người sống với người như thế nào?
Thật khó để trả lời cho chân lý sống của con người. Con người dường như chẳng đi theo một quy luật nào. Đất sống với nhau luôn bồi đắp cho nhau để tạo thành những đồi núi trùng điệp thơ mộng. Những con nước luôn liên kết với nhau mới tạo thành những dòng chảy quanh xóm làng thanh bình. Từng nhánh cỏ đan xen với nhau mới làm nên một thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Nhưng con người lại ích lỷ, thích sống cho bản thân hơn là liên đới tồn tại.
Dẫu biết rằng cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống bồi đắp cho nhau, biết sống làm đầy cho nhau những nghĩa cử yêu thương, và biết sống liên kết với nhau tạo nên một thế giới màu xanh của yêu thương và hòa bình. Cuộc đời sẽ bất hạnh nếu con người sống chia rẽ, hiềm khích và tranh giành nhau. Nhưng đáng tiếc con người sống với nhau chỉ toan tính lợi lộc cho bản thân hơn là chia sẻ nhường nhịn lẫn nhau. Vì thế, câu trả lời con người sống với nhau thế nào thật đa dạng.
– Người buôn bán thì bảo phải cạnh tranh để tồn tại, để kiếm lợi nhuận.
– Người làm chính trị thì bảo phải khôn ngoan để chiến thắng, để đẩy lui đối thủ. – Những ca sĩ, những bác sĩ thì thích chê nhau nhiều hơn là khen nhau, thích loại trừ nhau nhiều hơn là liên đới với nhau.
Xem ra con người vẫn chưa liên đới đủ để tạo nên một sức sống hùng vĩ như đất đã tạo nên những dãy núi trùng điệp. Xem ra con người vẫn chưa xan xẻ với nhau đủ để tạo thành một dòng chảy tình yêu cho mát rượi lòng nhau. Xem ra con người vẫn con xa cách nhau khiến không thể gần nhau để cùng chung xây thế giới an bình thịnh vượng.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu con người biết liên đới với nhau. Sự liên đới sẽ làm giầu có cho nhau. Sự liên đới sẽ mang lại no ấm cho nhau. Sẽ không còn tiếng khóc lẻ loi trong cô đơn tuyệt vọng. Sẽ không còn những tranh chấp thị phi nếu con người biết tôn cao nhau và cùng dìu nhau đi tới.
Chúa Giê-su đã sống một cuộc sống yêu thương như thế. Ngài rất bận rộn. Cái bận rộn không phải của công việc cho bản thân mà là bận rộn làm việc cho tha nhân. Ngài sống liên đới với mọi người. Ngài liên đới với tội nhân để thay họ dâng hy lễ đền tội với Chúa Cha. Ngài liên đới với những mảnh đời lao động vất vả khi chính Ngài đã sống ẩn dật tại mái nhà Nagiaret. Nơi đó, Ngài sống như người nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động. Ngài liên đới với mọi cảnh cơ hàn của con người khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi đau của con người. Đôi chân trần của Ngài đã đến với mọi hạng người để nâng đỡ và ủi an họ.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy sống tình liên đới với nhau. Hãy ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để đến với tha nhân. Con người sống là sống với ai đó để tồn tại thì hãy sống liên đới, xan xẻ và yêu thương nhau. Có như vậy chúng ta mới làm lên những kỳ công cho cuộc đời khi không còn những kẻ cơ hàn, đói rách bên cạnh chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương như Chúa. Xin cho đôi chân của chúng ta luôn mau lẹ đến với tha nhân, và đôi tay luôn quảng để nâng đỡ, ủi an những ai đang mang gánh nặng nề vì cuộc sống lầm than. Amen
Các phóng viên rất thắc mặc tại sao Mẹ Têrêsa Calcutta, nay là chân phước Têrêsa lại có thể làm TN5-B93
Các phóng viên rất thắc mặc tại sao Mẹ Têrêsa Calcutta, nay là chân phước Têrêsa lại có thể làm được những việc mà nhiều người khác không thể làm được ? Ngay từ sáng sớm cho đến chiều tối, có những ngày quên ăn quên ngủ, Mẹ Têrêsa cùng với các chị em trong Dòng đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thành phố Calcutta để tìm kiếm những người đau yếu, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có nhiều lần Mẹ đem về nhà những người nằm dưới cống hoặc bị bỏ bê lâu ngày hôi thối, bẩn thỉu, bị mọi người tránh xa. Mẹ ôm những người ấy vào lòng, đem về đặt trên gường của mình để săn sóc. Mẹ giải thích: Vì tôi muốn họ được chết như một con người chứ không như con vật. Khi được hỏi tại sao Mẹ và các chị em của mẹ có thể làm được như thế ? Mẹ trả lời: Một ngày của chúng tôi được bắt đầu từ Thánh lễ. Chính từ Thánh Thể, chúng tôi có nguồn sức mạnh và có nguồn năng lượng cho một ngày làm việc. Các chị em trong Dòng chúng tôi mỗi ngày có ít nhất một giờ bên Thánh Thể Chúa, đó là sức mạnh cho chúng tôi. Cuộc sống thiêng liêng của người tín hữu cần phải được thường xuyên nạp năng lượng thì mới có thể sống và hoạt động tốt được.
