Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-B Bài 51-100 Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm
------------------------------------------
Phúc Âm: Mc 1, 14-20: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN3-B51. BIẾT MÌNH ĐỂ SỐNG ĐÚNG.. 2
TN3-B52. PHẨM CHẤT ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ.. 4
TN3-B53. HÃY THEO THẦY! 5
TN3-B54. NHỮNG NGƯ ÔNG CỦA CHÚA.. 7
TN3-B55. HÃY THEO TÔI 10
TN3-B56. Chúa Giê-su khời đầu sứ vụ. 12
TN3-B57. Chúa Nhật 3 Thường niên, B.. 13
TN3-B58. CHÚA NHẬT 3 QUANH NĂM... 17
TN3-B59. NHỮNG NGƯ PHỦ CHÀI NGƯỜI 21
TN3-B60. Thời điểm PHÚC - LỘC - THỌ.. 23
TN3-B61. Lời Loan Báo Tiên Khởi và những tay chài lưới người 26
TN3-B62. Các người tìm gì?. 30
TN3-B63. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. 32
TN3-B64. Anh em hãy suy nghĩ và tin vào Chúa. 33
TN3-B65. HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG.. 34
TN3-B66. CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN.. 36
TN3-B67. Từ bỏ. 37
TN3-B68. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ. 39
TN3-B69. Năm mới người mới cả trời đất mới 41
TN3-B70: Theo Chúa từ bỏ tất cả – Cố Lm. Hồng Phúc. 43
TN3-B71: Sám hối và tin vào Tin Mừng – Radio Veritas Asia. 45
TN3-B72: Thấy - Gọi - Bỏ - Theo. 46
TN3-B73: Đức Giêsu đến. 48
TN3-B74: Tuyển quân – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn. 50
TN3-B75: Bỏ nghề chài lưới mà theo Chúa Giêsu. 53
TN3-B76: Theo Chúa Giêsu, sám hối để hiệp nhất 55
TN3-B77: CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN.. 57
TN3-B78: HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG.. 59
TN3-B79: THỜI ĐẠI MỚI 64
TN3-B80: XIN ĐỪNG BUÔNG TAY.. 67
TN3-B81: BƯỚNG BỈNH VÀ NGOAN NGOÃN.. 69
TN3-B82: Nhóm mười hai 73
TN3-B83: Mau qua chóng tàn - Anmai, CSsR.. 74
TN3-B84: Sống và chia sẻ niềm tin – Thiên Phúc. 78
TN3-B85: Chúa Nhật 3 Thường Niên. 80
TN3-B86: Hoa Hướng Dương - Lm Jos Tạ Duy Tuyền. 82
TN3-B87: Hoán cải 84
TN3-B88: Theo Chúa từ bỏ tất cả – Cố Lm. Hồng Phúc. 86
TN3-B89: Đôi cánh Thiên Thần. 87
TN3-B90: Đáp trả. 89
TN3-B91: Hãy theo Ta". 91
TN3-B92: Phaolô Vị Tông Đồ hăng say rao giảng Tin Mừng. 92
TN3-B93: Đã mãn. 94
TN3-B94: Hãy đến theo Tôi – Lm. Mark Link. 97
TN3-B95: Suy niệm của Lm. Phạm Đức Trị 101
TN3-B96: Chúa Nhật 3 Thường Niên. 102
TN3-B97: Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng. 104
TN3-B98: Chúa Nhật 3 Thường Niên. 105
TN3-B99: ƠN GỌI 107
TN3-B100: CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN.. 108
--------------------
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta vẫn thường tự hỏi: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong: TN3-B51
Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta vẫn thường tự hỏi: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của một đời người, nó quyết định phận số của một con người. Sống có ích cho xã hội hay trở thành gánh nặng cho xã hội cũng tuỳ thuộc vào chọn lựa cơ bản này của từng người chúng ta.
Người ta kể rằng: thuở xưa khi con người chưa biết soi gương trang điểm nên họ cũng chẳng biết mình là ai? Và khuôn mặt mình thế nào? Một lần kia, anh chồng lên tỉnh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cài đầu. Nhưng anh không biết cái trâm hình thù như thế nào. Chị vợ liền nhìn trời thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: “Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ.
Người chồng lên đường mải miết xem bao cảnh lạ ở tỉnh thành mãi mười ngày sau mới trở về quê nhà. Anh sực nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm, anh liền vào tiệm và mua một cái gương tròn trịa như ánh trăng theo lời vợ dặn.
Lòng vui rộn ràng khi vừa về tới nhà vội trao cho vợ cái gương mà anh đã mua từ tỉnh thành. Tưởng rằng vợ sẽ vui mừng với món quà anh đưa về, thế nhưng, khi vừa nhìn vào đồ vật, cô vợ đã tức giận và quát tháo rằng: “Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh lại đem về một đứa con gái nào đây?”. Anh chồng giật mình, dành lại cái gương và nhìn xem chuyện gì xẩy ra. Anh nhìn vào gương lại thấy một người đàn ông trông giống bố mình hồi còn trẻ, nên anh phân bua rằng: “Không, đây là bố tôi mà!” Cô vợ dành lại và nói: “bố ông bao giờ, con nào rõ ràng. Ông còn chối hả?”. Đính chính chẳng được, nên anh chồng đành bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi con dâu, và người con dâu đưa cho mẹ chồng coi bằng chứng rõ ràng thế mà anh chồng còn chối quanh quẩn. Mẹ chồng xem qua rồi trịnh trọng nói: “Thôi đừng ghen nữa! Tao thấy con này không đáng ghen đâu. Tao thấy, nó cũng già lắm rồi!”
Đó là câu chuyện vui nhưng cũng nói lên một chân lý: nếu không biết mình thì sẽ làm khổ mình và khổ người khác. Chúa Giê-su cũng từng nói: “Mù dắt mù thì cả hai đều rơi xuống hố”. Đó cũng là quang cảnh của xã hội chúng ta đang sống. Một xã hội đầy những bóng tối của tội lỗi, của sa đoạ, cúa ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng để chạy theo những đam mê lầm lạc, lạc mất hướng đi của đời người, dìm mình trong bóng tối của danh lợi thú. Nhiều người đã không còn ý thức giá trị đạo đức con người nên họ sẵn sàng đánh mất phẩm giá của mình và chà đạp lên phẩm giá của người khác. Họ không còn biết mình là ai? Sống để làm gì? Họ như những người lạc hậu trong câu chuyện đã không biết mình, nên gây ra những mâu thuẫn, hiểu lầm không đáng có. Thực vậy, nhiều người trong xã hội hôm nay, đã không hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống nên buông thả trong những đam mê tội lỗi. Họ tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên, chết là hết nên chẳng cần sống theo lẽ phải, hay sống theo luân thường đạo lý, dẫn đến tội lỗi ngập tràn, cuộc sống đầy chiến tranh, loạn lạc.
Vì vậy, sứ điệp đầu tiên mà Chúa gửi đến nhân loại chính là: “Hãy sám hối”. Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ và chia rẽ để bước vào ánh sáng của yêu thương và hiệp nhất. Chúa Kytô chính là ánh sáng cho thế gian. Từ nay tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và ai theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.
Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của tin mừng sẽ phơi bày bộ mặt thật của mình nên che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình, và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tội lỗi vẫn lan tràn. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính tội lỗi mình gây ra.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết nhìn lại mình để biết mình. Biết những giới hạn và bất toàn để sửa đổi. Biết những khiếm khuyết để bổ túc và canh tân. Biết tội lỗi mình để sám hối. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối từng ngày để canh tân đổi mới cuộc đời trong chân lý và tình yêu của Chúa. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi bắt đầu lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giê-su làm là tuyển chọn một so: TN3-B52
Khi bắt đầu lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giê-su làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Đây là một nhiệm vụ rất trọng đại cao cả nhưng đồng thời cũng đầy gian truân và thách thức, thế nên cần phải tuyển cho được những ứng viên phù hợp.
Trong các thành phần dân chúng thời đó, chúng ta thấy nổi bật nhất là các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Họ là những người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc thờ phượng tế lễ Thiên Chúa. Xem ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giê-su đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.
Kế đó, các kinh sư là những người học rộng và thông thạo thánh kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế mà Chúa Giê-su cũng không chọn một ai trong số các vị nầy làm tông đồ của Người.
Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là các người biệt phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm túc. Những người như thế cũng đáng làm đầu thiên hạ và lãnh đạo người ta. Thế mà Chúa Giê-su cũng không chọn bất cứ người biệt phái nào vào hàng ngũ các môn đệ đầu tiên.
Chúa Giê-su cũng không chọn những người có địa vị trong xã hội hay những người giàu sang quyền quý làm môn đệ của Người.
Cách chọn lựa môn đệ của Chúa Giê-su khiến chúng ta kinh ngạc: “Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.” (Mc 1,14-20)
Như thế, Chúa Giê-su đã chọn bốn ngư phủ là Simon, An-rê, Gioan, Giacobê, làm môn đệ đầu tiên trong lúc họ đang quăng chài kéo lưới hoặc đang vá lưới trong thuyền.
Tại sao Chúa Giê-su lại chọn các ngư phủ làm môn đệ đầu tiên?
Các ngư phủ là những người dạn dày sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối giữa sóng gió trùng khơi; không sợ đói, không sợ rét, không sợ bão tố cuồng phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ có khả năng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và nghịch cảnh để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình.
Họ là những người đầu tiên được Chúa Giê-su chiếu cố và mời gọi làm môn đệ loan Tin Mừng, làm những trụ cột nòng cốt để xây dựng Hội Thánh.
Điều nầy cho thấy phẩm chất đầu tiên của người môn đệ Chúa Giê-su là không ngại gian truân, sẵn sàng hy sinh để thực hiện những mục tiêu mà Chúa đề ra cho mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã anh dũng vượt qua vô vàn gian khó trong sứ mạng loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Chúa không hề lùi bước trước bất cứ nghịch cảnh nào, cho dù phải chịu khổ nạn đau thương và chịu chết thảm khốc trên thập giá.
Xin ban ơn giúp chúng con biết noi gương Chúa, sẵn sàng vượt khó, dám đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên, hầu có thể chu toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
AM Trần Bình An
“Thời kỳ đã mãn và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần.
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!”(Mc 1, 15)
Thời kỳ hiện tại đã mãn, khi Chúa Giêsu nhập thế cứu độ nhân loại trước thời cánh chung: TN3-B53
Thời kỳ hiện tại đã mãn, khi Chúa Giêsu nhập thế cứu độ nhân loại trước thời cánh chung. Thời răng đền răng, mắt đền mắt đã đặt dấu chấm hết, để nhân loại bước sang thời kỳ mới, vượt qua các giá trị nhân bản, thời mà lòng nhân ái được tôn vinh hơn bao giờ hết, thời người ta tát má phải, thì giơ cả má trái cho họ tát nữa. Một sự đổi đời thật sự, không phải ai cũng sẵn sàng chấp nhận để hội nhập.
Ngài kêu gọi nhân loại sám hối và sống theo Tin Mừng, tựa như một cuộc cách mạng vĩ đại, tuy chỉ âm thầm, lặng lẽ như sóng ngầm, nhưng vô cùng mãnh liệt và tác động sâu xa. Cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu, không chỉ diễn ra trên bình diện xã hội, mà còn diễn ra ngay chính trong tâm hồn từng người. Trước lời kêu gọi tha thiết của Chúa Giêsu, người ta phải đối mặt với hai chọn lựa một cách dứt khoát và thẳng thắn: Theo hay chống?
Tiêu biều phái chống lại Ngài, chống lại Tin Mừng là cơ cấu quyền lực, các nhóm lợi ích, như bạo vương Hêrôđê và nhóm tay sai, như các kinh sư, kỳ mục, Biệt Phái, thông đồng, cấu kết với nhau để tìm và diệt, cũng như công kích, khống chế Ngài.
Còn đi theo và ủng hộ Ngài lại là số đông quần chúng, đang chịu áp chế đủ thứ gông cùm luật lệ, sưu cao thuế nặng, những nông dân nghèo khó, những ngư dân chân chất vất vả. Trong bối cảnh như vậy, Chúa Giê su mời gọi các môn đệ đầu tiên từ ngay trong cánh dân đen bần cùng.
Các ngư dân cần mẫn, thất học, khó nghèo, nhưng đơn sơ và chân thành, như các ông Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan, đang mải mê lao động nhọc nhằn. Khi nghe tiếng Chúa gọi, lập tức từ bỏ tất cả, bỏ cả nghề nghiệp mưu sinh, bỏ cả gia đình, cha mẹ, tức thì theo Chúa.
Chúa gọi và giao ngay nhiệm vụ thánh thiêng. Các ông chắc chắn đã chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng để đón nhận ơn gọi và mau mắn lên đường, cùng đồng hành, rao giảng Tin Mừng với Chúa. Như thế, có thể nói các ông quả thực can đảm, gan dạ, dám dứt bỏ tất cà những ràng buộc của đời sống bình thường. Các ông xứng đáng gọi là những lính cảm tử đầu tiên, gia nhập vào đạo binh Đi Gieo của Chúa Cứu Thế.
“Hãy đi rao giảng Phúc Âm!..”, để dám nhận sứ mạng cao cả như thế, Chúa cần “cảm tử.” Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử từ mọi tầng lớp giáo dân. (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 64)
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa Gọi, và can đảm thực thi Thánh Ý Chúa trong mọi lúc, mọi nơi.
Lạy Mẹ Maria chí ái, xin cầu bầu cho con luôn biết ăn năn, sám hối, biết dứt bỏ những ràng buộc, những cám dỗ thế tục, trở nên người mới, để sẵn sàng nghe theo Ơn Gọi. Amen.
AM Trần Bình An
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
Tin Mừng Chúa Nhật III Thường niên B là một trình thuật ấn tượng và biểu mẫu về hành động đáp: TN3-B54
Tin Mừng Chúa Nhật III Thường niên B là một trình thuật ấn tượng và biểu mẫu về hành động đáp trả tiếng Chúa của các môn đệ đầu tiên. Dưới góc độ này, trình thuật Mc 1, 14 – 20 không chỉ dừng lại ở việc diễn tả thái độ cao thượng của những con người bình thường chuyên nghề chài lưới, mà đặc biệt hơn, tiêu điểm chính là sự thông hiệp trọn vẹn của người môn đệ với Đức Kitô trong kỷ nguyên cứu độ.
1. Những “ngư ông” của Chúa
Sự xuất hiện của Đức Giêsu trước biển hồ Ga-li-lê như một nguồn sáng thần diệu bất ngờ dọi chiếu vào giữa cuộc sống bình lặng và đơn điệu của những ngư ông.
“Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-mon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá” (Mc 1, 16).
Giữa khung cảnh đời thường tưởng chừng vô vị ấy, tiếng gọi của Đức Giêsu đã vang lên: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1, 17). Lời mời gọi của Đức Giêsu có sức lay động và biến đổi hoàn toàn con người những ngư ông. Không hề có một chất vấn, truy xét và mặc cả xảy ra, Si-mon và An-rê đã “lập tức bỏ chài lưới mà theo Người” (Mc 1, 18). Và đối với Gia-cô-bê và Gio-an, chúng ta nhận thấy sự đáp trả càng trọn vẹn và cụ thể hơn: “Các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người” (Mc 1, 20 b).
Thái độ đáp trả kịp thời, không toan tính cho thấy các môn đệ đầu tiên đích thực là những “ngư ông của Chúa”. Với niềm xác tín triệt để trước lời mời gọi của Đức Giêsu, các ngài đã không cố níu giữ hay tiếc xót niềm vui bình dị trong nghề chài lưới đã trở nên một phần máu thịt của mình. Nhưng các ngài đã dám từ bỏ tất cả những gì có thể vướng víu cho hành trình sứ vụ, ngay cả tình cảm ruột thịt, nhờ đó tập chú hướng tới một mục tiêu cao cả và bền vững, là “trở thành những kẻ lưới người” trong “Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần”.
Những “ngư ông của Chúa” như Si-mon, An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an là những con người từng nếm trải gian lao vất vả đời thường, phải vật lộn “giữa ba đào cuồn cuộn nước mênh mông” để có được manh áo, hạt cơm, để có sự sống. Chính “trường đời” ấy đã tôi luyện và giúp các ngài có được kinh nghiệm sinh động, cụ thể và hiệu quả khi bước vào sứ vụ “chài lưới” linh hồn.
Đích thực là những “ngư ông của Chúa”, các môn đệ đầu tiên đã kết hiệp trọn vẹn với Thầy mình trong hành trình đau khổ để có thể đạt tới vinh quang tối hậu.
2. Tiếng gọi giữa biển đời
Chúa vẫn gọi tôi, gọi bạn trước biển đời đang cuộn chảy với bao ưu tư, khát vọng vì những nhu cầu của cuộc sống. Chúng ta khác nào những ngư phủ phải cực trí nan tâm để có được những thành quả nhằm bảo tồn và phát triển sự sống, phẩm giá, để khẳng định vị thế của mình giữa thời cuộc không ít những con sóng vô hình nhiều lúc khiến ta tưởng chừng đã bị xô ngã giữa vô vọng… Trong bối cảnh ấy, Lời của Đức Kitô lại vang lên mời gọi chúng ta như đã gọi các môn đệ xưa.
Chúa gọi ta khi ta là những con người rất đỗi bình thường, có vị thế thấp kém trong xã hội, mang thân phận của những “ngư ông” phải một nắng hai sương, vật lộn với bon chen vất vả cuộc sống. Nhưng chính Chúa đã đi bước trước gọi mời và thánh hóa toàn bộ con người và lý tưởng sống của ta để trở nên tông đồ thực thụ của Chúa, dám xả thân vào giữa biển đời, gieo mẻ lưới yêu thương trên những tâm hồn đang khát khao tìm Chúa.
Chúa gọi ta khi ta đang mải miết, bận rộn với bao hoạch định, công việc của gia đình, của cơ quan, đoàn thể… Lời mời gọi của Chúa nhiều khi đặt ta phải đứng trước thách đố lớn để chọn Chúa hay chọn danh lộc phù hoa với những thành quả vật chất đầy hấp dẫn. Trong hoàn cảnh đó, người môn đệ Chúa phải đánh đổi bằng sự hy sinh rất lớn là không toan tính cân nhắc thiệt hơn, nhưng sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì không cần thiết để có thể thuộc trọn về Chúa.
Trên con thuyền đời, ta chợt nhận ra tiếng Chúa mời gọi ta hãy sám hối trở về với bến bờ chân lý và tình yêu đích thực của Tin Mừng. Bởi lẽ, cuộc sống dương thế với ngàn nỗi phức tạp và cam go, người môn đệ Chúa không thể ở trong trạng thái dao động nước đôi, vừa chọn Chúa lại vừa làm tôi cho một hệ tư tưởng hay học thuyết nào đó lạc xa giáo huấn của Tin Mừng.
Tiếng gọi của Đức Kitô không ngừng âm vọng trong tâm hồn những ai đang ngày đêm dấn thân phục vụ rao truyền “sự sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15b). Họ như những “ngư ông của Chúa” rất mực cần cù, tận tụy, không ngại gian khổ để có thể đem về cho Chúa thật dồi dào, phong phú mẻ lưới thiêng. Mẻ lưới ấy là kết tinh của tinh thần tử bỏ triệt để và niềm tin yêu nơi Chúa là Đấng đã yêu thương mời gọi tất cả chúng ta thông dự vào chương trình cứu độ của Người.
3. “Bỏ chài lưới mà theo Người…”
Nghe tiếng gọi của Đức Giêsu, các môn đệ đầu tiên đã không đặt ra bất cứ điều kiện nào, nhưng đã đáp trả cách triệt để nhất bằng cách “bỏ chài lưới” và người thân yêu để bước đi theo Chúa. Trước tiếng gọi của Chúa, chúng ta đáp trả với thái độ nào ? Thực sự, đây là một câu hỏi không dễ trả lời cho người Kitô hữu trong thời đại hôm nay.
Những “ngư ông của Chúa” không thể đổ lỗi hoàn toàn cho bối cảnh sống của xã hội hiện đại đã tạo ra khó khăn thách thức đối với việc chọn lựa lý tưởng sống Tin Mừng. Nhưng lý do căn yếu hệ tại ở ngay chính mỗi người chúng ta, đã đáp trả tiếng Chúa cách triệt để chưa, và đã thực sự trở về với Tin Mừng trong lối nghĩ, cách sống và thái độ phục vụ của mình ? !
Các môn đệ đầu tiên đã “bỏ chài lưới mà theo Người”, để có thể thuộc trọn về Chúa trong mọi biến cố của đời sống. Những “ngư ông của Chúa” hôm nay biết thành tâm sám hối để có thể thanh tẩy những con sóng dữ tham sân si ra khỏi tâm hồn mình. Nhờ vậy, chúng ta mới dễ dàng nhận ra Chúa và lắng nghe lời Người cách trọn hảo nhất.
Đối với người Kitô hữu, “bỏ chài lưới mà đi theo Người”, hệ tại ở việc ưu tiên phục vụ Chúa và tha nhân trên hết mọi hoạt động thường nhật khác. Bao lâu chúng ta còn quá vướng bận với những nhu cầu, công việc chỉ nhằm phục vụ cho việc thăng tiến bản thân, lúc đó, những sợi dây của chiếc lưới vô hình vẫn buộc chặt ta trong nhãn quan cố hữu, không còn tự do để vươn tới Thiên Chúa và tha nhân.
“Bỏ chài lưới mà đi theo người”, là thái độ tín thác tuyệt đối nơi tình yêu Chúa. Chỉ khi chúng ta ý thức và nhận chân triệt để vai trò quyết định của Chúa trên đời ta, thì ánh sáng của Đức Kitô mới chiếu giãi vào tận thâm sâu của tâm hồn ta, ở đó, ta bắt gặp và kết hiệp trọn vẹn với chính Chúa là Đấng yêu thương mời gọi ta làm môn đệ của Người.
Thật ý nghĩa, trình thuật Tin Mừng Chúa Nhật III Thường niên B nhằm vào ngày cuối cùng của năm Tân Mão. Hiệp tâm tình với các môn đệ đầu tiên, chúng ta hãy dâng lời cám tạ Chúa đã yêu thương ban muôn hồng ân và mời gọi ta đồng hành với Người để phục vụ anh chị em trong suốt năm qua. Đặc biệt, chúng ta cũng hết lòng cám tạ Chúa, vì giữa bao tân toan, lắng lo, vất vả của phận người, Chúa vẫn luôn đi bước trước để dẫn đưa ta cập bến bờ Mùa Xuân Hạnh Phúc.
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mc 1, 14-20
Ơn gọi là một huyền nhiệm, là một mầu nhiệm cao quí của con người, đặc biệt là của mỗi Kitô: TN3-B55
Ơn gọi là một huyền nhiệm, là một mầu nhiệm cao quí của con người, đặc biệt là của mỗi Kitô hữu chúng ta. Muốn theo ai, muốn giúp ai, chúng ta phải biết họ là ai, phải biết họ đang cần ta cái gì ? Hôm nay, Tin Mừng và hai bài đọc Chúa nhật III thường niên, năm B trình bày cho chúng ta hiểu về ơn gọi của bốn môn đệ tiên khởi đã nghe tiếng gọi của Chúa Giêsu, họ đã can đảm, mạnh dạn để đi theo chân Chúa.
Thực tế, ơn gọi của các môn đệ đầu tiên khi bị Chúa Giêsu thuyết phục vẫn là ơn gọi của mỗi người chúng ta ở muôn thời. Chúa Giêsu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài,và Ngài muốn có nhiều người cộng tác vào sứ mạng cứu thế của Ngài. Do đó, Ngài đã kêu mời một số người đầu tiên đi theo Ngài để nghe, học hỏi và nhìn xem công việc của Ngài làm. Sau đó, các môn đệ sẽ tiếp tục công trình cứu độ của Ngài.Trong đời sống thường nhật của chúng ta, Chúa đang có mặt như Chúa đã đi qua bờ hồ Galilêa và thấy bốn môn đệ là Anrê, Simon đang quăng lưới dưới biển và Giacôbê, Gioan đang vá lưới trong thuyền ( Mc 1, 19 ). Chúa mời gọi họ, họ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Chúa cũng đang kêu mời chúng ta vì Chúa thấy chúng ta, Chúa chấp nhận mỗi người chúng ta, đón nhận cả khả năng,thành toàn của mỗi người, nhưng Ngài đón nhận cả những yếu đuối, tội lỗi, bất toàn của chúng ta.
Vâng, cuộc đời của mỗi người chúng ta, mỗi Kitô hữu chúng ta cứ tưởng mình đã ổn định, cứ lầm mình đã hoàn hảo thành toàn, nhưng chính lúc chúng ta đang miệt mài sống với những ước mơ, sống với của cải, danh vọng đã đạt được, đã có được thì chính lúc đó tiếng Chúa vang vọng, mạnh mẽ và hết sức dõng dạc, dứt khoát:” Hãy theo Tôi ! “.
Chúa mời gọi chúng ta theo chân Ngài để Ngài làm cho chúng ta trở thành những kẻ chài lưới người. Chúa không mời chúng ta đi theo một trào lưu tư tưởng, một ý thức hệ nào đó. Chúa mời gọi chúng ta đi theo Ngài để trở nên những kẻ chài lưới lành nghề, chài lưới người nghĩa là trở nên những môn đệ, những nhà tông đồ đích thực của Chúa. Chúa mời gọi chúng ta phải dứt khoát, bỏ lại tất cả để đến gặp Ngài, nhận ra chỗ Ngài và ở lại với Ngài. Bốn môn đệ và các môn đệ khác cũng một mực, dứt bỏ mọi sự mà theo Chúa. Simon đã bỏ lại vợ, con của mình.Giacôbê và Gioan đã bỏ lại Cha già để dứt khoát theo Chúa. Họ đã bỏ lại sự nghiệp, biển khơi và tất cả để theo một con người là Đức Giêsu Kitô.
Chúa cũng đang mời gọi chúng ta. Chỉ có một điều duy nhất Chúa không thể làm được cho ta nếu chúng ta không mở lòng ra để đón nhận Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay hướng dẫn cho chúng ta biết cách thức mở lòng ra để cho Chúa bước vào và sẵn sàng phải bước theo con đường hẹp như các tông đố khi xưa đã bước. Nếu chúng ta quyết tâm như các môn đệ xưa thì Chúa cũng giúp chúng ta mọi điều như Ngài đã làm cho các môn đệ xưa. Chúa sẽ biến chúng ta trở nên những tông đồ và biến đổi đời chúng ta thành những chứng nhân vượt quá niềm mong ước của mỗi người chúng ta.
Để hiểu rõ con người của Chúa Giêsu, chúng ta hãy đọc lời này của Edward Farrell trong “ Surprised by spirit “:” Người đang đi dọc bờ biển lung linh sáng, Người là ai, trông sáng ngời kinh khiếp, đang nhìn chúng tôi bằng đôi mắt mòn mỏi, đôi mắt như tìm kiếm chính linh hồn chúng tôi ?
Người là ai mà thấy được tư tưởng, đọc được tâm hồn sâu kín của chúng tôi bằng ánh mắt yêu thương, thông suốt, như muốn nói rằng: Ta chẳng muốn gì cả ngoài bản thân của bạn “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con mạnh dạn bước theo Ngài khi Ngài mời gọi chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Ơn gọi là gì ?
Anrê, Simon và Gioan, Giacôbê đã đáp lại lời mời gọi của Chúa thế nào ?
Chúng ta có được mời gọi theo Chúa hay không ?
Công trình cứu độ của Chúa là gì ?
Ngài có cần chúng ta tiếp nối sứ mạng cứu thế của Ngài ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 1:14-20)
Tin Mừng theo thánh Mác-cô có một đặc điểm là giới thiệu con người Chúa Giê-su Ki-tô (1:1): TN3-B56
Tin Mừng theo thánh Mác-cô có một đặc điểm là giới thiệu con người Chúa Giê-su Ki-tô (1:1) và đề tài rao giảng của Người (1:15). Mùa Thường niên chu kỳ năm B là thời gian trình bày lời giảng và việc làm của Chúa Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô. Bài Tin Mừng tuần trước đã thuật lại câu chuyện hai môn đệ ông Gio-an Tẩy Giả đã đi theo Chúa Giê-su để khám phá chân tính của Người. Còn bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu hai công tác chính của Chúa Giê-su khi Người khởi đầu cuộc đời công khai, đó là nội dung sứ vụ rao giảng của Người và việc Người kêu gọi những môn đệ đầu tiên.
Là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, Chúa Giê-su sẽ rao giảng như Đấng có thẩm quyền (Mác-cô 1:27). Người nói cho chúng ta biết tất cả những điều Thiên Chúa muốn nói “vào thời sau hết này” (Do-thái 1:2). Vậy trước khi thuật lại sứ vụ của Chúa, thánh sử Mác-cô đã tóm tắt sứ điệp rao giảng của Chúa trong một câu: “Người nói: ‘Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’”. Sứ điệp Tin Mừng ấy Chúa Giê-su sẽ rao giảng và giải thích bằng những lời lẽ đơn sơ hoặc bằng những câu chuyện dụ ngôn thực tế, cộng thêm những phép lạ như các dấu chỉ giúp người ta nhận ra “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Sứ điệp có hai phần rõ rệt: thứ nhất, thời kỳ chờ đợi ơn cứu độ đã hết để mở đầu cho Triều Đại Thiên Chúa; thứ hai, chúng ta hãy thay đổi não trạng để đón nhận Tin Mừng cứu độ.
Sám hối là quay lưng lại với quá khứ tội lỗi, trở về với hiện tại để đón nhận Ân Sủng là chính Chúa Ki-tô và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần mà hướng về tương lai. Hai hành vi sám hối và tin vào Tin Mừng gắn liền với nhau, nghĩa là nếu chúng ta không thay đổi não trạng thì chúng ta cũng không thể tiếp nhận Tin Mừng. Tại sao thế? Vì lối suy nghĩ và hành động của chúng ta là theo lối của thế gian, trái lại, tiếp nhận Tin Mừng là suy nghĩ và hành động theo đường lối của Chúa. Tin vào Tin Mừng không thuần túy là lấy lý trí để chấp nhận sự thật của Tin Mừng, nhưng là lấy trái tim để lắng nghe, yêu mến và tuân giữ những điều Chúa dạy.
Việc thứ hai Chúa Giê-su làm khi khởi đầu sứ vụ, đó là kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Đáp lời Chúa gọi “Các anh hãy theo tôi”, anh em ông An-rê và Si-mon “lập tức bỏ chài lưới mà đi theo Người”. Còn anh em ông Gia-cô-bê và Gio-an thì “bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công mà đi theo Người”. Chúa Giê-su đã chủ động kêu gọi họ và họ sẵn sàng bỏ lại những gì trân quý nhất trong đời để đi theo Người. Đấy là gương mẫu về việc Chúa gọi mỗi người chúng ta lên đường phục vụ Người và anh chị em. Trở lại với câu chuyện Chúa Nhật trước thánh sử Gio-an nói về hai ông An-rê và Gio-an đi theo Chúa Giê-su về chỗ Người ở, chúng ta không lạ khi thấy hôm nay cả bốn người đều mau mắn đáp lời kêu gọi của Chúa, bởi họ đã có dip tìm hiểu về Người hoặc được giới thiệu nên sẵn sàng khi Người gọi họ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Triều Đại Thiên Chúa nhiều khi vẫn còn là những danh từ xa lạ đối với nhiều người chúng ta. Chúng ta đang sống trong triều đại ấy, tức là đang sống trong thời gian Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại để cứu độ chúng ta. Như vậy Triều Đại Thiên Chúa cũng chính là thời cánh chung, hoặc thời sau hết để định đoạt số phận đời đời của chúng ta. Số phận ấy tùy thuộc vào lối sống mới của chúng ta. Chúa Giê-su đã cho chúng ta được làm con cái Thiên Chúa và sống theo Thánh Thần của Người. Đó là lối sống của những người thuộc Triều Đại Thiên Chúa. Nhưng liệu chúng ta có luôn tự hỏi mình: Tôi đang sống trong Triều Đại Thiên Chúa hay vẫn còn níu kéo lối sống của “triều đại ma quỷ và tội lỗi”?
Như Chúa Giê-su đã gọi bốn môn đệ đầu tiên, Người tiếp tục gọi chúng ta làm môn đệ Người mỗi ngày. “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Lu-ca 9:23). Bước đường làm môn đệ Chúa sẽ liên tục biến đổi con người chúng ta trong lốí sống của mình, suy nghĩ giống như Chúa Giê-su, hành động giống như Người, phản ứng giống như Người, để chúng ta “nên đồng hình đồng dạng với Người”.
Lm Đa-minh Trần đình Nhi
2009
Sau lễ nhận chức của tổng thống, dân chúng Hoa-kỳ đang chờ đợi những thay đổi ông đã hứa: TN3-B57
Sau lễ nhận chức của tổng thống, dân chúng Hoa-kỳ đang chờ đợi những thay đổi ông đã hứa khi tranh cử. Thay đổi để có tương lai tốt đẹp hơn về mọi phương diện. Khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su không hứa hẹn những thay đổi, nhưng Người kêu gọi dân chúng phải thực hiện sự thay đổi nơi chính họ trước. Hãy sám hối, hãy thay đổi chính mình, đó là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
1. Sứ điệp sám hối của ngôn sứ Giô-na đã được dân thành Ni-ni-vê tiếp nhận (bài đọc Cựu Ước – Gn 3:1-5.10)
Sám hối là hành vi của một cá nhân nhằm thay đổi cuộc sống mình bằng cách quay lưng lại với tội lỗi và những điều xấu xa để hướng mặt về con đường thánh thiện và tốt lành. Sám hối là đề tài rao giảng của hầu hết các vị ngôn sứ, những người nói thay cho Thiên Chúa, kêu gọi dân Chúa là Ít-ra-en từ bỏ lối sống gian ác tội lỗi mà trở lại con đường công chính.
Câu truyện ngôn sứ Giô-na rao giảng sám hối cho dân thành Ni-ni-vê kể lại một cuộc thay đổi thật cảm động. Về phần ngôn sứ Giô-na, ông đã mau mắn thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa. Sau khi bước ra khỏi bụng cá, ông “đứng dậy và đi Ni-ni-vê như lời Đức Chúa phán”. Tình trạng tội lỗi của dân thành Ni-ni-vê như thế nào ta không rõ. Nhưng theo lời Chúa nói với Giô-na, thì Ni-ni-vê là “thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật” (Gn 4:11). Nói khác đi, dân Ni-ni-vê là những người đang sống trong tình trạng “không phân biệt được bên phải với bên trái”, nghĩa là đời sống luân lý chẳng tốt đẹp gì. Đến như bên phải bên trái mà còn không phân biệt được thì làm sao phân biệt được điều tốt với điều xấu. Như vậy, họ sống theo bản năng không khác gì thú vật. Có lẽ vì thế mà Chúa đã nói thêm “và lại có rất nhiều thú vật” bên cạnh họ!
Tuy nhiên điểm tuyệt vời của câu truyện là lời giảng của Giô-na đã mang lại kết quả kỳ diệu. Thành phố rộng lớn, phải mất ít nhất ba ngày đường mới đi ngang qua từ đông sang tây. Đúng ra Giô-na phải đi ba ngày mới có thể đem sứ điệp của Chúa đến cho mọi người. Thế mà ông mới đi một ngày đường để kêu gọi sám hối, thì từ vua quan, thứ dân, người lớn, trẻ nhỏ cho tới cả súc vật, đã đón nhận sứ điệp và thực hành sám hối. Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, nhưng là cộng đồng. Ni-ni-vê là một cộng đồng sám hối. Ở đây sám hối nói lên cả chiều kích xã hội, là điều cần thiết cho mọi thời mọi nơi. Thiên Chúa là đích điểm mọi sự phải hướng tới và sám hối là hành trình con người quay trở về với Thiên Chúa. Còn điểm khởi hành cho hành trình sám hối là “từ bỏ con đường gian ác”. Sứ điệp rao giảng của Giô-na đã đưa người dân thành Ni-ni-vê vào cuộc hành trình khởi đi từ việc bỏ đường gian ác mà trở lại với Thiên Chúa. Họ bày tỏ lòng tin vào Thiên Chúa bằng cách “ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ”.
Ta có thể nói câu truyện dân thành Ni-ni-vê trở lại với Thiên Chúa là mẫu gương sám hối cho những cộng đồng hoặc xã hội con người. Ngày nay, kêu gọi cả một quốc gia hoặc một tập thể sám hối không phải là điều quá đáng, nhưng là điều những vị lãnh đạo có bổn phận phải làm. Họ là những Giô-na của thời đại. Như thế, những thông điệp của Giáo Hội, những thư mục vụ của các giám mục, những chương trình của giáo xứ… có nói đến việc kêu gọi thống hối, thì cũng là lập lại sứ điệp mà ngôn sứ Giô-na đã công bố hơn hai ngàn năm trước đây. Sám hối là điều cần thiết, gắn liền với thân phận con người. Do hậu quả của tội nguyên tổ và dưới ảnh hưởng của tội lỗi cá nhân cũng như xã hội, ta dễ dàng bị lôi kéo mỗi ngày một xa và đối nghịch với Chúa. Do đó, việc quay trở về với Chúa là điều ta phải thực hành từng giây phút trong cuộc sống. Thái độ mau mắn sám hối của dân Ni-ni-vê cũng là tấm gương cho ta noi theo.
