Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-B Bài 51-100 Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền
------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 21-28: “Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. (Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ. Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”. Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Thế là Chúa Giêsu đã chính thức khai mạc sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Ngài. Ngài bắt đầu: TN4-B51
Thế là Chúa Giêsu đã chính thức khai mạc sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Ngài. Ngài bắt đầu công việc này sau khi đã tuyển mộ xong những môn đệ của mình. Điều làm ngạc nhiên những người nghe Ngài, không những về giáo lý mới mẻ, về chính con người của Ngài, dĩ nhiên, phải kể đến khả năng chinh phục và thu hút của Ngài. Thánh ký ghi nhận: “Liền sau đó, các ngài đến Capernamum và vào ngày nghỉ lễ, Ngài vào hội trường và bắt đầu giảng dậy. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, bởi Ngài giảng dậy với quyền năng không như bọn luật sỹ” (Mc 1:21-22).
“Ngài giảng dậy với quyền năng” Thánh ký đã ghi nhận một cách rất rõ ràng về cách thức và hành động giảng dậy của Ngài, đó là Ngài giảng dậy “bằng quyền năng”. Khi nói như vậy, Thánh ký cũng có ý nói rằng bọn luật sỹ xưa rầy chỉ dậy những điều kinh điển như một con vẹt. Đọc đi, đọc lại. Nhai đi, nhai lại mà không biết chính mình phải làm gì, hay ngược lại, đã không làm những gì mình hiểu và giảng dậy. Và đó là điều làm cho Chúa Giêsu trở thành một nhà hùng biện, một nhà rao giảng, một bậc thầy thu hút và chinh phục những kẻ đến với Ngài.
Quyền năng mà Chúa Giêsu dùng để giảng dậy, thật ra không những vượt trên mọi khả năng thuyết phục, mọi tài hùng biện, và mọi lý lẽ chinh phục lòng người. Đó là một thứ quyền năng đến từ trên cao. Quyền năng này chắc chắn bọn luật sỹ, ký lục, bọn thượng tế và Pharisiêu cũng muốn biết, muốn có nhưng rất tiếc là nó vượt xa khỏi tầm mức của những con người này. Thánh ký Máccô ghi nhận quyền bính ấy như sau: “Ở đó trong hội trường có một người bị thần ô uế nhập đã la lên: “Hỡi Giêsu Nagiareth, có truyện gì giữa chúng tôi và ông, tại sao ông đến để trừ diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai – Đấng Thánh của Thiên Chúa! Chúa Giêsu liền ra lệnh cho y: “Hãy im đi! Và ra khỏi người này!” Lập tức thần ô uế vật ngã người ấy xuống đất thét lên một tiếng rồi ra khỏi y” (Mc 1:23-26).
Tại sao Thánh ký đang nói về việc Chúa Giêsu rao giảng, đang nói về khả năng chinh phục của Ngài, lại kể thêm về việc Ngài trừ quỷ ô uế cho một người? Câu trả lời được tìm thấy trong mẩu đối thoại giữa thần ô uế và Chúa Giêsu: “Hỡi Giêsu Nagiareth, có truyện gì giữa chúng tôi và ông, tại sao ông đến để trừ diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai – Đấng Thánh của Thiên Chúa! Chúa Giêsu liền ra lệnh cho y: “Hãy im đi! Và ra khỏi người này!”. Quả là một uy quyền rất lớn, vượt trên mọi sự con người có thể tưởng tượng. Với quyền năng ấy, sau này Ngài còn cho kẻ chết sống lại, què đi được, điếc nghe được, mù lòa xem thấy, phong cùi được lành. Và vượt ra khỏi thế giới nhân sinh, nó còn vươn tới vũ trụ quanh ta, như Ngài đã có lần truyền cho sóng biển phải im lặng. Tóm lại, dù là thiên nhiên, dù là con người, và ngay cả đến quỷ thần cũng đều phải vâng phục quyền năng của Ngài.
Nhưng nếu quyền năng ấy làm cho quỷ thần phải khiếp đảm, vâng phục, và căm thù, thì ngược lại, quyền năng ấy lại là sự giải thoát và cứu độ của con người khỏi sự thống trị của tội lỗi, của quỷ thần, và khỏi sự chết. Đối với quỷ thần thì đây là quyền năng khiến chúng phải kinh hoàng và làm chúng hoảng sợ. Nhưng đối với con người, thì đây là sự biểu lộ tình yêu vô biên của Ngài.
Quyền năng của Thiên Chúa là một sức mạnh dùng để thống trị Satan và bè lũ chúng. Quyền năng này làm chúng khiếp sợ và căm thù. Nó cũng là một hình phạt vô cùng lớn lao đối với những ai cố chấp theo con đường lầm lạc, mà không mảy may thống hối quay về với chân lý. Nhưng quyền năng ấy lại là một yên ủi vô biên, một sự đỡ nâng và khích lệ cho những tâm hồn thiện chí biết sống trong ân tình của Ngài. Trong trái tim nhân lành của Thiên Chúa, tội nhân và những tâm hồn biết thống hối, thiện chí tìm được chỗ tựa nương, an ủi và đỡ nâng: “Hãy ở trong tình yêu thầy” (Gioan 15:9). Chúa không nói những lời này với Satan và bọn ngụy thần của hắn. Chúa cũng không nói những lời này với những kẻ phủ nhận tình yêu và quyền năng của Ngài. Nhưng Ngài đã nói với chúng ta, những kẻ bé mọn và hèn yếu.
Còn gì an ủi và sung sướng hơn cho chúng ta là những lữ khách đang lang thang trên hành trình cuộc sống. Ngày đêm vất vả với những lo toan cuộc sống, tranh đấu với những mưu gian, chước quỷ luôn tìm cách làm hại chúng ta, khiến tâm hồn chúng ta và thân xác chúng ta phải héo hắt, khổ sầu. Trong những cảnh huống ấy mà được nghe Chúa bảo hãy cứ ở yên trong tình yêu của Ngài, hãy để cho quyền năng lời Ngài thay đổi, chinh phục, và bao bọc thì còn gì sung sướng và hạnh phúc hơn.
Quyền năng ấy còn có một đặc tính khác nữa là luôn luôn sẵn có và luôn luôn ở bên chúng ta trong bất cứ hoàn cảnh nào! Chỉ cần chúng ta mở rộng tầm nhìn vào thế giới chung quanh. Mở lỗ tai để nghe những lời thì thầm yêu thương ấy. Và mở lòng chúng ta để đón nhận lời Ngài lập tức chúng có ngay. Vì Thiên Chúa không ở đâu xa, mà ở ngay trong lòng chúng ta và ngay trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
Vậy điều quan trọng là chúng ta có muốn để cho quyền năng ấy chinh phục, và thu hút chúng ta hay không? Chúng ta tin theo và đón nhận những lời giảng dậy quyền năng của Ngài hay không? Hay chúng ta vẫn để cho những gánh nặng của cuộc đời, những quyến rũ và đam mê ghì chặt chúng ta xuống, và làm chùn bước chúng ta. Hoặc chúng ta vẫn cứ để lòng mình bị lôi cuốn bằng những lời phỉnh gạt của Satan, của thế gian, và vật chất.
Ngài giảng dậy bằng quyền năng. Quyền năng ấy đi liền với lời giảng dậy của Ngài có sức chinh phục, cải hóa, và làm sống lại những tâm hồn chai đá, lạc loài. Quyền năng ban cho chúng ta sự sống, và đem lại cho chúng ta quyền làm con Thiên Chúa. Và đối với những tâm hồn đang trong vòng thống trị của tội lỗi, của Satan thì quyền năng của lời Ngài sẽ ban cho họ sự sống đời đời, biến đổi họ thành những tâm hồn mới, những con người mới. Giải thoát họ khỏi những hận thù, chia rẽ, độc ác, tham lam, và dục vọng.
Ngài giảng dậy bằng quyền năng. Đó cũng là lời mời gọi tất cả chúng ta hãy siêng năng, say mê, và tìm đọc lời Ngài trong Tin Mừng – Tin Mừng Sự Sống. Nhất là sống với lời Ngài, để quyền năng của lời Ngài biến đổi, và giải thoát chúng ta.
Ngày Tết có nhiều thứ để mua vui lắm. Những màn sát phạt đỏ đen, những trò khích động lôi: TN4-B52
Ngày Tết có nhiều thứ để mua vui lắm. Những màn sát phạt đỏ đen, những trò khích động lôi cuốn đông người không ý tứ thì dễ vặn vò làm lệch hỏng ý nghĩa ngày Tết, khiến các sắc dân khác tìm vào cộng đồng Việt khó mà tìm ra được nét cao đẹp của văn hóa mình!
Nhà ảnh người Mỹ trắng là Mark Sindler ở vùng New Orleans rất mê lối sống người Việt. Một trong những bức nổi tiếng là cảnh “Dọn Tết”. Tuyệt lắm. Anh ta đã chụp được cái hồn của người Việt sau nhiều năm lặn lội tìm tòi, tập húp nước mắm và ăn chả giò. Chắc là phải tốn nhiều công sức thời giờ lắm.
Cả nhà đang cùng tham gia một “công tác” lớn: Bà mẹ đang cặm cụi gói bánh chưng, mấy đứa nhỏ đứa thì đưa lá, đứa đưa lạt buộc. Cứ như là cảnh bác sĩ giải phẫu có mấy cô y tá đưa dao đưa kéo. Đứa bé nhất đang bò thì có bà coi, cảnh bà cháu ríu rít sao mà thân thương thế. Mấy đứa lớn thì lăng xăng chạy tới chạy lui đưa bánh cho bố bỏ vào nồi lớn để nấu.
Nhìn kỹ này, đây mới là điểm chú tâm của tấm hình: Ông bố đang nấu bánh với dáng điệu trang trọng như đang cử hành nghi lễ. Ánh sáng từ bếp lửa làm rạng lên khóe mắt long lanh hay từ một sức gì bên trong toát ra, khó mà phân biệt được. Hay là cả hai. Ông bố như đang mở tâm ra nhận lấy dòng sức sống từ bao đời qua mấy ngàn năm lịch sử với đầy vinh quang mà cũng nhiều tủi nhục của dân tộc. Bây giờ đến lượt ông là người dẫn đầu gia phong có trách nhiệm chuyển dòng sức sống này chảy tới cho đàn con cháu đã đưa sang Mỹ. Khói từ nồi bánh chưng tỏa lên nghi ngút tưởng chừng như khói hương rước hồn thiêng tiên tổ từ những mồ cao mả dài hằng bao thế hệ về hiện diện nơi đây, một Việt Nam thu hẹp.
Nấu bánh chưng thì cũng phải nấu bánh dầy. Vuông phải hòa nhập với tròn, đất phải hòa hợp với trời. Ông bảo chỉ nấu bánh chưng không, là nghe dại mấy đứa duy vật vô thần nghỉ chơi với Trời, cho ông Trời thất nghiệp “lây óp” là láo xà. Nên ăn tết phải có đủ nghi lễ bánh chưng bánh dầy. Người miền Nam mình còn đơn giản hơn nữa, nét vuông nét tròn được cô đọng lại nơi đồng bánh téc. Trời cao đất thấp gặp nhau. Xa cách mấy rồi cũng nối liền được. Đối nghịch mấy rồi cũng dung hóa được. Mà có dung hóa như vậy được thì mới phát sinh điện lực, như cực âm cực dương nối kết. Người Việt lì lắm, gặp khốn khổ mấy cũng biết vậy đã. Rồi đâu cũng vào đó. Cũng có cách giải quyết chứ không điên mát như người Âu Mỹ đâu.
Cảnh nấu bánh dầy bánh chưng mà linh thiêng vậy đấy, có nghi thức hẳn hòi chứ chả thường đâu. Cả nhà tham dự. Cả dòng họ tiên tổ tham dự. Cả trời đất tạo dựng, chuyển dòng sức sống cho từng người, cho từng công việc, cho cả năm. Mark Sindler không mê sao được.
LẠI NHỚN NHÁC TÌM
Quả thực, người Âu Mỹ đang thừa tiền mà lại quá nghèo tinh thần và tình thương. Họ đang mệt mỏi và nhớn nhác đi tìm lối thoát, nhưng chỉ thích tìm cái gì mới lạ thôi, chán những cái đã có. Nhiều người mò sang Nhật học thiền, tập vũ thái cực "Tai Chi" của Tàu, tập Yoga của Ấn. Thậm chí sách viết về mật tông Tây Tạng như Hoa Sen Trên Tuyết, Hành Trình Về Đông Phương, Tử Thư, bán chạy hơn tôm tươi.
Thiền là một thứ thời trang bây giờ, đánh đúng thị hiếu người Mỹ đang quá thừa mứa mệt mỏi. Nhiều người chịu chi cả 75 tiền Mỹ một ngày để được dạy cho cách thiền ăn táo, mà táo mỗi người phải mang theo sẵn.
Chậm lại, đừng hối hả. Tỉnh thức. Hít vào. Thở ra. Dõi theo hơi thở trở về nhất tâm. Biết mình đang hít vào, đang thở ra. Ý thức mình đang ăn, và hưởng cái thú đang ăn táo, từng miếng nhai, từng vị ngọt, ý thức mình đang nuốt...
Thế là ăn xong một trái táo, ra về thơ thới hân hoan vì đã biết ... ăn táo, mà chỉ mất có 75 đồng tiền Mỹ.
TIẾT LIỆU DẠY THIỀN
Thực ra thì Thiền không phải là của riêng Nhật hay Phật Giáo. Thiền đã có từ lâu trong truyền thống Ấn Độ trước Phật giáo xa, cũng như đã có trong nhiều tôn giáo. Thiền là một phương cách tĩnh niệm, là nhìn kỹ để bỗng mở mắt thấy một điều gì mà mọi khi vẫn nhìn mà không thấy: sức sống đang hiển hiện. Trời đất chỉ có một hơi thở, một Thần Khí, một dòng sức sống. Chỉ cần bắt lại được vào nhịp sống đó, thì tìm lại an lạc. Thi hào Tagore và linh mục dòng Tên người Ấn là Anthony de Mello gọi là Sadhana. Truyền thống Công Giáo thì gọi là chiêm niệm. Thánh I-Nhã gọi là Linh Thao. Thế thôi. Điều khác biệt căn bản là người Công Giáo thấy được dòng sức sống là chính Thánh Thần Tình Yêu đang hiển hiện, chứ không phải là một lực vô vi.
Nếu nói như vậy thì văn hóa Việt đã biết linh thao hay thiền từ lâu rồi. Đúng là dân mình là dân có đạo. Hoàng Tử Tiết Liệu trong truyện thiêng bánh dầy bánh chưng, đã có thể lên ngôi sống đời hoàng vương giàu có nhờ biết linh thao: hòa nhịp vuông góc cạnh cuộc sống nhốt hộp của đất với dòng sinh khí của Trời tròn đầy vô biên. Tiết Liệu đã biết cách liệu cho hòa nhịp được tiết điệu trời đất. Thiền đúng điệu rồi còn gì.
Con trăng có nhịp, con nước có nhịp, con người cũng có nhịp. Cứ đóng kín ích kỷ cố giữ lấy nhịp riêng của cái tôi mà không đi được vào tiết điệu trời đất của cái Ta nhịp nhàng toàn mãn là loạn ngay, mát dây, chạm điện tứ tung. Leonardo da Vinci là một trong những người tiên phong cho nền khoa học và y học hiện đại, đã có lần vẽ lên hình ảnh một người sống lành mạnh cân bằng khi chân tay chạm được với hình vuông và tròn. Đúng với câu giáo khoa thư ngày xưa: “Người ta... đầu đội Trời, chân đạp đất, chẳng ngang như súc vật, chẳng ngược như loài cây”.
Ngày Tết là ngày người Việt tìm bắt lại nhịp trời đất. Một năm với bao đợt sóng nhồi xuống tung lên dễ làm cho lòng người chao động và say sóng. Thì đây là lúc linh thao, dừng chân nhìn kỹ để nhận ra đạo trời, để hòa nhập vào sức sống đất trời đang cựa mình đổi mới sang xuân. Dòng sinh lực ơn thánh đang tuôn chảy từng giây phút đây này qua mọi sự. Từng động tác, từng cảm giác, từng ngụm khí thở, quí báu chừng nào. Và bỗng thấy phép lạ của cuộc hiện hữu, đang được sống, đang giang rộng tay để lãnh nhận. Vui như thế mới là vui thật. Vui như Tết là vậy.
TIN VUI TẬP THIỀN NGÀY TẾT
Trời đã sẵn có đạo, có đường lối, có tiết nhịp như thế rồi, cứ việc hòa theo thôi là an vui hạnh phúc. Những gì cũ đang qua đi, mình thở ra một hơi thật dài, xả buông mọi sự theo mây gió. Và hít một hơi cho đẫy, nhận lấy cả sinh lực đất trời. Giờ đây tất cả đều trở thành mới, từ trong ra ngoài. Hòa mình vào từng cây xanh bãi cỏ trong hội đạp thanh hái lộc. Hòa nhập vào thiên nhiên, vạn vật, vào những gì đang thấy trước mặt. Tất cả đều lạ lùng. Gạo và đậu làm nhân có ngay trong nhà. Lá gói có ngay trong vườn. Hạnh phúc vuông tròn toàn mãn ở ngay trong tầm tay chứ có phải chạy tìm mãi nơi xa tắp nào như những hoàng tử khác, giống người Mỹ nhớn nhác bây giờ.
Niềm vui chỉ toàn mãn khi đất vuông hòa nhập được vào với trời tròn. Đức Maria cũng linh thao khi dâng con vào đền thờ. Như linh mục linh thao khi pha chút nước vào chén rượu trong thánh lễ với tâm tình:
“Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con.”
Đúng rồi. Từng bổn phận nhỏ bé thường ngày như việc dâng con theo phong tục, nuôi nấng dạy dỗ con được lớn lên trong mạnh khỏe hiền ngoan, từng việc nấu cơm dọn nhà, tất cả đều trở thành những tác động linh thao, biến đổi từ vuông cạnh ra tròn đầy sung mãn. Cuộc sống đầy những phép lạ kinh ngạc.
Tổ tiên mình cũng sống tinh thần linh thao hay thiền từ lâu. Cấy lúa, tát nước, làm mùa, dệt chiếu là linh thao. Giã gạo, rửa chén là linh thao. Vừa làm vừa ca hát vừa thiền đấy. Ăn Tết là linh thao. Bưng bát cơm đầy, ăn táo cũng là linh thao:
Người ta đi cấy lấy công, Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
Nhìn gió, ngắm trăng sao là linh thao. Mục đích của linh thao là để thấy Chúa trong mọi sự mà. Tổ tiên thì thấy ông Trời bao trùm vạn vật. Như vậy đời sống là một chuỗi thiền chứ không chỉ giới hạn trong nhà thờ hay phòng nguyện nào cả. Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cảm nghiệm thấy như vậy:
Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió
Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao.
Một khi đã bắt lại được vào nhịp trời đất như hoàng tử Tiết Liệu rồi, thì dù mọi thăng trầm có xô đẩy tới trong năm, người Việt vẫn cảm thấy an nhiên bình thản. Như bánh dầy bánh chưng hòa nhập làm nên đạo sống, việc chấp nhận được cả các đối nghịch, dung hóa được hai cực âm dương thành điện lực, biến chế mọi sự thành vuông tròn tốt đẹp. Nhịp đạo Trời đã sẵn vậy mà, như niềm tin tưởng trong ca dao:
Dù ai nói ngược nói xuôi
Ta đây cứ vững đạo Trời khăng khăng.
Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Xứ Ars, là một vị Linh Mục thánh thiện đã lôi cuốn khắp: TN4-B53
Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Xứ Ars, là một vị Linh Mục thánh thiện đã lôi cuốn khắp cả Âu Châu tuốn đến, để được nghe ngài giảng, tham dự Thánh Lễ ngài dâng, được xưng tội và bàn hỏi việc linh hồn với ngài... Thánh nhân phải bắt đầu ngồi Toà Xá Giải từ 1 giờ sáng đến khi bước ra khỏi tòa về nhà, thì đã đêm khuya... Ngài được ơn thấu rõ tâm hồn nhiều người, nói rành mạch về quá khứ và tương lai của họ.
