Theo khoa học hiện nay thì bệnh phong dễ lây lan nhưng không dễ lây nhiễm. Người ta lầm tưởng như thế vì sự lở loét quá khiếp kinh của nó. Bởi vậy, ngay từ thời Cựu Ước, người Do Thái xem người mắc bịnh quái ác này là do tội lỗi và bị Thiên Chúa trừng phạt. Thực ra, khi đọc lại đoạn sách Lêvi 13,1-2.44-46, thì những lời Đức Chúa phán với Môise và Aharon không hề kết án họ, không hề xua đuổi họ; nhưng là sắp xếp cho họ một chỗ riêng, vì lợi ích lớn hơn của cộng đồng. Người mắc bệnh không có thuốc chữa trị này chắc chắn đau khổ lắm. Thêm vào đó, cách đối xử của cộng đồng có thể gây cho họ cảm thấy nhục nhã và tuyệt vọng khôn cùng: “Người mắc bệnh phong phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, người ấy sẽ còn là ô uế. Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,44-46)
Không có bản văn nào nói đến cuộc sống của những cộng đồng người phong cùi ngoài trại. Tôi muốn nghĩ ngay đến một cộng đồng ngoài trại. Thiên Chúa đã không bỏ rơi họ. Thiết tưởng họ là những người được Chúa tách riêng ra vì sự ô uế do căn bệnh thể lý, không phải do một hình phạt. Họ được Thiên Chúa thương yêu cách riêng, theo cách của Thiên Chúa. Trong cái túi của những người cùng số phận, chắc chắn họ đã chia sẻ cho nhau niềm hy vọng trong sự quan phòng của Chúa.
Năm 1976, khi chúng tôi còn ở Hòa Yên, anh em chúng tôi vẫn đi xe đạp ra đến tận Suối Dầu để cắt cỏ cho bò. Chúng tôi đã tìm gặp được một cộng đoàn người phong từ trại phong Hansen Nha Trang chuyển lên đây. Họ thương yêu nhau lắm. Tương tự, ở các trại phong Qui Hòa, Bến Sắn, Di Linh, Văn Môn, Sóc Sơn… đang là những mái ấm của những người đau khổ, và là nơi thu hút nhiều sự chia sẻ của những con người có trái tim của Chúa. Thế thì bệnh phong cùi thể lý, sự ô uế do bệnh gây ra… chỉ là hình ảnh ẩn dụ của Lời Chúa hôm nay. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Corinto1 Cr 10,31 - 11,1 mở ra cho chúng ta ẩn dụ ấy, để hiểu rằng có một thứ bệnh phong cùi dễ lây lan, cũng dễ lây nhiễm, và cực kỳ nguy hiểm hơn trong đời sống tín hữu, đó là: gương xấu “Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do Thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô căn dặn rằng tất cả mọi việc phải làm vì vinh danh Chúa. Như vậy, tất cả những việc đã làm không vì vinh danh Chúa, có thể nói, đều là gương xấu. Có phải, “tất cả vì vinh danh Chúa “ là kim chỉ nam của đời sống tín hữu không? Một phút tĩnh lặng lại lòng mình, sẽ thấy Thánh Phaolô rất có lý, vì sự hiện hữu của mọi sinh vật trên đời nầy đều cho vinh danh Chúa. Ngược lại với nguyên tắc này, là do một sự thôi thúc vị kỷ ở bên trong, bắt nguồn từ lòng kiêu ngạo, và sinh ra bao tội lỗi khác, bao gương xấu khác. Không có sự “khiêm tốn thật trong lòng” nào sinh ra gương xấu. Ngược lại gương xấu nào cũng phản ảnh sự kiêu ngạo và kiêu ngạo thái quá. Phải khiêm tốn mà nhìn nhận rằng: gương xấu trong giáo hội cũng không thiếu. Có phải vì không để Thiên Chúa được lớn lên, mà bao nhiêu nỗ lực cũng hoài công vô ích và trở thành gương xấu? Uy tín của Thiên Chúa không hề thuyên giảm nhưng khuôn mặt của Ngài bị che lấp bởi những sự chói lọi của thế trần làm vinh quang cho nhau. Chưa dám nói đến những gương xấu do tội lỗi của mọi thành phần dân Chúa làm giảm đi uy tín của giáo hội đối với lương dân. Có những người hết mình cho Giáo hội, tưởng là vì vinh danh Chúa, vỡ ra chuyện, mới hiểu là vì cá nhân mình, vì vinh danh mình. Khi đã vì mình, thì tất cả mọi sinh hoạt trong đời sống tín hữu đều không sinh ích lợi cho mình và cho ai. Mà ngược lại, gây nên bao nhiêu bất nhất trong giáo hội. Một người làm việc tông đồ nhiệt tình, không vì Chúa, nhưng vì để thỏa mãn cái hiếu thắng của mình, sẽ gặp thất bại. Và khi thất bại thì tỏ ra bất mãn hơn ai hết. Đã có người, làm việc với Giáo xứ hăng say lắm, không phải vì yêu mến Chúa, mà vì tình cảm riêng tư với Cha sở, cha phó. Chuyện vô duyên ấy trở nên gương mù cho Giáo Dân. Hội Đồng lên tiếng. Đức Giám Mục thuyên chuyển cả hai cha đi khi mới được vài tháng hay chưa tròn một năm phục vụ. Một người bất mãn ĐGM, kéo theo một ê-kíp phản đối. Rồi sau đó, bất cộng tác với Cha sở mới, và kêu gọi mọi người bất cộng tác, chưa kể đến việc rêu rao những lời bất kính. Gây phe phái trong giáo xứ. Đó không phải là gương xấu sao? Gương xấu ấy không bắt nguồn từ sự kiêu ngạo sao? Gương xấu ấy không phải là gương xấu cho Hội Thánh của Thiên Chúa, cho cả lương lẫn giáo như lời Thánh Phaolô hôm nay đã nhắc nhở đấy sao? Còn bao nhiêu gương xấu nữa mà thiết tưởng phải thật khiêm tốn bình tâm và can đảm để xét cho ra. Trong số những người buôn gian bán lận, bất công, lừa đảo, ngoại tình, ly dỵ, phá thai, mãi dâm, ma túy, trộm cắp, tin vơ thờ quấy….không có con cái của Chúa, của Hội thánh sao? Thật đáng buồn, khi nghe tin ở các phiên tòa xử, trước vành móng ngựa, cũng có những người con của Giáo hội vướng vào những tội phạm luân lý không đáng có. Gương xấu trong xã hội thì không kể xiết. Không đúng sự thật từ trong những trang lịch sử, đến những tờ quảng cáo. Chủ trương duy lợi cho một số thành phần dẫn đến bao bất công xã hội. Sự ăn chơi, hưởng thụ vô độ của người lớn làm băng hoại cả một nền thuần phong mỹ tục vốn giản dị thanh khiết bên lũy tre làng. Lũ cháu, đàn con đang tập nếp sống mới ngoài vòng luân thường đạo lý. Bởi đâu? Thưa bởi vì “thựợng bất chính, hạ tắc loạn”. Một thế hệ trẻ đi về đâu khi những cái bất chính của người lớn tràn lan như sóng vỡ bờ. Sự dối trá của người lớn lộ liẽu trên các phương tiện truyền thông đến nỗi con cháu mới vừa học vỡ lòng cũng nom thấy, cũng hiểu ra. Đúng là xã hội đang mang và gieo một mầm bệnh không chỉ lở loét ngoài da trông ghê tởm, mà còn làm nghẽn mạch cả một thế hệ hậu sinh: Không biết tin vào đâu là sự thật. Những thói hư tật xấu có sức lây lan nhanh thành nếp sống của một xã hội và lây nhiễm đến cộng đoàn dân Chúa còn hơn sức lây nhiễm của thứ bệnh phong mà người ta kinh tởm. Đã vậy, trong văn nói tiếng Việt còn có câu nầy: “đã cùi, không sợ lở”, chỉ tình trạng buông xuôi, liều mạng, không muốn sửa đổi, khắc phục, hay cải thiện. Não trạng ấy cũng đang định hướng cho một cuộc phiêu lưu không dừng của một xã hội. Không thể định hướng ngược lại theo chiều mà người ta gọi là đi lên, là tiến bộ. Càng không thể dừng lại cái tham vọng làm chủ và mọi việc làm của chủ đều đúng. Tiếc thay, những người con của Chúa cũng ảnh hưởng không ít cách sống liều mạng như thế. Từ những tội nhỏ, gương xấu nhỏ, họ không sửa đổi, cải thiện mà còn liều mình làm phạm những tội lớn, gây những gương xấu lớn hơn. Trước đây, những người làm gương xấu trong giáo hội gọi là tội nhân công khai, có khi phải bị những biện pháp chế tài, chẳng hạn “chôn ngoài đất thánh” như những người cùi ở ngoài trại. Những người làm gương xấu trong xã hội, trong cộng đoàn ngày nay có nghĩ là mình cũng phải định cư muôn đời bên ngoài nước Thiên Chúa không? Hay là bị buộc vào cối đá mà quăng xuống biển. Những người theo chủ trương “đã cùi không sợ lở” có lẽ số phận càng tệ hơn, vì chính họ không muốn được sạch, và không tin vào lòng thương cứu chữa của Chúa. Chúa Giêsu đến cứu chữa những gì đã hư mất. Chúa làm cho người phong cùi được sạch. Nhưng chắc chắn Chúa sẽ không cứu những người theo chủ trương liều mạng “đã cùi không sợ lở”. Vì trong trình thuật qua bài Tin Mừng, Thánh Marco ghi rất rõ chi tiết nầy: “Khi ấy có người bị phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Đức Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh hãy được sạch!" Lập tức bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. “ (Mc 1, 40-42) Người phong muốn mình được sạch, và quì xuống van xin. Trong lời van xin, cũng rất chân thành và khiêm tốn: “Nếu Ngài muốn”. Không ai trong chúng ta là người vô tội. Không ai không bị ô uế bởi tội. Và vì tội, ai cũng đã hơn một lần làm gương xấu, làm cho sự ô uế của mình lây nhiềm đến hồn xác anh em- thân thể Chúa Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần. Thiết nghĩ, điểm quan trọng trong năm Giáo dục Gia Đình không thể bỏ qua, là các cha mẹ cải thiện chính mình và giáo dục cho con cái có cảm thức đúng đắn về tội, hậu quả của tội như sự phong hủi của tâm hồn, sống trong tội là làm gương xấu, làm lây nhiễm các chi thể hội thánh, và nhất quyết khiêm tốn quỳ xuống van xin Chúa Giêsu cứu chữa khẩn cấp. Không thể trì hoản với bí tích giải tội như chủ trương xã hội “ đã cùi không sợ lở”. Lạy Chúa Giêsu, nếu ngài muốn, xin cho con được sạch. Xin tẩy những lở loét trong con do tội kiêu ngạo, và xin cho tất cả những việc con làm vì vinh danh Chúa. A men Pm. Cao Huy Hoàng
Đã có nhiều định nghĩa về Thiên Chúa. Chúng ta thường gọi Thiên Chúa là Trời, Ông Trời (God, Dieu). Theo triết học cổ Hy Lạp thì Thiên Chúa là căn nguyên của mọi căn nguyên (Causa Causorum), từ Ngài mà sinh ra mọi sự; Ngài là Đấng Tạo Hóa; Ngài dựng nên mọi loài (thụ tạo). Người Trung Hoa định nghĩa Thiên Chúa là Thượng Đế, là Vua trên các Vua, các vua trần gian là con của Ngài nên gọi là Thiên Tử (Con Trời). Còn Thánh Gioan, Ngài định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu.” Vì tình yêu, Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Chúa”, cho làm chủ mọi loài (Sách Khởi Nguyên 1, 26). Cũng vì tình yêu, Thiên Chúa đã xuống thế làm người, ở giữa chúng ta, chia sẻ cuộc sống trần gian như mọi con người, ra đi rao giảng Tin Mừng cứu rỗi, chấp nhận mọi khổ đau trong cuộc sống, chịu khổ nạn trên thập giá, sống lại và lên trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta. Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu luôn hiện diện như Nhân Chứng Tình Yêu của Thiên Chúa giữa mọi người, nhất là những người nghèo, người bệnh, dù chứng bệnh hay lây như bệnh phong cùi, phải ở riêng, không được đến gần những người khác (Bài Đọc I: Lêvi 13, 1-2, 44-46). Họ bị mọi người xa lánh, chẳng những vì bệnh phong cùi dễ lây, mà người phong cùi còn bị coi như tội lỗi. Nhưng trong bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 1, 40-45), Chúa Giêsu đã không xa lánh những người phong cùi đến xin chữa lành, Ngài đã gần gũi với họ, “đặt tay và chữa lành họ.” Thánh Phaolô (Bài Đọc II) đã noi gương Chúa Giêsu, cố gắng trở nên nhân chứng Tình Yêu của Chúa giữa mọi người; không ích kỷ, không tìm lợi ích, tiện nghi cho riêng mình; nhưng tìm lợi ích cho mọi người để mọi người được ơn cứu rỗi!”(1 Corintô 10,31-11,1). Trong Phúc Âm (Gioan 14, 6), Chúa Giêsu nói với chúng ta “Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Chúa Giêsu.” Chúng ta là những Tín hữu của Chúa, chúng ta chỉ “đến được với Chúa Cha”, nếu chúng ta đi theo đướng lối của Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô đã đi theo đường lối của Chúa và bảo chúng ta: ‘Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Chúa Giêsu.’ (1 Corintô 11,1). Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người chúng ta, dù ở địa vị nào (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân), chúng ta luôn cố gắng là chứng nhân tình yêu của Chúa giữa mọi người, yêu thương và phục vụ mọi người trong tinh thần khiêm tốn và hòa hợp, để chúng ta có thể (như Thánh Phaolô) “đem tình thương và ơn cứu rỗi đến cho mọi người.” Trước hết là những người trong gia đình (giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái), trong khu xóm, trong cộng đồng giáo xứ, trong sở làm, khắp nơi mà chúng ta có dịp hiện diện trong suốt cuộc đời. Chúng ta hãy hát lên bài “Nhân Chứng Tình Yêu” ( Nguyễn Duy), xin cho chúng ta trở nên “Nhân Chứng Tình Yêu của Chúa!... Được Chúa Thánh Thần thánh hiến… và sai chúng ta đi mọi nơi, để gieo rắc tin vui cho muôn người… Trung kiên làm chứng nhân Nước Trời, thắp lên hạnh phúc cho muôn người!” Lm. Anphong Trần Đức Phương
Ngày nay, bệnh AIDS là mối đe doạ cho loài người. Tính đến nay có đến hàng triệu người nhiễm HIV. Rất nhiều người đang lâm vào tình cảnh bi đát, đau thương như đang đứng bên bờ vực thẳm. Nhưng bệnh này còn đỡ hơn bệnh cùi ngày xưa. Trong sách Lêvi qui định : ai bị cùi sẽ phải ở riêng, phải mặc áo rách và đi tới đâu cũng phải tự mình kêu lên: “ ô uế” để mọi người tránh xa ra. Đối với người mắc bệnh nan y đó phải khổ sở đến mức nào vì họ bị loại khỏi xã hội, không tiếp xúc được với ai, không được ai chăm sóc và nâng đỡ! Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã cứu chữa anh cùi cả phần xác lẫn phần hồn. Chính Ngài đã giúp anh thóat khỏi mặc cảm bị mọi người bỏ rơi và xa lánh, chính Ngài giúp anh hòa nhập với xã hội. Ngài dạy anh đi trình diện tư tế theo luật định để anh được hoà nhập với cộng đoàn, được quyền tiếp xúc với mọi người và được hưởng quyền lợi chính đáng như mọi người khác. Điều này cho thấy sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những người đau khổ, thấp hèn. Ngài giải thóat anh khỏi mọi nỗi khổ đau và cho anh hiểu tình thương vô biên của thiên Chúa đối với mình. Lúc anh tiếp xúc được với Ngài thì bệnh cùi của anh biến đi. Chúa Giêsu là người có hành động táo bạo, dám đụng vào anh cùi, không sợ sự ô uế của anh lây qua. Ngược lại, chính sự trong sạch của Chúa Giêsu và tình yêu của Ngài đã làm cho bệnh cùi phải biến đi. Tuy nhiên, có người thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại không cho anh loan tin vui đó cho mọi người. Có lẽ theo quan niệm của người Do thái thời đó, họ quá chú trọng đến một Messia đến giải phóng dân tộc hơn là cứu chuộc tòan diện cả hồn và xác; họ mong một Messia uy quyền hay ra hình phạt hơn là đối xử nhân từ với tội nhân nên Chúa Giêsu chưa muốn tỏ mình ra ngay lúc đó chăng? Có lẽ Ngài muốn rằng: Qua những lời rao giảng của Ngài, dân chúng sẽ hiểu đúng và chính xác về Ngài hơn. Ngài không muốn họ tìm Người chỉ vì phép lạ, nhưng tìm đến Ngài để hiểu biết đường lối Chúa và đón nhận ơn cứu rỗi. Có một điều lạ là làm sao anh cùi biết về Chúa Giêsu, và quyết chí tìm đến Ngài để xin được cứu chữa. Bởi vì người cùi đâu được chen vào đám đông để nghe Chúa Giêsu giảng, cũng đâu được nói chuyện với ai vì mọi người đều sợ bệnh cùi của anh! Có lẽ anh không cần nghe nhiều về Chúa như mọi người nhưng lòng của anh luôn biết hướng về ngài, chỉ cần nghe một chút đã nhận ra được quyền năng của Ngài. Điều đáng lưu ý là anh cùi có lòng tin, đến van xin Chúa thì Ngài mới chữa lành cho. Nếu anh không biết kêu cầu Chúa thì anh sẽ khó mà khỏi bệnh. Ngày hôm nay, lòai người chúng ta cũng gặp rất nhiều căn bệnh trầm kha về tinh thần hoặc về thể xác nhưng có được bao nhiêu phần trăm biết chạy đến Chúa Giêsu để được Ngài cứu chữa! Chắc hẳn, Ngài đang thiết tha mời gọi mỗi người chúng ta : hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc mang gánh nặng nề ,Ta sẽ bổ sức cho. Khi được Chúa chữa lành hay bổ sức cho, chúng ta hãy biết cám ơn Chúa, biết chúc tụng Chúa, biết đáp đền ơn Ngài bằng việc giúp những người khác biết Chúa Giêsu bằng cách rao truyền và làm chứng về lòng nhân từ và ơn cứu độ Chúa ban cho lòai người. Chúng ta hãy làm như lời thánh Phaolô dạy trong bài đọc 2: hãy làm tất cả để tôn vinh Chúa, đừng làm gương xấu nhưng hãy bắt chước Đức Kitô, làm mọi việc vì Chúa, vì ích lợi của tha nhân để họ được ơn cứu độ nhờ đời sống gương mẫu và lời rao giảng của mình. Chúng ta hãy bắt chước thánh Phaolô loan báo Tin Mừng Chúa cứu độ cho những người mà mình gặp gỡ, như anh cùi vừa được ơn lành bệnh thì không kềm lòng được, anh phải rao truyền cho mọi người biết ngay. Chúng ta biết rõ rằng: Chúa Giêsu đã chết nhưng đã phục sinh để cứu chuộc mọi người chúng ta, nhưng chúng ta còn thụ động trong việc giữ đạo, không thiết tha sống theo lời dạy bảo của Chúa, chưa lo nói về Chúa cho người khác nghe! Nhiều khi chúng ta có dịp nói về chuá nhưng chúng ta vẫn trù trừ, không tỏ ra hết lòng tin cậy Chúa và không truyền đạt cho những người xung quanh biết về Chúa ! Đó là sai sót lớn của chúng ta hôm nay. Có lẽ bài Tin Mừng hôm nay là thuốc chữa bệnh cho chúng ta, nhắc chúng ta nhớ lại bổn phận khi chịu Bí tích Thêm sức, đó là : can đảm thi hành Lời Chúa, hăng hái họat động tông đồ, góp phần xây dựng xã hội để thể hiện đức tin của mình, làm chứng cho Chúa giữa xã hội lòai người. Nếu mọi người hăng hái rao truyền về Chúa như anh cùi hôm nay thì thế giới không mấy chốc sẽ tràn đầy Tin Mừng của Chúa. Từ đó, trên môi miệng của mọi người sẽ là những lời yêu thương, hy vọng và vui mừng vì Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Chúng ta biết câu chuyện nàng công chúa lọ lem.
Một cô gái hiền từ xinh đẹp, siêng năng cần mẫn trong công việc, nhưng lại phải sống trong một hoàn cảnh thật éo le. Những người chung quanh không thông cảm cũng không nhìn thấy những cực khổ mà nàng phải chịu, lại còn tìm cách làm cho nàng phải vất vả thêm. Có dịp lễ hội nàng ước mong đi tham dự, nhưng khó quá. Nàng không biết làm sao cho công việc được kết thúc sớm, cũng không biết làm sao có bộ áo đẹp để dự lễ hội như những thiếu nữ cùng trang lứa khác. Điều nàng muốn đã được thực hiện; công việc được kết thúc và áo đẹp cũng được mang đến cho nàng. Nhưng dự lễ hội nàng phải lo về sớm trước giờ quy định. Trong lúc vội vàng trở về, nàng đánh rơi chiếc giầy của mình. Ở hiền gặp lành, điều nàng mong muốn thoát khỏi cảnh cơ cực đã được thực hiện. Vị hoàng tử đã cho nàng thoát cảnh lọ lem, cho nàng một địa vị mới. Nàng đã hoàn toàn thay da đỗi thịt. Từ nay nàng không còn phải cực khổ, không còn phải lam lủ, nàng đã được hoà nhập với mọi người, được mọi người biết đến và yêu thương. Nàng đã cố gắng và được giúp đở để nàng đạt được những gì mình mong muốn. Nếu Ngài muốn, Ngài cho tôi nên sạch. Lời van xin thống thiết nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng mà anh ta van xin. Người cùi thốt lên được lời van xin nầy vì anh ta nhận ra được tình trạng hiện tại của mình, anh ta cảm nhận được tất cả nỗi thống khổ mà mình đang mang. Anh ta mong muốn thoát khỏi nó: anh muốn thoát khỏi những đau đớn của thể xác lẫn tinh thần, anh muốn thoát khỏi nỗi cô đơn để có thể hoà nhập được với cộng đoàn. Anh càng mong muốn hơn cho mình được trở nên tinh sạch như mọi người, bản thân anh cũng không chấp nhận được tình trạng hiện tại của chính mình. Ước muốn và hành động để thực hiện ước muốn. Anh vượt qua mọi trở ngại và đến với Chúa Giêsu, anh vượt trở ngại của đám đông, trở ngại của căn bệnh, trở ngại của sự e dè trước những luật lệ của xã hội. Chúa Giêsu nhìn thấy anh cùng với nỗi niềm ước mơ chân thành. Ngài ban cho anh những gì cần thiết để anh được tinh sạch, trở về cuộc sống đời thường. “Ta muốn, anh hãy trở nên sạch”. Thiên Chúa cũng muốn cho hết mọi người như thế. Ngài cũng nói với mỗi người chúng ta như thế: “Ta muốn, con hãy trở nên sạch”. Nhưng những gì Thiên Chúa muốn, có phải là những gì mà mỗi người đang muốn? Hay những gì Ngài muốn, mà đành phải chờ đợi vì không thấy con người đến với Ngài để Ngài thực hiện ý muốn. Mỗi người trong chúng ta, để một chút thinh lặng, nhìn vào tình trạng hiện tại của chính mình. Mỗi người đang mang một căn bệnh của thời đại, căn bệnh truyền nhiễm mà không ai có thể đến gần được, căn bệnh làm cho con người của mình chết dần chết mòn theo năm tháng, căn bệnh làm cho chúng ta không thể hoà nhập được với mọi người. Cũng chính căn bệnh đó làm cho con người trở nên cô đơn tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra tình trạng hiện tại của mình không? Chúng ta có muốn thoát khỏi nó để tìm mọi phương cách, cố gắng như nàng công chúa lọ lem. Nếu chúng ta biết cố gắng, muốn thoát khỏi những đau khổ của hiện tại mà biết tìm đến với Chúa, cầu xin và vâng thheo thánh ý Chúa. Nếu mỗi người biết thực hiện ý muốn ngay lành của mình, mà đến trước mặt Chúa với lòng chân thành, thì tình trạng hiện tại của chúng ta có lẽ khá hơn bây giờ nhiều lắm. Mỗi người đang bằng lòng với những gì của hiện tại và không muốn bỏ đi những gì mình đang có. Chúng ta không muốn cho mình sạch hơn, mới hơn, cũng không muốn đến với Chúa. Còn việc hoà nhập với mọi người, không cần thiết, vì bản thân của mình tự rời xa mọi người, để không còn phải nghe những lời nói mà mình không thích. Chúng ta cũng không muốn nghe lời nói của Chúa Giêsu: “Ta muốn con hãy trở nên sạch”. Nếu như thế thì làm sao Thiên Chúa có thể làm gì được cho chúng ta. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhận ra tình trạng hiện tại của chính mình, biết năng đến với Chúa để Ngài làm cho chúng ta được trở nên sạch.
Cách đây ít lâu, tôi có dịp ghé thăm các bệnh nhân bị phong hủi ở “Trại cùi Di Linh”. Mỗi người có một hoàn cảnh thật đáng thương. Họ làm nhà ở gần nhau, sống tập trung mà mọi người vẫn gọi là “trại”, nơi đó ngoài những dì Dòng Bác Ái, những ý tá, bác sĩ hay những người thiện nguyện chăm sóc…thì hầu như tất cả đều là những người bệnh. Họ sống với nhau như những người đồng cảnh ngộ mà không dám đi xa ra khỏi “trại” của mình vì sợ bị mọi người xa lánh. Bởi vì người ta ghê tởm vì căn bậnh của họ hoặc là sợ bị lây. Hoàn cảnh của những người bị phong hủi ở Di Linh cũng không khác chi với người bị phong hủi trong bài Tin Mừng hôm nay. Có thể nói tất cả những người bị bệnh phong hủi thì thật đáng thương, nhất là trong hoàn cảnh xã hội Do Thái lúc bấy giờ thì lại càng đáng thương hơn nữa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên : “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị coi như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt. Thế nhưng khi mà người ta nghĩ mình không còn niềm hy vọng nào, không còn chỗ nào để bám víu, không còn ai quan tâm, không còn ai dám đụng vào, thì chính Chúa lại đưa bàn tay ra chạm lấy để nâng họ lên. Qua hình hình ảnh của những Dì Phước, những lương y bác sĩ, những người thiện nguyện cho tôi thấy rõ hình ảnh của Đức Giêsu qua con người của họ nhằm xoa dịu đi căn bệnh đau khổ trên thân xác họ. Từ hình ảnh đó cho tôi liên tưởng đến những bệnh “cùi” trong tâm hồn nó còn nguy hiểm hơn gấp bội, mà chắc chắn nơi mỗi người đều có căn bệnh đó trong người 1. Chữa bệnh cùi thể xác. Tất cả ước mơ của người thanh niên bị bệnh phong hủi trong bài Tin Mừng là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Khi anh ta đến xin "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúng ta có thể ngần hiểu rằng anh ta đã hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu và chỉ có Chúa Giêsu mới chữa anh ta khỏi bệnh mà thôi. Từ lời kêu cầu mong mỏi của con người đó, Ngài đã không ngần ngại trả lời "Tôi muốn, anh sạch đi!", điều đó đã được phát xuất từ con tim, Ngài đã trả lại cho anh những gì đã mất. Ngài phá tan đi rào cản ngăn cách giữa người bệnh mà xã hội Do Thái ruồng bỏ bằng cách “giơ tay đụng”. Thái độ đối xử của của Đức Giêsu hoàn toàn bình đẳng với những người bất hạnh. Còn chúng ta đã có thái độ như thế nào? Chúng ta có thái độ coi thường và xa tránh không ? Thật là đáng trách khi mà ngày nay chúng ta vẫn giữ lấy những thành kiến lầm lạc, những luật lệ làm cho con người xa cách con người, nhiều khi đưa đến làm cho họ xa cách cả Thiên Chúa. 2. Chữa bệnh cùi tâm hồn Điểm hay trong bài Tin Mừng hôm nay chính là khi thấy người bị bệnh hủi đến gần mình, Đức Giêsu không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn “giơ tay đụng” vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh, Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh. Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Để chúng con cũng biết chạy đến xin Ngài chữa lành bệnh tật hồn xác chúng con. Amen
Trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, người ta phải sợ hãi khi chứng kiến những cơn bệnh hiểm nghèo như bệnh cùi. Chẳng những nó cướp đi mạng sống của con người, mà nó lại còn gây ra biết bao đau đớn về thể xác, về tinh thần và đặc biệt trong xã hội lúc đó người cùi bị đẩy ra bên ngoài xã hội, không được tham gia sinh hoạt như những người bình thường khác. Một người cùi đến xin Chúa Giêsu chữa lành trong bài Tin Mừng ( Mc 1, 40 – 45) hôm nay phần nào cho thấy điều ấy. Bị đẩy ra bên ngoài xã hội, người cùi này rất tủi hổ, khổ sở. Khi ấy người cùi không còn được coi như “một con người”. Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh đó nên Người không thể bỏ qua cơ hội chữa lành này cho người cùi này. “Nếu Ngài muốn, Ngài cho tôi nên sạch” ( Mc 1, 40). Lời van xin thống thiết nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng mà anh ta van xin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh ta hiều rằng người này là “chiếc phao cuối cùng, bác sĩ cuối cùng..” để có thể giúp đỡ cho anh ta. Người cùi thốt lên được lời van xin nầy vì anh ta nhận ra được tình trạng hiện tại của mình, anh ta cảm nhận được tất cả nỗi thống khổ mà mình đang mang. Anh ta mong muốn thoát khỏi nó: anh muốn thoát khỏi những đau đớn của thể xác lẫn tinh thần, anh muốn thoát khỏi nỗi cô đơn để có thể hoà nhập được với cộng đoàn. Anh càng mong muốn hơn cho mình được trở nên tinh sạch như mọi người, bản thân anh cũng không chấp nhận được tình trạng hiện tại của chính mình. Ước muốn và hành động để thực hiện điều đó. Anh vượt qua mọi trở ngại và đến với Chúa Giêsu, trở ngại của căn bệnh, anh vượt trở ngại của đám đông, trở ngại của sự e dè trước những luật lệ của xã hội. Chúa Giêsu nhìn thấy nỗi lòng của anh. Ngài ban cho anh những gì cần thiết để anh được tinh sạch, trở về cuộc sống đời thường: “Ta muốn, anh hãy trở nên sạch”. Người đã ban một phép lạ cho anh. Đó hẳn là một Hồng Ân hết sức lớn lao cho anh. Thiên Chúa cũng muốn cho hết mọi người cũng được như thế. Ngài cũng đang nói với mỗi người chúng ta : “Ta muốn, con hãy trở nên lành sạch”. Nhưng những gì Thiên Chúa muốn, có phải là những gì mà chúng ta cũng đang muốn? Hay những gì Ngài muốn, mà đành phải chờ đợi vì không thấy con người đến với Ngài để Ngài thực hiện ý muốn. Mỗi người trong chúng ta hãy nhìn vào tình trạng hiện tại của chính mình. Mỗi người đang mang một căn bệnh của thời đại, căn bệnh truyền nhiễm, hiểm nghèo hơn mà không ai có thể đến gần được, căn bệnh làm cho mình phải chết dần chết mòn theo năm tháng, căn bệnh làm cho chúng ta không thể hoà nhập được với mọi người. Cũng chính căn bệnh đó làm cho con người trở nên cô đơn tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra tình trạng hiện tại của mình không? Nếu chúng ta biết cố gắng, muốn thoát khỏi những đau khổ của hiện tại mà biết tìm đến với Chúa, cầu xin và vâng theo thánh ý Chúa. Nếu mỗi người biết thực hiện ý muốn ngay lành của mình, mà đến trước mặt Chúa với lòng chân thành, thì tình trạng hiện tại của chúng ta có lẽ khá hơn bây giờ nhiều lắm. Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra tình trạng hiện tại của chính mình, biết siêng năng đến với Chúa , cụ thề là qua bí tích Giải tội và bí tích Thánh Thể để Ngài làm cho chúng ta được trở nên tinh sạch hơn. Hằng ngày Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong cõi lòng. Chỉ cần một chút cố gắng, một lòng mến thật sự, Chúa sẽ thực hiện phép lạ đó cho mỗi người trong chúng ta. Phương thế chữa lành và bồi dưỡng hữu hiệu vẫn là Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể. Gp. Vĩnh Long
Lêvi 13,1-2.45-46; 1 Corintô 10,31.11,1; Mc 1,40-45 Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm I. Phúc Âm: Mc 1, 40-45 "Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch". Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh". Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người. II. Suy NiỆm:
Ngày nay, nhờ lòng bác ái và khoa học tiến bộ, bệnh phung hủi không còn ghê rợn như ngày xưa. Tuy nhiên nó vẫn còn là một bệnh cần được nhiều lòng thương xót. Thành ra, sau khi nghe những bài Kinh Thánh hôm nay, tiên vàn chúng ta phải nhớ tới trại cùi nằm trong ranh giới của giáo phận chúng ta. Và chúng ta phải biết nhắc nhở nhau chia sẻ lòng thương xót với những anh chị em đang bị thứ bệnh ghê gớm đó. Nhưng dù rất hợp lý và khẩn thiết, quyết tâm cụ thể đó vẫn không phải là mục đích huấn giáo của các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Cao điểm của lời giáo huấn này nằm trong bài Tin Mừng, mà lại trích sách Lêvi chỉ ra như những lời dẫn nhập và bài trích thư Phaolô như chỉ muốn đưa ra một áp dụng thực hành. Vậy trước hết chúng ta hãy trở lại bài sách Lêvi để dễ hiểu hơn bài Tin Mừng. 1. Phung Hủi Là Thứ Bệnh Nan Trị Sách Lêvi là tác phẩm thứ ba trong Bộ Cựu Ước, đi sau quyển Khởi nguyên và sách Xuất hành. Nó muốn tiếp nối quyển sách thứ hai này. Thật vậy, sách Xuất hành thuật lại cho chúng ta biết việc Chúa cứu dân xuất khỏi Aicập và hành trình khoảng 40 năm nơi sa mạc để biến Israel làm dân của Chúa vì Chúa là Thiên Chúa của dân. Chúa lập giao ước với dân và nhận đến ngự nơi lều giao ước để làm chứng Người muốn mật thiết ở giữa dân. Sách Lêvi muốn viết tiếp vào đó và nói cho dân biết những điều phải giữ để lều giao ước thật sự trở nên nơi gặp gỡ giữa Chúa và dân, giữa Thiên Chúa và loài người. Muốn được như vậy, lều giao ước phải trở thành một thứ đền thờ. Dân phải đến đây dâng lễ. Và ở đó phải có hàng tư tế hẳn hoi. Rồi hết mọi người phải cẩn thận tuân thủ những điều cấm kỵ liên quan tới vấn đề sạch và dơ, thiêng và tục, để dân được thánh thiện như Chúa là Ðấng Thánh. Ðó là những chủ đề của sách Lêvi; tất cả đều có hệ và đều tùy thuộc ở hàng tư tế. Thế nên, người ta đã lấy tên Lêvi, tên của tộc tư tế trong dân Chúa, đặt cho quyển sách này. Ðoạn văn đọc trong thánh lễ hôm nay nằm ở phần nói về sạch và dơ, thiêng và tục. Tại sao vậy? Ðối với tâm lý người xưa nói chung và người Dothái nói riêng, bệnh tật nếu không phải là hình phạt do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê người ta lại càng phải thận trọng, đề phòng. Ở đất Dothái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng bệnh phung hủi. Nó vừa ghê rợn và dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện pháp đối với thứ bệnh này. Và vì Dothái là xã hội thần quyền, nên luật pháp đã mặc hình thức tôn giáo như chúng ta thấy trong bài sách Lêvi hôm nay. Các thầy tư tế phải thẩm định ai là người đã mắc bệnh phung hủi. Lập tức nó phải mặc áo rách rưới, không được chải đầu, không được cạo râu và phải tru trếu than khóc, làm chứng nó đã bị Chúa phạt và ma quỷ đang hoành hành trên thân xác nó. Rồi nó phải đi khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để cho ai đến gần. Nhỡ có người nào không biết mà tiến lại thì nó phải hô lên: "dơ, dơ", để cho họ biết mà lánh đi kẻo bị ô nhiễm. Bất hạnh cho ai bị lây bẩn như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy. Còn chính kẻ phung hủi còn có hy vọng nào không? Dĩ nhiên y cố gắng chạy chữa. Cũng có trường hợp chữa được. Nói đúng hơn, việc chẩn bệnh ngày xưa không khá. Có nhiều trường hợp khỏi, chỉ vì thật sự đó không phải là bệnh phung. Khi thấy thân xác lành lại, người ta sẽ đến trình diện các tư tế và xin khám nghiệm. Nếu đúng đã hết bệnh, họ sẽ dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp cho một giấy chứng nhận, phục hồi quyền hiệp thông với xã hội. Sách Lêvi nói tỉ mỉ những điều này, vì hàng tư tế có trách nhiệm đặc biệt trông coi vấn đề sạch và dơ, thiêng và tục, thánh và tội. Thế mà không thứ bệnh nào dơ như phung hủi. Kẻ mắc thứ bệnh này trở thành kẻ bất hạnh nhất trên đời. Isaia khi nói về người tôi tớ đau khổ cũng không biết mô tả thế nào hơn là hình dung người giống như kẻ bị phung hủi. Nhưng có điều khác lạ và mầu nhiệm, là chính các vết thương của Người sẽ chữa lành chúng ta hết thảy. Chắc chắn Isaia đã không thể tự mình viết ra như vậy. Thánh Thần đã dùng ông để nói tiên tri về cuộc tử nạn cứu thế của Ðức Kitô. Nhưng chẳng ai đã hiểu được mầu nhiệm ấy. Phải đợi chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể mạc khải từ từ. Và ngày hôm nay, trong bài Tin Mừng Marcô, Người bắt đầu làm công việc ấy. Chúng ta nhớ những lời sách Lêvi để hiểu bài Tin Mừng. 2. Ðức Yêsu Chữa Người Phung Hủi Thánh Marcô đã kể chuyện một cách đột ngột. Người thấy một kẻ phung hủi đến gần Ðức Yêsu, khẩn khoản quỳ xuống xin Người chữa mình sạch. Thánh Marcô không nói rõ việc này xảy ra khi nào và ở đâu? Theo văn mạch, chúng ta đoán đã xảy ra ở Galilêa khi Ðức Yêsu đi giảng đạo trong vùng đó. Nhưng điều đáng lấy làm lạ là tại sao lại có thể xảy ra một truyện như thế? Kẻ mắc bệnh phung kia ở đâu đến, vì chắc chắn y không được ở gần những chỗ đi lại? Hay là hôm ấy Ðức Yêsu đã đi đến một nơi hẻo lánh để cầu nguyện và anh ta đã dám lại gần? Dù sao anh cũng đã vi phạm pháp luật. Nói đúng hơn, những hiểu biết của anh về Ðức Yêsu đã khiến anh tin Người; và vì tin, anh không sợ luật pháp. Anh tin nếu Người muốn, Người sẽ làm cho anh sạch. Có lẽ đối với anh, sạch hay khỏi bệnh cũng là một. Nhưng Marcô đã muốn dùng chữ sạch để gợi lên ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn. Và như vậy để làm nổi bật ý nghĩa mới lạ trong thái độ của Ðức Yêsu. Người không ghê rợn theo bản năng tự nhiên khi nhìn thấy kẻ phung hủi. Người càng không bỏ chạy theo luật "dơ và sạch" thời bấy giờ. Người thương kẻ ấy, giơ tay đụng vào anh và bảo: "Ta muốn, hãy được sạch". Người chỉ làm có vậy thôi, nhưng hành động này thật lớn lao. Nó làm tan biến ngay một thứ bệnh nan trị; nhưng nhất là nó đã làm cho cả một hệ thống tôn giáo xã hội chặt chẽ và tỉ mỉ trở nên như mây khói. Sách Lêvi và hàng tư tế Dothái vất vả bảo vệ luật "dơ và sạch", thiêng và tục. Và nỗ lực đó đã kiên cố qua nhiều thời đại. Thế mà trong chốc lát, chỉ bằng một cái nhìn, một cử chỉ, một lời nói, Yêsu thành Nadarét, đã hủy bỏ mau lẹ và dễ dàng. Không phải Người đã bực tức không giữ luật, vì kẻ bất mãn nào cũng làm được như thế. Nhưng việc mà không ai làm được thì Người đã làm. Người hủy bỏ luật bằng cách làm cho nó hết đối tượng. Người làm cho "dơ" trở nên "sạch" khiến luật "sạch và dơ" từ nay không còn đối tượng và lý do tồn tại nữa. Và khi làm như vậy, Người đã ban quyền sống cho kẻ bị vạ, kết nạp lại con người tuyệt thông, cứu vớt kẻ bị hư mất. Câu chuyện chữa kẻ bị phung hủi này có nhiều ý nghĩa sâu xa. Nó không kém gì việc làm cho kẻ chết sống lại. Nó diễn tả sức mạnh cứu thế của Ðức Kitô. Thế nên, làm phép lạ này xong, Ðức Yêsu như giựt mình nhớ rằng chưa đến lúc Người ở trên thập giá, tức là chưa đến lúc Người thanh tẩy và rửa sạch nhân loại tội lỗi trong máu thánh... thế nên Người nghiêm khắc răn bảo kẻ vừa được chữa sạch: không được đem chuyện này nói với ai, nhưng phải đi trình diện với các tư tế và dâng lễ thanh tẩy như Luật dạy, để làm chứng cho họ thấy việc Người làm. Một đàng, Người dạy không được đem sự việc nói cho ai biết, bởi vì đây là hành vi có ý nghĩa cứu thế mà người ta chỉ hiểu được khi Ðức Kitô đã ở trên thánh giá. Nói ra bây giờ, người ta không hiểu và chỉ sẽ coi đây là một phép lạ, khiến họ sẽ lầm tưởng Ðức Yêsu là con người cao tay làm được nhiều phù phép. Nhưng đàng khác kẻ được chữa khỏi kia phải đi vào xã hội và như vậy cần phải có giấy chứng nhận theo luật. Anh ta phải làm công việc này, thì Người nhờ luôn anh ta đến "làm chứng" cho Người ở trước mặt hàng tư tế, hầu họ thấy rằng Nước Trời đã đến rồi vì đã có người làm được những việc như vậy. Nhưng có thể nói Ðức Yêsu đã không thành công trong việc dặn bảo này. Kẻ được khỏi đã đi phao tin mọi nơi đến nỗi khắp nơi người ta tuốn đến tìm Người, cả khi Người lánh đi ẩn thân nơi vắng vẻ. Còn các tư tế, nghe báo cáo về sự việc, họ không nhận ra Nước Trời đã đến mà chỉ thấy uy quyền của họ bị lung lay. Họ còn "ngồi" đấy để làm gì khi chức năng phân biệt "sạch và dơ" không còn đối tượng nữa? Thành ra họ phải tìm cách chấm dứt những việc chữa sạch như vậy. Chúng ta có thể cười họ và tưởng rằng sau khi Ðức Yêsu đã chịu chết trên thập giá thì người ta đã hiểu rõ giá trị của phép lạ chữa kẻ phung hủi kia. Sự thật không đơn giản như vậy. Bài thư Phaolô làm một bằng chứng. 3. Chúng Ta Hãy Bắt Chước Ðức Yêsu Thánh Tông đồ viết cho người Côrintô. Họ đã tin đạo và chịu phép rửa; tức là họ đã nên sạch nhờ mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô. Thế mà họ vẫn còn cái tâm lý "sạch và dơ", làm như thế máu Ðức Kitô chưa rửa sạch được tất cả, và vẫn còn có những sự bên ngoài làm dơ nhớp tâm hồn đã được ơn thanh tẩy. Ðặc biệt họ bảo thịt cúng sẽ làm bẩn linh hồn, khiến giáo đoàn Côrintô xôn xao. Người sợ thì giữ; người khác không sợ thì cứ ăn, nhưng lại không biết giải thích thái độ của mình và hơn nữa còn tỏ ra khinh thị và chọc tức người ta. Thánh Phaolô phải gửi thư can thiệp, giúp đỡ đàn chiên. Ngài khẳng định ngẫu tượng là giả trá, nên thịt cúng cũng chẳng khác gì thịt thường. Có ăn cũng chẳng sao. Tuy nhiên chính cách ăn có thể là không tốt vì để lộ ra những cảm nghĩ không sạch của tâm hồn mình. Như lời Ðức Yêsu đã nói: không phải của ăn của uống bên ngoài có thể làm dơ bẩn con người; nhưng ngược lại chính tâm tư bẩn thỉu của tâm hồn làm dơ bẩn hành động của người ta. Vậy nguyên tắc chung là khi ăn, khi uống hay khi làm bất cứ việc gì, chúng ta hãy làm mọi việc cho vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên cớ cho ai sa ngã phạm tội, một trong mọi sự vào đối với mọi người chúng ta phải có lòng bác ái, không tìm tư lợi nhưng phải giúp người ta được rỗi. Rồi thánh tông đồ kết luận: "Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Ðức Kitô". Thế là để giải quyết vấn đề sạch và dơ, thiêng và tục cho thời đại của người, thánh Phaolô đã bảo mọi người noi gương Chúa Yêsu. Bài Tin Mừng hôm nay vừa cho chúng ta thấy Chúa đã giải quyết vấn đề bằng tình thương. Vì thương người bị bệnh phung, Người đã chữa anh ta. Vì thương những người khác, Người bảo anh đừng đi phao tin cho ai. Vì thương hàng tư tế thời bấy giờ, Người bảo anh đến làm chứng về Người ở trước mặt họ. Tình thương của Người là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy người ta tận cội rễ, tức là rửa sạch tâm hồn và ban cho người ta một sự sống mới, qua mầu nhiệm thánh giá. Chỉ có hy sinh với đấng chết trên thánh giá mới rửa sạch được con người và làm cho họ nên trong sạch và thánh thiện thật. Do đó vấn đề sạch và dơ, thiêng và tục chỉ được giải quyết nhờ mầu nhiệm thánh giá. Vấn đề này chưa hoàn toàn biến mất ở thời đại ta. Người theo khuynh hướng này, kẻ theo khuynh hướng khác. Người cho đây là đạo và kia là tục; kẻ lại bảo kia mới sạch, còn đây thì dơ. Mỗi người biện minh cho thái độ của mình. Thánh Phaolô bảo chúng ta hãy bắt chước Ðức Kitô, hãy hy sinh tư lợi để giúp người ta nên thánh, hãy làm tất cả cho vinh danh Thiên Chúa. Tất cả những lời khuyên này, giờ đây ở trước mắt chúng ta. Chúa Yêsu sẽ hiện diện để chúng ta bắt chước Người. Người không làm gì khác chính việc hy sinh mạng sống để cứu độ chúng ta và làm vinh danh Thiên Chúa. Hành vi đó rửa sạch hơn hết, và đem lại ơn thánh thiện hơn cả. Chúng ta muốn làm cho tâm hồn sạch, muốn làm cho xã hội sạch, chúng ta hãy bắt chước Chúa Yêsu, hy sinh mình cho sự rỗi của mọi người và vinh quang của Thiên Chúa. Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
30 bẬc thang cỦa cuỘc sỐng Kitô HỮU Đây là loạt bài giáo lý mới liên quan tới các tác giả Kitô của Giáo Hội Đông Tây thời Trung Cổ của ĐTC. trong buổi Triều Yết Chung ngày 4-2-2009 tại Sảnh Đường Phaolô VI Anh chị em thân mến,