2. Khởi từ sám hối đến tin vào Tin Mừng của Chúa Giê-su (bài Tin Mừng – Mc 1:14-20)
Ông Gio-an Tẩy giả đã phải chấm dứt việc rao giảng sám hối khi ông bị bắt và nộp cho vua Hê-rốt. Nhưng sứ điệp của ông đã được tiếp nối do tác vụ rao giảng của Chúa Giê-su. Ông Gio-an kêu gọi người ta sám hối để tiếp nhận “Đấng đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi”, thì giờ đây Chúa Giê-su đến sau ông, kêu gọi người ta sám hối để có thể tiếp nhận và tin vào Tin Mừng. Quả thực có sự tiếp nối hết sức nhịp nhàng và ý nghĩa giữa sứ mệnh tiền hô của Gio-an và sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su. Khi mời gọi người ta chuẩn bị tiếp nhận Đấng đến sau ngài, Gio-an không chỉ có ý nói về một người, nhưng nói về cả một triều đại mà vị ấy thiết lập, là triều đại của ân sủng, chân lý, tình yêu Thiên Chúa và cứu độ. Vì thế, Chúa Giê-su đã khẳng định rõ ràng điều Gio-an muốn nói. “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đúng vậy, thời kỳ đã mãn là thời kỳ chờ đợi ơn cứu độ, thời kỳ “không phân biệt được bên phải với bên trái” đã kết thúc, vì Đấng dạy bảo chân lý và đường nẻo của Thiên Chúa đã đến rồi (Tv 24:4-5ab). Theo ý nghĩa kế hoạch cứu độ, Triều Đại Thiên Chúa là thời gian để Thiên Chúa ban ân sủng cho nhân loại bằng cách sai Con Một Người đến với họ, chỉ bảo dạy dỗ và dẫn dắt họ về quê hương vĩnh cửu. Đối với nhân loại, Triều Đại Thiên Chúa là thời gian để họ được làm con cái Thiên Chúa nhờ Đức Ki-tô, được sống đời sống mới trong Thánh Thần, để sau khi chu toàn bổn phận ở trần thế, họ sẽ được sống lại với Đức Ki-tô trong ngày Người lại đến và được hưởng phần gia nghiệp muôn đời.
Vậy nếu Triều Đại Thiên Chúa đã khai mở thì ta phải làm gì? Đó chính là nội dung sứ vụ rao giảng của Chúa Giê-su: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hai điều này không thể tách rời, nhưng đi liền với nhau. Ta không thể tin vào Tin Mừng nếu ta không sám hối. Sám hối là việc quay chiều cần thiết, đòi ta phải quay lưng với những gì là tội lỗi xấu xa và đi ngược lại với Thiên Chúa. Ta không thể đi “giật lùi” đưa lưng lại để đến với Thiên Chúa, cũng không thể tiếp nhận Tin Mừng Chúa Ki-tô ở phía đằng sau mà là trước mặt. Sám hối đích thực sẽ mở cánh cửa tâm hồn ta để cho Tin Mừng đến với ta. Sám hối sẽ dọn sạch sẽ căn phòng trái tim ta để Tin Mừng có chỗ “ở lại” với ta và biến đổi con người của ta nên giống với con người Ki-tô.
Đoạn Tin Mừng hôm nay không chỉ nói đến sứ điệp mở đầu của Chúa Giê-su kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, nhưng còn cho ta những thí dụ cụ thể về sám hối và tin vào Tin Mừng, đó là các môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su. Quả thực họ là những người đã nghe và đáp lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng. Họ là các ông Si-môn, An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Ta thấy rõ cuộc thay đổi của họ, sám hối bằng cách thay đổi cuộc sống từ kẻ lưới cá thành kẻ lưới người. Họ bắt đầu hành trình tin vào Chúa Giê-su và Tin Mừng của Người. Dĩ nhiên hành trình làm môn đệ này sẽ kéo dài cả một đời và đòi họ phải trả một giá đắt, bỏ lại mọi sự kể cả mạng sống mình. Họ sẵn sàng để cho Chúa và Tin Mừng thay đổi họ dần dần, từ kẻ lưới cá biến thành kẻ lưới linh hồn người ta. Họ bước theo Chúa trước mặt và phấn đấu không nhìn lại sau lưng để hối tiếc những gì họ bỏ lại. Càng quyết tâm sám hối, tức là quay lưng lại với những quyến rũ trần gian, họ càng tin vào Đấng đã kêu gọi họ làm môn đệ.
Con đường sám hối và tin vào Tin Mừng ấy cũng là con đường mọi Ki-tô hữu phải đi. Ta hết thảy được Chúa Giê-su gọi làm môn đệ Người. Ta nghe cùng một mệnh lệnh Người đã truyền cho các môn đệ tiên khởi: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Nhưng liệu ta có sẵn sàng đáp lời và đi theo Chúa như các môn đệ ấy không?
3. Một thí dụ cụ thể sống sứ điệp sám hối (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 7:29-31)
Có lẽ ta nghĩ bài đọc trích đoạn thư của thánh Phao-lô chẳng ăn nhập gì với đề tài sám hối và tin vào Tin Mừng. Nhưng thực ra, đây là một đề nghị rất điển hình hàm chứa đầy tinh thần sám hối. Điều sai lầm ta khó nhận ra được, đó là ta sống mà không màng gì tới chân lý “bộ mặt thế gian này đang biến đi”. Cuộc sống trần gian của ta cũng biến đi dần dần và ta mỗi ngày một tiến gần đến chân trời của phán xét, của chung cuộc, của ngày Đức Ki-tô trở lại. Vì không màng tới hoặc bất cần những gì sẽ tới từ chân trời ấy nên nhiều người sống theo chủ thuyết duy vật hoặc “hiện sinh” để sống vội, sống ích kỷ cho mình, sống bi quan vì cuộc đời là buồn nôn và tha nhân là hỏa ngục. Đối với những người sống không có “trời mới, đất mới” như thế, thánh Phao-lô có lời khuyên họ hãy sám hối, hãy thay đổi lối sống.
Trước hết ngài mời gọi ta hãy nhìn vào hiện tại, hiểu ý nghĩa đích thực của hiện tại. Hiện tại là cuộc sống trên đời, với những gì ta đang có hoặc đang cảm nghiệm. Nhưng tất cả những gì ấy không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện và đều có thể giúp ta tiến gần đến trời mới đất mới, tức là tiến gần đến quê hương vĩnh cửu. Dĩ nhiên ta không thể hiểu theo nghĩa đen rằng thánh Phao-lô bảo ta làm những điều vô lý như phải khóc mà lại đừng khóc, phải vui mà lại đừng vui, đang khi vợ ở bên cạnh mà lại sống như không có! Nhưng ngài muốn nói lên chân lý về những thực tại trần thế như sau.
Khoảng thời gian giữa hiện tại và ngày Chúa quang lâm là thời gian ngắn ngủi, cho nên ta phải hiểu đúng đắn về giá trị của những thực tại trần thế như tình cảm, của cải tiền bạc, những vui buồn trong cuộc đời. Không phải thánh Phao-lô kêu gọi ta sống hờ hững với những thực tại trần thế, nhưng ngài khuyên ta phải cảnh giác, ý thức rằng giá trị của chúng chỉ tương đối, và tránh hưởng thụ đến độ sa lầy trong đó, đang khi những thực tại căn bản nằm trong những giá trị và lối sống theo Tin Mừng Chúa Ki-tô. Của cải tiền bạc cần thiết cho cuộc sống. Nhưng nếu chỉ sống vì của cải tiền bạc, đến độ không cần biết đến người khác, thì đúng là đã lấy cái tương đối làm tuyệt đối rồi. Do đó, ta cần phải sám hối, thay đổi não trạng (metanoia), sắp đặt lại đúng thứ tự những bậc thang giá trị, để “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
4. Sống Lời Chúa
Cuộc thay đổi nào cũng đòi hỏi ta phải chấp nhận một giá đắt. Muốn thay đổi lối sống không tốt đẹp của ta để tiếp nhận Chúa Ki-tô và Tin Mừng của Người, ta phải dứt khoát quay lưng lại tội lỗi để sẵn sàng sống theo khuôn vàng thước ngọc của Tin Mừng Chúa Ki-tô. Hành trình sám hối và làm môn đệ Chúa Ki-tô phải được thực hiện liên tục suốt cuộc đời của ta. Biến đổi không xảy ra trong một sáng một chiều, nhưng dần dần và nhờ sức mạnh của Thánh Thần và mối quan hệ khắng khít giữa ta với Chúa Ki-tô. Điều quan trọng là ta có luôn hướng về Chúa Ki-tô và sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi của Người: Hãy đi theo Ta (Mc 1:17).
Suy nghĩ: Trong cuộc sống hằng ngày, tôi có nghe tiếng gọi của Chúa Giê-su: “Hãy đi theo Ta” không? Tôi đã trả lời Người như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa cho kẻ lầm lạc thấy ánh sáng chân lý của Chúa để họ được trở về nẻo chính đường ngay; xin ban cho những người xưng mình là Ki-tô hữu biết tránh mọi điều bất xứng và theo đuổi những gì thích hợp với danh nghĩa của mình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 15 Thường niên).
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: 1 Cô-rin-tô 7: 29-31
Bài đọc hôm nay trích từ những lời thảo luận của thánh Phao-lô về đời sống hôn nhân và độc: TN3-B58
Bài đọc hôm nay trích từ những lời thảo luận của thánh Phao-lô về đời sống hôn nhân và độc thân mà tín hữu Cô-rin-tô đã viết thư hỏi ngài (7:1). Không rõ họ đã viết những gì cho ngài, nhưng hình như trong cộng đoàn có một nhóm người sống khổ hạnh đã chủ trương rằng: khi trở lại đạo, không chỉ những người sống một mình (độc thân, mới đính hôn, góa chồng) mà cả những cặp vợ chồng nữa (cả hai đều là Ki-tô hữu, hoặc một người là Ki-tô hữu và một người là ngoại đạo), cũng không được gần gũi nhau. Để trả lời, Phao-lô đưa ra nguyên tắc chung: mỗi người nên giữ thân phận đang sống lúc được Chúa gọi vào đạo (7:17-24). Nếu lúc trở nên Ki-tô hữu bạn đang sống trong bậc hôn nhân, thì cứ tiếp tục sống bậc hôn nhân; nếu đang độc thân thì cứ ở vậy, nhưng nếu có lập gia đình thì cũng không có gì là xấu cả. Cuộc giao lưu giữa văn hóa Hy-lạp và đức tin Ki-tô giáo trong thời điểm ấy đã nảy sinh không biết bao nhiêu vấn đề. Thánh Phao-lô sau khi đưa ra nguyên tắc chung là hôn nhân và độc thân cả hai đều tốt và bổ sung cho nhau, đã không quên đề cập tới một yếu tố quan trọng áp dụng cho mọi bậc sống, đó là Ki-tô hữu phải có não trạng nào đối với những giá trị của cuộc sống.
a) Não trạng về thời gian
Điểm gây chú ý trong bài đọc là thánh Phao-lô mở đầu và kết thúc lời khuyên bằng cách nêu lên ý niệm về thời gian: "Thời gian chẳng còn bao lâu," và "Bộ mặt thế gian này đang biến đi." Với hai hình ảnh này về thời gian, ngài muốn nhấn mạnh rằng khoảng thời gian giữa lúc chúng ta đang sống đây và ngày giờ Đức Ki-tô quang lâm thật là ngắn ngủi. Do đó, chúng ta không thể sống bám chặt lấy những thực tại trần thế và coi đó là cùng đích, nhưng trái lại, cần phải cảnh giác nhận định giá trị tương đối của thực tại ấy và làm như phương tiện để giúp chúng ta đạt tới giá trị tuyệt đối là chính Thiên Chúa.
Thời gian là một đặc tính nói lên giá trị. Cuộc sống tạm đời này so với cuộc sống vĩnh cửu chỉ có giá trị tương đối vì thời gian của nó ngắn ngủi và thay đổi. Sự sống đời này là phương tiện để tiến tới sự sống vĩnh cửu, chuẩn bị cho sự sống mai sau.
b)Não trạng Ki-tô hữu về thời gian nói lên hai chân lý:
- Sự ngắn ngủi của cuộc sống: khi khẳng định "thời gian chẳng còn bao lâu," thánh Phao-lô hiểu thời gian này là lúc Đức Ki-tô quang lâm. Dù việc Chúa quang lâm có thể không xảy ra lúc chúng ta còn đang sống, nhưng giờ chết của chúng ta chắc chắn sẽ đến và ngày ấy chúng ta sẽ phải đứng trước tòa phán xét của Đức Ki-tô. Ý thức sự ngắn ngủi của cuộc sống có thể ảnh hưởng đến lối sống. Nếu chỉ là "chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau!" thì đúng là mới nhận ra thời gian ngắn ngủi của mình thôi mà quên rằng ngay sau đó là thời gian của Chúa, thời gian Người phán xét chúng ta. Não trạng của nhiều người hôm nay là não trạng hiện sinh, hưởng thụ, vịn vào lý do thời giờ ngắn ngủi để hô hào cho lối sống trác táng và vô luân.
- Tính cách tạm bợ của cuộc sống: "Bộ mặt thế gian này đang biến đi." Nêu lên một số sinh hoạt cơ bản của con người, thánh Phao-lô đã diễn tả thế nào là "bộ mặt thế gian," thế nào là cuộc đời. Cuộc sống có những lúc vui vẻ hạnh phúc, những khi ngậm đắng nuốt cay, những ngày huy hoàng tiền bạc, tha hồ mua sắm, hưởng thụ, rồi những ngày kinh tế tuột dốc hoặc thất nghiệp dài dài, phải bán xe, để cho nhà băng xiết nhà. Đúng là bộ mặt thế gian này đang biến đi, lui dần vào dĩ vãng. Bạn bè cùng học ngày xưa, sau khi ra trường mấy năm còn lại mấy người? Các hội cựu học sinh không đủ khả năng ràng buộc họ với nhau..., cùng lắm chỉ còn là một hội để các trường học kiếm tiền tài trợ cho trường!
Điểm quan trọng tuy thánh Phao-lô không nói ra nhưng muốn chúng ta phải nghĩ tới, đó là nếu bộ mặt thế gian này đang biến đi thì sẽ còn lại cái gì? Tất cả thế giới của tôi đi dần vào dĩ vãng, nhưng sẽ đưa tôi tiến đến mỗi ngày một gần hơn cái gì trước mặt? Sa lầy trong những vật chất tạm bợ, hay là tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát? Đến gần Chúa Ki-tô và anh chị em, hay là cứ để mình bị giam hãm trong cái tôi ích kỷ? Tóm lại, chúng ta cần phải nhận ra những gì có giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu, tức là sự sống đời đời với Thiên Chúa. Chúng ta phải đặt lại vấn đề về ý nghĩa cuộc đời: sống là Chúa Ki-tô.
c)Vậy phải sống thế nào với não trạng Ki-tô về thực tại trần thế?
Thoạt mới đọc lời khuyên của thánh Phao-lô: "hãy sống như... hãy làm như..." chúng ta dễ hiểu lầm ngài muốn nói đến một cách sống giả vờ. Cô vợ kè kè bên cạnh mà lại bảo như không có! Nước mắt nước mũi đẫm cả mặt mà lại nói là không khóc! Cái xe Lexus đậu chình ình trước nhà để cho thiên hạ lé mắt và mình ngồi êm ru mà lại bảo là không hưởng! Thế là chúng ta hiểu sai ý của Phao-lô rồi. Ngài không chối bỏ những thực tại trần thế. Nhưng ngài bảo: ngoài những thực tại ấy, chúng ta đừng quên những thực tại khác, có giá trị cao hơn hoặc tuyệt đối. "Như không có, như không hưởng" có nghĩa đây không phải là cùng đích, không phải là vĩnh cửu, mà chỉ là những trang bị cuộc đời để giúp chúng ta trở về với Đấng Tạo dựng. Trái lại, sống "như là có vĩnh viễn, như là hưởng hoài không bao giờ mất" mới thực sự là sống giả vờ, vì mình đã biết rõ dù đến tóc bạc răng long thì vợ mình cũng phải lìa trần, chuyện buồn rồi cũng qua đi, cái xe cái nhà cũng cũ mèm...! Đừng lẫn lộn phương tiện với cứu cánh.
Não trạng Ki-tô về thực tại trần thế đã thay đổi lối sống của biết bao người. Có người đã để lại kinh nghiệm về sắp đặt lại bậc thang giá trị cuộc đời mình, loại bỏ đi "những quyến luyến lệch lạc", thí dụ như thánh I-Nhã thành Loyola. Có người đã nhận ra ưu tiên nhu cầu giúp đỡ những người nghèo khổ nhất và đã hy sinh cuộc đời mình để phục vụ tha nhân, như Mẹ Tê-rê-xa. Còn rất nhiều không sao kể hết. Nhưng còn tôi
?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đặt lại ý nghĩa cuộc đời có phải là một câu hỏi để tôi hồi tâm mỗi ngày không? Tôi có luôn luôn hỏi đời mình có ý nghĩa gì không? Những gì giúp tôi thấy là có ý nghĩa, hoặc những gì khiến tôi thấy là đời vô nghĩa?
"Những quyến luyến lệch lạc" nào làm cho tôi không nhận ra được giá trị vĩnh cửu của đức tin? của đời sống thiêng liêng? của phục vụ và bác ái?
Thánh Phao-lô nói: "Vậy từ nay..." Khi nào mới là "từ nay..." đối với tôi? Còn quá sớm hay bắt đầu muộn rồi? Tôi có kế hoạch gì để thay đổi não trạng và lối sống?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện sau đây:
"Lạy Chúa, xin dạy con vững bước trong đêm trăng mờ ảo hay ngày sáng rạng ngời.
Xin dạy con nhìn phía trước, đừng lầm lẫn những gì của ngày mai với hôm qua.
Xin dạy con cùng Ngài làm nên ngày mới, đừng tích tụ hoa tàn nhụy rữa bên lối cũ đường xưa.
Xin dạy con mở toang những vách ngăn thành cánh cổng của một lộ trình mới."
(ĐHY Roger Etchegaray, trích trong RABBOUNI, lời nguyện 75)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galiêa, Người thấy Simon và em là Andrê đang thả lưới xuống: TN3-B59
“Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galiêa, Người thấy Simon và em là Andrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Ngài liền gọi các ông” (Mc 1: 16-20).
Cũng như trong thế giới hiện tại, thế giới siêu nhiên cũng có nhiều ngành nghề - ơn gọi - khác nhau. Riêng trong lần tuyển mộ những cộng tác viên này, Chúa Giêsu đã chuyển đổi nghề chài lưới bình thường của Simon, Andrê, Giacôbê và Gioan thành nghề “chài người” trong thế giới siêu nhiên.
Cũng trong Thánh Kinh, chúng ta đọc thấy một số khác được Chúa Giêsu dùng hình ảnh vườn nho và những người làm công; hoặc cánh đồng lúa chín vàng và những thợ gặt làm hình ảnh để kêu gọi những ai muốn tham dự vào dự án Cứu Độ mà Ngài đã thực hiện, và còn đang được tiếp nối cho đến ngài thế mạt. Ngài muốn tất chúng ta, tùy vào hoàn cảnh, sở thích, khả năng, tiếp tay phổ biến và loan truyền Tin Mừng Cứu Độ mà Ngài đã từ trời mang xuống. Ngài muốn chúng ta trực tiếp và năng động đối với phần rỗi các linh hồn mà Ngài đã đổ máu đào trên thập giá để cứu chuộc.
Thánh Kinh ghi nhận, sau những chuẩn bị rất tâm lý và kỹ lưỡng, Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống trần. Rồi bằng cách thế nhân loại, Ngài đã từ từ giới thiệu Chúa Con với con người mà lần đầu tiên là được mẹ Ngài mang đến thăm bà dì Isave và người anh họ Gioan lúc đó cũng còn đang trong bụng mẹ. Sau những cuộc gặp gỡ với các mục đồng, ba nhà Đạo Sỹ tại hang bò lừa ở đồng quê Belem, và các tiên tri Simêon và Ana trong Đền Thờ Giêrusalem. Và nhất là sau khi đã trải qua 30 năm ẩn dật, chuẩn bị, giờ đây Tin Mừng cần được rao giảng, và Chúa Giêsu bắt đầu tuyển mộ những cộng tác viên. Nhu cầu tuyển mộ đã được Ngài nói bóng gió: “Mùa màng thì bề bộn, mà thợ thuyền lại ít ỏi” (Mt 9:37).
“Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc 1:17). Câu nói mà Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, Andrê, Giacôbê, và Gioan, hay câu nói mà Ngài đã nói với mọi người qua miệng ông chủ vườn nho nói với những người thợ mà ông thuê mướn: “Cả các anh nữa, cũng hãy đi làm vườn nho cho ta” (Mt 20:7), Ngài cũng đã nói với triệu triệu người trải qua dòng thời gian, và hôm nay là với bạn và tôi.
Ngày chịu Phép Thánh Tẩy, tất cả chúng ta đều được mời gọi vào với sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Ngày đó, chúng ta được trao cây nến sáng tượng trưng Ánh Sáng Phục Sinh của Chúa Kitô, ánh sáng phá tan bóng đêm sự chết. Đó là sứ mạng chiếu tỏ ánh sáng và rao truyền sự sáng của mỗi chúng ta. Chúng ta cũng đã được xức dầu, và được sai đi trong Thần Khí của Thiên Chúa. Cũng như các Tông Đồ đã lãnh nhận Thần Khí trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thần Khí ấy cũng đến và đỗ trên mỗi người chúng ta khi chúng ta chịu Phép Thêm Sức. Và cũng như các Tông Đồ trong Bữa Tiệc Ly đã được rước Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cũng được tham dự cùng một bàn tiệc ấy khi tham dự Thánh Lễ và khi rước Mình Máu Thánh Chúa.
Tóm lại, cũng như các Tông Đồ, và cũng như tất cả mọi Kitô hữu khác, chúng ta đã được kêu gọi và được sai đi để loan truyền Tin Mừng Sự Sống của Chúa Cứu Thế.
Nhắc lại hình ảnh những môn đệ đầu tiên của Ngài, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc lại cho bạn và tôi lời mời gọi mà Ngài đã gọi mỗi người chúng ta. Bạn là ai? Ngư phủ lưới người tại những sông lạch, hồ, ao, hay biển cảù? Thừ sai, thợ gặt nơi những cánh đồng truyền giáo? Hay những lao công thợ thuyền nơi những góc cạnh của vườn nho nhân loại? Tất cả mọi người đều đã được kêu gọi, chuẩn bị, và đặt vào những môi trường thích hợp. Điều quan trọng là chúng ta có yêu nghề và mến chủ hay không? Và đó là điều mà Chúa Giêsu đang muốn mỗi người chúng ta thi thố và biểu lộ qua hành động của mình. Người chài lưới phải chài lưới hết mình. Người thợ gặt phải gặt hái chăm chỉ. Người làm công phải làm cho chủ như làm cho chính mình. Thiếu yếu tố yêu chủ và mến nghề, chúng ta chỉ là những ngư phủ hay thợ thuyền bôi bác, lười biếng. Chỉ là những người làm thuê vì đồng lương, và dĩ nhiên là tránh né chịu khó, vất vả.
Mến Chủ:
Cái đặc tính yêu nghề và mến chủ của các Tông Đồ được tìm thấy nơi thái độ của các ông khi mạnh dạn và can đảm theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Sau khi vài người trong các ông đã đến và ở với Ngài, Thánh ký Máccô đã ghi lại thái độ của Simon và Andrê: “Lập tức các ông bỏ lưới theo Người” (Mc 1:18). Còn đối với Giacôbê và Gioan thì: “Họ bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền với các người làm công, và đi theo Ngài” (Mc 1:20). Điều này nói lên quyết tâm và mức độ dứt khoát lựa chọn của các ông.
Mến chủ, mến thầy, đến nỗi bỏ lại tất cả sự nghiệp và những gì mình có như Simon và Andrê. Mến hơn nữa đến độ bỏ lại “cha già” với các người làm công rồi đi theo Chúa như Giacôbê và Gioan, thì quả là mến thật. Mến hơn mọi sự kể cả cha mẹ mình.
Yêu Nghề:
Tuy nhiên, thái độ quyết liệt và nhanh chóng của 4 Tông Đồ lúc ban đầu ấy cũng chưa nói lên được tính chất “yêu nghề” của các ông. Các ông vẫn chưa dám “sinh nghề tử nghiệp” với cái nghề mới mẻ này. Điều này đã được chứng minh trong Thánh Kinh, mấy ông cũng tranh dành nhau ngôi thứ. Cũng lục đục và ghen tỵ với nhau. Và như Phêrô đã có lần đặt vấn đề thẳng thừng với Thầy: “Chúng tôi bỏ mọi sự mà theo Thầy, thì chúng tôi sẽ được gì?” (Mt 19:27). Câu hỏi rất rõ ràng và sòng phẳng.
Câu hỏi chứng tỏ các ông chưa yêu nghề, mà còn mang trong đầu óc hình ảnh của một kẻ làm công, một người làm thuê. Các ông chưa coi nghề mới này là lẽ sống và chưa làm cho chủ như làm cho chính mình. Thái độ thiếu mặn mà và dám sống chết với nghề này cũng đã được Thánh Kinh ghi lại ở vào những giây phút chót trong cuộc tử nạn của Thầy, các ông kẻ thì bán Thầy như Giuđa, kẻ khác chối thầy như Phêrô, còn lại mạnh ai nấy tìm đường chạy trốn. Riêng mình Gioan thì cũng chỉ khép nép, khúm núm và thinh lặng đứng dưới chân thập giá trong giờ Thầy tử nạn.
Tuy nhiên, tinh thần và lối sống yêu nghề đã được chứng minh sau khi các Ông được Thánh Thần hiện xuống. Thần Khí đã làm cho các ông hăng say, can đảm, và nhiệt thành với sứ mạng. Các Ông đã ra đi tới những chân trời, góc biển để rồi ngoại trừ Gioan, tất cả đều bị “sinh nghề tử nghiệp”. Bị chết vì yêu nghề, và sự chọn lựa của mình.
Điều kiện:
Khi tuyển chọn và kêu gọi các Tông Đồ cũng như sau này đối với tất cả chúng ta, ngoài yếu tố mến chủ, yêu nghề ra, Chúa Giêsu cũng nêu lên một số điều kiện tối thiểu, trong đó bao gồm sự hy sinh.
T.s. Trần Quang Huy Khanh
Dịp đầu năm ai mà chả mơ ước và chúc nhau được sống phúc lộc thọ. Nhưng làm thế nào để: TN3-B60
Dịp đầu năm ai mà chả mơ ước và chúc nhau được sống phúc lộc thọ. Nhưng làm thế nào để những ước mơ đó thành sự thực hay chỉ là đầu môi chót lưỡi cho qua đi, như Trần Tế Xương đã từng mỉa mai khi nghe người ta chúc Tết: Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau...! Cả một xã hội bon chen chôm chỉa làm giầu, đo giá trị một người bằng đồng lương, muốn trở thành giầu có thật quả là một điều đầu tắt mặt tối, chân lấm tay bùn!
ĐIỀM THỜI ĐẠI
Mới đây Gerald Celente, giám đốc Viện Nghiên Cứu về Đà Bước của người thời đại, trung tâm nằm ở Rhinebeck, New York, cho biết rằng năm những năm tới, con người sẽ trải qua những khắc khoải lo sợ và thất vọng khi bước vào thời đại mới.
Một số dấu chỉ mới lạ như lời tiên báo sẽ xẩy ra:
Ảnh hưởng văn hóa Tây Ban Nha Nam Mỹ sẽ rất mạnh và thấy rõ tại Hoa Kỳ, chen chân với dòng ảnh hưởng “Ăng-lê” từ trước tới nay vẫn chế ngự nước này đang tạo sức ép toàn cầu hóa.
Người ta sẽ tự chọn lối sống giản đơn, tìm hạnh phúc chân thực qua nếp sống điều độ, tự kỷ và tinh thần hơn là lối sống thừa mứa vật chất làm buồn nôn hiện tại. Nhiều người tìm về thiên nhiên hòa hợp vạn vật, hơn là lo thu mình lại sống quá ích kỷ chỉ còn biết có mình, làm cho đời sống mỗi ngày mỗi nghèo nàn ra! Con người tái khám phá ra cuộc đời đã sẵn giầu sang rồi, sức sống sung mãn đã nằm sẵn trong vạn vật, chứ đâu phải những hăm hở kiếm tìm mệt nhọc của loài người như hiện nay. Chỉ cần dừng chân ngắm nhìn: một cọng cỏ, một bông hoa, một cái cầu, một cái ghế, ngôi nhà đang ở, xem ra tầm thường và nhàm chán, bỗng khám phá ra những lạ lùng. Vì một cành lá cũng đang biểu hiện sức sống của cả vũ trụ. Mà vũ trụ thì giàu có, tại sao lại cứ phải sống nghèo nàn ăn mày ăn xin những đồ phế thải cuộc đời.
Khám phá ra được như vậy thì cuộc sống trở nên giầu có sung túc biết bao. Ngay ở vườn đàng sau và ngay trong nhà mình đã có nhiều triệu rồi, cả một kho tàng quí giá đang chờ được khám phá. Chỉ cần bừng mở con mắt: nguồn phú túc đang hiển hiện trước mặt mà Chúa Trời Đất đã bày biện ra.
TIẾT LIỆU CÁCH SỐNG GIẦU SANG
Ngày Tết, người Việt có nghi lễ bánh dầy bánh chưng, do tích truyện hoàng tử Tiết Liệu. Đó là bí quyết sống đời hoàng vương sang giầu.
Sau khi đã đánh thắng phá được giặc Ân bên Tầu sang xâm chiếm nước ta, trong nước được thái bình, vua Hùng muốn truyền ngôi cho con, liền họp tất cả các hoàng tử lại mà tuyên bố rằng:
“Ta muốn truyền ngôi cho đứa nào làm vừa lòng ta, là đến cuối năm, tìm được thức ăn vừa ngon vừa quí, để dâng cúng tổ tiên cho tròn đạo Hiếu”.
Thế là các công tử lên đường đi khắp mọi nơi. Người thì đi lên rừng, người thì đi xuống biển, ra sức tìm cho được thức ăn gì lạ nhất, quí nhất, ngon nhất, mong sẽ được truyền ngôi làm vua.
Duy chỉ có người con thứ chín là Lang Liêu, vừa nghèo kém vừa cô thế, không biết xoay xở làm sao được. Nhưng chàng lại rất có hiếu, muốn làm vừa lòng vua cha. Vì vậy chàng suy nghĩ ngày đêm ăn ngủ không yên.
Bỗng một hôm nằm ngủ, trong giấc mơ chàng thấy một vị thần linh đến mách bảo:
“Trong trời đất không có gì quí hơn gạo, vì gạo nuôi sống con người, mà ăn mãi vẫn không chán. Như thế còn gì quí hơn được nữa. Vậy con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn tượng trưng cho trời, và làm bánh hình vuông tượng trưng cho đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, có ý nói ơn trời đất sinh dưỡng muôn loài. Như thế thì lòng vua sẽ vui, và chắc thế nào cũng được truyền ngôi làm vua”.
Lang Liêu thức dậy mừng lắm, tự nhủ: “Đã có thần linh giúp ta, vậy ta cứ theo đó mà làm.”
Lang Liêu mới lựa hột nếp nào trắng tinh, hoàn toàn không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông tượng trưng cho đất, bỏ nhân vào giữa, đem nấu đi cho chín, gọi là bánh chưng. Lại làm một cái bánh hình tròn để tượng trưng cho trời, gọi là bánh dầy.
Đúng kỳ hạn, các công tử đều đến trưng bày phẩm vật, dâng vua không thiếu một thức gì. Duy chỉ có Lang Liêu đem bánh tròn và bánh vuông đến dâng. Vua Hùng lấy làm lạ mới hỏi cho biết, thì Lang Liêu trình bày như lời vị thần linh chỉ bảo. Nhà vua liền nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, mà lại thật ý nghĩa, phẩm vật của các công tử khác không sao hơn được. Nhà vua khen ngợi rồi chấm cho Lang Liêu giải nhất và được nối ngôi làm vua.
Năm hết, nhà vua dùng bánh ấy dâng lên tổ tiên. Thiên hạ bắt chước truyền đến bây giờ, và lấy tên của Lang Liêu để gọi là Tiết Liệu.
TIN VUI GỬI NGƯỜI TÌM PHÚC LỘC THỌ
Chúa Giêsu đã bắt đầu loan báo Tin Vui bằng một câu như tóm lược tất cả: “Nước Trời đã gần bên. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:14).
Nước Trời là vườn hạnh phúc đang ở ngay đây, nơi có Chúa hiện diện. Bánh chưng và bánh dầy thật dễ làm, gạo, nhân đậu và lá gói có thể kiếm ngay ở trong nhà, ở ngoài vườn, không phải đi tìm mãi xa xôi. Bí quyết để sống đời hoàng vương sang giầu và hạnh phúc luôn nằm sẵn trong tầm tay, có thể tu luyện ngay trong cuộc sống thường ngày. Vườn hạnh phúc sống hoàng vương đang ở trong tầm tay. Ngay lúc này, ở đây. Tiết Liệu đã được ơn trên soi sáng để thấy được điều đó mà được nối ngôi làm vua.
Truyện thiêng Tiết Liệu cũng muốn gửi người thời đại này một điều thật đơn giản: hạnh phúc đang trong tay bạn, ở ngay vườn đàng sau, trong nhà bạn, trong lòng bạn. Có cần gì phải miệt mài đi tìm bí quyết hạnh phúc ở mãi trên rừng dưới biển gì đâu đâu như những hoàng tử khác. Hạnh phúc đâu có khó tìm quá vậy?! Bạn có thể sống đời hoàng vương sang giầu. Là Con của vua Trời Đất mà không sang giầu nữa thì thôi.
PHÚT CẢM NHẬN
Vâng, lạy Chúa, nhiều điềm thời đại cho con thấy con người đang có những thay đổi sâu xa trong thiên niên kỷ thứa ba này. Dấu rõ nhất là tìm về lối sống giản đơn nhưng thật giầu có mà Chúa đã trao ban sẵn, có phải kiếm chác bon chen nhiều đâu. Con bỗng thấy được nước hạnh phúc đã gần bên, chỉ cần thay đổi con mắt nhìn và lối sống. Con xin mở rộng tâm hồn con trong năm mới để đón nhận bao ân huệ giầu sang, như thi hào Hàn Mặc Tử trong những lúc trăn trở khốn cùng bỗng được mở mắt nhìn thấy niềm vui thật đơn giản gần kề, khi khám phá ra quà tặng quí báu đang bày ra trước mắt:
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giầu sang hơn Thượng Đế...
Trái cây bằng ngọc, vỏ bằng gấm
Và mặt trời kia tựa khối vàng...
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi
Cây bằng gấm và lòng sông toàn ngọc.
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Cuộc đời công khai của Chúa Giêsu được bắt đầu từ biến cố Người lãnh nhận phép rửa của: TN3-B61
Cuộc đời công khai của Chúa Giêsu được bắt đầu từ biến cố Người lãnh nhận phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở sông Dược-Đăng, một biến cố được Giáo Hội tưởng niệm và cử hành trong Chúa Nhật I Thường Niên 2 tuần trước, một biến cố Người được Chúa Cha chứng thực trước mắt Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhân vật đang được dân Do Thái tin tưởng, cũng là nhân vật đã làm chứng cho Đấng Cao Trọng Đến Sau (x Jn 1:27), Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn (x Jn 1:34), và đã giới thiệu Người là “Chiên Thiên Chúa với chung dân Do Thái cũng như với riêng môn đệ của ngài, như được trình thuật trong bài Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên Năm A và B tuần trước. Tuy nhiên, qua những gì được Phúc Âm trình thuật ở Chúa Nhật I và II Thường Niên vừa rồi, Chúa Giêsu mới chỉ đóng vai thụ động, ở chỗ được Chúa Cha chứng thực và được Gioan Tẩy Giả giới thiệu, chứ chưa chính thức chủ động như được Phúc Âm thuật lại trong Chúa Nhật Thứ Ba tuần này. Qua bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật Thứ Ba Thường Niên chu kỳ Năm B tuần này, Chúa Giêsu bắt đầu chủ động thi hành sứ vụ thiên sai của mình bằng hai việc, công bố sứ điệp và tuyển gọi môn đệ.
Lời Loan Báo Tiên Khởi
Trước hết, về việc công bố sứ điệp, Chúa Giêsu đã vừa loan báo vừa kêu gọi như sau: “Thời gian đã trọn. Triều đại Thiên Chúa đã đến! Hãy cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm”. Căn cứ vào toàn bộ Phúc Âm trình thuật về lời nói và việc làm của Chúa Giêsu thì phải nhận thực rằng lời công bố tiên khởi này gồm tóm tất cả sứ vụ thiên sai của Người, có liên quan hết sức mật thiết với Thiên Chúa Ba Ngôi
Thật thế, Chúa Giêsu đến hay công khai xuất hiện là để tỏ mình ra, tức để chứng thực Người là Đấng Thiên Sai, là Đấng được Cha sai đến, đúng như đã được Thánh Kinh tiên báo. Đó là lý do các Phúc Âm, nhất là Phúc Âm Thánh Mathêu đã thường trích dẫn những câu Thánh Kinh Cựu Ước để áp dụng vào trường hợp, vào việc làm, vào biến cố của Chúa Giêsu, và trong Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu luôn nói đến việc Người đến không phải để làm ý Người mà là ý Cha Người (x Jn 6:38, 8:42), nên việc Người làm chứng thực Người được Cha sai (x Jn 10:38, 14:11).
Vậy khi Chúa Giêsu tỏ mình ra, chứng thực mình là Đấng Thiên Sai, Người đồng thời cũng “tỏ Cha ra” (Jn 1:18), cũng làm chứng rằng chính Cha là Đấng đã sai Người đến, chính Cha là Đấng đã yêu thương thế gian đến ban Con Một mình cho thế gian để ai tin Con thì được sự sống đời đời (x Jn 3:16), tức được thông phần vào sự sống thần linh của Cha và với Cha. Như thế, việc tỏ mình ra của Chúa Kitô Thiên Sai đã làm trọn tất cả những gì Thiên Chúa chân thật duy nhất đã hứa hẹn và sửa soạn trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái.
“Thời gian đã nên trọn” là như thế và ở chỗ đó, đúng như Thánh Tông Đồ Phaolô đã cảm nhận và xác tín: “Khi đến thời gian ấn định, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài …” (Gal 4:4), hay “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Con của Ngài…” (Heb 1:2).
Vậy câu đầu tiên trong lời công bố tiên khởi của Chúa Giêsu liên quan trực tiếp đến Chúa Cha, Đấng ấn định và sửa soạn mọi sự nơi Lịch Sử Cứu Độ cho tới lúc “thời gian nên trọn” tức là lúc Con của Ngài đến. Mà một khi ý Cha được nên trọn nơi Chúa Kitô Thiên Sai, nhất là qua Cuộc Vượt Qua của Người, thì không phải là triều đại Thiên Chúa đã đến hay sao? Vậy Lời Nhập Thể Con Thiên Chúa có liên quan trực tiếp đến câu thứ hai trong lời công bố tiên khởi của Chúa Giêsu: “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, đến trước hết ở nơi Người, ở chỗ Người làm trọn ý Cha, nhờ đó và từ đó, đến trên thế gian, bao trùm hết mọi dân nước, khi họ nhận biết Đấng Thiên Sai của dân Do Thái cũng chính là Đấng Cứu Thế duy nhất của toàn thể nhân loại.