Đây là một câu truyện cảm động đăng trên báo Annales du Carmel năm 1881. Nhân vật chính trong câu truyện, ngày nay là một Nữ Tu và đã được tường thuật theo lời Cha Sở của Chị Dòng ấy:
Trước khi vào Dòng, thiếu nữ này đã đến xứ Ars, bàn hỏi việc tâm hồn và xưng tội chung với ngài. Trong khi trao đổi ý kiến, bất ngờ Cha Thánh hỏi cô:
- Hỡi con, không biết con có còn nhớ đến một cuộc khiêu vũ mà con đã tham dự cách đây không lâu? Trong buổi khiêu vũ ấy, con có gặp một chàng thanh niên mà không hề ai biết được tông tích cậu ta cả, nhưng con đã ghen tức lồng lộn lên, vì thấy cậu ta mời các cô khác nhảy với cậu ta mà không mời con?
- Thưa Cha, cô thiếu nữ trả lời, đúng như vậy.
- Con có nhớ không, ngài hỏi tiếp, là khi cậu ta bỏ ra đi, con và mọi người đều thấy nơi cửa, chỗ cậu ta đứng có hai ngọn lửa xanh phát ra, tất cả đều cho là ảo giác do sự tranh tối tranh sáng gây nên, phải không?
- Thưa Cha, cô thiếu nữ trả lời, đúng.
- Vậy con có biết không, ngài lại hỏi và quả quyết, cậu thanh niên ấy chính là một thằng quỉ trá hình, những cô được nó mời nhảy với nó, đã hoặc sắp bị trầm luân hỏa ngục. Con có biết vì sao nó không mời con nhảy với nó không? Vì con có đeo bộ áo Đức Mẹ trên người con, và vì lòng sùng kính Đức Mẹ, nên con đã được cứu thoát. Vậy con rất có lý do để duy trì lòng sùng kính Đức Mẹ và giữ gìn Áo Đức Mẹ như là một báu vật của con.
I. TIN CÓ QUỈ DỮ LUÔN HOẠT ĐỘNG
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô viết: "Chúa giảng dạy dân chúng như Đấng có quyền, chứ không như các luật sĩ". Giáo lý Ngài dạy làm mọi người phải bỡ ngỡ, kinh ngạc và thán phục. Ngoài ra, Chúa còn dùng uy quyền của Ngài, thực hiện biết bao nhiêu việc lạ lùng, để chứng minh Ngài là Thiên Chúa, giáo lý của Ngài là điều chân thật từ Thiên Chúa, hướng dẫn nhân loại trên đường tiến tới hạnh phúc vĩnh cửu.
Đang khi Chúa giảng dạy trong hội đường, có một người bị quỉ thần ô uế ám ảnh, thét lên: "Hỡi Ông Giêsu Nazareth, có truyện gì giữa chúng tôi và Ông? Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Chúng tôi biết Ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Chúa Giêsu quát bảo: "Hãy im đi và ra khỏi người này". Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất ra khỏi người ấy. Mọi người đều bỡ ngỡ kinh ngạc. Đây chỉ là một trong rất nhiều lần, Tin Mừng thuật lại việc Chúa trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người, vì trong thời của Chúa, tại Do Thái có rất nhiều người bị quỉ nhập. Nhưng tất cả thần dữ hỏa ngục đều phải tuân lệnh Ngài.
Đức Tin dạy chúng ta tin thật có ma quỉ, và ma quỉ luôn hoạt động khắp đó đây trên trần gian; không phải chỉ có ở thời xưa mà cả thời nay; không phải chỉ ở Do Thái mà còn ở khắp nơi trên thế giới; cũng không chỉ ở ngoài xã hội, mà nó còn len lỏi vào cả nơi các Dòng Tu, các Nơi Thánh để cám dỗ, để quyến dũ, để tấn công và làm cho người ta mê man trần tục, ưa thích vui thú giác quan, tham lam của cải, nhậu nhẹt, dâm đãng phóng túng và mọi thứ tội lỗi, mọi thứ tính mê nết xấu... Câu truyện cuộc khiêu vũ chúng ta vừa nghe trên đây, đủ nói lên sự hiện diện của thần dữ hỏa ngục trong thế giới hôm nay, khiến chúng ta cần phải cẩn phòng.
II. SỨC HOẠT ĐỘNG CỦA QUỈ DỮ TỚI ĐÂU
Có ma quỉ là chân lý chúng ta phải tin. Chân lý ấy đã được chứng minh trong Thánh Kinh, nhất là trong Tân Ước, thời Chúa Giêsu đang sống tại Do Thái. Nhưng còn vô số truyện đã xảy ra trong đời sống hằng ngày, các Thánh đã gặp, đã chiến đấu và chiến thắng chúng cách oanh liệt.
Ma quỉ rất kiêu căng và ghen tức với loài người, vì loài người được Chúa yêu thương hơn. Sau khi phạm tội phản nghịch Chúa, các thần dữ hóa thành ma quỉ và bị trầm đọa trong hỏa ngục; còn loài người lại được Chúa yêu thương hứa ban Đấng Cứu Thế, đến trần gian để cứu chuộc và lập công đền tội, hầu cho loài người được ơn trở lại làm con Chúa và được thừa hưởng phần gia nghiệp vĩnh cửu Chúa sắm sẵn cho con cái ngoan thảo của Chúa ở đời sau. Do đó, ma quỉ đã vận dụng mọi cách, phá rối những công việc của Chúa thực hiện nơi các tâm hồn; chúng thường hay xúi dục người ta làm điều tội lỗi xấu xa phản lại luật Chúa, bằng các cơn cám dỗ; vây hãm bằng các hiện tượng ghê rợn tức là quỉ ám; xâm nhập vào thân xác để quấy phá linh hồn, bằng hiện tượng quái dị tức là quỉ nhập; có khi một, cũng có lúc từng bày quỉ nhập vào trong một người.
Nhưng chúng ta biết chắc một điều, dù ma quỉ uy quyền, mưu mô, khôn ngoan, quỉ quyệt đến đâu, cũng không bao giờ có thể vượt quá được giới hạn Chúa cho phép. Như giáo lý các Thánh đã quả quyết: Ma quỉ có thể tác động vào ngoại quan hay nội quan, khích động giác quan, xúi giục trí tưởng tượng, nhưng không bao giờ chúng được phép hành động trực tiếp vào trí khôn và ý chí của chúng ta. Do đó, khi trí khôn và ý chí của chúng ta, nhất định không chấp nhận cám dỗ, không cố tình phạm tội thì ma quỉ cũng không thể làm gì được chúng ta.
Có một điều khó cho chúng ta để nhận ra chúng, vì chúng là loài thần thiêng vô hình; rất ít khi chúng xuất hiện dưới hình dáng một người hay một vật quái dị nào đó, để chúng ta khiếp sợ mà xa tránh.
III. LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHIẾN THẮNG MA QUỈ
Vậy chúng ta làm thế nào để có thể chiến thắng ma quỉ? Làm thế nào để có thể giữ được linh hồn mình trong sạch thánh thiện, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa?
Thánh Phêrô đã dạy: "Ma quỉ là thù địch của anh chị em, chúng hằng quyện quanh, gầm thét tru trếu như sư tử, rình rập tìm mọi cách sát hại anh chị em" (Pet 5:8). Chúa ban phép cho ma quỉ hoạt động, là để cho chúng ta có dịp lập công đền tội và nên thánh thiện, khi chúng ta chiến thắng chúng. Vả nữa, theo lời Thánh Phaolô: "Không bao giờ Chúa để chúng ta bị cám dỗ quá sức chịu đựng, Chúa luôn ban đủ ơn để chúng ta chiến thắng chúng, nếu chúng ta biết tin tưởng chạy đến cầu xin Người" (xem I Cor 10:13).
Để chiến thắng thần dữ, chúng ta cần phải biết rằng: Ma quỉ là loài khôn ngoan, quỉ quyệt, ẩn nấp dưới mọi hình thức, trà trộn vào mọi nơi mọi chỗ, khi thì rất xấu xa, lúc lại có vẻ rất tốt lành, chúng lợi dụng hết mọi dịp thuận tiện, dùng mọi phương thế thông thường như: Phim ảnh xấu, television đồi tệ, thời trang diêm dúa, sách báo dâm ô, hình ảnh khiêu gợi tình dục và còn bao nhiêu phương cách quỉ quyệt nham hiểm khác; chúng còn dùng những tay sai lập ra các chương trình giáo dục thiếu khôn ngoan, những quan niệm luân lý buông thả, những ý thức hệ phóng khoáng; tệ hại hơn nữa, những kẻ có quyền trong các quốc gia, những nhà lập pháp còn chấp nhận, phê chuẩn những khoản luật trái lương tri, phản luân lý, khiến lương tâm con người bị xáo trộn, nền luân lý chân chính bị tác hại, gây nên biết bao đồi phong bại tục và tội lỗi.
Chúng ta hãy cẩn phòng, xa tránh các mưu chước quỉ dữ và các triết thuyết lầm lạc của con nguời thời đại, nhất là ngoan ngoãn tuân giữ các giáo huấn Giáo Hội dạy chúng ta sau đây:
1. Năng lãnh nhận các Nhiệm Tích Thánh với lòng sốt sắng chân thành.
2. Xa tránh tội lỗi, nhất là tội trọng để được sống trong ơn nghĩa Chúa.
3. Luôn tin cậy, phó thác, phụng sự và hết tình yêu mến Mẹ Maria. Kết Luận
Câu truyện một Chị Dòng trước khi đi tu trong buổi khiêu vũ, chứng minh cho chúng ta thấy thực sự có ma quỉ và những hoạt động của chúng, chúng hằng tận lực bày mọi mưu kế quỉ quyệt nhằm tác hại các linh hồn; nhưng vì lòng sùng kính mến yêu Đức Mẹ mà Chị đã được cứu thoát khỏi mưu thâm độc của chúng.
Vậy nếu chúng ta muốn chắc chắn đạt Ơn Cứu Độ, lãnh nhận được nhiều ơn Chúa và chiến thắng được mưu thâm độc của quỉ dữ hỏa ngục, chúng ta hãy sùng kính mến yêu Đức Mẹ, vì theo lời các Thánh quả quyết: "Ai có lòng sùng kính Mẹ Maria là dấu chắc chắn được Ơn Cứu Độ và đạt tới Đích Thánh Thiện".
Vào năm 1990 hãng phim xuất bản cuốn "Người trừ quỉ - Exorcist". Chuyện phim dựa trên câu: TN4-B54
Vào năm 1990 hãng phim xuất bản cuốn "Người trừ quỉ - Exorcist". Chuyện phim dựa trên câu chuyện Chúa trừ quỉ và người bị qủi án là cậu bé 14 tuổi. Cậu đã bị qủi nhập nhân việc đi ăn lậu của cúng. Sau khi bị nhập, qủy đã hành hạ cậu nặng nề, bị xùi bọt mép, bị nhảy vào lừa, bị nhốt vào lồng sắt, nhưng cậu đã bẻ cũi sắt để chui ra. Cậu còn nói được nhiều thứ tiếng khác nhau, lại nói ra những tội lỗi và nhiều điều kín của người hỏi nó. Cậu được linh muc Thomas, vị Linh Mục đã được Đức Giám Mục ban phép trừ cho. Cậu đã được qủy ra khỏi và trở lại bình thường.
Trong Phúc Âm còn ghi lại 4 trường hợp được Chúa trừ qủi:
- 1. Chúa đuổi qủy khỏi người bị phong cùi.
- 2. Trừ quỉ khỏi người bị dịch tế cho nhập vào đàn heo.
- 3. Trừ khỏi vị con quan sau nó trở lại gấp 7 lần.
- 4. Trừ quỉ dơ dáy mà người Pharisiêu nói Chúa lấy quyền tướng quỉ mà trừ.
Bệnh quỉ nhập thời nào cũng có. (Tam Điểm, Cộng Sản , Thương Gia....) Kết quả của quỉ nhập là tác hại ghê gớm, không sợ hãi gì hết.
Bệnh Phong là bệnh do bại hoại thể xác: Lở lớt thân mình, thần kinh giao động, co quắp thân thể, xùi bọt, trợn mắt... Ám chỉ bại hoại tinh thần hay bệnh phong tình, bệnh Aids.
Bệnh dịch là bệnh dễ lây, truyền qua cách nhanh chóng. Chúa chữa người mắc bệnh này cho nó nhập vào đàn heo, heo chết hết. Dân chúng sợ lây, xin Chúa rời khỏi làng họ. Bệnh tinh thần: Nói hành, nói xấu, rỉ tai.
Các thứ bệnh ngày nay không còn mấy, vì người ta tìm ra thuốc trị. Nhưng chứng bệnh "unclean spirit" thì lan mạnh dưới mọi hình thức: Đồng tình luyến ái, khoả thân, Sexy, loạn luân, ngừa thai, làm tình, chồng chung vợ chạ, rối luân lý, ly dị, không cưới cheo.... Gọi chung một danh từ là Tội tình.
Bệnh này tê hại và loan truyền quá mạnh vì nó hợp thể xác. Các nhà thương mại lợi dụng xã hội để mua xôi bán thịt trên màn ảnh, trên báo chi, ciné, movie. Nó ảnh hưởng tới mọi tầng lớp từ trẻ đến già, giới tu trì cũng bị lây. Cứ đứng nói chuyện một hồi là bắt được cái bệnh hoa tình, bệnh bù cú, bệnh tám tỉnh rồi.
Có Chuyện kể:
- Con khỉ dạng tè he ra gãi, vì cô gái chọc nó, dù đi thật lâu trở lại nó cũng còn nhớ và gãi khi cô gái đó đến bên
- Chuyện hai thầy Dòng chơi tem nói chuyện: Con này đẹp, con kia xinh hơn. Ông thầy thứ ba nghe sượng tai trách: "Hai thầy dòng ơi, đi tu rồi còn nhớ đến người đẹp làm chi".
- Chuyện cha Tân Quy dẫn các cháu gái đi chơi, các thầy tránh đường rất xa. Cha bảo: "Nó là qủy cháu đó, không việc gì". Các cô được thể thích thú lại chọc các thầy: "Nó là qủy cháu đó, không việc gì".
Thứ qủy này phải cầu nguyện, tránh xa, xua đuổi, đụng vào là bị lây không lối thoát, vì qủy nó giúp nên không sợ nữa.
Thứ qủy này phải tự ý mình, thẳng thắn không cả nể, không sợ mất lòng, mất bạn, tránh xa hình ảnh, sách báo xấu.
"Nếu ai không nghe lời ta thì chính kẻ ấy tự xét xử cho mình và sẽ phải chết trong sự xét xử" (Đệ Nhị Luật).
Thánh Công Đồng nhắc: "Mỗi người phải tự kiểm điểm mình và đề phòng, đừng để tệ đoan xã hội lọt qua cửa sổ ngũ quan vào làm hại cho mình. Mỗi người có nhiệm vụ phải làm cho mình nên công chính trước mặt Chúa".
Thánh Phanxicô nói: "Con cố gắng nhưng không có Chúa con cũng chẳng làm gì nên chuyện. Xin Chúa giúp con luôn từng bước con đi trên đời".
Theo Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật Thứ Ba tuần trước, Chúa Giêsu bắt đầu: TN4-B55
Theo Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật Thứ Ba tuần trước, Chúa Giêsu bắt đầu chủ động thi hành sứ vụ thiên sai của mình bằng hai việc, công bố sứ điệp và tuyển gọi môn đệ. Tuần này, cũng Phúc Âm Thánh Marcô cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân Do Thái chẳng những bằng lời giảng dạy làm cho họ kinh ngạc, mà còn bằng việc làm khiến họ phải sửng sốt vì chưa bao giờ thấy nữa. Thật vậy, nếu việc tỏ mình ra lần đầu tiên theo Phúc Âm Thánh Gioan là phép lạ Người làm ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:1-11), theo Phúc Âm Thánh Luca là lời tự chứng của Người ở Hội Đường Nazarét về bản thân Người đúng như lời Thánh Kinh của tiên tri Isaia (x Lk 4:14-30), thì theo Phúc Âm Thánh Marcô là việc Người trừ một thần ô uế trong một hội đường ở Caparnaum. Ở Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ đầu tiên. Ở Phúc Âm Thánh Luca, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân làng của Người (toàn tòng Do Thái) đầu tiên.
Ở Phúc Âm Thánh Marcô, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân chúng nói chung (đa số là Dân Ngoại) ở thành Caphanaum. Sự kiện thành Caphanaum (ngày nay được gọi là Tell Hum, nằm ở bắc ngạn Biển Hồ Galilêa, phía đông của Nước Jordan, và cách Nazarét 23 dặm) thật sự là nơi có đa số Dân Ngoại sinh sống đã được Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 8:5-13 cho thấy rõ ràng qua chuyện Chúa khen đức tin mãnh liệt của viên đại đội trưởng người Rôma ở đây; nhất là ở đoạn 4:12-17, Phúc Âm Thánh Mathêu còn cho biết Capanaum, miền đất Dân Ngoại “còn ngồi trong tối tăm” như lời của tiên tri Isaia là địa điểm Chúa Giêsu bắt đầu xuất hiện như “ánh sáng bừng lên” để công bố lời loan báo tiên khởi và tuyển chọn các tông đồ đầu tiên.
Việc Chúa Giêsu lần đầu tiên tỏ mình ra bằng việc ra tay trừ thần ô uế ở một nơi phố hội của Dân Ngoại này là một việc làm rất hợp tình hợp lý. Hợp tình ở chỗ Dân Ngoại vì ngồi trong tối tăm nên dễ bị thần dữ sai khiến, làm chủ, và hợp lý ở chỗ ánh sáng cần phải chiếu soi để xua tan bóng tối thế nào, Chúa Giêsu cũng trừ thần ô uế ở đây như vậy. Thực ra Phúc Âm Thánh Marcô không cho chúng ta biết chính xác người bị thần ô uế ám đây là người Do Thái hay Dân Ngoại. Tuy nhiên, căn cứ vào bối cảnh của bài Phúc Âm, chúng ta có thể khẳng định người bị thần ô uế ám đây là một người Do Thái, vì sự kiện trừ tà này của Chúa Giêsu xẩy ra bấy giờ trong một hội đường của người Do Thái. Như thế, không phải chỉ có Dân Ngoại không biết Thiên Chúa, tức không được ánh sáng Mạc Khải Thần Linh tỏ ra cho qua Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, mới là thành phần duy nhất dễ bị quỉ ám, mà cả thành phần dân Do Thái nữa.
Chúng ta cũng không biết đích xác lý do tại sao hay vào trường hợp nào người Do Thái này bị thần ô uế nhập và ám, nhưng chúng ta có thể suy ra là nạn nhân đáng thương ấy bị ảnh hưởng bởi môi trường, môi trường Dân Ngoại, một môi trường đầy những ngẫu tượng và tà thần, một môi trường Thiên Chúa, qua Moisen, đã cảnh giác dân Do Thái trước khi vào chiếm mảnh đất Ngài đã hứa với cha ông tổ phụ họ, một môi trường mà vì là dân thánh thuộc về Thiên Chúa, qua phép cắt bì, họ chẳng những cần phải xa lánh mà còn phải diệt trừ nữa (x Deut 7:1-6). Đối với dân Do Thái, Dân Ngoại quả thực là thành phần ô uế, như được thấy rõ ràng qua những gì Tông Đồ Phêrô bộc lộ trong thị kiến về dân ngoại của ngài, một thị kiến ngài thấy toàn là thú vật và được lệnh phải giết đi để ăn nhưng ngài nhất định không chịu (x Acts 10:11-14). Chính vì thành phần Dân Ngoại ô uế mà, cho dù theo Tân Ước, họ không cần phải chịu phép cắt bì như dân Do Thái mới được cứu độ, song, theo Công Đồng Chung Giêrusalem, họ vẫn buộc phải kiêng lánh những gì là ô uế liên quan đến ngẫu tượng, hoang dâm và ăn nhậu huyết nhục (x Acts 15:20). Nếu trong lời loan báo ban đầu của Chúa Giêsu, Người đã công bố “Triều Đại Thiên Chúa đã đến”, thì tất cả những việc Người làm đều cho thấy sự thật “Triều Đại Thiên Chúa đã đến”.