Sau 20 bài giáo lý về thánh Phaolô Tông Đồ, hôm nay tôi muốn trình bầy các tác giả Kitô lớn của Giáo Hội Đông Tây thời Trung Cổ. Tôi xin đề nghị gương mặt của Gioan Climaco, là chữ phiên âm từ hy lạp ”klímacos”, có nghĩa là cái thang (klímax). Đây là tựa đề tác phẩm chính của đan sĩ, miêu tả cảnh con người leo thang lên với Thiên Chúa. Tác giả chào đời vào khoảng năm 575 và sống trong các năm khủng hoảng trầm trọng nhất của thành phố Bisanzio, thủ đô của đế quốc Roma Đông Phương. Bất thình lình khung cảnh địa lý thay đổi, và phong trào xâm lăng của các dân rợ đã khiến cho các cơ cấu của đế quốc Roma sụp đổ. Đã chỉ có cơ cấu của Giáo Hội là đứng vững và tiềp tục chu toàn sứ mệnh truyền giáo, nhân bản và văn hóa xã hội của mình, đặc biệt là qua mạng lưới các tu viện, trong đó có các nhân vật tôn giáo lớn hoạt động, chẳng hạn như đan sĩ Gioan Climaco. Gioan Climaco sống trong vùng núi, nơi ông Môshê đã gặp gỡ Thiên Chúa và ngôn sứ Elia đã nghe được tiếng Chúa, và ông kể lại các kinh nghiệm thiêng liêng của mình. Tiểu sử cuộc đời người, được đan sĩ Daniele di Raito ghi lại, cho biết năm lên 16 tuổi Gioan Climaco đã trở thành đan sĩ tại núi Sinai và trở thành môn đệ của viện phụ Martirio, một cụ già khôn ngoan. Năm lên 20 tuổi Gioan chọn sống như ẩn sĩ trong một hang đưới chân núi, tại Tola, cách đan viện thánh nữ Catarina ngày nay 8 cây số. Cuộc sống ẩn tu không khiến cho đan sĩ xa cách những ai muốn gặp người để được hướng dẫn trên con đường thiêng liêng, cũng như đi thăm các đan viện khác tại Alessandria. Cuộc sống cô tịch khiến cho Gioan yêu mến tha nhân và yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn (Vita 5, 7). Sau 40 năm sống đời ẩn tu trong khóc lóc cầu nguyện và chiến đấu chống lại ma quỷ, Gioan được chỉ định làm viện phụ của đan viện lớn ở núi Sinai, và trở về sống trong đan viện. Nhưng vài năm trước khi qua đời Gioan lại nhớ cuộc sống ẩn tu, giao quyền hướng dẫn đan viện cho một đan sĩ khác, và qua đời sau năm 650. Đan sĩ Gioan nổi tiếng nhờ tác phẩm ”Cái thang”, được Tây Phương coi như ”Thang của Thiên Đàng” (PG 88,632-1164). Đây là tác phẩm được viện phụ Raito gần núi Sinai xin đan sĩ Gioan sáng tác để trình bầy cuộc sống thiêng liêng, trong đó đan sĩ Gioan miêu tả lộ trình đời đan sĩ từ khi từ bỏ thế gian cho tới lúc đạt sự trọn lành của tình yêu thương. Lộ trình đó được khai triển qua 30 bậc nối tiếp nhau, nhưng có thể tóm gọn trong ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là đoạn tuyệt với thế gian để trở về với tình trạng trẻ thơ của Phúc Âm. Điều chính yếu như thế không phải là sự đoạn tuyệt mà là việc gắn liền với những gì Chúa Giêsu kêu mời, nghĩa là trở về tình trạng thơ ấu thiêng liêng, trở thành trẻ thơ. Đan sĩ Gioan chú giải giai đoạn này như sau: ”Một nền tảng tốt bao gồm ba nền tảng và 3 cột trụ là sự vô tội, việc ăn chay và sự khiết tịnh. Tất cả các trẻ sơ sinh trong Chúa Kitô (x. 1 Cr 3,1) bắt đầu bằng ba điều này, bằng cách noi gương những trẻ sơ sinh trong vật lý” 1,20; 636). Việc tách rời khỏi những người và những nơi thân thiết cho phép linh hồn bước vào trong sự hiệp thông sâu xa hơn với Thiên Chúa. Việc từ bỏ này rộng mở cho sự vâng lời là con đường dẫn tới sự khiêm tốn qua các hổ nhục sẽ không bao giờ thiếu từ phía các anh em khác. Liên quan tới giai đoạn thứ hai của con đường nên trọn lành Đức Thánh Cha nói: Chặng thứ hai của lộ trình là cuộc chiến đấu thiêng liêng chống lại các đam mê. Mỗi bậc thang gắn liền với một đam mê chính, được định nghĩa và chẩn mạch với phương dược chữa trị và nhân đức tương đương. Các bậc thang này chắc chắn là khảo luận chiến thuật tinh thần quan trọng nhất mà chúng ta có được. Tuy nhiên cuộc chiến đấu chống lại các đam mê tích cực nhờ hình ảnh ”lửa” của Chúa Thánh Thần. Đan sĩ Gioan viết: ”Tất cả những ai bước vào cuộc chiến đấu khó khăn và cam go này hãy biết rằng họ bị ném vào một ngọn lửa, nếu họ thực lòng ước ao lửa thiêng liêng ở trong họ” (1,18; 636). Lửa của Chúa Thánh Thần là lửa của tình yêu và chân lý, giúp đem lại chiến thắng. Theo đan sĩ Gioan Climaco cần ý thức rằng các đam mê tự chúng không phải là xấu xa. Chúng trở thành xấu xa vì con người tự do sử dụng chúng một cách xấu xa. Nếu được thanh tẩy, các đam mê mở ra cho con người con đường dẫn tới Thiên Chúa với các năng lực được hiệp nhất bởi khổ hạnh và ơn thánh, và nếu chúng đã nhận được từ Đấng Tạo Hóa một trật tự và một khởi đầu... thì ranh giới của nhân đức là vô tận” (26/2,37; 1068). Giai đoạn cuối cùng là sự toàn thiện Kitô được khai triển trong 7 bậc thang cuối cùng. Đó là các tình trạng cao nhất của cuộc sống thiêng liêng, có thể được kinh nghiệm bởi các người ẩn sĩ sống đơn độc, đã đạt được sự yên tịnh và bình an nội tâm. Nhưng các đan sĩ sốt sắng nhất cũng đạt được chúng. Ba bậc thang đầu tiên là sự đơn sơ, khiêm nhường và phân định. Cũng như các giáo phụ, đan sĩ Gioan coi khả năng phân định quan trọng nhất. Mọi cung cách hành xử đều phải được phân định, mọi sự đều tùy thuộc nơi các lý do sâu xa cần xem xét. Đây là việc thức tỉnh nơi vị ẩn tu, nơi Kitô hữu sự ”nhậy cảm thiêng liêng” và ”ý thức của con tim” như là các ơn của Chúa: ”Sau Thiên Chúa, luật lệ hướng dẫn mọi sự là lương tâm” (26/1,,5; 1013). Như thế con người đạt sự yên tĩnh của linh hồn. Tình trạng an tịnh đó chuẩn bị cho vị ẩn sĩ cầu nguyện với hai chiều kích: lời cầu nguyện của thân xác và lời cầu nguyện của con tim. Lời cầu nguyện của thân xác gồm các cử điệu như giang tay, rên rỉ, đấm ngực vv.. (15,26; 900); lời cầu nguyện của con tim thì tự phát, vì nó là hiệu qủa sự thức tỉnh của sự nhậy cảm tinh thần, là ơn Chúa ban cho người cầu nguyện với thân xác. Trong bút tích của đan sĩ Gioan nó được gọi là ”lời cầu nguyện của Chúa Giêsu” và bao gồm việc gọi tên Chúa Giêsu, liên lỉ như hơi thở: ”Việc nhớ tới Chúa Giêsu hãy là một với hơi thở của con, và khi đó con sẽ biết sự hữu ích của sự an tịnh”, của niềm an bình nội tâm (27/2.26; 1112). Sau cùng lời cầu nguyện trở thành rất đơn sơ, chỉ tên gọi ”Giêsu” đã trở thành một với hơi thở của chúng ta rồi. Đề cập tới nấc thang cuối cùng Đức Thánh Cha nói: Bậc thang cuối cùng được bao bọc bởi sự say mến của Chúa Thánh Thần, dành cho ba nhân đức đối thần tin cậy và nhất là đức mến. Đan sĩ Gioan cũng nói vế đức mến như là ”eros” tình yêu nhân loại, hình ảnh của hôn nhân giữa linh hồn với Thiên Chúa, và người chọn hình ảnh ”lửa” để diễn tả sự nồng cháy, ánh sáng việc thanh tẩy tình yêu đối với Thiên Chúa. Sức mạnh của tình yêu nhân loại có thể được hướng tới Chúa, như một cây ô liu dại được tháp vào cây ô liu tốt (x. Rm 11,24) (15,66; 893). Đan sĩ Gioan xác tín rằng kinh nghiệm sâu đậm về tình yêu nhân loại khiến cho linh hồn tấn tới hơn là cuộc chiến đấu cam go chống lại các đam mê; bởi vì nó có sức mạnh rất lớn. Nhưng đức ái cũng có tương quan chặt chẽ với lòng hy vọng: ”Sức mạnh của bác ái là lòng hy vọng: nhờ nó chúng ta chờ đợi phần thưởng của tình bác ái... Hy vọng là cánh cửa của bác ái... Sự vắng bóng hy vọng hủy bỏ tình bác ái: các lao nhọc của chúng ta được cột buộc vào nó, các khổ đau của chúng ta được nó đỡ nâng, và nhờ nó mà chúng ta được lòng xót thương của Thiên Chúa bao bọc” (30,16; 1157). Phần kết luận của tác phẩm ”Cái Thang” bao gồm tổng kết của tác phẩm với các lời của Thiên Chúa: ”Cái thang này dậy con sự sẵn sàng của các nhân đức. Ta ở trên đầu thang, như Phaolô người đã được Ta khai tâm nói: Giờ đây tồn tại cả ba điều: tin cậy mến nhưng lớn nhất là đức mến” (1 Cr 13,13)(30,18; 1160). Trong phần cuối cùng của bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định rằng tác phẩm do đan sĩ Gioan Climaco viết ra cách đây 1400 năm vẫn còn thời sự và có giá trị đối với tín hữu ngày nay. Lộ trình cuộc sống đan tu đó biểu tượng cho cuộc sống của Kitô hữu, trong sự hiệp thông với Chúa Kitô, với cái chết và sự phục sinh của Ngài. Các bậc thang cuối cùng là các nhân đức quan trọng nền tảng của cuộc sống Kitô. Đức Tin, đức Cậy đức Mến là ơn Thiên Chúa ban cho tất cả mọi tín hữu đã được rửa tội, chứ không phải chỉ ban cho các anh hùng luân lý. Biết leo trọn vẹn chiếc thang đó là chúng ta đạt sự sống thật. VĐTC Bênêđictô XVI
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và theo quan niệm của người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do tác động của một thứ thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ dưới quyền lực của ma quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với người trong sạch. Theo lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng xã hội của những kẻ mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng loài người, cả về phương diện xã hội lẫn tôn giáo. Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy chi tiết giúp chúng ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu. Thực vậy chính người mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và van xin Ngài cho anh được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh muốn Chúa Giêsu cho anh được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và được gia nhập cộng đồng xã hội. Hành động của người mắc bệnh quả là táo bạo. Anh đã liều lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh người khác, thậm chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với Chúa Giêsu, để trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành. Hành động liều lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở quyền năng của Chúa Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ thương yêu của Ngài, muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã từng được nghe thiên hạ nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã không tin tưởng hão huyền. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và lòng tin của anh. Và Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa anh. Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài đã giơ tay đặt trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như là một sự khuyến khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật, hay nói cách khác, lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được lành hãy đi trình diện cùng trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi thức mà tất cả những người được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để được công khai và chính thức tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội. Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó, với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.
Chiếc xe buýt Buôn Trấp, ngoại ô thành phố Buôn Mê Thuột tạt vào trạm đón khách. Môt nữ tu nhỏ nhắn Dòng Nữ Vương Hòa Bình nhanh nhẹn bước lên. Người soát vé hỏi đi đâu. Nữ tu nhanh nhẩu đáp: “Làm ơn cho tôi xuống trại cùi E Ana!” Nghe thế, hành khách đang nêm kín trên xe, bỗng nhiên tự động dạt ra, để tránh cho xa nữ tu ấy. Thấy ghế trống do khách bỏ lại, nữ tu liền nhìn quanh cúi đầu, mỉm cười cám ơn, rồi lặng lẽ ngồi xuống lần hạt. Hình ảnh đó lâu nay đã trở nên qúa quen thuộc trên tuyến đường này. Thậm chí nhiều khi người soát vé cũng ngần ngại, chẳng dám đến gần, để thu tiền vé của nữ tu đang phục vụ trại cùi ấy! Ngày nay, mặc dầu y khoa đã chế ngự và chữa trị được bệnh phong hủi, nhưng người ta vẫn không thế thoát được nỗi kinh hoàng về chứng tưởng như nan y ấy. Thế mà từ hơn 2000 năm trước, có người cùi đến gặp Chúa Giê su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch, Ngài chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. (Mc 1, 40-42) Chúa Giêsu thật sự là nhà cánh mạng lỗi lạc tiên phong đối với bênh nhân phong cùi. Sau này, còn biết bao vị thánh theo chân Người đến an ủi người cùi, như thánh Phanxicô Assisiô khó khăn, Cha Thánh Đa Miêng, cùng gần đây Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn Jean Cassaigne, các tu sĩ phục vụ trại phong … Hiện nay bệnh cùi thể xác đã có thể điều trị được, nhưng bệnh cùi tâm hồn mới thật sự đáng sợ. Tính bất nhân, vô cảm, gian manh, cùng những điều ác mới chính là chứng bệnh nan y, vô phương cứu chữa, nếu không tìm đến nguồn ơn cứu độ của Đức Kitô. Cứ đơn giản bắt chước thái độ chân thành, tin cậy và quả quyết của người cùi trong Tin Mừng, mà nguyện xin: Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch, chắc chắn không ai phải thất vọng. Tiếc thay, hình như bây giờ người ta dửng dưng với chứng bệnh cùi tâm hồn. Tựa như câu nói dân gian: Cùi không sợ lở! Người ta còn thích ung dung sống chung, sống cùng, sống với nó nữa, chẳng hề khiếp đảm hay mắc cở. Nên nào muốn chữa trị tuyệt nọc. Nào muốn sám hối, chạy đến tòa Hòa Giải, mà Chúa Giêsu vẫn hằng mòn mỏi chờ đợi để tha thứ, để chữa trị bình phục. Có lẽ Chúa đành chịu bó tay, chỉ biết tiếc thương cho những con bệnh ngoan cố xa lánh Ngài. Lạy Chúa, xin cho con được thoát khỏi những chứng hư tật xấu vô luân, khỏi những đam mê xác thịt, khỏi những cám dỗ tiền tài, danh vọng, để trở nên sạch sẽ trước nhan thánh Chúa. Lạy Mẹ mến yêu, xin dìu dắt con thoát khỏi ách nô lệ của bệnh cùi hiện đại, tránh xa những cạm bẫy ba thù, để con hy vọng được sạch sẽ về cùng Mẹ. Amen. AM Trần Bình An
Cùi hủi là một con bệnh đáng ghê sợ nhất. Nhiều ngàn năm trước, bệnh phong cùi đã xuất hiện nơi thân xác của con người. Đây là một bệnh truyền nhiễm và ô uế. Theo luật của dân Do-thái, ngay từ thời Môisen đã có những hướng dẫn riêng dành cho những người bị bệnh phong cùi. Những người mắc chứng bệnh phong cùi phải ở riêng, mặc áo rách, để đầu trần, lấy tay che miệng và la cho mọi người biết để đừng ai đến gần. Thật là khổ sổ và đau lòng! Con vi trùng cùi hủi quái ác đã ăn cướp mất nhân phẩm của con người. Thân phận của những người phong cùi thật đáng thương, họ bị tách lìa khỏi gia đình, cộng đoàn và mọi sinh hoạt chung. Họ bị bỏ rơi và bị người đời khinh bỉ, xem họ như là những thân xác đáng ghê tởm mà mọi người cần xa tránh. Người xưa chưa có cách phòng bệnh và trị bệnh nên những ai bị mắc phong cùi thì như lãnh một bản án chung thân. Nỗi đau thân xác khôn lường, mà nỗi đau của tâm hồn lại càng khốc liệt. Những người phong cùi phải xa tránh mọi người và tự lo cho cuộc sống mình. Họ bị tước mất tư cách làm người và mất cả nhân phẩm. Họ khổ đau quằn quại khi thân xác bị lở loét, cùi cụt và hôi thối. Mọi người không đến gần, ngay cả những người thân thiết trong gia đình cũng không được chung đụng. Chúng ta không thể tưởng tượng được nỗi sầu khổ và mặc cảm lấn chiếm tâm hồn họ. Họ bị rơi xuống đáy vực thẳm của kiếp nhân sinh. Lê lết sầu muộn từng ngày nơi hoang vắng cô quạnh. Đau khổ hơn nữa là khi đối diện với những ánh mắt khinh thị và kinh hãi. Chúng ta nhớ rằng khả năng khoa học y tế của con người thời đó đành bó tay với cùi hủi. Ngày nay vẫn còn nhiều người bị nhiễm chứng bệnh phong cùi nhưng nhờ có thuốc thang ngăn ngừa, họ cũng được giảm bớt đau khổ phần nào. Với cuộc sống xã hội đương thời, những người phong cùi cho dù được sự thăm viếng, chia sẻ, thông cảm và ủi an nhưng họ vẫn còn phải chịu nhiều sự tủi nhục và sầu khổ. Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng giải thoát. Chúa có uy quyền chữa lành cả thân xác và tâm hồn. Hai ngàn năm trước, với khả năng của con người, sự chữa lành của cả hai nhu cầu vật chất và tâm linh đều rơi vào ngõ cụt. Cộng thêm sự phân chia giai cấp và cách đối xử bất công trong xã hội không có lối thoát. Chúa Giêsu đã xuất hiện trong bối cảnh xã hội mà nhiều người bị loại trừ. Sự thực hành đời sống tôn giáo và xã hội thiếu tình yêu thương bác ái. Những người bệnh hoạn tật nguyền, phong bại, phong cùi và qủy ám là những thứ bệnh quái ác hoành hành khắp nơi. Tất cả những ai chạy đến với Chúa đều được xót thương chữa lành. Cả những bệnh cùi hủi trong tâm hồn, Chúa Giêsu đã tẩy sạch và tha thứ. Tâm trạng bị bỏ rơi và chối từ làm cho con người cảm thấy cô đơn sầu khổ. Không chỉ bệnh cùi mà cả những chứng bệnh thời đại. Những người già cả ốm đau bị con cái bỏ rơi. Những trẻ thành niên bị chối từ khỏi gia đình, không được yêu thương và chấp nhận. Những trẻ em sơ sinh bị bỏ rơi vì bị cha mẹ coi như một món nợ. Những người tàn tật và què quặt không được tiếp nhận vào những đại tiệc của xã hội. Những khách lạ hiền lương bị chối từ nơi ẩn trú. Những người vô gia cư và vô nghề nghiệp không có nơi nương tựa và bị coi như là những kẻ ăn bám xã hội. Những người mắc những chứng bệnh thời đại Si-đa cũng bị xô đẩy vào đường cùng phải sống trong cô đơn và loại bỏ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người sống cần có tình yêu, tình người và sự chấp nhận. Còn biết bao những khinh miệt khác đối với những con người không sống theo kỷ luật bị coi như những tội phạm của xã hội. Những nhóm người gây khủng bố, gian tham, cướp của giết người, buôn bán nô lệ, thuốc phiện, buôn bán tình dục phụ nữ trẻ em, những bà tú, ma cô và nhà độc tài gian ác…Chúng ta cũng nên nhớ rằng không phải tất cả các tù nhân đều là tội phạm cả đâu. Có nhiều người bị nhốt tù vì công lý, vì bất đồng chính kiến, vì niềm tin, vì lương tâm và vì nhiều lý do khác tùy theo từng chế độ. Xã hội có muôn mặt và muôn cách sống. Chúng ta khó có thể phân biệt trắng đen, lành dữ, xấu tốt và phải trái, khi dựa vào những phán đoán của con người. Tất cả các tệ trạng của con người xã hội đều là những căn bệnh cần phải được chữa trị. Con người phải đi tìm đúng nguồn cội quyền lực để xin ơn chữa lành cả xác lẫn hồn. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi ân sủng chữa lành. Bệnh nào cũng cần thuốc chữa. Con người có cả ngàn thứ bệnh khác nhau cả về thể xác lẫn tinh thần. Mỗi một thứ bệnh cần có những liều lượng thuốc chữa trị riêng. Chúa Giêsu có toàn quyền trên cả vũ trụ hữu hình và vô hình. Ngài có quyền sáng tạo, chữa trị, đổi mới và hoàn thành. Câu truyện phúc âm, người bệnh cùi đến van xin Chúa chữa lành, Chúa đã giơ tay đặt trên người đó và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Chúa chỉ cần muốn là mọi sự thực hiện theo ý của Ngài. Bệnh cùi được chữa lành ngay tức khắc. Chúng ta nhớ câu truyện của ông Saulô, đang khi đi bách hại người Kitô hữu, một luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và Chúa Giêsu đã biến đổi ông thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Chúa có thể biến đổi tất cả theo ý muốn của Chúa. Thánh Phaolô sau khi đã trở lại với Chúa Kitô, ngài đã không ngừng loan báo tin mừng. Trong mọi sự như ăn, như uống hay làm bất cứ việc gì, Phaolô khuyên dậy chúng ta hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Phaolô đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao Chúa không đánh ngã thêm nhiều người nữa để họ tiếp tục mở rộng Nước Chúa? Biết rằng tư tưởng của Chúa vượt hẳn trên tư tưởng loài người và đường lối của Chúa cao siêu hơn đường lối của con người. Chúa muốn chính mỗi người chúng ta làm nhân chứng cho Chúa. Chúa muốn cứu độ mỗi người bằng chính sự sám hối và trở về của họ. Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa thái độ. Chúng ta hãy đến quỳ gối van xin: Nếu Chúa muốn, Chúa có thể khiến con nên sạch. Đặt niềm tin vào Chúa Kitô và qua Giáo Hội, Chúa đã ban các ân điển qua các Bí Tích, Á Bí Tích, các kinh nguyện và sự thực hành sống đạo sốt mến. Từng bước phát triển đời sống đạo qua các Bí Tích chúng ta lãnh nhận, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn ơn sủng của sự chữa lành. Bệnh phong cùi cũng như tội lỗi của con người thật ghê gớm. Ai cũng sợ hãi những chứng bệnh cùi hủi, bệnh siđa, bệnh ung thư hay một số bệnh chết người. Khoa học y tế có phát triển vượt bực nhưng con người vẫn còn cảm thấy bất lực hoặc chào thua trước những con bệnh hiểm nghèo này. Một thực tại sống mà chúng ta không thể chối từ. Sinh, lão, bệnh và tử là lẽ thường ở đời. Điều quan trọng là chúng ta hãy đón nhận thân phận làm người với tất cả những biến chứng của nó. Hãy tôn trọng nhân phẩm, đối xử và đón nhận mọi người như là con người, cùng chung một Cha trên trời. Chúng ta đừng khinh khi loại trừ, ghét bỏ ruồng rẫy và đóng cửa gài then trước những mảnh đời cùng khổ. Lạy Chúa, đã nhiều lần chúng con ngã bệnh và phạm tội làm nhơ nhuốc tấm linh hồn, xin Chúa giơ tay chữa lành và rửa sạch những vết nhơ bụi trần. Xin cho chúng con biết chia sẻ lòng nhân ái với những người bất hạnh, biết giơ tay đón tiếp những kẻ cùng khốn và biết chấp nhận mọi người như là anh chị em, để chúng con tìm được nguồn ủi an và chữa lành đích thực của Chúa cả trong tâm hồn lẫn thể xác. Chúng con chỉ biết dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân. Chúng con đã được lãnh nhận dư tràn ơn sủng của Chúa trong suốt đời sống. Chúng con cầu xin Chúa.
Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài người đã được khẳng định trong các trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi người đều hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài người khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về sứ vụ của Ngài đối với chúng ta. Bệnh tật. Chúng ta thất vọng và chua xót khi thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu, người ta hầu như không có cách nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta thường mặc nhiên gán cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại Israel, bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành được nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn bệnh tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi. Người phong cùi đến với Chúa Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là được hồi phục trong thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ được tái sinh. Thái độ của Chúa Giêsu. Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải giữ thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều nhận thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc phiền toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá hiển nhiên như thế. Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và sinh tội nữa. Còn việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý Chúa nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ này. Người phong cùi. Theo Tin Mừng, người phong cùi không có vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng được, anh nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối xóm. Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành và anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống mới, cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó, Ngài vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những kẻ đã được thương xót. Kết luận. Trong lòng mỗi người chúng ta có một nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự gắn bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý thức. Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.
Căn bệnh cùi đã lây nhiễm rất nhiều trong xã hội thời bấy giờ. Vào thời Chúa Giêsu căn bệnh này thì đáng sợ nhất trong mọi thứ bệnh tật. Những khuôn mặt bị tàn phá của nạn nhân đã cưỡng bách họ phải sống trong vùng hoang mạc xa cách gia đình và bạn bè, họ không còn xứng đáng thờ lạy một cách công khai nữa. Khi người phong cùi tiến đến gặp Chúa Giêsu để tìm sự chữa lành, ông ta đã ra ngoài giới hạn của mình. Ông không được phép rời khỏi chỗ lưu đày của mình để đến nơi dân chúng tụ họp lại. Ông là một người đã bị xã hội ruồng bỏ. Đúng hơn khi yêu cầu sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, ông ta đã kêu lên: “Tôi bị ô uế, tôi bị ô uế” và như vậy là không ai dám đến gần ông ta. Đoạn Phúc Âm ngày hôm nay thì rất đặc biệt, không những Chúa Giêsu tiếp đón người đàn ông đó; mà thật sự Ngài còn đưa tay ra và đụng đến ông. Ngài không xua đuổi, khinh bỉ người đàn ông biến dạng khốn khổ này. Và hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã kêu xin một quyền lực cao hơn của luật Lêvi là bất cứ ai đụng đến người hủi là người không thanh sạch và như thế có nghĩa là người không xứng đáng làm việc thờ lạy. Chúa Giêsu đã ngấm ngầm loại bỏ điều luật như vậy và Ngài tuyên bố đức Ái cao hơn tất cả các việc khác. Ngài nói với người hủi hãy đi trình diện với tư tế ở đền thờ để vị tư tế tuyên bố ông đã được sạch bệnh hủi và chấp nhận cho ông trở lại việc thờ phượng công khai. Ngài muốn thay đổi thái độ của chúng ta hướng đến những người hủi và những người bị loại bỏ trong xã hội. Chúng ta cần phải chấp nhận một thách đố từ Chúa Giêsu, không nhìn những người hủi như là chưa bao giờ nhìn thấy, nhưng hãy nhìn những người đó với tất cả sự quan tâm bởi họ đã bị những người cùng thời khinh miệt. Căn bệnh đáng sợ nhất trong thời đại của chúng ta là bệnh Siđa, một cách nào đó như là bệnh hủi trong thời đại chúng ta bây giờ. Một số người nhanh chóng kết án bất cứ người nào lây nhiễm HIV, làm như đó là một sự xuống cấp của luân lý, đi xa hơn nữa có thể nói Thiên Chúa đã phạt họ, rằng họ phải chịu như vậy thì đáng lắm, Chúa Giêsu không hỏi người cùi về đạo đức của ông. Người không làm một xét đoán nào về ông ta ngay cả khi Ngài đọc được nỗi lòng của ông. Chúa Giêsu biết Cha của Người là Thiên Chúa nhân từ và hay tha thứ và Chúa Giêsu đã đến để trợ giúp người phong hủi này. Điều đó nói với chúng ta thái độ mà chúng ta phải trở thành. Một số người bạn của chúng ta muốn người ngoại quốc ra khỏi đất nước của mình. Thái độ đó của họ chính đáng khi xem những người dân nhập cư như tội nhân, bởi vì họ hay xem thường và hay phá luật. Giáo Hội không bào chữa cho bất kỳ hành động bất công hay thô bạo nào, nhưng Giáo Hội vẫn lấy Chúa Giêsu làm gương mẫu đức ái thì cao hơn bất cứ luật nào khác. Một số người nhìn vẻ khinh miệt trên những người lãnh tiền trợ cấp, họ là những bà mẹ không kết hôn, họ rất nhanh chóng dè bỉu các phần từ khác trong nòi giống hoặc quốc gia có điều gì hơn bản thân họ. Có ai lắng nghe Phúc Âm rồi lại khinh bỉ người khác không? Có người nào theo Chúa Giêsu trong hành trình nhân từ và thương xót của Người để rồi đối xử với người khác cách khinh bỉ không? Có người nào cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, mà lại kết án người khác không? Ngày nay ít người mắc bệnh hủi nhưng lan tràn giữa chúng ta là căn bệnh oán ghét, tự cho mình là công chính và loại bỏ những người bạn của mình, những người có lương tâm không thể có những tinh thần đó, nó xa lạ với những người theo Chúa Giêsu.
Đối với tâm lý người xưa nói chung và người Do Thái nói riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng. Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái trục xuất người phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi phải ra khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên tiếng làm hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô phúc cho ai bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong cùi, khi thấy thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám nghiệm. Nếu đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã hội. Anh chị em thân mến, Có hiểu số phận thảm thương của người phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán: “Ta muốn anh được sạch”, tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong cùi được lành sạch. Ngày nay, quan niệm khắt khe đối với bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và đang xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới. Với đà tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được hết bệnh phong cùi. Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà khoa học không bao giờ chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn. Thưa anh chị em, Chúng ta đã biết, theo luật pháp Do Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người, không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, “Ngài đưa tay ra đụng đến người phong cùi”. Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật… Thái độ tin tưởng của người phong cùi và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta đừng bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập mình với anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy biết quảng đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi người. Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một “cái mình khác” của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém… Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Bằng chính lời nói, hành động yêu thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và thông hiệp với những người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên trời. Có lẽ ông bà anh chị em đã được nghe nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mục Giáo phận Sài Gòn của chúng ta trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mục Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân phong cùi thân yêu của ngài ở trại phong cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một người bạn của người phong cùi, một chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, một con người hy sinh phục vụ người phong cùi, chấp nhận mang lấy bệnh phong cùi của họ và chết đi ở giữa họ. Mười tám năm trời, ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh nhân phong cùi, không mấy ai biết đến. Nhưng khi ngài mất đi vào năm 1973, mọi người hay biết đều cảm phục tấm gương hy sinh anh dũng của ngài, ngài đáng được gọi là : “Cha của người phong cùi”. Tấm gương bác ái cao cả đó, không phải ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh người phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài. Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống quảng đại mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho chúng ta.
Thời Chúa Giê-su, người mắc bệnh phong lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát và thảm hại. Cuộc sống của họ tồi tệ ngàn lần hơn cái chết. Thà chết phứt đi còn hơn là phải chịu cái chết dần mòn trong đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần. Nỗi đau thương nhất mà người phong hủi phải gánh chịu là bị cách ly khỏi cha mẹ, bạn trăm năm, con cái, những người thân yêu và hết thảy mọi người để sống trong sự ghê tởm, ghẻ lạnh của người đời và kết thúc cuộc đời bằng cái chết cô đơn thảm hại. Bài trích sách Lêvi được trích đọc trong phụng vụ hôm nay diễn tả phần nào tình trạng thương tâm đó: "Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế!". Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế. Nó phải ở riêng ra, cách ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một nơi riêng bên ngoài trại." (Lêvi 13, 45-46) Tội lỗi cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa Giê-su. Tội lỗi cũng y như một thứ bệnh phong hủi trong tâm hồn gây tác hại cho người lỗi phạm không thua kém. Giáo lý công giáo dạy rằng bí tích thánh tẩy tháp nhập người tín hữu vào Thân Mình Chúa Giê-su như cành nho được tháp vào thân nho và cũng như thân nho chuyển thông nhựa sống nuôi cành thế nào thì Chúa Giê-su cũng chuyển thông sự sống thần linh của Người cho các tín hữu như thế. Bí tích thánh tẩy làm cho "người tín hữu trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa Giê-su" (giáo lý công giáo số 1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của Chúa Giê-su được thông ban cho họ y như sự sống của toàn thân châu lưu trong từng chi thể. Thế nhưng, khi phạm tội trọng, người tín hữu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su như cành nho bị chặt phăng khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể. Hậu quả của việc cắt lìa nầy là họ trở nên như một cành nho khô héo, thành một bàn tay đứt lìa, và vì thế, sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa không còn được thông ban cho họ nữa. Thân phận của họ lúc nầy còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi bị gạt ra khỏi gia đình, thôn xóm và cách ly với mọi người. Chúa Giê-su cứu ta khỏi tội và đưa ta hoà nhập lại với Hội Thánh. Khi "người bị phong hủi đến gặp Chúa Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúa Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch." (Mc 1, 40-42) Làm sao tả hết nỗi mừng vui hoan hỉ của người phong được Chúa chữa lành. Anh ta reo lên vui sướng và mặc dù Chúa Giê-su nghiêm cấm anh tiết lộ danh tánh Người đã cứu chữa anh, nhưng niềm hạnh phúc trào dâng không thể nào kìm nổi đã khiến anh phải cao rao cho mọi người biết hồng ân anh đã lãnh nhận. (Mc 1, 42) Từ đây, anh được thoát khỏi chứng bệnh quái ác và không còn bị cách ly với xã hội loài người, được giã từ nơi cô tịch để về sum họp với gia đình, làng xóm, được đoàn tụ với bao người thân yêu. Hôm nay, để cứu chúng ta khỏi tình trạng "cành lìa cây", "cánh tay bị cắt lìa cơ thể" do tội lỗi gây ra, Chúa Giê-su lập nên bí tích giải tội để nối kết chúng ta lại với Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người tiếp tục truyền qua cho chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho cành, như sự sống từ thân mình chuyển qua cho bàn tay. Ngày qua ngày, Chúa Giê-su vẫn trông chờ chúng ta ăn năn trở về như người cha chờ đợi đứa con đi hoang, như mẹ hiền mong ước đứa con lưu lạc trở về. Người vẫn thao thức tìm kiếm chúng ta như người chủ chiên đi tìm con chiên lạc rất yêu dấu. Ước gì chúng ta biết thành khẩn tìm đến với Chúa Giê-su như người mắc bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay, khiêm tốn quỳ xuống trước mặt Người và tha thiết van xin: "Lạy Chúa, xin thanh tẩy linh hồn con nên trong sạnh. Xin cho con được giao hoà với Chúa để sự sống của Chúa lại được thông truyền cho chúng con."
Bác sĩ Collins là một người vô tín, có kiến thức cao, ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi: - Bác đi đâu vậy? - Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa. - Chúa của bác to hay nhỏ? - Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức các tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim tôi. Câu nói của bác nông dân đã tóm gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi sự. Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim ta. Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như vậy. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người phong cùi là loại người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung với cha mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với người phong cùi. Trò chuyện với họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó, một người phong cùi đã nghe nói về Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt Chúa và van xin: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”. Chuyện này xảy ra vào giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như một dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng, mới có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho thần linh, cho Thượng Đế. Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận. Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu thương đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành chúng con và những người anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi khen Ngài.
Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết" lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi. Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa. Anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa. Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những "dấu chỉ" của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là "kêu xin" Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: "Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại. Động lòng thương trước người đó. Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: "splagknisteis" có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và "orgisteis" có nghĩa là "nổi giận". Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ "nổi giận" nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai "câu dịch" đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một "phản ứng rất nhân bản"! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là "hiện thực", đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận ... "Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người". Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính "Thiên Chúa hiện hình cụ thể". Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước "vấn đề sự dữ", họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa. “Động lòng thương". Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng "làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể "hoàn hảo" được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là "Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian "không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn "hữu hạn", rõ ràng “không phải là Chúa". Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào "thế gian này". Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người. Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người "nổi giận", đã khơi dậy "lòng thương xót" của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một "dấu chỉ" báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự "sẽ được hoàn tất" (Rm 8,18). Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến "bàn tay". Ở đây, đối với một người phong hủi, một người "không ai được sờ động đến", thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: "Nhơ! Nhơ!": Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi. Người bảo: "Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh". Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một "cử chỉ" và "bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô". Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: "Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: "Nếu Ngài muốn điều đó", nhưng là nếu Ngài muốn". Và Đức Giêsu cũng không đáp lại: "Tôi muốn điều đó", mà là "Tôi muốn". Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ "điều đó", những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn. Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một "hình phạt của Thiên Chúa", Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9). Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là "biểu tượng" của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận" và "lời" của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi. Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động "chữa lành" của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y. Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay. Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: "Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng"). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người "nhu mì", mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị. Coi chừng, không được nói gì với ai cả. Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: "không gì hết", "không với một ai cả". Đó là “bí mật Thiên Sai" nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc "giải phóng" con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại . Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta. Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22). Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Đối với Maccô. “Lời" được công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên "kẻ cứu độ" người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những "nơi hoang vắng". Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một "Thiên Chúa ẩn giấu”.
Những bài chia sẻ tràn ngập trên mạng và dường như mang những nét khá giống nhau I. Trước hết là định nghĩa phong cùi tâm hồn Bệnh phong cùi tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn.
II. Phương thức chữa trị bệnh phong cùi tâm hồn 1. Chạy đến với Chúa Giêsu Bởi đó, với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta. Tôi đã chạy đến với Chúa qua cầu nguyện, qua học hỏi, qua chia sẻ Lời Chúa, qua Thánh Lễ, qua tĩnh tâm hàng trăm lần rồi. Thế mà bệnh phong tâm hồn vẫn chẳng hề thuyên giảm. 2. Máu Thánh Chúa Kitô Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Tôi đã rước Máu Thánh Chúa Kitô hơn 7000 lần rồi Thế mà bệnh phong tâm hồn vẫn không ngừng ăn mòn tâm hồn tôi!!! 3. Sự chết và và sống lại của Chúa Giêsu Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người. Tôi đã mừng Chúa tử nạn và phục sinh ít là 30 tới 50 lần Thế mà bệnh phong tâm hồn vẫn tiếp tục giết chết các tế bào tâm hồn tôi!!! 4. Nhiệm Tích Hòa Giải Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn. Tôi đã nhận Nhiệm Tích Hòa Giải khoảng 300 tới 500 lần… Thế mà bệnh phong tâm hồn vẫn có vẻ ngày càng lây lan khắp tâm hồn tôi..
III. Lời kêu gọi thực hành 1. Hãy biết nhìn người ta như một “cái mình khác” của chính mình. Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một “cái mình khác” của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém… Trời ơi, làm sao tôi có thể yêu anh em như chính mình được. Chuyện này chỉ để nói cho vui thôi. Bố ai mà thực hành cho được!!! 2. Hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Lạy Chúa tôi! Chuyện này còn khó hơn mò kim đáy biển. Lý do: Tôi lấy con mắt nào để thấy Chúa trong anh em… đang khi tôi chưa nhận ra Chúa hiện diện sống động ngay trong tâm hồn mình. 3. Đừng gán cho người khác những nhãn hiệu thù nghịch Đừng gán cho người khác những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài. Chuyện này xảy ra như cơm bữa. Chỉ có cộng đoàn tôi là nhất, những cộng đoàn khác không có cửa để sánh với cộng đoàn của tôi đâu. Ai có quan niệm khác với quan niệm của tôi từ xưa tới nay thì đều là “rối đạo” hết!!! Thí dụ: - Tôi tin như đinh đóng cột: Tôi là vật phàm hèn. Ai tuyên bố ta là con yêu dấu của Chúa. Tên ấy “rối đạo là cái chắc”!!! - Tôi tin như Kinh Tin Kính: Ý của bề trên là ý Chúa. Ai nói khác. Tên ấy chính là “kẻ rối đạo mười mươi” 4. Hãy quyết tâm Ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Với tinh thần của vật phàm hèn, với tâm trạng yếu đuối của tên tội lỗi ngập đầu thì những lời kêu gọi dù có vẻ hùng hồn mấy đi nữa cũng chỉ là những biểu ngữ giăng mắc khắp nơi để hô hào chứ không thể thực hiện nổi !!!!
Thế thì phải làm sao bây giờ?? Bấy lâu nay chúng tôi bị nhồi nhét tư tưởng mình là kẻ tội tội lỗi như vậy cũng có nghĩa là tôi bị phong cùi trong tâm hồn từ trong trứng nước. Để hy vọng chữa được bệnh tai quái này, người ta bày ra trăm phương ngàn kế như trình bày ở trên… Nhưng rõ ràng là cả thầy thuốc kê toa lẫn hàng triệu bệnh nhân vẫn phải tiếp tục mang bệnh phong trong mình …suốt cả đời. Lý do: Tôi vốn là kẻ tội lỗi..cũng có nghĩa là tôi vốn là tên bị bệnh phong mãi mãi… Vì thế… Trước hết và trên hết là phải xây dựng quan niệm sống đạo tích cực hơn. Chuyện tội lỗi, chuyện bệnh phong tôi xếp vào hàng thứ yếu..đây là tư tưởng tiêu cực Từ nay, tôi xây dựng một quan niệm mới: tôi vốn là con yêu dấu của Chúado chính Ngài sinh ra (Ga 1: 13). Và tôi tập dựa vào sức mạnh vô song của Thần Khí mà Chúa đã tuôn đổ vào tâm hồn tôi (Rm 5:5; 2Tm 1:7) để tôi lướt qua khó khăn, gian nan, cám dỗ, tội lỗi…. Nếu tôi kiên trì luyện tập như thế thì sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa ngày càng phát huy công lực thâm hậu hơn..và bệnh phong tâm hồn sẽ tự động dần dần tiêu tan….