Chưa hết, việc Chúa Giêsu chứng thực Người là Đấng Thiên Sai chẳng những để tỏ Cha ra mà còn để thể hiện quyền năng Thần Linh nữa, vì đã được thụ thai bởi Thánh Thần (x Mt 1:20) và được Cha Người xức dầu Thần Linh khi Người lãnh nhận phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở sông Dược-Đăng (x Mk 1:10), Người có tràn đầy Thần Linh, và “quyền lực của Đấng Tối Cao” (Lk 1:35) cũng là “quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49) này đã làm chủ và tác động Người thực hiện những gì Cha muốn, những gì đẹp lòng Cha, như vào hoang địa chay tịnh 40 đêm ngày (x Mk 1:12), trở về Galilêa (x Lk 4:14), chúc tụng Cha (x Lk 10:21) v.v. Nói một cách khác, tất cả những lời nói và việc làm của Đấng Thiên Sai còn là và chính là phương tiện để Người thông ban Thần Linh cho những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm chân thiện mỹ nói chung, và những ai trông đợi Người nơi dân Do Thái nói riêng, nhờ đó, nhờ Thần Linh của Người, con người mới có thể nhận biết Người (x 1Cor 12:3) mà đến cùng Cha (x Jn 14:6).
Đó là lý do, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Người đã tỏ cho chị phụ nữ ngoại lai Samaritanô về sự kiện Thần Linh này, vị Thần Linh xuất phát từ Người, từ những việc Người làm theo ý Cha của Người, như “nước Tôi ban trở thành một mạch nước trong họ vọt lên cho họ sự sống trường sinh” (Jn 4:14, 7:38-39). Sự kiện hiển nhiên nhất về việc Chúa Kitô thông ban Thần Linh này xẩy ra vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần, sau khi sống lại từ trong kẻ chết, Người thổi hơi trên các tông đồ mà phán “Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai… cầm tội ai…” (Jn 20:22-23). Như thế, vì Thánh Linh liên quan đến đức tin và ơn tha tội hay lòng thống hối mà Ngài quả thực có liên hệ đến câu thứ ba trong lời công bố tiên khởi của Chúa Giêsu: “Hãy cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm”. Ngoài ra, Thánh Linh còn liên quan cả đến Giáo Hội nữa, vì thời điểm của Ngài cũng là thời điểm của Giáo Hội, thời điểm chứng nhân, thời điểm Ngài làm chứng cho Chúa Kitô, tỏ Chúa Kitô ra qua Giáo Hội và nhờ Giáo Hội (x Jn 15:26-27).
Việc Tuyển Gọi Môn Đệ
Đó là lý do, ngay sau lời công bố tiên khởi gồm tóm tất cả sứ vụ thiên sai của mình, Chúa Giêsu đã thực hiện việc tuyển gọi môn đệ. Theo bài Phúc Âm Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật III Thường Niên Năm B hôm nay thì Chúa Giêsu tuyển gọi 4 vị tông đồ đầu tiên, đó là hai cặp anh em ruột, đều làm nghề chài lưới, đó là cặp anh em Anrê-Simon và Giacôbê-Gioan. Theo Phúc Âm Thánh Gioan thì dường như Chúa Giêsu chọn cặp anh em Anrê-Simon rồi “ngày hôm sau” tới cặp môn đệ Philiphê và Nathanaen/Batôlômêô (x Jn 1:43-50), và tại tiệc cưới Cana “vào ngày thứ ba” hình như chỉ có 4 vị tông đồ đầu tiên này mà thôi, chứ chưa có cặp anh em Giacôbê-Gioan. Bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm Mathêu-Marcô-Luca đều trình thuật việc Chúa Giêsu chọn hai cặp anh em này một lúc.
Tuy nhiên, Thánh Ký Luca thuật lại hơi khác với Thánh Ký Mathêu (4:18-22) và Marcô (1:16-20), ở chỗ, trong khi hai Thánh Ký của Phúc Âm 1 và 2 thuật lại trường hợp hai cặp anh em này theo Chúa Giêsu một cách đột ngột, thì vị Thánh Ký của Phúc Âm thứ 3 thuật lại trường hợp hai cặp anh em tông đồ này đã phải theo Chúa Giêsu một cách khâm phục, tức sau khi được thấy phép lạ Người làm về mẻ cá lạ họ bắt được sau khi cả một đêm thất bại với tay nghề của mình (x Lk 5:1-11). Cũng có thể là hai cặp anh em tông đồ tiên khởi này theo Chúa Giêsu, trước hết một cách đột ngột, “lập tức”, rồi sau đó một cách khâm phục, nghĩa là với tất cả cảm nhận sâu xa về Đấng kêu gọi họ. Bởi vì, theo Phúc Âm Thánh Luca, Chúa Giêsu xuống thuyền của Simon mà giảng dạy dân chúng (5:3), tức Người đã quen thuộc với Simon nói riêng và cặp anh em Anrê-Simon này rồi. Theo thứ tự danh sách 12 tông đồ được Thánh Luca ghi lại, những vị trong số các môn đệ được Chúa Giêsu chọn làm tông đồ bấy giờ (x Lk 6:13), thì hai cặp anh em tông đồ Anrê-Simon và Giacôbê-Gioan này được Chúa Giêsu tuyển gọi trước cặp tông đồ Philiphê và Nathanaen/Batôlômêô (x Lk 6:14).
Vấn đề ở đây không phải là việc Chúa Giêsu chọn các tông đồ lúc nào, ai trước ai sau, mà là vấn đề tại sao Người lại chọn gọi các vị hay Người chọn gọi các vị để làm gì. Thật thế, lý do hay mục đích Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ nói chung, 12 tông đồ nói riêng, cách riêng 4 vị tông đồ tiên khởi được Phúc Âm hôm nay nhắc đến, đều ở câu Người nói với các vị, (như cả bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm ghi nhận hầu như giống nhau), đó là “Hãy theo Tôi; Tôi sẽ làm cho anh em trở thành những tay chài lưới con người ta”.
Thế nhưng, các tông đồ nói chung, và 2 cặp anh em tông đồ tiên khởi này nói riêng, làm cách nào để có thể “chài lưới con người ta”, làm sao có thể bắt được con người ta, làm cho con người ta nhận biết chân lý, nhận biết Chúa Kitô là chân lý (x Jn 4:6), nếu không phải bằng việc làm chứng cho Người, làm cho con người “cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm”, tin vào Đấng Thiên Sai là Đấng Cứu Thế duy nhất mà được sống đời đời. Việc trở thành chứng nhân đích thực và sống động của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô không phải là chuyện dễ, nếu không nhận biết Người, hiểu biết Người, cảm nhận Người. Đó là lý do Chúa Giêsu đã “làm cho anh em trở thành những tay chài lưới người ta”, bằng việc tỏ mình ra cho họ một cách đặc biệt, như những lần Người cắt nghĩa thêm cho các vị sau khi đã rao giảng về Nước Thiên Chúa cho chung dân chúng (x Mt 13:36), hoặc dạy cho các vị biết cách cầu nguyện (x Lk 11:1-4), hay tỏ Cha ra cho riêng các vị (x Jn 14:8-10, 17:6), hoặc cầu nguyện đặc biệt cho các vị mà không cầu cho thế gian (x Jn 17:9), nhất là “vì họ mà Con tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19), tức để họ nhận ra sự thật là Cha đã sai Con, nhờ đó họ có thể làm chứng cho chân lý.
Như thế, qua việc chọn gọi các môn đệ và tông đồ này, chúng ta thấy Chúa Kitô Thiên Sai muốn thiết lập vương quốc của Người trên khắp thế giới, chứ không phải chỉ ở phần đất của dân Do Thái, nhưng được bắt đầu từ dân Do Thái (x Jn 4:22), từ Giêrusalem (x Lk 24:49; Acts 1:8). Chúa Kitô Phục Sinh sai các tông đồ đi khắp thế giới (x Mt 28:19; Mk 16:15) chẳng khác gì việc Người tung lưới bắt cá, vì “Nước Thiên Chúa”, đúng như Người đã ví “giống như một thứ lưới ngầm được quăng xuống hồ để thu lượm tất cả mọi thứ… “ (Mt 13:47). Vậy “triều đại Thiên Chúa đã đến” đây chẳng những ở lời Chúa Giêsu chính thức loan báo tiên khởi mà còn được bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu tuyển chọn hai cặp anh em tông đồ tiên khởi trong bài Phúc Âm hôm nay.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
(Ga 1,35-42)
Các ngươi tìm gì?" Một câu hỏi quan trọng với con người bởi vì bao lâu còn sống là bấy: TN3-B62
"Các ngươi tìm gì?" Một câu hỏi quan trọng với con người bởi vì bao lâu còn sống là bấy lâu còn tìm kiếm. Bao lâu còn là nười chúng ta còn kiếm tìm hạnh phúc. Câu hỏi có thể đặt sâu xa hơn, hạnh phúc các ngươi là gì ?
Trong bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng nêu lên cho hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả câu hỏi này. Khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan liền giới thiệu cho hai môn đệ của mình, "Đây là Chiên Thiên Chúa." Lời giới thiệu đó đã kéo được sự chú ý của hai môn đệ và họ đã bỏ thầy mình mà bước theo chúa. thấy hai ông đi theo xa xa như để quan sát Ngài, Chúa Giêsu liền quay lại hỏi một câu làm hai ông phải suy n ghĩ, "Các ngươi tìm gì?"
Đây cũng là câu hỏi Chúa gửi đến từng người chúng ta hôm nay. Chúng ta thường nghe: điều chúng ta tìm kiếm sẽ cho biết chúng ta là con người như thế nào. Trong cuộc sống, nhiều người chạy tìm kiếm tình, tiền, tài để làm cho cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng nhìn vào thực tế thì còn rất nhiều người hoặc có thể nói là hầu như ai cũng còn gặp khó khăn và đau khổ . Tại sao? Bởi vì cho dù con người có tìm được điều mình ước nhưng nếu không biết, hay nói đúng hơn, không có Chúa thì vẫn còn phải tìm kiếm thêm. thực tế, một số ngôi sao màn bạc, ngôi sao thể thao tiền bạc ê hề, tình rải khắp nơi, danh giá vút trời, nhưng đành chọn cái chết vì chẳng thấy hạnh phúc đâu !
Nói như vậy chắc có lẽ nhiều người sẽ không đồng ý bởi vì có những Kitô hữu là những người biết Chúa Kitô, nhất là những người Công giáo đi lễ hằng ngày hoặc hằng tuần, nhưng họ cũng còn đau khổ và bất hạnh.
Truyện kể rằng tại thành phố Sobrado bên Bồ Đào Nha có một cụ bà có con chó tên Preta. Sáng Chúa Nhật nào Preta cũng rời nhà lúc 5 giờ, đi 16 miles đến một nhà thờ Công giáo và đến ngồi gần cung thánh để dự lễ. Preta đứng và ngồi theo những người dự lễ. Sau lễ Preta lại cuốc 16 miles về nhà, đôi lúc cũng có người thương chở Preta về. Điều đáng chú ý là tờ báo Correio da Manha đăng tin là có người tham dự lễ càng ngày càng tăng, nhưng là chỉ để xem con chó trung thành. (From Wesley Taỵlor, Tualitin, Oregon, Homiletics, January 20,2002) Thật đáng tiếc, người ta đến nhà thờ không phải để chứng kiên những tín hữu trung thành, nhưng là để xem con chó trung thành.
Thiết nghĩ câu truyện trả lời cho thắc mắc trên. "Các người tìm gì?" Chúng ta đến nhà thờ tìm gì? Tìm Chúa hay như dân thành Sobrado, đến nhà thờ để xem con chó thờ phượng Chúa? Có lẽ chúng ta không quá tệ như dan thành Sobrado, nhưng chúng ta giống như hai môn đệ của Gioan. Khi nghe thầy mình giới thiệu Chúa Giêsu là chiên Thiên Chúa thì hai ông bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng theo cách xa xa. Hai ông đứng xa ca ngắm nhìn Chúa chứ không muốn đến gần. Thiết nghĩ đây cũng là thái độ của chúng ta. Chúng ta đến nhà thờ, nhưng đến muộn và về sớm; đến nhà thờ thờ, nhưng lòng trí du lịch đâu đâu... Muốn tìm Chúa nhưng không muốn từ bỏ những của cải và thú vui thế gian. Muốn gặp Chúa, nhưng lại đứng ở đàng xa nhìn tới.
Hôm nay Chúa hỏi từng người chúng ta, "Các ngươi tìm gì?" Trong khi suy nghĩ chúng ta nên nhớ là điều chúng ta tìm kiếm sẽ cho biết chúng ta là ai và cho dù chúng ta tìm được điều mình kiếm, nhưng nếu không có Chúa thì chúng ta cũng sẽ không cảm thấy đầy đủ và hạnh phúc.
Lm. Gioan Quốc Toản, CMC 2012.
chúa nhật 3 thường niên, năm B
Khi Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, Chúa Giêsu biết thời cơ đã đến. Ngài không chần chờ nữa. Thời: TN3-B63
Khi Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, Chúa Giêsu biết thời cơ đã đến. Ngài không chần chờ nữa. Thời gian 30 năm trường sống ẩn dật, đủ để Ngài chuẩn bị cho chương trình cứu độ. Ngài đi thẳng đến Galilê, vùng dân cư đông đúc rất thuận tiện cho Ngài. Ngài bắt đầu lên tiếng. Lời Ngài tuy ngắn gọn, đơn sơ nhưng đã chất chứa hết ý nghĩa về chương trình của Ngài: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1:15).
Khi nghe lời Ngài mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá", hai anh em Phêrô, Anrê, kế đến là anh em Giacôbê và Gioan, lập tức bỏ hết gia đình, sản nghiệp để theo Ngài. Ngài không hứa hẹn cho họ địa vị, chức tước, danh vọng; trái lại, Ngài còn cho các ông biết: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Lc 9:58). Khi theo Ngài, các môn đệ phải chấp nhận một cuộc đời gian lao, vất vả, phải hy sinh tất cả và hy sinh ngay cả đến chính mạng sống mình nữa.
Chỉ trong một thời gian ngắn, lời Ngài đã làm tan biến một thế giới cũ xưa, buồn chán và thay thế bằng một thế giới mới tràn đầy niềm vui và hy vọng. "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần", thời điểm mà bấy lâu nay mọi người chờ đợi, nay đã đến, và muốn được thông phần vào đó, mọi người phải ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng.
Trong cuộc sống hằng ngày, biết bao lần chúng ta đã làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Như Giôna, hơn một lần được Chúa sai đi, báo cho dân thành Ninivê phải ăn năn hối cải; nhưng vì tính hẹp hòi, ông cưỡng lại, không nghe lời Chúa và đã quyết định bỏ trốn. Nhưng Chúa vẫn theo đuổi ông và sau khi sống trong bụng cá ba đêm ngày, ông mới hồi tâm và thi hành sứ mạng Chúa giao phó. Với Phêrô thì trái lại, vì ông đã đặt Chúa làm tâm điểm của đời mình, nên khi được gọi, ông đã bỏ tất cả để theo Ngài. Còn phần chúng ta thì sao? Chúa Kitô mong ước mỗi người chúng ta đáp lời mời gọi của Ngài như Phêrô hay ít ra, như Giôna đã làm. Ngài cũng cho chúng ta thấy rằng Ngài vẫn luôn luôn nhẫn nại chờ đợi, như người cha già trông ngóng đứa con hoang trở về (Lc 15:20).
Là Kitô hữu, chúng ta phải là những người hạnh phúc nhất trên đời, vì chúng ta biết tại sao mình có mặt nơi này, đang đi đâu và làm thế nào để đến đích. Đời sống của người Kitô hữu là đời sống của người lữ hành suốt đời cầu nguyện và sám hối, chỉ kết thúc khi ta nhắm mắt lìa trần. Trên cuộc hành trình, tuy gặp nhiều chông gai, thử thách, và vì nhân tính hèn yếu, thường bị vấp ngã, sai lạc; nhưng được bổ dưỡng bởi sức mạnh từ trời ban xuống, chúng ta đủ sức tiến bước đến cuối đoạn đường của cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta là những người hạnh phúc nhất đời khi biết sống theo lời Chúa Kitô dạy. "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng", là lời Chúa Kitô mời gọi dân xứ Galilê 2000 năm trước và cũng là lời nhắn nhủ mỗi người chúng ta ngày nay. Mỗi ngày đều là dịp khởi đầu mới mẻ, giúp chúng ta cơ hội nhìn lại chính mình, để hồi tâm, sám hối và quyết tâm bắt đầu một ngày mới tốt đẹp và tươi mát hơn.
Pt. Nguyễn Văn Đức
(Mc. 1:14-20)
Léonard De Vinci, một họa sĩ nói tiếng người Ý, ông đã hoàn thành một bức tranh tuyệt tác diễn tả: TN3-B64
Léonard De Vinci, một họa sĩ nói tiếng người Ý, ông đã hoàn thành một bức tranh tuyệt tác diễn tả một bữa tiệc ly.
Nhưng khi bức tranh được đem ra triển lãm, người đến xem tranh đều chú ý đến chiếc thuyền nhỏ ông vẽ dưới góc bức tranh. (Mặc dầu ông đã bỏ trọn 3 tuần lễ ròng rã để nghiên cứu và họa hình con thuyền này), nhưng Léonard đã không luyến tiếc đem bút sơn xóa hình chiếc thuyền nhỏ đi. Lý do là theo niềm xác tín của ông, ông đặt trọng tâm của bức tranh phải là Đức Giêsu. Người ta phải chú ý vào trung tâm điểm này, không gì có thể làm chia trí họ.
Margaret Melsky người Nga, cô học trong trường Thánh Kinh tới cấp cử nhân. Mặc dù học nhưng cô hoàn toàn không hiểu gì về Chúa, đến năm cuối cùng cô được ơn soi sáng, cô đã viết: "Tôi đã nhận ra Ngài trong đức tin và tôi biết Ngài còn rõ hơn biết cái bàn cái ghế trong nhà. Tôi không còn cô đơn nữa”. Margaret đã đi tu và trở thành một nhà truyền giáo đắc lực tại Phi Châu.
Hai câu chuyện trên là một sự thÍt, Thiên Chúa vẫn hiện diện, soi sáng cho con người: Chúa đã cho họa sỹ Lêonard De Vinci phác họa lên bức tranh và cho tiếng nói phê phán về con thuyền đẹp, làm cho ông xóa nó đi để Chúa được nổi lên. Chúa cũng đã cho Margaret nhận biết Ngài sau khi tốt nghiệp, đến nỗi đã hấp dẫn cô theo Chúa bỏ bằng sắc đi làm chứng nhân nước trời.
Là thanh niên nam nữ, có bao giờ chúng ta nghĩ đến cầu nguyện, nghĩ đến Chúa không? Nếu là bậc mẹ cha, có bao giờ chúng ta nói với con cái về việc cầu nguyện để hướng dẫn chúng lựa chọn Chúa không? Có bao giờ dạy cho chúng biết tìm về với Chúa không?
Cũng như Chúa đã lợi dụng cơ hội như họa sĩ (vẽ bức tranh) về Chúa, như thiếu nữ hướng về tương lai (đọc Thánh Kinh) và biết về Chúa, thì bây giờ Ngài cũng hằng kêu gọi mọi người nhận biết về Chúa để phụng sự Ngài.
Chúng ta hãy cầu nguyện như Đức Hồng Y Newman rằng: ”Lạy Chúa, Chúa đã trao cho con một nhiệm vụ mà Chúa không trao cho những người khác. Chỉ một phút giây nào đó Chúa tỏ cho một mình con, nên con có trách nhiệm về việc Chúa trao ban”.
Lm. Thu Băng, CMC
John Henry Newman đến Roma vì muốn minh xác Chúa Giêsu có mời ông theo Ngài như: TN3-B65
John Henry Newman đến Roma vì muốn minh xác Chúa Giêsu có mời ông theo Ngài như một Kitô hữu hay không ?
Một ngày kia trên đường trở về, ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hướng dẫn con. Con không thể tìm được đường đi. Xin hướng dẫn con, ôi Ánh Sáng dịu dàng!”.
Những lời này đem lại cho ông sự bình an, đến nỗi ông lấy bút và bắt đầu viết: Ông đã viết cho một thánh ca nổi tiếng: “Xin hướng dẫn con, ôi Ánh Sáng dịu dàng”.
Trở về Anh, ông đã gia nhập đạo công giáo và trở thành một trong những người lãnh đạo vĩ đại nhất. Đó là Đức Hồng Y Newman.
Tin vào Chúa Kitô và bước theo chân Ngài, đó là tòa con đường lý tưởng nhất. Tuy nhiên chúng ta phải xây móng cho tòa nhà thiêng liêng từ nền tảng bằng việc sám hối để Chúa Ba Ngôi ngự trị cách thật xứng đáng. Nói đến sám hối ai cũng ngại ngùng vì nó chạm đến lòng tự ái sâu sa và đụng đến “cái tôi vĩ đại” là tính kiêu ngạo sẵn có nơi con người phàm trần. Dù sao đi nữa để được ơn tha thứ mà lãnh nhận những ân huệ của Chúa, việc sám hối là bước đầu căn bản cần thiết cho tội nhân.
1.Sám hối: Ăn năn thống hối không phải chỉ #lo buồn về những hành động lỗi lầm và sẵn sàng xưng thú với cha giải tội, chấp nhận đền tội là xong. Nhưng sự sám hối Chúa Giêsu kêu gọi hôm nay là một cuộc đổi đời thực sự, cởi bỏ con người cũ, hoàn toàn quay trở về với Chúa. Như thế không những chúng ta phải cố ý chừa những tội đã phạm mà còn phải xa tránh cả những dịp tội, những hoàn cảnh xấu đưa đẩy ta xúc phạm đến Chúa. Nhất là phải diệt tận căn gốc những dục vọng tà vạy, chúng luôn gây rối cho đức tin người Kitô hữu. Ông Pascal nói: “Nếu bạn bỏ tình dục, bạn sẽ có đức tin”. Bao lâu tình dục còn len lỏi trong nội tâm, nó sẽ lèo lái đời tinh thần, chối bỏ chân lý, bất chấp sự thiện, ý thức sai lầm về Thiên Chúa. Tình dục sẽ là kẻ thù tiềm ẩn phá hoại đời sống thiêng liêng, nó cám dỗ linh hồn đừng tin có Thiên Chúa để nó tự do hành động theo sở thích riêng tư của mình, vì thế đức tin sẽ bị chết khi tình dục phát triển.
Trên lý thuyết sự sám hối rất đơn giản và sự tha thứ cũng dễ dàng. Chỉ cần một phép rửa, một phép lành xá tội của linh mục là đủ. Nhưng đi vào thực hành nó rất nhiêu khê, nặng nề, sức nặng của tội lỗi ghê gớm biết chừng nào! Nó muốn nhận chìm tâm hồn chai đá xuống vực sâu thẳm tăm tối. “Chiến đấu với dục vọng để thắng được chính mình còn khó hơn chiến đấu để thắng hàng ngàn vạn quân nơi chiến trường”, đó là lời của vua Napoleon. Nhưng nhờ đó chúng ta mới cảm nghiệm được sâu sắc của sức mạnh tình thương vô cùng lân tuất của Chúa.
2.Tin yêu: Từ đời đời Thiên Chúa muốn xây dựng hạnh phúc Nước Trời, nay đến giờ Ngài thực hiện chương trình ấy. Chính Chúa Giêsu là Tin Mừng từ trời xuống để ai tin vào Ngài thì được cứu rỗi. Tin vào Chúa tức là tin vào sứ mệnh cứu độ của Ngài nhờ mầu nhiệm Thập Giá đau thương tột độ trên đồi Canvê. Sứ mệnh của Chúa đã được loan báo từ trước. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các tín hữu đi vào con đường tình yêu của Ngài. Ngài cũng đã khai sáng niềm tin ấy bằng vô số phép lạ. Chương trình cứu độ của Chúa vẫn còn tiếp tục mãi cho hết mọi người trần thế, để ai nấy được diễm phúc thực sự làm con Chúa. Mầu nhiệm Giáo Hội Cứu Độ sẽ vươn rộng ra tới tận chân trời góc bể, các vị truyền giáo đi khắp nơi kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Các Ngài tiếp nối vai trò của Chúa công khai rao giảng việc Nước Trời đã đến gần như Phúc Âm thuật lại hôm nay.
3.Theo Chúa: Theo Chúa là công việc hoàn tất lời mời gọi của Chúa, như khi Chúa đi dọc theo bờ biển Galilê, kêu gọi bốn tông đồ đầu tiên bỏ tất cả mọi sự để trở thành môn đệ của Ngài. Họ đã mau mắn dứt khoát mối tình gia đình để liên kết vĩnh viễn với tình yêu Đức Kitô. Họ đã bỏ nghề đánh cá là nghề rất cần thiết và là một kỹ nghệ quan trọng tại Galilê. Josephus đã có một thời làm tổng đốc Galilê, là một đại sử gia của dân Do Thái, ông kể lại rằng: Vào thời ông có 330 thuyền đánh cá trên biển Galilê. Dân chúng ở Palestine thường ít ăn thịt, hằng tuần họ không ăn thịt hơn một lần. Cá là thức ăn chính của họ. Tên các thị trấn nằm trên bờ biển hồ cho thấy nghề chài lưới rất quan trọng. Bết-sai-đa có nghĩa là nhà cá… Thế mà các ông đã bỏ chài lưới mà đi theo Chúa Giêsu. Và thật hạnh phúc tuyệt vời, Chúa đã thăng hoa các môn đệ bằng việc đi chinh phục các linh hồn.
Đã là Kitô hữu, chúng ta mỗi người đều có sứ mệnh riêng biệt trong tòa nhà Giáo Hội, chiếu tỏa ánh vinh quang phục sinh Đức Giêsu Kitô ở mọi nơi, mọi khía cạnh của cuộc đời. Vai trò người cha trong gia đình là chiếu sáng niềm tin yêu, dẫn bước uy hùng, gương mẫu hiền hòa. Người mẹ phải là hương thơm ngát ân tình, suối ngọt yêu thương, nâng đỡ ủi an tràn đầy. Còn những người độc thân càng dễ có điều kiện lo việc tông đồ. Đặc biệt những người độc thân trong bậc tu trì, được đào luyện chu đáo, sống ở môi trường thuận lợi, có thể mở rộng Tin Mừng dễ dàng hơn nhiều. Tuy nhiên dù ở hoàn cảnh nào đi nữa, tất cả mọi phần tử đều hợp nhất trong một thân thể mà Đức Kitô là đầu của Hội Thánh sẽ chi phối mọi hoạt động của chúng ta trong niềm tin yêu hy vọng mở rộng nước Chúa trên toàn trái đất.
Br. B.M.Thiện Mỹ, CMC
Mc 1,14-20
SÁM HỐI KHI CÒN MỞ MẮT
Trong một cuốn sách nổi tiếng, hồi thập niên 1980-1990. Kể về câu chuyện một cảnh sát trưởng một: TN3-B66
Trong một cuốn sách nổi tiếng, hồi thập niên 1980-1990. Kể về câu chuyện một cảnh sát trưởng một huyện thị miền đông nước Nga. Đó là một tên cảnh sát trưởng hung ác, dã man. Với quyền lực trong tay, hắn đã làm vô vàn điều ác, và đã làm tan bao mái ấm gia đình. Thế rồi, một ngày kia, hắn qua đời đột ngột, sau một cơn nhồi máu cơ tim. Đám tang của hắn, được tổ chức vô cùng hoành tráng, với đủ mọi huân chương gắn trên ngực áo và quan tài. Những vòng hoa truy điệu phải chở bằng mấy chuyến xe tải. Hắn đã được nghỉ yên trong một nghĩa trang dành cho các quan chức cấp cao. Sau một đêm thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, từ còn rất sớm, vợ hắn mở cửa, muốn bước ra ngoài để hít thở khí trời nhẹ nhàng buổi sáng. Nhưng khi vừa đẩy cửa, thì, “rầm” vợ hắn giật mình. Trời ơi! Một chiếc quan tài vừa đổ xuống, Chị thét lên. Trong chiếc quan tài là xác chết của chồng. Người nhà, vội vã mang xác chết ấy đi chôn lại. Cứ tưởng như thế là đã xong. Nhưng không! Trong suốt năm ngày liền, sáng nào khi mở cửa, chị ta cũng đều thấy xác chết của chồng mình, được dựng ở đó. Sau suốt mấy đêm phục kích, công an đã bắt được thủ phạm. Rất ngạc nhiên, đó là một người đàn bà còn trẻ. Chỉ có một mình, mà chị ta đã làm được chuyện lạ lùng ấy. Trả lời trước những câu hỏi của người có trách nhiệm, chị đáp: “Tôi làm thế, vì tôi muốn người này phải sám hối. Anh ta đã dùng mưu đồ, để giết oan chồng tôi. Bây giờ tôi không cho hắn được phép nhắm mắt. Hắn phải mở mắt để sám hối”.
Trong thân phận làm người, lầm lỗi là điều chẳng ai tránh khỏi. Chính vì thế, điều cần thiết là biết sám hối. Vì vậy lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trong giai đoạn công khai của Ngài là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Nhưng sám hối về cái gì? Có sai đâu mà sám hối. Chính vì thế, để có thể sám hối, điều đầu tiên là ta phải KHIÊM TỐN. Nhìn nhận mình đã có những sai lầm: sai lầm về tư tưởng, về những nhận định, và những quyết định của mình. Bên cạnh đó, là những sai lầm trong lời ăn tiếng nói, những lời nói lạnh lùng thiếu vắng tình người, những lời nói cay chua xóc óc. Những lời nói đểu giả, lừa lọc, mỉa mai. Và gần gũi hơn, là những sai lầm trong cung cách đối xử, trong hành động. Nhưng để có thể làm được những việc này, ta cần phải có giây phút yên lặng, đối diện với chính mình, trong một thái độ chân thành nhất.
Gợi ý suy niệm:
1- Theo bạn, bạn có cần phải sám hối không?
2- Điều gì khiến bạn phải hối hận nhất trong tuần lễ vừa qua?
Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
http://www.giaophanvinhlong.net/Chua-Nhat-III-Thuong-Nien-B-nam-2015.html
Sống là chọn lựa. Chọn lựa từng giây phút trước những hành động cuộc đời chúng ta. Và chọn lựa: TN3-B67 http: Vinh Long
Sống là chọn lựa. Chọn lựa từng giây phút trước những hành động cuộc đời chúng ta. Và chọn lựa trước hết là gì? Nếu phải từ bỏ. Thực vậy, nếu muốn lên Saigon, thì phải từ bỏ con đường xuống Rạch Giá. Nếu muốn học giỏi, thì phải từ bỏ những tháng ngày lãng phí thời gian. Nếu muốn làm làm giàu, thì phải từ bỏ sự ươn lười, nhàn rỗi. Nếu muốn được cha mẹ yêu thương, thì phải từ bỏ những gì làm cho các ngài buồn lòng. Sống là chọn lựa và chọn lựa có nghĩa là từ bỏ.
Tiến vào đời sống siêu nhiên cũng thế. Muốn theo Chúa, muốn đáp trả lời mời gọi của Chúa, chúng ta phải chọn lựa, chúng ta cũng phải từ bỏ. Abraham ngày xưa đứng trước lệnh truyền của Chúa, ông đã phải từ bỏ quê hương và sự nghiệp để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không định hướng. Hơn thế nữa, ông còn sẵn sàng từ bỏ cả đứa con duy nhất, sẵn sàng sát tế Isaác để làm lễ vật dâng kính Thiên Chúa. Các tông đồ ngày hôm nay cũng vậy. Các ông đã bỏ cha già, bỏ gia đình, bỏ ghe thuyền, bỏ chài lưới nghĩa là các ông đã từ bỏ tất cả để lên đường theo Chúa. Hay như Phanxicô Khó Khăn, đã từ bỏ đến cả manh áo che thân trước sự ngăn cản của gia đình để được hoàn toàn tự do bước theo Chúa.
Từ bỏ gia đình, từ bỏ tiền bạc, từ bỏ thời giờ để theo Chúa đã là một chuyện khó, nhưng điều quan trọng hơn Chúa đòi chúng ta phải từ bỏ, đó là từ bỏ chính bản thân mình. Những sợi dây níu kéo chúng ta lại với mặt đất, những chướng ngại vật ngăn cản bước chân chúng ta theo Chúa, đó là những thói hư tật xấu, những đam mê tiền bạc hay những khát vọng không chính đáng. Để bước theo Chúa, việc đầu tiên mà chúng ta phải thực hiện đó là dứt bỏ những níu kéo ấy, là khử trừ những khuynh hướng lệch lạc, là từ bỏ những ước vọng trần tục. Từ bỏ tiền bạc, từ bỏ tiện nghi vật chất đã là chuyện khó, nhưng chưa đến nỗi cam go vì tiền bạc và vật chất là những cái còn ở bên ngoài chúng ta. Chứ từ bỏ những đam mê, những ước muốn xấu xa mới là chuyện cam go vì đam mê, và ước muốn bén rễ sâu trong con tim chúng ta. Nó làm thành chính bản tính, chính bộ mặt thực sự, chính cái phần sâu thẳm nhất nơi mỗi người chúng ta. Và đó cũng chính là điều mà Chúa đòi buộc chúng ta phải từ bỏ.
Nhưng tại sao chúng ta phải từ bỏ? Vì Chúa Giêsu đã dạy: Con đường vào Nước Trời thì nhỏ hẹp. Con đường nhỏ hẹp ấy chẳng phải là ngõ cụt, nhưng nó sẽ dẫn chúng ta đến hạnh phúc, đến biển cả của tình yêu là chính Thiên Chúa. Đã là một con đường nhỏ hẹp thì chúng ta không thể bước đi trên đó với những hành lý cồng kềnh. Và những hành lý cồng kềnh của chúng ta là gì nếu không phải là tiền bạc, vật chất, đam mê, khát vọng và thói hư tật xấu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có thể tiến bước. Như một người leo núi chỉ mang theo những dụng cụ tối thiểu nhưng cần thiết, nếu không thì người ấy mãi mãi chỉ ở dưới chân núi mà thôi. Hơn nữa Chúa Giêsu cũng đã nhắn nhủ: Nếu ai muốn cứu mạng sống thì sẽ mất, nghĩa là nếu chúng ta cứ bấu víu vào những thực tại trần thế, nếu chúng ta cứ nắm chặt lấy cuộc sống vật chất, thì chắc chắn chúng ta sẽ đánh mất cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có thể được sống, như hạt lúa gieo trên ruộng đồng, phải mục nát thì mới đâm bông kết trái.
Một khi đã dứt bỏ được những níu kéo bên ngoài, một khi đã dứt khoát bỏ được những vấn vương bên trong. Một khi đã từ bỏ được những quyến luyến trần thế, một khi đã từ bỏ được những khát vọng bất chính, lúc bấy giờ chúng ta sẽ như một cánh chim bay bổng về với Chúa, lúc bấy giờ chúng ta mới chính thức chọn lựa Chúa. Bấy giờ chọn lựa sẽ không chỉ còn là một từ bỏ mà chọn lựa còn có nghĩa là nói chấp nhận.
Thực vậy, chúng ta chấp nhận Chúa, chúng ta chấp nhận con đường nhỏ hẹp, chúng ta chấp nhận thập giá trong cuộc sống. Muốn được như vậy thì chúng ta phải có một tình yêu, yêu mến Thiên Chúa, và với hương vị của tình yêu, chúng ta sẽ thắng vượt được mọi khó khăn. Với Chúa đi trong cuộc sống, chúng ta không còn bị thất bại. chúng ta sẽ thâu lượm những kết quả tốt đẹp như mẻ lưới lạ lùng của các môn đệ.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để mỗi người biết dẹp bỏ những cản trở trong cuộc sống, và để từng giây phút chúng ta chọn lựa, chúng ta chấp nhận và chúng ta bước theo Chúa.
TN3-B68. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển: TN3-B68
Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Đây là một nhiệm vụ vô cùng trọng đại cao cả nhưng đồng thời cũng đầy gian truân và thách thức, thế nên cần phải tuyển cho được những ứng viên phù hợp.
Trong các thành phần dân chúng thời đó, chúng ta thấy nổi bật nhất là các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Họ là những người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc thờ phượng tế lễ Thiên Chúa. Xem ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.
Kế đó, thành phần Luật sĩ, những người học rộng và thông thạo thánh kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn một ai trong số các vị nầy làm tông đồ của Người.
Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là các người biệt phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm túc. Những người như thế cũng đáng làm đầu thiên hạ và lãnh đạo người ta. Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn bất cứ người biệt phái nào làm tông đồ cho Người.
Chúa Giêsu cũng không chọn những người có vai vế trong xã hội, những người giàu sang quyền quý làm môn đệ đầu tiên của Người.
Tin Mừng hôm nay cho thấy sự chọn lựa của Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc:
"Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người."
Chúa Giêsu đã chọn bốn ngư phủ là Simon, An-rê, Gioan, Giacobê, làm môn đệ đầu tiên trong lúc họ đang quăng chài kéo lưới hoặc đang vá lưới trong thuyền. Tại sao?
Các ngư phủ là những người dạn dày sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối giữa sóng gió trùng khơi; không sợ đói, không sợ rét, không sợ bão tố cuồng phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ và nghịch cảnh để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình.
Họ là những người đầu tiên được Chúa Giêsu chiếu cố và mời gọi làm môn đệ loan Tin Mừng, làm những trụ cột nòng cốt trong công trình xây dựng Hội Thánh.
Điều nầy cho thấy phẩm chất đầu tiên để làm môn đệ Chúa Giêsu là không ngại gian truân, sẵn sàng hy sinh để thực hiện mục tiêu mong muốn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã kêu gọi chúng con làm tông đồ cho Chúa trong xã hội hôm nay. Xin ban ơn giúp chúng con sẵn sàng vượt khó, dám đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên hầu có thể chu toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con.