Nhưng, có lẽ đối với dân Do Thái nói chung, (vẫn biết sau này thành phần Do Thái thông luật Pharisiêu tỏ ra nghi ngờ và không thán phục việc Người trừ quỉ như ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 12:24), việc Người trừ quỉ hay trừ thần ô uế vẫn là một cái gì đặc biệt nhất. Tại sao? Bởi vì trong Lịch Sử Cứu Độ của họ, chưa hề xẩy ra như vậy, kể cả trong thành phần các tiên tri, danh tiếng như Êlia chẳng hạn, vị tiên tri cho dù có thể hồi sinh đứa con trai của bà góa ở Zarephath như Sách Chư Vương 1 thuật lại trong đoạn 17:17-24, được cũng chẳng làm được điều này. Tất nhiên, với quyền năng của Thiên Chúa, vị tiên tri nào hay bất cứ người nào được Thiên Chúa dùng cũng có thể làm được những gì Ngài muốn, kể cả việc trừ quỉ hay trừ thần ô uế như Chúa Giêsu làm trong bài Phúc Âm hôm nay. Thế nhưng, thực tế cho thấy Thiên Chúa đã không dùng ai khác ngoài chính Con Một của Người, Lời Nhập Thể, Thiên Chúa Làm Người, để ra tay thực hiện việc đặc biệt này. Tại sao? Nếu không phải tại vì việc trừ quỉ hay trừ thần ô uế này là biểu hiệu đích thực nhất và sống động nhất cho dự án và công cuộc Thiên Chúa muốn cứu chuộc nhân loại cho khỏi tội lỗi và sự chết là những gì do tên sát nhân ngay từ ban đầu là ma qủi gây nên (x Jn 8:44; Gen 3:15). Đó là lý do Thánh Gioan Tông Đồ, trong thư Thứ Nhất của mình đã xác quyết: “Ai phạm tội thì thuộc về ma quỉ, vì ma quỉ phạm tội ngay từ ban đầu. Chính vì để hủy diệt các công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra” (1Jn 3:8).
Tuy nhiên, nếu việc cứu chuộc của Thiên Chúa, về phần tiêu cực, trước hết là việc Ngài, qua Chúa Giêsu Con Ngài, cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, tức khỏi quyền lực của Satan, của ma qủi, được biểu hiệu qua việc Người Con này ra tay trừ ma quỉ, trừ tà thần, nhất là được hiện thực qua Cuộc Tử Giá của Người, thì vấn đề được đặt ra ở đây không phải là việc con người được cứu nữa, mà là việc ma quỉ nhận biết Chúa Giêsu là ai và đến để làm gì, như hắn đã tuyên xưng trước mặt mọi người có mặt bấy giờ là: “Hỡi Giêsu Nazarét, Người muốn gì nơi chúng tôi đây? Chẳng lẽ Người đến hủy diệt chúng tôi hay sao? Tôi biết rằng Người là ai rồi, Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”
Qua câu nói này của thần ô uế, chúng ta thấy rằng ma quỉ vẫn không bao giờ quên được bản án nguyên tội của loài người, một bản án có liên quan đến số phận của hắn, số phận bị giòng dõi người nữ đạp dập đầu (x Gen 3:15). Và sự kiện hắn đến cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa (x Mk 1:12; Mt 4:1-11; Lk 4:1-13) phải chăng đã hiển nhiên cho thấy hắn lúc nào cũng để ý và truy lùng trong loài người xem ai là “giòng dõi người nữ”, vị sẽ đạp dập đầu hắn, để tấn công trước, để ra tay trước, kẻo hắn sẽ bị hạ, và vương quốc của hắn trên thế gian cũng theo đó bị tiêu tan. Phải chăng, qua lời rao giảng làm cho dân chúng thán phục của Người, như phần đầu của bài Phúc Âm hôm nay nói tới, nhất là qua việc ăn chay 40 đêm ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu, một việc vô tiền khoáng hậu chưa hề xẩy ra trong loài người là loài vốn mang “bản chất yếu nhược” (Mt 26:41), mà thần ô uế trong bài Phúc Âm hôm nay phải thốt lên rằng “Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”.
Xin lưu ý ở đây là, Chúa Giêsu chưa kịp lên tiếng gì, chưa kịp tỏ thái độ nào, trái lại, mới chỉ thấy bóng của Người, sự hiện diện của Người trong thành phần dân Do Thái tham dự ở hội đường, mà thần ô uế đã hoảng sợ đến nỗi không thể cầm mình và phải la lên rồi. Cái sợ của hắn ở đây, trước hết, liên quan đến bản thân của Người, tức là hắn không biết có phải chính Người là Đấng sẽ đạp dập đầu hắn là Satan, là tên quỉ cả của hắn chăng, mà nếu quả thực như thế thì cả hắn cũng sẽ bị tiêu diệt nữa, do đó, hắn mới sử dụng đại danh từ “chúng tôi” ở phần thứ hai của câu hắn nói. Cái sợ của thần ô uế trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, sau nữa, liên quan đến công việc của Người, tức là hắn không biết Người đến để làm gì, có phải để “hủy diệt chúng tôi hay sao?”. Cái sợ của hắn ở đây, sau hết, liên quan đến tư cách và phẩm tính của Người, ở chỗ, vì hắn “ô uế” nên sợ “Đấng Thánh”, vì hắn ở trong tối tăm nên sợ ánh sáng. Như thế, trong khi dân chúng bấy giờ chưa ai nhận ra Chúa Giêsu thì ma quỉ đã nhận ra Người, và Người nhờ đó cũng tỏ mình ra Người quả thật là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” và sứ vụ của Người là đến cứu chuộc con người khỏi quyền lực chết chóc và tinh thần ô uế của thần dữ.
Đó là lý do, được chứng kiến việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế này, tức được thấy Người tỏ mình ra như vậy, nếu người Do Thái nhận biết Người là Đấng Thiên Sai và người Dân Ngoại tin phục Người là Đấng Cứu Thế thì không phải là họ đã thực sự “cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm” rồi hay sao? Việc trừ tà thần của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này quả thực là Phúc Âm sống động, do đó, sau khi được chứng kiến tỏ tường sự lạ về một con người lại có quyền năng trừ tà thần, dân chúng mới nói: “Như thế nghĩa là gì đây? Một giáo thuyết hoàn toàn mới mẻ đầy quyền linh! Người truyền lệnh cho thần ô uế và hắn đã tuân lệnh Người!” Dân chúng không nói “một việc làm hoàn toàn mới mẻ đầy quyền linh”, mà là “một giáo thuyết hoàn toàn mới mẻ đầy quyền linh”. Bởi vì, theo Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, chính Phúc Âm có một sức mạnh, một quyền linh giải cứu con người thành tâm tin tưởng: “Việc rao giảng phúc âm của chúng tôi đã chứng tỏ cho anh em thấy đó không phải chỉ là vấn đề thuần ngôn từ mà là vấn đề quyền năng…” (1Thes 1:5).
Và Phúc Âm đây là gì, nếu không phải cũng là chính Chúa Giêsu, vì Phúc Âm nói về Người (x Rm 1:3), Phúc Âm là tất cả Mạc Khải Thần Linh, là “tất cả sự thật” (Jn 16:13) được Người tỏ ra cho riêng dân Do Thái cũng như cho chung nhân loại. Mà Người cũng chính là tất cả Mạc Khải Thần Linh, chính là Tất Cả Sự Thật, chính “là Sự Thật” (Jn 14:6). Bởi vậy, “tin vào Phúc Âm” chính là tin vào Chúa Giêsu. Nhưng muốn tin vào Chúa Giêsu con người cần phải “cải thiện đời sống”, tức cần phải chẳng những “khao khát nhân đức trọn lành” (Mt 5:6), ở chỗ luôn mở lòng mình ra trước Mạc Khải Thần Linh, mà còn cần phải “có lòng thanh sạch” (Mt 5:8) nữa. Như thế, việc trừ tà thần của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này chẳng những là việc nói lên cho thấy dấu hiệu “Triều Đại Thiên Chúa đã đến”, mà còn có một tác dụng thanh tẩy con người, làm cho con người nhờ đó có thể tin tưởng chấp nhận những gì được Thiên Chúa mạc khải qua Con của Ngài, hay chấp nhận chính Con Ngài là Chúa Giêsu, Mạc Khải Thần Linh, Phúc Âm Cứu Độ.
Kitô hữu đã được Quyền Năng Phục Sinh của Chúa Kitô, qua phép rửa, trừ tà thần cho. Thế nhưng, thực tế cho thấy Kitô hữu sống trên trần gian như thể vẫn bị tà thần làm chủ và hắc ám, được thể hiện rõ ràng nhất qua những hành động gian dối và tội lỗi đủ thứ của họ. Tại sao? Nếu không phải bởi vì phép rửa chỉ tha tội (nguyên tội cũng như tư tội) và hình phạt bởi tội mà thôi, song không tiêu diệt hết mọi căn gốc của tội là đam mê nhục dục, tính mê nết xấu, xu hướng đê hèn v.v. Như thế không phải vì Quyền Năng Phục Sinh bất lực trước sự dữ hay mầm mống tội lỗi, mà là muốn cho con người cảm nghiệm được Người, Cảm Nghiệm Thần Linh qua những yếu hèn của họ và từ những sa ngã của họ, nói cách khác, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra qua những yếu hèn và sa ngã của họ (x 2Cor 12:9). Đó là lý do Ơn Cứu Độ nói chung và Phép Rửa nói riêng không phải chỉ có tác dụng tiêu cực là cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, mà còn có một tác dụng tích cực nữa, đó là ban cho con người Sự Sống Thần Linh và Khả Năng Thần Linh (Tin, Cậy, Mến), khi tái sinh họ trong Thánh Thần (x Jn 3:5, 1:33, 20:22), để Sự Sống Thần Linh như ánh sáng đánh tan bóng tối tội lỗi và quyền lực sự chết nơi họ, bằng chính Khả Năng Thần Linh Tin Cậy Mến của họ, một khả năng làm cho họ tránh được mọi độc dữ trên thế gian (x Mk 16:17-18; Mt 6:13), tức làm họ sống ở thế gian chẳng những không thuộc về thế gian (x Jn 17:14,16), mà còn như men trong ba đấu bột (x Mt 13:33) bản thân, gia đình và xã hội, cho đến khi cả ba đấu bột thế gian này dậy men Phúc Âm! Như thế, đời sống Kitô hữu là một cuộc truyền bá phúc âm hóa trần gian vậy.
Chúa Giê-su bắt đầu thi hành sứ vụ cứu độ của Ngài trong thành Ca-phác-na-um, một thành: TN4-B56
Chúa Giê-su bắt đầu thi hành sứ vụ cứu độ của Ngài trong thành Ca-phác-na-um, một thành phố nhộn nhịp và đông dân miền Ga-li-lê.
Ngày sab-bát, Ngài vào Hội đường. Theo tục lệ Do thái, Ngài được mời đọc sách Thánh và giải thích Lời Chúa. Thánh Mac-cô không nói Ngài đọc sách nào như ở Na-da-rét. Thánh sử nói rằng: Ngài giảng không như các kinh sư mà như Đấng có uy quyền. Từ “ uy quyền” ở đây có thể hiểu là chắc chắn, mạch lạc và đầy ý nghĩa, thấm vào tâm hồn người nghe, và phong cách của Ngài thật uy nghi làm cho mọi người sửng sốt.Ngài gây ngạc nhiên, vì có lẽ từ trước đến giờ , không ai giảng như Ngài: “ Lời Thiên Chúa là lời sống động, sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi…” (Dt 4,12).
“ Lập tức”, một người bị quỉ ám la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét. chuyện chúng tôi có can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Ma quỷ tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính ma quỷ nói lên sứ mệnh của Ngài: tiêu diệt ma quỷ. Ma quỷ cũng xưng “chúng tôi”, tức là nhiều. Cũng như ở Ghê-ra-sa, ma quỉ cũng nói rõ “ chúng tôi là đạo binh”. Ma quỷ tràn ngập thế giới và đang thống trị rất nhiều tâm hồn. Quyền lực của ma quỷ rất đáng sợ. Trước mặt Thần dữ, chúng ta chẳng là gì cả, nếu không có Chúa phù trợ.
Lần đầu tiên, trong hội đường Ca-phác-na-um, cuộc chiến đã bắt đầu giữa Satan và Chúa Giê-su: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao ?”Đúng thế, sứ mệnh của Chúa Giê-su chính là tước đoạt khỏi bàn tay Satan thế giới nầy và thiết lập Triều đại của Thiên Chúa. Thánh Gia-cô-bê nói: “ Bạn tin vào một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải ! Cả ma quỉ cũng tin như thế, và chúng run sợ !” (Gc 219). Đứng trước Giê-su Na-da-rét, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Satan đã thấy ngày tàn của nó.Chỉ một lời thôi, Chúa Giê-su đuổi quỷ khỏi người quỷ ám trước mặt mọi người: “ Im đi ! Hãy ra khỏi người nầy! Thần ô uế lay mạnh người ấy và xuất khỏi anh ta”.
Chúng ta có thể tưởng tượng được sự ngỡ ngàng của những người đang có mặt trong hội đường lúc đó.
Nếu chúng ta có mặt lúc bầy giờ, chúng ta sẽ nghĩ sao ? Không lạ gì người ta bàn tán xôn xao với nhau. Lời Ngài không những làm cho lòng người xao động còn có sức khuất phục cả Satan !
Chúa Giê-su không cho quỷ nói vì sợ dân Do thái hiểu sai về sứ mệnh của Ngài, vì họ luôn mong chờ một Đấng Cứu Thế uy quyền và phép tắc đến để tái lập vương triều Đa-vít, vì ma quỷ không đáng tin.
Nhưng hôm nay, Lời Chúa còn mang lấy mãnh lực phi thường như thế không ? Chúa Giê-su, hôm qua, hôm nay vẫn là một, vẫn là Thiên Chúa quyền năng. Hôm qua, Ngài tỏ ra uy quyền. Hôm nay Ngài làm như bất lực. Ngài đã mất đi quyền lực thần linh của Ngài rồi sao ?
Sao hôm nay, Ngài lại để cho Satan thống trị, làn sóng vô thần tràn ngập thế giới, tội ác hoành hành mà Ngài không lên tiếng ? Ngài không còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa nữa sao ?
Vấn nạn rất chính đáng !
Chúa Giê-su không xuất hiện cụ thể như ở Ca-phác-na-um, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài chỉ âm thầm gần như không can thiệp vào cuộc sống con người, để cho họ quyết định vận mạng của họ. Chọn Chúa hay ma quỷ, là quyền của họ.
Khi xưa, tiên tri Ê-li-a cũng mang tâm trạng như thế. Ông than vãn với Chúa: “ Lạy Chúa, đủ rồi, hãy lấy mạng sống của con đi, con không tốt hơn cha ông của con”.
Ê-li-a đã bước đến ngưỡng cửa của thất vọng. Một tiên tri mạnh mẽ như ngài lại thất vọng như thế, thất vọng vì dân ngài, thất vọng vì bản thân, thất vọng vì Chúa mình !
Một số người trong Giáo Hội hôm nay cũng mang tâm trạng như thế.
Chúng ta không thể hiểu Thiên Chúa. Ngài như than hồng vùi dưới tro. Ngài có thì giờ chờ đợi con người bên kia ngưỡng cửa của lồng lộn, của nổi loạn, của thất vọng. Ngài chờ đợi cho con người cảm thấy mình không là gì cả, lúc ấy, Ngài sẽ tỏ uy quyền của Ngài như một núi lửa phun trào.
Con người là gì ? Như cây cỏ thôi. Những nổi loạn của họ là gì ? Tro bụi thôi. Ngài trao thế giới nầy trong tay chúng ta. Chúng ta có thể cứu vớt hay chết chìm với nó. Ngài vẫn có mặt trong nếp sống xô bồ của họ. Con người nổi loạn vì họ không tìm đâu được bình an. Chính chúng ta, người tin Chúa, phải cứu vớt thế giới, chúng ta đã làm được gì ? Chúa bảo chúng ta phải là ánh sáng thế gian, là muối đất. Tại sao thế giới hôm nay lại tan rữa trong tội ác, phải chăng ánh sáng đã quá lu mờ và muối đã lạt ?
Lời Chúa còn là lương thực hằng ngày của chúng ta không ? Hay chính chúng ta đã nhàm chán của ăn cần thiết nầy, như dân Do thái xưa trong sa mạc đã chán ngấy manna Chúa ban để cứu sống họ ?
Lời Chúa không còn đủ sức để xua đuổi ma quỷ ra khỏi tâm hồn con người hôm nay, vì chính chúng ta không còn chứa đựng sức mạnh của nó trong tâm hồn chúng ta, chúng ta không còn đủ sức để trào tràn sức sống của nó trong cuộc sống chúng ta ?
Thiên Chúa đã trở nên yếu đuối vì chúng ta yếu đuối. Ngài bất lực trước làn sóng tội ác vì chính chúng ta bất lực.
Chúng ta chỉ có thể cứu vớt thế giới khi chúng ta được nuôi dưỡng bằng Lời Hằng Sống, khi chúng ta trở thành Lời sống động và đáng yêu.
Chúng ta phải làm sao cho người ta ngạc nhiên vì thấy Lời Chúa trở thành hiện thực nơi chúng ta. Nơi Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, Lời đã trở thành yêu thương và quên mình. Nơi Đức Chân Phước Gioan-Phao-lô II, Lời đã trở nên khiêm tốn và can đảm. Chúng ta hãy nhìn các thánh. Các ngài cũng như chúng ta, phải đem hết tâm lực để thực thi Lời Chúa. Ông Le-on Bloy, một văn sĩ Pháp đã nói: “ Chỉ có một nỗi buồn là chúng ta không nên thánh”.
Người công giáo phải trở thành Lời sống động giữa xã hội chúng ta đang sống. Chúng ta chưa dám trở thành Lời… vì chúng ta còn bám ghì vào quyền lợi riêng tư, chưa dám dấn thân để sáng tạo tương lai cho Giáo Hội.
Chúa Giê-su hôm qua vẫn hiện diện nơi đây, nơi bàn thờ nầy. Ngài bảo chúng ta ăn lấy Ngài, nuôi Ngài bằng xương thịt chúng ta như Ngài nuôi chúng ta bằng xương thịt của Ngài, giúp cho Ngài lớn lên trong chúng ta, thi hành trọn vẹn ý định cứu độ của Chúa Cha.
Chúng ta sẽ làm gì ?
Chúng ta sẽ ngủ yên trên những gì chúng ta đạt được, hay chúng ta cùng xông pha với Chúa vào cuộc chiến của Chúa ? Chúng ta cứ để cho Satan tự do tung hoành hay chúng ta sẽ dùng tất cả khả năng của mình để tiêu diệt ảnh hưởng của nó ?
Cuộc chiến của Chúa Giê-su vẫn còn kéo dài, chúng ta không thể ngồi yêu hưởng thụ. Satan không ở xa đâu. Ở trong chúng ta còn nhiều vết tích của nó, những tội không chừa, những thói xầu vẫn còn hoành hành, những tội chúng ta vẫn còn yêu thích…
Hãy lột mặt nạ Satan trong chúng ta. Đó là cuộc chiến gay go hơn chúng ta tưởng.Chúng ta cần Chúa. Chúng ta không thể chiến đấu một mình. Ngài đã nên lương thực cho chúng ta vì Ngài biết, không có Ngài, chúng ta không làm được việc gì.