Thánh Marcô kể lại một ngày hoạt động đầy ắp công việc của Chúa Giêsu từ sáng đến tối khuya. Buổi sáng, Ngài vào Hội đường Caphacnaum để cùng với mọi người nghe đọc sách thánh và Chúa cùng thường vào Hội đường để giảng dạy giáo lý. Ra khỏi Hội đường, Ngài đã đến nhà của hai ông Simon và Anre. Bà mẹ vợ của ông Simon đang bị sốt nặng, Chúa Giêsu biết bà đang bị bệnh, Ngài không cần hỏi bà điều gì, Ngài cầm tay bà đỡ dậy và bà khỏi bệnh. Thánh Marcô cho thấy Chúa Giêsu đi đến đâu, thì quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được lan đến đó. Quyền năng của Ngài khiến ma quỷ và tội lỗi phải sợ hãi chạy xa.
Buổi chiều, Chúa Giêsu tiếp tục công việc của Ngài là rao giảng Tin Mừng và chữa lành tất cả mọi người bị đau ốm hay bị quỷ ám. Cả thành kéo đến chật cửa nhà. Chúa Giêsu lại tiếp tục chữa lành cho họ. Chúa Giêsu không dùng các phép lạ để thu hút dân chúng, nhưng những ai tin vào Ngài, đi theo Ngài, thì sẽ được chứng kiến các phép lạ Chúa làm và qua các phép lạ đó, mọi người nhận ra Ngài là Thiên Chúa và là Đấng Cứu thế.
Có lẽ điều Thánh Marcô muốn nhắm đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay đó là: Chúa Giêsu đã làm việc vất vả như thế vì mục đích gì và Ngài kín múc nguồn năng lượng từ đâu cho một ngày hoạt động như thế ? Tin Mừng kể tiếp: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã dậy, đi đến một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Nếu như sau một ngày hoạt động, con người cần những lúc nghỉ ngơi, cần được nạp lại năng lượng thế nào, thì Chúa Giêsu cũng vậy. Nguồn năng lượng cho mọi hoạt động của Chúa Giêsu chính là những giờ phút cầu nguyện, gặp gỡ, tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa Cha.
Khởi đầu ngày mới bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu tìm kiếm và nhận ra thánh ý Chúa Cha muốn gì cho đời sống hoạt động tông đồ của Ngài. Ngài nhận ra con đường mà Chúa Cha muốn Ngài đi và những công việc mà Chúa Cha muốn Ngài thực hiện. Chính qua việc cầu nguyện, gặp gỡ với Chúa Cha, Chúa Giêsu như nạp thêm năng lượng cho đời tông đồ của Ngài. Kết thúc một ngày làm việc bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu lại đặt trọn công việc đã làm và cả ngày sống của mình cho Thiên Chúa Cha. Câu chuyện Tin Mừng cho thấy: Ông Simon và các môn đệ đi tìm Chúa Giêsu. Khi thấy Ngài, họ thưa: Mọi người đang tìm Thầy. Chúa Giêsu trả lời: Chúng ta còn phải đi đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Như thế, việc gặp gỡ với Thiên Chúa giúp Chúa Giêsu không bị trói buộc vào những thành công hay tìm kiếm những lời khen cùng sự ngưỡng mộ, nhưng giúp Ngài không quên sứ mạng chính của mình là ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân.
Cuộc sống của con người không ai là không phải vất vả làm việc để đạt được kết quả hoặc mục đích cho cuộc sống. Tuy nhiên, mỗi người làm việc trong thái độ nào mới là quan trọng. Bài đọc một sách Gióp có một cái nhìn khá bi quan về thân phận con người. Ông cho rằng cuộc sống con người nơi dương thế chẳng khác nào một cuộc khổ dịch lao nhọc. Con người từ sáng tới tối phải lao động vất vả hết ngày này qua ngày khác dường như không chấm dứt. Bóng đêm đổ xuống thì mong trời sáng để đi làm, khi ngày đến thì mong tối về được nghỉ ngơi. Tác giả cũng đã phải kêu lên: Ngày đời tôi thấm thoát tựa thoi đưa và chấm dứt không một tia hy vọng. …Cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.
Nếu người tín hữu cũng lao vào công việc như tham gia vào chiếc đu quay, hết sáng đi làm, rồi tối về ngủ, sáng mai lại đi làm, như sách Gióp đã nói thì quả thật cuộc sống như thế quá tẻ nhạt và mất ý nghĩa. Để cho cuộc sống và công việc của chúng ta có ý nghĩa, chúng ta cần phải có những khoảng dừng để nạp năng lượng, hồi phục tinh thần và thể xác.