Xưa nay, bệnh phong cùi vẫn làm cho người khác e sợ, lánh xa.Dù rằng, ngày nay y khoa không còn bó tay trước bệnh phong cùi mà lúc xưa nhân loại xếp vào loại bệnh nan y…Bệnh phong vào thời Chúa Giêsu vẫn bị xếp vào loại bệnh bất trị, ai cũng phải tránh xa người bị phong cùi và người mắc bệnh phong đi đâu cũng phải la to lên:” Ô uế ! Ô uế “ ( Lv 13, 45-46 ). Bệnh phong cùi xem ra là một hình phạt của Thiên Chúa theo quan niệm của người Do Thai. Vâng, người Do Thái cho rằng những người mắc bệnh phong cùi là những người bị Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại trừ. Họ bị liệt vào thành phần tội lỗi và không được tham dự bất cứ nghi lễ gì trong các hội đường. Họ phải sống xa xã hội và sống thành từng nhóm nơi các mồ mả,nơi thâm sâu cùng cốc. Họ phải la lên “nhơ bẩn, nhơ bẩn “ để mọi người nghe mà tránh xa. Do đó, chúng ta thấy hoàn cảnh của một người bị bệnh phong hủi hôm nay trong Tin Mừng của thánh Marcô. Vâng, người bị bệnh phong cùi trong Tin Mừng hôm nay có tư cách khá đặc biệt. Anh không mặc cảm, không la to như mọi khi, nhưng anh tự ý đến gặp Chúa Giêsu, và khi đến trước mặt Ngài, anh ta quỳ xuống van xin rằng :” Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ ( Mc 1, 40 ). Anh cùi nại vào lòng thương xót của Chúa. Anh ta không dám xin, nhưng để quyền tự do của Chúa, chữa hay không chữa tùy ý Ngài…Anh phó thác hoàn toàn vào Chúa. Anh tin tưởng và hết sức muốn Chúa chữa bệnh cho anh. Nên, chính sự đơn sơ, phó thác và tin mãnh liệt vào Chúa đã khiến Chúa chạnh lòng thương, cứu vớt, chữa lành cho anh. Lòng tin đã giúp anh :” Tôi muốn, anh sạch đi “ ( Mc 1,42 ). Phép Chúa Giêsu làm cho anh phong cùi phát xuất từ lòng tin của anh và từ quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chạm vào người phong, một cử chỉ không được phép vì phạm luật. Nhưng Chúa vẫn làm bất chấp luật lệ Do Thái. Chúa Giêsu muốn đánh đổ những lệch lạc của người Do Thái liên quan đến lề luật. Chúa đặt tay trên người cùi khiến họ được tiếp xúc với Con- Người- Chúa- của- Chúa, nhờ đó con người được lãnh nhận ân sủng từ nơi Người. Do đó, bệnh phong biến mất và anh ta được lành sạch. Người phong cùi trong lúc thất vọng vì mang một căn bệnh quái ác, nan y, trong khi anh bị xã hội khinh chê, loại trừ và ghép vào loại tội lỗi công khai. Anh đã tin tưởng, phó thác nơi Chúa, nên anh đã được Chúa yêu thương, cứu chữa. Chúa Giêsu vừa tự do với lề luật, vừa lệ thuộc lề luật. Ngài bảo người phong cùi được lành sạch đi trình diện tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê. Người phong cùi giờ đây được tự do hoàn toàn, anh được nhập với xã hội đời thường, được chung sống với cộng đoàn và được hiệp thông với Thiên Chúa. Anh được trả lại phẩm giá con người, phẩm giá anh bị mất khi anh bị mang căn bệnh nan y này. Giờ anh được tự do và được vui sống. Anh mang theo mình một niềm vui khôn tả. Anh đi loan báo khắp nơi về một Đấng đã chữa lành anh là Đức Giêsu. Anh phong cùi được lành sạch đã có thể vào thành tự do, còn Đức Giêsu thì phải ở ngoài thành và đi vào nơi hoang vắng. Bệnh phong ngày nay không còn là bệnh nan y, bất trị nữa vì y học đã tìm ra vi trùng Hansen. Nhưng những người bị bệnh phong cùi được điều trị khỏi bệnh nhưng hòa nhập tự nhiên vào xã hội bình thường như mọi người vẫn là chuyện khó. Ở đời, còn có nhiều loại bệnh, nhiều loại người chúng ta vẫn khó tới gần hay họ cũng rất khó tới với chúng ta được. Chúng ta hãy có lòng nhân từ như Chúa bởi vì chúng ta không bị bệnh phong nhưng một cách nào đó tội lỗi vẫn làm cho chúng ta giống như một loại bệnh cùi khiến chúng ta xa cách Chúa và con người. Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng con vững mạng đón nhận anh em chúng con dẫu họ có bị bệnh nan y trong cuộc đời. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Bệnh phong cùi đối với xã hội Do Thái xưa như thế nào ? 2.Người mắc bệnh phong cùi phải làm gì khi di chuyển ? 3.Người phong cùi phải sống làm sao ? 4.Luật Lê Vi qui định thế nào về bệnh phong cùi ? 5.Ai đã tìm ra vi trùng phong cùi ?
Mc 1:40-45: 40 Một người phong hủi đến gặp Người, van xin Người, và quỳ xuống, nói với Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 41 Động lòng thương, Người đưa tay đụng vào anh và bảo anh: “Tôi muốn, anh sạch đi!” 42 Lập tức, bệnh phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. 43 Nhưng sau khi nghiêm nghị căn dặn, Người cho anh đi ngay, 44 và bảo anh: “Xem đó, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và hãy dâng của lễ cho việc lành sạch của anh, theo những gì ông Môsê đã ra lệnh, như là chứng từ cho họ.” 45 Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và phổ biến lời ấy, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi đến với Người. Từ câu 1:39, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu đã bắt đầu mở rộng hoạt động khắp miền Galilê. Tiếp theo là câu chuyện chữa lành người phong hủi. Và trong câu kết (1:45), Marcô cho thấy dân chúng ở Galilê cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi Chúa Giêsu. Họ đến với Người từ mọi vùng, như dân chúng ở Capharnaum đã làm (1:35-37). Câu chuyện chữa lành người phung hủi được thuật lại riêng, không chung với các bệnh nhân khác. Hầu hết các bệnh nhân đều được mang đến cho Chúa Giêsu để được chữa lành (1:32-34), chỉ có bệnh nhân phung hủi nầy tự mình tìm đến với Người. Lý do là vì sợ bị ô uế, mà chẳng ai dám đụng đến người phung hủi. Hành động và lời nói của người phung hủi đã được làm nổi bật cách đặc biệt trong trình thuật nầy. Hành động đầu tiên của bệnh nhân là đến lại gần và quỳ gối trước mặt Người. Theo luật Môisen, bệnh phong hủi là một bệnh ghê tởm. Người mắc bệnh bị xem như người ô uế, bị loại ra khỏi hàng ngũ của dân Thiên Chúa thánh thiện, và phải xa lánh mọi người (Lv 13). Bệnh nầy bị đánh giá như là một sự hủy hoại không những thân xác, mà cả mọi tương quan của bệnh nhân với Thiên Chúa và xã hội. Do đó, đến gần và quỳ gối trước Chúa Giêsu là một thái độ đức tin. Ông đến với Chúa Giêsu vì đã thấy Người đã chữa lành nhiều người (1:21-28; 32-34). Và ông cũng thấy Người có quyền năng hơn cả các luật sĩ (x.1:22), nên ông bất kể luật Môisen mà đến với Người. Ông đến để cầu xin chữa bệnh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Lời cầu xin nầy xác nhận đức tin thúc đẩy ông đến với Chúa Giêsu (x. 1:15). Ông tin Người có quyền năng, và Người có thể làm được nếu Người muốn. Ông phó thác vào ý muốn của Người. Lời cầu xin cũng phản ánh hiện trạng của ông: bệnh phong hủi làm cho ông bị ô uế, bị ruồng bỏ và chỉ có Chúa mới làm cho ông được sạch. Đáp lại cử chỉ đức tin của người phong hủi, Chúa Giêsu đưa tay đụng đến anh và nói lời chữa bệnh. Đưa tay ra là dấu hiệu hành động của quyền năng Thiên Chúa (Xh 3:20; 7:5; Tv 138:7), hoặc hành động nhân danh Thiên Chúa (Xh 14:16.21.27). Đụng đến người phung hủi theo Luật là vấy uế. Nhưng vì Chúa Giêsu ở trên Luật Môisen (x. 2:10-12), nên khi đụng đến ông, Người không bị ô uế. Ngược lại, Người làm cho người bị kể là ô uế được lành sạch hoàn toàn. Cũng đáp lại lời tuyên xưng đức tin của người phung hủi, Chúa Giêsu dùng lại lời của ông mà chữa ông lành:“Tôi muốn, anh sạch đi!”. Lý do Chúa Giêsu muốn người phung hủi ra về trong thinh lặng là để ông có thể cảm nghiệm lâu dài và cách cá nhân quyền năng của Thiên Chúa, biểu lộ trong Chúa Giêsu, đang thực hiện trong ông. Quyền năng ấy đã chữa ông lành bệnh phong hủi, đã đưa ông vào lại trong tương quan và hiệp thông với Thiên Chúa và con người (x. Lv 14:1-32). Nhưng Chúa Giêsu không thành công. Người không thể kiềm hãm được người phong hủi. Ông được chữa lành, và ông kinh nghiệm bản thân về lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa quá lớn lao trong ông, khiến ông chỉ có một cách là “rao giảng” kçrussô, tin mừng ấy cho mọi người biết. Sau Gioan (1:4), Chúa Giêsu (1:14.38. 39), ông là người thứ ba rao giảng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa (1:45), và những người khác sau ông (3:14; 5:20; 6:12; 7:36). Chúa Giêsu đến để hội nhập lại những người ngoài trật tự của con người và Thiên Chúa. Người thực hiện điều ấy với quyền năng và lòng thương xót, nên danh Người vẫn được loan truyền giữa con người. Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Có thể đã có lần chúng ta vào bệnh viện thăm một người mắc bệnh truyền nhiễm. Y tá bắt chúng ta phải mặc áo choàng của bệnh viện, đeo găng tay và mang khẩu trang. Vậy mà chúng ta vẫn chưa yên tâm và không dám đụng vào người bệnh. Nhưng hôm nay trong bài Tin Mừng, có một người đã đưa tay trần ra và đụng vào người bệnh phong hủi. Người ấy chính là Chúa Giê-su. Quyền năng và nhất là tình thương từ nơi Chúa đã cho người bệnh được lành, nhưng Chúa Giê-su thì trở nên “ô uế” vì Người không tuân theo Luật Mô-sê cấm là không được chạm tới những người bệnh như vậy. Cha Henri Nouwen đã viết cuốn sách gọi Chúa Giê-su là The Wounded Healer, Người chữa lành bị thương, trình bày Chúa Giê-su đã mang lấy những đau khổ và tội lỗi của chúng ta để chúng ta được cứu độ. Trong câu chuyện chữa lành hôm nay, thánh Mác-cô cho chúng ta một chi tiết rất lý thú. Mặc dù Chúa đã bảo người được chữa lành đừng nói gì với ai cả, “nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành”. Đúng là làm phúc mắc họa. Anh ta càng rao truyền và loan tin thì càng nhiều người biết Chúa Giê-su đang là người “ô uế” vì Người đã chạm tới người phong cùi! Do đó, Người có vào thành nào thì người ta cũng chạy hết, không ai dám gặp Người nữa. Chúa Giê-su chấp nhận hoàn cảnh đắng cay này, phải sống cô lập một ít ngày để được “thanh sạch” trước khi tiếp tục sứ vụ, nhưng chắc chắn Người thấy bình an và vui trong lòng, vì ít ra đã có một người được về sum họp với gia đình và cộng đoàn. Với câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể chọn một trong hai đề tài sau đây để suy niệm và cầu nguyện: hoặc về chân lý Chúa Giê-su luôn yêu thương chúng ta bất chấp chúng ta tội lỗi và làm cho Người phải chết; hoặc về người phong hủi là hình ảnh chúng ta, một người tội lỗi đã được Chúa tha thứ để trở về sum họp với người thân và cộng đoàn. Lẽ sống của Chúa Giê-su là “không có tình thương nào lớn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Gio-an 15:13). Cho nên so với cái chết của Người trên thập giá, việc “phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành” cũng chưa thấm thía gì! Từ việc chấp nhận những hy sinh nho nhỏ, trái tim của Người mới càng mở rộng để có thể chứa được cả Thiên Chúa và toàn thể nhân loại. Trở lại với con người chúng ta, tình trạng “phong hủi”, tức thân phận tội lỗi là chung cho mọi người. Tội tổ tông đã làm chúng ta thành kẻ thù của Thiên Chúa và phải xa cách Người. Nhưng may mắn là Chúa Giê-su đã chết để giải hòa chúng ta với Thiên Chúa và cho chúng ta trở về sum họp làm con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên tội lỗi, giống như vi khuẩn bệnh phong hủi, vẫn lây lan khắp nơi và có thể làm cho chúng ta mắc bệnh, phải xa cách Chúa. Vì thế chúng ta cần thức tỉnh trước mọi cám dỗ và những tấn công khéo léo của ma quỷ. Sống sứ điệp Tin Mừng Để sống sứ điệp bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy nhìn hành vi của người mắc bệnh phong hủi đến với Chúa Giê-su như thế nào. “Anh ta quỳ xuống van xin rằng: ‘Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch’”. Cũng như người phong hủi, chúng ta là kẻ tội lỗi, nhưng chúng ta có thực sự “quỳ xuống van xin” Chúa, tức là biểu lộ lòng khiêm nhượng, nhìn nhận thân phận tội lỗi của chúng ta không? Người phong hủi còn biểu lộ lòng khiêm nhượng bằng cách không “bắt ép” Chúa chữa cho anh, nhưng anh để tùy ý “Nếu Ngài muốn”. Với câu trả lời của Chúa Giê-su “Tôi muốn, anh hãy được sạch!”, chúng ta hiểu được Chúa muốn gì nơi chúng ta. Lúc nào Người cũng muốn chúng ta là những người trong sạch, là con ngoan của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng muốn chúng ta phải nói với Người trước, xin Người thứ tha, Người sẽ lập tức cho chúng ta được chữa lành tâm hồn và được trở về bên Người và bên anh chị em trong Giáo Hội Người. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Từ xưa tới nay, phong hủi là thứ bệnh nan y và hay lây, nên người bệnh bị cô lập và phải sống tách biệt với cộng đồng. Bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng hôm nay không chỉ đề cập tới bệnh phong hủi thể xác và phép lạ Chúa chữa lành một người phong hủi, nhưng còn cho ta một dịp để suy nghĩ về ý nghĩa của bệnh phong hủi thiêng liêng, căn bệnh ta thường mắc phải do tội lỗi. 1. Hậu quả của bệnh phong hủi (bài đọc Cựu Ước – Lv 13:1-2.44-46) Những huấn thị của Đức Chúa về cách thức đối xử với người mắc bệnh phong hủi thời ông Mô-sê rõ ràng mang chiều kích cộng đồng. Tất cả đều nhắm tới việc tách biệt người bệnh khỏi đời sống cộng đồng và những mối quan hệ giữa người bệnh với các phần tử của cộng đồng. Trước hết người mắc bệnh phải được tư tế A-ha-ron, vị đại diện cho cộng đồng, hoặc một tư tế khác xác định xem có phải người ấy thực sự mắc bệnh phong hủi không. Những triệu chứng như phát ra nhọt, lác hoặc đốm chưa hoàn toàn đã là bị bệnh phong hủi. Nhưng nếu vị tư tế sau khi xem xét và xác nhận là bệnh phong hủi, ông sẽ tuyên bố người bệnh ấy là ô uế, có nghĩa là họ phải sống biệt lập với cộng đồng. Quyết định đó không chỉ mang tính cách vệ sinh thường thức, nhưng còn phảng phất mầu sắc tôn giáo hoặc luân lý. “Ô uế” đã trở thành đối tượng của nghi thức thanh tẩy. Thí dụ, trước khi ăn, người ta phải rửa tay. Điều này trở thành truyền thống mang ý nghĩa tôn giáo hơn là nhắm mục đích vệ sinh. Đối với người mắc bệnh phong hủi cũng vậy, họ bị tư tế tuyên bố là “ô uế” để cho mọi người khác phải đề phòng, phải tránh cho xa. Do đó quyết định có vẻ khá tàn nhẫn, càng làm cho người bệnh dễ lâm vào tình trạng tuyệt vọng, nếu không nói là hận thù xã hội nữa. Bị loại ra khỏi cộng đồng đã là nỗi đau khổ lớn lao, người bệnh phong hủi còn phải tự mình mang những dấu hiệu nói cho người khác biết mình mắc bệnh mà tránh xa. Thí dụ phải mặc áo rách, xõa tóc, bị râu và la lên: “Ô uế! Ô uế!” Như thế chẳng khác gì tự chuốc thêm nỗi sỉ nhục cho mình. Tuy nhiên, hình ảnh một người phong hủi phải chấp nhận những luật lệ khắt khe loại họ ra khỏi cộng đồng lại là hình ảnh thích hợp để diễn tả một người mắc bệnh phong hủi tâm hồn do tội lỗi. Tuy bề ngoài họ vẫn là một phần tử của Hội Thánh, sống giữa cộng đồng Ki-tô, nhưng mối quan hệ với Chúa và Hội Thánh đã bị cắt đứt hoặc tổn thương trầm trọng. Đối với người bệnh phong hủi, cơ may được trở lại với đời sống cộng đồng rất họa hiếm và họ phải chết trong cô đơn cách biệt cộng đồng. Nhưng đối với người tội lỗi, họ luôn có thể được hòa giải với Chúa và Hội Thánh, nối lại mối quan hệ đã đứt nhờ thành tâm lãnh nhận Bí tích Giải tội. Chúa Giê-su đã chết trên thập giá để chiến thắng tội lỗi. Người thiết lập Bí tích Giải tội để tiếp tục chiến thắng ấy trong đời sống thiêng liêng của mỗi Ki-tô hữu, để chữa lành người mắc bệnh phong hủi thiêng liêng. Phép lạ Chúa Giê-su chữa lành người phong hủi trong câu truyện Tin Mừng hôm nay là hình bóng Chúa chữa lành tâm hồn phong hủi của các Ki-tô hữu thành tâm thống hối và lãnh nhận Bí tích Giải tội. 2. Chúa Giê-su nói với ta: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!” (bài Tin Mừng – Mc 1:40-45) Có nhiều chi tiết trong câu truyện khiến ta suy nghĩ, về những hành vi của người mắc bệnh phong cũng như về phong cách của Chúa Giê-su. Tuy nhiên ta hãy chú tâm vào con người Chúa Giê-su để chiêm ngưỡng lòng nhân từ yêu thương của Người. Ta cứ tưởng tượng một người mặc áo rách, tóc xõa, hàm râu được bịt kín, chạy thẳng đến trước mặt Chúa Giê-su. Lúc ấy, các môn đệ và dân chúng xung quanh Chúa vội vàng dạt ra để tránh người phong hủi, thì Chúa lại tiến đến gần người ấy để đón tiếp anh ta. Chắc Chúa cũng chẳng câu nệ gì “luật thanh tẩy”, đưa vòng tay đón lấy anh hoặc nâng anh dậy. Người phong hủi muốn tôn trọng Chúa hoặc hoàn toàn phó thác số phận trong tay Người, nên anh thưa Chúa: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chắc chắn anh không nghi ngờ quyền năng của Chúa, mà chỉ xin Người dủ lòng thương. “Nếu Ngài muốn” có nghĩa là “Nếu Ngài thương xót con” mà thôi. Và Chúa Giê-su đã khẳng định: “Tôi muốn”, hoặc “Thầy thương anh lắm”. Chúa Giê-su bao giờ cũng “chạnh lòng thương” và cử chỉ giơ tay đụng vào người bệnh phong hủi là dấu biểu lộ lòng thương của Người. Không những Chúa Giê-su chữa lành bệnh phong hủi thể xác, nhưng Người còn lo lắng cả đến tình trạng tinh thần hoặc tâm hồn của anh ta nữa. Người căn dặn anh hãy làm những gì luật Mô-sê đã truyền sau khi anh được khỏi. Người biết nỗi khổ tâm của anh bao lâu nay bị loại trừ khỏi cộng đồng. Giờ đây anh cần phải làm những gì giúp anh phục hồi quyền làm một phần tử của cộng đồng. Những cử chỉ ân cần và chăm sóc của Chúa dành cho người bệnh phong hủi đến với Người thực sự là bảo đảm cho tất cả những ai cần được chữa lành những vết thương phong hủi tâm hồn. Nhiều khi ta đi xưng tội, nhưng lại thiếu cảm nhận và lòng tin đối với lòng yêu thương chăm sóc Chúa dành cho ta. Có lẽ ta không nghe được lời yêu thương của Chúa nói với ta: Ta muốn, con hãy được sạch, hoặc: Con hãy trở về với cộng đoàn, với gia đình, với anh chị em và hòa mình vào những sinh hoạt thánh thiện ở đó… Ta có thể gặp gỡ Chúa ở bất cứ đâu, giống như dân chúng và những người bệnh tật có thể đến với Chúa “ở trong thành” hay ở cả “những nơi hoang vắng ngoài thành”. Một điều nữa, là người phong hủi được chữa lành đã nhận ra được lòng yêu thương Chúa dành cho anh. Cũng thế, mỗi lần đến với Bí tích Hòa giải là mội lần ta phải cảm nghiệm được Chúa yêu thương ta như thế nào. 3. Ta hãy bắt chước Chúa mà yêu thương chăm sóc cho những anh chị em cần được chữa lành (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 10:31-11:1) Thánh Phao-lô muốn dạy ta một bài học: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô”. Kể cũng lạ! Bình thường có ai dám mở miệng bảo người khác hãy bắt chước mình! Nhưng ta phải hiểu tâm tình của thánh Phao-lô ở đây. Với tất cả lòng yêu thương của một người cha thiêng liêng, ngài nói thành thật với tín hữu Cô-rin-tô là con cái tinh thần của ngài, là hãy bắt chước ngài. Nhưng quan trọng là “bắt chước ngài” để làm điều gì mới được chứ? Đó là việc ngài “bắt chước Chúa Ki-tô”. Nghĩa là thánh Phao-lô đơn thuần chỉ muốn nhấn mạnh điều này: Anh chị em biết đấy, tôi luôn luôn cố gắng bắt chước Chúa Ki-tô trong cuộc sống của tôi, tôi muốn trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô”! Vậy xin anh chị em hãy bắt chước tôi mà làm như vậy, anh chị em hãy trở nên giống Chúa Ki-tô, làm sao để anh chị em sống, nhưng không còn là anh chị em, mà là Chúa Ki-tô sống trong anh chị em. Cụ thể với câu truyện Chúa Giê-su thương xót và chữa lành người bệnh phong hủi, ta có thể bắt chước Chúa, tỏ lòng yêu thương đặc biệt đối với những anh chị em cần được chữa lành. Họ có biết bao vết thương tâm hồn cần được bàn tay nâng đỡ của anh chị em trong cộng đoàn. Ta đừng mang thái độ khinh khi xa lánh những anh chị em đau khổ ấy. Trái lại, ta có bổn phận đến với họ, đem ủi an và khích lệ đến cho họ. Mỗi người chúng ta là bàn tay Chúa sử dụng để chạm tới những vết thương của anh chị em và chuyển tải tình yêu Chúa dành cho ta và cho những anh chị em đó. 4. Sống Lời Chúa Cũng như người mắc bệnh phong hủi bị loại ra khỏi đời sống cộng đoàn, người mắc tội trọng đánh mất ơn thánh hóa và bị cắt lìa khỏi đời sống thiêng liêng với Chúa và Hội Thánh. Tuy nhiên, nhờ lòng thương xót của Chúa Giê-su là Đầu Nhiệm Thể, ta luôn được mời gọi trở về làm hòa với Thiên Chúa và anh chị em. Bí tích Giải tội không phải là “phù phép” giúp ta được an tâm và cảm thấy nhẹ nhàng, nhưng là lời gọi yêu thương và dấu chỉ giúp ta nhận biết tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Suy nghĩ: Câu truyện Chúa Giê-su chữa lành người mắc bệnh phong hủi đã giúp tôi nhìn thẳng vào con người của tôi và thấy được những gì? Tôi có dám thưa với Chúa với tất cả tin tưởng, khiêm nhượng và chân thành như người ấy không? Tôi có bắt chước Chúa trong cách đối xử với những anh chị em cần được chữa lành không? Cầu nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa giàu lòng nhẫn nại luôn sẵn sàng tha thứ, Chúa dành những thời gian đặc biệt để thi ân giáng phúc cho loài người. Nhờ đó, muôn dân có thể nhận biết Chúa là Đấng tạo thành và cứu độ sinh linh. Ước gì chúng con biết nắm lấy thời cơ thuận tiện này mà hăng say đáp lại lời bình an của Chúa, và tích cực cộng tác vào công trình hòa giải muôn loài trong Đức Ki-tô. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho việc hòa giải). Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Sau khi trình bày tổng quát sứ vụ cứu thế của Chúa Giê-su, rao giảng và diệt trừ ma quỷ, thánh sử Mác-cô kết thúc bằng cách kể lại phép lạ Chúa chữa lành người phong hủi. Có thể ta quá chú tâm đến sự kiện người phong hủi được lành sạch mà bỏ qua phần quan trọng nhất của phép lạ, tức là hậu quả do phép lạ: người phong hủi được trở về sống trong thành, còn Chúa Giê-su phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Nói khác đi, ta có thể hiểu lầm chủ ý của thánh Mác-cô khi ngài kể lại phép lạ này. Ngài muốn nói với chúng ta về Chúa Giê-su hơn là về người phong hủi được sạch, về bản chất sứ mệnh của Chúa Giê-su hơn là về quyền năng chữa lành của Người. Vậy ta sẽ suy niệm như thế nào về câu truyện phép lạ này để nhận ra được sứ mệnh đích thực của Chúa Giê-su? a) Đấng chữa lành bị thương (The Wounded Healer) “Đấng chữa lành bị thương” là nhan đề cuốn sách của cha Henri Nouwen, một vị linh hướng và tu đức nổi tiếng. Chúa Giê-su đã mang vào mình những thương tích của nhân loại để nhân loại được chữa lành và Người tự nguyện nhận lấy cái chết để nhân loại được sống. Chân lý ấy đã được thể hiện đầy đủ qua câu truyện chữa lành người phong hủi. Ta hiểu người phong hủi là hình ảnh của nhân loại, một nhân loại bị trùng hủi tội lỗi gặm nhấm và hủy hoại, đang đến xin Thiên Chúa chữa lành cho mình. Bệnh phong hủi là chứng nan y không thể chữa trị. Người mắc bệnh này bị loại trừ khỏi xã hội và phải sống ẩn lánh trong hoang địa. Họ đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần. Theo luật Do-thái, họ không được phép đến gần người khác. Nhưng trong câu truyện này, người phong hủi đến gặp Chúa Giê-su. Vậy nếu Chúa Giê-su không tạo cơ hội cho anh ta gặp Người thì làm sao anh có thể đến với Người? Do đó, ta tin rằng chính Chúa đã đến với anh trước, bởi vì hành vi và lời nói của Người đã chứng minh Người có ý đến với anh. Hành vi của Người là “chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh” và lời Người nói là “Tôi muốn”. Chúa Giê-su đã biểu lộ hình ảnh của “Chúa Cha là Đấng chạnh lòng thương” (Lc 6:36). Lề luật không cho người ta đụng chạm vào người bị phong hủi. Nhưng lòng thương của Chúa Giê-su đã vượt trên lề luật, nên Người đã giơ tay đụng vào anh. Người muốn mang lấy phong hủi của anh. Người muốn mặc vào mình thân phận tội lỗi của nhân loại (Is 53). Người còn phát biểu dứt khoát ý định của Thiên Chúa muốn chữa lành nhân loại: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Phụng vụ Thánh Lễ đã tài tình phối hợp câu truyện chữa lành này với câu truyện chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng Rô-ma (Lc 7:1-10) trong lời nguyện trước khi rước lễ: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch. Lòng thương của Thiên Chúa được biểu lộ trong chính việc chữa lành, nhưng còn biểu lộ rõ ràng và cảm động hơn qua những gì xảy ra sau khi chữa lành, đó là sự kiện Chúa Giê-su thay thế chỗ đứng của người phong hủi được Người chữa lành. Hiệu quả của việc chữa lành là người phong hủi thì được lành sạch và tái nhập vào cộng đồng nhân loại. Còn hậu quả của việc chữa lành là Chúa Giê-su, Đấng chữa lành, lại bị loại ra khỏi cộng đồng ấy và “phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành”. Nói khác đi, chỉ vì muốn tỏ ra cho ta cảm nhận được lòng thương của Thiên Chúa nên Chúa Giê-su đã bị loại ra khỏi xã hội của ta (ngoài thành). Hỏi có tình thương nào lớn hơn tình thương của Đấng sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” không? b) “Dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người” Cho dù sống giữa cộng đồng nhân loại hoặc bị loại trừ ra ngoài cộng đồng ấy, Chúa Giê-su vẫn là Đấng “chạnh lòng thương” và “muốn” nhân loại được sạch và được cứu thoát khỏi tình trạng tội lỗi kiềm tỏa. Nếu địa điểm “ngoài thành” đã là nơi người bị phong hủi đến gặp Chúa Giê-su, thì giờ đây “những nơi hoang vắng ngoài thành” cũng là chỗ để mọi người khắp nơi đến với Người để được chữa lành. Hình ảnh này nói cho ta biết Chúa Giê-su là Đấng nào và làm gì cho ta, và ta là ai và tại sao phải đến với Người. Bị tẩy chay, bị loại bỏ khỏi cộng đồng là một đặc nét không thể thiếu nơi dung mạo của Đức Ki-tô. Tình trạng Đức Ki-tô “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” (Pl 2:7) là một chuỗi những tẩy chay và loại bỏ đưa dần tới cái chết ô nhục trên thập giá và chết “ngoài cửa thành Giê-ru-sa-lem” (Dt 13:12). Chính hình ảnh ngoài thành đã nói lên đặc tính phổ quát của ơn cứu độ, không chỉ dành cho dân Ít-ra-en (trong thành), mà còn cho mọi người khắp nơi (ngoài thành) nữa. Trong câu truyện Tin Mừng hôm nay, khi giới thiệu một Chúa Giê-su ở ngoài thành và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người, thánh Mác-cô muốn nói đến việc Chúa Giê-su sẽ thi hành sứ vụ cứu thế trong một môi trường rộng lớn hơn, không chỉ là Ít-ra-en mà là toàn cõi địa cầu. Hình ảnh Chúa Giê-su chờ đợi ta đến với Người ở ngoài thành còn diễn tả đặc tính cuộc hành trình của ta đến với Người. Người mời gọi ta phải bước ra ngoài cái thành trì kiên cố của ta thì ta mới gặp được Người. Tội lỗi giam hãm ta trong thành trì ấy. Trùng phong hủi của nó đã ngăn cách ta với người khác và nhất là với Chúa. Nếu ta cứ mạnh dạn đến gặp Chúa với thân phận tội lỗi của ta, giống như người bị phong hủi đến với Chúa, và nghe tiếng quyền năng nhân hậu của Người: “Ta muốn, con hãy sạch đi!” thì ta sẽ được như ý. Tác giả thư Do-thái thúc giục ta: “Vậy ta hãy ra khỏi trại (thành) mà đến với Người” (Dt 13:13). Người sẽ giơ tay đụng vào ta. Bàn tay yêu thương của Cha trên trời là Chúa Giê-su sẽ đụng tới con người khốn khổ trong thân phận tội lỗi. c) “Có người bị phong hủi đến gặp Người” Sau khi chiêm ngưỡng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ đầy yêu thương, sẵn sàng chữa lành mọi vết thương của ta, nhất là tình trạng tội lỗi của ta, ta thử đọc đi đọc lại để nghe âm vang câu giới thiệu của câu truyện thánh Mác-cô kể. “Có người bị phong hủi đến gặp Người”. Người phong hủi ấy không mang tên riêng, nhưng mang tên toàn thể nhân loại và nhất là mang cái tên thánh sử muốn mỗi người hãy tự gọi lấy. Đúng vậy, người bị phong hủi ấy không phải ai khác mà là chính ta, tuy ta hay tìm cách tránh né không muốn nhìn nhận tình trạng tội lỗi của ta. Câu hỏi “muốn được sạch” không phải là vấn đề đối với Chúa, vì lúc nào Chúa cũng muốn ta được sạch, mà đó lại trở thành vấn đề của ta, vì ít khi ta muốn được sạch và thường thì cứ thích ở trong tình trạng không sạch! Một vấn đề nữa của ta, đó là ta không muốn đến gặp Chúa. Ta muốn đợi cho tới khi nào thật sạch mới đến gặp Chúa! Đâu phải như vậy. Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi mà, chứ đâu có kêu gọi người công chính. Chúa muốn hành trình làm môn đệ của ta phải bắt đầu từ tình trạng tội lỗi hiện thời. Ông Phê-rô là một thí dụ điển hình (Lc 5:4-11). Ông mặc cả với Chúa: “Xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Nhưng Chúa đâu chịu thua. Người bảo ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá”. d) Suy nghĩ và cầu nguyện Tôi có hay chiêm niệm tình yêu thương của Thiên Chúa được tỏ ra qua quyền năng chữa lành của Chúa Giê-su không? Suy ngắm như thế đem lại cho tôi những ích lợi nào? Nhìn nhận tình trạng tội lỗi của tôi, tôi cảm thấy thất vọng hay tin tưởng? Tại sao thất vọng? Vì tôi tự ái và kiêu căng muốn tự mình vùng vẫy thoát khỏi tình trạng ấy, thay vì phải khiêm nhượng tin tưởng vào lượng từ bi của Chúa? Mỗi lần đến với Bí tích Giải tội, tôi có nghe tiếng Chúa: “Ta muốn, con hãy sạch đi!”? Tôi đáp lại lời mời gọi ấy như thế nào? Cầu nguyện “Lạy Chúa Giê-su, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gio-an ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Gia-kêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến”. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 89) Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong phần thảo luận tín hữu được phép hay không được phép ăn thịt cúng mua ở ngoài chợ về (chương 9-10), thánh Phao-lô đã đưa ra câu trả lời là hãy hy sinh, không nên ăn vì bác ái và tránh gương xấu cho những anh em bối rối. Ðể củng cố thêm cho câu trả lời này, ngài đã chia sẻ gương hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho việc rao giảng Tin Mừng được hữu hiệu hơn và vì ích lợi của người khác. Kết luận phần thảo luận, thánh tông đồ đưa ra một nguyên tắc căn bản cho đời Ki-tô hữu: Anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. Rồi với tâm tình trìu mến của một người cha tinh thần, một người hướng đạo, ngài nói thêm: Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Ðức Ki-tô. Ðiểm đặc biệt nhất trong tư tưởng Phao-lô là qua những diễn biến của một vấn đề xảy ra trong đời sống cá nhân hay tập thể cộng đoàn Ki-tô hữu, bao giờ chúng ta cũng gặp được những nguyên tắc luân lý tuyệt vời và thực tế. Vậy điều chỉ nam "hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa" sẽ là đề tài suy niệm Phụng vụ Lời Chúa muốn trình bày và "gương Phao-lô" giúp chúng ta biết sống thế nào để tôn vinh Thiên Chúa. a)Để tôn vinh Thiên Chúa Một hiểu lầm thông thường nhất gặp thấy nơi tín hữu là người ta cứ tưởng để tôn vinh Thiên Chúa, thì họ cần phải làm những việc thiêng liêng, thánh thiện, cao cả như cầu nguyện, giảng đạo, xây nhà thờ, đền thánh... Không phải vậy đâu. Thánh Phao-lô đưa chúng ta trở lại mức độ căn bản và tầm thường nhất để đặt lại mục đích cuộc đời chúng ta là để tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ tôn vinh Chúa trong nhà thờ, trong những công tác tông đồ to lớn, nhưng chúng ta có thể và phải tôn vinh Chúa trong tất cả những gì thuộc chính cuộc sống cá nhân chúng ta. Vấn đề thánh Phao-lô muốn đặt lại, đó là nhắm mục đích tôn vinh Chúa trong toàn bộ cuộc sống của chúng ta, chứ không phải chỉ một số hành vi chọn lựa. Bao lâu chúng ta thu hẹp mục đích "để tôn vinh Thiên Chúa" trong một số hành vi thôi, thì chúng ta có thể rơi vào tình trạng "phân đôi," sống đạo để trong nhà thờ, còn ra ngoài là đời sống khác.Đi từ sự sống còn của sự sống thể xác, thánh Phao-lô đan cử một số hành vi cụ thể để tôn vinh Thiên Chúa như việc ăn uống chẳng hạn. Thế nào cũng có người cười, cho rằng Phao-lô "tầm thường" quá. Khi ăn uống, cùng lắm là tôi đọc kinh cám ơn Chúa đã cho tôi của ăn của uống cũng đủ rồi, chứ "để tôn vinh Chúa" qua việc ăn uống thì... Chúa đâu có muốn tầm thường như vậy! Trước khi chúng ta hành động, "để tôn vinh Chúa" là một nhắc nhở cần thiết tối hậu giúp chúng ta biết phải làm mọi sự cho đúng theo mục đích tốt của nó. Sau khi hành động, "để tôn vinh Chúa" cũng là nguyên lý kiểm chứng việc chúng ta làm là việc tốt hay việc xấu. Nhờ sống theo nguyên lý ấy, chúng ta mới biết mình có sống theo ý Chúa hay không và chúng ta có trở nên thánh mỗi ngày một hơn hay không. Nên thánh khởi đầu từ những việc tầm thường nhất trong cuộc sống. Nhưng chính trong việc tầm thường nhất, chúng ta lại cũng có thể làm tổn thương vinh danh Chúa. Thánh Phao-lô nêu lên một thí dụ cụ thể: nếu việc ăn uống đối với mình là tốt, nhưng lại làm gương xấu cho người khác, thì đó là vì người ta không nhằm tôn vinh Chúa mà là để thỏa mãn quyền lợi của mình, do đó vinh danh Chúa bị loại ra ngoài. b)Tấm gương Phao-lô Mặc dù chủ đề "bắt chước Phao-lô" thường gặp thấy trong các thư của ngài (xem 1 Cr 4:16; Pl 3:17; 1 Tx 1:6) và lời Phao-lô mời gọi tín hữu bắt chước ngài có vẻ như khoe khoang đối với những cộng đoàn đương thời với ngài, nhưng điều này không có gì là xa lạ và khoe khoang đối với những người đã được Phao-lô giúp trở lại đạo. Vì họ không được thấy Chúa như Phao-lô đã thấy, nên họ cần có một gương mẫu và gương mẫu ấy không thể là ai khác ngoài Phao-lô. Không ai hiểu con cái hơn cha mẹ, vì thế, đóng vai trò người cha của những đứa con ngài đã sinh ra trong đức tin, cho nên Phao-lô đã xử sự như một người cha. Có lẽ nhiều lần chính chúng ta là bậc cha mẹ đã dạy con cái hãy bắt chước chúng ta, không phải vì chúng ta muốn khoe khoang ta đây, nhưng vì muốn lợi ích cho con cái. Vậy ở đây Phao-lô xin chúng ta bắt chước ngài về điều gì?Ngài trả lời:"Cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ" (10:33). Quên mình để sống cho tha nhân, cố gắng giúp cho người khác được hạnh phúc, nhất là giúp họ đạt được phần rỗi đời đời, đó là lý tưởng sống mà Phao-lô muốn hết thảy chúng ta bắt chước ngài. Chúng ta đừng vội la lên: lý tưởng cao quá, làm sao chúng tôi thực hiện nổi! Cũng là bắt đầu từ những cái tầm thường nhất trong cuộc sống mà thôi. Như ăn uống, nói năng, mỉm cười, một lời khen, một giúp đỡ nhỏ bé... Hoặc nói theo Phao-lô là: "Trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng..."Nhưng chúng ta thường không muốn bắt chước Phao-lô, vì chúng ta chỉ chọn lựa "một số hoàn cảnh" và ngại "cố gắng." Vì chúng ta không muốn bị mất quyền lợi, không muốn đặt lợi ích của mình dưới lợi ích của người khác. Và nhất là vì ít khi nào chúng ta xác tín rằng sự cứu rỗi của người khác và của chúng ta lại liên hệ với nhau. Câu nói của Ca-in "tôi đâu có phải là người giữ em" (St 4:9) thường phản ảnh thái độ của chúng ta đối với tha nhân, đặc biệt trong một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân. Giúp cho người khác được hạnh phúc qua miếng ăn ngụm uống, qua lời nói việc làm, để mỗi ngày họ thấy rõ hơn hình ảnh của Chúa, đó là chúng ta đang "tôn vinh Thiên Chúa" rồi! Những gì Phao-lô chia sẻ với chúng ta không phải do ngài phát minh ra đâu, nhưng chỉ là những gì ngài đã học được nơi vị Tôn sư của ngài và của cả chúng ta nữa: Đức Ki-tô, Đấng đã làm người, đã sống, đã chết và đã sống lại "vì chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi." Câu hỏi gợi ý chia sẻ Tôi có "lý tưởng hóa" việc nên thánh không?Nên thánh một cách toàn diện con người đòi tôi phải xét lại lối sống của mình như thế nào? Từ những việc tầm thường nhất trong ngày cho đến những việc thiêng liêng như cầu nguyện, dự thánh lễ...? Tôi đã làm tất cả với mục đích nào? Có phải "để tôn vinh Thiên Chúa" không? Tôi có "làm gương" cho những người khác không?Xét lại môi trường sống của mình, tôi có thể nói được tới mức độ nào câu nói của thánh Phao-lô: "Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô"? Nhất là đối với con cái, những người tôi có nhiệm vụ trông coi dẫn dắt? Trong cuộc xét mình hằng ngày, tôi có khi nào đặt vấn đề làm gương xấu cho người khác không? Làm sao để áp dụng việc xét mình về khía cạnh này cho có hiệu quả? Cầu nguyện kết thúc Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc Thánh Vịnh 148. Lm. Đamimh Trần Đình Nhi
Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của sự kỳ thị hay phân biệt thanh sạch – nhơ uế, một trong những sự phân biệt và kỳ thị đặc trưng của Do Thái giáo. Bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước kết thúc với câu tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu: “Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ” (Mc 1,39). Ngay sau lời tường thuật đó là câu truyện ngắn gọn nhưng lại rất phong phú về ý nghĩa, mà phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm: Đức Giêsu chữa một người bị phong hủi (1,40-45). Câu truyện bắt đầu bằng một chi tiết đáng chú ý: “Có người bị phong hủi đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch" (c.40). Người bị phong hủi tự tìm đến với Đức Giêsu: lần đầu tiên trong Mc, một người bệnh tự thực hiện sáng kiến riêng của anh ta. Người bị phong hủi, theo quan điểm Do Thái giáo, là một kẻ ô uế. Anh ta bị loại khỏi cộng đồng thờ phượng Thiên Chúa xét về phương diện tôn giáo, và do đó, bị loại khỏi dân được tuyển chọn (Lv 13,45-46). Đồng thời, anh ta cũng bị coi là một nguồn gây nhiễm uế cho người và vật. Vì thế, anh ta phải sống cách ly khỏi cộng đồng xã hội, trong một nơi chốn riêng biệt, và phải hô to lên để báo động mỗi khi có người khác đến gần để họ biết mà tránh xa. Anh ta, trong thực tế, bị loại trừ khỏi xã hội con người. Và hầu như không có cơ may hội nhập lại. Người Do Thái coi bệnh phong hủi là “trưởng nữ của sự chết” (G 18,13), và nhiều rabbi nghĩ rằng chữa khỏi bệnh này cũng khó như làm cho kẻ chết sống lại vậy. Theo một nghĩa, người phong hủi bị coi là kẻ bị chúc dữ, là kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Đức Giêsu đang “đi khắp miền Galilê” (c.39). Chắc chắn Ngài đã thấy rất nhiều những trường hợp người ta bị gạt ra bên lề cộng đồng tôn giáo và xã hội Do Thái. Và bây giờ, khi một người phong hủi chủ động tìm đến với Ngài, thì chính là lúc Ngài bày tỏ lập trường đối với vấn đề đau thương này. Và Ngài đã thẳng thắn xóa bỏ những nền tảng thần học Do Thái giáo của hiện tượng, đồng thời bắt đầu chấp nhận những hệ lụy do chọn lựa của Ngài gây ra. Từ trước đến giờ, Ngài “rao giảng trong các hội đường” (c.39), tức là tiếp xúc với những con người chưa bị loại trừ khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do Thái. Bây giờ, Ngài đón tiếp một người đã bị cái đạo lý chính thống của Do Thái giáo gạt ra bên ngoài vì bị coi là ô uế. Cố ý không nêu tên người này, cũng không ghi rõ nơi chốn hiện diện của anh ta, có lẽ tác giả Tin Mừng muốn khắc họa anh ta như là một điển hình của mọi người bị gạt ra bên lề đó. Tại sao anh ta lại tìm đến để gặp Đức Giêsu? Có lẽ vì những hoạt động và nhất là những lời rao giảng của Ngài khắp miền Galilê đã khơi lên trong tâm hồn những con người như anh một niềm hy vọng. Tuy bị cấm tiếp xúc với những con người bình thường, nhưng bất chấp các hình phạt mà Luật có thể giáng xuống trên mình, anh vẫn tìm đến với Đức Giêsu: cái khao khát thoát khỏi nỗi bất hạnh kinh khủng và khỏi tình cảnh bị loại trừ đau thương đã chiến thắng nỗi sợ hãi. Và khi đã đến gần Ngài, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch" (c.40). Anh không xin Đức Giêsu chạm đến anh. Anh cũng không trực tiếp xin Ngài làm cho anh được sạch. Anh chỉ van xin Ngài, với một thái độ hết sức khiêm nhường, rằng “nếu Ngài muốn”. Anh hoàn toàn tin tưởng nơi quyền năng của Ngài. Ngài đã từng công bố rằng “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,14), nên anh tin tưởng rằng Ngài có đủ quyền năng xóa bỏ cho anh cái chướng ngại vật đang ngăn cản anh đi vào Nước đó. Tuy nhiên, anh vẫn chưa dám chắc rằng Ngài muốn làm điều đó lúc này, vì anh chưa biết chương trình và hành động của Ngài sẽ là thế nào. Anh thưa “nếu Ngài muốn” là để bày tỏ lòng kính trọng sự tự do và chương trình hành động của Ngài. Đứng trước tình cảnh như vậy, “Đức Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (cc.41-42). Trong Tân Ước, hạn từ “chạnh lòng thương” (splagkhnistheis) chỉ được dùng cho Đức Giêsu (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 1,41; 6,34; 8,2; 9,22; Lc 7,13) và cho Chúa Cha trong các dụ ngôn nói về Người (Mt 18,27; Lc 15,20). Đương thời, động từ “chạnh lòng thương” được dùng trong văn chương để chỉ tình yêu nhân lành của Thiên Chúa dành cho con người. Khi kể rằng Đức Giêsu chạnh lòng thương mà giơ tay đụng vào người phong hủi, tác giả Tin Mừng muốn nói rằng chính tình yêu nhân lành đó của Thiên Chúa là thực tại đang hướng dẫn ý muốn và hành động của Đức Giêsu. Đó là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không thể cầm lòng trước tình cảnh khốn khổ của con người. Trái lại, Người “giơ tay đụng vào anh”. Thiên Chúa đã từng “giơ tay” để giựt thoát những kẻ bị áp bức và bị loại trừ khỏi tình cảnh bi đát ở Ai Cập (x. Xh 3,20; 6,8; 8,1; 9,22; 10,12; 14,16.21...). Nay trong thẩm quyền của Thiên Chúa chạnh lòng thương, Đức Giêsu cũng “giơ tay” để thực hiện những hành động giải thoát. Hơn nữa, Ngài giơ tay là để đụng chạm đến người phong hủi bằng một sự đụng chạm thể lý, điều mà Luật đã cấm hòng nhấn mạnh sự gạt người ta ra bên lề cộng đồng tôn giáo và xã hội (Lv 5,3; Ds 5,2). Và Ngài bảo anh ta: “Tôi muốn, anh sạch đi!" Như thế, Đức Giêsu đã chứng tỏ một cách cụ thể rằng Thiên Chúa không hề khử trừ người phong hủi khỏi tình yêu của Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã phá nát cái nền tảng thần học của sự kỳ thị và gạt bỏ người phong hủi ra bên lề. Ngài giựt những người bị loại trừ khỏi tình cảnh bi đát và bị áp bức mà họ đang phải chịu. Người phong hủi đã vi phạm Luật khi anh ta đến gặp Đức Giêsu. Phần mình, đã không kết án anh ta vì điều đó, Đức Giêsu lại còn vi phạm Luật cách trầm trọng hơn, khi Ngài giơ tay đụng vào anh ta. Nhưng chính bằng hành động đó, Ngài cho thấy rằng Luật, một khi đặt ra sự loại trừ, đã không diễn tả thực tại cũng như ý muốn của Thiên Chúa. Hóa ra, cái chướng ngại vật khiến cho người phong hủi không còn được cảm nghiệm tình yêu nhân lành của Thiên Chúa lại chính là Luật, vì Luật đã khắc họa hình ảnh của một Thiên Chúa khó tính khó nết, đòi hỏi, nghiêm khắc và ưa trừng phạt. Hành động của Đức Giêsu cho thấy rõ ràng rằng đối với Thiên Chúa, sự phân biệt cái thanh sạch – cái ô uế mà Luật đề cao, là không có giá trị nữa. Luật không biết đến lòng thương xót trước tình cảnh đau thương của con người, nhưng hơn nữa, còn loại trừ những con người lâm cảnh đau thương đó; Đức Giêsu chạnh lòng thương khi đối diện với tình cảnh của họ, Ngài đón nhận họ và đặt họ lên trên Luật. “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch”. Ý muốn của Đức Giêsu đã thành tựu. Theo Luật, Ngài đã bị trở thành ô uế ngay khi vừa chạm vào người bị phong hủi. Nhưng sự việc đã xảy ra hoàn toàn ngược lại: người phong hủi lập tức được thanh sạch nhờ lời và nhờ sự đụng chạm của Đức Giêsu. Thiên Chúa đón nhận con người không phải vì anh ta thanh sạch. Trái lại, bởi vì Thiên Chúa đón nhận anh ta cho nên anh ta mới được thanh sạch. Vì thế, chính lúc người phong hủi được trải nghiệm rằng Thiên Chúa chấp nhận anh như anh là, thì chứng phong hủi biến mất khỏi anh. Hóa ra, sự gạt bỏ người phong hủi ra bên lề cộng đồng là chuyện của các thiết chế tôn giáo và xã hội, chứ không phải là điều do Thiên Chúa muốn, nhưng lại bị gán cho Thiên Chúa! Nhờ Đức Giêsu, bây giờ người phong hủi biết mình được Thiên Chúa đón nhận. “Nhưng Người làm gắt mà xua anh đi ngay, và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ" (cc.43-44). Tác giả Tin Mừng viết: “Người xua anh đi ngay”. Nhưng xua đi khỏi đâu? Ông đã không hề cung cấp một chỉ dẫn nào về nơi chốn xảy ra sự kiện Đức Giêsu làm cho anh ta được sạch. Chi tiết chỉ nơi chốn gần nhất ở phía trước chính là “trong các hội đường của họ” (c.39), tức là trong thiết chế tôn giáo của họ. Điều này cho phép chúng ta giải thích: “làm gắt mà xua đi ngay khỏi đó” tức là làm gắt mà bắt anh bỏ đi cái xác tín sai lầm rằng hội đường, cái thiết chế tôn giáo định ra sự loại trừ, đã làm đúng khi gạt anh ta ra bên lề. Tác giả không nói đến một hội đường cụ thể và xác định nào, nhưng ông muốn nói đến hội đường ở đây như là một thiết chế tôn giáo Do Thái, và người phong hủi ở đây, như chúng ta đã từng nói trên kia, là hình ảnh của tất cả những con người bị gạt sang bên lề, những con người đang phải ở dưới quyền áp chế của cái hệ thống thiết chế tôn giáo kia. Sự kiện Đức Giêsu phải làm gắt cho thấy người vừa được sạch khỏi phong hủi này chưa đi đến chỗ nhận thấy rằng thiết chế tôn giáo kia đã không đúng khi loại trừ anh như thế. Và vì thế, anh ta sẽ lại có nguy cơ bị loại trừ lần nữa nếu chấp nhận ở lại trong cái thiết chế đó. Cần phải thoát khỏi cái hệ thống tôn giáo bất công đó. Để xua anh ta đi ngay, Đức Giêsu bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả”. Cần phải thinh lặng, đừng vội nói, để nhận thức sâu xa sự khác biệt hoàn toàn giữa cách hành xử của Thiên Chúa và cách hành xử của cái thiết chế tôn giáo Do Thái kia. Và khi đã nhận ra sự khác biệt đó, anh ta sẽ hiểu: cái thiết chế tôn giáo kia đã không thực sự nói nhân danh Thiên Chúa; và anh ta cần phải vĩnh viễn rời xa nó để có thể tiếp tục được Thiên Chúa đón nhận cách nhưng không, như anh đã từng được trải nghiệm nơi Đức Giêsu. Sau lệnh truyền thinh lặng là một lệnh truyền khác mà người ta cần phải chú ý nhiều để có thể hiểu đúng ý nghĩa của nó. Đức Giêsu nói tiếp với người vừa được sạch khỏi phong hủi: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ”. Chi tiết đầu tiên cần chú ý: Đức Giêsu nói đến “những gì ông Môsê đã truyền”. Kinh Thánh gán những lệnh truyền liên quan đến người bị phong hủi cho chính Thiên Chúa (x. Lv 14,1-32: “Đức Chúa phán với Môsê rằng...”), và như thế, vẽ nên hình ảnh một Thiên Chúa đòi hỏi, khó tính, cáu kỉnh. Đức Giêsu không chấp nhận sự gán ghép đó khi Ngài cố ý nhấn mạnh rằng những lệnh truyền đó là của ông Môsê (chứ không phải của Thiên Chúa). Đối với Đức Giêsu, tất cả luật lệ liên quan đến sự thanh sạch và đến sự ô uế đều là những lệnh truyền của phàm nhân chứ không phải của Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm ra sự loại trừ và gạt bỏ con người. Có lần Đức Giêsu còn khẳng định rằng khi làm ra những lệnh truyền, ông Môsê đã từng không theo ý muốn của Thiên Chúa nhưng nhượng bộ sự cứng lòng của người ta (x. 10,5). Chi tiết thứ hai cần hiểu đúng: cách nói “để làm chứng trước mặt họ”. Bản văn Hy Lạp viết: “eis martyrion autois”. Cách diễn đạt này xuất hiện ba lần trong Mc (1,44; 6,11; 13,9). (Hạn từ martyrion không có nghĩa là “lời chứng” như martyria, x. 14,55.56.59). Trong hai trường hợp kia (6,11 và 13,9), giới từ eis có nghĩa chỉ sự đối nghịch: eis martyrion autois = làm chứng chống lại họ / làm chứng cáo tội họ. Ngoài ra, dâng lễ vật ở đây không phải để làm chứng chống lại vị tư tế (số ít) mà là “họ” (số nhiều, chỉ các tư tế). Vấn đề sẽ được giải quyết nếu công nhận rằng ở đây có sự ám chỉ Đnl 31,26, tức là bản văn nói về một chứng cáo tội dân cứng đầu và bất trung với Thiên Chúa. Từ đó, có thể hiểu: Đức Giêsu không bảo người vừa được sạch khỏi phong hủi đi tìm sự xác nhận của vị tư tế về tình trạng thanh sạch của anh ta theo quy định của Luật. Chính Đức Giêsu vừa cố ý vi phạm lệnh truyền của Luật liên quan đến cách hành xử đối với người bị phong hủi, khi Ngài giơ tay đụng chạm đến người đó (Ngài đã hoàn toàn có thể làm cho anh ta được sạch mà không cần chạm đến anh để trở thành một người vi phạm Luật), tức là chính Ngài đã không chấp nhận coi những lệnh truyền đó là có giá trị. Vì thế Ngài không thể bảo anh ta tôn trọng những lệnh truyền mà chính Ngài vừa vi phạm. Ngài không thể mâu thuẫn mà hành xử một cách đáng trách như vậy được. Nếu muốn tỏ ra tôn trọng những lệnh truyền của Luật liên quan đến vụ việc, thì chính Ngài trước hết phải đi dâng lễ xá tội, vì Ngài đã bị nhiễm uế theo Luật. Đàng khác, lời dặn giữ bí mật mà chính Đức Giêsu vừa đưa ra cho người mới được chữa khỏi phong hủi, cho thấy Ngài chẳng yêu cầu anh ta chứng tỏ sự tôn trọng của anh đối với Luật. Chưa kể rằng sự tôn trọng đối với những lệnh truyền của Luật liên quan đến những người bị phong hủi, sẽ đồng thời là sự công nhận tính chính đáng của sự loại trừ nhau vì lý do ô uế theo quy định nghi lễ, và như vậy cũng là sự xác nhận tình trạng đáng bị loại trừ của những người khác nếu họ bị phong hủi. Sẽ chẳng có bất cứ sự giải thoát nào ở đây cả! Chính người vừa được sạch cũng sẽ có thể lại bị thiết chế Do Thái loại trừ cách bất công nhiều lần nữa! Và chính anh ta, một khi chấp nhận các lệnh truyền liên quan đến cách hành xử đối với người bị phong hủi, sẽ có thể trở thành kẻ kỳ thị và loại trừ những người khác! Vì thế, sẽ là hợp lý hơn rất nhiều nếu chúng ta hiểu lễ dâng mà Đức Giêsu bảo người vừa được sạch phong hủi thực hiện, là chứng cáo tội thiết chế tôn giáo Do Thái, chứ không phải là lễ dâng tìm sự chứng thực của thiết chế đó về tình trạng được giải thoát của anh ta. Tác giả Tin Mừng không kể anh ta đã thực hiện yêu cầu của Đức Giêsu như thế nào. Chỉ biết rằng: “Vừa ra, anh ta lên tiếng cao rao và phao đồn việc đó” (c.45a). Liên kết ngữ đoạn “vừa ra” với ngữ đoạn “xua anh đi khỏi” ở c.43, chúng ta có thể hiều rằng anh ta đã đi đến cái xác tín mà Đức Giêsu muốn anh ta đạt tới. Đó là sự nhận ra rằng thiết chế tôn giáo Do Thái và Luật của nó đã trình bày sai về Thiên Chúa, rằng sự bị loại trừ mà anh ta đã phải chịu là một điều sai trái về mặt tôn giáo và bất công về mặt xã hội, rằng anh ta cần phải thoát khỏi sự chi phối của cái thiết chế tôn giáo không đúng đắn đó... Anh ta đã từng tưởng rằng mình bị loại trừ khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Bây giờ anh được trải nghiệm chính tình yêu đó và được hưởng sự tự do đích thực. Điều đó khiến anh hết sức vui mừng, sự vui mừng của người được yêu thương và được giải thoát. Vì thế, thật dễ hiểu việc “anh ta lên tiếng cao rao và phao đồn việc đó” (c.45). Sứ điệp mà người vừa được sạch phong hủi công bố, đã dẫn đến một kết quả là chính Đức Giêsu bị gạt ra bên lề. “Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành”. Những người nhiệt thành giữ Luật chắc chắn không thể chịu được con người đã dám khẳng định rằng Thiên Chúa chấp nhận những kẻ mà tôn giáo Do Thái loại trừ một cách đương nhiên và tự động. Đối với họ, Đức Giêsu là kẻ không công nhận cái giá trị của sự thanh sạch và cái phản giá trị của sự ô uế. Ngài lại đã đụng chạm đến một người phong hủi, nên đã trở thành một người ô uế. Ngài phải bị gạt ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội. Vì thế, Ngài không thể công khai vào thành nào được, nhưng phải ở nơi hoang vắng ngoài thành, như một kẻ bị loại trừ. Kết quả thứ hai là: dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Đức Giêsu, đương nhiên là ở nơi hoang vắng ngoại thành ấy. Tác giả Mc không nói là những người phong hủi từ khắp nơi kéo đến. Điều này cho thấy sự phong hủi thể lý của người phong hủi không phải là điểm trung tâm của trình thuật, nhưng là sự tin tưởng gắn bó với Đức Giêsu mới là yếu tố cần phải nhấn mạnh nhiều hơn vậy. Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh với chúng ta một đạo lý quan trọng: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của sự kỳ thị hay phân biệt thanh sạch – nhơ uế, một trong những sự phân biệt và kỳ thị đặc trưng của Do Thái giáo. Đức Giêsu phá bỏ quan niệm sai lạc đó về Thiên Chúa. Và Người đã phải trả giá cho điều đó. Biết đâu Người cũng có thể đang phải làm như thế đối với những hệ thống của chúng ta hôm nay?! Trong một mức độ, những sự phân biệt là có thể chấp nhận và có thể chính đáng. Nhưng loại trừ và kỳ thị dựa trên những sự phân biệt ấy thì lại là chuyện khác. Và đáng phàn nàn nhất là khi chúng ta gán những sự kỳ thị ấy cho Thiên Chúa như là tác giả... Điều đó chắc chắn sẽ làm méo mó dung mạo yêu thương của Người. Bài Tin Mừng hôm nay buộc chúng ta phải nhìn lại cách hành xử của mình và của các thiết chế mà mình đang sống trong đó... Biết đâu chính chúng ta cũng đang làm cho dung mạo của Thiên Chúa nên méo mó?!
Đó là luật Lêvi, mà đến thời Chúa Giêsu, người Do Thái vẫn còn áp dụng. Bởi vậy mới có chuyện Chúa Giêsu gặp một người cùi trên đường đi, không gặp tại nhà, trong làng. Anh ta “đến”, “quỳ xuống” “van xin” Chúa chữa cho lành. Đặc biệt là lời “van xin”của anh ta có câu mở đầu rất khác thường: “Nếu Ngài muốn” “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. 0Câu điều kiện này được đặt ra trong tâm trạng bị bỏ rơi của thân phận người mắc bệnh cùi, trong bối cảnh những người khác không ai muốn và có thể làm cho anh ta nên sạch. Thấy được lòng tin của anh, cảm được nỗi khổ đau của anh, và nhất là đúng ý vinh danh Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nói ngay, không chần chờ: “Ta muốn. Anh hãy khỏi bệnh”. Như thế là Chúa Giêsu cũng lại có cái khác thường: không ngại tiếp xúc với người phung cùi, mà hơn thế nữa, Chúa thương và chữa lành bệnh cho anh ta. Động thái căn bản của đức tin nơi người cùi là “đến”, “quỳ xuống”, “van xin” có thể làm cho chúng ta bỗng giật mình và hổ thẹn vì cách sống đức tin hôm nay. Bởi có thể chúng ta đã ngàn lần đến với Chúa, nhưng thử hỏi được mấy lần đến vì lòng tin. Các việc đạo đức tham dự thánh lễ, xưng tội, rước lễ… vẫn thực hiện như một thói quen, hoặc vì giữ luật hơn là vì lòng tin mến. Hình ảnh người bệnh cùi thể lý, còn là biểu trưng cho những bệnh hoạn tội lỗi trong tâm hồn con người. Lời Chúa muốn mời gọi chúng ta đổi mới cái nhìn, đổi mới cách cư xử không chỉ đối với những người đau yếu bệnh tật thể lý mà còn đối với những người đang sống trong tình trạng tội lỗi, bệnh tật nơi tâm hồn. Lời Chúa còn mời gọi chúng ta nhìn vào lòng mình để kiểm tra những bệnh tật tâm linh, sớm nhận ra và “đến”, “quỳ xuống” “van xin” Chúa chữa cho lành. Hãy mặc lấy cái nhìn của Chúa. Hãy mặc lấy tâm tình của Chúa. Xin đừng chủ quan lấy ý gian tà của mình mà áp đặt rằng đó là ý Chúa. Xin đừng xem phán xét thiển cận của mình là phán xét ngay thẳng đúng đắn theo ý Chúa. Xin đừng lên án, loại trừ ông nọ bà kia và cho là họ tội lỗi, họ phá hoại, mà hãy xem lại mình đang mặc lấy cái nhìn của Chúa, ý nghĩ của Chúa hay là cái nhìn, ý nghĩ của thần dữ kiêu ngạo tiềm ẩn sâu thẳm trong lòng. Lòng kiêu ngạo của con người đã làm đui chột cái nhìn của Đức Ái, đã làm nghẻn mạch trái tim chạnh lòng thương, biến dạng trái tim thành một khối đá vô cảm, tảng băng lạnh lùng. Lòng kiêu ngạo của mỗi con người đã góp phần phá hoại Hội Thánh. Hãy mặc lấy cái nhìn của Chúa và đến với những người khổ đau bệnh tật hoặc tội lỗi, có thể chúng ta gặp được không ít những người đang “đến” ‘quỳ xuống” và “van xin” Chúa ngay trong nhà mình, trong những khu ổ chuột, trong bóng đêm lầm lũi, ngay cả trong lúc cơ cầu nguy khốn nhất: Những tín hữu rất tầm thường đang đối diện với sự chết cận kề của người thân không thầy không thuốc, hoặc đang đối diện với cảnh ngục tù giam hãm đời mình vì đã lỡ một lần lầm lỗi công khai. Xin đừng đóng vai những ‘tội nhân chưa công khai’ lên án những ‘tội nhân công khai’ cách thâm tệ. Trong đó, hẳn có bạn, có tôi. Hy vọng, một lúc nào đó, bạn bắt gặp trong bóng đêm, dưới ngọn đèn dầu leo lét cháy, có một người đang quỳ lâu giờ để van xin lòng thương xót Chúa. Họ biết mình có tội. Họ đang thành tâm sám hối. Họ đang đặt mình đối diện với Thiên Chúa. Họ đã ‘đến, quỳ xuống và van xin’ với lòng tin mến cách chân thành. Khinh bỉ họ được sao? Loại trừ họ sao? Ai phong cùi hơn ai? Thiết tưởng, họ đang là những người tin mãnh liệt nhất. Chưa chắc những người nổi tiếng là đạo đức kia đã có được lòng tin như họ. Ngôi chùa và nhà thổ đối diện nhau. Vị thiền sư bên chùa lúc nào cũng nghĩ đến cô gái điếm và những việc xấu xa kia rồi sinh khinh thưòng hạng người tội lỗi. Còn cô gái điếm dõi mắt nhìn ngôi chùa, nhìn vị thiền sư mà lòng vẫn ước ao được an bình thanh thoát. Hai cõi lòng, hai con người, biết ai thánh thiện hơn ai? Ấy vậy, chuyện ngược đời vẫn xảy ra: chắc chi mình đã tinh tuyền, đạo đức, thánh thiện, mà lại khinh khi xem thường anh em, nhất là những người nguội lạnh, rối rắm, biếng nhác, hay giữ đạo cho qua ngày. Tôi có quen biết anh hai P, người ở Sài gòn, đang sống ở Tân Phú. Trong hoàn cảnh thực khó xử, vợ anh bỏ đi sau năm 1975. Anh đã phải sống trong tình trạng rối với người vợ mới hơn 30 năm rồi – với anh, cũng có nghĩa là hơn 30 năm khao khát các bí tích. Anh vẫn đọc kinh, dự lễ, và nhất là dạy giáo lý dự tòng cho chị bấy lâu nay. Con cái anh theo đạo ngoan ngoãn, cũng tham gia các hội đoàn cách sốt sắng. Tuy vậy, anh vẫn không thể giấu nổi nỗi mặc cảm với mọi người. Mỗi Chúa nhật đi dự lễ, anh lặng lẽ đi, lặng lẽ về như sợ ánh mắt của mọi người. Mấy năm gần đây, những anh em Legio thường xuyên thăm gia đình anh, anh được ủi an và rõ ràng là anh cảm nhận rằng Chúa đã động lòng. Bây giờ, mỗi lần ghé thăm nhà anh, thấy anh chị đọc kinh gia đình, đọc kinh Lòng Thương Xót, mà lòng tôi bỗng thẹn. Trong gia đình, ngoài làng xóm, nơi trường học, nơi công sở … hôm nay, việc “mặc lấy cái nhìn của Chúa” chắc hẳn có một sức mạnh cứu rỗi, sức mạnh của việc Truyền Giáo và Tái Truyền Giáo vậy. Lạy Chúa, Chúa đã đến để cứu chữa những tâm hồn tan nát đau thương. Xin cho chúng con mặc lấy cái nhìn của Chúa, ý nghĩ của Chúa, mà đối xử với nhau bằng tình yêu thương, lòng khoan dung độ lượng. Và tha thiết hơn, xin Chúa ban cho chúng con biết mình là người tội lỗi hơn ai hết, cần “đến, quỳ xuống, mà van xin” Chúa chữa lành khẩn cấp hơn ai hết. A men PM. Cao Huy Hoàng - 10-02-2012
Kể từ cái kinh nghiệm nhỏ bé trải qua trong khóa học BISA VIII tại Bangkok - Thái Lan vừa qua trong dịp Tết Nhâm Thìn, tôi đã có suy nghĩ rất khác về ‘phép lạ’ đức Giê-su chữa người bị phong hủi. BISA (Bishops’ Institute for Social Action) là khóa học dành cho các giám mục Á Châu về các đề tài liên quan tới phát triển con người theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội do OHD (Office of Human Development) thuộc FABC (Federation of Asian Bishops’ Conferences) tổ chức. Khóa VIII lần này có sự tham dự của khoảng 30 giám mục và 10 đại biểu linh mục, giáo dân đại diện cho 18 Hội Đồng Giám Mục và 06 tổ chức quốc tế. Tôi được mời tham dự trong tư cách đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vì đề tài học tập liên quan đến các di dân và thổ dân. Khóa học được chia làm hai phần: 04 ngày dành cho chương trình thực nghiệm (immersion program) và 04 ngày cho hội nghị thuyết trình và thảo luận. Trong phần thực nghiệm, các tham dự viên được chia thành từng nhóm 4-5 người đi thực tế trong một môi trường xã hội cụ thể. Nhóm tôi gồm 04 người, trong đó có 02 giám mục, đi làm việc tại một trung tâm PCU-AIDS (Palliative Care Unit for AIDS Patient Center) tại tỉnh Sayong miền đông nam Thái Lan, gần biên giới Kampuchia. Công việc của chúng tôi là cùng với các y công và y tá của trung tâm chăm sóc các bệnh nhân AIDS trong giai đoạn cuối. Một trong các công việc tôi được trao là thay tã (tampers) và chùi rửa các bệnh nhân hoàn toàn bị liệt. Việc đụng chạm trực tiếp tới những con người này (một thứ phong hủi hiện đại) trong trạng thái dơ bẩn nhất về thân xác của họ, đã để lại nơi tôi một ấn tượng khó quên. Mọi cảm xúc tự nhiên của tôi hầu như muốn nổi loạn, buộc tôi phải gồng mình kiềm chế. Cảm nghĩ lóe lên trong đầu tôi lúc đó chính là: “Ôi tình yêu nhập thể, khủng khiệp quá!” Đức Giê-su đã đụng chạm trực tiếp tới thân xác thấp hèn và dơ dáy tột độ của con người - cụ thể ở đây là trường hợp người mắc bệnh phong cùi ghê tởm - mà không có bất cứ thiết bị bảo vệ nào như tôi lúc đó: khẩu trang, bao tay cao su, các thiết bị y tế, nước sát trùng… và cả tấm tã cực kỳ tiện lợi. Điều duy nhất Người có, và có tới độ siêu phàm nhất, điều mà tôi lại hoàn toàn thiếu, đó là ‘Người chạnh lòng thương’. Thế đấy, tình yêu nhập thể thực quá cụ thể và chạm tới được tận chỗ cùng cực nhất của kiếp người. Đức Giê-su đã làm điều đó với người phong hủi, và còn tiếp tục làm với từng người chúng ta, đặc biệt những ai bất hạnh và yếu kém nhất cả về thể lý lẫn luân lý. Bất cứ ai Người cũng chạm tới được miễn là họ biết ‘quỳ xuống và van xin…’ Và cũng từ kinh nghiệm này tôi được biết việc chữa lành (hay phép lạ) không phải là điều quan trọng và cần nhấn mạnh nhất. Khi phục vụ tại CPU-AIDS tôi được cho biết, bệnh nhân nào tìm lại được ý chí muốn sống, người đó mới có cơ may tiếp tục sống, ngược lại bệnh nhân sẽ tàn lụi vô phương cứu chữa. Tác động lớn nhất trong việc điều dưỡng không phải là thuốc men hay phương tiện y tế, mà chính là trả lại cho bệnh nhân niềm tin và hy vọng. Tôi đã thấy vài trường hợp điển hình ngay nơi các bệnh nhân mà tôi phục vụ (thay tã, đút cơm hay nắn bóp), họ bắt đầu có các dấu hiệu hồi phục rõ ràng. Một bệnh nhân AIDS-TB nặng bị mọi người xa tránh vì dễ lây nhiễm, khi được tôi ân cần đút cơm cho, đã nở được nụ cười thật tươi sau nhiều ngày vật vã… Và bác sĩ cho biết bệnh tình anh đã khả quan hơn. Tác giả Mác-cô viết: ‘Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch…’ ôi sao mà xác thực quá! ‘Chạnh lòng thương’ còn quang trọng hơn nhiều việc đức Giê-su lấy quyền phép mà làm phép lạ… Nói cách khác chính ‘chạnh lòng thương’ đáp ứng được nỗi khát vọng thâm sâu nhất của bệnh nhân phong hủi này bị mọi người hắt hủi, và là tiền đề để chứng phong hủi biến khỏi anh. Sức mạnh của lòng thương xót thật vô song! Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết cảm tạ Chúa không ngừng, không phải vì các phép lạ hoặc các ơn trọng đại nhận được, nhưng vì đã biết tín thác vào lòng xót thương Chúa. Cho dầu không thể sửa trị được hết các yếu đuối phần hồn phần xác, con vẫn mừng vui khôn xiết vì Chúa đã chạnh thương chạm tới sự thấp hèn của con, qua đó trả lại cho con niềm hy vọng tràn trề và một sức sống vô biên. Amen Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Cuộc sống hôm nay rất cần cái đẹp. Cái đẹp cho bản thân như ăn ngon mặc đẹp. Cái đẹp cho tha nhân như một cử chỉ đẹp, một phong cách đẹp, một lời nói làm đẹp lòng người. Nhà văn Tolstoy đã kể lại một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời ông như sau: Một hôm, ông đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá công viên, từ xa có một người quần áo rách nát tả tơi đến gần và ngả mũ xin ông giúp đỡ. Thấy cảnh cơ cực, nhà văn liền thò tay vào túi định lấy tiền giúp cho người hành khất. Thế nhưng, ông đưa tay tìm hết túi này đến túi kia cũng không kiếm được một đồng nào trong túi. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói trong sự hối tiếc: “Này người anh em! Xin thứ lỗi cho tôi. Rất tiếc là hôm nay tôi không mang theo một đồng nào trong túi”. Nghe lời nói chân tình đó, người ăn xin không buồn mà còn nở nụ cười rạng rỡ trên môi và nói: “Không đâu thưa ông. Hôm nay ông đã cho tôi một món quà quý báu còn hơn cả tiền bạc. Đó là ông đã không khinh dể tôi mà còn coi tôi như người anh em của ông”. Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco cũng tường thuật lại một cử chỉ đẹp mà Chúa Giê-su đã dành cho người bệnh phong hủi nan y. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giê-su cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giê-su, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giê-su, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương. Có ai đó đã từng nói rằng: “một lời nói hay không bằng một cử chỉ đẹp”. Cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết làm đẹp lòng nhau. Cuộc sống sẽ bớt đi những tủi hờn, những cô đơn và thất vọng nếu chúng ta biết sống đẹp với nhau. Đừng chơi xấu, đừng loại trừ nhau, nhưng hãy đón nhận nhau. Cuộc sống sẽ vơi đi những nỗi sầu khổ đắng cay nếu mỗi người chúng ta biết đối xử đẹp với nhau. Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những lối sống tiểu nhân tầm thường, nên vẫn còn đó những oan ức, những giọt nước mắt đắng cay vì tình người phụ bạc, vì tình đời thay trắng đổi đen. Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những lối sống kém văn hoá, những cư xử thấp hèn nên vẫn còn đó những ứng xử thô lỗ, cộc cằn, những hành vi phi nhân và bất nghĩa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy can đảm loại bỏ những hành vi thô lỗ, cộc cằn, những hành xử thiếu văn hoá khởi đi từ chính gia đình chúng ta. Mỗi thành viên trong gia đình hãy biết dâng tặng cho nhau những cử chỉ đẹp như: sự quan tâm, sự khiêm tốn, ôn hoà và hiền hậu với nhau. Chúng ta không thể “khôn nhà dại chợ”, sống tốt với hàng xóm mà cư xử tệ với anh em. Chúng ta không thể sống trọn vẹn đức ái ky-tô giáo nếu chúng ta không yêu mến gia đình chúng ta. Đức ái luôn mời gọi chúng ta phục vụ nhau một cách quảng đại, hy sinh và quên mình. Đức ái mời gọi chúng ta sống khiêm nhu, hiền lành và nhẫn nại với nhau. Đức ái bao hàm sự bao dung và đón nhận nhau trong yêu thương và tha thứ. Đức ái không cho phép chúng ta loại trừ hay tẩy chay nhau. Đức ái mời gọi chúng ta dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương làm đẹp lòng nhau. Chúa Giê-su năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì con người anh có thể lành lặn. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Phải chăng, Ngài cũng muốn chúng ta hãy tiếp tục trao ban cho nhau những nghĩa cử yêu thương nồng ấm tình người? Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì lối sống đẹp của chúng ta sẽ là dấu chỉ chứng nhân tin mừng cho thế giới hôm nay. Amen Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người phong cùi. Người đã bộc lộ dung mạo của một vị Thiên Chúa vượt lên trên tất cả mọi phong tục, tập quán, lề luật, định chế xã hội… Bởi một lẽ duy nhất là vị Thiên Chúa của Tin mừng là vị Thiên Chúa dám nghĩ, dám làm, dám sống. Sách Lê vi, chương 13, câu 45-46 có viết : “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu ria và kêu lên : ‘Ô uế ! Ô uế !’. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế : nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại”. Theo sách Talmud – Babilon, họ đi vào nhà nào là mang ô uế vào nhà đó. Bất cứ ai chạm đến họ đều bị coi là ô uế. Họ là những người bị Chúa phạt, họ không được phép lên Đền thờ Giêrusalem, và nếu có được tham dự lễ nghi phụng vụ, họ phải ở trong một căn phòng đặc biệt dành riêng cho họ. Họ bị đối xử như người đã chết. Người phong cùi trong Tin mừng hôm nay đã dám “đến gặp Chúa Giêsu, quì xuống, van xin…”. Đức Giêsu “chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh…”. Cả hai hành vi, người cùi đến gặp Chúa và Chúa đưa tay chạm đến họ, đều là những hành vi “liều mạng”, vượt trên mọi thể chế, phong tục… bình thường. * Người phong cùi hẳn là biết rõ việc mình làm. Anh biết thân phận mình, biết những qui định ngặt nghèo là không được đến gần người khác. Anh chẳng màng đến những qui định này. Hẳn là anh không ghê tởm con người mình và cũng không sợ phán quyết khắc nghiệt của Đức Giêsu. Anh biết Người là Đấng nhân từ và bao dung. Nếu ghê tởm chính mình, hẳn là anh đã trốn biệt. Nếu sợ phán quyết khắc nghiệt, hẳn là anh đã không dám đến gần Đức Giêsu và van xin Người chữa lành. Anh đã liều và đã đạt được điều mình mong muốn. * Đức Giêsu, một Rabbi Do Thái chắc chắn là biết rõ điều luật “cấm không được đến gần người cùi trong khoảng cách một sải tay”. Nhưng Người đã không màng đến những qui định như thế. Người tự do và thoải mái hành động vì hạnh phúc con người. Người đã phá đổ những qui định phi nhân bản – loại trừ một con người đau khổ. Đức Giêsu thực là hình ảnh một vị Thiên Chúa cúi mình xuống với nỗi khổ đau của con người. Người đã cúi mình thật sâu (kenosis) trong biến cố làm người và trong cái chết trên thập giá. Người cúi xuống để nâng con người lên, miễn là con người nhận ra chính mình và cầu xin ơn cứu độ. Ngày nay, căn bệnh cùi thể lý đã bị tiến bộ y khoa đẩy lui, nhưng vẫn còn đó những bệnh cùi tâm linh, như tệ nạn xã hội : si đa, xì ke, ma túy, mọi hình thức vô nhân… và thường bị những người chung quanh khinh bỉ. Cùng với Đức Giêsu, người kitô hữu được kêu gọi thể hiện sự thông cảm, quan tâm đối với những người bất hạnh. Cùng với Đức Giêsu, người kitô hữu được kêu gọi để dám vượt qua những định chế, tập tục vô nhân. Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy cho chúng con
biết cúi mình xuống với những mảnh đời đau khổ, bất hạnh
để cảm thông và chia sẻ,
vì chính chúng con cũng đã được Chúa cảm thông và chia sẻ. Xin cho chúng con
dám vượt qua con người của mình, như người phong hủi,
để đến và khẩn cầu với Chúa. Như Hạ op
"Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò" (thơ Hàn Mạc Tử)
"Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
Lầu ông Hoàng đó thuở nào trăng
Hàn Mặc Tử đã qua
Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng
Tiếng chim kêu đau thương, như nức nở dưới trời sương
Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người tìm về giữa đêm buồn
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến
Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân
Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết
Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã vội tan
Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tang thương, mà khổ đau niềm riêng.
Hàn Mặc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân nơi nhà hoang
Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi
Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.
Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân chàng đến
Người xưa nào biết, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa
Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ
Khóc thương thân bơ vơ, cho đến một buổi chiều kia
Trơì đất như điên cuồng khi hồn phách vút lên cao
Mặc Tử nay còn đâu ?
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi chăng..."
Đó là bài ca về thi nhân Hàn Mạc Tử, do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác do nguồn cảm hứng từ những áng thơ bất hủ và chuyện tình thương tâm của nhà thơ nàỵ.
Ít nhiều gì chúng ta hơn một lần nghe nói về chàng thi sĩ tài hoa vắn số này. Thơ của chàng rất hay nhưng cung mệnh đời của chàng quá vắn. Chàng nằm xuống để rồi không biết bao nhiêu người đã nuối tiếc cho con người “tài hoa bạc mệnh này”.
Hàn Mặc Tử đã sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đã vượt hẳn lên cái mục đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam. Thơ của Hàn Mạc Tử là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ý nghĩa một tôn giáo mà là một cái gì thuộc về hoàn vũ.
Bài Thánh Nữ Đồng trinh trứ danh của Hàn Mạc Tử đã diễn đạt lại ý tứ của kinh Kinh Mừng quen thuộc của người Công giáo với một giọng vô cùng thành khẩn:
… Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,
Giầu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng hai hàng lệ
…Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm .
Nhà thơ Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, cũng như không biết bao nhiêu người mang trong mình chứng bệnh phong khắc nghiệt này rất đau khổ. Chưa nói đến chuyện người ta phải cách ly, thì những người bệnh phong này phải tự tìm cách cách ly với những người lành sạch. Nguyễn Trọng Trí chưa cần đợi người ta xua đuổi, cách ly, đã tìm đến ngôi nhà hoang để dấu mình trong những ngày cuối đời khi mang trong mình chứng bệnh quái ác này.
Hàn Mặc Tử, cũng như bao thi nhân vĩ đại có điểm độc đáo phi thường là đau khổ không dìm sâu họ xuống bùn đen mà đưa họ lên cao lên cao gần Thượng Đế
Ở Hàn Mặc Tử, thể xác đau đớn ê chề nhưng linh hồn thì thăng hoa trong sáng nhờ đôi cánh của tôn giáo được chắp vào trí tưởng của thi nhân.
Hàn Mặc Tử trong tận cùng đau khổ của thế gian đã tự ví mình: khi xưa ta là chim phượng hoàng, Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất"; ý tứ mình "cao cường hơn ngọn núi"; hồn mình "chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây"
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, ai trong chúng ta cũng biết tác hại của bệnh phong là như thế nào. Chẳng ai trong chúng ta muốn cho mình bị chứng bệnh ấy. Những bệnh nhân phong rất tội nghiệp, chân tay của họ không lành lặn như những người bình thường. Họ làm việc gì cũng khó cả vì chân tay của họ cứ teo dần teo dần. Nghiệt một cái là bệnh phong thuộc dạng lây lan để rồi từ ngàn xưa người ta vẫn thường kỳ thị những ai mang chứng bệnh này. Người ta sợ đến độ phải cách ly những ai mang bệnh phong để giữ gìn cho những người sạch không nhiễm bệnh.
Phải đọc kỹ đoạn sách Lê-vi nói về bệnh phong chúng ta sẽ rõ quy định như thế nào về những người bệnh phong. Môsê và Aharon được Đức Chúa phán rất rõ ràng về chứng bệnh này. Có hai loại phong: phong hủi và phong hủi kinh niên.
Người bệnh phong hủi là: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron. Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Nếu là đốm trắng trên da thịt, mà xem ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập người mắc vết thương trong vòng bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám nó: nếu chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan ra trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày nữa. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết thương đã mờ đi và không lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch. Nhưng nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố là thanh sạch, thì nó phải được tư tế tái khám. Tư tế sẽ khám: nếu lác đã lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong hủi.” (Lv 13, 2-8).
Còn người bị phong hủi kinh niên là: “Khi trên người nào có vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. Tư tế sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho lông chuyển sang màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm sùi ra, thì đó là bệnh phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không cô lập nó, vì nó là ô uế. Nhưng nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất cả da của người bệnh, từ đầu đến chân, bất kỳ đâu đâu mắt tư tế nhìn thấy, thì tư tế sẽ khám: nếu phong hủi phủ tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch: nó đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. Nhưng ngày nào thấy người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô uế; tư tế sẽ khám chỗ thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh phong hủi. Hoặc khi thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó sẽ đến với tư tế; tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang màu trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy thanh sạch.” (Lv 13, 9-17).
Sách Lê-vi quy định rất rõ ràng về người nào mắc chứng bệnh này cũng như quy định khi nào người mắc bệnh này được lành sạch.
Ngày hôm nay, khoa học tiến bộ nên số người bị phong cùi đã giảm hẳn vì người ta đã tìm cách khống chế căn bệnh mang tính di truyền này. Thế nhưng, chưa phải căn bệnh này đã chấm dứt. Đâu đó vẫn còn những trại phong quy tụ bệnh nhân lại để nuôi dưỡng, để chăm sóc, để nâng đỡ họ trong những ngày cuối đời. Chúng ta vẫn nghe đâu đó những trại phong Quả Cảm, Thanh Bình, Bến Sắn, Phước Tân, … Ai nào đó một lần đến và tiếp xúc trực tiếp với người bị bệnh phong cùi sẽ thấy họ thiệt thòi, họ đau khổ như thế nào.
Bệnh nào cũng vậy chứ không riêng gì bệnh phong cùi. Ai đã mang trong mình mầm bệnh thì đều mong được chữa lành. Với người bệnh cùi, được chữa lành quả là điều vô cùng hạnh phúc vì họ được hội nhập với cộng đồng, không còn bị cách ly, không còn bị miệt thị, không còn bị phân biệt đối xử nữa.
Người hạnh phúc mà chúng ta vừa được nghe thánh Máccô thuật lại trong trang Tin mừng hôm nay đó không ai khác là anh chàng bị phong hủi. Anh ta nghe tiếng tăm đồn đãi về Chúa Giêsu và tìm đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chữa cho anh được lành bệnh. Anh tin vào Chúa Giêsu và anh lành bệnh. Chúa cũng truyền cho anh đi trình diện cho các vị tư tế theo luật Môsê truyền dạy.
Quan niệm của người Do Thái rất buồn cười, cách riêng là những người Biệt Phái và Pharisêu. Họ cho rằng tất cả những ai bệnh hoạn tật nguyền là do người đó phạm tội nên bị trừng phạt. Họ không cho những người bệnh hoạn tật nguyền là những người kém may mắn hơn họ nhưng họ kết luận rằng vì những người đó phạm tội trong tâm hồn nên mới bị bệnh như vậy. Chẳng hiểu họ dựa vào đâu, chứng cứ nào để kết luận điều ấy.
Chúng ta còn nhớ cái anh què được Chúa chữa lành vác chõng mà về. Với người Do Thái, anh què chính là do tội lỗi của anh chứ người ta không công nhận đó là những khiếm khuyết về thể xác của con người.
Những người Do Thái trong đó có Pharisêu, Biệt Phái và cả chúng ta nữa, đều có cái nhìn, quan niệm khác với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn bên trong tâm hồn còn chúng ta, chúng ta vẫn mang trong mình thói quen nhìn bề ngoài.
Thật ra, bệnh ngoài da cũng sợ nhưng sợ hơn là bệnh trong tâm hồn. Có những người bề ngoài trông rất sạch sẽ, thơm tho nhưng bên trong lại quá ư là phong hủi. Mà cũng lạ ! Những người mang chứng phong trong tâm hồn thì lại sơn phết cho mình cái mã bên ngoài cực kỳ đẹp. Chúng ta còn nhớ, hơn một lần Chúa nói với Pharisêu và Biệt Phái là “Đồ thứ mồ mả tô vôi ! Bên ngoài trông đẹp nhưng bên trong là một dúm xương khô !”.
Thế đấy ! Nhiều người bên trong mang chứng bệnh phong hủi kinh khủng nhưng bên ngoài vẫn cố che đậy và đi khinh chê những người bệnh ngoài da.
Như Hàn Mạc Tử, anh mang trong mình chứng bệnh phong hủi, chứ tâm hồn anh quá đẹp, qúa thơ mộng. Anh đã để lại cho đời nhiều bài thơ bất hủ. Hàn Mạc Tử chắc có lẽ là người con yêu của Đức Mẹ nên Hàn Mạc Tử có những bài thơ về Đức Mẹ thật tuyệt vời. Bề ngoài thì anh bệnh nhưng trong tâm của anh thật sạch.
Chuyện cần, đó là chữa tâm hồn, chữa lòng mình cho sạch chứ không phải là chuyện bên ngoài. Chưa chắc bệnh ngoài da là xấu, bệnh trong lòng xấu mới là điều đáng sợ. Đừng đánh giá bề ngoài vì bề ngoài đôi khi là bóng bẩy nhưng bên trong thối hoắc. Đôi khi bên ngoài nó sần sùi, nham nhám chút nhưng bên trong cả là một tâm hồn cao thượng, một tâm hồn trong sạch. Những người phong cùi bề ngoài đấy nhưng trong lòng họ còn sạch hơn những người sạch bên ngoài mà bên trong thì hôi thối.
