Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-B Bài 1-50 Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm
------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 14-20: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Hôm đó, Chúa Giêsu đang đi dạo trên bờ biển, Ngài thấy bóng dáng quen thuộc của những người đánh cá… Có đôi lần họ đã tiếp xúc với Ngài, cũng như đã nghe Ngài giảng dạy.
Lúc này kẻ thì đang quăng chài, người thì đang vá lưới. Chúa Giêsu đã nhìn họ với cặp mắt yêu thương và rồi đã lên tiếng kêu gọi:
- Các con hãy theo Ta.
Và như thế, ơn gọi khởi đi từ một lời kêu mời của Chúa.
Nơi người Do thái, cũng như nơi các dân tộc khác, người ta thường tìm thày học đạo. Còn ở đây, chính Chúa Giêsu đi tìm các môn đệ như lời Ngài đã xác quyết:
- Không phải các con chọn Thày, nhưng chính Thày đã chọn các con…
Sở dĩ như vậy là vì Ngài biết rõ những giới hạn của mình trong thời gian và không gian. Ngài cần đến những người cộng tác với Ngài để làm tròn sứ mạng Chúa Cha đã trao phó.
Với chúng ta cũng thế. Rất có thể lúc này Ngài cũng đang nhìn chúng ta bằng cặp mắt trìu mến. Không phải chỉ hạnh phúc cho người nào được thấy Chúa, mà còn phải nói thêm hạnh phúc cho người nào được Chúa nhìn thấy, được lọt vào ánh mắt yêu thương của Ngài. Chúa Giêsu đang nhìn chúng ta, chúng ta thế nào thì Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của Ngài không làm cho chúng ta bị tê liệt, bởi vì Ngài chấp nhận thân phận bất toàn và yếu đuối của chúng ta. Cho nên, chúng ta không cần phải tô son điểm phấn, chính cái đơn sơ và chân thành của chúng ta mới thu hút Ngài. Ngài nhìn chúng ta, đồng thời qua cái nhìn ấy, Ngài cũng muốn kêu mời chúng ta trở thành những môn đệ, những cộng tác viên của Ngài.
Ngày xưa các môn đệ đã từ bỏ cha già, ghe thuyền, chài lưới cùng với những vui buồn của kiếp sống trên sông nước mà đi theo Chúa. Còn chúng ta, liệu chúng ta có dám từ bỏ để đi theo Chúa hay không?
Bởi vì sự từ bỏ luôn là một điều kiện gắn liền với ơn gọi của người môn đệ:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Ta.
Dĩ nhiên Ngài không đòi hỏi mọi người phải từ bỏ gia đình, phải từ bỏ nghề nghiệp để đi theo Ngài trong nếp sống tu trì, nhưng Ngài đòi hỏi mọi người phải từ bỏ mình với sự ích kỷ của bản thân, với sự chai đá của tâm hồn, với sự xơ cứng của con tim, với những thành kiến của trí khôn.
Sự từ bỏ nào cũng để lại những đớn đau, nhưng nhờ đó chúng ta sẽ được lớn lên và trở thành những môn đệ, những cộng tác viên của Chúa, như hạt lúa phải mục nát thì mới sinh nhiều bông hạt.
Trong khi thu dọn ngôi nhà thờ bị đổ nát do chiến tranh gây nên. Từ những mảnh vụn, người ta đã dựng lại tượng chịu nạn. Thế nhưng tượng này lại thiếu mất hai bàn tay. Người ta tìm mãi tìm hoài trong đống gạch vụn mà cũng chẳng thấy. Cuối cùng người ta đành chịu vậy. Thế nhưng, một viên sĩ quan đã ghi lại hàng chữ dưới chân tượng như sau:
- Vì đôi tay của Chúa không còn nữa, nên dân làng hãy thay Chúa làm những công việc mà lẽ ra đôi bàn tay Chúa vốn thường làm.
Lúc này Chúa đang nhìn chúng ta, Ngài lên tiếng kêu mời chúng ta bước theo Ngài để trở thành những môn đệ, những cộng tác viên, những cánh tay nối dài của Ngài trong chương trình cứu độ.
Con người chúng ta thật là cao cả, bởi vì được Thiên Chúa cần đến. Phải, Ngài cần đến từng người chúng ta như một viên gạch nhỏ cần thiết cho tòa nhà và chẳng có ai là thừa thãi và vô dụng cả.
Đoạn Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và: TN3-B2
Đoạn Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa kêu gọi các ông: “Các anh hãy đi theo tôi”. Lời kêu gọi đó Chúa cũng nói với mỗi người chúng ta hôm nay.
Tin Mừng cho biết cả bốn môn đệ, bốn tông đồ đầu tiên ấy đều là những người chài lưới, và họ đang hành nghề trên biển hồ Galilê. Cho tới lúc đó, chưa bao giờ các ông đưa mắt nhìn xa quá tầm mắt quen thuộc với những công việc sinh nhai hằng ngày. Bây giờ Chúa Giêsu mời gọi các ông nhìn lên cao hơn và xa hơn. Ngài chỉ cho các ông thấy thế giới như biển cả mênh mông, phải vượt khắp đó đây để đánh lưới “sinh linh”. Sứ mệnh của các ông là đem các linh hồn về cho Chúa.
Nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ông đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống cùng với những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên. Từ nay các ông sẽ có những bận tâm khác với những lo lắng trước đây. Các ông rời bỏ quê hương làng xóm, nơi chôn nhau cắt rốn, để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình các linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.
Thực vậy, các tông đồ đầu tiên thoát ly mọi sự trước kia đã ràng buộc các ông là để gắn bó với Chúa Giêsu. Các ông đi theo Ngài một cách tin tưởng mà không hỏi xem Ngài sẽ dẫn các ông đi đâu và tương lai sẽ thế nào. Các ông đi theo Ngài để chia sẻ vui sướng, nhưng đồng thời cũng để đồng lao cộng khổ với Ngài. Các ông đi theo Ngài để lãnh nhận lời giáo huấn, lấy đó làm mẫu mực cho đời sống mình trước hết, để rồi sau đó tuyên xưng giáo thuyết của Ngài và truyền bá giáo thuyết đó cho mọi người.
Tóm lại, bốn tông đồ đầu tiên nói riêng và tất cả các tông đồ nói chung, đã thực thi mệnh lệnh “Hãy đi theo tôi” của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn. Các ông đã đi theo Chúa, sống bên Chúa, chứng kiến mọi việc Chúa làm, ghi nhớ những lời Chúa giảng dạy. Và khi Chúa về trời, các ông hăng say rao giảng về Chúa và giáo huấn của Chúa cho đến chết. Đó là đường lối mà các tông đồ đầu tiên và các tông đồ kế tiếp nhau đã làm đổi thay bộ mặt cũng như toàn bộ thế giới cho tới chúng ta ngày nay.
Nếu Chúa Giêsu đã quan tâm kêu gọi những người cộng sự trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng, thì điều đó có nghĩa là Ngài không muốn làm việc một mình mà muốn nước trời là một công trình có sự đóng góp của mọi người, nhất là qua ơn gọi thừa tác. Lời kêu gọi “Hãy đi theo tôi” hôm qua vang lên tai các tông đồ thì hôm nay vẫn còn vang lên trong nhịp sống Giáo hội và gửi đến chúng ta hằng ngày. Vấn đề là chúng ta có quan tâm lắng nghe và đáp ứng không ?
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được Chúa mời gọi theo Chúa, chúng ta đã thực sự là Kitô hữu rồi. Nhưng đời sống Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Giáo hội dạy, giữ những điều răn Chúa và Giáo hội truyền, và giữ như thế để được rỗi linh hồn. Cũng như các tông đồ xưa kia được kêu gọi không phải chỉ là để được “rỗi linh hồn”, nhưng còn là để cộng tác với Ngài. Người Kitô hữu cũng thế, được kêu gọi theo Chúa, không phải chúng ta chỉ lo cứu linh hồn mình, nghĩa là không phải chỉ là người giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa. Dù ở bậc sống nào, dù không vào đoàn thể nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng phải là những tông đồ của Chúa. Làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được nếp sống của những người chung quanh. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho mọi người từ tị hiềm ghen ghét đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau.
Về điều này chính chúng ta đã kinh nghiệm hay chúng ta biết được qua kinh nghiệm của người khác. Câu truyện sau đây là một điển hình: Một hôm, thánh Cờ-lê-men-tê lững thững đi vào một quán ăn. Ngài giơ tay ra và nói: “Xin quí ông rộng lượng bố thí cho các em cô nhi một miếng ăn”. Tức thì các thực khách cười rộ lên. Một người tên là Uyn-déc (Wilszek) ngổ ngáo nói: “Một miếng ăn cho các em hả, được lắm”. Nói xong, anh ta nâng cốc bia lên uống, rồi phùng miệng phun thật mạnh vào mặt cha Cờ-lê-men-tê. Ngài điềm tĩnh lấy khăn mùi xoa ra lau mặt, rồi lại giơ hai tay ra và nói: “Thưa các ông, đó là phần của tôi. Còn phần của các em cô nhi đâu chưa thấy”. Uyn-déc như bị đấm một quả thôi sơn, té nhào xuống đất, anh ấp úng nói.
“Tôi…tôi…sẽ…gởi…tặng các em một món quà”. Quả thực, sau đó anh tự động đi lạc quyên giữa các bạn bè xa gần và đến trao cho thánh Cờ-lê-men-tê một món tiền lớn; và anh còn làm nhiều lần như thế.
Gương sáng, đời sống tốt đẹp có sức mạnh như thế đó. Xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đẹp, nêu gương sáng cho mọi người, trước tiên cho những người thân yêu trong gia đình bằng đời sống hòa thuận yêu thương nhau, hạnh phúc trong tình yêu mến Chúa và yêu mến nhau, rồi từ đó lan tỏa cho những người chung quanh.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: TN3-B3
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Lời kêu gọi sám hối này nhắm đến ai vậy ? Trước hết, lời kêu gọi này nhắm đến những kẻ tội lỗi, nhưng trên thực tế, cũng nhắm đến tất cả mọi người, ngay cả người tốt lành.
Đức Giêsu băn khoăn đối với những người tốt lành hơn, so với những kẻ tội lỗi. Tại sao vậy ? Kẻ khó biến đổi nhất lại chính là những người tốt lành, bởi vì họ không nhận thấy mình có bất cứ nhu cầu nào trong việc hoán cải. Muốn đưa một bệnh nhân đi khám bác sĩ đã là một chuyện khá khó khăn, nhưng bạn hãy thử thuyết phục người đang mạnh khỏe đi bác sĩ xem sao ! Những kẻ tội lỗi vốn công khai thừa nhận rằng mình là người tội lỗi, lại không gây ra cho Đức Giêsu cùng một nỗi băn khoăn như vậy.
Để đáp ứng lại lời kêu gọi hoán cải, người ta phải cảm thấy bất mãn với chính mình, và ao ước một điều gì đó tốt đẹp hơn. Họ phải ý thức rằng bản thân mình có một điều gì đó sai trái, hoặc ít nhất là đang thiếu sót một điều gì đó. Cảm nghiệm về nhu cầu hoán cải bắt đầu với việc nhận ra rằng chúng ta không được như điều chúng ta có thể và nên làm. Nhận thức này là giai đoạn đầu tiên của một quá trình, bước kế tiếp là cả một hành trình.
Để xúc tiến lời kêu gọi hoán cải, đòi hỏi người ta phải có tinh thần cởi mở, chân thành, khiêm tốn, và nhất là lòng can đảm – can đảm để chấm dứt kiểu tự lừa dối chính mình, và dám đối diện với một thực tại đau lòng, can đảm thừa nhận tội lỗi của mình, cầu xin ơn tha thứ và quyết tâm thay đổi. Con người ta có thể trở nên quá kiên định trong lối sống của mình, do đó, lại càng bị chìm đắm trong những lối mòn, đến nỗi hầu như không thể lay chuyển họ được.
Một số người có thể nhìn thấy tương lai tốt đẹp hơn, nhưng vẫn không chịu di chuyển. Họ nhận ra rằng không thể đạt được tương lai này chỉ trong nháy mắt, hoặc bằng phương tiện là cây gậy thần. Họ nhận ra rằng con đường trước mặt sẽ lâu dài, sự tiến bộ thật là chậm chạp và đau thương. Con người của hiện tại không thể cư ngụ trong ngôi nhà của tương lai, chỉ người nào biết biến đổi mới có thể sống được mà thôi. Đây là lý do tại sao một số người đã chọn lựa ở lại nguyên tình trạng của họ.
Người ta thường trình bày sự thống hối như là một công việc đầy khó khăn, tiêu cực và đáng buồn, dường như thể điều đó chỉ bao hàm cảm giác tội lỗi về những sai phạm của mình, và phải gánh chịu hình phạt do các tội lỗi này. Sự thống hối là một hành động rất tích cực. Thật vậy, thống hối là thừa nhận rằng tất cả mọi sự nơi bản thân mình đều chưa tốt đẹp. Nhưng cũng là khám phá rằng con người mình có một điều gì đó tuyệt vời, nghĩa là có những tiềm năng, mà mình chưa biết là mình có. Điều này có nghĩa là người đó đang đạt được một tầm nhìn mới, đang đi theo một đường hướng mới, tự mình theo đuổi những mục đích xứng đáng hơn, sống theo những giá trị tốt đẹp hơn. Nói tóm lại, điều này mở ra một lối sống mới. Khi thấu hiểu được điều này, thì thống hối lại là một công việc đầy phấn khởi, và luôn luôn đưa đến niềm vui.
Thống hối nghĩa là biến đổi. Sự biến đổi là điểm mở đầu cho mỗi cuộc hành trình thiêng liêng, và đó là điều tiên quyết để đi vào nước Thiên Chúa. Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình biến đổi liên tục.
Chủ đề về sự thống hối là một trong những chủ đề chính của các bài đọc hôm nay. Chúng ta nhận: TN3-B4
Chủ đề về sự thống hối là một trong những chủ đề chính của các bài đọc hôm nay. Chúng ta nhận thấy cách thế ngôn sứ Giô-Na rao giảng về sự thống hối cho thành phố ngoại đạo của Ninivê, và đã gặp được một sự đáp ứng ngay tức khắc và hết mình. Đức Giêsu cũng bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nhưng thật không may, Người đã không hề gặp được một cách đáp ứng tương tự.
Nhiều người nhận thấy rằng ý tưởng thống hối là một ý tưởng gây rắc rối. Thống hối có nghĩa là thay đổi tầm nhìn của người đó về cuộc sống, và điều chỉnh những hành động của mình một cách phù hợp. Điều đó có nghĩa là thay đổi tâm hồn và thay đổi lối sống, có lẽ là hoàn toàn thay đổi cuộc sống của mình, theo chiều ngược lại. Như thế, sự thống hối nối kết với cảm giác đau đớn. Đó là lý do tại sao người ta chậm đi theo sự thống hối, và chỉ muốn được yên thân.
Có một câu chuyện từ những ngày mà đạo Công giáo vừa mới đến Rôma. Câu chuyện này liên quan đến một người lính Rôma, tên là Livinius, đã yêu một thiếu nữ Công giáo. Tuy nhiên, nàng không đồng ý yêu người lính đó, bởi vì anh ta không phải là người Công giáo. Một đêm kia, anh ta đi theo nàng đến một nơi gặp gỡ bí mật của một nhóm Kitô hữu nhỏ, tại đó, không để cho bất cứ ai nhận ra mình, anh ta lắng nghe phụng vụ.
Khi được nghe đến lời rao giảng của thánh Phêrô, có một điều gì đó xảy ra nơi tâm hồn của anh. Một tầm nhìn mới về cuộc sống mở ra trước mặt anh. Nhưng anh biết ngay rằng nếu anh đi theo lời giảng dạy này, thì anh sẽ phải bỏ đi những tư tưởng, thói quen, mục đích và tính cách cũ của mình. Thế rồi anh ta sẽ phải sống theo một lối sống hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta không biết rằng anh ta có đủ yêu người thiếu nữ đó, đến nỗi chịu thay đổi lối sống của anh ta đến thế không.
Đó là một ví dụ về sự thống hối – quay lưng lại với những điều rõ ràng là xấu xa, chẳng hạn như nghiện ngập, bất lương, loạn luân. Nhưng đây chỉ là một loại thống hối mà thôi. Cũng có một sự thống hối được chuyển thành lòng tốt. Ở đây, sự thay đổi không nhất thiết phải mạnh mẽ, quyết liệt. Sự thay đổi có thể xuất phát từ một lối sống hoàn toàn ích kỷ, đến một lối sống yêu thương và quan tâm hơn. Loại thay đổi này cũng gây ra sự đau xót. Ai muốn giũ khỏi lối sống theo nhục dục, tìm kiếm tiện nghi, và nuông chiều bản thân ?
Sự thống hối là điều gì đó chủ yếu là tích cực. Thật vậy, thống hối là thừa nhận rằng tất cả mọi sự nơi bản thân mình đều chưa tốt đẹp. Nhưng cũng là khám phá rằng con người mình có một điều gì đó tuyệt vời, nghĩa là có những tiềm năng, mà mình chưa biết là mình có. Điều này có nghĩa là người đó đang đạt được một tầm nhìn mới, đang đi theo một đường hướng mới, tự mình theo đuổi những mục đích xứng đáng hơn, sống theo những giá trị tốt đẹp hơn. Nói tóm lại, điều này mở ra một lối sống mới.
Không ai có thể đạt được lối sống mới một cách nhanh chóng và không hề đau xót gì cả, nếu không, tất cả mọi người đều sẽ chọn lựa lối sống đó. Nói đúng hơn, điều này đưa đến một cuộc hành trình và đấu tranh, mà trong đó không ai hoàn toàn đạt được chiến thắng.
Không giống như sự ân hận, thống hối mở ra con đường tái sinh. Khi thấu hiểu được điều này, thì thống hối lại là một công việc đầy phấn khởi, và luôn luôn đưa đến niềm vui. Điều này có nghĩa là chúng ta biết lắng nghe và sống theo Tin Mừng.
Thánh Marcô tạo ra cảm giác là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên là một sự kiện mang tính cách rất: TN3-B5
Thánh Marcô tạo ra cảm giác là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên là một sự kiện mang tính cách rất lễ nghi, và người được kêu gọi hoàn toàn bất ngờ, không được biết trước, hoặc có quan hệ gì với Đức Giêsu. Nhưng thánh Gioan cho thấy rằng không phải là trường hợp đó. Ngài giải thích rõ ràng rằng mối tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu trải qua một giai đoạn lớn lên và phát triển. Người ta không đi theo một người hoàn toàn xa lạ. Nếu như vậy, thì họ là những kẻ điên rồ.
Rõ ràng là cả bốn môn đệ (Simon, An rê, Giacôbê và Gioan) đã có quan hệ từ trước với Đức Giêsu. Chắc hẳn là họ bắt đầu bằng cách đứng trong đám đông, lắng nghe Người nói. Điều này đưa đến kết quả là họ thán phục Người, làm cho họ muốn được quen biết với Người một cách cá nhân. Một khi đã được gặp gỡ Người, và cảm thấy được sức thu hút nơi nhân cách của Người, thì họ đều bị lôi cuốn về phía Người. Từ đó, có thể họ quyết định đi theo Người.
Điều này giải thích nguyên nhân tại sao, khi cuối cùng Người kêu gọi họ, thì họ liền hưởng ứng ngay tức khắc và một cách trọn vẹn đến như vậy. Họ bỏ lại tất cả mọi sự – cách sinh nhai, tài sản, sự an toàn, những liên hệ gia đình – và tự hiến thân riêng biệt cho việc đi theo Đức Giêsu. Qua bao thời đại, nhiều kẻ tin đã thực hiện cũng lời cam kết này đối với Đức Kitô. Mặc dù lời kêu gọi “Hãy theo Thầy” của Người nghe giống như một lệnh truyền, nhưng tất nhiên, đó không phải là một lệnh truyền, mà là một lời mời gọi.
Những người đó là ai vậy ? Họ là những người đánh cá, mà đánh cá là một công việc quan trọng. Nhưng Đức Giêsu mời gọi họ đến với một công việc thậm chí còn quan trọng hơn. Người đem đến cho họ không chỉ một công việc mới mẻ, nhưng còn là một nguyên cớ để rồi từ đó, họ hiến trọn cuộc đời mình. Họ biết rằng Người không kêu gọi họ đến với một cuộc sống dễ dãi. Trái lại là đàng khác. Nhưng vốn là những người đánh cá, họ đã từng quen thuộc với cảnh khó nhọc rồi.
Họ cũng hiểu rằng lời mời gọi của Đức Giêsu chính là lời mời gọi phục vụ người khác: “Thầy sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới người”. Khi những người lãnh đạo các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ biến những kẻ đó thành nô lệ cho họ. Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ, không phải để phục vụ bản thân Người, nhưng là để phục vụ những người khác.
Lời mời gọi của Người mang ý nghĩa hy sinh những kế hoạch riêng, những tham vọng, sự an toàn v.v… Đây là một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm, bởi vì họ đang chuyển từ công việc mà họ biết, để đến với một công việc mà họ không hề biết. Nhưng họ cũng biết rằng lời mời gọi của Người đem đến cho họ một cơ hội được sống một cuộc sống trọn vẹn hơn và xứng đáng hơn. Cho đến nay, họ đã có một nghề nghiệp. Bây giờ, họ có được một ơn gọi.
Một nghề nghiệp và một ơn gọi khác hẳn nhau, mặc dù không hề loại trừ lẫn nhau. Chúng ta vẫn có thể sống theo một ơn gọi, thông qua một nghề nghiệp cụ thể, chẳng hạn như làm giáo viên, y tá, bác sĩ… Nhưng không bao giờ một ơn gọi có thể đưa đến những hoạt động này. Ơn gọi mang nét gì đó sâu xa hơn, đòi hỏi một tầm nhìn, một động cơ, một sự tận tụy. Một nghề nghiệp thường mang ý nghĩa đưa con người đi xa hơn. Nhưng một ơn gọi có nghĩa là phục vụ những người khác.
Sự kiện các môn đệ chấp nhận thử thách này một cách hết lòng đến thế, nói lên cho chúng ta biết rất nhiều về tính cách con người của họ, mặc dù họ không phải là những siêu nhân, mà chỉ là những con người bình thường. Không ai có thể tin tưởng vào những con người bình thường, giống như Đức Giêsu đã tin. Để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, người ta không cần phải trở thành một con người đặc biệt.
Ngày nay, Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và nhu cầu hiện nay rất lớn. Vẫn có những người đáp trả lại lời mời gọi của Người. Một số người (giống như bốn môn đệ trên) được kêu gọi hoàn toàn hiến thân, và sống theo một cách thức “chuyên nghiệp” đi theo Đức Kitô. Nhưng không phải tất cả mọi Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Đức Kitô bằng cách này.
Ý tưởng về lời mời gọi trái ngược với nền văn hóa phổ biến hiện nay. Ngày nay, chúng ta nghĩ rằng mình vẫn có thể sống một cuộc sống không hề được kêu gọi – không cậy nhờ vào bất cứ mục đích nào bên ngoài bản thân mình. Thật không dễ dàng khi cho phép mình được chọn lựa. Khi để mặc một mình, chúng ta có khuynh hướng đi theo lối sống nào ít bị kháng cự nhất. Do đó, chúng ta cần có người nào đó thách đố chúng ta, người đó biết rõ những điều mà chúng ta ưa thích nhất, và sẽ không để cho chúng ta sắp xếp bất cứ thứ gì, mà khả năng của chúng ta chưa đạt tới.
Việc đi theo Đức Kitô có ý nghĩa gì đối với người bình thường? Điều đó có nghĩa là hãy là người Kitô hữu ngay tại nơi bạn đang sống, và theo nghề nghiệp mà bạn đã chọn lựa. Có nhiều cách thức phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Lời kêu gọi này ngay từ đầu không phải là trở nên người tông đồ, mà là trở nên môn đệ của Đức Kitô.
Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp lại được Đức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả: TN3-B6
Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp lại được Đức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả. Chắc chắn họ không phải là những người nhẹ dạ. Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài. Đến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục, họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ tênh.
Nhiều người nghĩ rằng đoạn Tin Mừng này nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ. Thật ra đây là đoạn Tin Mừng nói về ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta.
Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê. Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ. Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài. Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta. Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận. Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa. Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.
Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay biết. Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới. Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ. Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng, thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.
Hãy theo tôi!
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.
Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới con người.
Con người là điều ta phải quan tâm, vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.
Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới.
Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi đời, mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới. Như thế là chấp nhận đổ vỡ, đoạn tuyệt.
Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những người thân yêu. Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào? Mái nhà nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn cần bạn, vì bạn là Kitô hữu. Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.
Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa. Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường. lo xây dựng gia đình, sự nghiệp, tương lai. Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần, nghĩa là chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: "Quả thật, Đức Giêsu là người bạn khó tính. Ngài chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Ngài, bằng cách trao phó cho Ngài trọn cuộc sống." Hiện nay, Ngài đang mời bạn chinh phục đỉnh cao nào trong cuộc sống?
Để theo Đức Giêsu, cần phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn? Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn...)?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Đức Giê-su đến để xây dựng Nước Thiên Chúa. Bạn quan niệm Nước Thiên Chúa là gì? ở ngay trần: TN3-B7
1. Đức Giê-su đến để xây dựng Nước Thiên Chúa. Bạn quan niệm Nước Thiên Chúa là gì? ở ngay trần gian này hay ở đời sau? Bản chất của nó là gì?
2. Bản chất của Nước Thiên Chúa chính là Tình Thương. Trong đời sống Ki-tô hữu, việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích rất quan trọng, nhưng so với việc thực hiện tình yêu thương thì việc nào quan trọng hơn? Cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cần phải quan trọng hóa hay làm nổi bật cái nào?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giê-su đến để xây dựng triều đại Thiên Chúa
Khi bắt đầu xuất hiện công khai để loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su tuyên bố với mọi người: «Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng». Ngài nói vậy nghĩa là gì? - «Thời kỳ đã mãn» nghĩa là đã hết một thời kỳ, và đã đến lúc bắt đầu một thời kỳ mới. Thời cũ là thời của Cựu Ước, với những tinh thần và luật lệ của Cựu Ước. Thời của Cựu Ước là thời chuẩn bị cho thời của Tân Ước. Và Đức Giê-su đến để khai mở thời kỳ Tân Ước, với những tinh thần và luật lệ mới của Tân Ước. Thời Tân Ước là thời xây dựng triều đại Thiên Chúa do Đức Giê-su chủ xướng và thiết lập. Ngài nói: «Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần». «Đã đến gần» có nghĩa là còn đang đến chứ chưa thành hiện thực. Triều đại ấy có thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào Đức Giê-su và những người cộng tác với Ngài.
2. Triều đại Thiên Chúa hay Nước Thiên Chúa là gì?
Triều đại Thiên Chúa mà Đức Giê-su muốn thiết lập là một kỷ nguyên mới, trong đó nhân loại được sống trong an bình hạnh phúc, nhờ biết yêu thương nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau. Ngài đã đưa ra một «điều răn mới» cho kỷ nguyên mới này: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34; x. 15,12.17). Và yêu thương phải trở thành dấu hiệu đặc trưng của những ai theo Ngài, đặc trưng đến nỗi chỉ việc nhìn vào tình thương họ dành cho nhau, mà mọi người nhận ra họ là người theo Ngài: «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,35). Ngài đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn đặc biệt của Ngài nhằm thực hiện Nước Thiên Chúa, trong đó, tình thương thống trị trong lòng mọi người, khiến mọi người trong cộng đoàn đó yêu thương và hy sinh cho nhau, coi nhau như anh chị em, nhờ đó họ luôn luôn đầy đủ và hạnh phúc. Và nhờ sự hấp dẫn luôn luôn có của tình thương, Giáo Hội ấy ngày càng mở rộng, và lan tràn khắp thế giới. Lúc ấy, thế giới sẽ trở thành Nước Thiên Chúa, ngay tại trần gian này. Ngài đã ban cho Giáo Hội những phương tiện rất hữu hiệu là các bí tích để thông ban sức mạnh thiêng liêng để con người thực hiện điều ấy.
3. Một lý do khiến Giáo Hội chưa thực hiện được Nước Thiên Chúa
Thế nhưng cho đến nay, nhìn vào Giáo Hội và thế giới, người ta không khỏi nghi ngờ: liệu việc xây dựng «Triều đại Thiên Chúa» hay «Nước Trời» của Đức Giê-su có thành tựu được không? Xem ra lý tưởng của Đức Giê-su vẫn còn xa vời lắm, mặc dù Giáo Hội đã nỗ lực thực hiện lý tưởng ấy suốt 2000 năm nay. Có thể một trong những lý do khiến chúng ta không thành công là chúng ta chưa quan tâm đủ đến sứ điệp trọng tâm của Đức Giê-su là tinh thần yêu thương, mà quá quan tâm đến những phương tiện - là việc cầu nguyện, các bí tích - để đạt được tinh thần ấy.
Quả thật, những phương tiện mà Đức Giê-su đặt ra rất cần thiết và hữu ích, nhưng dù thế nào chăng nữa, chúng vẫn chỉ là những phương tiện. Biến những phương tiện ấy thành mục đích hay cứu cánh là vô hiệu hóa chúng, thậm chí làm chúng biến chất, làm chúng trở nên có hại thay vì có lợi. Nếu «đồng tiền là một đầy tớ rất tốt, nhưng lại là một ông chủ rất xấu», thì tương tự như vậy: các phương tiện Đức Giê-su lập ra như các bí tích, việc cầu nguyện, v.v... là những phương tiện rất tốt, nhưng lại là những mục đích rất xấu. Nghĩa là nếu chúng ta nhắm mục đích rõ ràng là sống yêu thương nhau, và quyết tâm thực hiện sự yêu thương ấy, thì việc cầu nguyện và các bí tích sẽ là những phương tiện hết sức hữu hiệu để đạt được mục đích ấy. Còn nếu chúng ta coi chúng là mục đích, thì chúng sẽ trở thành những yếu tố phá hoại sự yêu thương ấy, cũng là phá hoại tôn giáo.
Khốn thay rất nhiều Ki-tô hữu không hề ý thức sứ điệp căn bản của Đức Giê-su là tình yêu thương, nên không mấy quan tâm tới điều chính yếu ấy. Họ chỉ chủ yếu quan tâm tới việc thực hành những phương tiện mà Đức Giê-su lập ra để đạt mục đích ấy, và coi việc thực hành những phương tiện ấy chính là bản chất việc sống đạo Ki-tô giáo. Họ đã biến phương tiện thành mục đích, vì thế, những phương tiện ấy chẳng những chẳng đạt được mục đích mà Đức Giê-su muốn chúng đạt được, mà chúng lại trở thành một thế lực ngăn cản con người đạt đến mục đích ấy. Thật vậy, biết bao Ki-tô hữu cảm thấy mình đạo đức chỉ vì đã đi lễ hằng ngày, rất siêng năng lãnh nhận các bí tích, rất chuyên cần đọc kinh cầu nguyện... đang khi họ đối xử với tha nhân, thậm chí với cả những người trong gia đình mình, chẳng mấy tốt đẹp. Như thế họ đã quan niệm sai lầm về việc sống đạo, nhất là về bản chất của Ki-tô giáo. Điều này thiết tưởng những người có nhiệm vụ rao giảng, dạy dỗ trong Giáo Hội phải chịu trách nhiệm phần nào!
4. Để xây dựng Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su cần những người cộng tác
Ngay khi bắt đầu sứ mạng loan báo và xây dựng Nước Thiên Chúa, việc đầu tiên Đức Giê-su phải làm là tìm những người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Chắc hẳn những người được Ngài mời gọi theo Ngài làm tông đồ, Ngài đã nhận ra nhiệt huyết của họ trong những lần Ngài nói chuyện với dân chúng về Nước Trời trước đó. Vì thế, khi Ngài mời gọi họ, họ lập tức bỏ mọi sự để lên đường theo Ngài ngay. Và với 12 môn đệ - tức 12 người cộng tác đắc lực - được Ngài tuyển chọn, Ngài đã lập nên cả một Giáo Hội phát triển rộng lớn như ngày nay. Sau 20 thế kỷ khởi công xây dựng Nước Thiên Chúa, người theo Đức Giê-su hiện nay trên thế giới tuy rất đông nhưng dẫu sao vẫn còn rất ít ỏi so với số lượng đáng lẽ phải đạt được. Vì hiện nay số người Ki-tô hữu mới chỉ chiếm 1/3 dân số thế giới. Đó là nói về số lượng, còn chất lượng người Ki-tô hữu thì sao? Bao nhiêu phần trăm Ki-tô hữu thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giê-su đúng như Ngài đã truyền: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34)? Đối với thế giới, Ki-tô giáo có phải là một biểu tượng hay gương mẫu của tình thương, của sự khoan dung, hay chỉ là biểu tượng của lễ nghi, của sự khắt khe, không khoan nhượng?
Thời nào Đức Giê-su cũng cần những người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Và chắc chắn thời nào cũng không thiếu những con người nhiệt tình sẵn sàng hy sinh cho công cuộc của Ngài. Nhưng nhiệt huyết xuông, không đủ, chúng ta cần phải đi đúng đường lối của Ngài. Nếu không, nỗ lực của Giáo Hội chúng ta sẽ chỉ là những nỗ lực kiểu «dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì». Thiết tưởng chúng ta cần phải nắm vững cái nào là cái chính yếu, cái nào là cái phụ thuộc; cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện; cái nào là bản chất, cái nào là hiện tượng. Nhờ phân biệt rõ ràng như thế, chúng ta mới biết hy sinh cái phụ thuộc cho cái chính yếu, coi nhẹ phương tiện hơn mục đích, coi trọng bản chất hơn hiện tượng.
Cứ thử xét cách dùng danh từ của nhà đạo chúng ta thì biết chúng ta đã quan trọng hóa cái gì: cái chính yếu hay cái phụ thuộc? Chúng ta gọi những việc cầu nguyện hay bí tích là những «việc đạo đức». Điều đó khiến nhiều Ki-tô hữu lầm tưởng rằng cứ cầu nguyện hay lãnh nhận các bí tích cho nhiều là trở thành người đạo đức. Nhưng thật ra rất nhiều người làm được như vậy một cách rất gương mẫu, nhưng chẳng ai mến phục chỉ vì họ sống thiếu tình thương. Thực ra đạo đức được thể hiện trong chính cuộc sống thường ngày: trong cách cư xử, cách làm việc, cách nói năng… Một người có đạo đức khác với những người không đạo đức chủ yếu ở trong chính cách cư xử, làm việc, nói năng… chứ không phải trong việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Vì thế, thiết tưởng khi chúng ta làm những bổn phận hằng ngày như làm ăn buôn bán, quét nhà nấu ăn giặt giũ, tiếp xúc nói chuyện cư xử với mọi người...nếu chúng ta làm với tinh thần yêu thương vị tha, thì chính khi làm như vậy là ta thực hiện những việc đạo đức. Việc cầu nguyện và các bí tích giúp ta có ơn Chúa, có sức mạnh để làm những việc ấy với tinh thần yêu thương của Chúa, chứ chúng không thay thế tinh thần yêu thương ấy.
Cầu nguyện hay lãnh nhận các bí tích mà không thể hiện tình yêu thương trong cách cư xử, làm việc, ăn nói, suy nghĩ, thì giống như một người đi làm quần quật suốt ngày để có tiền, nhưng chẳng dùng số tiền ấy vào việc gì, cứ cất vào một chỗ để dành. Như thế tiền bạc ấy trở nên vô ích. Tiền bạc chỉ trở nên ích lợi và đem lại hạnh phúc khi được chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, cầu nguyện hay lãnh nhận bí tích chỉ có ích lợi và đem lại ơn cứu rỗi khi chúng nhắm thực hiện mục đích mà Chúa muốn là thể hiện tình yêu thương cách hữu hiệu.
Cầu nguyện
Lạy Cha, bản chất của Cha là Tình Yêu, và bản chất của Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập cũng là Tình Yêu. Do đó, tình yêu chính là mục đích và bản chất của Ki-tô giáo. Việc cầu nguyện, các bí tích chính là những phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục đích hay bản chất ấy. Xin Cha đừng để người Ki-tô hữu chúng con lầm lẫn mục đích với phương tiện, điều chính yếu với điều phụ thuộc. Có như vậy, Nước Trời mới thật sự hình thành tại trần gian này. Xin cho chính bản thân con ý thức điều đó.
1) Ý CHÍNH: "ANH EM HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG"
(Mc 1,15b)
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần: Phần thứ nhất: Đức Giêsu bắt đầu sứ mệnh giảng: TN3-B8
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
- Phần thứ nhất: Đức Giêsu bắt đầu sứ mệnh giảng đạo tại xứ Ga-li-lê với nội dung đươc tóm gọn trong câu: "Thời kỳ đã mãn và Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
- Phần thứ hai: Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là hai đôi anh em: Si-mon và An-rê, Gia-co-bê và Gio-an. Các ông đã mau mắn đáp lại ơn kêu gọi bằng sự dứt khoát từ bỏ nghề nghiệp cũ, từ giã cha già mà đi theo làm môn đệ của Người.
2) CHÚ THÍCH:
- Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: " Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,14-15):
+ Sau khi ông Gio-an bị nộp: Gio-an Tẩy Gỉa vì đã lên tiếng ngăn cản nhà vua Hê-rô-đê không được cưới bà chị dâu tên là Hê-rô-đi-a làm vợ (x. Mt 14,3), nên ông Gio-an đã bị vua Hê-rô-đê bắt tống giam vào ngục. Từ đây Gio-an chấm dứt vai trò Tiền Hô của mình để Đức Giêsu bắt đầu sứ mệnh Thiên Sai.
+ Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê: Sau khi Gio-an bị bắt, để tránh bị liên lụy nên Đức Giêsu đã rời miền Giu-đê-a để trở về miền Bắc là Ga-li-lê. Lúc đó, miền Ga-li-lê do vua Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị. Đây là một miền đất trù phú và có đông dân ngoại sinh sống. Đức Giêsu đã khởi sự thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng tại miền Ga-li-lê như một miền đất của dân ngoại. Về sau, Đức Ki-tô Phục Sinh cũng ra lệnh cho các môn đồ phải trở về Ga-li-lê để nhận lãnh sứ mênh truyền giáo đi khắp thế giới (x. Mt 28,10.16-20).
+ Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: Nôi dung lời rao giảng của Đức Giêsu là loan báo Tin Mừng về việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của nhân loại nhờ Đức Giêsu.
+ Thời kỳ đã mãn: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ là thời hiện tại và thời sẽ đến. Đức Giêsu loan báo đã kết thúc thời Hiện Tại, và một thời kỳ mới là Thời cuối cùng hay cũng gọi là Cánh Chung đã tới. Đó là thời kỳ mà Thiên Chúa ấn định để thực hiện và hoàn thành các lời hứa ban ơn cứu độ của Người.
+ Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Cựu Ước nhiều lần đề cập đến vương quyền của Thiên Chúa trên dân riêng Is-ra-en và trải dài trên toàn cõi địa cầu (x. Is 43,15; 52,7; Gr 3,17 ). Giờ đây Đức Giêsu khẳng định: nơi Người, Triều Đại Thiện Chúa đã đến gần.
+ Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Sám hối, tiếng Hy lạp là Mê-ta-noi-ô, có nghĩa là phải bỏ đi lối sống cũ chạy theo tà thần và thay bằng một nếp sống mới theo Đức Chúa tốt lành thánh thiện. Đức Giêsu kêu gọi dân chúng phải ăn năn sám hối và đón nhận toàn bộ thông điệp mà Người công bố.
- Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-mon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá". Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người (Mc 1,16-18):
+ Biển hồ Ga-li-lê: Cũng gọi là hồ Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1), hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1). Biển hồ này có chu vi rất lớn, dài 21 cây số và ngang 12 cây số, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải tới 208 mét. Đây là nơi Đức Giêsu đã kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên, giảng dạy dân chúng (x. Lc 5,3) dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,23-27), đi trên mặt nước (x. Ga 6,16-21), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-11)
+ Ông Si-mon với người anh là ông An-rê: Ông Si-mon được Đức Giê-su đổi tên là Phê-rô (x. Mt 16,18). Ong là anh em với An-rê và là con của ông Giô-na (x. Mt 16,17) hay Gio-an (x. Ga 1,42). Ong Si-mon xuất thân từ Bét-sai-đa (x. Ga 1,44) làm nghề chài lưới ở biển hồ Ga-li-lê (x. Mc 1,16).
+ Người bảo họ: "Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá": Câu này cho thấy chính Đức Giê-su đã gọi và chọn các môn đệ.Ngài dùng một hình ảnh là nghề đánh cá, để ám chỉ công tác mới là chài lưới người ta.
+ Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người: Hai anh em Si-mon và An-rê đã mau mắn đáp trả tiếng Chúa kêu gọi, sẵn sàng bỏ nghề cũ mà theo Chúa để làm nghề mới.
- Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người (Mc 1,19-20):
+ Ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an: Gia-cô-bê còn được gọi là Gia-cô-bê Tiền, vì ông đã đi theo Đức Giê-su trước. Ong là con của ông Dê-bê-đê và là anh của Gio-an (x. Mt 4,21). Ong là một trong nhóm 3 người, được gần gũi với Đức Giê-su hơn các anh em tông đồ khác (x. Mt 17,1). Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an cũng được Đức Giê-su đặt cho biệt danh là "Bo-a-nê-ghê", nghĩa là "Con của Thiên Lôi" (x. Mc 3,17).
+ Bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền mà đi theo Người: Đây là một sự chọn lựa dứt khoát của Gia-cô-bê và Gio-an. Hai ông đã mau mắn đáp lại ơn gọi bằng sự mau mắn từ bỏ tình cảm gia đình ruột thịt và dấn thân đi theo làm môn đệ Đức Giê-su.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI:
- Một hôm Sa-tankêutráchThiênChúa rằng: "Chúa thật là bất công ! Cụ thể là có rất nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế mà Ngài vẫn thường hay tha tội cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha thứ cho chúng. Còn tôi, tôi chỉ phạm tội không vâng lời Ngài duy chỉ một lần, thế mà Ngài kết án phạt tôi phải hoả ngục đời đời, và không bao giờ tha tội cho tôi !". Bấy giờ Thiên Chúa ôn tồn nói với tên quỷ kia rằng: "Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người tội lỗi là vì chúng khiêm tốn nhận mình là kẻ có tội, và hồi tâm sám hối, quyết tâm canh tân đời sống. Còn ngươi, từ ngày ngươi phạm tội kiêu ngạo bất tuân lời Ta, chống lại Ta và bị phạt trong hoả ngục đến nay, đã có bao giờ ngươi khiêm nhường nhận lỗi và hồi tâm sám hối để xin Ta tha thứ cho ngươi hay chưa?"
- Phạm tội là khi ta làm phiền lòng Chúa, khi ta cố tình bỏ không làm những điều Chúa buộc hoặc cố ý làm những điều Chúa cấm trong Thánh Kinh. Những điều luật Chúa buộc hay cấm được tóm lại trong 3 bản kinh sau đây: Kinh "Mười Điều Răn Đức Chúa Trời", kinh "Sáu Điều Răn Hội Thánh", và kinh "Thương Người Có Mười Bốn Mối".
- Khi phạm tội là ta đã làm mất lòng Chúa, làm cho Chúa phải phiền lòng vì ta. Nếu muốn được Chúa tha tội, được giao hoà với Chúa, thì ta phải sám hối ăn năn. Sự ăn năn thực sự được biểu lộ qua việc hồi tâm xét mình nghiêm túc, lo buồn trách mình vì đã phạm tội mất lòng Chúa, khiêm nhường thú tội với vị linh mục trong toà giải tội, quyết tâm chừa cải bằng cách xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng.
2) HÃY TIN VÀO TIN MỪNG:
- Đức tin được chia thành 3 bậc từ thấp đến cao với những đặc điểm của mỗi bậc như sau:
+ Bậc một là Tin có Thiên Chúa: Hầu như mọi người trên thế giới thuộc mọi dân tộc và tôn giáo xưa nay đều tin có Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật và an bài cho chúng được tồn tại trong trật tự. Người ta tôn thờ Đấng ấy và gọi Người bằng nhiều Danh hiệu như: Ông Trời, Tạo Hoá, Hoá Công, Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, Đức Chúa, Gia-vê hay Giê-hô-va, Đấng al-la, Chúa Cha ...Tin có Thiên Chúa sẽ giúp cho người ta ăn ngay ở lành vì tin vào sự trả báo công minh của ông Trời như người ta thường nói: "Ác giả ác báo", "Ở hiền gặp lành", "Gieo gió gặt bão", "Lưới trời lồng lộng: tuy thưa mà khó lọt" ...
+ Bậc hai là Tin vào Đức Giê-su: Các Ki-tô hữu là những người tin vào Đức Giê-su: Ngài được Thiên Chúa sai đến ban ơn cứu độ loài người và được gọi là Đấng Thiên Sai hay là "Đức Ki-tô", là "Con Thiên Chúa" (x. Mt 16,16). Tuy vậy không phải mọi người tin vào Chúa Giê-su đều là người tốt và đều được ơn cứu độ. Nhiềi tín hữu đã bị Chúa loại ra khỏi Nước Trời vì chỉ tuyên xưng Đức Tin ngoài môi miệng. Họ chỉ biết nói "Lạy Chúa!" mà không làm theo Ý Thiên Chúa Cha (x. Gc 2,17; Mt 7,21)
+ Bậc ba là Tin vào Tin Mừng: Muốn được ơn cứu độ thì không những phải tin có Thiên Chúa, tin vào Đức Giê-su, mà còn phải tin vào Tin Mừng do Ngài rao giảng. Cụ thể là phải lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,29.34.38) luôn làm đẹp lòng Chúa Cha (x. Mt 3,17) sống yêu thương (x. Ga 13,34), quảng đại chia sẻ và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh (x. Mt 25, 34-46).
- Vậy đức tin của mỗi người chúng ta đang ở cấp độ nào trong ba cấp nói trên ? Ở cấp một khi ta mới tin có Thiên Chúa giống như bao ngừoi lương khác ? Ở cấp hai, khi ta tin Đức Giê-su, chịu phép rửa tội để trở thành Ki-tô hữu trong các đạo tin thờ Thiên Chúa do Đức Ki-tô ra giảng như: Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống và Anh Giáo ? Để được ơn cứu độ thì ta phải có đức Tin cấp ba, nghĩa là phải Tin vào Tin Mừng. Vậy mỗi người chúng ta quyết tâm sẽ làm gì cụ thể để thanh luyện đức Tin của ta, để quyết tâm làm theo Thánh Ý Thiên Chúa ?
3) ĐÁP LẠI LỜI MỜI GỌI CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
- ƠN GỌI CỦA Ê-LI-SA (1 V 19,19-21): Vào thời kỳ các vua, khi Ê-li-sa đang cày dưới ruộng thì tiên tri Ê-li-sa đi ngang qua. Vị tiên tri đã lấy áo choàng đang mặc ném lên người Ê-li-sa. Ê-li-sa liền chạy theo xin phép Ê-li-sa về nhà từ giã cha mẹ trước khi đi theo. Được thầy đồng ý, Ê-li-sa đã về nhà bắt giết cặp bò đang dùng để làm lễ tế, rồi dùng chiếc cày làm củi đun thịt bò để đãi người thân trước khi đi theo làm đầy tớ phục vụ cho vị tiên tri.
