Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-B Bài 1-50 Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền
------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 21-28: “Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. (Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ. Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”. Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Đoạn Tin Mừng hôm nay là một trong nhiều trường hợp đề cập đến thần dữ hay ác thần, tức: TN4-B1
Đoạn Tin Mừng hôm nay là một trong nhiều trường hợp đề cập đến thần dữ hay ác thần, tức là ma quỷ. Ma quỷ thế nào ? Ngày nay chúng còn hoạt động trên trần gian không ?
Trước hết, thiết tưởng cần phân biệt ma và quỷ. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt Nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma quỷ. Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe dọa hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn quỷ là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đày xuống hỏa ngục. Như vậy, ma có không ? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xảy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Chúa, để đương sự nhắn bảo một điều gì đó với người sống, hay do ủy nhiệm riêng Chúa trao phó cho đương sự, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn quỷ thì sao ? Phải công nhận là có, vì Kinh Thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ.
Như vậy, quỷ có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này. Nhưng sự xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo, nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Đây là một thứ thái cực mới đi ngược lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia, khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những thế lực ghê gớm, gây “kinh hồn táng đởm” cho nhiều người, thậm chí lại còn nhìn thấy chúng ở khắp nơi nữa. Còn bây giờ, khoa học tiến bộ vượt mức, người ta lại cho ma quỷ là một chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì với cuộc đời con người tại thế.
Phải công bình nhận định rằng: khoa học đã có tác dụng lớn lao trong việc trừ ma đuổi quỷ ra khỏi xã hội con người. Ở đâu dân trí được nâng cao, đời sống văn minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, với bóng cây đa cổ thụ mà người ta thường tin là nơi có ma quỷ ngự trị, chỉ cần sửa sang lại đường sá, dựng lên mấy cột điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình tự hay thẩn thơ hóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. rõ rệt nhất là ở thành thị, ít ai nghe nói chỗ này chỗ kia có ma có quỷ, trẻ con có thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Nhưng ở thôn quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối, không chỉ trẻ con mà cả người lớn, không dám ra ngoài ngõ, nhất là nếu gần đấy có nghĩa địa hay mồ mả nào đó, thì người ta lại càng sợ hãi hơn nữa.
Muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta, điều chắc chắn là quỷ có thực và không chỉ coi thường hoạt động cũng như sự phá hoại của chúng trên đời sống con người ở trần gian này… Dĩ nhiên cũng phải nói ngay: ảnh hưởng và sức phá hoại của chúng nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn, nên chúng ta cũng cần đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng.
Tuy nhiên, chúng ta chớ lầm và đừng vội gán cho Satan, đổ lỗi cho quỷ dữ tất cả những gì xấu xa trong cõi loài người. Kinh thánh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ. Nhưng một điều đáng suy nghĩ là đối với Đức Kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em mình thực hiện sứ mệnh Thiên Chúa, người ấy cũng đáng gọi là Satan, đối thủ hay là kẻ cám dỗ. Chứng cớ là thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng, gọi là Satan, khi ông tỏ ý ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người.
Câu chuyện thánh Phêrô bị quở mắng và bị coi là Satan làm chúng ta nghĩ đến những câu chửi rủa mà người Việt Nam hay dùng như: “đồ quỷ”, “thằng quỷ”. “con quỷ”, “quỷ sứ”, “nó ra ma ra quỷ”, “đến quỷ cũng phải chịu mày”… Những câu chửi rủa đó thường được áp dụng cho những kẻ nghịch ngợm. Thì ra người Việt Nam cũng đã khám phá ra rằng: ngoài thứ quỷ mà Kinh Thánh nói tới, còn có những thứ “quỷ đen đầu: có thực, bằng xương thịt, sống bên cạnh chúng ta hằng ngày, đó chính là những người anh em nhân loại của chúng ta.
Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, không phải là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là những đồ “nội hóa”, được sản xuất ngay từ nội tâm mỗi người. Chúng ta không dè rằng Satan, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ, nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái.
Bởi thế, vấn đề quan trọng không phải là cái gì cũng đổ lỗi cho quỷ, trái lại, mỗi người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương. Chúng ta không nên quá sợ hãi quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết, tự mình đừng bao giờ xúi giục, cám dỗ anh em làm điều xấu, điều ác, điều tội lỗi; đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến cho chúng ta.
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên: TN4-B2
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ?”. Trên thực tế, điều mà người đàn ông đó đang nói là “Hãy để mặc tôi ! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương hoặc săn sóc”.
Đây là một tiếng kêu mà chúng ta đã từng được nghe trong Tin Mừng, từ những người cho rằng mình bị quỉ dữ chiếm hữu. “ Đừng can thiệp vào chuyện chúng tôi. Hãy để mặc chúng tôi. Đừng tìm cách thay đổi chúng tôi “. Họ nhận ra rằng sự thay đổi đó gây đau đớn. Chúng ta không biết rằng họ có bị quỉ dữ chiếm hữu hay không. Nhưng chúng ta biết rằng họ là những người bị bệnh hoạn, đổ vỡ, cô độc, không được yêu thương, không hề có nhân phẩm, và giá trị bản thân của họ là con số không.
Trong thế giới của chúng ta ngày nay, có nhiều người như vậy – trong các nhà tù, bệnh viện tâm thần v.v… Bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể lâm vào tình huống đáng tuyệt vọng này. Ít nhất, người đàn ông trong hội đường đã không cố gắng che giấu tình trạng của mình. Anh ta đến với Đức GiêSu. Người không hề lảng tránh sự kêu gọi đầy tuyệt vọng của anh ta. “ Hãy để mặc tôi ! “. Đức Giêsu nghe thấy rằng đó là một tiếng kêu gọi sự giúp đỡ. Và người đã chữa lành cho anh ta.
Người cảm thấy thật khó mà thừa nhận rằng họ không thể xoay xở được, đối với những vấn đề của bản thân mình. Lòng tự hào nói với họ rằng: ta nên tự giải quyết những vấn đề của mình. Nhưng sự nhận ra mình có vấn đề chính là bước đầu tiên hướng tới sự phục hồi. Khi chúng ta biết thừa nhận sự yếu đuối và nhu cầu của mình, thì sẽ mở lối cho sự phục hồi. Những người can đảm mới đi xin cố vấn.
Các nhà tâm lý học nói với chúng ta rằng đôi khi, người ta không thực sự mong muốn được chữa trị. Tại sao vậy ? Bởi vì việc chữa trị gây đau đớn – Điều này lôi kéo theo một quá trình đòi hỏi nhiều sự thay đổi, và tất cả những sự thay đổi đều đau đớn. Ý tưởng được phục hồi thậm chí càng có thể khủng khiếp hơn nữa.
Thông thường, chúng ta hay e sợ khi phải nói về một điều gì đó gây đau lòng cho chúng ta. Chúng ta muốn khóa chặt trong tâm hồn mình, để rồi lại cứ day dứt mãi. Có thể chúng ta không nói rằng “Hãy cứ để mặc tôi” nhưng như thế, chẳng khác gì câu nói “bạn không thể biết được, bạn không thể hiểu được tôi đâu”. Chịu đựng đau khổ mà không chịu nói ra, lại càng gây tổn thương hơn, so với nỗi đau khổ nào được bộc lộ ra.
Vừa khi đứa con trai chào đời, một bà mẹ trẻ khám phá ra rằng cháu bé bị mù. Chị gọi cả gia đình lại và nói: “tôi không muốn con trai tôi biết cháu bị mù”.Chị khẩn khoản xin mọi người tránh sử dụng những từ như “ánh sáng”, “màu sắc”, và “tầm nhìn”, đứa trẻ lớn lên, trong niềm tin tưởng rằng mình giống như tất cả những người bình thường khác, cho đến một ngày kia, một bé gái xa lạ nhảy qua bức tường của khu vườn, và đã sử dụng tất cả những từ bị cấm đoán trên đây.
Câu chuyện trên tượng trưng cho nhiều thái độ sống của chúng ta. Tất cả chúng ta đều tìm cách che giấu những điều kỳ lạ và gây đau đớn, và cứ sinh hoạt như thể mọi sự đều bình thường vậy. Chúng ta làm như mình không hề có vấn đề gì, không có gì là bất thường, không có nỗi đau, không có vết thương, không biết thất bại là gì cả. Ý tưởng thôi thúc người ta che giấu rất mạnh mẽ, và còn có thể gây tác hại hơn cả cố gắng giấu giếm.
Khi chúng ta có can đảm dám đương đầu với những vấn đề của mình, thì những năng lực mới mẻ trở nên sẵn có đối với chúng ta. Nỗi sợ hãi, xấu hổ, và mặc cảm tội lỗi làm cho chúng ta ở lại trong tình trạng cô lập. Chính nhờ sự bộc lộ những vết thương, nhờ để cho mình đụng chạm và được đụng chạm vào, mà chúng ta được chữa lành. Chính trong sự đổ vỡ của chúng ta, trong vết thương của chúng ta, mà Thiên Chúa chữa lành cho chúng ta – nếu chúng ta tạo cho Người một cơ hội.
Đoạn Tin mừng này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến câu 34: TN4-B3
1. Đoạn Tin mừng này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến câu 34, được gọi là “Một ngày ở Caphácnaum”, trong đó Mc liệt kê và mô tả những việc làm tiêu biểu của Chúa Giêsu trong một ngày. Việc thứ nhất là giảng dạy, việc thứ hai là trừ qủy. Đáng chú ý là Chúa Giêsu làm cả hai việc một cách rất uy quyền. 2. “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”: Khi giảng dạy, các rabbi do thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messsia.
3. Và cũng bằng uy quyền đặc biệt ấy, Đức Giêsu làm một hành động phi thường, là buộc qủy xuất khỏi một người bị nó ám.
4. Phản ứng của dân chúng: “Mọi người sửng sốt và bảo nhau thế nghĩa là gì”: Họ hỏi nhau về nét mới mẻ trong lời giảng của Ngài và về uy quyền đặc biệt của Ngài trên cả tà thần. Câu hỏi này cũng tương đương với câu hỏi “Ông là ai?”, là câu hỏi sẽ được lập đi lập lại mãi trong tác phẩm.
B...nẩy mầm.
1. Mở đầu hoạt động công khai của mình, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là nhằm thuyết phục người ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, quyền năng trong lời giảng dạy và trong hoạt động. Thái độ đầu tiên là phải có đối với Chúa Giêsu cũng là phải tin tưởng vào quyền năng của Ngài.
2. Nhưng tin tưởng không phải là tin suông và còn phải dám phó thác cho Ngài, đừng như câu chuyện sau:
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày khi trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và chỉ nghe được tiếng dội của người kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu qủa thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dội cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế.” “Không, Lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.” Tiếng ấy trả lời:”Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món qùa Giáng sinh”
3. Một bé trai hỏi bố:
- Qủy lớn hơn con không? - Lớn hơn - Qủy lớn hơn bố không? - Lớn hơn. - Qủy lớn hơn Chúa Giêsu không? - Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn qủy.
Chú bé thinh lặng rồi mỉn cười: “Vậy con không sợ qủy” (Góp nhặt)
Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ong đã hối cải, khi ông ý thức: TN4-B4
Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ong đã hối cải, khi ông ý thức rằng: ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị cháy hết nhà cửa, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân nghèo khó này định cho người nghèo một đùi gà dưới bếp. Ma qủi nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.
Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ong lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có”.
Chúng ta vừa nghe Chúa Giêsu đuổi ma quỉ ra khỏi người bị ám.
Thời đại chúng ta có nhiều chuyện liên quan đến ma quỉ, không những do những cuốn sách, những phim ảnh; gọi là “người trừ quỉ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỉ, mà còn do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng satan.
Thật là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng: ma quỉ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có ở trong tôi. Thực sự, ma qủi có mặt mọi nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi con người.
Người hà tiện trong câu chuyện đã đánh bại con quỉ keo kiệt. Nhưng vó vẫn còn cám dỗ ông keo kiệt tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.
Con quỉ kiêu hãnh ở trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài, nói được là mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp của riêng mình.
Quỉ mê ăn uống, nó cố gắng làm cho chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ. Nó không bao giờ từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ta khỏi tinh thần tiết độ.
Quỉ khoái lạc là một con quỉ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi, phim ảnh, tòa án ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng phải bị đánh bại. Hàng triệu người đã đánh bại nó.
Bất chấp ma quỉ đến với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể nương tựa vào đức Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỉ nhiều lần trong đời Ngài như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỉ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự phục sinh đã đem lại cho đức Kitô sự chiến thắng.
Trong mỗi thánh lễ, trận chiến long tròi, lở đất này tái diễn: đức Kitô chết – đức Kitô sống lại. Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi, được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi ma quỉ ra khỏi cuộc sống mỗi người. Hãy tìm kiếm con quỉ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của đức Kitô, bạn trục xuất hắn ra.
Câu chuyện Mác Cô kể lại vạch rõ một loạt nhiều bước hợp lý và tự nhiên. Qua sự xuất: TN4-B5
Câu chuyện Mác Cô kể lại vạch rõ một loạt nhiều bước hợp lý và tự nhiên. Qua sự xuất hiện của Gioan, Chúa Giêsu nhận biết tiếng gọi của Thiên Chúa để Ngài phải hành động. Chúa Giêsu nhận phép rửa và nhận dấu ấn của Thiên Chúa chúng tỏ Thiên Chúa tán thành và trang bị cho Ngài để thi hành nhiệm vụ. Chúa Giêsu đã chịu ma quỷ thử thách và đã chọn lấy phương pháp phải làm, con đường phải đi. Ngài chọn một số người để có những tâm hồn đồng lòng hiệp ý với nhau, để Ngài có thể viết lên đó những thông điệp của Ngài, và bây giờ, Ngài dứt khoát tung ra một chiến dịch. Nếu ai có một thông điệp của Thiên Chúa cần truyền giảng, địa điểm tự nhiên người ấy nhắm vào là hội Thánh, là nơi có những người thộc về Thiên Chúa họp mặt. Đó chính là việc Chúa Giêsu đã làm, Ngài bắt đầu chiến dịch của mình từ nhà hội.
Có vài điểm khác nhau căn bản giữa nhà hội và nhà thờ chúng ta được biết ngày nay.
1. Nhà hội là nhà trường để dạy đạo.
Một buổi họp lại trong nhà hội chỉ gồm ba việc: cầu ngyện, đọc lời Chúa và giảng dạy lời ấy. không có cử nhạc, ca hát cũng như không có dâng của lễ. Có thể nói đền thờ là nơi để thờ phượng và dâng của lễ,còn nhà hội là nơi dạy dỗ chỉ bảo. Nhà hội là nơi có ảnh hưởng lớn lao hơn hết, vì chỉ một đền thờ duy nhất, đền thờ tại Giêrusalem. Luật pháp quy định rằng bất cứ nơi nào có mười gia đình người Do Thái thì phải có một nhà hội, do đó, bất kỳ một nơi nào có người Do Thái định cư thì có nhà hội. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì nhà hội đúng là nơi để người ấy trình bày.
2. Nhà hội tạo cơ hội cho người ta truyền rao một sứ điệp như thế.
Nhà hội có một số viên chức. Có chủ nhà hội, ông ta có nhiệm vụ quản trị mọi việc của nhà hội và thu xếp các buổi họp. Có người phân phát của bố thí. Hằng ngày có người thu góp tiền mặt và hiện vật do nhiều người bố thí. Sau đó chúng được phân phát cho người nghèo, nhưng người nghèo nhất được cấp thực phẩm bốn bữa ăn một tuần. Có vị Chazzan vẫn quen gọi là người phục vụ, vị này có nhiệm vụ lấy ra và cất vào những cuốn sách Thánh, trong đó kinh điển được viết ra, vị ấy cũng quét dọn nhà hội, thổi chiếc kèn bằng bạc để loan báo ngày sa bát, dạy cấp vỡ lòng cho trẻ em trong cộng đồng. Nhưng có một chức vị mà nhà hội không có, đó là người rao giảng hay giáo sư thường trực. Khi mọi người họp lại trong nhà hội và buổi họp bắt đầu, thì người chủ (cai) nhà hội có nhiệm vụ chỉ người có trách nhiệm giảng giải, trình bày kinh điển. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Chúa Giêsu có thể bắt đầu công việc của Ngài trong nhà hội. Việc chống đối vẫn chưa bùng lên thành thù ghét. Ngài được mọi người biết như người có thông điệp muốn rao truyền, do đó bất cứ nhà hội nào đều dành tòa giảng cho Ngài dây dỗ và mời gọi người đồng hương.
Khi Chúa Giêsu giảng dạy trong nhà hội, cả phương pháp lẫn bầu không khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Ngài không dạy như các thầy thông giáo là các chuyên viên về luật pháp. Các thầy thông giáo này là ai? Theo người Do Thái, điều thiêng liêng nhất trên đời này là luật pháp, kinh Torah. Trái tim của luật pháp là Mười Điều Răn, nhưng người Do Thái hiểu luật pháp là năm quyển đầu của Cựu ước mà gọi là Ngũ Kinh (Pentateuch). Theo người Do Thái luật pháp ấy hoàn toàn từ Thiên Chúa đến. Họ tin rằng luật pháp vốn được Thiên Chúa trực tiếp trao cho Môisê. Nó hoàn toàn thánh khiết và có tính hoàn toàn tuyệt đối.họ bảo “Ai nói kinh Torah không từ Thiên Chúa đến thì chẳng có phần gì trong thế giới tương lai cả”. “Kẻ nào bảo Môisê đã viết luật pháp theo hiểu biết riêng của ông dù chỉ một câu thôi, cũng là người chối bỏ và khinh bỉ lời Thiên Chúa”.
Nếu Luật Pháp vốn thiêng liêng như thế thì có hai sự việc nảy sinh: một là nó phải trở thành luật lệ tối cao cho đời sống đức tin, hai là nó phải hàm chứa tất cả những gì cần thiết để hướng dẫn, điều khiển đời sống. Nếu vậy Luật Pháp chỉ đòi hỏi hai điều: một là nó phải được nghiên cứu hết sức tỉ mỉ, cẩn thận; hai là Luật Pháp chỉ phát biểu những nguyên tắc quan trọng, tổng quát mà thôi. Nếu Luật Pháp hàm chứ phần chỉ dẫn và điều khiển cả đời sống, thì những gì chứa đựng trong đó có tính cách mặc nhiên chứ chưa phải là minh nhiên, nên cần được làm sáng tỏ. Các điều luật quan trọng phải được biến thành luật lệ và quy tắc như vậy luật mới được khai triển. Nhằm nghiên cứu và phát triển Luật Pháp, danh vị dành cho những người cao nhất trong giới họ là Rabi.
Các thầy thông giáo này có ba nhiệm vụ.
1. Họ căn cứ vào các nguyên tắc trọng đại trong Luật Pháp để khai triển thành luật lệ và quy tắc hầu ứng dụng cho mọi tình huống có thể xảy trong đời sống. Thật đây là một nhiệm vụ không cùng, Do Thái bắt đầu các nguyên tắc trọng đại, nó kết thúc bằng hằng hà sa số luật lệ và qui tắc. Nó bắt đầu bằng một tôn giáo, nhưng kết thúc bằng Luật Pháp chủ nghĩa.
2. Nhiệm vụ của các thầy thông giáo là tryền dạy Luật Pháp và phần khai triển của nó. Các luật lệ qui tắc lấy ra từ đó và được suy diễn ra và chẳng bao giờ được viết trên giấy trắng mực đen, chúng được gọi là Luật Pháp tryền miệng. Tuy chẳng bao giờ được viết ra nhưng chúng lại có tính cách trói buộc hơn cả luật thành văn. Chúng được lưu truyền thuộc lòng từ thế hệ thầy thông giáo này cho tới thế hệ thầy thông giáo kia. Người học trò là người có trí nhớ như “một cái giếng được rót bằng đá vôi không làm mất đi giọt nào cả”.
3. Sau cùng các thầy thông giáo có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện tụng mà theo luật lệ tự nhiên và hết sức thực tiễn, một vụ kiện như vậy đều tạo ra những luật lệ mới.
Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với lời dạy dỗ của các thầy thông giáo ở chỗ nào? Ngài giảng dạy cách có quyền, không có thầy thông giáo nào dám tự quyềt định điều gì cả. Ông chỉ nói “căn cứ theo lời dạy rằng…” rồi lấy từ đó ra tất cả uy quyền cho mình. hễ nói ra một lời là ông dựa vào câu này, câu nọ được ông trích dẫn lại, từ những bật thầy về luật pháp mà thiên đã coi trọng trong quá khứ. Việc cuối cùng mà ông ta chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán cá nhân, độc lập. Thật khác xa với Chúa Giêsu, khi Chúa phán dạy, Ngài nói như trên Ngài không có quyền nào khác. Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu. Ngài không trích dẫn, không dựa vào quyền uy của một chuyên viên nào cả, Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa. Dối với dân chúng, nghe một lời giảng dạy như vậy chẳng khác nào được một làn gió dịu mát từ Thiên Đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng địng và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn của các thầy thông giáo. Giọng nói đầy uy quyền cá nhân cứ ngân vang, và chính giọng nói ấy đã bắt người nghe phải qui phục.
Ma quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm: TN4-B6
Ma quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm cho con người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…
Cha thánh Vianney là một thí dụ. Quỉ thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng đinh xuống nền nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:
- Tôi đã nghe nó bảo rành mạch: Hỡi Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.
Dần dần tôi cũng quen với sự quấy phá của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.
Thật ra chúng ta không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên sợ Satan đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến chúng ta thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang phụng sự Thiên Chúa.
Vậy phải cảnh giác trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó.
Con đường dẫn tới Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều người tín hữu hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.
Nếu đọc lại Phúc âm chúng ta sẽ thấy ma quỉ quả thực là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động nhằm làm băng hoại con người. Nó không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là một quyền lực cụ thể đang bành trướng trong thế giới.
Người ta có thể gọi quyền lực này là Belzebuth, là Lucifer, là con rắn xưa, là tên dối trá, là kẻ cám dỗ… Tất cả chỉ là một thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ.
Cần phải nhận ra quyền lực của ma quỉ để hiểu được cái mỏng giòn yếu đuối của thân phận con người, và từ đó đón nhận ơn giải thoát của Đức Kitô…
Ma quỉ đúng là một kẻ thù mạnh mẻ đáng gờm, nhưng may mắn thay, Đức Kitô còn là người mạnh mẻ hơn nó nhiều. Ngài đã phục sinh ngay lúc tử thần đang huênh hoang vì đã tiêu diệt được Ngài.
Chiến thắng của Ngài là bảo đảm cho chiến thắng của nước Thiên Chúa vào ngày sau hết và cũng là bảo đảm cho chiến thắng của chúng ta hôm nay, giữa những cuộc đối đầu với tên thủ lãnh của thế gian này. Satan đưa chúng ta vào vòng nô lệ, còn Đức Kitô thì giải thoát chúng ta.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao nhiêu xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người không nhận ra. Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc, nô lệ cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho mọi thứ cuồng tín tôn giáo.
Khi nhìn vào bản thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của ma quỉ, mặc dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày qua giác quan, qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan lệch lạc…hãy chạy đến với Chúa và kêu cầu:
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Ralph Waldo Emerson chiếm vị trí như là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào: TN4-B7
Ralph Waldo Emerson chiếm vị trí như là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào thế kỷ 19. Vốn là một học giả, một nhà văn tiểu luận và một thi sĩ gây ảnh hưởng rộng rãi, ông trở nên một trong những tiếng nói quan trọng nhất trên quê hương ông. Ông là một kẻ thù ác liệt của sự nô lệ và thối nát về mặt chính trị. Một trong những bài tiểu luận của mình, ông nói một điều gì đó rất phù hợp dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay:
“Tôi chỉ biết rằng mình sống đến mức độ này mà thôi. Ngay khi chúng ta biết rằng những lời nói của người nào mang nặng hơi thở cuộc sống, thì ngay tức khắc, tôi học hỏi được từ bất cứ thuyết trình viên nào về lối sống của họ. Một người nói từ bên trong, hoặc từ kinh nghiệm, là sở hữu chủ của sự kiện; người nào nói từ bên ngoài, thì như một khán giả, hoặc như một người mới làm quen với những sự kiện dựa trên chứng cứ của một người thứ ba. Không cần phải rao giảng cho tôi từ bên ngoài. tôi có thể tự mình làm được điều đó”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc được rằng lối giảng dạy của Đức Giêsu đã “làm cho dân chúng sửng sốt, bởi vì người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Tại sao Đức Giêsu gây được tác động như vậy trên các thính giả của Người ? Bởi vì theo lối nói của Emerson, thì “ Đức Giêsu luôn luôn nói từ bên trong, và theo một mức độ vượt lên trên tất cả những người khác. Nhưng đây là cách thức mà mọi người nên luôn luôn áp dụng. Tất cả mọi người đều không ngừng trông đợi sự xuất hiện của một nhà giảng dạy giống như thế”.
Trong đời sống thiêng liêng, lối nghe gián tiếp ít có giá trị. Ở đây, người duy nhất nói với quyền năng, chính là người đã sống với điều đang nói đến. Không có quyền năng nào giống như quyền năng của người đã sống điều mà họ đang nói.
Ngay khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, ngay tức khắc dân chúng nhận ra rằng có một sự mới mẻ và trong suốt trong lời giảng dạy của Người. Mặc dù Người không có cùng một loại kiến thức giống như các kinh sư vào thời đó. Nhưng theo một cách thế nào đó, thì đây lại là một lợi thế. Van Gogh nói “Về một phương diện nào đó, thì tôi lại vui mừng vì mình không được học vẽ”. Có nhiều cách học hỏi hơn là từ trong sách vở. Trường đời thật là vĩ đại.
Điều này đã gây được ấn tượng nhiều nhất nơi nơi các thính giả của Đức Giêsu chính là quyền năng mà Người đã sử dụng khi giảng dạy, mặc dù Người không hề giữ một vị trí chính thức nào cả. Nhưng để có khả năng nói bằng năng quyền, người ta không cần phải giữ một vị trí chính thức nào. Trên thực tế, đôi khi sự thật còn trái ngược lại. Người giữ một cương vị chính thức không sống theo con người riêng của họ. Người đó bị bắt buộc phải thúc ép theo đường lối của đảng phái. Trong khi người không nắm giữ một cương vị chính thức nào, thì có quyền tự do để nói đúng điều cần phải nói.
Trong thời của Đức Giêsu, không có một kinh sư nào diễn tả được theo ý riêng của mình. Ông ta luôn luôn phải mở lời bằng cách nêu ra uy tín của mình. Ông ta dựa vào những lời trích dẫn từ các thày thông luật vĩ đại trong quá khứ, để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều cuối cùng mà ông ta làm được, đó là đưa ra một lời phê phán độc lập.
Đức Giêsu nói với tiếng nói của riêng Người, với quyền năng của bản thân Người. Người không hề biện hộ cho tất cả mọi điều mà Người nói, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh, hoặc câu nói của một vị thày thông luật khác. Điều đó sẽ chỉ càng chứng tỏ rằng người đó thiếu năng quyền mà thôi.
Về một khía cạnh, chúng ta phải phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, và về khía cạnh, phải phân biệt giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng vĩ đại nhất về mặt luân lý, lại không hề có sức mạnh; và có người gây ảnh hưởng nhất, lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.
Có một số người có tính ưu việt về mặt tinh thần, mà không thể giải thích được. Điều này đem đến cho họ năng quyền vĩ đại về mặt luân lý. Họ có được năng quyền này, không phải là do chức vụ mà họ nắm giữ, nhưng là do ở chính con người của họ. Đây là năng quyền vĩ đại nhất và cao cả nhất vượt lên trên tất cả mọi sự. Điều này bắt nguồn từ chính năng quyền của Thiên Chúa. Nếu không có được năng quyền này, thì người nắm giữ một chức vụ chỉ là một người thừa hành, chỉ là một người phát ngôn mà thôi.
Đức Giêsu đã có loại quyền năng này, với một mức độ mà không có bất cứ người nào khác đạt được. Mỗi người Kitô hữu, bất kể người đó nắm giữ một chức vụ gì, đều có thể và nên có loại quyền năng này – loại quyền năng xuất phát từ việc sống theo tính cách của một con người chính trực trong suốt.
Ngày nay, chúng ta có quá nhiều lời nói từ những nhân vật của quần chúng. Nhưng thật đáng: TN4-B8
Ngày nay, chúng ta có quá nhiều lời nói từ những nhân vật của quần chúng. Nhưng thật đáng chán khi có thể dự đoán được điều mà họ sẽ nói. Có quá ít người nói bằng quyền năng thực sự. Lúc này, thật vô cùng đáng nghi ngờ về những lời nói của những kẻ có quyền. Có thể người ta phải tuân theo những lời tuyên bố về mặt chính sách, nhưng không ai nghiêm túc coi họ như là những người có quyền năng.
Nếu có nhiều nhân vật của quần chúng bị thiếu mất sự tin tưởng của dân chúng thì điều gì gây tổn hại đến lòng tin ? Đó là khi người nói không còn tin tưởng vào lời mình đang nói nữa. Tôi không thể nói được một cách đầy đủ về điều mà tôi không tin tưởng, bất kể tôi thường xuyên lập đi lập lại những lời nói này đến thế nào.
Vậy thì tính cách của người nói rất quan trọng. nếu tính cách của người đó bị nhiều khuyết điểm, thì lòng tin của người đó bị xói mòn một cách trầm trọng. Bạn nhận thấy khó mà uống loại rượu nào được rót ra từ một cái lon đựng rượu đã bị rỉ sét hoặc dơ bẩn. Và khi người nói không sống theo những lời nói của bản thân mình, thì có lẽ đây là điều gây tổn hại nhất. Emerson đã nói về điều đó như sau: “Xin đừng nói nữa. Điều nào có giá trị trên con người của bạn, thì lại quá vang rền, đến nỗi tôi không thể nghe được điều trái ngược lại”.
Định mệnh vĩ đại trong sứ mạng của Đức Giêsu được dành cho việc rao giảng. Và lời giảng dạy của Người lại quá khác biệt, so với những người rao giảng chính thức vào thời đó – các kinh sư. Không có một kinh sư nào diễn tả ý kiến của riêng mình. Ông ta luôn luôn bắt đầu bằng cách nêu ra quyền năng của ông ta. Trái lại, Đức Giêsu nói bằng tiếng nói của chính Người, và Người không cần đến tiếng nói khác. Người không hề nêu ra năng quyền nào, và không hề trích dẫn câu nói của bất cứ chuyên gia nào, tuy nhiên, Người vẫn nói bằng một quyền năng vĩ đại. Người không hề có bất cứ chức vụ chính thức nào. Vậy thì quyền năng của Người xuất phát từ đâu ? Năng quyền đó đến từ sự kiện là Người đã nói lên sự thật: “Một lời nói sự thật đáng giá cả thế giới” (Ngạn ngữ Nga). Ngoài ra, lời giảng dạy của Người mới mẻ, trực tiếp và có sự trong suốt về sự thật. Chẳng hạn một số câu nói như “Không ai có thể làm tôi hai chủ được… Một thành phố xây dựng trên núi không thể che giấu được… Con lạc đà không thể chui qua lỗ kim…”
Lời giảng dạy của các kinh sư không đem lại thỏa mãn cho dân chúng. Còn lời giảng dạy của Đức Giêsu lại nuôi dưỡng được tâm hồn và tinh thần con người. Có một số người giảng dạy chỉ cung cấp các sự kiện mà thôi. Người khác lại cung cấp được tầm nhìn, cảm hứng và ý nghĩa cuộc sống nữa. Và tất nhiên là năng quyền của Đức Giêsu xuất phát từ tính cách của Người một tính cách khiến cho dân chúng buộc phải lắng nghe Người. Thế rồi lại có lúc Người chứng tỏ lời nói của Người bằng những hành động cụ thể. Mặc dù thánh Marcô nói rằng “Dân chúng sửng sốt vì lời giảng dạy của Người”, ngài không kể cho chúng ta nghe Đức Giêsu nói gì. Dường như điều này lại càng chứng tỏ rằng con người của Đức Giêsu chính là một bài giảng rồi. Vào một buổi sáng sớm, có một người đàn ông đang đi dạo bên ngoài. Bầu trời trong sáng. Ông ta nghe được tiếng ồn của một máy bay phản lực tại một nơi nào đó. Ông dừng chân nhìn xem, để có thể xác định vị trí. Dõi theo âm thanh, ông nhận thấy dường như chiếc máy bay đó ở ngay trên đầu ông. Nhưng không phải vậy, ông đã tìm kiếm, và không thấy máy bay đâu cả. Thật ra ông nhìn thấy một vết hơi nước trên bầu trời. Nhìn theo dấu vết này, cho đến tận nơi xuất phát của nó, ông phát hiện ra chiếc máy bay – một hình tam giác màu trắng có thể nhìn thấy được một cách rõ ràng trên vòm trời xanh. Chiếc máy bay đã bay đi xa rồi, trong khi âm thanh của nó vẫn còn ở ngay đầu ông. Nhưng âm thanh đó quá lớn, để có thể đánh thức được cả kẻ chết.
Theo một cách nói, chiếc máy bay đã hành động trước, rồi phát ra âm thanh sau. Nói một cách lý tưởng, đây là cách rất hay – hành động nên đến trước lời nói. Người ta sẽ lắng nghe, nếu một người bắt đầu nói, sau khi đã hoặc đang làm một việc gì đó. Những lời nói của người này thật nặng ký. Những lời nói đó có quyền năng thực sự. Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng người ta sẽ tin tưởng việc bạn làm. Nhiều lời nói không có tác dụng, vì trước đó, hoặc đồng thời, hoặc sau đó, không có những hành động đi đôi với lời nói.
Trong những lời nói của Đức Giêsu, có của ăn nuôi dưỡng cuộc sống của chúng ta. Nhưng chỉ lắng nghe mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải sống theo Lời Chúa nữa. Nếu không sống theo sự thật, thì chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai ? Tôi xin thưa Ngài là một: TN4-B9
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai ? Tôi xin thưa Ngài là một người như chúng ta.
Trước hết Ngài đã có một quê hương và quê hương Ngài là làng Nagiarét.
Đây là một thôn làng nhỏ bé quây quần chung quanh một cái giếng duy nhất. Thôn làng này không có chi nổi bật, nếu không phải là người ta đã có một chút châm biếm và khinh dể khi nghĩ về nó:
- Từ Nagiarét nào có sự gì tốt đâu.
Tiếp đến, Ngài cũng có một gia đình. Gia đình Ngài gồm có thánh Giuse, Mẹ Maria và Ngài. Thực vậy, người ta thường gọi Ngài là con bác thợ mộc Giuse. Nghề thợ mộc là một nghề lặt vặt và đa dạng. Vừa xây cất nhà cửa, vừa đóng bàn đóng ghế và sửa chữa những gì hư hỏng. Có lẽ vào khoảng 12 tuổi, Chúa Giêsu đã học nơi thánh Giuse nghề nghiệp này để kiếm sống.
Mẹ Ngài là Đức Maria, người đã giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của Ngài. Mẹ Maria đã hòa nhập vào sinh hoạt của dân làng nên mọi người đều biết đến.
Cũng như những gia đình khác, Chúa Giêsu có một tổ tiên, một gia phả. Trong cuốn sổ gia phả này, chúng ta thấy xuất hiện những khuôn mặt không mấy tốt lành. Điều đó muốn nói lên rằng Chúa Giêsu đến để mang lấy tội nhân loại, Ngài muốn mang lấy những đau khổ mà chính chúng ta gặp phải, từ phía gia đình cũng như xã hội. Ngài đã trở nên một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: có một quê hương, có một gia đình và có một tổ tiên.
Thời bấy giờ, người ta chưa tổ chức được những trường học như ngày nay. Tất cả những gì Ngài biết, một phần do cha mẹ Ngài truyền dạy, một phần do Ngài lãnh nhận được ở hội đường. Tại đó mỗi ngày thứ bẩy, người ta đều cắt nghĩa Kinh thánh. Chúa Giêsu không phải chỉ hiểu một cách hời hợt, nhưng Ngài đã hiểu đúng ý nghĩa sâu xa của nó. Ngài sống một cuộc sống bình thường, ăn mặc như họ, nói năng như họ.
Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu giảng dạy thì những người bà con của Ngài đã ngạc nhiên và tự hỏi:
- Bởi đâu mà Ngài được như thế.
Thánh Giuse đã chết khi Chúa Giêsu còn trẻ, chính vì thế mà Ngài phải cáng đáng mọi công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình.
Khi được 30 tuổi, Ngài đóng cửa xưởng mộc, từ giã mẹ Ngài để lên đường rao giảng Tin Mừng. Bởi vì Ngài là Đấng Messia, người được Thiên Chúa sai đến. Ngài chia sẻ kiếp sống lầm than với mọi người. Có lần đói, Ngài đã muốn ăn một trái vả, có lần khát Ngài đã xin người phụ nữ Samaria cho mình một gáo nước. Cuộc sống êm đềm tại Nagiarét đã chấm dứt, bây giờ là những ngày tháng lang thang vất vưởng:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chỗ tựa đầu.