Tên quỷ đề nghị thế với Đức Kitô. Đó là tên quỷ của sự ô uế. trong suốt hành trình ba năm rao giảng: TN4-B57
Tên quỷ đề nghị thế với Đức Kitô. Đó là tên quỷ của sự ô uế. trong suốt hành trình ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã gặp và đã trừ rất nhiều loài quỷ. Nhưng tên quỷ đầu tiên mà Chúa gặp trong hành trình rao giảng, là một tên quỷ ô uế. Đấy không phải là một sự vô tình, mà đó là dấu chỉ cho thấy, trong mọi thời đại sự ô uế, là điều đang bành trướng nhất. Khi đối mặt với Chúa, tên quỷ ô uế đã nói: “Chuyện chúng tôi có can gì đến ông, mà ông lại đến tiêu diệt chúng tôi”.
Tên quỷ khéo thật! Hắn nói cũng có lý. Bởi chuyện xác thịt đâu có ăn nhằm gì tới Chúa. Chúng tôi vẫn đọc kinh, vẫn cầu nguyện mà. Chúng tôi đâu có làm gì chống lại Chúa? Thân xác là của chúng tôi. Và nếu chúng tôi có liên hệ xác thịt với nhau, có lỡ bỏ cơm nhà mà đi “ăn phở ” thì có sao đâu, vì đó là một nhu cầu đòi hỏi mà, như đói thì ăn, khát thì uống?
Nhưng Chúa Giêsu quát tên quỷ đó rằng: “Câm đi! Hãy ra khỏi người này”. Chúa không cho hắn nói nữa, bởi đó là một giọng nói ngụy biện, để che giấu sự xấu xa trong lòng. Thân xác con người là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Vì thế, không thể biến đền thờ ấy, tức là thân xác mình, trở thành nô lệ cho dục tình.
Sự hấp dẫn và quyến rũ giữa hai phái nam và nữ, là sức mạnh đưa đẩy, để người ta bước vào hôn nhân, hầu có thể thương yêu nhau trong hành trình nên thánh, và để rồi thi hành một trách nhiệm vô cùng nặng nề, là bảo tồn nòi giống. Việc sinh con và nuôi dạy, là một trách nhiệm hết sức phức tạp, tế nhị và nhiều mệt nhọc, cay đắng. Chính vì thế, các việc yêu thương ân ái, là đặc ân, chỉ dành cho những người sống trong đời sống gia đình chân chính.
Ngày xưa, khi con người đã có mặt khá đông; đã biết sống quây quần nơi các phố thị; Từ trời cao nhìn xuống, Chúa bắt gặp những mùi xú uế, tanh tưởi từ trái đất bốc lên, vì những hành động băng hoại luân lý của con người. Người ta chỉ đắm mình trong những cảm giác xác thịt, chơi bời. Thiên Chúa, đã làm cho con nước lớn lên. Một trận đại hồng thủy đã xảy ra, và giết chết hết nhân loại, chỉ trừ gia đình Noe. Thành phố Sôđôma cũng vậy, không chịu nổi trước những ô uế, xác thịt buông tuồng của họ. Chúa đã cho mưa sinh diêm ba ngày đêm và cho lửa từ trời xuống đốt cháy hết thành, và tiêu diệt mọi người trong đó.
Ta đừng để thời đại mình, lại phải chịu chung số phận bi đát của những người ngày xưa.
Gợi ý suy niệm:
1- Thân xác bạn hiện tại, có còn là đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi không? 2- Nếu đã có gia đình, có bao giờ, bạn đã là kẻ phản bội lời thề hôm xưa?
Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết, Môi-sen biết dân Chúa cuối cùng sẽ vào đất hứa, sau những TN4-B58
Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết, Môi-sen biết dân Chúa cuối cùng sẽ vào đất hứa, sau những thế hệ bị nô lệ ở Ai cập và sau một cuộc hành trình dài gian khổ trong sa mạc. Môi sen biết đã đến thời điểm Chúa gọi ông về và phải vĩnh biệt mọi người. Nhưng ông cam đoan, quả quyết với dân chúng Chúa sẽ không bỏ rơi họ. Chúa sẽ gởi đến cho họ một ngôn sứ như ông để chỉ dẫn và lãnh đạo họ. Chúng ta thường nghĩ ngôn sứ là người đoán trước hay nói trước những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lại, và đôi khi như vậy, nhưng định nghĩa chính xác nhất của ngôn sứ nằm trong bài đọc này là: người nói lời Chúa, là người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Chúa sẽ truyền cho họ. Chúng ta thấy bài đọc một chuẩn bị, hướng chúng ta đến bài Tin Mừng về Chúa Giê-su, Người nói Lời Chúa với uy quyền và quyền năng.
Từ những dòng đầu của Tin mừng, thánh Mác-cô muốn cho chúng ta biết Chúa Giê-su là ai. Ngài giới thiệu sách Tin mừng của ngài với dòng chữ như sau: “Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.” (Mc. 1, 1) Vài dòng sau đó thánh Mác-cô cho chúng ta biết khi Chúa Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tiền hô có tiếng từ trời phán rằng “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.” (Mc. 1, 11) Bây giờ chưa đến nửa chương đầu sách Tin mừng, thánh Mác-cô lại tiếp tục cho chúng ta biết thêm về thân thế của Chúa Giê-su, nhưng từ một nguồn thật ngạc nhiên, đó là từ ma quỉ. Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết hôm ấy là ngày Sa bát, Chúa Giêsu vào hội đường đọc sách Thánh và giảng dạy dân chúng. Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết Chúa đọc đoạn sách nào, và cũng không đề cập đến nội dung sự giảng dạy hôm ấy.
Thánh Mác-cô chỉ cho biết: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư.” Dân chúng sửng sốt kinh ngạc, bởi vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và có quyền năng của Thiên Chúa Cha. Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết trong hội đường hôm ấy có một người bị quỉ thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu quỉ ma run sợ vì nhận ra Đấng đang đứng trước mặt và kêu lên: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa.” Và như chúng ta vừa nghe, Chúa bắt quỉ ô uế phải im ngay và dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân.
Ông bà anh chị em thân mến. Ma quỉ không những có thể nhận biết và rất khôn khéo mà còn nhớ mọi sự. Chắc chắn ma quỉ nhớ lời thiên thần tuyên bố khi Chúa Giê-su sinh ra “Hôm nay Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đa-vít” (Lc. 2, 11) Và ma quỉ nhớ khi các nhà đạo sĩ từ Phương Đông đến thời lạy Hài Nhi Giê-su mới sinh ra trong máng cỏ. Đây là mầu nhiệm đầu tiên mà thánh Mác-cô muốn cho chúng ta biết. Thánh Mác-cô không những muốn cho chúng ta biết Chúa Giê-su là ai, mà ngài còn muốn cho chúng ta biết quyền năng của Chúa Giê-su trên cả quyền năng của ma quỉ. Chúa muốn đối diện và tiêu diệt sự hiện diện của ma quỉ trên mặt đất này.
Có một câu chuyện như sau. Ông chủ tịch của một cộng đoàn kia rất buồn bực về bổn phận trách nhiệm đóng góp rất thấp của giáo dân trong giáo xứ. Với một quyết tâm khuyến khích mọi người về trách nhiệm bổn phận đóng góp cũng như sứ mệnh xây dựng Nước Chúa của một Ki-tô hữu, ông mua một bộ quần áo Halloween ma quỉ có sừng và đuôi, và thêm một cái nỉa. Trong một Thánh lễ, khi mọi người đang sợ sệt chăm chú nghe cha xứ giảng về câu chuyện người bị quỉ ám, thì trong bộ quần áo giả dạng quỉ xứ, ông mở tung cửa và chạy vào giữa nhà thờ la hét. Mọi người thất kinh, hoảng hồn ù té trốn chạy ra ngoài, ngoại trừ một người đàn bà bị té dưới chân quỉ xứ. Nhìn lên cái nỉa trong tay của quỉ xứ đang đâm xuống, bà thét lên nói “Khoan đã quỉ dữ! Tôi làm những việc mà ngươi không thích như hát trong ca đoàn, dạy giáo lý và tham gia những công tác trong giáo xứ, nhưng thưa ông ma quỉ, thật sự, tôi luôn luôn ở cùng phe với ông.”
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện vui cười này trích trong cuốn sách “Chỉ Cha Xứ Mới Có Quyền Kể.” Ngày nay, chúng ta không nghe nhiều đến ma quỉ ngoại trừ trong những câu chuyện chọc cười vui. Nhưng ma quỉ không phải là chuyện làm cho chúng ta cười. Nghe trên TV, đọc trên báo chí hay trên mạng internet, chúng ta thấy ma quỉ thật sự còn đang hoành hành trên thế giới, trên mặt đất này. Tội lỗi và những sự dữ do ma quỉ gây ra hiện diện mọi nơi và trong nhiều người. Ma quỉ hoạt động khắp nơi trên trần gian, không phải chỉ ở thời xưa mà cả thời nay, cũng không chỉ ngoài xã hội, mà còn hiện diện trong hội đường hay nhà thờ. Ma quỉ là loài rất khôn ngoan, quỉ quyệt và mạnh hơn con người, ẩn nấp dưới mọi hình thức, trà trộn vào mọi nơi, mọi chỗ. Ma quỉ xuất hiện khi thì rất xấu xa, nhiều lúc lại có vẻ rất tốt lành, đạo đức, sốt sắng và hy sinh. Ma quỉ lợi dụng hết mọi dịp thuận tiện, dùng mọi phương cách để cố che dấu, đánh lừa con người chúng ta mắc mưu chúng. Mục đích của ma quỉ là con người. Ma quỉ ẩn nấp ngay chính trong con người, làm cho người ta sống trong sự lầm lạc, kiêu căng, ích kỷ và đầy tự ái, hay có cuộc sống gian dối và mù quáng. Ma quỉ len lỏi vào gia đình, làm cho gia đình bất hòa và tan nát, hay trong cộng đoàn giáo xứ gây ra những sự chia rẽ, tranh chấp, hận thù và ghen ghét ghen ghét lẫn nhau.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta phải luôn ý thức cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến trường kỳ chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Vì yêu thương và muốn giải thoái chúng ta khỏi vòng nô lệ, xiềng xích của tội lỗi và những mưu chước của ma quỉ, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, đã xuống thế làm người. Một trong những sứ mệnh của Chúa Giêsu nơi trần gian là giải thoát con người, để con người chúng ta luôn sống trong ân sủng và sự che chở của Chúa. Chúa còn ban cho chúng ta những khí giới để chống trả và chiến thắng ma quỉ và sự dữ, nếu chúng ta can đảm và thành tâm xử dụng trong đời sống. Khí giới thứ nhất là các Bí Tích, nhất là 2 Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, cho nên là những Ki-tô hửu, chúng ta phải siêng năng lãnh nhận với tấm lòng chân thành và khiêm nhường. Khí giới thứ hai là Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội, vì vậy chúng ta phải thành tâm lắng nghe và cương quyết sống lời Chúa, cũng như tuân theo giáo huấn của giáo hội. Chúng ta hãy can đảm đến với Chúa. Chúng ta hãy vững tin vào Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, tin vào quyền năng Lời Người, để được Người an ủi và cứu giúp.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Như: TN4-B59 http: Cần Thơ
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Như chúng ta đã biết Palestine là một xứ nóng, người ta thường sống ở ngoài đường. Cũng chính ở ngoài đường mà Chúa Giêsu thường tiếp xúc và giảng dạy cho dân chúng. Chung quanh Ngài lúc nào cũng có một đám đông thuộc đủ mọi hạng người: Đau yếu, tàn tật, mù lòa, phong cùi, khổ đau, nghĩa là những người cần đến một sự giúp đỡ nào đó. Ngoài ra còn có những bà mẹ và những đứa con, những người đạo đức và những kẻ tội lỗi. Ngài thường mở rộng vòng tay đón nhận, tiếp xúc và nâng đỡ họ.
Ngày kia khi thuyền vừa cặp bến, thì có một đám đông đã chờ đợi Ngài. Từ trong đám đông, ông Giairô tiến ra xin Ngài đến chữa cho đứa con gái của ông đang hấp hối. Chúa Giêsu liền bước theo ông mà chẳng nói một lời. Rồi giữa đám đông, bỗng dưng Chúa Giêsu quay mặt lại và hỏi: Ai đã động đến Ta. Câu hỏi này làm cho các môn đệ ngạc nhiên và nói: Thầy coi đám đông đang chen lấn thế mà Thầy lại hỏi ai động đến Thầy. Sở dĩ Ngài hỏi như thế là vì muốn giúp người đàn bà đau yếu đã làm hành động ấy được biểu lộ đức tin của mình. Sau khi bà ấy đã xác nhận, Ngài nói với ba: Đức tin của con đã cứu chữa con, vậy con hãy về bình an.
Chúa Giêsu không phải chỉ niềm nở tiếp đón mọi người, nhưng hơn thế nữa, Ngài còn biết cách nói với từng hạng người. Thực vậy với bọn biệt phái, là những kẻ đạo đức giả, vốn kiêu căng và tự mãn, Ngài không ngần ngại gay gắt chỉ trích: Các ngươi giống như mồ mả tô vôi. Các ngươi là những kẻ dẫn đường đui mù. Với những người tội lỗi thì khác, Ngài thấu hiểu nỗi đớn đau và sự giày vò của họ, nên Ngài đã nói với họ bằng tất cả sự tế nhị, để họ thấu hiểu và tìm thấy được niềm hy vọng.
Một đặc điểm đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu luôn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những chân lý cao siêu. Chẳng hạn Ngài sánh vị Thiên Chúa như một người cha nhân từ mòn mỏi đón chờ đứa con hoang đàng trở về hay như người mục tử đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trở nên như muối mặn, như đèn sáng. Với những người đau yếu, Ngài nói với họ về bệnh tật, về sức khoẻ, nhưng từ đó Ngài dẫn họ tới bình diện siêu nhiên bằng cách nói với họ: Con hãy về bình an. Tội con đã được tha. Sự chữa lành phần xác chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới, cuộc sống thấm nhuần tình thương của Thiên Chúa.
Mặc dù phải tiếp xúc, phải giảng dạy, Ngài cũng biết giữ lấy những khoảng khắc thinh lặng. Ban sáng, ban tối và ban đêm Ngài thường tới những nơi thanh vắng để cầu nguyện. Trước sự tố cáo của bọn biệt phái đối với Người phụ nữ ngoại tình Ngài đã yên lặng. Trước toà án Philatô Ngài cũng đã yên lặng. Sự yên lặng của Ngài lúc này có giá trị như một lời nói. Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy: Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói, đã đối thoại với chúng ta, bởi vì Ngài là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy hoàn toàn khác biệt với lời của chúng ta. Thực vậy, lời của Thiên Chúa là lời tạo dựng: Ta muốn có trời đất muôn loài vậy lập tức liền có. Lời của Thiên Chúa là lời của chữa lành: Ta muốn con hãy chỗi dậy, Ta muốn con hãy lành sạch. Lời của Thiên Chúa là lời tình yêu: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Lời của Thiên Chúa là lời Tin Mừng cứu rỗi: Đức tin của con đã cứu chữa con.
Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức: TN4-B60
Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.
1) Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời
Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.
Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.
Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ. 2) Hơn một vị ngôn sứ
Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).
Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.
Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).
3) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).
Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).
Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”? 2. Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?
Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán cải vì Nước Trời: TN4-B61
Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán cải vì Nước Trời gần đến (x. Mc 1, 14-20). Bước sang Chúa nhật IV, Sứ vụ Thiên sai tiếp tục được thi hành. Người chữa lành những người bị quỉ ám, nhưng Lời Người là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều...thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).
Hơn cả luật sĩ
Lúc ấy Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người có mặt ở đó đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Giáo huấn của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật, dù họ chuyên về Kinh Thánh (Mc 1, 22).
Điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".
Hơn một Tiên tri
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).
Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi" (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó" (Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.
Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta...
Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là "Đấng thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì?" (Mc 1, 27).
Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1,24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi!" (Mc 1,25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.
Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.
Trong Tin Mừng theo thánh Máccô, ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu: TN4-B62
Trong Tin Mừng theo thánh Máccô, ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan. Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Máccô không kể lại nội dung của bài giảng, chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ. Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên: “Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ, vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung. và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng, lời ra lệnh đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này !”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa, bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được thật sự là mình, được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm, từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần, bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống. Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn, sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà ông Môsê: TN4-B63
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà ông Môsê đã tiên báo cho dân tộc Israel ở trong sa mạc: “Từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.
Trong Tin mừng, thánh sử Marco trình bày Đức Giêsu là một Đấng rất uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).
- Uy quyền trong lời nói, vì lời rao giảng của Đức Giêsu là tin mừng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Lời nói của Ngài rất thực tế và hấp dẫn có thể thay đổi tâm hồn con người, biến cải con người nên thánh thiện đạo đức. Hơn nữa những gì Chúa rao giảng thì Chúa đã thực hành trong cuộc sống chứ không như các kinh sư “nói mà không làm; nói một đàng làm một nẻo”. Điều này đã được dân chúng, các thính giả của Ngài xác nhận; “Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền”.
- Uy quyền trong hành động, lời giảng dạy của Chúa Giêsu kèm theo các phép lạ, cụ thể qua việc Chúa chữa người bị quỷ ám. Hơn nữa chính ma quỷ phải công nhận “Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Trước lời rao giảng và phép lạ trừ quỷ thì “dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người… Ngài dùng uy quyền mà trừ thần ô uế”.
Lời giảng của Đức Giêsu là giáo lý mới mẻ! Sự mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời giảng của Đức Giêsu là “lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1, 27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới, thời đại của Đấng Thiên Sai đã đến.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Chúa, đồng thời nhạn ra quyền năng của Chúa bày tỏ trong vũ trụ vạn vật để ca tụng ngợi khen và yêu mến Chúa.
G. Coutois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước Là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).
Ca-phác-na-um là một thành trì nằm sát Biển hồ Ti-ber-ri-a, nơi mà Chúa Giêsu vừa kêu gọi bốn: TN4-B64
Ca-phác-na-um là một thành trì nằm sát Biển hồ Ti-ber-ri-a, nơi mà Chúa Giêsu vừa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Nói về giao thông, thì Ca-phác-na-um thuận lợi hơn Giê-ru-sa-lem. Bởi vì, nó nằm gần sát trục lộ chính, trục lộ nầy là chiều dài của nước Do-thái, vì vậy, nó chạy xuyên xuốt nước Do-thai (song song với chiều dài Địa Trung Hải). Biển hồ Ti-ber-ri-a nằm ngay giữa trục lộ nầy, chạy dài xuống Biển Chết (Death Sea). Nơi Chúa Giêsu Giáng Sinh là Bê–lem (nguyên quán Vua Đa-vít), gần Giê-ru-sa-lem, gần Biển Chết. Nhưng, nơi sinh trưởng của Người là Na-za-ret, vì thế Người được gọi là “Giêsu Nazaret”. Na-za-ret gần Biển hồ Ti-ber-ria, vì vậy, Ca-phác-na-um là nơi giảng dạy đầu tiên của Người. Có thể ví Ca-phác-na-um như Vũng Tàu của Việt Nam, còn Thành Giê-ru-sa-lem như Hà Nội vậy.
Nhưng, Chúa Giêsu chỉ đến Ca-phác-na-um có một ngày “… Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về Lời dạy của Người. Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c 21 -22).
Theo đó, Tin Mừng hôm nay được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất: Nói về sự giảng dạy của Chúa Giêsu tại hội đường Ca-phác- na-um (c 21-22).