- ƠN GỌI CỦA 4 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC GIÊ-SU (Mc 1,16-20):
+ Ơn gọi xuất phát từ nơi Đức Giêsu (x. Ga 15,16): Chính Ngài đã gọi các ông: "Các anh hãy theo Tôi".
+ Theo Chúa đi đôi với sự dứt khoát từ bỏ những gì cản trở sứ mệnh tông đồ: Các môn đệ đã lập tức bỏ chài lưới và bỏ cha già mà đi theo Người (x. Mc 1,18.20).
+ Ơn gọi là nhận lãnh sứ mệnh làm tông đồ:Đức Giêsu đã thu nhận 72 môn đệ (x.Lc 10,1), chọn ra 12 tông đồ (x. Mt 10,1; Mc 3,14; Lc 6,13), rồi sai đi làm cho muôn dân thành môn đệ của Thầy (x. Mt 28,19) và nên "chứng nhân của Người" (x. Cv 1,8).
- NGÀY NAY ĐỨC GIÊ-SU CŨNG KÊU GỌI CHÚNG TA làm môn đệ và làm tông đồ của Người. Theo Đức Giêsu hôm nay chính là đến với anh em lương dân chưa nhận biết Chúa đang sống gần bên chúng ta. Theo Đức Ki-tô hôm nay cũng không buộc ta phải bỏ nghề nghiệp của mình, phải từ bỏ mọi của cải vật chất, từ bỏ tình cảm đối với gia đình ruột thịt... nhưng đòi ta phải bỏ ý riêng, vác thập giá mình mà theo chân Chúa. Theo Đức Ki-tô hôm nay đòi ta phải dùng của cải như phương tiện để ta làm sáng Danh Chúa, chia cơm sẻ áo cho người nghèo đang gặp thiên tai bão lụt...Theo Đức Ki-tô hôm nay là tích cực xóa đói giảm nghèo, là giúp đỡ người nghèo có điều kiện để tự kiếm sống bằng chính đôi tay lao động của mình. Vậy chúng ta đã làm được gì và phải làm gì trong những ngày này ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊ-SU, Chúa đã đến Ga-li-lê để rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Chúa mời gọi người ta ăn năn sám hối, đổi mới đời sống để đón nhận được ơn cứu độ. Hơn nữa, Chúa cũng kêu gọi một số người đi theo làm môn đệ để cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Lạy Chúa Giê-su, giữa cuộc đời đầy bon chen mà chúng con đang sống, có biết bao tiếng mời gọi ngọt ngào của thế gian, của các đam mê lạc thú bất chính, làm cho chúng con phải xa lìa Chúa. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã kêu gọi chúng con đi theo Chúa. Chúa muốn chúng con sám hối trở về với Chúa. Xin đừng để chúng con, vì quá ham mê tiền tài danh vọng chức quyền trên thế gian và hưởng thụ các đam mê lạc thú bất chính ... đến nỗi không nghe được tiếng gọi của Chúa.
LẠY CHÚA GIÊ-SU, giờ đây con hiểu rằng: Theo Chúa thì con phải biết từ bỏ. Vậy giờ đây, con xin đặt Chúa ở vị trí hàng đầu, vượt trên mọi tình cảm gia đình, bạn bè và nghề nghiệp của con ... Con muốn được cùng Chúa đi đến với những người đang bị bỏ rơi, những kẻ đau khổ bệnh tật và bất hạnh, những kẻ đang lạc xa Chúa ... để động viên an ủi và nâng đỡ họ, dẫn đưa họ trở về với Chúa. Vì chỉ có Chúa mới là nguồn vui và đem lại bình an hạnh phúc thực sự.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
2) LẠY THÁNH MẪU MA-RI-A. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con hiểu rằng: Muốn được vào Nước Trời của Chúa Giê-su thì phải "Ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Lạy Mẹ, con cảm thấy mình có nhiều đam mê và tội lỗi từ trong tư tưởng, lời nói đến việc làm và nhất là có nhiều thiếu sót trong việc bổn phận đối với Chúa và tha nhân ... Xin Mẹ giúp chúng con biết ăn năn sám hối tội lỗi hầu xứng đáng nhận được ơn tha thứ của Chúa.
LẠY MẸ, sám hối cũng là quyết tâm đổi mới. Xin Mẹ giúp con mỗi ngày hoán cải nên tốt hơn. Mỗi lần con lãnh nhận bí tích giải tội, xin Mẹ giúp con xét mình để tìm ra mối tội đầu nào đang chi phối con: Kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, hờn giận, hay ăn uống, ghen ghét, hay làm biếng ...? Để con quyết sửa đổi bằng sự thực hành các việc tốt như: Khiêm nhường, rộng rãi, trong sạch, nhẫn nhịn, chay tịnh, yêu người, siêng năng việc đạo ... Con tin rằng, nhờ ơn Chúa giúp và được Mẹ phù trợ, cùng với quyết tâm của con, hy vọng con sẽ được ơn hoán cải: mỗi ngày trở nên tốt lành hơn, đạo đức thánh thiện hơn và xứng đáng trở thành những đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo của Cha Trên Trời noi gương Mẹ xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
a. Tóm lược nội dung lời rao giảng của Chúa Giêsu: Ngài nói “Nước Thiên Chúa đã đến gần” ; Ngài cho biết điều kiện để được vào Nước ấy là “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
b. Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên. Qua đó ta biết được những điểm chính yếu của một ơn gọi:
- Chúa Giêsu “thấy” (động từ đầu tiên của cả 2 bài tường thuật): ơn gọi xuất phát từ sáng kiến của Chúa.
- “Hãy theo tôi”: được gọi tức là được mời đi theo Chúa Giêsu, chia xẻ sứ mạng của Ngài.
- “Lập tức”: mau mắn đáp trả lời Chúa gọi.
- “Hai ông bỏ (bài đầu “Bỏ chài lưới” ; bài sau “bỏ cha và những người làm công”) mà đi theo Ngài”: theo ơn gọi thì phải từ bỏ, kể cả tất cả những gì thân thiết nhất.
B. ... nẩy mầm.
1. Sám hối: Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời.” Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa ?”. (Góp nhặt)
2. Paddy đang hồi phục sau ca mổ, ba bạn thân ghé thăm để khích lệ anh. Ngoài chuyện thăm hỏi, họ kể cho anh về những ca mổ họ nghe biết.
Một người nói: “Tôi nghe có một ca mổ họ để quên cái gạc trong bụng bệnh nhân và phải mổ để lấy ra”.
Người khác kể về ca mổ bác sĩ để quên kéo bên trong và bệnh nhân phải mổ lần nữa để lấy ra. Vừa nói xong, bác sĩ thực hiện ca mổ cho Paddy thò đầu vào cửa gọi lớn: “Có ai thấy mũ của tôi không ?” Và Paddy ngất đi.
Một lần xưng thú không chân thành giống như một ca mổ tồi tệ. Một vài thứ bị để quên và phải thực hiện một ca mổ khác để lấy ra. (Góp nhặt)
3. Người ta thường hiểu ơn gọi theo nghĩa hẹp là ơn gọi làm Linh mục, Tu sĩ. Nhưng thực ra mọi kitô hữu cũng đều được Chúa gọi để làm kitô hữu xứng đáng trong bậc sống của mình.
4. Khi Chúa gọi ai, việc đầu tiên là Ngài bảo người đó từ bỏ. Ơn gọi đầu tiên trong Cựu Ước là như thế: Thiên Chúa nói với Abraham “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi nhà cha ngươi...” (St 12,1). Ơn gọi đầu tiên trong Tân Ước cũng như thế: 4 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu “lập tức bỏ chài lưới (bỏ thuyền, bỏ cha mẹ lại) mà theo Ngài” (Mt 4,20.22). Tất cả những ơn gọi khác cũng phải như thế thôi.
5. Hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau:
- Anh nghĩ xem chúng ta có cần tiếp tay với Cha xứ để lo việc họ đạo không ? Người thứ nhất hỏi.
- Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.
Nảy giờ đứng bên cạnh đã nghe hết, anh chen vào:
- Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không ?
- Tại sao ? Tại sao ? Xin cho chúng tôi biết với.
- Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cọng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)
Khai mạc công việc rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã đề ra một chương trình cách mạng rất ngắn gọn, gồm ba điểm: Hãy sám hối, hãy tin vào Tin mừng, hãy theo Ta.
Hãy sám hối: Cách mạng bao giờ cũng bắt đầu bằng lật đổ chế độ cũ, chế độ thốt nát xấu xa. Hầu hết các phong trào cách mạng đều bắt đầu bằng những hành động tiêu cực: đả phá, hiếu chiến, gây tàn ác, chém giết, chiến tranh khốc liệt. Bắt đầu cách mạng của triều đại Thiên Chúa, Đức Giêsu không đi vào đường lối tàn ác của các cuộc cách mạng trần gian. Người đã mở một con đường cách mạng mới. Con đường hòa bình chứ không hiếu chiến, con đường thương yêu chứ không tàn ác, con đường sám hối tu thân. Sám hối tu thân là đấm ngực mình, chứ không đấm ngực, đánh đập người. Đau lòng vì lầm lỗi chứ không làm người đau lòng. Hối hận chứ không thù hận. Sám hối tu thân là xét mình nhận biết tội lỗi mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và anh em, rồi quyết tâm sửa mình, chứ không tìm lỗi người để tuyên truyền bôi xấu, nhục mạ, tiêu diệt. Mục đích của sám hối là tin vào Thiên Chúa mà bỏ đường gian ác như dân thành vĩ đại Ninivê đã nghe lời Giona, tin vào Thiên Chúa. Họ công bố lệnh ăn chay, tất cả mọi người từ lớn chí bé đều mặc áo vải thô và quyết tâm bỏ đường gian ác.
Hãy tin vào Tin mừng: Bước tiến thứ hai của cách mạng là đề xướng chương trình mới, kế hoạch mới, lý thuyết mới, chế độ mới. Chế độ mới thường được tuyên truyền, quảng cáo rất hấp dẫn để lôi cuốn quần chúng theo cách mạng. Nhưng lịch sử đã cho thấy: trải qua bao nhiêu chế độ từ nông nô, phong kiến đến quân chủ, từ dân chủ, cộng hòa đến xã hội chủ nghĩa ; chế độ nào cũng chỉ tạm thời, rồi sụp đổ vì chế độ nào cũng nảy sinh độc tài, bất công, tham nhũng, thối nát.
Ngay cả đến Khổng Tử muốn thiết lập một chế độ trên nền tảng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và thực hiện thiên mệnh. Nhưng hầu hết những kẻ học nho lên cầm quyền chẳng tin thiên mệnh, chẳng làm theo ý Trời. Do đó, họ chỉ lo dẹp loạn cho yên thân để hưởng vinh hoa phú quý. Dân nước sống chết mặc bay, mà còn giết hại bao nhiêu dân lành. Minh Mạng, Tự Đức, bề ngoài có vẻ hiếu kính tổ tiên, nhưng thực chất họ chỉ lo củng cố địa vị, quyền lợi mình, chém giết nhau để tranh giành ngôi vua và chém giết hàng trăm ngàn dân lành tử đạo, chỉ vì họ sợ mất ngai vàng, chớ không phải sợ mất nước.
Không tin Thiên Chúa, đó là lý do chính khiến các chế độ loài người thối nát, sụp đổ. Đức Giêsu đến cứu độ thế nhân. Người thực hiện cuộc cách mạng chân chính vững bền trên nền tảng Tin mừng, để xây dựng triều đại Thiên Chúa đến muôn đời. Người kêu gọi ta tin vào Tin mừng. Tin mừng hướng dẫn ta biết được nguồn gốc cao cả của ta bởi Thiên Chúa hằng sống, chứ không bởi bùn đất hay bởi loài vật chết thối. Nhờ đó, con người lấy làm vinh dự và tự tin, rồi nỗ lực phát triển nhân phẩm, đền đáp công ơn sinh thành vô cùng của Thiên Chúa.
Thật vinh dự cho tôi, nếu tôi biết tổ tiên tôi là những bậc vĩ nhân hay thánh nhân. Tôi còn được vinh phúc muôn phần hơn nhiều, khi Đức Giêsu cho biết: “Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5, 45). Thấy Cha trên trời toàn năng và yêu thương mọi người như vậy, chúng ta phải biết yêu thương anh em như chính mình để nên hoàn thiện như Cha chúng ta ở trên trời. Biết được nguồn gốc bởi Thiên Chúa, làm cho chúng ta có đức tin. Biết được tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, làm cho chúng ta có đức ái. Biết được Thiên Chúa là Đấng hằng sống vinh quang làm cho chúng ta có đức cậy. Biết được Con Một Thiên Chúa là Đấng chịu chết để cứu chuộc chúng ta và sống lại để cho chúng ta được sống lại đời đời với Người, làm cho chúng ta cảm thấy chan chứa vui mừng. Chúng ta tràn trề hy vọng được sống vinh phúc muôn đời, không còn tuyệt vọng, đau khổ về cái chết nữa.
Như vậy, tin vào Tin mừng, chúng ta được đức tin mạnh mẽ giải thoát chúng ta khỏi đời sống sa đọa thấp hèn. Tin vào Tin mừng chúng ta được đức ái nồng nàn, sống liên kết khắng khít với Chúa và sống hòa hợp với nhau để hy sinh cứu giúp nhau. Tin vào Tin mừng, chúng ta được đức cậy vững vàng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng vào tương lai đầy tươi sáng, để ra sức chiến đấu với mọi thử thách gay go của cuộc đời.
Vậy ngay từ giờ, chúng ta quyết tâm bước theo tiếng gọi của Đức Giêsu: “Hãy theo Ta”, để thực hiện chương trình của Người xây dựng triều đại Thiên Chúa như Phêrô, Gioan, Giacôbê và Anrê, vì không còn triều đại thế gian nào có thể cứu chúng ta khỏi chết. “Bộ mặt thế gian này đang biến đi”. Hiện tại, thế gian này như chiếc pháo, để người ta mua sắm để chúc mừng nhau, vui cười trong tiếng nổ vang dội. Kết cuộc, chỉ còn những xác pháo tan tành buồn thảm. Vậy “kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng” (Bài đọc II).
Hãy khôn ngoan nhận biết rằng: “Đừng dựa vào tường, tường sẽ đổ, đừng dựa vào cây, cây sẽ gẫy ; đừng dựa vào người, người sẽ chết”. Hãy chỉ dựa vào một mình Thiên Chúa hằng sống vinh quang ta sẽ được sống vinh phúc bất diệt.
Lạy Chúa, xin ban cho con một nhận thức lành mạnh, để sám hối tu thân. Xin ban cho con một trái tim rộng mở để hiến thân phục vụ Tin mừng. Xin ban cho con một ý chí cậy trông để củng cố những ai thất vọng lo âu.
- BÀI ĐOC 1: Jonah 3, 1- 5; 10= Ông Jonah đi thành Ninivê, và ông giảng cho họ biết Thiên Chúa sẽ sẵn sàng phạt vì những tội của họ. Jonah goes to Neneveh, a pagan city, he preacches that God is ready to punsh the city for all of its sins.
- BÀI ĐỌC 2: 1 Cor.7, 29- 31= Thánh Phaolô chỉ dẫn cho ta biềt thời gian không còn nừa, thế giới mà chúng ta thấy đây sẽ qua đi. St. Paul instructed us that no longer time. Beacuse it is still true that "the world as we know it is passing way."
- TIN MỪNG (GOSPEL): Mc. 1, 14- 20= Cũng như Jonah, Macô nhấn vào hai lời mời gọi, thứ nhât là hãy sám hối, thứ hai là kêu gọi các môn đệ. Like Jonah, Mark also deals with two calls: the call for repentance and another call of disciples. A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và Chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói: "Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." Tôi thấy chương trình Chúa đang làm cho nhân loại hôm nay với nhiều thay đổi và cảnh cáo để con người trở về. Tôi có nhận ra những lỗi lầm và quyết tâm sửa mình không ?
This is time of fulfillment ... God is at hand.Repent and believe in the Gospel. ( Mc. 1, 15 )
2/ Để tuyển các môn đệ, Đức Giêsu gọi những người chài lưới: " Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Những người đánh cá họ kiên nhẫn, chân thật và chịu khó tìm chỗ có nhiều cá để bắt, nên Chúa đã tuyển lựa họ. Bạn có điểm tốt nào để Chúa mời gọi bạn theo Ngài ?
Jesus said to them: "Come after Me, and I will make you fishers of men." ( Mc. 1, 17 )
3/ Sau khi nghe ông Giô-na công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, thành Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ, dân đã tin vào Thiên Chúa, họ thông báo ăn chay và mặc vải thô. từ người lớn đến trẻ nhỏ." Dân Ni-vi-nê đã tỏ lòng thống hối bằng việc làm, quyết bỏ tội lõi. Còn tôi đã nghe nhiều và đã đem được niềm vui nào cho gia đình ?
Fourty days more Nineveh shall be destroyed, the poeple believe God, all of them put on sackcloth. ( Giôna 3, 4- 5 )
4/ Thánh Phaolô nhắc bảo mọi người hãy dùng mọi sự như phương tiện: "Kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như chẳng hưởng, vì bộ mặt thế gian này đang qua đi." Bạn thấy tiền của, vật chất đời này chóng tan như mây khói, nó là gì cho bạn? Tại sao bạn lại dùng như không dùng, hưởng như không hưởng ?
Those using the world as not using it fully, for the world in its present form is passing away. ( 1Cór. 7, 31 )
B. Câu Kinh Thánh Chúa kêu gọi tôi Sống trở về tuần này: ( The Best God’s Word)
ANH EM HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG. ( Mc. 1, 15 ) Repent and believe in the Gospel.
C. Ngay bây giờ tôi phải Sống sám hối và quyết tâm thay đổi những gì: ( So what am I doing / For Action)
a/ Bạn cần đền trả ngay những vật chất hay tinh thần cho người bạn đang còn mắc nợ họ.
b/ Tôi có thể thực hành một trong trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm và Chia sẻ ở phần A để thi hành.
D. Tôi Cầu nguyện với Lời Chúa và thực hành lời tôi cầu xin: ( I Pray and practice / Pray in Action )
1. Lạy Cha, Đức Giêsu con Cha đã cho con biết Nước của Cha đang đến gần, con cần phải sửa mình, tin tưởng và hãy mau trở về. Xin dạy cho con biết làm lại cuộc đời vì bấy lâu nay đã làm đổ vỡ gia đình.
2. Thánh Phaolô đã dạy con: Hãy dùng những của cải như là phương tiện cần thiết để đến gặp Chúa, chứ không phải là mục đích. Xin giúp con đừng dừng lại ở vật chất, vì bộ mặt thế gian này đang qua đi.
3. Dân thành Ninêvê đã bỏ đường gian ác trở về sau khi nghe Lời Chúa. Xin cho con cũng làm như họ.
Hoa thơm cỏ lạ: KHÔNG CÒN LÚC NÀO TỐT HƠN HIỆN TẠI ĐỂ XIN LỖI HOẶC THA THỨ There's no better than right now to apologize or offer forgiveness.
Có một Thầy Ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên: TN3-B12
Có một Thầy Ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là "Tượng Chúa ban ơn"
Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, Thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.
Một hôm vắng người, Thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: "Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá".
Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: "Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá, nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết ". Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.
Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.
Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy Thầy vẫn yên lặng.
Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.
Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.
Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, Thầy Xê-bât-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.
Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: " Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá, con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa."
Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó ?
Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết ! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ. Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn. ( Trích tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, trang 27)
Câu chuyện này nhắc chúng ta nhớ lời Chúa trong sách Isaia: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu .
Trong suy nghĩ của con người, chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm đã kể.
Đó là những người chài lưới, "ăn với sóng,nói với gió", ít học, quê mùa.Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ. Tại sao Chúa Giêsu không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái ?
Cũng như chúng ta cũng hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh ? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý ? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Người là Đấng Giải Thoát khi Người đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng ?
Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại .
Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa. Con người là thụ tạo.
Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.
Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.
Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.
Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.
Về mặt xã hội, hai mươi mấy năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. "Chủ nghĩa lý lịch" tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch . Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ do cha mẹ, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.
Cho nên xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai, lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai. Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời ... Và trên hết cũng như sâu hơn hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về tương lai.
Trong bài hát: "Theo Chúa", linh mục Thành Tâm với cây đàn Guitare trên tay đã cất cao lời: "Này: TN3-B13
Trong bài hát: "Theo Chúa", linh mục Thành Tâm với cây đàn Guitare trên tay đã cất cao lời: "Này Chúa hỡi, con nguyện xin theo Chúa chẳng khi ngơi, dù gian truân con nguyện xin theo Chúa suốt đường đời... Dù lắm lúc tâm hồn cao xao xuyến cay đắng nhiều... Con xin theo Chúa suốt cuộc đời". Lời ca ấy cứ vút cao, bay bổng, hòa quyện lấy con người như thúc giục mỗi người hãy bám chặt lấy Chúa, gắn chặt vào Chúa và mãi mãi đi theo Chúa. Chúa kêu gọi ai là do cử chỉ tình thương của Ngài, mỗi lời mời gọi của Chúa là tình thương bao la của Ngài. Chúa đến với con người, đi tìm và tuyển chọn con người.
CHÚA TUYỂN CHỌN CON NGƯỜI
Các bài đọc hôm nay, đặc biệt bài Tin Mừng Mc 1, 14-20 tiếp tục đưa mọi người suy nghĩ về mầu nhiệm ơn gọi. Chúa có cách chọn của Ngài, không ai có quyền bắt buộc Chúa phải thế này phải thế kia, không ai được hướng Chúa phải đi theo đường hướng của mình, đi theo sự chọn lựa của mình. Chúa hoàn toàn tự do và sự kêu gọi, tuyển chọn môn đệ là do tình thương vô biên của Chúa. Tất cả mọi sự chọn lựa của Chúa đều dựa theo ba nhịp: Chúa đi qua, nhìn thấy và kêu gọi.
Tin Mừng Mc 3, 13 viết: " Chúa đi lên núi và gọi những kẻ Người muốn lại gần ". Lên núi có nghĩa là Chúa đi cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Chúa Cha, hỏi ý Chúa Cha, rồi sau đó Ngài chọn lựa. Việc tuyển lựa nhân sự của Chúa, xem ra rất quan trọng vì mạng sống và cuộc đời của môn đệ nối liền với sinh mạng, cuộc đời của Chúa Giêsu. Việc chọn lựa nhân sự hoàn toìan có tính cách nhưng không: " Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn chúng con" ( Ga 15, 16 ).
Chúa nói: " Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành kẻ chài lưới người" . Theo Chúa Giêsu có nghĩa là:"...Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta" hoặc " Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Chúa tuyển chọn các môn đệ ngay chính nơi họ ở, nơi họ làm việc, trong hoàn cảnh xã hội và trong bối cảnh lịch sử lúc đó. Chúa tuyển chọn nhân sự đồng nghĩa với việc chấp nhận hy sinh cả mạng sống vì Chúa, vì Tin Mừng như lời Chúa nói: " Ai hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi đến trong vinh quang Cha Ngài với các thánh thiên thần". Theo Chúa cũng có nghĩa được Chúa tuyển lựa để thực thi như Chúa Giêsu trong sứ mạng cứu độ của mình: " Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" và " Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu mến" ( Ga 15, 13 ).
CHÚA HỨA BAN NHỮNG GÌ ?
Theo Chúa, tận hiến cuộc đời mình cho Chúa, gắn bó mình với Chúa có nghĩa là phải chọn lựa đi con đường của Chúa. Mà con đường của Chúa là cả một dặm trường dài dằng dẵng. Chúa đòi hỏi con người và người môn đệ Chúa sống trọn vẹn thách đố, những đòi hỏi của Tin Mừng. Theo Chúa, Chúa không hứa với các môn đệ sẽ cho họ giầu có về vật chất hay đường công danh vinh hoa phú quí theo quan niệm của trần gian: "...Không biết đây có phải là lúc Ngài khôi phục lại Israen hay không? " . Chúa nói: " hãy làm tôi tớ, hãy phục vụ trong khiêm tốn" và " đến hầu hạ chứ không phải để được phục vụ". Chúa nói: " chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có đá gối đầu". Chúa luôn muốn các môn đệ trở thành đầy tớ phục vụ mọi người với sứ mạng: " Hãy ra khơi, hãy thả lưới ". Ra khơi, thả lưới là chấp nhận loan truyền Tin Mừng, rao giảng Chúa Kitô bị đóng đinh như thánh Phaolô tông đồ: " Tôi không biết sự gì khác ngoài thập giá của Đức Kitô" " Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là nhận biết Đức Kitô". Theo Chúa người môn đệ sẽ bị thử thách, chịu trăm ngàn nỗi khó khăn, có khi chèo thuyền về bến không có gì sau cả đêm thức trắng. Tuy nhiên, được chọn lựa, các môn đệ sẽ ý thức rằng: "được chết với Chúa Kitô nơi thập giá" và "được gấp trăm ở đời này cùng với cái chết và sự sống đời đời ". Theo Chúa là sống trọn vẹn cho Chúa và đặc biệt sống theo ý của Ngài.
Lời ca của sơ Sourire năm nào vẫn vang lên, cao vút như vỡ tung:" Tất cả mọi nẻo đường của trần thế sẽ đưa ta về cõi trời..." . Người môn đệ sẽ cảm nghiệm sâu sắc: " Chúa luôn hiện diện, Chúa luôn đồng hành với mình " và như thế người môn đệ đã được tuyển chọn sẽ ý thức cuộc đời mình đã hoàn toàn thuộc về Chúa, mình phải theo Chúa suốt cuộc đời .
Lạy Chúa Giêsu, qua bí tích Rửa tội, Chúa đã chọn chúng con làm môn đệ Chúa, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa tình yêu vô biên Thiên chúa dành cho chúng con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Anh chị nghĩ sao về câu: " Chồn có hang, chim có tổ, Con Người không nơi tựa đầu? ".
2.Anh chị hiểu thế nào về ơn gọi ? Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Clay Trumbull thuật lại cuộc đối thoại ý vị giữa vị mục sư Tin lành và một bé trai. Vị mục sư hỏi: TN3-B14
Clay Trumbull thuật lại cuộc đối thoại ý vị giữa vị mục sư Tin lành và một bé trai. Vị mục sư hỏi: "Tại sao em lại muốn gia nhập giáo hội?" Em bé nhanh nhẹn đáp: "Vì con muốn nói một cách công khai rằng Chúa Giêsu đã cứu con." Vị mục sư hỏi dồn: "Em cảm thấy em được cứu rỗi? Ai cứu em?" Em bé giải thích: "Đó là công việc của Chúa Giêsu và của con!" "Công việc của em? Phần nào là phần của em?" Vị mục sư hỏi lại. Cậu bé trả lời: "Con thống hối tội lỗi con, và Chúa Giêsu làm tất cả."
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ tông đồ của Người bằng lời kêu gọi tha thiết: "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm" (Mk 1:15). Thời gian đã mãn là lúc thuận tiện để Thiên Chúa làm việc qua con người Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Chúa Giêsu báo hiệu việc Nước Chúa đã bắt đầu và đang hình thành. Nước Chúa, theo những nhà chú giải Thánh Kinh, không những chỉ một nơi chốn (kingdom) trên bản đồ, nhưng còn nói đến sự thống trị (basileia hay reign) của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa thống trị không bị giới hạn ở Palestine nhưng lan rộng trên toàn thế giới. Chúa Giêsu đã đến để công bố Nước Trời và chuẩn bị cho Nước Trời mỗi ngày một lan rộng qua lời giảng và các phép lạ. Nước Thiên Chúa sẽ nên hoàn hảo khi Con Người trở lại thế gian lần thứ hai (Mk 8:38-9:2).
Để gia nhập nước Thiên Chúa, con người phải làm gì? Chúa Giêsu nói rõ điều kiện tiên quyết để gia nhập Nước Thiên Chúa là sám hối và tin vào Phúc Âm của Ngài. Ngài không bắt người ta phải học tiếng Do Thái hay phải thi để nhập quốc tịch Mỹ. Nhưng Ngài buộc phải có tinh thần sám hối. Lòng sám hối đòi người có tội nhận mình có lỗi và rồi thay đổi hướng đi cho đời mình (metanoia). Hối nhân quay trở về với Thiên Chúa vì nhận thức rằng con đường quá khứ đã không ăn khớp với đường lối của Thiên Chúa hoặc sự cai trị của Ngài.
Đoạn trích Tin Mừng không nói đến lòng thống hối của các tông đồ nhưng nói rõ việc các ông bỏ mọi sự để theo Thầy Giêsu. Thánh Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đã tin lời Chúa Giêsu và "lập tức" bỏ lưới và cha mẹ để theo Chúa Giêsu. Việc từ biệt cha mẹ già của Giacôbê và Gioan là điều quá khích đối với người thời bấy giờ. Những người bỏ cha mẹ được coi như là kẻ phạm thượng (Sir 3:1-16, Tob 5:1). Ngay như tiên tri Elisha, khi được Chúa gọi để theo tiên tri Elijah, cũng đã xin phép về hôn cha hôn mẹ trước khi lên đường. Nhưng vì lòng tin nơi Chúa Giêsu, các ông đã thay đổi từ nghề chài lưới cá cho đến việc chài lưới người. Tư tưởng thay đổi và cuộc sống cũng thay đổi hoàn toàn. Các ông đã theo Chúa Giêsu Kitô, và Ngài đã biến các ông thành những kẻ chài lưới người thật đắc lực (Mk 1:17). Các tông đồ đã làm phần của các ngài, và Chúa Giêsu đã làm phần còn lại.
Chúa Giêsu Kitô đã đến trong thời gian và qua Ngài Nước Thiên Chúa đã thành hình được hơn 2000 năm. Nhưng tại sao Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một "tiểu quốc" so với những quyền lực khác đang làm chủ thế giới? Tại sao con số những người theo Chúa Giêsu mới chỉ được một phần tư dân số thế giới? Xin mạo muội đưa ra một câu trả lời: Xin thưa, vì con người thời nay không nhận ra nhu cầu phải thống hối và ý thức về tội lỗi hình như không còn nữa. Nếu không nhận mình có tội thì cũng chẳng cần phải thống hối hay cần vị cứu thế là Chúa Giêsu.
Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen đã có lý khi ngài viết: "Mối họa nghiêm trọng trong xã hội hiện đại, sự nguy hiểm đã phá hủy nhiều nền văn hóa xưa và sẽ phá hủy nền văn minh của chúng ta nếu chúng ta không ngăn ngừa, là sự mất đi ý thức về tội lỗi . . . Có một sự phủ nhận chung cho rằng không có gì đúng và không có gì sai. Và có sự đồng ý chung cho rằng "tội lỗi" (hiểu theo thần học cổ xưa) chỉ là một sự dữ tâm lý (psychic evil) hay là sự sa thải trong tiến trình biến hóa (a fall of evolutionary process)."
Nhận xét trên của cố Tổng Giám Mục Sheen tuy đã có lâu nhưng vẫn chí lý trong thời buổi này vì ý niệm tội lỗi nếu có cũng rất hời hợt. Ví dụ, giới trẻ thời nay coi sự liên hệ tính dục ngoài hôn nhân là chuyện bình thường không có gì là sai quấy. Theo một thống kê, 40% các em lớp chín đã làm chuyện tính dục. Lên lớp 10, 48%. Đến lớp 11, 57%. Và khi lên lớp 12 thì có 72% các em đã ăn ở với nhau trước hôn nhân. Nhiều thống kê khác còn cho thấy 86% các em trai và 75% các em nữ tuổi 19 biết chuyện ân ái vợ chồng. Điều đáng lo ngại hơn nữa là trong những em 18 tuổi lớn lên trong gia đình Kitô hữu, 43% đã ân ái trước khi lập gia đình (Understanding Today's Youth Culture, Walt Mueller, 213-214). Và kết quả của sự mất ý thức về tội lỗi này thật nguy hiểm và đáng buồn.
Nơi khác Đức Tổng Giám Mục Sheen quả quyết: "Thiên nhiên nói cho chúng ta rằng tội lỗi mang đến chết chóc; lương tâm nói cho chúng ta rằng tội lỗi bứt rứt tâm hồn (guilt) và Chúa nói với chúng ta rằng tội lội chống lại tình yêu Thiên Chúa." Lời cầu nguyện của người trộm lành: "Thưa ông Giêsu, khi nào vào nước Thiên đàng, xin nhớ đến tôi cùng" (Lk 23:42).
NS. Trái Tim Đức Mẹ Lm.Vincentê Âu Quốc Thanh, CMC
Lời Tin Mừng rao giảng cho anh chị em hôm nay là: Nước trời đã gần đến. Hãy ăn năn và tin: TN3-B15
Lời Tin Mừng rao giảng cho anh chị em hôm nay là: Nước trời đã gần đến. Hãy ăn năn và tin vào Phúc Âm.
Trong thư của thánh Phaolô gửi dân thành Hebrew có lời: "Lời Chúa là lời hằng sống và linh nghiệm" (Heb.4:12). Vậy lời Chúa có là lời hằng sống thực không? Sao đọc lên thấy khô khan, nhạt nhẽo thế? Thế nào mới là lời hằng sống?
Lời Chúa Khó giải nghĩa, Khoa học ngày nay người ta sáng chế được cả hạt giống có đầy đủ các chất như hạt giống thật. Coi bằng mắt thường ta không thể phân định được hạt thật hay hạt giả. Để phân định thật giả, ta chỉ có cách gieo hạt xuống lòng đất. Hạt giả sẽ im lìm và hạt thật sẽ nẩy mầm, rồi mọc lên thành cây và có sức sống phát triển. Sức sống này không cát nghĩa được. Sức sống là do Chúa tạo nên, phát xuất từ Đấng hằng sống.
Cũng thế, nếu đem Thánh Kinh so với các sách kinh của các tôn giáo, ta không giãi nghĩa, không thể chứng minh được sách nào là sách hằng sống, nhưng kinh nghiệm sẽ giải nghĩa được.
Thánh Kinh phát xuất từ đâu? Thánh Kinh phát xuất từ miệng Thiên Chúa phán qua Moisen, qua các Tiên Tri, qua chính Chúa Kitô, qua các Thánh Ký. Các ngài viết lại qua bao thế kỷ trước.. Kinh Phật, Kinh Triết, Sách Kinh của các tôn giáo khác phát xuất từ con người, phản ảnh từ cuộc sống của các tổ tiên và thay đổi theo mỗi thời đại. Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa gieo vào trong lòng, phú vào lương tâm ngay thẳng. Lời hằng sống trở nên sống động nhờ công bố ra ngoài miệng.
Con người sống là sống cả về thân xác lẫn tinh thần. Xác sống bởi cơm bánh, hồn sống nhờ chân lý, nhờ lời thánh thiện, nhờ lời Chúa. Khi công bố: Hãy tin vào phúc âm. Tức là hãy tin và sống theo lời Chúa dạy chứ đừng tin vào lời người đời. Bởi đó khi đọc Phúc Âm:
- Linh Mục giang tay ra và công bố: Xin Chúa ở cùng anh chị em, giúp anh chị em lắng nghe lời Chúa.
- Mọi người đứng lên và thưa lại: Lạy Chúa Kitô, chúng con ngợi khen và tôn kính lời Chúa.
- Linh Mục làm dấu Thánh Giá trên chữ đầu tiên trong Sách Thánh chỉ mọi việc đều nhờ Chúa ơn cứu chuộc qua thánh giá.
- Làm dấu Thánh Giá thên trán:Linh Mục xin Chúa cho ngài hiểu được lời Chúa. Làm dấu Thánh Giá trên môi để ngài xứng đáng tuyên xưng lời của Chúa. Làm dấu Thánh Giá trên ngực để ngài được yêu thích, tuân giữ và ấp ủ lời Chúa trong lòng.
- Sau khi công bố lời Chúa, Linh Mục hôn Sách Thánh để nếm hưởng sự ngọt ngào thánh thiện của lời Chúa. Nghe xong lời Chúa:Mọi người ca ngợi lời Chúa qua Chúa Kitô.
- Giáo dân ngồi xuống nghe Linh Mục giải nghĩa một trong những khía cạnh của của lời Chúa để ý nghĩa lời Chúa được thấm nhập vào lòng, hiểu ý Chúa hơn.
- Lời Chúa dạy là lời chân thật, là lẽ phải phải theo. Hãy tôn trọng, kinh cẩn nghe lời Chúa, gìn giữ và thực hành lời Chúa trong cuộc sống. Để lời Chúa thấm nhập vào lòng, chúng ta cùng nhau lắng nghe lời Chúa qua bài hát:
Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con lúc lẻ loi.. .. ..(Nhạc và lời của Nguyễn Duy) (1-2003).
Cựu Hoàng Edward VIII của Anh Quốc, vào năm 1936 khi còn đang trên ngai Hoàng Đế nước Anh: TN3-B16
Cựu Hoàng Edward VIII của Anh Quốc, vào năm 1936 khi còn đang trên ngai Hoàng Đế nước Anh, bỗng ông si mê một thiếu phụ thuộc hàng thứ dân, đã một lần bà ly dị chồng.
Theo luật Anh Quốc, thì nhà Vua không được phép cưới một người đàn bà như thế, vì là điều xỉ nhục cho quốc thể. Bởi đó, nhà Vua phải chọn một trong hai con đường:
1. Phải bỏ mối si tình đó, nếu còn muốn là Hoàng Đế cai trị Anh Quốc.
2. Nếu muốn được yêu đương tự do thì phải bỏ ngôi vị Hoàng Đế, trở thành một người thứ dân.
Chỉ vì muốn đáp tiếng gọi của ái tình, Cựu Hoàng Edward đã chọn con đường thứ hai, trả lại cho Anh Quốc uy quyền và mọi danh vọng, để được cùng người yêu sang Pháp Quốc, sống cuộc đời bình thường như mọi người công dân khác.
Thế rồi, vào 1972 Cựu Hoàng Edward bỗng lâm bệnh nặng. Vừa được tin này, Nữ Hoàng Elizabeth là cháu của ông đang cai trị Anh Quốc, vội vàng từ Luân Đôn bay thẳng sang Paris, xin vào thăm bác của bà, nhưng Cựu Hoàng Edward nhất mực từ chối. Sau vì Nữ Hoàng năn nỉ mãi, nên ông đã đòi một điều kiện là: Nếu bà muốn được vào thăm ông, thì phải phong cho người yêu của ông trở thành hàng công chúa, để người yêu của ông được nở mày nở mặt với đời, không còn bị người đời mỉa mai là hạng đàn bà thứ dân.
Vì tình huyết nhục, Nữ Hoàng Elizabeth đành phải chấp nhận điều kiện để ông được toại nguyện. Thế là ông vui sướng đến độ ngất xỉu, rồi chết luôn ngày 28 tháng 5 năm 1972. Cựu Hoàng Edward VIII chỉ vì muốn được tự do theo tiếng gọi của ái tình, ông đã đành bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang danh vọng; nhưng rồi lại cũng chỉ vì muốn danh vọng cho người yêu của ông, mà ông đã vui sướng đến chết đi vì danh vọng. Thật là điên khùng!
I. TIN YÊU NÊN ĐƯỢC THA THỨ TỘI LỖI
Bài sách tiên tri Jona chúng ta vừa nghe, cho chúng ta thấy mãnh lực của niềm tin tưởng và lòng yêu mến vâng nghe Lời Chúa. Tiên tri Jona vừa công bố lệnh Chúa truyền: "Chỉ còn bốn mươi ngày nữa, thành Ninive sẽ bị phá hủy". Khi nghe tin đó, chính nhà Vua đã lià bỏ ngai vàng, cởi áo cầm bào, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Khắp nơi trong thành Ninive, người ta tuân theo sắc lệnh của nhà Vua và triều đình: Mọi người lớn bé, già trẻ, cả chiên bò, súc vật đều không được ăn uống của gì; lại cả người lẫn súc vật đều phải cuốn bao bố. Mọi người đều khẩn cầu cùng Chúa, quyết tâm cải thiện đời sống, tẩy trừ gian ác, xin Chúa nguôi giận và tha thứ tội lỗi cho dân.
Quả thật, Chúa đã thấy họ thực tâm sám hối cải thiện đời sống, chừa bỏ tội lỗi, Chúa liền động lòng thương xót không thi hành việc giáng họa, tiêu diệt thành Ninivê, như lời Người đe phạt. Đó là kết quả của niềm tin tưởng và lòng yêu mến.
II. TIN YÊU NÊN ĐÃ DẤN THÂN THEO CHÚA
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại, sau khi Gioan Tiền Hô bị tống ngục, Chúa Giêsu đến xứ Galilea và rao giảng rằng: "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Thế rồi, đi dọc theo bờ biển, Người gặp Simon và Andrê đang thả lưới, Người phán bảo hai anh em: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức hai ông bỏ chài lưới đi theo Chúa. Đi một chút nữa, Chúa lại gặp Gioan và Giacôbê là hai con ông Giebeđê đang xếp lưới, Người cũng gọi họ. Lập tức hai anh em cũng từ bỏ thân phụ và các người làm công để đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu.
Các vị này đã dứt khoát bỏ mọi sự, để dấn thân theo Chúa ngay, cũng chỉ vì niềm tin tưởng và lòng mến yêu đặt nơi Đấng đã kêu gọi họ. Chính niềm tin tưởng lòng yêu mến đó, còn có mãnh lực đến nỗi, đã làm cho các ngài sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, cùng với Chúa đi khắp đó đây để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân; rồi cuối cùng, các ngài đều sung sướng được chịu chết, để minh chứng niềm tin yêu nơi Chúa, như tiểu sử các ngài đã từng ghi nhận:
Thánh Phêrô sau những năm theo Chúa rao giảng Tin Mừng, làm việc ngày đêm, long đong vất vả, trốn tránh ngược xuôi, ra tù vào khám. Ngài đã rảo khắp miền Anitoche và vùng Tiểu Á thực thi sứ mạng Chúa ủy thác dù phải gặp biết bao gian truân. Cuối cùng, ngài đã phải lãnh án tử hình thập giá; nhưng ngài đã xin được đóng đinh ngược đầu xuống, để tôn kính Chúa và để người ta khỏi lầm tưởng ngài với Thầy Chí Thánh mình.
Cũng vậy, Thánh Andrê cũng chịu đóng đinh trên thập giá suốt hai ngày trời, sau nhiều năm rao giảng Tin Mừng và ca tụng Thầy Chí Thánh trước mặt muôn người.
Thánh Giacôbê thì bị dân chúng xua đuổi hết thành này đến thành khác, nếm đủ mùi khổ thống. Cuối cùng, ngài đã bị chém đầu để chứng minh cho Thầy mình.
Cùng một số phận, Thánh Gioan Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt, được Chúa trao sứ mạng phụng dưỡng Mẹ Maria; và sau cuộc đời gian khổ vì Tin Mừng, ngài đã bị quảng vào vạc dầu sôi, chịu chết để minh chứng cho niềm tin yêu và lòng trung thành của ngài với Đấng ngài yêu mến.
III. ĐỂ MINH CHỨNG NIỀM TIN YÊU
Để minh chứng niềm tin yêu của chúng ta nơi Chúa, chúng ta đã làm gì? Chỉ một tiếng gọi của ái tình, được thỏa mãn lòng si mê một người đàn bà thứ dân, Cựu Hoàng Edward đã sẵn sàng từ bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang phú quí triều đình Anh Quốc.
Còn chúng ta, chúng ta đã có thái độ nào khi nghe lời thống thiết Chúa kêu gọi: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng", để được hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời trong Nước Thiên Chúa?
Chúng ta hãy noi theo gương dân thành Ninive, cấp bách đáp lời tiên tri Giona kêu gọi bỏ đàng tội lỗi, sám hối cải thiện đời sống, để đáng được Chúa thương ban ơn tha thứ.
Chúng ta hãy mau mắn đáp lại Lời Chúa mời gọi: "Hãy theo Cha" và hãy anh dũng dấn thân theo Chúa, trung kiên thực thi sứ mạng tông đồ, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, và nếu cần sẵn sàng hiến cả mạng sống mình, để minh chứng niềm tin yêu nơi Đấng đã yêu thương kêu gọi chúng ta, theo gương các Thánh Tông Đồ đã chịu chết vì Thầy mình.
Chúng ta hãy sống niềm tin vào tinh thần Tin Mừng, vào những giáo huấn của Chúa và những lời dạy dỗ của Giáo Hội như Chúa và Giáo Hội đã kêu gọi.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta luôn có tâm hồn ngoan thảo thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin chỉ bảo cho chúng con biết đường lối Chúa. Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa và biết can đảm, anh dũng dấn thân sống Lời Chúa, để chúng con cũng được Chúa chúc phúc như chính Chúa đã kín đáo chúc khen Mẹ Chúa: "Hạnh phúc hơn nữa cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11:28).
Sau khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai và tách biệt khỏi: TN3-B17
Sau khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai và tách biệt khỏi ảnh hưởng của Gioan. Người rao giảng Nước Thiên Chúa đến gần, kêu gọi người ta sám hối và tin vào Tin Mừng, tuyển chọn môn đệ cho một giai đoạn mới. Đó là nội dung bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta hãy tìm hiểu và thực hiện giáo huấn của Lời Chúa.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1: Gn 3,1-5.10. 2. Bài đọc 2: 1 Cr 7,29-31. 3. Bài Tin Mừng: Mc 1,14-20.
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Thời gian đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã gần.
Đó là bối cảnh hoạt động và lời rao giảng của Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu kêu gọi người ta sám hối và tin vào Tin Mừng vì thời gian đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã gần. Thời gian đã mãn (hết) là thời gian chờ đợi Đấng Mêsia, chờ đợi ơn cứu độ, ơn giải thoát mà Đấng Mêsia đem đến. Nay Đấng ấy (là Đức Giêsu) đã hiện diện trong dân Ítraen, trong thế giới này rồi. Điều quan trọng là mỗi người gặp được Người, nhận ra Người. Triều Đại Thiên Chúa vừa là quãng thời gian vừa là khoảng không gian thuộc về Thiên Chúa. Vì thế còn được gọi là Vương quốc hay Thế giới của Thiên Chúa, là Nước Trời. Triều đại của Thiên Chúa được "khai trương" bằng sự xuất hiện công khai của Đức Giêsu Nadarét, với biến cố "tầng trời xé ra, Thần Khí như chim bồ câu hiện xuống trên Người" và bằng "tiếng nói từ trời phán ra: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1,11).