Có lần quá mệt mỏi, Ngài đã thiếp ngủ trên thuyền trong khi các môn đệ cố gắng chèo qua bên kia bờ hồ.
Chúa Giêsu đã chia sẻ một kiếp sống cùng khổ. Thế nhưng, nơi Ngài vẫn có một cái gì là đặc biệt vượt trên khuôn khổ bình thường ấy, vì Ngài chính là Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Là Thiên Chúa Đấng ở khắp mọi nơi, Ngài đã chấp nhận giới hạn trong không gian, cùng với những khổ đau mệt mỏi vì yêu thương chúng ta. Là Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu, Ngài chấp nhận có một lịch sử, bị giới hạn vào thời gian vì yêu thương chúng ta. Là một Thiên Chúa Đấng tạo hóa, Ngài đã học một nghề và đã vất vả để kiếm sống cũng vì yêu thương chúng ta. Chỉ với cặp mắt của tình thương yêu, chúng ta mới hiểu được điều đó.
Vì kiêu căng, con người muốn bước lên ngôi Thiên Chúa, thì giờ đây để chữa tội kiêu căng ấy, chính Thiên Chúa đã bước xuống phận con người.
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng: TN4-B10 Web
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta ? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên ? Vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa ? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích luỹ như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực…
Đàng khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế ? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một ngôi sao xấu. Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo Hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề đến mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa không yêu thương…, chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại: TN4-B11
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng Nước Ma Quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây:
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của Satan.
Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết. Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của Satan qua việc chữa bệnh.
Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Chúa Giêsu thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ. Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
Ngày 25 tháng 2 năm 1986, Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand Marcos và phu nhân Imelda: TN4-B12
Ngày 25 tháng 2 năm 1986, Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand Marcos và phu nhân Imelda bỏ xứ ra đi đến Hawaii với 22 thùng đựng toàn giấy bạc Phi trị giá 1 triệu 7 trăm ngàn Mỹ kim. Ngay sau đó dân chúng biểu tình đã tràn ngập vào dinh điện Malacanang, nơi làm việc và cư ngụ của ông Marcos trong 20 năm làm tổng thống. Đó là một lâu đài sang trọng và lộng lẫy. Có một phòng ngủ thật rộng lớn, gồm đầy đủ những dụng cụ ăn chơi giải trí. Riêng bồn tắm bên trong phòng ngủ của bà Imelda, cựu hoa hậu, vợ ông Marcos, dài 3 mét, xung quanh lát kính phản chiếu, với một bình nước hoa 4 lít được chế tạo tại Paris mang nhãn hiệu “Đệ nhất phu nhân”. Những phòng chứa quần áo sang trọng của bà to lớn như cửa tiệm Bloomingdale ở Mỹ, với 3000 đôi giầy đủ kiểu, đủ mầu, 3000 chiếc quần lót mới tinh, trên 100 chiếc ví da hiệu Gucci, và 100 đôi găng tay da. Ngoài ra người ta còn tìm thấy một cái hóa đơn của tiệm kim hoàn ở Paris là 2 triệu Mỹ kim, một cái hóa đơn 107 ngàn đôla của một chiếc áo dạ vũ và 6 chiếc áo bằng tơ lụa. Các hóa đơn nhét đầy các hộc tủ, cái nào cũng hàng ngàn, hàng trăm đôla.
Nước Phi Luật Tân có tỷ lệ là 70/o dân chúng sống trong nghèo đói, với lợi tức mỗi đầu người là 200 đôla một tháng. Trong khi đó tài sản của ông Marcos có khắp nơi trên thế giới trị giá là 10 tỷ Mỹ kim, gấp 3 lần ngân sách quốc gia. Tài sản của ông gồm tiền mặt, kim cương, chương mục ngân hàng, nhà cửa, đất đai, cổ phần đầu tư, nhiều nhất là ở Thụy Sĩ, Pháp, Anh và Mỹ. Làm tổng thống trong một đất nước nghèo khổ, với số lương là 5,700 Mỹ kim một năm, vậy mà ông Marcos sống như một ông vua dầu lửa Ả Rập thì tiền bạc đó lấy ở đâu ra ?
Do đó, ông Marcos cương quyết không chịu rời chiếc ghế tổng thống ! Ông Trần văn Giàu, nhà sử học của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói một câu thắm thía: “Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ tới cái ghế !”
Quyền hành đi đôi với lợi lộc để kết thành quyền lợi. Vì nắm quyền thì có lợi, nên người ta cứ mãi ham mê quyền hành ! Phản ảnh thực trạng xã hội Việt Nam, bạn Bùi Xuân Dũng đã chia sẻ bài thơ “Khi Sếp Xây Nhà” trên báo Tuổi Trẻ Cười như sau:
Được tin sếp sắp xây nhà, Ai cũng muốn “giúp” bởi là chỗ “thân”. Công ty xa xí nghiệp gần, Xi măng, sắt thép… cho quân chở về. Điều thêm mấy chục thợ nề, Ưu tiên toàn chọn tay nghề bậc cao. Nhà xong “khách sạn năm sao”, Chi phí thế nào, sếp cũng không hay. Công trình “chìa khóa trao tay”. Sếp xem ngày tốt dọn ngay khỏi chờ. Ngắm nhà dân mới rỉ lời, “Ngôi nhà tình nghĩa” quê tôi đó mà !
Phúc âm hôm nay, cũng diễn tả quyền hành của Chúa Giêsu, nhưng đó không phải là thứ quyền hành trần gian.
1. Quyền của Chúa Giêsu là quyền giảng dạy Thánh Kinh, Lời Chúa, và gây dựng Vương Quốc Thiên Chúa nơi các tâm hồn: “Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền”.
Phúc âm của thánh Máccô đã được viết vào khoảng giữa những năm 60 và 65 cho những tín hữu gốc Do Thái, không phải ở Juđêa, mà ở Rôma. Cũng trong thời gian này hoàng đế Nêrô bắt đầu đi tìm những người Kitô hữu ở Rôma để bắt bớ. Khởi đầu cho cuộc bách hại đạo Kitô giáo kéo dài khoảng hai thế kỷ rưỡi, từ năm 64 tới năm 313. Nếu chúng ta đặt mình vào trường hợp một người gốc Do Thái đang sinh sống ở Rôma, nhưng tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ phải đối diện với những lựa chọn quyết liệt. Theo ai và vâng lời ai ? Quyền của ai trên hết ? Quyền của các thầy Rabbi Do Thái ? Quyền của hoàng đế Nêrô ? Hay quyền của Chúa Giêsu Kitô ? Sự lựa chọn có ý nghĩa gì cho chúng ta hôm nay ?
Lựa chọn rồi quyết định, tuân giữ lời Chúa Giêsu dạy, sẵn sàng chịu thiệt thòi, bắt bớ, phải sống trốn tránh nơi các hang hầm mộ – catacomb – ở Rôma như các tín hữu Kitô giáo thời sơ khai, không phải là chuyện dễ ! Họ là những vị thánh đã sống lời Chúa cách can đảm, trung thành tùng phục dưới quyền cai trị của Chúa Giêsu giữa những thử thách bắt bớ của chính quyền trần gian !
Có một câu chuyện kể về những người Do Thái sống ở Ba Lan trong một ngôi làng rất xa xôi hẻo lánh đã nhiều năm không có một người thợ sửa đồng hồ nào ghé qua. Sau một thời gian, những chiếc đồng hồ trong làng đều bị hỏng, mỗi cái chạy mỗi giờ khác nhau. Đa số những người dân làng đã buông xuôi, không thèm lên giây thiều những chiếc đồng hồ vô dụng nữa. Sau cùng, có một người thợ sửa đồng hồ tình cờ đã đi ngang qua ghé vào thăm làng. Dân chúng bèn mang những chiếc đồng hồ đến cho ông sửa dùm. Nhưng những chiếc đồng hồ của họ đã bị sét rỉ, bị ăn mòn vì lâu năm không dùng đến, không thể sửa lại được nữa, trừ ra một chiếc đồng hồ mà người chủ của nó đã kiên trì lên giây thiều mỗi ngày. Mặc dù ông biết rằng nó không chạy đúng giờ, ông vẫn hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một người thợ sửa đồng hồ ghé qua làng.
Người tín hữu trung thành cũng giống như người chủ chiếc đồng hồ này. Qua lời cầu nguyện, việc thờ phượng, đọc Thánh Kinh và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta có thể giữ vững tinh thần. Mặc dù đôi khi chúng ta không chắc chắn được phương hướng rõ rệt Thiên Chúa muốn định cho cuộc sống của mình. Trong những hoàn cảnh khó khăn và thử thách đó, Thiên Chúa vẫn hiện diện và hoạt động để bẻ gẫy những nỗ lực của ma quỷ cố gắng làm cho Ngài mờ nhạt đi.
2. Quyền của Chúa Giêsu có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và chữa lành. Quỷ dữ nhận ra Chúa Giêsu là ai và phải thét lên vì khiếp sợ: “Tôi biết ông là ai: là Đấng Thánh của Thiên Chúa !” “Hãy im đi, và ra khỏi người này”.
Xưa kia, khi bắt đầu mở rộng hệ thống xa lộ đường sá, có một nhân viên vẽ địa đồ của chính phủ mang dụng cụ đo ngắm tới một nông trại. Anh gọi điện thoại cho người nông dân và xin phép đi vào nông trại, ruộng vườn của ông để đo đạc và vẽ họa đồ. Người nông dân này từ chối không cho phép vì sợ rằng hệ thống xa lộ sẽ đi qua miếng đất của mình. Trong khi anh vẽ địa đồ xuất trình giấy tờ là nhân viên của chính phủ và khăng khăng cho mình có quyền vào bất cứ nơi nào trên khắp nước để thi hành nhiệm vụ. Phải đương đầu với nhân viên của chính phủ, người nông dân bèn chịu thua, ra mở cổng cho vào. Sau đó ông đi đến cuối nông trại và mở thêm một cái cổng khác, cổng chuồng bò điên dữ tợn nhất trong trại. Nhìn thấy con bò to lớn, dữ tợn đang cắm đầu xông vào mình, anh nhân viên địa đồ bèn vứt mọi dụng cụ, cắm đầu chạy thục mạng. Còn người nông dân thì cười đắc thắng và nói: “Có giỏi thì trình giấy tờ ra cho nó xem ! Chỉ cho nó thấy cái quyền bính của mình đi !”
Trong tiếng Hy Lạp, chữ “quyền bính” – “authority” – là “exousia”, chữ “sức mạnh” – power” – là “dunamis”. Quyền bính và sức mạnh có những ý nghĩa khác nhau. Anh công nhân vẽ địa đồ trong câu chuyện ở trên, có quyền nhưng không có sức mạnh đối với con bò hung dữ. Nhưng trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền và có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm hồn chúng ta.
Một linh mục linh hướng khóa Cursillo, ba ngày học hội Kitô giáo, kể lại tâm sự của một khóa sinh trẻ, học thức cao với văn bằng Tiến sĩ. Câu chuyện đời của chàng quả thật rất đặc biệt. Suốt đời chàng nỗ lực theo đuổi rất thành công những việc học hành, nghề nghiệp, thể thao và nghệ thuật. Nhưng chàng vẫn cảm thấy trống rỗng. Cho dù theo đuổi bất cứ công việc gì thì cũng chỉ là những nỗ lực cố gắng lấp đầy cái lỗ trống to lớn trong tâm hồn mình mà thôi. Những thành công không làm chàng cảm thấy thoải mái hơn. Đến với khóa học chàng cảm thấy như đang đi tìm một điều gì đó sâu kín trong tâm hồn mà chàng đang khao khát.
Rồi vị linh mục đã chia sẻ chính cuộc đời của mình cho chàng nghe, những đổ vỡ và thất bại. Hoàn cảnh thì khác nhau, nhưng cùng một tâm trạng. Mấu chốt của vấn đề là làm thế nào để học được cách chấp nhận Chúa Giêsu như một niềm hy vọng duy nhất cho cuộc đời, một niềm vui duy nhất trong cuộc sống. Lúc đầu ngài cũng cảm thấy rằng việc theo chân Chúa Giêsu là việc khùng điên. Nhưng rồi sau đó ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đây cũng chính là điều chàng đang muốn có, sự bình an. Khi kết thúc khóa học chàng đã công khai công bố Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của mình với một lòng xác tín mạnh mẽ và cảm động. Chàng đã chia sẻ công khai với mọi khóa sinh khác rằng: “Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền ban cho tôi một ý nghĩa của cuộc sống và chữa lành các thương tích đổ vỡ trong tâm hồn tôi”.
Phúc âm của Chúa Giêsu luôn luôn là Tin Mừng. Nhưng trước khi cảm nhận được sự vui mừng thực sự của nó, chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu. Không “vui mừng” tí nào cả ! Để tìm thấy được ý nghĩa của Tin Mừng, để cảm nghiệm được ơn chữa lành đối với những đổ vỡ trong đời, chúng ta phải thực sự hoàn toàn quy phục dưới quyền bính của Chúa Giêsu.
Nhưng để đến được với Chúa Giêsu, những bước chân ban đầu thật khó khăn, không phải là việc tự nhiên dễ làm. Vì con người chúng ta ai cũng mang sẵn bản tính thích nổi loạn, và ương ngạnh. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta mới có đủ can đảm trở về quy phục dưới quyền bính và sức mạnh của Chúa Giêsu, đồng thời cũng nhận ra ý nghĩa của cuộc đời mình. Và nguồn vui hạnh phúc thực sự chỉ đến với chúng ta qua Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta mà thôi.
Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường. Mác-cô không cho ta biết Đức Giêsu: TN4-B13
Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường.
Mác-cô không cho ta biết Đức Giêsu đã giảng gì. Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ, và cách giảng thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền. Còn Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy quyền. Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một cách mới mẻ và đầy uy quyền, Đức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến, triều đại của Xa-tan phải bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra và khiếp sợ. Đức Giêsu ra lệnh: "Hãy câm đi và xuất khỏi người này." Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở. Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người ấy và thét lên.
Đức Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ. Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ. Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết.
Kitô giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.
Quỷ phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. "Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho tất cả". Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác: tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình. Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra. Cái ám khi trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình. Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực, nên cần Đấng Thánh của Thiên Chúa.
"Hãy xuất ra khỏi người này": Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì?
"Hãy xuất ra khỏi thế giới này": Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lời xin cuối của kinh Lạy Cha: Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Theo sách Giáo Lý Công Giáo, sự dữ ở đây để chỉ một nhân vật, đó là Xa-tan, là vị thiên thần đã chống lại Thiên Chúa, là ma quỷ (số 2851). Bạn tin có Xa-tan, có ma quỷ không? Ma quỷ đã có tác động xấu nào trên đời bạn?
Ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (Ga 8,44). Có khi nào việc bạn làm lúc đầu thấy là tốt, sau cùng lại thấy nó dẫn đến điều xấu không? Bạn có khi nào bị ma quỷ đánh lừa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Trong cách tổ chức của một chính quyền thì Bộ Nội Vụ, Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng là: TN4-B14
Trong cách tổ chức của một chính quyền thì Bộ Nội Vụ, Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng là ba Bộ quan trọng nhất. Bộ Ngoại Giao phụ trách công tác đối ngoại thông qua các cơ quan của Bộ và các Tòa Đại Sứ mà đứng đầu là một viên chức ngoại giao được gọi là Ông / Bà Đại Sứ. Những người được chọn làm Đại Sứ phải là những nhà ngoại giao có trình độ chuyên môn và đạo đức để đại diện cho cả một đất nước, một dân tộc.
Trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng cũng có những người được chọn để đóng vai trò ấy. Trong Kitô giáo những người này được gọi là các ngôn sứ của Thiên Chúa. Sứ mạng của các ngôn sứ là nói lời Thiên Chúa và nhắc nhở dân chúng đường chính nẻo ngay để họ đi vào nẻo đường ấy. Trong hàng ngũ các ngôn sứ thì Đức Giêsu Nagiarét là Vị Đại Ngôn Sứ của Thiên Chúa vì Người chính là LỜI của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tìm hiều các bài Sách Thánh để sống theo Đại Ngôn Sứ Giêsu và thực thi sứ mạng ngôn sứ của mình.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Đnl 18,15-20: Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy.
(15) Khi ấy ông Mô-sê nói với dân chúng rằng: “Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy. (16) Đó chính là điều mà anh (em) đã xin với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội; anh (em) đã nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết." (17) Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Chúng nói phải. (18) Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. (19) Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. (20) Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết."
(2) Bài đọc 2: 1 Cr 7,32-35: Người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa để thuộc trọn về Người.
(32) Thưa anh em, tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. (33) Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, (34) thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. (35) Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 1,21-28: Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền.
(21) Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
(23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa !" (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!" (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Thiên Chúa mà Sách Đệ nhị luật muốn trình bày là một Đấng Thiên Chúa quan tâm đến nguyện vọng và trình độ của dân Ít-ra-en là dân riêng của Chúa. Thiên Chúa đã dùng Mô-sê mà hướng dẫn, bảo vệ và cứu thoát dân. Rồi Người đã dùng nhiều người khác nữa, cũng xuất thân từ trong hàng ngũ con dân Ít-ra-en làm “phát ngôn viên” hay ngôn sứ cho Người. Nhiệm vụ và cũng là sứ mạng của ngôn sứ là nói lời Thiên Chúa!
Vị ngôn sứ mà đoạn Thánh Kinh này loan báo là chính Đức Giêsu Nagiarét là Đấng sẽ đến trần gian vào ngày giờ Thiên Chúa đã định. Người chính là Lời Thiên Chúa nên Người là Đại Ngôn Sứ, Ngôn Sứ Số Một của Thiên Chúa!
(2) Trong đoạn thư 1 Cr 7,32-35 Thánh Phaolô không nói trực tiếp về Thiên Chúa mà nói về cách tốt nhất mà con người có thể sống với Thiên Chúa: đó là toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa, trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa! Thánh Phaolô rút từ kinh nghiệm đời thường: một người có vợ có chồng thì thường khó toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa vì người đó phải dành thời giờ và công sức để làm đẹp lòng người phối ngẫu của mình, để lo việc đời. Còn những người không có vợ có chồng (độc thân, góa bụa hay trinh nữ) thì dễ toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa hơn, dễ thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.
(3) Thiên Chúa mà Thánh Máccô muốn giới thiệu với thế giới trong đoạn Phúc Âm Mc 1,21-28 là Đức Giêsu Nagiarét, Đấng giảng dậy có uy quyền và trừ dẹp thần ô uế cách hiệu quả, khiến những người nghe và chứng kiến phải kinh ngạc và trầm trồ khen ngợi: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!"
Sở dĩ Đức Giêsu Nagiarét làm được như thế là vì Người là Vị Đại Ngôn Sứ của Thiên Chúa và Ngài được Thánh Thần ngự trên và xức dầu tấn phong để Ngài thực hiện sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, cứu giúp những người khốn khổ, giải phóng những người bị áp bức và bị giam cầm và công bồ năm hồng ân của Thiên Chúa (xem Lc 4,18-19).
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Hãy tin và đón rước Vị Đại Ngôn Sứ mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại là Đức Giêsu Nagiarét. Tin và đón rước Người có nghĩa nghe theo lời Người dạy bảo, hướng dẫn. Tin và đón rước Người còn có nghĩa là để Người hành động trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng ta, để chúng ta toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa, hoàn toàn thuộc trọn về Thiên Chúa giống như Người. Khi ấy chúng ta cũng trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Muốn sống sứ điệp Lời Chúa Chúa nhật IV Thường Niên Năm B, chúng ta cần thực hiện hai việc sau:
1. Tin Đức Giêsu là Vị Đại Ngôn Sứ của Thiên Chúa + Đón rước Người + Nghe lời Người + Để Người hành động nơi/trong chúng ta bằng Thánh Thần và để Người đào tạo chúng ta thành các ‘ngôn sứ’ của Thiên Chúa (1).
2. Tập sống dũng cảm, bất khuất, chấp nhận thua thiệt, mất mát để nói lời Thiên Chúa và làm chứng tá cho lời ấy.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng đã ban cho dân Chúa các ngôn sứ, nhất là Vị Đại Ngôn Sứ là Chúa Giêsu Kitô để Lời Chúa được mọi người tuân giữ. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Cha.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã được Cha sai đến trần gian với tư cách là Đại Sứ của Cha để nói lời của Cha cho chúng con. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa! Chúa lại còn cho chúng con tham dự vào chức vụ Ngôn Sứ của Chúa. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa! Xin Chúa ban cho chúng con ơn hiểu, sống và rao giảng Lời Chúa để nhiều người được Ơn Chúa cứu độ.
Lạy Chúa Thánh Thần, là Thần Khí của Thiên Chúa, là Đấng luôn ngự trên và trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa! Chúng con xin Chúa hãy luôn ở cùng chúng con để giúp chúng con trở thành các ngôn sứ tín trung phục vụ Thiên Chúa và con người. Amen!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 15.01.2006
……………… Chú thích (1) Khi nghiên cứu về các ngôn sứ trong Cựu Ước, Rabbi Abraham Joshua Heschel (The Prophets, New York: Harper & Row, 1962) đã khám phá một số nét nổi bật của các ngài.
1. Ngôn sứ là những người cực kỳ nhạy bén trước cái ác, trước bất công. Đối với ta, một hành động như lừa lọc trong kinh doanh hay bóc lột người nghèo có thể coi là chuyện nhỏ nhưng với các ngôn sứ, đó là cả một tai hoạ. Hãy thử nhớ đến những lời đanh thép của Amos:
"Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ.
Các ngươi thầm nghĩ: Bao giờ ngày mồng một qua đi cho ta còn bán lúa;
Bao giờ mới hết ngày sa-bát để ta bày thóc ra?
Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần,
Đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ;
Cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán..." (8, 4-6).
2. Vì nhạy bén trước bất công nên ngôn sứ cũng là người cảm nhận hết sức sâu sắc nỗi đau của con người. Cũng vì thế, tiếng nói của các ngài là tiếng nói thay cho cơn hấp hối câm lặng của người nghèo. Tiếng nói của các ngài vọng lại cơn giận dữ của Thiên Chúa. Lời của các ngài không hề xoa dịu nhưng gây shock! Ví dụ, ngôn sứ Giêrêmia đứng ở cửa Đền thờ mà giảng: "Các ngươi ỷ lại vào những lời dối trá vô giá trị. Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian, đốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ các ngươi không biết, rồi lại vào nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: "Chúng ta được an toàn!" sau đó cứ tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì?" (Gr 7, 8-10).
3. Các ngôn sứ là những người thách đố mọi thứ ngẫu tượng, kể cả những định chế và niềm tin tôn giáo, cũng như những con người được coi là thánh thiêng. Giêrêmia kêu lên: "Đừng ỷ vào những lời giả dối: Đây là đền thờ của Chúa, đền thờ của Chúa... Chớ có tin vào những lời lường gạt đó" (7, 4). Đối với các vua đã được xức dầu làm mục tử nhà Israel thì Ezekiel kêu lên: "Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng cách tàn bạo và hà khắc" (34, 4).
4. Các ngôn sứ là những người cảm nhận sự cô độc và nhiều khi cả bất mãn. Cô độc vì các ngài có tầm nhìn và suy nghĩ khác với mọi người, nên mọi người và mọi sinh hoạt đều có thể trở thành đối tượng bị các ngài phê phán, từ vua chí dân, từ người đạo đức đến kẻ tội lỗi, từ hàng tư tế đến tín hữu bình thường. Cũng vì thế, các ngài bị người đời ruồng bỏ. Trong nhiều trường hợp, các ngài bị thù ghét và ám hại. Chẳng trách được Giêrêmia phải kêu lên: "Khốn cho ngày tôi được sinh ra" (20, 14). Bất mãn bởi vì "Đã 23 năm nay, lời Đức Chúa phán với tôi và tôi đã không ngừng công bố cho anh em nhưng anh em đã chẳng thèm nghe" (25, 3).
Bây giờ người ta thích câu nói ”hoà nhập, chứ không hoà tan”, như một lời phân bua cho sự phải: TN4-B15
Bây giờ người ta thích câu nói ”hoà nhập, chứ không hoà tan”, như một lời phân bua cho sự phải thay đổi và thích nghi để tồn tại và phát triển, chứ không phải là cố tình phản bội lý tưởng và ý thức hệ đã khư khư gìn giữ bao năm. Họ thường trích dẫn câu nói: ”Kẻ thức thời, mới là người tuấn kiệt” để bào chữa cho những hành vi sai trái. Dường như tất cả những hạng người này, đều cho rằng mình có “ý hướng tốt lành”.
Châm ngôn của người Pháp – mà người ta gán cho là của Thánh Bernard – vẫn nói: “L’enfer est pavé de bonnes intentions” ( hỏa ngục được lót nền toàn là bằng những ý định tốt ). Tốt thật đấy, ngay lành thật đấy, nhưng chỉ là nhận định chủ quan cá nhân, hoặc ý hướng tốt nhưng đến khi làm thì mới ngã ngửa ra, nói vậy chứ không phải vậy ! Tốt như thế thì đáng đem làm gạch lót đường và lát nền cho hỏa ngục, vì chính những “ý hướng tốt” kiểu ấy đã làm cho bao kẻ sa ngã. Hôm nay, ta hãy nghe chính dân chúng nhận định về Chúa Giê-su: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” ( Mc 1, 22 ). Không thể “cá mè một lứa” !
Trong triết học, từ “aliénation”, tha hoá, có nghĩa là tự biến mình thành người khác hoặc bị người khác, sự vật khác làm cho mình thay đổi và lệ thuộc nó, đến nỗi đánh mất chính mình ( vong thân ) hoặc không còn nhận ra mình được nữa ( dị hóa ). Và khi con ngườI tự đánh mất bản thân hoặc bị lấy đi, làm khác đi, thì lời nói và hành vi của họ chỉ còn là bản sao của người khác, của sự vật khác, còn tệ hơn cái mà giới nghệ sĩ thường gọi là đạo văn, đạo nhạc, luộc sách v.v... vì ít ra những “kẻ trộm” loại này vẫn còn ít nhiều bản lãnh và sĩ diện.
Ngày nay, nhiều Linh Mục, Tu Sĩ, trí thức Công Giáo đăng đàn, viết bài, lên truyền hình, để cao rao những ý lời của người khác, mà người ta không hiểu là họ hành động vì ấu trĩ, thiếu bản lĩnh hoặc hám danh, nếu không phải đã bị dính vào một vụ “săng-ta” nào, để phải mù quáng thực hiện ý người khác ? Tất nhiên là họ có tự do ngôn luận, nhưng họ không sòng phẳng, không “fair play” khi đem chức vụ và cái áo chùng thâm để nói hoặc làm những điều theo ý người khác, bởi vì một sự thật đau lòng, ấy là người khác chỉ muốn “mượn” cái bóng của họ, qua chức vụ và cái áo Dòng. Lúc ấy, áo Dòng làm... nên thầy tu !
Nhiều linh mục, tu sĩ được khen thưởng và “lên” truyền hình, vì đã vận động con chiên “không... sinh con thứ ba”. Chẳng hiểu từ bao giờ, Đạo Chúa lại biến thành một món hàng mua bán, trao đổi vớI giá rẻ mạt ? Từ bao giờ ý nghĩa “Sự Sống” và “Bảo Vệ Sự Sống”, những suy nghĩ, hiểu biết và ý thức căn bản nhất phải có nơi một tín hữu bình thường, lại không còn tý xíu nào nơi những vị lãnh đạo Dân Chúa kiểu như thế ?
Ngày nay, không chỉ có người ngoài tha hồ bươi móc, chỉ trích Giáo Hội và nói hành nói tỏi, thậm chí vu oan giá hoạ cho hàng Giáo Phẩm và Giáo Sĩ Công Giáo một cách vô tội vạ, mà chính những kẻ vỗ ngực tự xưng là Ki-tô hữu, là Công Giáo, là những trí thức có đạo và trong đạo, còn hầm hè hung hăng hơn cả những người vô thần hoặc chống đối Giáo Hội. Họ tìm mọi lời độc ác để bôi nhọ, mạt sát Đức Thánh Cha và mọi thành phần mà họ thích nhắm tới, trong Giáo Hội. Không có gì hèn hạ hơn là hành động khi biết mình sẽ vẫn “an toàn” cho dù có cay độc, sàm sỡ, đê hèn đến đâu !
Salman Rushdie chỉ vì cuốn “những vần thơ Satan” mà cái đầu bị treo giá đến năm triệu đô-la, phải trốn chui trốn nhủi không dám nhìn ánh sáng mặt trời suốt nhiều năm, để giữ mạng sống. Trong khi đó, Hans Kung đả kích Giáo Hội,”hài tội” Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, mà lại vẫn ung dung tự tại, vẫn kéo bè kết cánh, ngày càng thêm hung hăng. Chuyện ăn nói lung tung, tuyên bố vung vít, lâu nay khá phổ biến trong Giáo Hội Công Giáo chúng ta. Nhưng vàng thau có thể lẫn lộn, còn chân lý có thể bị che khuất một lúc nào đấy thôi, chứ không bao giờ bị lẫn lộn với sai lạc mê muội. Không thể có chuyện chân lý và sai lạc đều... “cá mè một lứa”.
Vậy điều gì làm tiêu chí để nhận định sự thật và giả dối ? Điều gì khác biệt giữa người chân chính va những kẻ vong thân, tha hoá ?
Đó là hành động ! Người ta nói: ”Con đường xa nhất là con đường từ đôi tai tới đôi tay. Những kẻ bị tha hóa “nói một đàng, làm một nẻo”. Chính Chúa Giê-su đã cảnh báo dân chúng về tính “ngôn hành bất nhất” nơi những ngườI giả hình, lợi dụng Đạo, lợi dụng Lời Chúa, lợi dụng chức vụ và uy tín trong đạo ( và cả sự cả tin, kém hiểu biết của tín hữu ) để thực hiện ý đồ riêng: có thể tin điều họ nói, song chớ theo việc họ làm ( x. Mt 23, 1 – 7 ). Lắm người tin theo thuyết tiến hoá, cho rằng người là giai đoạn phát triển tột cùng của... khỉ, nhưng khi đã thành người rồi, thì thật đáng ngại: họ lại ưa thích và thường làm lắm trò khỉ ! Gần đây, người ta có vẻ hết sức hân hoan khi một nhóm nhà khoa học chụp được những tấm ảnh cho thấy khỉ đột “biết” dùng que để thăm dò độ sâu dòng nước và nhờ đó khỉ dám lội qua suối. Chỉ từng đó mà người ta gán ghép mãi, để chứng tỏ con người từ... khỉ mà ra !
Điều quan trọng là chẳng lẽ sau khi nghe biết, học hỏi, suy niệm Lời Chúa, người ta vẫn chỉ hành động theo kiểu... khỉ: bắt chước và làm theo ý người khác ? ( Chuyện bên lề, song cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ: năm 2002, các nhà khoa học hoàn chỉnh bản đồ “gènes” ( genonome ) và thật ngạc nhiên khi loài người chỉ hơn loài chuột 300 gènes, còn loài khỉ tuy bề ngoài có vẻ na ná giống con người, được Thuyết Tiến Hóa tôn làm tổ tiên con người, nhưng trong giải phẫu học, trong y học, lại chẳng có bất cứ bộ phận nào của “tổ tiên” khỉ có thể đem ghép cho “con cháu” người, giúp con người chữa trị tật bệnh, mà các nhà khoa học phải chọn lòng tim phèo phổi, thậm chí cả da của loài lợn mới hy vọng thay thế cho các cơ phận bị hỏng của con người ! Chẳng lẽ sự biến hoá liên tục, lại không có chút kế tục nào ? Và không hiểu trong những ngày Giỗ, Tết Chạp này, khi thắp hương cúng vái tổ tiên, những người ấy có nhớ đến tổ tiên khỉ của mình chăng ? )
Việc Ki-tô hữu bị đánh đồng “cà mè một lứa” chỉ có thể xảy ra theo ba hướng: hoặc bị hiểu lầm hoặc do suy nghĩ và hành động sai trái của chúng ta hoặc do “mặc cảm tự ti” ( complex of inferiority ).
Tình huống thứ nhất rồi sẽ được sáng tỏ theo thời gian và khi ấy sự thật sẽ tăng thêm giá trị. Ở tình huống thứ hai, ngược lại, người ta tìm đủ thứ để có thể nguỵ trang, che đậy ý nghĩ của họ, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là “màn thưa che mắt thánh”, “giấu đầu hở đuôi”. Ở tình huống thứ ba, lắm Ki-tô hữu mang trong mình mặc cảm “con nhà Đạo”, phải suy nghĩ khác người, hành xử khác người, nói năng và làm nhiều cử chỉ khác người cho nó ra dáng ra vẻ mới chịu ! Những việc ấy làm cho họ thấy mình “lạc lõng” và... tự ti ! Và khi một Ki-tô hữu thấy tự ti về Đạo của mình, về Chúa của mình, về các đồng đạo của mình, thì không còn gì để nói nữa !
Sống bên cạnh người khác, lâu ngày dài tháng, mà vẫn không ai nhìn ra được chân tướng, lý lịch Ki-tô hữu của mình, thì cũng chẳng còn gì để nói !
Trong dân Chúa và cộng đồng con người, thời xưa cũng như thời nay, bao giờ cũng có những kẻ TN4-B16
Trong dân Chúa và cộng đồng con người, thời xưa cũng như thời nay, bao giờ cũng có những kẻ không muốn nghe lời Thiên Chúa, nhưng cũng lại có nhiều kẻ khác muốn nghe lời Thiên Chúa. Cả hai loại người này đều cần đến những người nói tiếng nói của Thiên Chúa. Thời Cựu ước những người được chọn nói tiếng nói của Thiên Chúa có một vai trò rất quan trọng. Họ được gọi là các ngôn sứ. Trong thời Tân Ước, Chúa Giêsu Kitô là tiếng nói hảo hạng, tuyệt vời nhất của Thiên Chúa vì Người là Ngôi Lời nhập thể. Nhờ Người chúng ta chẳng những nghe được tiếng nói của Thiên Chúa mà còn trở thành những người nói tiếng nói của Thiên Chúa, vì khi được thanh tẩy trong Đức Kitô là chúng ta đã được tham dự vào 3 chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Người.
Chúng ta hãy đọc kỹ và tìm hiều các bài Sách Thánh để học cùng Chúa Giêsu về cách nói tiếng nói của Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1: Đnl 18,15-20: Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy.
(15) Khi ấy ông Mô-sê nói với dân chúng rằng: “Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy. (16) Đó chính là điều mà anh (em) đã xin với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội; anh (em) đã nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết." (17) Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi: "Chúng nói phải. (18) Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. (19) Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. (20) Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết."
2.2 Bài đọc 2: 1 Cr 7,32-35: Người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa để thuộc trọn về Người.
(32) Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. (33) Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, (34) thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. (35) Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co.
2.3 Bài Tin Mừng: Mc 1,21-28: Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền.
(21) Tại thành thành Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường và giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
(23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa !" (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!" (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa:
3.1.1 Thiên Chúa mà Sách Đệ nhị luật muốn trình bày là một Đấng Thiên Chúa quan tâm đến nguyện vọng và trình độ của dân Ít-ra-en là dân riêng của Chúa. Thiên Chúa đã dùng Mô-sê mà hướng dẫn, bảo vệ và cứu thoát dân. Rồi Người đã dùng nhiều người khác nữa, cũng xuất thân từ trong hàng ngũ con dân Ít-ra-en làm “phát ngôn viên” hay ngôn sứ cho Người. Nhiệm vụ và cũng là sứ mạng của ngôn sứ là nói lời Thiên Chúa!
Vị ngôn sứ mà đoạn Thánh Kinh này loan báo là chính Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng sẽ đến trần gian vào ngày giờ Thiên Chúa đã định. Người chính là Lời Thiên Chúa nên Người là Đại Ngôn Sứ, Ngôn Sứ Số Một của Thiên Chúa!
3.1.2 Trong đoạn thư 1 Cr 7,32-35 Thánh Phao-lô không nói trực tiếp về Thiên Chúa mà nói về cách tốt nhất mà con người có thể sống với Thiên Chúa là toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa, trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa! Thánh Phao-lô rút từ kinh nghiệm đời thường: một người có vợ có chồng thì thường khó toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa vì người đó phải dành thời giờ và công sức để làm đẹp lòng người phối ngẫu của mình. Còn những người không có vợ có chồng thì dễ toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa hơn, dễ thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.
3.1.3 Thiên Chúa mà Thánh Mác-cô muốn giới thiệu với thế giới trong đoạn Phúc Âm Mc 1,21-28 là Chúa Giê-su Na-da-rét, Đấng giảng dậy có uy quyền và dẹp trừ thần ô uế cách hiệu quả, khiến những người chứng kiến phải kinh ngạc và trầm trồ khen ngợi: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!"
Sở dĩ Chúa Giê-su Na-da-rét làm được như thế là vì Người là Vị Đại Ngôn Sứ của Thiên Chúa và Người được Thánh Thần ngự trị và xức dầu tấn phong để Người thực hiện sứ mạng nói tiếng nói của Thiên Chúa cũng như rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, cứu giúp những người khốn khổ, giải phóng những người bị áp bức, giam cầm và công bồ năm hồng ân của Thiên Chúa (xem Lc 4,18-19).