Thiên Chúa cho chúng ta có mặt ở trần gian này không phải là một cái máy đã được lập trình, cũng không phải là những con thú sống theo bản năng sáng đi săn mồi, tối về hang, nhưng chúng ta được hiện diện trên trần gian này với tư cách là những người con của Thiên Chúa, được Chúa yêu thương trao cho chúng ta cai quản và làm chủ vũ trụ này. Vì thế, chúng ta cần phải sống và làm việc trong tư cách và phẩm giá ấy.
Vì là con, chúng ta phải sống và làm việc như những người được Chúa tín nhiệm, đồng thời làm việc trong sự hiện diện và dưới cái nhìn của Chúa. Đừng làm việc như những kẻ nô lệ cắm mặt vào công việc mà quên phẩm giá và ơn gọi của mình là những con người tự do. Làm việc trong sự hiện diện của Chúa giống như đứa con được làm việc bên cha mình và làm việc của cha mình. Vì thế, mọi công việc, mọi hoạt động của chúng ta được làm với tâm tình yêu mến và biết ơn.
Là người cai quản – Thiên Chúa đã tín nhiệm trao vũ trụ này cho chúng ta, Ngài cũng trao cho chúng ta gia đình và các trách nhiệm khác nhau. Hãy làm việc như một quản gia trung tín, tức là làm việc theo đúng ý Thiên Chúa. Để biết ý của Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta nơi gia đình, nơi cộng đoàn, hãy noi gương Chúa Giêsu, hỏi ý kiến Thiên Chúa qua việc cầu nguyện và thường xuyên gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy tập thói quen bắt đầu ngày mới bằng việc phó dâng công việc và mọi toan tính cho Chúa ; và khi chiều về, mọi người cùng nhau xum họp để nhìn lại một ngày trôi qua và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa. Hãy làm cho cuộc sống của mình, của gia đình, xã hội và làm cho môi trường sống tốt đẹp hơn. Thiên Chúa sẽ biến kết quả công việc thành của lễ hy sinh mang lại ơn cứu độ cho bản thân và cho mọi người.
Ngoài những việc bổn phận hàng ngày, là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta còn phải là những người thực thi công việc loan báo Tin Mừng, giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Đây là một nhiệm vụ mà chúng ta không thể thoái thác. Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã chia sẻ ý tưởng này: Thưa anh em, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tôi tự hào, mà đó là điều bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như tôi tự ý làm việc ấy thì tôi được thưởng công, nhưng đây là một bổn phận Thiên Chúa trao phó, nên tôi không thể không làm.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng: Tôi bận rộn từ sáng đến tối, tôi vất vả để kiếm cơm áo cho gia đình, còn thì giờ đâu tôi thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng ? Thưa – việc sống và loan báo Tin Mừng không phải là việc làm tăng ca ngoài giờ mà là một công việc đan xem vào mọi nhịp sống mỗi ngày của chúng ta. Không phải chúng ta chỉ loan báo Chúa Kitô sau khi chúng ta đã xong việc của gia đình ; trái lại, chúng ta làm tất cả công việc thường ngày với lòng tin tưởng, yêu mến, gắn bó với Thiên Chúa và biết ơn Thiên Chúa thì tất cả các công việc, dù nhỏ bé cũng sẽ trở thành những công việc của Chúa và là công việc loan báo Tin Mừng của Chúa.
Hơn thế nữa, việc giới thiệu về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài cho người bên cạnh còn là một đòi hỏi, một thúc bách cho tất cả mỗi chúng ta. Chúa không muốn cho các tông đồ và chúng ta dừng chân ngơi nghỉ hoặc bằng lòng về một vài công việc đã thực hiện được, nhưng Chúa muốn chúng ta cần phải liên tục lên đường đến với nhiều anh chị em khác nữa, để qua sự hiện diện, qua đời sống, qua việc làm của chúng ta, nhiều anh chị em khác sẽ được đón nhận Tin Mừng của Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu, thường xuyên gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, để đón nhận được nguồn năng lượng và sức mạnh cho mỗi ngày sống của chúng ta. Amen.
Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng TN5-B94
Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành, ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định: “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).
Quả thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25). Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại.
Đau khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward (1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng thôi!
Đau khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6:5-6). Thiên Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này.
Trong dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay yêu thương và cảm thông.
Ông Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!
Thất vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau khổ.
Cái mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.
Dù chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!
Thánh Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Sinh, lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ” phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn cái khổ đó.
Một hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Tin lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì “giờ của Ngài chưa đến”.
Hôm sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ từ chứ!
Nghe mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.
Sai lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì tránh được đau khổ.