Điều nầy nói lên rằng: Chúa Giêsu đang thực thi sứ mạng của mình. Người là Đấng Thiên Sai. Lời giảng dạy của Người có sức thu hút người nghe, bởi vì là Lời chân thật, Lời có sức thu hút, vì là Lời siêu nhiên. Chúng ta thấy một yếu tố thần học hiện rõ nơi Lời rao giảng của Chúa Giêsu, bởi vì là Lời Hằng Sống theo Thiên Tính của Người, còn theo nhân tính thì Lời ấy được phát ra từ chính một Con Người, có sức thu hút người nghe, bởi vì, Lời ấy không phải giảng dạy theo ý riêng của người rao giảng, mà là theo ý của Thiên Chúa. Chúng ta thấy ý nghĩa rõ rệt hiện ra ngay khi Chúa Giêsu rao giảng.Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền. Điều ấy có nghĩa là giá trị Lời nói của Chúa Giêsu hiện rõ lên. Nhưng người nghe có đón nhận hay không, và đón nhận như thế nào là tùy thuộc vào “mảnh đất tâm hồn“ của người đó. Chúng ta thấy sự khác biệt giữa sự giảng dạy của Chúa Giêsu và các kinh sư. Họ cũng giảng giải Thánh Kinh, nhưng theo ý của họ, chứ không theo ý của Thiên Chúa. Vì “họ nói mà không làm”, hoặc làm theo một cách máy móc, chứ không phát xuất từ tấm lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật là đoạn Tin Mừng gây ”nhức nhối” cho những ai đang rao giảng Lời Chúa. Vì, nếu muốn rao giảng như Chúa Giêsu, thì chúng ta phải “xin” cho có được một tâm hồn như Người. Và rao giảng như một con người tông đồ chân chính, chứ không rao giảng như một “con buôn”. Vì rao giảng Lời Chúa thì không phải là một chuyện dễ dàng, vì muốn rao giảng Lời Chúa thì phải sống như Lời Chúa dạy. Sở dĩ những người kinh sư không làm được như Chúa Giêsu, vì họ không sống được như Người.
- Phần thứ hai: (Từ câu 23-26) Chúa Giêsu trừ quỷ.
Chúng ta thấy, phần thứ hai của đoạn Tin Mừng hôm nay, là một sự chứng minh cho phần thứ nhất ở trên. Ngay lập tức, trong hội đường của họ, có người bị quỷ ám, la lên rằng: “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi liên quan gì đến ông, mà ông đến phá (tiêu diệt) chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi, Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c 24).
Chúng ta thấy, thẩm quyền của Chúa Giêsu là như vậy, chính thế lực tà thần phải thốt lên như vậy, vì phàm nhân không thể thấy được sự siêu phàm từ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu quát mắng nó: “Hãy câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy!” (c 25). Rõ ràng, Lời của Chúa Giêsu có sức xua tan thần ô uế. Một phép lạ, một sự trừ tà ngay lập tức được Chúa Giêsu thực hiện. Chúng ta thấy, quyền năng nơi Chúa Giêsu, lập tức phát ra, nếu Người muốn. Tuy đây là buổi giảng dạy công khai đầu tiên, nhưng Chúa Giêsu đã bày tỏ Thiên tính uy quyền nơi Người, vì thần ô uế hiện diện nơi ấy, và nó sợ hãi Người, đồng thời phá rối việc Người giảng dạy.
Qua đó, chúng ta thấy, việc rao giảng Lời Chúa luôn phải đối phó với việc phá rối của tà thần. Nhưng, chúng ta đừng sợ, vì sự rao giảng Tin Mừng chân chính, thì Lời Chúa sẽ phá tan tất cả những thế lực tà thần. Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Giáo Hội, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
- Phần thứ ba: Sự kinh ngạc của những người chứng kiến (c 27-28)
Vâng, mọi người đều kinh ngạc, ai lại không kinh ngạc, bởi vì tất cả đều lạ lùng. Chúa Giêsu đã bày tỏ sự lạ lùng của Người. Họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền…” (c 27). Như vậy, câu 27 đã minh chứng được phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay. Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (c 22).
Rồi, “lập tức danh tiếng của Người đồn ra khắp nơi, khắp các miền lân cận Ga-li-lê (c 28). Nhưng, Chúa Giêsu là Người không muốn nổi danh, bởi vì sứ vụ của Người không phải để được nổi danh, mà là đem ơn “Cứu độ” cho nhân loại. Một điều gì đó cao cả hơn, ý nghĩa hơn, quan trọng hơn, xừng đáng hơn sự nổi danh của phàm nhân.
Khởi đi từ bài đọc I (Đnl 18, 15-20) hôm nay, minh chứng rằng tại sao Đấng cứu thế phải mặc nhân tính phàm nhân. Hầu để mang Lời Thiên Chúa qua sự hữu hình của nhân thế, mà ngày nay chúng at gọi là ”Ngôi Lời”. Vâng, “Ngôi Lời” đã làm Người, đã trở nên phàm nhân, nhưng, Thiên Tính là Bản Tính Thiên Chúa vẫn hiện hữu nơi Người. Đó là điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập thế. Đồng thời đó là ”Nhiệm Vụ tiên tri” của Đấng làm Người.
Bài đọc II (1Cr 7, 32-35), thánh Phao-lô cho biết ý nghĩa của nhân tính và thiên tính. Ai có gia đình thì chu toàn phận vụ gia đình. Ai không có gia đình thì chu toàn phận vụ Thiên sai.
Thánh vịnh 23 hôm nay, cho chúng ta biết, sự khải hoàn của Đấng Kitô là điều hiển nhiên. Đấng Kitô là Đấng công minh. Sự trong sạch và tấm lòng không vẩn đục.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trong thế gian, hầu mang ơn cứu độ đến cho nhân loại qua sứ vụ Thiên Sai, hầu biểu lộ Ngôi Lời của Thiên Chúa. Xin ban cho phàm nhân biết nhìn nhận và đáp trả, để đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 1:21-28)
Trong Cựu Ước, đứng trước toàn dân Ít-ra-en, ông Mô-sê đã nhắn nhủ họ về vai trò ngôn sứ của ông, tức: TN4-B65 Lượng
Trong Cựu Ước, đứng trước toàn dân Ít-ra-en, ông Mô-sê đã nhắn nhủ họ về vai trò ngôn sứ của ông, tức thay mặt Thiên Chúa để truyền đạt cho họ chỉ những điều Người muốn nói. Ông cũng không quên cảnh báo họ rằng Chúa sẽ hạch tội kẻ nào không nghe lời Chúa (Đệ Nhị luật 18:15-20). Đó là nội dung bài đọc thứ nhất hôm nay và cũng là hình ảnh Chúa Giê-su, vị ngôn sứ tối cao và sau hết, để qua Người Thiên Chúa phán dạy toàn thể nhân loại. Chúng ta sẽ thấy điều ấy thể hiện qua bài Tin Mừng thuật lại Chúa rao giảng tại Ca-phác-na-um, trung tâm phát xuất cuộc truyền giáo của Người.
Thánh sử Mác-cô thay vì ghi lại những lời giảng của Chúa Giê-su tại Ca-phác-na-um, ngài cho chúng ta thấy những phản ứng tích cực của dân chúng trước cách thức Chúa giảng. Phản ứng đầu tiên là “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người”. Quả thực đây là một nhận xét rất khác biệt. Bình thường giáo dân mình hay để ý tới văn chương và điệu bộ lôi cuốn của người thuyết giảng. Người ta khen ông cha “nói” hay, nhưng khi hỏi hay ở “điều gì” thì không trả lời được! Vậy thì thánh sử trả lời giùm cho họ: Cứ nhìn vào Chúa Giê-su sẽ biết! “Vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. So sánh tuyệt vời! Các kinh sư là những người học nhiều hiểu rộng. Họ thuộc từng chú giải nhỏ nhặt trong bộ luật của Mô-sê, chỉ là để soi mói xem những kẻ nào… lỗi lề luật. Họ đâu có giảng dạy như những người có uy quyền, mà lấy sự hiểu biết của họ làm một thứ quyền bính để thống trị người khác.
Tiếp theo, thánh Mác-cô muốn chứng minh Chúa Giê-su đích thực là “Đấng có uy quyền” khi giảng dạy. Phản ứng trước uy quyền của Chúa không phải từ dân chúng, nhưng từ những thần ô uế. Chúng sắp bị đuổi ra khỏi người chúng nhập. Chúng la to lên: “Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Uy quyền của Đấng Thánh đã nói ra những lời làm cho mọi người sửng sốt, thì giờ đây uy quyền ấy cũng cất lên để xua đuổi tà thần: “Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này!” Người bị quỷ ám được thanh tẩy khỏi ô uế của ma quỷ. Thiên hạ chứng kiến việc Chúa làm đã đi từ thái độ “sửng sốt về lời giảng dạy” đến “sững sờ… vì người dạy lại có uy quyền”. Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy”. Nếu Thiên Chúa đã đặt lời uy quyền của Người nơi miệng Chúa Giê-su thì Người cũng ban cho Chúa Giê-su chính quyền bính của Người.
Nói cho đúng hơn, Chúa Giê-su chính là “miệng của Thiên Chúa” nói lời Thiên Chúa cho nhân loại. Các ngôn sứ chỉ là những người nói thay cho Thiên Chúa, còn Chúa Giê-su là chính lời Thiên Chúa nói với con người (xem Do-thái 1:1-2). Khi tạo thành vũ trụ, lời Thiên Chúa đã làm cho muôn vật hiện hữu (Sáng thế 1). Giờ đây tại Ca-phác-na-um, lời Thiên Chúa được phán dạy khiến mọi người sửng sốt và lời Thiên Chúa xua đuổi tà thần làm dân chúng sững sờ. Tóm lại, Chúa Giê-su là vị Ngôn Sứ tối cao của Thiên Chúa!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô “chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1 Cô-rin-tô 7:35). Làm sao gắn bó cùng Chúa đây? Ngày xưa cũng như ngày nay, có những người đã gắn bó cùng Chúa, họ không những bị lời Người thu hút, mà còn bỏ mọi sự đi theo Người nữa. Tuy nhiên, cũng không thiếu người chỉ để mình bị thu hút do những mỹ từ và điệu hùng hồn của người giảng, nhưng lại không để tâm suy niệm lời Chúa họ đón nhận. Thánh Phao-lô đã có nhận xét này: “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe” (2 Ti-mô-thê 4:3).
Vậy khi đón nhận lời Chúa, chúng ta đừng giữ thái độ “ngứa tai muốn nghe”, nhưng nghe bằng tâm hồn mở rộng để lời Chúa hoạt động hữu hiệu. Thêm vào đó, chúng ta đừng ngăn cản uy quyền của Chúa muốn thanh tẩy chúng ta khỏi mọi thứ dục vọng và hậu quả của tội lỗi, để chúng ta được gắn bó cùng Chúa và sống lời giảng của Người.
(21) Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. (23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”. (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được Mô-sê tiên báo. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày: TN4-B66
Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được Mô-sê tiên báo. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày Đức Giê-su đã khởi đầu sứ mạng Thiên Sai vào ngày Sa-bát trong một hội đường ở thành Ca-phác-na-um thuộc miền Ga-li-lê. Lời giảng dạy và quyền uy của Đức Giê-su khiến mọi người thán phục như Tin mừng Mác-cô ghi nhận như sau:
- "Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư " (c 22).
- Mọi người trong hội đường đều kinh ngạc khi chứng kiến ma quỷ chịu khuất phục xuất ra khỏi người chúng ám sau lời truyền của Đức Giê-su. Họ nói với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (c 27).
3. CHÚ THÍCH:
- C 21-21: +Thành Ca-phác-na-um: Là một thành nằm về phía Tây Bắc của biển hồ Ga-li-lê. Đức Giê-su chọn thành này làm trung tâm truyền giảng Tin Mừng. Tại thành này, Người đã làm nhiều phép lạ như: trừ quỉ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh (x. Mc 5,25-34), cho kẻ chết sống lại (x. Mc 5,21-43)... Người cũng có lần quở trách thành này vì đã cứng lòng tin (x. Mt 11,23-24). + Hội đường: Là một ngôi nhà hình vuông gồm có ba gian, được xây hướng về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nơi gian giữa có đặt một tủ đựng Sách Thánh, và một cái giá dành cho chủ sự. Hội đường là nơi người Do Thái trong làng hội họp để nghe giảng Kinh Thánh và cầu nguyện. Chúa Giê-su thường được mời giảng tại các hội đường khắp nước Do thái.
- C 23-24: +Một người bị thần ô uế ám: Đây là một người bị quỉ nhập vào. Ma quỉ hay Xa-tan có nhiều nghĩa: “kẻ hủy diệt”, “kẻ gian ác”, “người cáo tội” (Tv 109,6)... Ở đây ma quỉ được gọi là “thần ô uế” để đối lập với Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
- C 25-27: +“Câm đi, hãy xuất khỏi người này”: Việc Đức Giê-su ra lệnh và ma quỷ đã phải im tiếng xuất ra khỏi người bị nó ám, chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người trên ma quỷ.
4. CÂU HỎI: 1- Ma quỉ có thực hay chỉ là tưởng tượng của những người mê tín dị đoan? Kinh Thánh nói gì về sự hiện hữu của ma quỉ và các hoạt động của chúng? Đức Giê-su và Giáo Hội sơ khai có thái độ thế nào đối với ma quỉ? 2- Khi thấy một người có biểu hiện bất thường về tâm thần, ta có nên vội kết luận họ bị quỉ ám và tìm cách trừ tà hay không? Ai có quyền cử hành nghi lễ trừ tà? 3- Để có thể trục xuất ma quỉ ra khỏi người bị nó ám thì người trừ quỉ cần có những điều kiện nào? 4- Ngày nay, ngoài việc trừ ma quỉ, giải thoát những người đang bị đàn áp khống chế, Giáo Hội còn có sứ mạng gì liên quan đến ma quỉ?
ĐÁP:
1. +Ngày nay, nhiều người không tin có ma quỉ. Họ thường giải thích các hiện tượng siêu nhiên do ma quỉ làm nơi con người thuần túy chỉ là những triệu chứng của bệnh thần kinh. Đang khi Kinh Thánh lại luôn khẳng định về sự hiện hữu của ma quỉ..
+Trong Kinh Thánh, ma quỉ được gọi là “Con Mãng Xà”, “Xa-tan” hay “Thần ô uế” (x. Kh 20,2 ; Mc 1,23). Chúng vốn là thiên thần trên trời, nhưng do phản nghịch với Thiên Chúa nên đã bị phạt xuống hỏa ngục (x. Gd 1,6 ; Kh 20,7-10); Chúng được Thiên Chúa cho phép thử thách đức tin của người ta như trường hợp ông Gióp (x. G 1,6-2,7); Chúng cám dỗ người ta phạm tội như cám dỗ bà E-và (x. St 2,24), cám dỗ Đức Giê-su (x. Lc 4,2); Chúng ám hại người ta như đã giết 7 người chồng của bà Xa-ra (x. Tb 3,8 ; 6,14); Chúng trói buộc người ta bằng cách làm cho họ bị bệnh tật (x. Lc 13,16)...
+Sứ mạng của Đức Giê-su là tiêu diệt ma quỉ (x. Mc 1,24). Người không nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ (x. Mc 3,22-26), nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Mt 12,22tt). Kết quả là ma quỉ phải chịu khuất phục (x. Ga 14,30). Người cũng ban cho các Tông đồ được quyền trừ quỉ (x. Mc 6,7). Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Người là lúc ma quỉ bị tống ra ngoài và bị xét xử (x. Ga 12,31; 16,11).
+Đến thời Giáo Hội Sơ Khai, Phi-líp-phê đã nhờ Thánh Thần mà trừ quỉ (x. Cv 8,7); Phao-lô cũng có khả năng trừ quỉ (x. Cv 19,11-12). Ngày nay ma quỉ vẫn đang hoành hành bằng cách nhập vào những người yếu đức tin (x. Mt 13,43-45); Chúng hành hạ người ta như sàng gạo vậy (x. Lc 22,31). Chúng giống như sư tử luôn rình mồi cắn xé người ta (x. 1 Pr 5,8). Hội Thánh vững tin sẽ toàn thắng ma quỉ khi đến ngày tận thế. Bấy giờ ma quỉ cùng những kẻ đi theo chúng sẽ bị giam phạt trong hoả ngục đời đời (x. Mt 25,41; Lc 10,18).
2. +Không nên vội xác định bệnh nhân đã bị quỉ ám, nhưng trước tiên cần đem đến bác sĩ thần kinh hay bác sĩ phân tâm học để được khám và điều trị bằng thuốc men hay các phương pháp tâm lý tự nhiên. Nếu bệnh không thuyên giảm và có những bằng chứng do ma quỉ làm thực sự, thì phải nhờ Cha Sở hay Linh Mục đặc trách trừ quỉ điều tra xem xét. Các vị này sẽ tiến hành việc trừ quỉ dưới sự chỉ đạo của Đấng Bản Quyền Giáo phận.
+Theo kết quả điều tra thì phần lớn các trường hợp nạn nhân tưởng là bị quỉ ám, thư ếm hay bùa ngải... Thực ra chỉ là hiện tượng suy nhược thần kinh hoặc do ảo giác tưởng tượng mà thôi. Riêng các hiện tượng lạ như bàn ghế tự nhiên xê dịch, giường nằm của bệnh nhân có ai đó dựng lên, hoặc bệnh nhân tự nhiên được nâng cao lên khỏi giường, hoặc có những tiếng gõ bàn hay tiếng nói mỗi khi thày ngải tra hỏi bệnh nhân... có thể do ma quỉ gây ra, mà cũng có thể chỉ là ảo thuật do các thầy pháp hay thầy phù thủy thực hiện, nhằm đánh lừa để người ta tin theo.
+Trong trường hợp chắc chắn các hiện tượng trên do ma quỉ nhập vào và khống chế làm hại một người nào đó, thì Đấng Bản Quyền sẽ chỉ định các linh mục chuyên viên đủ kinh nghiệm chính thức cử hành nghi lễ trừ quỉ.
3. +Nếu bệnh nhân thực sự bị quỉ ám, thì các chuyên gia chỉ trừ được ma quỉ nếu có đức tin vững mạnh và ý chí kiên quyết (x. Mt 17,20). Phải ăn chay và cầu nguyện trong suốt thời gian trừ quỉ (x. Mt 4,5) ; Phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su để nhờ quyền năng của Người mà trừ quỉ (x. Ga 15,5). Họ cũng phải nhờ Thần Khí của Chúa Giê-su (x. Mt 12,28) và nhân danh Người mà trừ quỉ (Mc 9,38). Cuối cùng họ còn phải là người từng trải và có kinh nghiệm để có thể đối phó hữu hiệu với ma quỉ và tránh bị chúng làm hại (x. Cv 19,11-19).
+Ngoài ra, Hội Thánh cũng khuyên các tín hữu phải phòng tránh sự khôn ngoan giả dối của thế gian và ma quỉ (x. Gc 4.14-15), đề phòng các tiên tri giả là tay sai của ma quỉ đến rao giảng giáo lý sai lạc trái với giáo lý tông truyền (x. Tm 4,1 ; Kh 16,14).
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NGƯỜI MANG VÁC CHÚA KI-TÔ
Kho truyện các thánh có ghi lại câu chuyện về một người mang vác Đức Ki-tô như sau:
Có một chàng thanh niên có sức mạnh phi thường nhưng không ai biết tên thật của chàng. Anh này có tâm nguyện đi tìm một người quyền lực nhất để phụng sự. Đầu tiên anh nghĩ không ai quyền lực hơn viên tướng cướp trong vùng anh đang ở nên đến gia nhập vào băng cướp và anh được phân công làm hộ vệ cho viên tướng cướp. Nhưng mỗi lần băng cướp sắp có vụ làm ăn, anh ta lại thấy viên tướng cướp phải đến nhờ thầy phù thuỷ làm phép cho vụ làm ăn thành công. Thế là anh thanh niên liền bỏ viên tướng cướp để xin theo hầu thầy phù thuỷ. Một hôm, khi theo thầy phù thủy đi hành nghề, anh thấy thầy đang đi trên đường gặp một cây Thánh giá bên vệ đường liền sợ hãi không dám đi tiếp mà vòng lại đi đường khác. Thế là anh chàng lực sĩ liền bỏ thầy phù thuỷ quay trở lại đứng bên cây Thánh giá để mong được gặp chủ nhân cây Thánh giá. Anh ta cứ đứng đó chờ mấy ngày liền mà vẫn không thấy chủ nhân cây Thánh giá xuất hiện. Nơi đó gần một khúc sông cạn và có nhiều người đã phải mạo hiểm lội bì bõm qua sông để sang bờ bên kia.