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai phần:
3.2.1 Một là tin và lắng nghe Chúa Giê-su nói tiếng nói của Thiên Chúa cho mỗi người/cộng đoàn chúng ta và cho toàn nhân loại.
3.2.2 Thứ hai là đến lượt mình, mỗi người chúng ta cũng phải nói tiếng nói của Thiên Chúa với/cho những người xung quanh, cả với những người không muốn và những người muốn nghe tiếng nói của Thiên Chúa.
Muốn nói tiếng nói của Thiên Chúa, ngôn sứ phải có một đời sống kết hiệp mật thiết với Người, chìm sâu trong mầu nhiệm của Người, thấu hiểu tư tưởng của Người như Thánh Phao-lô mà chúng ta mừng kính trong Năm Thánh Phao-lô này.
IV. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Muốn sống sứ điệp Lời Chúa Chúa nhật IV Thường Niên Năm B, chúng ta cần thực hiện hai việc sau:
4.1 Khám phá ra Chúa Giê-su là tiếng nói của Thiên Chúa + Đón rước Người và lắng nghe Người nói + Để Người đào tạo và hành động nơi/trong chúng ta bằng Thánh Thần để chúng ta trở thành những kẻ nói tiếng nói của Thiên Chúa.
4.2 Tập sống dũng cảm, bất khuất, chấp nhận thua thiệt, mất mát để trở thành tiếng nói của Thiên Chúa trong gia đình, khu xóm và cộng đồng.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Xin đề nghị cách cầu nguyện với Lời Chúa như sau]
5.1 «Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.» Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã hết lòng yêu thương con cái của Cha mà cho Chúa Giê-su Ki-tô, là vị ngôn sứ vĩ đại, xuất hiện trong thế gian này để Người nói tiếng nói của Cha cho chúng con nghe!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó.» Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con xin Cha rủ lòng thương mà tha thứ cho chúng con và đừng hạch tội chúng con đã biết bao lần không nghe lời Chúa Giê-su Ki-tô là tiếng nói của Cha!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Đức Giê-su vào hội đường và giảng dạy.» Lạy Chúa Giê-su là Thầy Dậy, chúng con muốn được nghe Chúa giảng dậy, chúng con ao ước được là học trò của Chúa. Xin Chúa hãy nói tiếng nói của Thiên Chúa cho chúng con.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền....» Lạy Chúa Giê-su, Chúa là nhà sư phạm tuyệt vời, Chúa nói có hồn và giảng có uy lực, rất hấp dẫn và thuyết phục. Xin Chúa tạo ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí chúng con mỗi khi chúng con tìm đến học với Chúa trong trường học của Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Tìm xem với những đoạn văn nào, các tác giả Tin Mừng đã bắt đầu phần tường thuật đời sống: TN4-B17
Tìm xem với những đoạn văn nào, các tác giả Tin Mừng đã bắt đầu phần tường thuật đời sống công khai của Đức Giêsu, là việc quan trọng. Mt bắt đầu với bài diễn từ thứ nhất và dài nhất trong năm bài diễn từ, đó là Bài Giảng trên núi (Mt 5,1–7,2). Mối quan tâm chính của tác giả TM I là diễn tả giáo huấn của Đức Giêsu. Lc thì nói tới việc Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường Nadarét (Lc 4,16-30); tại đó, liên kết bản thân với Cựu Ước (Is 61,1t), Đức Giêsu trình bày uy quyền và mục tiêu của sứ mạng của Người như nằm trong một chương trình đã được thiết lập. Trong Mc, điều đầu tiên chúng ta thấy là sự xuất hiện của Đức Giêsu tại hội đường Caphácnaum.
Caphácnaum ở trên bờ phía tây bắc hồ Ghennêxarét, cách cửa sông Giođan vài cây số. Kết quả các cuộc khai quật khảo cổ cho ta gặp lại những di tích của thế kỷ iv kỷ nguyên chúng ta, nhưng vẫn ở ngay tại nơi có hội đường vào thời Đức Giêsu. Điều lạ lùng là Mc không kể gì về giáo huấn của Đức Giêsu, mà chỉ nêu sự kiện là Người đã giảng dạy và ấn tượng mà các lời Người nói gây nên nơi dân chúng. Quả vậy, tác giả đặt ở hàng đầu không phải là giáo lý của Đức Giêsu, mà là con người của vị Tôn sư.
Mc đã đặt câu truyện này ngay sau khi Đức Giêsu gọi bốn ngư phủ, mà coi như là hoạt động công khai đầu tiên Đức Giêsu hoàn tất với sự hiện diện của các môn đệ kể từ nay sẽ “ở với Người” (3,14). Thế mà Đức Giêsu đến để loan báo Tin Mừng, loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã có đó, quyền năng cứu độ đã đi vào hoạt động, một thế giới mới đã được mạc khải. Trong Lời mang sức giải thoát mà Đức Giêsu nói ra, chính Thiên Chúa hành động; Đức Giêsu, vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và việc làm, chính là Tin Mừng đang tiến hành.
Đoạn này thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34). Trong một đơn vị thống nhất về thời gian và không gian như thế (một ngày sa-bát tại Caphácnaum), Mc đã quy tụ nhiều câu truyện: việc giảng dạy, trừ quỷ, chữa mẹ vợ Simôn, rồi, đến chiều, có một bức họa tổng quát. Các truyện này xảy ra tại một hội đường, tại nhà, tại cửa thành. Nhưng chuỗi hoạt động này lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ. Bản văn đang khảo sát là cốt lõi của một chuyển động vừa tập trung vừa lan toả, nên trở thành bản văn tiêu biểu, tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu. Điều được biểu lộ ra (sự giải phóng do Đức Giêsu mang lại) tại địa điểm chính thức của Do-thái giáo, trong nhà Lề Luật, là để được phổ biến trong khắp miền Galilê. Và sau Phục Sinh, miền này sẽ trở thành địa điểm xuất phát của các môn đệ để các ông đi khắp thế giới mà thi hành sứ vụ. Vì thế, có kết luận: “Danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tuy nhiên, không nên quên lệnh cấm nói: danh tiếng này chỉ có được nền tảng đích thực khi cuộc Khổ nạn đã được hoàn tất.
II. BỐ cỤc
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu giảng dạy (1,21-22): a) nơi chốn và thời gian: Caphácnaum; ngày sa-bát, b) dân chúng kinh ngạc về lời giảng và uy quyền;
2) Ca người bị quỷ ám (1,23-26): a) phản ứng của quỷ, b) lời nói uy quyền của Đức Giêsu, c) kết quả;
3) Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (1,27-28): a) dân chúng kinh ngạc: giáo lý và uy quyền, b) danh tiếng được đồn đi: mọi nơi, khắp vùng lân cận miền Galilê.
Câu truyện trừ quỷ này lại được đóng khung bằng câu nói về “lời giảng dạy có uy quyền”, khiến các nhà chú giải nghĩ đến nhiều đợt làm việc trên câu truyện này.
III. Vài điỂm chú giẢi
- sửng sốt (22): dịch sát là “bị đánh ngã”, “bị quẳng ra ngoài”.
- Có một người bị thần ô uế nhập (23): Tác giả giới thiệu “ca” bệnh. Nhưng rồi, thay vì nói đến một sáng kiến, một thái độ của người bệnh hoặc của những người có mặt nhằm bày tỏ lòng tin, tác giả cho thấy không có ai can thiệp vào cả, Đức Giêsu cũng không làm gì cả; thế mà đã xảy ra như một cú “bùng nổ”.
- la lên rằng: “… chuyện chúng tôi can gì đến ông…” (23-24): Dường như chỉ nguyên việc đứng trước mặt Đức Giêsu đã khiến ma quỷ phải hét lên (x. một phản ứng tương tự: 9,20). Rõ ràng, khi gặp Người, ma quỷ bị một cú sốc, nó không thể thản nhiên như không được. Nó hét lên: “Giêsu Nadarét, chúng tôi với Ngài nào có việc gì?” (NTT). Trong Cựu Ước, câu nói này nhằm thiết lập một khoảng cách giữa hai người: hoặc một sự bất hoà giữa hai cá nhân trước đây hoà hợp (x. Tl 11,12; 2 Sb 35,21; 2 Sm 16,10; 19,23; 1 V 17,18 với ý nghĩa: “tôi đã làm gì cho bạn, đã xảy ra chuyện gì khiến bạn làm như thế, bạn xử với tôi như thế ?”), hoặc là từ chối mọi quan hệ hoặc mọi thoả hiệp giữa hai bên thù nghịch (x. Gs 22,24; 2 V 3,13; Hs 14,9: “Giữa chúng ta còn có thể quan hệ gì nữa? Ông lo việc của ông đi!”). Bản văn Mc theo nghĩa thứ hai: đây là một lời tuyên chiến, hoặc đúng hơn, một lời tuyên bố tình trạng thù nghịch và một lời từ chối giao đấu vì bên liên hệ quá biết kết quả rồi (x. 5,7).
- Đấng Thánh của Thiên Chúa (x. 5,7 “Con Thiên Chúa Tối Cao”): Cho dù đa số các nhà chú giải coi đây là một danh hiệu của Đấng Mêsia, cha Lagrange lưu ý là trong nền văn chương Do-thái giáo, Đấng Mêsia không được gọi như thế. Hẳn là câu này muốn nói Đức Giêsu là một con người thuộc về thế giới của Thiên Chúa thánh thiện. Người ở trong quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa, và do đó, câu này diễn tả tình trạng không thể hòa hợp giữa Đức Giêsu và tà thần (Hl. pneuma akatharton: đối nghịch lại với linh thánh, với Thiên Chúa). Nhưng chắc chắn là trong Mc, công thức này đã có ý nghĩa Kitô giáo, nghĩa là được dành cho Đấng Mêsia. Ma quỷ cảm nhận sự hiện diện của Đức Giêsu như một sự gây hấn, nên nó đã “bùng nổ”.
- Đức Giêsu quát mắng (quát bảo, NTT) (25): Theo nghĩa chữ, động từ Hy-lạp epetimêsen (x. 3,12; 4,39; 8,30.32.33; 9,25; 10,13-48) này có nghĩa là “đặt một timê (giá cả, giá trị) trên”, và từ nguyên thuỷ, nó có nghĩa tích cực. Trong Mc, động từ này có nghĩa là “nói một cách nghiêm túc, lưu ý nhằm ngăn cản một hành vi hoặc để chấm dứt hành vi nào đó” (Arndt & Gringrich). Đây là một lệnh truyền hơn là một lời la mắng, một lệnh cấm. Đức Giêsu đã truyền hai lệnh “Câm đi” và “Xuất khỏi người này”.
- Câm đi: Nguyên nghĩa của động từ Hl phimœ là “khoá mõm; muzzle”: Ma quỷ bị coi như là một con thú dữ cần phải chế ngự để làm cho nó ra vô hại. Tác giả dùng lại động từ này trong truyện Dẹp yên bão táp (x. 4,39).
- Xuất khỏi: Đứng trước quỷ, Đức Giêsu thường truyền lệnh này (x. 5,8; 9,25), và quỷ vâng theo tức khắc.
- Thần ô uế lay…, thét… (26): Những hiện tượng này cho thấy kết quả đã đạt được (như trong 9,26), nhưng không có giao tranh; như thế là khác với câu truyện Ghêrasa (5,1) và người động kinh (9,14), vì ở chỗ đó dường như Đức Giêsu có gặp một sự kháng cự nào đó. Còn ở đây, chiến thắng đạt được tức khắc. Đó là điều những người chứng kiến thấy là bất thường, và họ thán phục: các thần ô uế tuân theo lời nói của Đức Giêsu ngay. Tiếng hét ở c. 24 và tiếng hét ở c. 26 như tiếng hét của kẻ sắp chết, cho thấy rằng đây không phải là một việc trừ quỷ như dân chúng đã quen nghe biết, vì một quỷ bị đuổi đi hôm nay sẽ có thể trở lại vào một ngày khác. Cuộc trừ quỷ do Đức Giêsu thực hiện là một sự kiện “mới” trong lịch sử cứu độ. Một thời đại mới đã khởi sự, thế giới đã sang tay người chủ khác; quyền lực của tà thần đã chấm dứt: một “cá nhân” quỷ mới, nhưng nhận định cho số phận của “tập thể” quỷ (“chúng tôi”), (x. 5,10). Vậy Đức Giêsu Nadarét không phải là một người trừ quỷ bình thường, nhưng là Sứ giả của Thiên Chúa, Đấng Thánh. Với sự hiện diện và hoạt động của Người, Thiên Chúa thiết lập Triều Đại của Ngài (x. 3,22-30).
- So sánh với 4,37-41: Nếu so sánh đoạn văn này với hai cảnh của ch. 5 và 9 (Ghêrasa và người động kinh), ta thấy hai truyện ấy thật là sống động, còn bản văn 1,23-27 quá đơn giản. Dường như truyện này là một bài mẫu tổng quát. Ta nhận thấy bài này được xây dựng theo cùng một kiểu như bài tường thuật về cơn bão bị dẹp yên (4,37-41), hoặc đúng hơn, “cơn bão bị dẹp yên” được nhìn như một cuộc trừ quỷ:
Trừ quỷ
Bão yên (4,37-41)
23
Có một người bị thần ô uế nhập la lên rằng
37
Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền
38
các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:
24
“Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi” (= chúng tôi chết mất)
“Thầy chẳng lo gì sao chúng ta chết đến nơi rồi” (= chúng ta/tôi chết mất)
25
Đức Giêsu quát mắng nó (đe doạ) nó:
39
Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển
“Câm đi và xuất khỏi người này!”
“Im đi! Câm đi!”
26
Thần ô uế hét lên một tiếng và xuất
Gió liền tắt và biển lặng như tờ
40
Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
27
Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau:
41
Các ông hoảng sợ (kinh ngạc) và nói với nhau:
“Thế nghĩa là gì?
“Vậy người này là ai?
Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền
Ông ấy ra lệnh cho tất cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!
mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?
Bảng đối chiếu này cho thấy hai bài có một lược đồ chung:
1. Sự hiện diện của Đức Giêsu gây ra một cuộc bùng nổ các sức mạnh tà thần (quỷ hoặc biển); thế trận.
2. Đức Giêsu như bị khiêu khích, hoặc bởi ma quỷ là hãy rút lui đi, hoặc bởi các môn đệ là hãy hành động đi, cả hai bên đều dùng động từ “chết” (apollymi)
3. Chiến thắng toàn diện của Đức Giêsu được diễn tả bằng hai động từ “đe doạ” và “khoá mõm”, “câm”.
4. Cuối cùng là sự kinh ngạc và câu hỏi về Đức Giêsu, Đấng đã buộc được tà thần phải tuân lệnh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu giảng dạy (21-22)
Tác giả ghi nhận ấn tượng Đức Giêsu tạo ra nơi dân chúng: họ bị đánh động sâu xa, họ bị rúng động, họ hết sức kinh ngạc. Đức Giêsu không trình bày các ý kiến cũng không cống hiến những đóng góp vào cuộc tranh luận, nhưng giảng dạy với uy quyền, với lời nói có sức mạnh, có hiệu lực tuyệt đối; đàng sau những điều này, Người nói rằng Người có Thiên Chúa với uy quyền của Ngài. Dân chúng ghi nhận điều này và biết mình bị thách thức bởi giáo huấn của Người. Uy quyền của giáo huấn này được phản ánh, như trong một tấm gương, nơi hiệu quả gây ra trên dân chúng. Giáo huấn này không nhắm mở đường cho các cuộc tranh luận, nhưng muốn nắm lấy, lay chuyển, đưa đến một định hướng đời sống cụ thể mới mẻ (= hoán cải).
Đức Giêsu đến để loan báo Thiên Chúa như là vị Chúa tể đích thực và về sự hiện diện chan hòa ân huệ của Ngài. Chính là với sứ điệp này mà Người đến hội đường Caphácnaum. Đây là nơi dân chúng một làng tụ họp lại để cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Đức Giêsu không đến làm việc trong hoang địa như Gioan Tẩy Giả, nhưng đến hội đường. Người tháp hoạt động của Người vào trong nền phụng tự của Israel, như sứ giả của vị Thiên Chúa mà dân Israel thưa gửi với trong hội đường.
* Ca người bị quỷ ám (23-26)
Các cuộc trừ quỷ, và nói tổng quát, cuộc chiến đấu chống Satan, chiếm một vị trí quan trọng trong tác phẩm Mc, vừa về lượng vừa về phẩm: trong bốn bài tường thuật trong đó có hai bài với nhiều chi tiết của riêng Mùc (1,21-28; 5,1-20; 8,4-30; 9,14-29), trong nhiều bản tóm tắt của riêng Mc về hoạt động của Đức Giêsu (1,34-39; 3,11-12) và cả trong đối tượng thuộc hoạt động truyền giáo của các môn đệ (3,15; 6,7.13).
So với Mc, Mt và Lc có những khác biệt đáng kể: Lc có giữ lại bài tường thuật ta đang khảo sát (Lc 4,31-37), và có một bản tóm tắt gần giống Mc (Lc 4,41 // Mc 1,39); Mt không có câu chuyện trừ quỷ tại Caphácnaum. Nhưng cả hai vị, đặc biệt Mt, có khuynh hướng giảm thiểu hay loại bỏ “phương diện ma quỷ” của nhiều bài tường thuật (x. truyện Bà Canaan, Sứ mạng của Nhóm Mười Hai và nhất là truyện Chữa người động kinh). Thường truyện được chuyển từ tình trạng quỷ ám sang tình trạng đau ốm, từ việc trừ quỷ sang việc chữa bệnh. Dù sao, những con người bị hành hạ như thế vẫn liên tục xuất hiện trong phạm vi hoạt động của Đức Giêsu. Chúng ta thật khó mà hiểu được những sức mạnh khống chế con người và biến họ thành nô lệ. Các sức mạnh này được giới thiệu như là siêu nhân, phản ứng như thể chúng là con người, có một sự hiểu biết đặc biệt, ở thế đối lập với Thiên Chúa, thống trị và làm hại con người. Có những người nói rằng chúng ở trong biển; có những khác lại cho rằng chúng ở trên không trung, nhưng chẳng ai biết rõ chúng. Điều duy nhất chắc chắn, đó là người ta hoàn toàn bất lực khi đứng trước chúng.
Kẻ bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong nhà nó; và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới phải hét lên và đi ra. Nó ở đấy và dường như không gây vấn đề gì. Cũng không có ai gây phiền hà gì cho nó. Nhưng Đức Giêsu thấy người ấy đang ở trong quyền lực của tà thần. Đức Giêsu và tà thần giống như hai kẻ thù gặp nhau: hai bên rất ghét nhau, tìm cách lờ nhau đi, nhưng rồi lại không thể nào tránh khỏi gặp nhau.
Quỷ tỏ thái độ thù nghịch trước, vì nó cảm thấy nó yếu hơn. Nó thấy rằng “Đấng Thánh” (“Đấng mạnh / quyền thế hơn”: Mc 1,7; “người mạnh”: Mt 12,29) có khả năng tiêu diệt nó và vương quốc của nó: “Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (c. 24). Đức Giêsu không dùng phù chú ma thuật. Người chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (c. 25). Thần ô uế vâng lời. Với lời nói hữu hiệu của Người, Người chứng tỏ quyền lực đích thực của Triều Đại Thiên Chúa mà Người loan báo; Người cho thấy rằng Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng và Thiên Chúa đang dùng quyền lực của Người để giải thoát loài người và trả lại cho họ khả năng xác định mình như là những con người tự do. Đức Giêsu đưa tự do và bình an đến không phải nhờ một thỏa hiệp với sự dữ, nhưng chỉ nhờ cách thắng vượt sự dữ. Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng này, ta cũng thoáng thấy Đức Giêsu là ai.
* Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (27-28)
Dân chúng sững sờ kinh ngạc. Họ nhận ra rằng có một vị ngôn sứ đang ở giữa họ với “giáo huấn mới, một cách có uy quyền” (c. 27 - NTT). Đó là vì lời nói của Đức Giêsu thực hiện được điều Đức Giêsu diễn tả. Tác giả nhắc lại “lời giảng dạy – uy quyền” (c. 22 // c. 27) để “đóng khung” truyện trừ quỷ. Bằng cách đó, ngài vừa nói lên được hai nét chính trong sứ vụ của Đức Giêsu (giảng dạy – trừ quỷ) vừa minh họa được quyền lực giải phóng của lời Người nói. Ngoài ra, ngài cũng chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu bằng cách ghi nhận rằng sự cố xảy ra tại Caphácnaum đã được đồn ra “khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.
+ Kết luận
Vậy ít ra, đến đây, chúng ta phải nhìn nhận sử tính của những bài tường thuật về trừ quỷ: chắc chắn Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ. Những người đương thời đã coi Người là một vị Thầy chữa bệnh và trừ quỷ. Các câu truyện Ghêrasa và người động kinh cho thấy ấn tượng này rõ hơn. Và nhất là chính những luật sĩ đã kết án Đức Giêsu là “bắt tay” với quỷ vương… Nhưng, dường như Mc có một ý hướng sâu hơn khi trình câu truyện trừ quỷ ở đây.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Trong “một ngày ở Caphácnaum” được coi như một ngày “mẫu”, Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ: Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng để giải phóng con người. Các tông đồ cũng có mặt: những môn đệ tương lai sẽ nối tiếp Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ.
2. Phong thái và các hành vi của chúng ta có cho thấy rằng chúng ta đang được hướng dẫn bên trong bởi uy quyền của Đức Giêsu chăng? Phải chăng chúng ta chỉ rút từ giáo huấn của Người ra những gì chúng ta thích, hay là quả thạât, chúng ta đang liên kết với Người bằng cách trung thành bước theo Người?
3. Chúng ta biết là có ma quỷ. Tuy nhiên, không nên nghĩ nó giống như một con quái vật. Đúng hơn nó là sức mạnh làm cho con người chúng ta hành động không đúng với nhân tính chúng ta nữa. Ta chỉ thắng được tà thần không phải bằng một thỏa hiệp và nhượng bộ, nhưng nhờ thẳng thắn chiến đấu chống lại nó nhân danh Triều Đại Thiên Chúa: nó đã và sẽ phản ứng thô bạo, nó kháng cự, la hét. Chúng ta có tin tưởng mạnh mẽ và sống động vào Đức Giêsu chăng? Chúng ta có xác tín rằng Người vượt lên trên tất cả các sức mạnh đối kháng, và nếu kết hợp với Người, chúng ta có thể đánh bại sự dữ và các sức mạnh thù nghịch?
4. Cuộc chiến đấu được kể lại đây tượng trưng cho cuộc nổi loạn của các sức mạnh xấu xa trong chúng ta, vì chúng không muốn bị trục xuất; đây là biểu tượng của các khó khăn chúng ta gặp khi chúng ta muốn gỡ mình khỏi các tật xấu. Chúng không muốn bỏ đi. Chúng ta chịu thua hay là chúng ta biết tin tưởng vào lời của Đức Giêsu, lời vẫn vang lên mỗi ngày trong lòng các cộng đoàn của chúng ta?
Bài đọc I và Tin Mừng muốn chứng minh rằng Đức Giê-su thực hiện ở nơi con người của Ngài: TN4-B18
Bài đọc I và Tin Mừng muốn chứng minh rằng Đức Giê-su thực hiện ở nơi con người của Ngài một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en: vị Ngôn Sứ tuyệt hảo đến từ họ và ở giữa họ.
Đnl 18: 21-28 Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê tiên báo và quy định định chế ngôn sứ. Ông cảnh giác chống lại những "ngôn sứ mạo danh" nhưng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Ngài sẽ là "Phát Ngôn Viên của Thiên Chúa" bên cạnh dân Ngài.
Mc 1: 21-28 Trong Đoạn Tin Mừng nầy, thánh ký Mác-cô muốn giới thiệu Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm, phát ngôn viên của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài và cũng là phát ngôn viên của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.
1Cr 7: 32-35 Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.
BÀI ĐỌC I Đnl 18: 15-20
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách sau cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi sách To-ra và chúng ta dịch sách "Luật".
Nhan đề "Đệ Nhị Luật" theo nguyên ngữ Hy lạp:
"deuteronomos": "deuteros", "thứ hai"; và "nomos", "luật", có nghĩa "thứ luật" hay "luật thứ hai". Quả thật, sách nầy được đặt vào trong bối cảnh ông Mô sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Chúa như lời di chúc của ông trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên; chủ yếu gồm có ba bài diễn từ của ông Mô-sê, theo thể loại văn chương hư cấu và với một hậu ý thần học. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều nầy muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng.
Quả thật, Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Kể từ đó, luồng sinh khí nồng nhiệt lúc ban đầu đã trôi qua. Nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tư tình cảm tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.
1. Định chế ngôn sứ.
Đoạn văn nầy được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên vấn đề định chế ngôn sứ.
Theo văn mạch, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng là một người trong họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15). Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính "từ giữa đồng bào của anh em" mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn viên của Ngài bên cạnh dân Ngài: "Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả nhữn gì Ta truyền cho người ấy".
Đây không cốt là một ngôn sứ độc nhất, nhưng là một vị ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Sau nầy, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất từ lâu, người ta sẽ đọc lại bản văn theo một cách khác và người ta sẽ hiểu ở nơi lời loan báo nầy một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời đại Thiên Sai, một Mô-sê mới. Quả thật, những người được giáo quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" (Ga 1: 21).
Nhưng ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát. Câu sau cùng của đoạn trích nầy nói một cách rõ ràng hơn: "Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết".
2. Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống.
Lời loan báo nầy đáp lại ước vọng của dân chúng, vì tại núi Khô-rép trong ngọn lửa sáng rực chỉ một mình Mô-sê mới có thể tiến gần đến Thiên Chúa và đàm đạo với Ngài diện đối diện mà không phải chết: "Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất" (Xh 20: 19).
Đây là sự sợ hãi linh thánh phổ quát vì người ta tin rằng không ai thấy Thần Linh mà có thể sống được. Giữa Thần Linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo lỡ may nhìn thấy Thần đến nhận của lễ chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì "ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối" (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi qua báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế ông chỉ nghe tiếng nói (1V 19: 12-13).
Được đọc trong ánh sáng Tân Ước, bản văn Đệ Nhật Luật nầy mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó: Đức Giê-su là vị ngôn sứ nầy, Ngôi Lời Thiên Chúa, phát ngôn viên trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hữu hình ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết nhưng trái lại đón nhận "ân nầy đến ân khác" của Ngài nữa.
BÀI ĐỌC II 1Cr 7: 32-36
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực "chuyên lo việc Chúa". Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân.
1. Kinh nghiệm bản thân.
Cách giải thích thứ nhất là kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thánh nhân là người lữ hành của Thiên Chúa, ngài rong ruỗi trên khắp mọi nẽo đường, tận tâm tận lực chu toàn "sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân". Vì thế, ở trên một chút, thánh nhân không ngần ngại nêu đời sống độc thân của mình ra làm gương: "Tôi ước muốn mọi người đều như tôi" (1Cr 7: 7).
2. Quan niệm văn hóa và xã hội.
Cách giải thích thứ hai thuộc quan niệm văn hóa của thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Thế nên, đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những bận tâm vật chất trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế, chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc "chuyên lo phục vụ Chúa".
Việc vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân tạo nên rào chắn cho sự phát triển về một nhận thức bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki tô giáo. Quả thật, môi trường Cô-rin-tô thấm đẳm bầu khí văn hóa Hy lạp, vì thế, những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư nầy, ngài nhắc nhở họ trong các buỗi họp cộng đồng không nên để đầu trần và lên tiếng, vì người nữ phải im lặng và phục tòng, vân vân. Về quan điểm nầy, thánh nhân vẫn bị ảnh hưởng rất sâu đậm bởi những quan niệm kém tiến bộ của Do thái giáo. Tuy nhiên, ngài biết công bố sự bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: "Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam" (1Cr 11: 11).
TIN MỪNG Mc 1: 21-28
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ cho đến tận thành Ca-phác-na-um.
1. Thành Ca-phác-na-um.
Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pha-lệ-tinh, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế thành phố được mệnh danh là "Ngã Tư Quốc Tế". Chính ở đó mà Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ kín đáo của sứ điệp phổ quát của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau nầy các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô sẽ theo gương của Ngài.
Hội đường không là đền thờ, nhưng chỉ là nơi tụ họp và cầu nguyện (chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và giáo sĩ). Người ta tụ họp ở đây vào ngày sa-bát (luôn luôn vào buổi sáng) để đọc các đoạn văn Luật và ngôn sứ, hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự ý hay được chỉ định, có thể đọc và diễn giải những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su lên tiếng vào phụng vụ sa-bát.
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Thánh ký chú tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài. Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của Con Người thanh sạch và hoàn hảo đến nổi không sự ác độc thâm hiểm nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài.
Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm.
2. Đức Giê-su giảng dạy:
"Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư". Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo từ những trường lớp về những giải thích và những chú giải tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc thầy của họ. Riêng một mình Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ trường lớp nào, và cũng không quy chiếu đến bất kỳ "kinh sư" hay "bậc tôn sư" nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
3. Dấu chỉ kèm theo:
Một con người mà không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến quỷ Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử thấu hiểu mầu nhiệm của con người nầy; ở Ca-pha-na-um, nó tự diễn tả qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác buộc phải nói sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: "Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm.
Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là độc nhất; nó còn xảy ra ở nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: "Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai" (Mc 1: 34).
4. Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su còn muốn dành riêng bí mật của con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi "bí mật Thiên sai" của Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng nầy, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được vén mở căn tính của Ngài, cũng như Ngài những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Người ta dể dàng hiểu được thái độ nầy của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thực hiện: hình ảnh của một Đấng Thiên Sai "nhân hậu và khiêm tốn tận đáy lòng", hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể bày tỏ rõ ràng sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu luôn luôn chúng ta nhận ra một Chúa Chúa Giêsu đầy tình: TN4-B19
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu luôn luôn chúng ta nhận ra một Chúa Chúa Giêsu đầy tình thương, hay chạnh lòng thương xót, nhưng cũng là một Chúa luôn đầy quyền năng và có sức mạnh siêu phàm.Lời của Chúa luôn có sức mạnh giải thoát và cứu rỗi. Đọan Tin Mừng của thánh Marcô 1, 21-28 nói lên điều đó. Chúng ta hãy đi vào cốt lõi của đọan Tin Mừng này và ý của Chúa nhật IV thương niên, năm B nhắm tới.
NHỮNG VIỆC KHÓ KHĂN CHÚNG TA NHẬN RA:
Sống ở đời, chắc chắn không ai mà không có lúc gặp phải vấn đề khó nan giải: vấn đề khó khăn có thể do mình gây ra, có thể do người khác, do môi trường, do bối cảnh ảnh hưởng đến mình. Ngộ dả lúc đó, có một ai đó giúp mình giải quyết được khó khăn ấy, chắc chắn mình sẽ sung sướng, phấn khởi biết chừng nào. Việc bà Anna không con, bà Eâlisabeth không thể thụ thai trong lúc cao niên và việc ma quỷ ám, ma quỷ quấy rầy mà các bản Kinh Thánh thuật lại, quả đó là những sự khó khăn ngoài tầm tay của con người. Việc bà Anna, bà Isave được Thiên Chúa nhậm lời cho thụ thai, sinh con trai, bà Anna và chồng bà, ông Giacaria và bà Isave rất vui mừng và tràn đầy sung sướng. Người bị quỷ ám, thân nhân của anh và những người Do Thái chứng kiến Chúa chữa lành cho anh ta, chắc chắn họ đều hạnh phúc và vui mừng. Bởi đây là dấu chứng Thiên Chúa yêu thương con người và dùng quyền năng để cứu giúp những kẻ khốn khó, những kẻ bất hạnh vv…
CON NGƯỜI CHỈ CÓ GIỚI HẠN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT NHỮNG BẤT HẠNH, NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CUỘC SỐNG:
Với đà tiến của văn minh nhân loại, với khoa kỹ thuật càng ngày càng cao, con người có thể càng lúc càng giải quyết được nhiều khó khăn trong cuộc sống. Nhiều vụ việc, nhiều vấn đề, nhiều nỗi khó khăn trong cuộc sống xem ra không còn là nan giải, không thể tìm ra lời giải đáp nữa. Và xem ra khoa học, y khoa, tâm lý càng ngày càng đẩy lùi được nhiều những nỗi bất hạnh, những ám ảnh của cuộc sống. Tuy nhiên, một sự thực hiển nhiên chúng ta phải công nhận dù con người có tài giỏi đến đâu, khoa học có lên cao mấy đi nữa thì còn biết bao khó khăn, biết bao vấn đề vẫn là nỗi ám ảnh của con người không thể giải quyết nổi chẳng hạn như tội lỗi, sự dữ, những thói hư nết xấu. Tất cả những điều ấy, những vấn đề ấy khoa học và con người vẫn không làm sao giải quyết được.
ĐỨNG TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ NAN GIẢI ẤY CON NGƯỜI PHẢI LÀM GÌ ?:
Trước những vấn đề nan giải ấy, con người chỉ có một cách là đến với Thiên Chúa. Đọan Tin Mừng hôm nay muốn nói đến uy quyền của Lời Chúa:” Người giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ “( Mc 1, 22 ). Chúa có uy quyền bởi vì Ngài dùng quyền của Ngài để giảng dạy chứ không dùng thế giá, dùng quyền của người khác. Chúa hoàn toàn khác với bọn Biệt phái và Luật sĩ luôn chỉ gò bó luật lệ theo cái nhìn, theo sự suy nghĩ của họ. Lời của Chúa là một giáo lý mới. Chính sự mới mẻ của Lời Chúa làm cho nhiều người tin nhận chúa là Đấng Cứu Thế và do đó, danh tiếng của Ngài vang dội khắp vùng Galilêa. Lời của Chúa khiến cho các thần ô uế phải vâng theo ( Mc 1, 27 ). Do đó, Lời của Chúa có tính cách cứu rỗi. Lời của Chúa không chỉ có uy quyền lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy nhưng Lời của Ngài đang có trong hiện tại của Giáo Hội.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Càng đọc Tin Mừng, càng có đức tin, chúng ta càng thấy sức mạnh của Lời Chúa và uy quyền của Chúa Giêsu. Chính vì thế ai biết đón nhận, biết tin theo, biết thực thi Lời của Chúa thì chắc chắn sẽ thoát được các bất hạnh trong đời sống, nhất là đời sống tinh thần và thiêng liêng. Chúng ta chân thành cầu nguyện như cha mẹ ông Samson, cha mẹ ông Giacóp, cha mẹ của Giuse, của Maria và của bà Anna, chắc chắn sẽ nhận được sự trợ giúp của Chúa. Do đó, sống Lời Chúa, chính là soi mình vào Chúa Giêsu:” Lời Chúa là đèn soi cho con bước.Là ánh sáng chỉ đường cho con đi “( Tv 118, 105 ).
Lạy Chúa, xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra uy quyền và sức mạnh của Lời Chúa. Amen.
Trong Chúa Nhật trước, Chúa Giêsu đã mở đầu công cuộc truyền giáo bằng lời kêu gọi: TN4-B20
Trong Chúa Nhật trước, Chúa Giêsu đã mở đầu công cuộc truyền giáo bằng lời kêu gọi chúng ta “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Trong Chúa Nhật này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta lời Thánh vịnh 95 “Hôm nay nghe tiếng Chúa, anh em đừng cứng lòng!” Đây là điều kiện để chúng ta có thể chừa bỏ tội lỗi và ‘cải tà quy chính!’
Bài Đọc I (Thứ Luật 18, 15-20) nói đến vai trò của Ông Mosê như một Tiên Tri lớn đã được Chúa gọi để dẫn dắt Dân Chúa ra khỏi đất Ai cập, vượt qua Biển Đỏ, đi qua sa mạc gian khổ để trở về quê hương thật của mình là đất Chúa đã hứa cho các tổ phụ. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 21-28) nói đến việc Chúa Giêsu đến Caphanaum. Vào một ngày Sa-bát, Chúa đã vào Hội Đường để giảng dạy, và lời giảng dạy của Ngài có một sức mạnh như một người có uy quyền, và Ngài đã dùng quyền Thiên Chúa để trừ qủy ô uế, và người bị qủy ám đã được lành mạnh. Trong Bài Đọc II (1 Corinto 7, 32-35), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: mỗi người tùy theo ơn gọi của mình, hoặc lập gia đình, hoặc sống độc thân ‘vì Nước Trời’, chúng ta phải luôn cố gắng chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa, để làm đẹp lòng Chúa và phục vụ đồng loại.