Đau khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Nghĩ tới ma quỷ, chúng ta thường mường tượng ra một thằng người, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, TN5-B95 CT
Nghĩ tới ma quỷ, chúng ta thường mường tượng ra một thằng người, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, vừa có sừng lại vừa có đuôi. Nhưng đó chỉ là một hình ảnh ấu trĩ mà thôi. Trong bức thư gởi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã vẽ về nó bằng một đường nét khác, ngài gọi nó là quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
Đúng thế, nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy nó đang mở rộng ảnh hưởng, đang bành trướng thế lực trong mọi lãnh vực. Từ khoa học kỹ thuật, cho đến sách báo phim ảnh. Chúng ta hãy nghĩ đến sách báo phim ảnh khiêu dâm, trình bày những tình cảm bệnh hoạn cùng với những vụ giết chóc dã man. Chúng ta hãy nghĩ tới những cuộc chạy đua vũ trang. Chỉ nguyên chương trình phòng thủ không gian của Mỹ, cũng đã tốn tới hằng tỉ mỹ kim, trong khi đó trên thế giới biết bao nhiêu người túng đói, chén cơm không có mà ăn, manh áo không có mà mặc. Chúng ta làm được những gì để ngăn chặn làn sóng tội ác, hay là chúng ta để mặc cho quyền lực của đêm tối cứ mỗi ngày một lan rộng.
Tội ác đã có từ lâu, nhưng ngày hôm nay, nó được tăng lên với một vận tốc kinh khủng, khiến cho con người như không còn ý thức về nó nữa. Người ta huỷ bỏ án tử hình vì cho đó là một hình phạt quá nặng nề. Thế nhưng khi được hỏi về những vụ phá thai, thì họ lại bảo đó là chuyện khác. Rồi khi được hỏi về những vụ ngoại tình, và ly dị, thì họ lại bảo con người có quyền được sống hạnh phúc. Dường như là cái nền văn minh vật chất, chỉ đem lại cho chúng ta một cái bộ mặt bên ngoài hào nhoáng, nhưng lại đánh mấy cái ý nghĩa, cái nền tảng bên trong. Vậy thì phải chăng quyền lực của đêm tối cứ tiếp tục trải dài. Và ai sẽ chiến thắng được nó?
Tôi xin thưa, người duy nhất đã chiến thắng được nó là Đức Kitô. Còn chúng ta, muốn chia sẻ phần chiến thắng, thì chúng ta phải mang lấy vũ khí của Ngài. Vũ khí ấy là gì? Tôi xin thưa đó là đức tin. Không phải chỉ là một đức tin được thực hành ở trong nhà thờ, nhưng là một đức tin mạnh mẽ và sống động, một đức tin vô điều kiện có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn chấp nhận Thiên Chúa là Chủ tể tuyệt đối, đồng thời cố gắng biểu lộ đức tin ấy bằng những việc làm cụ thể.
Ma quỷ không thể tác động trên chúng ta nếu như chúng ta đã không giao nộp cho nó tâm hồn và thể xác. Đồng thời niềm tin vào Đức Kitô sẽ là sức mạnh duy nhất làm cho ma quỷ phải khiếp sợ và bỏ chạy. Nhờ đó mà chúng ta được giải thoát khỏi quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ dịch... Là chuỗi ngày làm thuê... Số TN5-B96
1. Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ dịch... Là chuỗi ngày làm thuê... Số phận tôi là những đêm đau khổ... ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”.
Lời than thở đó diễn tả đủ loại đau khổ chồng chất trên đời người: Đau khổ thể chất thì ít, đau khổ tinh thần thì quá nhiều.
Cuộc sống thể chất là “một khổ dịch”. Khổ dịch vì bao nhiêu công việc nặng nhọc. Con người sống như nô lệ, không còn thời giờ hóng mát. Mệt mỏi về làm lụng, mệt mỏi về ăn uống, mệt mỏi về chơi bời giải trí! Còn biết bao nhiêu khổ dịch của bệnh tật, già cỗi, nghèo đói, loạn lạc, chiến tranh, thiên tai luôn vùi dập con người.
Đau khổ thể chất còn đổ lỗi cho trời đất. Những đau khổ tinh thần ghê sợ gấp bội, lại do chính con người gây ra. Đó là những đau khổ tâm lý, đau khổ đạo đức, đau khổ siêu hình (siêu nhiên).
Đau khổ tâm lý là những mặc cảm về “cuộc sống chỉ là chuỗi ngày làm thuê”, mặc cảm về thân phận hèn hạ tôi đòi, ở đậu. Không đâu là nhà, luôn luôn bị trôi dạt, bị chao đảo, bị o ép, nên dễ bất mãn, chống đối người khác, chống đối xã hội, chống đối Thiên Chúa, cuộc sống đầy những tâm trạng nổi loạn, ghen ghét, hận thù, phản bội, chứng tỏ một tâm lý ấu trĩ, tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, tự chủ, cái đau khổ của Ađam Evà thân phận bùn đất nhưng lại muốn bằng Thiên Chúa, thân phận là con ếch dưới đáy giếng lại đòi bằng con bò để căng da phình bụng nổ tan bành mà chết, như trong ngụ ngôn của Lafontaine. Chừng nào ta thấy được vinh phúc Thiên Chúa đã ban cho mình từ bùn đất nên con người và từ con người nên con Thiên Chúa, ta mới được hạnh phúc thật.