Vì thời gian chẳng còn bao lâu và vì Triều đại của Thiên Chúa đã bắt đầu nên người ta phải thay đổi tư duy và hành động. Thánh Phaolô đã diễn tả sự thay đổi ấy bằng những hình ảnh vừa gần gũi vừa sống động: "Những người có vợ hãy sống như không có, ai khóc lóc hãy làm như không có, ai vui mừng như chẳng vui mừng, ai mua sắm hãy làm như không có gì cả, kẻ hưởng dùng của cải đời này hay làm như chẳng hưởng" (bài đọc 2) Nói cách khác đó là cách sống siêu thoát, không quyến luyến, không dính bén, không lệ thuộc vào thế giới vật chất hiện tại, không dừng lại ở những cái trước mắt và sờ mó được. Như vậy là cách suy nghĩ và cách sống của những người chờ mong thời điểm và sự can thiệp của Thiên Chúa Cứu độ phải hoàn toàn được định hướng bởi sự có mặt của Triều Đại Thiên Chúa.
Để có người cộng tác và tiếp nối công cuộc rao giảng Tin Mừng và xây dựng Triều Đại của Thiên Chúa, Đức Giêsu tìm kiếm và mời gọi các môn đệ.
2."Các anh hãy theo tôi".
Tuy được hai Phúc Am khác nhau (Gioan và Máccô) tường thuật lại nhưng chúng ta có thể coi câu chuyện Đức Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên tiếp nối câu chuyện Đức Giêsu tiếp Anrê và Gioan ở "chỗ Người ở". Câu chuyện có hai chi tiết đáng chúng ta lưu ý. Chi tiết thứ nhất là bốn ông Anrê, Phêrô, Gioan và Giacôbê là hai cặp anh em ruột. Chi tiết thứ hai là các ông theo Chúa một cách nhanh gọn, dứt khoát, không do dự. Từ lời mời gọi của Đức Giêsu "Các anh hãy theo tôi" đến phản ứng của các môn đệ: "Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người" (Trường hợp 1) ỀVà các ông bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công mà đi theo Người." (Trường hợp 2) Chúng ta có thể hỏi: Trên thực tế các môn đệ có "tức khắc" bỏ tất cả mà đi theo Chúa như vậy không? Có hai giả thuyết: Giả thuyết thứ nhất: các môn đệ đã lập tức bỏ tất cả mà nhanh chóng đáp lại tiếng lời mời gọi của Đức Giêsu. Giả thuyết thứ hai: trên thực tế các môn đệ cũng cần có một thời gian để suy nghĩ và quyết định, nhưng các Phúc Am muốn làm nổi bật tính "triệt để" của ơn gọi môn đệ nên tường thuật như thế. Theo các nhà chú giải Thánh Kinh thì cả hai giả thuyết ấy đều chấp nhận được, nhưng nhiều người nghiêng về giả thuyết thứ hai hơn vì nó gần gũi với thực tế hơn.
3. Hai chiều kích của ơn gọi môn đệ.
Sau bốn môn đệ đầu tiên Đức Giêsu đã gọi thêm nhiều người khác nữa để rồi từ những người ấy, Người lập Nhóm Mười Hai. Mục đích? "Để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng" (Mc 3,14). "Để các ông ở với Người" được xem là chiều dọc của ơn gọi môn đệ: đó là mối tương quan gắn bó mật thiết giữa Thày và trò. Không có mối tương quan riêng tư (personnal) ấy, sẽ không có tình sư-đệ và sự chia sẻ sứ mạng giữa thày và trò. Còn "Để Người sai các ông đi rao giảng" được xem là chiều ngang của ơn gọi môn đệ: đó là đối tượng phục vụ của ơn gọi môn đệ: Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ thực sự bắt tay vào việc rao giảng Tin Mừng sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh đã về trời và đã ban Thánh Thần cho các ông (đọc Sách Công vụ Tông đồ từ 2,14 trở về sau). Hai chiều kích ấy là hai yếu tố căn bản của bất cứ ơn gọi Kitô hữu nào: giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Cốt yếu của ơn gọi môn đệ là: "Ai muốn theo tôi, thì từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 8,34). Như thế có nghĩa là càng sống gắn bó mật thiết với Chúa, càng để Chúa sai đi, càng từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Chúa thì chúng ta càng trở thành môn đệ ruột của Chúa Giêsu Kitô.
4. Giáo hội là công cụ và dấu chỉ của Triều đại Thiên Chúa.
Xưa nay trong công tác giảng dạy Giáo lý, chúng ta ít nhấn mạnh đến thực tại Nước Trời mà chỉ chú tâm đến vai trò và sứ mạng của Giáo hội. Thật ra hai thực tại ấy vừa là một vừa không là một. Để dễ hiểu chúng ta nói thế này: Giáo hội là Triều Đại của Thiên Chúa nhưng Triều Đại của Thiên Chúa thì không giới hạn ở Giáo hội mà rộng lớn hơn Giáo hội. Các nhà thần học khẳng định: Giáo hội là dấu chỉ, là công cụ của Nước Trời. Là dấu chỉ: Ở đâu có Giáo hội thì ở đấy Nước Trời hiện diện hay cứ thấy Giáo hội ở đâu là ở đó người ta liên tưởng tới Triều Đại của Thiên Chúa. Là công cụ: Thiên Chúa dùng Giáo hội để loan báo và xây dựng Triều Đại của Thiên Chúa.
5. Giáo hội là cộng đoàn trong đó mọi người có phần và phải góp phần.
Từ sau Công đồng Vatican II trở đi, Giáo hội học nhấn mạnh rất nhiều đến tính đồng trách nhiệm, tới sự tham gia của các thành phần Dân Chúa vào trong công việc đối nội và đối ngoại của Giáo hội. Giáo hội được định nghĩa là một cộng đoàn mà trong đó mọi người có phần và phải góp phần, vì mọi người đều là chi thể của Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô, mọi người đều bình đẳng về phẩm giá làm con cái Thiên Chúa và anh em chị em của nhau, mọi người đều được mời gọi làm môn đệ của Chúa. Giáo lý ấy xuất phát từ mặc khải Thánh Kinh, chứ không phải bởi ảnh hưởng của xu hướng dân chủ hóa của các tổ chức trần thế. Thiên Chúa là Đấng có thể làm tất cả một mình, không cần đến ai hết, nhưng Người đã không làm như thế mà mời gọi hết mọi người -nam nữ, già trẻ, giầu nghèo- hợp tác với Người để làm cho Tin Mừng được loan truyền khắp chốn khắp nơi. Thiên Chúa có thể làm cho cả thành Ninivê hối cải, bỏ đường tội lỗi trở về đường chính nẻo ngay mà không cần ngôn sứ Giona. Nhưng Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ Giona, đã giao cho ông nhiệm vụ nhắc nhở dân thành Ninivê để họ cảnh tỉnh và giác ngộ (bài đọc 1). Vì thế chúng ta phải hân hoan vì được Thiên Chúa tin dùng, được Thiên Chúa cho hợp tác mà đóng góp tích cực vào công việc của Người. Cũng vì thế không một ai trong chúng ta có quyền nghĩ rằng mình có thể làm một mình, không cần đến người khác. Những cách làm việc và lãnh đạo không có chỗ, không dành phần cho người khác tham gia là cách làm việc và lãnh đạo đi ngược với cách hành động của Thiên Chúa, với bản chất của Giáo hội.
III. SỐNG LỜI CHÚA
Nếu tôi được giao một trọng trách trong cộng đoàn thì tôi phải:
(a) Coi đó là vinh dự mà Thiên Chúa giao cho tôi mà nỗ lực chu toàn đến nơi đến chốn trọng trách ấy, bằng đời sống mật thiết với Chúa và phục vụ anh em (chiều dọc & chiều ngang của ơn gọi môn đệ)
(b) Mở rộng không gian và thời cơ để càng nhiều người tham gia hợp tác với tôi càng tốt, vì đó là cung cách hành động của Thiên Chúa và là tính chất của Giáo hội (Participatory Church).
IV.CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Thiên Chúa là Cha, Cha muốn mọi người nghe biết Tin Mừng và đón nhận Chúa Giêsu Con Cha. Chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã muốn cho chúng con tham gia hợp tác vào công việc vĩ đại ấy của Cha.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gọi các môn đệ để các ông ở với Chúa và để Chúa sai các ông đi. Chúng con cảm tạ Chúa đã gọi chúng con làm môn đệ Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết sống mật thiết gắn bó với Chúa và biết chu toàn sứ mạng được Chúa sai đi.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa đồng hành với chúng con để chúng con loan báo Tin Mừng Nước Trời trong các môi trường sống của chúng con.
Từ xưa đến nay, chúng ta chỉ quen nghe hay hiểu lời xin lỗi trong phạm vi hẹp: giữa người này với: TN3-B18
Từ xưa đến nay, chúng ta chỉ quen nghe hay hiểu lời xin lỗi trong phạm vi hẹp: giữa người này với người kia, cùng lắm là giữa nhóm người này với nhóm người kia. Thực ra, lời xin lỗi mang tầm mức lớn hơn nhiều. Hai tiếng "xin lỗi" tưởng như rất đơn giản, nhưng trong thời buổi này, nó không chỉ là lời của một người biết nhận lỗi và xin cho được tha thứ nữa, mà còn là lời để xóa những căng thẳng trong Giáo hội và giữa Giáo hội với xã hội, giữa Giáo Hội với các tôn giáo, các đảng phái, các dân tộc trên cả hành tinh này.
Người Công giáo tự hào, không phải vì họ không có lỗi, nhưng tự hào vì mình có một vị giáo hoàng đã làm cho lời xin lỗi trở thành chìa khóa mở cánh cửa cho sự hòa giải.
Phóng viên Luigi Accattoli trong lúc viết cuốn "Khi Đức Giáo Hoàng ngõ lời xin lỗi", cho thấy Đức Thánh Cha là hiện thân của sự hòa. Dường như ngài là một nhà lãnh đạo biết xoa diệu lòng người bằng lời xin lỗi, ngay cả khi đó không phải là lỗi của chính mình.
Ngay khi còn ở Ba Lan, Đức thánh Cha, mà ngày ấy còn là Đức Tổng Giám mục Karol Wojtyla đang coi sóc giáo phận Kracovi, trước khi Công Đồng Vatican II kết thúc, đã thay mặt Hội Đồng Giám mục Ba Lan gởi một lá thư có nội dung xin lỗi đến Hội Đồng Giám mục Đức. và qua Hội Đồng Giám mục Đức, Hội Đồng Giám mục Ba lan cũng ngỏ lời xin lỗi người dân Đức. Lời lẽ trong thư hết sức diệu ngọt: ỀChúng tôi tha thứ và xin được tha thứỂ. Lời xin lỗi đầu tiên này vào năm 1965. Nhưng nếu đặt lại vấn đề, người Đức phải xin lỗi người Ba Lan mới đúng, vì trong thế chiến thứ hai, chính Đức Quốc xã đã tàng sát người Ba Lan. Nhưng Hội Đồng Giám mục Ba Lan, trong đó có Đức Tổng Giám mục Karol Wojtyla, người mà hiện nay là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã lên tiếng trước để xóa bỏ sự thù hận mà chiến tranh gây ra, để hai dân tộc Đức- Ba lan có thể hiệp thông với nhau.
Và năm 2000 vừa qua, khi mà ý nghĩa của năm Toàn xá là mời gọi hãy ăn năn sám hối, thì vị Giáo Hoàng ôn hòa của người Công giáo lại càng không ngừng nói lời "xin lỗi". Bởi xin lỗi là một cách nói lên lòng sám hối. Có sám hối mới có thể thấy mình có lỗi, thấy mình cần được tha thứ, và xin người khác tha thứ. Làm được điều đó cũng có nghĩa là nói lên lòng ao ước được hiệp nhất với anh em xung quanh mình.
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật kế tiếp của tuần lễ cầu cho ơn hiệp nhất. Ngày hôm qua, với việc mừng lễ thánh Tông đồ Phaolô trở lại, chúng ta đã kết thúc tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Nhưng tôi nghĩ, vẫn còn rất thích hợp để suy nghĩ về tương quan giữa lời xin lỗi, lòng sám hối và ơn hiệp nhất. Bởi vì sẽ không có hiệp nhất nếu không có sám hối, nếu không có lòng chân thành cầu mong nhận được sự tha thứ nơi anh chị em.
Bài đọc một của Chúa nhật hôm nay nêu cao tấm gương sám hối cụ thể. Ngày ấy dân thành Ninivê, một thành phố của sa đọa, của đàn điếm, của tội lỗi, khi được tiên tri Giona cảnh báo: "Chỉ còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá hũy", cho dù lời rao giảng ấy có tính cách đe dọa, thì cả thành đã ăn năn sám hối.
Nếu đọc tiếp sách tiên tri Giona, bạn sẽ còn bắt gặp một hình ảnh khác của lòng sám hối rất cảm động, rất đáng khâm phục, và rất đẹp để trở thành tấm gương sáng cho ta. Đó là sau khi lời rao giảng mang tính đe dọa của tiên tri Giona, nhằm kêu gọi lòng sám hối đến tai nhà vua. Dù là vua, dù là hàng lãnh đạo bậc nhất trong thành, là người có quyền, có thế lực, vua Ninivê dường như không còn nghĩ mình là vua nữa. Niềm tin của ông thật lớn mạnh. Lòng ăn năn sám hối của ông thật sâu sắc. Bất chấp ngại ngùng, bất chấp người ta nghĩ gì về mình, nhà vua đã rời ngai vàng, cởi bỏ hoàng bào, mặc áo vải gai, ngồi trên đống tro để tỏ lòng hối hận vì tội lỗi, và qua đó xin ơn tha thứ cho chính mình và cho toàn dân. Chưa hết, nhà vua còn ra sắc chỉ buộc dân thành Ninivê ăn chay đền tội, và cầu nguyện xin ơn tha thứ.
Ngày xưa lòng hối hận của cả thành Ninivê, từ vua đến dân, là những tấm lòng thống hối chất chứa đầy niềm tin và yêu mến. Bởi chỉ có đức tin và tình yêu, mới có thể dẫn đưa con người, vốn không phải dễ chối từ những cái xấu ngay lập tức, dẫu biết đó là sự xấu thật, đến chỗ dứt khoát từ bỏ quá khứ, từ bỏ những đam mê trần thế của mình nhanh như thế.
Nhưng tất cả những hình ảnh sám hối đáng ghi khắc sâu trong tâm hồn mọi người của đoạn sách tiên tri Giona bên trên, cũng chỉ là phản ảnh của Lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: "Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Thực thi Lời Chúa dạy, bạn và tôi hãy mau chóng sám hối những lỗi lầm của mình. Hành động sám hối không có chỗ cho sự chung chung. Ninivê đã sám hối. Vua Ninivê đã cởi bỏ trang phục của một ông hoàng và khoác vào người chiếc áo thống hối của kẻ nhận ra mình tội lỗi. Ông từ bỏ ngai vàng để đổi lấy đống tro dơ bẩn. Hoặc như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã bày tỏ lòng sám hối của toàn Giáo Hội bằng thái độ hạ mình ngỏ lời xin lỗi với thế giới.
Cũng thế, một trong những hành động để tỏ lòng sám hối cách cụ thể của bạn và tôi đó là lời xin lỗi: Xin lỗi Chúa và xin lỗi anh em. Một khi dám nói ra lời xin lỗi cách thật lòng, đó cũng là dấu chỉ của sự sám hối thật lòng.
Trong đời sống mỗi ngày, ta vẫn thường chứng kiến bao nhiêu rạn nứt, và dẫn đến chia rẻ: vợ chồngly dị nhau; hai người bạn đang chơi thân, nhưng vì một lý do nào đó trở thành thù địch với nhau; anh em ruột không nhìn nhau nữa, biết bao nhiêu cảnh chém giết, thưa kiện nhau chỉ vì một lời nói gây tự ái, vì của cải, vì đất đai... Những lúc căng thẳng đó, rất cần lời xin lỗi và lòng tha thứ. Đó là những việc cụ thể mà ta có thể thực hiện bất cứ lúc nào. Chỉ có một tâm hồn sám hối mới có thể hiệp nhất và hòa thuận.
Vậy, cảm nhận và vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta hãy sám hối để được ơn tha thứ. Đối với mỗi người chúng ta, thực hiện lòng sám hối bằng thái độ nhận lỗi là cách thức hay để ta sống hiệp nhất với anh chị em của mình.
Đức Giê-su đến để xây dựng triều đại Thiên Chúa Khi bắt đầu xuất hiện công khai để loan: TN3-B19
1. Đức Giê-su đến để xây dựng triều đại Thiên Chúa Khi bắt đầu xuất hiện công khai để loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su tuyên bố với mọi người: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ngài nói vậy nghĩa là gì ?
– “Thời kỳ đã mãn” nghĩa là đã hết một thời kỳ, và đã đến lúc bắt đầu một thời kỳ mới. Thời cũ là thời của Cựu Ước, với những tinh thần và luật lệ của Cựu Ước. Thời của Cựu Ước là thời chuẩn bị cho thời của Tân Ước. Và Đức Giê-su đến để khai mở thời kỳ Tân Ước, với những tinh thần và luật lệ mới của Tân Ước. Thời Tân Ước là thời xây dựng triều đại Thiên Chúa do Đức Giê-su chủ xướng và thiết lập. Ngài nói: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. “Đã đến gần” có nghĩa là còn đang đến chứ chưa thành hiện thực. Triều đại ấy có thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào Đức Giê-su và những người cộng tác với Ngài.
2. Triều đại Thiên Chúa hay Nước Thiên Chúa là gì ? Triều đại Thiên Chúa mà Đức Giê-su muốn thiết lập là một kỷ nguyên mới, trong đó nhân loại được sống trong an bình hạnh phúc, nhờ biết yêu thương nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau. Ngài đã đưa ra một “điều răn mới” cho kỷ nguyên mới này: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34; x. 15, 12.17 ). Và yêu thương phải trở thành dấu hiệu đặc trưng của những ai theo Ngài, đặc trưng đến nỗi chỉ việc nhìn vào tình thương họ dành cho nhau, mà mọi người nhận ra họ là người theo Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” ( Ga 13, 35 ). Ngài đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn đặc biệt của Ngài nhằm thực hiện Nước Thiên Chúa, trong đó, tình thương thống trị trong lòng mọi người, khiến mọi người trong cộng đoàn đó yêu thương và hy sinh cho nhau, coi nhau như anh chị em, nhờ đó họ luôn luôn đầy đủ và hạnh phúc. Và nhờ sự hấp dẫn luôn luôn có của tình thương, Giáo Hội ấy ngày càng mở rộng, và lan tràn khắp thế giới. Lúc ấy, thế giới sẽ trở thành Nước Thiên Chúa, ngay tại trần gian này. Ngài đã ban cho Giáo Hội những phương tiện rất hữu hiệu là các bí tích để thông ban sức mạnh thiêng liêng để con người thực hiện điều ấy.
3.Một lý do khiến Giáo Hội chưa thực hiện được Nước Thiên Chúa Thế nhưng cho đến nay, nhìn vào Giáo Hội và thế giới, người ta không khỏi nghi ngờ: liệu việc xây dựng “Triều đại Thiên Chúa” hay “Nước Trời” của Đức Giê-su có thành tựu được không ? Xem ra lý tưởng của Đức Giê-su vẫn còn xa vời lắm, mặc dù Giáo Hội đã nỗ lực thực hiện lý tưởng ấy suốt 2000 năm nay. Có thể một trong những lý do khiến chúng ta không thành công là chúng ta chưa quan tâm đủ đến sứ điệp trọng tâm của Đức Giê-su là tinh thần yêu thương, mà quá quan tâm đến những phương tiện – là việc cầu nguyện, các Bí Tích – để đạt được tinh thần ấy. Quả thật, những phương tiện mà Đức Giê-su đặt ra rất cần thiết và hữu ích, nhưng dù thế nào chăng nữa, chúng vẫn chỉ là những phương tiện. Biến những phương tiện ấy thành mục đích hay cứu cánh là vô hiệu hóa chúng, thậm chí làm chúng biến chất, làm chúng trở nên có hại thay vì có lợi.
Nếu “đồng tiền là một đầy tớ rất tốt, nhưng lại là một ông chủ rất xấu”, thì tương tự như vậy: các phương tiện Đức Giê-su lập ra như các Bí Tích, việc cầu nguyện, v.v... là những phương thế rất tốt, nhưng lại cũng có thể bị người ta lạm dụng vào những mục đích không hay. Nghĩa là nếu chúng ta nhắm mục đích rõ ràng là sống yêu thương nhau, và quyết tâm thực hiện sự yêu thương ấy, thì việc cầu nguyện và các Bí Tích sẽ là những phương thế hết sức hữu hiệu để đạt được mục đích ấy. Còn nếu chúng ta coi chúng là mục đích, thì chúng sẽ trở thành những yếu tố phá hoại sự yêu thương ấy, cũng là phá hoại tôn giáo. Khốn thay rất nhiều Ki-tô hữu không hề ý thức sứ điệp căn bản của Đức Giê-su là tình yêu thương, nên không mấy quan tâm tới điều chính yếu ấy. Họ chỉ chủ yếu quan tâm tới việc thực hành những phương tiện mà Đức Giê-su lập ra để đạt mục đích ấy, và coi việc thực hành những phương tiện ấy chính là bản chất việc sống đạo Ki-tô giáo. Họ đã biến phương tiện thành mục đích, vì thế, những phương tiện ấy chẳng những chẳng đạt được mục đích mà Đức Giê-su muốn chúng đạt được, mà chúng lại trở thành một thế lực ngăn cản con người đạt đến mục đích ấy. Thật vậy, biết bao Ki-tô hữu cảm thấy mình đạo đức chỉ vì đã đi lễ hằng ngày, rất siêng năng lãnh nhận các bí tích, rất chuyên cần đọc kinh cầu nguyện... đang khi họ đối xử với tha nhân, thậm chí với cả những người trong gia đình mình, chẳng mấy tốt đẹp.
Như thế họ đã quan niệm sai lầm về việc sống đạo, nhất là về bản chất của Ki-tô giáo. Điều này thiết tưởng những người có nhiệm vụ rao giảng, dạy dỗ trong Giáo Hội phải chịu trách nhiệm phần nào !
4. Để xây dựng Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su cần những người cộng tác Ngay khi bắt đầu sứ mạng loan báo và xây dựng Nước Thiên Chúa, việc đầu tiên Đức Giê-su phải làm là tìm những người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Chắc hẳn những người được Ngài mời gọi theo Ngài làm tông đồ, Ngài đã nhận ra nhiệt huyết của họ trong những lần Ngài nói chuyện với dân chúng về Nước Trời trước đó. Vì thế, khi Ngài mời gọi họ, họ lập tức bỏ mọi sự để lên đường theo Ngài ngay. Và với 12 môn đệ – tức 12 người cộng tác đắc lực – được Ngài tuyển chọn, Ngài đã lập nên cả một Giáo Hội phát triển rộng lớn như ngày nay. Sau 20 thế kỷ khởi công xây dựng Nước Thiên Chúa, người theo Đức Giê-su hiện nay trên thế giới tuy rất đông nhưng dẫu sao vẫn còn rất ít ỏi so với số lượng đáng lẽ phải đạt được. Vì hiện nay số người Ki-tô hữu mới chỉ chiếm một phần ba dân số thế giới. Đó là nói về số lượng, còn chất lượng người Ki-tô hữu thì sao ? Bao nhiêu phần trăm Ki-tô hữu thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giê-su đúng như Ngài đã truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34 ) ? Đối với thế giới, Ki-tô giáo có phải là một biểu tượng hay gương mẫu của tình thương, của sự khoan dung, hay chỉ là biểu tượng của lễ nghi, của sự khắt khe, không khoan nhượng ? Thời nào Đức Giê-su cũng cần những người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Và chắc chắn thời nào cũng không thiếu những con người nhiệt tình sẵn sàng hy sinh cho công cuộc của Ngài.
Nhưng nhiệt huyết xuông, không đủ, chúng ta cần phải đi đúng đường lối của Ngài. Nếu không, nỗ lực của Giáo Hội chúng ta sẽ chỉ là những nỗ lực kiểu “dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Thiết tưởng chúng ta cần phải nắm vững cái nào là cái chính yếu, cái nào là cái phụ thuộc; cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện; cái nào là bản chất, cái nào là hiện tượng. Nhờ phân biệt rõ ràng như thế, chúng ta mới biết hy sinh cái phụ thuộc cho cái chính yếu, coi nhẹ phương tiện hơn mục đích, coi trọng bản chất hơn hiện tượng. Cứ thử xét cách dùng danh từ của nhà đạo chúng ta thì biết chúng ta đã quan trọng hóa cái gì: cái chính yếu hay cái phụ thuộc ? Chúng ta gọi những việc cầu nguyện hay Bí Tích là những “việc đạo đức”. Điều đó khiến nhiều Ki-tô hữu lầm tưởng rằng cứ cầu nguyện hay lãnh nhận các Bí Tích cho nhiều là trở thành người đạo đức. Nhưng thật ra rất nhiều người làm được như vậy một cách rất gương mẫu, nhưng chẳng ai mến phục chỉ vì họ sống thiếu tình thương. Thực ra đạo đức được thể hiện trong chính cuộc sống thường ngày: trong cách cư xử, cách làm việc, cách nói năng...
Một người có đạo đức khác với những người không đạo đức chủ yếu ở trong chính cách cư xử, làm việc, nói năng... chứ không phải trong việc cầu nguyện và lãnh nhận các Bí Tích. Vì thế, thiết tưởng khi chúng ta làm những bổn phận hằng ngày như làm ăn buôn bán, quét nhà nấu ăn giặt giũ, tiếp xúc nói chuyện cư xử với mọi người... nếu chúng ta làm với tinh thần yêu thương vị tha, thì chính khi làm như vậy là ta thực hiện những việc đạo đức. Việc cầu nguyện và các Bí Tích giúp ta có ơn Chúa, có sức mạnh để làm những việc ấy với tinh thần yêu thương của Chúa, chứ chúng không thay thế tinh thần yêu thương ấy. Cầu nguyện hay lãnh nhận các Bí Tích mà không thể hiện tình yêu thương trong cách cư xử, làm việc, ăn nói, suy nghĩ, thì giống như một người đi làm quần quật suốt ngày để có tiền, nhưng chẳng dùng số tiền ấy vào việc gì, cứ cất vào một chỗ để dành. Như thế tiền bạc ấy trở nên vô ích. Tiền bạc chỉ trở nên ích lợi và đem lại hạnh phúc khi được chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, cầu nguyện hay lãnh nhận Bí Tích chỉ có ích lợi và đem lại ơn cứu rỗi khi chúng nhắm thực hiện mục đích mà Chúa muốn là thể hiện tình yêu thương cách hữu hiệu.
Lạy Cha, bản chất của Cha là Tình Yêu, và bản chất của Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập cũng là Tình Yêu. Do đó, Tình Yêu chính là mục đích và bản chất của Ki-tô giáo. Việc cầu nguyện, các Bí Tích chính là những phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục đích hay bản chất ấy. Xin Cha đừng để người Ki-tô hữu chúng con lầm lẫn mục đích với phương tiện, điều chính yếu với điều phụ thuộc. Có như vậy, Nước Trời mới thật sự hình thành tại trần gian này. Xin cho chính bản thân con ý thức điều đó.
Chúa Giêsu bắt đầu chức vụ công khai bằng rao giảng Tin Mừng về nước Thiên Chúa. Tin: TN3-B20
Chúa Giêsu bắt đầu chức vụ công khai bằng rao giảng Tin Mừng về nước Thiên Chúa. Tin Mừng này ngày càng rõ ràng liên hệ đến bản thân và chức vụ của Ngài. thời gian tại thế ngắn ngủi mà ý định là mọi người khắp thế giới phải được nghe Tin Mừng cứu rỗi. Vậy gọi chọn môn đệ để huấn luyện và sai đi là cần thiết. Chúa Giêsu phải tự tạo ra cho mình một nhóm người để có thể thổ lộ tâm sự, để viết thông điệp mình ngay trên tấm lòng họ. Ở đây Mác Cô cho chúng ta thấy việc Chúa thật sự đặt nền móng cho Nước Trời, và gọi số người đầu tiên theo Ngài.
Trên bờ biển Galilê, Phần đất xa thủ đô với đám dân chất phát và đầu óc cởi mở hơn, Chúa Giêsu bắt đầu kén chọn những người sẽ cộng tác với Ngài trong việc rao giảng Tin Mừng. Josephus đã có một thời làm tổng đốc Galilê. Dân chúng ở Paléttin thường ít ăn thịt, nói chung thì hằng tuần họ không ăn hơn một lần. Cá là thức ăn chính của họ. Bình thường cá đem muối vì không có phương tiện vận chuyển cá tươi. Cá tươi là một trong những phương tiên cao lương mỹ vị ở cá đô thị lớn như Lamã. Chính tên của các thị trấn ấy nằm trê bờ biển hồ cho thấy nghề trài lưới rất quan trọng. Bếtsaiđa có nghĩ là nhà cá. Một thị trấn khác trên bờ hồ têntarichea có nghĩ là công trường cá muối, chính ở đây cá được chuẩn bị để trở đến Giêrusalem và đến tận Lamã. Nghề buôn cá muối là một kĩ nghệ quan trọng tại Galilê.
Ngư dân thường dùng hai loại lưới, cả hai đều được đề cập trực tiếp hay ngụ ý trong sách Phúc âm. Có một loại gọi là sagenè, là một loại lưới kéo, người ta để nó sau lái thuyền, rất nặng và được thả ngay trên mặt nước, khi thuyền đi tới, nó chìm xuống dần dần, bốn góc lưới gặp nhau và trở thành một cái túi lớn nhốt cá vào trong. Loại thứ hai là loại mà phêrô và Anrê vẫn dùng gọi là bnestron nó là một loại chài nhỏ được khéo léo quăng ra bằng tay, nó có hình dáng như cây dù ném xuống nước và chìm dần để chụp cá vào trong.
Nghiên cứu những người Chúa Giêsu đã trọn làm môn đệ là một điều vô cùng lý thú.
1. Chúng ta xem họ là ai.
Họ chỉ là những người thông thường, không hề xuất thân từ một trường cao đẳng nào, họ không hề được tuyển trọn từ giới tư tế, hàng giáo phẩm hay dòng quí tộc, không có học thức hay giàu có gì. Họ chỉ là các ngư dân nghĩa là con người bình thường. Chưa hề có ai tin tưởng vào con người bình thường như Chúa Giêsu. Dường như Chúa Giêsu muốn mời gọi: “Hãy giao cho Tôi mười hai người tầm thường và với chừng ấy, nếu họ tự hiến thân cho Tôi, Tôi sẽ thay đổi cả thế giới này”. Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình là gì, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa sẽ khiến chúng ta trở thành
2. Chúng ta chú ý lúc Chúa Giêsu gọi thì họ đang làm gì.
Họ đang làm công việc hằng ngày của mình, họ đang đánh cá, vá lưới. Với nhiều nhà tiên tri cũng vậy. Amốt nói: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật vá chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã tryuền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm chi Israen dân Ta”(7,14-15). Tie71nhiều người gọi của Chúa đến với một người không phải chỉ xảy ra trong nhà Thiên Chúa, cũng không chỉ ở nơi bí mật, nhưng giữa lúc người ấy làm công việc hằng ngày. Một người sống trong một thế giới đầy dẫy Thiên Chúa sẽ không thể nào trốn lánh được Ngài.
3.Chúng ta chú ý xem Ngài đã gọi họ như thế nào.
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu là: “Hãy theo Ta”. Vừa nghe chúng ta thấy bốn ông này dường như thôi miên, vừa nghe một tiếng nói đã đứng lên đi theo ngay, không suy nghĩ, không tính toán. Thật ra, bốn ông này không xa lạ gì với Chúa Giêsu. ít ra, hai người đã biết Chúa Giêsu tại Giuđê với sự giới thiệu của Gioan Tẩy Giả. Sau ngày được Gioan làm phép rửa cho, Chúa Giêsu đang đi tới Bêtania thì Gioan Tẩy Giả trông thấy và giới thiệu với hai môn đệ đứng gần ông: “Đây là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng sẽ hy sinh để chuộc tội nhân loại”. Hai môn đệ nghe xong liền đi theo Chúa Giêsu, đàm đạo với Người từ bốn giờ chiều tới tối. Về nhà Anrê tìm gặp Simon, và dẫn em mình tới gặp Chúa. Giacôbê chắc chắn cũng được Gioan giới thiệu về Chúa Giêsu. Như vậy Mác Cô chỉ ghi lại lần gọi thứ hai ở bờ biển Galilê, cách lần gọi trước cả mấy tháng. Như vậy chắc chắn họ đã từng đứng giữa đám d0ông để nghe Ngài, đã từng nán lại để trò truyện với Ngài sau khi số con lại trong đám đông đã giải tán, và họ đã từng cảm thấy một điều kì diệu từ đôi mắt vốn có sức thu hút của Ngài.
Nhưng Chúa Giêsu đã không hề nói với họ: “Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư vào các ngươi, Ta có một số triết thiết muốn các ngươi suy nghĩ, Ta muốn được thảo luận với các ngươi”, nhưng Ngài phán: “hãy theo Ta”. Tất cả đều bắt đầu bằng một phản ứng cá nhân đối với Ngài, tất cả đều bắt đầu bằng một xúc động từ thâm tâm, làm naỷ sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. Nói thế không có nghĩ là một khi đã theo Chúa Giêsu chẳng ai có suy nghĩ gì cả, nhưng phần đông trong chúng ta, theo Chúa Cứu Thế như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu vậy. Có người đã tâm sự: “Chúng ta thán phục người khác có lý do, còn chúng ta yêu người khác thì chẳng có lý do gì cả”. Sự việc xảy ra chỉ vì họ là họ mà Ta là Ta, vậy thôi. Chúa Giêsu phán: “Phần Tôi, một khi được giương lên cao khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Gioan 12,32). Nói theo số đông, sở dĩ chúng ta theo Chúa Giêsu chẳng phải do điều Chúa Giêsu đã phán, nhưng do tất cả những gì vốn tự có nơi Ngài.
4. Cuối cùng, chúng ta chú ý điều Chúa Giêsu đã ban cho họ, Ngài giao cho họ một nhiệm vụ.
Ngài không gọi để họ gặp mọi sư dễ dãi, thoải mái; Ngài gọi họ để phục vụ. Có người bảo rằng, mọi người đều cần “một cái gì đó để có thể đầu tư cuộc sống mình vào đấy”. Chúa Giêsu đã gọi người ta theo Ngài không phải để họ gặp được những sự dễ dàng, thoải mái, không phải để thụ động, ngay cả chỉ đọc kinh cầu nguyện, chẳng làm gì cả. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà họ phải dành cả một đời sống, phải hăng say gấp rút để cuối cùng, phải chết cho Ngài và cho đồng bào đồng loại. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà chẳng những họ không được gì cho riêng mình, nhưng còn phải hiến dâng tất cả cho Ngài và cho tha nhân.
Nhiều người các bạn đã đọc hay xem phim: Mutiny on the Bonuty (Phản loạn nhờ lòng nhân từ). Những lời than trách thầm kín của thủy thủ và sự tàn nhẫn của thuyền trưởng Blight không thể quên được. Một đoạn trong câu truyện gợi chúng ta nhìn nhận Kinh thánh là lời Chúa.
Những người nổi dậy đã bỏ tàu và đổ bộ lên một hòn đảo hoang vắng Pitcairn. Trong nhóm có 9 thủy thủ da trắng, 6 người thổ dân, 10 phụ nữ và một em bé gái 15 tuổi.
Kết quả của sự quá khích và điều khiển sai lầm, chỉ còn một thuỷ thủ sống sót là Alexander Smith. Ong này tìm gặp một cuốn Kinh thánh trong một chiếc hòm được đem từ tàu lên. Ông bắt đầu đọc, suy tư, rồi chia sẻ sự hiểu biết của ông cho cả nhóm người được cải thiện.
Đây thêm một bằng chứng về điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nước Thiên Chúa trong tầm tay. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Tin Mừng có thể gồm trọn sứ điệp của Chúa, gồm Cựu ước và Tân ước, thường khi nói Tin Mừng, chúng ta nghĩ đến bốn Tin Mừng của Tân ước, đặc biệt những điều Chúa Giêsu đã nói và những việc Chúa Giêsu đã làm. Đức Giêsu nói để chúng ta chấp nhận Tin Mừng. Rồi cũng như những người chạy trốn trên đảo Piticairn, chúng ta sẽ khám phá ra rằng Nước trời thiêng liêng của Chúa ở tầm tay.
Với chúng ta, những người công giáo. Việc làm và việc giảng dạy của đức Giêsu quan trọng đến nỗi chúng ta đọc trong mỗi thánh lễ. Khi đọc bài Tin Mừng, chúng ta làm những cử chỉ đầy ý nghĩa. Trước hết linh mục giang tay chào: “Chúa ở cùng anh chị em”. Chúng ta cần Chúa giúp chúng ta nghe đúng và thực hành đúng lời Chúa. Khi nghe đọc Tin Mừng, chúng ta đứng như thời các tông đồ đã làm: đứng lên ám chỉ lời Chúa cho chúng ta tràn đầy niềm vui, cho chúng ta được tự do, nó diễn tả sự sống lại thiên liêng: đứng lên khỏi sự buồn rầu, khỏi tình trạng tội lỗi. Đứng lên là tỏ thái độ kính sứ điệp của Chúa, như người tôi tớ trước mặt chủ mình. Chúng ta lắng ghe lời chỉ dạy của thầy chí thánh, và sẵn sàng đem ta thực hành.
Linh mục vẽ dấu thập giá ngay đầu bài Tin Mừng để nói lên rằng tất cả công cuộc cứu chuộc để tỏ bày trong mầu nhiệm thập giá là tình thương, là sự khôn ngoan và quan phòng của Chúa. Thập giá là thầy dạy mọi nhân đức.
Người đọc có vẽ thập giá tên trán, trên môi và trên ngực. Trên trán để hiểu và nhớ lời Chúa; trên miệng để giảng và tuyên xưng lời Chúa; trên ngực để yêu mến và sống điều Chúa tỏ ra cho chúng ta. Đọc xong, linh mục hôn chữ khởi đầu của đoạn Tin Mừng. Tại sao vậy ? Ngài nếm sự ngọt ngào của Chúa, niềm an ủi của bài Tin Mừng. Ngài thật sự yêu mến lời Chúa.
Tôi đề nghị, với cuốn sách lễ giáo giáo dân của bạn, bạn cũng làm một cử chỉ như vị linh mục.
Bạn hãy nghĩ đến những ý nghĩa của nó. Hy vọng những cử chỉ ấy giúp chúng ta tin vào Tin Mừng như Chúa Giêsu đã truyền dạy chúng ta.
Thế nào là một Tin mừng? Tin mừng là một điều mới mẻ chưa được biết nay được loan báo cho biết. Điều mới mẻ này liên quan mật thiết đến bản thân chúng ta, đem lại một cơ may, một vận hội mới. Tin mừng luôn mở ra một hoàn cảnh tốt đẹp hơn, có khi đánh dấu một khúc quặt trong đời.
Tin mừng lớn nhất từ xưa dến nay chưa từng có và từ nay về sau sẽ chẳng bao giờ có nữa là Tin mừng Thiên Chúa ban cho người trần qua Con của Ngài: Tin mừng Nước Thiên Chúa.
Tin mừng khác với lý thuyết. Một lý thuyết, dầu mới mẻ và quan trọng đến đâu, ví dụ thuyết của Einstain, cũng không tác động trực tiếp đến số phận của con người. Nó có thể soi sáng trí tuệ, mang tới sự hiểu biết mới, nhưng không có khả năng lay động tâm hồn, làm thay đổi cuộc sống. Giỏi lý thuyết không đương nhiên trở thành một con người đạo đức hơn.
Còn tin mừng thì khác. Tin mừng luôn thiết thân với bản thân và cuộc sống. Nó có sức mạnh làm xoay chiều số phận, đảo lộn cuộc đời, đưa vào một hướng mới, có khi buộc phải làm lại cuộc đời từ đầu. Augustino đã đoạn tuyệt với quãng đời buông thả khi nghe lời thúc giục: 'Hãy cầm và dọc’. Người thanh niên ham vui ở Assisi đã tử bỏ tất cả để sống cuộc đời khổ hạnh nhờ lời Phúc thứ nhất: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng là như vậy.
Chúa Giêsu đến để loan tin mừng chứ không phải để dạy lý thuyết. Ngài không đến như một học giả, mang một hệ thống lý thuyết đến để làm cho mọi người nên thông thái. Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, mang đến toàn những tin rất đáng kinh ngạc. Ngài đến bảo chúng ta: Thiên Chúa muốn mở cho anh một con đường mới, đưa anh vào một thế giới mới, tỏ cho anh biết mọi bí ẩn về đời anh và như vậy làm cho đời anh thành tựu. Anh đã nghe ra chưa? Có chịu không? Và nếu chịu thì chúng ta cùng nhau bắt tay vào việc thực hiện ngay.
Chúng ta biết có nhiều cuộc đời đã bị chấn động và đã xoay chiều vì Tin mừng của Chúa Giêsu. Khi Ngài nói với thiếu phụ xứ Samaria: Nước giếng này uống rồi lại khát, còn nước tôi ban, ai uống sẽ không bao giờ khát nữa, vì là nước ban sự sống đời đời. Ngài không dạy chị ta một lý thuyết nhưng loan một Tin mừng. Nhờ Tin mừng này chị nhận ra Đấng Cứu thế và đã đổi đời. Cũng vậy lời tha tội nói với thiếu phụ ngoại tình: Ta cũng không kết án chị. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa.. . là môt Tin mừng. Tin mừng tha thứ còn được loan cho Mađalêna, cho Giakê, cho người trộm lành ..
NƯỚC THIÊN CHÚA
Nội dung tạin mừng Chúa Giêsu loan truyền là Nước Thiên Chúa. Nội dung đó có thể tóm lược như sau:
Nước Thiên Chúa là mối tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và mỗi tâm hồn. Là tình trạng viên mãn, tràn đầy hồng ân và tình thương của Thiên Chúa, đứng đầu là hồng ân cứu độ. Là sự hiệp thông thâm sâu với Thiên Chúa. Vào Nước Thiên Chúa là tự nguyện thuộc về Thiên Chúa, hiệp thông sự sống với Ngài, và do đó được sống trong tình trạng viên mãn, được hưởng trọn vẹn tình thương và ân phúc của Ngài.
Chúa Giêsu đến để loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nói đúng hơn, sự hiện diện của Ngài là chính Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Hồng ân tuyệt hảo, là nguồn mọi ân phúc của Thiên Chúa, là hiện thân tình thương của Ngài, là sự thực hiện mợi dự định và mọi lời hứa của Ngài. Chúa Giêsu đến chính là Nước Thiên Chúa đến. Tin vào Chúa Giêsu và đón nhận Ngài là vào Nước Thiên Chúa và được hưởng mọi hồng ân của Ngài.
NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ ĐỀN GẦN
Nước Thiên Chúa đang ở tầm tay mỗi người, bởi vì chính Ngài là Nước Thiên Chúa và Ngài đã đến giữa mọi người. Đây là cơ may, là vận hội mới. Đã đến lúc mỗi người phải quyết định: Đón nhận hay không đón nhận. Và nếu muốn đón nhận thì phải đáp ứng cụ thế bằng lòng tin.
Tin mừng Nước Thiên Chúa là Tin mừng cho mọi thời đi cho mọi người và cho mỗi người. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng đứng trước một lời loan báo và một sự lựa chọn, kèm theo một nỗ lực hoán cải: "Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng”.
Nếu Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật II Thường niên năm B này đã khẳng định rằng mỗi Kitô hữu đềuđược gọi và chọn để phục vụ Chương trình Cứu độ của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô thì Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III hôm nay tiếp tục và đào sâu chủ đề Ơn Gọi, nhưng với một xác định rõ hơn là mỗi Kitô hữu được gọi và được chọn cho sứ mạng chinh phục lòng người, để tội nhân cải tà quy chính, để người đời tin vào Tin Mừng và Chúa Giêsu Kitô. Vì sứ mạng này vừa hấp dẫn (vì chứa đựng nhiều phiêu lưu), vừa khó khăn (vì dễ gì mà thuyết phục được người ta, khi người ta đang sống trong đam mê tội lỗi hay thờ ơ với đời sống tâm linh), nên rất cần chúng ta xác tín về sứ mạng và tin tưởng vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy đi sâu vào nội dung các bài Sách Thánh và đón nhận sứ mạng Chúa muốn giao cho chúng ta.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Gn 3,1-5.10: Thành Ninivê sám hối và được tha thứ.
(1) Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Giôna lần thứ hai rằng: (2) "Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi." (3) Ông Giôna đứng dậy và đi Ninivê, như lời ĐỨC CHÚA phán. Ninivê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. (4) Ông Giôna bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ." (5) Dân Ninivê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. (10) Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai họa Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.
(2) Bài đọc 2: 1 Cr 7,29-31:
(29) Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; (30) ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; (31) kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 1,14-20: Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (Mt 4, 12 -17; Lc 4,14 -15) - Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4, 18 -22; Lc 5, 1-11).
(14) Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. (15) Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."
(16) Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy ông Simon với người anh là ông Anrê, đang quang lưới xuống biể, vì các ông làm nghề đánh cá. (17) Người bảo các ông: "Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá." (18) Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người.
(19) Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Dêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. (20) Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền, với những người làm công, mà đi theo Người.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Thiên Chúa mà Sách Giona kể lại là một Đấng Thiên Chúa thánh thiện và yêu thương. Vì thánh thiện nên Chúa không thể chấp nhận được tội lỗi của dân thành Ninivê. Vì yêu thương nên Chúa muốn cứu dân thành ấy mà giao cho ngôn sứ Giona sứ mệnh cảnh cáo và kêu gọi dân sám hối. Nếu dân Ninivê không thay đổi cách sống thì hình phạt sẽ giáng xuống. Còn nếu họ biết sám hối bỏ điều gian ác mà quay về nẻo chính đường ngay thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha cho tội lỗi của họ và không giáng hình phạt xuống nữa.
Ngôn sứ Giona đã thuyết phục được dân thành Ninivê bỏ đàng tội lỗi quả là một kỳ công đáng chúng ta vô cùng cảm phục!
(2) Thiên Chúa mà Thánh Phaolô muốn cho tín hữu Côrintô và hết thẩy các tín hữu cảm nhận được là một Đấng Thiên Chúa siêu việt đến nỗi đối diện với Người thì mọi thứ trên đời này chẳng đáng kể là gì nữa: vợ/chồng, của cải, sung sướng/đau khổ đều chỉ là những thực tại tương đối. Cả thế gian này chỉ là chốn tạm bợ. Chỉ có Thiên Chúa mới là tuyệt đối! Chỉ có đời sau mới là vĩnh hằng, trường cửu và bất di bất dịch!
Thuyết phục được người ta tin và sống như Thánh Phaolô dạy quả là vô cùng khó khăn. Ngay tự bản thân chúng ta tin và sống như Thánh Phaolô dạy cũng đã là khó khăn lắm rồi!