TN3-B69. Năm mới người mới cả trời đất mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Yêsu rao giảng: “Đã đến thời. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Tết đã đến gần, đây cũng: TN3-B69
Đức Yêsu rao giảng: “Đã đến thời. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Tết đã đến gần, đây cũng là dịp để mỗi người chúng ta nhìn lại mình trong năm vừa qua, để với năm mới chúng ta trở thành con người mới, bắt đầu một đời sống mới, một con người hạnh phúc với chính mình, dễ thương và quảng đại đối với người khác.
1) Đức nhân thắng số
"Đức nhân thắng số" là không chỉ là câu nói của đa số bình dân, nhưng cả của những người tin vào "tiền định," tin vào "số mạng" nữa. Câu này có nghĩa: một người ăn ở có đức có nhân, thì sẽ đổi được số mạng của mình. Với những người tin vào "tiền định" hoặc "số mạng," câu nói này thực hữu ích.
Trong cuộc đối thoại giữa Abraham và Thiên Chúa, người ta thấy chỉ cần mười người công chính có thể cứu được cả một thành phố gian ác đáng bị tru diệt (St.18, 32). Người tốt không chỉ cứu được mình, mà còn cứu được cả người khác nữa. Trong sách Giô-na hôm nay, dân thành Ninive đã đổi được ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền lệnh cho tiên tri Giô-na báo cho dân thành Ninive biết ý định huỷ diệt thành phố của Thiên Chúa, dân không chỉ tin vào lời tiên tri, nhưng còn tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa nữa, nên họ đã sám hối và được cứu. Như vậy, thái độ sống của con người có thể đổi được ý định của Thiên Chúa nữa. Cái "số" bị phạt của dân Sôđôma và dân Ninive, là do hậu quả của những hành vi bất chính của họ. Chính thái độ sống trong quá khứ của họ, mang lại "số phận" cho họ! Và cũng chính thái độ sống "hiện tại" của họ, đổi được "vận số" của họ! Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho con người; Ngài chỉ muốn con người sống yêu thương và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ tự nhiên, và định cho nó có luật của nó, vật chất có luật vật lý; sinh vật sống theo bản năng, đây cũng là một loại luật của sinh vật; với con người, Ngài ban cho lý trí và ý muốn, để tự do và làm chủ tất cả. Yêu thương là hành vi vượt qua mọi định luật, hành vi yêu thương cứu được chính mình và cứu được người khác nữa. Chẳng hạn, hành vi yêu thương nuôi nấng dạy dỗ một em bé bị bỏ rõi, đổi được đời em bé và còn đổi được đời cả người nuôi em bé đó nữa.
2) Thế giới này đang qua đi
Con người không chỉ bị chi phối bởi luật vật lý tự nhiên, nhưng còn bị chi phối rất nhiều bởi những yếu tố tâm lý. Những hành vi làm vì muốn chứng minh mình trổi trang hơn người khác, những hành vi trả thù, v.v. là những hành vi "nô lệ." Hận thù không được tha thứ, sẽ nối tiếp và chồng chất hận thù. Những người thực hiện những hành vi này bị nô lệ hoặc bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn "hèn hạ" mà thường họ không ý thức.
Thư của thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở con người một chân lý: thế gian này đang qua đi. Con người được sinh ra, lớn lên, già đi, và chết. Hiện tại, người ta biết mình; nhưng mười năm sau, còn ít người biết mình; một trăm năm sau, e rằng chẳng ai biết mình nữa. Nếu tất cả vật chất đang biến đổi, đang qua đi, thì tại sao người ta lại miệt mài, đam mê đi tìm kiếm vật chất hoặc những thú vui mau qua, hoặc thoả mãn chính mình!
Khi nhắc nhở con người về thực trạng "thế giới này đang qua đi," thánh Phaolô muốn giúp con người nhận ra sự thật về chính mình, và nhắn nhủ con người hãy đi tìm cái gì cao quý và trường tồn. Như vậy điều quý không hệ nơi vật chất đang qua đi, nhưng là chính con người "vĩnh tồn" của mình. Những hành vi từng ngày làm nên chính con người của mình. Những hành vi yêu thương làm mình trở nên tuyệt vời ngay giữa trần thế đang qua đi này, và cũng làm mình tuyệt vời trong vĩnh cửu nữa.
3) Hãy sám hối và tin vào tình yêu Thiên Chúa.
Đức Yêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời rao giảng: "Thời giờ đã đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hành vi sám hối đi liền với hành vi nhận ra sự thật "không đẹp" của chính con người mình. Không thể có hành vi sám hối mà không có sự nhận thức đúng đắn về con người mình. Lời mời gọi sám hối, hàm chứa lời mời gọi xét lại chính con người của mình: tôi có thực sự là người tốt chưa, thành toàn chưa?
Tôi là người như thế nào đối với người ta, đối với tôi, và đối với Thiên Chúa. Có những người đi tìm và cố gắng trở thành "người tốt" theo đánh giá của người khác; những người này đang nô lệ mà không biết. Cũng có người đặt ra cho mình một giá trị, và cố gắng để thành người "thành toàn" theo ý họ; và khi họ không đạt được hoặc không làm chủ được họ hoàn toàn, họ thất vọng và buồn chán. Điều đúng đắn nhất là làm sao để mình đánh giá mình và mọi sự trong nhãn quan của Thiên Chúa Yêu Thương.
"Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ" (2Cor.6, 2). Mỗi người hãy nhìn lên Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, là Đấng chỉ biết yêu thương và làm tất cả vì yêu thương. Mỗi người cũng chỉ bị phán xét về duy một điều là mình có làm mọi sự vì yêu thương không thôi (Mt.25, 31tt). Những lầm lỗi trong quá khứ tuy quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Điều rất quan trọng là tin vào Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương. Ngài mời gọi mỗi người hãy sống yêu thương như Ngài. Chính hành vi yêu thương làm mình triển nở, hạnh phúc, và cũng làm cho người khác triển nở và hạnh phúc. Những hành vi không làm cho người khác triển nở và hạnh phúc, e rằng đó không phải là hành vi yêu thương thật sự. Nếu tôi sống tốt lúc này, những người quanh tôi sống bình an; nếu tôi không sống tốt, làm hại người khác, thì làm những người đó khổ, và cả tôi cũng khổ, và những người thân yêu của tôi cũng không được thoải mái và hạnh phúc vì tôi. Yêu thương, là hành vi làm con người thành tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin vào số mạng không? Tin vào số mạng có hợp với đức tin Kitô giáo không? Tại sao?
2. Bạn có tin tử vi, coi bói, coi chỉ tay, tướng số không? Tại sao bạn tin và tại sao bạn không tin? Tin vào những điều này có hợp với đức tin Kitô giáo không?
3. Để là một con người mới, điểm chính yếu là gì?
Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta tiếp tục suy tư về mầu nhiệm ơn gọi.
Trong ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa: TN3-B70
Trong ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đi bước trước. Ngài đi qua, nhìn thấy và kêu gọi. Marcô nói: “Ngài đi lên núi và gọi những kẻ người muốn lại gần…” (3,13). Ngài chọn những ai Ngài muốn và không hẳn là những người xứng đáng nhất, vì không ai có thể tự cho là xứng đáng cả. Sau này, Ngài sẽ nhắc lại cho họ: “Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng là Thầy đã chọn chúng con” (Gio. 15,16). Người kêu gọi họ tại chính nơi họ ở, chỗ họ làm việc: Bốn vị đầu tiên trong khoang thuyền, ngoài bãi biển, một vị khác ngay nơi bàn đổi bạc (2,14), và một vị khác đang đứng suy tư dưới bóng cây vả (Ga. 1,50)… Mỗi ơn gọi là một cử chỉ tình thương, Ngài đến với ta, đi tìm và tuyển chọn ta.
Và Người nói gì?
Một câu rất đơn sơ nhưng đầy ánh sáng: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người.” Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc chọn bạn đi chơi, một thời gian rồi tan hàng rã đám. Mà theo Ngài thì Ngài đòi hỏi rất nhiều. Đòi hỏi gì? Ngài đòi hỏi tất cả: phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi và từ bỏ cả mạng sống vì Ngài nữa!
Hỏi rằng, ngoài Chúa ra, có ai có thể đòi hỏi khắt khe như vậy? Có tình yêu nào ghen tị đến mức độ như vậy?
Văn hào Montalembert có một cô con gái dâng mình làm nữ tu. Ông viết: “Người tình ấy là ai, chết treo trên cây thập giá mà có thể lôi kéo như vậy? Người tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn không cưỡng lại được, như một con chim mồi sà xuống và cuốn đi? Phải chăng đó là một người? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành công và đòi hỏi một cuộc hy sinh như thế.”
Bà Thánh Jeanne-Francoise Chantal (1572-1641) là một bà mẹ đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dưỡng, giáo dục và tác thành cho bốn con, có nơi có chốn tự lập được. Bà nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến, giúp đỡ người nghèo. Nhưng ngày bà quyết định ra đi thì các con ngăn cản và nằm ngang chận cửa. Nước mắt tràn trụa, Bà nói: “Dầu sao tôi cũng là một Bà Mẹ”. Nhưng tình thương Chúa mạnh hơn tình mẫu tử, Bà bước qua con và đi Annecy, lập nên Dòng Thăm Viếng, tháng 6 năm 1610.
Họ ra đi theo tiếng gọi của Chúa, nhưng đối lại, Chúa hứa ban cho họ những gì? Thật lạ lùng! Ngài không hứa ban cho họ một cuộc sống dễ dãi đầy tiện nghi vì chính Ngài cũng “Không có một hòn đá gối đầu!” Ngài không hứa ban chức tước, đường hoạn lộ tiến thân, vì Ngài truyền dạy phải chọn chỗ tốt nhất, không được tự gọi là Thầy, là Cha mà chỉ là tôi tớ. Ngài không hứa ban cho một cuộc sống nhàn hạ, vì “ai đã ra tay cầm cày, thì không được ngó lui.”
Vậy, Ngài hứa gì? Thưa: Một đời sống dấn thân phục vụ các linh hồn, một đời sống vất vả đi “chài lưới người”, bắt từng cá nhân, từng tập thể. Có những lúc thức trắng đêm mà không bắt được con cá nào, có những sáng tinh sương, chèo thuyền không về bế! “Thưa Thầy, chúng con mệt nhọc suốt đêm mà chẳng được gì?” Nhưng Chúa phán: “Hãy chèo ra khơi thả lưới”. Phêrô, đại diện các bạn trả lời: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc. 5,5). Nhất là một lời hứa quan trọng nhất mà Ngài để lại cho các môn đệ ngày giã biệt ra đi vào chốn vinh quang: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho con thì con muốn rằng con ở đâu chúng cũng ở đấy với con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con…” (Gio. 17,24). Cũng như lời hứa mà Đức Mẹ khi hiện ra ở Lộ Đức đã nói với Bernadetta, vị thụ khải của Mẹ: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc ở trần gian mà hạnh phúc trên trời.”
“Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường đi của Chúa,
Xin dạy bảo tôi về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn tôi trong chân lý và dạy bảo tôi,
Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ tôi”
(Tv. 24,4 – Đáp ca)
TN3-B71: Sám hối và tin vào Tin Mừng – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm: TN3-B71
Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.
Người ốm o buồn sầu cho biết:
- Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Đến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:
- Suốt một năm qua, từng giây từng phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu của Ngài.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.
Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Đạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Đành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.
Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.
TN3-B72: Thấy - Gọi - Bỏ - Theo
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan, Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình: TN3-B72
Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình ở Nadarét, phải chia tay với người mẹ thân yêu, phải từ giã nghề nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.
Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên đường
dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.
Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).
Ngài mời người ta sám hối và tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).
Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có thể tự mình làm mọi sự.
Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen chỉ là một nước bé nhỏ.
Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.
Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt của Ngài.
Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới bắt cá.
“Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới con người” (c. 17).
Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một lời mời thân thương.
Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng hay một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.
Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.
Bây giờ con người là mối bận tâm của họ, không phải là cá như xưa nữa.
Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ hai là Giacôbê và Gioan.
Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với người cha.
Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng như chẳng gì có thể làm xáo trộn.
Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây cuộc chia ly.
Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ những thú vui của sông nước.
Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.
Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá Trị lớn hơn,
bỏ một tình yêu để sống cho một Tình Yêu lớn hơn.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau đớn khi phải từ bỏ như vậy.
Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).
Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu, và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con người dám sống cho người khác,
dám bỏ lại những điều rất quý giá và thân thương,
dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm, tiện nghi và dễ chịu.
Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
Thời kỳ đã mãn (Mc 1,15)
Có một lần người ta đã công bố, vào ngày 21 tháng 5 năm 2011, Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại và phán: TN3-B73
Có một lần người ta đã công bố, vào ngày 21 tháng 5 năm 2011, Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại và phán xử vũ trụ. Lời tuyên bố rất rõ ràng, rất khẳng quyết và đầy xác tín. Đó là câu tuyên bố của ông Harold qua chương trình phát thanh về gia đình. Chương trình phát thanh đã quảng bá rộng khắp nguồn tin trên, kèm theo những lời cảnh báo. Một ít người đã tin, và đã phân phát tài sản của mình cho bạn bè, cho hàng xóm và cho cả những người không quen biết. Chúng ta thử nghĩ xem, ví dụ bạn đang có một căn nhà sang trọng, hay một chiếc xe hơi đắt tiền, bạn nghe lời cảnh báo, và sẵn sàng từ khước mọi sự, không màng đến những thứ đó nữa. Vào ngày 23 tháng 5, chương trình phát thanh này lại công bố một lần nữa và xác nhận là Harold đã nói đúng. Đức Kitô thực sự đã đến, nhưng theo như họ nói, Ngài đến một cách linh thiêng. Cuộc phán xử đã xảy ra, nhưng nó diễn ra trong âm thầm và bí mật.
Nhưng đây không phải là lần đầu tiên có người tuyên bố về ngày tận thế. Vào thế kỷ 19, ông William Miller cũng quy tụ một số thân hữu lại, và loan báo Chúa Kitô sẽ đến vào ngày 21 tháng 3 năm 1844. Nhiều người tin ông ta, và nóng lòng chờ đợi. Rồi ngày đó cũng qua đi. Một tín đồ của ông Miller sau đó lại khẳng quyết, ngày Chúa đến sẽ được hoãn lại cho tới 21 tháng 10 năm đó, và điều này đã được nói tới trong sách ngôn sứ Habacuc. Những người theo ông Miller, tức môn phái: “Chờ đợi ngày thứ bảy của Chúa”, vẫn kì vọng như thế và họ tin là việc Chúa đến đã được thực hiện. Nhưng theo họ, Chúa thực thi cuộc phán xét vũ trụ một cách thầm lặng chứ không theo cách thái thông thường như người ta vẫn nghĩ tưởng.
Tuy nhiên, chúng ta thấy tư tưởng của Harold và Miller, qua những hạn từ biểu tỏ sự chờ đợi và vui mừng, khá giống với tư tưởng của Thánh Phaolô, có lẽ hơn hẳn chúng ta. Thánh Phaolô cũng nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại một cách bất ngờ, và Đấng Cứu thế sẽ đến ngay trong thời đại của Ngài (1Thes 4,17). Tư tưởng xác quyết này càng rõ nét hơn trong thơ thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô, đặc biệt qua bài đọc phụng vụ của Chủ nhật hôm nay. Thánh Phaolô khởi đầu đoạn văn với lời khẳng quyết: “Thời gian chẳng còn bao lâu nữa” (1Cr 7,29). Ngài còn phác vẽ một viễn cảnh với năm lời khuyên dạy “Từ nay, ai có vợ hãy sống như không có, ai khóc lóc hãy làm như không khóc, ai vui mừng hãy sống như chẳng mừng vui, ai mua sắm hãy làm như không có gì cả, kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như chẳng hưởng.” Tóm kết những lời khuyên đó, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến động cơ và lý do phải hành xử như thế, chính là “Vì bộ mặt thế gian đang biến đi” (1Cr 7,31).
Thánh Phaolô đưa ra sứ điệp cấp thiết trên, quy chiếu vào lời hiệu triệu của Đức Giêsu khi Ngài khởi sự ngày đầu tiên đi rao giảng công khai. Marcô trình thuật lại lời kêu gọi và cảnh báo của Đức Giêsu, mà bài Tin mừng hôm nay nhắc tới “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”. Nơi cả 2 bản văn của Thánh Phaolô và của Thánh sử Marcô, ý niệm nói về “thời gian” hay “thời kỳ”, được dịch từ hạn từ Kairos.
Từ ngữ Chronos cũng nói về thời gian, nhưng đơn giản ám chỉ về thời gian đang xảy ra trong hiện tại. Còn hạn từ Kairos lại nói về một thời kì đặc biệt, một thời cơ đem đến cho ta, hay một thời khắc quan trọng của cuộc sống, ví dụ lúc chúng ta đang rơi vào một khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy, hạn từ Kairos được dùng ở đây muốn nêu lên một điều quan trọng, đang xảy ra tại chính thời điểm này. Đức Giêsu công bố điều quan trọng đó, đó là thời kỳ Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ cho con người. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta phải sám hối. Sám hối, Metanoia, không phải chỉ là việc chúng ta từ bỏ tội lỗi. Nhưng trên hết, hành vi sám hối là một tư thế nội tâm, một động thái toàn diện nơi con người chúng ta để trở về với Chúa. Chúng ta phải quyết tâm định hướng lại, từ suy nghĩ, đến con tim và trọn cả đời sống, để quy về Thiên Chúa, đặt Ngài vào vị trí tối thượng nơi cuộc đời chúng ta. Nước Trời đã đến gần, và Nước Trời mà Chúa Giêsu gợi nhắc, mời gọi chúng ta phải thực sự biến đổi.
Thánh Marcô diễn tả lời gọi mời của Chúa Giêsu ngỏ trao cho bốn môn đệ đầu tiên, như là một sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Đó là một lời cầu ngỏ cách tự nguyện, nhưng cũng là một mệnh lệnh hiển thị qua uy quyền được diễn bày, mà con người không thể cưỡng lại. Mệnh lệnh đó cũng đòi hỏi chúng ta phải đáp trả, ngay hôm nay và ngay lúc này. Trên bờ biển Galilê, Chúa Giêsu đã thấy Phêrô và Anrê. Ngài truyền lệnh “ Hãy theo tôi”. Sau đó Ngài gặp Giacôbê và Gioan, và cũng gọi hai ông với cùng một dạng thức truyền lệnh giống như thế. Marcô thuật lại, ngay lập tức cả bốn ông bỏ thuyền và lưới để đi theo Ngài. Giacôbê và Gioan còn bỏ lại cả cha của mình cùng những người làm công trên thuyền. Các ông bỏ lại tất cả để đến với Chúa. Uy quyền Đức Giêsu đã hoàn toàn chinh phục các ông.
Harold và William Miller đã tiên đoán sai. Thánh Phaolô thì không dám khẳng quyết ngày giờ chính xác Đức Kitô sẽ trở lại, cho dầu vị tông đồ vẫn kì vọng Chúa sẽ đến ngay trong thời đại của Ngài. Sự kỳ vọng đó hiển nhiên cũng sai. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, chúng ta thấy lời khuyên dạy của Thánh Phaolô và của Chúa Giêsu vạch dẫn cho ta thấy rằng “ Tin mừng mà Chúa Giêsu đem đến sẽ kiến tạo một thời kỳ mới, một Kairos mới nơi chính cuộc đời chúng ta. Tin mừng khuyến mời chúng ta, cũng giống như một chỉ lệnh rất mạnh mẽ, là hãy hoán cải, hãy quy hướng trọn vẹn cuộc sống chúng ta về với Chúa. Điều đó không phải vì “ thời gian hiện tại, tức chronos đang qua đi”, nhưng Kairos “ thời kỳ ân điển, thời cơ mà Chúa gửi đến để giúp ta hoán cải”, đang được ngỏ trao cho chúng ta, ngay bây giờ.
Có bao giờ bạn nghĩ rằng, ngày hôm nay với tất cả những gì chúng ta đang vui hưởng, những niềm vui, những nét đẹp, những mơ ước chúng ta đang có…. được đồng hóa với thời điểm cùng tận vũ trụ mà chúng ta đang phải đối diện hay không? Giao ước tình yêu của Đức Giêsu mới thật sự là thời điểm sau cùng, là thực tại cánh chung, là giai đoạn cuối của lịch sử cứu độ. Giai đoạn cùng tận và thời điểm cánh chung đó không phải là lúc chúng ta phải buông xuôi tất cả, giã từ tất cả. Nhưng trên hết, đó là thời kỳ ân điển được hiến trao, để chúng ta mạnh mẽ đi vào thế giới hôm nay, với sức mạnh và lời gọi mời khẩn thiết của Đức Giêsu luôn vang vọng bên tai mỗi người: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng.
TN3-B74: Tuyển quân – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Đức Giêsu nói với họ: ‘Hãy theo Ta’, và họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài” (Mc 1,17).
Cuối năm 1999, trước tình trạng thiếu hụt binh lính trong các đơn vị, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ: TN3-B74
Cuối năm 1999, trước tình trạng thiếu hụt binh lính trong các đơn vị, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã đưa ra một quảng cáo rất hấp dẫn nhằm chiêu mộ thêm thanh niên nam nữ tòng quân giúp nước.
Ngũ Giác đài đã tặng một món tiền thưởng lên đến 6.000 đô la cho những ai tình nguyện gia nhập lục quân trong khoảng thời gian từ cuối tháng Tám cho đến 30 tháng 9. Tuy nhiên kể từ khi tung ra món tiền “câu người” cộng với những giao kèo cho đi học tại các ngành nghề thực dụng và cao cấp, rất bảo đảm cho cuộc sống tương lai sau khi giải ngũ, kết quả tuyển quân vẫn rất khiêm nhường: chưa tới 1,000 người. Trong khi đó, chỉ tiêu do Bộ quốc phòng đề ra là 6.000.
Người ta cho biết nguyên nhân của sự thiếu hụt binh lính, cũng như tình trạng đáp ứng không mấy sốt sắng, dù rằng quảng cáo rất hấp dẫn, là vì tình trạng kinh tế quá khả quan. Cuộc sống còn dễ thở, công việc không khó kiếm, nên đi lính làm gì. Với lại, cuộc đời quân kỷ ngày nay khá là gắt gao nên chẳng mấy ai hăng hái tham gia.
Mẫu tin thời sự, tình cờ xem thấy sau khi đọc qua bài Phúc âm Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ tiên khởi, đã gợi lên trong tôi đôi chút suy tư: có lẽ chưa lúc nào việc đi lính được ưu đãi như lúc này: vừa được tiền lại vừa được nhiều lợi lộc khác, sự chết chóc đổ máu không dễ gì sảy ra. Ấy thế mà chẳng mấy ai hưởng ứng. Lý do là vì sống đời dân sự vẫn tìm được nhiều tiền hơn. Thế mới hay cái gì lợi vẫn được người ta ưu tiên chọn lựa.
Riêng việc đi theo Chúa, khách quan mà nhận xét thì không thấy được đồng nào, thậm chí còn phải từ bỏ rất nhiều: bỏ thân bằng quyến thuộc, tài sản vật chất, dự tính riêng tư, có khi còn phải đối diện với khó khăn hiểm nguy, nhưng không hiểu sao theo tổng kết của Toà thánh thì chiều hướng gia tăng ơn gọi hiện nay rất lạc quan, nhất là tại các vùng Á châu.
Thử hỏi theo Chúa được lợi gì?
Ngày xưa, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, các tông đồ Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê đã phải bỏ lại cha mẹ và những người làm công quen biết. Họ phải giã từ luôn cả chiếc thuyền, tấm lưới, biển khơi, để theo một con người chỗ gối đầu không có, tài sản nổi chìm gì cũng không. Đã vậy, tình trạng no đói cũng thất thường, đến nỗi có hôm phải tuốt gié lúa mà ăn cho đầy bụng. Tương lai về tài chánh, kinh tế, an sinh không có gì hứa hẹn. Ấy thế mà còn phải đi theo Con Người đó suốt đời.
Đi lính hay tham gia phục vụ trong một tổ chức hành chánh nào thì cũng có những hạn kỳ nhất định. Ít là 2 hay 3 năm, nhiều là 40, 50 năm. Sau đó có thể giải ngũ để thực hiện những dự phóng của mình khi xưa. Còn bước theo Đức Giêsu là phải bước theo suốt cả cuộc đời. Không có tình trạng vài ba hôm rồi nghỉ, hay 5, 6 năm rồi thôi.
Ấy thế mà tại sao vẫn có không ít người đã “từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài”? Thử hỏi người ta muốn tìm điều chi bên kia sự từ bỏ? Trong mọi hành động hay bước đi của con người luôn luôn có đích tới, vậy đích tới của người theo Chúa Giêsu là gì?
Cuộc đời của con người hay được đan dệt bởi hai câu hỏi “sống để làm gì?” và “làm gì để sống?” Sự sống đây tất nhiên không chỉ thuần tuý sự sống của phần xác, được duy trì bằng ăn uống, hoạt động, ngủ nghỉ, nhưng còn là sự sống tâm linh-một sự sống chỉ được thăng hoa khi tìm ra ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Song, ý nghĩa cùng giá trị cao đẹp của cuộc đời con người lại không nằm nơi tiền tài, vật chất, dục tình, danh vọng, nghề nghiệp, nhưng là con người.
“Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi làm ngư phủ bắt người” (Mc 1,17). Phục vụ “con người” mới là lý tưởng và mục tiêu tiến tới. Trải dài trong lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa cất tiếng gọi hay chọn ai- dù là Abraham, Môisen, Samuen, Đức Maria, hay các tông đồ Phêrô, Gioan-không bao giờ chỉ để họ được hưởng phúc vinh, nhưng là để cộng tác trong tiến trình đưa mọi người vào chung hưởng Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương con người.
Để có thể thành công trên bước đường đem niềm hy vọng yêu thương đến cho mọi người và đưa mọi người về với cội nguồn yêu thương là Thiên Chúa, kẻ được gọi trước hết cần phải hướng đến, đón nhận, và bước theo một con người: Đức Giêsu. Đây chính là đích điểm của mọi đích điểm, giá trị trên mọi giá trị, và chính lộ của muôn vạn nẻo đường. Do đó trước khi có thể “chài lưới người” là phải “theo Ta”. Không thể nào tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời hay nhận rõ được giá trị của con người để mà đi “lưới” về, nếu không tin phục Đức Kitô.
Chỉ có Đức Kitô mới có thể làm cho một ngư phủ lưới cá thành một ngư phủ lưới người. Thế giới vạn vật có gì sánh được với giá trị siêu việt của con người. Thiên Chúa không đến thế gian để đánh bắt tôm cá hay cứu vớt một sinh vật nào khác ngoài con người. Cho nên đáp trả lời mời gọi cộng tác trao ban tình thương của Thiên Chúa cho con người là ta đang làm cho cuộc sống đời mình nên tốt đẹp, ý nghĩa.
Một lần kia, trên một bài báo, nhà tỉ phú George Soros đã than thở: “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; tôi đang làm chủ số phận hay là nô lệ cho thành công? Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó; để giàu có tôi phải chịu căng thẳng trường kỳ; và để duy trì phú quí tôi phải chịu cảnh bất an liên tục, một sự bất an mà thiết tưởng kẻ nghèo khổ nhất hiện nay cũng chưa phải gánh chịu.”
Thế rồi một hôm kia, một tiếng gọi vang lên từ nơi thẳm sâu của tâm hồn George Soros. Trong âm thầm ông đã hành động. Ông chi viện hàng năm 300 triệu đô la cho người nghèo bên phương Đông, trợ giúp 50 triệu cho người Macedoine đang bị các nước chung quanh cô lập; ông chi 50 triệu cho thành phố Sarajevo trong việc tái thiết hệ thống cung cấp nước cho người di tản; ông còn trả tiền cho gần 30 ngàn khoa học gia thuộc khối cộng sản sau khi sụp đổ, để họ không cộng tác với những quốc gia khủng bố, chế tạo bom đạn nguyên tử, gây tang thương cho thế giới. Sau những công tác cứu trợ nhiều quốc gia và dân tộc, Soros tâm sự: “Chỉ từ khi biết yêu thương và chia sẻ, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”
Đúng vậy, chỉ khi biết yêu thương và phục vụ con người trong đường lối của Thiên Chúa, chúng ta mới cảm nếm được giá trị và ý nghĩa của đời mình.
TN3-B75: Bỏ nghề chài lưới mà theo Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Jean-Christopher phó tế đã viết: “… Bốn người trên bờ hồ hôm đó cũng như chúng ta bây giờ, luôn: TN3-B75
Jean-Christopher phó tế đã viết: “… Bốn người trên bờ hồ hôm đó cũng như chúng ta bây giờ, luôn tất bật sửa sang lại chài lưới, đến nỗi hầu như chúng ta biến thành những tên tù sai tình nguyện. Chúa Giêsu đến và giải thoát bốn người khỏi những chài lưới của họ. Tóm lại, chỉ bằng một lời, Người mời họ nhắm vào điều cốt yếu: Nước Trời đang đến gần”. Mở đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đây là lời kêu gọi khẩn thiết và quan trọng của Chúa Giêsu đối với mọi người. Bởi vì, sám hối và lòng tin đi đôi với nhau. Người sám hối trở nên bé nhỏ, khiêm tốn, để đặt tất cả niềm tin của mình vào bàn tay nhân từ của Thiên Chúa, vào sự thánh thiện của Ngài, vào hạnh phúc nước trời, vào sự cứu rỗi do Tin Mừng mang đến. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi con người sám hối và tin vào Tin mừng Ngài mang đến.Liền sau lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên: Phêrô và Anrê,Giacôbê và Gioan.
Để mở đầu cho sứ vụ công khai rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình trong dòng sông Giođan. Ngài làm thế để nêu gương khiêm nhượng cho mọi người. Ngài rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Bước đầu để có lòng tin thực phải sám hối. Lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối và lòng tin như cặp song sinh. Sám hối là điều kiện cần thiết để trở nên tốt hơn. Như thế, sám hối có hai khía cạnh tiêu cực và tích cực. Khía cạnh tiêu cực, sám hối là quay trở về con đường xưa mình đã đi, quay về với chính lòng mình để xem thử những điều gì là đúng, những điều gì là sai, những điều gì là không phù hợp. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai, quyết tâm đổi mới, sống tốt hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn, chính vì thế, người sám hối trở nên khiêm tốn: “Người nâng cao những người phận nhỏ và để những người giàu có trở về tay không” (Lc 1, 52-53). Người sám hối khi đó sẽ đặt hết lòng tin tưởng phó thác vào Chúa, vào hạnh phúc nước trời, vào sự công chính, vào ơn cứu độ Tin Mừng Chúa mang đến. Nên, khi tin vào Thiên Chúa, tin vào ơn cứu độ của Ngài, người ta sẵn sàng sám hối và như thế lòng tin càng được nâng cao, niềm tin trở nên vững mạnh hơn. Chúa mời gọi con người, loài người sám hối và tin vào Tin Mừng Ngài mang đến cho nhân loại, mang đến cho mỗi người.
Cái lạ lùng vẫn là Chúa kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài. Chúa kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng. Chương trình cứu chuộc của Chúa không chỉ nguyên Chúa là đủ, nhưng Ngài còn nhờ vào bàn tay nối dài của nhiều người, nhiều môn đệ, nhiều tông đồ. Do đó, nỗi ưu tư hàng đầu của Ngài là tuyển chọn các môn đệ: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc 1, 17). Chúa gọi bốn môn đệ trong khi các người này đang bận rộn với công việc thường ngày là đánh bắt cá ở biển. Công việc của các ông lúc đó là kiếm được nhiều cá để bán lấy tiền nuôi sống bản thân, nuôi sống cha mẹ, gia đình của mình. Nhưng từ đây theo Chúa: Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan và sau này các môn đệ khác sẽ chuyển đổi nghề: từ việc đang làm là đánh bắt cá dưới biển, các ông sẽ trở thành những ngư phủ đánh cá người khắp thế giới. Nghe tiếng Chúa gọi, Tin Mừng nói rõ, các ông bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Cuộc đời của các môn đệ từ đây là vâng nghe lời Chúa dạy, các ông đã hăng say đi khắp mọi nơi rao giảng Tin Mừng, đưa nhiều người về với Chúa và về với Giáo Hội. Sở dĩ các ông đã làm được công việc đó, vì các ông đã sống và chia sẻ niềm tin cho những người khác. Tuy nhiên kết quả thế nào, điều đó, do Chúa quyết định: “Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xi thả lưới” (Lc 5, 5). Và rồi kết quả thế nào, mọi người đều biết: cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng của các ông.
Cái huyền diệu và hết sức ấn tượng, lạ lùng vẫn là có nhiều tâm hồn quảng đại dấn thân rao giảng nước Thiên Chúa. Ngay từ thời các tông đồ, Chúa gọi họ, nghe tiếng Chúa, họ sẵn sàng bỏ mọi sự, bỏ cả cái nghề hái ra tiền để theo Chúa Giêsu. Phải chẳng Đức Giêsu có một lực hấp dẫn đến nỗi làm cho các môn đệ say mê, bỏ mọi sự mà theo Ngài? Đúng là Đức Giêsu đã cho các môn đệ thấy Tin Mừng là Ngài đang ở giữa họ. Do đó, họ không bám víu những gì sẵn có, đang có, nên bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Họ đã sống niềm tin: “Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Họ đã thực hiện như Gioan Tẩy Giả đã làm: họ trở nên chứng nhân hữu hiệu cho nước Thiên Chúa. Ngày nay, người môn đệ Chúa phải sống cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chia sẻ. Do đó, người môn đệ Chúa, tin và sống Tin Mừng hằng ngày và phải chia sẻ, thực hiện Tin Mừng nơi đời sống của mình bởi vì: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”. Jean-Christoper viết tiếp: “Đã từ lâu rồi, chúng ta nghe Tin mừng? Chúng ta đã làm gì với những chài lưới của chúng ta? Chúng ta đã lấy những cớ nào để trói chân chúng ta vào đó? Bốn người môn đệ đầu tiên đã biết đứng dậy và đi theo Chúa Giêsu, họ đã dám bỏ lại những gì đã xiềng xích họ. Họ đã không sợ. Họ cũng không suy nghĩ gì, họ để Chúa làm. Và nếu chúng ta cũng để Chúa làm nơi chúng ta thì sao? Và nếu chúng ta đặt lại những gì chúng ta cho là ưu tiên, và để Chúa đúng vào vị trí của Chúa, vị trí hàng đầu! Mà không quên rằng, để phục vụ Chúa, để gặp được Người, chính là phải phục vụ tha nhân… Chúa Giêsu đang ở trên đường chúng ta đi, Người sáp nhập chúng ta vào công việc của Người: Trở nên những kẻ lưới người”.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ai đã giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả?
2. Vai trò của Gioan Tẩy Giả?
3. Ai đã giới thiệu Simon cho Chúa Giêsu?
4. Chúa Giêsu đã kêu gọi mấy môn đệ đầu tiên đi theo Ngài?
TN3-B76: Theo Chúa Giêsu, sám hối để hiệp nhất
http://www.simonhoadalat.com/Suyniem/chunhat/NamB/NamB.html
Suy niệm Chúa nhật III - Năm B
(Mc 1, 14-20)
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: TN3-B76 http: Simon
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan xong, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là: " Chiên Thiên Chúa " (Ga 1, 29). Ông bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, với sứ điệp: " Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm " (Mc 1, 14).
Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến
Viên cai ngục của Hêrôđê tra tay bắt Gioan Tẩy Giả tống ngục. Sứ mạng, lời rao giảng cũng như phép rửa của Gioan chấm dứt, thời giờ đã mãn, Đức Giêsu xuất hiện. Không như Gioan, Chúa Giêsu không đến để thay đổi phép rửa thống hối, sứ mệnh của Người là loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Tin Mừng Người loan báo không phải là "tin mới" hay tin mừng như bao tin mừng. Chúa Giêsu nhân danh Thiên Chúa loan báo Tin Mừng, Người chính là Tin Mừng, là Lời Thiên Chúa, Lời cứu rỗi, là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người.
Gioan loan báo thời mới sẽ đến, thời viên mãn. ‘Thời khác’ là chính Chúa Giêsu, thời của Gioan và thời của Chúa Giêsu nối liền với nhau không có sự gián đoạn.
Gioan đã lãnh nhận sức thiêng khi Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giorđan. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu khi Gioan đổ nước. Chúa Cha chứng nhận Chúa Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
Từ " gần đến " phải được hiểu là: " Ở bên anh em ". Người ở giữa chúng ta. Chúa Giêsu đã nói với một viên ký lục khi hỏi Chúa về hai điều răn trọng nhất: " Ngươi không còn xa Nước Thiên Chúa đâu " (Mc 12, 34).
Hãy theo Ta
Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển. Chúa gọi hai ông, biến các ông thành những người cộng tác. Chúa không chỉ ủy thác cho họ một học thuyết, nhưng biến họ, những người lưới cá thành những kẻ lưới người, quăng Lời Chúa vào thế gian để đánh bắt người, đưa người ta lên bờ cho Chúa, đúng như lời Chúa Giêsu nói: "Ta sẽ làm cho các người trở thành những kẻ chài lưới người" (Mc 1, 17).
Giacôbê và Gioan đang xếp lưới trong thuyền với cha mình cùng với các người làm công. Một sự tương phản Marcô đã quan sát và làm nổi bật. Simon và Anrê đã bỏ lưới. Giacôbê và Gioan đã bỏ cha. Hai người con bỏ lại cha với những người đang làm việc không phải vì tình nghĩa con cái hay gia đình, nhưng là vì đồng tiền bát gạo. Marcô sử dụng thuật ngữ " người làm thuê " mà chúng ta dịch là "người làm công". Hai người con " bỏ cha", thay vì ở bên cha, nay thay bằng " theo sau Chúa Giêsu" (x. Mc 1, 20).
Những ngư phủ đến với Chúa Giêsu, đã trở thành những kẻ đánh bắt người như lời Chúa phán: " Này Ta sai ngư phủ đến … và họ sẽ (vung) lưới bắt chúng" (Gr 16, 16). Nếu Chúa sai những người khôn ngoan tới, họ sẽ thuyết phục dân, hoặc bắt lấy dân. Nếu Chúa gửi những người giầu đến, họ sẽ dùng tiền mua chuộc dân và thống trị dân. Nếu Chúa gửi những người khỏe mạnh đến, họ sẽ dùng sức mạnh dụ dỗ dân và cưỡng bức dân bằng bạo lực.