Trong cuộc hành trình trở về Đất Hứa (Promised Land), Dân Chúa đã phải trải qua bao gian khổ, bao hy sinh. Trước hết, họ phải từ bỏ nếp sống bình thường ở Ai cập, phải ‘vượt Biển Đỏ’ và sau đó vượt qua sa mạc Sinai mênh mông khô cằn, theo một lộ trình thật dài. Trong cuộc hành trình đó, nhiều lần Dân Chúa chịu đựng không nổi cảnh khổ cực, đã ‘cứng lòng’, đã ‘nổi loạn’ chống lại Ông Mosê, và đòi trở lại Ai cập dù phải sống trong cảnh nô lệ, nhưng còn có đủ ăn, và cảnh sống cực khổ hơn. Có lần họ đã định bỏ Chúa để ‘thờ bò vàng.’ Tuy nhiên, qua Ông Mose, Thiên Chúa vẫn đồng hành với họ, nuôi sống họ bằng Manna, ban cho họ “Mười Giới Răn” để hướng dẫn họ sống xứng đáng những con người ‘đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa’. Mosê đã được ơn Chúa nâng đỡ, kiên trì lãnh đạo Dân Chúa, cuối cùng Dân Chúa đã về tới Quê Hương thật của mình, miền “Đất Hứa!”
Chúng ta, những tín hữu của Chúa, chúng ta được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, vượt qua ‘Biển Đỏ,’ hình ảnh của Bí Tích Thanh Tẩy chúng ta đã lãnh nhận. Sau đó, chúng ta lên đường cùng với Giáo Hội, dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu qua các vị chủ chăn, để cùng tiến về quê hương thật của chúng ta là Nước Trời. Trong cuộc hành trình đức tin đó, chúng ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời, chúng ta cũng gặp bao gian khổ, thử thách, những cám dỗ ‘thờ bò vàng’, những cám dỗ xa lìa giới răn của Chúa. Nhưng Chúa vẫn ở với chúng ta, vẫn đồng hành với chúng ta (Matthêu 28, 20), nâng đỡ chúng ta bằng Ơn Thánh Chúa qua các Phép Bí Tích; đặc biệt nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời Chúa và bằng chính “Mình Máu Thánh Chúa.” Điều quan trọng là chúng ta phải luôn khiêm nhường, lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh và “đừng cứng lòng!” Có những lúc chúng ta vấp ngã, chúng ta hãy can đảm đứng lên, suy gẫm cuộc khổ nạn của Chúa để cứu chuộc chúng ta, rồi kiên vững bước tới. Hôm nay và ngày mai, và cùng với thời gian ‘qua đi mau chóng’ chúng ta sẽ vượt qua được tất cả để cùng tiến vào ‘quê hương thật’. Chính Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta cũng đã xuống thế làm người, sống thân phận như một con người nghèo khó, chấp nhận mọi khổ đau, chống đối, ghét bỏ, và sau cùng đã chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nhưng Người đã sống lại, và lên Trời vinh hiển để mở đường về Trời cho chúng ta.
Xin cầu nguyện chung cho nhau, nâng đỡ lẫn nhau, để chúng ta cùng có một Đức Tin luôn kiên vững trong cuộc hành trình đi qua sa mạc cuộc đời và cùng nhau tiến về Quê Hương Nước Trời.
Lời Chúa vẫn làm những việc kỳ diệu nơi cộng đoàn dân Chúa. Chẳng hạn Dòng Nữ Đa Minh: TN4-B21
Lời Chúa vẫn làm những việc kỳ diệu nơi cộng đoàn dân Chúa. Chẳng hạn Dòng Nữ Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại tại Houston đang tiến những bước ngoạn mục tại cộng đồng Công giáo địa phương. Số phận anh em Đa Minh Việt Nam không được may mắn như thế. Nghĩa là bước tiến không đều nhịp. Niềm vui không trọn vẹn. Nhưng chính nơi niềm vui không trọn vẹn đó, lời Ngôn sứ Maria trong kinh Magnificat đã được thực hiện trọn vẹn trong hoàn cảnh hôm nay.
Vị Ngôn sứ đó đã cống hiến cho đời một Ngôn sứ vĩ đại khiến “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 1:22).
Hôm nay nhân loại cũng đang mong ước có một vị ngôn sứ như thế. Nhưng thử hỏi có ai lấp đầy niềm hi vọng đó không
NHẬN DIỆN NIỀM HI VỌNG
Thời Đức Giêsu, dân Do thái ngưỡng vọng về một ngôn sứ như Thiên Chúa đã hứa với Môsê: “Thiên Chúa của anh em sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em ; anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18:15). Phải đợi tới bao giờ vị ngôn sứ đó mới xuất hiện ? Toàn dân có đủ kiên nhẫn chờ đợi thêm nữa không ? Sách Talmud cho thấy “tinh thần ngôn sứ đã tắt ngúm và cạn kiệt trong dân Israel với ngôn sứ Haggai, Giacaria, và Malakhi”(Yoma 9b). “Cho tới lúc đó, các ngôn sứ được tiên báo bằng hành động Thánh Linh ; do đó hãy lắng tai nghe những lời khôn ngoan của ho.” (Seder ‘Olam Rabbah 30). Chẳng còn ai xứng đáng nói thay Chúa như các ngôn sứ nữa. Tình thế hoàn toàn thất vọng. Chỉ còn niềm hi vọng cánh chung mới nuôi sống niềm mong đợi một vị ngôn sứ như Môsê đã hứa (Đnl 18:15-20).
Giữa lúc toàn dân thất vọng như thế, Đức Giêsu đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1:27). Uy quyền đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế” (c.23). Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c.24) “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng-Được-Xức-Dầu, được thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân Ước 1995:185). Sức mạnh Người đáng sợ đến nỗi ma quỉ cũng phải thét lên trước khi trở về cõi im lặng ngàn thu, nhường bước cho Ngôi Lời hoạt động để xây dựng Nước Trời. Hoạt động đó gây “kinh ngạc đến nỗi mọi người bàn tán với nhau: ‘Thế nghĩa là gì ? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”(Mc 1:27). Khác hẳn với các người Biệt phái với mớ giáo lý nhàm chán, thái độ kênh kiệu, và những tập tục phức tạp, Đức Giêsu đến thổi luồng gió mới vào cuộc sống con người và xã hội Do thái. “Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ trong sách Đệ nhị luật, khai mở thời đại cánh chung với lời mời gọi sám hối” (Cv 3:22; 7:37) (Faley 1994:129).
Kêu gọi sám hối là đụng tới quyền lợi của nhiều hạng người trong xã hội. Sám hối là xoay ngược tình thế, vì bắt mọi người phải từ bỏ lối nhìn, quyền lợi và những thói quen cố hữu. Lúc đó, “Carphanaum là một thành phố thịnh vượng, giàu có, tội lỗi và sa đọa. Vì Carphanaum là cơ quan đầu não của quân đội Rôma, tràn lan những ảnh hưởng ngoại giáo từ khắp đế quốc Rôma” (Life Application Study Bible 1991:1727). Bởi đó, lời giảng của Đức Giêsu trở thành một thách đố lớn lao cho thính giả của Người. Trước mặt quần chúng, Người xuất hiện như một Đấng có “uy quyền”, cao cả như một “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, và hành động mạnh mẽ như một Thiên Sai. Người cho mọi người thấy “thời cánh chung đã điểm với chiến thắng quyết liệt của Giavê và thảm bại của ma quỉ” (Faley 1994:131). Chiến thắng đó chính là chiến thắng của sự sống trên sự chết. Tất cả sẽ được đổi mới. Một mùa xuân đã đến với nhân loại. “Chính việc Đức Giêsu chiến thắng quyền lực ma quỉ đã mở màn thời đại Thiên sai và loan báo Nước Thiên Chúa” (Faley 1994:131).
NGÔN SỨ HÔM NAY
Khác hẳn Cựu ước, Tân Ước cung cấp những ngôn sứ loan báo Tin Mừng, thay vì những lời đe loi, hăm dọa, kết án. Tin Mừng đó có nguồn gốc sâu xa và nền tảng vững chắc trong Chúa phục sinh và vinh quang. Bởi vậy làm ngôn sứ có nghĩa là “làm chứng cho Đức Giêsu” (Kh 19:10) và “làm cho lời Chúa thành hiện thực, sống động và trực tiếp ảnh hưởng tới cộng đoàn” (Fisichella 1995:794). Không có ngôn sứ, cộng đoàn không thể thành hình, vì theo thánh Phaolô, “người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh”(1 Cr 14:4).
Chính nhờ ngôn sứ, dân Chúa lấy lại được “can đảm và nghe được sứ điệp cứu độ”(Fisichella 1995:794). Nói khác, “có đức tin là nhờ nghe giảng mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10:17), trung tâm và nền tảng lời ngôn sứ. Một ngôn sứ nhát đảm không thể chu toàn sứ mệnh đó. Làm chứng cho sự thật, bênh vực công lý, chiến đấu cho hòa bình và sự sống nhân loại không phải là chuyện dễ. Nhưng đó lại là sứ mệnh đặc biệt của một ngôn sứ. Chính vì thế ngôn sứ rất cần thiết cho nhân loại, nhưng lại là một chướng ngại cho những nhà lãnh đạo tắc trách. Đức Giêsu đã trở thành đối thủ nguy hiểm cho những nhà lãnh đạo Do thái vì “danh tiếng Người đồn ra mọi nơi” (Mc 1:28), thu hút hết quần chúng (c.Mc 2:13) và đe dọa quyền lợi của họ. Dù bị đe dọa, Đức Giêsu vẫn can đảm vạch rõ những dấu chỉ về tình yêu Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại một cách mãnh liệt.
Ngôn sứ hôm nay không thể đi con đường nào khác. Họ phải “chuẩn bị cho dân Chúa đọc dấu chỉ thời đại, tạo nên những dấu chỉ mới, làm cho sứ điệp cứu độ thành hiện thực đáp ứng những nhu cầu thời đại”(Fisichella 1995:796). Không đọc được những dấu chỉ đó, không thể tìm thấy ý nghĩa cuộc đời và niềm tin chúng ta. Giữa những thách đố hôm nay, không có lời ngôn sứ, Kitô hữu sẽ chao đảo và không tìm được lối thoát. Họ cần lời ngôn sứ như một chiếc phao cho niềm hi vọng cuối cùng giữa biển đời mịt mùng. Nhìn lên Thánh giá của Đức Giêsu Nazareth là dấu chỉ tiên tri rõ hơn mọi dấu chỉ, người Kitô hữu thấy đươc dung nhan của Đấng chịu đóng đinh như phản ánh vinh quang Thiên Chúa (x.Fisichella 1995:797), và tìm được sức mạnh vượt qua mọi thử thách và đau khổ hiện tại. Do đó sứ ngôn trở thành lời tạo niềm phấn khởi, tin tưởng và hi vọng cho muôn dân.
Nhưng trên hết “các ngôn sứ hiện diện như những dấu chỉ của một tình yêu tận hiến suốt đời” (Fisichella 1995:797), tình yêu làm nên tất cả, nhất là đã trả lại cho ta ý nghĩa và giá trị cuộc sống nhờ cái chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Lời Chúa trở thành sức mạnh vạn năng, “tác nhân thúc đẩy chúng ta khám phá ý nghĩa cuộc sống, nhưng đồng thời giúp chúng ta trách nhiệm về chính cuộc đời mình” (Fisichella 1995:797). Sứ mệnh rao giảng Lời Chúa đã biến ngôn sứ thành người hướng dẫn lịch sử nhân loại “trong ánh sáng biến cố của Đức Giêsu Nazareth và trong niềm mong đợi Chúa đến trong vinh quang”(Fisichella 1995:797). Hôm nay Chúa vẫn hiện diện trong những biến cố nhân loại. Nước Thiên Chúa đang thành hình qua những sự việc có thể xảy ra, những thách đố, và những nguy cơ trong cuộc sống hằng ngày (x.Bergant 1993: 783). Tất cả đều xoay quanh biến cố Đức Giêsu chết và sống lại để cứu độ muôn dân. Ngôn sứ phải khai quật được ý nghĩa đó mới có thể hướng dẫn nhân loại hoàn thành lịch sử.
Lịch sử đang xoay vần về Á Châu. Các ngôn sứ đang ráo riết hoạt động để khai phá một con đường mới cho Đức Giêsu đi vào lòng người và xã hội. Những bí mật về chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang dần dần được mạc khải qua nếp sống văn hóa và tôn giáo của dân tộc. Người tín hữu cần được sứ ngôn huấn luyện để đọc được mạc khải đó. Vì chính ý thức “Đức Giêsu như sứ ngôn của Chúa Cha tóm kết ý nghĩa toàn thể Tân Ước” (Fisichella 1995:796).
Ngay sau khi tới Capharnaum, ngày hưu lễ tiếp theo đó, Đức Giêsu không để mất thì giờ, Ngài hoạt: TN4-B22
Ngay sau khi tới Capharnaum, ngày hưu lễ tiếp theo đó, Đức Giêsu không để mất thì giờ, Ngài hoạt động liền. Hồi bấy giờ xứ Palestine có nhiều hội đường. Những thành phố nhỏ cũng có.
1. Cách tổ chức hội đường.
Hội đường khác với đền thờ. Hội đường thì có nhiều, còn đền thờ thì chỉ có một ở Giêrusalem. Một buổi họp lại ở hội đường chỉ gồm 3 việc: cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải lời ấy. Không có cử nhạc, hát xướng, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói: đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ chỉ bảo.
Luật pháp qui định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do thái, thì phải có một hội đường. Do đó, bất kỳ nơi nào một nhóm người Do thái định cư thì có một hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi thuận tiện cho người ấy trình bầy. Đức Giêsu cũng biết lợi dụng tập tục này để giới thiệu giáo thuyết của mình.
2. Sinh hoạt trong hội đường.
Việc phụng vụ trong hội đường chia làm hai phần: phần đầu là phần phụng vụ thực sự. Trong phần này, người ta hát các bài chúc tụng Chúa. Phần thứ hai là phần giáo huấn, người ta đọc sách Luật hoặc các tiên tri. Đọc rồi, ông hội trưởng hoặc chính ông mời vị nào có tiếng, cắt nghĩa đoạn văn đó.
Khi mọi người họp lại trong hội đường và buổi họp bắt đầu thì ông trưởng hội đường có nhiệm vụ chỉ định người có trách nhiệm giảng giải, trình bầy kinh điển hay một thông điệp mới. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Đức Giêsu có thể lợi dụng dịp thuận tiện này để trình bầy thông điệp mới mẻ của mình.
Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Ngài không dạy như các luật sĩ là các chuyên viên về luật pháp. Các luật sĩ này là ai ? Theo người Do thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật pháp và kinh Torak. Trái tim của luật pháp là Mười điều răn, nhưng người Do thái hiểu luật pháp là 5 quyển đầu của Cựu ước mà ta gọi là Ngũ kinh (Pantateuch). Theo người Do thái, luật pháp ấy đến hoàn toàn từ Thiên Chúa. Họ tin rằng luật pháp vốn được Thiên Chúa trực tiếp trao cho Maisen, nó hoàn toàn thánh khiết và có tính cách ràng buộc tuyệt đối.
3. Đức Giêsu giảng dạy tại hội đường.
Ngày hưu lễ hôm đó, Đức Giêsu được mời chú giải đoạn văn vừa đọc, có lẽ cũng là đoạn văn Ngài đã chú giải ở Nazareth, thánh Luca kể lại (Lc 4,16-22). Ngài đã làm kinh ngạc mọi thính giả.
Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Thính giả mỗi ngày một đông, gồm đủ thành phần. Nhưng ai nấy đều nhận định rằng: Ngài không dạy như các luật sĩ. Các ông này thường nại đến thế giá những người xưa. Lý tưởng các ông là trao lại nguyên vẹn giáo lý họ đã lãnh nhận, không thêm mà cũng không bớt. Trái lại, về mọi vấn đề, Đức Giêsu cóù sẵn mọi cái để giải quyết. Ngài cũng chẳng ngần ngại dạy những điều đi ngược với người xưa, hoặc sửa lại cho hoàn hảo. “Đã nói cho người xưa rằng...Phần Ta, Ta bảo các ngươi”(Mt 5,21t).
Nói tóm lại, các luật sĩ là tiếng nói của tập truyền, còn Đức Giêsu là tiếng nói riêng của Ngài. Ngài có cả quyền chuẩn y hoặc khước từ hoặc sửa sai tập truyền nữa. Lẽ dĩ nhiên kẻ cho mình cái quyền này, trong thời gian mà các luật sĩ và biệt phái dành cho mình độc quyền thiêng liêng, thì tất nhiên là con người hành động “như có uy quyền”.
4. Đức Giêsu chữa người bị qủi nhập.
Đức Giêsu tỏ ra có uy quyền trong lãnh vực giáo thuyết, Ngài còn tỏ ra có uy quyền trên lãnh vực hành động và biểu lộ quyền năng ấy bằng phép lạ chữa khỏi người bị thần ô uế ám để chứng minh giáo lý Ngài dạy.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại:”Trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi” ? Thần ô uế đây là ma qủi: chữ “ô uế” trong Tân ước gắn liền với chữ “qủi” tới 23 lần. Ma qủi tỏ ra khổ cực và khiếp đảm khi gặp Đức Giêsu và Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủi, giải thoát nhân loại khỏi quyền lực ấy. Chính vì vậy, mà ma qủi kêu lên như thầm xin với Ngài để mặc chúng. Qủi đang tuyên xưng danh Ngài thì Ngài quát mắng nó:”Câm đi, và ra khỏi người này”. Nó liền vật ngã người đó xuống, thét lên một tiếng rồi xuấùt ra.
Những khán thính giả đã được nghe và chứng kiến về giáo lý và việc trừ qủi của Đức Giêsu đều kinh ngạc vì họ nhận ra một cái gì mới mẻ nơi Đức Giêsu. Cái mới mẻ đó dẫn được họ tin nhận Chúa là Đấng Cứu thế. Chính vì cái mới mẻ đó mà danh tiếng của Đức Giêsu được lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Đức Giêsu đã thực sự trừ qủi trước mặt mọi khán thính giả. Thiết tưởng cũng cần phải phân biệt ma và qủi. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma qủi. Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe doạ hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn qủi là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đầy xuống hoả ngục. Như vậy, ma có không ? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ... thì không có.
Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xẩy ra trong một số trường hợp rất hoạ hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Thiên Chúa, để đương sự nhắn nhủ một điều gì đó với người sống, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn qủi thì sao ? Phải công nhận là có, vì Kinh thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Đức Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật B, tr 52).
II. THEO ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CÓ UY QUYỀN.
1. Hai vương quốc, hai thủ lãnh.
Trong hội đường hôm nay, khi trông thấy Đức Giêsu đầy uy quyền , ma qủi đã phải thốt lên:”Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng thánh của Thiên Chúa” ! Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó:”Câm đi, hãy xuất khỏi người này”. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu có quyền trên ma qủi, và vương quốc Đức Giêsu thiết lập trên trần gian này cũng trổi vượt trên vương quốc của ma qủi.
Trong cuốn “Linh thao” của thánh Ignace de Loyola, thánh nhân có hướng dẫn suy niệm về hai cờ hiệu (étandard): cờ hiệu của Đức Kitô, vị chỉ huy tối cao và Chúa chúng ta ; cờ hiệu của Lucifer kẻ tử thù của bản tính loài người chúng ta. Đức Kitô kêu gọi và muốn cho mọi người ở dưới bóng cờ Ngài ; và ngược lại, Lucifer (cũng gọi và muốn cho mọi người) ở dưới cờ của nó. Như vậy là có cuộc chiến khốc liệt giữa vương quốc của Đức Kitô và của ma qủi.
Việc Đức Giêsu trừ qủi nói lên rằng vương quốc của Satan từng kìm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ từ khi Adong phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho vương quốc của Thiên Chúa.
Điều này gợi lên cho chúng ta một vấn nạn: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm trước, thế thì tại sao đến ngày hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng ? Hoặc nói cách khác: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao vương quốc Satan vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay ? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xẩy đến chỉ trong một lúc, mà là một chuyển động liên tục suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao trong lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn cầu khẩn:”Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Đức Giêsu trồng cây ấy, tức vương quốc, vào trong đất, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ chúng ta là chăm sóc làm sao cho vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo ý định Thiên Chúa.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 191)
2. Theo Đức Giêsu là thủ lãnh.
Giới trẻ ngày nay thích tìm những thần tượng để suy tôn, để bắt chước. Thần tượng của họ chỉ là những diễn viên, minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá, ca sĩ nhạc trẻ hoặc một nhà chính trị lừng danh. Nhưng những thần tượng đó chỉ nhất thời và cũng không đủ tiêu chuẩn để hướng dẫn đời họ, chỉ có một thần tượng tuyệt hảo là Đức Giêsu, có đủ mọi tiêu chuẩn để hướng dẫn cuộc sống của chúng ta một cách bảo đảm.
- Đức Giêsu là thủ lãnh trên đường đời của ta. Một thủ lãnh lôi cuốn bằng đời sống gương mẫu. Tin mừng hôm nay kể ma qủi khen Đức Giêsu qua miệng của đứa nó ám vào: Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa. Khen là Đấng thánh của Thiên Chúa thì chẳng còn cách nói nào khác hơn để ca tụng. Đời sống Chúa còn hoàn toàn hơn lời Ngài dạy. Thánh kinh nói:”Chúa bắt đầu làm rồi mới dạy”(Tđcv 1,1).
- Một thủ lãnh dạy một chủ thuyết đưa tới đời sống ấy. Tin Mừng hôm nay nói:”Người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như luật sĩ”(Mc 1,22).
- Một thủ lãnh cho sức mạnh để thực hiện đầy đủ đời sống ấy. Tin Mừng kể Chúa làm phép đuổi qủi. Việc ấy chứng tỏ Ngài có quyền năng của Thiên Chúa. Truyện: Theo anh là thủ lãnh.
Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:
- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh ? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em định đoạt.
Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:
- Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:
- Em có bỏ không ?
Lời thưa đầy hăng hái rằng:
- Em đã chẳng hứa với anh sao ?
Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.
3. Phục vụ cho thủ lãnh của mình
Sau khi đã tìm ra Đức Giêsu là thủ lãnh của đời ta, chắc chắn chúng ta phải tin theo Ngài, làm môn đệ của Ngài cũng như giới thiệu Ngài cho những người khác. Chúng ta theo gương các tông đồ mà phục vụ Chúa Giêsu và phục vụ cho Nước Ngài lan rộng khắp nơi. Thánh Ignace đã dạy chúng ta cầu nguyện để có tinh thần đó:
“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết tận lực mà không chờ phần thưởng nào khác, ngoài sự nhận biết là con đã làm theo thánh ý Chúa thôi”. Amen.
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng yêu Chúa rất nồng nàn, thánh nữ chỉ biết yêu trong việc phụng sự Chúa. Không gì làm cho thánh nữ buồn sầu, tất cả những gian lao thử thách chỉ làm cho ngài thêm yêu Chúa. Những ý tưởng ấy được thánh nữ gói ghém trong câu thơ sau đây:
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi, Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng. Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.
Truyện: Phụng sự cho ai ?
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, ta thấy cũng có một câu truyện dụ ngôn về một chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.
Truyện kể rằng: Có một người khổng lồ sống tại vùng đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lẫn sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.
Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá. Tình cờ anh nghe có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sống gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cẫu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:
Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.
Cậu bé mỉm cười đáp:
Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên trời và đất.
Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.
Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng khổng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.
Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
Sống trong một xã hội duy tự do dân chủ như ở Hoa Kỳ, không ít thì nhiều chúng ta cũng học: TN4-B23
Sống trong một xã hội duy tự do dân chủ như ở Hoa Kỳ, không ít thì nhiều chúng ta cũng học suy nghĩ theo văn hóa của xã hội này. Tự do dân chủ là điều tốt nhưng không tuyệt đối tốt. Vì tự do dân chủ quá cho nên xã hội chúng ta đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Nhiều người và nhiều gia đình đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Cha mẹ không bảo được con cái. Con cái không nghe lời cha mẹ. Ngoài xã hội người dân không chấp nhận luật pháp. Ai là người có quyền bính? Một thí dụ trong trường hợp của Cậu bé Elien 6 tuổi người Cuba. Cậu cùng với mẹ đi vượt biển qua Hoa Kỳ, nhưng không may mẹ cậu bị chết. Cậu đã được cảnh sát duyên hải Hoa Kỳ cứu sống sau nhiều giờ lênh đênh trên biển. Vấn đề đã gây nên cuộc tranh luận sôi nổi giữa chính phủ Cuba, chính phủ Hoa Kỳ, giữa gia đình của cậu ở Cuba, và thân nhân của cậu ở Miami. Ai là người có quyền để quyết định về tương lai của cậu bé Elien? Sở Di Trú hay Hạ Nghị Viện? Tòa án hay thân nhân trong gia đình? Trong Giáo Hội cũng có khủng hoảng về quyền bính. Nhiều người không đồng ý tuân theo giáo huấn của Giáo Hội về những vấn đề như ngừa thai, điều hòa sinh sản, phá thai, ly dị và tái hôn... Ai là người có quyền giáo huấn?
Các bài đọc hôm nay cũng đề cập đến quyền bính. Đó là quyền bính tối cao của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh sử Macô ghi lại, "Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chớ không như các luật sỹ."
Quyền Bính của Đấng Tiên Tri
Bài đọc thứ nhất Mai-sen nói với dân chúng là Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tiên tri mới giống như ông. Mai-sen là người đã đươc gặp Thiên Chúa nơi bụi gai. Ông đã đối thoại với Thiên Chúa. Ông đã nhận lệnh của Thiên Chúa. Ông đã luôn bàn hỏi tham khảo với Thiên Chúa, và ông cũng đã lên núi cao để yết kiến Thiên Chúa. Ngài đã trao cho ông hòm bia với mười giới răn để truyền dạy dân chúng. Thiên Chúa đã chọn Maisen. Và Maisen đã trung tín làm tròn sứ vụ Thiên Chúa trao phó cho ông. Ông đã nói lại cho dân chúng tất cả những gì Thiên Chúa truyền dạy ông. Chính vì có sự liên lạc mật thiết và trung tín với Thiên Chúa như thế cho nên lời nói của Maisen có uy tín mạnh mẽ.
Trong bài Phúc âm, chúng ta nghe và thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu không những chỉ là người gặp Thiên Chúa, nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa. Ngài biết Thiên Chúa và là một với Thiên Chúa. Uy quyền của Đức Kitô là uy quyền của Đấng Thiên Sai. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường ở Ca-pha-na-um, người ta đã rất đỗi ngạc nhiên.
Những người nghe Đức Giêsu giảng dạy và chứng kiến những việc Ngài làm đã nhận ra được chân dung của Ngài. Lời giảng dạy của Ngài không phải chỉ có chủ đích truyền đạt một mớ kiến thức lý thuyết. Nhưng Ngài còn giảng dạy với một tinh thần thâm tín yêu thương, hết lòng lo cho hạnh phúc của những người nghe Ngài. Do đó Ngài đã thuyết phục được lòng trí của những người nghe và đưa họ về với Thiên Chúa. Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa và Ngài giảng dạy tôn ý của Thiên Chúa Cha. Việc làm, lời giảng dạy và sự hiện diện của Ngài không những đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng và thán phục, mà còn làm cho cả ma quỷ cũng phải khiếp sợ.
Lời Giảng Có Uy
Ngày nay nhiều người trong chúng ta từ những vị linh mục hay tu sỹ đến những thầy cô dạy giáo lý và những người làm cha mẹ, chúng ta có trách nhiệm giảng dạy và nói về Thiên Chúa, nhưng được mấy người đã thực sự cảm nghiệm được trách nhiệm trọng đại này? Được mấy người có uy tín trong những lời giảng dạy của mình? Để cho lời giảng dạy của chúng ta có uy tín, nguyên việc lãnh chức, khấn dòng, nghi thức sai đi hay giấy chứng hôn thú không đủ cho chúng ta uy tín. Đó mới chỉ là dấu chỉ chúng ta được tuyển chọn. Mỗi người chúng ta còn cần phải thường xuyên gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa như Maisen và như Đức Giêsu đã làm. Chúng ta cũng cần ý thức trách nhiệm giảng dạy những gì Thiên Chúa truyền chứ không phải giảng dạy những gì chúng ta muốn. Muốn được như thế, chúng ta cần phải dành thời giờ để đi gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa để lãnh nhận lời truyền dạy của Ngài. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm để nhận định và phân biệt sự khác nhau giữa một bài thuyết trình theo kiến thức của sách vở và một bài thuyết trình theo sự hiểu biết và thâm tín của kinh nghiệm sống.
Có câu truyện kể rằng trong một buổi họp để thi tuyển tài nghệ diễn xuất. Một anh thanh niên học về ngành kịch ảnh sân khấu đã bước ra và dõng dạc đọc thuộc lòng thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Anh đã đọc với cung giọng trầm bổng dẽ dàng và rõ ràng với tài nghệ của một kịch sỹ để diễn tả ý nghĩa của thánh vịnh đó. Anh đã đọc thật hay và được khán thính giả yêu cầu đọc đi đọc lại ba lần với những tràng pháo tay tán thưởng vang dội.
Người thứ hai là một ông cụ già lưng hơi gù gù. Khi ông bước lên sân khấu thì mọi người im lặng. Giọng ông nhỏ nhẹ và phải chú ý mới có thể nghe được. Ông chậm rãi xướng lên thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Ông đọc với một tâm tình có sức cảm kích khác biệt. Khi ông đọc xong, thì cả cử tọa trong phòng im lặng. Mọi người đều cúi đầu và như âm thầm cầu nguyện. Vài phút sau, người thanh niên thứ nhất bước lên sân khấu nhận định, "Thưa quý vị. Như quý vị cảm nhận. Rõ ràng là tôi biết và thuộc thánh vịnh 23, nhưng còn ông cụ đây mới thực sự là người biết Đấng Chăn Chiên." (Jack Mc Ardle, 150 Stories for Preachers and Teachers # 5).
Thần Ô Uế
Điểm thứ hai chúng ta nhận thấy là sự hiện diện của thần ô uế. Bắt đầu công việc rao giảng là Đức Giêsu đã đối diện với thần ô uế như lời thánh Macô tường thuật. "Một người bị quỉ ô uế ám đã nhận ra danh tánh của Đức Giêsu và kêu lên, "Hỡi ông Giêsu Nagiaret, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa." Đức Giêsu đã quát bảo nó, "Hãy im đi và ra khỏi người này." Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi ra khỏi người ấy.
Ngày nay có lẽ nhiều người không còn nghĩ đến ảnh hưởng của thần ô uế bởi vì chúng ta có khuynh hướng cắt nghĩa theo khoa học tâm lý. Con người ngày nay thường dùng khoa trị liệu tâm lý để giải đoán hầu hết những hiện tượng không tự nhiên hay bất bình thường. Có phải việc tin là có sự quấy phá của thần ô uế đã trở nên quá cổ xưa hay không? Cuốn phim "The Exocist" thực hiện hồi thập niên 1970s đã dựa trên một chuyện có thật về một cậu bé 14 tuổi sống ở Mt. Rainier, Maryland năm 1949. Tuần báo Neweek đã diễn tả như sau: "những khung hình, ghế và giường của cậu bé tự nhiên di động. Ban đêm thì cậu không thể ngủ được. Sau khi được đưa vào bệnh viện của đại học Georgetown... cậu bé bắt đầu phun ra những lời chửi thề bằng những ngôn ngữ cổ xưa. Có một lần trong khi cậu đang bị trói cột chặt trên giường thì tự nhiên có những lằn rạch đỏ hiện lên trên thân mình của cậu." Cậu đã được giải thoát nhờ nghi thức trừ quỷ và cậu đang sống ở Wahsington D. C.. Vị linh mục già tham dự vào việc trừ quỷ cho cậu đã thề hứa không nói về vấn đề này. Ngài chỉ nói rằng kinh nghiệm đó đã có ảnh hưởng mạnh và thật sự thay đổi cuộc sống của ngài tốt hơn (Mark Link, Sunday Homilies).
Những Hình Thức Ô Uế
Chúng ta phải tin rằng ma quỷ vẫn hiện diện và lộng hành quấy phá. Nó lộng hành quấy phá nơi đời sống mỗi cá nhân, trong gia đình, ngoài cộng đoàn hay trong xã hội... Chúng quấy phá dưới nhiều hình thức. Chúng làm cho chúng ta, cho gia đình chúng ta và cho cộng đoàn giáo xứ ra ô uế. Chúng thổi sự ô uế của kiêu căng, tự phụ, ghen ghét, hằn thù, nói hành, chia rẽ, bè phái, tà dâm, hãm hiếp, trộm cắp, giết người, gian tham, lười biếng, hà tiện, nghiện ngập cờ bạc, rượu chè, xì ke ma túy, ly dị, chiến tranh, và muôn vàn hình thức ô uế khác. Muốn loại trừ thần ô uế ra khỏi cuộc sống, chúng ta phải đến gần Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa Giêsu mới có uy quyền xua đuổi thần ô uế ra khỏi chúng ta.
Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật (Đnl, là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư). Năm cuốn sách đầu: TN4-B24
Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật (Đnl, là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư). Năm cuốn sách đầu của bộ Kinh Thánh gọi là Ngũ Thư.
Do Thái coi Ngũ Thư là Torah (Luật) vì trong đó gồm tất cả mọi lề luật và định chế chi phối toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, phụng tự, đạo đức, xã hội của dân tộc Israel. Nét nổi bật là Luật do chính Chúa truyền qua trung gian Môisê và mọi điều khoản của Luật xuất phát từ những nhận thức tôn giáo của dân. Có thể nói đây là sưu tập và tổng hợp những luật dân sự, hình sự, tôn giáo, tế tự và xã hội được trình bày như hiến chương của Giao ước. Do đó, việc công bố Luật gắn liền với trình thuật các biến cố trong hoang địa, nơi ký kết Giao ước. Luật là cho con người, vì thế cần phải được thích nghi với những điều kiện thay đổi của môi trường và thời đại. Do đó, ta gặp thấy trong bộ luật những yếu tố cổ xưa đan kết với những điều khoản mới phát sinh về sau.
Đàng khác, ta còn gặp thấy trong bộ luật những điểm tương tự với luật Lưỡng Hà. Điều ấy là tất nhiên, vì Do Thái sống chung đụng với chư dân; lại nữa một số pháp quy, tục lệ của miền ấy dần biến thành sản nghiệp chung của cả Cận Đông cổ thời. Torah gồm những bộ luật sau đây: a. Thập điều: Mười Lời được ghi khắc trên bảng đá, làm thành Lề luật căn bản về luân lý và tôn giáo, được coi như điều khoản của Giao ước Sinai. Thập điều được trình bày hai lần (Xh 20,2-17 và Đnl 5,6-18). Chắc chắn hai bản văn đều xuất phát từ một nguồn nguyên thủy mà truyền thống gán cho Môisê. b. Bộ luật giao ước (truyền thống E): Xh 20,24–23,9. Bộ luật này nằm xen kẻ giữa Thập điều và phần kết của trình thuật giao ước tại Sinai. Luật giao ước đáp ứng hoàn cảnh một xã hội sau thời Môisê, chuyên về canh nông trồng trọt; cho nên quan tâm đến súc vật cày bừa, công việc đồng áng, nghề trồng nho, nhà cửa (giả thiết dân đã định cư). Bộ luật thấm nhuần tinh thần tin vào Giavê, phản ứng lại nền văn minh Canaan.
c. Bộ Luật Đệ Nhị Luật (Đnl 12,1–26,15) làm thành phần chính yếu của sách Đệ Nhị Luật. Bộ luật này lấy lại một phần bộ luật giao ước, nhưng thích nghi với cuộc sống kinh tế và xã hội đã đổi thay. Nét nổi bật trong Luật Đnl là quan tâm bảo vệ người yếu, tuyên xưng uy quyền Thiên Chúa trên đất và trên dân của Người, cổ vũ việc tuân giữ các điều khoản của lề luật. d. Luật Lêvi. Sách Lêvi được hình thành dứt khoát sau lưu đày, gồm những luật về phụng tự, như của dâng tiến và việc tế lễ (1-7), cấp bậc Tư tế (8), các đại lễ (23), nơi thánh và các vật dụng thánh (25); luật về thức ăn (11), sự trong sạch (13-15), lễ xá tội (Yôm-Kippour) (16); luật về sự Thánh thiện (17-16).
Ngũ Thư vừa là một lịch sử và là luật pháp. Nếu các Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa và kêu xin Người cứu giúp; các sách Khôn Ngoan nhằm giáo dục cá nhân về tôn giáo và luân lý; các Ngôn Sứ mạnh mẽ tuyên rao lòng thành tín của Chúa và hăng hái vạch trần tội lỗi của Israel … Ngũ Thư giới thiệu cho ta một dân tộc, cách thế Thiên Chúa thiết lập dân ấy, bảo vệ và dẫn đưa dân về một định mệnh kỳ diệu. Ý nghĩa của bộ sách này hệ tại mối liên lạc Thiên Chúa nối kết với dân của Người và qua đó với toàn thể nhân loại. Lịch sử mối tương quan ấy được tóm kết trong bốn điểm chính là Lời hứa - Tuyển chọn làm dân riêng - Giao ước - Lề luật. Đây là bốn chủ đề quan trọng được triển khai trong Ngũ Thư và suốt dọc dài Cựu ước. Chính Đức Kitô mới ban cho lịch sử cứu độ ý nghĩa trọn vẹn của nó, như Phaolô trình bày trong Gl 3,15-29. Ngài đến thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa, ký kết Giao ước mới với đoàn dân mới là miêu duệ của Abraham trong đức tin. Ngài ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí để dẫn đưa mọi kẻ tin về với Thiên Chúa.