Một hôm, một chú bé đến nhờ anh lực sĩ cõng qua sông và anh đã lập tức giúp cõng em trên vai lội qua sông. Có điều khi mới được một đoạn ngắn, anh lực sĩ tự nhiên cảm thấy chú bé trở nên quá nặng, liền hỏi lý do và được chú bé trả lời: "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay nên làm sao không nặng cho được". Cậu bé còn cho biết mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá mà chàng lực sĩ đang muốn gặp mặt. Thế là chàng lực sĩ liền xin đi theo vị Chúa Ki-tô Chủ Tể của trái đất này. Chúa Ki-tô dạy anh: “Nếu muốn phụng sự Ta, con hãy dựng một căn lều và luôn ở cạnh cây Thánh giá, để nếu có ai muốn qua sông thì con sẽ cõng họ qua”. Chàng lực sĩ liền làm theo lệnh Chúa truyền. Từ ngày đó, dân chúng trong vùng đã gọi chàng bằng cái tên thân thương là KÍT-TÔ-PHƠ (Christopher), nghĩa là người mang vác Chúa Ki-tô.
2) PHIM “NGƯỜI TRỪ QUỈ”:
Vào năm 1970, cuốn phim “Người trừ quỉ” (Exorcist) được trình chiếu thì lập tức đã phá kỷ lục số vé bán ra. Chuyện phim kể lại một câu chuyện có thật về một thiếu niên 14 tuổi ở vùng Mao-Rai-mơ (Mt. Raimer), thuộc bang Me-ri-len (Maryland) của Hoa Kỳ vào năm 1949. Về sau, tờ “Tuần Tin Tức” (Newsweek) đã tường thuật câu chuyện này như sau: “Theo người cha kể lại thì cậu thiếu niên này thích ở một mình trên gác xép và chơi cầu cơ. Qua trò cầu cơ, cậu ta thường nói chuyện lâu giờ với một người có tên là “Ông Đại Úy”. Lúc đầu người cha cho rằng cầu cơ chỉ là một trò giải trí vô hại. Nhưng về sau, khi thấy con trai có những biểu hiện bất thường, thì cha mẹ cậu bé bắt đầu lo lắng. Nhất là một hôm ông bố nhìn thấy ghế bàn và chiếc giường cậu con đang nằm tự nhiên bị di chuyển trên sàn nhà giống như có bàn tay vô hình nào đó kéo đi. Rồi ban đêm cậu bé bị mất ngủ và hay nói lầu bầu điều gì đó với cái giọng khàn đặc của một gã đàn ông trung niên. Sau đó buộc lòng ông bố phải đưa con đến bệnh viện của trường Gioóc-dơ-tao (Georgetown), một trường đại học danh tiếng. Tại đây bác sĩ điều trị phát hiện ra cậu bé biết nói thành thạo tiếng La-tinh, một thứ cổ ngữ rất khó học mà cậu ta chưa từng biết đến trước đó. Cuối cùng sau một thời gian nằm điều trị vô hiệu, cha mẹ cậu đành đem con về nhà và nhờ hai vị linh mục dòng Tên có lòng đạo đức thánh thiện đến nhà cử hành nghi lễ trừ quỉ.
Cuộc chiến đấu giành linh hồn của cậu bé đã xảy ra rất căng thẳng và quyết liệt, kéo dài suốt 2 tuần lễ. Cuối cùng ma quỉ cũng chịu khuất phục và xuất ra khỏi nạn nhân. Nhưng đồng thời vị linh mục chủ lễ cũng đã gục xuống chết tại chỗ do chứng nhồi máu cơ tim. Hiện nay cậu bé trên vẫn còn sống tại thủ đô Wo-sinh-tơn (Washington). Một trong hai linh mục từng tham gia vào việc trừ quỉ đã thề là không bàn luận gì thêm về công việc nguy hiểm này. Tuy nhiên ông cũng cho biết là chính nhờ tham gia vào việc trừ quỉ mà bản thân ông đã thêm đức tin để luôn trông cậy vào quyền năng và tình thương của Chúa.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC GIÊ-SU: ĐẤNG QUYỀN NĂNG TRONG LỜI RAO GIẢNG:
Đức Giêsu giải thích Lời Chúa trong hội đường Do thái khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì: "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc 1,22).
Vì Người được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người nên Người chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của bất cứ ai, kể cả Mô-sê. Đức Giê-su đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi các tập tục trong Luật Mô-sê: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).
Tin Mừng Mác-cô đã thuật lại việc Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um gần biển hồ. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường mà giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng của Người như một Đấng có quyền , chứ không như các kinh sư của họ. Vì các kinh sư chỉ đọc và giải thích kinh thánh như đã học mà không thêm điều gì mới, khác với Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng lập Luật mới như Người cố ý chữa bệnh trong ngày Sa-bát, và khi bị hạch hỏi Người đã cho thấy quan điểm của Người như sau: "Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát" (Mc 2,27).
2) ĐỨC GIÊ-SU: ĐẤNG QUYỀN NĂNG TRONG HÀNH ĐỘNG:
Đúc Giê-su không những có uy quyền trong lời giảng, trong việc xua trừ ma quỷ, mà Người còn có quyền trên thiên nhiên như: biến nước lã thành rượu nho, nhân bánh ra nhiều, đi trên mặt nước, dẹp yên sóng gió, mẻ cá lạ lùng...
Người cũng đã dùng lời quyền năng để chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân như: cho người mù được sáng mắt, kẻ câm nói đươc, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được sạch…
Người đã phục sinh kẻ chết như cầm tay phục sinh một bé gái mới chết, cho chàng thanh niên đang đem đi chôn ở cử thành Na-im, cho La-da-rô chết 4 ngày sống lại ra khỏi mồ và chính Người đã từ trong cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã tiên báo.
3) ĐỨC GIÊ-SU: ĐẤNG QUYỀN NĂNG TRÊN THẦN Ô UẾ LÀ MA QUỶ:
Gặp Đức Giê-su, ma quỷ đã nói ra sứ vụ cứu thế của Người như sau: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Đức Giê-su đã lên tiếng quát nạt ma quỷ: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26). Chính thái độ sợ hãi vâng phục của ma quỷ cho thấy quyền năng của Đức Giê-su như lời nhận xét của đám đông dân chúng: “Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mt 1,27b).
4) CHỈ PHỤNG SỰ MỘT ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ:
- Ngày nay chúng ta chỉ đi theo một vị Thầy là Chúa Giê-su noi gương Tông đồ Phê-rô: Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống thì nhiều môn đệ đã tỏ ra chán nản không còn muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su nữa, chỉ còn Nhóm Mười Hai còn ở lại. Dù vậy Đức Giê-su vẫn không rút lại ý định lập bí tích Thánh Thể và đòi các ông xác định lập trường đi hay ở. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai trả lời rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
- Ngày nay muốn trung thành với Chúa Giê-su, chúng ta cần năng học sống Lời Chúa: Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của Lời Chúa, và nhận ra quyền năng Chúa trong thiên nhiên và các dấu chỉ của thời đại. Nhờ năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa trong sinh hoạt hội đoàn hằng tuần tại nhà thờ, hay trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành "muối men" hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm dậy lên men tình yêu. “Ánh sáng" của các việc lành chúng ta làm sẽ giúp anh em lương dân nhận biết và ca tụng Thiên Chúa trên trời.
- Ngoài ra chúng ta cần ý thức sứ vụ của mình là cộng tác với Chúa xua trừ ma quỷ, và các tệ đoan xã hội ra khỏi môi trường sống: Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giê-su và Hội thánh. Chúng ta cần dấn thân làm những việc công ích và cộng tác với những người thiện chí xây dựng một môi trường sống an toàn sạch đẹp và văn minh. Cần quan tâm an ủi những ai đang gặp gian nan khốn khó bằng cách giúp họ tin tưởng cậy trông vào lòng Chúa thương xót, xin Đức Mẹ và các thánh chuyển cầu và chính chúng ta cũng tích cực giúp đỡ họ với hết khả năng của mình.
4. THẢO LUẬN: 1- Kinh nghiệm của các người tham gia trừ quỷ cho biết: những người bị ma quỉ ám là những kẻ đã tin vào chúng và có quan hệ mật thiết với chúng như thường xem lên đồng, chơi cầu cơ, coi bói toán... Có khi nào vì tò mò mà bạn chơi thử những trò đó không? 2- Bạn phải làm gì để gia tăng đức tin hầu ma quỉ không thể xâm nhập và khống chế để bắt bạn làm tay sai cho chúng?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU là “Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa”. Chúa đến để tiêu diệt ma quỉ và thiết lập một Triều Đại Mới Của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay, quyền năng của Chúa đã bắt ma quỉ phải câm miệng và xuất ra khỏi người bị chúng trói buộc. Chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa, và thành khẩn xin Chúa giúp chúng con chiến thắng ma quỉ, tội lỗi và các thói hư. Xin cho chúng con sẵn sàng cộng tác với Chúa đẩy lùi thế lực của ma quỷ như phim ảnh tục tĩu, sì-ke ma túy, cờ bạc, rượu chè... ra khỏi gia đình và môi trường chúng con đang sống hầu Nước Chúa ngày một lan rộng.
Wat Traimit còn gọi là Chùa Phật Vàng, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan nhờ vẻ: TN4-B67 Epahata
Wat Traimit còn gọi là Chùa Phật Vàng, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan nhờ vẻ đẹp độc đáo, lịch sử của nó, và nhờ pho tượng Phật bằng vàng nguyên khối rất lớn. Chùa này tọa lạc ở cuối đường Yaowarat, gần ga Hualampong, thuộc Quận Samphathawong.
Tượng Phật Vàng là bức tượng Phật ngồi cao 3 mét đúc bằng vàng khối, nặng 5,5 tấn. Người địa phương cho rằng bức tượng lớn nhất thế giới này biểu thị cho sự thịnh vượng và thuần khiết cũng như sức mạnh và quyền năng. Trong số tất cả những bức tượng Phật mà du khách có thể nhìn thấy ở Bangkok, từ tượng Phật Emerald tại Wat Phra đến tượng Phật nằm tại Wat Pho, thì tượng Phật Vàng là một trong những bức tượng xinh đẹp nhất. Tượng Phật Vàng đã giúp Wat Traimit trở thành một trong những điểm đến hàng đầu nằm trong lịch trình tham quan Bangkok của du khách.
Tượng Phật Vàng được xác định là làm trong thời đại Sukhothai ( khoảng thế kỷ 13-15 ), một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật của Thái Lan, đặt trong một ngôi chùa ở thủ đô cổ Ayutthaya ( cách Bangkok về phía Bắc khoảng 1 giờ đồng hồ đi xe ). Khi quân Miến Điện cướp phá thủ đô, để tránh sự xâm hại của quân xâm lược, tượng được phủ một lớp đất sét dầy và được giữ bí mật tuyệt đối, vì những người chịu trách nhiệm ngụy trang bức tượng này bị giết ngay sau khi hoàn tất công việc.Sau đó, tượng được đóng thùng chuyển đến Bangkok và đặt tại chính điện của chùa Choti-Naram ( là Wat Phrayakrai hiện nay ) dưới thời vua Rama III ( 1824 - 1851 ).
Năm 1931, ngôi chùa này bị bỏ hoang và bức tượng phủ đất sét này được chuyển đến một nơi tạm thời và chẳng mấy ai quan tâm trong suốt hai thế kỷ. Thập niên 1950, khi di chuyển đến một ngôi chùa mới ở Bangkok, tượng bị tuột khỏi cần cẩu, rơi xuống hố bùn. Cũng chẳng ai buồn trục tượng lên. Người dân địa phương kể rằng có một nhà sư được Đức Phật báo mộng, nên đi tìm và kéo được tượng lên. Qua một vết nứt, nhà sư thấy một tia sáng màu vàng lóe lên và Phật Vàng được "tái sinh" ( Wikipedia ).
Vết nứt đất sét đã tình cờ lộ ra pho tượng Phật vàng ròng. Trong Tin Mừng theo Thánh Marcô hôm nay, chính tay quỷ sợ hãi, cũng hớt hải, vô tình làm lộ ra bản tính Thiên Chúa nơi Đức Giêsu: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa !” ( Mc 1, 24 ). Tuy nhiên, Người cấm Satan tiết lộ Thánh Danh Người, vì quỷ dữ không xứng đáng công bố, mà dành cho sau này chính môn đệ Đá Tảng, Phêrô long trọng tuyên xưng: "Thầy là Ðấng Kitô" ( Mc 8, 27- 29 ).
Lời Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum vào ngày Sabat khiến thiên hạ ngạc nhiên, sửng sốt, “vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” ( Mc 1, 22 ). Hành động trừ quỷ tiếp theo là một dấu chỉ khẳng định uy quyền Đấng Thiên Sai. Trước đó, Người được ông Gioan Tiền Hô long trọng giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” ( Ga 1, 29 ).
Lời giảng uy quyền
Trong khi các thầy tư tế, kinh sư, Biệt Phái giảng dạy Ngũ Thư theo truyền thống vụ luật, nguyên tắc và khắt khe, nghiêm nhặt, cầm buộc và cấm đoán, thì Đức Giêsu giảng giải khác hẳn và trái ngược, cởi mở, quảng đại, tràn đầy uy lực, quyền năng. Không những Người trình bày ý nghĩa, mục đích và tinh thần của Lề Luật thật sâu sắc, tinh tế và chính xác: “Ngày Sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabát.” Người còn tự nhận đứng trên cả Lề Luật, có đủ thẩm quyền giải thích Lề Luật: “Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát" ( Mc 2, 27 - 28 ).
Thay vì Lề Luật định hướng con người kính Chúa, yêu người, trở nên tốt lành, xả kỷ vị tha, nhân ái, nhân hòa, yêu thương và phục vụ, lại trở nên gánh nặng phi lý cho con người, mà Thánh Phaolô gọi đó là luật của người trần. “Chẳng hạn: “Đừng ăn cái này, đừng nếm cái kia, đừng đụng vào cái nọ.” toàn là những cái cấm đoán đụng đến là hư. Đó chỉ là những giới luật và giáo huấn của người phàm” ( Cl 2, 20- 21 ).
Lời giảng tân kỳ
Đức Giêsu không hủy bỏ hay thay đổi Lề Luật. “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” ( Mt 5, 17 ). Trái lại, Người hoàn chỉnh và khoác lên Luật Lệ bộ mặt mới thân thiện, cụ thể và hữu ích cho con người xứng đáng lãnh nhận ơn Cứu Độ: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết ..." (Mt 5, 21 ). Người đổi mới tinh thần Luật, nâng cấp cho phù hợp với tình yêu thương, nhân từ, bác ái, mà Người hằng ấp ủ, chủ trương: “Ta ban cho các con điều răn mới, đó là các con phải yêu thương nhau. Như Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng phải yêu thương nhau thể ấy” ( Ga 13, 34 - 35 ).
Các kinh sư, luật sĩ, Biệt Phái đã trói buộc dân chúng thực thi 613 mitzvot, điều Luật, thật chi tiết, tỉ mỉ, vụn vặt trong đời sống, vô tình biến Luật thành vòng kim cô, thành hàng rào, tường lũy, ngăn cách và cắt đứt mối giao hảo, tương quan giữa con người và với Thiên Chúa. Điển hình trong dụ ngôn người Samarita nhân lành, Đức Giêsu nêu đích danh thầy tư tế, thầy Lêvi đã bỏ mặc kẻ hoạn nạn dở sống dở chết, chỉ vì họ đều mù quáng tuân thủ Luật Lệ. Thay vì kết luận, Người hỏi ngược lại luật sĩ, buộc ông phải công khai khẳng định: “Vậy theo ý ông, thì ai trong ba người ấy đã nên đồng loại của người sa vào ổ cướp ?" Ông ấy đáp: "Kẻ đã xử nhân nghĩa với người ấy" ( Lc 10, 25-37 ).
“Biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa” ( Đường Hy Vọng, số 801 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa xua đuổi ma quỷ ra khỏi lòng trí chúng con, giải thoát chúng con khỏi đam mê thế gian, cứu chúng con khỏi cám dỗ xác thịt, để chúng con có thể lắng nghe, đón nhận và nhập tâm Lời Hằng Sống, hầu sống theo lời giảng dạy đầy quyền uy và tân kỳ.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ xua tan đi những đám mây mù, u ám gian tà, tội lỗi, xấu xa đang ráo riết quyến rũ, bao vây, tấn công chúng con, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cứu vớt chúng con được sống trong tình thương, ân nghĩa của Chúa. Amen.
Bài đọc 1 trích trong sách Đệ Nhị Luật. Đệ Nhị Luật là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn: TN4-B68
Bài đọc 1 trích trong sách Đệ Nhị Luật. Đệ Nhị Luật là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn sách đầu của bộ Kinh Thánh gọi là Ngũ Thư.
Do Thái coi Ngũ Thư là Torah ( Luật ) vì trong đó gồm tất cả mọi lề luật và định chế chi phối toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, phụng tự, đạo đức, xã hội của dân tộc Israel. Nét nổi bật là Luật do chính Chúa truyền qua trung gian Môsê và mọi điều khoản của Luật xuất phát từ những nhận thức tôn giáo của dân. Có thể nói đây là sưu tập và tổng hợp những luật dân sự, hình sự, tôn giáo, tế tự và xã hội được trình bày như hiến chương của Giao Ước. Do đó, việc công bố Luật gắn liền với trình thuật các biến cố trong hoang địa, nơi ký kết Giao Ước. Luật là cho con người, vì thế cần phải được thích nghi với những điều kiện thay đổi của môi trường và thời đại. Do đó, ta gặp thấy trong bộ luật những yếu tố cổ xưa đan kết với những điều khoản mới phát sinh về sau. Đàng khác, ta còn gặp thấy trong bộ luật những điểm tương tự với luật Lưỡng Hà. Điều ấy là tất nhiên, vì Do Thái sống chung đụng với chư dân; lại nữa một số pháp quy, tục lệ của miền ấy dần biến thành sản nghiệp chung của cả Cận Đông cổ thời. Torah gồm các bộ luật sau đây:
a. Thập điều
Mười Lời được ghi khắc trên bảng đá, làm thành Lề luật căn bản về luân lý và tôn giáo, được coi như điều khoản của Giao Ước Sinai. Thập điều được trình bày hai lần ( Xh 20, 2-17 và Đnl 5, 6-18 ). Chắc chắn hai bản văn đều xuất phát từ một nguồn nguyên thủy mà truyền thống gán cho Môsê.
b. Bộ luật giao ước ( truyền thống E – Elohim )
Xh 20, 24 – 23, 9. Bộ luật này nằm xen kẻ giữa Thập Điều và phần kết của trình thuật giao ước tại Sinai. Luật giao ước đáp ứng hoàn cảnh một xã hội sau thời Môsê chuyên về canh nông trồng trọt; cho nên quan tâm đến súc vật cày bừa, công việc đồng áng, nghề trồng nho, nhà cửa ( giả thiết dân đã định cư ). Bộ luật thấm nhuần tinh thần tin vào Giavê, phản ứng lại nền văn minh Canaan.
c. Bộ Luật Đệ Nhị Luật
Đnl 12, 1 – 26, 15 là thành phần chính yếu của sách Đệ Nhị Luật. Bộ luật này lấy lại một phần bộ luật giao ước, nhưng thích nghi với cuộc sống kinh tế và xã hội đã đổi thay. Nét nổi bật trong Luật ghi trong sách Đệ Nhị Luật là quan tâm bảo vệ người yếu, tuyên xưng uy quyền Thiên Chúa trên đất và trên dân của Người, cổ vũ việc tuân giữ các điều khoản của lề luật.
d. Luật Lêvi
Sách Lêvi được hình thành dứt khoát sau lưu đày, gồm những luật về phụng tự, như của dâng tiến và việc tế lễ ( 1-7 ), cấp bậc Tư tế ( 8 ), các đại lễ ( 23 ), nơi thánh và các vật dụng thánh ( 25 ); luật về thức ăn ( 11 ), sự trong sạch ( 13-15 ), lễ xá tội ( Yôm-Kippour ) ( 16 ); luật về sự Thánh thiện ( 17-16 ).