Đau khổ đạo đức: “Ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”. Con người bối rối âu lo, bị ray rứt về những dục vọng đen tối. Những đam mê sai trái, những dằn vặt ấy đã làm thánh Phaolô phải kêu lên: “Điều tôi không muốn, tôi lại làm!”. Bao nhiêu thiếu sót, bê trễ bổn phận cũng là những tác nhân gây ra đau khổ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. “Nỗi ray rứt hàng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2Cr. 11, 28). Sau cùng, thứ đau khổ cùng cực nhất của con người là thấy “số phận của tôi là những đêm tối đau khổ”, đêm tối là số phận tôi, không ánh sáng, không tương lai, không hy vọng. Tất cả gia tài, sự nghiệp ky cóp, bon chen, giành giựt, chèn ép, chạy chọt như con thoi, đều tan ra như mây khói: “Đời con chỉ là một hơi thở”, một cái thở hắt ra là chấm dứt cuộc đời, con người câm lặng nhắm mắt lìa đời. Thật ghê sợ, rợn rùng “Mắt con sẽ không được thấy hạnh phúc bao giờ”. Đó là thứ đau khổ siêu hình, thứ đau khổ về hư vô. Thứ đau khổ mất niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống, mất hy vọng vào Đấng Cứu Độ đời đời.
2. Ai ai có thể cứu chữa tôi thoát khỏi những thứ đau khổ này? Tất cả nhân loại đều bó tay, chỉ còn có Đức Giêsu thôi. Chính vì để giải phóng đau khổ này, Đức Giêsu đã đến trần gian. Người đến để chữa lành đau khổ thể xác và tinh thần. Cụ thể, hôm nay, Đức Giêsu đến nhà hai ông Simon và Anrê. Họ liền nói cho Người biết bà nhạc mẫu của ông Simon đang đau liệt. Đức Giêsu đến gần, cầm tay nâng bà dậy. Bà liền hết sốt. Một cử chỉ thân tình xoa dịu mọi lo âu thống khổ của gia đình. Người đến làm cho cảnh gia đình sầu khổ được sống lại hân hoan.
Cơm chiều đã dọn sẵn, chỉ vài món ăn thanh đạm, nhưng vị thượng khách chẳng kể chi. Cùng ngồi quây quần với mọi người, Người thanh thoát niềm nở kể chuyện. Câu chuyện trong sáng, giản dị. Mọi người đón nghe Tin mừng chan chứa niềm vui và hy vọng vào tương lai vinh phúc bất diệt của con người. Mọi xao xuyến, sầu khổ biến tan. Những nụ cười tươi nở, những ánh mắt sáng lên. Họ nhìn Người xiết bao trìu mến và đầy tin tưởng. Hoàng hôn buông xuống, chấm dứt ngày nghỉ lễ Sabbat, cả thành ùn ùn kéo đến nhà ông Simon. Ông mở rộng cửa, dọn dẹp sân vườn đón tiếp bà con xa gần. Simon mở cửa nhà càng rộng, Đức Giêsu càng giang rộng đôi cánh tay âu yếm, thương mến đón tiếp mọi hạng người: nghèo hèn, sang giàu, đau khổ, bệnh tật, đủ loại quỷ ám và tội lỗi. Nhà Simon thành đại gia đình tình thương của Chúa. Suốt tối hôm đó, Người chữa lành mọi vết thương tâm hồn và thể xác. Người luôn tay chúc phúc cho tất cả toàn dân. Trời về đêm cũng không cản nổi giòng thác người sầu khổ tuôn đến với Người. Người không biết mệt, tay vẫn giơ lên chạm đến từng người, miệng luôn đọc lời chúc lành bình an. Trái tim Người rung động cảm thương dân chúng vô biên, không gì có thể làm tê liệt được, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Người coi bệnh hoạn của chúng ta như của riêng Người. Người mang hết mọi tai ương của chúng ta” (53, 4).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gánh lấy mọi khổ dịch của loài người và đưa Tin mừng nước Trời cho khắp mọi nơi, từ thánh đường đến gia đình, từ thành phố đến mọi nẻo đường xã ấp. Xin cho muôn dân mau mau đến xum họp chung quanh Chúa đoàn tụ thành đại gia đình tình thương vinh phúc của Chúa. Amen.
Đức Kitô mang lại nhiều an ủi, hy vọng và tình thương lại cho những ai may mắn đón nhận lời TN5-B97
Đức Kitô mang lại nhiều an ủi, hy vọng và tình thương lại cho những ai may mắn đón nhận lời Ngài mời gọi trong cuộc sống. Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rất nhiều trường hợp Ngài gặp gỡ, an ủi và chữa lành họ. Một người trong số đó là bà nhạc gia của ông Phêrô mắc bệnh sốt rét, nằm trên giường.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài c.31
Tiếng đồn lan nhanh, ngay tối hôm đó người ta kéo đến đông đảo xin Người chữa bệnh.