Hôm nay, Chúa chữa chàng thanh niên bị phung hủi nghĩa là Chúa đã giải thoát được cho anh cả chứng bệnh ngoài da và chứng bệnh tâm hồn vì như đã nói người Do Thái cho rằng anh bệnh hoạn tâm hồn nên anh mới bị ngoài da. Chúng ta, may mắn hơn anh ta là chúng ta không bị phong hủi ngoài da, nhưng chắc hẳn trong tâm hồn mỗi người chúng ta còn lợn cợn điều gì đó trong tâm hồn và chúng ta chạy đến Chúa để xin Chúa chữa cho chúng ta những cái lợn cợn trong tâm hồn để tâm hồn để chúng ta được thanh sạch hơn, được thơm tho hơn để đón mời Chúa đến và ngự lại trong lòng chúng ta. Anmai, CSsR
Thế là anh chàng bị bệnh phong cùi được chữa lành. Xưa nay chưa một ai chế ra được thuốc chữa phong cùi. Và cũng chưa một người cùi nào được chữa lành do con người. Thế giới hôm nay với nền văn minh y khoa vượt bực cũng chỉ mới chế ra được thuốc cầm chân bệnh phong cùi. Có nghĩa là, nếu ai đó không may mắc chứng bệnh hiểm nghèo này, thì phải dùng thuốc cho đến chết để cầm chân và không cho căn bệnh lây lan, hoặc tàn phá cơ thể của mình hơn nữa. Nhưng khi ý muốn con người hòa nhập với ý muốn của Thiên Chúa, thì mọi sự, kể cả bệnh phong cùi hiểm nghèo vô phương chữa trị kia cũng vẫn được chữa lành. Thánh Máccô, trong trình thuật của ngài hôm nay, cho thấy, người mang bệnh cùi kia không uống một viên thuốc nào, và cũng không phải tốn công tìm thầy, tìm thuốc, nhưng chỉ một câu: “Ta muốn anh khỏi bệnh” (Mc 1:41) của Chúa Giêsu là lập tức anh đó được khỏi bệnh. Cũng cùng một câu văn, Thánh Máccô đã ghi rằng trước khi Chúa Giêsu nói câu “ta muốn”, thì Ngài thật sự cảm thấy xúc động: “Xúc động vì thương xót, Chúa Giêsu giơ tay ra, động đến anh ta” (Mc 1:41). Vậy trong phạm vi Do Thái thời Ngài, và ngay bây giờ trên thế giới còn có biết bao người cùi, nhưng họ vẫn không được chữa lành. Không lẽ Ngài đã không còn “xúc động vì thương xót” nữa sao? Câu trả lời có thể được tìm thấy trong hai trường hợp: Mặc dầu Ngài rất xúc động và xót thương, nhưng những trường hợp Ngài không chữa lành, vì Ngài có mục đích riêng của Ngài. Cái mà ta gọi là Ngài “muốn”. Hoặc Chúa thật sự bị bó tay không chữa lành được, và đây là do con người “muốn”. Trường hợp đối với những bệnh nhân phong cùi tâm linh. Thật vậy, ở bất cứ trường hợp nào, để được chữa lành luôn luôn đòi hỏi phải có hai yếu tố: Chúa muốn và con người muốn. Chỉ có Chúa muốn không mà thôi thì vẫn chưa đủ làm nên phép lạ. Cần phải có ý muốn của con người. Con người có muốn thấy phép lạ hay không. Chúa Giêsu giữ nguyên tắc này rất kỹ. Suốt thời gian rao giảng Tin Mừng và ngay cả bây giờ, Ngài vẫn không phá lệ. Bất cứ ai nếu muốn có phép lạ, nếu muốn Ngài chữa lành đều phải “muốn”, và dĩ nhiên, cũng phải được Ngài “muốn”. Nguyên tắc này đã được ghi rõ trong Tin Mừng. Chính Thánh Máccô sau biến cố người cùi này, đã ghi nhận về trường hợp người đàn bà bị bệnh loạn huyết để được khỏi bệnh, bà cũng phải “muốn” mình được chữa lành, và bà cũng phải được Chúa “muốn” chữa lành. Vì thế, khi bà mon men chạm đến gấu áo Chúa Giêsu, thì lập tức bà được khỏi bệnh, và Chúa Giêsu đã nói với bà: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con. Hãy về bằng an và khỏi bệnh” (Mc 5:34). Đức tin của bà chính là lòng muốn. Chính là muốn một cách mãnh liệt sẽ được Chúa Giêsu chữa lành. Trong đời sống tâm linh cũng như đời sống thường ngày, ai trong chúng ta cũng muốn mình bình an, hạnh phúc, hiểu và yêu mến Thiên Chúa. Phần Ngài, Ngài cũng muốn nhìn thấy chúng ta bình an, hạnh phúc, biết và yêu Ngài như Ngài đáng yêu. Thế nhưng tại sao trong rất nhiều trường hợp, và có lẽ hầu hết là thế, chúng ta vẫn thấy mình bất an, không hạnh phúc. Vẫn thấy mù mịt và không mến nổi Chúa. Chúa muốn. Ta muốn. Thật vậy, ở phần đầu của trình thuật, Thánh Máccô đã ghi nhận trường hợp phép lạ xẩy ra là có sự cộng tác của hai ý muốn: Ý muốn người bị phong cùi và ý muốn của Chúa Giêsu. Nhưng ở đoạn kết, thì cũng chính người phong cùi ấy lại làm hỏng chuyện của Chúa, vì anh ta đã “không muốn” điều Chúa “muốn”. Chúa muốn anh ta cứ im lặng mà tạ ơn Thiên Chúa đã cho mình khỏi bệnh. Nhưng anh ta lại muốn “lớn tiếng” ca rao quyền năng Thiên Chúa. Sự đối chọi ấy đã làm làm cản trở công việc truyền giáo của Ngài. Tin Mừng đã ghi: “Người này ra đi và bắt đầu công khai phổ biến tin này khiến Chúa Giêsu không thể vào thành một cách công khai được” (Mc 1:45). Chúa muốn. Ta muốn. Làm sao để Chúa và ta muốn cùng một cái, cùng một lúc, và cùng giống nhau. Kinh nghiệm cho thấy rằng, phần đông là con người thích làm theo ý muốn mình, và ít khi hoặc không thích ý muốn của Thiên Chúa. Và trong tất cả những gì xẩy ra ngoài ý muốn của hai bên ấy, là vì con người đã không biết Chúa muốn gì?! Ngược lại, con người luôn luôn tò mò muốn biết Chúa đang làm gì cho mình. Dĩ nhiên, khi muốn biết điều này, chúng ta nghiêng về ý muốn là Chúa phải hành động như ý của chúng ta. Trường hợp người cùi được chữa lành đã muốn lớn tiếng công khai nói về phép lạ, và hành động của anh ta làm cản bước tiến, làm cho Chúa không thể hành động một cách như ý Ngài muốn, cũng cho chúng ta thấy rõ một điều nữa là trong khi hành động vì yêu mến Chúa, vì muốn làm sáng danh Ngài, chúng ta phải rất cẩn thận và coi chừng, nếu không thay vì “ý Cha thể hiện”, thì lại là “ý con tọai nguyện”. Lúc đó cũng là lúc chúng ta làm hỏng chuyện, làm cản bước tiến của Chúa. Nhưng làm sao biết được lúc nào Chúa muốn, và cái gì Chúa muốn. Các nhà tu đức và đạo đức học đã cho chúng ta một nguyên tắc để dò biết Chúa muốn gì và đâu là ý muốn của Ngài, đó là: Những cái Chúa muốn thường khác với những cái ta muốn. Đây là cái làm nên thánh giá, và mầu nhiệm thánh giá cũng chính là ở điểm này. Tuy nhiên, cũng các nhà tu đức và đạo đức học lại cho biết thêm rằng: Khi ta ôm hôn ý muốn của Chúa, cũng là lúc chúng ta thấy được hân hoan, bình an, và hạnh phúc! Ngoài ra, trong tâm lý sống, sự va chạm và khác biệt trong ý muốn, chắc chắn sẽ xẩy ra giữa ta và Chúa, con người cần phải bắt chước Mẹ Maria “ghi nhận và suy nghĩ trong lòng” (Luc 2:51). Và cũng như Chúa Giêsu, là làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Chính Ngài đã làm như vậy khi đứng trước ý muốn của Cha Ngài dù ý muốn ấy Ngài không thích: “Lậy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26:39). Nói một cách khác, Ngài đã ôm hôn ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa mà cũng không làm gì hơn là theo ý muốn của Thiên Chúa. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Giêsu mà cũng không hiểu nổi hết ý Con. Cả hai Đấng đã tỏ ra hàng phục ý Thiên Chúa. Chúa Giêsu thì chấp nhận uống chén Cha trao. Mẹ Maria thì ghi nhận những gì mình chưa biết mà cầu nguyện và suy nghĩ để làm theo. Như vậy, phần chúng ta, chúng ta sẽ hành động như thế nào mỗi khi mình muốn mà Chúa không muốn, hoặc sẽ ra sao mỗi khi Chúa muốn mà mình không muốn. Noi gương khiêm nhường của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và bắt chước Thánh Augustine, chúng ta hãy thưa lên với Chúa trong những trường hợp ý muốn ta khác với ý muốn Ngài, hoặc ý muốn Ngài không hợp với ý muốn ta rằng: “Lậy Chúa, xin cho con biết Chúa và biết con. Biết Chúa để con yêu mến Chúa, và biết con để con chê ghét chính mình con”. T.s. Trần Quang Huy Khanh
Chuyện vừa bị ăn cướp vừa bị vu cho mọi tiếng oan đã trở thành chất máu u uẩn của người Việt, như câu thành ngữ "vừa ăn cướp vừa la làng". Cha mẹ khuyên con bằng lời ca dao: Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan. Muốn che lấp hành động thô bỉ của mình thì phải giương cái bảng ra vẻ chính nghĩa lên cho oai chứ. Và mọi nỗi xấu xa cũng được nặn ra để chụp lên đầu "kẻ bị ăn cướp" cho mọi người thấy việc mình làm thật quá chính đáng và cao cả vì đại cuộc. Người đáng được thương thì lại bị tội; kẻ đáng tội thì lại trở thành "nhân vật vĩ đại". Ai không theo mình là phá hoại, thiếu nhất trí, không đoàn kết. Vừa ăn cướp vừa la làng là vậy. Và nỗi oan cứ mãi chồng chất, ăn sâu vào mạch máu, bám rễ trong tâm khảm người Việt. Nỗi oan phải chịu những bất công mỗi ngày mỗi lên cao, trở thành nỗi ray rứt dằng dặc trong suối dọc dài lịch sử người mình! Thà rằng như người Bách Việt cổ xưa ở vùng Lĩnh Nam, Quảng Đông Quảng Tây, chịu khuất phục đồng hóa với dân Hán từ phương Bắc tràn xuống chiếm đoạt, thành người Tàu cho xong một bề. Đàng này người mình cứ "cứng đầu", dựng ải Bắc Quan mà chận lại, và rồi dù có bị cả ngàn năm đô hộ, mình cứ nhất định là mình, nên mới nên nông nỗi này! Rồi nỗi oan từ cả một thế kỷ tương tàn phi lý. Nỗi oan những cái chết tức tưởi do chính anh em phân thây nhau để xây tháp ngà cho các thần râu xồm đúc nặn từ phương Tây. Nỗi oan những thân xác da vàng máu Việt làm mồi cho cá Biển Đông hay cho hải tặc Thái. Nỗi oan tan cửa nát nhà, chạy thục mạng đi ăn nhờ ở đợ khắp các vỉa đường thế giới. Nỗi oan bao nhục nhằn hấng chịu mấy chục năm qua, của lớp người thấp cố bé miệng cúi mặt trước đà tiến vênh mặt của nhân loại. NỖI OAN THỊ KÍNH Nhưng lạ lắm. Những ai nghiên cứu văn hóa Việt đều ngạc nhiên khi thấy người Việt với ngần ấy khổ lụy mà vẫn ít bị điên, vẫn "phây phây": Làm sao cũng chẳng làm sao,
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi. Người Việt dường như nâng niu nỗi oan đã vốn như gắn liền với thân mệnh của mình, làm nên một gia sản tinh thần trong một cái nhìn tích cực: dù bất cứ oan nghiệt nào, người mình vẫn có sức chịu đựng được, và vẫn tìm ra cách giải oan. Không thấy bàn tới bác sĩ thần kinh, đi viện tâm lý trị liệu, hay uống thuốc độc tự tử. Truyện Thị Kính là một điển hình. Đây là một câu truyện dân gian truyền tụng từ nhiều đời: Nàng Thị Kính kết duyên với chàng Thiện Sĩ con nhà giầu. Vợ chồng đang an vui thì xảy ra chuyện tình cờ, rất nhỏ mà hóa ra to. Một hôm chồng đang ngủ, vợ ngồi khâu vá chợt nhìn thấy cái râu mọc ngược, sẵn có dao trong tay toan cắt đi thì chợt chồng tỉnh dậy, nửa tỉnh nửa thức nhìn thấy lưỡi dao kề cổ liền tri hô lên là bị vợ ám sát. Thế là nàng Thị Kính bị đổ oan cho tội giết chồng, không cách nào bào chữa được nữa. Nàng bị đuổi về nhà cha mẹ. Không giải được nỗi oan, nàng bèn đi tu. Nhưng thời ấy muốn đi tu thì phải hóa trang làm con trai thì mới được nhận. Chú tiểu lấy tên là Kính Tâm, mỗi ngày mỗi khôi ngô tuấn tú khiến cho tín nữ Thị Mầu mê mẩn tìm cách tán tỉnh mà không được. Thị Mầu vốn có tính lẳng lơ, một hôm có con với một người nào đấy, lại hô hoán lên rằng cha đứa trẻ chính là chú tiểu Kính Tâm và đưa con lại vất vào cửa chùa. Lại mắc vào một nỗi oan nữa, Kính Tâm âm thầm chịu đựng, nhận nuôi đứa trẻ, mặc cho bao cay đắng đầy đọa. Khi đương tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ khóc nên giật mình.
Ngảnh đi thì dạ chẳng đành,
Nhận ra thì hóa ra mình chẳng ngay.
Nhưng vì trong dạ hiếu sinh
Phúc thì làm phúc, dơ đành chịu dơ. Kính Tâm đã giữ sự bí mật của mình cho đến ngày qua đời. Khi liệm xác người ta mới biết chú tiểu Kính Tâm không phải là đàn ông. CHẶT ĐỨT ĐƯỢC VÒNG XÍCH Sở dĩ truyện Kính Tâm đã trở thành như một di sản tinh thần của người mình, là vì truyền lại được cách giải oan kỳ diệu. Kính Tâm âm thầm chịu đựng trước hết là niềm tin vào Trời thấu suốt mọi bí ẩn, như ca dao đã từng nói lên:
Đèn Trời soi xét.
Ai bảo Trời không có mắt.
Trời nào có phụ ai đâu.
Làm ơn ắt hẳn nên ơn
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ Cho dù sau này đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão, có bước vào và phát triển mạnh ở Việt Nam, nhưng niềm tin căn bản vẫn là Trời. Thậm chí người theo đạo Phật cũng cầu khẩn với Phật nhưng rồi phải lên cao hơn nữa là cầu khẩn với Trời, vì thực ra đức Phật cũng chỉ là một người như ta mà đã giác ngộ được con đường giải thoát. Em đi cầu khấn Phật Trời Niềm tin này đã là võ khí mạnh nhất để đương đầu với mọi nghịch cảnh, và cắt đứt được vòng xích trói buộc từ đời này qua đời kia. Tiếng thời mới gọi là vòng hệ lụy nghiệt ngã phát sinh do những oan trái này. Khoa Tâm Lý Miền Sâu ngày nay cho thấy ít ra ba hậu quả hệ lụy của người không được giải oan hay chữa khỏi thì sẽ trở thành những hiện tượng:
Hiện tượng 1: Người bị thương lại đi gây thương tích cho người khác nữa kiểu giận cá băm thớt, giận chó đá mèo, thành cái vòng luẩn quẩn tiếp diễn. Dấu rõ nhất là khó nết, hay cắn cấu, phê bình chỉ trích, đấm đá ăn thua đủ với đời kiểu "vết thù hằn trên lưng ngựa hoang", phóng chiếu cái bực bội bên trong ra chung quanh. Chuyện chia rẽ trong cộng đồng cũng có thể do những giẫy giụa đáng thương này.
Hiện tượng 2: Gỡ gạc bù trừ, kiếm thêm tí danh hão, khoe mẽ chút phù du để che lấp cái mặc cảm hụt hẫng bên trong một cách tội nghiệp, nhiều khi trở thành lố bịch.
Hiện tượng 3: Bỏ cuộc trốn chạy, cố tìm quên cho khuây khỏa niềm đau xót, bi quan nhìn cuộc sống bằng đôi mắt đeo kính đen với những điệu than ai oán, nhiều khi phát điên hay tự tử vì những phi lý tận cùng: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
TIN VUI ĐƯỢC GIẢI OAN Khoa Tâm Lý Trị Liệu sau nhiều nghiên cứu mới khám phá ra được tiến trình chữa trị, mà bước đầu tiên là phải đối diện với nỗi đau và cho bộc lộ lên được chứ không chôn vùi. Vì nếu càng tìm cách trốn chạy hay vùi lấp thì nó càng trở thành động lực bên trong hành hạ và phóng chiếu (projection) ra thành những con ma đen ghê sợ: Biết than cùng Trời, biết thở cùng ai! Bài dân ca mộc mạc của người mình không ngờ lại nói lên được tiến trình này. Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay tới tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm? Niềm đau và nỗi oan được trút ra thành một đống rơm cho cháy đi bốc khói chẳng thơm tho chút nào. Nhưng khi khói bay cao làm cay mắt ông Trời thì ông liền quát hỏi: đứa nào đốt rơm? Bài dân ca dễ thương và hay quá! Ông Trời ở đây không còn cao xa mãi trên kia, mà đã trở thành rất người. Ngài cũng bị khói đen của những nỗi oan làm cay mắt, biết lắng nghe và cảm thông được niềm xót đau của người đang than thở. Vậy mà Ngài còn hỏi "thằng nào đốt rơm". Hỏi để mà cho có chuyện chứ Ngài đã biết ai rồi. Đây mới chính là giây phút giải oan của người mình: Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ! Nhìn như vậy thì Lời Chúa tuần này quả là tuyệt diệu. Người cùi mang nhiều mặc cảm lắm! Cách li thể chất và cách li tinh thần. Vì "chơi với cùi không cùi cũng ghẻ." Vậy mà người cùi trong Tin Mừng hôm nay dám vượt rào đến được với Chúa Giêsu mà trút hết những nỗi oan như "đốt một đống rơm, khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào": "Nếu ngài muốn, ngài có thể làm cho tôi đuợc sạch." Nhưng chính lúc con người tuyệt vọng đi tìm nghĩa sống thì Chúa bước tới, chứ không chỉ "kính nhi viễn chi" mà tỏ lòng thương hại! Ngài "chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: Tôi muốn, anh hãy được sạch." Thiên Chúa đã vuợt qua mọi làn ranh giới mức để chạm được tới con người, vào sâu trong nỗi khổ đau nhức nhối tủi nhục của kiếp người: "Đức Kitô đã mang lấy các tật gnuyền của ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Mt 8:17). Đó mới là thứ thuốc thần có sức giải oan, chữa lành. Linh dược đó chính là tình yêu, như trong thông điệp đầu tiên của ĐGH Bênêđictô 16: Thiên Chúa là Tình Yêu. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
LỜI CHÚA: Bài đọc1: Lv.13,1-2.44-46: Người phong cùi phải ở riêng ngoài trại. Bài đọc 2: 1Cr.10,31-11,1: Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô. Phúc âm: Mc.1,40-45: Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. SUY NIỆM:
Trong một giáo xứ, cha sở đã lập một ban Hội đồng mục vụ. Ngài chọn những người đạo đức gương mẫu vào ban này. Ngài luôn khuyến khích nâng cao tinh thần tông đồ và lòng vị tha cho họ. Dầu vậy, một người trong ban đã sa ngã phạm tội làm gương xấu, phần đông bổn đạo đều biết và xầm xì bàn tán. Người đó lại là người trước nay rất đạo đức, hăng hái hoạt động tông đồ. Thấy vậy cha sở rất đau lòng. Ngài cầu nguyện cách riêng cho ông và tìm cách khuyên mời ông ăn năn hối cải. Ngài hỏi ý kiến một vị trong Hội đồng: -Ông nghĩ sao về gương của người đó? -Thưa cha, một người trong Hội đồng mà làm gương xấu như thế thì không thể chấp nhận được. Cha hỏi người khác, ông này nói: -Con đề nghị sa thải ông ấy, nếu không cả Hội đồng sẽ mang tiếng và khó làm việc. Thấy một người ngồi im lặng có vẻ nghĩ ngợi, cha sở hỏi: - Còn ông, ông nghĩ sao? -Thưa cha, theo con nghĩ, ông ta chưa đến nỗi tệ. Nếu con lâm vào hoàn cảnh ông ấy chắc con còn tồi tệ hơn. Con người chúng ta có linh hồn và thể xác Thân xác có bệnh tật cụ thể, linh hồn cũng có những bệnh vô hình. Ai cũng sợ bệnh tật, cố tránh né, rủi khi mắc bệnh luôn cố gắng tìm cách chữa trị và được lành bệnh thì sung sướng biết chừng nào. Hôm nay Phúc Âm nói về một người bị bệnh phong cùi được Chúa Giêsu chữa khỏi. Đó là việc lạ lùng và nhiều tình tiết độc đáo: Bệnh phong cùi: khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm và cáo đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế. Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó. Nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Phong cùi là bệnh ghê tởm và khủng khiếp, ai mắc vào coi như tuyệt vọng. Họ phải sống cách ly cộng đồng, đi lại phải dùng khẩu trang và hô lớn tiếng “nhơ bẩn” để người khác biết mà tránh. Luật pháp Do Thái kiệt kê tới 61 trường hợp tiếp xúc với người phong hủi bị coi là nhơ bẩn. Nếu người phong hủi chỉ thò đầu vào nhà nào, nhà đó sẽ bị lây bẩn đến tận cây kèo trên mái. Không ai được phép chào hỏi người phong cùi ở ngoàn đường, không được đến gần hai mét. Nếu người phong hủi đứng phía đầu gió, người ở cuối gió phải cách 45 mét… Bệnh nhân có thể bắt đầu phát chứng bằng những mụn nhọt và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt lông mày rụng hết, mắt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói khàn đặc, hơi thở khò khè … Nó cũng có thể bắt đầu bằng tình trạng mất cảm giác ở một vài phần thân thể, dây thần kinh bị nhiễn trùng, các bắp thịt tiêu mòn, gân cốt co lại làm cho hai bàn tay trông giống như móng thú vật. Tiếp theo là tay chân bị lở loét, ngón tay ngón chân rụng dần cho đến khi cả bàn tay, bàn chân rớt hẳn ra … Đau đớn về tinh thần còn khốn khổ hơn đau đớn về thể xác, người bệnh hoàn toàn bị khai trừ khỏi xã hội: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Nó phải ở riêng ra một nơi bên ngoài trại” (Lv. 13,45-46). Thế mà Chúa Giêsu hôm nay phá bỏ bức tường ngăn cách ấy, không ngại sự gần gũi. Người bị phong hủi cũng dám cố đến gặp Chúa, anh ta quì xuống van xin rằng; “Nếu Ngài muốn Ngài có thể làm tôi được sạch”. Những người chung quanh ngạc nhiên , rùng mình về sự kiện Chúa sờ vào anh ta và bảo: “Tôi muốn anh khỏi bệnh”. Lòng tin của bệnh nhân đã không hề uổng công vô ích. Vui mừng vì được khỏi bệnh, anh ta cao rao danh Chúa. Dân chúng thấy vậy xô chạy đến Ngài để xin nhiều điều cần thiết…. đến nỗi vì đông quá Ngài không thể công khai vào thành nào được. Nếu con mắt tinh thần không bị suy thoái, không bị cận thị hoặc mù lòa. Chúng ta sẽ nhìn thấy những căn bệnh linh hồn thật ghê tởm, nó nguy hiểm đặc biệt là dẫn linh hồn đi vào cõi chết đời đời. Tội lỗi nó cũng bắt đầu từ triệu chứng lem nhem nho nhỏ, rồi dần dà lương tâm chai đá dẫn đến sai phạm những điều khủng khiếp. Chẳng hạn tội về đức công bằng người ta có nói: “Bé ăn cắp gà, gìa ăn cắp trâu”. Đến khi bị sa vào lưới vây bắt của công an ( đây là chưa nói gì đến hình phạt của Chúa) lúc đó họ mới đổ lỗi cho hoàn cảnh, đổ lỗi cho cả cha mẹ không chịu dậy dỗ. Trên thực tế họ chống đối lại, ngay cả thanh toán những ai khuyên bảo họ, kể cả ông bà cha mẹ. Dù là bệnh tinh thần hay thể xác, Thiên Chúa vẫn luôn dủ lòng thương xót bao la hải hà chờ mong mỏi người con được lành bệnh. Bây giờ Thiên Chúa không còn hiện diện hữu hình như ngày xưa để nâng đỡ những bệnh nhân xấu số như thời kỳ xuống thế ba năm ở trần gian. Nhưng Chúa đã dùng bàn tay con người, qua các bác sĩ, linh mục để luôn cho mọi người được một thể xác lành mạnh, một tinh thần trong sáng. Khi thấy niềm vui của người bệnh cùi hôm nay, chắc rằng chúng ta cũng đã nhiều lần cảm nghiệm được sự vui sướng khi khỏi những bệnh khác. Khỏi bệnh thể xác thì đã quá rõ. Khỏi bệnh tinh thần cũng vậy: Chúng ta thấy tâm hồn thật nhẹ nhàng khi bước ra khỏi tòa giải tội. Tâm hồn trong sạch thật là quí giá. Nó giúp cho đời sống an bình, vui tươi, trí khôn dễ lĩnh hội những chân lý đường trọn lành. Lòng dễ hướng về sự thiện. Đường đi của họ tiến bước thẳng về quê trời là nơi đã chuẩn bị cho họ như lời Chúa hứa cho những ai thuộc về Ngài. Br. B.M.Thiện Mỹ, CMC
Tuần này, niên lịch phụng vụ của Giáo Hội bước sang tuần thứ 6 của Mùa Thường Niên, Phúc Âm Thánh Marcô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu vừa mới tỏ mình ra đã thu hút được rất đông dân chúng. Danh tiếng của Người đã đi vào cả những nơi hẻo lánh nhất là thế giới của người cùi. Nhưng có một điều lạ là, trong khi muốn tỏ mình ra cho dân chúng và hết sức chứng thực mình quả là Đấng Thiên Sai, thì Người lại tỏ ý không muốn cho ai biết đến Người, như Người đã nghiêm nghị căn dặn người tật phong được Người chữa cho lành sạch trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Theo bối cảnh của bài Phúc Âm hôm nay thì đây là cuộc gặp gỡ riêng giữa Chúa Giêsu và người cùi, ngoài ra không có một ai, kể cả các môn đệ của Người. Nếu thành phần bị phong cùi phải sống riêng ở một chỗ hẻo lánh (xem Sách Dân Số 5:1-4), như bài đọc trích từ Sách Lê Vi hôm nay cho thấy, tức phải sống lẻ loi một mình hay rủ nhau sống tập trung vào một chỗ, như trường hợp 10 người tật phong ở ranh giới Samaria và Galilêa (xem Lk 17:11-12), thì trường hợp người cùi hôm nay là trường hợp sống lẻ loi cô độc. Vậy mà người phong cùi ở một chỗ hẻo lánh này cũng nghe thấy tiếng tăm vang dội của Chúa Giêsu, đến nỗi, theo Phúc Âm kể lại, dù chưa tận mắt thấy phép lạ Người làm hay nghe lời Người giảng, đã tự động tiến đến xin Người chữa lành cho một cách hết sức lịch sự: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi lành sạch”. Phải chăng Chúa Giêsu biết ở nơi hẻo lánh này có một con người đáng thương, nên Người cố ý tìm đến để chữa lành cho con người ấy, chứ không cần con người này phải tìm đến với Người, vì những nơi Người đi và ở thường có đầy dân chúng thì làm sao con người đáng thương bị xã hội tẩy chay này có thể đến với Người được. Thái độ của vị mục tử nhân lành biết chiên của mình và đi trước chiên (x Jn 10:3), đến với từng con chiên (x Lk 15:4), nhất là những con chiên lạc, như Người đã đến chờ gặp riêng chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp vào buổi trưa hôm ấy, giờ mà Người biết không có ai ở đó, ngoại trừ chị phụ nữ tội lỗi cảm thấy xấu hổ mới làng nước nên hằng ngày ra kín nước vào giờ vắng vẻ này (x Jn 4:4-7), cũng là thái độ Người tỏ ra cho cả người bị tật phong trong bài Phúc Âm hôm nay, một con người chẳng những bị cùi lở về phần xác mà còn bị nhục nhã về phẩm diện trước mắt thế gian nữa. Câu chuyện Chúa Giêsu gặp gỡ người cùi trong bài Phúc Âm hôm nay có thể xẩy ra vào lúc sáng sớm hay đêm khuya, những lúc tĩnh lặng mà theo thói quen Người thường âm thầm kín đáo lánh mình đi cầu nguyện ở một nơi thanh vắng, như trường hợp điển hình được bài Phúc Âm tuần trước đề cập tới. Cuộc hội ngộ với người cùi lần này có thể đã xẩy ra vào buổi sáng, sau khi Người cầu nguyện. Nơi Người cầu nguyện có thể gần chỗ người phong cùi này ẩn trú, nhưng người này hoàn toàn không biết gì về sự hiện diện gần gũi của Người, cho đến khi Người tìm đến với anh ta. Tuy nhiên, cho dù tận thâm tâm có muốn ra tay cứu chữa con người đáng thương này, bề ngoài Người vẫn tỉnh bơ như không có gì xẩy ra, như tình cờ đi ngang qua chỗ ẩn trú của anh ta vậy thôi, chứ Người, ở bề ngoài và trước mặt anh ta, không tỏ ra chủ động và tích cực trước, vì Người muốn chờ cử chỉ nhận biết và tin tưởng của con người muốn được cứu độ này. Nếu anh ta nhận biết và tin tưởng Người, thì Người sẽ trở thành Ơn Cứu Độ cho anh ta. Quả thật, Chúa Giêsu quả tình muốn tìm đến với con người này, và muốn chữa lành cho con người ấy, nên vừa nghe thấy lời kêu xin của anh ta, như Phúc Âm thuật lại, “Chúa Giêsu động lòng thương giơ tay chạm đến anh ta mà nói: ‘Tôi muốn. Anh hãy lành mạnh’. Chứng phong cùi lập tức biến mất và anh ta được chữa lành”. Màn Hai Đó mới là màn kịch thứ nhất trong câu truyện Chúa Giêsu âm thầm chữa lành một người phong cùi được Thánh Ký Marcô thuật lại cho Chúa Nhật tuần này. Màn kịch thứ hai đó là, sau khi được chữa khỏi chứng phong cùi và nghe căn dặn kỹ lưỡng những gì phải làm, những điều đã bị người khỏi cùi lở này bất tuân giữ. Có thể anh ta giữ được một nửa, ở chỗ nghe Chúa Giêsu đến trình diện với vị tư tế kèm theo những lễ vật được qui định trong luật Moisen để làm chứng mình được khỏi phong cùi (x Lv 14:2-32), nhưng nửa trước anh ta không thể tuân giữ nổi. Vì, trước hết, anh ta không thể không nói thật cho vị tư tế nghe những gì đã xẩy ra cho anh ta, nhất là về nhân vật phi thường đã chữa lành cho anh ta. Sau nữa, cho dù anh ta có hết sức muốn giữ miệng lưỡi chăng nữa, chẳng nhẽ về nhà, trước mặt gia đình và dân làng đã từng quen biết anh ta, hạch hỏi anh ta, anh ta lại có thể tự động từ một người bị phong cùi trở thành một con người bị câm điếc. Dù sao sự kiện vừa đi khỏi đó anh ta liền rao truyền việc sạch cùi của anh ta, như bài Phúc Âm hôm nay ghi nhận, cũng khách quan cho thấy nỗi cùng cực của anh trong thời gian bị cùi ra sao, giờ đây đột nhiên được khỏi anh không thể nào không reo lên, không nhẩy cuống lên, không sướng điên lên. Phải công nhận là Chúa Giêsu đã bảo con người làm một việc hết sức khó khăn và oái oăm. Khó khăn ở chỗ nó trái ngược với tâm lý, vì một khi vui mừng con người bao giờ cũng có khuynh hướng bày tỏ để truyền đạt niềm vui ấy ra. Câu “lòng đầy mới trào ra ngoài miệng” (Mt 12:34) cũng có thể áp dụng vào trường hợp này. Oái oăm ở chỗ, nhận ơn mà không được phép cao rao ơn lành mình được; điều này cũng trái ngược với những gì Chúa Giêsu thúc giục các môn đệ của Người khi Người sai các vị đi truyền giáo: “những gì Thày nói với các con trong bóng tối hãy rao giảng giữa ban ngày, và những gì các con nghe trong âm thầm hãy công bố trên mái nhà” (Mt 10:27). Thế nhưng, cái oái oăm ở đây không hẳn về phía người thụ ơn mà là về phía người thi ân. Ở chỗ, như đầu bài đã nêu lên nhận định: “Trong khi muốn tỏ mình ra cho dân chúng và hết sức chứng thực mình quả là Đấng Thiên Sai, thì Người lại tỏ ý không muốn cho ai biết đến Người”. Tại sao? Nếu điều oái oăm này là điều tối ư quan trọng đối với Chúa Giêsu thì người được sạch phong cùi làm trái ý Người như thế có tội hay chăng? Nếu quả thật có tội, thì biết trước việc chữa lành của mình cho con người này sẽ tác hại cho anh ta hơn là sinh lợi về phần hồn của anh ta thì tại sao Chúa Giêsu còn làm, như thế không phải là Người tạo nên dịp tội cho anh ta hay sao? Thật ra Chúa phán xét con người theo ý nghĩ của họ (x. Lk 19:22). Chắc chắn người phong hủi được sạch này không cố ý hại Đấng đã thi ân cho mình, và cũng không nghĩ đến hậu quả sẽ gây ra cho Người, ở chỗ làm ngăn trở việc tỏ mình ra của Người, “vì Chúa Giêsu không công khai vào phố thị được nữa”; trái lại, ngoài động lực vui mừng quá thúc đẩy anh ta phải nói ra, có thể anh ta cũng muốn mọi người nhận biết Người như anh ta nữa. Nếu quả thực là như vậy thì người cùi được chữa lành này không có tội trước mặt Chúa. Thực sự người cùi được lành sạch này không thể nào hiểu được ý nghĩ sâu xa của Chúa Giêsu ở trường hợp riêng của anh ta. Thậm chí các môn đệ gần gũi Người cũng không hơn gì anh ta. Chính các vị sau này cũng đã đặt vấn đề mâu thuẫn này với Thày mình, vấn đề muốn tỏ mình ra lại cứ ẩn mình đi (x Jn 7:1-10). Theo chiều hướng tỏ mình ra của mình, trước hết, Chúa Giêsu biết lúc nào, với ai và ở đâu Người cần phải làm điều tối ư quan trọng làm nên vai trò thiên sai của Người. Bởi vì, “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12), Người muốn tỏ mình ra từ từ như ánh mặt trời lên, từ rạng đông ban mai cho tới chói chang chính ngọ. Màn Ba Đối với thành phần “tác hành theo sự thật thì đến với ánh sáng” (Jn 3:21) chắc chắn sẽ không sợ ánh sáng, không sợ Chúa Giêsu, trái lại, đối với thành phần “hành ác thì không dám đến gần ánh sáng, vì sợ công việc của mình bị phơi bày” (Jn 3:20), thì sợ ánh sáng, sợ Chúa Giêsu. Thành phần “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19) này mới là đối tượng cần ánh sáng chiếu soi, cần Chúa Giêsu tỏ mình ra cho họ. Thành phần này chắc chắn không phải là thành phần dân chúng kéo đến với Người, dù ở bất cứ nơi nào, vì họ không sợ ánh sáng, trái lại, thấy ánh sáng ở đâu họ nhào đến đó. Tới nỗi, như cuối bài Phúc Âm hôm nay diễn tả, vì Chúa Giêsu không công khai vào thành được, họ liền từ khắp nơi kéo ra với Người, dù nơi Người ở bấy giờ là hoang địa. Vậy thành phần ấy là những ai trong dân Do Thái bấy giờ, nếu không phải là thành phần giáo quyền, thành phần tôn sư Pharisiêu, thành phần luật sĩ hay ký lục, thành phần sau này đã bị Chúa Giêsu điểm mặt thậm tệ quở trách là “mù quáng” (Mt 23:24,26; x. Jn 9:41). Sau một thời gian ngắn bắt đầu tỏ mình ra, Chúa Giêsu đã thấy được phản ứng chói mắt của thành phần này. Câu Phúc Âm gần cuối khẳng định “Chúa Giêsu không thể công khai đi vào phố xá” đã nói lên sự kiện ấy, sự kiện ngầm cho thấy bắt đầu đã có những chống đối, những ghen hờn, những giận dữ nổi lên trong bóng tối của thành phần lãnh đạo và tôn sư của dân chúng, một sự kiện đã được bộc lộ ngay khi Người vừa xuất đầu lộ diện ở hội đường Nazarét trước đó để chứng thực Người là Đấng được tiên tri Isaia nói tới (x Lk 4:14,18,28-30). Không phải vì sợ chống đối mà Chúa Giêsu muốn tránh mặt thành phần tối tăm này. Vẫn biết các Phúc Âm đều viết để làm chứng về Chúa Giêsu, thế nhưng, trong 4 Phúc Âm, nếu Ba Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại nhiều về các phép lạ của Chúa Giêsu thì Phúc Âm Thánh Gioan lại nhấn mạnh đến lời tự chứng của Chúa Giêsu. Theo Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, đến để tỏ mình cho thế gian, trước hết cho dân Do Thái và tại miền đất Do Thái. Bởi thế, dù Phúc Âm này có thuật lại ít phép lạ Người làm, mà nếu có làm, Người hay làm phép lạ mà không cần phải được xin trước hay tỏ đức tin trước, song Người làm phép lạ trước để làm cho người ta tin, điển hình nhất là trường hợp của người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:35-39). Điểm đặc thù của Phúc Âm Thánh Gioan, như vừa nhận định, Chúa Giêsu thường dùng lời nói để chứng thực với riêng thành phần lãnh đạo và tôn sư của dân Do Thái cũng như với chung dân chúng Người quả thực đã được Thiên Chúa là Cha Người sai Người đến. Dấu chứng để tỏ ra Người là Đấng Thiên Sai đó là, ngoài những chứng từ của Gioan Tẩy Giả và Sách Thánh còn có chính việc Người làm nữa (x Jn 5:31-40), những việc Người làm không phải theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 5:30, 6:38), đến nỗi, “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), một biến cố đã được Chúa Giêsu tiên báo cho riêng các môn đệ cũng như cho chung dân Do Thái với lời khẳng định: “Khi nào các người treo Con Người lên, các người sẽ biết Tôi là ai” (Jn 8:28). Như thế, việc Chúa Giêsu cấm không cho nói về Người, hay việc Người có vẻ không muốn tỏ mình ra vào những lúc nào đó hay vào những nơi nào đó, là vì chưa đến giờ của Người, một giờ khắc sẽ đạt đến tuyệt đỉnh của nó vào lúc Người bị treo lên, đúng như Người đã khẳng định, “Khi nào Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32), một lời khẳng định đã được Phúc Âm Thánh Luca chứng thực thuật lại là: “Chúa Giêsu kêu lên một tiếng lớn mà rằng: ‘Cha ơi, con xin phó linh hồn Con trong tay Cha’. Sau đó Người tắt thở. Viên đại đội trưởng (Rôma, biểu hiệu cho Dân Ngoại) thấy sự việc xẩy ra liền tôn vinh Thiên Chúa mà rằng: ‘Quả thực đây là một người vô tội’. Khi đám đông (Do Thái, biểu hiệu cho Dân Chúa) tụ lại để coi sự việc xẩy ra thấy thế liền về nhà đấm ngực mình” (Lk 23:48). Nếu bệnh cùi vẫn bị coi là dơ bẩn, xấu xa, có thể lây nhiễm, thì trước mắt Chúa Giêsu, thành phần lãnh đạo và tôn sư của dân Do Thái nói chung sống giả hình bấy giờ mới là những người bị phong hủi, đến nỗi, họ như nấm mộ được sơn phết đẹp đẽ bề ngoài nhưng bên trong họ đầy những thối rữa, hết sức kinh tởm (x Mt 23:27-28), đáng phải tránh cho xa, như Người đã căn dặn các môn đệ của Người coi chừng men nhóm Pharisiêu và luật sĩ (x Mt 16:6). Vậy nếu Kitô hữu chúng ta thấy mình còn sống giả hình, tức sống ngược lại với Sự Thật Thần Linh, nhưng là một thứ giả hình dối trá, ở chỗ, cứ tưởng mình ngon lành hơn kẻ khác, đến nỗi tỏ ra khinh người khác, thì quả thực chúng ta đang mắc bệnh phong hủi rồi vậy, cần phải tìm đến với Chúa Giêsu, Đấng luôn đợi chờ chúng ta khiêm nhượng hạ mình xuống chân nhận mình xấu xa dơ nhớp trước nhan Người, không phải bằng lời van xin thưa cùng Người như người cùi trong bài Phúc Âm hôm nay, mà bằng thái độ được Thánh Phaolô nhắc nhở trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Dù ăn hay uống, dù làm bất cứ điều gì, anh em phải làm tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”. Phải, chỉ khi nào Kitô hữu chúng ta luôn biết sống trước nhan Chúa như thế, chúng ta mới là những con người lành sạch, và mới có thể, như người tật phong trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là như Mẹ Maria vô nhiễm, “ngợi khen Chúa… Đấng cứu chuộc tôi” (Lk 1:46-47). Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Xưa kia, bệnh phong cùi được coi là một chứng nan y. Với Do Thái giáo, bệnh này còn là một dấu chỉ không tốt đẹp trong lãnh vực tôn giáo. Chính vì thế, theo luật Do Thái, người mắc chứng phong cùi phải sống ở một nơi hoàn toàn tách biệt khỏi gia đình và cộng đoàn. Họ không được tiếp xúc với ai, không được tham dự các sinh hoạt xã hội và các nghi lễ tôn giáo... Nói khác, bệnh nhân bị coi là "nhơ bẩn, ô uế". Điều này được ghi rõ trong sách Lêvi. (Xem bài đọc 1). Hậu qủa là, các đau đớn trong thân xác và khổ sở nơi tâm hồn biến bệnh nhân thành con người hoàn toàn bất hạnh, tuyệt vọng và cô đơn. Nhưng khi Chúa Giêsu xuất hiện, số phận của những bệnh nhân này đã được thay đổi, bởi vì: - Ngài đã thông cảm với tâm trạng và hoàn cảnh của họ.
- Ngài đã lắng nghe lời kêu cứu của họ.
- Ngài đã chữa lành họ.
- Ngài đã giúp họ nối lại tình thân hữu với tha nhân, với cộng đoàn, và tình phụ tử với Thiên Chúa. Thật vậy, Phúc âm đã nhiều lần nhắc đến việc Chúa chữa lành các bệnh nhân phong cùi và đưa họ trở về với gia đình, với cộng đoàn. Câu truyện hôm nay là một bằng chứng. Tuy nhiên, những phép lạ này không chỉ nhắm đến việc chữa lành căn bệnh thể xác, nhưng còn mang ý nghĩa tôn giáo quan trọng hơn. Đúng thế. Khi chữa lành những bệnh nhân phong cùi, Đức Kitô cho mọi người thấy rằng: - Thiên Chúa toàn năng có thể biến đổi một tình trạng bi thảm nhất thành một hạnh phúc tuyệt vời. - Thiên Chúa tình thương có thể chiếu sáng niềm hy vọng nơi một tâm hồn đang bị bóng tối kinh hoàng bao phủ. - Thiên Chúa vẫn luôn xác định hình ảnh và tình thương của Ngài nơi mỗi người chúng ta, dù chúng ta có bị đồng loại khinh chê, có bị xã hội xa lánh, có bị tôn giáo loại bỏ, có bị tội lỗi thống trị. - Thiên Chúa có thể tiêu diệt những thứ tội ghê sợ nhất đang hành hạ chúng ta. Tất cả chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta, như Thánh Kinh đã xác nhận: "Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, nên Ngài đã ban chính Con Một của Ngài cho nhân lọai, để mọi người, nhờ Người Con Một đó mà được cứu độ" (Ga 3,17). Chính trong tình yêu bao la này mà Đức Kitô đã đến trần gian để mang lại hạnh phúc cho con người: hạnh phúc đời này và hạnh phúc đời sau. Người Con ấy đã từng ngồi ăn chung với tội nhân (Mt 9,1), đã lớn tiếng đọc "Ephata" khi chữa lành người câm điếc (Mc 7,32-35), đã mở mắt người mù thành Giêricô (Lc 8,35-43) đã rơi lệ trước mồ Lagiarô (Ga 9), v.v... Nói tóm lại, Đức Kitô đã đến trần gian để đem mọi người lại với nhau và với Thiên Chúa. Như thế, điều quan trọng còn lại, chính là con người phải tin tưởng và khiêm nhượng đến gặp Đức Kitô, qua lời cầu nguyện, qua các bí tích Ngài thiết lập, đặc biệt qua bí tích giải tội. Ước gì, sau mỗi lần "bị bệnh", chúng ta biết mau mắn lặp lại cử chỉ và lời cầu xin của người phong cùi, can đảm bước đến toà giải tội, nghe lời tuyên bố của Chúa, qua vị linh mục: "Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Với lời tuyên bố ấy, chúng ta được trắng án, được tha bổng, để hân hoan trở lại với Chúa và cộng đoàn. Lm. Bùi Mạnh Tín
Theo quan niệm của người đời trước thời Cựu ước thì mọi sự đều do ma qủy gây nên, cho nên bệnh cùi là loại bệnh (Theo Thánh Kinh Cựu Ước Chúa dạy Moisen): Khi Thấy thịt da xuất hiện màu sắc khác thường, có mụn, vết bóng loáng là dấu người đó mắc bệnh cùi. - Tôi đi thăm trại cùi Di Linh, một cảnh sắc hiền hòa, làng cùi đem lại một sắc thái mới. Tình người hiện rõ nơi họ. Một Chúa Giêsu tử giá là Cha Cassaigne mắc lây bệnh cùi. Ngài và Chúa Giêsu gặp nhau ở tuyệt đỉnh tình thương trắc ẩn. Theo Sách Levi thuật lại cho bệnh cùi là một hình bóng của tội lỗi và kể ra 8 trường hợp bệnh tật sau đây: - Họ là người xấu số phải loại ra khỏi xã hội.
- Họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh.
- Họ phải đeo chuông báo (Vào thời trung cổ).
- Họ phải che mặt, mặc quần áo rách rưới.
- Phải để đầu trần.
- Phải ở riêng một mình trong trại cùi. Tình trạng bệnh này ngày nay bớt hơn nhưng cũng không sáng sủa. Theo quan niệm Do Thái: Bệnh là bởi tội của họ. Theo Thánh Ambrosiô thì: Bệnh sốt là bệnh ham hố nóng nảy. Theo Thánh Augustin: Bệnh cùi là bệnh không có đức tin. Vua Constantinô trở lại dân bảo ngài đã khỏi bệnh cùi linh hồn chưa? Tại sao vậy: Người cùi về thể xác bị lở loét, mặt mũi rân đỏ, co cụt tay chân... Người cùi về linh hồn là người bị suy nghĩ lạc về luân lý, họ bị lây bởi thói xấu của xã hội. Tội đủ mọi chỗ: Mắt, mũi, tay, chân, miệng, má... cũng có thể nghĩ quẩn, nghĩ bậy bạ. Ngày 5 tháng 12 năm 1984, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ II đã tiếp một người cùi tại thánh đường Phêrô là ông Antôn Magalhaes 73 tuổi, người Ba Tây. Ông bị bệnh cùi từ lúc lên 20 tuổi, tức là ông bị bệnh 53 năm. Ngài ôm ãm, hôn hít ông cách thân mật mà không tỏ ra một sự gì sợ hãi. Ngài lại còn chúc lành cho thân xác ông, khiến ông rất đỗi vui mừng, ông nói: ”Tôi chưa từng thấy người nào tỏ tình thân mật với tôi như vậy”. Chỉ có tình thương yêu siêu nhiên người ta mới thân mật được như vậy. Chỉ có một mình Chúa Giêsu thương xót và cứu chữa những người yếu đau bệnh tật đủ mọi thứ hạng như vậy. Chúng ta hãy bắt chước hình ảnh của Đức thánh Cha với người đồng loại. Lm. Thu Băng, CMC
Chỉ cần liếc qua bất cứ một tờ báo nào (báo giấy, báo điện tử, báo mạng) chúng ta sẽ nhận ra ngay có nhiều bàn tay làm nên những gì mà các bài báo ấy nhắc tới. Có những bàn tay sạch thì cũng có những bàn tay nhơ nhớp, bẩn thỉu. Có những bàn tay xây dựng, kiến thiết thì cũng có những bàn tay phá hoại. Có những bàn tay cứu sống thì cũng có những bàn tay giết hại. Có những bàn tay chữa lành thì cũng có những bàn tay gây nên thương tổn cho tâm hồn hay thân xác người khác. Đọc các bài Thánh Kinh hôm nay chúng ta sẽ thấy của bàn tay của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô là BÀN TAY CHỮA LÀNH. Điều đó đem lại cho chúng ta niềm vui lớn lao vì chúng ta sẽ được bàn tay ấy đụng đến và chữa lành. Điều đó cũng thúc bách để chúng ta nối dài bàn tay chữa lành của Thiên Chúa để xoa dịu và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền và khổ đau của những người xung quanh! II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH (1) Trong bài đọc 1 (Lv 13,1-2.45-46): Người mắc bệnh phong phải ở riêng ra ngoài trại (1) Đức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron như sau: (2) “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, là những triệu chứng bệnh phong, thì phải đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron. (44) Nếu mắc bệnh phong, thì người ấy trở thành ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; vì người ấy bị vết thương ở đầu. (45) Người mắc bệnh phong phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế!’ (46) Bao lâu còn mắc bệnh, người ấy sẽ còn là ô uế. Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại. (2) Trong bài đọc 2 (1 Cr 10,31 - 11,1): Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô. 10 (31) Thưa anh em, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. (32) Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do Thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; (33) cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ. 11 (1) Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô. (3) Trong bài Tin Mừng (Mc 1,40-45): Chứng phong hủi biến khỏi anh và anh được sạch. (40) Khi ấy, có người bị phong đến gặp Đức Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." (41) Đức Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh hãy được sạch!" (42) Lập tức bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. (43) Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, (44) và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế; và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, đễ làm chứng cho người ta biết." (45) Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người. III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 3.1 Chân dung của Thiên Chúa. 1o) Trong đoạn sách Lv 13,1-2.44-46 là những quy định mà Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê để ông phổ biến cho dân chúng tuân giữ: Người mắc bệnh phong bị coi là ô uế nên phải ở riêng một nơi, tách xa khỏi cộng đồng. Đi đâu người ấy cũng phải hô lớn tiếng (là mình ô uế) để mọi người tránh xa. Thật chẳng có gì đau đớn và tủi nhục cho bằng! Nếu người mắc bệnh phong được khỏi bệnh, thì người ấy phải tìm đến trình diện với tư tế để được vị này nhìn nhận là sạch bệnh và cho phép tái nhập vào cộng đồng. Hiển nhiên là trước mặt Thiên Chúa thì người bệnh phong chẳng ô uế hơn người khác và chẳng ô uế chỉ vì mắc bệnh phong là thứ bệnh vế thể lý. Điều làm cho con người thành ô uế trước mặt Thiên Chúa là tội lỗi chứ không phải là bệnh này bệnh nọ. Chúng ta có thể hiểu mệnh lệnh của Thiên Chúa ở đây có ý nghĩa “ngừa bệnh” cho cộng đồng và ám chỉ những người ô uế thực sự (là tội nhân) cần phải tách ra khỏi cộng đồng. 2o) Trong đoạn thư 1 Cr 10,31 - 11,1 Thánh Phao-lô không đề cập trực tiếp đến Thiên Chúa, nhưng qua các lời khuyên của ngài, chúng ta hình dung ra được Thiên Chúa là Đấng nào, có vị trí ra sao trong cuộc sống của Phao-lô và các tín hữu. Trước hết Thiên Chúa của Phao-lô là Đấng đáng được tôn vinh bằng/qua mọi việc làm của người tín hữu. Kế đến Thiên Chúa của Phao-lô là Đấng làm cho mọi người có giá trị và đáng được người khác trân trọng và phục vụ. Sau cùng Thiên Chúa của Phao-lô là mẫu mực mà Phao-lô và mọi tín hữu (phải) noi gương bắt chước. Nếu nối kết bài Thánh Thư này với bài Phúc Âm thì chúng ta có thể nói một cách cụ thể là Thánh Phao-lô đã noi gương bắt chước Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết mọi người. Thánh Phao-lô đã bắt chước Chúa Giê-su Con-Một-Thiên-Chúa-xuống-thế-làm-người là Đấng chạnh lòng thương người mắc bệnh phong khốn khổ. Người không chỉ chạnh lòng thương mà Người còn ra tay cứu vớt, còn đụng tay tới người phong mà không sợ bị lây cái ô uế. Thánh Phao-lô đã bắt chước Chúa Giê-su là Đấng không tìm lợi ích hay vinh danh riêng cho mình mà chỉ tìm lợi ích hay vinh danh cho con người, nhất là cho những người bị khinh chê hay bị quên lãng trong xã hội. Vậy thì các tín hữu - trong đó có chúng ta - cũng hãy noi gương bắt chước Phao-lô mà trở nên giống Thiên Chúa, giống Chúa Giê-su Ki-tô! 3o) Thiên Chúa mà Thánh Mác-cô muốn giới thiệu với chúng ta trong đoạn Mc 1,40-45 là Đức Giê-su Na-da-rét với quyền năng đặc biệt là chữa lành bệnh tật của con người, kể cả những bệnh nan y (theo trình độ y tế thời bấy giờ) như bệnh phong. Đức Giê-su chỉ cần muốn người bệnh được lành là người ấy được khỏi. Nhưng Đức Giê-su đã có một cử chỉ hết sức dễ thương là đụng tay đến người bệnh phong. Cử chỉ này chẳng ai dám làm vì ai nấy đều sợ hãi, kinh tởm và tránh xa người bệnh. Nhưng không chỉ có thế. Thánh Mác-cô muốn cho chúng ta nhìn sâu vào tâm hồn của Đức Giê-su để thấy tấm lòng của Người nhạy bén và rung cảm trước nỗi khổ của người bệnh như thế nào. Người bệnh phong vừa khổ vừa nhục cầu cứu Chúa đã khiến Chúa chạnh lòng thương và chạm tay vào anh để chữa lành anh. Hơn nữa chúng ta còn thấy Chúa Giê-su là người tuân giữ những quy định của lể luật Mô-sê khi bảo người bệnh phong trình diện tư tế.... để được nhìn nhận là đã được khỏi bệnh (sạch) và được tái nhập vào cộng đồng con cái nhà Ít-ra-en. 3.2 Sứ điệp của Lời Chúa. Sứ điệp của Lời Chúa dành cho chúng ta hôm nay gồm 2 ý: * Ý thứ nhất là dù yếu đuối, u mê, tội lỗi chúng ta hãy để cho bàn tay chữa lành của Thiên Chúa, của Chúa Giê-su Ki-tô đụng đến chúng ta. Chắc chắn chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ, thông sáng và thanh sạch. * Ý thứ hai là chúng ta hãy học cùng Thánh Phao-lô mà noi gương bắt chước Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô mà yêu thương và cứu chữa những người đang đau khổ về tinh thần cũng như về thể xác ở chung quanh, trong cộng đồng chúng ta. IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY 4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng quyền năng và giầu lòng xót thương; ngài đã chạm tay vào những con người bệnh hoạn, tật nguyền, đau khổ để chữa lành họ. 4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa Để thực thi sứ điệp Lời Chúa Chúa nhật VI Thường Niên Năm B này, chúng ta cần tiến hành những bước như sau: - Trước hết, trước mặt Chúa và trước lương tâm mình, chúng ta tự hỏi: * Trong tâm hồn và cuộc sống của riêng tôi, còn có những ngõ ngách nào tăm tối, nhớp nhơ cần được bàn tay chữa lành của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô đụng vào để tôi được hoàn toàn lành mạnh? * Chung quanh tôi, bên cạnh tôi hiện nay, ai là người đáng được tôi yêu thương, chăm sóc chữa lành? Phải chăng đó là những bệnh nhân HIV-AIDS? Là những phụ nữ lỡ đường lạc lối? Là các cô gái mang thai mà không muốn giữ con? Là các cháu sơ sinh bị cha mẹ từ chối? Là các ông bà già không ai chăm sóc yêu thương? Là những anh chị em từ các tỉnh và nông thôn chạy về thành phố để lao động kiếm sống? Là chính người nào đó trong gia đình tôi? * Trong giáo phận, giáo xứ, cộng đồng, hội đoàn tông đồ của tôi hiện nay có những công việc nào mà tôi coi thường và trốn tránh không muốn đụng tay vào, trong khi đáng lẽ ra tôi phải vén tay áo và nhúng tay đảm nhận những công việc ấy cho giáo phận, giáo xứ, cộng đồng, hội đoàn tông đồ lành mạnh và phát triển hơn nữa? - Sau khi xác định được ngõ ngách nào còn tăm tối, nhớp nhơ trong tâm hồn và cuộc sống của mình, chúng ta hãy để cho Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô đụng tay chữa lành chúng ta! Sau khi đã xác định được đối tượng cần được chăm sóc và công việc cần được làm rồi, chúng ta hãy hành động như Chúa Giê-su Ki-tô của chúng ta! V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH [Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó] 5.1 «Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.» Lạy Thiên Chúa là Đấng Toàn Trí Toàn Năng và Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng chạnh lòng thương những con người khốn khổ, xin Chúa hãy dơ tay chạm đến những thân xác và tâm hồn tan nát vì đau khổ, bất công và tủi nhục để chữa lành họ. X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 5.2 «Đức Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh hãy được sạch!» Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con xin Cha ban cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ nam nữ, một tấm lòng yêu thương con người, để các ngài dấn thân cứu giúp và chữa lành những người bệnh hoạn, tật nguyền và đau khổ xác hồn. X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 5.3 «Thưa anh em, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.» Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con xin dâng lời cầu xin Cha ban ơn trợ giúp mọi giáo hữu thuộc cộng đoàn giáo xứ chúng con, nhất là những người tham dự Thánh Lễ này, để họ biết làm vinh danh Cha trong mọi công việc lớn nhỏ. X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 5.4 «Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.» Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con cầu xin Cha cho tất cả các Ki-tô hữu dấn thân trên cánh đồng truyền giáo, để ai nấy biết noi gương bắt chước Chúa Giê-su Ki-tô như Thánh Phao-lô Tông Đồ. X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
“Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,1) … “Này Ta để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi…”(c.3). Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Giavê qua miệng tiên tri Giêrêmia. Đó là những mục tử làm cho đàn chiên tan tác vì chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên. Đó là những mục tử chỉ biết lo cho bản thân, mãi mê kiếm tìm quyền lực, thu tích của cải. Và chuyện gì sẽ đến, rồi sẽ đến, đó là sự vinh thân phì da và sự sa đoạ cách này kiểu khác của những người mang danh mục tử. Các hậu quả mà chính vị mục tử gánh lấy có thể không xảy ra ở đời này nhưng chắc chắn không thể tránh được ở đời sau. Tuy nhiên, với chính đàn chiên thì hậu quả như nhãn tiền ở đời này. Đàn chiên tan tác, con thì gầy yếu, con thì bệnh tật, con thì bỏ mạng dưới móng vuốt của thú dữ rừng hoang… Chính vì lợi ích của đàn chiên nên Thiên Chúa không thể không ra tay đúng lúc, đúng thời. Người sẽ loại bỏ các mục tử vô tâm và bất nhân ấy để rồi “sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành”(c.4). Vị mục tử tốt lành “chính danh” đã xuất hiện. Có thể nói rằng một người duy nhất trong nhân loại đã tự giới thiệu: “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11) đó là Chúa Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta. Đây là một sự tự khẳng định không phải liều lĩnh hay khoa trương, nhưng rất có căn cứ. Chính con người và cuộc đời của Chúa Giêsu mà Tin Mừng tường thuật xác nhận cho ta căn cứ này. Tin mừng Thánh Gioan trình bày khá đấy đủ về hình ảnh vị mục tử nhân lành. Đó là người biết chiên, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên, là người luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát, để bảo vệ đàn chiên trước nanh vuốt của sói dữ và ác thù. Chúa Nhật XVI TN B, Mẹ Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta đoạn Tin Mừng thánh Maccô mô tả một vài nét về vị mục tử ấy, đó là người biết quan tâm đến đàn chiên cách cá thể và cụ thể, toàn diện và đến cùng. 1. Yêu thương cách cá thể và cụ thể: Giêsu không chỉ yêu thương đàn chiên cách tổng thể nhưng còn với tính cách cá thể từng chiên một. Người sẵn sàng bỏ 99 con chiên để tìm cho đựơc một con chiên lạc bầy. Đó là người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã 12 năm. Đó là người bại tay trong một Hội Đường nhân ngày hưu lễ. Đó là hai người bị quỷ ám ở vùng Ghêrada, là em bé con ông Giairô, trưởng Hội đường đựơc chỗi dậy từ cõi chết. Và giờ đây, đó là nhóm Mười Hai tông đồ đang mệt nhoài vì chuyến đi truyền giáo vất vả. Tình yêu của mục tử Giêsu không dừng lại ở tình cảm xuông, nhưng luôn được thể hiện bằng hành động cụ thể, thiết thực, thấy được, cảm đựợc và chứng nghiệm được. Không phải chúng ta cổ võ chủ nghĩa duy hiệu năng nhưng lắm khi việc coi thường các kết quả bên ngoài cũng là một trong những cách thế che đậy sự thiếu dấn thân tích cực hoặc biện minh cho một thứ tình cảm hời hợt trên môi miệng. 2. Yêu thương cách toàn diện: Vị mục tử Giêsu không phải yêu thương đàn chiên cách phiếm diện hoặc chỉ có linh hồn hay chỉ có thể xác. Người chăm sóc đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn. Không chỉ rao giảng tin mừng cho dân chúng, nhưng khi thấy họ đang cồn cào vì bụng đói thì Người đã cho họ no nê bằng bánh và cá. Người không chỉ chữa lành bệnh tật cho chiên mà còn xua trừ ma quỷ ra khỏi chiên. Người không chỉ nhắm đến chuyện tâm linh mà còn lo lắng cả phương diện thể lý của các môn đệ. “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” ( Mc 6,31 ). Một lời chỉ dạy vừa thân tình vừa thiết thực. Giữa một thế giới đầy tiếng động, lắm tất bật do bởi công việc, nhiều căng thẳng vì các kế hoạch, chương trình chồng chất… thì một vài giây phút nghỉ ngơi, thư giãn quả là rất cần thiết cho thể lý và tâm hồn. Ai không biết nghỉ ngơi thì cũng khờ dại không kém gì người lười biếng không chịu làm việc. Một vị thầy vừa lo lắng cho các môn sinh việc làm là sai đi truyền giáo sau khi đã ban cho họ quyền trên bệnh tật và ma quỷ, nay lại còn lo cho họ cả chuyện nghỉ ngơi, đích thật là vị mục tử tốt lành. 3. Yêu thương cho đến cùng: Nói đến tính đến cùng trong tình yêu của vị mục tử Giêsu, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến việc Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên. Tuy nhiên bài Tin Mừng Chúa Nhật này lại cho ta thấy một nét trong tình yêu đến cùng của Người đó là sẵn sàng từ bỏ nhu cầu chính đáng của mình vì nhu cầu cấp thiết của đàn chiên. “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”(c.34). Hơn bao giờ hết, ngày nay, chúng ta không chỉ mong mà còn khao khát có được nhiều mục tử tốt lành. Chúng ta cầu nguyện. Quả không sai. Thế nhưng, chúng ta đừng quên Chúa muốn thánh ý của Người được thể hiện qua những con người, qua chúng ta. Hãy nỗ lực cộng tác với Chúa để loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử gian ác, những mục tử chỉ biết mưu cầu lợi ích bản thân, những mục tử làm đàn chiên tan tác, những mục tử không có tấm lòng với chiên, không lo lắng cho đàn chiên cách cá thể từng chiên một, cách cụ thể bằng hành động. Hãy loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử không biết yêu thương đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn, cả chuyện tâm linh lẫn đời sống thể lý, kinh tế văn hoá… Và hãy loại đi cả những mục tử chỉ biết đặt nhu cầu của mình, cho dù là chính đáng, lên trên nhu cầu cấp thiết của đàn chiên. Nghe hai từ loại bỏ thì có vẻ nhẫn tâm và bất hiếu hay vô đạo. Cách riêng với tâm lý Á đông thì thường không nỡ “cạn tào ráo máng”. Hơn nữa, tín hữu chúng ta vốn sợ mang tai mang tiếng khi có chuyện đụng chạm đến các đấng bậc bề trên. Hình như bà con người dân Vinh, người dân xứ Nghệ rất sợ mang tiếng chống cha, chống cụ, và lại còn sợ Chúa phạt, khiến cả gia đình ngóc đầu lên không nỗi. Dĩ nhiên, nếu chúng ta loại bỏ các mục tử gian ác bằng các phương thế tiêu cực thì quả là đáng trách và không phải phép. Không ai là không thể đổi thay. Vậy cách thế tích cực hơn là hãy tìm cách xây dựng các chủ chăn vô tình, tắc trách, thành những mục tử nhân hậu, tốt lành theo khả năng và hoàn cảnh của chúng ta. Các phương thế xây dựng thì đủ kiểu, nhiều cách, miễn sao chúng được thực thi trong đức ái. Năm linh mục đã mở ra. Không riêng gì các linh mục phải nỗ lực thánh hóa bản thân mà cả cộng đoàn dân Chúa phải tích cực dệt xây cho chiên trong đàn lẫn ngoài đàn có thêm nhiều mục tử tốt lành, chính danh, chính hiệu. Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Trong cuộc sống nhân sinh, sinh - lão - bệnh - tử luôn là những thực tại hữu hình con người phải đối diện. Là con người, không ai có thể được miễn trừ. Chính vì thế, điều lo lắng của con người là khi đối diện với điều “không tránh khỏi” này, làm sao càng sớm, bao có thể, để thoát khỏi sự ràng buộc rất khó chịu này. Do đó, khi có cơ hội, đối tượng luôn tìm mọi cách, tìm mọi phương thế để tìm thầy, chạy thuốc hầu chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo. Người mắc bệnh phong trong Tin mừng hôm nay cũng vậy. Anh ta tìm đến với Chúa Giêsu và được Người chữa lành. Chúng ta biết phong cùi là một trong những chứng bệnh nan y nguy hiểm. Bên cạnh sự đau đớn về thể xác, bệnh nhân còn chịu sự hắt hủi, khinh miệt từ phía cộng đồng. Thật thế, chiếu theo luật, bệnh nhân một khi được chứng thực đã mắc phải căn bệnh kinh khủng này, lập tức bị cách ly khỏi cộng đồng dân cư. Họ phải ăn mặc rách rưới, tóc tai để bù xù và khi thấy người nào tiến về phía mình, họ lập tức phải la lên “ô uế, ô uế” để tránh nhiễm ô uế cho người đó. Thời Chúa Giêsu, mấy ông tư tế còn “vẽ rắn thêm chân”, khiến cho bệnh nhân càng bị cộng đồng khinh miệt cách thậm tệ. Mấy đấng lý luận rằng, bệnh nhân không chỉ mất hết các mối quan hệ với Giavê Thiên Chúa mà còn là cách thế Người dùng để trừng phạt họ vì bảy mối tội đầu như vu khống, giết người, làm chứng gian, ham truỵ lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam. Về nguyên tắc, bệnh nhân phong không được đến gặp trực tiếp bất cứ ai, vì như thế sẽ làm họ ô uế. Thế nhưng Tin mừng hôm nay cho thấy, bệnh nhân bất chấp luật lệ, anh đến tìm gặp người mà anh biết sẽ giúp anh thoát khỏi sự đau đớn cũng như sự khinh bỉ do lề luật đặt ra. “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Và anh đã được toại nguyện. Cũng theo nguyên tắc, không ai đến gần bệnh nhân phong mà không bị mắc tội ô uế, cần phải qua thanh tẩy mới có thể tái gia nhập cộng đoàn. Chúa Giêsu, hơn ai hết, hiểu rõ điều đó. Nhưng Người đã vượt xa lề luật khi giơ tay chạm vào bệnh nhân, giúp cho anh lành bệnh. “Tôi muốn, anh sạch đi”. Chúa Giêsu đã giúp anh thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo, dẫn đưa anh tái hoà nhập cộng đoàn. Như thế, với Chúa Giêsu, chẳng ai bị ô uế cả. Những bệnh nhân phong - những con người bị đặt ra ngoài lề xã hội, là những người đáng thương, vì thế, cần phải giúp đưa họ tái hội nhập, trả cho họ quyền được sinh hoạt với cộng đồng. Đứng trước bệnh nhân đang đau khổ, Chúa Giêsu đã vượt qua mọi trở ngại của lề luật, Người không ngần ngại chạm đến thân thể lở loét hôi thối của bệnh nhân để yêu thương chăm sóc họ. Bởi sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian là để chữa lành con người cả về thể xác lẫn tâm hồn. Đây là điểm khác biệt giữa giáo huấn của Chúa Giêsu với giáo huấn truyền thống mà Người từng hấp thụ trong Dothái giáo. Khi đối xử với những người cùng khổ trong xã hội như thế, Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một tấm gương về lòng nhân bản tuyệt vời. Để rồi từ đây, các môn đệ, các thế hệ Kytô hữu tiếp nối truyền thống nhân bản này để ra đi chăm lo cho những người đau khổ nghèo hèn- đặc biệt những người bị xã hội bỏ rơi, sống vất vưỡng không nơi nương tựa, dẫn đưa họ hoà nhập vào cộng đồng, “bắt” xã hội phải tôn trọng phẩm giá nhân vị của họ. Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta phản tỉnh về thái độ ứng xử của chúng ta đối với những anh em đồng loại đang gặp những khổ đau về thể xác cũng như tinh thần. Chúa Giêsu khi đối diện với những thực tại này của nhân loại, Người đã không ngoảnh mặt làm ngơ; trái lại, Người đã không ngừng yêu thương, cứu chữa họ, giúp họ sống xứng đáng với nhân phẩm mà họ đáng được hưởng. Còn chúng ta thì sao ? Rất mong cần một đáp trả từ chính lương tâm mỗi người. Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Bệnh phung hủi là một chứng bệnh ghê sợ nhất và cũng khó chữa. Hiện nay trên thế giới có chừng 15 triệu nạn nhân. Ở Việt nam chúng ta cũng chẳng thiếu gì người bị phung hủi. Hiện nay có 21 trại phong cùi. Một trong những trại phung nổi tiếng mà thi sĩ Hàn mạc Tử đã phải ở đó và ngôi mộ của thi sĩ cũng còn ở gần đó : trại phung Qui hòa thuộc tỉnh Bình định. Đối với xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, người phung hủi bị coi như là người có tội bị Thiên Chúa phạt, nên họ bị kỳ thị triệt để, bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, phải sống riêng rẽ ở nơi hẻo lánh, xa mọi người, sống cô đơn, không được tham dự các lễ nghi. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa khỏi, mới cứu sống được. Ngoài bệnh phung cùi thể xác, còn một thứ bệnh khác là bệnh phung cùi thiêng liêng. Khi phạm tội trọng là người ta đã trở nên phung cùi trước mặt Chúa. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho linh hồn họ khỏi bệnh cùi. Hãy đến với toà cáo giải. I. BỆNH PHUNG HỦI THỜI ĐỨC GIÊSU. 1. Luật Do thái về bệnh phung cùi. Theo luật Do thái, những ai mắc bệnh cùi không được sống trà trộn trong dân chúng vì bệnh này là bệnh nan y và hay lây. Vì vậy số phận của họ đã khổ vì bệnh hoạn lại còn khốn nạn hơn vì tình trạng cô đơn. Căn bệnh đáng sợ nhất đối với người Do thái ngày xưa chính là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi đó không có hy vọng cứu chữa. Số phận của người bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và ép buộc phải trốn tránh xã hội. Điều này có nghĩa là người bệnh phải thốt ra lời từ biệt gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả cuộc sống nghề nghiệp và tất cả mọi người thân thương quen biết. Một lần vĩnh biệt như là đã chết. Tâm trạng âu lo hoảng loạn và nỗi đau lòng khổ tâm vì bị loại trừ hoàn toàn ra khỏi cộng đồng xã hội, phải nói thật là có sức tàn phá khủng khiếp. Hơn nữa, người bệnh bị mang danh là người tội lỗi bị Thiên Chúa phạt. 2. Đau đớn thể xác. Có những triệu chứng để xem biết ai đã mắc chứng bệnh này. Nó có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè... Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết. Cũng có thể bắt đầu bằng tình trạng mất cảm giác ở một vài phần thân thể, dây thần kinh bị nhiễm trùng, gân cốt co lại làm cho hai bàn tay trông giống như móng thú vật. Tiếp theo là tay chân bị lở loét, ngón tay ngón chân rụng dần cho đến khi cả hai bàn tay bàn chân rớt hẳn ra. Trường hợp này có thể kéo dài từ 20 đến 30 năm. Đó là cái chết tiệm tiến kinh khủng làm cho con người chết từng phần một. 3. Đau khổ tinh thần. Đau khổ tinh thần còn lớn hơn đau khổ về thể xác. Theo sách Lêvi, người phung cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình và bạn hữu, bị coi như đã chết. Và sách còn cho biết thêm:”Người mắc bệnh phung hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên:”Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế, nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là là một nơi bên ngoài trại (Lv 13, 45-46). Nếu gặp người mạnh khỏe ngoài đường, họ phải hô hoán lên cho người ta biết là mình mắc bệnh, như là dấu hiệu đề phòng cho người khác. Ngoài ra, người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì phong cùi bị coi là nhơ bẩn và còn bị coi là bị Chúa phạt. Thời trung cổ, người nào mắc bệnh phung cùi thì thầy cả mặc áo lễ, cầm thánh giá đưa người bệnh vào nhà thờ và cử hành lễ an táng. Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu ở trại cùi Qui hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào. Đọc chuyện cha Đa-miêng, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức giám mục ở đảo Hawai giới thiệu cha Đa-miêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đa-miêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Đa-miêng là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau:”Không”. Dần dần cha Đa-miêng hoà đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi. II. ĐỨC GIÊSU CHỮA BỆNH PHUNG CÙI. Người Do thái rất sợ người phung cùi vì họ là người ô uế phải tránh xa. Không ai được phép chào hỏi một người phung ở ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phung hủi đứng đầu gió thì người ở cuối gió phải cách xa 45 mét. Ngay cả một quả trứng, các rabbi Do thái cũng không ăn nếu bán ở đường phố có người phung hủi đi qua. Vì có những sự kỳ thị và cấm kỵ quá mức như vậy, chúng ta cần xem thái độ của người phung và của Đức Giêsu trong phép lạ chữa bệnh này. 1. Thái độ của người phung cùi. Theo nguyên tắc, người mắc mệnh phung không được đến gần người lành. Đây là một cấm kỵ. Nhưng người phung hủi đây bỏ mọi mặc cảm đến với một lòng tin tưởng : anh chắc chắn nếu Chúa muốn Ngài có thể chữa lành. Nếu không tin, anh đã không dám làm thế vì không một người phung hủi nào dám đến gần một vị bác sĩ vì biết sẽ bị ném đá đuổi đi. Nhưng nguời này đã đến với Đức Giêsu. Anh hoàn toàn tin tưởng Ngài sẵn sàng tiếp đón một người bị mọi người xua đuổi. Lòng tin tưởng đã khiến anh liều mình bị ném đá khi đến gần Đức Giêsu vì đã vi phạm luật. Anh còn đến với Chúa với tấm lòng khiêm cung khi anh ta nói:”Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được lành”. Nói như thế, anh ta dường như muốn nói với Đức Giêsu rằng:”Tôi biết mình chẳng ra gì, mọi người xa lánh, khinh dể tôi, tôi biết tôi không có quyền gì kêu cầu Ngài, chỉ mong Ngài đoái thương đến cảnh cùng khốn của tôi”. Chính lòng khiêm nhường nhận biết sự bất xứng và nhu cầu của mình, người bệnh tìm đến với Đức Giêsu. 2. Thái độ của Đức Giêsu. Tin mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu rất xúc động cảm thông khi gặp thấy người cùi. Thấy người phung cùi tiến đến, Chúa bầy tỏ lòng thương xót ngay. Dầu luật pháp không cho phép đụng đến người phung hủi, chỉ đến gần 2 mét đã bị ô uế rồi, thế mà Đức Giêsu giơ tay ra đụng đến anh ta. Đối với Đức Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một bó buộc duy nhất là luật yêu thương. Đây là lần duy nhất trong số những người tiếp xúc giữa Chúa và người bệnh mà Ngài tỏ ra động lòng trắc ẩn rõ ràng nhất. Điều này nói lên một điều gì đó sâu xa nơi Con Người đang-ra-tay-chữa-lành kia, như là dấu chỉ của lòng thương xót, đồng thời giúp chúng ta nhìn sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn quan tâm săn sóc mọi thứ bệnh tật phần xác cũng như phần hồn. III. BỆNH PHUNG HỦI THIÊNG LIÊNG. Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thế xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân. Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phung cùi đã tìm đến Chúa để xin được chữa lành. Người cùi đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu Chúa. Cái điều mà tội nhân cần có là đức tin và lòng trông cậy của người cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến quyền năng và lòng thương xót của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh và có tội. Người không nhận mình là có bệnh và có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa. Khi phạm tội trọng, đó là lúc linh hồn bị bệnh phong cùi#, linh hôn còn sống mà đã như chết trước mặt Chúa, chỉ có phép giải tội mới làm cho linh hồn được khỏi bệnh phong, mới làm cho linh hồn được trong sạch và được sống lại. Thiên Chúa không trực tiếp chữa bệnh phong linh hồn nhưng Ngài nhờ tay Linh mục để sửa chữa và làm cho sống lại. Truyện: Pho tượng biết hát. Nơi đồng Memnon, chỗ thành Thèbes cũ, người ta đựng lên hai tượng đá mạnh mẽ, cao độ 20 thước, tượng hai ông vua, khắc trong một thứ đá bở, ngồi đó từ 20 thế kỷ trước Chúa giáng sinh. Chính vua Pharao Amenhotep III đã dựng hai tượng ấy. Một trong” hai cây cột Memnon này”(người đời xưa gọi hai tượng ấy là cột trụ) nứt ra hồi động đất năm 27 trước Chúa giáng sinh. Vừa khi mặt trời mới mọc soi bức tượng, tượng đã ra nóng và bắt đầu rên siết, bắt đầu kêu la cách lạ kỳ, đó là bức tượng Memnon “hát”. Trong linh hồn ta cũng vậy, sự sống bắt đầu hát, bắt đầu rên siết, bắt đầu reo vui và khoái chí sau khi xưng tội cho tử tế, chính là lúc mức ánh sáng mặt trời đầu hết, lúc sự yêu mến hay thiêu đốt của Chúa Giêsu, đổ xuống chan chứa trong linh hồn ta khi Thầy Cả ban phép giải tội. Chúa Giêsu vào ở lại trong linh hồn ta tràn trề sự vui, và tiếp theo sau Chúa Giêsu một mãnh lực như đồng như sắt chỗi dậy : đó là ý muốn quyết định bắt đầu một cuộc đời mới mẻ, đẹp hơn và thanh sạch hơn. Phải làm thử đã thì mới nghiệm biết phép lạ Chúa làm trong linh hồn ở tòa giải tội. Bởi vì sự dựng nên thế giới là điều ít cao siêu hơn là sự linh hồn chết được sống lại (GM Toth – Phêrô Thông, Tôn giáo với thanh niên, 1949, tr 235). IV. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI NẠN NHÂN ĐAU KHỔ. Đứng trước những nạn nhân phong cùi đau khổ này, chúng ta phải có một quyết tâm không bao giờ tự làm cho mình thành người cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình một pháo đài ích kỷ, lập dị... Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử...chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác. Thái độ tiếp theo của chúng ta là phải yêu thương và tôn trọng người đau khổ, nhất là những người phong cùi về thể xác cũng như linh hồn. Xử đối tốt với người đau khổ là món quà quí giá chúng ta tặng cho họ, không gì làm cho họ sung sướng hơn. Người ta thường nói : Của cho không qúi bằng cách cho. Lời chào cao hơn mâm cỗ. Vật khinh nhưng hình trọng.(Tục ngữ) Chúa Giêsu luôn tiếp đón mọi người một cách lịch sự và yêu thương, không bao giờ Ngài có thái độ cứng rắn hay khinh miệt người đau khổ và tội lỗi. Có biết bao gương tốt đẹp của Chúa Giêsu đã được ghi trong sách Tin Mừng, tất cả đều nói lên tình thương và tôn trọng mọi người, không phân biệt sang hèn hay màu da ngôn ngữ, kẻ lành hay người dữ. Truyện: Léon Tolstoi và người hành khất. Một hôm Tolstoi, một đại văn hào người Nga, đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá trong một công viên gần nhà, thì bỗng có người đàn ông lớn tuổi, áo quần nhếch nhác, đến gần và giơ chiếc mũ cũ rách ra trước mặt nhà văn để xin giúp đỡ. Nhà văn liền thò tay vào túi áo định lấy tiền cho người ăn xin, nhưng tìm hết túi áo này sang túi áo khác mà không kiếm thấy đồng nào. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói với sự hối tiếc như sau:”Này người anh em, xin thứ lỗi cho tôi. Vì hôm nay tôi rất tiếc đã để quên ví tiền ở nhà rồi”! Bấy giờ, người ăn xin thay vì buồn giận, thì đã mỉm cười và nói:”Tôi thật không biết phải cảm ơn ông thế nào cho xứng. Vì hôm nay ông đã cho tôi một món quà qúi báu hơn tiền bạc. Đó là ông đã không những không khinh dể tôi, mà còn tôn trọng tôi khi gọi tôi là “Người anh em”. Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Con người không chỉ có nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ mà còn nhu cầu tinh thần cũng như nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tinh thần thể hiện qua việc tâm sự buồn cần chia sẻ cùng người tin tưởng, biết lắng nghe. Nềm vui cần chia sẻ cho người khác biết để niềm vui được trọn vẹn. Niềm vui trọn vẹn là niềm vui được chia sẻ cho mọi người cùng chung niềm vui với mình. Niềm vui không trọn vẹn là niềm vui bị giấu kín trong cõi lòng. Phải dấu kín vì sợ. Thí dụ một người trúng số độc đắc không giám công khai cho người khác biết niềm vui vì sợ niềm vui kia sẽ mang đến hậu quả tai hại vì thế chỉ âm thầm vui một mình. Biết được nhu cầu cần chia sẻ cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người bị bệnh phong cùi là bệnh thời đó không thuốc chữa. Ai mắc bệnh đó coi như bị bỏ ra ngoài xã hội, bị xã hội ruồng bỏ, không cho sinh hoạt chung trong cộng đoàn. Người đó có cuộc sống dật dờ, sống cũng như chết vì không còn bạn bè, thân thích. Anh ta được Đức Kitô chữa lành. Niềm vui của anh tràn ngập tâm hồn nên anh không thể cầm giữ trong lòng mà cất tiếng ca tụng Thiên Chúa. Mặc dù Đức Kitô dặn anh đừng nói cho ai biết việc này cho đến khi vào đền thờ dâng lời tạ ơn nhưng anh không kiềm chế được niềm vui và để cho nó bộc phát. Có lẽ dù không lớn tiếng nói, khuôn mặt anh không dấu được niềm vui. Miệng luôn điểm nụ cười. Làn da trên người tố cáo niềm vui nội tâm, nó không còn sần sùi, trông đến gớm như xưa nhưng bóng nhẵn. Chính những dấu chỉ này tố cáo anh nhận được ơn đặc biệt. Vì thế khi nhìn bàn tay sạch bệnh anh không thể nào không lớn tiếng vui mừng. Soi bóng mình trên nước anh không khỏi nhảy múa. Toàn thân con người anh tự tố cáo, toàn thân con người viết lên bản nhạc vui, nội tâm mừng rỡ, tấm lòng hân hoan. Chính vì thế mà anh không thể kìm hãm được niềm vui. Hàng năm tôi có cơ may nhận biết những khuôn mặt ngây thơ, rộn rã, niềm vui như thế. Đó là những khuôn mặt cười tươi, hồn nhiên, trong sáng của các em chuẩn bị tập dợt trong dịp lãnh nhận bí tích Thêm Sức hay Rước Lễ lần đầu. Trên khuôn mặt thơ dại kia cũng vẽ lên niềm vui rực sáng như thế. Các em cũng tung tăng trong y phục bóng láng, cũng vui vẻ khoe nhau quần áo, lơ, giầy mới. Các em cũng bước đi đá chân sáo, nhảy nhót nhịp nhàng diễn tả niềm vui tràn đầy trong tâm hồn. Rất ít thấy niềm vui như trên thể hiện nơi người lớn. Người lớn diễn tả niềm vui rộn ràng, kín đáo hơn các em. Tôi bắt gặp người nào đó tay làm miệng hát nho nhỏ câu ca tụng tình Chúa. Viềm vui diễn tả nhẹ nhàng qua nốt nhạc. Tôi thấy anh nọ thanh thản trong bộ y phục, đường ủi thẳng tắp, không một vết nhăn. Cái càvạt còn thơm mùi vải mới. Thái độ thong thả của anh cho biết anh đang vui trong lòng, lòng phơi phới tiến về trung tâm chia sẻ niềm vui với mọi người. Tôi gặp cụ già, rẽ ngôi giữa đầu, quần áo chỉnh tề đến trước giờ hội hơn tiếng đồng hồ. Điều đó biểu lộ niềm vui mong chờ cụ ôm ấp trong tim. Những niềm vui đó bàng bạc trong cuộc sống, trong những sinh hoạt tôn giáo, những dịp đại lễ, nhắc chúng ta tôn giáo không phải luôn là gánh nặng với nhiều luật lệ cứng ngắc. Tôn giáo là cánh cửa mang lại niềm vui, thức tỉnh niềm vui trong tâm hồn. Niềm vui được đánh thức, được khuếch tán rộng ra mỗi khi tâm hồn ta gặp gỡ Đức Kitô. Anh cùi gặp Đức Kitô xin Ngài được chữa lành, làm sống lại cuộc đời ủ dột. Xã hội loài người liệt anh vào hạng vất bỏ. Đức Kitô ban cho anh sự sống với, sống vui mạnh hơn những người đón nhận ơn mưa móc, hưởng lộc từ xã hội. Xin ơn gặp gỡ Đức Kitô, cuộc đời được biến đổi thành chuỗi ngày vui thoả. Lm. Vũ Đình Tường