Ngũ Thư vừa là một lịch sử và là luật pháp. Nếu các Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa và kêu xin Người cứu giúp; các sách Khôn Ngoan nhằm giáo dục cá nhân về tôn giáo và luân lý; các Ngôn Sứ mạnh mẽ tuyên rao lòng thành tín của Chúa và hăng hái vạch trần tội lỗi của Israel… thì Ngũ Thư giới thiệu cho ta một dân tộc, cách thế Thiên Chúa thiết lập dân ấy, bảo vệ và dẫn đưa dân về một định mệnh kỳ diệu. Ý nghĩa của bộ sách này hệ tại mối liên lạc Thiên Chúa nối kết với dân của Người và qua đó với toàn thể nhân loại.
Lịch sử mối tương quan ấy được tóm kết trong bốn điểm chính là Lời Hứa – Tuyển chọn làm Dân Riêng – Giao Ước – Lề Luật. Đây là bốn chủ đề quan trọng được triển khai trong Ngũ Thư và suốt dọc dài Cựu Ước. Chính Đức Kitô mới ban cho lịch sử cứu độ ý nghĩa trọn vẹn của nó, như Phaolô trình bày trong Gl 3, 15-29. Ngài đến thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa, ký kết Giao Ước mới với đoàn dân mới là miêu duệ của Abraham trong đức tin. Ngài ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí để dẫn đưa mọi kẻ tin về với Thiên Chúa.
Sách Đệ Nhị Luật là một lược tóm lịch sử tôn giáo của Israel khởi từ Sinai, trong đó điều then chốt là phải trung thành phụng sự Giavê, Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Nội dung của sách sưu tập lại luật Môsê đồng thời kể lại một số biến cố xảy ra tại Môáp. Trình thuật mang hình thức ba bài diễn từ của Môsê phát biểu vào cuối đời, với dụng ý quả quyết: tư tưởng chủ yếu trong sách là của Môsê. Đệ Nhị Luật được coi như sách kỷ yếu: nhắc lại để nhớ, nhớ để rút bài học. Bài học chủ yếu của tác giả là: nhắc cho Israel quá khứ lịch sử của nó là một chuỗi hồng ân liên tục Chúa ban cho họ cách nhưng không. Nay ở ranh giới Hứa Địa, họ đừng quên mọi thành công xưa đều nhờ Giavê. Từ nhận thức đó, họ chuẩn bị vào Đất Hứa trước hết bằng lòng tin tuyệt đối vào Giavê.
Dân Do Thái sắp đi vào Đất Hứa, miền đất này nơi nào cũng có tà giáo. Các tôn giáo sơ khai của các dân tộc xung quanh luôn hấp dẫn. Đặc biệt là các thầy bói, bà đồng. Dân chúng mê tín luôn tìm đến với họ để được giao cảm với thần minh, để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm, người có đức tin chân chính nghĩ đó là những việc do ma quỷ bày đặt ra. Bởi đó, tác giả sách Đệ Nhị Luật cảnh giác dân chúng, không được tin vào bói quẻ phù chú, lên đồng lên bóng, chiêm tinh chiêu hồn, phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bù lại, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện giữa dân Người một tiên tri như Môsê. Bài sách Đệ Nhị Luật còn nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến, Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Đó chính là Chúa Giêsu sẽ khiến người ta kinh ngạc về cách giảng dạy và đầy quyền năng như câu chuyện kể của Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay.
2. Chúa Giêsu, Đấng ban lề luật mới
Chúa Giêsu vào hội đường Do Thái ngày Sabat. Vì là thành phần của Dân Giao Ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn Sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Marcô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Marcô chỉ kể: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các Kinh Sư, Luật Sĩ.
Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu Ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao và là Đấng ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí.
Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy, Người còn thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, Satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, Satan sợ hãi: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng ?” Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Người dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho Satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Người đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh Satan.
Ma quỷ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt... Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người.
Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỷ mang dáng dấp xinh đẹp hấp dẫn. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Amen.
Kinh Thánh đã ghi lại rất rõ ràng những phép lạ Đức Giêsu thực hiện trong ba năm rao giảng của: TN4-B69
Kinh Thánh đã ghi lại rất rõ ràng những phép lạ Đức Giêsu thực hiện trong ba năm rao giảng của Ngài. Những phép lạ ấy là bằng chứng hùng hồn cho quyền năng và uy quyền của Thiên Chúa. Nhưng chẳng hiểu tại sao người ta vẫn không tin, họ vẫn từ khước và giết chết Ngài ?
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc chối từ Thiên Chúa nhưng cho dù thế nào đi nữa thì cũng không phải là đến từ Ngài. Người ta loại bỏ Thiên Chúa tiên vàn cũng chỉ vì ích kỷ và lòng tin hẹp hòi mà thôi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu vào hội đường thành Caphácnaum mà giảng dạy. Giáo lý của Ngài đã khiến những người tham dự sửng sốt, ngạc nhiên. Họ phải chân nhận với nhau về tài năng của Thiên Chúa: “Thiên hạ sửng sốt về giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” ( Mc 1, 22 ).
Như để khẳng định thay cho tất cả mọi người đang tham dự tuyên xưng niềm tin vào Ngài, người bị thần ô uế nhập đã la lên: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” ( Mc 1, 24 ). Tức thì Đức Giêsu đã dùng quyền năng của mình mà loại trừ thần ô uế ra khỏi người đó: “Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này” ( Mc 1, 25 ).
Vừa nghe lệnh, thần ô uế đã nhanh chóng rời khỏi anh ta, khiến cho mọi người hết sức kinh ngạc và không ngừng đặt những dấu hỏi băn khoăn xoay quanh sự Chúa Giêsu. Họ hoàn toàn không hiểu được Ngài là ai: “Thế nghĩa là gì ? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho tất cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” ( Mc 1, 27 ).
Người ta thường quan niệm lời nói phải đi đôi với hành động. Hơn ai hết Đức Giêsu luôn đi bước trước trong việc làm gương sáng cho tất cả lời rao giảng của mình, đến nỗi Ngài còn dùng chính mạng sống của mình để minh chứng cho mọi người biết Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại lớn lao đến mức nào. Vậy mà chẳng hiểu tại sao đã hơn 2.000 năm qua rồi, người ta vẫn không tin vào Chúa. Người không biết không tin đã đành, người đã tận mắt chứng kiến những phép lạ Ngài làm, những hành động Ngài sống và chết vì họ mà vẫn chẳng mấy ai tin.
Riêng mỗi người Kitô hữu chúng ta thì sao ? Tuy không được tận mắt diện đối diện với Thiên Chúa nhưng chúng ta được diễm phúc sống trong Hội Thánh của Ngài. Ngày ngày chúng ta kín múc lương thực Lời Chúa và Thánh Thể nuôi sống linh hồn chúng ta, mà chẳng hiểu sao ta cũng chẳng tin hoặc có chăng là niềm tin nửa vời, không chân thật sâu xa.
Nếu đã không tin vào Chúa thì làm sao chúng ta có thể loan báo tình yêu của Ngài đến những người xung quanh ? Vì thế mà con số người theo Công Giáo chẳng là gì so với dân số thế giới. Làm thế nào đây để mọi người có thể tin nhận quyền năng và sự hiện hữu của Ngài trong hoàn vũ theo như Ngài đáng có ?
Lạy Chúa, kẻ xấu mà còn biết tuyên tín vào Ngài trước mặt thiên hạ. Vậy mà con, người từng tự hào mình mang danh Kitô hữu, là con cái của Thiên Chúa, là kẻ hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu hết lòng, con nào có dám tuyên tín niềm tin tuyệt đối vào quyền năng và tình yêu Thiên Chúa đâu, nếu không muốn nói là cuộc đời con còn cứ hoài ủ rũ trong tuyệt vọng vì sự nghiệp, tiền tài, chức tước, địa vị…
Xin giúp con hãy biết sống như thể trong mình đang có một niềm tin vào Thiên Chúa thật sự mãnh liệt đến nỗi chẳng còn nỗi buồn hay sợ hãi nào có thể đánh gục. Bởi Thiên Chúa, quyền năng và tình yêu của Ngài luôn mãi bên con.
Độc giả hôm nay cũng như những người chứng kiến sự kiện mà thánh Mác-cô thuật lại đều ngỡ TN4-B70
Độc giả hôm nay cũng như những người chứng kiến sự kiện mà thánh Mác-cô thuật lại đều ngỡ ngàng và thú vị ở chi tiết: chính thần ô uế công khai tuyên xưng thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu. Theo khái niệm của Kinh Thánh, thần ô uế vừa tượng trưng cho ma quỷ Satan, vừa là lực lượng đối lập với những gì là thiện hảo, ngay lành và thậm chí còn đối lập với chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thần ô uế đã tuyên xưng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Bằng một mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã bắt nó phải buông tha người bị nó ám. Thánh Mác-cô hay diễn tả uy quyền của Chúa bằng cách ra lệnh cho các thế lực thiên nhiên hay ma quỷ, như trong Mc 4,9, Chúa đe gió và biển: “Im đi, câm đi”; Chúa ra lệnh cho người bại tay (x. 3,5). Chắc hẳn lời tuyên xưng của thần ô uế đã giúp nhiều người tin vào Chúa Giêsu, nhận ra Người là Đấng đến trần gian để xua đuổi thế lực của tối tăm, xây dựng một vương quốc thánh thiện nhằm thánh hóa con người.
Thánh Mác-cô cho chúng ta một chi tiết đặc biệt nữa: Hội đường là nơi thánh thiêng của người Do Thái cũng giống như nhà thờ của các Kitô hữu ngày nay. Vào mỗi ngày Sa-bát, mọi người đều tập trung ở đó để đọc và nghe Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu, khi trở về thăm quê hương Nagiarét, đã vào hội đường và đọc Kinh Thánh trước mặt cộng đoàn (x Lc,4,16-28). Vậy mà, dưới ngòi bút tường thuật của thánh Mác-cô, nơi ấy cũng có thần ô uế ám ảnh. Chính nơi thờ phượng thiêng liêng của người Do Thái cũng có sự hiện diện của Satan. Với những chi tiết này, Thánh Mác-cô có ngầm ý khẳng định với chúng ta rằng, Chúa Giêsu đến để canh tân phụng vụ Do Thái đã trở nên lỗi thời và còn nhiều khiếm khuyết. Sau này, chính Chúa Giêsu tuyên bố Người là Đền thờ đích thực. Nền phụng vụ mới mà Chúa Giêsu đề nghị, đó chính là thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sự hiện diện của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi đền thờ hay hội đường, tình yêu thương của Chúa không phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ, nhưng ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Đức Chúa Trời. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, lời ca tụng tôn vinh Chúa phải xuất phát từ tấm lòng chân thành và phải đi đôi với thiện chí để nên trọn lành.
Uy quyền của Chúa Giêsu được mọi người công nhận, kể cả thần ô uế. Người Do Thái chuyên tâm đọc Sách Thánh sẽ dễ dàng nhận ra Chúa Giêsu chính là vị ngôn sứ mà Cựu ước đã loan báo. Sách Đệ Nhị Luật ghi lại những lời giáo huấn của ông Môisen, vị thủ lãnh đã dẫn đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập. Trong những lời trăng trối cuối đời, ông Môisen đã nói đến một vị ngôn sứ Chúa sẽ gửi đến. Vị này cũng đầy quyền uy để lãnh đạo dân như ông Môisen, và còn hơn cả Môisen nữa. Sứ mạng của vị Ngôn sứ này là đem Lời Chúa làm lương thực nuôi dân chúng (Bài đọc I). Chúa Giêsu chính là vị Ngôn sứ muôn dân mong đợi. Ngài đến để thanh tẩy con người khỏi mọi tội lỗi, để thiết lập một nền phụng vụ đích thực, không còn những uế tạp trần tục, nhưng có khả năng thánh hóa con người. Những người có mặt hôm đó tại hội đường, từ tâm trạng sững sờ đến trầm trồ thán phục: “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”.
Hơn hai ngàn năm đã qua, Giáo Hội không ngừng loan báo Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Giáo Hội nỗ lực cố gắng để đem cây thánh giá trồng trên mọi miền đất, mọi nền văn hóa, làm cho giáo huấn của Chúa Giêsu thấm nhập vào lòng người. Loan báo Đức Giêsu là sứ mạng của mỗi Kitô hữu, vì chúng ta đã được gia nhập Giáo Hội qua Bí tích Thanh tẩy. Tuy vậy, trước khi nói đến loan truyền Tin Mừng cho người khác, mỗi chúng ta phải cố gắng thanh tẩy chính mình. Trong con người của chúng ta, đang hiện hữu vừa ánh sáng vừa bóng tối, vừa hình ảnh của Thiên Chúa nhưng cũng vừa hình ảnh của Satan. Chính vì thế mà chúng ta phải thanh tẩy bản thân mỗi ngày. Ơn gọi nên thánh không phải là những điều quá sức con người, mà đó là những điều rất bình dị trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã cụ thể hóa đời sống Kitô hữu bằng cách khuyên mỗi người trong gia đình và trong cộng đoàn hãy chuyên tâm thực thi bổn phận của mình đối với Chúa và đối với tha nhân. Người lập gia đình thì chăm lo việc gia đình. Người tu hành thì chăm lo việc Chúa. Những công việc đời thường, nếu được chu toàn với thiện ý và với tâm tình Đức tin, thì cũng góp phần làm cho chúng ta nên hoàn thiện (Bài đọc II).
Là Kitô hữu, chúng ta chọn Chúa Giêsu Kitô là lý tưởng của đời mình. Hãy để cho giáo huấn của Ngài điều khiển và chi phối mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta. Như thế, xuyên qua đời sống và hành động của chúng ta, mọi người sẽ nhận ra Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ trần gian.
Làm em ăn thèm vác nặng, câu thành ngữ nói đến sự thấp cổ bé miệng, đầy thiệt thòi ngay ở gia đình, TN4-B71
Làm em ăn thèm vác nặng, câu thành ngữ nói đến sự thấp cổ bé miệng, đầy thiệt thòi ngay ở gia đình, xã hội, như miễn cưỡng phải chấp nhận. Thực ra thì ai cũng thích được dồi dào kiến thức, có sức khỏe năng lực để giúp mình, giúp đời đạt đến niềm an vui hạnh phúc. Theo “lý”, quyền làm người được ban, cho, như qui luật tự nhiên: cha mẹ phải thi hành “cái quyền” chăm sóc giáo dục con cháu. Làm người dù ở giới tri thức, bình dân đều được quyền đóng góp công sức xây dựng đất nước, xã hội trong ấm no tình người.
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe cho thấy Chúa Giêsu là một Vị Thầy hết sức phi thường: “người ta kinh ngạc về giáo lý của Người”. Giáo lý của Đức Giêsu có gì mới ? Có thể mới lạ ở phương pháp, mới về cách diễn tả, mới về lòng nhiệt thành, khiến mọi người cảm thấy gần gũi, dễ nghe. Phản ứng của đám đông lúc ấy được ghi lại là “Đức Giêsu giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chớ không như các luật sĩ”. Một lát sau, khi Chúa Giêsu đuổi thần ô-uế ra khỏi người đàn ông, thì dân chúng liền bày tỏ niềm hy vọng vào một vị ngôn sứ của dân hằng mong đợi. Biến cố trừ quỉ làm ngạc nhiên cộng đồng và khiến buổi phụng vụ xôn xao vui hẳn lên, cũng từ đó danh tiếng về Đức Giêsu tiếp tục lan rộng ra khắp các vùng lân cận.
Trong tương quan xã hội hôm nay, người ta xem mặt đặt tên, câu thành ngữ nói lên tính chất cụ thể, sòng phẳng mà người đời thường “mặc cả, trả giá, thỏa thuận” với một quyết định tự do. Người ta đi học, đi chữa bệnh thì tìm kiếm xem vị thầy nào có “bằng cấp”, có năng lực thật, họ mới dễ bề bái sư nhập môn, tin tưởng để họ được chữa bệnh. Có người “hét ra lửa”, vì nhờ địa vị xã hội, đôi khi vì họ đã đầu tư công sức quá nhiều nên tới lúc họ thể hiện uy quyền để “bù trừ”. Nếu thấy người rách rưới, một số nào sẽ thầm nghĩ đây là người nghèo, cần cảnh giác kẻo bị quấy rầy; gặp người sang trọng, họ dễ nghĩ ông này là bậc vị vọng, là đại gia gì đó, có thể ông sẽ là dịp may cho mình chăng ?
Nhiều người quan niệm rằng, xã hội chẳng ai cho ta không cái gì bao giờ, quyền bính mà họ có là do công sức, khả năng chuyên chăm bấy lâu họ đầu tư. Có quyền, có tiền là có tất cả, tiền đã làm nên quyền mà họ đáng được phục vụ như ông chủ ! Ông Môisê trong bài đọc I cho thấy vị trí đặc biệt trong ngôn sứ ở giữa dân: quyền uy, lời chỉ dạy, cả sống chết, đều đến từ Thiên Chúa. Đức Giêsu hôm nay cho ta thấy Ngài chính là Vị Ngôn Sứ Tối Cao, đến từ Thiên Chúa, Ngài đã sử dụng quyền trong ý thức: bày tỏ tình yêu thương của Chúa đến với muôn dân: gần gũi, giảng dạy, trừ quỉ…, khác xa với các ngôn sứ hiện tại và xưa kia.
Vịêc Đức Giêsu xua trừ tà thần ra khỏi người đàn ông, nhằm chứng minh thẩm quyền Ngôn Sứ mà dân hằng mong đợi. Đó là mục tiêu của phép lạ diễn tả Chúa yêu thương dân Người, không có ý loại bỏ quyền lực thế gian, khoe khoang về năng lực….. Ngày hôm nay chúng ta bị các thần ô uế ám, bao vây, khiến cha mẹ, người làm công việc giáo nhân bản, đức tin.., sử dụng quyền bính không thể đúng ý Chúa. Nếu không theo Chúa đích thực, hay thiếu ơn Chúa, khó mà ta đứng vững trước cám dỗ cậy thế, cậy quyền.
Bài đọc II hôm nay, Phaolô hướng chúng ta đến việc nhận biết ý Chúa, dù sống ơn gọi gia đình, ơn gọi độc thân, dâng hiến, mỗi người cần ý thức ơn ban hầu có thể sử dụng xứng hợp với thánh ý Chúa. Hôm nay, người ta vẫn “tán gẫu” với nhau rằng ; hãy cho người phụ nữ tiền của trong tay họ, tức khắc mọi người sẽ thấy con người thật của họ. Cho người phụ nữ xinh đẹp làm trợ tá giám đốc, mọi người sớm nhận ra vị giám đốc ấy có phải là người đàn ông trung thực với gia đình không ? Và cho mỗi người tín hữu chúng ta điều kiện, khả năng thuận lợi, xóm làng sẽ thấy thực lòng ta có còn tin vào Thiên Chúa nữa không, cũng chẳng khó.
Tục ngữ có câu: cá lớn nuốt cá bé, người có địa vị thường uy hiếp người yếu thế, cha mẹ, các nhà giáo dục hay lấy quyền “phủ đầu” con cháu, học trò, như để ra oai, để phô diễn “cái thành công” giả tạo mà họ đang có. Chúa Giêsu đã ý thức đám đông năm xưa và chúng ta hôm nay về việc sử dụng uy quyền để phục vụ, để minh chứng tình yêu thương và sứ mạng của những ai thuộc về Đức Kitô. Khả năng tư duy, kiến thức uyên bác, hay sự mạnh mẽ về tiền của đều là ơn ban; dù giầu nghèo, bình dân hay trí thức, mỗi người đều được Đức Kitô yêu thương, cứu độ, khi chúng ta sử dụng nén bạc Chúa trao cách hợp ý Chúa nhất.