(3) Thiên Chúa mà Thánh Máccô muốn giới thiệu với thế giới là Đức Giêsu Nagiarét, Đấng đến trần gian để rao giảng Tin Mừng Nước Trời và kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng mà Người đem đến cho nhân loại. Để có người cộng tác với mình trong việc thực hiện sứ mạng ấy, Chúa Giêsu tìm kiếm và chiêu mộ các môn đệ. Bốn người đầu tiên được gọi và được chọn là hai cặp anh em: Anrê và Simon (tức Phêrô), Gioan và Giacôbê. Cả bốn đều là dân chài lưới, sinh sống bằng nghề đánh cá. Nghề nghiệp của họ giúp họ hiểu ngay công việc mà Chúa Giêsu muốn giao cho họ: “Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá."
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta? Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần:
(1o) Thiên Chúa muốn giao cho mỗi người Kitô hữu sứ mạng kêu gọi người có tội ăn năn sám hối bỏ đường tội lỗi để được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
(2o) Thiên Chúa muốn mỗi người Kitô hữu trở thành người chinh phục người khác cho Nước Thiên Chúa, cho Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Chúng ta cần thực hiện ba điều sau đây để Sống Sứ Điệp của Lời Chúa Chúa nhật III Thường Niên Năm B này:
1. Xác tín mình được giao sứ mạng chinh phục lòng người trong thời đại hôm nay.
2. Cầu xin và để cho Thánh Thần huấn luyện và nhào nặn mình thành “những kẻ lưới người như lưới cá” mà Chúa Giêsu mong đợi.
3. Tận dụng mọi cơ hội và hoàn cảnh để trau dồi những gì cần thiết cho sứ mạng chinh phục lòng người, nhất là vun đắp cho mình có một đời sống chứng tá hiệu quả. Vì “chứng tá Kitô đích thực là hết sức cần thiết cho ngày hôm nay, vì con người thời nay tin các chứng nhân hơn các thày dậy” (1).
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, Cha đã muốn cho dân thành Ninivê bỏ đàng tội lỗi quay về với đời sống tốt lành thánh thiện và nhận ra lòng nhân từ của Cha. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha! Để cứu dân thành Ninivê, Cha đã giao cho ngôn sứ Giona sứ mạng thuyết phục họ thay đổi cách sống và Giona đã hoàn thành sứ mạng vô cùng khó khăn ấy. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đến trần gian để chinh phục hết mọi người, hết mọi tâm hồn. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa! Chúa đã gọi bốn môn đệ đầu tiên để Chúa giao cho các ông sứ mạng “lưới người như lưới cá”. Anrê và Simon, Giacôbê và Gioan đã trở thành những người chinh phục vĩ đại. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa!
Lạy Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Chúa cũng muốn chúng con đi theo Chúa Giêsu để chúng trở thành những người chính phục đồng bào chúng con tin vào Tin Mừng và gia nhập Hội Thánh Chúa. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa! Chúng con xin Chúa Thánh Thần hãy huấn luyện, nhào nặn chúng con, biến chúng con thành những kẻ lưới người thiện nghệ cho Nước Chúa ngày hôm nay! Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 08.01.2006. ……………. Chú thích: (1) Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn “Giáo Hội tại Châu Á”, số 42.
Trong bài giảng tại Trung Tâm Văn Hóa Công giáo Saigòn chiều 04.12.2005 của Đức Hồng Y Crescenzio Sepe cũng nói đến cách người Kitô hữu phải sống để có thể chinh phục những người chưa biết Chúa và chưa đón nhận Tin Mừng:
“Chúng ta không những là những Tiền Hô mà còn là những Chứng Nhân của Chúa Kitô nữa. Nhờ ơn Phép Rửa chúng ta đã nhận được vinh dự và trách nhiệm làm chứng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, bằng lời nói và việc làm. Thử hỏi chúng ta làm chứng Đức Tin Kitô của chúng ta như thế nào giữa các bạn đồng nghiệp, trong gia đình, nơi trường học và trong khu vực sinh sống? Thử hỏi chúng ta có đủ sức mạnh để thuyết phục được những người chưa tin Chúa không? thuyết phục được những người không yêu mến Chúa và những người có ý tưởng sai lạc về Người không? Đời sống của chúng ta có là chứng cứ hoặc ít ra là một dấu chỉ ủng hộ hay có lợi cho Chân Lý của Đạo Chúa Kitô không? Hội Thánh ở Việt Nam đã từng rất hãnh diện được xếp hàng thứ nhì sau Philippines về tỷ lệ người Công giáo, có còn giữ được chỗ đứng ấy không hay đã nhường chỗ ấy cho Giáo hội nào khác trong vùng? Tiền Hô và Chứng Nhân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm chứng và chỉ đường cho người khác đến với Chúa Giêsu.
“Trách nhiệm của chúng ta rất nặng nề, bởi vì là chứng nhân của Chúa Kitô trước hết đòi chúng ta phải có một tác phong tương xứng với giáo lý của Người, tiếp đến đòi chúng ta phải chiến đấu để cách ăn nết ở của chúng ta làm người ta nhớ đến Chúa Giêsu và gợi lên hình ảnh rất dễ thương của Người. Cách sống của chúng ta phải làm sao đó để những người khác có thể nói: người đó đúng là một Kitô hữu, bởi vì ông/anh ta, bà/chị ta không ghen ghét, biết cảm thông, không bị lôi kéo bởi lòng nhiệt thành thái quá, làm chủ các bản năng của mình; vì ông/anh ta, bà/chị ta hy sinh chính bản thân và thể hiện lòng yêu chuộng hòa bình và yêu thương người khác" (J. Escriva, E' Gesù che passa, 122).
Nhận được sứ điệp rao giảng thống hối cho dân thành Ni-ni-vê ngoại đạo, ngôn sứ Giô-na quyết định bỏ chạy trốn vì ông cho rằng chỉ có dân Chúa mới cần nghe sứ điệp thống hối. Ninivê là thủ đô của nước Át-sua, thù địch của Do thái vào thế kỉ thứ tám trước kỉ nguyên Thiên Chúa. Ninivê nằm bên tả ngạn sông Tigris, bên kia là thành phố Monsul hiện đại của nước I-rắc. Do đó mà Giôna không muốn cho dân thành Ninivê thống hối kẻo Chúa lại dủ tình thương xót mà tha thứ cho họ. Lần thứ hai ngôn sứ Giôna nhận lệnh Chúa để rao giảng cho dân thành Ninivê. Và lần này ông đã vâng lệnh Thiên Chúa. Việc Chúa sai Giôna đi rao giảng sứ điệp thống hối cho dân thành Ninivê cho thấy rằng Chúa là Thiên Chúa của mọi dân tộc, chứ không phải của riêng người Do thái như ông Giôna lúc đầu hẹp hòi lầm tưởng.
Vừa thoạt nghe ngôn sứ Giôna loan báo tai hoạ sẽ xẩy đến cho thành Ninivê: Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ (Gn 3:4), dân thành Ninivê lập tức ăn chay, mặc áo nhặm. Ðối với họ, việc ăn chay, mặc áo nhặm chưa đủ. Họ còn bỏ đường tội lỗi. Và điều đó mới là quan trọng. Câu chuyện Giôna rao giảng sứ điệp thống hối cho dân ngoại phải làm thức tỉnh thái độ tự mãn của dân được Chúa chọn. Nếu Thiên Chúa cho dân thành ngoại giáo Ninivê cơ hội ăn năn sám hối tội lỗi và họ sẵn sàng lắng nghe, và nếu dân thành Ninivê sẵn sàng trở về cùng Chúa thì tại sao dân được chọn trong Cựu ước cũng như Tân ước lại không làm như vậy mà trở về với Chúa?
Hôm nay trong sứ điệp Phúc âm, chính con Thiên Chúa là Ðấng cứu thế kêu gọi loài người sám hối: Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc Âm (Mc1:15. Khi nghe sứ điệp sám hối, các ông thuyền chài Simon Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đều từ bỏ nghề cũ, cắt đứt những liên hệ quá khứ để đi theo Chúa. Lý do khiến nhiều người bỏ ngoài tai lời kêu gọi sám hối là vì người ta không nghĩ đến chết. Nói đến chết người ta cho rằng sự chết chỉ xẩy đến cho người khác, chứ không xẩy ra cho mình, hay chưa xẩy ra cho mình. Lý do thứ hai khiến nhiều người bỏ qua việc sám hối vì họ cho rằng họ không trộm cướp, không ngoại tình, không giết người, không bỏ lễ Chúa nhật. Ðể có được tâm tình sám hối, điều thiết yếu là nhìn vào đời sống nội tâm để tìm căn nguyên cội rễ của tội như ghen tuông, hận thù, giận ghét, nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, tức bực, kiêu hãnh, gian tham... Ðó là những rác rưởi của tâm hồn. Nếu khi dọn nhà, ta cần cho đổ rác vì không muốn ngửi mùi hôi, thì khi dọn nhà tâm hồn, ta cũng cần đổ rác rưởi trong tâm hồn.
Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế về Phụng vụ thánh có khẳng định: Giáo hội loan truyền sứ điệp cứu rỗi cho những kẻ không tin để mọi người nhận biết một Thiên Chúa duy nhất và chân thật cùng Ðấng Ngài sai là Ðức Giêsu Kitô, và thống hối, từ bỏ con đường của họ (PV # 9). Tuy nhiên Công Ðồng cũng xác định trong cùng một văn kiện là: Còn đối với các tín hữu, Giáo hội phải luôn rao giảng đức tin và sự thống hối (PV # 9). Sứ điệp thống hối hay sám hối thích hợp cho mọi thời đại, mọi hoàn cảnh và mọi lớp người. Sám hối là từ bỏ đường tội lối cũ, trở về với Chúa. Sám hối không có nghĩa là việc đổi mới bên ngoài, nhưng là việc hoán cải nội tâm, có ảnh hưởng sâu rộng trong tâm hồn. Sám hối khác với mặc cảm tội lỗi và không phải là mặc cảm tội lỗi. Khi xưng thú tội lỗi với lòng chân thành từ bỏ, mà được tha thứ là tội được tha, không cần phải hồ nghi, lo lắng xem tội có được tha hay không. Tuy nhiên người tín hữu đạo hạnh nên khơi dậy và duy trì tâm tình sám hối.
Ðem ý tưởng sám hối đền tội vào việc làm, nhất là việc làm mà mình không thích hay việc chịu đựng những trái ý sẽ giúp cho việc làm hay việc chịu đựng trở nên nhẹ nhàng. Ðó là việc mà thánh nữ Têrêsa hài đồng đã sống, được ghi lại trong chuyện Một Tâm Hồn. Chuyện kể rằng khi ngồi giặt quần áo, có một chị bạn vì ghen tuông, đã làm bắn bọt sà bông vào quần áo chị Têrêsa, thánh nữ Têrêsa không phản đối, nhưng chịu đựng vì yêu mến Chúa, coi bọt sà bông như những cánh hoa hồng dâng lên Chúa, để cầu nguyện cho kẻ tội lỗi được ơn trở lại. Thánh Têrêsa đã biết kết hiệp với Chúa trong công việc làm hằng ngày. Sống trong nhà kín, khi qua đời mới hai mươi bốn tuổi xuân, chưa thể viết sách để hệ thống hoá một nền thần học kết hiệp, thánh nữ Têrêsa chỉ biết sống và thực hành tinh thần kết hiệp. Việc làm của thánh nữ còn là việc hoạt động truyền giáo, mặc dầu chỉ sống trong nhà kín.
Tâm tình sám hối rất là quan trọng trong đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Có được tâm tình sám hối, người ta sẽ nảy sinh ra hai tâm tình khác. Ðó là tâm tình khiêm tốn, coi mình là yếu hèn và tội lỗi. Và chỉ khi nào người ta coi mình là yếu hèn và tội lỗi, người ta mới cảm thấy cần Chúa và đi tìm Chúa. Có được tâm tình sám hối, người ta sẽ nảy sinh ra tâm tình thứ hai là tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa đã đoái thương, tha thứ tội lỗi cho mình, và biết ơn Chúa đã đoái thương đến thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Và có được tâm tình sám hối và những tâm tình đi theo là khiêm tốn và biết ơn rồi, người ta sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa trong đời sống hằng ngày và dễ dàng khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống và người ta sẽ cảm thấy vui sống đức tin.
Lời cầu nguyện: xin cho được ơn sám hối: Lạy Chúa, Chúa muốn cho người tội lỗi ăn năn trở lại để được sống.Xin cho tội nhân nhận thức được tội lỗi họ đã xúc phạm đến Chúa. Cũng xin cho họ biết đáp lại sứ điệp sám hối để họ được nhận lãnh ơn tha thứ. Và xin cho con cũng luôn ý thức được rằng con cũng cần sám hối và lòng thứ tha của Chúa. Amen.
-------------
Lưu ý: Góp ý xin được đón nhận về địa chỉ: trongtb@yahoo.com
Sau khi ông Gioan bị nộp, Chúa Giêsu đến miền Galilêa rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa và nói: "Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần, Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." Chúng ta phải loại ngay hai thành kiến. Thứ nhất: sự hoán cải không phải chỉ qui chiếu về những kẻ không tin, hay là về những kẻ nói mình là "thế tục"; Tất cả chúng ta bất kể phân biệt cần phải hoán cải. Thứ hai: sự hoán cải, hiểu theo nghĩa tin mừng đích thực, không phải đồng nghĩa với sự cam chịu, sự cố gắng và sự buốn phiền, nhưng đồng nghĩa với sự tự do và vui mừng; đó không phải là một tình trạng thoái lui nhưng cấp tiến.
Trước Chúa Giêsu, hoán cải luôn có nghĩa là "lui lại" ( tiếng Hy bá, "shur," có nghĩa là tiến trình ngược lại, trở lui lại trên những bước đi của mình). Hoán cải chỉ một hành vi của người, trong một lúc sống nào đó, nhận thấy mình không "theo tiến trình"; lúc đó, họ dừng lại, suy xét lại, quyết định thay đổi thái độ và trở về sự tuân giữ luật và Giao Ước với Chúa. Họ làm một thay đổi thật sự chiều hướng, một "U-turn." (đi quay trở lại) Trong trường hợp này sự hoán cải có một ỳ nghĩa luân lý; đó là sự thay đổi những tập quán, sự hình thành lại cuộc sống của mình.
Ý nghĩa này thay đổi trên môi miệng Chúa Giêsu. Hoán cải không còn nghĩa trở lui về Giao Ước cũ và tuân giữ luật; đúng hơn, hoán cải có nghĩa làm một bước nhảy vọt vĩ đại và vào Vương Quốc, bám chặt vào sự cứu rỗi đến với con người một cách nhưng không, do sáng kiến tự do và toàn quyền của Thiên Chúa.
Sự hoán cải và sự cứu rỗi đã thay đổi chỗ đứng. Không còn. như trước, sự hoán cải của con người và do đó sự cứu rỗi như là phần thưởng của Thiên Chúa; đúng hơn, sự cứu rỗi là thứ nhất, như là sự cống hiến quảng đại và nhưng không của Chúa, và sau đó sự hoán cải là sự đáp ứng của con người. Đó là "tin mừng," đặc tính vui mừng của sự hoán cải tin mừng. Thiên Chúa không đợi con người đi bước đầu, thay đổi nếp sống của mình, làm những việc lành, dường như sự cứu rỗi là sự đền bù cho những cố gắng của họ. Không; ân sủng đi trước, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Trong sự này, Kitô giáo khác với tất cả các tôn giáo khác: nó không bắt đầu với sự rao giảng nhiệm vụ nhưng ân huệ; nó không bắt đầu với luật, nhưng với ân sủng.
"Sám hối và tin": Do đó câu này không có nghĩa là hai sự khác biệt và kế tiếp, nhưng cũng một hành động cơ bản: Hoán cải, tức là, tin! Bởi tin, nên được hoán cải. Đức tin là cửa qua đó người ta vào Vương Quốc. Nếu có nói rằng: cửa là sự vô tội, cửa là sự tuân giữ đúng tất cả các giới răn, cửa là sự nhẫn nại, sự trong sạch, người ta có thể nói: đó không phải cho tôi; tôi không vô tội, tôi thiếu nhân đức này hay nhân đức kia. Nhưng chúng ta được nói: cửa là đức tin. Bất cứ ai đều có thể tin, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta tự do và thông minh chính là để chúng ta có thể tin vào Người.
Đức tin có những mặt khác biệt: Có đức tin tán thành (faith-assent) của lý trí, có đức tin phó thác (faith-trust). Trong trường hợp của chúng ta, đó là một đức tin chiếm đoạt (faith-appropriation), nghĩa là, một hành vi qua đó người ta chiếm đoạt cho mình một cái gì, hầu như bằng sự cao ngạo. Thánh Bernard cũng sử dụng động từ chiếm hữu (Usurp): "Điều tôi không thể tự mình chiếm hữu, tôi chiếm hữu từ phía Chúa Kitô!"
"Hoán cải và tin" một cách chính xác có nghĩa là, làm một thứ hành động thình lình và chân thật. Với sự đó, cả trước khi làm một cố gắng và lập công nghiệp, chúng ta được ơn cứu rỗi, chúng ta cũng chiếm đoạt cho chúng ta một "vương quốc." Và chính Thiên Chúa Đấng mời chúng ta làm như vậy, Người thích thấy tính chất thông minh này, và Người là kẻ đầu tiên kinh ngạc vì "có ít kẻ đáp ứng."
"Hoán cải!" như chúng ta thấy không phải là một sự đe dọa, một sự làm cho người ta buồn rầu và bắt buộc người ta đi với cái đầu cuối xuống, như vậy cần phải lâu hơn nữa. Ngược lại, đó là là một sự cống hiến kỳ lạ, một sự mời tới tự do và vui mừng. Đó là "tin mừng" của Chúa Giêsu cho những con người của mọi thời đại.
Bạn” muốn nói đến ở đây, là những người được mượn hoặc thuê để cùng theo chủ thuyền ra: TN3-B26
“Bạn” muốn nói đến ở đây, là những người được mượn hoặc thuê để cùng theo chủ thuyền ra khơi đánh bắt cá. Điều kiện tiên quyết đòi hỏi nơi họ, là phải quen với sóng nước, có sức khoẻ và siêng năng, để có thể giúp chủ thuyền một cách tốt nhất. Hôm nay, Chúa Giê-su chọn thuyền trưởng và các “bạn thuyền” để phục vụ trong vụ đánh bắt các linh hồn: “Từ nay anh em sẽ thành kẻ lưới người !”
Để ý hơn chút nữa, chúng ta thấy hai tuần mở đầu Mùa Thường Niên, Phụng Vụ Lời Chúa trình bày liên tiếp hai tình huống kêu gọi thoạt nghe có vẻ không trùng khớp. Thực ra cả hai tác giả đều chỉ muốn nhấn mạnh đến việc Chúa gọi và chọn Phê-rô: ở trình thuật Gio-an, đó là sự chỉ định rõ ràng, đích danh; ở Mác-cô – môn đệ và người ghi chép lại lời giảng của Phê-rô – lại xếp Phê-rô là người được gọi đầu tiên. Ở tình huống nào cũng vậy: Phê-rô được chọn làm thuyền trưởng và tất cả được Chúa gọi làm “bạn thuyền” cho Người Chủ là chính Chúa !
Có nhiều tiếng gọi và cũng có nhiều cách đáp trả.
Tay đua người Úc chết trên đường đua Paris – Dakar vừa qua, không phải là người đầu tiên, mà là người thứ 23 trong 28 năm tồn tại của giải đua khắc nghiệt này không phải “sinh nghề tử nghiệp”, mà chỉ để thỏa chí chinh phục. Cái chết vẫn chẳng hề làm chùn bước những tay đua của các đội xe và cuộc đua tiếp tục sau vài phút mặc niệm như chưa hề có gì xảy ra. Ngoài lợi ích quảng cáo của các đội, cũng là các hãng xe danh tiếng, thì rõ ràng các tay lái nghe theo tiếng gọi của đam mê. Bao nhiêu ngày tháng tập luyện hết sức cam go, bao chế độ kiêng khem và cuối cùng đổ bao mồ hôi và cả máu, để thực hiện đam mê của mình, mà những ngườI ngoại cuộc nhiều lúc sẵn sàng cho là điên khùng, vô công rỗi nghề !
Cũng trong thờI gian ấy, hàng triệu tín đồ đạo Hồi lũ lượt kéo nhau về thánh địa Mecca, chỉ để thực hiện bổn phận thiêng liêng, là ít nhất một lần trong đời hành hương “về nguồn”, được tận tay ném đá vào ba cái cột tượng trưng cho sự dữ và cám dỗ xấu xa, cho dù không chỉ vất vả và tốn kém vô cùng, mà không có năm nào lại chẳng xảy ra chết chóc do dẫm đạp lên nhau và tai nạn đủ kiểu đủ cách. Năm nay cũng không ngoại lệ: trên ba trăm người chết và hàng trăm người bị thương, song chưa hề nghe một tín đồ nào thắc mắc hay phàn nàn. Nếu không ở trong não trạng ấy – tiếng gọi của niềm tin – thì không thể hiểu được và sẽ cho ngay đó là cuồng tín, là quá khích.
Một tiếng gọi khác không kém mãnh liệt, tiềm ẩn trong mỗi sinh vật, cả nơi con người lẫn thú vật, nhiều khi không thể giải thích nổi, như một hoài niệm, nhưng bùng phát ngay khi có cơ hội. Đó là điều mà nhà văn Mỹ Jack London đã nói lên trong cuốn “Tiếng gọi hoang dã”, khi nhìn con sói thuần dưỡng trải qua bao do dự, để rồi cuối cùng không thể nào cưỡng lại được tiếng gọi cội nguồn, cho dù nơi này là cuộc sống bình yên, ấm áp, no đủ, trong khi ngoài kia là giá rét, đói khát, bất định và hiểm nguy. Không chỉ vì sự tự do ( mà La Fontaine nói đến trong thơ ngụ ngôn của ông, về một con sói chấp nhận gầy gò đói khát, hơn là được cho ăn mập ú no nê, nhưng cổ hằn vòng xích trói buộc giam hãm ), mà chính là “tiếng gọi cội nguồn”, đã khiến “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Và như câu hát thỉnh thoảng vẫn nghe: “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh”, dẫu cho ai đã từng đến Hà Tĩnh cũng thấy rõ vùng đất ấy “chó ăn đá, gà ăn sỏi”.
Thánh Âu-tinh cảm nhận được Tiếng Gọi và Cội Nguồn, khi nói: ”Linh hồn con thao thức mãi cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Và để tìm về “Cội Nguồn” và được nghỉ yên, thì việc đáp trả và thực hiện theo Tiếng Gọi, lại là điều kiện ắt có và đủ ( sine qua non ). Theo ông tổ ngành phân tâm học Sigmund Freud, đó là vô thức nơi mỗi con người, muốn trở về lại trong “bào thai” ấm áp, an toàn và càng “cọ xát”,đ đau khổ, mệt mỏi giữa cuộc đời trần thế này, con người càng mơ ước được về lại trong “bào thai”. Trong đức tin, cuộc đời của mỗi tín hữu cũng khát khao tìm về cái “bào thai”, cái “Nguồn Cội” vĩnh cửu là Nước Chúa, là Tình Yêu Chúa, nhưng không phải bằng mơ ước hay bằng tiềm thức, để rồi vẫn chỉ là mơ ước, ẩn kín vô thức và không bao giờ đạt được, mà bằng chính hành động, bằng chính sự đáp trả Tiếng Gọi và nỗ lực sống trọn vẹn đời sống Đức Tin, để cuối cuộc đời tìm về lại Vườn Địa Đàng đã đánh mất ( le Paradis perdu ), về bên Tình Yêu Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, nơi đó có bình yên, ấm êm hạnh phúc và yêu thương.
Trong nguyên ngữ La-tinh, “passio” ( từ đó, tiếng Pháp là tiếng Anh có “passion” ) có nghĩa là đam mê, song cũng có nghĩa là “chịu đau khổ”: khi đã chọn lựa nghe theo Tiếng Gọi để tìm về Cội Nguồn, thì ta phải chấp nhận những mất mát, hy sinh, khổ đau và phải thay đổi tư duy, thay đổi hành vi, để làm sao không bị vật chất níu kéo ràng buộc, không chùn bước trước hiểm nguy, hy sinh và không so đo tính toán, không băn khoăn hối hận.
Không có sự gì muốn đạt được, mà không có cái giá phải đổi hoặc phải trả. Đam mê luôn song hành với khổ đau, hy sinh: một lực sĩ ngoài tập luyện cam khổ, còn phải kiêng khem đủ điều và theo một chế độ ăn uống nghiêm ngặt. Cô bé Đỗ Ngân Thương vô địch toàn năng SEA Games 23, mỗi lần trông thấy một que kem, đều phải nhắm mắt rảo chân bước nhanh, vì chỉ cần “sa chước cám dỗ” mà thử một lần – một lần thôi – thì thân thể sẽ mập ra và tăng cân, khiến bao công lao khổ luyện đổ sông đổ biển. Lực sĩ thể hình Phạm Văn Mách hơn nửa năm trời ăn nhạt, thấy hạt muối còn thèm hơn bất cứ thứ gì trên trần gian, nhưng biết rằng chỉ cần nếm vào một chút – một hạt muối thôi – thì các cơ bắp nhão ra, bao công lao tập tành sẽ nên uổng phí.
“Passio” là từ thường đựợc dùng để chỉ “Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su”: làm thế nào Ki-tô hữu có thể cho rằng mình sẽ thong dong, thoải mái khi chấp nhận đáp trả Tiếng Gọi của Chúa, tránh né mọi hy sinh, ghê sợ thập tự giá, trong khi chính người kêu gọi – Chúa Giê-su – lại đã trải qua ngần ấy khổ đau để thực hiện Thánh Ý Chúa Cha ? Có phải chúng ta đang ngã giá với Chúa ? Có phải chúng ta đang chơi trò “bị mắt bắt dê”, tự lừa dối mình và muốn dối gạt cả Chúa ? Hay là không hề có chút gì “đam mê” trong sự lựa chọn, đáp trả của chúng ta ?
Cuối cùng, hãy đừng quên: nghe theo tiếng gọi, dấn thân theo Chúa, chúng ta vẫn chỉ là những “bạn thuyền”, lao động cật lực, để từ những kết quả có được, chủ sẽ trả công cho. Luật lệ trên tàu thuyền bất thành văn, nhưng vô cùng khắt khe: ngày xưa thủy thủ phản bội, nổi loạn chống lại thuyền trưởng, thì hình phạt duy nhất là tử hình, cho dù trốn đi nơi đâu ! Ngày nay, ”bạn thuyền” mè nheo, đòi hỏi và ươn lười, thì chỉ còn cách đổi nghề và đổi xứ, bởi sẽ chẳng còn ai coi ra gì. Số phận ấy không chỉ dành cho Giu-đa, mà cho hết thảy những ai nghe tiếng gọi, mà vẫn cố bám lấy ý riêng mình, không chấp nhận mất mát hy sinh. Không lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi, Ki-tô hữu vẫn chỉ là loại... “chầu rìa”. Nghe tiếng gọi, đáp trả mà chẳng mấy hứng thú, say mê, thì vẫn chỉ là Ki-tô hữu hạng hai ! Nước Trời lại không dung nạp các loại công dân Ki-tô-hữu “chầu rìa” và “hạng hai” ! NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 136
Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.
I. NgỮ cẢnh
Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại: TN3-B27
Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê, cc.14-15) và phần đầu của hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (cc. 16-20).
II. BỐ cỤc
Bản văn gồm hai đoạn nhỏ có thể văn khác nhau:
Một “bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
nơi chốn và thời gian (c. 14a),
chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15);
Bài tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20):
Đức Giêsu thấy (cc. 16.19),
Đức Giêsu gọi: đến, theo (cc. 17.20a),
Các ông đáp: từ bỏ và đi theo (cc. 18-20b).
Nguời ta thường coi “bộ ba” Gioan Tẩy Giả – Phép Rửa – Cám Dỗ như một phần Mở của TM Mc, còn “bản tóm tắt” là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Toàn bản văn chúng ta đang khảo sát là phần khai mạc sứ mạng của Đức Giêsu với khởi đầu công việc rao giảng của Người và việc kêu gọi các môn đệ. Trong Mc, có nhiều đoạn nhắc lại và nối kết hai điểm này: x. 3,7-12.13; 6,6b.7-12).
Tuy nhiên, người ta cũng có thể coi 1,1-15 là một khối, được đóng khung bởi hai từ “Tin Mừng” (cc.1 và 15) (x. Gnilka). Sang phần kế tiếp, tác giả đưa vào một phần mới với “biển hồ Galilê”. Như thế, có thể nói, nhờ lối cấu trúc đóng khung, ta hiểu lúc đầu Tin Mừng được giới thiệu tổng quát, sau sẽ được giới thiệu chi tiết.
Các câu 14-15 long trọng giới thiệu các lời nói đầu tiên của Đức Giêsu theo Mc, do đó, cần lưu ý đến tầm quan trọng của những lời này. Trong Mt và Lc, Đức Giêsu đã nói trước khi đi vào đời sống công khai: qua ba mẩu đối thoại với quỷ (Mt 4,3-10; Lc 4,3-12); trước đó, Mt 3,14-15 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Gioan Tẩy Giả, còn Lc 2,48-49 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Đức Maria tại Đền Thờ. Những lời đầu tiên của Đức Giêsu có ý nghĩa đối với nền thần học Mt và Lc, thì hẳn cũng có ý nghĩa đối với nền thần học Mc... Nhưng bản văn song song đích thực chính là lời nói công khai đầu tiên của Đức Giêsu được ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại:
a) So sánh Mc với Mt
Mt 4,17
Mc 1,14-15
Đức Giêsu rao giảng
Đức Giêsu bắt đầu rao giảng
Tin Mừng của Thiên Chúa Thời kỳ đã mãn
Anh em hãy sám hối
vì Nước Trời đã đến gần
Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng
Công thức của Mt thì ngắn và mờ nhạt hơn công thức của Mc. Điểm nòng cốt (Nước Thiên Chúa và hoán cải) được đóng khung bởi hai yếu tố bổ sung: “thời kỳ đã mãn”, và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”.
Ngay trong bản văn Mt, câu nói ngắn ngủi của Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả nói trước đó: Tác giả Mt dùng cách đó để khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng (việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Thầy). Nhưng vì thế, khi so sánh với bản văn Mt, ta thấy bản văn Mc phong phú hơn, độc đáo hơn, đặc biệt với từ “Tin Mừng” đặt trên môi miệng Đức Giêsu.
b) So sánh Mc với Lc (Lc 4,14-15):
Tác giả Lc nói rằng Đức Giêsu giảng dạy nhưng không ghi lại một lời nào của Ngài; ngược lại, ngay sau đó, trong câu truyện hội đường Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu đọc đoạn văn Is 61, mà theo Lc, là cả môt chương trình. Mà Lc lại dùng động từ “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai) (Lc thích dùng động từ này hơn là danh từ “Tin Mừng”). Đây là điểm song song đáng lưu ý với bản văn Mc. Trong cả hai bản văn, quang cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một Tin Mừng.
Mc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “Tin Mừng” (Hl. euangelion) khi ngài dùng từ này mà đóng khung bản văn của ngài: “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Từ ngữ “Tin Mừng” được lặp lại ba lần để đóng khung hai đoạn văn trong cùng một phân đoạn, khiến ta hiểu đây là “từ chìa khoá” vừa của phần Mở vừa của “bản tóm tắt”. Đàng khác, nếu từ “Tin Mừng” đóng khung những lời nói đầu tiên của Đức Giêsu, điều này có nghĩa là, muốn hiểu những lời này, ta phải đi từ “Tin Mừng”.
III. Vài điỂm chú giẢi
- Tin Mừng (14.15): Tác giả dùng từ ngữ “Tin Mừng” ở dạng tuyệt đối (= không có bổ ngữ theo sau) 5 lần, mà ta có thể phân phối thành hai loạt: trong quan hệ với việc rao giảng cho Dân ngoại (13,10; 14,9; 16,15) và khi nói về việc các môn đệ bị bách hại và phải biết hy sinh (8,35; 10,29).
Trong hai bản văn cuối cùng, đáng lưu ý là “Tin Mừng” được đặt song song với Đức Giêsu: “vì tôi và vì Tin Mừng”, y như là một sự đồng hoá. Tin Mừng được nói đến y như là một nhân vật. Trong tác phẩm Mt, từ ngữ này chỉ được dùng 3 lần trong thuật ngữ “Tin Mừng về Nước Trời”, còn Lc thì không bao giờ sử dụng. Hẳn đây là sáng kiến của riêng tác giả Mc. Nhưng cũng rất có thể là ngài đã nhận lấy ý niệm này từ Phaolô, vì vị tông đồ đã sử dụng từ ngữ “Tin Mừng” khoảng 60 lần, và có tới khoảng 30 lần dùng từ ngữ này ở thể tuyệt đối (Các bản văn chính: 1 Tx 2; 1 Cr 9; Rm 1; 15; Pl 1 và 4). Từ ngữ này có nhiều nghĩa:
việc loan báo một sứ điệp hạnh phúc: nội dung của sứ điệp này;
hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô nơi Dân ngoại;
giá trị tối cao mà thánh Phaolô phải đón nhận vì vượt quá ngài vô cùng;
nhất là, đây luôn luôn là một thực tại sống động, năng động, một biến cố đang diễn tiến: sự xuất hiện của vinh quang (2 Cr 4,4), sự mạc khải đức công chính của Thiên Chúa đang hoạt động để cứu độ loài người (Rm 1,16). Phaolô có thể nói rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa quyền năng do phục sinh từ cõi chết” (Rm 1,4) hoặc Tin Mừng là “quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin” (Rm 1,16). Nhìn theo quan điểm cứu độ, Phaolô cũng như Máccô đồng hoá Đức Giêsu và Tin Mừng (so sánh Mc 1,14-15 với Rm 1,1-5.16).
Các độc giả của Phaolô, sống trong đế quốc, đã quen với những từ ngữ như “quang lâm”, “giáng lâm”, “tiền hô”, “công bố” (Hl. kêrygma)… Nhưng tư tưởng của Phaolô không bắt nguồn trực tiếp từ nghi thức đón tiếp hoàng đế, mà là từ một nền tảng Cựu Ước: từ các câu chuyện các vua Saun, Đavít và Salômôn (x. 1 Sm 31; 2 Sm 1,4; 1 V 1) trong đó Tin Mừng có ý nghĩa là chiến thắng, giải phóng, sự hiển ngự của một vị vua. Đặc biệt từ sách Sách Yên Ủi Ít-ra-en (Is 40–55) trong đó có từ ngữ “Tin Mừng”: hai lần ngài đã qui về Is 52,7 (x. Rm 10,15; Ep 6,15). Sách II Isaia đã dùng từ “Tin Mừng” mà áp dụng cho một biến cố cụ thể: biến cố giải phóng những người lưu đày, nhờ chiến thắng của vua Kyrô và sắc lệnh cho phép họ hồi hương và tái thiết Đền Thờ. Khi giải phóng Dân Ngài, Đức Chúa (Yhwh) tỏ ra cho Dân ngoại thấy Ngài là Đấng Cứu độ đầy quyền lực, là Đấng công chính, Đấng yêu thương. Thiên Chúa đã thiết lập triều đại của Ngài khi tích cực can thiệp mà cứu độ Dân Ngài và tỏ mình ra cho họ. Vậy Tin Mừng là việc công bố cho muôn dân biết cuộc đăng quang này của Thiên Chúa.
Đối với Phaolô và cả Mc nữa, Tin Mừng là một cuộc đăng quang hoàng đế, là một triều đại bắt đầu (x. Rm 1,1-4). Nhưng nếu Phaolô đặt biến cố đăng quang vào lúc Đức Giêsu chết và sống lại, Mc lại đưa biến cố ấy ra trước, đặt vào đời sống công khai của Đức Giêsu. Đối với Mc, quyền lực của Đấng Phục Sinh đã được bày tỏ cách kín ẩn trong những lời nói và việc làm của Đức Giêsu trần thế. Được loan báo trong bản tóm tắt, Tin Mừng sẽ được bung ra trong những bài tường thuật kế tiếp: lời rao giảng với uy quyền, cuộc chiến đấu chống Satan, các phép lạ và, có thể, trước tiên, việc chọn lựa các môn đệ. Từ đó, biến cố cứu độ khởi đầu cho Triều Đại của Thiên Chúa (“Tin Mừng của Thiên Chúa”: Mc 1,14) chính là bản thân Đức Giêsu (“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”: 1,1) đang hành động và rao giảng, Ngài chính là “Triều-Đại-hiện-thân” (Origiênê). Như Phaolô nói, và như Mc đã hiểu rất đúng: Tin Mừng của Thiên Chúa, chính là Con của Ngài. Và Đức Giêsu có thể nói: “Triều Đại (Nước Thiên Chúa) đang ở đó” bởi vì chính Người đang ở đó.
Sự song song giữa hai bản văn của Phaolô (Rm 1,1-5 và 1,16-17) và Mc (Mc 1,14-15) còn cho thấy một yếu tố khác nữa: lời đáp của con người với biến cố cứu độ hệ tại một thái độ duy nhất, đức tin. Hoán cải, chính là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Tin Mừng và dấn thân phục vụ Tin Mừng.
- Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ: Trong Mt, có một bản văn hầu như tương tự bản văn Mc, còn trong Lc, hoàn cảnh khác hẳn: đây là một bản văn độc đáo với ba yếu tố: giảng dạy đám đông, mẻ cá lạ lùng và việc kêu gọi Phêrô. Có thể nói bài tường thuật về việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên đã có trong truyền thống ở dạng độc lập.
Đọc lướt qua, chúng ta có ấn tượng đây là một sự kiện tầm thường. Đọc kỹ hơn, ta thấy hoàn cảnh không đơn giản mấy. Trong thực tế, có hai bài tường thuật nhỏ, khá giống nhau, ta có thể đọc riêng rẽ, nhưng chúng được nối kết với nhau về thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh, làm thành một khối rất thống nhất.
Nói là hai bài tường thuật vì các đoạn văn này được xây dựng theo cùng một mẫu, theo cách lược đồ (làm bảng nhất lãm thì thấy rõ). Ta có thể đọc thêm bài tường thuật về ơn gọi của Lêvi (x. 2,14) để thấy những đặc điểm tương tự.
Phêrô-Anrê
Giacôbê-Gioan
Lêvi
1.
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê
Đi xa hơn một chút
Đi ngang qua (trạm thu thuế)
2.
Người thấy Simon với em là Anrê
Người thấy Giacôbê với người em là Gioan
Người thấy Lêvi con Anphê
3.
đang quăng lưới xuống biển vì họ làm nghề đánh cá
đang vá lưới ở trong thuyền
đang ngồi ở đó (trạm thu thuế)
4.
Người bảo Các anh hãy theo tôi (tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá)
Người liền gọi các ông
Người bảo ông Anh hãy theo tôi
5.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới
Và các ông bỏ cha mình là Dêbêđê (ở lại trên thuyền với những người làm công)
Ông đứng dậy
6.
mà đi theo Người
mà đi theo Người
đi theo Người
Có hai yếu tố không đổi: khi đi ngang qua, Đức Giêsu thấy ai đó với nghề nghiệp; Người kêu gọi, người ấy bỏ nghề, đi theo Ngài. Đây là cái khung trong đó ta chỉ cần thay đổi tên người được gọi và kiểu sống của kẻ ấy.
Trong thực tế, sự song đối không hoàn toàn sít sao. Nếu đọc các bài tường thuật từ trái qua phải, ta nhận thấy rằng, cứ sang một cột, lại mất đi một yếu tố. Nhưng dù cho hai bài tường thuật đầu vừa theo một lược đồ tương tự vừa có thể tách rời nhau, ta vẫn có thể nói rằng dường như chúng không được viết độc lập với nhau; trái lại, chúng bổ túc cho nhau rất khéo. Cho dù công thức “họ làm nghề đánh cá” được dùng cho Simôn và Anrê, ta vẫn hiểu rằng Giacôbê và Gioan cũng làm nghề ấy. Mỗi bài mô tả một phương diện của nghề đánh cá (quăng lưới; vá lưới) nhưng cả hai mới cung cấp một bức hoạ đầy đủ về nghề này.
Muốn biết bốn người đã bỏ gì lại, phải cộng các chi tiết của hai bài: lưới, thuyền, cha; nghĩa là: nghề nghiệp và gia đình. Nhưng đặc biệt hai câu 17 và 20 soi sáng lẫn nhau: Lời hứa “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” chỉ được ngỏ với Simôn và Anrê, nhưng rõ ràng cũng có liên hệ đến Giacôbê và Gioan. Câu “Người gọi các ông” (bản văn 2) không nhắc lại “Các anh hãy theo tôi” (bản văn 1). Câu 17 xác định đối tượng của việc Đức Giêsu kêu gọi (một sứ mạng), còn c. 20 giải thích lời mời gọi bước theo Đức Giêsu (một ơn gọi). Như thế, những chi tiết hơi khác nhau trong hai bài lúc đầu đã khiến người ta nghĩ đến những bài tường thuật tiểu sử, nhưng vì đặc tính đúc sẵn của chúng, có lẽ phải coi đây là một thể văn riêng. Nhiều nhà chú giải cho rằng bài tường thuật này đã dựa theo một bài mẫu là ơn gọi ngôn sứ Êlisa (x. 1 V 19,19-21). Những điểm giống nhau giữa hai bản văn cho thấy tác giả đã dựa vào sách 1 Vua, những chỗ khác nhau cho thấy rằng ngài cũng có quan điểm riêng của ngài.
l Giống nhau: Hai bản văn có cùng một cấu trúc, hầu như có cùng những từ ngữ giống nhau: Êlia (như Đức Giêsu) đi qua, gặp một người đang làm việc, mời người ấy đi theo mình. Người môn đệ mới liền bỏ nghề và cha mà đi theo Thầy. Trong trường hợp Êlisa, điểm thứ năm chi tiết hơn: ông huỷ tất cả những gì liên hệ với cuộc sống trước đây, và ông từ giã cha mẹ (= hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ). Điều lạ lùng là yếu tố này chỉ được nhắc lại trong một bài tường thuật về một ơn gọi hụt do Lc viết (9,61-62) ở cuối một chuỗi ba câu truyện (Mt chỉ ghi giữ hai truyện đầu: Mt 8,18-22): Ở đây ta gặp lại lời xin được từ giã gia đình và lời nói về “cái cày”. Như vậy, dường như truyền thống liên hệ đến ơn gọi của Êlisa, bằng ảnh hưởng trực tiếp nhưng cũng bằng tương phản, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác các bài tường thuật về ơn gọi trong Tin Mừng. Các điểm khác nhau còn cho thấy rõ điều này hơn.
l Khác nhau:
(1) Từ biệt cha mẹ. Câu trả lời của Êlia có thể có vẻ hàm hồ, nhưng Do-thái giáo coi lời ông như một lời cho phép. Còn trong ba bài tường thuật của Lc (9,57-62), Đức Giêsu không chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào. Trong cuộc kêu gọi các ngư phủ, không hề có lời nào cho thấy họ xin từ biệt cha mẹ. Ngược lại, mọi sự đi theo chiều hướng một sự đoạn tuyệt tận căn.
(2) Êlia “gặp thấy” Êlisa gần như do tình cờ và dùng một cử chỉ mà mời ông đi theo. Ngược lại, Đức Giêsu “thấy” những kẻ Người gọi, một cái nhìn diễn tả một sự lựa chọn trước; ngoài ra, Người còn nói một lời (“Hãy theo tôi”) chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người.
(3) Êlisa đi theo Êlia chỉ như một người tôi tớ; còn bốn người được Đức Giêsu kêu gọi, thì được Người cho biết sẽ giao cho họ một sứ mạng. Các từ ngữ gợi ý một sự chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trong thực tế Đức Giêsu xác định một sự thay đổi hoàn toàn chiều hướng sống.
Lời Đức Giêsu làm cho bốn ông trở thành “ngư phủ lưới người” chính là trọng tâm, xoay quanh đó là bài tường thuật ơn gọi nhằm một sứ mạng. Chúng ta nhận thấy có những điểm nổi bật:
Sáng kiến của Đức Giêsu cho thấy uy quyền tối cao và tính hữu hiệu của lời Người. Không phải là người môn đệ đi tìm một vị thầy dạy suy tư, nhưng là Đức Giêsu đi bước trước. Như Yhwh đã thấy Môsê, đã nhận ra Giêrêmia, Đức Giêsu thấy, chọn và gọi những kẻ Người muốn. Ngay từ đầu, Người đã xử sự như Tôn sư và Chúa tể.
Lời đáp của kẻ được gọi: tuyệt đối vâng lời Đức Giêsu, như trường hợp các ngôn sứ; đoạn tuyệt trọn vẹn với hoàn cảnh trước đó (gia đình và nghề nghiệp); dâng mình hoàn toàn cho Đấng kêu gọi để sống với Người một cuộc sống mới.
Đức Giêsu kêu gọi để giao phó một sứ mạng. Đối với Giáo Hội tiên khởi, bài tường thuật này là nền tảng cho quyền bính tông đồ. Sứ mạng của các ông không đến từ các ông, nhưng từ một tiếng gọi và nó bén rễ trong sự kiện các ông đã bước theo Đức Giêsu.
- “Kẻ lưới người như lưới cá” (halieis anthrôpôn) (c.17): Tại Sumer (thiên niên kỷ iii) và tại Mari (thiên niên kỷ ii), trong một ngữ cảnh nói về chiến tranh, tấm lưới cá là một dụng cụ giúp đạt chiến thắng trên kẻ thù và là biểu tượng diễn tả việc Thượng Đế thực thi công lý. Trong nhiều bản văn ngôn sứ, đặc biệt Gr 16,16; Kb 1,14-15, ta thấy những tư tưởng và hình ảnh này liên hệ đến việc Yhwh phán xét Israel: trong dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-49), hình ảnh ám chỉ cuộc chọn lọc trong ngày tận thế. Nhiều cách diễn giải: “you will catch men as if you were catching fish” (Barrow Eskimo), “just like you catch fish, I will make catch men (San Blas), “give power to bring men” (Black Bobo), “make you become ones who are men bringers (Moré), “fishers who fish (or catch) men” (Bratcher & Nida).
- “Lập tức hai ông bỏ …”: Tác giả Mc chỉ áp dụng hai lần động từ Hl aphiêmi, “leave, abandon”; “rời bỏ, bỏ rơi” cho các tông đồ (ở đây và 14,50). Có lẽ ngài muốn nói: bỏ của cải mình cũng chẳng ích gì nếu lại bỏ rơi Đức Giêsu trước cái chết, hay chỉ “theo Người xa xa” (14,54). Kể từ việc tuyên xưng đức tin tại Xêdarê và lời loan báo Khổ Nạn lần đầu, Mc đưa vào vào đề tài con đường (x. 8,27. “Con đường” đánh dấu các chặng lên Giêrusalem: 9,33; 10,32). Nhưng trên con đường này, mặc dù đi đàng sau, các môn đệ không muốn theo Đức Giêsu tiến về cuộc Khổ Nạn. Ngược lại, người môn đệ chân chính, là anh mù Báctimê, khi đã thấy, thì theo Đức Giêsu trên con đường này (10,52). Kể từ nay, bước theo Đức Giêsu, chính là vác thập giá (x. 8,34). Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan chỉ thực sự đi theo Đức Giêsu khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. 1,38; 2,15), và hy sinh mạng sống “vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng” (8,35).