Đức Kitô chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai c.34
Đức Kitô chữa lành không phải chỉ khỏi bệnh mà còn ban cho họ ơn đặc biệt, biết mình không những được bình phục và còn khoẻ hơn trước, tự tin hơn trước. Chương thứ hai Phúc Âm thánh Marcô ghi lại câu chuyện một người bị liệt giường nhiều năm, không thể di chuyển được phải nhờ bốn người bạn thương khiêng cả giường đến cho Đức Kitô chữa bệnh. Đến nơi người ta ngồi đông không thể chen vào được. Bốn người bàn nhau dỡ mái nhà thả chiếc giường có người bại liệt nằm trên đó. Đức Kitô chữa lành người bại liệt bằng cách ra lệnh cho anh đứng dậy vác chõng mà về. Ngay sau câu nói của Đức Kitô anh không cần thời gian hồi phục, lập tức đứng ngay dậy vác chõng ra về trước mặt mọi người chứng kiến. Anh không những được khỏi bệnh mà còn sạch tội trước mặt Chúa. Anh cảm thấy một sức mạnh nội tâm vươn lên như suối nguồn vô tận đến từ trong tâm hồn.
Không cần thời gian hồi phục đó cũng là kinh nhgiệm của bà nhạc gia ông Phêrô. Bà yếu liệt do sốt rét hành hạ, ngay sau khi được chữa khỏi bà đứng dậy phục vụ các ông, thực hành nhân đức bác ái. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong Phúc Âm thánh Marcô thực hành nhiệm vụ tông đồ - phục vụ người khác. Có nhiều thứ bệnh không phải chỉ làm cho con người suy nhược mà có khi nguy hiểm đến tính mạng, làm mất tự tin, bế tắc sinh hoạt bình thường trong cuộc sống, tự mình không thể tiếp tực công việc kiếm sống, không tự lo cho mình mà phải nhờ đến người khác giúp đỡ. Bệnh tật cắt đứt mọi sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong cộng đoàn. Đức Kitô chữa không những cho họ khỏi bệnh mà còn giúp họ nối kết lại với những gì trước đây bị gián đoạn, ngăn trở. Tiếp tục lại công việc, tự mình lo cho mình và lo cho tha nhân, nối lại sinh hoạt với cộng đoàn đức tin mà có thời họ tích cực sinh hoạt.
Đức Kitô có thói quen tốt lành là sau một ngày làm việc mệt mỏi sáng sớm hôm sau Ngài luôn tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện. Ngài bắt đầu một ngày mới bằng việc cầu nguyện, liên kết với Chúa Cha, hội í với Chúa Cha về chương trình cứu độ nhân loại. Nhớ lại trước khi bắt đầu rao giảng công khai Đức Kitô cũng đã ở trong hoang địa một thời gian lâu. Thời gian trong hoang địa là thời gian cầu nguyện. Thời gian trong hoang địa để nhìn lại mối liên kết với Chúa Cha, nhìn lại bước đường đã qua và hoạch định cho bước đường kế tiếp, là thời gian chuẩn bị cho chương trình chữa lành và quan trọng hơn là chương trình cứu độ.
Khác với các thế lực trần thế, họ dựa vào sức mạnh của vũ khí, vũ khí càng tân tiến, sức công phá càng mạnh họ càng có lợi thế trong cuộc chiến. Đức Kitô không nhờ vào sức mạnh của vũ khí chiến tranh. Vũ khí của Ngài chính là tình yêu, cải hoá con tim người ta bằng tâm tình yêu mến, và thực thi bác ái với tha nhân. Ngài thắng con tim người ta và ban cho con tim đó một sức sống mới, sức sống phát xuất tự tâm, thay đổi lối suy nghĩ và tìm nguồn vui trong phục vụ.
Thánh Máccô trình bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một ngày bận rộn với công việc chữa TN5-B98
Thánh Máccô trình bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh, rao giảng Tin mừng, nhưng vẫn dành thì giờ cho việc cầu nguyện; một ngày lo chuyện "gia đình" của những người thân thuộc, nhưng không quên ra đi "đến các làng xã chung quanh". Một bản văn tóm tắt như thế cho ta thấy những khía cạnh chính yếu của cuộc đời Đức Giêsu. Cuộc đời phong phú của Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía cạnh: chiêm niệm và hoạt động, việc nhà và việc nước, với Chúa Cha và với con người... Đời sống đó trở nên nguồn mạch mẫu mực cho nhiều lối sống khác nhau, những ơn gọi khác nhau.
Ngày nay, trong Hội thánh, chúng ta thấy có nhiều ơn gọi khác nhau: ơn gọi gia đình, đơn gọi tu trì, ơn gọi giáo sĩ; chúng ta cũng thấy có nhiều linh đạo khác nhau, linh đạo chiêm niệm, linh đạo hoạt động, linh đạo bác ái, linh đạo rao giảng Tin mừng.... Tất cả những bậc sống và những linh đạo ấy đều bắt nguồn từ chính đời sống của Chúa Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu làm mẫu mực cho mình. Như thế, nếu ta có nhận ra một ơn gọi, một tác vụ nào được Chúa kêu gọi và trao phó cho mình, thì đồng thời ta cũng phải hiểu rằng còn có nhiều ơn gọi và linh đạo khác trong Hội thánh của Chúa. Nhất là ta phải hiểu rằng những bậc sống ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, những tác vụ khác nhau ấy tương tác lẫn nhau cách mật thiết. Do vậy, những con đường khác nhau ấy cần tìm thấy mối liên đới hữu ích và sung mãn trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.