Sách Đệ Nhị Luật là một lược tóm lịch sử tôn giáo của Israel khởi từ Sinai, trong đó điều then chốt là phải trung thành phụng sự Giavê, Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Nội dung của sách sưu tập lại luật Môisê, đồng thời kể lại một số biến cố xảy ra tại Môáp. Trình thuật mang hình thức ba bài diễn từ của Môisê phát biểu vào cuối đời, với dụng ý quả quyết: tư tưởng chủ yếu trong sách là của Môisê. Đệ Nhị Luật được coi như sách kỷ yếu: nhắc lại để nhớ, nhớ để rút bài học. Bài học chủ yếu của tác giả là: nhắc cho Israel quá khứ lịch sử của nó là một chuỗi hồng ân liên tục Chúa ban cho họ cách nhưng không. Nay ở ranh giới Hứa địa, họ đừng quên mọi thành công xưa đều nhờ Giavê. Từ nhận thức đó, họ chuẩn bị vào Đất Hứa trước hết bằng lòng tin tuyệt đối vào Giavê.
Dân Do thái sắp đi vào Đất Hứa, miền đất này nơi nào cũng có tà giáo. Các tôn giáo sơ khai của các dân tộc xung quanh luôn hấp dẫn. Đặc biệt là các thầy bói, bà đồng. Dân chúng mê tín luôn tìm đến với họ để được giao cảm với thần minh, để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm, người có đức tin chân chính nghĩ đó là những việc do ma quỉ bày đặt ra. Bởi đó, tác giả sách Đnl cảnh giác dân chúng, không được tin vào bói quẻ phù chú, lên đồng lên bóng, chiêm tinh chiêu hồn, phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bù lại, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện giữa dân Người một tiên tri như Môsê. Bài sách Đnl còn nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến, Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Đó chính là Chúa Giêsu sẽ khiến người ta kinh ngạc về cách giảng dạy và đầy quyền năng như câu chuyện kể của Phúc âm Chúa nhật hôm nay.
Chúa Giêsu vào hội đường Do thái ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Marcô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Marcô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao.
Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy, Người còn thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, Satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, Satan sợ hải “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Người dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho Satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Người đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh Satan.
Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ. Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt...
Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp hấp dẫn. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Amen.
Có một bác nông dân rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm: TN4-B25
Có một bác nông dân rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm lại cuộc đời. Ngày kia một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Bác định cho người ấy một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỉ nói thầm bên tai bác: Cho cái đùi bé bé thôi nhé. Bác chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình và đã lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ nhạo cười bác: Mày khùng quá. Thế nhưng bác đã nói lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con heo ngay bây giờ.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỉ. Thời buổi chúng ta có nhiều chuyện liên quan tới ma quỉ, không những do sách vở, phim ảnh, mà còn do những nhóm người kỳ dị, thờ cúng Satan. Thật là một lầm lẫn tai hại khi tưởng rằng ma quỉ ở đâu xa, tại một nơi nào đó, hay ở trong một người nào khác chứ không phải ở trong tôi.
Thực sự thì ma quỉ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn toàn sống dưới sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh thần của ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ keo kiệt, nhưng nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.
Con quỉ kiêu hãnh ở trong nhiều người. Hãy chiến đấu chống lại nó ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng cũng hãy cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: Tôi là một nhân vật quan trọng do công nghiệp và tài năng riêng của tôi.
Con quỉ mê ăn uống luôn thôi thúc chúng ta ăn quá nhiều, uống quá nhiều đến độ say sứa xỉn, không còn biết tiết độ là gì nữa.
Con quỉ khoái lạc thì đến với chúng ta bằng một bộ mặt thật dễ thương, đồng thời nó còn nhiều đồng minh trợ giúp như sách báo và phim ảnh đồi trụy, hay bè bạn xấu…
Tuy nhiên, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại nó. Bất chấp ma quỉ đến với chúng ta dưới hình thức nào, thì chúng ta vẫn có thể và phải nương tựa vào Chúa. Trong quãng đời công khai, Ngài đã nhiều lần trừ quỉ như đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại. Thế nhưng Satan vẫn hoạt động, vẫn bành trướng và đã thành công trong việc giết chết Ngài trên thập giá. Tuy nhiên, cũng nhờ cái chết ấy, mà Ngài đã đem lại sự chiến thắng, một sự chiến thắng trọn vẹn và mãi mãi qua mầu nhiệm Phục sinh của Ngài.
Hãy tìm kiếm xem đâu là con quỉ chính yếu đang làm mưa làm gió, đang chi phối cõi lòng chúng ta, rồi sau đó, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ và chở che như kinh chúng ta vốn thường đọc: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Ðến thành Capharnaum ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh: TN4-B26
Ðến thành Capharnaum ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
II. Suy NiỆm:
Tiếp nối tư tưởng của 2 Chúa nhật trước, hôm nay Phụng vụ còn muốn cho chúng ta được nhìn thấy Ðức Yêsu hoạt động ở Galilêa, để không những chúng ta hiểu rõ vai trò cứu thế của Người hơn, nhưng cũng để chúng ta nhìn vào Người mà nhận ra ơn gọi của mình.
Chúng ta sẽ thấy Người vượt xa hình ảnh vị tiên tri mà sách Thứ luật đã nói tới. Việc Người trừ quỷ có một ý nghĩa rất sâu xa. Và vì thế chúng ta được kêu gọi đi vào nếp sống đặc biệt mà Người đã mở ra.
1. Vị Tiên Tri Của Sách Thứ Luật
Chúng ta biết Thứ luật là cuốn sách cuối cùng trong bộ Ngũ thư tức là 5 quyển sách đầu của bộ Cựu Ước. Nó được trình bày như là những lời di chúc của Môsê. Ông sắp lìa trần nên cố gắng nhắn nhủ dân những lời cuối cùng để họ thi hành khi vào đất hứa. Ông lấy lại luật pháp của Giao ước Sinai, quảng diễn ra cho phù hợp với hoàn cảnh của dân sắp đặt chân vào đất Canaan. Chính vì vậy mà các dịch giả bản 70 gọi quyển sách này là Thứ luật, tức là quyển luật pháp thứ 2, quảng diễn luật pháp 10 giới răn đã được ban hành ở núi Sinai, là luật pháp thứ nhất.
Nhưng sự thật không đơn sơ như vậy.
Rất nhiều sách trong bộ Cựu Ước không phải là tác phẩm của một người, viết trong một giai đoạn nào nhất định. Nhiều quyển là kết quả sưu tầm góp nhặt nhiều bản văn ở nhiều thời đại khác nhau về cùng một vấn đề. Sách Thứ luật đây là một thí dụ. Có lẽ nói đã thành hình vào khoảng giữa thế kỷ 7 trước Công nguyên, nghĩa là 5, 6 trăm năm sau khi Môsê từ trần. Nhưng nó có rất nhiều đoạn đã manh nha từ thời Môsê. Và nhất là hết mọi đoạn trong sách này đều căn cứ vào luật pháp Môsê mà nó có ý dẫn giải và áp dụng. Gọi nó là Thứ luật chỉ đúng theo nghĩa đó; chứ không phải hết mọi trang trong sách này đều chú giải luật pháp đâu.
Bài đọc I hôm nay chẳng hạn. Rút từ sách Thứ luật nhưng lại bàn về vấn đề tiên tri, và nói về vị tiên tri mà Thiên Chúa hứa ban cho dân sau khi Môsê lìa trần. Chúng ta có thể hình dung bối cảnh của bài Kinh Thánh này như sau.
Bấy giờ dân Dothái sắp vào hứa địa hay mới vào được ít lâu. Chỗ nào họ cũng gặp tà giáo. Và nơi các dân tộc chung quanh cũng vậy. Những thứ tôn giáo sơ khai này lại có nhiều điều hấp dẫn. Ðặc biệt vai trò của các thầy bói, bà đồng và của các nhà tiên tri thật là quan trọng. Dân chúng mê tín luôn luôn tìm đến những con người tự tôn là giao cảm được với thần minh để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm; và người có đức tin chân chính nghĩ đó là "những việc do ma quỷ bày đặt".
Tác giả sách Thứ luật còn đi xa hơn.
Ông thấy có nghĩa vụ phải cảnh giác dân Chúa. Ông để cho Môsê nói với dân rằng: khi ngươi vào Ðất hứa sẽ không được gặp thấy nơi người nào người bói quẻ hay phù chú, người lên đồng lên bóng hay chiêm tinh hoặc chiêu hồn. Ngươi phải hoàn hảo đối với Thiên Chúa. Bù lại, Người sẽ cho xuất hiện từ giữa các anh em ngươi một tiên tri như ta, tức là như Môsê đây. Và sở dĩ Người cho như vậy là vì chính ngươi đã xin khi ở dưới chân núi Sinai. Ngày ấy nghe tiếng Chúa, ngươi đã rụng rời và ngươi nài xin Người đừng nói thẳng với ngươi nữa, một xin Người dùng trung gian một người từ giữa các anh em người để đến nói với ngươi nhân danh Người. Kẻ ấy mới thật là tiên tri, vì người chỉ đến nói nhân danh Chúa. Ngươi phải nghe lời người vì đó là Lời Chúa Còn ngươi sẽ không được nói tự ý mình hoặc nhân danh thần nào khác.
Nội dung bài sách Thứ luật hôm nay là như vậy. Vừa cảnh giác dân vừa hứa hẹn với dân những điều tốt đẹp. Dân đừng bắt chước kẻ ngoại tin vào phù thủy và bói quẻ. Thiên Chúa sẽ ban cho dân những vị tiên tri đích thực: luôn luôn chỉ nói nhân danh Chúa. Và điều này đã xảy ra trong lịch sử dân Chúa. Israel vẫn có các vị tiên tri của Chúa ở giữa mình.
Tuy nhiên Israel vẫn trông chờ một vị tiên tri như Môsê. Và vì thế bài sách Thứ luật hôm nay còn nói về Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Người chính là Ðức Yêsu Kitô đã khiến người ta phải kinh ngạc như chúng ta vừa nghe đọc trong bài Tin Mừng.
2. Nhà Tiên Tri Ðầy Uy Quyền
Thánh Marcô, tác giả bài Tin Mừng có vẻ lúng túng trước những điều nghe thấy trong hội đường Capharnaum. Ðức Yêsu vừa vào đó với các môn đệ. Chắc là theo như thông lệ chủ hội đường đã mời Người đọc và giải thích Kinh Thánh. Lập tức người ta đã thấy ngay đây là một giáo lý khác thường. Người nói có uy quyền lạ lùng, khác hẳn các luật sĩ xưa nay. Hay Người là vị tiên tri đặc biệt mà sách Thứ luật đã nói? Người ta chưa hết ngạc nhiên thì này có tiếng hét lên. Tiếng quỷ nhập ở trong một người đã công khai thú nhận: "Ngài đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là Ðấng Thánh của Thiên Chúa mà!". Ðức Yêsu liền bảo nó câm miệng lại và ra khỏi người đó. Lập tức nói vâng lời. Mọi người lại kinh ngạc. Lời của Người sao mà uy quyền đến thế? Thần ô uế cũng phải vâng theo.
Khi thuật truyện như vậy rõ ràng thánh Marcô chú ý đến cách Ðức Yêsu giảng dạy. Người dùng câu truyện trừ quỷ để minh chứng uy quyền giảng dạy của Ðức Kitô. Người lồng câu truyện đó vào giữa một bài tường thuật mà đoạn đầu và đoạn cuối đều nói về việc người ta kinh ngạc trước lời giảng dạy của nhà tiên tri mới. Chỉ có như vậy mới hiểu được vì sao ma quỷ đã không tru trếu lên ngay khi Ðức Yêsu vừa mới bước chân vào hội đường. Marcô để cho Người lên tiếng dạy dỗ đã, rồi ma quỷ mới được kêu lên, hầu làm chứng Lời của Người có giá trị trừ quỷ. Và như thế Người không phải là vị tiên tri đặc biệt sao?
Ðàng khác, khi mô tả việc trừ quỷ, Marcô đã khéo gói ghém nhiều yếu tố quan trọng... Thường thường vị trừ quỷ phải lên tiếng trước ra lệnh trục xuất thần ô uế ra khỏi người ta. Nhất là nếu có thể, Người phải gọi đích danh quỷ ra, vì biết được tên ai là khống chế được người đó. Nhưng ở đây, chính quỷ lại bị bó buộc tru trếu trước. Nó xưng tên Ðức Yêsu Nadarét và chân tướng của Người ra. Có lẽ nó hy vọng áp đảo được Người. Nhưng Người đã ra lệnh bắt nó phải câm và phải ra khỏi người ta. Người thật là vị trừ quỷ siêu việt. Hơn nữa, có thể nói, Người không cần trừ quỷ. Lời giảng của Người có giá trị xua đuổi nó rồi.
Thành ra chúng ta có thể nhận xét thêm: khi mô tả việc trừ quỷ như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô dường như một đàng muốn chú trọng đến uy quyền của Ðức Yêsu khi giảng dạy và đàng khác cũng muốn lưu ý chúng ta về uy quyền của Lời Chúa hiện nay đang được rao giảng ở trong Giáo Hội. Nói cách khác, trong bài Tin Mừng này, thánh Marcô vừa muốn giới thiệu Ðức Kitô là nhà tiên tri xuất sắc, vừa muốn nói đến uy quyền của Lời rao giảng Phúc Âm hiện nay. Hình như người muốn khẳng định rằng: cũng như Lời Ðức Yêsu rao giảng ngày trước đã có uy quyền xua đuổi tà thần thế nào, thì hiện nay cũng vậy, Lời rao giảng về Người ở trong Hội Thánh cũng sẽ giải thoát người ta khỏi vòng nô lệ tà thần.
Tuy nhiên thánh Marcô cũng muốn đề phòng mọi lạm dụng. Người không muốn cho người ta kêu tên Chúa Yêsu một cách vô cớ, tức là một cách không xứng đáng. Vì thế sách Tin Mừng của người luôn luôn cấm người ta nói đến danh tánh Ðức Yêsu. Phải đợi đến khi Thánh giá được dựng lên, người ta mới được quyền tuyên xưng Ðức Yêsu là Con Thiên Chúa (15,39). Nghĩa là theo thánh Marcô, chỉ những ai chấp nhận đi qua mầu nhiệm thập giá mới hiểu được Chúa và mới được quyền đọc tên Chúa, mới có Thánh Thần giúp đỡ để kêu tên Yêsu khiến ma quỷ, tội lỗi rời xa.
Do đó ngoài việc giới thiệu Ðức Yêsu là vị tiên tri đặc biệt như bài sách Thứ luật đã gợi lên, và ngoài việc khẳng định Lời Chúa hiện nay vẫn đầy uy quyền ở trong Hội Thánh, bài Tin Mừng hôm nay còn muốn cảnh giác chúng ta, đừng tưởng được nghe Lời Chúa và kêu tên Người là đủ để xua đuổi được tà thần ra khỏi tâm hồn và đời sống của mình; nhưng còn phải cùng Ðức Yêsu đi qua mầu nhiệm thánh giá nữa. Có kết hợp với mầu nhiệm Tử nạn của Người, chúng ta mới có sự sống mới Người đem xuống trần gian. Bấy giờ chúng ta mới dễ chấp nhận lời khuyên của bài thư Phaolô hôm nay.
3. Sống Theo Thần Khí
Bài thư này tiếp nối thư Chúa nhật trước. Thánh tông đồ đang khuyên nhủ giáo dân Côrintô. Người nói thời buổi đã đến lúc sung mãn. Ðức Yêsu Kitô đã giáng thế, tử nạn và phục sinh, tức là đã khai trương một nếp sống mới. Người không đưa môn đệ ra khỏi thế gian nhưng họ không còn thuộc về thế gian nữa, tức là không ở trong luật lệ của tà thần và tội lỗi nữa. Họ có thể vẫn cưới xin và sống bậc gia đình, nhưng đừng để xác thịt làm khổ mình. Hơn nữa ơn của mầu nhiệm phục sinh còn có thể giúp họ sống vượt khỏi các đòi hỏi của xác thịt. Người ta có thể sống bậc đồng trinh và độc thân, và sống như vậy sẽ đỡ nhiều lo âu hơn khi sống có gia đình.
Những lo âu nào? Có phải những lo âu về đời sống vật chất cho gia đình không? Hay là những lo âu về đời sống xã hội? Ở đây, thánh Phaolô không có ý nói đến những lo âu như thế. Ðàng khác ai mến Chúa yêu người mà không phải để tâm săn sóc đến đời sống vật chất và xã hội của người khác? Chính việc săn sóc này, cũng là nghĩa vụ phải chu toàn để đưa Nước Chúa đến chỗ Trời mới và Ðất mới. Ở đây thánh Phaolô nói đến những lo âu về tình yêu, tức là những ràng buộc của lòng mến. Người đồng trinh vì mến Chúa thì chỉ lo đẹp lòng Chúa. Còn người lập gia đình còn phải lo đẹp lòng bạn mình. Một đàng có trái tim toàn khối; còn đàng kia có trái tim chia sẻ. Và chắc chắn như vậy.
Nhưng không phải ai ai cũng được ơn gọi sống độc thân vì Nước Trời. Tuy nhiên ở bậc nào mọi người cũng phải sống đoan chính, và khắng khít với Chúa không hề lơi, bởi vì Chúa phục sinh đang ở giữa chúng ta và chúng ta đang ở trong thời buổi sung mãn.
Như vậy bài thư Phaolô cũng như bài Tin Mừng Marcô. Cả hai đều khẳng định Ðức Kitô đã đến và đem vào thế gian, không những một giáo lý mới, mà còn một uy lực mới, để chúng ta sống xa được sức mạnh của tà thần. Như vậy, Người là vị tiên tri mà sách Thứ luật đã loan báo. Thế nên chúng ta không được tin vào những tiên tri của thế gian. Họ không nói tư tưởng của Chúa mà chỉ đưa ra những ý nghĩ của lòng họ hoặc của các ngẫu tượng họ thờ. Nghe theo lời họ sẽ bị rơi vào vòng kìm hãm của tà thần mà đời sống nặng nề xác thịt là một dấu hiệu. Ðem những lời đó đến so với Lời Chúa giảng dạy trong Hội Thánh, chúng ta sẽ thấy chúng la lên và dằn vặt chúng ta: lúc ấy niềm tin vào Lời Chúa và quyết tâm thi hành thánh ý Người sẽ giải cứu và ban bình an cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta thử đưa những lời Thánh Kinh vừa nghe đọc vào lòng xem. Có thể chúng ta sẽ thấy mau mau đến với Chúa trong Thánh Thể để được bình an. Giả có như vậy thì quả thật chúng ta cũng còn có phước và đã được phúc do Thánh lễ này.
Có lần tôi đi qua phà, nhìn thấy những người bán hàng rong đang ung dung chào mời khách, bổng nhiên: TN4-B27
Có lần tôi đi qua phà, nhìn thấy những người bán hàng rong đang ung dung chào mời khách, bổng nhiên họ hốt hoảng và bỏ chạy. Tôi còn đang ngạc nhiên thì thấy một anh bảo vệ từ đàng xa đến. Thì ra thế, họ sợ người bảo vệ, vì họ không được phép bán hàng trên phà. Nhưng rồi cũng có những lần khác, tôi cũng nhìn thấy những người bán hàng ung dung đi lại và buôn bán thoải mái trên phà cho dù các anh bảo vệ vẫn đi nhởn nhơ qua lại. Tôi chợt suy nghĩ: các người bán hàng chỉ sợ một số nhân viên bảo vệ nào đó mà thôi, chứ không phải họ sợ hết tất cả mọi nhân viên của bến phà. Họ chỉ sợ những người có uy quyền, còn những người khác thì họ xem chẳng ra gì.
Những người Do thái cách đây 2000 năm cũng thế. Họ vào hội đường để nghe giảng dạy theo như lề luật đã qui định. Họ đến hội đường thường xuyên quá, cho đên nỗi dường như họ xem thường và có vẻ như nhàm chán. Nhưng hôm nay, một bầu không khí mới đã bao trùm cả hội đường. Một Đấng có uy quyền thật sự, giảng dạy bằng chính uy quyền của mình, chứ không phải rập theo khuông mẫu nhất định. Uy quyền đó còn tỏ hiện cách kỳ lạ qua việc khống chế tà thần, không cho nó nói và còn đuổi ra không cho làm hại con người. Một uy quyền thật sự, không chỉ có con người nhìn thấy, nhưng cả ma quỷ còn phải khiếp sợ. Đó là uy quyền của Thiên Chúa.
Uy quyền của Thiên Chúa trải dài qua mọi thời đại. Nhưng nếu ai chịu để ý thì mới nhận ra được. Chúng ta có nhận ra quyền năng Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của mình không? Nếu chúng ta có một chút suy tư, thì quyền năng của Ngài luôn trải dài trên con người, trong từng biến cố của cuộc sống. Nhìn vào con người thấp hèn của mình đi, chúng ta sẽ thấy: cả một sự tinh vi đã được tính toán cách tài tình, mà con người không thể hiểu nỗi. Nếu Thiên Chúa không có uy quyền thì con người không thể tồn tại, thân xác nầy luôn thay đổi nhưng vẫn là thân xác riêng biệt của từng người , không thể lẫn lộn được. Cho dù thân xác của một người trải qua bao nhiêu năm, từ trẻ đến những ngày già lão rồi chết đi. Bao nhiêu tế bào đã thay đổi nhưng cũng chỉ là thân xác của một con người. Rồi hệ tuần hoàn, các bộ phận trong cơ thể của mỗi người. Cho đến bây giờ vẫn chưa có ai sáng chế ra cái gì khác để thay thế được. Vậy mà chúng ta vẫn còn thờ ơ, chúng ta chưa nhìn thấy Thiên Chúa luôn ở bên cạnh mình. Nếu chúng ta nhìn thấy Chúa hiện diện trong đời sống thì chắc cuộc đời mình đã thay đổi nhiều, không còn tình trạng như hiện tại.
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình xem: bao nhiêu sự kiện lạ lùng xảy đến cho đời sống, nhưng chúng ta vẫn nằm yên bất động, vì chúng ta cho rằng đó là tự nhiên, may mắn. Tại sao chúng ta không chịu để tâm suy nghĩ: đó là quyền năng, là thánh ý của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, để rồi tìm cách sống cho xứng đáng hơn với những gì Thiên Chúa đã ban cho mình. Nếu được như thế thì chắc Thiên Chúa sẽ vui mừng khi chúng ta nhận ra được quyền năng của Ngài, và Ngài cũng sẽ rất hài lòng để tiếp tục ban quyền năng của Ngài xuống trên chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết nhận ra quyền năng Chúa trong đời sống hằng ngày, để biết tìm cách sống cho xứng đáng với những gì mình đã nhận biết.
Ngày xưa, khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng theo hình ảnh mình. Ngài đã thương yêu: TN4-B28
Ngày xưa, khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng theo hình ảnh mình. Ngài đã thương yêu sắp đặt mọi sự cho con người hưởng dùng. Khi con người vong ân phạm tội, thì con người tự chuốc lấy đau khổ, nhưng Chúa không bỏ mặc con người mà hứa ban ơn cứu chuộc. Chúa đã gởi nhiều sứ giả đến chuẩn bị cho loài người đón Đấng Cứu Thế ngự xuống trần gian.
Trong bài đọc 1, trích sách Đệ nhị luật, Môsê tiên báo một vị ngôn sứ lớn đến giúp dân người, Đấng đó là Đức Giêsu, một Môsê mới. Xưa Môsê giải phóng Israel khỏi nô lệ dân Ai cập thì Đức Giêsu hôm nay giải phóng thế giới loài người khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết. Xưa dân Do thái không dám nghe tiếng Thiên Chúa, không dám nhìn Thiên Chúa uy quyền. Thì nay, nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện và nói lời Thiên Chúa cho loài người bằng ngôn ngữ của loài người, con người có thể nhìn thấy Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của loài người. Nhờ Đức Giêsu Kitô mà con người biết ý Thiên Chúa, biết điều gì làm Chúa vui thích, điều gì con người nên làm để được hạnh phúc trong Chúa. Những ai đã nghe lời Chúa dạy mà cả lòng không thực hành, không làm theo ý Thiên Chúa thì phải trầm luân khốn khổ xứng với sự cố chấp kiêu căng của mình.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu, Đấng mà Môsê tiên báo đã đến với dân tộc Israel. Ngài là Môsê mới dẫn đến mạc khải về Thiên Chúa cho muôn dân. Khi Ngài vào hội đường giảng dạy thì thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người. Vì Người giảng dạy như Đấng có quyền chứ không như các kinh sư. Người có quyền trên cả thần ô uế, kẻ mà loài người tự sức mình không trục xuất được. Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời thì chúng phải xuất ngay. Ai ai cũng đều sửng sờ về quyền uy của Người và loan danh Người đi khắp miền Galilê.
Trong bài đọc II , thánh Phaolô đề cao việc sống độc thân vì người sống độc thân dễ toàn tâm toàn ý lo kính mến Chúa, gắn bó với Chúa Giêsu và có điều kiện đem Chúa đến cho mọi người. Đó là điều trên hết của ngườI có đức tin, của người con cái Chúa. Chúng ta giữ lời khuyên trong Phúc âm càng trọn hảo chừng nào càng đẹp lòng Chúa chừng nấy, có như thế mới xứng với tình thương của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và cứu chuộc chúng ta.
Để sống xứng với ơn cao cả của Con Thiên Chúa làm người, chúng ta phải lắng nghe lời Chúa và những điều Hội thánh dạy nhân danh Chúa. Chúng ta hãy giữ trọn hảo10 Điều răn Đức Chúa Trời và 6 Điều răn Hội thánh. Chúng ta hãy năng xét mình xem mình có tin cậy Chúa là chỗ dựa duy nhất của mình hay còn theo thói quen của nhiều người ngoài kitô giáo: cậy dựa vào thầy bói hoặc coi ngày tháng, coi tuổi… chúng ta đã giữ ngày Chúa nhật với tinh thần hăng hái của người con cái Chúa chưa? Chúng ta đã biết đối xử thảo hiếu với cha mẹ, biết kính trên nhường dưới, phục vụ anh em hay còn ích kỷ lo cho bản thân mà thiếu sót bổn phận với gia đình, với con cái, với cha mẹ. Chúng ta có tôn trọng và giúp đỡ anh em thân nhân của mình cho phải phép hay chưa? Xem ra chúng ta có làm nhưng chưa làm vì lòng yêu mến Chúa và anh em cho phải phép. Chúng ta hãy ăn năn, đổi mới cuộc sống và quyết tâm sống theo tinh thần Phúc âm.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nhận ra tình thương của Chúa, Đấng đã vì chúng con mà phải xuống trần gian, giúp chúng con thắng vượt ba thù và hưởng sự sống đời đời Chúa hứa ban cho những ai trung thành thực thi lời Người dạy.
Trước năm 1975, có một cuộc trấn ếm của một ông thầy pháp, người ta kể lại: đôi vợ chồng chủ nhà TN4-B29
Trước năm 1975, có một cuộc trấn ếm của một ông thầy pháp, người ta kể lại: đôi vợ chồng chủ nhà vừa mới mua căn này và chưa ở được bao lâu. Họ nói: ma quỉ ban đêm hay phá quá!. Dù là công giáo, nhưng hơi kém đức tin, nên họ đã rước thầy pháp về. Ông thầy bảo: nhà này ma lắm; đó có mấy đứa con nít đu ở đầu cột đó! Ông liền lên đèn, bắt ấn, dùng dao chặt ngang vào thân cột, thấy máu chảy xuống ròng ròng, chảy tới đất là mất. Ông lấy mấy cây nhang nhỏ, đốt lên, bắt ấn, múa may, rồi cấm vào thân cây cột nhà bằng căm xe, còn bóng dợn. Người đi coi thấy cây nhang được cắm vào cây cột cách nhẹ nhàng, sâu đến cả nữa cây nhang. Họ thấy mấy chuyện lạ này, nên xem ra họ tin lắm… Kết quả qua năm sau, gia đình này vẫn bị phá. Cuối cùng họ phải bán nhà luôn!
Thực ra ta biết, thầy pháp chẳng có quyền năng gì cả; ngược lại họ làm những chuyện bề ngoài thấy kinh thiên động địa như thế, nhưng mọi chuyện đều dựa vào quyền năng của ma quỷ thôi. Một sự thật mà cả người lương vẫn phải nhìn nhận: vd. đang khi có cuộc trấn ếm như thế, nếu có ai lén dùng nước thánh rảy vào, hoặc giấu xâu chuổi gần đó, thì thầy pháp sẽ bó tay, và sẽ đầu hàng ngay. Ngược lại người công giáo chúng ta tin Chúa Giêsu, Người dùng quyền năng tự chính mình để chữa bệnh, để xua trừ ma quỉ. Người không cần nhờ ai cả. Đó chính là đề tài mà chúng ta sẽ suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.
a/. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn đề chúng ta cần tìm hiểu:
Việc Chúa xua trừ ma quỉ:
Khi bắt đầu cuộc đời công khai, việc làm đầu tiên của Chúa tại thành Capharnaum, là việc xua trừ tà thần ô uế, ta quen gọi là trừ ma quỉ. Câu chuyện xua trừ ma quỉ trong bài Tin mừng hôm nay, là muốn chỉ về sứ mạng thường xuyên của Đấng Cứu thế, đó là chiến đấu chống lại ma quỉ. Điều này Thánh Marcô nhắc tới nhiều lần trong Tin mừng của mình. Có nguời nói Chúa phải chiến đấu tới giây phút cuối cùng trên Thánh giá (Mc 15, 34). Nói cách dễ hiểu hơn, Marcô muốn trình bày sứ mạng của Chúa đến trần gian chính là giải thoát con người khỏi quyền lực của satan. Rồi trước khi về trời, Chúa còn ban cả quyền đó cho Hội thánh qua các tông đồ. Điều này nói lên Chúa có uy quyền đó, và uy quyền đó tự nơi chính Chúa, không ai ban cho. Chính dân chúng cũng công nhận điều đó: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền..” không như các kinh sư và biệt phái.
Chúa Giêsu dùng chính quyền năng mình để chữa bệnh tật, xua trừ ma quỉ: Trên đời này, muốn chữa bệnh cho người ta, bác sĩ phải dùng thuốc, hoặc dùng các phương tiện y học, mới có thể chữa được bệnh. Thầy phù, thầy pháp, đồng bóng muốn chữa bệnh, cũng cậy dựa vào người khác (ma quỉ) mới chữa được. Thực ra, với các thứ thầy này, có chữa được hay không lại là một chuyện khác nữa. Ở đây Chúa Giêsu dùng chính quyền năng của mình, để chữa bệnh, để xua trừ ma quỉ. Chính bài Tin mừng này nói lên rất rõ điều đó. Khi Chúa xua đuổi thần ô uế ra khỏi con người; chính Phúc âm ghi câu: “Chúa quát mắng ma quỉ: câm đi và ra khỏi người này!”
Ngày hôm nay, Hội thánh muốn xua trừ ma quỉ, Hội thánh cũng phải nhờ vào quyền năng Chúa, nhân danh Thiên Chúa để trừ. Tự bản thân mình, Hội thánh không hề có quyền gì cả… Phúc âm còn ghi: “dân chúng khi thấy Chúa xua trừ thần ô uế ra khỏi con người, họ ngạc nhiên bàn với nhau: Giáo lý Chúa dạy thì mới mẻ; Lời Người dạy lại có uy quyền. Người ra lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng phải vâng theo!” Các điều này muốn nói: chính Chúa có quyền năng tự mình, không cần ai ban cho. Vì thế, Ý muốn và Lời Chúa tự nó có sức mạnh, chữa các bệnh tật, xua trừ ma quỉ; cũng chính Lời đó có sức biển đổi thế giới. Chính sách Sáng thế ký đã ghi: “Lời Chúa phán có sức tạo thành vũ trụ”, và Lời Chúa đó cũng chính là Thiên Chúa quyền năng…
b/. Câu chuyện: Người công giáo bên Phi luật tân chiếm hơn 90% dân số; vì thế đạo công giáo gần như là quốc giáo. Các trẻ em khi lớn lên, sẽ được học giáo lý trong trường học của nhà nước, dù là công giáo hay không. Giáo lý công giáo là môn học chính thức trong trường; ai đủ điểm môn này sẽ được rước lễ lần đầu, hoặc được lãnh Bí tích Thêm sức, hoặc được cử hành hôn phối. Vì vậy, nhà thờ không phải dạy giáo lý…Vì những lẽ nêu trên, đi khắp đất nước Phi, ở đâu người ta cũng thấy nhan nhãn những câu Lời Chúa được dán lên, nhắc nhở mọi người nhớ đến Chúa, nhất là đem Lời Chúa ra thực hành ngay trong đời sống.
Lời Chúa đã khích lệ, động viên các tín hữu Phi sống tốt và sống chính giây phút hiện tại. Cũng chính vì Lời Chúa có sức mạnh biến cải tâm hồn con người như lời thư gởi tín hữu Do thái: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén như gươm hai lưỡi…” (Dt 4, 12). Chính phép lạ xua tà thần ô uế nói lên Lời Chúa có sức biến đổi, vì Lời Chúa chính là uy quyền của Con Thiên Chúa; uy quyền đó có tự bản thân mình, không phải ai khác đã ban cho…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của satan, của tiền bạc vật chất, của tội lỗi, tánh hư tật xấu là những cái thuộc về sa tan. Là người kitô hữu, ta có sẵn sàng cộng tác với Chúa, xua trừ ma quỉ và tội lỗi, ra khỏi con người chúng ta và của anh em xung quanh không?
Khi còn học ở Chủng Viện, tôi vẫn còn nho như in những bài tu đức đã được các cha giáo dạy: TN4-B30
Khi còn học ở Chủng Viện, tôi vẫn còn nho như in những bài tu đức đã được các cha giáo dạy dỗ, phải chấp nhận “đau” để biến đổi thành người tốt. Chứ không chịu hy sinh không chịu “đau” thì không thể trở thành người hữu ích, trở thành người mục tử tốt. Ngài lấy ví dụ việc uốn nắn con người cũng giống như uốn nắn một cây kiểng vậy. Người ta cần phải cắt, tỉa để nó mới trở thành một cây kiểng hữu dụng , cây kiểng đẹp được nhiều người thích, nếu không thì nó chỉ giống như cây rừng đáng cho người ta quang vào lửa mà thôi.
Mặc dầu tất cả chúng tôi đều biết điều đó, nhưng nhiều lúc chúng tôi cũng chỉ sống như Phaolô cảm nghiệm: “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15) hay “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Đúng là bóng tối thì luôn ghét ánh sáng. Và khi ánh sáng thâm nhập thì nó lại luôn muốn chống đối và xa cách không chịu sửa đổi. Vì vậy khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ?”. Như vậy có thể hiêu câu nói của người đàn ông đó là “Hãy để mặc tôi! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương hoặc săn sóc, tôi không muốn được Ngài biến đổi tôi”.
Lời từ chối đó cũng là chuyện thường tình, vì “bóng tối” thì luôn sợ “ánh sáng” xâm chiếm , vì mỗi sự biến đổi là một sự đau đớn. Đã có những cảm nghiệm về tác hại của bóng tối, và sự nguy hiểm của nó làm cho chúng ta không thể lớn lên được. Chính điều này đã được cảm nghiệm thật xâu sắc nơi Đức Giám Mục GB. Bùi Tuần, ngài đã chia sẻ như sau: Cuộc đời của tôi được soi sáng bởi Lời Chúa: "Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại không bóng tối" (Ga 12,46). Nhưng không phải vì thế mà tôi đã luôn tránh được những bóng tối. Trái lại, bóng tối vẫn chen vào cuộc đời tôi. Xung đột giữa ánh sáng và bóng tối diễn ra thường xuyên gay gắt.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút về các thứ bóng tối mà tôi phải đối phó. Chia sẻ của tôi dựa vào kinh nghiệm bản thân nhiều hơn là lý thuyết. Có ba loại bóng tối đáng để ý thường ảnh hưởng đến đời sống đạo.
1/ Bóng tối cá nhân
Bóng tối nói đây gồm mọi thứ tiêu cực trong mỗi người. Như tính hẹp hòi, thiếu hiểu biết về Lời Chúa, thiếu học hỏi về lịch sử Hội Thánh, lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới. Thiếu cái nhìn đầy đủ về thời sự. Thiếu nghiên cứu đúng đắn về những môn khoa có liên quan đến đạo. Thiếu khách quan trong những phán đoán. Nhất là đầy định kiến, thiếu khát khao đi tìm sự thực đạo đức.
Mới rồi, tôi nghe người ta thuật lại phát biểu của một tín hữu: "Làng tao có hai thằng đã được phong thánh. Ai dám coi thường quê tao là sẽ đụng đến tính anh hùng truyền thống của quê tao. Sẽ có chết đấy". Tôi nghe mà rợn tóc gáy, vì nhìn thấy bóng tối cá nhân đó đáng ghê sợ, có khả năng làm méo mó sự thánh thiện của các thánh trong đạo chúng ta.