Người Việt Nam với truyền thống hiếu học, người thầy bao giờ cũng được tôn trọng, vì vậy mà chúng ta thường nói:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” hay “tôn sư trọng đạo”. Trong thứ tự ưu tiên, người ta đặt để vị trí quan trọng cho người thầy:”Quân Sư Phụ”. Vì vậy, những người thầy bao giờ cũng tận tình dạy dỗ và mong những học trò trở thành những người có đủ: Tài-Đức, phục vụ cho đời. Cảm nhận này cũng có thể thấy trong tâm trạng của người thầy vĩ đại nhất là Đức Giêsu Kitô. Sau một thời gian chuẩn bị, các môn đệ được sai đi thực tập công việc Tông Đồ. Có thể nói đây là một giai đọan mới trong hành trình rao giảng Tin Mừng của các Ngài. Thành công hay thất bại? Người ta đón nhận ơn cứu độ hay thờ ơ? Tất cả như là những nỗi niềm sâu kín mà hôm nay khi về bên Thầy Giêsu họ phấn chấn và òa vỡ trong những nụ cười và nước mắt. Thánh Marcô ghi nhận rằng:”Các Tông Đồ tụ họp lại bên Đức Giêsu, và tin lại cho Ngài tất cả những gì họ đã làm và đã dạy”(Mc 6,30). Đối với những người khác, khi có được những sự thành công ở đời, họ thường khao nhau một chầu nhậu để tưởng thưởng. Còn Chúa Giêsu, trước niềm vui dạt dào như sóng nghìn trùng vỗ, của các học trò thân yêu, Ngài dạy họ:”Cả các ngươi nữa cũng hãy đi riêng ra, vào chỗ nào hiu quạnh, mà nghỉ ngơi đôi chút”(Mc 6, 31). Cũng trong một hòan cảnh tương tự như thế, trong khi các môn đệ như có vẻ tự hào về những việc mà họ làm được: như trừ quỷ, làm một vài phép lạ…thì Chúa Giêsu, Ngài tìm vào nơi hoang vắng để cầu nguyện:”Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, mà lại mặc khải cho những người bé mọn”( Mt 11,25). Đối với Đức Giêsu, thành công trước mặt thế gian chưa chắc gì là mua được hạnh phúc Nước Trời. Điều quan trọng là tìm được thánh ý của Chúa và đem ra thi hành trong đời sống của mình. Muốn thi hành đúng theo ý Chúa thì cần tâm sự với Chúa trong những nơi thanh vắng. Để tìm gặp Ngài, như đám đông dân chúng đi theo Chúa, họ đón Chúa mỗi lần Ngài rời đi nơi khác. Trước sự nhiệt thành của dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương xót họ, vì họ bơ vơ không người chăn dắt. Ở nơi Chúa Giêsu, một sự hòa hợp rất rõ ràng giữa đời sống tự nhiên và đời sống ân sủng. Giữa những bận rộn và vất vả, của công việc tiếp đón khách hành hương, Chúa Giêsu vẫn luôn có những giờ cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Những giờ Ngài trầm mình trong nguồn suối thánh ân mà Chúa Thánh Linh dẫn đưa Ngài. Mỗi người trong cuộc đời nhân thế, ai cũng có những công việc, những bận rộn vì kế mưu sinh. Lắm lúc chúng ta chọn ưu tiên cho những họat động mang hình thức bên ngòai, còn đời sống tâm linh lắm khi bị xem nhẹ, có khi bị quên lãng. Thành công trong công việc, chúc mừng nhau trong những lúc tọai nguyện cũng xin đừng quên Đấng ban cho ta có được tất cả không ai khác ngòai người Cha trên trời đầy quan phòng và yêu thương. Mỗi ngày dù thời khóa biểu đã kín chỗ thì xin đừng quên dành cho Đức Kitô một chỗ, dù nhỏ nhoi trong hai mươi bốn giờ trôi qua. Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay cùng có chung một chủ đề: quan niệm về sự thanh sạch và sự ô uế. Lv 13: 1-2, 45-46 Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy rằng bệnh phong hủi làm cho con người trở nên ô uế trầm trọng. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi. 1Cr 10: 31-11: 1 Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ cho thấy làm thế nào sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề thanh sạch và ô uế về những lệnh cấm thức ăn, thức uống. Bởi lẽ Chúa Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ. Mc 1: 40-45 Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giê-su không ngại chạm đến người phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử theo cùng một cách như vậy đối với những tội nhân. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi. BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 45-46). Sách Lê-vi là một trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư. Bộ Ngũ Thư cấu tạo nên Luật và theo truyền thống, nguồn gợi hứng của chúng lên đến tận ông Mô-sê. Sách nầy là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì những tư tế đều phải thuộc bộ tộc Lê-vi. Xưa kia, con cái lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau, sau nầy, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, được gọi các thầy trợ tế lê-vi như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10: 31-32). 1. Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội: Bộ luật tư tế nầy dâng hiến một chương dài cho “luật thanh sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng bệnh phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố, làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai. Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới, đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!” để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh. 2. Nỗi khốn cùng về phương diện tâm linh: Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn giáo xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẽ với ý tưởng thánh thiêng. Ở Ít-ra-en, cộng đoàn cốt yếu là một cộng đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng vụ. Bệnh phong hủi gợi ra không chỉ sự ghê tởm về mặt thể lý; một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ có những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy luật đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy đến với thầy tư tế”. Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, là “đồ bỏ đi”, là “kẻ bị khai trừ”, là người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, Người Tôi Trung của Đức Chúa được mô tả như một người phong hủi, vì Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người: “Người bị người đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53: 3). Đó là thân phận bi thương của những người phong hủi được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da thịt mình, nhưng cả về mặt tinh thần: vì là chứng bệnh truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; và vì là tội lỗi, họ bị loại trừ ra khỏi đời sống phụng vụ và không được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1) Đoạn trích Thánh Phao-lô nầy làm chứng một cuộc cách mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn Thiên Chúa, dù ăn hay uống bất cứ điều gì. Vả lại, không có bất kỳ hành động vô tình nào. Tất cả những gì chúng ta làm là để tôn vinh Thiên Chúa. 1. Quy luật về thức ăn thức uống: Sách Lê-vi trình bày nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân Chúa chọn phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không còn bận lòng về vấn đề nầy nữa. Tuy nhiên có một vấn đề khác được đặt ra cho họ nhưng cũng cho những người Ki-tô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt cúng mà lương dân dùng để dâng cúng các thần linh của họ không? 2. Giải pháp của thánh Phao-lô: Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi sáng. “Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật, người Ki tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn và thức uống nào, nên họ có thể gây nên gương xấu. Vì thế, cần phải thận trọng trong khi ăn trong khi uống. Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này, chúng ta biết rằng thánh nhân thường có thói quen đẩy cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những bận lòng. Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4). Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh nhân triển khai lời dạy của mình một cách tinh tế như sau: nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em: “Đây là của cúng” thì anh em đừng ăn, để tránh gây gương xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng đừng gây gương xấu cho người ấy. Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với một bận lòng duy nhất, đó là “cứu độ tha nhân”. Đây là luật vàng của Đức Ái. TIN MỪNG (Mc 1: 40-45). Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” đi kèm theo, đặc biệt việc chữa lành bệnh tật. Trong đoạn văn nầy, Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi. Bài đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người phong hủi bày tỏ tấm lòng nhạy bén của Ngài, đồng thời quyền năng siêu việt ở nơi Ngài. 1. Vượt qua Lề Luật: Trước một con người bị xem là đồ ô uế và bị cách ly khỏi đám đông, không ai dám đến gần, Đức Giê-su đã “động lòng thương”, một diễn ngữ Tân Ước được dùng để diễn tả sự đồng cảm sâu sắc dâng lên tận đáy lòng đến nỗi Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn được. Vả lại, nhiều lần Ngài để lộ nỗi bận lòng của Ngài đối với những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với những người được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9). Đức Giê-su không ngại đi ngược lại tập tục và quy chế lề luật về người phong hủi bị cách ly khỏi đời sống xã hội và đời sống tâm linh: Ngài giơ tay chạm đến người phong hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra rằng điều làm cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài nhưng từ những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20). 2. Tuân thủ Lề Luật: Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống cộng đoàn khi chứng thực rằng anh ta khỏi bệnh và đã chu toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định. Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo nghiêm khắc: “Coi chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta gặp lại ở nơi Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự cuồng nhiệt của đám đông làm tổn hại đến sứ mạng của Ngài. Tuy nhiên, người phong hủi đã không tuân giữ lệnh im lặng nầy nên “Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế được niềm vui tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ? 3. Bệnh phong hủi của tâm hồn: Quả thật, Đức Giê-su cư xử người phong hủi đáng thương này như thế nào, thì Ngài cũng cư xử những người tội lỗi khác cũng như vậy. Ngài không ngại tiếp xúc họ. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ tai tiếng chạm đến mình, và thậm chí Ngài còn đồng bàn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi. Như vậy, Ngài muốn bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội lỗi của chúng ta. Ngài không muốn khai trừ chúng ta, nhưng ngược lại là đàng khác khi Ngài công bố: “Người khẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9: 12; Mc 2: 17). Chỉ qua nhân tính của Đức Giê-su, tội nhân mới có thể tiếp xúc với Thiên Chúa. Lm. Ignatio Hồ Thông
Trong đoạn Phúc Âm này chúng ta nghe Mác-cô kể lại câu chuyện người bị bệnh phong xin Chúa Giêsu chữa lành. Trước khi đi vào đoạn Phúc Âm, chúng ta hãy trở về với bối cảnh xã hội Do-thái, để hiểu được tình trạng và hoàn cảnh của người bị bệnh Phong thời đó. Theo Cha Cantalamesse thì sách Lêvi dạy rằng, người nào bị nghi mắc bệnh phong, phải được đưa tới một vị tư tế, vị này, sau khi khám xét, “tuyên bố người đó là dơ.” Để làm cho những sự việc ra xấu hơn, người phong đáng thương hại, bị loại khỏi tình bạn con người, chính người bịnh phải làm cho kẻ khác tránh xa mình, bằng cách báo cho họ biết sự nguy hiểm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế! “Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13, 45-46) Về điều này, Rudolf Pesch giải thích rằng: “Những người bị bệnh Phong được coi là kẻ bị ô uế, những người đáng chết. Họ phải xa lìa với xã hội, phải tự động cách ly với xã hội. Dù luật lệ trong Thánh Kinh có nghiêm ngặt, nhưng sự cách ly người Phong ra khỏi xã hội không được làm triệt đở ở khắp mọi nơi công cộng. Người bệnh Phong không được bước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng trong các làng mạc, họ không bị cách ly hoàn toàn. Với những điều kiện đòi hỏi nhất định, hình như người ta cũng có thể để cho người bị bệnh Phong bước vào đền thờ. Dù thế nào, thì người bệnh Phong vẫn bị coi là những người bị Thiên Chúa xa cách. Như vậy ai có thể chữa cho người bị bệnh Phong? Theo Adolf Pohl thì: “Việc chữa lành khỏi bệnh Phong được coi như là sự Phục Sinh từ cõi chết. Và người ta chỉ có thể chờ mong Thiên Chúa làm điều đó. Khi Vua dân Ít-ra-en, trong sách thứ 2 các Vua 5,7, nhận lệnh chữa lành cho người bị bệnh Phong, thì ông đã thốt lên rằng: “Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi?” Ngoài ra, nói chung chung về bệnh Phong, theo Cha Cantalamesse thì “hai nhân tố lạ lùng đã góp phần gia tăng sự ghê tởm trước bệnh phong, đến nỗi biến nó thành biểu tượng của sự bất hạnh nhất có thể giáng xuống một con người, và cô lập những nạn nhân vô phúc tội nghiệp trong những con đường vô nhân đạo nhất. Nhân tố thứ nhất là sự xác tín rằng, cơn bệnh này lây lan đến nỗi làm nhiễm độc bất cứ ai có thể đã tiếp xúc với người bệnh; nhân tố thứ hai, cũng không có cơ sở, vì bệnh phong là hình phạt vì tội lỗi. Nhân vật đã góp phần hơn hết thay đổi thái độ và luật pháp đối với những người bệnh phong là Raoul Follereau (1903-1977). Trong năm 1954 ông đã thiết lập Ngày Thế Giới Bệnh Phong cổ võ những đại hội khoa học và cuối cùng, trong năm 1975 đã thành công để luật pháp thu hồi sự kỳ thị những người bệnh phong. Ngoài ra, có một câu chuyện rất cảm động về tấm lòng của ông Raoul giành cho người Phong: “Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái cùi và đưa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến cô gái bỡ ngỡ. Nhưng lạ thay, cô gái lại không chịu chìa tay ra đáp lễ. Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc bèn giải thích: Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách. Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, nhưng đâu cấm khách hôn bệnh nhân phải không? Vừa nói, ông Raoul vừa tiến đến ôm hôn cô gái cùi. Mọi người sững sờ. Trong phút chốc cả đám người cùi nhào đến bên ông. Và một tiếng thốt lên trong nghẹn ngào: Hôm nay, tôi cảm thấy chúng tôi là người.” Trở về với đoạn Phúc Âm, chúng ta có thể phân ra như sau: câu 40: Cuộc gặp gỡ giữa người Phong với Giêsu, và người bị Phong mở lời xin được chữa lành. Câu 41: Giêsu chữa lành. Câu 42: Anh bị bệnh Phong được sạch. Câu 43-44: cấm không được loan truyền tin chữa lành, mà chỉ đến trình diện các tư tế. Câu 45: Dù bị cấm nhưng người khỏi bệnh vẫn lên đường loan báo tin vui. Suy niệm - Câu 40 kể là có một người bị bệnh Phong đến gặp Giêsu. Người bị bệnh Phong trong đôi mắt của người Do-thái, là người có tội với Thiên Chúa, đời sống của họ xa cách Thiên Chúa. Ở đây Adolf Pohl như đặt mình vào trong thân phận của người Phong và tự nói với mình rằng: “Tôi không hợp với Chúa. Tôi không xứng đáng có tương quan với Chúa.... Tôi không phải là con cái của Chúa, mà là con cái của thế gian. Tôi chỉ được “trang điểm” bởi một “lớp phấn Kitô hữu” rất mỏng. Trong cộng đoàn tốt lành kia, tôi là một cái xác lạ lẫm. Tôi không còn thật nữa: “Chẳng lẽ người phàm công chính trước Thiên Chúa? “Chẳng lẽ con người lại thanh sạch trước Đấng dựng nên mình?” (Gióp 4, 17) Chính người Phong hủi đó hôm nay lại đến với Giêsu. Trong khi mọi người đều xa lánh anh ta, nếu anh ta xuất hiện trên đường. Vâng, chỉ có Giêsu thì không chạy trốn, chỉ có Giêsu ở lại và để cho anh ta đến với mình. Cha Cantalamesse giải thích rằng: “Chúa Giêsu không sợ lây, Người để kẻ phong đến với Người và quì trước mặt Người. Còn hơn điều đó: trong một thời đại khi người ta tưởng rằng chỉ sự ở gần người bệnh phong là đã lây nhiễm rồi, Người giơ tay và đụng vào anh.” Chúng ta đừng tưởng tất cả sự này là tự nhiên và không bắt Chúa Giêsu trả giá nào. Là con người, Chúa chia sẻ trong sự này, như trong nhiều điểm khác, những xác tín của thời đại Người và của xã hội Người đương sống. Nhưng sự thương cảm của Người đối với người bệnh thì mạnh trong Người hơn là sự sợ bệnh phong” Khi đến gần Giêsu, người Phong quỳ xuống dưới chân Chúa và mở lời van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Thái độ quỳ xuống dưới chân ở đây đúng là thái độ kêu xin khẩn nài. Chúng ta có thể thấy ở đoạn khác: “Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người” (Mc 5, 22) hay “Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người.” (Mc 7, 26). Thái độ của anh bạn Phong không chỉ nói lên lời khẩn nài kêu xin, mà theo Rudolf Pesch và Adolf Pohl, thì còn nói lên niềm tin tưởng của anh vào Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy rằng, anh đã nói: “Nếu Ngài muốn”, chứ không nói như người cha có con bị bệnh câm: “Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì...” (Mc 9, 22). Tâm tình của anh bạn bị Phong hàm chứa một niềm tin chắc chắn vào Đấng yêu thương và quyền năng. Phải chăng anh ta tin rằng, Đấng có lần nói với mình: “Con là con yếu dấu của Cha”, sẽ không bao giờ bỏ rơi anh, chính Ngài sẽ giải thoát và cứu chữa anh? Phải chăng, với thái độ và lời nói của mình, anh muốn cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa! Xin thương xót con, con không giấu Chúa những vết thương của con, Chúa là bác sĩ, con là bệnh nhân; Chúa đầy lòng thương xót, con thì khốn khổ” (“Confessions,” X,39). Ngoài ra, Adolf Pohl còn chú ý một điều nữa, là anh bị bệnh Phong trong câu nói kia, đã nhắc đến hai từ “Ngài” và chỉ có một từ: “tôi”. Chúng ta thấy qua lời xin trên đụng tới quyền năng của Giêsu. Ở đây theo Rudolf Pesch thì quyền năng của Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Vâng, Giêsu có muốn sử dụng quyền năng của mình để cứu chữa người bất hạnh kia không? Với tâm tình của sách Khôn Ngoan 11, 23: “Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự”, chúng ta tiếp tục chiêm ngắm thái độ của Giêsu. - “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (câu 41) Lời kêu xin của ang bị bệnh Phong thúc đẩy Giêsu mạnh đế nỗi, Giêsu đã tỏ ra bốn hành động liên tiếp. Ở đây chúng ta chú ý đến 4 động từ: (1) Người “chạnh lòng thương”. Theo Adolf Pohl thì các tác giả nhất lãm không bao giờ dùng từ chạnh lòng thương này để chỉ về sự thương hại, sự tội nghiệp cho bất cứ con người nào. Từ “chạnh lòng thương” như diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa. Cho nên ở đây không ám chỉ đến cảm giác tội nghiệp của Giêsu, mà diễn tả thực sự thiên tính của Ngài - một Thiên Chúa là tình yêu. Vâng, với ĐTC Biển Đức, thì trong câu chuyện này “Chúa Kitô là “bác sĩ” chân thật của nhân loại, là Đấng Chúa Cha từ trời đã sai xuống thế gian hầu chữa lành con người, bị đánh dấu trong thân xác và tinh thần bởi sự tội và các hậu quả sự tội....Tin Mừng Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta Chúa Giêsu Đấng, lúc bắt đầu thừa tác vụ công khai của Người, hoàn toàn hiến mình để rao giảng và chữa lành người bệnh trong những làng xứ Galilêa. Những dấu lạ vô kể Người thực hiện cho người bệnh xác nhận “tin mừng” Nước Chúa. Tin Mừng hôm nay tường thuật sự chữa lành một người phong và diễn tả với hiệu quả lớn cường độ tương quan giữa Thiên Chúa và con người, tóm tắt trong một cuộc đối thoại kỳ lạ: Người phong nói “nếu ngài muốn, ngài có thể chữa tôi được sạch”, Chúa Giêsu trả lời “Tôi muốn, anh hãy sạch”, tay Người đụng vào mình anh và giải cứu anh khỏi bệnh phong (Mc 1, 40-42).” Hành động thứ hai (2) Người “giơ tay”. Theo Rudolf Pesch thì hành động này biểu tượng cho sức mạnh và động từ (3) “đụng” vào anh là biểu tượng cho việc truyền sức mạnh của Chúa Giêsu lên trên người bị bệnh Phong. Vâng, sức mạnh của tình yêu, sức mạnh đem lại sự chữa lành. Chúng ta cũng có thể nhớ lại hình ảnh Giêsu đối với nhạc mẫu của Phê-rô: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1,31). Ngoài ra, về hành động (2) và (3) này ĐTC diễn tả rất hay: “Cử chỉ này của Chúa Giêsu, Đấng giơ tay và động tới thân mình đầy vết thương của kẻ kêu xin Người, bày tỏ rõ ràng ý muốn Thiên Chúa chữa lành tạo vật sa ngã của Người, Chúa Kitô là “tay” Thiên Chúa giang ra cho nhân loại hầu nhân loại có thể được giải thoát khỏi những đống cát di chuyển bệnh tật và sự chết, hầu trỗi dậy bằng cách dựa vào tảng đá vững chắc của tình yêu thần linh (x. Tv 39, 2-3).” Tiếp theo ba hành động kia là lời nói (4)”Tôi muốn, anh sạch đi! “ Đây là lời có sức chữa lành. Lời có sức chữa lành này Chúa Giêsu cũng lên tiếng với con gái ông Gia-ai: “Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5, 41) hay Chúa Giêsu đã thốt lên “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra” để chữa lành cho người vừa điếc vừa ngọng.(ss. Mc 7, 34). - Sau 4 hành động của Chúa Giêsu, thì điều gì đã xảy ra? “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (câu 42) Điều xảy ra đúng như ĐTC vừa nói ở trên, là phục hồi sự sống cho anh bị bệnh Phong “cách dồi dào” (Ga 10,10), sự sống trọn vẹn, hạnh phúc, đời đời. Cụ thể hơn, chúng ta để ý tới từ “lập tức”. Từ này diễn tả sống động quyền năng và sức mạnh của Giêsu. Ngoài ra, động từ “biến” thuộc về bản chất của ma quỷ, chúng nhập vào và rồi lại biến đi. Tuy vậy, câu chuyện chữa lành anh bị Phong đây không thể so sánh được với những câu chuyện Chúa xua đuổi ma quỷ. Vâng, giờ đây anh được sạch rồi. Một tin vui thật lớn! - Tin vui này có được phép loan truyền rộng rãi ra không? 43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay,44 và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”(câu 43 và 44) Nếu anh mới được chữa lành khỏi bệnh Phong không được phép nói với bất cứ ai về việc Giêsu chữa cho mình, thì không đúng, vì theo câu 44 anh phải đi trình diện nơi các tư tế, để họ chứng thực anh được khỏi bệnh, như anh mù trong phúc âm Gioan. (ss. 9, 1-41) Vâng, anh thanh niên đã được thanh sạch khỏi bệnh Phong cần được xã hội đón nhận, cần có được một chỗ đứng hẳn hoi. Tương quan với Chúa và tương quan với người khác luôn đi đôi với nhau. Sau khi trình diện nơi các tư tế xong theo như luật Môi-sê (Lê-vi 14, 1-9), thì anh cần phải dâng lễ vật như Mô-sê đã truyền (ss. Lê-vi 14, 10 và 21tt). Và như vậy người ta sẽ biết về sự thanh sạch của anh. “Người ta” ở đây chỉ số nhiều, theo Adolf Pohl nghĩa là những tư tế ở Ga-li-lê-a mà anh ta trình diện, và những tư tế ở Giê-ru-sa-lem nơi anh ta dâng của lễ. Như vậy phải hiểu làm sao điều Chúa Giêsu ngăn cấm? Theo Pesch thì anh không nên nói về việc anh được chữa lành, mà qua chính sự trình diện và nghi thức dâng của lễ theo luật Mô-sê, anh sẽ được chứng thực khỏi bệnh. Ngoài ra, theo các nhà chú giải, thì vì Chúa Giêsu còn phải thi hành sứ mạng của Ngài. Nếu danh tánh của Ngài mà bị rao truyền khắp nơi, có thể Ngài bị cản trở không tự do đi lại được nữa, và qua đó ảnh hưởng đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ngài. Chúng ta có thể thấy được hậu quả về điều này, khi đọc câu 45. Sau khi anh ta tung tin ra, thì Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được nữa. Mặt khác, sự nghiêm cấm này liên quan đến chính thân phận của Chúa Giêsu: Trong Ngài chính Đấng Tạo Dựng và công trình cứu rỗi đang hiện diện. Vâng, Giêsu không phải là một tiên tri, mà là một Tiên Tri trọn hảo. Ngài là Con Thiên Chúa : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1, 11) Và điều này không được phép tiết lộ ra. Vì nếu người Do Thái, dân đang trông chờ Đấng Messia, mà biết được, thì có lẽ chương trình của Chúa Giêsu sẽ chưa được nửa đường đã gãy cánh. Vâng, chương trình của Giêsu, Đấng Messia đích thực, đâu có hợp với sự mường tượng và mong đợi của dân Do-thái. Chúng ta cứ chiêm ngắm cuộc đời của Ngài thì sẽ nhận ra ngay. Như vậy, anh thanh niên được thanh sạch đã không giữ lời nghiêm cấm của Giêsu. Một cách nào đó chúng ta cũng có thể thông cảm với anh, vì trước một phép lạ, một ơn cứu rỗi quá lớn lao trên chính bản thân mình, anh ta không thể nào câm lặng không rao truyền về vị thầy thuốc tốt lành tài ba. Ở đây, Mác-cô một cách nào đó đã cố ý làm nổi bật việc tung tin của anh thanh niên này, như là một cách rao giảng Tin Mừng, giống như người thanh niên được Chúa Giêsu chữa lành khỏi bị quỷ ám trong chương 5, 18-20: “Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. Nhưng Người không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.” Tham khảo - Về sự chữa bệnh của Chúa Kitô. Bài huấn dụ của ĐTC Biển Đức XVI trình bày lúc trưa khi ngài đọc kinh Truyền Tin từ cửa sổ văn phòng ngài với hàng ngàn người tập hơp trong Quảng Trường Thánh Phêrô. VietCatholic News 13/02/2006 - Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchine, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích Tin Mừng Chúa Nhật VI TN: Những bệnh phong hủi mới của xã hội VietCatholic News 11/02/2006 - Rudolf Pesch, - Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1 - Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1.
“Ngày 28.9.2011, hàng trăm người dân thuộc khu tái định cư Kho Lào (Hòa Hiệp 3, tổ 14, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng) đã kéo nhau đến đập phá, ngăn chặn không cho thi công nhà ở cho 134 hộ dân làng Vân (còn gọi là làng phong) ở khu tái định cư kề bên. Theo những người dân này, họ sợ những người vốn là dân làng phong kia sẽ lây bệnh cho họ”. Đọc mẩu tin này, nhiều người trong chúng ta sẽ chua chát nói rằng, sao những người dân Hoà Hiệp ấy lại cư xử như vậy? Họ chẳng biết là bệnh phong khó lây lắm sao? Dù ta nghĩ thế nào, sự kiện ấy đã diễn ra, chúng càng cho thấy nỗi khổ mà bệnh nhân phong gánh chịu. Nhìn sâu hơn, trong cái nhìn đức tin, ta nhận ra sự phân biệt đối xử cách ngây ngô vẫn còn đó trong đời sống của người tín hữu. Sạch – dơ Trong sách Lêvi, ta nhìn thấy ý tưởng chủ đạo nổi bật đó là sự phân biệt “sạch – dơ”. Ở đấy người ta được dạy cho biết những gì thuộc về “sạch”, những gì bị cho là “dơ”. Tất cả những tiểu tiết quy định ngặt nghèo đều được kể. Phân tích chúng, các nhà nghiên cứu Kinh thánh cho rằng đó là điều cần thiết cho bước đầu mặc khải đến với con người. Rằng con người phải chuẩn bị ra sao để được kể vào số dân Chúa chọn, được kể là tinh tuyền trước nhan Đức Chúa. Nhưng điều nghịch lý là càng về sau, người ta lại càng chú trọng đến hình thức bên ngoài, quên đi ý nghĩa của những hành vi thanh tẩy, giới hạn giữa sạch và dơ. Khi chú trọng đến hình thức, người ta sẽ dễ quên mất tâm tình, nội dung bên trong. Người ta quên rằng chính cái bên trong, xuất phát nơi tâm hồn con người mới là điều Thiên Chúa hướng tới khi mặc khải những giới luật Sạch – Dơ. Việc đụng chạm và chữa lành cho người bệnh phong hôm nay của Đức Giêsu là một lời khẳng định cho ngầm ý đó. Chữa lành Đức Giêsu đã chạm đến và chữa lành người bệnh phong. Việc giơ tay đụng đến cho thấy Người đã phá bỏ rào cản ngăn cách giữa Sạch và Dơ ở hình thức bên ngoài. Song song đó, hành động khác lạ của Người cũng mời gọi ta nhìn vào sự Sạch – Dơ bên trong. Chính tội lỗi mới là sự nhơ bẩn ngăn cản người ta đến với Chúa chứ không phải là sự ố tạp bên ngoài. Như thế, tội lỗi là điều khiến ta nhơ uế gấp ngàn lần trước mặt Chúa, hơn những gì là khiếm khuyết bên ngoài. Tự thân mình, ta chỉ có thể tẩy sạch bùn đất lấm lem chân tay chứ không thể tự mình tẩy xoá, làm cho tâm hồn nên tinh trắng. Và Đức Kitô cần ta ý thức về tình trạng tội lỗi và dâng lời cầu xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch”. Tất cả những ai khi thành tâm đến với Chúa bằng thái độ khiêm cung, đều được chữa lành. Rất nhiều khi trong cộng đoàn, chúng ta loại trừ, phân biệt đối xử với nhau bằng những ý niệm Sạch – Dơ do ý thức hệ hay xã hội quy định. Thường chúng chỉ hệ tại vào những yếu tố bên ngoài như: sang – hèn; giỏi – dở; đẹp – xấu; giàu – nghèo… Những phân biệt đó khiến chúng ta không thể đến với người khác, không thể chấp nhận những khiếm khuyết của người chung quanh. Bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy, quyền phán xét và chữa lành thuộc về Thiên Chúa. Phần mình, ta chỉ góp tay vào việc chữa lành của Chúa bằng cách nâng đỡ những người thua thiệt, sa ngã ở chung quanh. Rất nhiều khi, chỉ một hành vi bác ái của mình, ta sẽ khiến người khác nhận thấy Chúa vẫn đang ở bên. Hành động đó của ta không phải là sự đồng loã với cái ác, với tội lỗi. Nhưng đó là sự ý thức về thiếu sót của mình. Vì “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình” (Rm 15,1). Xa hơn, đó là hành vi của những người thống hối, đứng trong hàng ngũ những kẻ luôn kêu cầu lòng thương xót của Chúa chúng ta. Gợi ý chia sẻ Bạn có kinh nghiệm nào về sự loại trừ? Làm sao bạn có thể vượt qua được? Sự nâng đỡ của những người chung quanh có ý nghĩa nào? Hãy chia sẻ kinh nghiệm đó. Học Viện Đaminh
Năm nay tôi 80 tuổi. Nhìn lại Hội Thánh Việt Nam trong cuộc đời đã qua của tôi, tôi thấy Hội Thánh của tôi thực vất vả. Có thể ví cuộc đời ấy như một chuyến đi đầy trắc trở. Nhưng những gian nan trắc trở đó đã được vượt qua. Hơn thế nữa, đức tin được tôi luyện đã đào tạo nên nhiều con người biết sống công bình bác ái. Nhờ đâu? Tất nhiên là nhờ ơn Chúa. Nhưng chắc chắn cũng nhờ nhiều tín hữu, nhất là nhiều vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đã biết khiêm tốn cộng tác với ơn Chúa. Các vị đã cùng nhau tiến lên trong mọi chặng đường lịch sử khác nhau với tâm hồn sáng suốt. Bây giờ, Đạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử: Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo. Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một cảnh báo. Đó là hãy coi chừng về một chứng bệnh nguy hiểm cho Đạo. Chứng bệnh này thường xuất hiện trong thời cạnh tranh giữa các giá trị. Chứng bệnh đó là bệnh mù quáng. Mù quáng trong sống đạo được Kinh Thánh đề cập đến nhiều cách. Ở đây tôi chỉ nêu lên bốn dạng mù quáng dễ gặp thấy. 1/ Mù quáng, vì không nhận ra cái chính, cái phụ Chúa Giêsu có lúc đã đau buồn phải nói sự thực với các kinh sư và Pharisêu: “Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng... Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề luật là công bình, lòng thương xót và sự thành tín... Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng. Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (Mt 23,23-24). Những lời Chúa Giêsu phiền trách trên đây xem ra đang ứng nghiệm ở nơi này nơi nọ. Tình hình đạo ở những chỗ đó được tiếng là thêm mở mang, thêm hoạt động, thêm luật lệ. Nhưng lòng đạo thực ra chỉ được xây dựng bằng những giá trị phụ.Người ta gọi đạo kiểu đó là đạo hình thức, đạo gánh nặng, đạo bề ngoài, đạo phong trào. Nhưng không thiếu người tự mãn với lối sống đạo như thế. Chúa thì dứt khoát không hài lòng. Người gọi những người giữ đạo kiểu đó là mù quáng. Cái làm cho sự mù quáng đó thành nguy hiểm, đó là sự nó tạo nên một ảo tưởng sai lầm, đưa con người vào ẩn trú trong đó. Hơn nữa, nó càng nguy hiểm, khi lôi kéo, thậm chí ép buộc nhiều người khác đi vào não trạng sai lạc về đạo, bám vào một nếp sống đạo dễ dàng biến chất. Hy vọng cảnh đó sẽ không nhiều tại Việt Nam. 2/ Mù quáng, vì không nhận ra đoàn lũ quỷ dữ rình rập mình thường xuyên Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô gởi các giáo đoàn, Ngài đã viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì quỷ dữ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Danh từ quỷ dữ mà thánh Phêrô dùng ở đây không những chỉ đích danh các tướng quỷ và thuộc hạ ác ôn vô hình luôn rảo quanh chúng ta, mà cũng ám chỉ các lực lượng xấu hữu hình xung quanh ta. Đó là những thứ văn hoá đồi truỵ, những phong trào gây hận thù chia rẽ, những nhóm đầu tư đủ loại mưu mô quỷ quyệt, những lối sống kích thích huỷ hoại luân lý, những định kiến hẹp hòi, kiêu căng. Thánh tông đồ Phêrô nói rõ với tín hữu là chỉ với tiết độ và tỉnh thức, người ta mới nhận diện được mặt thực của quỷ dữ và mới đối phó được với chúng một cách có hiệu quả. Nhưng thực tế nhiều nơi cho thấy sự tiết độ và tỉnh thức có vẻ như đang bị lơ là. Do đó mà không ít người trở nên dần dần mù quáng. Họ không những không nhận ra đoàn lũ các loại quỷ dữ đang hoạt động ráo riết xung quanh mình, mà còn nhởn nhơ hoà nhập và tích cực cộng tác vào những cái xấu của chúng. 3/ Mù quáng, vì không biết nhận xét thời đại mình sống Chúa Giêsu có lần đã cảnh báo nặng lời: “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc trời đất, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét? Sao các ngươi không tự mình xét xem cái gì là phải” (Lc 12,56-57). Lời Chúa phán trên đây, nếu áp dụng vào nhiều người có đạo thời nay, thì thiết tưởng không sai. Bởi vì theo các nơi hành hương và huấn giáo, thì thời nay có hai việc Chúa muốn ta làm: - Việc thứ nhất là sám hối, đền tội, đổi mới bản thân ta. - Việc thứ hai là tin vào Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót và hãy đến với Người bằng những việc ta xót thương người khác, như Chúa thương xót ta. Thế nhưng, cách sống của bao người tín hữu hôm nay tỏ ra mình chưa nhìn thấy rõ bao con đường Chúa đang đợi họ trong thời đại này. 4/ Mù quáng, vì không nhận ra Chúa đến và ở giữa lịch sử nhân loại Phúc Âm thánh Gioan viết: “Ngôi Lời ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón Người” (Ga 1,10-11). Đọc mấy dòng trên, chúng ta cảm thấy buồn. Người nhà của Chúa là chính những người công giáo chúng ta. Nhưng biết đâu biết bao lần Chúa đến với ta, mà ta không đón nhận Người. Người đến qua Kinh Thánh, qua các bí tích, qua Hội Thánh. Ngoài ra, Người cũng đến qua nhiều ngả khác, như qua các biến cố lịch sử, qua các thành công và thất bại của ta, qua các nền văn hoá chất lượng, qua các sách báo và gương sáng nhắc nhở của cá nhân và tập thể, trong và ngoài Đạo ta. Nhưng, chúng ta nhiều khi tự mãn, không nhìn và không muốn nhìn, cho nên kể như tự mình trở nên mù quáng. Mọi thứ mù quáng đều đáng tiếc. Nhưng mù quáng không nhìn nhận Chúa đến với ta, đó quả là một tai hoạ kinh khủng. Kinh nghiệm tại nhiều nơi cho thấy: Đạo Chúa thời khó thì chất lượng phát triển. Đạo Chúa thời dễ thì chất lượng suy thoái. Chúng ta cũng nên nhìn sự phát triển của các tôn giáo bạn hiện nay trong nước ta và tại các nước xung quanh, nói chung là tại Á châu. Tại nhiều nước Á châu, văn hoá dân tộc là văn hoá một tôn giáo nào đó phủ kín khắp nước. Tất nhiên văn hoá đó và tôn giáo đó không phải là công giáo. Ai trong chúng ta cũng có nhiều giới hạn. Nên chúng ta rất cần cầu nguyện. Thiết tưởng vấn đề này nên được nhận thức sớm, với những nghiên cứu mới, sáng kiến mới, dấn thân mới. Kẻo sẽ quá muộn. Vì lịch sử đất nước, khu vực và thế giới, đang chuyển biến rất mau, với những bất ngờ dễ sợ. Gm. JB. Bùi Tuần
Vừa hoàn tất chương trình nơi đại học Bangalore thuộc miền Nam Ấn Độ, nữ bác sĩ Bibiana Mary nghĩ ngay đến việc dành thời gian ngắn phục vụ các trẻ em nghèo tàn tật. Các em sống nơi một Trung Tâm do các tu sĩ dòng thánh Luigi Orione (1872-1940) trông coi tại cứ điểm truyền giáo Moltalban bên Phi-luật-tân. Xin nhường lời cho nữ bác sĩ Bibiana Mary. Tôi đang đi dọc theo hành lang và bước vào căn phòng thì thấy Joey đang tiến về phía giường của Mark. Cậu thiếu niên nâng bạn lên, thay quần áo để mặc cho bạn bộ đồng phục rồi đặt bạn ngồi trên chiếc xe lăn. Joey cẩn thận kiểm soát để bạn ngồi ngay ngắn, thắt dây an-toàn cho bạn rồi đẩy xe lăn đi về phía phòng học. Nhìn thấy tôi, Joey nhoẻn miệng cười thật tươi rồi vẫy tay nói với tôi: - Chào tạm biệt bác sĩ nhé! Điều tôi vừa kể cho quý vị nghe xem ra là những diễn tiến bình thường. Nhưng đối với tôi, câu chuyện lại khác thường, bởi vì nó thay đổi hoàn toàn não trạng và quan niệm sống của tôi. Tôi tự nhủ: - Nếu Joey - thiếu niên 15 tuổi - bị tàn tật tâm trí, không biết nói năng đàng hoàng, lại có thể chăm sóc kỹ lưỡng chu đáo Mark người bạn bị tê liệt, thì chúng ta - những kẻ được xem là bình thường - lại không có thể quan tâm săn sóc người khác sao??? Trên đây chỉ là một trong muôn vàn cử chỉ và hành động đáng yêu mà tôi diễm phúc trông thấy tận mắt nơi Trung Tâm ”Cottolengo Filippino”. Trung Tâm do các tu sĩ Don Orione đảm trách dành cho 40 bạn trẻ bị tàn tật đủ loại: hoặc tâm trí hoặc thể xác như tê liệt và chậm trí, điếc và câm hoặc mù lòa. Tất cả đều là thanh thiếu niên nghèo hoặc bị bỏ rơi. Ngày đầu tiên đặt chân đến Trung Tâm tức khắc tôi được mọi người nồng hậu tiếp đón, đặc biệt từ phía các bạn trẻ tàn tật. Các em vây quanh tôi, nhoẻn miệng cười thật tươi, giơ tay vuốt ve tôi thật trìu mến. Rồi các em chạy nhảy, vỗ tay hò hét để báo cho mọi người biết là có một người khách đến viếng thăm Trung Tâm. Rồi vỏn vẹn vài tuần lễ sau đó tôi trở thành nữ bác sĩ thân thương của tất cả các em! Thật tuyệt vời! Thế nhưng không phải chỉ riêng tôi mà bất cứ vị khách nào bước chân vào Trung Tâm cũng đều được các em tàn tật đón tiếp niềm nở, theo một cung cách giản dị đơn sơ nhất. Sự kiện này khiến cho khách lạ bỗng cảm thấy mình thuộc về phần tử của gia đình trung tâm. Điều gây ấn tượng và ngưỡng mộ nhất nơi tôi chính là: mặc cho mọi mức độ tàn tật đôi khi thật trầm trọng, các thiếu niên tàn tật mỗi ngày đương đầu với cuộc sống cách thật can đảm. Các em không phải chỉ sống còn, nhưng thật sự là các bậc anh hùng! Nhiều em bị bắt buộc nằm yên trên giường, hít thở nhờ máy móc. Nhưng em nào cũng sống tràn đầy cuộc sống của mình, dĩ nhiên là với sự trợ giúp của nhiều người khác, đặc biệt là các ”nanai - mẹ nuôi”, chăm sóc thương yêu các em như chính con ruột của các bà! Giống như các cánh hoa, mỗi đóa đều có hương thơm và màu sắc riêng biệt thì các em tàn tật này cũng thế. Mỗi em với nét tàn tật riêng vẫn ẩn chứa tài năng thật mênh mông bất ngờ. Nếu được tập luyện và hướng dẫn các tài năng phát triển tối đa. Chỉ cần nhìn các em nhảy múa, vẽ vời hoặc nguyên sự kiện có thể tự túc trong việc ăn uống cũng đủ thấy khả năng bao la của các em. Tôi xin giải thích. Đối với chúng ta là người bình thường, thì tất cả các tác động đều là chuyện dễ dàng. Trong khi đối với các em tàn tật, những gì các em thực hiện đều là kết quả của không biết bao nhiêu là tập luyện, đôi khi đòi hỏi những cố gắng thật phi thường! Trong thời gian phục vụ tại Phi-luật-tân tôi còn may mắn làm việc chung với nữ tu Maria Rosa Zbicajnik cũng là bác sĩ nơi nhà thương Payatas ở Quezon City. Chúng tôi sát cánh trong các công tác phục vụ dân nghèo nơi các vùng xa xôi hẻo lánh. Qua các hoạt động này tôi thầm nghĩ: - Ở Ấn Độ hay tại Phi-luật-tân nơi đâu dân nghèo cũng có cùng hoàn cảnh đáng thương! Vậy thì bổn phận của chúng ta phải làm gì để có thể giúp cho cuộc sống của người nghèo có thể khá hơn xứng với nhân phẩm hơn? Tôi tự hỏi và tự trả lời: - Không cần làm những công việc to tát mà chỉ cần làm tất cả những gì chúng ta có thể làm, cho dù xem ra nhỏ bé nhất, để góp phần thoa dịu nỗi đau khổ và túng cực của dân nghèo. Tôi ra đi đến Phi-luật-tân với tư tưởng đem khả năng phục vụ các trẻ em tàn tật. Giờ đây tôi lại cảm nghiệm rằng: - Chính các em tàn tật mới là người giúp đỡ tôi. Các em dạy tôi một bài học vô cùng quý giá. Tôi xin trưng dẫn lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói về người tàn tật để kết thúc chứng từ: - Người tàn tật dạy chúng ta hiểu thế nào là Tình Yêu cứu độ. Họ là sứ giả của một thế giới mới không thống trị bởi sức mạnh bởi bạo lực và bởi uy hiếp nhưng là xây dựng trên Tình Yêu, tình liên đới và trên sự chấp nhận lẫn nhau. ... ”Phải nói rằng: các dân ngoại không tìm cách để được nên công chính, thì được nên công chính, mà được nên công chính là nhờ Đức Tin. Còn dân Israel tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ Đức Tin, nhưng nhờ việc làm .. Thưa anh em, lòng tôi những ước mong và tôi cầu xin cho dân Do Thái được cứu độ. Quả thế, tôi làm chứng cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với THIÊN CHÚA, nhưng lòng nhiệt thành đó không được sáng suốt, họ không nhận biết rằng chính THIÊN CHÚA làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính. Quả thế, cứu cánh của Lề Luật là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, khiến bất cứ ai TIN đều được nên công chính” (Thư gởi tín hữu Roma 9,30-32/10,1-4). Trích dịch từ: (”Don Orione oggi”, Rivista mensile della Piccola Opera della Divina Provvidenza, Anno CV, n.2, Febbraio 2010, trang 22-23) Sr. Jean Berchemans Minh Nguyệt
VATICAN. Thứ bẩy 11-2-2012 sắp tới là Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 20, năm nay được cử hành với chủ đề ”Hãy đứng lên và đi; đức tin của con đã cứu con!” (Lc 17,19). Trong thời gian qua, ĐTC đã cho công bố sứ điệp của ngài để hướng dẫn suy tư và việc cử hành Ngày này, đồng thời ngài mời gọi các tín hữu nêu cao giá trị của các bí tích chữa lành là bí tích Thống Hối hòa giải và bí tích xức dầu bệnh nhân. Sau đây là bản dịch nguyên văn sứ điệp của ĐTC. Anh chị em thân mến,