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Ngài. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
* Gọi bốn môn đệ đầu tiên (16-20)
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người. Ngoài ra, bởi vì ngoại trừ trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu không làm gì mà không có các môn đệ. Điều này có hai ý nghĩa:
1) Ngay khi xuất hiện, Đức Giêsu tạo lập một cọng đoàn, một gia đình (x. 3,20-35) gồm các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai đi” (3,14).
2) Các ông là những người tiếp nối công trình của Người, các ông phải làm chứng về những hoạt động của Người. Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.
l Kết luận
Vậy bài tường thuật về việc Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên này có một ý nghĩa thần học. Nhưng còn giá trị lịch sử thì sao? Dường như bài này đã gây nhiều vấn nạn, và các Tin Mừng viết sau (như Lc và Ga) đã trình bày việc kêu gọi đúng thực tế hơn. Dù vậy, bên kia tính chất lược đồ thần học, bài này cũng phản ánh những nét lịch sử:
Các môn đệ đã thực sống quanh Đức Giêsu (“bước theo, đi đàng sau” là động từ xác định quan hệ của một nhóm môn đệ với một vị thầy (Rabbi).
Con người Đức Giêsu có sức thu hút người ta đi theo Người vô điều kiện (nhiều đoạn Mc cho thấy như vậy).
“Bước theo” Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu.
Có thể coi câu nói “những kẻ lưới người” là câu nói của chính Đức Giêsu, vì không có bản song song trong truyền thống kinh sư Do-thái hay Hy-lạp.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Tác giả muốn nêu bật sự nối tiếp giữa cuộc đời Đức Giêsu và Giáo Hội. Cuộc đời Đức Giêsu được giới thiệu bởi một vị Tiền Hô “bị nộp”. Cuộc đời các ông cũng sẽ được mạc khải bởi một Đấng “bị nộp” và “sống lại”. Đọc câu truyện hôm nay, thực sự phải nhận ra, đây chính là Đấng Phục Sinh vừa xuất hiện trên bờ biển, liên kết con người vào Tin Mừng bằng lời quyền năng của Người. Kể từ nay, Galilê chính là toàn trái đất, và bốn vị tông đồ là cộng đoàn mênh mông gồm những người bước theo Đức Giêsu.
2. Người Kitô hữu hôm nay cũng là những người đã nhận được lời kêu gọi: “Hãy theo tôi”. Họ không tự ý ra trình diện Đức Giêsu, không thỉnh nguyện được tham gia vào công trình của Người. Đức Giêsu cũng không nhận họ như là những cộng sự viện có tiền lương và có thời gian ờ nhưng Người. Tiếng gọi của Người rất đòi hỏi, nhưng đưa lại trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc đời họ.
3. Đức Giêsu không đề nghị cho họ một chương trình đã được hoạch định sẵn, nhằm thuyết phục họ là dấn thân theo chương trình ấy là chuyện hợp lý. Người gọi họ đến với Người. Thật ra tiếng gọi của Người cũng là một mệnh lệnh: điểm qui chiếu và định hướng duy nhất cho họ là bản thân Đức Giêsu. Người đi trước họ, và họ phải bước theo Người. Nội dung cơ bản của tiếng gọi, tức của cuộc sống mới của các môn đệ, là sự quy hướng về Đức Giêsu, sự hiệp thông đời sống với Người. Người môn đệ ký thác vào sự hướng dẫn của Người.
4. Tiếng gọi này đặt người môn đệ vào trong một tương quan riêng tư với Đức Giêsu, làm cho người ấy trở nên thành viên của một cộng đoàn và tạo ra tương quan của người ấy với những người được gọi khác. Đi theo Đức Giêsu không phải là từng cá nhân riêng lẻ, nhưng là một cộng đoàn các môn đệ. Nhưng không phải là các môn đệ mà là Đức Giêsu, bàng tiếng gọi của Người, xác định ai thuộc về cộng đoàn này.
5. Tiếng gọi này là một lời mời để cho Người đào tạo: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Người trao cho họ một nhiệm vụ mới và Người chuẩn bị họ. Họ sẽ dẫn những người khác đi trên cùng một nẻo đường mà họ đang theo, tức sống hiệp thông với Đức Giêsu.
Tuần trước chúng ta đã đề cập đến ơn gọi của mọi người: Chúa muốn con người hợp tác với: TN3-B28
Tuần trước chúng ta đã đề cập đến ơn gọi của mọi người: Chúa muốn con người hợp tác với Chúa trong việc ban phát ơn cứu độ vì Chúa không muốn làm việc một mình. Tuần này chúng ta suy niệm việc Đức Giêsu khởi sự rao giảng Tin mừng cùng với lời kêu gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin mừng” để được vào Nước Trời và được hưởng ơn cứu độ Chúa thương ban.
Để thực hiện chương trình này, Chúa đã chọn một số người cộng tác với Ngài trong việc rao giảng này, trước hết Chúa đã gọi 4 ngư phủ đầu tiên làm tông đồ là Anrê và Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trông thấy các ông đang đánh cá, Chúa chỉ gọi các ông rất vắn tắt: “Hãy theo Ta”, thế mà các ông đã dứt khoát từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Thái độ từ bỏ dứt khoát của 4 tông đồ là mẫu gương đẹp cho mọi Kitô hữu. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa vẫn kêu gọi chúng ta theo Chúa, Chúa vẫn khích lệ chúng ta cố gắng sống xứng đáng một Kitô hữu chính danh. Muốn đáp lại lời mời gọi của Chúa, chúng ta cần phải nỗ lực làm việc, chịu đựng vất vả hy sinh, đôi khi phải hy sinh cả tính mạng để tỏ lòng trung thành với Chúa và xứng đáng là tông đồ của Ngài.
I. ĐỨC GIÊSU ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG.
1. Đề tài rao giảng.
Sau khi đã ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày trong hoang địa, Đức Giêsu bỏ xứ Giuđêa vì ở đây không thuận tiện cho việc rao giảng, nhất là sau khi Gioan bị bắt. Chúa trở về Galilêa để rao giảng Tin mừng vì ở đây dân chúng dễ chấp nhận lời Chúa hơn ; đàng khác Hêrôđê cũng ít biết đến Ngài nên không có gì đáng ngại.
Nội dung việc rao giảng của Đức Giêsu là: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”. Đức Giêsu loan báo cho họ biết thời giờ Thiên Chúa dự liệu đời đời để Nước Người trị đến thì nay đã đến. Thời giờ mong chờ Đấng Cứu thế đã hết, vì Đấng Cứu thế đã đến rồi. Chúa dạy họ hãy dọn lòng để thực hiện những điều kiện để được vào Nước đó.
Đây là hai điều kiện để được vào Nước đó:
a) Hãy sám hối.
Sám hối là một thái độ cởi bỏ những chướng ngại là tội lỗi, để sẵn sàng đón nhận những chân lý phải tin.
Sám hối là ăn năn thống hối về các lỗi lầm của mình. Theo nguyên ngữ, Metanoia có nghĩa là trở về, có ám chỉ một thái độ từ bỏ tâm trạng cũ, một não trạng xưa. Việc sám hối đây không phải chỉ bỏ một số tội lỗi, hay lo buồn về một hành vi quá khứ đáng tiếc, nhưng là quay trở về hoàn toàn. Từ quay trở về căn bản là trở về với Thiên Chúa, con người sẽ trở về với chính mình. Với thái độ quay trở về, thay đổi nào trạng cũ xưa, con người mới đáng đón nhận Tin Mừng từ Thiên Chúa ban cho.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi “Hãy sám hối”. Lời này được gửi đến ai ? Dĩ nhiên là gửi đến những người tội lỗi trước tiên, nhưng cũng gửi đến tất cả mọi người nữa, kể cả những người tốt lành. Việc sám hối đối với những người tội lỗi thì dễ hiểu, còn đối với người tốt lành thì khó hiểu, bởi vì họ không thấy có gì phải sám hối. Họ thấy lỗi của người khác rõ ràng, còn đối với họ thì rất mù mờ, họ có thể lên án người khác mà lại quên chính bản thân mình. Đúng như người ta nói:Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”: việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Truyện: việc mình thì quáng.
Thi sĩ La Fontaine, một nhà thơ ngụ ngôn của Pháp, có kể chuyện như sau: Một hôm, Chúa tể sơn lâm triệu tập cả triều thần nhà thú lại và phán bảo:
- Hiện nay tất cả chúng ta đều bị bệnh dịch hoành hành. Theo trẫm xét thấy thì hẳn có người đã phạm tội xúc phạm đến Thượng Đế. Bởi vậy, theo ý trẫm thì tất cả mọi người đều phải thú tội. Ai có tội nặng hơn cả thì phải làm con vật hy sinh đền tội. Có như vậy, mới mong Thượng Đế nguôi cơn giận, tha phạt cho toàn dân. Thế là mọi người đều lần lượt thú nhận tội lỗi.
Trước hết sử tử thú nhận hay ăn cừu, ăn nai, đôi khi ăn cả thịt người. Sau sử tử, các con thú khác cũng ra trước mặt mọi người thú tội một cách công khai.
Cuối cùng, một chú lừa hiền lành, khờ khạo, than rằng mình cũng có ăn một ít cỏ mà không xin phép chủ ruộng. Thế là cả hội đồng đứng lên la hét buộc tội chú lừa, cho chú lừa là kẻ phạm tội nặng nhất, là nguyên nhân của tai họa.
Lắm khi chúng ta cũng có thái độ của thú đối với người đồng loại của chúng ta. Tội ác đè nặng con nguời của chúng ta, chúng ta không thấy được. Nhưng một lỗi lầm nhỏ bé của người bên cạnh đã khiến chúng ta phẫn uất và lên án gắt gao.
Sám hối là nhận diện con người của chúng ta, và khi cảm nhận được lòng tha thứ của Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng tha thứ cho những người chung quanh. (Cử hành phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 117)
Con người sám hối trước hết phải thấy không hài lòng với chính mình và kế đó phải mong muốn cho mình được tốt hơn. Phải ý thức có một cái gì đó sai lạc hoặc ít ra là còn thiếu. Cảm nghiệm sám hối bắt đầu với sự nhận biết rằng mình chưa phải là con người hoàn thiện, mình chưa phải là điều mình phải là.
Sám hối cũng cần có một sự can đảm: can đảm nhận ra thực trạng của mình, can đảm phá bỏ con đường cũ để theo con đường mới, phải giết con người cũ để mặc lấy con người mới. Sự can đảm này rất cần thiết, bởi vì con người thường thích đi trên những đường xưa lối cũ, con người thường đã lún sâu trong những thói quen đã ăn sâu, cho nên thay đổi là rất khó.
Sám hối còn đòi con người biết hạ mình khiêm nhường nhận lỗi lầm của mình, không đổ lỗi cho người khác, con người biết cam đảm nói lên: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Khiêm nhường hạ mình xuống là một điều kiện để được Chúa ban ơn tha thứ.
Truyện: ma qủi và sám hối.
Một hôm Satan kêu trách Chúa rằng:
- Chúa thật là bất công ! Cụ thể là có rất nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế mà Ngài vẫn hay tha tội cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha thứ cho chúng. Còn tôi, tôi chỉ phạm tội không vâng lời Ngài duy chỉ một lần, thế mà Ngài kết án phạt tôi phải hoả ngục đời đời, và không bao giờ tha thứ cho tôi Bấy giờ Thiên Chúa ôn tồn nói với tên qủi kia rằng:
- Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người tội lỗi vì chúng khiêm tốn nhận mình là kẻ có tội, và hồi tâm sám hối, quyết tâm canh tân đời sống. Còn ngươi, từ ngày ngươi phạm tội kiêu ngạo bất tuân lời Ta và bị phạt trong hoả ngục đến nay, đã có bao giờ ngươi khiêm nhường nhận lỗi và hồi tâm sám hối để xin Ta tha thứ cho ngươi hay chưa ?
b) Hãy tin vào Tin Mừng.
Phải thi hành hai điều kiện thì mới được vào Nước Trời: Sám hối và tin vào Tin Mừng Nhưng Tin Mừng nào ?
Ở đây Marcô dùng một từ ngữ chuyên môn. Thoạt đầu chữ “Tin Mừng” gợi lên những buổi trọng đại trong đời sống xã hội. Sứ giả của nhà vua được sai đi thông cáo cho toàn dân thiên hạ biết những sự vui mừng có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc của họ. Nào là việc mới có một hoàng đế lên ngôi, ngài vừa có một thái tử, ngài lập đông cung thái tử lên chức kế vị ngai vàng, chẳng hạn... Đó là những Tin mừng vì mật thiết liên hệ đến đời sống ấm no của chư dân. Nhưng phần lớn, đó chỉ là những tin mừng chủ quan và hạn chế.
Tin Mừng đích thực cho mọi thời và mọi nơi đúng như lời các thiên sứ đã loan báo cho mục đồng là Chúa Cứu thế đã giáng sinh. Thành ra khi sách Tân ước dùng chữ Tin Mừng và giục chúng ta tin vào Tin Mừng, thì chúng ta phải hiểu đây chính là sứ điệp cứu độ: Thiên Chúa đã thi hành kế hoạch cứu thế của Ngài khi sai Con của Ngài đến chịu chết và sống lại cho loài người chúng ta. Đó là Tin Mừng của Thiên Chúa công bố trong thời đại cuối cùng. Và nội dung Tin Mừng ấy toàn nói về Đức Giêsu Kitô ; và cũng là chính Đức Giêsu Kitô. Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa là công bố kế hoạch cứu thế của Ngài trong Đức Giêsu Kitô, là công bố đới sống và sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô, là công bố chính Đức Giêsu Kitô. Nên Tin Mừng và Đức Giêsu Kitô cũng là một.
Vậy, đã có Đức Giêsu Kitô là sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng ; Ngài đã đến đất Galilêa dân ngoại để làm chứng Tin Mừng phải được mang đến cho các dân tộc. Hơn nữa Người đã rao giảng Tin Mừng khi thực hiện việc chịu chết và sống lại để cứu thế ; thì không những từ nay người ta phải hối cải và tin vào Tin Mừng, và hơn nữa phải có nhiều người đi rao giảng Tin mừng ấy.
(GM Nguyễn Sơn Lâm, Lời Chúa các Chúa nhật năm B, tr 244-245)
II. ĐỨC GIÊSU CHỌN 4 TÔNG ĐỒ ĐẦU TIÊN.
Đức Giêsu bắt đầu chức vụ công khai bằng rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tin Mừng này rõ ràng ngày càng liên hệ đến bản thân và chức vụ của Ngài. Thời gian tại thế ngắn ngủi mà ý định mà mọi người khắp thế giới phải được nghe Tin Mừng cứu độ. Vậy việc gọi và chọn môn đệ để huấn luyện và sai đi là cần thiết.
Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên vào thời gian trước ngày rao giảng và làm phép lạ tại Capharnaum. Các ông này là những người bình thường chuyên nghề đánh cá, tính tình thì mộc mạc dễ thương, không có cao vọng gì.
1. Chúa gọi Phêrô và Anrê.
Từ Giuđêa trở về, các ông lại tiếp tục công việc thường nhật của các ông là đánh cá. Chính trong lúc đang hành nghề mà Chúa đã kêu gọi các ông. Các ông sinh sống bằng nghề đánh cá ở Biển hồ. Biển này dài 21 cây số và rộng 12 cây số, mang nhiều tên khác nhau: Biển hồ, hồ Gênêsareth hoặc biển hồ Tiberiade. Gọi là Tiberiade vì vua Antipas muốn lấy lòng vua Tibère nên khi xây một thành phố ở Biển hồ đã lấy tên Tibère mà đặt. Tại đây, khi nghe tiếng Chúa gọi, các ông đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa.
2. Chúa gọi Giacôbê và Gioan.
Hai ông này là anh em con ông Giêbêđê vàbà Salomê, làm nghề chài lưới và thường hợp tác với Simon và Anrê (Lc 15,10) và sống không cách xa nhau. Sau khi Chúa gọi, hai ông cũng mau mắn bỏ mọi sự mà theo Chúa.
3. Cách thức Chúa gọi.
Chúa gọi các ông một cách gọn gàng và đơn sơ: “Hãy theo Ta”. Vừa nghe, chúng ta thấy 4 ông này tưởng chừng bị thôi miên, vừa nghe một tiếng nói đã đứng lên theo ngay, không suy nghĩ, không tính toán.
Thật ra, bốn ông này không xa lạ gì với Chúa Giêsu. Ít ra, hai người đã biết Chúa Giêsu lúc ông Gioan Tẩy giả giới thiệu cho Anrê và Gioan khi Chúa Giêsu đi ngang qua “Đây là Con chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”. Hai ông nghe xong liền đi theo Chúa Giêsu, đàm đạo với Ngài từ 4 giờ chiều tới tối. Sau đó, ông Anrê lại giới thiệu Simon cho Chúa Giêsu và Chúa đã nói với Simon: “Ngươi sẽ được gọi là Kê-pha” nghĩa là đá.
Ta có cảm giác như Đức Giêsu có cái nhìn hết sức lôi cuốn. Ngài không nói: “Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư vào các ngươi, Ta có một số triết thuyết muốn các ngươi suy nghĩ, Ta muốn được thảo luận với các ngươi”. Nhưng Ngài chỉ phán: “Hãy theo Ta”. Tất cả đều bắt đầu bằng một xúc động từ thâm tâm, làm nảy sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. Nói thế không có nghĩa là một khi đã theo Chúa Giêsu chẳng có ai suy nghĩ gì cả, nhưng phần đông chúng ta, theo Chúa Cứu thế như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu vậy. Nói theo số đông, sở dĩ chúng ta theo Chúa Giêsu chẳng phải do điều Ngài đã phán, nhưng do tất cả những gì vốn tự có nơi Ngài.
Truyện: Montalembert và cô con gái.
Văn hào Montalembert có một cô con gái dâng mình làm nữ tu. Ông viết: “Người tình ấy là ai, chết treo trên cây thập giá mà có thể lôi kéo như vậy ? Người tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn không cưỡng lại được, như một con chim mồi sà xuống và cuốn đi ? Phải chăng đó là một người ? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành công và đòi hỏi một cuộc hy sinh như thế”.
Ngài không gọi để họ gặp mọi sự dễ dãi, thoải mái, Ngài gọi họ để phục vụ. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà họ phải dành cả đời sống, phải hăng say gấp rút để cuối cùng, phải chết cho Ngài và cho đồng loại. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà chẳng những họ không được gì cho riêng mình, nhưng còn phải hiến dâng tất cả cho Ngài và cho tha nhân.
4. Thái độ của các ông.
Khi Đức Giêsu kêu gọi các ông theo Ngài, các ông đã có thái độ nào ? Ta hãy nghe thánh Marcô kể lại: “Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm và đi theo Ngài”. Tác giả hình như muốn cho chúng ta thấy hai ông đã phải hy sinh lớn lao: hai ông không những bỏ chài lưới, nhưng bỏ cả cha già tức là bỏ cả gia đình để theo Chúa. Chúa đã lôi cuốn được người ta bỏ mọi sự mà theo Ngài. Mà Chúa cũng muốn cho người ta thấy rằng muốn theo Chúa thì phải bằng lòng bỏ tất cả.
Thực vậy, các tông đồ đầu tiên thoát ly mọi sự trước kia đã ràng buộc các ông là để gắn bó với Chúa Giêsu. Các ông đi theo Ngài một cách tin tưởng mà không hỏi xem Ngài sẽ dẫn các ông đi đến đâu và tương lai sẽ ra sao. Các ông đi theo Ngài để chia sẻ vui sướng, nhưng đồng thời cũng đồng lao cộng khổ với Ngài. Các ông đi theo Ngài để lãnh nhận lời giáo huấn, lấy đó là mẫu mực cho đời sống mình trước hết, để rồi sau đó tuyên xưng giáo thuyết của Ngài và truyền bá giáo thuyết đó cho mọi người.
Truyện: Ai yêu tổ quốc hãy theo ta.
Trận chiến giữa Pháp và hai nước liên kết Ý và Áo đầu năm 1796, kết liễu ngày 17.11.1796 như sau:
Đại tướng Bonaparte đưa quân đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến địch. Trong lúc trận thế đang nguy, Đại tướng Bonaparte hô tiến qua cầu. Không một ai qua ! Đại tướng xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn chân bước qua cầu, miệng hô: “Ai yêu tổ quốc thì theo ta”. Ngó lại, trên cầu chỉ có một mình mà lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của quân địch. Khi ấy có cậu bé mới 13 tuổi đánh trống thúc quân. Hai tay đập mạnh vào trống chân bước qua cầu theo Đại tướng. Quân sĩ tràn theo qua cầu, Đại tướng Bonaparte toàn thắng và cũng chấm dứt cuộc chiên tranh ấy.
Tám năm sau, Bonaparte là hoàng đế Napoléon trở lại chỗ cũ, có nghi lễ đón tiếp rất linh đình. Hoàng đế Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện trong quân đoàn đó.
Hỏi đến Vidal thì cậu đã đi nghỉ phép để đưa đám tang mẹ. Hoàng đế Napoléon bãi bỏ tất cả lễ nghi quân cách, đi thẳng đến làng Vidal, theo sau đám tang đến huyệt, đọc bài điếu văn. Rồi đi bộ với Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp: “Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên đường đau khổ con cho ta theo con cho có bạn” (Ms Lê văn Thái, Những tia sáng tập 2, tr 5).
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho ta cách thức mở ngỏ lòng ra để Chúa Giêsu bước vào ; đồng thời cũng cho chúng ta thấy rõ cái giá chúng ta phải trả nếu chúng ta muốn làm được điều này: chúng ta phải thực hành những gì các Tông đồ đã làm, chúng ta phải sẵn lòng chấp nhận cái giá các ngài đã phải trả, chúng ta phải sẵn lòng thiêu hủy mọi chiếc cầu phía sau chúng ta để bước theo Chúa Giêsu bất cứ nơi nào Ngài muốn dẫn đi.
Nếu chúng ta quyết định làm điều các Tông đồ đã làm, nếu chúng ta quyết định liều bỏ mọi sự vì Chúa Giêsu thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta những gì Ngài đã làm cho các vị ấy. Ngài sẽ biến chúng ta nên những thành viên chia sẻ công việc của Ngài, và ban cho đời sống chúng ta một ý nghĩa mới vượt quá mọi niềm ước mơ vĩ đại nhất của chúng ta.
Dân thành Ni-ni-vê mau mắn và không chút trì hoản ăn năn sám hối trước lời rao giảng của ngôn sứ Giô-na.
1Cr 7: 29-31
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy sống hết mình ơn gọi Ki tô hữu vì chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của ơn cứu độ.
Mc 1: 14-20
Trước tiếng gọi của Đức Giê-su, các môn đệ đầu tiên đã đáp trả tận mức.
BÀI ĐỌC I (Gn 3: 1-10)
Sách Giô-na được viết theo thể loại ngụ ngôn luân lý, theo đó trí tưởng tượng trộn lẫn với óc khôi hài: TN3-B29
Sách Giô-na được viết theo thể loại ngụ ngôn luân lý, theo đó trí tưởng tượng trộn lẫn với óc khôi hài, nhưng bài học khuyến thiện của nó mở ra những viễn cảnh phổ quát.
Tác giả vô danh nầy sống vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Nhân vật chính của sách là Gio-na, thực thi sứ vụ ngôn sứ của mình cho dân thành Ni-ni-vê vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ấy vậy, thành đô nầy đã bị phá hủy vào năm 612 trước Công Nguyên, tức là thành đô nầy đã không còn nữa trước đó gần hai thế kỷ. Vì thế, bối cảnh của chuyện kể là hư cấu và nhân vật là hoang đường.
1. Bài học của câu chuyện.
Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải ở nơi tính lịch sử của câu chuyện nhưng bài học mà câu chuyện muốn gởi gắm. Việc chọn thành đô nầy có một ý nghĩa chính xác: Ni-ni-vê là kinh thành của đế quốc Át-sua vào thời cực thịnh. Đây là thành phố thù địch không đội trời chung với dân Do thái, và là biểu tượng tinh hoa của thế giới ngoại giáo.
Ấy vậy, vị ngôn sứ chỉ cần rảo bước qua một phần ba kinh thành, toàn dân đã ăn năn sám hối rồi. Đây mới thật sự là một bài học để đời cho dân Ít-ra-en. Làm thế nào không nghĩ đến vừa mới đây không bao lâu ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã tuyên cáo những lời đe dọa tương tự về Giê-ru-sa-lem để kêu gọi dân thành ăn năn sám hối; nhưng triều thần và chính vua đã ra lệnh đốt sách ghi những sấm ngôn của vị ngôn sứ. Vì thế, đó là lý do tại sao kinh thành Giê-ru-sa-lem đã bị đánh chiếm và bị phá hủy, còn dân chúng đã phải sống kiếp lưu đày ở đất khách quê người.
Chính Đức Giê-su nêu gương sám hối của dân thành Ni-ni-vê như một bài học cho thế hệ của Ngài: "Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ nầy và sẽ kết án họ, vì xưa dân nầy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa" (Mt 12: 41).
2. Ơn cứu độ phổ quát.
Thật ra, nhân vật chính của sách không là ngôn sứ Giô-na mà chính là Đức Chúa, Ngài không chỉ là Thiên Chúa của dân Ít-ra-en, nhưng còn Thiên Chúa của muôn dân muôn nước nữa. Ngài bận lòng về những tội lỗi của một dân ngoại giáo, nhưng trước khi trừng phạt, Ngài sai một vị ngôn sứ đến với họ như Ngài đã từng làm đối với dân Chúa chọn. Như vậy, Đức Chúa ban khả năng cứu độ cho hết mọi người không trừ một ai. Ngài chỉ cốt đe dọa để đánh thức lương tri và thúc dục lòng ăn năn sám hối, vì thế tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài trải rộng ra với hết mọi người.
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 28-31)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô. Thánh nhân trả lời những vấn đề chính xác mà cộng đoàn đã nêu lên cho ngài, đoạn ngài loan báo một vấn đề cốt yếu: "Tôi xin nói với anh em điều nầy: thời gian chẳng còn bao lâu nữa".
1. Lời loan báo gây sững sốt.
Thật không may, bản dịch: "thời gian chẳng còn bao lâu nữa" không thể lột tả hết tư tưởng của thánh nhân. Theo nguyên ngữ Hy lạp, lời loan báo nầy gợi lên một hình ảnh rất sống động: "đây là lúc thuận tiện, các buồm thuyền đã được cuốn lại" khi con thuyền sắp cập bến. Vì thế đây là thời gian sẳn sàng vì người ta sắp cặp bến. Từ đó, thái độ phải có đối với tín hữu là hãy hành xử như người sắp cặp bến đời đời.
2. Phần chứng minh.
Tiếp đó, phần chứng minh được móc nối vào nhau như một chuỗi móc xích rất tự nhiên: từ nay, những ai sống đời sống vợ chồng đừng gắn bó với những ham muốn xác thịt; những ai sống trong phiền muộn, đừng than khóc như những người không có niềm hy vọng; những ai sống trong niềm vui hãy nghĩ rằng hạnh phúc trần thế chỉ là thoáng qua chóng tàn; những ai có nhiều của cải đừng cho mình là chủ nhân, vân vân.
3. Ý hướng của thánh nhân.
Phải chăng thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sắp đến gần rồi? Điều nầy không loại trừ, nhưng không cần thiết. Thánh nhân đã khai triển chủ đề nầy rồi. Trong thư thứ nhất gởi cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dường như thánh nhân hy vọng rằng thế hệ của ngài vẫn còn sống vào "ngày Chúa quang lâm" (1Th 4: 15). Nhưng trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sẽ đến khi nào toàn thể dân Ít-ra-en ăn năn sám hối: "Một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đầy đủ. Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ…" (Rm 11: 25-26). Đối với thánh nhân, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô đã tăng tốc Lịch Sử Cứu Độ, có thể nói như vậy. Chúng ta đã đi vào trong kỷ nguyên cứu độ, nghĩa là sống trong giai đoạn chung cuộc. Như vậy, cách sống của những người Ki tô hữu phải khác với dân ngoại. Chúng ta không được sống nước đôi, lập lờ đánh lận con đen, vì chúng ta biết rằng thế giới nầy đang qua đi.
TIN MỪNG (Mc 1: 14-20)
Khi nghe tin Gioan Tẩy bị bắt, Đức Giê-su cho rằng cẩn trọng hơn nên rời bỏ miền Giu-đê trở lại miền Ga-li-lê. Giờ Ngài chưa đến để đón nhận số phận tương tự.
Ấy vậy, vua Hê-rô-đê An-ti-pa, người đã ra lệnh bắt giam Gioan Tẩy giả, đang cai trị xứ Ga-li-lê. Vì thế, xem ra Đức Giê-su muốn lánh xa Giê-ru-sa-lem, lánh xa trung tâm quyền lực Do thái giáo. Quả thật, Tin Mừng Gioan viết: "Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp nhiều môn đệ hơn ông Gioan…Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê" (Ga 4: 1-3).
1. Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 14-15).
Vào thời đó, miền Ga-li-lê là "ngã ba quốc tế", vì các đoàn quân ngoại quốc và các thương nhân đều phải qua lại ở nơi nầy; và từ lâu được mệnh danh là "miền đất của dân ngoại" (Is 8: 28) vì ở đây dân Do thái không chỉ sống chung với dân ngoại nhưng còn là nơi tiếp xúc với muôn dân. Vì thế, khi định vị sứ vụ đầu tiên của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê, thánh Mác-cô muốn nhấn nhấn mạnh rằng sấm ngôn về ơn cứu độ phổ quát của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bisng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (Is 9: 1).
Tiếng nói của vị Tiền Hô không còn vang lên nữa. Sứ mạng dọn đường cho Tin Mừng đã đến hồi kết thúc. Từ đây chính Đấng là hiện thân Tin Mừng xuất đầu lộ diện. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su bắt đầu sự vụ của mình ở Ga-li-lê với lời công bố tương tự như lời công bố của Gioan Tẩy giả, nhưng có một điểm khác biệt cốt yếu, sứ điệp không còn hướng đến tương lai, nhưng nhấn mạnh hiện tại: "Thời kỳ đã mãn".
2. Thâu nạp các môn đệ đầu tiên (1: 16-20).
Câu chuyện của Mác-cô rất sâu sắc. Si-mon và An-rê đang thực hành nghề nghiệp của mình: "quăng lưới bắt cá". Trước lời mời gọi của Đức Giê-su, họ bỏ lại những ngư cụ và lợi tức nghề nghiệp của mình mà theo Ngài. Đối với Gia-cô-bê và Gioan, đoạn tuyệt còn dứt khoát hơn, không chỉ bỏ lại sau lưng nghề nghiệp của mình mà còn cả người cha già mà họ có bổn phận giúp đỡ nữa.
Qua Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng cuộc gặp gỡ nầy chắc chắn không là cuộc gặp gỡ đầu tiên. Trước đó không bao lâu, ở miền Giu-đê, họ đã có một cuộc nói chuyện nhớ đời với Đức Giê-su rồi…(Ga 1: 35-42).
Thánh Lu-ca đặt việc Đức Giê-su thâu nạp các môn đệ đầu tiên tiếp liền sau mẽ cá diệu kỳ. Thánh Mác-cô, cũng như thánh Mát-thêu, cho sự dấn thân của các chàng thanh niên nầy một tính chất bất ngờ và không chút trì hoản, như vậy nhấn mạnh rằng hành động dứt khoát của họ là lời đáp trả, không phải trước nhà phép thuật thần thông nhưng trước một bậc tôn sư khôn sánh có sức quyến rũ không thể nào cưỡng kháng được.
3. Tận hiến.
Ơn gọi của bốn ngư phủ miền Ga-li-lê trở nên mẫu mực. Đức Giê-su gọi: Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, tiếp đó, thái độ đáp trả không một chút so đo, không tính toán hơn thiệt: từ bỏ nghề nghiệp, lợi tức và gia đình.
Hoạt cảnh những người con của ông Dê-bê-đê từ giả gia đình trái ngược với những hoạt cảnh khác trong đó tấm lòng nhân hậu của Đức Giê-su bày tỏ khi Ngài trao lại bé gái cho cha mẹ em (Mc 4: 29), cậu trai thành Na-in cho bà mẹ góa của cậu (Lc 7: 15), và cậu La-da-rô cho hai người chị của cậu (Ga 11: 32-44); nhưng với những ai mà Ngài muốn liên kết vào sứ mạng của Ngài một cách tròn đầy và tận mức, Đức Giê-su đòi hỏi một tinh thần siêu thoát tuyệt đối: "Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy" (Mt 10: 37).
Các cộng đoàn Ki tô giáo tiên khởi nghe và đọc trang Tin Mừng nầy, họ biết sự từ bỏ nầy đã dẫn những người được gọi lúc ban đầu nầy đi cho đến tận đâu: Gia-cô-bê, vị Tông Đồ đầu tiên đã được phúc tử đạo vào năm 44. Vị Tông Đồ nầy chắc chắn đã qua đời rồi khi thánh Mác-cô ghi những dòng chữ nầy. Còn thánh Phê-rô, chắc chắn đã gợi lên nhiều lần cho cộng tác viên của mình, hoạt cảnh trên bờ hồ Ti-bê-ri-át nầy, cũng đã chịu khổ hình ở Rô-ma, có lẽ vào năm 64.
Mùa Thường Niên là mùa để chúng ta sống lại những biến cố cuộc đời của Chúa Giêsu trên: TN3-B30
Mùa Thường Niên là mùa để chúng ta sống lại những biến cố cuộc đời của Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Muốn đi vào Nước Trời, việc đầu tiên phải làm là sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, thực lòng ăn năn trở lại và tin vào Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng. Đó là tư tưởng chính trong Chúa Nhật hôm nay và cũng là tư tưởng chính trong Bài Tin Mừng (Matcô 1, 14-20). Tinh thần sám hối tội lỗi cũng được nói đến trong bài Đọc I (Giôna 3, 1-5, 10): Dân thành Ninivê thời đó đã sống trong trụy lạc, nhưng nghe lời tiên Tri Giôna kêu gọi, cả dân thành đều ăn năn sám hối, quyết tâm từ bỏ tội lỗi, ăn năn đền tội, và Chúa đã tha thứ mọi tội lỗi của họ. Trong Bài Đọc II (1 Corintô 7, 29-31), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hãy nhớ cuộc đời của mỗi người rồi sẽ qua đi, qua đi nhanh chóng, nên hãy vui sống cuộc đời của mình, nhưng đừng quá bám víu vào bất cứ điều gì thuộc thế gian.
Vào Mùa Chay, chúng ta hãy hát bài “Trên Con Đường Trở Về” (Mi Trầm) để khơi dậy trong chúng ta lòng thống hối ăn năn, từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Nhưng không phải chỉ Mùa Chay chúng ta mới thống hối, mà đó là việc phải làm từng giây phút suốt cuộc đời.
Chính trên con đường trở về, quyết tâm trở về, mà bao ‘tội nhân’ đã trở nên ‘Thánh Nhân’, như Madalêna, Augustinô, Phanxicô khó khăn, Charles de Foucauld… và nhiều, rất nhiều nữa mà chúng ta không biết hết được. Đó là những đứa con phung phá trở về với người Cha nhân hậu của mình (Luca 15, 11-24).
Như những đứa con phung phá, chúng ta quyết tâm trở về, ăn năn sám hối, làm việc đền tội và tin vào Tin Mừng tình thương của Chúa, rồi cuộc đời chúng ta sẽ đổi mới, sẽ tươi sáng hơn, dù vẫn phải sống giữa trăm chiều thử thách. Thay vì ngồi đó để than thân trách phận, bi quan yếm thế, phê bình chỉ trích, oán hận người khác, chúng ta hãy trở về trước hết với con người của chính mình, hãy đấm ngực chính mình và xoay chuyển cuộc đời theo hướng dẫn của Tin Mừng, chúng ta sẽ gặp thấy Chúa như người Cha thật dễ thương, đầy lòng nhân hậu, chứ không phải chỉ là một quan án nghiêm khắc. Có những lúc chúng ta gặp đau khổ, bệnh họan, thử thách; đó là lẽ thường tình của cuộc đời mỗi người và cũng là dịp để thanh luyện tâm hồn chúng ta, chứ không phải ‘vì Chúa bắt tội chúng ta!’
Rồi chúng ta cũng sẽ có cái nhìn đổi mới với mọi người. Chúng ta sẽ thấy người chồng của chúng ta thật dễ mến, người vợ của chúng ta cũng đáng yêu như thuở ban đầu, và những đứa con là cả một hồng ân Chúa ban. Những người mà trước đây chúng ta ‘ghét cay, ghét đắng’ vẫn là những con người có những nét dễ thương và vẫn có thể trở nên người bạn thân của chúng ta.
Hơn nữa, nhờ ơn Chúa, sau khi đã biến đổi con người của mình, chúng ta sẽ có thể nên ‘Muối và Ánh Sáng’ (Matthêu 5, 13-16). Chúng ta sẽ có sức biến đổi mọi người chung quanh chúng ta. Chúng ta sẽ vui tươi hơn với cuộc đời, với mọi người và hăng hái tiếp tục công trình rao giảng Tin Mừng hạnh phúc của Chúa cho mọi người. Mùa đông tuyết sa, bão tố rồi cũng sẽ qua đi. Mùa Xuân vĩnh cửu sẽ đến vào cuối cuộc đời của chúng ta, và Nước Trời sẽ mở rộng đón tiếp chúng ta. Lm. Anphong Trần Đức Phương
Tỉnh dòng Đa Minh Việt Nam loan tin một thành viên “phong chức linh mục”. Còn anh em: TN3-B31
Tỉnh dòng Đa Minh Việt Nam loan tin một thành viên “phong chức linh mục”. Còn anh em sinh viên lại cho biết một trong anh em sắp “lãnh thừa tác vụ linh mục”. Ai đúng, ai sai ? Có lẽ quan niệm “phong chức linh mục” sẽ đẩy tới lối sống tách biệt và quan cách. Trái lại, quan niệm “lãnh thừa tác vụ linh mục” đi sát với Tin Mừng hơn.
Tin Mừng đang vẽ ra một chiều kích phổ quát và sâu sát với nhu cầu của những người nghèo khổ. Sống cách biệt làm sao có thể biết đến việc phục vụ như Tin Mừng đòi hỏi ? Bởi thế Tin Mừng hôm nay muốn “anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:14), để ngày càng thu ngắn khoảng cách giữa sứ vụ và thực tế cuộc sống.
TIN MỪNG MỜI GỌI
Đức Giêsu đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng tại Galilê vào một thời điểm rất thích hợp. Đã đến lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa. Thực vậy, “thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”(Mc 1:15). Nghĩa là, kế hoạch Thiên Chúa gồm nhiều giai đoạn liên tục (1 V 8:24; Kn 8:8; Cv 1:71). Bây giờ đã đến giai đoạn chót phải hoàn thành Thánh Kinh (Mt 1:22) Lề luật (Mt 5:17h) và giao ước xưa (Mt 9:17; 26:28h; Rm 10:4; 2 Cr 3:14-15; Dt 10:1,14) (x.The Jerusalem Bible 1990:1661).
Giữa lúc dân Israel mong đợi “Thiên Chúa thiết lập Vương Quyền tại Sion và trải rộng quyền đó trên toàn cõi địa cầu” (Is 24:23; 52:7; Gr 3:17; 8:19; Ed 20:33; Mk 2:13; 4:7; Xp 3:15; Ov 21; Dcr 14:9), Đức Giêsu khẳng định Triều đại Thiên Chúa đã đến nơi bản thân Người (x.Thánh kinh Tân Ước 1995:184). Người xuất hiện như niềm hi vọng lớn lao cho dân tộc Israel và toàn thể nhân loại. Nhưng sứ mạng Người không đóng khung trong lãnh thổ Do thái. Trái lại Người muốn cho mọi người thấy Triều Đại Thiên Chúa vượt xa biên giới trần gian và bao trùm toàn thể vũ trụ. Đó cũng chính là chiều kích Tin Mừng và bản chất sứ mạng truyền giáo của Giáo hội. Bởi thế muốn đóng khung Tin Mừng và mang tính cạnh tranh vào cánh đồng truyền giáo là một bằng chứng rõ ràng của bóng tối trần gian và tham vọng trần tục. Người môn đệ Đức Giêsu không thể đặt quyền lợi của bất cứ tổ chức hay đoàn thể nào trên Tin Mừng.
Đức Giêsu công bố tự do cho người bị áp bức, công lý cho người nghèo và niềm hi vọng cho những ai thất vọng (x.Life Application Study Bible 1991:1727). Bởi đó Lời Chúa trở thành Tin Mừng cho nhân loại, một Tin Mừng phát sinh từ cái chết, sự phục sinh và vinh quang của Đức Giêsu Kitô. Muốn đón nhận Tin Mừng và sống trong Triều Đại Thiên Chúa, con người phải đi vào trong cái chết và ánh vinh quang phục sinh của Đức Giêsu, nghĩa là phải “sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Đó không chỉ là một nỗ lực nhân loại, nhưng là hồng ân Thiên Chúa. Đúng hơn, “hối cải bị thu hút vào mầu nhiệm ân sủng hoạt động để cải biến nhân loại và làm cho con người có thể trở thành tạo vật mới” (Fragomeni 1993:230). Phải hối cải mới phá tung được tất cả giới hạn của thân phận con người bằng sức mạnh ân sủng.
Triều Đại Thiên Chúa và Tin Mừng là những thực tại cao cả và năng động trong một thế giới mới. Không sám hối, làm sao có đủ khả năng nhìn và thấy được tất cả nét kỳ diệu trong những thực tại Thiên Chúa ? Chính vì thế những ai được kêu gọi đều phải trải qua một cuộc biến cải sâu xa. Chỉ cần theo Đức Giêsu, các môn đệ sẽ thấy phải biến đổi tới mức nào cho xứng hợp với chiều kích Tin Mừng trong thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1:17) Từ việc “lưới cá” sang “lưới người”, các ông đã đạt tới một chiều kích lớn lao hơn cuộc sống bình thường. Không sám hối không thể vượt thoát khỏi chiều kích gò bó của cá nhân, xã hội hay quốc gia. Nhưng làm sao sám hối, nếu không tin ? Bởi đấy “tin vào Tin Mừng”, tức là tin vào chiều kích phổ quát của Triều Đại Thiên Chúa, là điều kiện tất yếu để tham gia vào công cuộc Phúc Aâm hóa thế giới.
Các ông theo Chúa cách dứt khoát, toàn diện và hoàn toàn. “Lập tức hai ông (Anrê và Simon) bỏ chài lưới mà đi theo Người”(c.18). Còn “các ông (Giacôbê và Gioan) bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người” (c.20). Nói thế không có nghĩa Chúa chỉ cần gọi các ông một lần là xong. Hình như Chúa còn gọi các ông nhiều lần nữa (Lc 5:1-11; Ga 1:35-42). Nhưng lần nào Tin Mừng cũng nói đến thái độ dứt khoát của các ông: “Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc 5:11) hay “hai môn đêï liền đi theo Đức Giêsu” (Ga 1:37). Tại sao các ông có thể có một thái độ dứt khoát nhanh chóng như vậy ? Có lẽ nhờ ơn Chúa, các ông đã thấy thời gian quá ngắn, vì “thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.”(Mc 1:15) Vì “ánh sáng chiếu soi trong bóng tối” (Ga 1:5), làm chói mắt đến nỗi các ông không thể ngủ vùi với những thói quen đêm đen nữa. Hơn nữa, chính hoàn cảnh nghèo hèn đã khiến họ cảm thấy nhẹ nhàng bước theo Chúa. Họ không có gì để luyến tiếc, tính toán. Nhu cầu Nước Trời quá lớn. Luyến tiếc sẽ tạo một khoảng trống không sao lấp đầy được.
PHÚC ÂM HÓA THẾ GIỚI
Khi dứt khoát lên đường, các môn đệ đã được trang bị thậït chu đáo. Các ông đã được kêu gọi tại biển hồ Galilê. Đó là trục lộ giao thương quốc tế. Từ đó các ông có thể phóng tầm nhìn ra khỏi biên giới Do thái. Tin Mừng mang một chiều kích lớn lao hơn bất cứ nền văn hóa nào. Vì thế Tin Mừng có thể đến với muôn dân. Được trang bị bằng chính Tin Mừng, các ông càng phấn khởi khi Thày chí thánh lên tiếng “rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa” (Mc 1:14) để khai mạc “Triều Đại Thiên Chúa” (c.15). Tin Mừng mang chiều kích cánh chung và phổ quát.
Rao giảng Tin Mừng không thể không mang chiều kích Tin Mừng. Muốn thế, “Giáo hội phải tự kiểm thảo, canh tân không ngừng, sẵn sàng sám hối liên lỉ và thật lòng trở về với Đức Kitô.” (Schreiter 1994:365) Chỉ khi nào thực sự sám hối như thế, Giáo hội mới có thể phá vỡ ranh giới chật hẹp của mình và vươn tới chiều kích Tin Mừng như Đức Kitô, nghĩa là có thể gặp gỡ “Thần chân lý đang hoạt động bên ngoài những giới hạn của Nhiệm Thể.”(Redemptor Hominis 1979) Môn đệ Đức Kitô có thể tìm thấy “hạt giống Lời Chúa” trong các tôn giáo khác. Chính ĐGH Gioan Phaolô II đã thiết lập nền tảng thần học cho cuộc đối thoại liên tôn như sứ mạng Giáo hội, khi nhìn thấy các tôn giáo khác nhau “như những phản ánh đa dạng của một chân lý, ‘những hạt giống Lời Chúa’, cho thấy tuy có nhiều đường lối khác nhau, nhưng chỉ có một mục đích độc nhất đáp ứng ước vọng sâu xa nhất của lòng người khi tìm kiếm Thiên Chúa và khi đi tìm chiều kích sung mãn cho nhân loại” (Redemptor Hominis, ch.11).
Hiện nay trên thế giới có 2 tỉ Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống giáo, Anh giáo và Tin lành. Tất cả đều tin Chúa Kitô và mong làm chứng về Người một cách hữu hiệu nhất. Bởi thế, tự thâm tâm mọi người đều muốn hiệp nhất để thực hiện ước nguyện của Thày chí thánh. “Thực vậy, việc tái hiệp nhất các người đã được thanh tẩy thực sự là một hồng ân Thiên Chúa, chứ nỗ lực con người mà thôi không đủ đem lại kết quả đó. Nhưng khi các Kitô hữu đến với nhau, coi nhau như anh em, cộng tác để làm vơi đi những đau khổ, và cầu nguyện cho sự hiệp nhất, họ đang góp phần chiếu sáng dung nhan và vinh quang Chúa Kitô.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 19/01/03) Từ đó, Kitô hữu có thể vượt lên trên mọi biên giới.