Trên thực tế, không thiếu người có đạo đã có những chọn lựa, phán đoán và hiểu biết sai lầm, do những bóng tối cá nhân của mình che khuất sự thực và thánh ý Chúa.
Phúc Âm kể nhiều trường hợp như thế. Thí dụ khi các ông Pharisêu trách Chúa Giêsu đã để các môn đệ Người bứt lúa mà ăn cho đỡ đói, Chúa Giêsu đã trả lời: "Tôi muốn lòng nhân từ chứ đâu cần của lễ" (Mt 12,7). Với lời đó, Chúa Giêsu đã vạch rõ định kiến của giới Pharisêu, tuy có vẻ đạo đức, nhưng thực sự đó là bóng tối.
2/ Bóng tối tập thể
Bóng tối chung của tập thể thường thấy ở các dư luận và lối sống của những tập thể, những nhóm, những giai cấp, những địa phương.
Một ví dụ rất biểu tượng, đó là những lời kết án Chúa Giêsu của tập thể dân chúng trước quan Philatô. Phúc Âm kể: "Ông Philatô hỏi: Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái? Họ liền la lên: Đóng đinh nó vào thập giá! Ông Philatô lại hỏi: Nhưng ông ấy có làm điều gì gian ác đâu. Họ càng la to: Đóng đinh nó vào thập giá" (Mc 15,12-14).
Lời kết án đó đúng là một bóng tối dày đặc che phủ tập thể. Bóng tối đó được tạo nên do kích động bởi các tư tế. Tôi thấy dư luận và ý kiến tập thể có nhiều điều tốt, nhưng, như trường hợp trên đây, nó cũng có nhiều sai trái.
Hiện nay, bóng tối tập thể trong đạo đang phát triển mạnh. Có những nước công giáo trước đây đã nêu gương tốt về giữ đạo và truyền giáo. Nay bóng tối đã phủ khắp. Có vùng việc bỏ lễ Chúa nhật, việc ly dị, trở thành bình thường. Có những tổ chức tu trì xưa nêu gương sáng về đức khó nghèo, nay bóng tối đã dày đặc. Khó nghèo trở thành khó mà nghèo.
3/ Bóng tối cơ chế
Bóng tối cơ chế là những xuống cấp do chính luật của cơ chế, hoặc do những lệnh và gương xấu của những bề trên cơ chế.
Chúa Giêsu nhiều lần đã nói tới bóng tối trong cơ chế hồi đó. Thí dụ lời Người nói sau đây: "Anh em biết: Những người được coi là thủ lĩnh các dân, thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,42-45).
Trên đây là cơ chế, mà Chúa Giêsu muốn được thiết lập trong đạo của Người. Ý muốn đó của Chúa đã và đang được thực hiện tại nhiều nơi trong Hội Thánh. Tuy nhiên, cũng phải thành thực nhìn nhận có những cơ chế không còn toả sáng nữa, nhưng đã trở thành mù mịt bởi nhiều bóng tối.
Trong một số cơ chế đạo, những người đứng đầu đã trở thành một thứ vua chúa, nắm quyền lực, hãnh diện vì được phục vụ và hưởng thụ còn hơn là người đứng đầu cơ chế thế gian.
Trên đây là một thoáng nhìn về những bóng tối trong cuộc sống đạo. Những bóng tối ấy đang ảnh hưởng mạnh đến các lựa chọn của chúng ta giữa chợ đời.
Ai sẽ cứu chúng ta khỏi sự thống trị của các bóng tối ác nghiệt đó? Ai sẽ giúp chúng ta chiến đấu với những bóng tối quỷ quyệt và hung dữ đó? Thưa: Chúa Giêsu. Hãy tin vào lời Người hứa:
"Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại trong bóng tối" (Ga 12,46).
Lạy Chúa, xin cho con dám can đảm từ bỏ những u mê cám dỗ, xa cách những bóng dêm quỷ quyệt của ma quỷ. Biết chấp nhận Aùnh Sáng Chúa Kitô để làm ngọn đèn soi dẫn đời sống chúng con Amen
Trong sách Giáo lý Công Giáo, chúng ta đã học biết Thiên Chúa dựng nên loài cao trọng là: TN4-B31
Trong sách Giáo lý Công Giáo, chúng ta đã học biết Thiên Chúa dựng nên loài cao trọng là thiên thần và con người. Tuy nhiên trong số các thiên thần, có một số thiên thần do kiêu ngạo đứng lên chống báng Thiên Chúa nên bị Tổng lãnh thiên thần Micae đánh đuổi ra khỏi thiên đàng, nó là thần dữ, là ma quỉ. Vì thế ma quỉ là loài thiêng liêng, có quyền năng hơn con người, nó luôn theo đuổi con người để dụ dỗ con người đi theo con đường kiêu căng, sống dối trá như nó. Nó muốn cám dỗ để con người sa ngã theo phe nó. Càng đông người theo nó thì nó càng thích .
Trong Kinh Thánh cũng đã trình bày ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu ăn chay sau 40 đêm ngày ăn chay trong hoang địa,
Ngày nay ma quỷ càng tinh vi hơn, sự xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo hơn nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui vật ngã rồi. Đây là một thái cực mới đi lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta dễ sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những thế lực ghê ghớm, gây kinh hồn hoảng vía, cho nhiều người, thậm chí lại còn thấy chúng ở khắp mọi nơi nữa. còn ngày nay, nhờ khoa học kĩ thuật tiến bộ vượt mức, người ta lại cho ma quỷ là chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì đến cuộc đời con người tại thế.
Phải nhìn nhận rằng ngày nay con người nhờ khoa học tiến bộ, nó đã có tác dụng lớn lao trong việc xua đuổi ma quỷ ra khỏi xã hội con người. ở đâu có đời sống văn minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, những tán cây cổ thụ to lớn mà người ta thường tin là có ma quỷ ngự trị, thì chỉ cần sửa sang đường sá, dựng lên mấy cốt đèn điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình tự, hay thẩn thơ ngóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. Rõ ràng dễ thấy nhất là ở những nơi thành thị, dường như người ta không còn nghe nói ở đó có ma có quỷ gì nữa. Trẻ con còn thể an tâm chạy một mình trên các đường phố có đèn đường đầy ánh sáng, và cả trẻ con có thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Tuy nhiên ở với miền quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối, thì người lớn và cả trẻ con đều không dám dạn dĩ ra đường, phần lớn vì “sợ ma”, nhất là nếu gần đấy là nghĩa địa hay nơi có mồ mã nào đó, thì người ta càng dễ dàng sở hãi hơn.
Muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta chắc chắn ma quỷ là có thật và càng không thể coi thường vì sự hoạt động và sự phá hoại của nó trên đời sống con người trên trần gian này. Dĩ nhiên cũng phải nói rằng ảnh hưởng và sức phá hoại của nó nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn. Nên chúng ta cũng cần phải đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ hằng ngày chúng ta phải cảnh giác để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng vội gán tội cho satan, cho ma quỷ, đổ lỗi cho chúng tất cả những gì xấu xa trong cõi loài người. Thánh Kinh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ.
Nhưng đối với Đức kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em mình thực hiện sứ mạng của Thiên Chúa, người ấy cũng có thể đáng gọi là Satan, là đối thủ, là kẻ cám dỗ. chứng cớ là Thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng là Satan, là ma quỷ, khi ông tỏ ra ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người. Như vậy, khi nhìn nhận sự hiện hữu của ma quỷ, chúng ta còn nhìn nạh6n một thực tại khác không kém phần quan trọng đó lả sự ác, sự xấu tội lỗi,...không phải là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ của chúng lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là những đồ “nội hóa”, được sản xuất ngay từ nội tâm của mỗi ngưòi.
Chúng ta không dè rằng satan kẻ cám dỗ, chính là chúng ta. Không ai muốn nhận rằng mình là Satan, là kẻ cám dỗ có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động tári với chân lý, công bằng và bác ái. Bởi thế vấn đề quan trọng không phải là chúng ta đỗ lỗi cho ma quỷ. Trái lại mọi người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của chân lý và tình thương. Chúng ta không nên quá sợ hãi ma quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết tự mình đừng bao giờ xúi giục cám dỗ, anh em mình làm điều xấu, diều ác, điều dữ, điều tội lỗi. đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến cho chúng ta.
Chúng ta hãy sáng suốt nghe và làm theo thiên thần bản mệnh hằng gìn giữ ta ngày đêm, lắng nghe để thực hiện ý Chúa, đồng thời nhờ ơn trợ giúp của Chúa ban để chúng ta biết sống theo ý Chúa và càng biết luôn làm đẹp lòng Chúa.
Trong đoạn văn trên đây, ở ngay đầu Tin Mừng, Maccô cho ta một trình thuật cô đọng và rất: TN4-B32
Trong đoạn văn trên đây, ở ngay đầu Tin Mừng, Maccô cho ta một trình thuật cô đọng và rất có ý nghĩa về sinh hoạt mang tính “Mêsia” của Chúa Giêsu: lời Ngài giảng dạy nối liền với một cuộc trừ quỷ. Lời mở đầu bản trình thuật thật là rõ ràng (c.21). Sự kiện xảy ra ở Caphanaum. Thị trấn này nằm dọc theo bờ hồ Galilê. Chúa Giêsu dùng nơi này như trung tâm của việc rao giảng và là chốn qua lại trong công cuộc truyền giáo (9,33), cũng như những người Do Thái đạo đức thời ấy, Chúa Giêsu năng lui tới “hội đường”. Nơi đó người ta tụ họp để cầu nguyện và nghe lời Thiên Chúa. “Ngày Sa bát”, ngày thứ bảy trong tuần, là ngày nghỉ được thánh hiến cho Thiên Chúa (St 2,2-3). Ta biết việc phụng tự ở hội đường diễn ra thế nào trong ngày đó (Cv 13,14-15). Sau khi đọc một đoạn luật Môsê và sách tiên tri, người ta mời một người lớn tuổi cho lời dẫn giải về những đoạn Kinh Thánh vừa đọc. Nhân dịp này, Chúa Giêsu lên tiếng giảng dạy (x. Lc 4,16-22). Các ký lục ngồi ở hàng đầu.
Bốn lần (c. 21b-22 và 27) Maccô nhấn mạnh về “giáo huấn” của Chúa Giêsu. Hiếm khi thấy trong cuốn Tin Mừng này ông cho ta biết nội dung của “giáo huấn” ấy. Nhưng ông lại nhấn mạnh tới tính độc đáo của giáo huấn. Sự hiểu biết của Thầy vượt xa hẳn các ký lục (c.22). Là thủ lãnh bè biệt phái, các ký lục là những nhà thông thái. được các kinh sư nổi tiếng đào tạo về Thánh Kinh, họ là những người diễn giải Sách Thánh có thẩm quyền, nhưng giáo huấn của họ lại dựa trên những truyền thống của các bậc thầy họ. Còn Chúa Giêsu, Ngài không giảng dạy như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa. Ở đây từ Hy Lạp “uy quyền” có nghĩa rất mạnh. Từ này được lấy ở một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa ban cho Đấng Mêsia của Ngài một “Quyền lực” tối thượng (Đn 7,13-14).
Chúa Giêsu đã cho thấy sự trổi vượt của Ngài trên các bậc kinh sư Do Thái (c. 23-24). Để hiểu được tính khác thường của đoạn văn này, ta cần biết rằng vào thời Thượng cổ tất cả những sự dữ mà con người phải chịu đều được quy trách cho ảnh hưởng độc hại của thần dữ. Diễn tiến của câu truyện như ta thấy cũng đã được dùng trong các trình thuật về phép lạ nơi người Do Thái và người dân ngoại thời Chúa Giêsu. Đó là một “nghi thức trừ tà”. Lược đồ tổng quát giống hệt nhau. Người trừ tà bắt tay vào cuộc chiến với thần dữ. Một trong hai bên sẽ xướng tên của đối thủ. Trong thế giới Sêmit, biết tên của ai là có ưu thế hơn người ấy. Ở đây, thần dữ biết rõ căn cước của Chúa Giêsu:
Ngài là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tức là Đấng Mêsia. Nhưng thần dữ xưng ra điều này với dáng vẻ sợ hãi. Nó cảm nhận được Chúa Giêsu đến tiêu diệt nó và đồng bọn. Đúng vậy: Đấng Mêsia lâm trận lần cuối cùng dẹp tan sức mạnh của sự dữ (x. 3,22-30). Chính vì thế Chúa Giêsu tỏ ra mạnh thế. Ngài xua đuổi thần dữ bằng một lời uy quyền (c. 25-26). Giống như các câu truyện của thời bấy giờ, việc xua đuổi “quỷ” được Maccô thuật lại với những hiện tượng mắt thấy tai nghe: nạn nhân vặn vẹo thân mình và kêu một tiếng lớn. Không có gì đáng sợ cả. Nhưng điều đáng lưu ý chính là những mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền cho thần dữ: “Câm đi!”. Lệnh truyền thật quyết liệt. Lệnh này có ý nhắm tới lời bộc lộ của thần dữ: “Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (c. 24b).
Tại sao Chúa Giêsu lại cấm nói về căn cước của Ngài cách nghiêm ngặt như thế? Đó là phát biểu đầu tiên mà người ta gọi là “bí mật về Đấng Mêsia” trong Tin Mừng Maccô. Chúng ta sẽ thấy, trong suốt cuốn Tin Mừng này, Chúa Giêsu kién quyết bắt ma quỷ phải giữ kín căn cước của Ngài (1,34b; 3,12v.v…) cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và các môn đệ tuyên xưng, dù chỉ phần nào, tính “Mêsia” của Ngài (1,43-44a; 7,36a; 8,31 v.v…). Dường như Maccô đã hình thành nên một thái độ thường xuyên của Chúa Giêsu đối với những quan niệm dân gian ở thời Ngài.
Trong niềm khát mong Đấng Mêsia, người Do Thái chờ đợi một nhân vật mang ít nhiều tính thần thoại. Người ta tin rằng, với một chiếc đũa thần Đấng Mêsia sẽ thay đổi kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngài sẽ biến hoang địa thành một kho chứa đầy cơm bánh (Mt 4,3). Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi bệnh tật (Mt 4,24). Một số người còn ngĩ rằng, chẳng biết Ngài đến từ đâu, nhưng Ngài sẽ không chết (Ga 12,34). Đối với Chúa Giêsu, để cho người ta công bố quá sớm Ngài là Đấng “Kitô” là “Con Thiên Chúa” là khuyến khích sự tin tưởng sai lầm của người dân về Đấng Mêsia và gây tổn hại lớn cho việc biểu lộ tiệm tiến sứ vụ và thân thế đích thực của Ngài. Theo Maccô, thực ra chỉ có cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu mới mạc khải được dung mạo đích thực của Đấng Mêsia mà người ta phải tin tưởng. Trước khi những biến cố mặc khải trọn vẹn này xảy ra, ta nên theo lệnh Thầy là giữ im lặng.
Giống như lúc khởi đầu, trình thuật này kết thúc bằng việc cố ý nhấn mạnh tới sự mới mẻ mà Chúa Giêsu mang đến: một lời cứu độ hoàn toàn hiệu nghiệm như Lời của Thiên Chúa. Ta hiểu được sự kinh ngạc và nỗi thắc mắc bao trùm trên đám đông dân chúng (c. 17a). Chúa Giêsu vừa làm xong một điều chưa từng thấy. Ngay trong ngày Sabbat, ngày nghỉ ngơi bất khả xâm phạm, Chúa Giêsu biểu dương uy quyền tuyệt đối trên sức mạnh của thần dữ. Bởi đâu Ngài có uy quyền thế này? Người ta thắc mắc hỏi nhau như thế. Và thắc mắc này còn gặp thấy qua suốt cuốn Tin Mừng: “Ông Giêsu Nadaret” này là ai vậy? Sau cùng, Maccô chỉ còn việc cho ta thấy rõ danh tiếng Chúa Giêsu lan rộng khắp xứ Galilê sau vụ chữa lành này (c.28).
Trong thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết: TN4-B33
Trong thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết quả như sau: có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172 cuốn viết về Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.
5152 cuốn sách với nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa Giêsu trên thế giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều ngạc nhiên cho mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay, khi Chúa vừa ra mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm lạ.
Chúa Giêsu bắt đầu giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một nhà vô tín đã hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết trần truồng trên Thập giá?”. Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi thấy trong lịch sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng không ai hơn ông Giêsu”. Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng, đều ngạc nhiên và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư, văn sĩ. Vì lời Ngài là “giáo lý mới!...lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng phải tuân theo” (Mc 1,27). Trái lại, các luật sĩ chỉ biết trình bày những điều họ đã nghe, đã học mà thôi. “Ngài giảng dạy như kẻ có quyền, khác với các luật sĩ” là như thế.
Lời Ngài đi thẳng vào tâm hồn người nghe, nói thẳng tới khát vọng muôn thuở của dân Do Thái và mọi nước mọi dân. Người giảng dạy về Thiên Chúa, cũng là giảng dạy về chính mình. Cuộc sống Thiên Chúa là cuộc sống của Người. Nên Chúa nói về mình là điều vững chắc nhất, dê dàng nhất, đầy đủ thẩm quyền nhất và cũng dễ thuyết phục người nghe hơn cả.
Là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ nói về Chúa, loan báo Tin Mừng. Nhưng trong thực tế, chúng ta đã tiếp nhận Chúa vào cuộc sống chúng ta chưa? Chỉ khi có Chúa sống trong ta, ta mới có thể nói và làm những công việc Chúa giao phó: -phục vụ những người anh em đau khổ phần xác, nâng đỡ người đau khổ tinh thần, nhất là những anh em thiếu hiểu biết về Chúa, những người kém lòng tin; -Theo gương Chúa, chúng ta dâng hiến thời giờ ngày Chúa Nhật để thực tập việc cầu nguyện, chia sẻ lời Chúa, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân, quan tâm đến người bạn dự tòng và tân tòng của mình…
Qua Thánh Kinh, Chúa vẫn nói với chúng con mỗi ngày, qua bí tích hòa giải, Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con, qua bí tích Thánh Thể. Chúa luôn hiện diện với chúng con. Xin Chúa giúp chúng con sống cuộc sống của Chúa để chúng con có thể phục vụ mọi người theo gương Chúa. Amen.
Họ (Đức Giêsu và các môn đệ) đi vào thành Ca-phác-na-um.
Đó là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ" ở số nhiều trên đây, có vẻ: TN4-B34
Đó là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ" ở số nhiều trên đây, có vẻ bất định, nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn môn đệ. Đó là trang Tin Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức Giêsu không còn cô lẻ nữa. Đã có một nhóm gồm năm người "đi vào" một thành trên bờ hồ Galilê. Từ đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con người đó luôn cùng sống với nhau. Họ tạo thành một nhóm "Đức Giêsu và các môn đệ của Người".
Sau này, bằng một thứ ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến "Thân Thể Đức Kitô” mà chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Maccô cũng gợi lên một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây, chính "Người và các môn đệ" sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình của Giáo hội.
Thành Ca-phác-na-um
Ca-phác-na-um chính là biểu tượng cho xứ "Galilê của dân ngoại", miền đất sẽ trở nên nơi thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc đến Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay Hồng Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước vào thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia, nông dân... Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu, người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một “Ca-phác-na-um"!
Ngày Sabát kế đó, Người vào Hội đường giảng dạy.
Sau khi quay chung cả "nhóm", giờ đây Maccô giơ máy quay phim, ghi hình cảnh chính, tập trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng Na-da-rét thì phải, cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong một thôn xóm, có tên là Giêsu.
Maccô sắp diễn tả cho ta một "Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một ngày hiển hách tại Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn "hành động" đặc trưng của toàn thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức Giêsu giảng dạy, 2. Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4. Đức Giêsu cầu nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình minh hôm nay đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc 1,21,35). Tôi có nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong ngày sống tiêu biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế cùng với Đức Giêsu không?
Một hoạt động tiêu biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu "trong Hội đồng vào một ngày Sa-bát" . Hội đường vẩn là nơi hội họp chính thức của Do Thái giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề luật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông nhất. Người mong được tiếp xúc.
Người vào Hội đường giảng dạy. Thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Chỉ trong cùng một câu nói mà Maccô đã ba lần sử dụng từ "didakê", "giảng dạy". Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay "lời dạy" phải đứng hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng định của lời giáo huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức Giêsu, cũng như của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem.
Tôi cứ nghĩ như mình thuộc cử tọa đang lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô không nói tới nội dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã phát biểu nội dung đó qua bốn câu: "Thời kỳ đã mãn ... Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi ... Anh em phải sám hối ... Anh em hãy tin vào Tin Mừng". Điều làm cho Maccô quan tâm, đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự... Đức Giêsu là một nhà thông biện vĩ đại đúng nghĩa. Người ta "kinh ngạc" vì lời Người. Trước hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài; nhưng chính là lời nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi người đều tự đặt ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong đợi, bởi vì nó "đúng thực" tận thâm sâu con người!
Một cách long trọng hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về Đức Giêsu như sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa... và Ngôi Lời đã làm người". Còn Maccô, bằng một kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại đó. Đức Giêsu, Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang tính quyết liệt. Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên Chúa tôi đã dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời nói, giáo huấn của Đức Giêsu ra sao?
Những "kinh sư " theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức Giêsu được người ta chú ý ngay do “uy quyền" của lời Người, uy quyền phát xuất tự bên trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên Chúa, cũng chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận, khi ai đó nói với vẻ xác tín: "anh ta tin như thế?", rồi anh ta sống thiết thân với lời nói của mình. Đó không phải là nói "ba láp", nói "ba hoa chích chòe" nhưng là nói sự thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn sống thiết thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi, khi nói về Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin như thế không? Tôi là một "kinh sư" hay là một "chứng nhân? Tôi có thích lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên "của tôi", được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt tôi" không?
Đúng lúc đó, trong Hội đường, có một người bị quỷ ám la lên.
Chúng ta đang đứng trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất đúng cảnh này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Maccô không ngần ngại tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là "tiếng la hét" vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu quát mắng nó": bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi "lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng" quỷ mới xuất khỏi anh ta.
Tân ước đã 23 lần bàn tới "thần ô uế" mà sách bài đọc dịch là ‘thần xấu', bởi vì thực ra, từ "ô uế" ở đây không có nghĩa "tình dục" như hiện nay, nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với sự "thánh thiện". Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ "thần ô uế". "Thần xấu”, chính là "đứa chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa": chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó "quấy phá" con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con người "bị quấy phá" trên đây, đó là chính biểu tượng của con người "bị tha hóa". "Bị chiếm đoạt", vì một thứ sức mạnh ngoài nhân loại khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.
Trước việc "trừ quỷ" của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa hai thái độ, thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó "hiểu biết sâu xa" cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ bản văn kỳ dị trên như đã cũ rích và lỗi thời . . Ngược lại thái độ thứ hai gây cho ta thích thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo diễn phim “Người trừ quỷ", khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên màn ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ quỷ, bởi vì ông nhận thấy ở đó bản "tóm lược" trọn vẹn mọi hoạt động của Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang tha hóa họ. Thế giới thay đổi chủ. Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.
Này ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: "Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Thực sự cần phải khám phá ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường "Giêsu, người Nagiarét" , đến tước hiệu kỳ diệu: "Đấng Thánh của Thiên Chúa". Đức Giêsu không phải là kẻ trừ quỷ tầm thường ở làng thôn, như một số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế giới Do Thái cũng như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy. Hoàn toàn không thể có sự tương hợp giữa "Thần ác" và "Thiên Chúa" được: thế nên satan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện gì đây? Có liên quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là "tiếng la hét của quỷ". Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm đời sống Kitô hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng không? Những người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những lực lượng thù địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức Giêsu không? Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha hóa, sự ác nào?
Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này".
Từ Hy Lạp được dùng ở đây, có nghĩa gì "bịt miệng", “đe dọa” , “quát mắng". Trước giông bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39). Quyền năng của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua câu: sự ác bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện .
Chúng ta nên lưu ý một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc nhiên về "nhân cách" của Đức Giêsu thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ bản tính thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức Giêsu truyền cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích thực của Đức Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa", là "Con Thiên Chúa", có thể chỉ là một việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một con người, một kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mới công bố những tước hiệu trên một cách hợp thức (Mc 15,39).
Mọi người đều kinh ngạc, bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ong ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo".
Đó là những lời, một giáo huấn, một sứ điệp, một điều gì "mới lạ" cho nhân loại.
Đó là những "Dấu chỉ", những "hành động của Đức Giêsu, các bí tích, quyền năng của Thiên Chúa". Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội, chính chúng ta đã được Chúa Giêsu "trừ quỷ và "dấu chỉ bí tích" này luôn hiện diện: Nó được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể, trong đó Đức Giêsu "nói" với ta, và "cứu độ" ta khỏi sự dữ.
Đoạn Phúc Âm này đặc biệt hữu ích vì nó đặt chúng ta trước một sự biêu dương hết sức rõ: TN4-B35
Đoạn Phúc Âm này đặc biệt hữu ích vì nó đặt chúng ta trước một sự biêu dương hết sức rõ rệt về quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ. Thực ra, ý định của Maccô cũng muốn nhắm tới mục đích ấy: là chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh của tà thần, đặc biệt trên các tà thần được mệnh danh là ma quỷ.
Sự phát triển của Mạc khải qua tiến trình của Cựu Ước, vào thời Chúa Giêsu, đã đưa tới niềm tin rằng: có những tà thần cũng là loài thọ tạo của Thiên Chúa, nhưng đã phản loạn chống lại Thiên Chúa. Chúng là địch thủ của con người. Chúng chỉ theo đuổi sự dữ, dốc tâm làm hại con người mà qua họ, chúng hy vọng làm hại được Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vô cùng quyền phép hơn chúng. Phúc Âm chứng tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của ma quỷ. Đoạn phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nghe một phần của cuộc chiến thắng giải thoát ấy cuả Đức Kitô.
Vào thời Chúa Giêsu, não trạng dân chúng là nhìn thấy ma quỷ ở khắp những nơi có sự dữ. Thực ra, sự dữ cũng là kết quả của sự tự do con người khi tự do đó bị lạm dụng hoặc trệch ra khỏi đường ngay nẻo chính. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà một sự thất bại nào đó của tự do đã đem con người vào vòng đau khổ của bệnh tật và chết chóc. Quan niệm thông thường vào thời Chúa Giêsu lại có xu hướng gán cho ma quỷ đã tra tay vào mỗi khi có bệnh tật. Những câu chuyện ‘đuổi quỷ’ trong phúc âm lệ thuộc vào não trạng đương thời và phải được hiểu cách đơn giản, là Chúa Giêsu có quyền thế trên sự dữ nói chung và trên bệnh tật nói riêng. Rất nhiều trường hợp được coi là quỷ ám, thực ra chỉ là những thứ bệnh. Nhưng câu chuyện mà thánh Luca đưa ra trong bài hôm nay trình bày một vụ quỷ ám thực sự mà Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Ngài để giải thoát. Đoạn Phúc Âm này có thể hiến chúng ta nhiều đề tài suy tư. Chúng ta hãy dừng lại ở điều này.
1. Quỷ đã tỏ hiện trước khi Chúa Giêsu ra lệnh cho nó đi. Chắc chắn là Chúa biết có quỷ ở đó, nhưng Ngài bận tâm lo giáo huấn con người, bằng cách tỏ ra với họ thái độ tích cực của kẻ mang chân lý đến nên chính ma quỷ đã không chịu nổi sự hiện diện của Chúa và nó liền bắt đầu gào thét. Sự kiện đó đầy ý nghĩa. Để tóm tắt, khi chúng ta nhớ lại những gì đã xảy đến với các thánh tông đồ và hết các môn đệ lỗi lạc của Chúa từ nguyên thuỷ cho đến nay, chúng ta có thể nói được rằng: người bạn đích thực của Đức Kitô hôm nay vẫn còn sử dụng được đặc ân gây khó dễ cho mọi sức mạnh tà thần. Người bạn đó phải hiểu biết điều ấy. Người bạn đó phải lo hành động tích cực để truyền thông sứ điệp Tin mừng, rồi sẵn sàng chờ đợi một sự ‘la lối’ nào đó nổi lên trên con đường hành động của mình. Nối ưu tư duy nhất của mình chỉ là sự kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng ma quỷ.
2. Phúc Âm nhắc nhở chúng ta: là ma quỷ có thực. Một ‘lối’ mới ngày nay xuất hiện trong Giáo Hội muôn liệt chuyện ma quỷ vào hàng huyền thoại. Nhưng Giáo Hội vốn trung thành với Phúc Âm, lấy chuyện có ma quỷ làm một quả quyết của đức tin. Chúng ta phải luôn nhớ rằng sự dữ không phải là một sự trừu tượng chỉ có trong đầu các nhà trí thức. Nhưng có một thực tại thuộc nhân cách. Sự hỗn loạn mà sự dữ reo rắc vào thế gian chỉ có thể đến từ hành động cá nhân. Không phải nhìn thấy ma quỷ khắp nơi, và phải biết rằng sự yếu đuối con người có thể biện bạch cho nhiều chuyện bất hạnh, song để đề phòng cho bản thân, chúng ta đừng bao giờ quên là bằng cách công khai hay nham hiểm ma quỷ luôn luôn chống lại Phúc Âm.
Anh chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết: TN4-B36
Anh chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề thời sự. Anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của một cuốn phim mang tựa đề: “Exorcist” (Người trừ quỷ) được ra mắt khán giả vào năm 1970 đã phá kỷ lục bán vé. Chuyện phim kể lại một chàng thanh niên bị quỷ ám, giống hệt anh chàng trong Tin Mừng hôm nay. Cuốn phim được xây dựng dựa trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại vùng Mt. Rainier, bang Maryland, vào năm 1949.
Một hôm trong phòng của cậu bé, các tranh ảnh, ghế bàn và chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Ban đêm hầu như cậu ta không thể nào ngủ được, vì luôn bị quấy phá. Sau khi được nhận vào bệnh viện, cậu bé bắt đầu lầm bầm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng những thứ cổ ngữ, và đến một lúc nào đó, dù cậu đang bị cột vào chiếc giường ngủ, thì trên thân xác cậu lại hiện ra những vết cào dài nhuốm máu. Cuối cùng cậu đã được cứu sống nhờ được một linh mục trừ tà, và hiện nay cậu đang sinh sống tại vùng Thủ đô Washington.
Một linh mục già từng tham gia vào việc trừ tà cho cậu bé đã thề hứa sẽ không bàn luận gì về việc ấy, ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm này đã thực sự biến đổi cuộc sống của ngài tốt đẹp hơn.
Thưa anh chị em, như đám đông dân chúng chứng kiến Chúa Giêsu trừ quỷ ở Hội đường Caphanaum đã bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”. Chúng ta cũng thắc mắc: Đâu là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa đàng sau quyền năng của Chúa Giêsu xua đuổi ác thần, quyền năng mà Chúa Giêsu đã trao ban cho Giáo Hội của Ngài?
Để trả lời cho câu hỏi này, Chúa Giêsu nói: “Ta trừ quỷ chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, và điều ấy chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với các ngươi rồi” (Lc 11,20). Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn chứa đàng sau việc Chúa Giêsu trừ quỷ chính là Vương quốc của Satan từng kiềm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ kể từ khi Ađam phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho Vương quốc của Thiên Chúa: Nước đã đổi chủ. Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này gợi ra cho chúng ta một vấn nạn khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa từ 2000 năm nay, vậy thì tại sao đến ngày hôm nay, điều ác vẫn còn lan rộng trên thế giới? Nói cách khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao Vương quốc Satan cũng vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời sẽ là: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xảy đến chỉ một lúc, mà là một chuyển động liên tục xuyên suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài trao phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao trong lời Kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”.
Chúng ta có thể sánh ví Vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng cây ấy, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc làm sao cho Vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo đúng ý định của Thiên Chúa.
Nhưng tại sao Vương quốc Thiên Chúa lại chậm đến như thế? Tại sao Vương quốc Satan lại lâu lụi tàn như thế? Đó là vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của chúng ta một cách thỏa đáng. Chúng ta đã không thực hiện trách nhiệm làm hoàn tất Vương quốc ấy đúng như chúng ta đã có thể làm. Thậm chí, có khi chính chúng ta lại đồng lõa với Satan, với thế lực của sự ác để làm lùi bước tiến của Nước Chúa.
Chúa Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất, nhưng cuộc chiến với Satan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Anh chị em thân mến, Satan, ma quỷ thường được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu thế thì chúng ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân cũng như tập thể. Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng chắc hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết. Kitô giáo không bịa ra ma quỷ để hù dọa tín đồ. Ma quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo chúng ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Chúng phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo.
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám bởi nhiều thứ quỷ: quỷ tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ… Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh… Cái ám nào cũng làm ta mất tự do, mất trong trắng. Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta, trở nên ô uế. Nó bắt chúng ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình vi tính. Chúng ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen. Chúng ta thấy mình bất lực, nên cần “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi: “Hãy xuất ra khỏi người này!”. Nhờ ơn Chúa, tôi cũng muốn ra lệnh cho ma quỷ hãy xuất ra khỏi thế giới này.
Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng cuộc chiến đấu của chúng ta với Satan, để phát hiện những thông đồng của chúng ta với sự ác và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chết” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực không, hay chúng ta sống yêu thương và phục vụ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho Thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên ác thần, trên tội lỗi và sự chết, làm cho chúng ta được tăng cường sức sống của Chúa để cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.
Chúng ta đang ở trong các tuần đầu mùa quanh năm, là phần "nhập đề" giới thiệu các nhân: TN4-B37
1. Chúng ta đang ở trong các tuần đầu mùa quanh năm, là phần "nhập đề" giới thiệu các nhân vật chính của Nước Trời, đặc biệt là Chúa Giêsu. Thánh lễ hôm nay đề cập tới thế giá và uy quyền của Chúa Kitô. Chúa Kitô là vị “Đại ngôn sứ " là Môisen đã nhân danh Thiên Chúa báo trước cho dân Israel. Người thực sự là Đấng Messia, nhân danh Thiên Chúa mà đến và chỉ nói những lời của Thiên Chúa mà thôi (Bài đọc 1) Sau này, Chúa Kitô đã tuyên bố đúng như thế (x. Ga 7,10-18). Bởi đó cần tuyệt đối nghe lời Người. Chúa Kitô còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mang một cái gì của Thiên Chúa, nên không lạ gì mà khi Người ăn nói, giảng dạy, thì ai nấy đều kinh ngạc về giáo lý của Người "vì Người giảng dạy như Đấng có quyền uy" (Bài Tin mừng). Chính Chúa Giêsu từng nói với Nicôđêmô: "Đấng Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa" (Ga 3,34; x. Ga 14,10). Vì Chúa có uy quyền như vậy và lời Chúa mang một thế giá siêu việt, nên Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh mà nhắc nhủ ta: "Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa" đáp ca: Tv 94,8).
2. “Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người" (Mc1,22). Ngày nay thì ngược lại: vì nghe và đọc lời Chúa cách vô ý thức cùng bất kính, ta thấy nhàm chán và đôi khi còn ác cảm; đi lễ, gặp các bài đọc Thánh Kinh, các bài giảng hơi dài một chút là đã kêu ca, ngáp ruồi. Bởi đó, mỗi khi cảm thấy chán ngán Lời Chúa, hoặc dửng dưng với giáo lý của Người, thì cần phải xét lại nếp sống của ta, để gạt bỏ những ngăn trở những chướng ngại; đồng thời tạo cho tâm hồn có những tâm tình, khiêm tốn, đơn sơ, ngay thẳng, là những tâm tình rất cần cho việc đón nhận Lời và giáo lý của Chúa; sau cùng, cũng cần phải gắng công tìm hiểu, học hỏi, chứ không phải ngồi đó mà nghe qua, đợi chờ cách thụ động, ươn lười, vô bổ.
3. Bài Tin Mừng hôm nay quả là một thánh lễ rút gọn:
c.21: Tập họp. Dân chúng quyết định đi tìm Thiên Chúa và đến cùng Ngài, vì bấy lâu nay họ đã sống cách vô thần, xoay vần đổi hướng như chong chóng, bây giờ họ muốn đi tìm thứ hạnh phúc đích thực.
c.22: Phụng vụ Lời Chúa. Từ thời Abraham, Thiên Chúa đã ngỏ lời và luôn luôn đáp ứng mọi yêu cầu của con người. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa lại dạy dỗ, giải thích...
c.23-24: Dâng lễ. Để đáp lại lời đã nghe, con người thưa "xin vâng", tin vào lời Thiên Chúa phán và hiến dâng đời mình cho Ngài. Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đã vâng lời Chúa Cha cho đến cùng và như thế đã dâng lên Cha hiến tế duy nhất đẹp lòng Cha. Ở đây người bị quỷ ám đang chiến đấu.
c 25-26: Hiệp lễ. Trong khi dâng niềm tin này, lúc mà mọi hy vọng xem ra mất hút trong đêm tối (giải thoát khỏi Ai cập - Tử Nạn), Thiên Chúa đã can thiệp và thực hiện kế đồ của ngài. Và quỷ ám đã ra khỏi người kia, để từ đây tâm hồn nên trong sạch.
c. 27-28: Sai đi. Nhờ ơn bí tích, Kitô hữu sau khi trở nên người mới được Chúa Cha chúc phúc và Chúa Thánh Thần tuôn đổ ơn lành, trở về với cuộc sống thường nhật với mọi người và quyết dùng cả đời mình để loan láo Tin mừng hầu "danh tiếng Người đồn ra khắp mọi nơi".