Nhân dịp Ngày Thế giới các bệnh nhân, mà chúng ta sẽ cử hành ngày 11-2-2012, lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, tôi muốn tái biểu lộ sự gần gũi tinh thần với tất cả các bệnh nhân đang ở nơi điều trị hoặc được chăm sóc trong gia đình, bày tỏ với mỗi người mối quan tâm và lòng quí mến của toàn thể Giáo Hội. Khi quảng đại và yêu thương đón nhận mỗi sinh mạng con người, nhất là những người yếu đuối và bệnh tật, tín hữu Kitô biểu lộ khía cạnh quan trọng trong chứng tá Tin Mừng của mình, theo gương Chúa Kitô, Đấng đã cúi mình trên những đau khổ thể lý và tinh thần của con người để chữa lành họ. 1. Năm nay, là năm chuẩn bị gần cho việc cử hành trọng thể Ngày Thế Giới các bệnh nhân sẽ tiến hành tại Đức vào ngày 11-2-2013 và sẽ suy tư về hình ảnh biểu tượng của Tin Mừng về người Samaritano (Xc Lc 10,29-37), tôi muốn nhấn mạnh về ”các bí tích chữa lành”, tức là Bí tích Thống Hối và Hòa giải, và bí tích Xức Dầu bệnh nhân, các bí tích này được viên mãn tự nhiên trong sự Hiệp Thông Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với 10 người phong cùi, được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca (Xc Lc 17,11-19), đặc biệt là lời Chúa nói với một người trong số họ: ”Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu con!”, giúp ta ý thức tầm quan trọng của đức tin đối với những người đang chịu đau khổ và bệnh tật mà đến gần Chúa. Trong cuộc gặp gỡ Chúa, họ có thể thực sự cảm nghiệm rằng ”ai tin tưởng thì không bao giờ lẻ loi!” Thực vậy, trong Con của Ngài, Thiên Chúa không bỏ mặc chúng ta cho những lo âu và đau khổ của chúng ta, nhưng Ngài gần gũi chúng ta, giúp chúng ta chịu đựng chúng và Ngài mong ước chữa lành tâm hồn chúng ta một cách sâu xa (Xc Mc 2,1-12). Đức tin của người phong cùi duy nhất, khi thấy mình được chữa lành, đầy kinh ngạc và vui mừng, không như những người khác, đã lập tức trở lại gặp Chúa Giêsu để biểu lộ lòng biết ơn; đức tin ấy cho chúng ta thấy rằng sức khỏe được phục hồi là dấu chỉ một điều quí giá hơn so với sự khỏi bệnh thể lý, là dấu chỉ ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Chúa Kitô; điều ấy được biểu lộ qua lời Chúa Giêsu: ”Đức tin của con đã cứu con”. Ai ở trong đau khổ và bệnh tật mà kêu cầu Chúa, thì chắc chắn tình yêu của Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi họ, và cả tình yêu của Giáo Hội sẽ không bao giờ thiếu, tình yêu này chính là sự kéo dài trong thời gian công trình cứu độ của Chúa”. Như thế, sự lành bệnh thể xác, diễn tả ơn cứu độ sâu xa, tỏ cho thấy tầm quan trọng của con người đối với Chúa, trong toàn thể linh hồn và thân xác của họ. Vả lại, mỗi bí tích diễn tả và thực hiện sự gần gũi của chính Thiên Chúa, Đấng theo một thể thức hoàn toàn nhưng không, ”đánh động chúng ta qua những thực tại vật chất... mà Ngài dùng chúng, biến chúng thành những phương thế để chúng ta và Ngài gặp gỡ nhau” (Bài giảng, Thánh lễ làm phép Dầu, 1-4-2010) Nghĩa vụ chính yếu của Giáo Hội chắc chắn là loan báo Nước Thiên Chúa, ”nhưng chính việc loan báo này phải là một tiến trình chữa lành: ”.. băng bó các vết thương của tâm hồn tan nát” (Is 61,1)” (Ibid.). Vì thế, sự liên kết giữa sức khỏe thể lý và sự canh tân những sâu xé trong tâm hồn giúp chúng ta hiểu rõ hơn ”các bí tích chữa lành”. 2. Bí tích Thống Hối thường ở trung tâm suy tư của các vị Chủ Chăn trong Giáo Hội, chính vì tầm quan trọng của bí tích này trong hành trình đời sống Kitô, xét vì ”toàn thể giá trị của Sự Thống Hối hệ tại trả lại chúng ta cho ơn thánh của Thiên Chúa, liên kết chúng ta với Ngài trong một tình bạn thân mật và cao cả” (Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, 1468). Giáo Hội, khi tiếp tục loan báo ơn tha thứ và hòa giải mà Chúa Giêsu làm vang dội, không ngừng mời gọi toàn thể nhân loại hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng. Giáo Hội lập lại lời kêu gọi của thánh Phaolô Tông Đồ: ”Nhân danh Chúa Kitô.. chúng tôi là những sứ giả: qua chúng tôi chính Thiên Chúa nhắn nhủ. Nhân danh Chúa Kitô, chúng tôi nài xin anh em: hãy hòa giải với Thiên Chúa” (2 Cr 5,20). Trong cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu loan báo và làm cho lòng từ bi của Chúa Cha hiện diện. Ngài đến không phải để lên án, nhưng để tha thứ và chữa lành, để mang lại hy vọng cả trong tình trạng tăm tối nhất của đau khổ và tội lỗi, để trao ban sự sống đời đời; vì thế, trong Bí tích Thống Hối, trong ”y dược của phép giải tội”, kinh nghiệm về tội lỗi không làm nảy sinh tuyệt vọng, nhưng gặp gỡ Đấng là Tình Thương tha thứ và biến đổi (Xc Gioan Phaolô 2, Tông Huấn hậu THĐGM ”Hòa giải và Thống Hối”, 31). Thiên Chúa, ”giàu lòng xót thương” (Ep 2,4), như người cha trong dụ ngôn của Tin Mừng (Xc Lc 15,11-32), không khép kín tâm hồn đối với một người con nào, nhưng Ngài chờ đợi họ, tìm kiếm, tìm đến với họ tại nơi mà sự phủ nhận tình hiệp thông khép kín họ trong sự cô lập và chia rẽ, kêu gọi họ tụ tập quanh bàn ăn của Ngài, trong vui mừng của đại lễ tha thứ và hòa giải. Những lúc đau khổ, khi mà bệnh nhân dễ bị cám dỗ rơi vào tình trạng nản chí và tuyệt vọng, có thể biến thành một thời điểm ân phúc, giúp họ trở về với chính mình, và như người con hoang đàng, nghĩ lại cuộc sống của mình, nhìn nhận những lỗi lầm và thiếu sót, nhớ nhung vòng tay ấp ủ của người Cha, và tái khám phá con đường về Nhà Cha. Trong tình yêu thương bao la, Ngài luôn tỉnh thức canh chừng cuộc sống chúng ta, chờ đợi chúng ta để trao tặng cho mỗi người con trở về cùng Ngài hồng ân hòa giải trọn vẹn và niềm vui mừng”. 3. Khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Không những Ngài sai các môn đệ đi săn sóc các vết thương (Xc Mt 10,8; Lc 9,2; 10,9), nhưng Ngài còn thiết lập cho họ một Bí tích đặc biệt: bí tích Xức dầu bệnh nhân. Thư của Thánh Giacôbê làm chứng về sự hiện diện của cử chỉ bí tích này trong cộng đồng Kitô đầu tiên (Xc 5,14-16): Với việc Xức dầu bệnh nhân, kèm theo lời cầu nguyện của các linh mục, toàn thể Giáo Hội phó thác các bệnh nhân cho Chúa đã chịu đau khổ và được vinh hiển, để Ngài thoa dịu những cơ cực và cứu vớt họ, Giáo Hội cũng khuyên họ hãy kết hiệp trong tinh thần với cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô, để góp phần vào thiện ích của Dân Chúa. Bí tích ấy đưa chúng ta đến chỗ chiêm ngắm hai mầu nhiệm về Núi Cây Dầu, nơi Chúa Giêsu đứng trước con đường Chúa Cha đã chỉ cho Ngài, con đường khổ nạn, cử chỉ tột đỉnh của tình thương, và Ngài đã đón nhận con đường ấy. Trong giờ thử thách đó, Ngài là Đấng trung gian, ”mang trong mình, nhận lấy đau thương và khổ nạn của thế giới, biến nó thành tiếng kêu lên Thiên Chúa, đưa đau khổ tới trước mắt và trong tay của Thiên Chúa, và qua đó mang đau khổ thực sự vào thời điểm cứu chuộc” (Lectio divina, Cuộc gặp gỡ hàng giáo sĩ Roma, 18-2-2010). Nhưng ”Núi Cây Dầu .. cũng là nơi từ đó Ngài lên cùng Chúa Cha, vì thế đó là nơi cứu chuộc... Hai mầu nhiệm này về Núi Cây Dầu cũng luôn luôn ”tác động” trong dầu bí tích của Giáo Hội.. dấu chỉ lòng nhân từ của Thiên Chúa Đấng động đến chúng ta” (Bài giảng, Thánh Lễ làm phép Dầu, 1-4-2010). Trong việc Xức Dầu bệnh nhân, có thể nói chất liệu bí tích dầu được ban cho chúng ta ”như dược phẩm của Thiên Chúa.. thuốc này giờ đây làm cho chúng ta chắc chắn về lòng từ nhân của Ngài, nó phải củng cố và an ủi chúng ta, nhưng đồng thời, vượt lên trên thời kỳ bệnh tật hiện nay, hướng chúng ta về sự chữa lành chung kết, là sự sống lại (Xc Gc 5,14” (Ibid.). Ngày nay Bí tích này đáng được để ý hơn, trong suy tư thần học, cũng như trong hoạt động mục vụ cho các bệnh nhân. Khi đề cao nội dung kinh nguyện phụng vụ được thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau của con người với bệnh tật, và không những vào lúc cuối đời mà thôi (Xc Sách Giáo Lý Công Giáo, 1514), Bí tích Xức Dầu bệnh nhân không thể bị coi là một bí tích ”hạng nhỏ” so với các bí tích khác. Sự quan tâm và chăm sóc mục vụ cho các bệnh nhân, một đàng là dấu chỉ sự dịu hiền của Thiên Chúa đối với người đang đau khổ, và đàng khác mang lại lợi điểm tinh thần cho cả các LM và toàn thể cộng đoàn Kitô, với ý thức rằng những gì được làm cho người bé nhỏ nhất, chính là làm cho Chúa Giêsu” (Xc Mt 25,40). 4. Về ”các bí tích chữa lành”, thánh Augustinô khẳng định: ”Thiên Chúa chữa lành tất cả các bệnh tật của con”. Vì thế, con đừng sợ: tất cả bệnh tật của con sẽ được chữa lành.. Con chỉ cần để cho Ngài chữa lành con và đừng đẩy xa bàn tay của Ngài” (Giải thích về Thánh Vịnh 102,5: PL 36,1319-1320). Đó là những phương thế quí giá của ân thánh Chúa, giúp các bệnh nhân ngày càng trở nên đồng hình dạng với Mầu Nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa Kitô”. Cùng với hai Bí tích này, tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Bí tích Thánh Thể. Khi được lãnh nhận trong lúc bệnh tật, Thánh Thể góp phần đặc biệt vào công trình biến đổi ấy, liên kết người được nuôi sống bằng Mình Máu Thánh Chúa Giêsu với hy tế Ngài tự hiến dâng lên Chúa Cha để cứu độ mọi người. Toàn thể cộng đoàn Giáo Hội và nhất là các giáo xứ, hãy quan tâm đảm bảo cơ hội cho những người, vì lý do sức khỏe hoặc tuổi tác, không thể đến nơi thờ phượng, được thường xuyên rước lễ. Như thế những anh chị em ấy có thể củng cố mối quan hệ với Chúa Kitô chịu đóng đanh và sống lại, với cuộc sống của họ được dâng hiến vì tình yêu Chúa Kitô, tham dự vào sứ mạng của chính Giáo Hội. Trong viễn tượng ấy, điều quan trọng là các LM phục vụ tại các nhà thương, các dưỡng đường và tại tư gia của các bệnh nhân, hãy cảm thấy mình thực sự là những người phục vụ các bệnh nhân, là dấu chỉ và là phương tiện của lòng từ bi Chúa Kitô, cần được biểu lộ cho mọi người đang chịu đau khổ (Sứ điệp nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 18, 22-11-2009). Sự trở nên đồng hình dạng với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, cũng được thực hiện qua việc rước lễ thiêng liêng, việc làm này có một ý nghĩa rất đặc biệt khi Thánh Thể được ban và đón nhận như của ăn đàng. Trong thời điểm ấy của cuộc sống, những lời của Chúa càng âm vang một cách quyết liệt hơn: ”Ai ăn Mình Thầy và uống Máu Thầy thì có sự sống đời đời và Thầy sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,54). Thực vậy, Thánh Thể, nhất là như của ăn đàng, theo định nghĩa của thánh Ignatio thành Antiokia, là ”phương dược bất tử, là thuốc chống lại sự chết” (Thư gửi các tín hữu Ephêsô, 20: PG 5,661), là bí tích chuyển tiếp từ sự chết đến sự sống, từ trần thế này đến cùng Chúa Cha, Đấng chờ đợi mọi người trong thành Jerusalem thiên quốc. 5. Chủ đề sứ điệp này nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 20, ”Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu con!”, cũng liên hệ tới Năm Đức Tin sắp tới, sẽ bắt đầu từ ngày 11-10-2012, là dịp thuận tiện và quý giá để tái khám phá sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin, để đào sâu nội dung đức tin cũng như để làm chứng đức tin trong đời sống thường nhật (Xc Tông thư Porta fidei, 11-10-2011). Tôi muốn khuyến khích các bệnh nhân và những người đau khổ luôn tìm thấy một chiếc neo chắc chắn trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng sự lắng nghe Lời Chúa, bằng kinh nguyện bản thân và các bí tích, trong khi tôi mời gọi các vị Mục Tử ngày càng sẵn sàng cử hành các bí tích cho các bệnh nhân. Noi gương Vị Mục Tử Nhân Lành và trong tư cách là những người dẫn dắt đoàn chiên đã được ủy thác, các linh mục hãy tràn đầy vui mừng, ân cần đối với những người yếu đuối nhất, những người đơn sơ và tội nhân, biểu lộ cho họ lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa với những lời đầy hy vọng” (Xc S. Augustino, Lettera 95, 1: PL 33, 351-352) (SD 3-1-2012) Tôi tái bày tỏ lòng biết ơn của tôi và của Giáo Hội đối với những người hoạt động trong thế giới sức khỏe, cũng như các gia đình, nhìn thấy nơi những người thân của mình Khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu, vì trong khả năng nghề nghiệp và trong thinh lặng, tuy nhiều khi không nêu đích danh Chúa Giêsu, họ vẫn biểu lộ Ngài một cách cụ thể (Xc Bài giảng, Thánh lễ làm phép Dầu, 21-4-2011). Chúng ta hãy hướng lên Đức Maria, Mẹ Từ Bi và là Sức Khỏe của các bệnh nhân, cái nhìn đầy tín thác và kinh nguyện của chúng ta; Ước gì lòng cảm thông từ mẫu của Mẹ, - được sống cạnh Chúa Con sinh thì trên Thánh Giá, - tháp tùng và nâng đỡ đức tin và đức cậy của mỗi bệnh nhân và người đau khổ trên con đường chữa lành các vết thương thể xác và tinh thần. Tôi cam đoan nhớ đến tất cả mọi người trong kinh nguyện, trong khi tôi ban Phép lành Tòa Thánh đặc biệt cho mỗi người. Vatican ngày 20 tháng 11 năm 2011, Lễ Chúa Kitô, Vua Vũ Trụ. Biển Đức 16, Giáo Hoàng. Lm. Trần Đức Anh OP (chuyển ngữ) SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2012 CỦA ĐTC BÊNÊDICTÔ 16 "Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau, để khích lệ nhau trong đức bác ái và các công việc lành” (Dt 10,24) Anh chị em, Một lần nữa mùa chay cống hiến cho chúng ta cơ hội suy tư về nòng cốt đời sống Kitô, đó là đức bác ái. Thực vậy, đây là thời kỳ thuận tiện để, nhờ sự trợ giúp của Lời Chúa và các Bí Tích, chúng ta đổi mới hành trình đức tin, trên bình diện bản thân cũng như cộng đồng. Đây là một hành trình được đánh dấu bằng kinh nguyện và chia sẻ, thinh lặng và chay tịnh, trong khi chờ đợi niềm vui Phục Sinh. Năm nay, tôi muốn đề nghị một vài suy tư dưới ánh sáng một văn bản ngắn của Kinh Thánh rút từ Thư gửi Tín Hữu Do Thái: ”Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau để khích lệ nhau trong đức bác ái và trong việc lành” (10,24). Đây là một câu được đưa vào một đoạn văn trong đó tác giả sách thánh nhắn nhủ hãy tín thác nơi Chúa Giêsu Kitô như vị Thượng Tế, Đấng đã đạt cho chúng ta ơn tha thứ và dẫn đến Thiên Chúa. Thành quả việc đón nhận Chúa Kitô là một đời sống được phát triển theo 3 nhân đức hướng thần, đó là: tiến đến gần Chúa ”với con tim chân thành trong sự viên mãn của đức tin” (c.22), giữ vững ”việc tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta” (c.23) luôn chú ý thi hành ”đức bác ái và các việc lành” (c.24) cùng với các anh em khác. Đoạn này cũng khẳng định rằng để nâng đỡ cách cư xử theo tinh thần Tin Mừng như thế, điều quan trọng là tham dự các buổi gặp gỡ phụng vụ và cầu nguyện của cộng đoàn, hướng nhìn về mục tiêu mai hậu là sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa (c.25). Tôi dừng lại ở câu 24: qua vài chữ, câu này cống hiến một giáo huấn quí giá và luôn thời sự về 3 khía cạnh của đời sống Kitô, đó là quan tâm đến tha nhân, tính chất hỗ tương và sự thánh thiện bản thân. 1. ”Chúng ta hãy quan tâm”: trách nhiệm đối với người anh em. Yếu tố đầu tiên là lời mời gọi ”hãy quan tâm”, hãy chú ý: động từ Hy lạp dùng ở đây là Katanoein, có nghĩa là quan sát kỹ lưỡng, chú ý, nhìn một cách ý thức, nhận thức một thực tại. Chúng ta thấy động từ này trong Tin Mừng, khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ”quan sát” chim trên trời, tuy không làm việc vất vả, nhưng chúng vẫn được Chúa Quan Phòng ân cần chăm sóc (Xc Lc 12,24), và hãy ”nhận ra” cái xà trong mắt mình trước khi nhìn thấy cọng rơm trong mắt của người anh em (Xc Lc 6,41). Chúng ta cũng thấy động từ ấy trong một đoạn khác của Thư gửi Tín hữu Do thái, như lời mời gọi hãy ”chú ý đến Chúa Giêsu” (3,1), là tông đồ và là thượng tế của đạo chúng ta. Vì thế, động từ mở đầu lời nhắn nhủ chúng ta, mời gọi hãy chăm chú nhìn người khác, trước tiên là nhìn Chúa Giêsu, và chú ý đối với nhau, đừng tỏ ra là người xa lạ với nhau, đừng dửng dưng về số phận của các anh em. Thực tế, ta thường thấy trái độ trái ngược: dửng dưng, không tha thiết, những thái độ này nảy sinh từ lòng ích kỷ, được che đậy bằng cái vẻ ”tôn trọng đời tư của người khác”. Ngày nay, tiếng Chúa cũng vang dội mạnh mẽ kêu gọi mỗi người chúng ta trở thành những người canh giữ anh em mình (Xc St. 4,9), thiết lập những quan hệ ân cần đối với nhau, quan tâm đến thiện ích của tha nhân và của mọi người. Đại giới răn yêu thương tha nhân đòi hỏi và yêu cầu chúng ta hãy ý thức mình có trách nhiệm đối với những người là thụ tạo và là con Thiên Chúa, giống như ta: là anh em với nhau trong tư là người, và trong nhiều trường hợp, là anh em đồng đạo với nhau, phải làm cho chúng ta nhìn thấy nơi tha nhân như một bản thân khác của mình, được Chúa yêu thương vô biên. Nếu chúng ta vun trồng cái nhìn này về tình huynh đệ, liên đới, công bằng, thì lòng từ bi và cảm thông sẽ tự nhiên nảy sinh từ con tim chúng ta. Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 đã khẳng định rằng thế giới ngày nay đau khổ nhất là vì thiếu tình huynh đệ: ”Thế giới bệnh hoạn. Bệnh của thế giới này không phải do sự phung phí tài nguyên hoặc vì một số người vơ vét của cải, nhưng là do sự thiếu tình huynh đệ giữa con người và các dân tộc với nhau” (Thông điệp ”Phát triển các dân tộc” - 26/3/1967-, n.66). Sự quan tâm đến người khác bao gồm ước muốn cho họ điều thiện hảo, dưới mọi khía cạnh: thể lý, luân lý và tinh thần. Nền văn hóa hiện đại dường như đã đánh mất ý thức thiện và ác, giữa lúc cần phải tái mạnh mẽ khẳng định rằng sự thiện hiện hữu và chiến thắng vì Thiên Chúa là ”Đấng tốt lành và làm điều thiện” (Tv 119,68). Sự thiện là điều khơi dậy, bảo vệ và thăng tiến sự sống, tình huynh đệ và hiệp thông. Trách nhiệm đối với tha nhân như thế có nghĩa là muốn và làm điều thiện cho họ, mong ước họ cũng được cởi mở đối với tiêu chuẩn điều thiện; quan tâm đến anh em có nghĩa là mở rộng đôi mắt trước những thiếu thốn của họ. Kinh Thánh cảnh giác về nguy cơ con tim chai đá, không còn nhạy cảm về tinh thần, làm cho ta mù quáng trước những đau khổ của tha nhân. Thánh Luca thánh sử kể lại hai dụ ngôn của Chúa Giêsu trong đó có trình bày hai thí dụ về tình trạng như thế có thể xảy ra trong tâm hồn con người. Trong dụ ngôn người Samaritano nhân lành, vị tư tế và thầy Lêvi ”đi tránh qua bên kia”, dửng dưng đối với người bị cướp bóc lột và đánh đập (Xc Lc 10,30-32), và trong dụ ngôn người giàu sụ, người này đầy ứ của cải nên không nhìn thấy thân phận của ông Lazzarô nghèo khổ chết đói trước cửa nhà ông (Xc Lc 16,19). Trong cả hai trường hợp chúng ta thấy thế nào điều là trái ngược với sự ”quan tâm”, với cái nhìn yêu thương và cảm thông. Điều gì ngăn cản cái nhìn nhân đạo và yêu thương như thế đối với người anh em? Thường thường đó là sự giàu có vật chất và sự quá đầy đủ, nhưng cũng có thái độ đặt tư lợi và những bận tâm của mình lên trên hết. Không bao giờ chúng ta được thiếu khả năng ”có lòng từ bi” đối với người đau khổ: không bao giờ con tim chúng ta được phép bị mất hút trong những sự vật và các vấn đề của mình đến độ trở nên điếc đối với tiếng kêu của người nghèo. Trái lại, chính tâm hồn khiêm tốn và kinh nghiệm bản thân về đau khổ có thể tỏ ra là nguồn mạch sự thức tỉnh nội tâm về sự cảm thông và thương cảm: ”Người công chính nhìn nhận quyền của người lầm than, trái lại kẻ gian ác không nghe tiếng nói của lý trí” (Cn 29,7). Như thế ta hiểu hạnh phúc ”của những người khóc lóc” (Mt 5,4), nghĩa là những người có khả năng ra khỏi chính mình để cảm động trước đau khổ của tha nhân. Gặp gỡ với tha nhân và mở rộng con tim đối với nhu cầu của họ chính là một cơ hội để được cứu độ và hạnh phúc thật. Sự ”quan tâm” đến người anh em như thế cũng bao gồm sự ân cần đồi với thiện ích thiêng liêng của họ. Và ở đây, tôi muốn nhắc nhớ một khía cạnh của đời sống Kitô giáo mà tôi thấy dường như bị lãng quên: đó là sự sửa lỗi huyhnh đệ nhắm đến sự sống đời đời. Nói chung ngày nay người ta rất nhạy cảm đối với những bài nói về sự chăm sóc và tình bác ái đối với thiện ích thể lý và vật chất của tha nhân, nhưng người ta lại hầu như hoàn toàn im lặng về trách nhiệm tinh thần đối với anh em mình. Trong Giáo Hội sơ khai và trong các cộng đoàn thực sự trưởng thành trong đức tin không có thái độ như thế; trong các cộng đồng ấy người ta không những quan tâm đến sức khỏe thể xác của người anh em, nhưng cả sức khỏe tâm hồn của người ấy nữa. Trong Kinh Thánh chúng ta đọc thấy rằng: ”Hãy khiển trách người khôn ngoan và họ sẽ biết ơn bạn. Hãy khuyên bảo người khôn ngoan và họ càng khôn ngoan hơn; hãy dạy dỗ người công chính và họ sẽ gia tăng kiến thức” (Cn 9,8ss). Chính Chúa Kitô đã truyền phải chính đốn người anh em đang phạm tội (Xc Mt 18,15). Động từ dùng để định nghĩa sự sửa lỗi huynh đệ - elenchein - cũng là động từ chỉ sứ vụ ngôn sứ tố giác của các Kitô hữu đối với một thế hệ chiều theo điều ác (Xc Ep 5,11). Truyền thống của Giáo Hội đã liệt kê việc khuyên bảo tội nhân vào số những hành động từ bi về tinh thần (thương linh hồn bẩy mối). Điều quan trọng là phục hồi chiều kích này của đức bác ái Kitô. Không được im lặng trước sự ác. Ở đây tôi nghĩ đến thái độ của những tín hữu Kitô, vì tôn trọng người khác hoặc vì tiện ích, họ chiều theo não trạng chung, thay vì cảnh giác anh em mình về những lối suy nghĩ và hành động trái ngược với sự thật và không theo con đường sự thiện. Nhưng sự khiển trách theo tinh Kitô không bao giờ do sự thúc đẩy của tinh thần kết án hoặc trách cứ; nhưng luôn do sự thúc đẩy của tình thương và lòng từ bi, nảy sinh từ sự ân cần thực sự đối với thiện ích của người anh em. Thánh Phaolô tông đồ quả quyết: ”Nếu có người nào bất chợt bị bắt gặp phạm lỗi nào, thì anh chị em là những người có Thần Khi hãy sửa chữa họ với tinh thần dịu dàng. Và bạn hãy cảnh giác đối với chính mình để chính bạn khỏi bị cám dỗ” (Gl 6,1). Trong thế giới chúng ta bị thấm nhiễm xu hướng cá nhân chủ nghĩa, cần phải tái khám phá tầm quan trọng của sự sửa lỗi huynh đệ, để cùng nhau tiến bước về sự thánh thiện. Thậm chí ”người công chính sa ngã 7 lần” (Cn 24,16) như Kinh Thánh đã nói, và tất cả chúng ta đều là người yếu đuối và thiếu sót (Xc 1 Ga 1,8). Vì thế, thật là rất hữu ích khi giúp đỡ và để cho mình được giúp đỡ có cái nhìn chân thực về bản thân mình, để cải tiến chính cuộc sống của mình và tiến bước ngay thẳng hơn trên con đường của Chúa. Chúng ta luôn cần có một cái nhìn yêu thương và sửa chữa, nhận biết và nhìn nhận, phân định và tha thứ (Xc Lc 22,61), như Thiên Chúa đã và đang làm với mỗi người chúng ta. 2. ”Đối với nhau”: ơn hỗ tương với nhau”. Sự ”canh giữ” đối với tha nhân như thế tương phản với não trạng thu hẹp cuộc sống vào chiều kích trần thế, không để ý đến viễn tượng mai hậu và chấp nhận bất kỳ chọn lựa luân lý nào nhân danh tự do cá nhân. Một xã hội như ngày nay có thể trở nên điếc đối với những đau khổ thể lý cũng như những đòi hỏi tinh thần và luân lý của cuộc sống. Nhưng cộng động Kitô không thể như vậy! Thánh Phaolô Tông đồ mời gọi tìm kiếm điều dẫn tới ”hòa bình và xây dựng lẫn nhau” (Rm 14,19), giúp đỡ ”tha nhân trong điều thiện để xây dựng họ” (ibid. 15,2), không tìm tư lợi, ”nhưng là lợi ích của nhiều người, để họ đạt tới ơn cứu độ” (1 Cr 10,33). Sự sửa lỗi và khuyên nhủ nhau trong tinh thần khiêm tốn và bác ái như thế phải là thành phần đời sống của cộng đoàn Kitô. Các môn đệ của Chúa, kết hiệp với Chúa Kitô qua Thánh Thể, sống trong một sự hiệp thông liên kết họ với nhau như chi thể của cùng một thân mình. Điều này có nghĩa là tha nhân thuộc về tôi, cuộc sống, phần rỗi của họ liên hệ tới cuộc sống và phần rỗi của tôi. Ở đây chúng ta động chạm đến một yếu tố rất sâu xa của tình hiệp thông: cuộc sống của chúng ta có liên hệ tới cuộc sống của người khác, trong điều thiện cũng như trong điều ác; tội lỗi cũng như những việc lành bác ái đều có một chiều kích xã hội. Trong Giáo Hội, Nhiệm thể của Chúa Kitô diễn ra sự hỗ tương như thế: cộng đồng không ngừng làm việc thống hối và kêu cầu ơn tha thứ vì những tội lỗi của con cái mình, nhưng cũng luôn vui mừng hân hoan vì chứng tá nhân đức và bác ái được triển nở nơi mình. Thánh Phaolô quả quyết ”Các chi thể chăm sóc lẫn nhau” (1 Cr 12,25), vì chúng ta là một thân mình. Đức bác ái đối với anh em, như được diễn tả qua việc làm phúc - là việc thực hành tiêu biểu trong mùa chay, cùng với kinh nguyện và chay tịnh - ăn rễ sâu trong sự cùng thuộc về thân mình như vậy. Cả khi lo lắng cụ thể cho những người nghèo khổ nhất, mỗi tín hữu Kitô có thể biểu lộ sự tham phần của mình vào thân thể duy nhất là Giáo Hội. Quan tâm đến tha nhân trong tinh thần hỗ tương cũng là nhìn nhận điều thiện hảo mà Chúa làm nơi họ và cùng với họ cảm tạ vì những kỳ công ân phúc mà Thiên Chúa nhân lành và toàn năng tiếp tục thực hiện nơi các con cái của Ngài. Khi một Kitô hữu nhận thấy nơi tha nhận hoạt động của Chúa Thánh Linh, thì họ không thể không vui mừng vì điều đó và tôn vinh Chúa Cha trên trời (Xc Mt 5,16). 3. ”Để khích lệ lẫn nhau trong đức bác ái và trong việc lành”: cùng nhau tiến bước trong sự thánh thiện. Thành ngữ này của Thư gửi Tín Hữu Do thái (10,24) thúc đẩy chúng ta cứu xét ơn kêu gọi tất cả mọi người nên thánh, hành trình liên lỷ trong đời sống thiêng liêng, khao khát những đoàn sủng cao cả hơn và một đức bác ái ngày càng cao và phong phú hơn (Xc 1 Cr 12,31-13-13). Sự quan tâm đối với nhau có mục đích là thúc đẩy nhau tiến đến một tình yêu thương thực sự hữu hiệu ngày càng mạnh mẽ hơn, ”như ánh sáng bình minh gia tăng huy hoàng cho đến chiều” (Cn 4,18), trong khi chờ đợi sống ngày không bao giờ tàn trong Thiên Chúa. Thời gian được ban cho chúng ta trong cuộc sống thật là quí giá để khám phá và chu toàn việc lành, trong tình yêu Thiên Chúa. Như thế chính Giáo Hội tăng trưởng và phát triển để đạt tới sự trưởng thành trọn vẹn của Chúa Kitô (Xc Ep 4,13). Chính trong viễn tượng tăng trưởng năng động như thế có lời chúng ta khuyên bảo và khích lệ nhau đạt tới tình yêu viên mãn và các việc lành. Đáng tiếc là vẫn luôn có cám dỗ sống trong nguội lạnh, bóp nghẹt Thánh Linh, từ khước không làm sinh lợi những nén bạc đã được ban cho chúng ta để mưu ích cho bản thân và tha nhân (Xc Mt 25,25ss). Tất cả chúng ta đã nhận lãnh những phong phú tinh thần hoặc thể chất hữu ích để chu toàn kế hoạch của Chúa, để mưu ích cho Giáo Hội và phần rỗi bản thân (Xc Lc 12,21b; 1 Tm 6,18). Các bậc thầy linh đạo nhắc nhớ rằng trong cuộc sống đức tin ai không tiến tức là lùi. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi luôn có tính chất thời, đó là hướng đến ”mức độ cao của đời sống Kitô” (Gioan Phaolô 2, Tông thư Ngàn Năm mới đang đến - 6/1/2001-, n.31). Sự khôn ngoan của Giáo hội - khi nhìn nhận và công bố chân phúc và sự thánh thiện của một số Kitô hữu gương mẫu-, cũng có mục đích khơi dậy ước muốn noi gương nhân đức của các vị. Thánh Phaolô nhắn nhủ: ”Anh chị em hãy thi đua quí chuộng lẫn nhau” (Rm 12,10). ”Đứng trước một thế giới đang đòi hỏi các tín hữu Kitô một chứng tá được đổi mới về tình yêu thương và lòng trung thành với Chúa, tất cả chúng ta cảm thấy sự cấp thiết phải nỗ lực thi nhau làm việc bác ái, phục vụ và làm việc lành (Xc Dt 6,10). Lời kêu gọi này đặc biệt mạnh mẽ trong mùa thánh chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh”. Với lời cầu chúc một Mùa Chay thánh thiện và phong phú, tôi phó thác anh chị em cho Đức Trinh Nữ Maria và thành tâm ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người. Vatican ngày 3 tháng 11 năm 2011 Biển Đức 16, Giáo Hoàng Lm. Trần Đức Anh OP (chuyển ngữ)
Trong các câu chuyện về quyền năng, sức mạnh và lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ qua các phép lạ, có lẽ câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện gây ấn tượng mạnh mẽ nhất về niềm tin của người thụ ân. Cần phải kể đến trước hết chính là thái độ khao khát tìm kiếm. Khi đã nhận biết quyền năng của Thiên Chúa, người phong hủi đã đứng lên, ra khỏi chính mình, bước đi và tìm gặp Đức Giêsu. Đây chính là điều kiện cần để có được Ơn Cứu Độ. Nó biểu hiện thái độ và niềm tin tưởng của anh vào Đấng mà anh nài xin. Hành động quì xuống và cất lời kêu xin, cũng chính là cử chỉ đẹp của một tâm hồn thuộc về Thiên Chúa. Hành động quì xuống, biểu hiện sự thành khẩn, van nài, cầu xin. Thế nhưng, ngôn từ xem chừng có vẻ thách thức như ra điều kiện: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” ( Mc 1, 40 ). Thật ra, đây là lời tuyên tín hết sức mạnh mẽ, thể hiện một sự thấu hiểu rất tường tận. Chỉ cần Thiên Chúa muốn, chỉ cần Thiên Chúa ưng thuận ra tay, thì căn bệnh nan y hiểm nghèo của anh đều biến mất. Không phải thử thách Thiên Chúa nhưng chính là tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Ngài. Và chính niềm tin mãnh liệt ấy đã khơi động lòng trắc ẩn của Đức Giêsu. Làm sao Ngài có thể không muốn ? Làm sao Ngài có thể cam lòng nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau của con cái nhân loại ? Làm sao Ngài có thể bỏ rơi tạo vật mà Ngài đã tác tạo và đang dùng cả cuộc đời, cả mạng sống cứu chuộc. “Tôi muốn, anh sạch đi !” ( Mc 1, 41 ). Vâng ! Thiên Chúa muốn chứ, Ngài có bao giờ dựng nên sự dữ, Ngài có bao giờ muốn sự ác tàn sát con người. Ngài chỉ muốn cho cái mình được sống và sống dồi dào, đó là ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ muốn mất một ai, bỏ rơi một người nào. Tình thương của Thiên Chúa vô bờ bến, lòng kiên nhẫn, bao dung, quảng đại của Ngài cao cả, khôn lường. Hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người, chúng ta mới có thể đặt niềm tin vào nhân loại. Học nơi Chúa bài học kiên nhẫn, bao dung, chúng ta mới có thể tha thứ, chờ đợi tha nhân hối cải. Thế giới ngày nay, có biết bao căn bệnh nan y tâm hồn, những con người cao ngạo, coi thường Thiên Chúa, xem rẻ nhân phẩm, lương tri, đánh mất lòng tự trọng về bản thân cũng như tha nhân, để rồi gây ra biết bao điều đồi bại, gieo rắc muôn vàn sự dữ vào cuộc sống. Nếu chỉ nhìn vào những tiêu cực, thế giới sẽ đánh mất niềm tin vào tương lai. Nhưng đặt niềm tin vào con người, bản thân sẽ gặt nhiều thất vọng. Thế nên, chỉ còn Thiên Chúa mà thôi, chỉ còn biết tín thác và trông cậy vào một mình Ngài, là vua vũ trụ, là chủ tâm hồn, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thay đổi bộ mặt thế giới. Càng tin vào Thiên Chúa, càng xác tín vào quyền năng Thiên Chúa bao nhiêu, người thụ ân càng mạnh dạn tuyên tín bấy nhiêu. Nhận được sức mạnh của Ngài, người phong hủi đã mạnh mẽ rao truyền, mặc cho lời căn dặn, nghiêm cấm của Đức Giêsu: Người nghiêm giọng và đuổi anh đi ngay… ( x. Mc 1, 43 ); cũng như Thiên Chúa, Ngài không thể không yêu thương, vì tình yêu là bản chất của Thiên Chúa, thì kẻ thụ ân, không thể không rao truyền tin vui cứu độ. Bất kỳ tín hữu Kitô nào, cũng đều là người thụ ân, nhưng trong đời sống, trong tư tưởng, hành động, không có sự hiện diện của Thiên Chúa, đều trở nên kẻ vô ơn ! Giàu sang, tài năng, hay danh phận… không quyết định vận mạng con người, nhưng chính hành động sống là biểu chứng hùng hồn cho một con người có thuộc về Thiên Chúa hay không, có mang danh Thiên Chúa hay không, có mặc áo cưới nước trời hay không ? Lạy Chúa, có bao giờ Ngài không muốn cho con được sạch ? Có bao giờ Ngài muốn cho sự dữ tràn ngập thế gian ? Vậy mà hàng ngày, mỗi ngày không biết bao nhiêu kẻ phong hủi tâm hồn đang sa lầy vào hố sâu tội lỗi, ngoan cố không nhìn nhận quyền năng và sức mạnh Thiên Chúa, khiến cho xã hội, và cả Giáo Hội bị suy yếu vì lây nhiễm những thói hư tật xấu. Xin Ngài giúp con biết nhìn lại mình, khiêm nhượng cậy nhờ ơn thánh sủng biến đổi con nên trong sạch trước nhan Thiên Chúa. Chớ gì, hành trình trần thế chính là con đường Ngài muốn con đi, loan báo tin vui cứu độ bằng chính hành động sống của mình, trong niềm tín thác hân hoan: Thiên Chúa muốn… thế giới được sạch ! M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
Chúa Giêsu chữa một người cùi. Thấy Chúa Giêsu trước cổng làng, anh chạy đến quì xuống trước mặt Ngài và nài xin : “ Thưa Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy cho con lành sạch”. Chúa Giêsu động lòng thương và đặt tay trên anh và nói : “ Tôi muốn, anh hãy lành sạch”. Tức thì anh cùi được lành sạch. Theo luật Do thái, người cùi phải được cách ly khỏi gia đình và cộng đoàn, phải sống trong những vùng không có người, và nếu đi đến đâu có người thì phải hô to lên cho người ta tránh. Có lẽ gia đình cũng tiếp tế nhưng không ai được phép lại gần. Người cùi nào chạm vào người hay vật nào thì người đó và vật đó đều bị ô uế. Hoàn cảnh người phong cùi trong xã hội Do thái thật khốn khổ. Họ được xem như những người bị Chúa chúc dữ, bị ô uế. Không phải chỉ bệnh cùi mà những bệnh ngoài da lan ra cả thân mình thì cũng phải bị loại trừ như thế. Khi khỏi bệnh lại phải trình cho các tư tế kiểm nhận mới được hội nhập vào cộng đoàn và gia đình. Những người bệnh Aids hôm nay cũng tương tự như vậy vì người ta sợ bị truyền nhiễm. Hiện nay, dù người ta đã hiểu về bệnh Aids, nhưng vấn đề kỳ thị vẫn còn. Chúng ta không thể tưởng được sự khốn khổ của những người cùi trong xã hội Do thái thời bấy giờ. Họ bị kỳ thị, bị bỏ rơi, bị khinh miệt vì bị Chúa chúc dữ. Thấy Chúa Giêsu, anh chạy đến với Ngài. Đó là một hành động táo bạo vì anh có thể bị xua đuổi và ném đá. Anh đã bạo gan chạy đến quì xuống trước mặt Chúa và nài xin: “ Nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho con lànhsạch”. Chúa Giêsu không những không xua đuổi nhờm gớm anh mà ngược lại Ngài “ động lòng thương, đặt tay lên anh và nói : “Tôi muốn, anh sạch đi”. Thánh Máccô không nói lúc đó có ai chứng kiến, cũng không nói đến các môn đệ đang đứng đó với Ngài. Hình như thánh sử chỉ muốn chú ý đến hành động lạ lùng của Chúa mà thôi. Chạm đến người cùi, Chúa Giêsu bị ô uế, nhưng Ngài làm như không để ý đến điều đó. Ngài tỏ ra thương cảm hoàn cảnh của anh cùi hơn. Anh cùi nầy đã nhìn Chúa Giêsu như thế nào để có thể hành động như thế ? Anh không được nghe Ngài giảng vì không thể chen vào đám đông, sao anh biết Ngài có thể chữa bệnh ? Có lẽ người nhà đã cho anh biết chăng, nhưng một điều lạ lùng là anh đã tin vào Ngài, tin một cách mãnh liệt: “ Nếu Thầy muốn”. Việc chữa lành nầy là do ý muốn của Chúa chứ không do một yếu tố nào khác. Anh cũng biết rõ bệnh tình của anh, là bệnh nan y, không ai có thể chữa được. Khi xin chữa, anh đã nhìn nhận một quyền phép lạ lùng nơi Chúa Giêsu. Đáp lại, Chúa Giêsu tiếp đón anh với tất cả lòng thương cảm. Ngài đặt tay lên anh, một cử chỉ hết sức thân tình, đồng thời Ngài cũng chứng tỏ quyền năng của Ngài: “ Tôi muốn, anh hãy lành sạch”. Bệnh cùi biến tan ngay lúc đó. “ Tôi muốn”. Lời nầy chính là lời quyền phép, không phải của một con người mà của một Đấng có quyền trên mọi sự. “ Tôi muốn”. Có cái gì mạnh mẽ phi thường nơi tiếng nói ngắn ngủi nầy.Đây là lệnh và hiệu quả rõ ràng không đợi chờ. Anh cùi được lành sạch. Lòng thương cảm là một trong những nét đặc thù của Chúa Giêsu. Ngài đến trong trần gian là vì chúng ta, vì muốn cứu vớt chúng ta chứ không vì một lý do nào khác.
Chúng ta lại gặp từ “ Lập tức” của Thánh Máccô. Nó mang tính cách siêu thời gian và không gian. Những hành động của Chúa Giêsu vượt mọi ranh giới, đó là hành động của Thiên Chúa trong thời gian. Chữa bệnh, đối với Chúa Giêsu là một giải thoát. Ngài giải thoát con người khỏi bệnh tật thì Ngài cũng giải thoát chúng ta khỏi bệnh phong cùi của tâm hồn. Ngài thương cảm anh cùi như thế nào, Ngài cũng thương chúng ta như thế. Muốn lành bệnh, chúng ta hãy đến với Ngài, tin vào Ngài như anh cùi kia. Anh ấy đã tin vào Chúa gần như tuyệt đối. Chúng ta có tin không ? Có lẽ chúng ta cũng tin, nhưng đức tin của chúng ta còn mơ hồ, còn chao đão. Rất nhiều người không dám tin. Rất nhiều người sợ Chúa hơn tin Chúa, hơn yêu Chúa. Họ mang mặc cảm tội lỗi nào đó, làm như Chúa chỉ là một Đấng xử phạt nghiêm khắc hơn là một Thiên Chúa nhân từ. Họ nghĩ rằng họ bất xứng. Vì thế việc giữ đạo biến thành một gánh nặng làm họ rên siết. Một số người khác lại nghi ngại, nghĩ rằng : tôi tội lỗi nhiều quá biết Chúa có thứ tha cho tôi không ? Như thế là không tin tưởng vào vào lòng thương xót Chúa. “ Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu của Ngài được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu. Tình yêu của Ngài không ranh giới. Chúa Giêsu không sợ bị ô uế khi chạm đến anh cùi. Ngài chấp nhận bị ô uế vì anh. Chúng ta hãy vui mừng loan báo tất cả những gì Chúa đã làm cho chúng ta. Nhiều người không nhìn thấy những điều kỳ diệu Chúa làm cho mình, chỉ vì chúng ta quá lơ đảng, và đức tin của chúng ta đã xuống dốc, và con mắt chúng ta cần phải đi bệnh viện nhãn khoa. Chúng tôi không cần kể ra những điều kỳ diệu của Chúa. Chỉ cần một chút chú tâm. Mọi sự đều kỳ diệu và điều kỳ diệu trên hết là Thiên Chúa đã đến với chúng ta trong trần gian nầy. Một đặc điểm khác của Chúa Giêsu là cấm không cho những người được chữa lành nói cho người khác biết. Đối với anh cùi, sau khi chữa anh lành sạch, Chúa đuổi anh đi ngay và bảo đừng nói gì cho ai mà chỉ đi dâng lễ vật như Luật buộc mà thôi. Tại sao ? Chúng ta có thể hình dung niềm vui của anh cùi khi được khỏi bệnh. Có lẽ anh đã reo lên mừng rỡ, vì thế Chúa Giêsu sợ người Do thái hiểu lầm về sứ mệnh của Ngài. Dân Do Thái đang nóng lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Nỗi chờ mong đó như một khối than hồng đang vùi dập dưới tro, chỉ cần một hành động nhỏ cũng có thể bùng lên. Ngài đến để cứu vớt thế gian, nhưng trong khiêm hạ và bằng cái chết. Sứ mệnh của Ngài không phải là chinh phục và thống trị thế giới mà là “ ban mạng sống”. Khi Ngài chết và sống lại, sứ mệnh của Ngài mới thực sự được kiện toàn. Đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu. Cũng còn quá sớm để tỏ lộ sứ mệnh đó. Ngài dọn đường để từ từ người ta khám phá ra nhân cách và sứ mệnh cứu độ của Ngài. Theo kiểu nói thời nay, Ngài ý thức hóa dân chúng để họ hiểu đúng không lệch lạc về sứ mệnh của Ngài. Vì thế Ngài luôn bảo những người được chữa lành đừng tiết lộ gì cả. Nhưng làm sao im lặng được khi niềm vui trào tràn ? Anh cùi kia làm sao im lặng khi thấy mình khỏi bệnh ? Chúa Giêsu đã bị ô uế khi Ngài chạm đến anh cùi, vì mọi sự đã bị tiết lộ. Ngài không vào làng được, Ngài đi về vùng hoang vắng… Nhưng dân chúng lại tìm theo Ngài. Hôm nay, “bí mật” của Ngài không còn là bí mật nữa, trái lại “ phải la lên trên mọi mái nhà” những gì Ngài đã làm trong vùng đất chật hẹp không mấy ai biết đến. Hôm nay, chúng ta không có quyền im lặng nữa: “ Chúng tôi không thể không nói”.Chúng ta hãy làm như lời Chúa căn dặn người bị quỷ ám ở Ghêraxa: “ Con hãy về nói cho mọi người biết những gì Chúa đã ban cho con”. Anh cùi đã tin và lòng tin của anh được ân thưởng. Lời cầu xin của anh là mẫu tuyệt hảo của cầu nguyện. Đến với Chúa, chúng ta chỉ mang đến cho Ngài tấm thân tiều tụy của chúng ta, chúng ta có gì đáng kể ? Cầu nguyện như anh cùi là hoàn toàn trao phó cho quyền năng Chúa : “ Nếu Thầy muốn…” Lời cầu xin nầy xuất phát từ một tâm hồn nhận thấy mình không là gì cả, chỉ biết tin cậy thôi. Lời cầu xin nầy dẫn chúng ta đến một lời cầu xin khác: “Lạy Cha, nếu có thể được… xin cho con khỏi uống chén nầy”. Hoàn toàn trong trắng, không vẩn đục vì một đòi hỏi nào. Hoàn toàn để cho Chúa quyết định. Hôm nay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu với tâm hồn đầy thương tích của chúng ta, Ngài có mặt nơi bàn thờ nầy, Ngài đang chờ đợi chúng ta. Hãy tin cậy hoàn toàn vào lòng thương của Ngài. Hãy đến ăn lấy Ngài vì chính Ngài muốn như thế, và chúng ta có thể tin tưởng rằng Ngài sẽ chữa lành bệnh phong cùi của tâm hồn chúng ta. Và chúng ta sẽ vui mừng cao rao danh Ngài trên khắp nẻo đường chúng ta đi. Linh mục Trầm Phúc