Đã đến lúc người môn đệ Đức Kitô phải nhìn thấy tất cả chiều kích lớn lao của Tin Mừng trong thế giới mới. Mặc dù “bộ mặt thế gian này đang biến đi,” (1 Cr 7:31) nhưng vẫn còn những giá trị tồn tại với sức mạnh Tin Mừng. Công cuộc Phúc Aâm hóa và Tân Phúc Aâm hóa phải lên kế hoạch gấp rút, vì “thời gian chẳng còn bao lâu”(c.29) và “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” (Mc 1:15)
Trong tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, có kể câu chuyện giàu ý nghĩa. Có một Thầy: TN3-B32
Trong tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, có kể câu chuyện giàu ý nghĩa.
Có một Thầy Ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là "Tượng Chúa ban ơn".
Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, Thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.
Một hôm vắng người, Thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: " Lạy Chúa,con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá".
Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: "Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết ". Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.
Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.
Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy Thầy vẫn yên lặng.
Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.
Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.
Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, Thầy Xê-bât-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.
Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: " Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá,con không xứng đáng thế chỗ cho Ta,vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa."
Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa,làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó ?
Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết ! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ.Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn.
Câu chuyện này nhắc chúng ta nhớ đến Lời Chúa trong sách Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”.
Trong suy nghĩ của con người,chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm đã kể. Vì đó là những con người chài lưới, "ăn với sóng, nói với gió", ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ.Tại sao Chúa không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái ?
Cũng như chúng ta cũng tự hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh ? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý ? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Chúa là Đấng Giải Thoát khi Chúa lại đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng như thế?
Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.
Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo. Con người chỉ là thụ tạo.
Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.
Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.
Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.
Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người vì giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.
Về mặt xã hội, mấy mươi năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. "Chủ nghĩa lý lịch" tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. “Chủ nghĩa lý lịch” kỳ thị, phân biệt đối xử, nó vẫn đang hoành hành mọi ngõ ngách cuộc sống hôm nay. Những người có Tài thật sự, vì ‘vướng’ chữ Đức, chữ Tâm mà không thể thành danh dưới trướng “chủ nghĩa lý lịch”. Một đất nước mà báo chí chỉ được phép “đi bên lề phải”, và chỉ những ai cam chịu làm bồi bút mới được trọng dụng thì làm sao đi lên phát triển được. Bao giờ mới hết chủ nghĩa phi nhân này? Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ của người xưa, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.
Tôi có một niềm vui ấm áp mùa Giáng Sinh vừa qua. Trong giáo xứ có gia đình gồm hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ. Nhà cửa rách nát, xiêu vẹo rất đáng thương. Mỗi khi mưa gió, cả mấy mẹ con phải bồng bế sang hàng xóm trốn mưa. Tôi viết thư đến Hội Thánh Linh ở Seatle, xin giúp cho họ căn nhà tình thương. Các hội viên đóng góp mỗi người một ít trợ giúp. Thông báo tin vui này cho gia đình. Bà con trong làng không ai chấp nhận xây nhà tình thương cho gia đình nghèo ấy. Họ nói lý do vì chồng trộm cắp, vợ lười biếng, không sinh hoạt chung, không đóng góp công việc chung. Ai cũng nhìn với cái nhìn loại trừ.
Với tiêu chuẩn xã hội, ai cũng muốn kết án.Kẻ bị kết án thì đau khổ một mình. Tôi phân vân suy nghĩ mãi. Có nên hay không? Bà con làng xóm đều nói đúng và muốn công bằng. Nhưng Chúa dạy phải sống đức bác ái, không kết án mà phải mở ngỏ nhìn về phía trước. Biết đâu vì quá nghèo nên chồng mới sinh ra trộm cắp để nuôi con? Ba đứa con nhỏ, phải ở nhà chăm con nên vợ bị cho là lười biếng? Biết đâu vì là đàn ông mà không làm nổi căn nhà cho vợ con ở nên chồng sinh ra nhậu nhẹt? Nếu đựơc giúp đỡ, hy vọng vợ chồng này sẽ bỏ tật xấu để sống tốt hơn! Suy nghĩ như vậy, tôi quyết định xây nhà cho họ với một điều kiện là chồng phải bỏ các thói xấu rượu chè trộm cắp. Tôi kêu mời bà con đến giúp, góp công xúc đất đắp nền. Sau nửa tháng căn nhà xây xong. Tôi đến làm phép nhà, bà con làng xóm cùng chia vui, mọi người tạ ơn Chúa và tri ân các ân nhân. Tôi cùng vui với bà con, một niềm vui chan hoà ấm áp tình người. Căn nhà xây nhỏ bé, đơn sơ nhưng là cả khung trời hạnh phúc của gia đình nghèo này.
Một ước mơ nhỏ bé thôi, vậy mà sau mười năm lập gia đình, nó mới thành hiện thực. Với người nghèo, một căn nhà ấm cúng đã là đong đầy niềm vui chan chứa. Hai vợ chồng siêng năng đi đọc kinh chung trong giáo họ, tham gia công việc chung của giáo xứ và không còn làm buồn phiền xóm làng nữa. Niềm vui ấm áp của một gia đình nghèo là như thế đó. Có ai muốn sống xấu đâu, mình tạo điều kiện để cái tốt đựơc hé mở và bừng phát nơi mỗi con người vốn tính bản thiện.
Xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai, lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai. Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, tin vào con người, tin vào cuộc đời. .. Và trên hết cũng như sâu hơn hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về tương lai.
Lạy Chúa, nếu con cần lòng nhân từ của Chúa đối với con, thì tại sao con lại xem thường lòng nhân từ của Chúa đối với người khác? Nếu con cần lòng kiên nhẫn của Chúa để con làm lại cuộc đời sau khi lầm lỗi thì tại sao con lại khinh thường lòng kiên nhẫn của Chúa đối với người khác? Nếu con cần lòng quãng đại của Chúa đối với sa ngã của con thì tại sao con lại xem nhẹ lòng quãng đại của Chúa đối với người khác?
Xin cho con thêm lòng mến Chúa để luôn nhìn mọi người với tâm hồn bao dung và quãng đại. Xin cho con luôn đặt trọn niềm tin vào tình yêu lạc quan của Chúa Đấng mở ngỏ về phía tương lai cho con người. Amen.
Ít nhất phải có một chút hy vọng nào đó thì người gọi mới cất tiếng gọi. Mong được người đáp: TN3-B33
Ít nhất phải có một chút hy vọng nào đó thì người gọi mới cất tiếng gọi. Mong được người đáp trả, đấy là niềm vui của người gọi. Trong tiếng gọi bao hàm sự có mặt của hai người. Nếu chỉ có một người lẻ loi thì không có tiếng gọi, vì tiếng gọi không có đối tượng để gửi tới.
Tiếng gọi là một lời mời. Lời mời là một cử chỉ biểu lộ lòng mến yêu. Không mến thương ai thì chẳng bao giờ gọi người đó.
Thà rằng tôi lẻ loi, cô độc còn hơn là tôi quen biết, còn hơn là tôi có những mối giây liên hệ tình cảm để rồi những quen biết, những mối liên hệ ấy chối từ tôi. Khi sống một mình thì tôi chỉ đơn độc, còn khi tôi quen biết mà bị từ chối thì tôi sẽ cô đơn. Bị thờ ơ bao nhiêu thì nỗi cô đơn càng hiu hắt bấy nhiêu. Và nỗi cô đơn này có thể hoang vu hơn sa mạc. Chúa không buồn khi chưa có con người. Khi con người chối từ tình yêu mà Ngài ban tặng, bấy giờ Ngài mới cô đơn (Kn. 6:6). Chúa không tủi lòng khi chưa quen biết Phêrô, khi chưa gặp mặt Yuđa. Khi đã gọi tên, khi đã cùng nhau xây đắp mối liên hệ, bấy giờ nỗi cô đơn của Ngài mới thấm thía lúc bị phản bội, bị chối từ.
Khi tôi gởi một cánh thư đi là tôi gởi lòng tôi ở đó. Gởi nỗi lòng mình đi thì bao giờ cũng có nhớ nhung và hồi hộp, âu lo. Tôi không viết thư cho gió vì gió không biết tiếng người. Tôi chẳng gửi thư cho mây vì mây không bao giờ đáp trả. Tôi chỉ gởi cho người vì chỉ người mới có thể đáp trả lại nỗi lòng tôi. Nhưng người có tự do nên tôi cũng có thể bị chối từ. Tiếng gọi của tôi có thể vang lên khô khan rồi hiu hắt trở về với cõi lòng tôi.
Khi Chúa cất tiếng gọi thì Chúa cũng thầm nuôi hy vọng được đáp trả. Chắc hẳn Ngài cũng ngậm ngùi khi bị khước từ. Bởi trong tiếng gọi là thầm cho đi tình yêu. Bởi trong tiếng gọi là thầm nói lên nỗi nhớ thương.
Gọi là dấu hiệu đang còn xa nhau. Gọi là muốn lại gần.
Trong cuộc đời, tôi có hai tiếng gọi, hai mẫu người lý tưởng để theo. Tiếng gọi thứ nhất là Chúa Kitô. Tiếng gọi thứ hai là chính tôi. Tôi có thể tạo nên cho tôi những tiếng gọi, những giấc mơ và tôi có thể theo đuổi để trở thành mẫu người như tiếng gọi tôi ước mong. Tôi cũng có thể trở thành mẫu người như Chúa Kitô mong muốn. Cái khác nhau là một đàng tôi sống ước mơ của tôi, một đàng tôi phải sống tiếng gọi của Chúa. "Thức ăn của Ta là làm theo ý Ðấng đã sai Ta và hoàn tất công việc của Ngài" (Yn. 4:34). Chúa Kitô đã sống trọn vẹn tiếng gọi của Cha Ngài.
Tôi có thể lầm lẫn thì tiếng gọi của tôi cũng có thể không trung thực. Nếu tiếng gọi của tôi không trung thực thì lo âu để trở nên mẫu người như tôi mơ ước sẽ là dại dột.
Nếu tôi tin rằng Chúa không thể sai lầm thì tôi cũng phải xác tín rằng tiếng gọi của Ngài phải tuyệt hảo. Không thể có hai sự tuyệt hảo. Như thế, khi tôi chối từ sự tuyệt hảo là tôi nhận sự bất hảo.
Có nhiều thứ tiếng gọi. Gọi để cho một tặng vật. Gọi để chung một niềm vui. Gọi để gởi gấm một niềm tin cậy. Nhưng tiếng gọi cao cả nhất, sâu xa nhất là gọi để theo một người. Gọi để cho một tặng vật mới chỉ là cho một phần yêu thương. Còn gọi để theo một người là tiếng gọi cho tất cả. Vì muốn người khác trở nên giống mình thì phải cho họ biết rõ về mình. Cách cho họ biết rõ về mình tốt nhất là cho chính mình. Tôi không thể trở nên mẫu người như Chúa muốn, tôi không thể theo Ngài nếu Ngài không tỏ rõ cho tôi biết Ngài là ai. Ngài chẳng thể tỏ rõ cho tôi biết Ngài là ai nếu Ngài không cho tôi chính Ngài. Và thực sự, Thập Giá đã minh chứng sự cho đi trọn vẹn ấy.
Chúa đã viết một cánh thư. Ở nơi nào đó, Chúa đang mong chờ hồi âm. Ngài không viết thư cho lá rừng, vì lá rừng và bụi cát chỉ phủ mờ thập giá. Ngài viết thư cho người vì chỉ có người mới biết quét mạng nhện trong đền thờ, mới biết xóa dịu một nỗi khổ đau. Có xa nhau thì người ta mới phải gọi. Khi tôi nghe tiếng Chúa gọi là dấu hiệu tôi còn đang xa Ngài. Khi Ngài gọi là dấu hiệu Ngài muốn tôi lại gần.
Mở đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đây là: TN3-B34
Mở đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã rao giảng:” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Đây là lời kêu gọi khẩn thiết và quan trọng của Chúa Giêsu đối với mọi người. Bởi vì, sám hối và lòng tin đi đôi với nhau. Người sám hối trở nên bé nhỏ, khiêm tốn, để đặt tất cả niềm tin của mình vào bàn tay nhân từ của Thiên Chúa, vào sự thánh thiện của Ngài, vào hạnh phúc nước trời, vào sự cứu rỗi do Tin Mừng mang đến. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi con người sám hối và tin vào Tin mừng Ngài mang đến.Liền sau lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên: Phêrô và Anrê,Giacôbê và Gioan.
CHÚA RAO GIẢNG: SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG:
Để mở đầu cho sứ vụ công khai rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã xin Gioan Tẩy Giả rửa tội cho mình trong dòng sông Giođan. Ngài làm thế để nêu gương khiêm nhượng cho mọi người. Ngài rao giảng:” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Bước đầu để có lòng tin thực phải sám hối. Lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối.Sám hối và lòng tin như cặp song sinh. Sám hối là điều kiện cần thiết để trở nên tốt hơn. Như thế, sám hối có hai khía cạnh tiêu cực và tích cực. Khía cạnh tiêu cực, sám hối là quay trở về con đường xưa mình đã đi, quay về với chính lòng mình để xem thử những điều gì là đúng, những điều gì là sai, những điều gì là không phù hợp. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai, quyết tâm đổi mới, sống tốt hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn, chính vì thế, người sám hối trở nên khiêm tốn:” Người nâng cao những người phận nhỏ và để những người giàu có trở về tay không “ Lc 1, 52-53).Người sám hối khi đó sẽ đặt hết lòng tin tưởng phó thác vào Chúa, vào hạnh phúc nước trời, vào sự công chính, vào ơn cứu độ Tin Mừng Chúa mang đến. Nên, khi tin vào Thiên Chúa, tin vào ơn cứu độ của Ngài, người ta sẵn sàng sám hối và như thế lòng tin càng được nâng cao, niềm tin trở nên vững mạnh hơn. Chúa mời gọi con người, loài người sám hối và tin vào Tin Mừng Ngài mang đến cho nhân loại, mang đến cho mỗi người.
CHÚA KÊU GỌI BỐN MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN:
Cái lạ lùng vẫn là Chúa kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài. Chúa kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng. Chương trình cứu chuộc của Chúa không chỉ nguyên Chúa là đủ, nhưng Ngài còn nhờ vào bàn tay nối dài của nhiều người, nhiều môn đệ, nhiều tông đồ.Do đó, nỗi ưu tư hàng đầu của Ngài là tuyển chọn các môn đệ:” Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người “ ( Mc 1, 17 ). Chúa gọi bốn môn đệ trong khi các người này đang bận rộn với công việc thường ngày là đánh bắt cá ở biển. Công việc của các ông lúc đó là kiếm được nhiều cá để bán lấy tiền nuôi sống bản thân, nuôi sống cha mẹ, gia đình của mình. Nhưng từ đây theo Chúa: Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan và sau này các môn đệ khác sẽ chuyển đổi nghề: từ việc đang làm là đánh bắt cá dưới biển, các ông sẽ trở thành những ngư phủ đánh cá người khắp thế giới. Nghe tiếng Chúa gọi, Tin Mừng nói rõ, các ông bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Cuộc đời của các môn đệ từ đây là vâng nghe lời Chúa dạy, các ông đã hăng say đi khắp mọi nơi rao giảng Tin Mừng, đưa nhiều người về với Chúa và về với Giáo Hội. Sở dĩ các ông đã làm được công việc đó, vì các ông đã sống và chia sẻ niềm tin cho những người khác. Tuy nhiên kết quả thế nào, điều đó, do Chúa quyết định: ”Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xi thả lưới “ ( Lc 5, 5 ). Và rồi kết quả thế nào, mọi người đều biết: cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng của các ông.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Cái huyền diệu và hết sức ấn tượng, lạ lùng vẫn là có nhiều tâm hồn quảng đại dấn thân rao giảng nước Thiên Chúa. Ngay từ thời các tông đồ, Chúa gọi họ, nghe tiếng Chúa, họ sẵn sàng bỏ mọi sự, bỏ cả cái nghề hái ra tiền để theo Chúa Giêsu. Phải chẳng Đức Giêsu có một lực hấp dẫn đến nỗi làm cho các môn đệ say mê, bỏ mọi sự mà theo Ngài ? Đúng là Đức Giêsu đã cho các môn đệ thấy Tin Mừng là Ngài đang ở giữa họ. Do đó, họ không bám víu những gì sẵn có, đang có, nên bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Họ đã sống niềm tin:” Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại “. Họ đã thực hiện như Gioan Tẩy Giả đã làm: họ trở nên chứng nhân hữu hiệu cho nước Thiên Chúa. Ngày nay, người môn đệ Chúa phải sống cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chia sẻ. Do đó, người môn đệ Chúa, tin và sống Tin Mừng hằng ngày và phải chia sẻ, thực hiện Tin Mừng nơi đời sống của mình bởi vì:” Đức tin không việc làm là đức tin chết “.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trung thành theo Chúa và làm chứng cho Chúa suốt đời. Amen.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.
II. Suy NiỆm:
Ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay có thể hướng suy nghĩ của chúng ta về việc thống hối tội lỗi và: TN3-B35
Ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay có thể hướng suy nghĩ của chúng ta về việc thống hối tội lỗi và cải tạo đời sống. Ðó là một đề tài quan trọng và phong phú. Trong thánh lễ này, chúng ta chỉ để ý đến khía cạnh những người được Chúa gọi phải đổi mới tâm hồn và đời sống tư tưởng của Chúa nhật trước về ơn gọi.
1. Chúng Ta Ðược Gọi Tin Vào Phúc Âm
Bài Tin Mừng Marcô chúng ta vừa nghe nói đến việc Chúa Yêsu gọi 4 tông đồ đầu tiên. Rõ ràng không giống Tin Mừng Yoan đã kể trong Chúa nhật trước. Vì thế chúng ta lại càng tin chắc hơn: các tác giả đã không quay phim tại chỗ. Việc Chúa gọi các tông đồ đầu tiên đã được suy nghĩ lâu năm trước khi được đem viết lại thành văn bản. Và khi được viết ra, nó đã mang nặng chất thần học. Cái hay và cái khéo của những bản văn này là vẫn giữ lại được cho câu truyện hương sắc mới lạ của buổi đầu. Ðọc đoạn văn Marcô hôm nay, ai nghĩ ngay là một bản văn đã thần học hóa những sự kiện xảy ra trong thực tế? Ngược lại, chúng ta có cảm giác thật sự như thấy Ðức Yêsu đang đi trên bờ biển Galilêa và gọi các tông đồ. Nhưng đối với thánh Marcô thì khác. Và có lẽ đối với chúng ta sau khi suy nghĩ cũng vậy.
Ðức Yêsu bấy giờ không phải là chính là Ðức Yêsu hồi mới ra giảng đạo đâu, nhưng là Ðức Yêsu đã sống lại. Quả vậy, dù muốn dù không, khi viết Tin Mừng, Marcô đã có một cái nhìn đức tin sâu sắc về Ðấng mà người muốn rao giảng lại cho hậu thế. Con mắt người có thể nói, đã nhận được những tia sáng phục sinh để nhìn vào Ðức Yêsu, nên mọi nét tả, mọi lời văn trong sách Tin Mừng của người đều chan chứa đức tin và mang nặng chất thần học.
Vì thế, không phải vô lý mà Marcô đã bắt đầu bằng chữ: "Sau khi Yoan bị bắt". Ông là vị tiền hô của Chúa. Cuộc tử nạn của ông báo trước việc Chúa chịu chết. Do đó với những chữ mở đầu như trên Marcô có ý gợi lên sự kiện "sau khi thụ nạn", Chúa Yêsu đã lui về Galilêa. Người bắt đầu gọi lại các tông đồ. Và như vậy câu truyện Marcô kể bây giờ được bọc trong mầu nhiệm Phục sinh.
Trước hết, chính Ðức Yêsu bây giờ là nhà truyền giáo lý tưởng. Sứ điệp của Người là nội dung các tông đồ phải truyền lại. Người giảng ở đất Galilêa (dân ngoại) để Hội Thánh bắt chước Người đi làm việc ở các dân tộc. Người nói rằng thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên!
Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng!
Ðó là những lời rất quan trọng và mầu nhiệm. "Thời buổi" ở đây không phải là thời gian năm tháng tính theo các loại đồng hồ, nhưng là lịch sử, là kỷ nguyên. Với việc Ðức Kitô chịu chết và sống lại, lịch sử đã đi vào giai đoạn sung mãn. Thánh Kinh gọi là thời buổi cuối cùng. Từ nay đến tận thế không có gì mới nữa. Chỉ còn việc ơn cứu độ của Ðức Kitô lan rộng ra khắp không gian và thời gian.
Vì thế, "Nước Thiên Chúa đã gần bên". Không ai còn ở xa ảnh hưởng của Ðức Kitô cứu thế nữa. Do đó, mọi người phải hối cải, tức là từ bỏ con đường mình đang theo và quay mặt về với Chúa. "Và hãy tin vào Tin Mừng".
Nhưng Tin Mừng nào?
Ở đây Marcô dùng một từ ngữ chuyên môn. Thoạt đầu chữ "Tin Mừng" gợi lên những buổi trọng đại trong đời sống xã hội. Sứ giả của nhà vua được sai đi thông báo cho toàn dân thiên hạ biết những sự vui mừng có hệ mật thiết đến hạnh phúc của họ. Nào là việc có một hoàng đế lên ngôi; ngài vừa có một thái tử; ngài lập đông cung thái tử lên chức kế vị ngai vàng, chẳng hạn... Ðó là những Tin Mừng vì mật thiết liên hệ đến đời sống ấm no của chư dân. Nhưng phần lớn, đó chỉ là những tin mừng chủ quan và hạn chế.
Tin Mừng đích thực cho mọi thời và mọi nơi đúng như lời các thiên sứ đã loan báo cho mục đồng là Chúa Cứu Thế đã giáng sinh. Thành ra khi sách Tân Ước dùng chữ Tin Mừng và giục chúng ta tin vào Tin Mừng, thì chúng ta phải hiểu đây chính là sứ điệp cứu độ: Thiên Chúa đã thi hành kế hoạch cứu thế của Người khi sai Con của Người đến chịu chết và sống lại cho loài người chúng ta. Ðó là Tin Mừng của Thiên Chúa công bố trong thời đại cuối cùng. Và nội dung Tin Mừng ấy toàn nói về Ðức Yêsu Kitô; và cũng chính là Ðức Yêsu Kitô. Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa là công bố kế hoạch cứu thế của Người trong Ðức Yêsu Kitô, là công bố đời sống và sự nghiệp của Ðức Yêsu Kitô, là công bố chính Ðức Yêsu Kitô. Nên Tin Mừng và Ðức Yêsu Kitô cũng là một.
Vậy đã có Ðức Yêsu Kitô là sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng; Người đã đến đất Galilêa dân ngoại để làm chứng Tin Mừng phải được mang đến cho các dân tộc. Hơn nữa Người đã rao giảng Tin Mừng khi thực hiện việc chịu chết và sống lại để cứu thế; thì không những từ nay người ta phải hối cải và tin vào Tin Mừng, và hơn nữa từ nay phải có nhiều người đi rao giảng Tin Mừng ấy.
Thế nên Chúa Yêsu đã gọi anh em Simon và Anrê, cũng như Yacôbê và Yoan. Họ đang làm nghề bắt cá. Người bảo họ hãy theo Người đi bắt các linh hồn. Lập tức họ bỏ lưới chài và tất cả để đi theo Chúa.
Chúng ta đã nói: Marcô kể khác với Yoan. Ở đây, Marcô có lẽ mô phỏng sách Các Vua (1,19-21) trong đoạn thuật truyện Êlia gọi Êlisê làm tiên tri. Hôm ấy Êlia đi đường gặp Êlisê đang bừa ruộng. Ông lại gần, tung chiếc áo choàng ra trên con người của Êlisê. Ông này hiểu ngay ý nghĩa: nhà tiên tri muốn ông từ nay thuộc về Ngài. Êlisê xin được phép về nhà hôn cha hôn mẹ, rồi đến nơi bẻ cầy, bẻ bừa làm củi, thui luôn cả bò và bỏ mọi sự để đi theo Êlia làm tiên tri.
Marcô đã lấy lại đoạn văn trên. Nhưng ông đã sửa chữa. Thời buổi đã mãn, người ta không còn được phép về nhà từ gĩa cha mẹ nữa. Người ta phải bỏ ngay mọi sự mà đi theo Chúa làm tông đồ.
Và làm tông đồ là làm như Chúa Yêsu và Marcô vừa phác lại chân dung trong những câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay. Người đã qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh. Người đến giữa dân ngoại. Người công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, để người ta hối cải và tin vào Tin Mừng và để người ta cùng Người làm thành cộng đoàn mật thiết tiếp tục rao giảng Tin Mừng.
2. Chúng Ta Phải Sống Phúc Âm
Không ai có thể thấy mình ở ngoài sứ điệp trên đây. Tất cả chúng ta đều phải hối cải và tin vào Phúc Âm. Phụng vụ hôm nay mượn những lời thư Phaolô giúp đỡ chúng ta đi vào nếp sống mới này.
Thoạt nghe, có thể chúng ta không thích những lời khuyên loại này. Chúng có vẻ xuất thế, không hợp thời với đạo nhập thế. Có người còn nhận xét, trong những câu khuyên này không một lời nào nhắc đến Thiên Chúa và Ðức Yêsu Kitô. Và người ta kết luận đây là thứ đạo đức học của các môn phái khắc kỷ và yếm thế hơn là của Kitô giáo.
Nhưng chỉ cần đọc lại với những tư tưởng mà chúng ta đã thấy trong bài Tin Mừng hôm nay: lời thánh Phaolô sẽ tỏ ra sâu sắc khác thường. Trước hết, thật khó dịch cho đúng câu khuyên bảo đầu tiên. "Thời buổi đã co rút lại" nghĩa là gì? Tựu trung, thánh Phaolô cũng chỉ muốn nói cho Ðức Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: thời buổi đã mãn. Tức là lịch sử đã đến lúc cuối cùng. Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch cứu độ và cứu thế của Người xong rồi, không còn gì để chờ đợi nữa. Người ta phải nhận hay không nhận. Khất lần, trì hoãn hay dửng dưng là không nhận rồi. Còn nếu nhận thì phải tin "từ nay" đã có Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người; Người đã thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa cứu độ khi chịu chết và sống lại; Người đang ở gần mỗi người và trong mọi lúc cũng như ở mọi nơi. Người đang rao giảng cho chúng ta Tin Mừng của Thiên Chúa, là chính Con Người và đời sống của Người. Chúng ta phải bỏ con đường xưa nay vẫn đi, quay mặt lại với Người là hối cải và tin vào Người.
Khi ấy suy nghĩ tâm tư, cảm giác, đời sống của chúng ta phải khác. Tất cả đều bị chi phối bởi sự hiện diện của Ðức Kitô cùng với giáo lý và đòi hỏi của Người. Kẻ có vợ sẽ như không có, kẻ khóc như không khóc, kẻ vui như không vui, kẻ mua như không cầm giữ, kẻ hưởng thế gian như không tận hưởng... nghĩa là những kẻ ấy sẽ không cư xử như khi chưa biết Chúa Yêsu nữa. Họ đã có Người, có giáo lý và tình yêu của Người, thì họ sẽ sống cách mới mẻ. Suy tư, cảm nghĩ, hành động của họ đều thâm nhiễm ảnh hưởng của Ðức Kitô. Họ sống nhưng không phải họ, mà là Ðức Kitô sống trong họ. Họ ở giữa thế gian nhưng không còn thuộc về thế gian, bởi vì "bộ dạng thế gian" tức là cơ cấu, định luật của thế gian tội lỗi đang qua đi, tức là đang mất ảnh hưởng đối với họ. Họ vẫn ở trong thế gian, nhưng thế gian không giữ được họ và bắt buộc được họ làm nô lệ cho mình nữa. Họ đã được ơn của Ðức Yêsu Kitô giải phóng. Từ nay họ là con cái tự do của Thiên Chúa. Họ được lại quyền làm chủ vạn vật như Adong trước khi sa ngã. Họ có tự do của tinh thần để không bị sức mạnh cuả sự dữ khống chế. Hơn nữa nhờ tinh thần được tự do hoàn toàn ấy, họ khắc phục tiêu diệt được sự dữ luôn luôn làm áp lực trên đời sống của họ.
Ðó là nếp sống mà thánh Phaolô khuyên chúng ta phải đi vào cho phù hợp với ơn gọi của những con người đã tin vào Phúc Âm. Nếp sống này, muốn đầy đủ, phải mở sang một khía cạnh khác nữa là truyền giáo.
3. Chúng Ta Phảo Rao Giảng Phúc Âm
Chính bài Tin Mừng Marcô cho chúng ta thấy Chúa Yêsu đã đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi môn đệ và làm thành với họ một cộng đoàn truyền bá Tin Mừng, là cộng đoàn Hội Thánh. Chúng ta phải bắt chước Người chứ đừng bắt chước Yona.
Ông là một người Dothái được Chúa kêu gọi để đi giảng đạo cho Ninivê, ông không chịu. Vì ông ghét thành này. Ninivê không là thủ đô của đế quốc đã xâm chiếm và tàn phá quê hương của ông sao? Giảng đạo cho bọn ấy để họ cũng được ơn của Chúa ư? Không đời nào. Ðàng khác sức mấy mà bọn ấy trở lại! Thủ đô của bọn chúng kiêu kỳ và tội lỗi, dễ gì chịu nghe ai. Nhất nữa người được sai đi đây lại là Yona, một anh nhà quê ở một tiểu nhược quốc!
Yôna không tin ở sứ mệnh Chúa giao phó cho mình. Và ông cũng chẳng muốn thi hành sứ mệnh ấy, kẻo kẻ thù của ông và của dân tộc ông cũng được phúc. Thế nên thay vì đi sang tây, hướng về Ninivê, Yona đã lấy tàu đi Tarsis ở phía đông. Ông chọc tức Chúa, nên Chúa đã nổi lôi đình. Sóng gió nổi dậy. Mọi người trong tàu bắt Yona ném xuống biển. Một con cá lớn vồ tới, Yona bị nó nuốt trửng. Ở trong bụng cá, Yona biết tội nên thống hối ăn năn. Ông hứa sẽ vâng lời Chúa. Con cá liền mửa ông ra bờ. Và ông đã đến Ninivê.
Yona vừa mới rao giảng, từ vua chí dân đã thực lòng thống hối. Khác hẳn một trường hợp trước đây. Yêrêmia giảng cho dân Dothái dưới thời Yoakim (Gr 36). Ðã chẳng thống hối thì chớ, nhà vua lại còn truyền đốt sách của nhà tiên tri! Thật là khác với câu truyện Yona hôm nay.
Vì thế đây chỉ là câu truyện mỉa mai người Dothái. Nó được viết vào thời sau lưu đày. Những người Dothái hồi hương bắt đầu xây lại đền thờ. Các dân chung quanh đến xin góp phần. Người Dothái lạnh lùng từ chối: bọn các ngươi là dân ngoại, các ngươi đã cướp đất cướp của của chúng ta, các ngươi lại muốn được chia sẻ hạnh phúc làm dân Chúa như chúng ta sao? Thái độ ấy thật kỳ cục. Nó hẹp hòi và ích kỷ. Người ta quên lời hứa với Abraham là muôn dân cũng sẽ được chúc phúc khi họ "trở lại" và dân Chúa phải có sứ mạng truyền giáo. Cư xử như thế kia thật còn tệ hơn lương dân nữa.
Câu truyện Yona ý nghĩa như vậy, nên khi người ta xin Ðức Yêsu một điềm lạ, Người nói chẳng có thêm điềm lạ nào nữa ngoại trừ điềm lạ Yona. Người khuyên người ta hãy suy nghĩ về câu truyện này.
Ðến lượt chúng ta hôm nay cũng phải suy nghĩ. Thái độ của chúng ta đối với lương dân và những người không chia sẻ đức tin của chúng ta, như thế nào? Chúng ta có tha thiết cho họ được hạnh phúc như chính chúng ta không? Ðó là chính ý của Chúa. Người đã khởi sự giảng đạo ở Galilêa. Người dạy Hội Thánh đi đến với lương dân. Người gọi các môn đệ đầu tiên để làm thành một cộng đoàn truyền giáo. Hội Thánh của chúng ta phải rao giảng Tin Mừng nhiều hơn. Chúng ta phải nhiệt tình với lương dân hơn nữa. Và trước tiên như Ðức Kitô đã đi qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh để trở thành Tin Mừng cho các dân tộc, chúng ta cũng phải đóng đinh xác thịt vào thánh giá để sống cho Thiên Chúa nhiều hơn nữa, như lời thư Phaolô hôm nay khuyên nhủ chúng ta.
Thánh lễ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm để chúng ta hối cải và tin vào Tin Mừng. Chúng ta hãy thật lòng thống hối để có nếp sống thật Phúc Âm. Sự hiện diện của chúng ta giữa xã hội cùng với lời rao giảng Tin Mừng sẽ làm ra những Ninivê mới, tức là những xã hội hạnh phúc vui mừng vì đã có những nỗ lực cải tạo sâu rộng.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy các môn đệ đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời mời gọi: TN3-B36
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy các môn đệ đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, ngày kia Chúa Giêsu đi dạo trên bờ hồ, Ngài nhìn thấy Simon và Andrê đang thả lưới dưới biển. Ngài bèn lên tiếng gọi: Hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người. Lập tức các ông đã bỏ ghe thuyền chài lưới mà đi theo Chúa Giêsu.
Đi được một quãng, Ngài thấy Giacôbê và Gioan đang vá lưới dưới thuyền với cha là Giêbêđê. Ngài cũng lên tiếng gọi: Hãy theo ta. Lập tức các ông đứng dậy, bỏ cha già ở lại với những người làm công mà đi theo Chúa Giêsu.
Lần khác, tại Capharnaum, Chúa Giêsu đi ngang qua một bàn thu thuế, nhìn thấy Matthêu, Ngài liền phán: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu.
Từ những sự kiện cụ thể ấy, chúng ta thấy, trước hết là Chúa Giêsu. Ngài đã không chọn lựa những con người giàu sang và quyền thế, học rộng và biết nhiều. Trái lại Ngài đã chọn lựa những kẻ nghèo túng và đơn sơ làm môn đệ của Ngài. Ngài biết các ông thiếu khả năng và bị hạn hẹp rất nhiều. Nhưng đồng thời Ngài cũng thấy các ông là những người quảng đại và hết sức nhiệt tình. Chính vì sự quảng đại và nhiệt tình này, Ngài đã bắt tay vào công việc giáo dục các ông. Cắt nghĩa riêng cho các ông thấu hiểu giáo lý Tin mừng. Trao ban quyền hành và sai các ông đi thực tập truyền giáo, để rồi cuối cùng đã ủy thác cho các ông sứ mạng chèo lái con thuyền Giáo Hội. Trong khi chọn lựa các môn đệ, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới Giáo Hội, và nhất là có lẽ Ngài đã nghĩ tới chúng ta, và muốn nói với mỗi người rằng: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ chinh phục người khác…
Tiếp đến là các môn đệ. Lúc đầu có lẽ các ông chưa hiểu được sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như con đường mà Ngài sẽ dẫn dắt các ông. Tuy nhiên các ông xác tín rằng Chúa cần đến các ông và các ông đã mau mắn quảng đại đáp trả tiếng Chúa gọi, bằng cách từ bỏ ghe thuyền và chài lưới, cha già và nhà cửa, bàn giấy và nghề nghiệp để đi theo Chúa.
Với chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Điều quan trọng và cần thiết đó là chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa gọi, nhất là phải mau mắn và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy. Chúa nói với chúng ta qua những biến cố xảy ra, cũng như qua những người mà chúng ta có dịp tiếp xúc với. Chúng ta có thể đáp trả bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, chúng ta có thể đáp trả bằng những hành động bác ái và yêu thương. Thực vậy, Chúa cũng kêu mời chúng ta phục vụ Ngài nơi những người anh em, thế nhưng chúng ta đã mau mắn và quảng đại đáp trả hay chưa?
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha: TN3-B37
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha thứ, được thoát khỏi hình phạt nặng nề giáng xuống trên họ.
Tôi xin thưa: là nhờ vào tâm tình sám hối.
Thực vậy, trước lời cảnh cáo của tiên tri Giona, họ đã ăn năn và từ bỏ con đường tội lỗi, để rồi đã được hưởng nhờ lòng khoan dung nhân hậu của Chúa. Chính vì thế, khi bắt đầu cuộc sống công khai Chúa Giêsu đã kêu gọi:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.
Qua lời kêu gọi ngắn ngủi này, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế, có lần thánh Augustinô phát biểu:
- Để tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể nào cứu chuộc chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.
Sự cộng tác của chúng ta, mặc dù rất nhỏ bé, nhưng lại là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định.
Cũng trong chiều hướng đó, chúng ta thấy tâm tình sám hối ăn năn, chính là sự cộng tác của chúng ta vào với ơn Chúa, chính là như một thứ tiền bạc thiêng liêng để chúng ta mua lấy ơn tha thứ.
Chàng trai phung phá sở dĩ đã được người cha đón nhận, là vì chàng đã có can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha. Phêrô sở dĩ đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm ngực sau những lầm lỗi của mình. Mađalêna sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là vì nàng đã biết khóc thương cho quãng đời nhơ nhuốc trong dĩ vãng. Anh trộm lành trên thập giá, sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là bởi vì anh đã quyết tâm trở về cùng Chúa, mặc dù chỉ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Nếu như giòng nước rửa tội tẩy xóa mọi dấu vết của tội nguyên tổ, thì những giọt nước mắt ăn năn sám hối, cũng chính là một thứ nước có sức gột rửa những dấu vết của tội lỗi mà chúng ta đã trót vấp phạm. Để nói lên sự cần thiết phải cộng tác với ơn Chúa, tôi xin kể lại một mẩu chuyện sau đây:
Sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai kết thúc, có một toán lính đồng minh đi giúp những người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ vỡ. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bom đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt một ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Sau khi dựng bức tượng lên, viên sĩ quan đã ghi lại một hàng chữ như sau:
- Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người đau khổ nghèo túng kêu cầu Chúa, và cần đến chúng ta để an ủi và giúp đỡ họ. Chúa dùng bàn tay của chúng ta để xoa dịu những nỗi bất hạnh của người khác.
Cuộc sống của chúng ta phải là một sự nối tiếp công trình của Chúa, phải là một sự kéo dài cho sự hiện diện đầy tình thương của Ngài cho đến tận cùng thời gian.
Chúa đã chết trên thập giá để lập nên kho tàng cứu độ, thế nhưng, chúng ta phải biết giơ bàn tay lên để đón nhận ơn cứu độ ấy cho bản thân và cho những người chung quanh của chúng ta.
Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương: TN3-B38
Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ Chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.
Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.
Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.
Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.
Bước thứ hai: Sám hối.
Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.
Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.
Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.
Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1) Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: "Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người." Hiện nay, Đức Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào? 2) Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn.....). 3) Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?
Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng là gì? Có gì quan trọng mà người ta phải: TN3-B39
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng là gì? Có gì quan trọng mà người ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó? Sám hối và lòng tin đi đôi với nhau như hai con mắt cùng nhìn vào một đối vật, sám hối sửa soạn cho lòng tin, lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối gồm hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực là nhận về quá khứ, nhìn lại dĩ vãng, để thấy đường mình đã đi, cuộc đời mình đã sống như thế nào, đúng hay sai, tốt hay xấu. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai để sống đúng hơn và tốt hơn. Người sám hối trở nên khiêm tốn, bé nhỏ, từ bỏ mình, để đặt tất cả niềm tin vào sự công chính của Nước Trời, vào ơn cứu độ do Tin Mừng đem đến, còn tin là trao hiến, tin ai và tin điều gì? Chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của Tin Mừng gồm những vấn đề gì mà chúng ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó. Chúng ta có thể tóm lược nội dung của Tin Mừng vào hai phạm vi luân lý và giáo lý.
Về phạm vi luân lý: chúng ta thấy Tin Mừng đã đề cập tới những vấn đề quan trọng sau:
Thứ nhất, về hôn nhân, Chúa Giêsu đã lập luận hôn nhân bất khả phân ly và nhất phu nhất phụ: mỗi người chỉ được một vợ một chồng và phải trung thành chung thủy với nhau cho đến chết.
Thứ hai, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần nghèo khó: người nghèo khó được Chúa chúc phúc, Chúa kêu gọi hãy nghèo của nhưng không nghèo lòng, ngược lại, người giàu của mà không giàu lòng thì khó vào nước trời như con lạc đà trước lỗ kim.
Thứ ba, về luật lao động và tinh thần hợp tác, Chúa dạy: mọi người phải siêng năng làm việc để tự lực mưu sinh, lười biếng sẽ bị phạt, rồi phải biết cộng tác với nhau để cùng nhau thăng tiến.
Thứ tư, vấn đề tiền của: tiền của nay còn mai mất, Chúa dạy: phải biết dùng tiền của làm phương tiện đi vào nước trời, mỗi người đừng quá đòi hỏi mà chỉ mong sao hằng ngày dùng đủ, rồi tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng, các tài nguyên thiên nhiên, hãy dùng chúng để kiến tạo hòa bình và biến gươm giáo thành cày cuốc.
Thứ năm, để đảm bảo luật luân lý, Chúa dạy: mọi người phải coi nhau như anh em, phải yêu thương nhau, yêu thương cả kẻ thù nghịch với mình, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, mọi người phải tha thứ cho nhau.
Thứ sáu, về vấn đề giáo dục trẻ em, Chúa dạy: phải yêu mến chúng, phải hướng dẫn chúng và không được làm gương mù gương xấu cho chúng, nước trời thuộc về những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ em.
Thứ bảy, các nhân đức luân lý được đề cao: khôn ngoan, công bằng, vâng lời, tiết độ, kiên nhẫn, can đảm chịu đựng những đau khổ, khiêm nhường, hiền lành, trong sạch, phục vụ, tránh xa dịp tội và đứng làm gương mù.
Tóm lại, mọi người là anh em, là con cái Thiên Chúa, mỗi người là chi thể trong một nhiệm thể, cho nên, phải dùng tình thương mà đối xử với nhau và yêu nhau như Chúa yêu chúng ta.
Về phạm vi giáo lý: Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta biết bốn điều quan trọng: Thứ nhất, một Thiên Chúa có Ba Ngôi, chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa có Ba Ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài, ngôi thứ hai là Con, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng xuống thế làm người để cứu chuộc mọi người, ngôi thứ ba là Thánh Thần, Đấng thánh hóa, an ủi và giúp đỡ mọi người. Cả ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, bằng nhau mọi đàng. Thứ hai, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là một người như mọi người, có cha có mẹ, có quê hương tổ quốc, có sinh có tử, có sống và chết như mọi người, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha, Ngài đến trần gian để dạy dỗ và cứu chuộc loài người, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, ai tin theo Ngài sẽ được sự sống đời đời. Thứ ba, về Nước Thiên Chúa, Nước Trời, đây là nước hằng sống, vĩnh cửu, là thiên đàng, muốn vào Nước Thiên Chúa phải tin và thực hành đức tin chứ không thể chỉ nói “Lạy Chúa” mà vào được, nước Chúa có giá trị vô song, người ta phải hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống để chiếm hữu nó. Thứ tư, Tin Mừng cho biết về Giáo Hội qua những dụ ngôn người gieo giống, hạt giống tự mọc, hạt cải, tấm men, kho báu, viên ngọc quý, mẻ cá, bầy chiên… Giáo Hội có phẩm trật: Phêrô là đầu, tức Đức Giáo Hoàng sau này, các tông đồ, là các giám mục sau này, những vị lãnh đạo Giáo Hội được Chúa trao quyền cầm buộc và cởi mở, ai muốn đến với Chúa phải đến với Giáo Hội.
Có cuốn sách nào được người ta ham mộ, kính trọng như sách Tin Mừng không? Có sách nào tồn tại suốt 20 thế kỷ và bán chạy như sách Tin Mừng không? Sách Tin Mừng toàn bộ đã được dịch ra 236 thứ tiếng, và còn cả 100 thứ tiếng nữa đang sửa soạn để dịch Tin Mừng, có sách nào khích lệ, đổi mới con người bằng sách Tin Mừng không? Cho nên, vấn đề đặt ra cho chúng ta là chúng ta có đọc Tin Mừng hay không? Nếu chúng ta không chịu đọc thì sách có hay mấy cũng là không hay, cũng như đã gọi là thuốc hay mà chúng ta không dùng thuốc thì làm sao khỏi bệnh được?
Chúng ta hãy nhớ: sách Tin Mừng là lời Thiên Chúa hằng sống, chúng ta có đọc, có sống Tin Mừng thì chúng ta mới thấy được sự sống ấy dồi dào ra sao, nơi đâu có ánh sáng Tin Mừng nơi ấy tràn đầy hy vọng cho hiện tại và tương lai. Ước mong mỗi gia đình đều có sách Tin Mừng, chúng ta có đủ thứ sách mà lại thiếu sách Tin Mừng thì thật đáng tiếc. Nhưng có sách mà không dùng, không đọc cũng như không có. Ước mong chúng ta hãy đọc và sống theo những điều chúng ta đọc, bảo đảm bản thân chúng ta và gia đình chúng ta sẽ tốt đẹp.
Đoạn Phúc âm này theo thánh Marcô, tỏ cho chúng ta hai điều: Trước hết chúng ta thấy: TN3-B40
Đoạn Phúc âm này theo thánh Marcô, tỏ cho chúng ta hai điều: Trước hết chúng ta thấy Chúa Giêsu rảo qua miền Galilê, để giảng dạy. Kế đó chúng ta thấy Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ để họ hợp tác vào sứ mệnh của Người.
1. GIÁO HUẤN CỦA CHÚA GIÊSU
Giáo huấn ấy gồm một lời loan báo và một đòi hỏi. Lời loan báo Tin Mừng Phúc âm ấy là thời gian chuẩn bị và chờ đợi đã gần chấm dứt, Nước Thiên Chúa đã đến, có thể nhận ra được.
Cũng như vào những ngày cuối đông, chúng ta thường nói: ‘Xuân sắp về’, thì Chúa Giêsu cũng vậy, cuối hạn kỳ cuộc chờ mong lâu dài của Cựu Ước, Chúa loan báo Nước Trời đã đến, gần gũi như muà xuân của thế gian. Nhưng chúng ta phải đủ sức nhìn ra nó và đón tiếp nó. Để được thế, anh em phải ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng. Bằng một thay đổi nào trong nếp sống, chúng ta phải mở lòng ra để đón lấy ân huệ đức tin. Gioan Tẩy Giả chỉ rao giảng sự ăn năn thống hối. Chúa Giêsu đi xa hơn và đòi Đức tin. Đoạn tiếp của Phúc âm cho thấy là đức tin đòi hỏi ở đây, không nhắm vào một giaó lý mà là vào một người. Khi Chúa Giêsu đòi hỏi Đức tin, điều đó có nghĩa là ở địa vị con Thiên Chúa, Người đề nghị chính Người là đối tượng của đức tin ấy. Cuối cùng, nỗ lực ăn năn thống hối có mục đích làm cho con người có đủ khả năng gắn bó với Chúa Giêsu.