Hội thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, chính Thánh Thần của Đức Kitô là nguyên lý sống của Hội thánh và Thánh Thần làm cho Nhiệm Thể cũng được liên kết, thống nhất với Đầu là Chúa Kitô, trong cách thức hiện hữu cũng như trong hoạt động. Như thế, có thể nói được rằng một bậc sống nào mà muốn loại trừ hoặc khinh thường bậc sống khác là không có Thánh Thần của Chúa; một linh đạo nào không thể chấp nhận hoặc không liên kết với một linh đạo khác thì chẳng thể xuất phát từ Thánh Thần của Chúa Kitô được.
Trong "một ngày sống" của Chúa Giêsu Kitô, có tất cả đời sống và hoạt động của Hội thánh Chúa; có tất cả mọi hoạt động và linh đạo của mỗi người và mỗi đoàn thể của Hội thánh hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống một cuộc đời phong phú và hữu ích cho con người biết bao. Ngày hôm nay, Chúa ngự vào lòng con, Chúa ở với con và làm việc trong con, xin cho con được cùng với Chúa để sống, sống phong phú và hữu ích cho anh chị em của con như Chúa đã từng sống.
Trong cuộc sống, con người luôn phải vất vả khó khăn chỉ nhằm mục đích đơn giản chính là đi tìm TN5-B99
Trong cuộc sống, con người luôn phải vất vả khó khăn chỉ nhằm mục đích đơn giản chính là đi tìm hạnh phúc. Nhiều khi hạnh phúc đó không tìm được mà lại bị đau khổ, vì "sinh - bệnh - lão - tử" không ai có thể thoát được trên cõi đời này. Đặc biệt là thời Đức Giêsu y học chưa được phát triển, mỗi căn bệnh có thể nói là một "cực hình" về thể xác lẫn tinh thần. Cực hình về thể xác làm cho họ đau khổ, không thuốc men, bị bệnh tật hành hạ. Nhưng so với đau khổ về tinh thần thì chưa thấm vào đâu. Vì quan niệm của người Do Thái cho rằng những người bị bệnh chính lò do họ tội lỗi, do bị phạt... cho nên bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã làm việc thật vất vả, chỉ nhằm cho con người được hạnh phúc, Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau. Ngài đã làm việc và cầu nguyện từ sáng sớm đến chiều hôm. Do đó, có thể nói Đức Giêsu là con người của công việc và cầu nguyện:
1. Con người làm việc.
Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra các mốc thời gian trong ngày mà Đức Giêsu sử dụng, Người không để một phút giây nào trôi qua mà không có ý nghĩa, không có ích lợi. Một điều hay là chính Đức Giêsu không phải sử dụng thời gian nhằm lợi ích cho mình nhưng Ngài đã sử dụng cho người khác. Ngài làm việc chỉ nhằm đem lại hạnh phúc cho con người, tiêu biểu chính là đem lại hạnh phúc cho bà mẹ vợ ông Simon "Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường". Chắc chắn bà sẽ rất đau khổ. Lúc khách đến nhà bà rất muốn để phục vụ nhưng không thể phục vụ, bà bị một lực cản bệnh hoạn không thể làm cho bà đến được với Chúa, để phục vụ Người. Đức Giêsu không những đã phá tan lực cản đó mà qua công việc làm của mình Ngài còn làm tăng thêm lòng tin và động lực cho bà mẹ vợ ông phêrô, để chính khi hết bệnh bà cũng đã biết làm việc như chính Đức Giêsu đã làm "Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài". Bà đã cộng tác với Chúa qua việc làm của bà để đem đến chút lợi ích nào đó cho người khác. Việc làm của đó nếu chỉ nhằm trả công cho Đức Giêsu thì nó thật không ý nghĩa.
Điều mà Đức Giêsu muốn chính là phải biết phục vụ và làm trong tình yêu chứ không phải đặt trên bàn cân để so đo, để trả công, đó chỉ là những công việc tiêu cực chưa có ý nghĩa cao thượng. Vì trên trần gian này rất hiếm khi chúng ta gặp người nào lại tự ôm lấy vất vả, đón nhận vất vả, và làm bạn với vất vả. Cuộc đời người ấy từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt lìa đời được dệt bằng những vất vả triền miên. Đó là Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân trần. Định mệnh của ngài là sinh ra và chịu vất vả như chính Ngài đã nói: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc10,45)
Hơn nữa, ông bà ta thường hay dạy con cháu "Nhàn cư vi bất thiện", khi mà người ta ở không thì dễ nghĩ đến điều xấu, từ đó sẽ đưa đến hành động xấu. Chắc chắn điều này không phải hoàn toàn đúng, nhưng phần lớn ai cũng chấp nhận nó. và chính chúng ta những người Kitô hữu lại càng phải theo gương Đức Giêsu vì Người chính là mẫu gương tuyệt vời trong công việc. "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Do đó, theo gương Chúa Giêsu. Vâng! Chỉ khi nào chúng ta biết nhìn lên Chúa Giêsu để bằng lòng với cuộc sống của mình, thánh hóa nó và cho nó một giá trị cứu độ, thì lúc đó con người mới nhận được giá trị và yêu mến những vất vả của mình. Và lạ lùng thay, chính khi con người biết nhận ra những vất vả của mình, thì cũng là lúc những vất vả ấy biến thành niềm vui và hạnh phúc. Vì nó đã được thánh hoá và ban cho một giá trị cứu độ nhờ vào những vất vả của Chúa Giêsu.