Trên thế gian này, có những chuyện quá xưa cũ, mà người ta vẫn lầm tưởng như là mới mẻ: TN4-B38
Trên thế gian này, có những chuyện quá xưa cũ, mà người ta vẫn lầm tưởng như là mới mẻ lắm. Điển hình, sự ngu muội của một số người vẫn cho mình là tiến bộ từ loài vượn đến loài người, và chưa hề mường tượng ra có một loài người đang tiến bộ từ loài người đến loài thiêng liêng thần thánh, chưa nói đến việc loài người ấy được tan hòa trong thiên tính vô cùng cao quí của một Đấng Thiêng Liêng là Đức Chúa Trời, được làm con Chúa Trời.
Cái thói ăn bậy, nói bừa, như “con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”, cái thói xảo trá gian ngoa “đâm đầu thóc, thọc đầu gạo” của loại đòn xóc hai đầu, hoặc cái thói “nói đàng đông, làm đàng tây, nói một đường, làm một nẻo” vẫn là cái căn cốt của con quỷ Satan ngay từ buổi bình minh sáng thế. Có gì mới đâu! Thế nhưng, có những con người chủ trương sống và kêu gọi người ta sống lại cái thủa ban đầu của sự tăm tối ngu muội ấy, vì người ta không ưa thích sự thật, hoặc dùng sự thật bên ngoài như bức màn che bao điều giả dối ở bên trong: sự giả dối ngay trong hôn nhân gia đình: khoái lạc dưới tên gọi hạnh phúc; ở nhà trường, ở xã hội, thành tích thi đua thay cho thực lực, xin-cho có điều kiện được gọi là tự do, bố thí rửa tiền mang áo lụa thơm mùi bác ái…. Người ta đang tưởng mình sống, thật ra đang sống trong sự chết, tưởng mình tự do, thực ra đang nô lệ, tưởng mình chiến thắng, thực ra đang bại trận trong chính cuộc đời mình.
Sự giả dối đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, không loại trừ quốc gia, dân tộc, giáo hội, tổ chức, cá nhân…vì Satan luôn chọn ‘lòng người” làm sào huyệt xuất phát, để chống lại sự thật là chính Thiên Chúa. Và khi lòng người giả dối, sẽ trổ sinh bao điều ô uế cho chính mình và cho cuộc đời. Mưu đồ của Satan còn khủng khiếp hơn nữa, khi chúng tôn vinh các sự dối trá bằng những tuyên dương, bằng cách đội cho các thông tin sai sự thật chiếc vương miện hoa hậu, bằng cách truyền bá rằng sự giả dối đang chiến thắng, đang thống trị.
Ai có thể tin được? Có đấy, có biết bao nhiêu người lầm tưởng.
Riêng với các tín hữu công giáo, là những người con của Thiên Chúa, con của sự thật, thì Lời Chúa hôm nay, đang cảnh tỉnh mỗi người đề phòng mưu chước của Satan, và một lần nữa khẳng định cho con cái Chúa biết rằng: Uy quyền thuộc về Thiên Chúa.
Lời Chúa đầy quyền năng vì là Lời của sự thật và Lời ban sự sống. Chỉ một Lời ngài phán, đã có ngay bầu trời và tinh tú cùng muôn vạn vật có sự sống (Tv 32). Công trình trần gian do Lời Chúa tác thành vẫn tồn tại, và tồn tại trong vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa mà người trần gian đến muôn đời vẫn không thể hiểu thấu.
Lời Chúa đầy uy lực khiến người nghe phải rung động tâm can vì Lời Chúa là tình yêu. Uy lực của tình yêu vô biên vì tình yêu chân thành, không hề giả dối, tình yêu tín trung không bao giờ phản bội, tình yêu thường hằng bất biến vì tình yêu không lệ thuộc thời gian không gian hữu hạn.
Thiên Chúa đã đặt Lời của Người vào miệng lưỡi của các tiên tri, để các Ngài thông tin cho nhân loại biết về một Thiên Chúa đầy toàn năng, toàn ái. Sách Đệ Nhị Luật 18,18-19, ghi rõ: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó”.
Thiên Chúa vẫn biết, Satan vẫn luôn đã và đang rêu rao phủ nhận sự hiện diện của Ngài. Còn Satan vẫn biết có Thiên Chúa, nhưng luôn muốn và làm cho con người không biết, hoặc biết mù mờ, hoặc từ chỗ biết đến chỗ phủ nhận từ chối. Satan không muốn cho con người chấp nhận có một sự thật hiển nhiên, tỏ tường là Thiên Chúa. Vì thế, ngay cả các tiên tri, cũng có thể bị chúng phỉnh lừa để nhân danh Thiên Chúa mà không nói Lời Thiên Chúa đã truyền, như Ngài đã tiên liệu và căn dặn: “Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết."(c 20)
“Nhân danh Chúa mà nói lời Thiên Chúa không truyền dạy” là mưu chước tinh xảo nhất của Satan trong thời đại hiện nay. Chỗ này, chỗ kia, rồi chỗ nào cũng có những người áp đặt ý của mình thành ý của Thiên Chúa, lời của mình thành Lời của Thiên Chúa, giới thiệu cho người nghe một khuôn mặt Thiên Chúa đã bị biến dạng. Thiết tưởng, việc học hỏi lời Chúa trong các gia đình, trong các lớp giáo lý, cần được thực hiện nghiêm túc hơn nữa, từ người dạy đến người học, không chỉ để hiểu được Lời Chúa, sống lời Chúa , mà còn để cho Lời Chúa tác động trong mọi hành vi cử chỉ ngôn từ, và còn để phân biệt lời nào, ý nào của Chúa, lời nào, ý nào của loài người.
Để củng cố, kiện toàn cho Lời của Thiên Chúa đã được đặt nơi miệng của các Tiên Tri, Thiên Chúa đã sai chính Ngôi Lời của Ngài đến trong trần gian là Đức Giêsu Kitô. Quyền năng của Lời Thiên Chúa nay được ủy thác nơi chính Đức Giêsu Kitô. Vì thế, thánh Marcô ghi nhận rằng: “Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1, 21-22).
Sự thật về Thiên Chúa là “Thiên Chúa là sự thật”. Sức mạnh của sự thật cũng chính là sức mạnh của Thiên Chúa. Đức Giêsu đang mang cả kho tàng sự thật của Thiên Chúa đến trong trần gian, và sức mạnh ấy chiến thắng sự giả dối đang ngự trị trong lòng con người, đang làm cho con người ra ô uế. Thần ô uế, con quỷ giả dối, biết khiếp sợ trước Lời đã hóa nên người phàm: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa! " (c 25). Vâng, Satan vẫn biết Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, vẫn biết chỉ có Đức Giêsu sẽ tiêu diệt nó khỏi lòng con người, để con người được an nhàn thư thái. Và quả vậy, thánh Marcô hôm nay cho biết: Đức Giêsu đã không tiêu diệt con cái của Thiên Chúa, nhưng Ngài dùng uy quyền của Lời Thiên Chúa mà trục xuất satan và ảnh hưởng của nó ra khỏi con người. "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!". Ngài trả lại cho con người ấy nét đẹp nguyên tuyền của con cái Thiên Chúa, con cái của sự thật.
Ma quỷ không thể thắng được Lời của Thiên Chúa, nhưng sự dữ vẫn cứ tồn tại. Vì ma quỷ vẫn luôn nhũng nhiễu Thiên Chúa, làm rối loạn tâm can con cái của Ngài. Quỷ đang ám các chính phủ để củng cố quyền lực trần gian, lừa lọc nhau mưu lợi, tham nhũng, làm cho con cái Chúa lầm tưởng rằng phải cậy thế, cậy thần mới là chân lý. Quỷ đang ám các nhà kinh doanh người, kinh doanh trên thân xác con người, kiểu nầy, cách nọ. Quỷ cũng đang ám tâm trí bao người ăn chơi hưởng thụ vô trách nhiệm trước tội giết chết các thai nhi không thương tiếc. Quỷ đang ám các gia đình bắt đầu từ sự dối trá trong tiền bạc, trong tình cảm, đến dối trá cho những cuộc trăng hoa mây mưa ngoài vòng pháp luật của gia đình, làm mất sự thánh thiện của hôn nhân công giáo, và dần dần, phá vỡ tan tác khi cầm một tờ ly dị được xem như sự giải thoát, sự tự do.. Thần ô uế cũng đang ám tôi, ám bạn, làm cho cuộc đời mình sống trong sự giả dối từ sáng sớm đến chiều tối, và ngay cả khi vào giấc ngủ-hình ảnh của sự chết ngàn thu.
Đã đến thời gian không chỉ tin vào sức mạnh của Lời Thiên Chúa, mà phải sống Lời Thiên Chúa cách thiết thực là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Quyền Năng mà nhờ sức mạnh của Ngài làm thành lũy che chắn cho cuộc đời trước bao lời mời gọi của ma quỷ, của thần ô uế.
Nguyện xin Lời của Đức Kitô là sự thật đầy quyền năng, là giới răn mới của Thiên Chúa, thanh tẩy tâm trí chúng con khỏi sự giả dối trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động, để các sự ô uế không thấm nhiễm cuộc đời chúng con, và thế lực chống lại Thiên Chúa không thể huyênh hoang rằng con cái của Chúa đã bại trận.
Và xin cho chúng con can đảm làm chứng cho sự thật, cho chân lý, cho Thiên Chúa trong thời đại con quỷ dối trá muốn khống chế tất cả loài người. Amen
Năm 1970, cuốn phim Quỷ Ám được trình chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện: TN4-B39
Năm 1970, cuốn phim Quỷ Ám được trình chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện phim được xây dựng trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại bang Maryland vào năm 1949. Tờ Newsweek đã mô tả như sau: Tranh ảnh, bàn ghế và cả chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Về đêm cậu bé không thể nào chợp mắt. Sau khi được nhận vào bệnh viện trường đại học Geogetown cậu bé bắt đầu lâm râm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng một thứ cổ ngữ. Cuối cùng cậu được trừ tà và được cứu thoát. Hiện nay cậu đang sinh sống tại thủ đô Washington. Một vị linh mục già trừ tà cho cậu đã hứa không bàn luận gì về việc này, nhưng ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm ấy đã thực sự biến đổi cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Với sự việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ chúng ta sẽ đưa ra 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất đó là nếu như Đức Kitô đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm rồi, vậy tại sao đến hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng, hay nói cách khác vương quốc của Satan vẫn còn tác oai tác quái? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Nước Thiên Chúa không đến tức khắc, nhưng là một bước tiến từ từ. Nó không phải là một biến cố chỉ xảy ra trong một lúc nào đó, mà là một chuyển biến liên tục suốt dọc dòng lịch sử. Ngài khai mạc vương quốc ấy, nhưng lại trao cho chúng ta hoàn tất. Đó là lý do tại sao trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn kêu cầu: Xin cho Nước Cha trị đến. Đức Kitô đã gieo trồng, còn bổn phận của chúng ta là vun xới và chăm sóc để Nước Chúa được đâm bông kết trái.
Câu hỏi thứ hai được đưa ra đó là tại sao Nước ấy lại đến chậm như thế, hay nói cách khác tạo sao vương quốc của Satan lại lâu tàn lụi như vậy? Tôi xin thưa chỉ vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của mình một cách thoả đáng, đã không thực hiện những lệnh truyền của Chúa. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta đã thi hành giới luật yêu thương của Ngài. Sở dĩ chúng ta chưa yêu thương người khác, thậm chí cả những người thân yêu trong gia đình là vì chúng ta quá bận rộn với những công việc bên ngoài đến nỗi quên mất sự tuyệt vời của những người ấy. Vì chúng ta không biết dừng lại để nhìn ra được bản chất đích thực của họ, vốn là những tạo vật xinh đẹp, đáng được yêu thương, giống như chúng ta đã được chính Thiên Chúa yêu thương vậy.
Hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó Nước Chúa mỗi ngày một trị đến, đồng thời nhờ đó chúng ta đẩy lui được ảnh hưởng của quyền lực Satan.
Đôi khi vẻ đẹp và sự thật đến từ những nguồn mạch không trông đợi. Các bạn sẽ không trông: TN4-B40
Đôi khi vẻ đẹp và sự thật đến từ những nguồn mạch không trông đợi. Các bạn sẽ không trông đợi những người trẻ đã sáng tác ra những bản nhạc lừng danh, nhưng một đứa trẻ thiên tài Moza đã làm kinh ngạc những người đồng thời của ông. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện trong hội đường Caphanaum không một người nào trông đợi một người bị thần ô uế ám, một người bị quỷ nhập tuyên bố sự thật về Người. Những lời của ông ám chỉ Chúa Giêsu có một chân lý sâu xa: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Hội đường là một nơi chứa đựng một vẻ đẹp và chân lý. Đó là nơi Lời của Thiên Chúa được linh ứng trong những cuốn Thánh Kinh Do Thái đã được tuyên bố và suy niệm ở đây. Một thầy Rabbi giảng dạy ý nghĩa của Thánh Kinh và hướng dẫn cầu nguyện. Từ khi bắt đầu sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã được biết như một thầy Rabbi, một vị kinh sư. Sau đó, mọi người đã nhận biết Người như một tiên tri, không đơn giản là một vị thầy nhưng thật sự là tiếng nói của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu có thói quen đi vào Hội đường vào ngày Sabát. Khi Ngài được chấp nhận vai trò Rabbi, vào những dịp đó Ngài thường làm viên mãn Lời hứa của Môisê khi tuyên bố với toàn dân rằng: “Một tiên tri giống như tôi sẽ là Chúa, Thiên Chúa của anh em, người đó sẽ xuất hiện từ giữa con cháu của anh em; và anh em sẽ phải lắng nghe “Người”.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường Caphanaum, một người bị quỷ ám đã kêu: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” một sự bất ngờ chói tai, kẻ bị quỷ ám đã đưa ra “bài giảng” về sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Những gì mà hắn thốt lên là sự thật. Tiếp đó Chúa Giêsu đã xác định việc làm chứng của kẻ bị quỷ ám bằng hành động của Ngài: Ngài đã đuổi quỷ ra khỏi kẻ quỷ ám. Thánh Marco đã ghi lại cho chúng ta câu chuyện đáng chú ý này, Ngài muốn chúng ta hiểu rằng, mục đích đầu tiên của việc xảy ra này không phải để hấp dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu như là một người chuyên làm phép lạ, nhưng hướng dẫn chúng ta thân mật với Người vì Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có một nhận định khi Ngài nghĩ rằng người độc thân có thể phục vụ, làm nhiều điều cho Chúa. Nhưng kết hôn hoặc độc thân thì tất cả chúng ta đều được kêu gọi dâng chính mình cho Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sau đó trong sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã đưa ra một bài giảng trong cùng một Hội đường này ở Caphanaum, Ngài đã hoàn tất lời hứa là Ngài sẽ ban Thân Mình và Máu Mình như thực phẩm, và là của ăn của uống để ban cuộc sống đời đời.
Những tổ phụ đầu tiên của chúng ta trong đức tin đã tiếp tục đi tới hội đường trong những ngày Sabát, tiếp đó, ngày Chúa Nhật họ đã họp nhau để cử hành Thánh Thể tại một nhà nào đó. Khi những người dân ngoại bắt đầu gia nhập Giáo Hội, hội đường phục vụ Thánh Kinh, bài giảng, và cầu nguyện nối kết với hy tế Thánh Thể vào ngày Chúa Nhật. Lời và Bí tích, Thánh Kinh và Thánh Thể trở thành nối kết thân thiết, chúng đã hình thành một sự độc nhất của việc thờ lạy.
Ngày Chúa Nhật chúng ta được đặc ân là thông dự vào hành động này của việc thờ lạy mà bây giờ chúng ta gọi cách đơn giản là Thánh Lễ. Chúa Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta trong Lời và trong Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng “đó là chính Đức Kitô, Người đã nói với chúng ta trong Thánh Kinh, khi Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ”. Đó là sự thật Chúa Kitô nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của loài người. Giáo Hội nhấn mạnh rằng đó là chính Đức Kitô đã đến với chúng ta trong Thân Mình và Máu Người dưới hình bánh, rượu. Việc rước lễ làm viên mãn lời hứa của Chúa Giêsu trong hội đường Caphanaum rằng Ngài đã cho chúng ta Thịt làm của ăn và Máu làm của uống. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ chúng ta được trao cho cơ hội để đến với Chúa Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
(Đến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Suy Niệm:
Chúa Nhật IV Thường Niên Năm B
Chúng ta đọc: Thứ luật 18,15-20; Thư 1 Corintô 7,32-35; Tin Mừng Marcô 1,21-28
Tiếp nối tư tưởng của 2 Chúa nhật trước, hôm nay Phụng vụ còn muốn cho chúng ta được nhìn thấy: TN4-B41
Tiếp nối tư tưởng của 2 Chúa nhật trước, hôm nay Phụng vụ còn muốn cho chúng ta được nhìn thấy Đức Yêsu hoạt động ở Galilêa, để không những chúng ta hiểu rõ vai trò cứu thế của Người hơn, nhưng cũng để chúng ta nhìn vào Người mà nhận ra ơn gọi của mình.
Chúng ta sẽ thấy Người vượt xa hình ảnh vị tiên tri mà sách Thứ luật đã nói tới. Việc Người trừ quỷ có một ý nghĩa rất sâu xa. Và vì thế chúng ta được kêu gọi đi vào nếp sống đặc biệt mà Người đã mở ra.
1. Vị Tiên Tri Của Sách Thứ Luật
Chúng ta biết Thứ luật là cuốn sách cuối cùng trong bộ Ngũ thư tức là 5 quyển sách đầu của bộ Cựu Ước. Nó được trình bày như là những lời di chúc của Môsê. Ông sắp lìa trần nên cố gắng nhắn nhủ dân những lời cuối cùng để họ thi hành khi vào đất hứa. Ông lấy lại luật pháp của Giao ước Sinai, quảng diễn ra cho phù hợp với hoàn cảnh của dân sắp đặt chân vào đất Canaan. Chính vì vậy mà các dịch giả bản 70 gọi quyển sách này là Thứ luật, tức là quyển luật pháp thứ 2, quảng diễn luật pháp 10 giới răn đã được ban hành ở núi Sinai, là luật pháp thứ nhất.
Nhưng sự thật không đơn sơ như vậy.
Rất nhiều sách trong bộ Cựu Ước không phải là tác phẩm của một người, viết trong một giai đoạn nào nhất định. Nhiều quyển là kết quả sưu tầm góp nhặt nhiều bản văn ở nhiều thời đại khác nhau về cùng một vấn đề. Sách Thứ luật đây là một thí dụ. Có lẽ nói đã thành hình vào khoảng giữa thế kỷ 7 trước Công nguyên, nghĩa là 5, 6 trăm năm sau khi Môsê từ trần. Nhưng nó có rất nhiều đoạn đã manh nha từ thời Môsê. Và nhất là hết mọi đoạn trong sách này đều căn cứ vào luật pháp Môsê mà nó có ý dẫn giải và áp dụng. Gọi nó là Thứ luật chỉ đúng theo nghĩa đó; chứ không phải hết mọi trang trong sách này đều chú giải luật pháp đâu.
Bài đọc I hôm nay chẳng hạn. Rút từ sách Thứ luật nhưng lại bàn về vấn đề tiên tri, và nói về vị tiên tri mà Thiên Chúa hứa ban cho dân sau khi Môsê lìa trần. Chúng ta có thể hình dung bối cảnh của bài Kinh Thánh này như sau.
Bấy giờ dân Dothái sắp vào hứa địa hay mới vào được ít lâu. Chỗ nào họ cũng gặp tà giáo. Và nơi các dân tộc chung quanh cũng vậy. Những thứ tôn giáo sơ khai này lại có nhiều điều hấp dẫn. Đặc biệt vai trò của các thầy bói, bà đồng và của các nhà tiên tri thật là quan trọng. Dân chúng mê tín luôn luôn tìm đến những con người tự tôn là giao cảm được với thần minh để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm; và người có đức tin chân chính nghĩ đó là "những việc do ma quỷ bày đặt".
Tác giả sách Thứ luật còn đi xa hơn. Ông thấy có nghĩa vụ phải cảnh giác dân Chúa. Ông để cho Môsê nói với dân rằng: khi ngươi vào Đất hứa sẽ không được gặp thấy nơi người nào người bói quẻ hay phù chú, người lên đồng lên bóng hay chiêm tinh hoặc chiêu hồn. Ngươi phải hoàn hảo đối với Thiên Chúa. Bù lại, Người sẽ cho xuất hiện từ giữa các anh em ngươi một tiên tri như ta, tức là như Môsê đây. Và sở dĩ Người cho như vậy là vì chính ngươi đã xin khi ở dưới chân núi Sinai. Ngày ấy nghe tiếng Chúa, ngươi đã rụng rời và ngươi nài xin Người đừng nói thẳng với ngươi nữa, một xin Người dùng trung gian một người từ giữa các anh em người để đến nói với ngươi nhân danh Người. Kẻ ấy mới thật là tiên tri, vì người chỉ đến nói nhân danh Chúa. Ngươi phải nghe lời người vì đó là Lời Chúa. Còn ngươi sẽ không được nói tự ý mình hoặc nhân danh thần nào khác.
Nội dung bài sách Thứ luật hôm nay là như vậy. Vừa cảnh giác dân vừa hứa hẹn với dân những điều tốt đẹp. Dân đừng bắt chước kẻ ngoại tin vào phù thủy và bói quẻ. Thiên Chúa sẽ ban cho dân những vị tiên tri đích thực: luôn luôn chỉ nói nhân danh Chúa. Và điều này đã xảy ra trong lịch sử dân Chúa. Israel vẫn có các vị tiên tri của Chúa ở giữa mình.
Tuy nhiên Israel vẫn trông chờ một vị tiên tri như Môsê. Và vì thế bài sách Thứ luật hôm nay còn nói về Đấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Người chính là Đức Yêsu Kitô đã khiến người ta phải kinh ngạc như chúng ta vừa nghe đọc trong bài Tin Mừng.
2. Nhà Tiên Tri Đầy Uy Quyền
Thánh Marcô, tác giả bài Tin Mừng có vẻ lúng túng trước những điều nghe thấy trong hội đường Capharnaum. Đức Yêsu vừa vào đó với các môn đệ. Chắc là theo như thông lệ chủ hội đường đã mời Người đọc và giải thích Kinh Thánh. Lập tức người ta đã thấy ngay đây là một giáo lý khác thường. Người nói có uy quyền lạ lùng, khác hẳn các luật sĩ xưa nay. Hay Người là vị tiên tri đặc biệt mà sách Thứ luật đã nói? Người ta chưa hết ngạc nhiên thì này có tiếng hét lên. Tiếng quỷ nhập ở trong một người đã công khai thú nhận: "Ngài đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa mà!". Đức Yêsu liền bảo nó câm miệng lại và ra khỏi người đó. Lập tức nói vâng lời. Mọi người lại kinh ngạc. Lời của Người sao mà uy quyền đến thế? Thần ô uế cũng phải vâng theo.
Khi thuật truyện như vậy rõ ràng thánh Marcô chú ý đến cách Đức Yêsu giảng dạy. Người dùng câu truyện trừ quỷ để minh chứng uy quyền giảng dạy của Đức Kitô. Người lồng câu truyện đó vào giữa một bài tường thuật mà đoạn đầu và đoạn cuối đều nói về việc người ta kinh ngạc trước lời giảng dạy của nhà tiên tri mới. Chỉ có như vậy mới hiểu được vì sao ma quỷ đã không tru trếu lên ngay khi Đức Yêsu vừa mới bước chân vào hội đường. Marcô để cho Người lên tiếng dạy dỗ đã, rồi ma quỷ mới được kêu lên, hầu làm chứng Lời của Người có giá trị trừ quỷ. Và như thế Người không phải là vị tiên tri đặc biệt sao?
Đàng khác, khi mô tả việc trừ quỷ, Marcô đã khéo gói ghém nhiều yếu tố quan trọng... Thường thường vị trừ quỷ phải lên tiếng trước ra lệnh trục xuất thần ô uế ra khỏi người ta. Nhất là nếu có thể, Người phải gọi đích danh quỷ ra, vì biết được tên ai là khống chế được người đó. Nhưng ở đây, chính quỷ lại bị bó buộc tru trếu trước. Nó xưng tên Đức Yêsu Nadarét và chân tướng của Người ra. Có lẽ nó hy vọng áp đảo được Người. Nhưng Người đã ra lệnh bắt nó phải câm và phải ra khỏi người ta. Người thật là vị trừ quỷ siêu việt. Hơn nữa, có thể nói, Người không cần trừ quỷ. Lời giảng của Người có giá trị xua đuổi nó rồi.
Thành ra chúng ta có thể nhận xét thêm: khi mô tả việc trừ quỷ như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô dường như một đàng muốn chú trọng đến uy quyền của Đức Yêsu khi giảng dạy và đàng khác cũng muốn lưu ý chúng ta về uy quyền của Lời Chúa hiện nay đang được rao giảng ở trong Giáo Hội. Nói cách khác, trong bài Tin Mừng này, thánh Marcô vừa muốn giới thiệu Đức Kitô là nhà tiên tri xuất sắc, vừa muốn nói đến uy quyền của Lời rao giảng Phúc Âm hiện nay. Hình như người muốn khẳng định rằng: cũng như Lời Đức Yêsu rao giảng ngày trước đã có uy quyền xua đuổi tà thần thế nào, thì hiện nay cũng vậy, Lời rao giảng về Người ở trong Hội Thánh cũng sẽ giải thoát người ta khỏi vòng nô lệ tà thần.
Tuy nhiên thánh Marcô cũng muốn đề phòng mọi lạm dụng. Người không muốn cho người ta kêu tên Chúa Yêsu một cách vô cớ, tức là một cách không xứng đáng. Vì thế sách Tin Mừng của người luôn luôn cấm người ta nói đến danh tánh Đức Yêsu. Phải đợi đến khi Thánh giá được dựng lên, người ta mới được quyền tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa (15,39). Nghĩa là theo thánh Marcô, chỉ những ai chấp nhận đi qua mầu nhiệm thập giá mới hiểu được Chúa và mới được quyền đọc tên Chúa, mới có Thánh Thần giúp đỡ để kêu tên Yêsu khiến ma quỷ, tội lỗi rời xa.
Do đó ngoài việc giới thiệu Đức Yêsu là vị tiên tri đặc biệt như bài sách Thứ luật đã gợi lên, và ngoài việc khẳng định Lời Chúa hiện nay vẫn đầy uy quyền ở trong Hội Thánh, bài Tin Mừng hôm nay còn muốn cảnh giác chúng ta, đừng tưởng được nghe Lời Chúa và kêu tên Người là đủ để xua đuổi được tà thần ra khỏi tâm hồn và đời sống của mình; nhưng còn phải cùng Đức Yêsu đi qua mầu nhiệm thánh giá nữa. Có kết hợp với mầu nhiệm Tử nạn của Người, chúng ta mới có sự sống mới Người đem xuống trần gian. Bấy giờ chúng ta mới dễ chấp nhận lời khuyên của bài thư Phaolô hôm nay.
3. Sống Theo Thần Khí
Bài thư này tiếp nối thư Chúa nhật trước. Thánh tông đồ đang khuyên nhủ giáo dân Côrintô. Người nói thời buổi đã đến lúc sung mãn. Đức Yêsu Kitô đã giáng thế, tử nạn và phục sinh, tức là đã khai trương một nếp sống mới. Người không đưa môn đệ ra khỏi thế gian nhưng họ không còn thuộc về thế gian nữa, tức là không ở trong luật lệ của tà thần và tội lỗi nữa. Họ có thể vẫn cưới xin và sống bậc gia đình, nhưng đừng để xác thịt làm khổ mình. Hơn nữa ơn của mầu nhiệm phục sinh còn có thể giúp họ sống vượt khỏi các đòi hỏi của xác thịt. Người ta có thể sống bậc đồng trinh và độc thân, và sống như vậy sẽ đỡ nhiều lo âu hơn khi sống có gia đình.
Những lo âu nào? Có phải những lo âu về đời sống vật chất cho gia đình không? Hay là những lo âu về đời sống xã hội? Ở đây, thánh Phaolô không có ý nói đến những lo âu như thế. Đàng khác ai mến Chúa yêu người mà không phải để tâm săn sóc đến đời sống vật chất và xã hội của người khác? Chính việc săn sóc này, cũng là nghĩa vụ phải chu toàn để đưa Nước Chúa đến chỗ Trời mới và Đất mới. Ở đây thánh Phaolô nói đến những lo âu về tình yêu, tức là những ràng buộc của lòng mến. Người đồng trinh vì mến Chúa thì chỉ lo đẹp lòng Chúa. Còn người lập gia đình còn phải lo đẹp lòng bạn mình. Một đàng có trái tim toàn khối; còn đàng kia có trái tim chia sẻ. Và chắc chắn như vậy.
Nhưng không phải ai ai cũng được ơn gọi sống độc thân vì Nước Trời. Tuy nhiên ở bậc nào mọi người cũng phải sống đoan chính, và khắng khít với Chúa không hề lơi, bởi vì Chúa phục sinh đang ở giữa chúng ta và chúng ta đang ở trong thời buổi sung mãn.
Như vậy bài thư Phaolô cũng như bài Tin Mừng Marcô. Cả hai đều khẳng định Đức Kitô đã đến và đem vào thế gian, không những một giáo lý mới, mà còn một uy lực mới, để chúng ta sống xa được sức mạnh của tà thần. Như vậy, Người là vị tiên tri mà sách Thứ luật đã loan báo. Thế nên chúng ta không được tin vào những tiên tri của thế gian. Họ không nói tư tưởng của Chúa mà chỉ đưa ra những ý nghĩ của lòng họ hoặc của các ngẫu tượng họ thờ. Nghe theo lời họ sẽ bị rơi vào vòng kìm hãm của tà thần mà đời sống nặng nề xác thịt là một dấu hiệu. Đem những lời đó đến so với Lời Chúa giảng dạy trong Hội Thánh, chúng ta sẽ thấy chúng la lên và dằn vặt chúng ta: lúc ấy niềm tin vào Lời Chúa và quyết tâm thi hành thánh ý Người sẽ giải cứu và ban bình an cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta thử đưa những lời Thánh Kinh vừa nghe đọc vào lòng xem. Có thể chúng ta sẽ thấy mau mau đến với Chúa trong Thánh Thể để được bình an. Giả có như vậy thì quả thật chúng ta cũng còn có phước và đã được phúc do Thánh lễ này.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 1:21-28)
Thường khi nghe ai diễn thuyết hoặc nói chuyện, chúng ta chỉ nghĩ đến cái “tài ăn nói” của: TN4-B42
Thường khi nghe ai diễn thuyết hoặc nói chuyện, chúng ta chỉ nghĩ đến cái “tài ăn nói” của người ấy. Rồi nhiều khi cha mẹ hoặc cấp trên ra lệnh hay trách mắng, chúng ta chỉ thấy được cái “uy quyền” của họ thôi. Nhưng với Chúa Giê-su thì khác hẳn. Ghi lại phản ứng của dân chúng nghe Chúa Giê-su giảng dạy, thánh sử Mác-cô viết: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Đây quả thực là một nhận định giúp chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giê-su như Thầy Dạy được Thiên Chúa sai đến dạy dỗ chúng ta.
Làm sao dân chúng Do-thái lại nhận ra được Chúa Giê-su giảng dạy như một Đấng có uy quyền? Đó là nhờ họ so sánh Người với các kinh sư. Đối với họ, các kinh sư là những người có “thẩm quyền” giải thích Lề Luật và sách các ngôn sứ. Nhưng đáng tiếc vì chính thẩm quyền này đã trở thành pháo đài bảo vệ cho chỗ đứng ăn trên ngồi trốc của các ráp-bi. Các kinh sư đã lấy thẩm quyền ấy tạo ra “những gánh nặng mà chất lên vai người ta” (Mát-thêu 23:4). Lời giảng của họ chỉ là lập lại như vẹt sách nọ sách kia, rồi nói một đàng làm một nẻo. Vai trò giảng dạy của họ được tóm tắt trong hai chữ “làm bộ” (Mát-thêu 23:14), làm bộ giữ luật, làm bộ đọc kinh cầu nguyện, làm bộ đi giảng khắp nơi để rủ cho được một người theo đạo… Còn nhiều điểm khác nói lên dung mạo của các kinh sư và Pha-ri-sêu đã bị Chúa Giê-su lột mặt nạ (Mát-thêu 23). Dân chúng chắc chắn cũng có những nhận xét giống như Chúa Giê-su đã tố cáo về họ. Giờ đây được nghe và nhìn phong cách Chúa Giê-su giảng dạy và nhất là được chứng kiến Người sống, họ dễ dàng nhận ra sự trái nghịch giữa Người với các kinh sư.
Chúa Giê-su quả thực là Đấng có uy quyền vì Người là Ngôi Lời được Chúa Cha sai xuống trần gian, làm Đấng Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Thiên Chúa đã cho xuất hiện giữa Ít-ra-en một vị Ngôn Sứ là Chúa Giê-su. Sách Đệ Nhị Luật đã mô tả uy quyền của vị Ngôn Sứ này: “Bấy giờ Đức Chúa phán: ‘…Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy… Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó’” (Đệ Nhị Luật 18:18,19). Chúa Giê-su đã thể hiện uy quyền này không phải bằng những lời giảng hoa mỹ hùng biện, nhưng bằng những lời bình dân, nhất là những câu chuyện dụ ngôn lấy từ chính đời sống hằng ngày. Người cũng thể hiện uy quyền qua những việc làm giúp con người được giải phóng khỏi quyền lực của tội lỗi và ma quỷ, khỏi bệnh tật và những lo lắng trần gian, nhất là qua những phép lạ biểu lộ lòng từ bi và tình yêu của Thiên Chúa.
Thánh sử Mác-cô đã chứng minh sức mạnh và uy quyền lời giảng của Chúa Giê-su khi ngài đan cử việc Chúa Giê-su lên tiếng quát mắng ma quỷ và truyền cho nó phải ra khỏi người đang bị nó ám ảnh. Chứng kiến phép lạ ấy, dân chúng đã tin vào Người, chứ không chỉ so sánh Người với các kinh sư. Họ quả quyết: “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sửng sốt hay sững sờ là thái độ của dân chúng khi nghe Chúa Giê-su giảng dạy. Nhưng chúng ta tự hỏi thái độ như vậy đã đủ chưa? Chưa đâu! Chúa Giê-su mong chúng ta làm hơn thế nữa. Người nói: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mát-thêu 7:24; Lu-ca 6:47). Chúng ta vẫn nghe một câu nói quen thuộc: Con đường dài nhất là con đường từ tai tới tay! Nghe và thực hành lời Chúa là đỉnh điểm của lòng ngưỡng mộ Chúa Giê-su như Thầy Dạy. Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta không chỉ lời giảng dạy, mà còn để lại gương sáng, đó là để chúng ta có thể thực sự làm môn đệ Người. Người phải là Thầy Dạy gắn liền với cuộc đời chúng ta, mật thiết đến độ phải đi tới lý tưởng Thầy thế nào trò cũng phải như vậy. “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Gio-an 13:15).
Đọc Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thích thú bởi vì mỗi chữ, mỗi: TN4-B43
Đọc Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thích thú bởi vì mỗi chữ, mỗi câu đều mới mẻ. Đức Giêsu lúc đó được mời giảng dạy trong Hội Đường, vì Gioan Tẩy Giả sau khi bị bắt, Chúa Giêsu trở về Galilêa và giảng dạy, giải thích Kinh Thánh trong Hội Đường một cách công khai. Thánh sử Máccô không cho biết Chúa Giêsu giảng gì, nhưng Tin Mừng cho biết:” Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các Luật sĩ “ ( Mc 1, 22 ).
Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh, giảng dạy với lời lẽ rất mới mẻ. Giáo lý của Ngài là chân lý, hay nói đúng hơn qua giáo lý của Chúa, dân chúng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế. Giáo lý của Ngài làm cho danh tiếng của Ngài được đồn thổi khắp vùng Galilêa. Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền vì Ngài là Thiên Chúa, chứ không như các ngôn sứ trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho. Chúa Giêsu cũng không giảng dạy như các Kinh sư Do Thái là những người giải thích Thánh Kinh theo cảm hứng, tỉ mỉ một cách vô lối và chỉ chất lên vai người khác những gánh nặng luật lệ mà chính họ thì cứ tỉnh bơ, phè phỡn. Giáo huấn, những lời dạy dỗ của Chúa là một cuộc đổi mới, một cuộc cách mạng lớn lao, một việc rao giảng Tin mừng cứu rỗi, đặc biệt cho những kẻ nghèo khổ, những kẻ thấp cổ bé họng, những kẻ bị xã hội lúc đó đẩy ra bên lề xã hội. Đám đông dân chúng nghe Chúa giảng dạy đều nhận ra sự khác biệt giữa giáo huấn của Chúa và những lời giải thích nông cạn, đầy vẻ bề ngoài của các Kinh sư Do Thái.