Không có ai trong số các tông đồ là những người ấy. Simon Phêrô là một bằng chứng. Ông nhút nhát, đến nỗi sợ cả một đầy tớ nữ; ông nghèo không có gì, thậm trí cả tiền thuế cũng không có (Mt 17, 24). Phêrô nói: "Bạc vàng tôi không có " (Cv 3,6). Và ông là người ít học, nên từ khi chối Chúa, ông cũng chẳng biết rút ra bài học.
Những kẻ đánh cá được Chúa Giêsu chọn và sai đi, họ ra đi và đã mang lại kết quả mĩ mãn hơn cả những kẻ mạnh, người giầu có và khôn ngoan. Với giáo lý Chúa dạy, họ đã thu hút nhiều người mà không cần bạo lực; phận nghèo khó, họ đã dạy dỗ những kẻ giàu có; là người dốt nát, họ huấn giáo những kẻ khôn ngoan.
Bước theo Chúa Giêsu cần phải sám hối để hiệp nhất
Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình "ăn năn sám hối"(Mc 1, 15). Sám hối là đi từ đời sống tội lỗi sang đời sống con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng, từ bóng tối ra ánh sáng. "Sám hối vì nước Thiên Chúa đã gần đến" (Mc 1, 15) vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Quyết tâm sám hối trở về cùng Chúa là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Chúa. Hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: " Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến: "Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức" (1 Cr 1,10). Thực ra thánh nhân đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: "Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?" (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Các anh hãy đi theo tôi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 1:14-20)
Câu chuyện sách Tin Mừng thánh Gio-an kể tuần trước về việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên mang: TN3-B77
Câu chuyện sách Tin Mừng thánh Gio-an kể tuần trước về việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên mang tính cách suy tư của những người đi tìm Chúa. Còn câu chuyện hôm nay của thánh sử Mác-cô về cùng một biến cố lại giống như “người thực việc thực”, nhưng nhân vật chính là Chúa Giê-su, người chủ động trong việc kêu gọi này. Lời triệu gọi “hãy đi theo tôi” của Chúa Giê-su có tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong hành trình làm môn đệ Chúa của chúng ta.
Vẫn một cách ngắn gọn, trước hết thánh Mác-cô trình bày hoàn cảnh và thời gian của biến cố kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Thời gian là lúc Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ “sau khi ông Gio-an (Tẩy Giả) bị nộp” và không gian là miền Ga-li-lê. Nội dung của sứ vụ là loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” và kêu gọi người ta “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Chính trong bối cảnh ấy, Chúa Giê-su chủ động kêu gọi hai cặp anh em làm môn đệ Người: anh em Si-môn và An-rê, anh em Gia-cô-bê và Gio-an. Bốn người đều làm nghề lưới cá. Họ không cần phải thi tuyển, nhưng là được chọn. Chúa Giê-su không đưa ra những tiêu chuẩn bắt buộc họ phải hội đủ để đáp ứng công việc Người muốn họ làm, nhưng Người hứa sẽ đào tạo họ.
Điều kiện duy nhất là họ phải tự nguyện đi theo Chúa, còn đào tạo là việc của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh trở thành kẻ lưới người như lưới cá”. Phải chăng Chúa Giê-su chủ ý chọn những người lưới cá đầy kinh nghiệm để biến họ trở nên những kẻ lưới người? Đúng thế, nhất định đây là một cách đào tạo thực tế. Với kinh nghiệm nghề nghiệp cha truyền con nối của họ, Chúa Giê-su sẽ có cách dựa vào đó để dạy họ những kỹ năng lưới người. Cách đào tạo hữu hiệu nhất, đó là sử dụng những kinh nghiệm thực tế, những bài tập thực hành. Lưới cá và lưới người là hai công việc khác nhau, nhưng về kỹ năng chắc chắn có nhiều điểm tương đồng. Thí dụ lưới cá thì phải nghiên cứu nơi chốn, biết rõ loại cá mình lưới, kiên nhẫn chờ đợi… Lưới người cũng vậy, cần biết những kẻ mình lưới là người thế nào, hoàn cảnh sống của họ, kiên trì đem Tin Mừng đến cho họ… Chắc chắn Chúa Giê-su là một bậc thầy và huấn luyên viên lỗi lạc. Điều này bảo đảm là đúng, bởi bốn anh em được Chúa gọi đã lập tức bỏ chài lưới, bỏ cha mình và bạn làm công để đi theo Chúa. Họ đã gặp được vị thầy họ hoàn toàn tin tưởng, mặc dù vẫn chưa hiểu rõ “nghề” mới Người muốn họ theo đuổi là gì.
Tất cả cũng đều do lời gọi “Các anh hãy đi theo tôi”. Lời gọi của Chúa Giê-su có một mãnh lực dường như không thể cưỡng lại. Nó mạnh mẽ đến độ làm cho những kẻ được Chúa gọi đã mau mắn đáp lại. Động thái “lập tức” bỏ nghề nghiệp và người thân để đi theo Chúa đã chứng minh cho sức mạnh của lời Chúa kêu gọi! Lời gọi của Chúa mạnh mẽ tới mức khiến cho kẻ được gọi sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát để hướng về một tương lai mình hoàn toàn mù mờ. Nói khác đi, sức mạnh của lời Chúa kêu gọi đã giúp họ “uống thuốc liều” và tin tưởng phó thác đời mình trong sự quyết định của Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hôm nay chúng ta hãy tin là Chúa cũng đi dọc theo “biển hồ Galilê” của chúng ta và lên tiếng kêu gọi: “Con hãy đi theo Thầy, Thầy sẽ làm cho con trở thành kẻ lưới người”. Chúa dựa vào những kinh nghiệm cũng như tài năng của chúng ta mà kêu gọi chúng ta. Rồi Chúa cũng hứa là Người sẽ đích thân đào tạo chúng ta, dựa trên những kinh nghiệm nghề nghiệp của chúng ta. Công cuộc truyền giáo Người muốn tất cả chúng ta tham gia có rất nhiều lãnh vực. Những nơi nào có cá, cá loại nào, phải sử dụng cách nào để bắt được cá…, những điều này Chúa sẽ tùy theo tài năng của chúng ta để huấn luyện chúng ta. Chúa Giê-su là “kẻ lưới người” vĩ đại và gương mẫu được Chúa Cha sai xuống dạy chúng ta. Phải, Người sẽ đích thân dạy chúng ta bằng chính những kinh nghiệm riêng của chúng ta và những kinh nghiệm của Người. Chỉ cần chúng ta là những học trò ngoan ngoãn, luôn ở bên cạnh Người, biết mở mắt mở tai và nhất là mở lòng. Người muốn chúng ta bắt chước những người học trò ngoan được nói đến trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Vậy chúng ta có “lập tức” đi theo Chúa không?
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
CN 3 THƯỜNG NIÊN B
Gn 3,1-5.10 ; 1 Cr 7,29-31 ; Mc 1,14-20
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 1,14-20
(14) Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. (15) Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. (16) Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-mon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. (17) Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. (18) Lập tức hai ông bỏ chài lưới đi theo Người. (19) Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. (20) Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng giảng đạo tại xứ Ga-li-lê mà nội dung được tóm gọn trong câu: “Thời kỳ: TN3-B78
Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng giảng đạo tại xứ Ga-li-lê mà nội dung được tóm gọn trong câu: “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Người cũng mời gọi bốn môn đệ đầu tiên là hai đôi anh em: Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Các ông đã mau mắn đáp lại bằng sự dứt khoát từ bỏ nghề cũ, từ giã cha già mà theo làm môn đệ của Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 14-15: + miền Ga-li-lê: do vua Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị, là một miền đất trù phú và có đông dân ngoại sinh sống. Khi khởi sự thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng tại Ga-li-lê miền đất có đông dân ngoại, cho thấy tính phổ quát của Tin Mừng của Người. +Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Sám hối là loại bỏ nếp sống cũ tin thờ tà thần và thay bằng nếp sống mới theo Đức Chúa là Đấng trọn lành. Đức Giê-su kêu gọi dân chúng phải ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng do Người loan báo.
- C 16-18: + Biển hồ Ga-li-lê: Cũng gọi là hồ Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1), hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1). Biển hồ này rất lớn hình quả trám, dài 21 cây số và ngang 12 cây số, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải tới 208 mét. Đây là nơi Đức Giê-su đã kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên và nhiều lần Người giảng dạy dân chúng tại ven biển (x. Lc 5,3). Người cũng làm nhiều phép lạ tại biển hồ này: dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,23-27), đi trên mặt nước (x. Ga 6,16-21) mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-11)... + Ông Si-mon với người anh là An-rê: Ông Si-mon sau được Đức Giê-su đổi tên là Phê-rô (x. Mt 16,18). Ông là em ông An-rê và là con ông Giô-na (x. Mt 16,17) hay Gio-an (x. Ga 1,42). Ông Si-mon quê thành Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), làm nghề lưới cá tại biển hồ Ga-li-lê (x. Mc 1,16). + Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người: Hai anh em An-rê và Si-mon đã mau mắn đáp lại tiếng gọi của Đức Giê-su, bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo làm môn đệ Người.
- (C 19-20) + Ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an: Đây là Gia-cô-bê Tiền, vì theo Đức Giê-su trước. Ông là con của ông Dê-bê-đê và là anh của Gio-an (x. Mt 4,21). Ông là một trong nhóm 3 người, được Đức Giê-su ưu ái (x. Mt 17,1). Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an cũng được Đức Giê-su đặt cho biệt danh là “Bo-a-nê-ghê”, nghĩa là “Con của Thiên Lôi” (x. Mc 3,17). + Bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền mà đi theo Người: Hai ông đã dứt khoát đáp lại tiếng Chúa mời gọi bằng việc từ giã gia đình để dấn thân theo làm môn đệ của Đức Giê-su.
4. CÂU HỎI: 1) Ga-li-lê là miền nào trong nước Do thái thời Đức Giê-su? 2) Lời kêu gọi “sám hối và tin vào Tin Mừng” của Đức Giê-su có ý nghĩa thế nào? 3) Đặc điểm của Biển Hồ Ga-li-lê là gì? 4) Bạn biết gì về thân thế của ông Si-mon Phê-rô? 5) Hai anh em An-rê và Si-mon đã đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su thế nào? 6) Bạn biết gì về thân thế của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an? Tại sao hai ông này lại có biệt danh là “con của thiên lôi”? 7)Thái độ của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
2. CÂU CHUYỆN: TẠI SAO XA-TAN KHÔNG ĐƯỢC THIÊN CHÚA THA THỨ ?
1) Một hôm Xa-tan kêu trách Thiên Chúa rằng: “Chúa thật bất công! Cụ thể là có nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế mà Ngài vẫn tha cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha cho chúng. Còn tôi, chỉ phạm tội không vâng lời một lần, thế mà Ngài lại phạt tôi phải sa hỏa ngục đời đời, và không bao giờ tha thứ cho tôi!”. Bấy giờ Thiên Chúa mới ôn tồn nói với tên quỉ rằng: “Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người vì chúng đã khiêm tốn tự nhận là kẻ có tội, đã hồi tâm sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống. Còn ngươi, từ khi phạm tội kiêu ngạo không vâng lời Ta và bị phạt trong lửa hỏa ngục đến nay, có khi nào ngươi khiêm nhường nhận lỗi và hồi tâm sám hối xin Ta tha thứ hay chưa?”. Tên quỷ nghe vậy liền vênh mặt lên cười khẩy và trả lời như sau: “hồi tâm sám hối ư? Ta cần chi phải ăn năn sám hối? và cũng chẳng cần ai phải tha thứ cho ta nữa !”
2) Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tu sĩ kia đã phạm tội và bị phạt phải vào sa mạc để ăn chay đền tội trong một năm trời, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các anh em của cộng đoàn đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; còn người kia thì ốm o xanh xao. Cả hai được đòi phải đến trình diện trước mặt Bề Trên và ban cố vấn cộng đoàn để được phán quyết có đáng được tái hòa nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong năm qua đã suy niệm về điều gì?
Người ốm o xanh xao trả lời:
- Trong năm qua, ngày ngày con luôn nhớ lại những tội con đã lỗi phạm và những hình phạt đáng phải chịu, nên con luôn mang tâm trạng sợ hãi không sao chợp mắt được.
Đến lượt người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:
- Suốt một năm qua, từng giây từng phút, con luôn cảm tạ Chúa vì Người đã tha thứ cho con nên con luôn vui vẻ lúc nào cũng ca tụng Chúa và ăn ngon ngủ yên.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã trở thành lời ca tụng và cảm tạ tri ân tình yêu của Chúa.
3. SUY NIỆM:
1)Phạm tội và sám hối:
Phạm tội là khi làm phiền lòng Chúa, là khi cố tình bỏ không làm những điều luật Chúa buộc làm như giữ ngày Chúa nhật, thảo kính cha mẹ… hoặc cố ý làm những điều luật Chúa cấm làm như chớ giết người, chớ tà dâm, chớ dối trá... Những điều luật Chúa buộc hay cấm làm được gọi là thánh ý Chúa và được tóm lại trong 5 kinh quen thuộc này: Một là kinh “Mười Điều Răn Đức Chúa Trời”; Hai là kinh “Sáu Điều Răn Hội Thánh”; Ba là kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”; Bốn là kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức; Năm là kinh “Hòa Bình”.
Phạm tội là cố tình làm trái thánh ý Thiên Chúa, làm cho Chúa Giê-su phải buồn phiền vì ta. Muốn được ơn tha tội và được giao hòa với Chúa, chúng ta cần khiêm hạ sám hối. Sự ăn năn thực sự được biểu lộ qua thái độ hồi tâm xét mình, lo buồn trách mình vì đã phạm tội mất lòng Chúa, khiêm nhường xưng thú tội lỗi với vị linh mục có quyền giải tội và quyết tâm chừa cải bằng việc xa lánh dịp tội, quyết tâm đền bù tương xứng với thiệt hại đã gây ra cho tha nhân.
2) Sám hối là khởi đầu của việc nên hoàn thiện: Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả các vị đều ý thức về thân phận yếu hèn của mình. Càng ý thức về sự bất toàn của mình, người ta càng cảm nhận được tình thương bao la của Thiên Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đa-vít sau khi đã phạm tội giết chồng đoạt vợ (x. 2 Sm 11,1-17), của thánh Phê-rô sau khi chối Thầy ba lần (x. Mt 26,69-75), của thánh Phao-lô sau khi bắt bớ các tín hữu và bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,1-19), của Au-gút-ti-nô sau chuỗi ngày buông thả tội lỗi và của nhiều đại thánh khác trong lịch sử Hội Thánh...
Lời đầu tiên Đức Giê-su công bố khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời hôm nay là: "Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Đức Giê-su đã nối kết việc sám hối với rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện qua con người của Đức Giê-su? Sám hối không chỉ là hồi tưởng về quá khứ của mình, không dừng lại ở thái độ buồn phiền, sợ hãi thất vọng, nhưng là một chặng đường phải trải qua để đạt đến niềm vui là tin vào Tin Mừng.
Đạo do Đức Giê-su thiết lập không phải là đạo của ưu phiền đau khổ, nhưng là đạo của tình thương, vui mừng và hy vọng. Người tín hữu môn đệ Đức Giê-su không dừng lại ở đau khổ, thập giá, chết chóc.. nhưng luôn được mời gọi để qua đau khổ vào trong vinh quang, để thấy ánh sáng hy vọng, tin yêu của niềm vui sống lại.
3) Sống và loan truyền đức tin: Là điều quan trọng hàng đầu của cuộc sống người tín hữu. Đó cũng là mối quan tâm bậc nhất của Đức Giê-su khi đi công bố Tin Mừng Nước Trời: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1,17).
Sống và loan truyền đức tin, luôn luôn gặt hái được kết quả. Nhưng kết quả ra sao, nhiều ít, là do ơn Chúa ban. Khi Đức Giê-su bảo Phê-rô thả lưới bắt cá, ông đã thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc.5,5). Ông đã thả lưới và đã bắt được rất nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách. Cũng cùng là chiếc lưới đó, cũng là con ngừơi đó, nhưng kết quả lại là cả một mẻ cá bội thu!
Sống và loan truyền đức tin, chính là nhiệm vụ của mỗi tín hữu chúng ta: Muốn đạt kết quả tốt, trước tiên việc loan báo phải bắt đầu bằng việc "Sám hối và tin vào Tin mừng", rồi đến “Hãy ra khơi và thả lưới bắt cá”, nhưng phải thả lưới dưới ơn trợ giúp của Chúa Giê-su: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Có như vậy chúng ta mới có thể trở thành những ngư phủ lành nghề của Chúa và mới đạt được thành quả tốt đẹp theo thánh ý Chúa.
4. THẢO LUẬN: 1) Khi lỡ phạm tội trọng, ta cần làm gì để được ơn giao hòa với Chúa? 2) Làm thế nào để trở thành tông đồ tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giê-su?
5) LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con mau mắn đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Từ hôm nay con xin xác tín Chúa lả chúa tể cuộc đời chúng con và quyết tâm mến Chúa trên hết mọi sự, sẵn sàng chọn Chúa hơn tình gia đình ruột thịt, hơn sở thích hay nghề nghiệp đang làm... Xin cho chúng con ý thức sứ mạng phải tích cực làm chứng cho Chúa. Xin cho chúng con biết siêng năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, chu toàn các công tác được phân công như đi thăm viếng anh em lương dân, chia sẻ tiền bạc vật chất cho người nghèo khó, khiêm tốn phục vụ những người neo đơn bệnh tật, an ủi động viên những người đau khổ bất hạnh... Xin cho chúng con biết nhiệt tâm cộng tác với các vị chủ chăn và những anh chị em thiện chí để đưa nhiều chiên lạc về với Hội Thánh. Vì chúng con xác tín rằng: chỉ có Chúa mới thực sự là niềm vui và là hạnh phúc cuộc đời của con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
Nhà văn Phaolô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Tôi Tớ Chúa, Đức: TN3-B79 Ephata
Nhà văn Phaolô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung uý an ninh, công tác tại cục "chống phản động" A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo. Năm 1987, ông có dịp gặp Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi Đức Hồng Y được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành Công An và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp Lễ Phục Sinh 2003.
“Con đường Đức Tin vào Nước Chúa qua cây cầu Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận”, của nhà văn Nguyễn Hoàng Đức là một chứng từ trong hồ sơ phong Chân Phước cho Đức Hồng Y FX. Nhà văn tự thuật: “Cuối năm 1988, sang đầu năm 1989 tôi bắt đầu nộp đơn xin chuyển ngành, lý do chính là, sau một loạt sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô tan vỡ, đặc biệt "sự kiện Mùa xuân Bắc Kinh" xảy ra tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4.6.1989, rồi quân đoàn 27 tràn vào trộn máu thịt sinh viên bằng xích xe tăng, lúc đó Việt Nam coi "Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp", nhưng lại chiếu phim thời sự trong nội bộ để học tập cách đàn áp của Trung Quốc. Điều đó làm tôi không muốn ở cục "Chống phản động" nữa, vì qua ngót mười năm làm việc, đọc nhiều hồ sơ, tôi hiểu hầu hết người dân lành đó không phải là phản động. Đôi khi, vài anh em bạn bè trong cục tôi vẫn thường bảo với nhau: Tại sao chúng ta thừa nhận Giáo Hội là hợp pháp, trong khi đó lại coi việc hành lễ hay rước lễ của họ là bất hợp pháp ? Tại sao một Linh Mục hợp pháp cả về tư cách công dân, cả về tư cách mục vụ đã được nhà nước chấp thuận theo luật, vậy mà ông Linh Mục đi từ nơi này đến nơi kia lại phải xin phép ?
Ngay việc của Đức Cha FX. Nguyễn Văn Thuận thôi, nếu Giáo Hội mà ngài theo hợp pháp, thì việc Giáo Hội đó tổ chức ra một hội đoàn "Tu hội Hy Vọng" tại sao thành bất hợp pháp ? Nếu bất hợp pháp sao không đưa người phạm pháp ra xử theo luật mà cứ tự tiện biệt giam ?
Hồi đó, một cách tự nhiên, hàng tuần tôi thường đi dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn, nghe Linh Mục Nguyễn Khảm giảng lễ, một lần thấy cha giảng hay quá, tôi còn đợi hết lễ và sang tận nhà xứ gặp cha... Lần đầu tiên dự Thánh Lễ, tôi rất cảm động và khâm phục về trình độ phản tỉnh cũng như mở lòng với tha nhân qua hai hình thức "Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi mọi đàng !" và việc "Anh chị em chúc bình an cho nhau", cúi phía trước, cúi phía trái, cúi phía phải chào nhau…
Nhưng có một đêm tôi được một giấc mơ kéo vào thế giới của tâm linh, đại loại như có một cánh tay dẫn tôi đến một chân trời có tấm phông thả từ vòm trời xuống, và có giọng nói, nếu tôi vén màn sẽ nhìn thấy thế giới ánh sáng ở phía bên kia. Tôi giơ tay vén màn thì choàng tỉnh. Đêm thứ hai, sau đó vài ngày, thì giấc mơ kéo tôi đến thẳng Nhà Thờ, và có giọng nói: "Hãy đi vào đường của tâm linh thiêng liêng”… Kể từ đó, sáng Chủ Nhật nào tôi cũng dậy từ 5 giờ sáng đi Lễ Nhà Thờ Phùng Khoang, tôi đã luôn tự nhận mình là con cái Chúa…
Tối 19.4.2003, tôi được rửa tội… Trước bàn thờ Chúa ở Nhà Thờ và bàn thờ Chúa ở nhà riêng, tôi đã hân hoan cảm tạ Chúa rằng: "Lạy Chúa ! Hành trình đi đến Đức Tin của con có cả ơn soi, ơn gọi, và ơn chọn, khởi đầu từ hạt men đầu tiên nơi cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giờ đã dậy lên cả đống men, trong tâm hồn con tràn ngập ân sủng Đức Tin của Chúa, trong Chúa và hướng về Chúa !"
Theo Kinh Thánh, thời gian được chia làm hai thời kỳ Cựu Ước và Tân Ước. Đức Giêsu loan báo thời kỳ Cựu Ước đã đến hồi kết thúc và thời đại Tân Ước, thời cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Người kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Trong bối cảnh này, Người đã gọi các ông Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan làm những môn đệ đầu tiên. Các ông đã mau mắn vâng lời, dứt khoát bỏ tất cả đi theo Người. Hôm nay, mhà văn Nguyễn Hoàng Đức cũng đã dứt khoát từ bỏ vinh hoa phú quý, tương lai huy hoàng, xán lạn để tin vào Tin Mừng đầy cam go, gian lao và thách đố.
Nhìn lại và đổi mới
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ). Sám là ăn năn lỗi trước, hối là chừa bỏ lỗi sau. Sám hối nghĩa là dứt trừ lỗi trước đã phạm, không cho lỗi lầm sau phát sinh. Nhưng con người hiện đại hình như hiếm hoi thì giờ để hồi tâm xét mình, để nhìn lại những gì đã trải qua, đã làm, đã vấp phạm, đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân.
Lúc nào cũng bận rộn, vừa dứt công việc thì lao ngay vào giải trí, thú vui, thư giãn. Âm thanh, hình ảnh, sự kiện luôn lấp đầy tâm trí, lòng dạ. Vì thế cuộc sống ồn ào, quay cuồng, xô bồ, ô nhiễm, ngộ độc con người từng phút giây, từ sáng tinh mơ đến tận đêm khuya nghỉ ngơi. Do vậy, số người cô đơn, mất phương hướng và lý tưởng, tha hóa, tự tử ngày càng tăng trong những xã hội văn minh, hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc và Âu Mỹ.
Không xét mình, chẳng nhìn lại đằng sau, thì cũng chẳng thể nào tiến triển, trưởng thành trên đường đạo hạnh, con người chỉ có thể chìm dần, sa vào vũng lầy tội lỗi, đen tối, u ám, bất hạnh. Cái chết là kết cục đương nhiên. Cho nên không sám hối thì sớm muộn chỉ tìm đến cái chết cả xác lẫn hồn.
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” ( Mt 16, 25-26 ).
"Nếu con chỉ “giữ đạo” con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế gian ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến thế gian và đưa thế giới về với Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 650 ).
Sống Tin Mừng
Sám hối mà thôi vẫn chưa đủ khả năng nhập gia tùy tục vào thời đại mới, thời đại Tin Mừng, thời đại Tân Ước, mà còn phải sống Tin Mừng. Cụ thể hóa Tin Mừng ngay trong đời thường hằng ngày qua bổn phận, trách nhiệm, yêu thương và phục vụ tha nhân, cùng vâng theo Thánh Ý Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Bốn anh thuyền chài khỏe khoắn, vạm vỡ: Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan đã mau mắn nghe tiếng Chúa gọi, quyết định từ bỏ tất cả, thân quyến, nghề nghiệp, của cải, ra đi làm môn đệ, làm anh em của Người. Sau này “Simon Phêrô lên tiếng thưa Ngài: "Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy". Ðức Yêsu nói: "Quả thật Ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh em và chị em, mẹ và con cái cùng ruộng nương, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến” ( Mc 10, 28-30 ).
“Hãy đi rao giảng Phúc Âm…” ( Mc 16, 15 ). Chúa cần những người “cảm tử” để đảm nhận một sứ mạng cao cả như thế. Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy, giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử, từ mọi tầng lớp Giáo Dân” ( Đường Hy Vọng, số 64 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Lòng Chúa xót thương, mở lòng, mở trí chúng con ra, để chúng con biết khiêm tốn, cúi đầu đấm ngực, ăn năn, sám hối, canh tân, cùng thực thi Tin Mừng trong đời sống thường nhật chúng con.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giải thoát chúng con khỏi bùn lầy thế gian, mà sám hối trở về cùng Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi, để được thứ tha và an ủi, hầu chúng con có thể noi gương Mẹ, sống kết hợp cùng Chúa luôn. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
Có thể nói Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là Lời Thiên Chúa dành gọi tất cả mọi người, nhưng: TN3-B80
Có thể nói Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là Lời Thiên Chúa dành gọi tất cả mọi người, nhưng cách riêng, cho những ai bước đi theo Ngài trong ơn gọi thiên triệu. Khi Đức Giêsu đi dọc bờ biển và kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên đi theo mình: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” ( Mc 1, 17 ), các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
Ơn gọi đúng thật là một mầu nhiệm, không ai hiểu được và cũng chẳng ai giải thích nổi. Chỉ biết rằng một ngày nào đó trong đời, Thiên Chúa đã cất tiếng và họ đã lên đường, sẵn sàng đáp trả lời mời gọi của Chúa. Hành trình theo Chúa là cả một cuộc đời, có biết bao thăng trầm thay đổi. Nào ai biết được ngày mai tôi sẽ ra sao, chỉ biết rằng trong giây phút hiện tại này Thiên Chúa đã gọi và tôi đã lên đường.
Thái độ đáp trả của các môn đệ thật đáng ngưỡng mộ. Các ông đã từ bỏ tất cả mọi sự và đi theo Ngài không chút do dự, tính toán. “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” ( Mc 1, 18 ). Đối với Giacôbê và Gioan thì “Các ông bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, và đi theo Người” ( Mc 1, 20 ).
Thật ra, Thiên Chúa luôn mời gọi tất cả mọi người, mọi ngày. Ngày nào Ngài cũng đến và mời gọi chúng ta lên đường làm việc với Ngài. Mỗi ngày chúng ta thức dậy đi làm, là chúng ta cùng với Ngài cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đi theo Ngài trong đường lối công chính ngay trong nơi làm việc của chúng ta. Và như vậy là chúng ta đã làm gương sáng, làm chứng nhân cho những người chung quanh nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa.
Riêng những người sống trong ơn gọi thiên triệu, họ được mời gọi phục vụ những công việc đặc trách dành riêng cho người tông đồ. Nhưng tất cả cũng đều làm vinh danh Chúa và mang lại ơn cứu độ cho mọi người mà thôi.
Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta cùng làm việc, nhưng Ngài còn mời gọi chúng ta đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàm tiệc Lời Chúa mỗi khi chúng ta tham dự Thánh Lễ đễ kín múc được nguồn sống nuôi sống tâm hồn chúng ta. Mỗi khi tiếng chuông Nhà Thờ vang lên, là mỗi lần Thiên Chúa lại tha thiết kêu gọi chúng ta đến với Ngài, đi theo Ngài, nhưng thực tế nào được mấy ai dám can đảm từ bỏ cuộc vui, từ bỏ hưởng thụ, từ chối lợi nhuận bạc tiền để có thể đến bên Ngài, và đi theo Ngài ?
Có rất nhiều cách để người tông đồ của Chúa có thể làm chứng nhân cho Ngài nhưng cho dù cách nào đi nữa, thì Thiên Chúa cũng vẫn chính là tác nhân chính trong việc thu phục lòng người. Đức Giêsu đã tuyên bố rõ ràng: “Chính Ta sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” ( Mc 1, 17 ). Như vậy, không do tài năng của người tông đồ mà là chính quyền năng của Thiên Chúa, còn chúng ta cho dù có sống trong ơn gọi nào, chúng ta cũng chỉ là công cụ, là khí cụ Chúa dùng mà thôi.
Ơn gọi nào đi nữa, cũng không thể không phát xuất từ ơn gọi Kitô hữu. Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đã lãnh nhận ba chức vụ Tư Tế, Vương Đế và Ngôn Sứ. Ngôn Sứ là một trong ba chức vụ khiến chúng ta phải ra đi truyền giáo, mang Chúa đến với mọi người, hay nói cách khác, chính là việc chúng ta sẽ trở thành những kẻ lưới người.
Như vậy việc “lưới người” không gì khác hơn là việc tông đồ phát xuất từ chính công việc lao động hằng ngày của chúng ta. Nếu biết sống chu toàn thánh ý Thiên Chúa, tuân giữ lề luật Ngài, là lúc chúng ta có thể làm chứng cho Chúa ngay trong đời sống thường nhật của mình. Nhưng làm sao chúng ta có thể trở thành những kẻ lưới người nếu như không có ơn Chúa trợ giúp. Muốn được như vậy, điều kiện tiên quyết đầu tiên là chúng ta cần phải từ bỏ mọi sự mà bước đi theo Ngài.
Từ bỏ mọi sự không chỉ dừng lại ở việc từ bỏ những mối dây ràng buộc thế gian, nhưng trên hết là từ bỏ mọi quyến rũ của cuộc đời, để có một tâm hồn hoàn toàn trống trải mới có thể đi theo Chúa và làm việc cho Ngài.
Đi theo thì dễ nhưng từ bỏ thì khó. Nhiều khi chúng ta đi theo Thiên Chúa thật đấy nhưng có từ bỏ được đâu. Theo Ngài mà vẫn ngoái cổ lại đàng sau và muốn giữ lại, tay vẫn nắm chặt, trái tim không thể nào buông rời những luyến ái trần thế. Đến bên Ngài nhưng lòng chúng ta chưa thể tách rời khỏi những đam mê danh vọng, chức vị, tiền tài….
“Đi theo” và “bỏ lại” là hai cụm động từ đầu tiên người tông đồ cần phải có nếu như muốn trở thành tông đồ chứng nhân đích thực cho Thiên Chúa. Dù có sống trong ơn gọi nào cũng vậy. Không thực hiện được hai cụm động từ này, thì đừng mong trở thành môn đệ đích thực được.
Lạy Chúa, đúng vậy, bao nhiêu năm con đi theo Ngài nhưng con không thể tử bỏ. Đi theo thật đấy, nhưng tay con vẫn còn nắm chặt lắm, những ước mơ tham vọng ích kỉ của bản thân. Do vậy mà suốt cả đời con cũng chẳng thể trở thành môn đệ đích thực của Ngài được. Ngày nào con chẳng nghe được tiếng Ngài nói với con. Lúc nào bên tai con chẳng vang vọng tiếng Ngài mời gọi. Nhưng có đi thì cũng chẳng thể từ bỏ, chỉ mang theo cái xác mà chẳng có hồn.
Xin giúp con, thay vì nắm chặt mớ tiền tài danh vọng, ước gì con có thể nắm chặt tay Ngài, chẳng khi nào biết rời buông. Khổ nỗi dường như bàn tay nhân loại ấm áp hơn rất nhiều nên con đã từ khước đôi tay nhân từ của Chúa để chạy theo danh vọng trần tục. Xin giúp con giữ mãi đôi bàn tay ấy, dẫu có thế nào cũng không thể rời buông.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
Bướng bỉnh và ngoan ngoãn ( * ) là hai động thái trái ngược nhau, nhưng lại có thể “liên quan” lẫn: TN3-B81
Bướng bỉnh và ngoan ngoãn ( * ) là hai động thái trái ngược nhau, nhưng lại có thể “liên quan” lẫn nhau – từ bướng bỉnh trở thành ngoan ngoãn hoặc ngược lại. Từ “ngưỡng” này qua “ngưỡng” khác phải có sự dứt khoát, phải mạnh mẽ để khả dĩ vượt qua chính mình. Cả người bướng và người ngoan đều cần động thái dứt khoát. Dứt khoát là không còn đắn đo, cân nhắc hoặc lưỡng lự. Động thái này không dễ thể hiện, vì phải mau chóng phân biệt phải trái và quyết định ngay. Rất khó ! Người làm được như vậy là người có tâm lý mạnh và thể hiện tính cương trực. Nói một là một, nói hai là hai: “Điều gì đã quyết là đã quyết” ( nói theo kiểu Philatô ).
Trong sự dứt khoát có thể có chút gì đó bị người ta cho là tính bướng bỉnh, ngang tàng hoặc “gàn bát sách”, nhưng đó là sự bướng bỉnh cần thiết. Con ngựa chứng là con ngựa giỏi, vì không điều khiển được nó nên người ta cho nó là “chứng” và ghét nó. Với con người cũng vậy !
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã đích thân sai ông Giôna đi lần thứ nhất: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta” ( Gn 1, 1 ). Ông vội đứng dậy nhưng không đi theo lệnh mà lại trốn đi Tác-sít, tránh mặt Chúa. Ngang bướng thật đấy ! Nhưng kể ra cũng “can đảm” vì dám cãi Thiên Lệnh. Khi đó, ông đã thể hiện tính dứt khoát. Tàu chạy, bỗng dưng sóng gió ầm ầm, người ta gieo quẻ xem rơi trúng ai thì đó là kẻ gây tai họa. Quẻ rơi trúng ông Giôna. Ông tá hỏa tam tinh, cảm thấy mình sai nên hối hận và bảo người ta ném ông xuống biển. Con cá lớn nuốt ông trong bụng ba ngày rồi nhả ông lên bờ.
Sau đó, Chúa lại sai ông Giôna đi lần thứ hai: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi” ( Gn 3:2 ). Lần này ông không dám bất tuân nên đứng dậy và đi Ninivê theo lệnh Đức Chúa. Kinh Thánh cho biết rằng Ninivê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. Ông Giôna bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ” ( Gn 3, 4 ). Dân Ninivê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Dân Ninivê thật là ngoan ngoãn, vừa biết bảo nhau vừa biết phục thiện, vậy là diễm phúc lắm ! ( Di tích thành Ninivê ở phía Bắc nước Iraq ngày nay )
Thật vậy, Thiên Chúa luôn giàu lòng thương xót, không muốn ai phải hư mất, luôn kiên nhẫn chờ đợi các tội nhân hoán cải, nên khi Ngài “thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Ngài hối tiếc về tai họa Ngài đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Ngài đã không giáng xuống nữa” ( Gn 3, 10 ).
Đây là niềm hy vọng cho mỗi chúng ta, dẫu có tội lỗi tới mức nào thì cũng hãy cứ tin tưởng, đừng tuyệt vọng ! Thiên Chúa chỉ cần chúng ta chân thành sám hối, rồi mọi thứ cũng chỉ là “chuyện nhỏ”, Ngài sẽ thứ tha hết. Thật vậy ư ?
Thật vậy, chắc chắn như thế, vì chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn cả tội lỗi của con và cả nhân loại” (Nhật Ký, số 1485 ). Biết như vậy không phải để ỷ lại, mà để cố gắng củng cố Đức Tin yếu mềm của chúng ta.
Nói tin thì dễ, nhưng rất khó để thể hiện và sống đức tin. Là phàm nhân thì ai cũng thế thôi, chẳng nói hay được. Tác giả Thánh Vịnh đã luôn phải cầu xin: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” ( Tv 25, 4-5).
Thật vậy, khi còn trẻ, mấy ai không đã từng sa ngã, mấy ai không phải khốn đốn đôi lần, chính nhờ kinh nghiệm “xương máu” đó mà người ta mới nên khôn: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” ( Tv 25, 6-7 ).
Ngựa non háu đá, người trẻ háo thắng, đó là chuyện thường tình. Thiên Chúa không chấp chúng ta, nếu Ngài chấp tội thì chẳng ai được cứu rỗi ( Tv 130, 3 ), nhưng Ngài muốn chúng ta ăn năn thật lòng, vì Ngài là Thiên Chúa của tình yêu, Thiên Chúa của lòng thương xót: “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” ( Tv 25, 8-9 ).
Ăn năn sám hối luôn là việc cấp bách, hành động cần thiết hàng ngày, không chỉ cần thiết trong Mùa Vọng, Mùa Chay, dịp tĩnh tâm,... Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” ( 1Cr 7, 29-31 ). Thời gian là của Chúa, dù trẻ hay già thì cũng chẳng ai biết cuộc đời mình còn bao lâu. Có người còn trẻ và đang khỏe mạnh bình thường, thế mà bất ngờ nghe tin người đó từ trần. Vui mà buồn, buồn mà vui. Làn ranh rất mong manh, khó phân định rạch ròi.
Thánh Phaolô khuyên chúng ta sống mà đừng “chia trí” hoặc “nặng lòng” với những gì ở thế gian này. Sống như vậy không có nghĩa là hờ hững, vô tâm, vô cảm, bất cần đời hoặc “dở hơi”, mà là ngoan ngoãn vâng phục Thánh Ý Chúa. Đó là cách sống của người khôn ngoan: Khôn ngoan để không còn bướng bỉnh, khôn ngoan để tỉnh thức, tỉnh thức mà chờ đợi Chúa đến – chính xác nhất là lúc Ngài đến với cuộc đời riêng mình, lúc “tận thế” của cuộc đời mình, tức là lúc mình chết.