Khi đã loan báo Nước Trời, Chuá Giêsu đưa vào một yếu tố mới. Người muốn sự loan báo ấy được trao phó cho những người có sứ mệnh đem truyền bá nó ra cho hết thảy mọi người. Chúa kêu gọi các môn đệ.
2. KÊU GỌI CÁC MÔN ĐỆ
Chúa Giêsu phán: Hãy đến theo ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư ông lưới người. Trong câu nói ấy của Chúa Giêsu, chúng ta hãy dừng lại ở hai phương diện quan trọng của lời kêu gọi: Hãy đến theo ta; ta sẽ làm cho các ngươi trở thành.
a) Hãy đến theo Ta. Lời mời gọi này của Chuá Giêsu nhấn mạnh đến tất cả sự khác biệt mà người đặt vào giữa Người và các nhà thông thái lề luật. Các nhà thông thái này có nhiều môn đệ, song họ chỉ truyền lại môt giáo huấn, không hơn không kém. Một môn đệ nào đó có thể nói: họ nhận nhà thông thái Lề Luật làm thầy, nhưng họ vẫn được phép tranh luận với thày, không chấp nhận mọi điểm thày dạy, và vượt quá thày. Sự đòi hỏi của Chúa Giêsu thì khác hẳn. Chúa kêu gọi người ta theo Chúa, và trong Phúc âm tiếng “theo” luôn luôn có nghĩa là gắn bó với con người của Thày. Điều đó có vẻ thái quá vì theo não trạng người Do Thái, chỉ mình Thiên Chúa mới xứng đáng cho người ta gắn bó với Ngài. Điều đó có nghĩa là Chúa Giêsu chiếm đoạt cho Người lời nói của tiên tri Is. loan báo một ngày kia hết thảy đều trở nên “môn đệ của Thiên Chúa” (Is 54,13). Không mạc khải ngay mình là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu cách gián tiếp đã lôi kéo các môn đệ vào con đường chuẩn bị cho họ đón nhận sự mạc khải đó.
b) Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành. Chúa Giêsu không nói: Ta làm cho các ngươi, cũng không nói cách đơn giản: Ta sẽ làm cho các ngươi. Người nói: Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu không có tác dụng làm cho kẻ được kêu trở nên môn đệ hoàn hảo ngay trong tình trạng cuối cùng. Đây chỉ mới là một sự lên đường, một sự khởi đầu, một lời kêu gọi chuyển động. Người ta trở thành môn đệ của Chúa, chứ người ta không tức khắc là môn đệ Chúa. Trước khi là Tông đồ của Chúa sau Lễ Ngũ tuần, các Tông đồ đã được Chúa huấn luyện lâu dài, đã được thử thách, thanh tẩy, kiện toàn. Ngày nay, chúng ta cũng vậy. Thật ra, chúng ta không thể nói:
Chúng ta đương nhiên là kitô hữu; chúng ta được Chúa Giêsu kêu gọi trở thành kitô hữu, trở thành môn đệ Người. Danh từ “theo” mà Chúa dùng ở đây giả thiết một động tác ấy. “Theo” có nghĩa là không đứng yên tại chỗ, nhưng là tiến bước theo sau Thày mình. Do Thánh Linh của Người, Chúa Kitô phát triển trong chúng ta một công cuộc huấn luyện, như Người đã huấn luyện các môn đệ đầu tiên của Người. Sự hình thành về tâm linh của chúng ta ưu tiên tùy thuộc nơi Người. Phần chúng ta, Chúa đòi hỏi chúng ta phải thừa nhận tác động của Chúa, phải ngoan ngoãn dễ dạy đối với Người và phải đặt đời sống chúng ta trong đời sống của Người.
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và sự tin tưởng của người dân trong làng: TN3-B41
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và sự tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay quân đội Đức quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được, vì các mảnh vỡ quá vụn nát. Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn của những người dân trong làng, mà còn thu hút nhiều khách du lịch đến vùng này để đọc tận mắt hàng chữ đầy ý nghĩa. Anh chị em có đoán được hàng chữ này không? Đó là: “Chính bạn là đôi tay của Chúa”.
Thiên Chúa cần con người. Chúa Giêsu cần chúng ta như đôi tay nối dài của Ngài. Chúa Giêsu muốn dùng chúng ta như đôi tay để tiếp tục sứ mạng của Ngài. Trước khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng ở vùng Galilê, chắc Ngài đã nghĩ đến việc chiêu mộ các môn đệ để tiếp tay với Ngài. Làm sao để mọi người biết rằng đã đến thời viên mãn, Nước Thiên Chúa đã gần kề? Làm sao để mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng? Chúa Giêsu biết rõ giới hạn của mình. Ngài cần những người cộng tác để làm tròn sứ mạng Chúa Con trao. Ngài cần đến từng người chúng ta, một viên gạch nhỏ nhưng cần thiết cho cả tòa nhà. Chẳng có ai là thừa, chẳng có ai là vô dụng.
“Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”, đó là mệnh lệnh của Chúa Phục Sinh. Ngài vẫn cần đến chúng ta ngày nào thế giới này còn một người chưa thành môn đệ của Ngài. Chính vì thế, Chúa Giêsu hôm nay vẫn ngỏ lời với từng người chúng ta. Ngài muốn tôi trở thành sự hiện diện của Ngài cho anh em tôi ở đây, hôm nay.
Ngày xưa, lúc đang đi dọc theo bờ biển hồ Galilê, Chúa Giêsu đã thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc. Họ có đôi lần tiếp xúc với Ngài và chắc có lần đã được nghe Ngài giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm, kể từ sau lần được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Chúa Giêsu thấy họ đang làm việc hoặc quăng chài dưới biển để đánh cá hoặc đang ngồi trong thuyền với cha để vá lưới. Chúa Giêsu chắc đã đứng lâu nhìn những cảnh tượng đầy tình người này với cặp mắt yêu thương. Đẹp biết bao hình ảnh con người làm chung với nhau một việc. Họ có tinh thần tập thể và sau này họ sẽ còn làm việc chung với nhau trên chiếc thuyền lớn là Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã thấy Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy chúng ta. Trước khi kêu gọi chúng ta, Ngài đã ngắm nhìn chúng ta rất lâu. Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa, nhưng cũng phải nói thêm, hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy, được lọt vào ánh mắt của Ngài. Chúa Giêsu hôm nay đang thấy chúng ta. Chúng ta thế nào, Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của Ngài không làm chúng ta bị tê liệt, vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người chúng ta, cả cái yếu đuối và tội lỗi của chúng ta nữa. Chúng ta không cần phải son phấn, phải ăn mặc đúng một thời trang để gợi sự chú ý của Ngài. Chính cái thô thiển mộc mạc của ta đã thu hút Ngài.
Chúa Giêsu hôm nay bắt gặp chúng ta lúc chúng ta đang làm một việc gì đó, đang mải mê với một dự tính tốt đẹp. Ngài gặp chúng ta không phải chỉ trong lúc đọc kinh, dự lễ, những ngay giữa chợ đời xô bồ, giữa cái lam lũ vất vả của đời thường, giữa cái bon chen vật lộn của cuộc sống. Cuộc gặp gỡ thật bất ngờ. Có thể điều chúng ta phải dứt bỏ đầu tiên là công việc ta ưa thích và đang làm, là bầu khí gia đình ấm áp mà ta đang tận hưởng.
Ở đất nước chúng ta, ơn gọi thường được hiểu là ơn sống đời tu sĩ hay linh mục. Thật ra ơn gọi làm vợ, làm chồng, ơn gọi làm cha, làm mẹ. Ơn gọi ấy thật là cao quý và nhiều khó khăn không kém ơn gọi tu sĩ, linh mục. Tin Mừng hôm nay dành cho mọi Kitô hữu, dù sống ở bậc nào đi nữa. Tất cả chúng ta đều được gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu “Các anh hãy theo Tôi”. Đây là lời mời gọi. Ơn gọi khởi xướng từ một tiếng gọi của Thầy Giêsu. Chúa Giêsu mời gọi Kitô hữu đi theo Ngài. Không phải chỉ là đi theo một lý tưởng hay theo một mục đích cao đẹp, mà là đi theo chính con người của Ngài. Ơn gọi Kitô hữu là gắn bó với Chúa Giêsu, nhận Ngài là trung tâm và chóp đỉnh của đời mình.
“Tôi sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Một cuộc biến đổi thực sự, từ lưới cá đến lưới người, từ ngư phủ thành Tông đồ. Chỉ Chúa Giêsu mới làm được cuộc biến đổi đó. Khi được mời gọi gắn bó với Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi gắn bó với con người. Bởi, con người là mối bận tâm chủ yếu của Chúa Giêsu. Theo Ngài là cùng chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại và đồng bào, đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ.
“Chính bạn là đôi tay của Chúa”. Chính chúng ta phải là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu. Sứ mạng cứu độ của Chúa là một sứ mạng thiêng liêng, nhưng sứ mạng ấy cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi giao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội, qua các Tông đồ, qua hàng giáo phẩm, giáo sĩ và mỗi Kitô hữu chúng ta. Nhờ những hoạt động bằng đôi tay cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền Tin Mừng Nước Trời, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Kitô, một Kitô hữu cũng là đôi tay rộng mở của Chúa Kitô, nhờ đó, Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.
Hai câu này khác nào một “bản tóm lược”: một cái nhìn bao quát về sứ vụ của Chúa Giêsu: TN3-B42
Hai câu này khác nào một “bản tóm lược”: một cái nhìn bao quát về sứ vụ của Chúa Giêsu như sẽ diễn ra trong các trình thuật tiếp theo. Maccô đặt Chúa Giêsu trong khuôn khổ những sinh hoạt chính yếu của Ngài tóm lược sứ vụ của Ngài cách thật cô đọng.
Mọi từ trong đoạn văn đều đáng quan tâm (c. 14a). Chúng được cân nhắc cẩn thận. Trước hết ta được cho hay rằng Chúa Giêsu chỉ khởi đầu sứ vụ khi Gioan chấm dứt sứ vụ của ông và bị bắt giam. Như vậy là có một mối tương quan giữa sứ vụ của hai người. Maccô không nói Chúa Giêsu từ hoang địa Giuđêa trở về (1,12). Không một chuyển tiếp nào cả, ông cho thấy ngay Chúa Giêsu đi tới Galilê. Đó là tỉnh miền bắc xứ Palestin, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng (x. Lc 4,14-16). Nhưng nhất là vì danh xưng Do Thái của nó, “Galilê” là “miền đất ngoại bang” (Is 8,23). Từ nhiều thế kỷ đây là ngã ba đường của các dân tộc. Vì những đoàn quân ngoại quốc và các thương gia đều phải qua nơi này, nên Galilê là vùng đất chung đụng từ xưa giữa những người Do Thái và dân ngoại.
Trong Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu sẽ coi vùng đất này như một trung tâm “truyền giáo” tuyệt hảo. Vì ranh giới của miền này không rõ ràng nên người Israel dễ có liên hệ với những vùng đất dân ngoại bao quanh: phía bắc có Tia và Siđon, Syrô-Phênêci (bây giờ là Libăng), phía nam có miền Thập tỉnh (bây giờ là Gioocđani). Khi coi Galilê là địa bàn hoạt động chính của Chúa Giêsu, Maccô muốn nhấn mạnh rằng lời ngôn sứ mang tính phổ quát về Đấng Mêsia trong Isaia đã ứng nghiệm: “Dân đi trong bóng tối đã nhận thấy ánh sáng rạng ngời, trên dân cư của xứ sở một luồng sáng đã bừng lên” (Is 8,23-9,1).
Trong miền đất Galilê này, Chúa Giêsu khởi sự “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (c. 14b). Đó là lời loan báo ơn cứu độ “đến” từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang theo với Ngài “Tin Mừng” này (1,1). Các độc giả của Maccô hiểu rất rõ diễn ngữ “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”. Đó là nhiệm vụ các Tông đồ đã lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh (1Tx 2,8). Nhiệm vụ này là làm cho mọi người biết rằng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa được các ngôn sứ loan báo. Chính Ngài là “Đấng Cứu độ trần gian” (Ga 4,42).
Tiếp theo, Maccô tóm lược trong hai câu đề tài căn bản trong lời công bố của Chúa Giêsu. Trước hết loan báo rằng giờ thi hành sứ vụ đã đến (c. 15a), nơi các Kitô hữu tiên khởi, thành ngữ “thời kỳ đã mãn” đã trở thành cổ điển. Nó có nghĩa là khi Chúa Giêsu đến là “thời gian đã đầy đủ” (Gl 4,4). Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu: Ngài là Đấng Mêsia đã đến để đưa lịch sử tới hồi chung cuộc “Nước Thiên Chúa đã đến gần” cũng là một xác tín của Thánh Kinh. Từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babilon, Israel đặt tất cả hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và việc thiết lập Vương Quốc Ngài trên mọi dân tộc. Nơi các ngôn sứ lòng mong đợi này càng khẩn thiết hơn (Mi 4,7; So 3,15b; Za 14,9 v.v…). Với Chúa Giêsu, Thiên Chúa hiện diện đang đích thân hoạt động. Vương Quốc Ngài đã gần kề (Mt 12,28b).
Và Maccô kết thúc bản tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu bằng cách đặt nơi miệng Ngài một lời kêu gọi cấp bách phải hoán cải để đón nhận trong đức tin biến cố hân hoan này (c.15b). Hoán cải –theo sát tiếng Hy Lạp- có nghĩa là “thay đổi não trạng”. Việc biến đổi này, một biến đổi cốt yếu nơi con người để trở lại với Thiên Chúa, cũng chính là nền tảng trong lời giảng dạy của các ngôn sứ (Am 4,6-12). Ở đây, Chúa Giêsu lặp lại một điểm nòng cốt trong sứ điệp của Gioan Tẩy Giả (1,4). Nhưng cùng với sự hoán cải cần phải có “niềm tin” vào Tin Mừng. Đó cũng là lời mời gọi của các Tông đồ khi lần đầu tiên các ngài công bố sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Phaolô đã làm thế ở Ephêsô: “Tôi kêu nài những người Do Thái và Hy Lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu” (Cv 21,21).
Không phải là ngẫu nhiên, nếu ở đây Maccô nhấn mạnh tới mối liên tục giữa sứ vụ của Giáo Hội và sứ vụ của Chúa Giêsu. Giữa hai sứ vụ này là cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Người loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa lại trở nên chính đối tượng của lời loan báo. Điều này không thể không gây ấn tượng nơi độc giả. Gọi Các Môn Đệ Đầu Tiên (1,16-20)
Maccô vẽ nên bức họa huy hoàng này vào đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Mấy tiếng đầu tiên gợi lên một lời mời gọi hướng về biển khơi (c. 16a). Chúa Giêsu đang lên đường. Sứ vụ Ngài thật cấp bách. Biển hồ Galilê –được biết đến nhiều hơn qua cái tên hồ Tibêria là một biển nước mênh mông với 21 km chiều dài và 12 km chiều rộng. Bờ hồ hướng về một chân trời rộng lớn mãi tới những miền đất dân ngoại bên kia sông Giođan. Bờ hồ này thường được Maccô nói tới như một chốn phát sinh lời mời gọi (trong đoạn văn này và ở 2, 13-14), và lời loan báo Tin Mừng cho đám đông dân chúng (2,13; 3,7-12; 5,21). Nhưng hoạt động của Chúa Giêsu ở đây lúc này chẳng khác nào như đặt nền cho một công trình xây dựng.
Ngài “thấy ông Simon với người anh là Anrê đang quăng chài xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá” (c. 16b). phía bắc hồ Tibêria nơi hai ông đang thả lưới là nơi nước ấm hơn và có rất nhiều cá. Gần bờ có nhiều ngư dân sinh sống, họ đánh bắt, ướp mặn và buôn bán cá. Chúa Giêsu hướng nhìn tới hai ngư phủ đang thả lưới. Ngài gọi các ông: “Các anh hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Ta không biết những lời mời gọi kiểu này đã gây ấn tượng gì nơi các ngư phủ ấy. Ở đây Chúa Giêsu không ngại chơi chữ. Ngài dùng thứ ngôn ngữ của nghề đánh cá để thôi thúc họ dấn thân vào sứ vụ tương lai: “lưới người như lưới cá”, kiểu nói thật kỳ cục! Theo quan niệm của người “sémites”, trong lòng biển chất chứa quyền lực đáng sợ của sự Dữ và Tử thần mà chỉ có một mình Thiên Chúa mới chế ngự nổi (4,35-41).
Khi gọi những ngư phủ này để họ trở nên “kẻ lưới bắt” Chúa Giêsu mời họ theo Ngài đi vào trần gian giải thoát con người khỏi mọi điều dữ. Ta phải ngạc nhiên khi thấy Simon và Anrê mau lẹ đáp lại lời Chúa Giêsu kêu gọi (c. 18). Câu nói “bỏ chài lưới” nêu bật sự kiện những ngư phủ này từ bỏ công việc họ đang theo đuổi, và các ông bỏ dụng cụ hành nghề lại đó thật đột ngột khiến ta phải ngạc nhiên. Chẳng có trao đổi gì giữa họ với Chúa Giêsu cả. Chỉ mình Ngài nói, còn các ông thì thực hiện lời Ngài, chẳng khác gì những người máy.
Còn phải ngạc nhiên hơn nữa khi đọc tới đoạn văn thứ hai vắn gọn và hoàn toàn song # đối với đoạn trên (c. 19-20). Lần này Chúa Giêsu không hề nói cho Giacôbê và Gioan biết họ sẽ làm gì. Thế mà chẳng những các ông bỏ dụng cụ hành nghề mà còn bỏ cả những người cùng chung sống nữa (cha già và những người làm công).
Các chi tiết của hai trình thuật trên đây diễn ra theo một trật tự giống hệt nhau:
- Chúa Giêsu đi ngang qua. - Ngài thấy hai người là anh em với nhau. - Ngài gọi họ. - Lập tức họ bỏ tất cả mà đi theo Ngài.
Không chắc chắn lắm là biến cố đã xảy ra như vậy và một cách tự động như thế. Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan sẽ trở nên những cộng tác viên chính với Chúa Giêsu trong sứ vụ của Ngài (3,16-17).
Phải chăng tình cờ mà họ được gọi và họ cũng chẳng kịp tự do quyết định nữa? Chẳng ai lại dấn thân vào một cuộc sống “khác” chỉ bằng một cái gật đầu rồi đi theo một kẻ xa lạ, dù kẻ ấy có sức lôi cuốn tới đâu chăng nữa! Trình thuật về các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan hẳn phải gắn với thực tế hơn (Ga 1,35-51). Trong đó ta thấy Chúa Giêsu mở cuộc đối thoại với những kẻ Ngài gọi và cho họ có thì giờ để quyết định cách chín chắn, sau một thời gian họ quen biết Ngài và đã ở với Ngài.
Maccô không quan tâm gì đến mặt tâm lý của sự kiện. Thế thì Maccô muốn cho trình thuật của ông có ý nghĩa gì? Câu trả lời sẽ dễ dàng nếu ta biết rằng Maccô đã cảm hứng từ một trình thuật mẫu về ơn gọi trong Thánh Kinh. Đó là câu truyện Elia gọi Elisê đi làm môn đệ ông (IV 19,19-21). Trong trình thuật này ta thấy người được gọi đã từ bỏ ngay mọi việc để đi theo thầy. Người ấy cũng chẳng được vị ngôn sứ cho phép về từ biệt cha mẹ nữa. Ngay tức thời, ông từ bỏ gia đình và nghề nghiệp: “Ông chỗi dậy và đi làm môn đệ Elia”.
Khi mô phỏng đoạn Thánh Kinh này để diễn tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, Maccô muốn nêu bật điều căn bản trong việc làm môn đệ Đấng Mêsia. Ông nhấn mạnh hai điều: Trước hết sáng kiến về lời mời gọi đến hoàn toàn từ Chúa Giêsu. Sau đó là chính lời mời gọi này: nó mang tính hiệu nghiệm tuyệt đối của Lời Thiên Chúa: “Ngài phán…và đã có” (x. St 1,3 v.v…). Hiệu quả của lời mời gọi đó là việc từ bỏ hẳn gia đình và nghề nghiệp. Chúng ta cần ghi nhận rằng không phải mọi người đều được yêu cầu cắt đứt những mối dây liên hệ cốt yếu và chính đáng này. Lời kêu mời chỉ được gửi tới một số người có ơn gọi rất đặc biệt. Simon (Phêrô) và Anrê, Giacôbê và Gioan là người được gọi để trở thành “cộng tác viên” gần gũi với Chúa Giêsu trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng (x. Thiết lập nhóm Mười Hai: 3,16-19).
Chắc chắn khi đặt trình thuật này như một “khai mở” cho toàn bộ cuốn Tin Mừng, Maccô đã có những ý định rõ rệt. Ý thứ nhất là Chúa Giêsu thi hành một tác vụ “nay đây mai đó”, đòi hỏi một cuộc sống và một sinh hoạt hết sức tự do. Theo quan điểm này, những ràng buộc với nghề nghiệp và gia đình sẽ gây cản trở. Tiếp đến, Maccô muốn hợp thức hóa sứ vụ Tông đồ như được trình bày. Sau khi thành lập nhóm Mười Hai, các môn đệ được sai đi từng hai người một, theo cách thức chính Chúa Giêsu đã dùng (x. Sai đi rao giảng: 6,7). Sau cùng, để đi theo Chúa, Phêrô và nhóm Mười Hai đã nêu gương từ bỏ tuyệt đối (x. 10,28). Có lẽ Maccô cũng muốn gợi ý với Giáo Hội Rôma, mà ông viết Tin Mừng cho, rằng trong cuộc bách đạo các Kitô hữu tân tòng cũng có thể được mời gọi từ bỏ những điều quý giá nhất: vị trí trong xã hội và những liên hệ gia đình.
Qua suốt dòng lịch sử của mình, Giáo Hội đã đọc được nơi những trang Tin Mừng này lời mời gọi những ai muốn theo sát bước chân Chúa Giêsu từ bỏ những của quý giá nhất.
Trình thuật vừa đọc cho ta cảm tưởng rằng những sự kiện ấy xảy ra cách dồn dập. Nó khác nào phần rút gọn của cả một cuốn phim sẽ diễn ra trong suốt Tin Mừng. Lời Chúa Kitô mời gọi khiến các môn đệ “cất bước đi theo Ngài và vận dụng hết nghị lực để phục vụ Ngài. Cần ghi chú rằng, đối với nhiều người, bút pháp của Maccô gây một cảm giác mau lẹ thúc bách người đọc. Ông sử dụng cả một lô trạng từ “lập tức”. Hai lần trong đoạn văn trên đây (c. 18a và 20a) và tới mười một lần chỉ nguyên trong chương thứ nhất thôi. Rất thường những tiếng “lập tức” này không hề có giá trị thời gian. Chúng chỉ tương đương với liên từ “và”.
Trong bảng tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu trên đây, có ba chữ vốn là những chữ quan trọng: TN3-B43
Trong bảng tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu trên đây, có ba chữ vốn là những chữ quan trọng trong đức tin Kitô giáo.
1) Có Tin Mừng. Đó là Tin Mừng ưu việt mà Chúa Giêsu đã đem đến cho loài người. Theo dõi từ euaggelion, Phúc Âm, qua suốt Tân Ước, ít ra chúng ta cũng thấy được điều gì đó trong nội dung của nó.
a) Đó là Tin Mừng chân lý (Gl 2,5; Cl 1,5). Trước khi Chúa Giêsu đến, loài người chỉ phỏng đoán, mò mẫm để tìm Thiên Chúa. Gióp từng than thở “Ôi chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa” (G 23,3). Marcus Aurelius bảo linh hồn chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ, và chữ ông dùng là một chữ Hy Lạp chỉ về việc trông thấy xuyên qua nước. Nhưng khi Chúa Giêsu đến, người ta thấy rõ ràng Thiên Chúa là thế nào. Họ không còn cần phỏng đoán, mò mẫm nữa, họ biết rõ.
b) Đó là Tin Mừng hy vọng (Cl 1,23). Thế giới thời cổ là một thế giới bi quan, Seneca đề cập về “sự bất năng, bất lực của chúng ta là điều tất yếu”. Trong cuộc chiến đấu cho điều thiện, loài người đã bị đánh bại và Chúa Giêsu đến đem hy vọng cho những tâm hồn tuyệt vọng.
c) Đó là Tin Mừng bình an (Ep 6,15). Hình phạt dành cho con người là một nhân cách bị rạn nứt, giằng xé trong nội tâm. Trong nhân tính, con thú và thiên thần bị hòa lẫn vào nhau một cách quái dị. Người ta kể rằng có lần triết gia đi qua Schopenhauer đang đi lang thang, có người hỏi: Ông là ai? Ông đáp: Tôi hy vọng ông có thể nói cho tôi biết. Còn Robert Burns tự nói về mình “Cuộc đời của tôi làm cho tôi nhớ lại một ngôi đền đã đổ nát. Ở một phần thì thật vững chắc, cân đối, nhưng ở những phần khác thì đầy lỗ hổng và những cảnh đổ nát hư hại tuyệt vọng”. Cái rắc rối nơi con người luôn luôn bị cả tội lỗi lẫn sự thiện ám ảnh. Chúa Giêsu đã đến để kết hợp phần nhân cách bị tách rời đó của con người lại với nhau, Ngài đã chiến thắng bản ngã để giúp kẻ bị Ngài bắt phục chiến thắng được phần bản ngã đang tranh chiến của mình.
d) Đó là Tin Mừng về lời hứa của Thiên Chúa (Ep 3,6). Nói đúng ra, thì loài người luôn luôn nghĩ về một Thiên Chúa đầy đe dọa chứ không phải một Thiên Chúa của những lời hứa. Tất cả các tôn giáo phi Kitô giáo đều nghĩ đến một Thiên Chúa hay đòi hỏi điều này, điều nọ, chỉ Kitô giáo mới giảng về một Thiên Chúa sẵn sàng ban cho nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin.
e) Đó là Tin Mừng về sự bất tử, bất diệt (2Tm 1,10). Với người ngoại đạo, thì sống là đang ở trên đường đi tới cõi chết, đặc điểm của loài người là hay chết, nhưng Chúa Giêsu đã đến với Tin Mừng là chúng ta đang đi trên con đường sự sống chứ không phải con đường sự chết.
g) Đó là Tin Mừng cứu rỗi (Ep 1,13) và Tin Mừng ấy không phải là một cái gì tiêu cực, nó là một điều tích cực. Nó không phải chỉ đơn giản là giải phóng khỏi hình phạt, khỏi các tội lỗi của quá khứ, nhưng là quyền phép để sống chiến thắng và để chinh phục tội lỗi. Sứ điệp của Chúa Giêsu thật là những tin tốt lành.
2) Có từ ăn năn. Ăn năn không quá dễ dàng như thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghĩ. Từ Hy văn metanoia nghĩa đen là thay đổi tâm trí. Chúng ta rất dễ lẫn lộn hai sự việc là hối tiếc vì các hậu quả của tội lỗi với hối tiếc vì chính tội lỗi. Nhiều người hết sức hối tiếc về tình trạng bẩn thỉu mà họ đã dính vào nhưng chính họ cũng hiểu rằng, nếu họ biết chắc là có thể tránh được các hậu quả của tội lỗi thì họ vẫn cứ tái phạm như thường. Họ không thù ghét chính tội lỗi, chỉ không thích các hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là chẳng những hối tiếc về hậu quả của tội lỗi mà còn thù ghét chính tội lỗi nữa. Từ xưa, nhà văn lão thành Montaigne đã viết trong tập tự truyện của ông “Trẻ con phải được dạy dỗ để ghét thói xấu, vì chính bản chất của nó, để chẳng những tránh hành động, mà còn ghét thói xấu tận thâm tâm nữa, để chính ý nghĩ về thói xấu cũng khiến chúng ghê tởm dù dưới bất cứ hình thức nào”. Ăn năn có nghĩa là kẻ đang yêu thích tội lỗi trở lại thù ghét nó vì tính cách khốn cùng của tội lỗi. Vậy ăn năn là hoán cải.
3) Có từ tin. Chúa Giêsu phán “Hãy tin Tin Mừng”. Tin Tin Mừng chỉ đơn giản có nghĩa là nắm lấy lời phán dạy của Chúa Giêsu, tin rằng Chúa đúng như lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, tin rằng Chúa yêu thương thế gian đến nỗi sẵn sàng hy sinh bất cứ điều gì để đưa chúng ta trở về với Ngài, tin rằng điều nghe ra khó có thể là sự thật, sẽ thật sự trở thành sự thật.
CHÚA GIÊSU CHỌN BẠN (Mc 1, 16-20)
Ngay sau khi Chúa Giêsu đã quyết định và xác định phương pháp hành động, thì Ngài bắt tay thiết lập bộ tham mưu của Ngài. Một lãnh tụ phải bắt đầu từ một điểm nào đó. Người ấy phải tự tạo cho mình một nhóm người để có thể thổ lộ tâm sự, để viết thông điệp của mình ngay trên tấm lòng của họ. Ở đây, Máccô cho chúng ta thấy việc Chúa đã thực sự đặt nền móng cho Nước Trời, và gọi số người đầu tiên theo Ngài.
Tại xứ Galilê có nhiều ngư dân, Josephus có một thời gian làm tổng đốc Galilê và là một đại sử gia của dân Do Thái, kể lại vào thời ông có 330 thuyền đánh cá trên biển Galilê. Dân chúng ở Palestine thường ít ăn thịt, nói chung thì hàng tuần họ không ăn hơn một lần. Cá là thức ăn chính của họ (Lc 11,11; Mt 7,10; Mc 6,30-44; Lc 24,12). Bình thường cá được đem muối vì không có phương tiện vận chuyển cá tươi. Cá tươi là một trong những loại cao lương mỹ vị ở các đô thị lớn, chẳng hạn như Rôma. Chính tên của các thị trấn nằm trên bờ biển hồ cho thấy nghề chài lưới rất quan trọng. Bếtsaiđa có nghĩa là nhà cá, một thị trấn khác trên bờ biển hồ tên Tarichaea có nghĩa là công trường cá muối. Chính tại đây cá được chuẩn bị để chở đến Giêrusalem và đến tận Rôma. Nghề buôn cá muối là một kỹ nghệ quan trọng tại Galilê.
Ngư dân thường dùng hai loại lưới, cả hai đều được đề cập trực tiếp hoặc ngụ ý trong các sách Phúc Âm. Có một loại gọi là sagènè, là một loại lưới kéo, người ta để nó ở phía sau lái thuyền, rất nặng và được thả ngay trên mặt nước, khi thuyền đi tới, nó chìm xuống dần dần, bốn góc lưới gặp nhau và trở thành một cái túi lớn nhốt cá vào trong. Loại thứ hai là loại mà Phêrô và Anrê vẫn dùng gọi là blestron, nó là một loại chài nhỏ, được khéo léo quăng ra bằng tay, nó có hình dáng như cây dù ném xuống nước và chìm dần để úp chụp cá vào trong.
Lẽ dĩ nhiên, nghiên cứu kỹ số người mà Chúa Giêsu đã chọn làm môn đệ là điều vô cùng thích thú.
1) Chúng ta chú ý xem họ là ai. Họ chỉ là những người thường, họ không hề xuất thân từ một trường cao đẳng nào, họ không hề được tuyển chọn từ giới tư tế, hoặc dòng quý tộc, không có học thức cũng không giàu có gì. Họ chỉ là ngư dân, nghĩa là những con người tầm thường, bình dị. Chưa hề có ai tin tưởng vào những con người bình thường như Chúa Giêsu. George Bernard Shaw có lần nói “Tôi chưa hề nghĩ gì về giai cấp công nhân, ngoại trừ muốn xóa bỏ nó đi để thay vào bằng những kẻ nhạy cảm”. Trong quyển “The Patrician”, John Galsworthy ký thác lời cho một nhân vật của ông: “Quần chúng, tôi không ưa họ, tôi ghét sự ngu xuẩn đê tiện của họ, tôi ghét tiếng ồn ào của họ, ghét nhìn thẳng gương mặt họ, nó nhỏ mọn xấu xí làm sao ấy”. Trong một cơn giận Carlyle đã tuyên bố rằng tại Anh Quốc có 27 triệu người thì đa số đều là những người điên. Chúa Giêsu đã không cảm thấy như vậy, Lincoln nói: “Đức Chúa Trời yêu thương giới bình dân, Ngài đã tạo ra họ thật đông đảo”. Dường như Chúa Giêsu muốn mời gọi “hãy giao cho tôi mười hai người tầm thường, và với chừng ấy, nếu họ tự hiến thân cho tôi, tôi sẽ thay đổi cả thế giới này”. Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình là gì, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa sẽ khiến chúng ta trở thành.
2) Chúng ta chú ý lúc Chúa Giêsu gọi thì họ đang làm gì. Họ đang làm công việc hàng ngày của mình, họ đang đánh cá, vá lưới. Với nhiều ngôn sứ cũng vậy, Amos nói “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng không phải là con của người ngôn sứ, nhưng tôi là một kẻ chăm sóc những cây vả rừng. Chúa đã bắt lấy tôi và phán cùng tôi rằng: Hãy đi, nói cho dân Israel” (Am 7,14.15). Tiếng gọi của Chúa Trời đến với một người không phải chỉ xảy ra trong nhà Chúa, cũng không chỉ ở nơi bí mật, nhưng giữa lúc người ấy làm công việc hàng ngày. Một người sống trong một thế giới luôn có sự hiện diện của Chúa sẽ không thể nào trốn thoát khỏi Ngài được.
3) Chúng ta chú ý xem Ngài đã gọi họ như thế nào. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu là “Hãy theo Ta”. Xin đừng nghĩ rằng hôm ấy là lần đầu tiên Ngài đứng trước mặt họ. Chắc chắn họ đã từng đứng giữa đám đông để lắng nghe Ngài; họ đã từng nán lại để trò chuyện cùng Ngài sau khi số còn lại trong đám đông đã giải tán, và họ đã từng cảm thấy một điều gì kỳ diệu từ đôi mắt vốn có sức thu hút lạ lùng của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hề nói với họ “Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư vào các ngươi, Ta có một số triết thuyết muốn các ngươi suy nghĩ, Ta muốn được thảo luận với các ngươi”.
Ngài phán “Hãy theo Ta”. Tất cả đều bắt đầu bằng một phản ứng cá nhân đối với Ngài, tất cả đều bằng một xúc động từ thâm tâm, làm nảy sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. Nói thế không có nghĩa là một khi muốn theo Chúa Cứu Thế chẳng có ai suy nghĩ gì cả, nhưng phần đông trong chúng ta, theo Chúa Cứu Thế như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu vậy. Có người đã tâm sự “chúng ta thán phục người khác có lý do, còn chúng ta yêu người khác thì chẳng có lý do gì cả”. Sự việc xảy ra chỉ vì họ là họ, mà ta là ta, vậy thôi. Chúa Giêsu phán “Còn Ta khi Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (Ga 12,32). Nói theo số đông, sở dĩ chúng ta theo Chúa Giêsu chẳng phải do điều Chúa Giêsu đã phán, nhưng do tất cả những gì vốn tự có nơi Ngài.
4) Cuối cùng, chúng ta chú ý đến điều Chúa Giêsu đã ban cho họ. Ngài giao cho họ một nhiệm vụ: Ngài không gọi để họ gặp mọi sự dễ dãi, thoải mái, Ngài gọi họ để phục vụ. Có người bảo rằng, mọi người đều cần “một cái gì đó để có thể đầu tư cuộc sống của mình vào đây”. Chúa Giêsu đã gọi người ta theo Ngài không phải để cho họ được mọi sự dễ dàng thoải mái, không phải để sống thụ động, cả ngày chỉ đọc kinh cầu nguyện, chẳng làm gì cả. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà họ phải dành cả đời sống, phải hăng say gấp rút để đến cuối cùng, phải chết cho Ngài và cho đồng bào đồng loại. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà chẳng những họ không được gì cho riêng mình, nhưng còn phải hiến dâng tất cả cho Ngài và cho tha nhân.
Một hôm Satan kêu trách Thiên Chúa rằng: "Chúa thật là bất công ! Cụ thể là có rất nhiều: TN3-B44
- Một hôm Satan kêu trách Thiên Chúa rằng: "Chúa thật là bất công ! Cụ thể là có rất nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế mà Ngài vẫn thường hay tha tội cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha thứ cho chúng. Còn tôi, tôi chỉ phạm tội không vâng lời Ngài duy chỉ một lần, thế mà Ngài kết án phạt tôi phải hoả ngục đời đời, và không bao giờ tha tội cho tôi !". Bấy giờ Thiên Chúa ôn tồn nói với tên quỷ kia rằng: "Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người tội lỗi là vì chúng khiên tốn nhận mình là kẻ có tội, và hồi tâm sám hối, quyết tâm canh tân đời sống. Còn ngươi, từ ngày ngươi phạm tội kiêu ngạo bất tuân lời Ta, chống lại Ta và bị phạt trong hoả ngục đến nay, đã có bao giờ ngươi khiêm nhường nhận lỗi và hồi tâm sám hối để xin Ta tha thứ cho ngươi hay chưa?"
- Phạm tội là khi ta làm phiền lòng Chúa, khi ta cố tình bỏ không làm những điều Chúa buộc hoặc cố ý làm những điều Chúa cấm trong Thánh Kinh. Những điều luật Chúa buộc hay cấm được tóm lại trong 3 bản kinh sau đây: Kinh "Mười Điều Răn Đức Chúa Trời", kinh "Sáu Điều Răn Hội Thánh", và kinh "Thương Người Có Mười Bốn Mối".
- Khi phạm tội là ta đã làm mất lòng Chúa, làm cho Chúa phải phiền lòng vì ta. Nếu muốn được Cháu tha tội, được giao hoà với Chúa, thì ta phải sám hối ăn năn. Sự ăn năn thực sự được biểu lộ qua việc hồi tâm xét mình nghiêm túc, lo buồn trách mình vì đã phạm tội mất lòng Chúa, khiêm nhường thú tội với vị linh mục trong toà giải tội, quyết tâm chừa cải bằng cách xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng.
2) HÃY TIN VÀO TIN MỪNG:
- Đức tin được chia thành 3 bậc từ thấp đến cao với những đặc điểm của mỗi bậc như sau:
+ Bậc một là Tin có Thiên Chúa: Hầu như mọi người trên thế giới thuộc mọi dân tộc và tôn giáo xưa nay đều tin có Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật và an bài cho chúng được tồn tại trong trật tự. Người ta tôn thờ Đấng ấy và gọi Người bằng nhiều Danh hiệu như: Ông Trời, Tạo Hoá, Hoá Công, Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, Đức Chúa, Giavê hay Giêhôva, Đấng Alla, Chúa Cha... Tin có Thiên Chúa sẽ giúp cho người ta ăn ngay ở lành vì tin vào sự trả báo công minh của ông Trời như người ta thường nói: "Ác giả ác báo", "Ở hiền gặp lành", "Gieo gió gặt bão", "Lưới trời lồng lộng: tuy thưa mà khó lọt" ...
+ Bậc hai là Tin vào Đức Giêsu: Các Kitô hữu là những người tin vào Đức Giêsu: Ngài được Thiên Chúa sai đến ban ơn cứu độ loài người và được gọi là Đấng Thiên Sai hay là "Đức Kitô", là "Con Thiên Chúa" (x. Mt 16,16). Tuy vậy không phải mọi người tin vào Chúa Giêsu đều là người tốt và đều được ơn cứu độ. Nhiềi tín hữu đã bị Chúa loại ra khỏi Nước Trời vì chỉ tuyên xưng Đức Tin ngoài môi miệng. Họ chỉ biết nói "Lạy Chúa!" mà không làm theo Ý Thiên Chúa Cha (x. Gc 2,17; Mt 7,21)
+ Bậc ba là Tin vào Tin Mừng: Muốn được ơn cứu độ thì không những phải tin có Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, mà còn phải tin vào Tin Mừng do Ngài rao giảng. Cụ thể là phải lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,29.34.38) luôn làm đẹp lòng Chúa Cha (x. Mt 3,17) sống yêu thương (x. Ga 13,34), quảng đại chia sẻ và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh (x. Mt 25, 34-46).
- Vậy đức tin của mỗi người chúng ta đang ở cấp độ nào trong ba cấp nói trên? Ở cấp một khi ta mới tin có Thiên Chúa giống như bao người lương khác? Ở cấp hai, khi ta tin Đức Giêsu, chịu phép rửa tội để trở thành Kitô hữu trong các đạo tin thờ Thiên Chúa do Đức Kitô ra giảng như: Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống và Anh Giáo? Để được ơn cứu độ thì ta phải có đức Tin cấp ba, nghĩa là phải Tin vào Tin Mừng. Vậy mỗi người chúng ta quyết tâm sẽ làm gì cụ thể để thanh luyện đức Tin của ta, để quyết tâm làm theo Thánh Ý Thiên Chúa?
3) ĐÁP LẠI LỜI MỜI GỌI CỦA ĐỨC GIÊSU:
- Ơn gọi của Êlisa (1V 19,19-21): Vào thời kỳ các vua, khi Êlisa đang cày dưới ruộng thì tiên tri Êlisa đi ngang qua. Vị tiên tri đã lấy áo choàng đang mặc ném lên người Êlisa. Êlisa liền chạy theo xin phép Êlisa về nhà từ giã cha mẹ trước khi đi theo. Được thầy đồng ý, Êlisa đã về nhà bắt giết cặp bò đang dùng để làm lễ tế, rồi dùng chiếc cày làm củi đun thịt bò để đãi người thân trước khi đi theo làm đầy tớ phục vụ cho vị tiên tri.
- Ơn gọi của 4 môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu (Mc 1,16-20):
+ Ơn gọi xuất phát từ nơi Đức Giêsu (x. Ga 15,16): Chính Ngài đã gọi các ôn g: "Các anh hãy theo Tôi". + Theo Chúa đi đôi với sự dứt khoát từ bỏ những gì cản trở sứ mệnh tông đồ: Các môn đệ đã lập tức bỏ chài lưới và bỏ cha già mà đi theo Người (x. Mc 1,18.20).
+ Ơn gọi là nhận lãnh sứ mệnh làm tông đồ: Đức Giêsu đã thu nhận 72 môn đệ (x.Lc 10,1), chọn ra 12 tông đồ (x. Mt 10,1; Mc 3,14; Lc 6,13), rồi sai đi làm cho muôn dân thành môn đệ của Thầy (x. Mt 28,19) và nên "chứng nhân của Người" (x. Cv 1,8).
- Ngày nay Đức Giêsu cũng kêu gọi chúng ta làm môn đệ và làm tông đồ của Người. Theo Đức Giêsu hôm nay chính là đến với anh em lương dân chưa nhận biết Chúa đang sống gần bên chúng ta. Theo Đức Kitô hôm nay cũng không buộc ta phải bỏ nghề nghiệp của mình, phải từ bỏ mọi của cải vật chất, từ bỏ tình cảm đối với gia đình ruột thịt... nhưng đòi ta phải bỏ ý riêng, vác thập giá mình mà theo chân Chúa. Theo Đức Kitô hôm nay đòi ta phải dùng của cải như phương tiện để ta làm sáng Danh Chúa, chia cơm sẻ áo cho người nghèo đang gặp thiên tai bão lụt... Theo Đức Kitô hôm nay là tích cực xóa đói giảm nghèo, là giúp đỡ người nghèo có điều kiện để tự kiếm sống bằng chính đôi tay lao động của mình. Vậy chúng ta đã làm được gì và phải làm gì trong những ngày này?
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về thành Ninivê mà bài đọc thứ nhất hôm nay đã gợi lại. Bấy: TN3-B45
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về thành Ninivê mà bài đọc thứ nhất hôm nay đã gợi lại. Bấy giờ Chúa phán với ông Giona: Hãy chỗi dậy, đi đến Ninivê, kinh thành vĩ đại và công bố cho hay điều Ta sẽ truyền cho ngươi. Ninivê là một thành phố rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đàng. Ông Giona mới đi rảo trong thành có một ngày và công bố: Còn 40 ngày nữa thì Ninivê sẽ bị tan phá. Dân chúng tin vào Thiên Chúa. Họ công bố lệnh ăn chay và tất cả mọi người từ lớn chí bé đều mặc áo vải thô. Chúa thấy việc họ làm, từ bỏ đường gian ác, thì đã tha thứ và không trừng phạt họ nữa. Đó là câu chuyện xảy ra trong Cựu Ước. Dân thành Ninivê thực thi sứ điệp tiên tri Giona truyền dạy, đó là ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi và đã được Chúa thứ tha.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi chúng ta như thế: Nước Thiên Chúa đã đến gần, nên phải sám hối và tin vào Phúc Âm. Chúa Giêsu rất nhiều lần đã cho chúng ta thấy: Là Đấng thánh thiện Ngài ghét bỏ tội lỗi, nhưng lại tỏ ra khoan dung và nhân từ đối với các tội nhân. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Và khi tìm thấy, thì vui mừng vác nó trên vai, đem về nhà. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc bị đánh rơi và khi tìm thấy thì mời chị em lối xóm đến chia vui với mình.
Thế nhưng để được Chúa tha thứ, Ngài đòi hỏi chúng ta một điều kiện đó là hãy sám hối quay trở về với Ngài. Phúc Âm đã kể lại câu chuyện chàng trai phung phá. Trong bước đường truân chuyên gian khổ, chàng đã hối hận, quyết tâm lên đường trở về để rồi cuối cùng chàng đã được người cha tha thứ.
Phúc Âm cũng đã cho chúng ta thấy sở dĩ Phêrô đã được tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội vì ông đã biết đấm ngực ăn năn về lầm lỗi của mình. Mađalena đã được tha thứ vì đã biết sám hối, khóc cho quãng đời tội lỗi của mình. Tên trộm lành cũng đã được tha thứ vì anh đã biết trở về với Chúa cho dù vào những giây phút cuối cùng.
Có một chàng trai, bất mãn với gia đình đã bỏ nhà đi bụi đời. Sau đó chàng hối hận muốn quay trở về nhưng không biết cha mẹ có sẵn sàng tha thứ cho hay không. Bởi đó chàng đã viết thư và nói nếu thầy mẹ sẵn sàng tha thứ thì đến ngày ấy giờ ấy hãy treo một tấm áo nơi cửa sổ. Nhận thấy tín hiệu ấy, chàng sẽ trở về. Vào ngày giờ đã quy định thầy mẹ chàng không những chỉ treo một tấm áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, rồi chăn mùng mền, tất cả đều được treo trên các khung cửa và chàng đã được đón nhận vào trong tình thương của gia đình.
Từ những điều vừa chia sẻ cha muốn đi tới một kết luận đó là hãy sám hối quay trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ tình thương của Chúa bởi vì những tâm tình ăn năn là như một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
Không bao giờ chúng ta coi trọng Lời Chúa mà lại không thay đổi gì trong đời sống của mình: TN3-B46
Không bao giờ chúng ta coi trọng Lời Chúa mà lại không thay đổi gì trong đời sống của mình.