Chúa Giêsu không bao giờ chỉ nói suông, nhưng lời nói của Ngài luôn kèm theo hành động bởi vì lời của Ngài là:” Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân theo “ ( Mc 1, 27 ).Phép lạ của Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa thật. Ngài có quyền trên sự sống và sự chết. Phép lạ của Chúa gây ấn tượng và hạnh phúc, hứng thú cho dân chúng chứng kiến việc làm của Ngài nhưng những kẻ chống đối thì hạch hỏi:” Ông lấy quyền nào mà làm như vậy “. Nhiều người đặc biệt là những người Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái không muốn công nhận uy quyền của Chúa, hay nói cách khác họ không nhận Chúa là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Họ luôn mong ước một vị anh hùng dân tộc đến để giải phóng đất nước, dân tộc Do Thái ra khỏi ách thống trị của Đế quốc Roma, còn Chúa, Ngài lại đến để giải phóng con người khỏi ách thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Chúng ta là môn đệ Chúa, chúng ta nên hiểu rằng ma quỉ không chỉ xuất hiện như những hình chúng ta xem: ma quỉ đen, có đuôi, xấu xí. Nếu thấy rõ chúng, con người sẽ dễ tránh xa và không bị sa ngã. Tuy nhiên, ma quỉ xuất hiện qua nhiều dáng dấp xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng dễ làm mờ mắt chúng ta, nên khó lòng chúng ta né tranh được chúng nếu chúng ta không khôn ngoan, tỉnh thức.
Do đó, chúng ta cần siêng năng học hỏi lời Chúa để bình tâm suy niệm và sống lời Chúa, để chúng ta luôn khám phá ra sự mới mẻ của lời Chúa, đồng thời nhận ra uy quyền của Chúa tỏ bày khắp mọi nơi.
Sứ điệp Tin mừng và Chúa nhật IV hôm nay mời gọi mọi Kitô hữu dừng lại để suy gẫm. Chúng ta hãy nhìn vào tha nhân để nhận ra họ cũng là con cái Chúa để chúng ta yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vâng, Chúa đã khai mạc Vương Quốc yêu thương của Ngài giữa trần gian và Chúa muốn chúng ta hoàn tất nhiệm vụ Chúa trao phó cho chúng ta là làm đẹp Vương Quốc của Ngài. Lý do khiến chúng ta bị trì trệ việc hoàn tất Vương Quốc của Chúa là vì chúng ta không biết biểu lộ tình yêu thương đối với người khác, ngay cả đối với những người thân thương nhất. Sở dĩ như thế vì chúng ta không biết dừng lại để nhận ra người khác cũng được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài và cũng phải được yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta.
G.Courtois đã viết:” Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “ muối, men “ cho cả nhân loại vì ánh sáng của những người sống lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều “.
Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa, giáo huấn nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói với Phêrô:” Hãy củng cố chiên con, chiên mẹ của Ta”. Xin cho mọi Kitô hữu luôn trung thành với Hội Thánh và sẵn sàng vâng nghe Giáo huấn của Hội Thánh qua các vị mục tử Chúa đặt lên coi sóc dân Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Lời giảng dạy của Chúa Giêsu khác với lời giải thích của các Kinh sư như thế nào? 2.Quyền giáo huấn là gì ? 3.Tại sao Lời của Chúa luôn kèm theo phép lạ ? 4.Những kẻ ủng hộ Chúa thì nghĩ về Chúa thế nào ? 5.Những kẻ chống đối Chúa thì nghĩ về Chúa làm sao ?
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã đề cập tới việc chuẩn bị tiếp nhận Lời Chúa, tức TN4-B44
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã đề cập tới việc chuẩn bị tiếp nhận Lời Chúa, tức là cần phải sám hối để sẵn sàng tin vào Tin Mừng. Lời Chúa được chuyển tải đến với ta qua các vị ngôn sứ, những người nói thay cho Thiên Chúa. Khác và vượt trên các ngôn sứ, Chúa Ki-tô là lời Thiên Chúa xuống thế làm người để mặc khải cho nhân loại tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra cho họ biết. Diễn tiến của mặc khải đã được mô tả qua câu mở đầu thư gửi tín hữu Do-thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:1). Các bài đọc hôm nay trình bày tác vụ ngôn sứ của Chúa Giê-su, tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa.
1. Vai trò của ngôn sứ trong Cựu Ước là hình bóng tác vụ ngôn sứ của Chúa Giê-su (bài đọc Cựu Ước – Đnl 18:15-20)
Ông Mô-sê đã được Thiên Chúa đặt làm người chuyển đạt thánh ý của Người cho dân Ít-ra-en. Ông được gọi là ngôn sứ, tức là người nói thay cho Thiên Chúa. Tuy nhiên vì ông có khó khăn trong vấn đề ăn nói (Xh 4:10) nên Thiên Chúa đã cho ông một phụ tá là A-ha-ron, anh của ông, làm người nói thay cho ông, do đó ông A-ha-ron cũng được gọi là ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã phán với Mô-sê về vai trò của ngôn sứ như sau: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy” (Đnl 18:18).
Như vậy ngôn sứ không phải là một thiên sứ được Chúa sai tới từ trời cao, nhưng là kẻ được Người tuyển chọn từ giữa cộng đồng nhân loại để thi hành những gì ích lợi cho dân chúng. Họ là người mang lời Chúa trong miệng và có bổn phận đi nói lại cho dân chúng những gì Chúa muốn cho họ biết. Như vậy, nghe lời ngôn sứ chính là nghe lời Thiên Chúa và không nghe lời ngôn sứ thì sẽ bị trừng phạt. Cũng thế, ngôn sứ phải chu toàn bổn phận là chỉ nói những gì Chúa muốn ngài nói và chỉ được nói nhân danh Thiên Chúa, nếu không ngài sẽ phải chết.
Chúa Giê-su đến trần gian làm người phàm. Từ giữa lòng nhân loại, Người đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm người nói thay Thiên Chúa. Ngài không những mang lời Thiên Chúa trong miệng, mà Người còn là chính Lời Thiên Chúa đã có từ trước muôn đời. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1:1). Các ngôn sứ là người mang Lời Chúa làm sao sánh được với Chúa Giê-su là chính Lời Chúa. Các vị ngôn sứ chỉ truyền đạt được phần nào những gì Thiên Chúa muốn phán dạy nhân loại. Còn Chúa Giê-su không những truyền đạt Lời Chúa, mà Người còn thực hiện tất cả những gì đã được các ngôn sứ và Kinh Thánh tiên báo.
Ngoài việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời, toàn bộ cuộc sống của Chúa Giê-su là một sứ điệp sống động diễn tả được hết mọi chiều kích của con người là hình ảnh Thiên Chúa, một gương mẫu để nhân loại biến đổi trở nên giống như Người. Chúa Giê-su đã giảng dạy nhân danh Thiên Chúa, do đó lời giảng của Người là “lời giảng mới mẻ” và Người giảng như một đấng “có uy quyền” (Mc 1:27). Người đã chu toàn sứ mệnh ngôn sứ do Chúa Cha trao phó. Người khẳng định với người Do-thái: “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì… Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (Ga 12:49-50). Một điều vô cùng cảm động, là các ngôn sứ nếu không chu toàn bổn phận ngôn sứ thì phải chết, còn Chúa Giê-su lại sẵn sàng tự nguyện chấp nhận cái chết để chu toàn bổn phận (Đnl 18:20 và Dt 10:8-10).
2. Chúa Giê-su thi hành tác vụ ngôn sứ (bài Tin Mừng – Mc 1:21-28)
Được sai đến trần gian và mặc lấy thân phận người phàm, Chúa Giê-su đã chuẩn bị cho sứ mệnh mai sau. Sau khi Thánh Thần thúc đẩy Người vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện, xức dầu cho Người để thi hành sứ vụ, Người đã mau mắn khởi sự công việc của vị ngôn sứ, là giảng dạy. Nội dung bài giảng của Chúa Giê-su tại Ca-pha-na-um hôm nay tuy không được nói đến, nhưng chắc chắn phải hết sức tuyệt vời, khiến cho “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc1:22). Giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng giảng dạy có uy quyền, thánh sử Mác-cô chứng minh uy quyền ấy bằng câu truyện Chúa quát mắng thần ô uế và đuổi nó ra khỏi một người bị nó nhập.
Có thể ta sẽ thắc mắc thánh Mác-cô có ý gì khi đặt câu truyện Chúa khu trừ thần ô uế ra khỏi một người vào trong khung cảnh Người giảng dạy trong hội đường. Dĩ nhiên trước hết là để chứng minh rằng nhận định của dân chúng về con người và sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giê-su là chính xác. Nhưng có lẽ thánh sử nhằm tới những ý nghĩa khác ta khó mà biết. Tuy nhiên ta thử suy nghĩ một chút về điều này. Theo thánh Mác-cô, chủ yếu sứ vụ của Chúa Giê-su là rao giảng sám hối và kêu gọi người ta hãy tin vào Tin Mừng. Nói khác đi, Người bắt đầu một cuộc chiến của quyền lực Thiên Chúa chống lại quyền lực ma quỷ. “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó” (Mc 3:27). Đây chính là hình ảnh diễn tả Chúa Giê-su đến trần gian là “nhà” của ma quỷ để cướp lại nhân loại đang bị hư mất về cho Thiên Chúa. Do đó, song song với việc rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giê-su cũng “trói người mạnh ấy”, nghĩa là Người phải xua trừ và tiêu diệt quyền lực của ma quỷ nữa. Triều Đại Thiên Chúa là thời gian từ hiện tại cho đến ngày cánh chung, thời gian mà quyền lực Thiên Chúa sẽ tiêu diệt quyền lực ma quỷ. Điều ấy phải được thực hiện cho toàn thể nhân loại, nhưng cũng cần được thực hiện nơi mỗi người đón nhận Tin Mừng Chúa Ki-tô.
Đúng thế, việc Chúa Giê-su rao giảng và khu trừ thần ô uế phải được lập lại nơi mỗi người chúng ta, những người đón nhận Chúa và sứ mệnh ngôn sứ của Người. Chúng ta đều là những người đang đón nhận lời giảng của Người. Nhưng nơi ta, thần ô uế đang thắng thế, luôn xúi giục ta bịt tai và đóng cửa tâm hồn lại trước Lời Chúa. Nó quyến rũ ta đi theo con đường của nó. Vì thế Chúa Giê-su kêu gọi ta sám hối quay về với Thiên Chúa để đón nhận Tin Mừng và Người chứng tỏ uy quyền Thiên Chúa trong lời giảng của Người bằng cách xua đuổi ma quỷ ra khỏi tâm hồn ta. Sứ mệnh ngôn sứ của Chúa Giê-su đang được thi hành ở đây và lúc này trong lòng mỗi Ki-tô hữu là những người “có tai thì nghe” (Mc 4:23).
3. Mỗi Ki-tô hữu phải thi hành sứ vụ ngôn sứ ngay trong hoàn cảnh sống của họ (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 7:32-35)
Một lần nữa, có lẽ ta lại có cảm tưởng đoạn thư hôm nay của thánh Phao-lô là cung đàn lạc điệu trong chủ đề Phụng vụ Lời Chúa. Bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng nói về tác vụ ngôn sứ, còn đoạn thư 1 Cô-rin-tô lại nói về khác biệt giữa người độc thân và người lập gia đình trong vấn đề “lo việc Chúa”! Thực ra ý tưởng và cách trình bày của thánh Phao-lô không dễ hiểu đâu và đoạn thư này của ngài cũng không lạc đề chút nào. Dĩ nhiên ngài không có ý khuyên mọi người phải làm đàn ông đàn bà độc thân hết thảy để không bị chi phối mà chuyên lo việc Chúa. Nhưng ngài chỉ muốn nói lên sự khác biệt hoàn cảnh giữa người độc thân và người có gia đình, và ngài nhấn mạnh điều này, là dù độc thân hay có gia đình, ta đều phải hiến dâng cho Thiên Chúa toàn diện con người mình “để được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co”.
Chúa Giê-su đã hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa và Người đã chiến thắng được những giằng co khi thi hành sứ mệnh ngôn sứ. Các Tông đồ và môn đệ Người cũng theo gương ấy mà tận hiến cuộc đời cho việc rao giảng và làm chứng nhân cho Tin Mừng. “Chuyên lo việc Chúa” chính là việc thi hành tác vụ ngôn sứ của người tín hữu. Sống trong hoàn cảnh nào người ta cũng phải hết sức rao giảng và làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô. Nếu người độc thân không vướng mắc chuyện làm đẹp lòng vợ hay làm vui lòng chồng phải “thuộc trọn về Chúa cả hồn lẫn xác”, thì ngay những người sống bậc sống vợ chồng cũng phải thuộc trọn về Chúa như họ thuộc trọn về nhau nữa. Tất cả đều “gắn bó cùng Chúa” thì làm gì còn chuyện bị giằng co, bởi ai cũng thấy bổn phận chu toàn tác vụ ngôn sứ, một trong ba tác vụ chung của Ki-tô hữu, là ưu tiên và cố gắng chu toàn ngay trong những hoàn cảnh sống của họ.
4. Sống Lời Chúa
Khi được rửa tội và làm con Chúa, ta tham dự vào tác vụ vua, ngôn sứ và tư tế của Chúa Giê-su. Ta được mời gọi thi hành những tác vụ ấy ngay trong cuộc sống làm chứng cho Chúa Ki-tô và Tin Mừng của Người. Nhưng để thi hánh tác vụ, trước hết ta phải gắn bó với Chúa bằng cách sám hối và hoàn toàn tin vào Con Một Người là Chúa Ki-tô. Ta hãy đáp lời gọi của Chúa ki-tô, để Người thanh tẩy ta khỏi mọi ảnh hưởng và quyền lực của ma quỷ và tội lỗi, biến đổi ta nên giống như Người mỗi ngày trong cuộc sống.
Suy nghĩ: Mong ước của thánh Phao-lô là thấy ta “được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” để chuyên lo việc Chúa. Vậy những gì khiến tôi bị giằng co và tôi đang bị giằng co thế nào? Tôi sẽ làm gì để thoát ra khỏi sự giằng co ấy mà gắn bó với Chúa?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin hướng dẫn chúng con biết hành động theo thánh ý Chúa, để nhờ kết hợp với Con Một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, chúng con đem lại hoa quả dồi dào là việc lành phúc đức. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 3 Thường niên).
Có những người thắc mắc muốn biết trong một ngày, ông tổng thống, hoặc Đức Giáo Hoàng: TN4-B45
Có những người thắc mắc muốn biết trong một ngày, ông tổng thống, hoặc Đức Giáo Hoàng, hay một linh mục làm những gì. Báo chí hay những người có thẩm quyền cho họ những câu trả lời, có khi thỏa đáng, có khi không. Nhưng vào thời gian viết sách Tin Mừng, chắc chẳng có ai đặt câu hỏi về một ngày sống của Chúa Giê-su, Người làm những điều gì. Do đó, khi viết về một ngày của Chúa Giê-su, thánh Mác-cô không có ý trả lời câu hỏi tò mò kia, nhưng là mong ta hiểu được ý nghĩa của những việc Chúa Giê-su làm trong một ngày, tất cả đều nhắm tới mục đích là thi hành sứ mệnh cứu thế của Người. Vậy bài Tin Mừng hôm nay là phần thứ nhất của đoạn Tin Mừng thuật lại một ngày sống của Chúa Giê-su tại Ca-phác-na-um (Mc 1:21-45). Phần này đặc biệt nói về việc Chúa Giê-su rao giảng và khu trừ ma quỷ.
a) “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”
Đoạn Tin Mừng kể ra việc đầu tiên trong ngày của Chúa Giê-su, đó là rao giảng. Đặt thứ tự như thế, hẳn thánh Mác-cô muốn nêu lên vị thế ưu tiên và quan trọng của việc rao giảng. Thánh sử Lu-ca cũng có ý trình bày tính cách ưu tiên này khi kể lại Chúa Giê-su tuyên đọc Sách Thánh tại hội đường Na-da-rét và áp dụng cho Người lời ngôn sứ I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn...” (Lc 4:18). Rao giảng hoặc loan báo Tin Mừng là điều cốt yếu và quan trọng nhất trong sứ mệnh của Người. Chính Chúa Giê-su đã cho các môn đệ Người biết tầm quan trọng của việc rao giảng: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy con rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38).
Trong quá khứ lịch sử nhân loại, Thiên Chúa dạy dỗ ta qua trung gian là ông Mô-sê và các ngôn sứ. Do đó, những vị này chỉ là những khí dụ Thiên Chúa sử dụng để truyền lại lề luật của Người, chứ không phải là những người có thẩm quyền ấn định bản chất của lề luật và ban lề luật cho nhân loại. Duy chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng có thẩm quyền ban lề luật và Thiên Chúa cho một số người được quyền dạy và giải thích cho ta biết lề luật ấy.
Nhưng giờ đây, Thiên Chúa dạy dỗ ta qua Chúa Giê-su, Con Một Người (Dt 1:1-2). Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người, sẽ dạy dỗ ta bằng chính ngôn ngữ của loài người, tức là bằng tiếng nói và lối sống. Nơi Người có đầy đủ thẩm quyền của một Thiên Chúa. Chẳng thế mà ta thường nghe trong sách Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su lập đi lập lại điều này: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...” Nói khác đi, cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã dạy ta qua Luật, thì giờ đây Thiên Chúa dạy ta qua Chúa Giê-su; hoặc xưa lề luật Thiên Chúa được chứa đựng trong sách Luật, còn nay lề luật ấy được chứa đựng trong lời giảng và lối sống của Chúa Giê-su.
Tuy nhiên, khi trình bày Chúa Giê-su giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh đến cách giảng dạy của Chúa. Cách đó “không giống như các kinh sư”. Vậy cách giảng dạy của các kinh sư như thế nào? Chúa Giê-su cho ta biết: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy... Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23:4). Vậy ta hãy chiêm ngưỡng cung cách Chúa Giê-su giảng dạy. Khi giảng dạy, Người “lên núi, ngồi xuống”, giống như một Mô-sê Mới. Hoặc Người mượn chiếc thuyền đánh cá của môn đệ làm giảng đài (Lc 4:1). Đám dân chúng thì ngồi chung quanh Người, vừa cảm thấy gần gũi, vừa hết sức chăm chú nghe Người. Người không nặng phần lý thuyết, nhưng thực tế và dễ hiểu, áp dụng ngay vào cuộc sống thường ngày. Người dùng những câu truyện giản dị, rút ra từ kinh nghiệm sống, nhưng chân lý của lời giảng lại cao siêu vô cùng. Thiên Chúa và tình yêu là những đề tài. Người diễn tả Thiên Chúa cách đơn sơ đến độ ta không ngờ, thí dụ Thiên Chúa là người Cha luôn chăm sóc cho con cái mình chẳng hạn. Người nghe chỉ có thể kết luận về lối giảng dạy của Chúa Giê-su: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền!”
b) “Người ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”
Công việc thứ hai trong sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su là khu trừ ma quỷ. Ngoài việc rao giảng Tin Mừng, sứ vụ cứu thế còn nhắm tiêu diệt quyền lực của ma quỷ và giúp nhân loại thoát khỏi sự khống chế của chúng. Ma quỷ đã rõ điều này, nên muốn hòa hoãn với Chúa Giê-su. Chúng mặc cả: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Chúa Giê-su không chút nhân nhượng. Người tóm lược công việc tiêu diệt vương quốc Xa-tan qua hình ảnh thực tế sau đây: “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó” (Mc 3:27). Đúng vậy, người mạnh đang thắng thế đây là Xa-tan và “nhà của một người mạnh” chính là thế gian đang nằm dưới quyền lực của Xa-tan. Chúa Giê-su đã đến nhà của Xa-tan là thế gian này, để “cướp” nhân loại lại và đem trả về cho Thiên Chúa. Do đó, Chúa Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa, phải “trói người mạnh ấy”, tức là trói Xa-tan và quyền lực của nó lại trước đã, rồi mới đem toàn nhân loại trở về nhà Cha. Trong Tin Mừng Mác-cô, nhiều phép lạ trừ quỷ hoặc chữa bệnh đều phản ảnh một cuộc chiến giữa Chúa Giê-su và quyền lực ma quỷ.
c) Lời giảng và quyền năng của Chúa Giê-su vẫn phải tiếp tục tác động trên ta
Sứ vụ rao giảng và tiêu diệt quyền lực ma quỷ không chỉ là một sự kiện lịch sử, nhưng là hành động cứu rỗi của Chúa Giê-su cần phải được tiếp tục thể hiện nơi mỗi người chúng ta. Sứ vụ ấy sẽ không gây hiệu quả gì nếu ta không có lòng tin và mở lòng đón nhận. Bởi thế Chúa Giê-su luôn luôn đòi ta phải có lòng tin, tin vào Người, vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa nơi Người, vào lời giảng của Người, để rồi phải thay đổi con người mình. Lời giảng và quyền năng biểu lộ đã thể hiện việc “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Về phần ta, để đón nhận Triều Đại ấy, ta phải “sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Lời giảng và quyền năng của Chúa Giê-su sẽ biến đổi ta dần dần, nếu ta biết “lắng nghe và thực hành” lời dạy của Người. Đó là lý do tại sao Chúa đã nói dụ ngôn người gieo giống để giúp ta hiểu tầm quan trọng của việc “nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm” (Mc 4:20).
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Mỗi lần suy niệm lời Chúa, nhất là sách Tin Mừng, tôi có hình dung ra khung cảnh Chúa Giê-su giảng dạy, để giúp tôi dễ chú ý lắng nghe Chúa nói không? Tôi có giống như những người trong hội đường Na-da-rét, chăm chú nhìn vào Chúa Giê-su không?
Chúa Giê-su đòi tôi phải có “lòng tin” nơi Người. Vậy tôi hiểu lòng tin là gì? Tin bằng đầu óc hay bằng con tim?
Muốn để Chúa trục xuất ảnh hưởng và quyền lực ma quỷ ra khỏi tâm hồn tôi, tôi phải làm gì? Tôi có để cho “giáo lý mới mẻ và người dạy có thẩm quyền” hoàn toàn tác động trên tôi không? Hay tôi đã từ chối, đã chống lại?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giê-su, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát”.
Bài Tin Mừng tuần trước đã kể cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu: TN4-B46
Bài Tin Mừng tuần trước đã kể cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Các ông sẽ là những người chứng kiến các hoạt động của Người ngay từ đầu. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,21-18) giới thiệu hoạt động đầu tiên của Chúa Giêsu mà các ông được chứng kiến: Chúa Giêsu giảng dạy tại Capharnaum và chữa lành người bị quỷ ám.
“Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngay ngày sabát, Người vào hội đường giảng dạy” (c.21). Ngay từ đầu sứ vụ tại Galilê, giảng dạy đã là một trong những hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu. Chính Người sẽ xác nhận cách tỏ tường điều này khi quân dữ tra tay bắt Người: “Ngày ngày tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy...” (14,49). Tác giả Mc rất chú tâm đến hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu. Nhưng, cũng như ở nhiều nơi khác (ví dụ 2,13; 6,2.6.34; 10,1), ở đây ông chỉ kể rằng Chúa Giêsu giảng dạy chứ không nói gì về nội dung của lời giảng dạy. Có lẽ đối với ông, điều đáng quan tâm nhất phải là chính Thầy Giêsu, hơn là điều Người giảng dạy.
Một nét đặc trưng của hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu là hiệu quả lời giảng dạy của Người. Hiệu quả đó được trình bày qua việc kể lại trải nghiệm của những người nghe giảng: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người” (c.22a). Họ bị đánh động sâu xa và rất ngạc nhiên. Tất cả những tiêu chí cổ điển để đánh giá lời giảng đều không còn giá trị nữa. Có một cái gì đó thực sự mới mẻ đã xuất hiện, gây nên một sự sửng sốt trong đám đông dân chúng. Nói cách khác, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu có sức mạnh đặc biệt, giống như những hành động quyền năng của Người. Cuối bài Tin Mừng, tác giả sẽ nói rõ hơn về phản ứng của dân chúng: “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!" Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (cc.27-28).
Sở dĩ đám đông dân chúng sửng sốt, là vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c.22b). Các kinh sư là những người hiểu biết Thánh Kinh, nhất là Tôra. Họ giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ chỉ cho dân chúng thấy cần phải làm gì để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Bản văn Mc 1,22 này không có bất cứ yếu tố nào cho phép chúng ta đánh giá tiêu cực về hoạt động giảng dạy của các kinh sư. Nhưng đồng thời, tác giả Mc muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng dân chúng đã mau chóng nhận ra rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu thì hoàn toàn khác với lời giảng dạy của các kinh sư. Lời giảng dạy của Người có một thẩm quyền đặc biệt, khác hẳn. Sau này, chính sự khác biệt hoàn toàn này sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực nơi các kinh sư: họ sẽ vu cáo rằng Chúa Giêsu nói phạm thượng (2,7), rằng Người liên minh với quỷ vương (3,22), rằng Người đáng bị kết án tử hình (14,53-65).
Cùng với việc giảng dạy, Chúa Giêsu còn thể hiện uy quyền của Người bằng cách trừ quỷ. Khi ấy, “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta” (cc.23-26).
Trừ quỷ là một trong những hoạt động của Chúa Giêsu mà tác giả Mc ưa thích kể lại nhất, ví dụ trong 1,23-27.34.39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29. Ở đây, quỷ được gọi là “thần ô uế”. Chữ “thần” ở đây có ý nói đến một sức mạnh đầy quyền năng, hoạt động, và rất khó kiểm soát. Chữ “ô uế”, trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chỉ về thực tại xấu xa, phàm tục, khác hẳn thực tại của Thiên Chúa, đối nghịch hoàn toàn với Thiên Chúa. Trong sách Tin Mừng, thần ô uế xuất hiện như một sức mạnh không phải của con người, nhưng hành động một cách cá vị, có hiểu biết đặc biệt, hoàn toàn đối nghịch với Thiên Chúa, khống chế nhiều người và buộc họ phải làm những điều xấu xa... Thần ô uế rõ ràng là sức mạnh hoàn toàn đối nghịch với Thần Khí của Thiên Chúa. Nó cũng là sức mạnh thù nghịch với con người, phá hoại sự tự do hành động của con người.
Chúa Giêsu được khắc họa trong tư thế có quyền siêu việt tuyệt đối trên thần ô uế. Người quát mắng nó. Và chỉ bằng một lời quát mắng như thế, Người đã chiến thắng nó. Người giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ thần ô uế, trả lại cho họ sự tự do.
Trước khi bị trục xuất, thần ô uế đã kêu lớn tiếng với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. Lời này nói về sứ mạng và căn tính của Chúa Giêsu. Nó cho thấy Chúa Giêsu có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa sai đến. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỷ. Sau này, Người sẽ nói rõ ràng hơn: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (2,17); “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,45).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay khắc họa cho chúng ta những đường nét chính yếu trong hoạt động của Chúa Giêsu:
(1). Ngay từ đầu, Người không hoạt động đơn độc, nhưng là trước sự hiện diện và chứng kiến của các môn đệ mà Người đã kêu gọi; họ đã bỏ mọi sự mà theo Người và Người cho họ được đồng hành với Người trong hoạt động cứu độ của Người.
(2). Người giảng dạy. Đây là một hoạt động chính yếu của Người ngay từ đầu.
(3). Người giảng dạy theo một cách thức hoàn toàn khác với các kinh sư Do Thái đương thời.
(4). Người trừ quỷ, tức là thực hiện những hành động quyền năng để giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ những thế lực gian ác.
(5). Người hoạt động trong một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa: Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
(6). Người giảng dạy và hành động như một Đấng có thẩm quyền đặc biệt.
Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động như thế giữa thế giới hôm nay, nhờ Hội Thánh. Sứ vụ của Người được tiếp nối bởi Hội Thánh. Và Hội Thánh được mời gọi hành động như Chúa đã hành động. Chúng ta được mời gọi ý thức về điều đó, để cầu nguyện cho Hội Thánh và để sống xứng đáng với sứ vụ cao cả của Hội Thánh.
Tác giả Mác-cô giới thiệu sứ vụ của đức Giê-su tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa: TN4-B47
Tác giả Mác-cô giới thiệu sứ vụ của đức Giê-su tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra mà đã liên kết chúng lại một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời rao giảng trở thành thuyết phục.
Mác-cô trước hết giới thiệu đức Giê-su như một nhân vật xuất hiện để công bố một sứ điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc chính của đức Giê-su là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp nhiều hơn là tới nội dung thuyết phục hay sự phong phú của chính sứ điệp Tin Mừng.
Rõ ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm đức Giê-su thực hiện: chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành đem đến cho Người…như để cho thấy tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy đối với sứ điệp, hay đúng hơn với chính người công bố. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp cho lắm. Ông dành nhiều giấy mực hơn để tường thuật các hành động chữa lành và yêu thương đức Giê-su thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.
Dân chúng, thời nào và ở đâu cũng vậy, khi nghe một sứ điệp thì trình độ hiểu biết cũng hạn chế thôi. Đúng hơn, họ là các thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bắng trí óc, nhất là trên con đường đi tìm chân lý. Trong khi đó các thày dạy lại thường có khuynh hướng sử dụng trí óc nhiều hơn là con tim; các kinh sư thời đức Giê-su cũng không phải luật trừ. Các hành động chữa lành đầy từ tâm của đức Giê-su đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục họ. Trong khi đó các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại chỉ tìm đến nghe các thuyết pháp của Ngài để phân tích và tìm cách bắt bẻ; chẳng vậy mà các tranh luận giữa họ với đức Giê-su không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của đức Giê-su quả thật là Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa trước khi làm cho trí óc họ say mê. Họ hằng khao khát một Đấng Mét-si-a từ nhân, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi thống khổ yếu hèn của con người. Đó là lý do tại sao họ chân nhận ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư, Biệt Phái.
Suy niệm trên đây, tuy đơn sơ thật nhưng đối với tôi lại có tầm quan trọng lớn.
Cho đời sống thiêng liêng? Là một tu sĩ linh mục, tôi có nguy cơ quá xa rời sự nhạy cảm thiêng liêng của người bình thường. Không biết từ khi nào suy luận tri thức đã hoàn toàn chiếm lĩnh ý thức tôi. Tôi quan tâm tới hiểu biết suy luận nhiều tới độ không còn giờ để lắng nghe khát vọng của con tim mình. Tin Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’ này của Tin Mừng trên tôi.
Cho công việc mục vụ? Suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: đối với cộng đoàn phụng vụ, các bải giảng của tôi chỉ có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng khi nào quảng diễn được Chúa cứu độ và xót thương. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá nhiều bởi các kiến thức thần học hay các dẫn chứng kiểu lý luận. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi thường trình bày cũng còn quá mô phạm và luân lý. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha thứ của đức Ki-tô mới có dịp hiện rõ?
Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận biết Chúa rõ ràng hơn các bậc không ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người lắng nghe bằng con tim và nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương hết thảy mọi người. Amen
Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền: TN4-B48
Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực các mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitle đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.
Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3.000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107.000 mỹ kim … Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.
Chúa Giê-su đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ “sinh vô gia cư – chết vô địa táng”.
Vâng, Chúa Giê-su, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: “Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì “giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền”.
Người ky-tô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giê-su qua bí tích Rửa tội. Người ky-tô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người ky-tô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người ky-tô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người ky-tô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giê-su biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.
Nguyện xin Chúa Giê-su là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen
Chúa Giêsu cùng các môn đệ, xuất hiện và giảng dạy công khai trong một hội đường tại Capha: TN4-B49
Chúa Giêsu cùng các môn đệ, xuất hiện và giảng dạy công khai trong một hội đường tại Caphạrnaum vào ngày lễ nghỉ sa bát. Thiên hạ ngạc nhiên vì lời Ngài như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Họ chỉ mới ngạc nhiên, sửng sốt, chứ chưa thể nhận biết rằng, Ngài chính là Đấng Có Thẩm Quyền. Nhưng có lẽ để thiên hạ biết rõ Ngài là ai, thì Chúa đã dùng ngay satan dưới lốt thần ô uế, thừa nhận vô cùng minh bạch: Tôi biết ông là ai rồi! Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!
Chẳng phải chỉ đáng buồn cho Israel, dân riêng của Chúa, đã không nhận biết Ngài là ai. Mà chính con cái Ngài hiện nay ở khắp nơi, cũng khiếm thị, khiếm thính, cũng không hề nhận ra Ngài, đang hiện diện trong mỗi con người chung quanh, những tha nhân khốn khó, những kẻ cô thế, kẻ bị giam cầm, bị áp bức, bị đói khát, bị gạt ra ngoài lề xã hội…
Ngài đến không chỉ soi đường, dẫn lỗi con người thoát kiếp lầm than, thoát kiếp nô lệ của satan, nhưng còn chữa lành, giải phóng con người thoát khỏi ảnh hưởng đen tối của u mê tội lỗi, của thói tham lam, thói ích kỷ, vị kỷ, thoát khỏi cái tôi như cái rốn vũ trụ.
Thần ô uế bây giờ tinh xảo, không còn ngây ngô, xấu xí hay kinh dị như xưa, mà trở nên biết hóa khôn lường, mặc lấy nhiều cái áo vô cùng mỹ miều, nhân danh đủ các lý tưởng thanh cao, đủ các chủ nghĩa mỵ dân, hòng che đậy cứu cánh dã tâm, không ngoài mục đích vinh thân phì gia, củng cố phe cánh, bè đảng, bằng nhiều chiêu độc, như tước đoạt của cải, bần cùng hóa và nô lệ hóa dân đen, chà đạp nhân phẩm, tước đoạt tự do,…
Thế mà Chúa Giêsu lại đến giải thoát con người khỏi ách nô lệ sự dữ, làm sao không động đến quyền lực đen, làm sao không làm nhức nhối những bạo quyền, những kẻ đang tâm bán rẻ linh hồn cho satan, kể cả những đám lâu la, ô hợp chạy theo cường quyền, để kiếm chác, bòn mót chút ân huệ, mà lạnh lùng hùa theo hãm hại dân lành. Chúa cũng không quên cảnh cáo những ngôn sứ phụ bạc, phản phé: Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết". (Đnl 18, 20)
Như vậy, đàn chiên Ngài chẳng lẽ lại dại dột nghe theo sói dữ, hay sói đột lốt chiên, để được yên thân, để khỏi bị thử thách, khỏi phải vác thánh giá? Lại chẳng biết đâu là chính nghĩa, đâu là danh chính ngôn thuận, đâu là Đường, đâu là Sự Thật, mà chính satan đã từng phải buộc lòng xác nhận ?
Lạy Chúa, xin hãy mở mắt, mở tai, mở lòng trí con, để con luôn nhận ra Chúa hiện diện ngay bên con, ngay trong xã hội nhiễu nhương, và nhất là Chúa hiện diện trong Tin Mừng và trong Thánh Thể nhiệm mầu.
Lạy Mẹ kính yêu, xin thức tỉnh con nhìn thấy Chúa trong mọi người, luôn biết nương tựa nơi Chúa, hầu xa lánh được satan, luôn rình rẫp cám dỗ, muốn khống chế tầm hồn yếu đuối của con. Amen.
• Đnl 18,15-20: (1) Này Ta sai sứ giả Ta đến dọn đường trước mặt Ta.
• 1Cr 7,32-35: (17) Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín.
• TIN MỪNG: Mc 1,21-28
Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa
(22) Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa (23) như đã chép trong Luật Chúa rằng: «Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa», (24) và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
(25) Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. (26) Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. (27) Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, (28) thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: (29) «Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. (30) Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ (31) Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: (32) Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ítraen Dân Ngài».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Gia đình của Đức Giêsu tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?: TN4-B50
1. Gia đình của Đức Giêsu tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Maria và thánh Giuse tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Môsê liên quan đến việc hạ sinh Đức Giêsu. Luật Môsê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng – dù là người hay là thú vật – đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds 18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Maria đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). – Mặc dù biết Đức Giêsu, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
2. Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pharisêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giêsu chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giêsu đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: «Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stêphanô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv 7,53). – Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3. Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
• Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này – tương tự như hiến pháp trong một quốc gia – là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Kitô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phaolô và Giacôbê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật (…) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giêsu cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).
• Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này – tương tự như luật pháp trong một quốc gia – gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp). Kitô giáo có vô số điều luật – trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo – nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Kitô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4. Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo. Chính Đức Giêsu đã sẵn sàng lỗi luật ngày sabát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Kitô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Đức Giêsu thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23b).
5. Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Đức Giêsu lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng không», hay như «công dã tràng»!
Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ «quân bị nguyền rủa» (Mt 25,41), chỉ vì «xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v…» (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ, chỉ toàn lo giữ «luật của phàm nhân»!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con biết tôn trọng Luật Cha là luật yêu thương. Xin ban cho con tinh thần của thánh Âu-Tinh: «Cứ yêu đi, rồi làm gì thì làm!» Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của Cha khi con thật sự yêu thương mà thôi. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu thương! (JK)