Trình thuật Mc 1, 14-20 đề cập “ngày tận thế”, điều đó nhắc nhở mỗi chúng ta ĐỪNG BƯỚNG BỈNH, mà HÃY NGOAN NGOÃN. Trình thuật này cũng cho thấy sự ngoan ngoãn của hai cặp môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu mời gọi đi theo Ngài.
Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Ngài đã xác định: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ). Chắc chắn thời đại chúng ta đang sống là “thời kỳ cuối cùng”, chẳng bao giờ có chuyện “đầu thai” kiếp khác. Chỉ có hai kiếp: Kiếp này và kiếp sau. Kiếp sau là vĩnh hằng, nhưng có hai dạng: Hạnh phúc đời đời hoặc khốn nạn đời đời. Tuyệt đối không có dạng “lửng lơ con cá vàng” đâu !
Khi Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Ngài thấy ông Simôn với người anh là ông Anrê đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Ngài bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Thánh Mátthêu nói rõ: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người”. Hai anh em ngư dân này không hề lưỡng lự, không tính toán chi. Đi là đi ngay, dù đang phải lo kế sinh nhai. Động thái đó chứng tỏ họ ngoan ngoãn chứ không bướng bỉnh như ông Giôna xưa.
Một lúc sau, khi đi xa hơn một chút, Ngài thấy hai anh em khác: Giacôbê và Gioan, cả hai là con ông Dêbêđê. Hai anh em này cũng là dân chài lưới, lúc đó Chúa Giêsu thấy họ đang vá lưới ở trong thuyền. Ngài liền gọi họ. Và dù đang bận việc, họ bỏ cha mình ở lại trên thuyền với những người làm công, rồi đi theo Ngài. Hai anh em này cũng rất dứt khoát, sẵn sàng đi ngay.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết dứt khoát với mọi thứ, nhất là đối với tội lỗi, không nặng lòng với bất cứ thứ gì, nhờ đó mà chúng con mới khả dĩ ngoan ngoãn sống đúng theo Thánh Ý Ngài mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
-------------------
( * ) Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của ( xuất bản tại Sàigòn, 1895-1896 ) chữ “ngoan” được sắp vào loại chữ Nho ( để phân biệt với những từ thuộc loại chữ Nôm ) và giải nghĩa là “cứng cỏi, ngu si, khôn khéo”. Chữ “ngoan” có nhiều nghĩa: Ngoan ma là chai sần ( nói về da thịt ); ngoan ngạnh là cứng cỏi, chống báng; ngoan dân là dân khó trị; ngoan nhiên là tự nhiên như một cái cây, một cục đá, không trau dồi; ngoan ngùy là khôn ngoan, nhơn lành; ngoan đạo là giữ đạo tốt, đạo đức. Trong sách Giúp Đọc Nôm và Hán-Việt ( NXB Đà Nẵng và Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm, 2004 ), Lm Antôn Trần Văn Kiệm phân biệt hai hình thức và ý nghĩa của chữ “ngoan”, ghép thành bởi chữ “nguyên” ( đầu tiên, ban đầu, nguồn gốc ) và bộ “kiến” ( thấy, cái nhìn, quan điểm, bản sắc ).
Trong chữ Nho, ngoan là ngu: Ngoan độn là không biết gì; ngoan thạnh là vô tri, vô giác; ngoan cố là khó bảo, cố giữ lập trường của mình dù biết là sai; ngoan địch là kẻ địch khó trị; ngoan bì hoặc ngoan đồng là hay phá nghịch. Trong chữ Nôm, ngoan chỉ có nghĩa là dễ bảo ( ngoan đạo, ngoan ngoãn ). Trường hợp chữ ngoan trong hai nghĩa mâu thuẫn nhau: [1] Ngoan trong chữ Nho là bướng bỉnh, khó bảo, cứng đầu, ngu ngốc, tinh quái; [2] Ngoan trong chữ Nôm là thông minh, khôn ngoan, dễ dạy. Những từ ngữ kiêm dụng được cả hai nghĩa này là ngoan cố ( khó bảo, cố chấp ) và ngoan cường ( mạnh mẽ tự vệ, đề kháng mọi sự chi phối, đàn áp ).
Trong cách nhìn của kẻ chinh phục, kẻ ngoan cố giữ bản tính, bản chất, bản sắc của mình là ngu ngốc, khó bảo, không vâng lời. Trong cái nhìn của kẻ tự vệ, không muốn bị đồng hoá, ngoan cường mới là khôn ngoan, có giá trị, phải phát huy để sống còn mà không bị tha hoá, biến chất.
Một trong những ưu tư của Chúa Giêsu trong quãng đời công khai, đó là kêu gọi, tuyển chọn và TN3-B82 Luong
Một trong những ưu tư của Chúa Giêsu trong quãng đời công khai, đó là kêu gọi, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ. Chính vì thế, trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sinh hoạt trong một ngày của Chúa Giêsu và nhóm Mười Hai.
Chúa Giêsu có thói quen thức dậy rất sớm. Ngài thường chọn một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Sau đó, có khi Ngài căn dặn các ông và sai các ông đi thực tập truyền giáo. Có khi Ngài cùng đi với các ông, vừa đi vừa đàm đạo thân mật, nhất là Ngài thường cắt nghĩa cho các ông hiểu rõ những điều Ngài đã giảng dạy, bằng những hình ảnh và ngôn ngữ đơn sơ.
Khi nghe biết Chúa Giêsu tới một làng hay một thành nào đó, người ta thường đem tới cho Ngài đủ mọi thứ bệnh nhân để xin Ngài cứu chữa. Và Ngài đã dành nhiều thời giờ để xoa dịu những đớn đau của họ.
Ngoài ra, Ngài còn tiếp xúc với bọn biệt phái, với những người mẹ và con cái của họ, cũng như với những kẻ tội lỗi và đau khổ. Ngài tiếp nhận hết mọi người và giảng giải cho họ biết về Tin Mừng Ngài loan báo. Chúa Giêsu và các môn đệ thường dùng bữa với nhau. Tuy nhiên, cũng có những ngày quá bận rộn, không có cả thời giờ để ăn uống. Khi chiều xuống, Chúa Giêsu thường đề nghị các môn đệ rút vào một nơi thanh vắng để cầu nguyện và nghỉ ngơi với Ngài.
Một trong những đặc tính nổi bật của nhóm Mười Hai này là tình yêu thương. Chính tình yêu thương này đã nối kết các ông lại với nhau, cũng như đã nối kết các ông lại với Chúa Giêsu.
Thực vậy, chính Chúa Giêsu đã yêu thương các ông. Đi tới đâu, Ngài cũng mang các ông theo. Ngài muốn các ông cùng chia sẻ những vui buồn, những thành công và thất bại với Ngài. Ngài lo lắng đến sức khỏe thể xác cho các ông. Ngài dẫn các ông tới những nơi hoang vắng để nghỉ ngơi. Ngài chuẩn bị để các ông không phải thiếu thốn. Và vào buổi sáng sau ngày Phục sinh, chính Ngài đã dọn bữa cho các ông trên bờ biển.
Đồng thời, các tông đồ cũng đã dành cho Ngài những hành động yêu thương và chăm sóc. Thực vậy, khi Ngài nói chuyện với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp, thì các ông vào làng mua thức ăn và mời Ngài dùng bữa. Sau những lần đi thực tập truyền giáo, các ông vui mừng trở về gặp Chúa và kể lại cho Ngài nghe biết những thành quả đã thu lượm được. Các ông đau buồn khi nghe Chúa tiên báo về cái chết của Ngài. Nhìn thấy các ông, có lẽ người ta phải thốt lên: Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào.
Noi gương Chúa Giêsu và các tông đồ, chúng ta cũng hãy gieo rắc tinh yêu thương cho những người đang sống chung quanh chúng ta, bắt đầu từ gia đình, rồi đến bà con lối xóm. Bởi vì sứ mạng của chúng ta là giúp mọi người biết cảm thông, chia sẻ và yêu thương. Muốn được như vậy, bản thân và cuộc đời chúng ta phải trở nên một lời mời gọi mọi người đến cùng tình yêu, hay nói cách khác là đến cùng Thiên Chúa, vi Thiên Chúa là Tình yêu.
Tác giả Thánh Vịnh 39 thỏ thẻ với Chúa những lời nguyện sau đây: "Lạy CHÚA, xin dạy cho con TN3-B83
Tác giả Thánh Vịnh 39 thỏ thẻ với Chúa những lời nguyện sau đây:
"Lạy CHÚA, xin dạy cho con biết:
đời sống con chung cuộc thế nào,
ngày tháng con đếm được mấy mươi,
để hiểu rằng kiếp phù du là thế.
Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho một vài gang tấc,
kiếp sống này, Chúa kể bằng không.
Đứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở,
thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.
Công vất vả ngược xuôi: làn gió thoảng,
ky cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng dùng." (Tv 39, 5-7)
Mới nghe qua ta thấy Thánh Vịnh này sao đượm một chất buồn: đời của con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu mà thôi! Buồn có buồn thật nhưng đó chính là thực tế, là sự bi đát, là sự mong manh của phận người. Đã sinh ra, đã cất tiếng khóc chào đời thì ắt hẳn đến một ngày nào đó cũng phải ra đi để về với Cội Nguồn.
Bài hát Khúc Thuỵ Du cũng nhắc nhớ ta về phận con người:
Hãy nói về cuộc đời
Khi tôi không còn nữa
Sẽ lấy được những gì
Về bên kia thế giới
Ngoài trống vắng mà thôi!
Có nghịch lý chăng khi cuộc đời đang phơi phới dệt không biết bao nhiêu là mộng vàng lại đi nói đến cái chết, nói đến cái thời cùng tận. Thoạt tiên xem ra thì nghịch lý nhưng nhìn vào thực tế của cuộc đời chẳng nghịch lý chút nào cả. Không nghịch lý vì lẽ đó là định luật tự nhiên của con người. Có sinh ắt có tử chứ có ai sống mãi trên cuộc đời này chăng?
Có nhiều người thắc mắc hỏi rằng tại sao con người sống chỉ có thế thôi, nghĩa là họ muốn kéo dài thêm tuổi thọ. Cũng tốt thôi, chẳng ai không mong mình sống thọ cả nhưng nhìn vào thực tế tuổi hưu là 60 hay 65 gì đó tuỳ người là nam hay nữ. Chúng ta thấy đó, ở cái tuổi 70, 80 có làm gì được nữa hay chăng? Khi nói về vấn đề tuổi thọ, người ta lại đặt vấn đề về chuyện người già nhiều quá bỗng nhiên trở nên gánh nặng cho xã hội!?!?!
Kết cục con người rồi cũng phải chết nhưng quan trọng chết cách nào và biết khi nào mình chết.
Chẳng ai có thể biết được mình chết cả. Nếu biết trước thì đâu có gì để mà nói vì lẽ mạng sống con người tuỳ thuộc vào Thiên Chúa.
Với con mắt của người đời, đau khổ khi con người vướng vào bệnh ung thư, bệnh nan y nhưng thật sự ra những ngày nằm trên giường bệnh cũng là thời gian, cũng là cơ hội để con người nhìn lại những lầm lỗi, những yếu đuối của mình để ăn năn sám hối. Cứ tưởng những người đó là sấu số hay kém số nhưng những người đó có cơ may để nhìn lại chính mình, nhìn lại cuộc đời của mình.
Dân thành Ninivê thời ngôn sứ Giôna với cái nhìn của người đời thì thật kinh khủng vì được báo trước cái chết 40 ngày nhưng thật sự 40 ngày đó với Ninivê quả thật là có ý nghĩa. Thiên Chúa nói rằng nếu trong 40 ngày đó chịu sám hối thì dân thành Ninivê sẽ không giáng hoạ bởi Thiên Chúa nữa. Hạnh phúc thay khi được báo trước cái chết để chuẩn bị tâm hồn.
Lời nhắn nhủ của thánh Phaolô trong thư thứ nhất của Ngài gửi tín hữu Côrintô cũng chính là lời mà Ngài nhắc nhở mỗi người chúng ta: "Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi". (1 Cr 7, 29-31).
Đúng như vậy thì thời gian đối với mỗi người chúng ta cũng đang qua đi. Mỗi một lần mừng sinh nhật hay mừng năm mới gọi là mừng nhưng với tôi thì "buồn". "Buồn" vì lẽ qua một năm, thêm một tuổi cũng chính là thời gian mà mình phải về trình diện trước mặt Thiên Chúa nó gần hơn một chút. Thi thoảng nhìn lại tuổi của mấy đứa cháu ở nhà tôi lại thấy giật mình vì mình quá "già". Mới ngày nào đó mà đứa cháu mà mình từng ẵm, từng tung cho cháu đụng cái trần nhà thì nay chúng nặng gần bằng số ký của mình. Thời gian cứ qua đi và nó chẳng chờ đợi một ai cả. Một ngày qua đi là một ngày mà mình gần Chúa hơn, một ngày mà mình phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa mọi hành vi của mình.
Thánh Phaolô thật tâm lý khi khuyên chúng ta: những người có vợ sống như không có, khóc làm như không khóc, vui làm như không vui, sắm như không sắm ... Ngài có ý mời gọi chúng ta hãy dùng những thực tại của trần gian này như là chuyện bình thường, chuyện quan trọng là chúng ta phải thanh thản trước mặt Thiên Chúa với tất cả những gì bám víu của chúng ta trong trần gian này. Ngài không bảo người có vợ phải bỏ vợ, người vui phải khóc, người có của cải trần gian phải bỏ đi hết nhưng ngài bảo mỗi người chúng ta hãy thanh thản trước những gì gọi là của chúng ta, thuộc về chúng ta. Cũng đúng thôi, dẫu là vợ nhưng khi chết chúng ta có mang theo được chăng? Dẫu là cái nhà lầu 5 tầng ở mặt tiền đàng hoàng nhưng khi nhắm mắt xuôi tay mang theo được gì? Dẫu là chiếc xe con đời mới cáu cạnh mới sắm trong thùng đấy nhưng mà có mang theo được về bên kia thế giới hay không mới là chuyện quan trọng.
Thật sự, tất cả danh vọng, quyền cao chức trọng đều mong manh và mau qua chóng tàn khi ta nhắm mắt lìa đời.
Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở cho chúng ta tất cả mọi chuyện đều mau qua chóng tàn. Ngôn sứ Isaia nói thế, thánh Phaolô nói thế và Chúa Giêsu cũng nói như vậy trong cái ngày khởi đầu việc rao giảng Tin mừng của Ngài. Mở đầu cho lời rao giảng là lời mời gọi sám hối phải chăng là lời đùa cợt hay hù doạ? Chẳng đùa cợt mà cũng chẳng hù doạ vì đó là sự thật.
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy sám hối và tin vào Tin mừng vì Nước Trời đã đến gần. Nước Trời thật sự đã đến, đang đến rồi. Nước Trời cũng sẽ đến với từng người một trên chúng ta. Chúa Giêsu hơn một lần nói với các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta: "anh em hãy đứng vững trước mặt Con Người!".
Làm sao để đứng vững trước mặt Con Người như Chúa nói? Để có thể đứng vững trước mặt Con Người phải chăng như là lời Thánh Phaolô mời gọi chúng ta là chúng ta hãy nhìn vào sự thật là bộ mặt thế gian này sẽ qua đi, chỉ có mình Chúa mới là cùng đích, là căn cốt của cuộc đời chúng ta.
Chuyện quan trọng không phải là chuyện sống được bao nhiêu năm trong cuộc đời này nhưng chuyện quan trọng là sống bao nhiêu năm ấy như thế nào.
Chuyện quan trọng không phải là làm được bao nhiêu việc lành phúc đức nhưng là sống tình yêu với Chúa và với anh chị em đồng loại như thế nào. Không phải căn cốt là làm phúc làm đức nhưng phải sống cái phúc cái đức ấy trong đời thường.
Chuyện quan trọng không phải là được ngụ trong căn nhà cao cửa rộng ở cuộc đời tạm bợ mau qua chóng tàn này nhưng quan trọng là làm sao có một túp lều be bé con con trong mảnh đất Thiên Đàng.
Chuyện quan trọng không phải là thành công trong cuộc đời này nhưng chuyện quan trọng là được cứu độ hay hư mất mà thôi.
Muốn được hưởng ơn cứu độ, muốn được bình an thật trong tâm hồn không còn cách nào khác là ta phải bám vào Chúa chứ đừng bám vào của cải trần gian mau qua chóng tàn này. Chúng ta đã có thừa kinh nghiệm để nhìn vào những đấng những bậc xung quanh chúng ta. Tất cả những đấng những bậc anh hùng nay đâu rồi? Tất cả những người quyền quý cao sang nay còn đâu khi phải đón nhận cái chết đang rình rập mình.
Nhớ lại một câu chuyện đơn sơ của một vị thiền sư bên Trung Quốc. Trên bàn làm việc của ông lúc nào cũng có chiếc quan tài con. Mọi người vào thấy là lạ và thắc mắc tại sao có chiếc quan tài ấy. Thiền sư nói rằng sở dĩ tôi để như thế để tất cả mọi việc trước khi tôi quyết định tôi đều nhìn đến chiếc quan tài này. Một ngày nào đó tôi sẽ vào đó và nằm trong đó để rồi tất cả các quyết định của tôi đều dựa vào cùng đích của cuộc đời tôi.
Tư tưởng, hành động đơn sơ của vị thiền sư ấy thật dễ thương vì lẽ hành vi, tư tưởng ấy cũng như muốn nói với mỗi người chúng ta về sứ điệp của Chúa Giêsu ngày hôm nay là phải sám hối vì Nước Trời đã gần bên. Lời mời gọi của Chúa vẫn văng vẳng bên tai chúng ta nhưng đôi khi mãi mê với những thế sự thăng trầm để rồi chúng ta không còn nhớ đến cùng đích của cuộc đời chúng ta nữa.
Nguyện xin Chúa đến và ở lại với chúng ta và xin Chúa giúp cũng như nhắc nhở chúng ta về ngày cùng tận của chúng ta ở gần bên để chúng ta cũng sám hối như dân thành Ninivê xưa sám hối trước lời cảnh báo của ngôn sứ Giôna vậy.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Đức Tổng Giám Mục Helder Camara của Braxin, có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: Tôi có TN3-B84
Đức Tổng Giám Mục Helder Camara của Braxin, có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng bỏ... đạo.
Sau khi tôi thụ phong Linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi:
- Hôm nay chú nói về đề tài gì?
Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận.
Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói.
- Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào Đức tin của chú để Rước lễ không?
Tôi trả lời:
- Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh.
Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động:
- Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội.
Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi Rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt.
- Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào Đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi!
***
Sống và chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người tín hữu Kitô. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bước vào đời công khai rao giảng:
“Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các người trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc 1,17).
Muốn thu hút tha nhân thì chính mình phải có năng lực hấp dẫn.
Muốn hòa hợp với anh em thì chính mình phải biết chấp nhận mọi người.
Muốn chia sẻ niềm tin thì chính mình phải có niềm tin kiên vững.
Sống và chia sẻ niềm tin, bao giờ cũng đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả thế nào, nhiều hay ít, vào lúc nào còn do Chúa quyết định Khi Đức Giêsu bảo Phêrô thả lưới, ông đã thưa: “Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5,5). Kết quả thế nào chúng ta đã biết: cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá bội thu.
Sống và chia sẻ niềm tin, là nhiệm vụ của mỗi người tín hữu Kitô. Nhưng trước tiên phải bắt đầu bằng việc đổi mới tâm hồn, bằng việc “sám hối và tin vào Tin mừng”.
Sống và chia sẻ niềm tin, là đem tin vui đến cho mọi người. Nhưng trước hết tin vui ấy phải là niềm hân hoan đích thực, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đi loan báo.
Romano Guardini đã ví von: “Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Đức Kitô tự biểu lộ và lớn lên trong cuộc sống chúng ta”.
Lạy Chúa, theo Chúa không phải dễ dàng vì Chúa đòi chúng con phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi, và từ bỏ chính mình. Nhưng có Chúa cùng đồng hành chúng con vẫn sáng mãi niềm tin. Xin giúp chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.
Chúa Giêsu luôn kêu gọi những người cộng tác với Ngài trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài TN3-B85
Chúa Giêsu luôn kêu gọi những người cộng tác với Ngài trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài muốn Nước Trời là một công trình có sự đóng góp của nhiều người. Vì thế, Lời kêu gọi "Hãy theo Ta" đang vang lên đối với mỗi người chúng ta.
Khởi đầu Tin Mừng, thánh sử Maccô trình bày Chúa Giêsu đến miền Galilêa rao giảng Tin mừng. Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem cho cuộc khởi đầu trong công cuộc rao giảng của mình. Bởi vì, Giêrusalem giết Gioan Tẩy Giả. Các luật sĩ Biệt phái ở Giêrusalem thì kiêu căng, cố chấp. Họ tự phụ mình là dòng dõi được tuyển chọn. Hơn nữa, Giêrusalem coi thường vùng đất Galilêa vì Galilêa là một miền gần lương dân, một vùng quê nghèo, không có chút tiếng tăm gì cả. Việc Chúa Giêsu chọn Galiêa để khởi đầu cho công cuộc rao giảng Tin mừng cho thấy Thiên Chúa không chú trọng bề ngoài, Ngài quan tâm đến sự đáp trả của con người. Sự đáp trả đến từ bên trong, từ nội tâm, từ tấm lòng chân thành và khiêm tốn của con người. Ngoài ra, Chúa Giêsu chọn Galiêa, điều này càng cho thấy giáo lý của Ngài không bị đóng khung, vạch ra cho Giáo Hội ra đi những chân trời mới. Nước Trời dành cho mọi người, Nước Trời dành cho những ai chân thành tìm kiếm và cộng tác đáp trả trọn vẹn.Tình yêu Thiên Chúa không bị giới hạn.
Để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu kêu gọi người ta cộng tác với Ngài. Ngài đã kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan bước theo Ngài. Chúa Giêsu lên tiếng kêu gọi các ông: "Hãy theo Ta". Trong sự đáp trả của các ngư phủ này, chúng ta thấy hai khía cạnh nổi bật: các ngư phủ này đang làm việc và họ đáp trả một cách dứt khoát, đáp trả mau mắn đi theo Chúa Giêsu.
Thứ nhất, các ngư phủ là những người đang miệt mài làm việc. Chúa Giêsu đến nơi họ đang sinh sống. Ngài đã đi ngang qua chỗ họ đang ở. Ngài thấy họ đang chú tâm trong bổn phận mình. Ngài biết họ là ai. Cả bốn ông này, họ là những người chài lưới. Họ là những người lao động chân tay. Họ đang làm việc miệt mài trên biển hồ Galilê: Simon và Anrê thả lưới bắt cá, Giacôbê và Gioan đang vá lưới. Họ cùng làm việc với nhau, chung tay góp sức trong công việc "mưu sinh", sẵn sàng hiệp nhất để đối đầu với nghịch cảnh, vượt qua những khó khăn trong công việc. Đối với mình, họ có thể nghèo của cải vật chất, họ có thể nghèo tri thức nhưng nhất định là họ là những người giàu có về tình huynh đệ, giàu về tinh thần hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ nhau trong công việc bổn phận. Do vậy, các ông sống bình an và luôn chu toàn bổn phận của mình.
Thứ hai, các ngư phủ là những người đáp trả một cách dứt khoát và mau mắn. Chúa Giêsu đã đi qua cuộc đời của họ. Ngài đã mang đến cho họ một sứ điệp mới, một sứ mạng mới: "Hãy theo Ta". Nghe Lời đó, họ lập tức đi theo Chúa Giêsu. Nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi, Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống cùng với những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên vốn có. Các ông đã gắn bó quê hương, quen thuộc với nghề ngư phủ từ thuở nhỏ đến bây giờ. Hơn nữa mặc dù nghề nghiệp ngư phủ này là "sự sống" của họ và nơi đây là "tương lai" của họ nhưng họ đã can đảm chấp nhận từ bỏ tất cả để bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quan trọng hơn hết nên các ông không tính toán thiệt hơn, không bận tâm cho số phận tương lai của mình mà từ bỏ ngay. Từ nay các ông bỏ lại quê hương để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình nhiều linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.Các ông đi theo Chúa Giêsu bằng niềm tin và lòng mến. Các ông tin tưởng tuyệt đối và yêu mến hết lòng mình.
Nghe Chúa Giêsu kêu gọi "Hãy theo Ta", các ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đã mau mắn đi theo Chúa Giêsu. Còn phần chúng ta, chúng ta có đáp trả không? chúng ta thật sự muốn đi theo Chúa Giêsu. Phải, nhờ Bí tích Rửa tội, là Kitô hữu, chúng ta đã được Chúa mời gọi đáp trả trong bổn phận làm người, bổn phận làm con Chúa của mình. Người Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Giáo hội dạy, giữ những điều răn Chúa và Giáo hội truyền, nhưng còn để cộng tác với Ngài bằng đời sống chứng nhân giữa đời, đó là loan báo Tin mừng. Vì thế, không phải chúng ta chỉ lo cứu linh hồn mình. Không phải chúng ta chỉ lo giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ nhiệt thành can đảm làm chứng nhân cho Chúa nữa. Dù ở bậc sống nào chúng ta cũng phải là những tông đồ của Chúa bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta có thể làm cho những người từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Chúng ta xây dựng nếp sống yêu thương bằng cách dùng lời nói nhằm xây dựng, tôn trọng tha nhân. Chúng ta xây dựng nếp sống yêu thương bằng cách sống biết quan tâm đến tha nhân, biết chia sẻ, biết giúp đỡ người khác bằng cách này hay cách khác trong khả năng của chúng ta. Chúng ta hãy sống ơn gọi của mình bằng cách sống tốt đẹp, thái độ cư xử cao thượng mang tính "quân tử". Chúng ta nêu gương sáng cho mọi người, sống hòa thuận yêu thương nhau.
Các môn đệ đã mở lòng mình ra để Chúa Giêsu bước vào, Ngài đi vào con người của họ để đi vào cuộc đời. Ngài đi qua họ để đi vào thế giới; đồng thời điều đó cũng cho chúng ta thấy rõ cái giá chúng ta phải trả nếu chúng ta muốn làm được điều này. Chúng ta phải hy sinh vì chúng ta biết rằng tình yêu của Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải sẵn sàng luôn mãi để đáp lại những đòi hỏi mỗi ngày mỗi mới mẽ và khó khăn hơn. Chúng ta phải từ bỏ mình để dấn thân, không còn gì riêng cho chúng ta nữa. Ơn gọi nào cũng có thánh giá phải vác, phải dấn thân, phải từ bỏ mình. Vì thế, chúng ta phải trọn niềm phó thác tiến bước giữa vùng đêm tăm tối và tin tưởng rằng tình yêu càng đòi hỏi, càng thêm chứng tỏ tình yêu bao la trong sáng và lớn mãi giữa niềm vui. Chúng ta hãy mạnh dạn bước thêm một bước vào chương trình diệu kỳ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế như thánh Augustinô đã nói: "Để tạo dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu độ con Ngài cần con ưng thuận và cộng tác với Ngài". Do đó, là người con chúng ta hãy mau mắn đáp trả và bền lòng làm việc cho Thiên Chúa.
Bước sang Năm Mới này, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ hôm nay, mau mắn và dứt khoát đi theo Chúa Giêsu. Chúng ta hãy bước đi trong sự yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người hơn nữa.
Hãy đứng dậy, nào chúng ta cùng đi theo Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài muốn chúng con đi theo Chúa để sống chứng nhân Tin Mừng. Trong Năm Mới này, xin Chúa thêm sức cho chúng con để chúng con mau mắn đáp trả lời gọi sống chứng nhân mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi phút giây. Xin cho chúng con luôn biết làm việc nhằm mục đích sáng danh Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa. Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa biết bao!. Amen.
Trong một khu vườn, những cây Hướng Dương hoa vàng rực rỡ đang vươn mình ra đón ánh nắng TN3-B86
Trong một khu vườn, những cây Hướng Dương hoa vàng rực rỡ đang vươn mình ra đón ánh nắng mặt trời, tận hưởng niềm vui cuộc sống. Chợt, Hướng Dương nghe tiếng thút thít dưới chân. À, hình như bạn Nha Đam đang khóc. Hướng Dương nhẹ nhàng hỏi:
- Hình như bạn có điều gì phiền muộn?Nha Đam bối rối đáp:- À, không có gì đâu.- Rõ ràng, tôi nghe tiếng bạn khóc mà. Có điều gì thế, bạn kể cho tôi nghe đi, mình là bạn bè, là hàng xóm của nhau, có gì thì cùng nhau chia sẻ.Nha Đam tấm tức:- Tôi buồn lắm bạn ạ. Trời không thương nên cho tôi sinh ra với thân hình xấu xí. Đã thấp lè tè, lá lại kỳ quặc chẳng giống ai. Bạn thấy đấy, trong vườn này, muôn hoa đua sắc, còn tôi có cố gắng mấy cũng không thể mọc được cái hoa nào!Hướng Dương nhẹ nhàng bảo:- Bạn Nha Đam à, bạn đừng buồn như thế. Mỗi loài cây đều có sứ mệnh riêng. Tuy bạn không đẹp rạng rỡ như chúng tôi để tô điểm hương sắc cho đời, nhưng bạn cũng rất có ích đấy.- Có ích à? Thôi bạn đừng an ủi, tôi mà có ích gì đâu.- Có đấy, bạn giúp được cho con người trị được rất nhiều thứ bệnh. Chẳng lẽ những điều đó không đáng để cho bạn tự hào sao?Nha Đam nghe vậy, ngập ngừng nói:- Nhưng tôi lại thấp bé, xấu xí, trong khu vườn này tôi đã bị chìm khuất, có ai biết đến tôi đâu.- Không sao đâu! Tuy bạn không nổi bật nhưng con người vẫn biết đến bạn đấy, giá trị của chúng ta không phải ở chỗ cao - thấp, đẹp - xấu mà ở chỗ chúng ta giúp ích gì cho cuộc đời này. Bạn hãy vui vẻ lên, sống khỏe mạnh, đừng tự ti, mặc cảm, rồi sẽ có ngày bạn được biết đến, hãy tin tôi!
Hóa ra ở đời người ta đâu quan trọng cái đẹp bên ngoài. Sống có ích cho đời mới là quan trọng. Sống có ích cũng là một sứ mạng của vạn vật. Sống chu toàn sứ mạng của mình càng làm cho giá trị của mình được tăng thêm.
Thực vậy, mỗi tạo vật đều được Chúa trao cho một sứ mạng. Từ con người cho đến vạn vật, mỗi loài đều có sứ mạng riêng.
Mặt trời có sứ mạng tỏa sáng và sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất. Cây lúa có sứ mạng nuôi sống con người. Muôn loài hoa có sứ mạng tô điểm cho vạn vật, và dường như mọi loại đều cố gắng thi hành tốt sứ mạng của mình. Ánh mặt trời luôn tỏ rạng để mang lại sự sống cho con người. Cây lúa luôn trổ bông trĩu hạt. Muôn loài hòa luôn xinh tươi lộng lẫy đem lại hạnh phúc cho con người.
Chúa Giêsu khi xuống thế làm người cũng phải hoàn thành tốt sứ mạng Chúa Cha trao phó. Ngài đến trần gian vì vâng phục Chúa Cha. Ngài thi hành sứ mạng cứu rỗi nhân gian qua cái chết khổ hình và sống lại vinh quang. Ngài đã được rước lên trời sau khi thi hành tốt sứ mạng rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giê-su kêu gọi các tông đồ cùng chia sẻ sứ mạng với Ngài. Những tông đồ đầu tiên là Simon, An-rê, Gia-cô-bê, Gioan đã nhanh chóng bỏ lại việc riêng để làm việc cho Chúa. Các ngài đã bước đi theo Chúa với niềm hăng say loan tin mừng Nước Trời đến cho anh em của mình. Các ngài vui vì được Chúa chọn gọi. Các ngài hạnh phúc vì được cộng tác với Chúa trong sứ mạng cứu độ trần gian. Điều đó đã giúp các ngài bỏ lại tất cả danh lợi thú trần gian để chỉ phụng sự cho chương trình của Thiên Chúa.
Con người chúng ta sinh ra đều có một sứ mạng. Cây cỏ còn có sứ mạng huống chi con người ? Mỗi loài đều có một giá trị hay nói cách khác là đều có một sứ mạng của mình. Vậy sứ mạng của tôi là gì ? Tôi phải làm gì cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội và xã hội ?
Điều mà Chúa muốn nơi những người tin theo Chúa là hãy rao giảng Tin mừng cho anh em. Hãy làm chứng về Nước Trời. Hãy tôn vinh Chúa và làm sáng danh Chúa trong cuộc đời của mình. Chúa muốn chúng ta là muối men cho đời. Chúa muốn chúng ta phải ướp mặn trần gian bằng đời sống yêu thương và phục vụ. Chúa muốn chúng ta phải thẩm thấu vào thế gian lời Chúa để men lời Chúa canh tân bộ mặt trái đất.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người ky-tô hữu luôn là muối ướp mặn cho đời bằng hy sinh, bằng phục vụ, bằng bác ái và vị tha.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người ky-tô hữu luôn là ánh sáng cho mọi người khi biết sống theo tin mừng, biết vì Chúa mà sống tốt sứ mạng của mình là canh tân bộ mặt trái đất.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chu toàn sứ mạng của đời ky-tô hữu là giới thiệu Chúa cho tha nhân. Giới thiệu không bằng lời nói mà bằng đời sống bác ái yêu thương và thờ phượng Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Thế giới loài người từ khi mắc tội Nguyên tổ cần phải hoán cải không ngừng. Thời Noe vì không TN3-B87
Thế giới loài người từ khi mắc tội Nguyên tổ cần phải hoán cải không ngừng. Thời Noe vì không biết hoán cải nên Chúa để lũ lụt quét sạch cả thế giớI, chỉ trừ gia đình Noe biết vâng nghe lời Chúa dạy nên đã được cứu thoát. Đến thời dân Do thái, Chúa đã sai nhiều tiên tri đến nhắc nhở họ sống theo lời Chúa dạy. Trong mọi thời đại, Thiên Chúa luôn kêu gọi loài người hoán cải để ngày một nên tốt hơn, xứng với ơn gọi làm con Chúa.
Trong bài đọc I, Chúa bảo tiên tri Giôna đến thành phố Ninivê ở phía bắc nước Do thái để kêu gọi dân chúng sám hối, sửa đổI lối sống, nếu không Chúa sẽ tiêu diệt. Sau khi Giôna rao giảng, họ đã sám hối và lo thay đổi cuộc sống.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô kể lại cuộc hoán cải của mình cho dân Do thái ở Giêrusalem nghe. Phaolô từng là người bắt đạo hăng hái nhưng sau khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho ông ở Damas, ông đã thay đổi hoàn toàn, trở nên Tông đồ nhiệt thành rao giảng Phúc âm, dám làm chứng cho Chúa bằng đờI sống và lời rao giảng của mình.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu rao giảng cho người ta sám hối ăn năn và tin vào lời Chúa. Và để công việc đó được tiếp tục thực hiện đầu tiên là Chúa đã chọn gọi 4 người làm tông đồ cho nước Chúa. Các ngài đã mau mắn bước theo Chúa và dần dần được biến đổI nên những tông đồ hết lòng vì nước trời.
Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta cũng đang được Chúa gọi làm môn đệ làm công việc tông đồ theo những cách thế khác nhau. Vậy chúng ta hãy bắt chước các tông đồ hôm nay bước theo Chúa, hoán cải chính mình để mai sau góp phần vào việc hoán cải tha nhân.
Thế giới hôm nay còn hơn 2/3 chưa biết Chúa Giêsu, Đấng giải thoát loài người khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết. Bổn phận của chúng ta là loan báo ơn cứu chuộc cho loài người để mọi người đều được hưởng ơn cứu độ như chúng ta. Thế giới không thể tự chữa lành mình nếu không có ơn Chúa, nếu thiếu hy vọng và hoán cải. Người ta chạy theo những thứ danh vọng chóng qua hoạc lo vui thú trần gian mà quên chỗ ở đời đời cần được chuẩn bị ngay trên trần gian này.
Là những người Kitô hữu, chúng ta biết rõ hơn ai hết rằng mình phải hoán cải luôn luôn theo những tiêu chuẩn Chúa đã dạy trong Tin mừng. Hàng ngày, chúng ta lo xét mình trước khi ngủ. Hàng tháng, chúng ta đi xưng tội để được Chúa tha thứ và để bắt đầu một đời sống mới tốt đẹp hơn. Từ đó, chúng ta trở nên những tấm gương sống động, biết hoán cải đổi mới và sống theo tám mối phúc thật, theo những lời nhắc nhở của các đấng bề trên.
Tin mừng không phải là câu chuyện xa xưa nhưng là những gì chúng ta đang cần áp dụng, thực hành trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Lời Chúa khác lời của những hiền triết đã quá cố vì Chúa Giêsu đang sống và đang giảng lại những lời của mình qua Hội thánh. Với tinh thần bác ái, chúng ta không chỉ sống và hoán cải mà còn phải biết giúp người chưa có đạo biết Tin mừng sự sống mà chúng ta đang thực hành để họ cũng được làm con cái Chúa và Hội thánh như chúng ta.
Nếu chúng ta nhận ra được rằng, chúng ta đang là những người có phúc nhất trên trần đời vì được làm con Chúa nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ phấn khởi loan Tin mừng cho bất cứ những ai chúng ta gặp gỡ vì đó là điều đem lại niềm vui và sự sống cho mình.
Lạy thánh Phaolô, xưa khi gặp Chúa, ngài đã hoán cải, có cuộc sống hoàn toàn mới, nay xin giúp chúng con cũng biết nhiệt thành với lý tưởng để mai sau được Chúa thưởng trên nước Thiên đàng.
Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta tiếp tục suy tư về mầu nhiệm ơn gọi. Trong ơn gọi của các TN3-B88
Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta tiếp tục suy tư về mầu nhiệm ơn gọi.