2. Con người cầu nguyện.
Khi còn rất nhỏ, tôi vẫn còn nhớ như in câu giáo lý trong sách "Bổn đồng ấu" dành cho các em chuẩn bị rước lễ:
Hỏi: Đức Giêsu cầu nguyện khi nào và ở đâu?
Thưa: Đức Giêsu cầu nguyện mọi lúc và mọi nơi.
Thú thật ngày đó tôi vẫn chưa hiểu gì về việc cầu nguyện, nhưng chính cái hiểu đơn sơ đó đã khắc ghi vào trong tâm trí tôi hình ảnh cầu nguyện của Đức Giêsu rất đẹp. Tôi biết Ngài cầu nguyện là nói chuyện luôn mãi với Chúa Cha, mà ngày nay tôi tôi nhận ra sự cầu nguyện liên lỉ của Ngài với Chúa Cha. Thánh Marcô đã tường thuật: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó". Đó là một nét nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Người cầu nguyện để cho các việc làm của Người đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, trong việc loan báo Tin mừng, trong việc "chữa nhiều kẻ ốm đau bệnh tật, trong việc xua trừ ma quỷ". Vì vậy, mỗi người chúng ta cũng hãy biết cầu nguyện như Chúa Giêsu đã từng làm, Ngài cầu nguyện trước mỗi công việc xin Thiên Chúa ban ơn nâng đỡ, soi sáng. Trong công việc cầu nguyện xin Thiên Chúa ban sức mạnh, sự kiên trì. Và cuối cùng khi hoàn thành thì cầu nguyện tạ ơn. Đúng là một bài học cầu nguyện tuyệt vời mà không có nơi đâu chúng ta có thể học được.
Lạy Chúa, khi bước theo Chúa Giêsu chúng con nhận ra được mẫu gương làm việc và cầu nguyện, xin cho mỗi người chúng con nhận ra sự vất vả trong công việc chính là ơn Chúa ban, để từ đó chúng con luôn biết cầu nguyện và làm việc phục vụ Chúa và tha nhân. Amen.
Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai hạng người mang hai tính cách khác nhau TN5-B100
Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai hạng người mang hai tính cách khác nhau rõ rệt: một là hạng người vị kỷ, hai là hạng người vị tha.
Người vị kỷ
Người vị kỷ là hạng người chỉ biết sống vì mình, đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống. Tất cả mọi hoạt động của họ đều quy về bản thân, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình mà không hề quan tâm giúp đỡ người khác, thậm chí còn làm hại người khác để kiếm lợi cho mình.
Người vị tha
Người vị tha là người quên mình để quan tâm chăm lo, phục vụ người khác. Chúa Giêsu là tiêu biểu cho hạng người nầy. Ngài chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Ngài hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho sự phục vụ tận tuỵ của Ngài và Ngài làm tất cả những gì có thể, để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Ngài chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
Tin Mừng Mác-cô (1, 29-39) hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu, một người hoàn toàn vị tha, luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm than khốn khổ để giúp đỡ cứu vớt họ.
Hôm ấy, “Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ.”
Sáng hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Ngài trong phạm vi nhỏ hẹp. Ngài muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Ngài cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Ngài bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Ngài đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ.”
Nói tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa Giêsu mà không được Chúa quan tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa mà chẳng được Chúa dủ lòng thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người, yêu thương hết mọi người và hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.
Sống vị tha theo gương Chúa Giêsu
Mỗi người là một tế bào, là một bộ phận trong một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Mỗi cá nhân được tồn tại và tăng trưởng là nhờ xã hội và xã hội được phát triển cũng là nhờ vào từng cá nhân.
Vì thế, mỗi người không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Một cây cam được xem là đáng quý khi nó cống hiến nhiều quả ngon trái ngọt cho chủ vườn. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp cho đời sẽ làm cho bản thân mình trở nên cao quý hơn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa luôn vị tha và đã sống hết mình vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng ích kỷ chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho người khác.
Nếu hôm nay chúng con chỉ biết chăm lo phục vụ bản thân mình mà không dấn thân phục vụ người khác, thì vào lúc từ giã đời này, chúng con sẽ cùng chịu án phạt đời đời với lão phú hộ không biết thương xót La-da-rô khốn khổ (Lu-ca 16, 19-31), hoặc như những người bị Chúa lên án trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng” vì đã không yêu thương phục vụ tha nhân chung quanh mình. (Mt 25, 31-46).