Thiên Chúa lên tiếng.
Chúng ta thuộc vào số những kẻ tin rằng Thiên Chúa đã ngỏ lời với nhân loại và Ngài vẫn tiếp tục ngỏ lời bằng nhiều cách.
Các biến cố xảy đến trên thế giới hoặc trong chính cuộc đời chúng ta thường là Lời Chúa: một thiên tai, một chiến thắng trên bệnh tật, cái chết của một người thân, một đứa con ra đời, một cử chỉ tử tế hoặc thù hằn mà người nào đó làm cho chúng ta. Có bao nhiêu sứ điệp của Thiên Chúa mà ta cần biết nhận ra.
Cả Thánh Kinh nữa, tức là Lời mà Thiên Chúa đã nói với loài người suốt lịch sử thánh và đã được ghi chép cẩn thận. Luôn luôn mang tính thời sự. Lời này được loan báo và giải thích cho chúng ta mỗi Chúa nhật. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể đọc, suy gẫm và đào sâu Lời này.
Chắc chắn, Lời Chúa luôn luôn ở trong tầm tay chúng ta như một ánh sáng có thể soi sáng chúng ta, như một nguồn suối, mà bao giờ chúng ta cũng có thể đến giải khát.
Trân trọng Lời Chúa.
Tuy nhiên, vấn đề là biết được chúng ta đã làm gì với Lời Chúa. Vì, đọc và nghe Lời Chúa chưa đủ, ta cần phải đem ra thực hành nữa. Biết Lời Chúa không đủ, còn phải lấy Lời Chúa mà hướng dẫn đời mình nữa.
Những gì được nói với chúng ta trong các bài đọc Thánh lễ hôm nay soi sáng và thách thức chúng ta. Ngôn sứ Giona rao giảng khắp thành phố Ninivê loan báo hình phạt của Chúa. Dân chúng trong thành phố lớn này có thể giả điếc làm ngơ và tự nhủ Giona này chỉ là một tiên tri giả thôi hoặc là một kẻ mơ mộng, không bình thường. Nhưng trái lại, họ đã khôn ngoan tin rằng người này nói nhân danh Thiên Chúa và họ đã đáp lại lời giảng của ông: họ ăn chay và thay đổi cuộc sống. như vậy, họ đã khiến Thiên Chúa “từ bỏ hình phạt mà Ngài đe dọa họ”.
Vậy việc trân trọng Lời Chúa đã khiến dân thành Ninivê thay đổi cuộc sống. Đối với họ, không phải chỉ kính cẩn, chăm chú nghe Lời Chúa, chỉ suy gẫm Lời Chúa mà thôi, còn phải hành động theo những đòi hỏi của Lời ấy nữa. Lời Chúa đòi hỏi gắt gao.
Cũng một sứ điệp như vậy trong Tin Mừng. Trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, các tông đồ tương lai đáp trả bằng cách biến đổi hoàn toàn cuộc sống của họ. “Tức khắc, họ bỏ lưới, (Simon và Andrê) để đi theo Chúa Giêsu”.
Giacôbê và Gioan em ông cũng làm như vậy nữa “bỏ cha và những người làm công lại trong thuyền, họ đi theo Ngài”.
Chúng ta đừng đọc trang Thánh Kinh này như một câu chuyện thần tiên trong đó các anh hùng giải quyết mọi sự mà không cần cố gắng. Đối với Simon và Andrê, đối với Giacôbê và Gioan, đối với dân thành Ninivê, quyết định trân trọng lời mời gọi của Thiên Chúa là điều vất vả. Quyết định ấy đã đòi hỏi thay đổi cuộc sống.
Ta không thể thật sự trân trọng Lời Chúa mà không bao giờ thay đổi gì cả trong cuộc sống của mình. Đây là sứ điệp của hôm nay. Về điểm này, chúng ta phải tự hỏi: trong cụ thể, chúng ta làm gì với Lời Chúa mà chúng ta đã nghe từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác? Trong bao nhiêu năm nay chúng ta đã đi lễ, chúng ta có thực sự coi trọng Lời Chúa vẫn được loan báo và giải thích cho chúng ta không? Chúng ta hãy chính xác hơn nữa: chúng ta có thể kể ra những lần chúng ta đã thay đổi điều gì đó trong cuộc sống của mình vài Lời Chúa ta đã nghe không?
Thời gian thật ngắn ngủi.
Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Thời gian thật ngắn ngủi”. Vậy không phải ngày mai mà ngay hôm nay chúng ta phải tìm cách gạt đi những gì giả tạo hay vô ích trong cuộc sống chúng ta và tập trung vào điều chính yếu. Những gì dân Ninivê đã làm. Những gì các môn đệ sơ khởi đã làm.
Chắc hẳn chúng ta cần một ơn đặc biệt để hành động như vậy. Ơn này không thiếu cho chúng ta đâu. Hôm nay Thiên Chúa không ít quảng đại hơn hôm qua đâu. Vậy chúng ta hãy nài xin Ngài cho chúng ta được ơn không những biết nghe Lời Chúa mà còn biết “đem ra thực hành” nữa. “Không phải những kẻ nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời đâu, nhưng những kẻ thực thi ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).
Hầu hết mọi người đã được nghe về câu chuyện tiên tri Giona bị con cá voi nuốt. Điểm chính: TN3-B47
Hầu hết mọi người đã được nghe về câu chuyện tiên tri Giona bị con cá voi nuốt. Điểm chính của câu chuyện này thì bị lãng quên, nếu chúng ta không biết hoặc không nhớ thế nào mà ngài đã lâm vào tình trạng bi đát đó. Thiên Chúa đã kêu gọi Giona làm tiên tri cho Người và đến rao giảng cho những người dân trong thành Ninivê. Giona không đơn giản là một tiên tri dễ bảo như tiên tri Isaia, Giêrêmia, Amos. Ngài đã làm một cuộc cách mạng chống lại những ước muốn của Thiên Chúa. Lý do của ngài là người dân Ninivê không phải là dân Do Thái. Họ là kẻ thù của người Do Thái. Giona sợ rằng những người dân Ninivê sẽ nghe những lời rao giảng của ông, thống hối và sẽ trở nên có ơn nghĩa với Thiên Chúa. Đó là điều sau cùng mà ông muốn xảy ra. Yêu cầu Giona rao giảng cho những người dân thành Ninivê thì giống như yêu cầu một cổ động viên của Dalas Cobow cầu nguyện cho đội Francico Fortinight chiến thắng Super Bowl.
Khi Giona cố gắng chạy trốn Thiên Chúa. Ông ta lên một chiếc thuyền và sau đó liền lâm vào một cơn bão đe doạ đến sự sống của toàn thuyền, khi ấy những người thuỷ thủ kết luận rằng, Giona chính là vấn đề nên họ đã liệng ông ra khỏi thuyền. Ông bị nuốt bởi một con cá khổng lồ, Thiên Chúa ra lệnh cho cá nhả Giona vào bãi biển, đó là đường lối của Thiên Chúa để nói cho Giona rằng; “Bây giờ anh phải vui lòng đi và rao giảng cho người dân Ninivê về những gì sẽ xảy ra”.
Sách Giona thì giống như những dụ ngôn của Chúa Giêsu, ở đó tiềm ẩn những bài học quan trọng để giáo huấn. Giona đại diện cho những người nhỏ mọn, rất ích kỷ, người không muốn chia sẻ bất cứ điều gì với người khác và ngay cả Thiên Chúa nữa. Giona là biểu tượng cho những người oán ghét người khác, tham lam, và từ chối sự giảng hoà với kẻ thù của mình, cho dù họ vẫn trông đợi Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho họ. Giona đại diện cho những người đó, những người không hiểu biết Thiên Chúa.
Thiên Chúa thì lớn lao nhưng chúng ta có khuynh hướng nhỏ mọn ti tiểu. Thiên Chúa đang tha thứ nhưng chúng ta có khuynh hướng từ chối những kẻ làm tổn thương chúng ta. Thiên Chúa là Đấng quảng đại nhưng chúng ta có khuynh hướng trở thành ích kỷ. Dấu hiệu của Thiên Chúa thì rất khác biệt với Giona và tất cả những ai giống như Người là thánh giá. Trong kinh nguyện Thánh Thể thứ hai chúng ta nói với Chúa Giêsu rằng: “Ngài đã giang rộng cánh tay trên thánh giá”, Ngài đã làm như vậy để âu yếm những người nam, người nữ trong mọi thời và mọi nơi. Bản dịch từ tiếng Tây Ban Nha làm cho ý nghĩa này trở nên rõ ràng cảm động hơn: “Ngài đã giang rộng cánh tay của Người”. Đó là Ngài muốn vươn đến xa bao nhiêu có thể, để không một người nào bị loại trừ khỏi tình yêu giao hoà của Người.
Trước khi Ngài hy tế chính mình trên thánh giá để cứu độ chúng ta. Chúa Giêsu muốn bảo đảm sứ vụ của Người được tiếp tục trên mặt đất này, sau cái chết và sự Phục Sinh của Người. Ngay sau khi bắt đầu đời sống công khai, Ngài đã chọn các tông đồ, những người tông đồ được chọn là những hạt nhân ở chung quanh Ngài, và họ sẽ hình thành Giáo Hội của Người. Họ sẽ trở thành những người đánh cá linh hồn với một cái lưới lớn lao, lưới đó còn lớn hơn là con cá đã nuốt Giona, một cái lưới lớn như vậy sẽ đủ cho tất cả mọi người. Chúng ta gọi Giáo Hội Công Giáo bởi vì Giáo Hội là hoàn vũ.
Giáo Hội đó có khuynh hướng trở lại qua mọi thời để đến thời của Đức Kitô ở lại cho đến khi Ngài trở lại trong vinh quang. Đó là Công Giáo và cũng là ý nghĩa tất cả mọi dân không ai bị loại trừ. Mặc dù Giáo Hội đặt nền tảng được sáng lập tại Giêrusalem nhưng không phải thuộc về người Do Thái. Mặc dầu Giáo Hội đặt trung tâm tại Rôma nhưng không phải là của người Ý. Giáo Hội được trải rộng chính yếu bởi những nhà truyền giáo châu Âu nhưng Giáo Hội không là người châu Âu. Giáo Hội là Công giáo, hoàn vũ. Tất cả những người Công Giáo đích thực thì không đóng kín trái tim của mình với những người khác như là tiên tri Giona đã làm. Đúng hơn họ phải trở nên giống như Đức Kitô giang rộng cánh tay, vươn cánh tay của họ ra để âu yếm hết mọi người.
Tiếng gọi của Đức Giêsu cũng là một mệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho: TN3-B48
Tiếng gọi của Đức Giêsu cũng là một mệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho các môn đệ là chính bản thân Người.
1.- Ngữ cảnh
Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê, cc.14-15) và phần đầu của hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (cc. 16-20).
2.- Bố cục
Bản văn gồm hai đoạn nhỏ có thể văn khác nhau:
1) Một “bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c. 14a), b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15);
2) Bài tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20):
a- Đức Giêsu thấy (cc. 16.19), b- Đức Giêsu gọi: đến, theo (cc. 17.20a), c - Các ông đáp: từ bỏ và đi theo (cc. 18-20b).
Nguời ta thường coi “bộ ba” Gioan Tẩy Giả – Phép Rửa – Cám Dỗ như một phần Mở của TM Mc, còn “bản tóm tắt” là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Toàn bản văn chúng ta đang khảo sát là phần khai mạc sứ mạng của Đức Giêsu với khởi đầu công việc rao giảng của Ngài và việc kêu gọi các môn đệ. Trong Mc, có nhiều đoạn nhắc lại và nối kết hai điểm này: x. 3,7-12.13; 6,6b.7-12).
Tuy nhiên, người ta cũng có thể coi 1,1-15 là một khối, được đóng khung bởi hai từ “Tin Mừng” (cc.1 và 15) (x. Gnilka). Sang phần kế tiếp, tác giả đưa vào một phần mới với “biển hồ Galilê”. Như thế, có thể nói, nhờ lối cấu trúc đóng khung, ta hiểu lúc đầu Tin Mừng được giới thiệu tổng quát, sau sẽ được giới thiệu chi tiết.
Các câu 14-15 long trọng giới thiệu các lời nói đầu tiên của Đức Giêsu theo Mc, do đó, cần lưu ý đến tầm quan trọng của những lời này. Trong Mt và Lc, Đức Giêsu đã nói trước khi đi vào đời sống công khai: qua ba mẩu đối thoại với quỷ (Mt 4,3-10; Lc 4,3-12); trước đó, Mt 3,14-15 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Gioan Tẩy Giả, còn Lc 2,48-49 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Đức Maria tại Đền Thờ. Những lời đầu tiên của Đức Giêsu có ý nghĩa đối với nền thần học Mt và Lc, thì hẳn cũng có ý nghĩa đối với nền thần học Mc... Nhưng bản văn song song đích thực chính là lời nói công khai đầu tiên của Đức Giêsu được ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại:
a) So sánh Mc với Mt
Công thức của Mt thì ngắn và mờ nhạt hơn công thức của Mc. Điểm nòng cốt (Nước Thiên Chúa và hoán cải) được đóng khung bởi hai yếu tố bổ sung: “thời kỳ đã mãn”, và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”.
Ngay trong bản văn Mt, câu nói ngắn ngủi của Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả nói trước đó: Tác giả Mt dùng cách đó để khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng (việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Thầy). Nhưng vì thế, khi so sánh với bản văn Mt, ta thấy bản văn Mc phong phú hơn, độc đáo hơn, đặc biệt với từ “Tin Mừng” đặt trên môi miệng Đức Giêsu.
b) So sánh Mc với Lc (Lc 4,14-15): Tác giả Lc nói rằng Đức Giêsu giảng dạy nhưng không ghi lại một lời nào của Người; ngược lại, ngay sau đó, trong câu truyện hội đường Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu đọc đoạn văn Is 61, mà theo Lc, là cả môt chương trình. Mà Lc lại dùng động từ “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai) (Lc thích dùng động từ này hơn là danh từ “Tin Mừng”). Đây là điểm song song đáng lưu ý với bản văn Mc. Trong cả hai bản văn, quang cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một Tin Mừng.
Mc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “Tin Mừng” (HL. euangelion) khi ngài dùng từ này mà đóng khung bản văn của ngài: “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Từ ngữ “Tin Mừng” được lặp lại ba lần để đóng khung hai đoạn văn trong cùng một phân đoạn, khiến ta hiểu đây là “từ chìa khoá” vừa của phần Mở vừa của “bản tóm tắt”. Đàng khác, nếu từ “Tin Mừng” đóng khung những lời nói đầu tiên của Đức Giêsu, điều này có nghĩa là, muốn hiểu những lời này, ta phải đi từ “Tin Mừng”.
3.- Vài điểm chú giải
- Tin Mừng (14.15): Tác giả dùng từ ngữ “Tin Mừng” ở dạng tuyệt đối (= không có bổ ngữ theo sau) 5 lần, mà ta có thể phân phối thành hai loạt: trong quan hệ với việc rao giảng cho Dân ngoại (13,10; 14,9; 16,15) và khi nói về việc các môn đệ bị bách hại và phải biết hy sinh (8,35; 10,29). Trong hai bản văn cuối cùng, đáng lưu ý là “Tin Mừng” được đặt song song với Đức Giêsu: “vì tôi và vì Tin Mừng”, y như là một sự đồng hoá. Tin Mừng được nói đến y như là một nhân vật. Trong tác phẩm Mt, từ ngữ này chỉ được dùng 3 lần trong thuật ngữ “Tin Mừng về Nước Trời”, còn Lc thì không bao giờ sử dụng. Hẳn đây là sáng kiến của riêng tác giả Mc. Nhưng cũng rất có thể là ngài đã nhận lấy ý niệm này từ Phaolô, vì vị tông đồ đã sử dụng từ ngữ “Tin Mừng” khoảng 60 lần, và có tới khoảng 30 lần dùng từ ngữ này ở thể tuyệt đối (Các bản văn chính: 1 Tx 2; 1 Cr 9; Rm 1; 15; Pl 1 và 4). Từ ngữ này có nhiều nghĩa:
+ việc loan báo một sứ điệp hạnh phúc: nội dung của sứ điệp này;
+ hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô nơi Dân ngoại;
+ giá trị tối cao mà thánh Phaolô phải đón nhận vì vượt quá ngài vô cùng;
+ nhất là, đây luôn luôn là một thực tại sống động, năng động, một biến cố đang diễn tiến: sự xuất hiện của vinh quang (2 Cr 4,4), sự mạc khải đức công chính của Thiên Chúa đang hoạt động để cứu độ loài người (Rm 1,16). Phaolô có thể nói rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa quyền năng do phục sinh từ cõi chết” (Rm 1,4) hoặc Tin Mừng là “quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin” (Rm 1,16). Nhìn theo quan điểm cứu độ, Phaolô cũng như Máccô đồng hoá Đức Giêsu và Tin Mừng (so sánh Mc 1,14-15 với Rm 1,1-5.16).
Các độc giả của Phaolô, sống trong đế quốc, đã quen với những từ ngữ như “quang lâm”, “giáng lâm”, “tiền hô”, “công bố” (HL. kçrygma)… Nhưng tư tưởng của Phaolô không bắt nguồn trực tiếp từ nghi thức đón tiếp hoàng đế, mà là từ một nền tảng Cựu Ước: từ các câu chuyện các vua Saun, Đavít và Salômôn (x. 1 Sm 31; 2 Sm 1,4; 1 V 1) trong đó Tin Mừng có ý nghĩa là chiến thắng, giải phóng, sự hiển ngự của một vị vua. Đặc biệt từ sách Sách Yên Ủi Israel (Is 40–55) trong đó có từ ngữ “Tin Mừng”: hai lần ngài đã quy về Is 52,7 (x. Rm 10,15; Ep 6,15). Sách II Isaia đã dùng từ “Tin Mừng” mà áp dụng cho một biến cố cụ thể: biến cố giải phóng những người lưu đày, nhờ chiến thắng của vua Kyrô và sắc lệnh cho phép họ hồi hương và tái thiết Đền Thờ. Khi giải phóng Dân Người, Đức Chúa (Yhwh) tỏ ra cho Dân ngoại thấy Người là Đấng Cứu độ đầy quyền lực, là Đấng công chính, Đấng yêu thương. Thiên Chúa đã thiết lập triều đại của Người khi tích cực can thiệp mà cứu độ Dân Ngài và tỏ mình ra cho họ. Vậy Tin Mừng là việc công bố cho muôn dân biết cuộc đăng quang này của Thiên Chúa.
Đối với Phaolô và cả Mc nữa, Tin Mừng là một cuộc đăng quang hoàng đế, là một triều đại bắt đầu (x. Rm 1,1-4). Nhưng nếu Phaolô đặt biến cố đăng quang vào lúc Đức Giêsu chết và sống lại, Mc lại đưa biến cố ấy ra trước, đặt vào đời sống công khai của Đức Giêsu. Đối với Mc, quyền lực của Đấng Phục Sinh đã được bày tỏ cách kín ẩn trong những lời nói và việc làm của Đức Giêsu trần thế. Được loan báo trong bản tóm tắt, Tin Mừng sẽ được bung ra trong những bài tường thuật kế tiếp: lời rao giảng với uy quyền, cuộc chiến đấu chống Satan, các phép lạ và, có thể, trước tiên, việc chọn lựa các môn đệ. Từ đó, biến cố cứu độ khởi đầu cho Triều Đại của Thiên Chúa (“Tin Mừng của Thiên Chúa”: Mc 1,14) chính là bản thân Đức Giêsu (“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”: 1,1) đang hành động và rao giảng, Người chính là “Triều-Đại-hiện-thân” (Origiênê). Như Phaolô nói, và như Mc đã hiểu rất đúng: Tin Mừng của Thiên Chúa, chính là Con của Người. Và Đức Giêsu có thể nói: “Triều Đại (Nước Thiên Chúa) đang ở đó” bởi vì chính Người đang ở đó.
Sự song song giữa hai bản văn của Phaolô (Rm 1,1-5 và Rm 1,16-17) và Mc (Mc1,14-15) còn cho thấy một yếu tố khác nữa: lời đáp của con người với biến cố cứu độ hệ tại một thái độ duy nhất, đức tin. Hoán cải, chính là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Tin Mừng và dấn thân phục vụ Tin Mừng.
- Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ: Trong Mt, có một bản văn hầu như tương tự bản văn Mc, còn trong Lc, hoàn cảnh khác hẳn: đây là một bản văn độc đáo với ba yếu tố: giảng dạy đám đông, mẻ cá lạ lùng và việc kêu gọi Phêrô. Có thể nói bài tường thuật về việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên đã có trong truyền thống ở dạng độc lập.
Đọc lướt qua, chúng ta có ấn tượng đây là một sự kiện tầm thường. Đọc kỹ hơn, ta thấy hoàn cảnh không đơn giản mấy. Trong thực tế, có hai bài tường thuật nhỏ, khá giống nhau, ta có thể đọc riêng rẽ, nhưng chúng được nối kết với nhau về thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh, làm thành một khối rất thống nhất.
Nói là hai bài tường thuật vì các đoạn văn này được xây dựng theo cùng một mẫu, theo cách lược đồ (làm bảng nhất lãm thì thấy rõ). Ta có thể đọc thêm bài tường thuật về ơn gọi của Lêvi (x. 2,14) để thấy những đặc điểm tương tự.
Có hai yếu tố không đổi: khi đi ngang qua, Đức Giêsu thấy ai đó với nghề nghiệp; Người kêu gọi, người ấy bỏ nghề, đi theo Người. Đây là cái khung trong đó ta chỉ cần thay đổi tên người được gọi và kiểu sống của kẻ ấy.
Trong thực tế, sự song đối không hoàn toàn sít sao. Nếu đọc các bài tường thuật từ trái qua phải, ta nhận thấy rằng, cứ sang một cột, lại mất đi một yếu tố. Nhưng dù cho hai bài tường thuật đầu vừa theo một lược đồ tương tự vừa có thể tách rời nhau, ta vẫn có thể nói rằng dường như chúng không được viết độc lập với nhau; trái lại, chúng bổ túc cho nhau rất khéo. Cho dù công thức “họ làm nghề đánh cá” được dùng cho Simôn và Anrê, ta vẫn hiểu rằng Giacôbê và Gioan cũng làm nghề ấy. Mỗi bài mô tả một phương diện của nghề đánh cá (quăng lưới; vá lưới) nhưng cả hai mới cung cấp một bức hoạ đầy đủ về nghề này. Muốn biết bốn người đã bỏ gì lại, phải cộng các chi tiết của hai bài: lưới, thuyền, cha; nghĩa là: nghề nghiệp và gia đình. Nhưng đặc biệt hai câu 17 và 20 soi sáng lẫn nhau: Lời hứa “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” chỉ được ngỏ với Simôn và Anrê, nhưng rõ ràng cũng có liên hệ đến Giacôbê và Gioan. Câu “Người gọi các ông” (bản văn 2) không nhắc lại “Các anh hãy theo tôi” (bản văn 1).
Câu 17 xác định đối tượng của việc Đức Giêsu kêu gọi (một sứ mạng), còn c. 20 giải thích lời mời gọi bước theo Đức Giêsu (một ơn gọi). Như thế, những chi tiết hơi khác nhau trong hai bài lúc đầu đã khiến người ta nghĩ đến những bài tường thuật tiểu sử, nhưng vì đặc tính đúc sẵn của chúng, có lẽ phải coi đây là một thể văn riêng. Nhiều nhà chú giải cho rằng bài tường thuật này đã dựa theo một bài mẫu là ơn gọi ngôn sứ Êlisa (x. 1 V 19,19-21). Những điểm giống nhau giữa hai bản văn cho thấy tác giả đã dựa vào sách 1 Vua, những chỗ khác nhau cho thấy rằng ngài cũng có quan điểm riêng của ngài.
+ Giống nhau: Hai bản văn có cùng một cấu trúc, hầu như có cùng những từ ngữ giống nhau: Êlia (như Đức Giêsu) đi qua, gặp một người đang làm việc, mời người ấy đi theo mình. Người môn đệ mới liền bỏ nghề và cha mà đi theo Thầy. Trong trường hợp Êlisa, điểm thứ năm chi tiết hơn: ông huỷ tất cả những gì liên hệ với cuộc sống trước đây, và ông từ giã cha mẹ (= hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ). Điều lạ lùng là yếu tố này chỉ được nhắc lại trong một bài tường thuật về một ơn gọi hụt do Lc viết (9,61-62) ở cuối một chuỗi ba câu truyện (Mt chỉ ghi giữ hai truyện đầu: Mt 8,18-22): Ở đây ta gặp lại lời xin được từ giã gia đình và lời nói về “cái cày”. Như vậy, dường như truyền thống liên hệ đến ơn gọi của Êlisa, bằng ảnh hưởng trực tiếp nhưng cũng bằng tương phản, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác các bài tường thuật về ơn gọi trong Tin Mừng. Các điểm khác nhau còn cho thấy rõ điều này hơn.
+ Khác nhau:
(1) Từ biệt cha mẹ. Câu trả lời của Êlia có thể có vẻ hàm hồ, nhưng Do Thái giáo coi lời ông như một lời cho phép. Còn trong ba bài tường thuật của Lc (9,57-62), Đức Giêsu không chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào. Trong cuộc kêu gọi các ngư phủ, không hề có lời nào cho thấy họ xin từ biệt cha mẹ. Ngược lại, mọi sự đi theo chiều hướng một sự đoạn tuyệt tận căn.
(2) Êlia “gặp thấy” Êlisa gần như do tình cờ và dùng một cử chỉ mà mời ông đi theo. Ngược lại, Đức Giêsu “thấy” những kẻ Người gọi, một cái nhìn diễn tả một sự lựa chọn trước; ngoài ra, Người còn nói một lời (“Hãy theo tôi”) chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người.
(3) Êlisa đi theo Êlia chỉ như một người tôi tớ; còn bốn người được Đức Giêsu kêu gọi, thì được Người cho biết sẽ giao cho họ một sứ mạng. Các từ ngữ gợi ý một sự chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trong thực tế Đức Giêsu xác định một sự thay đổi hoàn toàn chiều hướng sống.
Lời Đức Giêsu làm cho bốn ông trở thành “ngư phủ lưới người” chính là trọng tâm, xoay quanh đó là bài tường thuật ơn gọi nhằm một sứ mạng. Chúng ta nhận thấy có những điểm nổi bật:
+ Sáng kiến của Đức Giêsu cho thấy uy quyền tối cao và tính hữu hiệu của lời Người. Không phải là người môn đệ đi tìm một vị thầy dạy suy tư, nhưng là Đức Giêsu đi bước trước. Như Yhwh đã thấy Môsê, đã nhận ra Giêrêmia, Đức Giêsu thấy, chọn và gọi những kẻ Người muốn. Ngay từ đầu, Người đã xử sự như thầy và chúa tể. + Lời đáp của kẻ được gọi: tuyệt đối vâng lời Đức Giêsu, như trường hợp các ngôn sứ; đoạn tuyệt trọn vẹn với hoàn cảnh trước đó (gia đình và nghề nghiệp); dâng mình hoàn toàn cho Đấng kêu gọi để sống với Người một cuộc sống mới.
+ Đức Giêsu kêu gọi để giao phó một sứ mạng. Đối với Giáo Hội tiên khởi, bài tường thuật này là nền tảng cho quyền bính tông đồ. Sứ mạng của các ông không đến từ các ông, nhưng từ một tiếng gọi và nó bén rễ trong sự kiện các ông đã bước theo Đức Giêsu.
- “Kẻ lưới người như lưới cá” (halieis anthrôpôn) (c. 17): Tại Sumer (thiên niên kỷ iii) và tại Mari (thiên niên kỷ ii), trong một ngữ cảnh nói về chiến tranh, tấm lưới cá là một dụng cụ giúp đạt chiến thắng trên kẻ thù và là biểu tượng diễn tả việc Thượng Đế thực thi công lý. Trong nhiều bản văn ngôn sứ, đặc biệt Gr 16,16; Kb 1,14-15, ta thấy những tư tưởng và hình ảnh này liên hệ đến việc Yhwh phán xét Israel: trong dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-49), hình ảnh ám chỉ cuộc chọn lọc trong ngày tận thế. Nhiều cách diễn giải: “you will catch men as if you were catching fish” (Barrow Eskimo), “just like you catch fish, I will make catch men (San Blas), “give power to bring men” (Black Bobo), “make you become ones who are men bringers (Moré), “fishers who fish (or catch) men” (Bratcher & Nida).
- “Lập tức hai ông bỏ …”: Tác giả Mc chỉ áp dụng hai lần động từ HL aphiêmi, “leave, abandon”; “rời bỏ, bỏ rơi” cho các tông đồ (ở đây và 14,50). Có lẽ ngài muốn nói: bỏ của cải mình cũng chẳng ích gì nếu lại bỏ rơi Đức Giêsu trước cái chết, hay chỉ “theo Người xa xa” (14,54). Kể từ việc tuyên xưng đức tin tại Xêdarê và lời loan báo Khổ Nạn lần đầu, Mc đưa vào vào đề tài con đường (x. 8,27. “Con đường” đánh dấu các chặng lên Giêrusalem: 9,33; 10,32). Nhưng trên con đường này, mặc dù đi đàng sau, các môn đệ không muốn theo Đức Giêsu tiến về cuộc Khổ Nạn. Ngược lại, người môn đệ chân chính, là anh mù Báctimê, khi đã thấy, thì theo Đức Giêsu trên con đường này (10,52). Kể từ nay, bước theo Đức Giêsu, chính là vác thập giá (x. 8,34). Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan chỉ thực sự đi theo Đức Giêsu khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. 1,38; 2,15), và hy sinh mạng sống “vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng” (8,35).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
* Gọi bốn môn đệ đầu tiên (16-20)
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người. Ngoài ra, bởi vì ngoại trừ trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu không làm gì mà không có các môn đệ. Điều này có hai ý nghĩa: 1) Ngay khi xuất hiện, Đức Giêsu tạo lập một cọng đoàn, một gia đình (x. 3,20-35) gồm các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai đi” (3,14). 2) Các ông là những người tiếp nối công trình của Người, các ông phải làm chứng về những hoạt động của Người. Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.
+ Kết luận
Vậy bài tường thuật này có một ý nghĩa thần học. Nhưng còn giá trị lịch sử thì sao? Dường như bài này đã gây nhiều vấn nạn, và các Tin Mừng viết sau (như Lc và Ga) đã trình bày việc kêu gọi đúng thực tế hơn. Dù vậy, bên kia tính chất lược đồ thần học, bài này cũng phản ánh những nét lịch sử:
- Các môn đệ đã thực sống quanh Đức Giêsu (“bước theo, đi đàng sau” là động từ xác định quan hệ của một nhóm môn đệ với một vị thầy (Rabbi).
- Con người Đức Giêsu có sức thu hút người ta đi theo Người vô điều kiện (nhiều đoạn Mc cho thấy như vậy).
- “Bước theo” Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu.
- Có thể coi câu nói “những kẻ lưới người” là câu nói của chính Đức Giêsu, vì không có bản song song trong truyền thống kinh sư Do Thái hay Hy Lạp.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tác giả muốn nêu bật sự nối tiếp giữa cuộc đời Đức Giêsu và Giáo Hội. Cuộc đời Đức Giêsu được giới thiệu bởi một vị Tiền hô “bị nộp”. Cuộc đời các ông cũng sẽ được mạc khải bởi một Đấng “bị nộp” và “sống lại”. Đọc câu truyện hôm nay, thực sự phải nhận ra, đây chính là Đấng Phục Sinh vừa xuất hiện trên bờ biển, liên kết con người vào Tin Mừng bằng lời quyền năng của Ngài. Kể từ nay, Galilê chính là toàn trái đất, và bốn vị tông đồ là cộng đoàn mênh mông gồm những người bước theo Đức Giêsu.
2. Người Kitô hữu hôm nay cũng là những người đã nhận được lời kêu gọi: “Hãy theo tôi”. Họ không tự ý ra trình diện Đức Giêsu, không thỉnh nguyện được tham gia vào công trình của Người. Đức Giêsu cũng không nhận họ như là những cộng sự viện có tiền lương và có thời gian nghỉ hè. Người kêu gọi họ. Tiếng gọi của Người rất đòi hỏi, nhưng đưa lại trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc đời họ.
3. Đức Giêsu không đề nghị cho họ một chương trình đã được hoạch định sẵn, nhằm thuyết phục họ là dấn thân theo chương trình ấy là chuyện hợp lý. Người gọi họ đến với Người. Thật ra tiếng gọi của Người cũng là một mệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho họ là bản thân Đức Giêsu. Người đi trước họ, và họ phải bước theo Người. Nội dung cơ bản của tiếng gọi, tức của cuộc sống mới của các môn đệ, là sự quy hướng về Đức Giêsu, sự hiệp thông đời sống với Người. Người môn đệ ký thác vào sự hướng dẫn của Người.
4. Tiếng gọi này đặt người môn đệ vào trong một tương quan riêng tư với Đức Giêsu, làm cho người ấy trở nên thành viên của một cộng đoàn và tạo ra tương quan của người ấy với những người được gọi khác. Đi theo Đức Giêsu không phải là từng cá nhân riêng lẻ, nhưng là một cộng đoàn các môn đệ. Nhưng không phải là các môn đệ mà là Đức Giêsu, bàng tiếng gọi của Người, xác định ai thuộc về cộng đoàn này.
5. Tiếng gọi này là một lời mời để cho Người đào tạo: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Người trao cho họ một nhiệm vụ mới và Người chuẩn bị họ. Họ sẽ dẫn những người khác đi trên cùng một nẻo đường mà họ đang theo, tức sống hiệp thông với Đức Giêsu.
Con người mở mắt vươn vai chào một ngày mới, chào ánh mặt trời rực rỡ vừa lên, thoắt đã tiễn: TN3-B49
Con người mở mắt vươn vai chào một ngày mới, chào ánh mặt trời rực rỡ vừa lên, thoắt đã tiễn ngày đi để nhận lấy bóng tà huy buồn bã, thoắt đã nhắm mắt lại với bóng đêm tăm tối mịt mùng. Một ngày sống đã qua đi. Rồi từng ngày qua đi. Cuộc sống cứ như vẫn nhịp đều theo dấu chân của mặt trời đếm bước.
Hình như ở tuổi hồn nhiên, hoặc chưa có khái niệm về thời gian, hoặc khái niệm thời gian chưa đủ làm cho con người bồi hồi xao xuyến. Nhưng khi hơi có tí tuổi, cùng với tình trạng rệu rả trong thân xác, nếm đủ mùi thất bại, trải bao nỗi bi thương, ai cũng có thể nhận ra bóng xế, bóng chiều của cuộc đời đang xuất hiện, bóng đêm cuộc đời đang ập đến, và cỗ xe vĩnh cửu đang chờ ngay trước cửa.
Lời Chúa hôm nay không có ý mời gọi chúng ta ngộ ra quỹ thời gian của mình còn quá ít ỏi, và hãy vội vàng nhìn lại ý nghĩa của cuộc sống chóng vánh này. Nhưng, tích cực hơn, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta rằng Nước Thiên Chúa đã đến: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã đến. Ngài khai mở một ý nghĩa mới cho cuộc đời trần gian chóng vánh này là: sống để được sống muôn đời. Muốn được như thế, Ngài kêu gọi: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Vì "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến” (Mc 1,14)
“Hãy ăn năn, sám hối”, lời mời gọi này như một điệp khúc trong đời bạn, trong đời tôi. Chúng ta đã nghe biết bao lần, lặp đi lặp lại biết bao lần, nhưng tiếc là chúng ta vẫn chưa ăn năn sám hối, hoặc nếu có, thì cũng chỉ là mới dừng lại ở bước biết mình đang sống trong tình trạng xấu, mà chưa có có một quyết tâm làm lại cuộc đời.
Đã có nhiều người có phút nhìn lại mình để tự kiểm và tiến thân nên hoàn hảo hơn, nên tốt hơn.
Nhưng cũng có những phút nhìn lại kỳ quặc: bước tự kiểm, tự phê của người không tin Chúa, không tin Trời, không tin có đời sau là tự kiểm, tự phê để đổi mới sao cho kiêu căng hơn, gian tà hơn, ác độc hơn, phạm các tội tày trời cách tinh vi hơn tưởng như mắt trời không nhìn thấy. Hoặc, không tin có trời thì cứ yên tâm mà phạm tội: mắt trời đâu mà nhìn thấy. Cứ thế, người ta tiến dần đến chỗ sống cách sống của ác quỷ. Trong chúng ta, có ai dám hy vọng là ác quỷ sẽ có lòng sám hối. Và cũng trong chúng ta, lẽ nào chúng ta muốn làm ác quỷ mà không biết thế nào là sám hối, làm lại cuộc đời cho đúng với nhân vị xinh đẹp đáng quí của mình.
Ai cũng yêu sự sống mình, nhưng đã có thời gian chúng ta không biết thế nào là yêu cho phải, cho đúng, và cứ thế, kéo dài những ngày đời vô nghĩa biết bao. Có người đã yêu mình bằng cách tự làm nhục đời mình, tự thiêu hủy đời mình, tự chuốc vào mình những liều thuốc cực độc: kiêu căng, ích kỷ, gian tà, dâm ô, tham lam, thù hận… Trong số đó, liều thuốc kiêu căng vẫn luôn là độc dược số một. Kiêu căng là phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, hoặc vẫn tin có Thiên Chúa, nhưng yêu cầu Thiên Chúa phải thực hiện theo ý mình vì mình là ông kia bà nọ, vì mình có trí khôn, có học vị, có danh giá, có tiền bạc, có quyền thế…
Lời Chúa hôm nay nói rằng: “Thời giờ đã mãn” nghĩa là đã đến lúc không chỉ nhận ra mình đang dùng những liều thuốc cực độc, mà còn phải khẩn cấp tránh cho xa, phải khẩn cấp từ bỏ cho tuyệt gốc, và nhất là cần phải sử dụng loại thuốc mới bổ dưỡng cho tâm linh, bảo đảm cho thân xác một cuộc sống và sống lại: đó chính là “Tin vào Lời Chúa”, “Tin vào Đức Giêsu Kitô”.
Thời gian chóng vánh, ít ỏi, sẽ không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng cho những ai đã có lòng “sám hối và Tin vào Chúa Giêsu”. Hai việc “sám hối và tin vào Chúa Giêsu” luôn đi đôi với nhau, không thể thiếu một trong hai. Vì nếu sám hối mà không tin vào Chúa Giêsu, thì hãy coi chừng đó là cách sám hối của ma quỷ. Nếu tin vào Chúa Giêsu mà không sám hối thì lòng tin ấy gian trá điêu ngoa, trá hình, lừa bịp Thiên Chúa.
Câu chuyện Cựu Ước mà sách Giona kể về dân thành Ninivê hôm nay, gợi cho chúng ta một ý nghĩa tích cực về lòng sám hối và tin tưởng. Được thông báo: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ", dân thành Ninivê tin tưởng nơi Chúa, họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.. Họ không chỉ “ăn chay và mặc áo nhặm”, nhưng họ đã thực hiện điều cốt lõi của việc ăn năn sám hối là “bỏ đời sống xấu xa”. Vì thế, sự sám hối toàn bích của họ đã làm thay đổi ý định của Thiên Chúa: “Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó”.(x Gn 3, 1-5. 10)
“Sám hối và tin vào Chúa Giêsu” còn là điều kiện tiên quyết và ắt có để được Chúa Giêsu biến đổi nên người có ích cho công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa. Quả thực, Chúa không nói với Simon và Anrê rằng “các ngươi là những kẻ chài lưới người” nhưng Ngài nói “Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Trong quá trình “làm cho trở thành”, hẳn nhiên người môn đệ Chúa hẳn phải là những người trước tiên “sám hối và tin vào Chúa Giêsu”.
Không thể có một người tự xưng là môn đệ Chúa, là tông đồ cho Chúa, nếu người ấy không tuyên bố sám hối: “từ bỏ ma quỷ và các việc của ma quỷ”, tuyên tín vào “Chúa Giêsu Kitô” và tháp nhập vào Chúa Kitô qua bí tích rửa tội. Thế thì, mỗi tín hữu chúng ta đã và đang được Chúa Giêsu “làm cho trở thành những kẻ chài lưới người”. Đó một hồng ân cao quí dành cho tất cả những ai sống với sứ mạng Kitô hữu tông đồ: sống trước cuộc sống của Nước Thiên Chúa ngay khi còn ở trần gian, như Thánh Phaolô đã mô tả: “Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi” (1 Cr 7, 29-31).
Nguyện xin Lời Chúa giúp chúng con liên lỉ “ăn năn sám hối và tin vào Chúa Giêsu”, quyết tâm từ bỏ ma quỷ và các việc gian tà của chúng, để chúng con được Chúa “làm cho trở thành” những nhân chứng sống động cho Tin Mừng, cho Tình Yêu Chúa giữa dòng đời. Amen.
Tác giả Mác-cô tóm kết toàn bộ sứ điệp của đức Giê-su vào câu công bố long trọng: “Thời kỳ: TN3-B50
Tác giả Mác-cô tóm kết toàn bộ sứ điệp của đức Giê-su vào câu công bố long trọng: “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!” Chắc chắn lời tuyên bố này có một nội dung mạnh mẽ lắm đối với các thính giả thời đó, cách riêng đối với các môn đệ tin theo Ngài, và cả đối với các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai. Ngày nay, ngoài một số nhà thần học và Thánh Kinh đào sâu vào từ vựng Hy Lạp ‘Kairos’ tôi thiết nghĩ rất ít Kitô hữu, thậm chí cả linh mục tu sĩ, thật sự nhận ra được tầm quan trọng và sâu sắc của sứ điệp nòng cốt này của đức Giê-su.
Đức Giê-su công bố: ‘Kairos’ = thời kỳ chin mùi trong kế hoạch Ngài đã điểm, thời đại Thiên Chúa hành động đã đến. Người gọi đó là ‘Kairos’, là cao điểm, là lúc quyết định của toàn bộ lịch sử, lịch sử nhân loại nói chung cũng như lịch sử của cá nhân từng người nói riêng.
Lịch sử cũ đã hoàn toàn chấm dứt, và một kỷ nguyên mới đã thực sự mở màn, kỷ nguyên không do con người mà là do chính Thiên Chúa chủ động. Theo Catholic Dictionary thì trong Tân Ước, từ vựng Kairos gắn với hành động mang tính quyết liệt. ‘Kairos được coi là ‘Krisis’ trong nội dung từ vựng Hy Lạp, nghĩa là một bước ngoặt, một đổi đời. Giây phút mà một người hoàn toàn thoát khỏi cái cũ để tiếp nhận cái mới. Đức Giê-su khảng định đó là một cuộc sinh lại (không phải chỉ là tái sinh theo nghĩa phổ thông) (x. Ga 3, 3-6), điều Phao-lô gọi là cuộc tạo dựng mới, trời mới đất mới, tạo vật mới, A-đam mới… Phao-lô đã không ngần ngại gọi các tín hữu Cô-rin-tô mới được rửa tội là ‘các người đã được hiến thánh trong đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta.’ (1Cr 1,2), cho dầu sau đó, gần như trong suốt lá thư, ông không ngừng nêu lên các lỗi phạm tầy trời của họ. Ngài nhấn mạnh trên con người mới thánh thiện của họ trước cả khi kêu gọi họ sửa đổi con người cũ tội lỗi.
Lối nhìn này không thể bị cho là suy tư thần học viển vông mà chính là một nhãn quan rất triệt để và căn bản về ơn gọi Ki-tô hữu và sứ điệp Tin Mừng. Thời đầu các Ki-tô hữu đã từng coi “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’ không như một tiến trình lâu dài tiệm tiến, ngược lại như một điều đang xảy ra tức thời, và hơn nữa đã được thành sự rồi. Ơn cứu độ không như một chỉnh sửa luân lý tiệm tiến, mà như một cuộc đảo lộn tận gốc rễ. Nếu có lời kêu gọi sửa đổi thì cũng luôn mang tính cấp bách phải làm ngay, vì đã tới ‘Kairos’, ‘thời kỳ đã mãn’. Tư tưởng này mạnh tới nỗi, ngày nay, nhiều người có ấn tượng họ đã sai lầm khi nghĩ rằng cánh chung đã điểm tức thời, ngay trong thế hệ họ.
Đàng sau hai nhãn quan khác hẳn nhau này phải chăng chính là khuynh hướng gom lại hoặc tách rời hai vế ‘hãy sám hối’ và ‘tin vào Tin Mừng’? Ngày nay người ta hay đặt trọng tâm Tin Mừng vào ‘hãy sám hối’, thậm chí đôi khi còn coi ‘tin vào Tin Mừng’ chỉ là một trợ giúp cho việc tu thân tích đức. Người ta đã quên mất ‘thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần’, rằng với sự xuất hiện của đức Giêsu Kitô, nhất là với sự chết và phục sinh của Người, Kairos đã điểm. Suy nghĩ phổ thông của nhiều tín hữu là: một người được cứu độ chủ yếu là do đã sửa lỗi, đã ăn năn hoán cải và nên tốt lành, với sự hỗ trợ của các bí tich ban ơn sủng…, hơn là do chính ơn cứu chuộc đức Kitô đã thực hiện qua Nhập Thể và Thập Giá. Nói nôm na bình dân, người ta nghĩ được lên thiêng đàng là do công nghiệp mình đã thu tích, hơn là do lòng nhân hậu xót thương vô biên của Thiên Chúa. Ôi, cùng là Ki-tô hữu mà hai thế hệ lại có thể hiểu rất khác nhau về nội dụng rất nền tảng của Tin Mừng đến thế được chẳng?
Là linh mục, tôi làm tốt trong vai trò mục tử khi giúp các tín hữu ăn năn sám hối để sửa chữa lỗi lầm đã phạm, nhưng tôi phải làm gì trong tư cách mục tử của đức Kitô? Chính bản thân mình, tôi thường tự hào về trình độ tốt lành đạo đức mình đạt được, hay vui mừng trông cậy vào ơn cứu độ Chúa đã đổ xuống tràn lan trên chính tôi? Và như Phao-lô, tôi có thật sự tôn trọng sự thánh hiến của các tín-hữu trong khi vẫn nỗ lực nhắc nhở họ vươn lên từ những khuyết điểm của đời sống thường ngày? Tôi có thật sự xác tín “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”?
Lạy Chúa từ nhân cứu độ, Chúa đến để dẫn dắt các chiên đi đường tắt dẫn tới Chúa Cha, nhưng con, mục tử của Chúa, lại đưa chúng đi trên con đường vòng vo lê thê; lý do là vì chính con chưa dám tin vào lối tắt đó. Xin dạy con biết xác tín rằng, hoàn toàn do lòng từ nhân, Chúa đã thánh hiến con trước cả khi con hoàn thiện. Xin cho con hiểu ‘thời kỳ đã mãn’ cho con và cho hết thảy mọi người. Amen