Trong ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đi bước trước. Ngài đi qua, nhìn thấy và kêu gọi. Marcô nói: “Ngài đi lên núi và gọi những kẻ người muốn lại gần…” (3,13). Ngài chọn những ai Ngài muốn và không hẳn là những người xứng đáng nhất, vì không ai có thể tự cho là xứng đáng cả. Sau này, Ngài sẽ nhắc lại cho họ: “Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng là Thầy đã chọn chúng con” (Gio. 15,16). Người kêu gọi họ tại chính nơi họ ở, chỗ họ làm việc: Bốn vị đầu tiên trong khoang thuyền, ngoài bãi biển, một vị khác ngay nơi bàn đổi bạc (2,14), và một vị khác đang đứng suy tư dưới bóng cây vả (Ga. 1,50)… Mỗi ơn gọi là một cử chỉ tình thương, Ngài đến với ta, đi tìm và tuyển chọn ta.
Và Người nói gì?
Một câu rất đơn sơ nhưng đầy ánh sáng: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người.” Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc chọn bạn đi chơi, một thời gian rồi tan hàng rã đám. Mà theo Ngài thì Ngài đòi hỏi rất nhiều. Đòi hỏi gì? Ngài đòi hỏi tất cả: phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi và từ bỏ cả mạng sống vì Ngài nữa!
Hỏi rằng, ngoài Chúa ra, có ai có thể đòi hỏi khắt khe như vậy? Có tình yêu nào ghen tị đến mức độ như vậy?
Văn hào Montalembert có một cô con gái dâng mình làm nữ tu. Ông viết: “Người tình ấy là ai, chết treo trên cây thập giá mà có thể lôi kéo như vậy? Người tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn không cưỡng lại được, như một con chim mồi sà xuống và cuốn đi? Phải chăng đó là một người? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành công và đòi hỏi một cuộc hy sinh như thế.”
Bà Thánh Jeanne-Francoise Chantal (1572-1641) là một bà mẹ đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dưỡng, giáo dục và tác thành cho bốn con, có nơi có chốn tự lập được. Bà nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến, giúp đỡ người nghèo. Nhưng ngày bà quyết định ra đi thì các con ngăn cản và nằm ngang chận cửa. Nước mắt tràn trụa, Bà nói: “Dầu sao tôi cũng là một Bà Mẹ”. Nhưng tình thương Chúa mạnh hơn tình mẫu tử, Bà bước qua con và đi Annecy, lập nên Dòng Thăm Viếng, tháng 6 năm 1610.
Họ ra đi theo tiếng gọi của Chúa, nhưng đối lại, Chúa hứa ban cho họ những gì? Thật lạ lùng! Ngài không hứa ban cho họ một cuộc sống dễ dãi đầy tiện nghi vì chính Ngài cũng “Không có một hòn đá gối đầu!” Ngài không hứa ban chức tước, đường hoạn lộ tiến thân, vì Ngài truyền dạy phải chọn chỗ tốt nhất, không được tự gọi là Thầy, là Cha mà chỉ là tôi tớ. Ngài không hứa ban cho một cuộc sống nhàn hạ, vì “ai đã ra tay cầm cày, thì không được ngó lui.” Vậy, Ngài hứa gì? Thưa: Một đời sống dấn thân phục vụ các linh hồn, một đời sống vất vả đi “chài lưới người”, bắt từng cá nhân, từng tập thể. Có những lúc thức trắng đêm mà không bắt được con cá nào, có những sáng tinh sương, chèo thuyền không về bế! “Thưa Thầy, chúng con mệt nhọc suốt đêm mà chẳng được gì?” Nhưng Chúa phán: “Hãy chèo ra khơi thả lưới”. Phêrô, đại diện các bạn trả lời: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc. 5,5). Nhất là một lời hứa quan trọng nhất mà Ngài để lại cho các môn đệ ngày giã biệt ra đi vào chốn vinh quang: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho con thì con muốn rằng con ở đâu chúng cũng ở đấy với con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con…” (Gio. 17,24). Cũng như lời hứa mà Đức Mẹ khi hiện ra ở Lộ Đức đã nói với Bernadetta, vị thụ khải của Mẹ: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc ở trần gian mà hạnh phúc trên trời.”
“Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường đi của Chúa,
Xin dạy bảo tôi về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn tôi trong chân lý và dạy bảo tôi,
Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ tôi”
(Tv. 24,4 – Đáp ca)
Mc 1, 16 – 20
Chuyện kể về một cậu bé luôn mặc cảm vì trên lưng cậu có hai vết thẹo rất rõ. Nó kéo dài từ bả vai TN3-B89
Chuyện kể về một cậu bé luôn mặc cảm vì trên lưng cậu có hai vết thẹo rất rõ. Nó kéo dài từ bả vai xuống đến eo với phần da nhăn nhúm. Vì thế, cậu luôn cảm thấy xấu hổ về bản thân mình.
Ngày ngày đi học, cậu rất sợ bị bạn bè phát hiện... và thời gian dài trôi qua, cái gì đến cũng phải đến... khi đó các bạn chọc cậu: "Eo ơi, gớm quá!" "A,...quái vật!" "Ôi, thật khủng khiếp!" Những lời vô tâm ấy đã làm đau lòng người bạn nhỏ của chúng ta. Cậu vừa khóc vừa chạy vào sau cánh cửa lớp, trốn tránh tất cả bạn bè. Từ đó, cậu bé bỏ học.
Sau sự việc này, mẹ cậu bé dịu dàng nắm tay cậu đến gặp cô giáo chủ nhiệm. Cô là một nữ giáo viên đôn hậu. Người mẹ kể rằng khi mới sinh, cậu con trai đã mắc bệnh nặng, gần như mất hết hy vọng nhưng gia đình không đành lòng bỏ rơi và quyết cứu cho được đứa con. Qua cuộc giải phẫu vô cùng khó khăn vất vả, cậu bé trai đã được cứu nhưng từ đó để lại hai vết thẹo lớn trên lưng. Nói đến đây, người mẹ run run bật khóc.
Ngày hôm sau, cậu bé xuất hiện ở một góc cuối lớp, các bạn nhỏ khác thấy thế, lại ngây thơ thốt lên những lời vô tâm: "Ôi, thật đáng sợ!" "Ghê quá, trên lưng cậu ấy có 2 con trùn to lắm." Ngay lúc ấy, cô giáo đi ngang, cô nghe hết những lời các bạn chọc cậu bé.
Cô giáo tiến gần đến cậu bé, đặt nhẹ tay lên bờ vai gầy nhỏ bé và mỉm cười nói: "Trước đây, cô đã định kể cho các con nghe một câu chuyện nhưng xem ra, cô phải kể ngay lúc này." Các bạn trẻ vây quanh lấy cô. Cô giáo nhẹ nhàng kéo chiếc áo của cậu bé lên làm lộ rõ hai vết thẹo lớn và nói với đám trẻ: "Đây là một truyền thuyết. Ngày xưa, các thiên thần trên trời đã bay xuống và biến thân thành các bạn nhỏ như chúng ta đây. Tất nhiên, có thiên thần nhanh nhẹn đã kịp tháo gỡ đôi cánh của mình, nhưng cũng có thiên thần hơi chậm, không kịp tháo hết đôi cánh của mình và để lại hai vết như thế này."
Một em bé hỏi: "Vậy đó là cánh của thiên thần hả cô?"
Cô giáo mỉm cười: "Đúng đó!"
Bỗng một bạn gái lên tiếng: "Thưa cô, chúng con có thể sờ chúng không?" Từ nãy đến giờ cậu bé vẫn cứ đứng ngẩn người ra, không nói được câu nào, và bây giờ thì cậu lại khóc. Nhưng cô giáo mỉm cười và diụ dàng nói: "Chúng ta phải xin phép vị thiên thần nhỏ của chúng ta trước chứ?" Lặng người đi một chút, cậu bé lấy lại bình tĩnh và đáp: "Vâng, được ạ!"
Các bạn nhỏ vây quanh lấy cậu, hết bạn này đến bạn khác đến sờ vào "đôi cánh" ấy. "Ôi, tuyệt thật, con đã sờ được cánh của thiên thần rồi!"
Năm tháng dần trôi, người bạn nhỏ của chúng ta đã lớn hơn nhiều, cậu vẫn thầm cảm ơn cô giáo đã đem lại cho cậu một niềm tin mới, một nghị lực mới. Cậu mạnh dạn tham gia giải bơi lội cấp thành phố, và cậu đã đoạt giải. Cậu thầm cám ơn cô giáo, và cậu luôn tin rằng vết thẹo trên lưng cậu chính là đôi cánh thiên thần mà cô giáo năm xưa dành tặng cho cậu với tất cả sự yêu thương.
Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy cô giáo đã đổi cách nhìn cho các học sinh của mình, và cô giáo cũng đã đổi đời cho cậu bé có vết thẹo trên lưng... Còn qua bài Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi các môn đệ và Chúa đã thay đổi cuộc đời cho các ông... và hôm nay chúng ta cũng vậy, Chúa cũng kêu gọi chúng ta, và Chúa muốn chúng ta cũng phải thay đổi cuộc đời để sống theo ý của Chúa... nhưng phải thay đổi thế nào đây khi lòng tôi còn dính bén với tiền bạc, với của cải, khi lòng tôi còn tỏ ra tự phụ không cần ai, khi tôi còn phải lo cho gia đình, lo cho chồng tôi, lo cho vợ tôi, lo cho con tôi, tôi còn phải lo củng cố nghề nghiệp, tôi còn phải lo cho tương lai, tôi không còn thời giờ... nói chung, tôi không muốn mất gì hết, tôi không muốn thay đổi, tôi chưa có sẳn sàng, hay nói đúng hơn, tôi chưa đủ tin tưởng vào Chúa. Bài Phúc âm hôm nay một lần nữa nhắc chúng ta luôn tin tưởng và phó thác cuộc sống mình cho Chúa, bởi vì chỉ có Chúa mới mang lại cho chúng ta hạnh phúc đời đời.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con luôn biết chọn Chúa, và quyết tâm theo Chúa cho đến cùng. Amen.
Khi mới nghe bài Tin Mừng nhiều người cứ nghĩ Lời Chúa hôm nay là chỉ dành cho những người đi tu TN3-B90
Khi mới nghe bài Tin Mừng nhiều người cứ nghĩ Lời Chúa hôm nay là chỉ dành cho những người đi tu dâng mình cho Chúa. Nhưng thực ra đây không phải là bài Tin Mừng dành riêng cho họ nhưng là cho tất cả mọi người Kitô hữu. Vì mỗi người là "Sống với và sống cho người khác". Chỉ xét về mặt con người với con người thì đó là những mối tương quan. Còn xét về mặt linh thiêng thì đó là một bổn phận, một trách nhiệm, một quyền lợi, mà mỗi người Kitô hữu cần phải có, phải làm và phải thực hiện.
Tin Mừng cho biết cả bốn môn đệ, bốn tông đồ đầu tiên ấy đều là những người chài lưới, và họ đang hành nghề trên biển hồ Galilê. Cho tới lúc đó, chưa bao giờ các ông đưa mắt nhìn xa quá tầm mắt quen thuộc với những công việc sinh nhai hằng ngày. Bây giờ Chúa Giêsu mời gọi các ông nhìn lên cao hơn và xa hơn. Ngài chỉ cho các ông thấy thế giới như biển cả mênh mông, phải vượt khắp đó đây để "tr? thành những kẻ lưới người như lưới cá" Sứ mệnh của các ông là đem các linh hồn về cho Chúa.
Nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ông đáp lại ngay, qua việc "Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người", sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống. Hơn thế nữa "các ông bỏ cha mình..." Cho chúng ta thấy rằng các ông còn từ bỏ cả những tình cảm tự, một sự chọn lựa dứt khoát. Từ nay các ông sẽ có một sứ mạng cao cả, với những bận tâm khác và những lo lắng khác. Các ông rời bỏ quê hương làng xóm, nơi chôn nhau cắt rốn, để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình các linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.
Ngày hôm nay, mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống. Lời kêu gọi "Hãy đi theo tôi" hôm qua vang lên tai các tông đồ thì hôm nay vẫn còn vang lên trong nhịp sống Giáo hội và gửi đến chúng ta hằng ngày. Vấn đề là chúng ta có quan tâm lắng nghe và đáp ứng không?
Mỗi người Kitô hữu qua Bí tích Rửa Tội đã được Thiên Chúa trao ban cho những nhiệm vụ đặc biệt là tiên tri tư tế và vương đế . Nhưng chúng ta đã thực hiện nhiệm vụ của mình như thế nào. Chỉ mới sống tốt cho bản thân, sống chỉ lo cho linh hồn mình chắc chắn là chưa đủ. Nếu chỉ sống như thế thì còn quá ích kỷ với mọi người. Cũng như các tông đồ xưa kia được kêu gọi không phải chỉ là để được "rỗi linh hồn", nhưng còn là để cộng tác với Chúa nhằm thánh hoá các linh hồn. Người Kitô hữu cũng vậy, được kêu gọi theo Chúa, không phải chỉ lo cứu linh hồn mình, nghĩa là không phải chỉ là người giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa. Dù ở bậc sống nào, dù không vào đoàn thể nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng phải là những tông đồ của Chúa. Làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được nếp sống của những người chung quanh. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho mọi người từ ghen ghét đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con biết sống tốt đẹp,biết nêu gương sáng cho mọi người vì đó là việc tông đồ sống động và là chứng nhân tuyệt vời nhất. Amen.
Hãy theo Ta". Đó là lời Đức Giêsu mời gọi những Tông Đồ đầu tiên bước theo Đức Giêsu. Các ông TN3-B91
"Hãy theo Ta". Đó là lời Đức Giêsu mời gọi những Tông Đồ đầu tiên bước theo Đức Giêsu. Các ông mau mắn bước đi theo tiếng gọi ấy. Chúng ta hãy nhìn xem thái độ của các ngài như thế nào? Các ông mau mắn đứng dậy, bỏ mọi sự để ra đi. Các ông đã bỏ mọi sự, bỏ cha mẹ, bỏ người thân. Kể cả bỏ những gì đã từng làm vướng bận tay chân các ngài bấy lâu nay: đó là chiếc lưới với những mớ dây chằn chịt đã từng trói chặt đôi chân các ngài, không cho các ngài đi đâu . Bỏ lại tài sản là chiếc thuyền chài với biết bao kỷ niệm gắn bó ở đó để lên đường theo tiếng gọi Giêsu.
Chỉ nghe tiếng gọi: " Hãy theo Ta", thế là tất cả giờ đây cả những điều thân thiết nhất, những điều từng gắn bó với các ngài đều trở nên vô dụng trước tiếng gọi của tình yêu cao cả ấy. Các ngài đã dứt khoát với những gì gần gũi với mình bấy lâu nay để bước đi mà không cần biết mình đi đâu, cũng không cần biết tương lai mình rồi nó sẽ như thế nào và cũng chẳng cần biết phải làm gì. Một cuộc đổi đời không có dự liệu...Các ngài chỉ cần biết nghe theo tiếng gọi và đáp trả là đủ. Cuộc đời các ngài đã trung thành với tiếng gọi. Các ngài đã làm tròn những gì mà tiếng gọi đòi hỏi, cho đến nỗi đã dám hy sinh cả mạng sống vì tiếng gọi.
Lời mời gọi đó vẫn còn vang lên mãnh liệt qua từng thời đại. Nhìn lại trong bối cảnh xã hội của chúng ta ngày hôm nay, tuy sống trong xã hội mang tiếng là "hưởng thụ", duy đòi hỏi nhu cầu nhưng hằng ngày hằng giờ nếu chúng ta chịu khó để ý chúng ta cũng sẽ thấy, sẽchứng kiến, sẽ biết có nhiều "tâm hồn" bước theo để đáp trả "tiếng gọi Tình yêu của Đức Giêsu" ấy. Họ dám từ bỏ những gì là cầnthiết và thân thiết nhất kể cả cha mẹ, người thân, nghề nghiệp, dự định tương lai...một cách dứt khoát mà không do dự. Tiếng gọi ấy bao phủ tất cả, nó lấn át tất cả. Khi đó họ không cần biết những gì sẽ chờ đợi mình, không cần biết tương lai sẽ ra sao. Họ chỉ cần biết, giờ đây họ hành động theo lệnh lệnh của con tim mách bảo và bước theo tiếng gọi của tình yêu. Như thế họ bắt đầu một cuộc đời mới mà không cần nghĩ suy điều gì cả. Và họ đã bước theo và trung thành cách tốt đẹp.
Còn đối với chúng ta, tiếng gọi tình yêu cao cả đó cũng đã vang đến bên tai mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng đã đáp lại từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người được mời gọi bước theo để sống và làm chứng cho Đức Giêsu, dứt khoát và bước đi theo tiếng gọi. Nhưng rồi từng giờ, từng ngày trôi qua và giờ đây mỗi người nhìn lại mình xem: Chúng ta đã sống theo tiếng gọi như thế nào? Mệnh lệnh con tim thuở ban đầu giờ đây chắc không còn đủ "lửa nhiệt huyết" lắm đối với sự đáp trả của chúng ta. Bởi vì thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn trở về cây - đa - cũ bến - đò xưa, để tìm lại những bạn bè năm xưa, trở về chốn Ai - Cập xưa để tìm "củ hành - củ tỏi" .
Đó là mỗi khi phạm tội, là chúng ta đã trở về với con người chưa được kêu gọi. Mặt khác, chúng ta cũng còn để cho những mớ chày lưới rối tung đó quấn chặt, bao vây những bước chân của mình để rồi không thể tiếng bước thêm được nữa. Cũng có những lúc chúng ta để cho những tình cảm riêng tư trong con người nỗi lên lấn át cả tiếng gọi linh thiêng của mối tình cao cả mà ngày nào mình đã can đảm bước theo. Nhưng giờ đây đôi lúc chúng ta sợ sệt: sợ không còn ai yêu thương mình, nếu sống theo tiếng gọi mà mình đã bước theo, sợ thiệt hại bản thân - mất lợi lộc vật chất nếu sống đúng với những gì tiếng gọi đòi hỏi, sợ mất đi một chút thời giờ quí báu để hưởng thụ cho thân xác nếu mình sống đúng với những gì sứ mệnh của tiếng gọi đòi hỏi. Nỗi lo sợ đó là những mớ dây chày lưới đã trói bược đôi chân, khiến chúng ta không thể bước đi thoải mái theo tiếng gọi và trung thành với những gì mà tình yêu cao cả đòi buộc chúng ta.
Chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm, điều này đã xúc phạm đến tình yêu bao la vô bờ bến mà Chúa đã thương dành cho chúng ta. Chúng ta hãy thật sự hối tiếc vì những lỗi lầm ấy và thật lòng ăn năn xin lỗi Chúa. Chúng ta hãy quyết tâm đáp trả chân thành và nhiệt tình, hết mình với tình yêu thương mà Chúa đã thương mời gọi chúng ta theo Chúa. Chúng ta hãy dấn thân hơn. Chúng ta hãy mau mắn đáp trả. Nếu tất cả mọi lời nói, mọi việc làm của chúng ta đều phát xuất bởi tình yêu của Chúa, nếu chúng ta biết hành xử với người khác bằng tất cả tình yêu thương mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nếu chúng ta biết sống như thế nào để người khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện nơi chúng ta thì như thế là chúng ta đã sống trọn vẹn và trung thành với tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa. Con người ai cũng có con tim để biết yêu thương và đáp trả. Xin Chúa cho chúng ta biết dùng con tim ấy để biết yêu và đáp trả lời mời gọi yêu thương của Chúa dành cho chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chọn Chúa và quyết tâm theo Chúa đến cùng.
Thông thường, để cho dễ nhớ tên của các Tông đồ ta thường nhớ kèm theo một trong những điểm nổi TN3-B92
Thông thường, để cho dễ nhớ tên của các Tông đồ ta thường nhớ kèm theo một trong những điểm nổi bật của các ngài. Chẳng hạn như nói đến vị Thánh sử viết Tin mừng mà trước kia làm nghề thu thuế thì ta sẽ nhớ ngay là Matthêu, nói đến vị Tông đồ cứng lòng tin thì không ai khác đó là Thánh Tôma hay nói đến Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến đó là Gioan.... Cũng vậy, khi nói đến Vị Tông đồ sinh sau đẻ muộn mà có lòng hăng say thì ta không thể nào quên chính là Thánh Phaolô mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Như chúng ta biết, trước khi trở lại Thánh Phaolô rất ghét những ai tin vào Chúa Giêsu. Ngài cho đó là tà đạo. Do đó, hễ nghe nói ở đâu có người tin vào danh Giêsu là ngài tìm cách đi bắt ngay. Có thể nói với những người tin vào danh Giêsu thì khngài thể đội trời chung với ngài được. Ngày kia trên đường đi Đamas để làm việc ấy thì bỗng có một luồng sáng chiếu quá khiến ngài ta té xuống ngựa. Kèm theo là có tiếng "Saolô, Saolô sao ngươi bắt bớ Ta". (Cv 9, 4)
Sau cuộc đối thoại với Chúa Giêsu thì ngài đã thay đổi 180 độ. Trước kia ngài hăng say đi bắt những người tin vào danh Giêsu bao nhiêu thì giờ đây ngài lại hăng say đi rao giảng danh ấy bấy nhiêu. Đến nỗi nhiều người thấy vậy đã từ ngạc nhiên đến hoài nghi và căm giận ngài. Những nơi nào đến được và những nơi nào cần thì ngài đều đến. Nào là Antiôkia, Côrintô, nào là Galata, nào là Êphêsô....Thậm chí khi bị bắt trong tù ngài cũng không bỏ việc rao giảng. Ngài đã viết rất nhiều bức thơ để an ủi những cộng đoàn ngài đã đi qua. Nếu chúng ta mở sách Tân ước ra thì phần lớn những thơ trong đó đều là của ngài.
Như thế, Thánh Phaolô thật là một con người hăng say. Chỉ vì trước kia ngài hăng say theo suy nghĩ của mình nên ngài đã phạm phải sai lầm. Nhưng từ khi ngài được Chúa Giêsu thu phục thì sự hăng say ấy hoàn toàn theo thánh ý Chúa. Ngài chỉ còn biết hăng say trong ck thôi. Ngài đã nói: "Tôi sống không phải là tôi sống nhưng là Đức Kitô sống trong tôi" "Đối với tôi sống là Đức Kitô" hay "Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô".
Qua sự hăng say trong Đức Kitô đó, chắc hẳn ngài đã sống lời mời gọi và lệnh truyền của Chúa Giêsu trong đoạn Tin mừng: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi thọ tạo" (Mc 16,15) một cách rất tuyệt hảo. Từ một con người hăng say đi bắt những ai tin vào Tin mừng trở nên một con người hăng say rao giảng Tin mừng.
Do đâu, Thánh Phaolô đã sống được như thế? Vì ngài đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình qua Chúa Giêsu quá sâu xa đậm đà. Chắc chắn mỗi người chúng ta cũng đều được Thiên Chúa yêu thương như vậy. Chỉ khác nhau mỗi người ở trong những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau. Ước gì mỗi người chúng ta mỗi ngày cảm nghiệm được nhiều hơn tình yêu Thiên Chúa dành cho mình. Để rồi chúng ta cũng biết noi gương Thánh Phaolô hăng say sống chứng nhân tin mừng mỗi ngày.
Để chuẩn bị chịu phép Thêm sức, các em thanh thiếu niên phải thiện nguyện tham gia những việc bác TN3-B93
Để chuẩn bị chịu phép Thêm sức, các em thanh thiếu niên phải thiện nguyện tham gia những việc bác ái như giúp đỡ những người già yếu, tham gia vào việc xã hội của cộng đoàn… Sau khi làm công tác, các em họp nhau lại để chia sẻ cảm nghiệm. Có một em đã kể câu chuyện giúp đỡ một bà cụ từ siêu thị Kmart về nhà như sau:
Sáng Chúa nhật em ra ngoài tiệm Kmart, gặp một bà cụ đang khệ nệ với hai túi xách tay nặng những hàng hóa mới mua. Bà cụ chỉ có một mình, vất vả với hai túi xách tay cồng kềnh, và cứ đi được ít bước phải dừng lại nghỉ ngơi, em liền đến xin giúp đỡ. Bà vui vẻ thuận lời ngay. Nhận thấy hai túi đồ hơi nặng, em hỏi bà: “Nhà bà có xa lắm không?” bà trả lời: “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!”
Lúc đầu em cảm thấy OK, sau một lúc em hơi mỏi tay. Hai bà cháu đã đi bộ qua được vài khu phố. Hai cánh tay em bắt đầu ê ẩm nhưng vì tự ái em không muốn nghỉ dọc đường. Tuy vậy, em cứ luôn miệng hỏi bà cụ xem đã về gần đến nhà chưa. Mỗi lần hỏi, bà đều trả lời: “Không xa lắm đâu, gần tới rồi!” Sau cùng bà quẹo vào một con đường nhỏ. Em mừng rỡ hỏi: “Phải khu phố này không?” “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!” Bà trả lời.
Bà và em lại bước đi thêm mấy khu phố nữa. Những bước chân chậm chạp, nặng nề và đầy nỗ lực. Các ngón tay của em đã đau và tê cóng lại. Sau cùng bà cụ dẫn em vào một cái building cho mướn, chừng 5 hay 6 lầu. “Bà ở lầu mấy?” Em hỏi bà cụ. Bà lại trả lời, “Không xa lắm đâu, mấy bước ấy mà!” Hai bà cháu lại lết thết bước lên từng lầu một. Tại mỗi lầu, em đều hỏi xem có phải bà ở lầu này không. Sau cùng thì lên đến lầu thứ 5. Em chia sẻ rằng em cảm thấy công việc bác ái từ thiện của em giống như một cuộc mạo hiểm leo lên núi! Cái khoảng cách bà cụ nói rằng “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!” đã làm em kiệt sức!
Tôi không thể tránh được sự nghi ngại rằng Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, có cái gì đó giống như bà cụ: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Và thánh Phaolô trong bài đọc II cũng đã kêu gọi giáo dân Côrintô rằng: “Thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có…” À há! Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã nói như thế cách đây đã hơn 2000 năm rồi, và bây giờ cũng vẫn chờ đợi mãi!
Có phải rằng thời gian của Chúa khác với thời gian tính của con người không? Trong thơ thứ hai của thánh Phêrô cũng đã cắt nghĩa rằng: “Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”. Tại sao Chúa Giêsu nói rằng thời giờ đã mãn mà vẫn cứ phải chờ đợi?
Vương Quốc Thiên Chúa giữ một vai trò quan trọng trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Thánh Maccô dùng từ “Vương Quốc Thiên Chúa”, nhưng thánh Matthêu lại dùng từ “Vương Quốc Trên Trời”, theo như ngôn ngữ của các thầy Rabbi Do Thái đương thời. Thực ra cả hai từ đều đồng nghĩa với nhau.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều dụ ngôn khác nhau để công bố và diễn tả Vương Quốc của Ngài. Nó sẽ tăng trưởng giống như hạt cải, hạt giống được gieo xuống đất, trở thành một cây to lớn, ở đó mọi chim trời sẽ đến làm tổ. Nó sẽ nâng thế giới lên như men trong bột, và có thể được coi như một thực tại vô hình, nhưng đang hiện diện. Nó ẩn hiện giống như lúa lẫn lộn với cỏ lùng trong một cánh đồng, hay ở chính giữa “đàn chiên nhỏ bé” đã lãnh nhận nó.
Vương Quốc có thể là Giáo Hội được xây dựng trên Phêrô. Đó cũng là ân sủng tuyệt hảo của Thiên Chúa ban do làng nhân lành của Ngài qua dụ ngôn thợ làm vườn nho, hoặc người ta phải sở đắc bằng tất cả những gì họ có, hay được ban cho ai có tâm hồn khó nghèo, có thái độ bé thơ, tích cực tìm kiếm sự công chính, chịu đựng những sự bách hại, chu toàn thánh ý Chúa Cha, và có tình yêu thương huynh đệ. Muốn vào được Vương Quốc không phải ai cũng có thể vào được, nhưng phải chu toàn những đòi hỏi, có kẻ bị đuổi ra ngoài vì không mặc áo cưới. Theo nguyên tắc phải hoán cải và tỉnh thức.
“Vương Quốc Thiên Chúa” là một từ với rất nhiều ý nghĩa. Một ảnh hưởng thấm nhập vào tâm khảm con người để con người trở nên một với Thiên Chúa. Đó là ân sủng và sự hiện diện của Thiên Chúa nơi các tâm hồn. Một nơi mà tình yêu Thiên Chúa cai trị trong trái tim của ta.
Trong những trang nhật ký của bà Elaine M. Prevallet trích từ “Occasional Journal” có đoạn như sau:
“Vương Quốc Thiên Chúa ở trong chúng ta, ở giữa chúng ta, ở trong sức mạnh của chúng ta, nó có sẵn đó cho chúng ta. Nó có thể bị lôi kéo ra khỏi chúng ta, và chúng ta có thể lấy nó ra khỏi những người khác… Chữ “Vương Quốc” chỉ về một tiến trình phát triển của tình yêu Thiên Chúa trong cuộc sống của con người”.
“Vương Quốc ở trong tôi khi tôi có an bình, khi tôi giữ phẩm giá của mình, khi tôi biết mình là quý giá trong ánh mắt Chúa, khi tôi sống thẳng thắn với nhân quyền, khi tôi biết đón nhận và dùng tài năng, khi tôi có thể cảm tạ Chúa vì đời mình.
Vương Quốc không ở trong tôi khi tôi sợ hãi, khi tôi đầy mặc cảm tội lỗi, khi tôi mất niềm tin, khi tôi bị khinh thường, khi tôi không biết kính trọng mình, khi tôi nghĩ mình là xấu.
Vương Quốc ở giữa chúng ta khi chúng ta cư xử với mọi người như anh chị em, khi chúng ta có thể tha thứ, khi chúng ta nhân ái với mọi người, khi chúng ta chân thành trong các liên hệ, khi chúng ta làm việc cho an hòa, khi chúng ta chỉ ước ao làm điều tốt.
Vương Quốc không ở giữa chúng ta khi chúng ta muốn khống chế người khác, khi chúng ta chất đầy những tư tưởng báo thù, khi chúng ta lạm dụng tình yêu và sự tin tưởng của người khác, khi chúng ta không thành thật trong các tương quan, khi có sự chia rẽ trong gia đình, khi chúng ta tạo ra đau khổ và ghen tương.
Vương Quốc ở xung quanh chúng ta khi chúng ta đoàn kết với nhau, khi chúng ta nhìn thẳng vào cuộc sống, khi chúng ta dấn thân, khi chúng ta phấn đấu trong kiên nhẫn và vui sướng, khi chúng ta mời người khác cùng xây dựng, khi chúng ta cảm tạ Chúa vì sự hiện diện của Ngài trong chúng ta, trong gia đình và cộng đoàn chúng ta.
Vương Quốc không ở xung quanh chúng ta khi chúng ta bị chia rẽ và phân tán, khi chúng ta mù quáng đối với những vấn đề phải giải quyết, khi chúng ta không muốn biết, khi chúng ta đầu hàng trong tuyệt vọng, khi chúng ta làm nản lòng người khác, khi chúng ta đổ thừa cho Chúa”.
Vương Quốc Thiên Chúa đã hiện diện đầy đủ và sung mãn nơi chúng ta, nhưng chúng ta không nhận ra là vì trong chúng ta và thế giới này còn đầy tội lỗi và bất công. Chúng ta chưa hoán cải và tỉnh thức như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Giờ đây trên Internet tôi nhận được một bản thống kê về sự chênh lệch và bất công trên thế giới. Nếu dân số thế giới được thu hẹp lại với cùng một tỷ lệ tương tự vào một ngôi làng nhỏ chỉ có 100 người, chúng ta sẽ thấy một hình ảnh như sau:
Có 57 người Á Châu, 21 người Âu Châu, 14 người từ cực Nam Bắc, 8 người Phi Châu.
30 người là da trắng; 70 người không phải da trắng.
30 người là Kitô hữu; 70 người không phải là Kitô hữu.
50/o của cải trên thế giới ở trong tay 6 người và 6 người này là công dân Hoa Kỳ.
70 người không biết đọc.
50 người thiếu ăn, bị suy dinh dưỡng.
80 người không nhà không cửa, hoặc nơi ở thiếu tiêu chuẩn.
Chỉ có một người tốt nghiệp đại học mà thôi!
Cải thiện đời sống, xóa bỏ bất công, tránh xa tội lỗi là những lời kêu gọi thúc dục cấp bách của Tin Mừng để giúp nhận ra sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa.
William Barclay đã giải thích lời Chúa Giêsu kêu gọi sám hối như sau: “Chữ sám hối theo từ ngữ Hy Lạp “metanoia” có nghĩa là một sự thay đổi của tâm trí. Chúng ta thường lẫn lộn hai điều: hối tiếc vì những hậu quả của tội lỗi và hối hận vì tội. Nhiều người rất ân hận vì sự rối loạn do tội lỗi gây ra cho họ, nhưng chính họ lại biết rõ ràng rằng, nếu có thể thoát khỏi những hậu quả của tội lỗi, họ cũng sẽ phạm lại y như vậy.
Sám hối thực sự có nghĩa là một người không chỉ ân hận vì những hậu quả của tội mình, nhưng phải tiến tới việc ghét bỏ chính tội lỗi nữa. Xưa kia, Montaigne, một nhà khôn ngoan đã viết trong cuốn tự thuật rằng, “Trẻ em nên được dạy dỗ phải ghét bỏ tật xấu vì chính sự cấu tạo của nó, các em sẽ không chỉ tránh né trong hành động, mà còn phải chê ghét nó trong tâm hồn tới nỗi chỉ một tư tưởng về nó thôi cũng đủ làm cho ghê tởm”. Sám hối có nghĩa là phải ghét tội vì chính sự tội tỗi của nó”.
Sách Giáo lý Công giáo khuyên chúng ta: “Nhưng trong cuộc lữ hành của mình, Giáo Hội đã kinh nghiệm về “quãng cách giữa sứ điệp mình phải công bố và sự yếu đuối của những con người được ủy thác Phúc âm này”. Vậy phải tiến bước trên con đường “của sám hối và của đổi mới…”
Vương Quốc Thiên Chúa chính là ân sủng của Thiên Chúa đã hiện diện ở giữa chúng ta để giúp chúng ta chiến đấu với tội lỗi. Bổn phận của chúng ta là hòa hợp hành động của mình với hành động của Thiên Chúa. Khi chúng ta hòa nhịp với thánh ý Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm nghiệm được Nước Thiên Chúa. Mỗi giây phút hiện hữu trên cuộc đời là một cơ hội cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài.
Chủ đề: "Chẳng những Chúa Giêsu tạo nguồn hứng khởi cho ta, mà Ngài còn làm hơn thế nữa. Ngài có thể ngự vào trong tâm hồn ta để giúp ta thực hiện tiềm năng sung mãn nhất của mình"
Tháng chín năm 1862 cuộc Nam Bắc phân tranh của Hoa Kỳ đã dứt khoát nghiêng thế thuận lợi về cho TN3-B94
Tháng chín năm 1862 cuộc Nam Bắc phân tranh của Hoa Kỳ đã dứt khoát nghiêng thế thuận lợi về cho quân đội phương Nam. Tinh thần quân đội phương Bắc rơi vào mức thấp nhất của cuộc chiến. Một số rất lớn các toán quân liên bang rút lui về Virginia. Các nhà lãnh đạo địa phương bắt đầu lo sợ điều tệ hại nhất sắp xảy ra. Họ không còn phương cách nào để đảo ngược tình thế và biến những toán quân bị đánh te tua, kiệt sức trở thành một đạo quân hữu dụng trở lại.
Chỉ có một vị tướng có thể làm nên được phép lạ này. Đó là tướng Mc.Clellan. Ông đã huấn luyện binh lính chiến đấu, họ yêu qúi và khâm phục ông. Thế nhưng bộ quốc phòng đã không thấy điều này; cả đến nội các chính phủ cũng chả nhận thấy ngoại trừ một mình Tổng Thống Lincoln. May mắn thay, Lincoln đã phớt lờ những lời phản đối của các cố vấn và đặt Mc.Clellan trở lại vị trí chỉ huy. Lincoln ra lệnh cho ông xuống Virginia để tặng cho các binh sĩ ấy điều mà không người nào khác trên mặt đất có thể trao cho họ, đó là: Nhiệt tình, sức mạnh và Hy vọng. Mc.Clellan chấp nhận nhiệm vụ chỉ huy. Ông leo lên con ô mã to lớn và phóng xuống những nẻo đường cát bụi ở vùng Virginia.
Quả là khó giải thích điều xảy ra tiếp sau đó. Các lãnh tụ phương Bắc chẳng thể giải thích được. Các binh lính phương Bắc cũng chẳng thể giải thích được. Ngay cả Mc.Clellan cũng chẳng thể giải thích được. Mc.Clellan gặp các lực lượng Liên Bang đang rút quân. Ông giơ nón lên cao vẫy chào và hô lên những khẩu hiệu cổ xuý lòng can đảm. Nhìn thấy chủ tướng quí yêu, đám lính mệt mỏi bắt đầu bình tâm lại: Họ bắt đầu cảm giác một cách kỳ lạ rằng kể từ bây giờ mọi sự sẽ đổi khác. Và giờ đây mọi sự đều có thể ổn định trở lại.
Bây giờ chúng ta hãy xem Bruce Catton một sử gia danh tiếng viết về cuộc nội chiến đã mô tả nỗi phấn khích ngày càng gia tăng khi có tin Mc.Clellan lại trở về vị trí chỉ huy như sau: “Từ dặm này đến dặm nọ suốt con đường vùng Virginia những toán quân đi đứng chuệnh choạng bắt đầu hồi sinh, họ ném mũ nón, túi vải lên không trung và hò hét cho đến khi khan cả cổ… bởi vì họ đã nhìn thấy vị anh hùng lanh lợi nhỏ con ấy đang cỡi ngựa xuất hiện dưới ánh sáng sao màu tím. Một cách nào đó, đây chính là bước ngoặt của cuộc chiến… không ai có thể cắt nghĩa được điều ấy cho đầy đủ…(Trích trong cuốn this Hallowed Ground: vùng đất Thánh này)
Nhưng dẫu sao, đó chính là điều mà Lincoln và phương Bắc đang cần và lịch sử đã mãi mãi thay đổi nhờ điều ấy.
***
Câu chuyện về tứơng Mc.Clellan cho thấy rõ rệt người lãnh đạo ảnh hưởng đến tinh thần người dưới quyền mãnh liệt như thế nào.
Trong một thiên khảo luận, Ralph Waldo Êmrson ghi lại hàng chữ đáng nhớ sau đây: “Điều cần thiết chính yếu trong cuộc sống chính là gặp được một ai đó có khả năng giúp ta làm những gì ta có thể làm”. Và ai làm được điều ấy sẽ là một lãnh tụ vĩ đại. Chúng ta không thể tự mình làm bừng dậy cái khả năng tiềm tàng vĩ đại ẩn dấu bên trong mọi người chúng ta.
Hầu hết mọi người chúng ta giống như cái chai Aladdin nhặt được trên bờ biển. Mỗi người chúng ta đều có vị thần vĩ đại đang cư ngụ trong mình. Nhưng ông ta không thể tự mình bước ra ngoài và chúng ta cũng chẳng thả ông ta ra được. Chúng ta cần một anh chàng Aladdin đi đến khui nắp chai và giải phóng vị thần khổng lồ ấy dùm chúng ta. Và đó cũng chính là những gì Emerson đã cưu mang trong tâm trí ông. Ngay sau khi nói câu; “Điều cần thiết chính yếu trong cuộc sống là gặp được một ai đó có khả năng giúp ta làm những gì ta có thể làm”. Ông liền thêm: “và đây chính là công việc của một người bạn”, còn tôi thì lại muốn thêm vào: “Đấy cũng là công việc của Đức Giêsu Kitô”
Không nơi nào trình bày cho chúng ta điều này rõ hơn trong Phúc Âm. Và cũng không câu chuyện Phúc Âm nào chỉ cho ta điều này rõ hơn bài đọc hôm nay. Nó giúp ta hiểu được điều Napoléon đã từng nói về năng lực của ông là có thể tạo ra một điều gì đó nơi tâm hồn các thuộc hạ của ông. Napoléon nói:
“Chỉ cần nhìn ánh sáng nơi mắt tôi, nghe âm giọng tôi và chỉ cần nghe một lời từ miệng tôi, thì lập tức ngọn lửa linh thiêng bừng cháy lên trong lòng họ thực sự, tôi đã nắm được bí quyết của một năng lực ma thuật có thể lay chuyển tâm hồn kẻ khác”. Quả thế, Napoléon đã chiếm hữu được quyền năng ấy, và chính ông ta chú thích thêm trong cùng một đoạn văn trên như sau: “Đức Kitô cũng có được quyền năng này nhưng ở một cấp độ vô cùng to lớn hơn’.
Nơi Chúa Giêsu, có gì khiến Ngài khác biệt với những lãnh tụ khác vậy? câu trả lời thật đơn giản.
Tất cả lãnh tụ khác chỉ có thể ảnh hưởng trên ta, gây cho ta niềm phấn khích, tuy nhiên ảnh hưởng họ gây ra trên ta chỉ thuần về mặt tâm lý. Còn ảnh hưởng Đức Giêsu gây ra trên ta không chỉ mang tính cách tâm lý và còn gồm cả tính mầu nhiệm nữa. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là các lãnh tụ khác có thể hâm nóng nhiệt tình của chúng ta, có thể khích động chúng ta, có thể khơi dậy niềm xúc cảm của ta, kích thích trí tưởng tượng của ta nhưng họ không thể ban cho ta tinh thần của họ được; họ không thể chia sẻ cho chúng ta năng lực và sức mạnh riêng của họ được; nếu có sự thay đổi xảy ra nơi những người theo họ, thì chắc hẳn sự thay đổi đó là do nơi nguồn lực và sự gắng sức của đám người theo họ ấy.
Trong trừơng hợp Đức Giêsu, tất cả mọi điều này thực khác hẳn. Đức Giêsu có thể đặt tinh thần Ngài trong chúng ta. Ngài có thể chia sẻ quyền năng riêng của Ngài với chúng ta. Ngài có thể bước vào trong tâm trí ta để gíup ta làm được điều mà tự sức riêng ta không thể nào làm được một mình. Chỉ cần ta mở rộng lòng trí cho Ngài thì Đức Kitô sẽ bứơc vào trong cuộc đời của ta và Ngài sẽ làm tất cả những gì tiếp theo sau đó.
Như thế chúng ta bước sang điểm cuối cùng và cũng là điểm trọng yếu nhất đối với chúng ta.
Chỉ cần điều duy nhất mà Chúa Giêsu không thể làm được cho chúng ta đó là Ngài không thể cởi mở tâm hồn chúng ta ra nếu chúng ta không muốn. Ngài có thể làm tất cả mọi điều khác ngoại trừ điều này, bởi vì chúng ta nắm giữ chìa khoá cửa ngõ tâm hồn chúng ta trong cuộc sống mình. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Phúc Âm hôm nay chỉ cho ta cách thức mở ngỏ lòng ra để Chúa Giêsu bước vào; đồng thời cũng cho chúng ta thấy rõ cái giá chúng ta phải trả nếu chúng ta muốn làm được điều này. Chúng ta phải thực hành những gì các tông đồ đã làm, chúng ta phải sẵn lòng chấp nhận cái giá các ngài đã phải trả, chúng ta phải sẵn lòng thiêu huỷ mọi chiếc cầu phía sau chúng ta để bước theo Chúa Giêsu bất cứ nơi nào Ngài muốn dẫn đi.
Nếu chúng ta quyết định làm điều các tông đồ đã làm, nếu chúng ta quyết định liều bỏ mọi sự vì Chúa Giêsu thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta những gì Ngài đã làm cho các vị ấy. Ngài sẽ biến chúng ta nên những thành viên chia sẻ công việc của Ngài, và ban cho đời sống chúng ta một ý nghĩa mới vượt quá mọi niềm ước mơ vĩ đại nhất của chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy dùng bài suy niệm thú vị của Edward Farrell trong tập sách của ông nhan đề; “Kinh ngạc bởi Thánh Linh” (Surprised by Spirit).
“Người đang đi dọc bờ biển lung linh sáng, Người là ai? người là ai – trông sáng ngời kinh khiếp – đang nhìn chúng tôi bằng đôi mắt mòn mỏi, đôi mắt như tìm kiếm chính linh hồn chúng tôi?
“Người là ai mà thấy được tư tưởng, đọc được tâm hồn sâu kín của chúng tôi bằng ánh mắt yêu thương, thông suốt, như muốn nói rằng: Ta chẳng muốn gì cả ngoài bản thân của bạn”
Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu đích thực khi họ là ánh sáng thế gian
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện sau. Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều TN3-B95
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện sau. Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận thù xã hội, ông đã không chấp nhận cho một nữ tu chăm sóc và nghĩ rằng chị nữ tu sẽ được hưởng một nụ cười mãn nguyện qua sự từ chối của anh.
Mẹ Têrêsa Calcutta nói:
«Ngày tôi đến thăm người đàn ông đã không bao giờ muốn rời khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay ra mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy rồi cùng dìu anh bước ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi có ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được. Ra khỏi căn nhà, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: «Tôi thấy!» Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời thì hôm nay thực sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức lực còn lại anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với tất cả mọi người như sau: «Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy!».
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu lại đánh động chúng ta thêm một lần nữa: «Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng ». Tin Mừng của Chúa Giêsu luôn mới mẻ, luôn là ánh sáng chỉ đường cho mỗi người chúng ta, nhưng nhiều khi trong cuộc đời chúng ta không cảm nghiệm được điều đó. Tin Mừng đã trở thành cũ kỹ, và chính chúng ta là những người phải loan báo Tin Mừng nhưng lòng chúng ta không còn nhạy cảm nữa, đôi khi nó đã ra chai đá! Nhiều lúc chúng ta giống như anh phong cùi kia, tự giam mình vào bóng tối, tự hãm mình vào bóng tối. Đôi khi vô tình hay hữu ý, chúng ta cũng xô đẩy những người khác vào trong bóng tối. Một cuộc sống không muốn làm chứng tá, một khước từ và tự khép cửa lòng chối từ ánh sáng của Thiên Chúa.
“Các con là ánh sáng thế gian”. Câu nói đó của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng trong các trang Phúc âm. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu đích thực khi họ là ánh sáng thế gian. Nhưng khi ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, thì ánh sáng ấy trở thành tăm tối và nó sẽ dần tắt ngút trong màn đêm. Chúng ta là những con người cần ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình Chúa và tình người. Ta cần có ánh sáng Lời Chúa soi sáng dẫn lối chỉ đường trong thế giới đầy lôi cuốn của cám dỗ. Vậy hãy nhận lấy ánh sáng của Lời chân lý ấy, hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Hãy để Lời chân lý đó thấm nhuần lòng trí ta, hãy để chính Đấng là sự đường, là sự thật và là sự sống đó hoạt động trong chúng ta. Từ đó, chúng ta sẽ trở thành những ngọn đèn đang thắp sáng chung quanh chúng ta: bằng một lời nói nâng đỡ an ủi, bằng một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành với những ai thất vọng tràn trề nơi cuộc sống, để giúp đó hồi phục vì những vết thương bất chính trong cuộc sống... đó chính là những việc làm của ánh sáng, đó chính là phương cách đón nhận Tin Mừng và trở thành chứng nhân Tin Mừng cho những người chung quanh đang chờ đợi chúng ta. Một hành động bác ái, một biểu lộ yêu thương dù nhỏ mọn đến đâu cũng là một tia sáng mang hy vọng đến cho những nơi tối tăm và cô đơn nơi những tâm hồn đau khổ.
Lậy Chúa, xin mở lòng trí con ra, để con biết tiếp nhận ánh sáng của Lời chân lý Ngài, vì con đang chìm ngập trong bóng tối nhỏ nhoi của ích kỷ, hận thù. Xin Chúa tha thứ cho con những lần vô tình hay hữu ý xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn hay tội lỗi. Xin cho con niềm vui vì được biết rằng mỗi lần con thực thi một cử chỉ nhỏ mọn cho người anh em, là mỗi lần con được lớn lên trong ánh sáng và trong tình yêu Chúa. Amen.
NGỌN ĐÈN TÂM HỒN CỦA TA CÓ ĐƯỢC CHÚA THẮP LÊN KHÔNG?
Anh chị em thân mến,
Lúc Mẹ Têrêsa Calcutta ở nước Úc, một hôm Mẹ đến thăm một người nghèo già không ai biết tới. Căn TN3-B96
Lúc Mẹ Têrêsa Calcutta ở nước Úc, một hôm Mẹ đến thăm một người nghèo già không ai biết tới. Căn phòng của ông dơ bẩn, đồ đạc ngổn ngang, lại không cửa sổ, không một bóng đèn. Mẹ bắt tay vào dọn dẹp, nhưng ông quát lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi!" Nhưng Mẹ vẫn tiếp tục. Khi mọi thứ vào ngăn nắp, Mẹ tim thấy một cây đèn dầu ở góc phòng đầy bụi. Mẹ hỏi: "Sao lâu rồi ông không thấp đèn lên?"- "Thắp làm chi? Có ai tới thăm tôi đâu!" - "Nếu sau này khi nữ tu của tôi tới thăm ông, ông hứa sẽ thắp đèn lên nhé!" Ông trả lời cởi mở hơn: "Vâng, tôi sẽ làm như vậy!" Sau đó mỗi ngày, các nữ tu đều tới chăm sóc cho ông...Một hôm ông nói với một chị em: "Bây giờ tôi biết tự dọn dẹp cho mình rồi. Cám ơn các cô. Các cô làm ơn nói lại với Bà nữ tu đầu tiên rằng: ngọn đèn mà bà đã thắp lên nay vẫn tỏa sáng." (Trích "Sợi chỉ đỏ")...
Qua câu chuyện này, ta thấy Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn đèn dầu cho ông già nghèo. Điều đó đã không vô ích. Chúa Giêsu muốn thắp lên ngọn đèn tâm hồn trong ta, ta có muốn nó luôn sáng không? Đây là đề tài chúng ta sẽ suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay...
a/. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn nạn ta cần tìm hiểu:
Một: Chúa Giêsu kêu gọi: "hãy theo Thầy"; chính khi Chúa kêu gọi là Người muốn thắp lên ngọn đèn trong tâm hồn chúng ta... Trong những ngày đầu tiên ra đi rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người mà nói: "Nước Thiên Chúa đang đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Đang đi dọc theo bờ biển, Chúa thấy hai anh em ông Simon đang thả lưới xuống biển; Chúa gọi họ: "hãy theo Ta...." Lập tức, họ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn gieo vào tâm hồn các môn đệ niềm tin đầu tiên, cũng là hình ảnh Chúa thắp lên trong tâm hồn ngọn đèn niềm tin. Đó cũng chính là hình ảnh Mẹ Têrêsa thắp lên cho ông già nghèo bị bỏ rơi, ánh đèn dầu, ánh đèn mà bao lâu nay chính ông không buồn thắp lên, cũng không được ai thắp lên cả. Ông hầu như đã bị mất niềm tin nơi mọi người, như hình ảnh cây đèn bị bỏ xó, không ai quan tâm tới nữa. Ông cũng không hi vọng ngọn đèn của mình được sáng lên.
Hai: Các môn đệ bỏ hết mọi sự mà theo Chúa: Khi bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, chính là các môn đệ muốn giữ chiếc đèn tâm hồn của mình, đã đuợc Chúa thắp lên, để nó được sáng luôn luôn, không tắt nữa. Thái độ của các môn đệ sẵn sàng bỏ hết mọi sự để theo Chúa cũng nói lên thái độ tích cực của mình, sẵn sàng theo Chúa, sẵn sàng từ bỏ bản thân, ý riêng mình để nghe lời Chúa, sẵn sàng giữ gìn ngọn đèn cho nó luôn tỏa sáng, như câu chuyện ông già nghèo sẵn sàng nghe lời Mẹ Têrêsa Calcutta, giữ ngọn đèn dầu sáng lên mỗi khi chị em tới thăm. Chúa Giêsu có nói hứa sẽ biến họ thành kẻ lưới người ta, không chỉ là người chài cá. Lúc đó, các môn đệ có thể không hiểu bao nhiêu. Ở đây ta chỉ nói đến thái độ sẵn sàng, thái độ của lòng tin. Chính Chúa đã thắp lên trong họ ngọn đèn lòng tin; phần họ, họ lại sẵn sàng gìn giữ ngọn đèn lòng tin được tỏ sáng...
b/. Câu chuyện: Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Brasil kể rằng: "Anh ruột của tôi có rửa tội hồi nhỏ. Lớn lên học trường dòng, nhưng rồi lôi thôi; sau đó lại bỏ đạo luôn. Sau khi tôi làm linh mục, anh về sống chung với tôi. Mỗi lần tôi đi giảng tỉnh tâm, anh hỏi: Chú sẽ nói về cái gì? Tôi giải thích cho anh nghe bài giảng của mình. Tám năm sau, anh bị bệnh hiểm nghèo sắp chết. Biết mình không sống được, anh gọi tôi: Tôi thấy nơi chú, giữa bài giảng và việc làm của chú không có sự cách biệt; Vậy tôi có thể dựa vào lòng tin của chú mà rước lễ được không? Tôi nói: Em tin lòng thương xót của Chúa sẽ tha thứ cho anh. - Nhưng tôi chưa đi xưng tội? Tôi định tìm một linh mục cho anh, nhưng anh xin xưng tội với tôi...Sau khi rước lễ xong, anh thều thào: Bây giờ tôi tin Chúa, không phải dựa vào lòng tin của chú, mà thực sự tôi xác tín Chúa thương tôi...Sau đó anh chết cách bình an. (Vietcatholic news 12. 2007).
Đức TGM Brasil đã nói với người anh của mình: "Hãy theo Chúa"; Ngài không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính cách sống của mình. Anh của Ngài đã tin, người anh đã muốn giữ ngọn đèn mà em của ông thắp lên trong tâm hồn của mình; chính vì lẽ đó, trong giờ phút cuối cùng, ông đã ăn năn trở lại và đã chết bình an, nghĩa là ông giữ cho chiếc đèn tâm hồn mà em ông thắp sáng lên, không hề tắt nữa.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Câu chuyện trên đẹp quá, phải không anh chị em? Nhưng nó sẽ đẹp hơn nhiều, nếu mỗi người kitô hữu chúng ta biết để Chúa Kitô thắp chiếc đèn tâm hồn cho mình, nghĩa là mình sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi: "Hãy theo Thầy". Ta có nghĩ rằng Chúa Kitô muốn nói với ta: "Hãy theo Thầy". Tin như vậy, Ta có sẵn sàng bỏ hết mọi sự mà theo Chúa không?
(Suy niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu)
Ninivê kinh thành sám hối: một kinh thành "lớn quá trời rộng ba ngày đàng" (Ga 3,3), đặc biệt đó TN3-B97
Ninivê kinh thành sám hối: một kinh thành "lớn quá trời rộng ba ngày đàng" (Ga 3,3), đặc biệt đó là một kinh thành ngoại giáo. Chính trong kinh thành này, lời sấm của Ngôn sứ Giona đã vang dội khắp hang cùng ngõ hẻm, dội tới cung điện đức vua. Điều kinh ngạc là dân thành đã "tin vào Thiên Chúa" và tin vào lời rao giảng sám hối của sứ giả Thiên Chúa sai đến. Nhà vua đã ra chiếu chỉ bắt toàn dân từ vua quan tới thứ dân phải theo nghi tiết sám hối... Và Thiên Chúa đã chấp nhận tấm lòng thống hối của Ninivê.
Đức Kitô, sau thời gian tĩnh tâm trong sa mạc đã khai mào việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tại Galiê:
"Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên" (Mc 1,14)
Theo địa dư, Galilê giáp với xứ Samarie và miền Syrô-Phénicie, ngoài dân địa phương là người Do Thái lập cư, còn có các sắc dân thiểu số ngoại bang khác cư trú, họ là những người ngoại giáo. Điều đáng lưu ý là Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ Galilê. Rồi sau khi sống lại, Ngài cũng hẹn với các môn đệ của Ngài ở Galilê (Mc 14,28 và 16,7). Quả thực, Tin Mừng đã được công bố cho cả dân tộc Do Thái và dân ngoại.
Một trong những điều kiện tiên quyết để đón nhận nước Thiên Chúa chính là lòng hối cải: "Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,14). Đọc hạnh các thánh, nhất là những vị đại thánh, chúng ta kinh ngạc và thán phục con đường cải quá tự tân dẫn các ngài từ con đường sa đọa tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa: Một Augustin, một Charles de Foucauld... và biết bao những tâm hồn lành thánh khác. Lòng hối cải thường bắt đầu với sự đánh động từ thâm sâu của Thiên Chúa, nói một cách khác chính ân thánh của Thiên Chúa biến cải tâm hồn và làm cho con người tìm về đàng ngay nẻo chính. Tiếp đến là một đoạn tuyệt, cắt đứt với đời sống dĩ vãng, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người được tái tạo trong ân thánh. Dân thành Ninivê đã nhận lấy lời cảnh cáo của sứ giả Thiên Chúa, đã ăn năn sám hối và chắc hẳn đã cải bỏ nếp sống lăng loàn cũ để bắt đầu cuộc sống mới trong đức tin vào Thiên Chúa.
Lý do khiến con người hối cải thật lớn lao: để tiếp nhận Nước Thiên Chúa, đón nhận ơn cứu độ. Con người từ bỏ kiếp sống nô lệ tội ác trở về với thiên chức con cái Thiên Chúa. Trong cái nhìn vĩnh cửu và khải huyền đó, thánh Phaolô đã khuyên tín hữu thành Corinthô hãy hướng nhìn về tương lai:
"Vì bộ dạng thế gian này đang qua đi" (1 Cr 7,31)
Dân thành Ninivê sống vào thế kỷ thứ 8 trước kỷ nguyên, rồi đến các tín hữu thành Côrinthô cũng như những người đồng thời với Đức Kitô quả thực họ đã qua đi. Bao nhiêu đế quốc đã sụp đổ hoang tàn không còn vết tích. Và thế gian với những phù hoa của nó: tiền tài, danh vọng và sắc dục... tất cả cũng sẽ qua đi. Sống trong kiếp phù du, con người thường bị vật chất ru ngủ, quên đi kho tàng khôn sánh ví là Nước Thiên Chúa. "Và tức khắc họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài", các môn đệ đầu tiên theo Đức Kitô hẳn đã hiểu phần nào Tin Mừng nước Thiên Chúa họ đã nghe Thầy mình rao giảng, họ đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, ngay cả những gì cấp thiết nhất cho kế sinh nhai của họ. Còn chúng ta, những người con đang sống trong thế giới mau qua chóng hết này, chúng ta phải có thái độ và nếp sống nào đối với Tin Mừng Nước Thiên Chúa chúng ta đã lãnh nhận?
Anh chị em thân mến.
Con người ai cũng nặng tình gia đình không thể rời xa cha mẹ. Thế mà, anh chị em đã từng chứng kiến: TN3-B98
Con người ai cũng nặng tình gia đình không thể rời xa cha mẹ. Thế mà, anh chị em đã từng chứng kiến: biết bao người đã dám từ bỏ cha mẹ mình cách dứt khoát, để chạy theo tiếng gọi của tình yêu. Khi đó họ không còn phải suy nghĩ gì nhiều đến cha mẹ mình nữa, chỉ còn có con tim là trên hết. Tiếng gọi của con tim nó bao phủ tất cả, nó lấn át tất cả. Khi đó họ không cần biết những gì sẽ chờ đợi mình, không cần biết tương lai sẽ ra sao. Họ chỉ cần biết, giờ đây họ hành động theo lệnh lệnh của con tim mách bảo và bước theo tiếng gọi của tình yêu. Như thế họ bắt đầu một cuộc đời mới mà không cần suy nghĩ gì nhiều. Mỗi người đều trải qua giai đoạn như thế, cứ sự thường thì chăng ai hối tiếc về việc làm đó của mình cả.
Các tông đồ cũng thế. Các ông cũng bước đi theo tiếng gọi: hãy theo Ta. Chúng ta nhìn xem thái độ của các ngài như thế nào? - Không một tiếng trả lời, vội đứng dậy, bỏ tất cả để ra đi. Các ông đã bỏ cha mẹ, bạn bè thân hữu, tài sản, cả những gì đã từng làm vướng bận tay chân các ngài bấy lâu nay: đó là chiếc lưới với những mớ dây chằn chịt đã từng trói chặt đôi chân các ngài, không cho các ngài đi đâu . Thế mà giờ đây tất cả cả những thứ đó đều trở nên vô dụng trước tiếng gọi của tình yêu cao cả. Các ngài đã dứt khoát những gì gần gủi với mình bấy lâu nay để bước đi mà không cần biết đi đâu, không cần biết tương lai như thế nào và cũng chẵng cần biết phải làm gì. Giờ đây các ngài chỉ cần biết nghe theo tiếng gọi và đáp trả là đủ. Cuộc đời các ngài đã trung thành với tiếng gọi. Các ngài đã làm tròn những gì mà tiếng gọi đòi hỏi, cho đến đỗi đã dám hy sinh cả mạng sống vì tiếng gọi. Lời mời gọi đó vẫn còn vang lên mãnh liệt qua từng thời đại. Cũng có biết bao người không thể từ chối hay cưỡng lại được nên cũng đã bước theo và trung thành cách tốt đẹp.
Ngày hôm nay, tiếng gọi tình yêu cao cả đó cũng đã vang đến bên tai mỗi người chúng ta, và chúng ta cũng đã đáp lại . Mỗi người cũng đã dứt khoát và bước đi theo tiếng gọi. Nhưng rồi từng ngày, từng ngày trôi qua và giờ đây mỗi người nhìn lại mình xem: Chúng ta đã sống theo tiếng gọi như thế nào? Mệnh lệnh con tim thuở ban đầu giờ đây chắc không còn hiệu quả lắm đối với chúng ta. Bởi vì thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn trở về cây da cũ bến đò xưa, để tìm lại những bạn bè năm xưa. Đó là mỗi khi phạm tội, là chúng ta đã trở về với con người chưa được kêu gọi. Chúng ta cũng còn để cho những mớ chày lưới rối tung đó quấn chặc những bước chân của mình để rồi không thể tiếng bước thêm được nữa. Cũng có những lúc chúng ta để cho những tình cảm riêng tư trong con người nỗi lên lấn át cả tiếng gọi linh thiêng của mối tình cao cả mà ngày nào mình đã can đảm bước theo. Nhưng giờ đây đôi lúc chúng ta sợ sệt: sợ không còn ai yêu thương mình, nếu sống theo tiếng gọi mà mình đã bước theo, sợ thiệt hại bản thân nếu sống đúng với những gì tiếng gọi đòi hỏi, sợ mất đi một chút thời giờ quí báu để hưởng thụ cho thân xác nếu mình sống đúng với những gì sứ mệnh của tiếng gọi đòi hỏi. Nỗi lo sợ đó là những mớ dây chày lưới đã trói bược đôi chân, khiến chúng ta không thể bước đi thoải mái theo tiếng gọi và trung thành với những gì mà tình yêu cao cả đòi buộc chúng ta.
Nếu tất cả mọi hành động, mọi lời nói của chúng ta đều phát xuất bởi tình yêu, nếu chúng ta biết đối xử với người khác bằng tất cả tình yêu thương mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nếu chúng ta biết sống như thế nào để người khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện nơi chúng ta thì như thế mình đã sống trọn vẹn và trung thành với tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết yêu thương thật sự, để trung thành đáp lại lời mời gọi của Chúa trong đời sống hằng ngày.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN, năm B
Gn 3,1-5.10 1 Co 7, 29-31 Mc 1,14-20
Ơn gọi là một là cái gì thật huyền nhiệm, kỳ diệu và lạ lùng! Bởi vì, khi đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, TN3-B99 Dalat
Ơn gọi là một là cái gì thật huyền nhiệm, kỳ diệu và lạ lùng! Bởi vì, khi đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra điều này một cách rõ ràng và trong sáng. Các môn đệ khi nghe Đức Giêsu Kitô mời gọi nhất nhất, họ đều bỏ mọi sự mà theo Ngài. Hôm nay, Chúa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Đáp lại lời gọi của Chúa:” Hãy theo tôi “, họ đã mau mắn bỏ nghề nghiệp, cách làm ăn cũ, gia tài, sự nghiệp, thậm chí bỏ cả cha mà đi theo Ngài…
Các môn đệ đã bước và đi theo Chúa, các ngài đã sẵn sàng, lập tức bỏ đi những gì là gần gũi nhất, thân thương nhất đối với mình để tất cả hiến mình cho Đức Kitô. Các môn đệ đã thực sự đến xem nơi ở của Chúa Giêsu, rồi ở lại và đi theo Ngài. Họ đã hoàn toàn để Chúa biến đổi cuộc đời của họ. Họ đã trở thành những môn đệ trung kiên, làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta biết mở ngỏ cõi lòng để Chúa Giêsu bước vào và cái giá chúng ta phải trả “ là chúng ta phải thực hành những gì các môn đệ của Chúa Giêsu đã làm, cái giá các môn đệ đã phải trả để đi theo Chúa, để ở lại với Chúa “. Chúng ta phải sẵn sàng bỏ đi tất cả những gì là rườm rà, những gì cản ngăn bước đường chúng ta bước theo Chúa Giêsu. Thực tế, nếu chúng ta nhất quyết dành cuộc đời ngay cả sinh mạng của chúng ta cho Chúa và quyết tâm làm những việc như các môn đệ xưa đã làm, từ mọi mọi sự như các môn đệ xưa đã từ bỏ, chắc chắn Chúa sẽ làm cho chúng ta chính những điều Ngài đã làm cho các môn đệ. Chúa sẽ biến chúng ta thành những môn đệ đặc biệt của Ngài, được chia sẻ công việc của Ngài và ban cho chúng ta những điều vượt quá sự mong đợi, ước muốn của chúng ta.
Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta mỗi ngày, chúng ta là đôi tay của Chúa để giúp đỡ những người tật nguyền, bệnh hoạn, để thương giúp những người khó nghèo, chúng ta là đôi chân của Chúa để đi đến cứu vớt những con người đau khổ, chúng ta có con tim của Chúa để ôm ấp những tâm hồn đau khổ, chúng ta có đôi mắt của Chúa để nhận ra những con người nhỏ bé, bị vất bỏ ngoài đường, bị xã hội ruồng bỏ vv…
Chúa vẫn mời gọi chúng ta hôm nay:” các con hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con thành những kẻ lưới người như lưới cá “. Gương các môn đệ, gương các tông đồ còn đó, chúng ta noi gương bắt chước các ngài sẵn sàng, mau mắn đáp lại tiếng mời gọi của Ngài.Theo Chúa, chúng ta phải dám liều lĩnh, cởi bỏ tất cả những gì là nặng nề, là cồng kềnh, là quá khổ để bước theo Ngài, ở lại với Ngài. Có dám cởi bỏ những gì cản bước chúng ta trên cuộc hành trình đức tin như những tật xấu, tính kiêu căng, ghen tỵ, hận thù, nhỏ nhoi của chúng ta, chúng ta mới được Chúa biến đổi, nhờ dám từ bỏ, dấn thân và mau mắn thực hành những điều Chúa Giêsu truyền, những việc Ngài dạy, chúng ta sẽ trở nên những môn đệ như lòng Chúa mong muốn.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi tâm hồn chúng con, xin làm mới con người chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa là Đấng nhân hậu, là Đàng, là Sự thật và là Sự sống “.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên ở đâu ?
Khi Chúa kêu mời các môn đệ, các ông đã có thái độ nào ?
Tại sao các môn đệ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu ?
Chúng ta có dám liều theo Chúa hay không ?
Ơn gọi là gì ?
Mác Cô 1,14-20.
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng ngắn do thánh Marco ghi lại. Trong đoạn Tin Mừng này TN3-B100
Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng ngắn do thánh Marco ghi lại. Trong đoạn Tin Mừng này thánh Marco thuật lại cho chúng ta một việc rất quan trọng Chúa Giêsu đã làm khi bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài. Cha muốn nói đến việc Chúa gọi những môn đệ đầu tiên.
Phải nói đây là một việc rất quan trọng. Có thể nói khi bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nghĩ ngay đến việc đi tìm những người cộng tác với mình. Hôm nay Chúa gọi những môn đệ đầu tiên, rồi sau này Chúa còn gọi thêm những người khác nữa để Chúa dạy dỗ, giáo dục họ thành những người cộng tác với Chúa. Chúa hy vọng họ sẽ có thể tiếp tục công việc của mình sau này khi Chúa không còn ở thế gian nữa.
A. Nhìn vào công việc Chúa làm đối với những môn đệ đầu tiên này, chúng ta thấy thật là lạ lùng. Chúng ta tự hỏi:
a. Những người này là ai mà Chúa lại gọi họ làm môn đệ Chúa vây?
Nhìn vào cuộc sống của họ cha thấy họ chỉ là những người bình thường như nhiều người khác trong xã hội. Họ không phải là những người giỏi giang nổi bật hơn nhiều người: chẳng hạn như những người làm chính trị, những người có những tư tưởng mới lạ hay những người giầu có và có địa vị cao trong xã hội.
Họ không thuộc giới tư tế, hàng giáo phẩm hay một dòng dõi quí tộc nào.
Họ chỉ là các ngư dân nghĩa là con người bình thường.
Đọc trong lịch sử của loài người chúng ta thấy chẳng hề có ai tin tưởng vào những con người bình thường như Chúa Giêsu.
Dường như Chúa Giêsu muốn nói với mọi người: “Hãy trao cho Tôi mười hai người tầm thường và với chừng ấy người, nếu họ tự hiến thân cho Tôi, Tôi sẽ thay đổi cả thế giới này”.
Bài học Chúa muốn nói với chúng ta: Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình - xem mình là gì, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa chúng ta sẽ trở thành theo ý muốn của Chúa.
b. Cha hỏi thêm chúng con: lúc Chúa Giêsu gọi thì họ đang làm gì.
Họ đang làm công việc hằng ngày của họ.
Họ đang đánh cá, vá lưới.
Trong Cựu Ước, Cựu Ước Chúa cũng làm thế với nhiều nhà tiên tri.
Amốt nói: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Israen dân Ta”(7,14-15).
Tiếng gọi của Chúa đến với một ai đó không phải chỉ xảy ra ở trong nhà Thiên Chúa, cũng không phải ở một nơi bí mật, nhưng là giữa lúc người ấy làm công việc hằng ngày của họ.
Hãy biết lắng nghe tiếng Chúa từng giây từng phút
Hãy cẩn trọng kẻo Chúa đi qua mà chúng ta không gặp được Ngài.
c. Tiếp theo chúng ta hãy xem Ngài đã gọi họ như thế nào.
Lời kêu gọi của Chúa là: “Hãy theo Ta”.
Vừa nghe, chúng ta thấy - xem ra như bốn ông này dường như bị thôi miên. Ngay khi nghe tiếng Chúa gọi là họ đã đứng lên đi theo ngay, không suy nghĩ, không tính toán.
Thật ra, bốn ông này chẳng xa lạ gì với Chúa Giêsu. Ít ra, hai người đã biết Chúa Giêsu tại Giuđêa với sự giới thiệu của Gioan Tẩy Giả.
Chúa Giêsu không hề nói với họ: “Ta có một hệ thống tư tưởng lớn muốn đầu tư vào các ngươi. Ta có một số triết thuyết muốn các ngươi suy nghĩ. Ta có một số chương trình, một số dự tính muốn được thảo luận với các ngươi”, ......nhưng Ngài phán: “Hãy theo Ta”.
Tất cả đều bắt đầu bằng một phản ứng của mỗi người đối với Chúa. Tất cả đều bắt đầu bằng một xúc động từ thâm tâm, làm phát sinh ra lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. Họ đã theo Ngài cho đến chết.
Việc theo Chúa quả là một mầu nhiệm. Ngài có một sức hút lạ thường lôi kéo chúng ta về phía Ngài. Nếu chúng ta để cho Ngài lôi kéo chắc chắn cuộc đời của chúng ta sẽ trở nên tuyệt điệu.
d. Cuối cùng, chúng ta hãy xem Chúa đã bảo họ làm gì. Ngài giao cho họ một nhiệm vụ.
Ngài không gọi để ban cho họ một đời sống dễ dãi, thoải mái. Nhưng Chúa gọi họ để phục vụ.
Chúa Giêsu đã gọi người ta theo Chúa không phải để cho họ sống một cách thụ động, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện, hay chẳng làm gì cả. Ngài trao cho họ một nhiệm vụ mà họ phải giành cả đời sống để chu toàn. Họ phải làm việc một cách hăng say và cuối cùng có khi họ còn phải chết cho Chúa và cho cả đồng đồng loại. Họ phải sống siêu thoát, chẳng những không có lợi lộc trần thế gì cho riêng cho mình, mà còn phải hy sinh, phải hiến dâng tất cả cho Chúa và cho mọi người.
Chúng con hãy nghe lại lời Chúa: "Ta đến không phải để được kẻ hầu người hạ nhưng đến để phục vụ và làm giá cứu chuộc cho nhiều người."
B. Phần chúng ta hôm nay thì sao?
Thử hỏi hôm nay Chúa còn gọi người ta công tác với Ngài nữa không?
Câu trả lời là có: Chúa vẫn mời gọi và Ngài còn tiếp tục gọi.
Chúa muốn chọn và gọi cha, chọn và gọi mọi người kể cả chúng con để cùng với Chúa tiếp tục công việc Ngài còn để lại. Đó là làm cho Tin Mừng Tình thương của Chúa được lan toả đến mọi người để mọi người cảm thấy cuộc đời mình có hạnh phúc vì được Chúa yêu thương.
Cha muốn chúng con nghe câu chuyện này:
Ngày kia có một cụ già, thật già, già đến nỗi cụ không thể nhớ những ngày tuổi trẻ của cụ nữa. Hình như cụ thực sự chưa hề biết tuổi trẻ là gì. Trong đời sống của cụ, cụ chưa hề biết suy nghĩ, cũng không biết khóc. Không gì trên trần gian này có thể làm cho cụ ngạc nhiên hoặc cụ phật lòng. Cụ sống những ngày lặng lẽ trôi qua một cách buồn nản và nhàn rỗi bên trong một cái lều nhỏ dựng ở đầu làng. Cụ thường nhìn mọi sự với cặp mắt đầy dửng dưng. Tuy nhiên, những người trong làng lại kính trọng cụ như người khôn ngoan và thường đến xin cụ những lời khuyên bảo.
Thanh niên trong làng hỏi cụ: phải làm gì để được hạnh phúc?
Cụ đáp:
- Hạnh phúc chỉ là phát minh của người khờ dại.
Cả những người có tâm hồn cao thượng, có thiện chí muốn phục vụ người khác cũng dừng bước hỏi cụ:
- Phải làm cách nào để hiến thân phục vụ cho mọi người?
Cụ trả lời:
- Hiến thân phục vụ cho người khác chỉ là một việc điên rồ vô ích.
Một phụ huynh đến hỏi:
- Phải làm thế nào để giáo dục con cái đi để chúng biết đi trên đường thánh thiện?
Cụ trả lời cách mỉa mai:
- Con cái chẳng khác gì như con rắn độc, phải coi chừng khỏi bị rắn cắn.
Ngày này qua ngày khác, những lời khuyên bảo đầy vẻ bi quan của cụ như những mũi thuốc độc ngấm vào tâm trí mọi người già trẻ trong làng. Đời sống của dân làng bị chôn vùi trong bầu khí bi quan nghẹt thở đó. Thế rồi, một Thiên Chúa đoái nhìn tới cụ với cặp mắt đầy thương xót và thầm nhủ
- Thật là tội nghiệp cho cụ già suốt đời không được ai yêu thương
Rồi Chúa gọi một em bé đến và bảo:
- Hãy đi đến tặng cho cụ già một cái hôn đầy tình thương.
Em bé vui vẻ chạy đến túp lều xiêu vẹo ở đầu làng, ôm cổ cụ già và đặt lên má cụ một cái hôn đầy âu yếm. Lần đầu tiên trong đời, cụ già thấy cảm thấy xúc động. Nụ hôn hồn nhiên của em bé đã làm cho tâm hồn chai đá và dửng dưng của cụ rung lên. Trong chốc lát, mắt cụ bỗng sáng lên và thay đổi cái nhìn về mọi sự. Sau cùng, cụ đã cảm nghiệm được thế nào là niềm vui, hạnh phúc và thế nào là lạc quan. Với niềm vui sướng đó, cụ già tắt thở trong nụ cười và ánh mắt còn hướng về em bé đã ban tặng cụ nụ hôn, nụ hôn có sức biến đổi đời sống cụ. Amen.
LM Giuse Đinh Tất Quý