Ca dao có câu: làm người phải đắn phải đo, phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu. Cha ông ta muốn mong những người con cháu biết đón nhận kinh nghiệm của người xưa trong giao tiếp cư xử, cũng là hy vọng mỗi người đạt được niềm vui trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Chúa Giêsu, Giáo Hội, lúc nào cũng cần chúng ta biết khôn ngoan, sử dụng ơn Chúa thật đúng, thật đủ, hầu được Chúa biến đổi, được là công cụ Chúa chuyển tải tình yêu thương của Chua đến cuộc sống hôm nay. Amen.
Trong những năm qua, nhiều người đã tin vào những lời tiên báo của một phụ nữ được coi là tiên tri
Trong những năm qua, nhiều người đã tin vào những lời tiên báo của một phụ nữ được coi là tiên tri của thế giới tên là Vanga, người Bulgary. Người ta cho rằng, nhiều lần bà đã tiên báo rất chính xác về những biến cố xảy ra trên thế giới, chẳng hạn những cuộc chiến tranh lớn hoặc những tai họa xảy ra cho thế giới. Tuy nhiên cũng rất nhiều lần, lời tiên đoán của bà đã không xảy ra. Vậy mà, có rất nhiều người vẫn tin theo.
Người ta cũng thấy rằng, ngày nay, những lời tuyên bố của một số các vị lãnh tụ các quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới. Nếu như có những lời tuyên bố làm thay đổi tình hình của một đất nước, đem đến giải pháp hòa bình (Mỹ và Cuba) thì ngược lại cũng có những lời tuyên bố đem đến chiến tranh và giết chóc. Nếu đã có những lời tuyên bố đem lại cuộc sống kinh tế dễ chịu, thì cũng đã có lời tuyên bố đem lại sự suy xụp về kinh tế cho một quốc gia khác.
Tuy nhiên, dù là lời tiên báo của bà Vanga hay là lời tuyên bố của lãnh tụ các quốc gia gây ảnh hưởng đến thế giới, thì không ai cho rằng những tuyên bố đó có uy quyền. Thế nhưng hôm nay, những người Do Thái khi nghe những lời giảng dạy và thấy những việc Chúa Giêsu làm thì họ đã nói với nhau: Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền.
Khác với các lãnh tụ của thế gian, khác với các luật sĩ và các nhà giảng thuyết khác, Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền của một vị Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người, mang thân phận con người như chúng ta, song đồng thời nơi Ngài, mọi hành động, mọi lời nói vẫn là lời nói và hành động của một vị Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và điều khiển vũ trụ, Đấng có quyền phán xét và thưởng phạt mọi người. Tuy nhiên, uy quyền nơi lời giảng của Chúa Giêsu không phải là lời uy quyền của một vị quan tòa khiến người ta khiếp sợ, cũng không phải là lời của kẻ giàu sang quyền lực, nhưng lời của Chúa là lời mang sức mạnh của tình yêu.
Chúa Giêsu đến thế gian để công bố thời đại của Thiên Chúa, mở ra một mùa hồng ân cứu độ. Sứ mạng của Chúa Giêsu là chữa lành, là cứu vớt chứ không phải để trừng phạt. Ngài loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương giập nát. Như thế, những người Do Thái đã nhận ra uy quyền của Chúa Giêsu vì lời nói và hành động của Ngài phát xuất thực sự từ trái tim yêu thương, từ tấm lòng trắc ẩn của Ngài đối với mọi người, chứ không phải là những lời nói, việc làm hời hợt bên ngoài, vì hành động phát xuất từ trái tim yêu thương sẽ dễ dàng đụng chạm đến những trái tim bị tổn thương.
Khi thấy những người bệnh tật, nghèo khổ thì các luật sĩ và biệt phải tỏ ra dửng dưng, coi như chuyện bình thường. Họ để cho trái tim khô cứng đến độ trở thành vô cảm trước nỗi đau của anh em. Họ còn nại vào luật ngày Sabát để từ chối việc giúp đỡ người nghèo khổ, và còn ngăn cản Chúa Giêsu khi thấy Ngài chữa bệnh cho những người này. Chúa Giêsu thì không như thế, Ngài nhìn thấy nỗi đau từ trong ánh mắt, từ trong tâm hồn của những người nghèo khổ bệnh tật. Họ đang cần tình yêu thương, cần sự cảm thông, an ủi và Chúa đã làm việc đó bất kể đó là ngày nào.
Hơn thế nữa, theo quan niệm của người Do Thái, tất cả bệnh tật, đau khổ là do tội lỗi và ma quỷ gây nên. Chúa Giêsu không chỉ an ủi những người đau khổ, chữa lành những bệnh tật thể xác, nhưng Ngài còn dùng quyền năng của Thiên Chúa để xua trừ và tiêu diệt nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người, đó là ma quỷ và tội lỗi. Vì thế hôm nay, khi bước vào hội đường Caphácnaum, một người bị quỷ ô uế ám đã la lên rằng: Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi có can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa !
Chúa Giêsu không chấp nhận lời tuyên xưng của ma quỷ, không làm ngơ bắt tay hợp tác với nó, nhưng Ngài đã dứt khoát buộc nó: Câm miệng và ra khỏi người này ! Thần ô uế buộc phải xuất ra khỏi anh ta. Việc làm này của Chúa Giêsu tỏ cho thấy một khía cạnh khác về uy quyền của Ngài. Đối với con người, Ngài dùng uy quyền của trái tim ; còn đối với ma quỷ, Ngài dùng uy quyền của một vị Thiên Chúa quyền năng, Đấng làm chủ mọi vật mọi loài. Ma quỷ có thể gây hại cho con người, thế nhưng khi đối diện với Thiên Chúa, nó chỉ như một con thú hèn nhát bỏ chạy bởi một lời ra lệnh của Ngài.
Những gì Chúa Giêsu đã giảng và đã làm khiến cho những người Do Thái nhận thấy Ngài khác hẳn với các luật sĩ và thượng tế của họ, vì những người này không có được uy quyền trong lời nói và việc làm của một vị Thiên Chúa và cũng không có uy quyền, sức mạnh từ trái tim. Họ cũng nhận thấy nơi Đức Giêsu lời tiên báo của Môsê đã được ứng nghiệm. Đối với dân Israel, Môsê thực sự là một “người của Thiên Chúa”. Ông đã từng được gặp Thiên Chúa mặt đối mặt và ông đã nhân danh Thiên Chúa để thực hiện một cuộc giải thoát vĩ đại cho dân Chúa ra khỏi Ai- cập. Trước khi qua đời, Môsê cũng đã trối lại cho Israel rằng: Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ở trong anh em một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy và người ấy sẽ nói với dân tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.
Sứ mạnh và uy quyền của Thiên Chúa có thể đụng chạm đến trái tim, có thể chữa lành mọi vết thương của thể xác và tâm hồn, chỉ có điều là chúng ta có dám để cho tình yêu và quyền năng của Ngài chạm đến chúng ta hay không mà thôi. Thiên Chúa chỉ có thể chạm đến tâm hồn chúng ta khi chúng ta đồng ý mở rộng cánh cửa trái tim để cho Ngài bước vào, khiêm tốn cúi xuống để cho quyền năng Thiên Chúa thể hiện trên cuộc đời và tâm hồn mình. Hãy để cho trái tim của Chúa gặp gỡ trái tim của chúng ta, hãy để cho bàn tay của Ngài đụng chạm đến vết thương trong tâm hồn và để cho lời Ngài xoa dịu, chữa lành, an ủi chúng ta.
Chúa vẫn đang thể hiện uy quyền qua lời của Ngài, lời ấy có sức chữa lành, an ủi và soi dẫn cuộc đời chúng ta. Nơi Bí tích giải tội, chúng ta sẽ được đụng chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa và qua Bí Tích Thánh Thể, chúng ta sẽ đón nhận được quyền năng biến đổi của Ngài.
Được làm con của Thiên Chúa và đồng thời cũng là cộng tác viên của Chúa, mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp tục thực thi uy quyền của Thiên Chúa với những người chung quanh. Hãy dùng uy quyền của những lời nói chân thật, ngay thẳng để nói với nhau. Hãy dùng những lời yêu thương, thông cảm để chia sẻ với nhau thay vì những lời cộc cằn khó nghe. Hãy dùng sức mạnh và uy quyền của tình yêu từ trái tim chân thành để có thể cùng cảm thông và an ủi anh em đồng loại.
Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Fancis đến Scrilan và Philippines vừa qua đã để lại ấn tượng rất sâu đậm cho hai quốc gia này, là nơi những người nghèo và những bất công xã hội đang lan tràn. Giải thích cho sự kiện hàng 6-7 triệu người thức đêm để chờ đợi chỉ một giây được nhìn thấy Đức Giáo Hoàng, hoặc là phải đứng dưới trời mưa nhiều giờ để được nghe tiếng nói của Ngài, những người được hỏi cho rằng: Vì Giáo Hoàng Fancis là vị Giáo Hoàng của người nghèo. Ngài đến với chúng tôi với cả trái tim và lòng thương cảm. Ngài đến để an ủi và để lắng nghe chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy Ngài ôm chúng tôi vào lòng.
Trong cuộc nói chuyện với các thanh thiếu niên, Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ các bạn trẻ: Đau khổ là dịp để Thiên Chúa mời gọi mỗi người biết sống cảm thông và học cho biết sống quan tâm đến người khác. Đau khổ, bệnh tật của nhân loại còn là để mỗi người có cơ hội phục vụ lẫn nhau. Phục vụ không chỉ bằng một vài lần thăm viếng, tặng quà, nhưng bằng việc đón nhận nhau trong yêu thương và xoa dịu nỗi đau của anh chị em bằng cảm thông, đó là điều họ cần hơn những thứ khác. Ngài nói: “Chỉ khi nào một con tim không thể tìm được câu trả lời và bắt đầu khóc, lúc đó, chúng ta mới có thể hiểu được đau khổ”.
Đức Thánh Cha cũng kêu gọi người trẻ cần phải học cách để khóc: “Cha mời gọi từng người trong chúng con ở đây, hãy tự hỏi mình rằng, tôi đã học được cách khóc chưa, khóc như thế nào ? Tôi đã học để mà khóc cho một ai đó bị bỏ rơi bên lề đường chưa ? Tôi đã khóc cho một ai đó đang nghiện ngập chưa ? Tôi đã khóc cho một ai đó bị bạo hành chưa ? Đây là điều trên hết mà Cha muốn nói với chúng con: Hãy học để khóc… hãy học, học thực sự để mà khóc, vì ngay cả Chúa Giêsu cũng đã khóc”.
Xin Chúa cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những đau khổ của anh chị em, một trái tim nhạy bén và bao dung, một đôi tai thật tốt để lắng nghe và thông cảm, một đôi tay thật dài, thật rộng để có thể xoa dịu nỗi đau của anh em và một tâm hồn nhạy cảm để dễ dàng khóc với anh em. Amen.
Thế giới có ma quỷ hay không vẫn là câu hỏi của mọi người và mọi thời. Ở thời nào cũng có người tin, TN4-B73
Thế giới có ma quỷ hay không vẫn là câu hỏi của mọi người và mọi thời. Ở thời nào cũng có người tin, kẻ không tin. Kẻ tin thì bảo có. Người không tin thì chê cười.
Vậy ma quỷ là gì?
Thưa, theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học, ma là người đã chết còn quỷ là con vật tưởng tượng dưới âm phủ, hình thù kỳ dị và dữ tợn hiện lên quấy nhiễu và làm hại người.
Theo niềm tin Kitô giáo, “ma” có thể hiểu là linh hồn người đã khuất, còn “quỷ” là những thiên thần sa ngã cắt đứt hoàn toàn sự hiệp thông với Thiên Chúa (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 391,392,414 và 2851). Tuy nhiên, khi nói tới ma quỷ là ta nghĩ đến chúng là những “kẻ phá ngang” kế hoạch của Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.
Lần giở lại Kinh Thánh chúng ta thấy trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên có hai loài cao trọng là thiên thần và con người. Tiếc thay, có một số thiên thần, mà đứng đầu là Luciphe do kiêu ngạo đứng lên chống lại Thiên Chúa. Vì bất tuân phục Thiên Chúa nên Luciphe và bè lũ của chúng trở thành đối kháng với Thiên Chúa. Từ đó chúng luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài.
Nạn nhân đầu tiên bị dụ dỗ là Adam-Eva. Ông bà đã toa rập với chúng để chống lại Thiên Chúa và hậu quả đã di căn qua kiếp người là phải đau khổ và chết. Tứ đây tội lỗi đã đi vào trần gian. Sự ác mỗi ngày một gia tăng. Cain giết Aben, vụ án tháp Baben..và cho đến hôm nay, Nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Nó vẫn đang tiếp tục trói cột và ru ngủ con người bằng những lời đường mật, gian dối, làm cho nhân loại quay lưng lại với Thiên Chúa.
Thật thế, nhìn vào xã hội hôm nay dường như ma quỷ xem ra đang lộng hành trên khắp địa cầu. Chưa bao giờ tội lỗi lan tràn khắp chốn như ngày hôm nay: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn. . .
Đời sống đạo đức đang suy đồi khủng khiếp. Ma quỷ xem ra rất tinh khôn. Nó không xuất hiện với hình dáng vừa có sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xí, đáng sợ. Nếu thế thì ta sẽ nhận ra nó, và nó chẳng bao giờ cám dỗ được ta. Ma quỷ thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Nó âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Nó kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Nó khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh quang và quyền lực. Nó vuốt ve thói ích kỷ để xúi giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Nhất là nó lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, và mất ý thức về tội.
Vậy, làm sao để xua đuổi, để diệt trừ quyền lực của nó ra khỏi cuộc sống này? Ta không thể tưới xăng đốt nó, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy nó được. Ta cũng không thể dùng bom đạn, vũ khí hoá học, để tiêu diệt nó vì nó là loài vô hình. Chỉ có phương thế duy nhất để tẩy trừ nó ra khỏi cuộc sống và tâm hồn con người là cậy nhờ vào lời quyền năng của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su chỉ cần nói một lời vắn gọn: “Hãy im đi và ra khỏi người này”, lập tức thần ô uế tuân lệnh và xuất ra khỏi người bệnh. Như vậy, chỉ có lời quyền năng của Chúa Giêsu mới có thể đẩy lùi quyền lực ma quỷ và xua trừ chúng ra khỏi cuộc sống và lòng người.
Xin cho chúng ta hiểu rằng theo ma quỷ là đi vào sự chết. Không thể có hạnh phúc nếu quay lưng lại với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn tỉnh táo để từ khước những ảo ảnh phù vân mà ma quỷ bày ra lôi cuốn. Ước gì chúng ta đừng bao giờ thất vọng trước những cám dỗ liên tục của ma quỷ nhưng luôn biết trông cậy vào ơn Chúa để xua đuổi những ước muốn tầm thường và tội lỗi ra khổ tâm trí và cuộc đời chúng ta. Amen.
Cuộc sống hàng ngày trôi đi có vẻ rất bình thường, thế nhưng vẫn có nhiều chuyện lạ với nhiều mức TN4-B74
Cuộc sống hàng ngày trôi đi có vẻ rất bình thường, thế nhưng vẫn có nhiều chuyện lạ với nhiều mức độ khác nhau. Cái gì lạ cũng khiến người ta tò mò vì trong con người luôn có tính hiếu kỳ. Cũng vì lợi dụng tính hiếu kỳ của con người mà có những kẻ xấu đồn thổi những chuyện không đâu nhằm lừa bịp. Nhẹ dạ cả tin thì “chết” thôi!
Tuy nhiên, có những thứ thực sự kỳ lạ thì người ta lại không để ý, vì cứ cho rằng đó là “tự nhiên”. Thật ra đó là một phép lạ lớn lao, lớn lắm. Đó là gì? Không khí. Thật vậy, thiếu không khí chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn thì người ta sẽ ngộp và… chết chắc, mọi sinh vật khác cũng chung số phận như thế!
Chuyện lạ “phổ biến” trong Kinh Thánh, đặc biệt là thời Cựu Ước, là sự xuất hiện của các ngôn sứ (tiên tri). Thiên Chúa đã cấm hành nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn (Ðnl 18:10-11), thế mà con người vẫn nhiễm “máu” mê tín, dị đoan, ngay cả những người Công giáo ngày nay vẫn chưa “dứt” nổi kiểu mê tín này! Đó là máu hiếu kỳ, tính tò mò, chạy đua đi tìm… “sự lạ”. Thấy gì khác thường một chút đã cho là “phép lạ”. Đức Tin ấu trĩ quá!
Sách Đệ Nhị Luật (Thứ Luật) cho biết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Ðnl 18:15). Điều đó xảy ra vì dân chúng đã xin với Đức Chúa tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội. Họ đã nói: “Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết” (Ðnl 18:16).
Đức Chúa chứng thực: “Chúng nói phải” (Ðnl 18:17). Và Ngài cam kết: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết” (Ðnl 18:18-20). Bịa đặt hoặc cố chấp thì ai cũng sẽ bị trừng phạt, dù là người nói hoặc kẻ nghe.
Từng ngày trôi qua, biết bao điều lạ mà người ta không cho là lạ, lại chỉ mơ tưởng “sự lạ” ở đâu đâu, chẳng khác là ảo tưởng, thích chuyện hão huyền. Cứng đầu cứng cổ thật, đâu khác gì dân Ít-ra-en xưa. Vậy mà vẫn tự cho mình là “ngoan đạo”. Kể cũng “lạ” thật đấy!
Tác giả Thánh Vịnh nhận biết các điều lạ xảy ra xung quanh chúng ta hằng ngày nên không thể im lặng, mà phải lên tiếng mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2).
Không chỉ chúc tụng Chúa mà còn phải thờ lạy Ngài, đó là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, những người luôn được Ngài trao ban biết bao Hồng Ân mỗi ngày, đơn giản và cơ bản nhất là sự sống. Ăn cây nào, rào cây nấy. Nhận lãnh thì phải biết ơn. Đồng thời hãy mời gọi người khác cùng hành động: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7). Vâng, ước gì điều ước này được chúng ta thực hiện luôn luôn!
Ngày xưa, Thiên Chúa đã nhắc nhở dân Chúa: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:8-9). Và ngày nay, đó cũng chính là lời khuyến cáo dành riêng cho mỗi chúng ta.
Xơ cứng cũng có nhiều dạng với mức độ khác nhau. Xơ gan là một dạng ung thư bất trị, nhưng xơ cứng tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì đó là dạng “ung thư tâm linh”, có thể bất trị cả đời này lẫn đời sau, nhưng nếu chịu điều trị thì lại khả dĩ chữa lành. Đúng là “chuyện lạ” thật!
Thánh Phaolô nói về một dạng lạ về tâm linh: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:32-34). Gọi là lạ nhưng lại không lạ. Những người này cũng vẫn là những người bình thường như chúng ta, không có gì khác thường. Tuy nhiên, không lạ mà lại lạ, họ sống giữa đời thường mà lại không thuộc về đời thường, vì họ không thấy có sức hút nào bằng sức hút của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô khuyên thật chứ không đùa, không có ơn Chúa thì không thể hiểu được. Dĩ nhiên, tất cả đều là tự nguyện, không bắt buộc, và cũng không thể ép buộc. Thánh Phaolô giải thích: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Rất chi tiết. Rất rạch ròi. Rất minh bạch. Và cũng rất chân thành.
Như chúng ta đã biết, cuộc sống có rất nhiều điều lạ, từ điều nhỏ tới điều lớn, từ đơn giản tới phức tạp. Thời nào cũng thế, đất nước nào cũng thế, dân tộc nào cũng vậy. Cũng là con người cả thôi, tính hiếu kỳ luôn chực chờ “nổi dậy”. Nhưng cần lưu ý rằng có điều lạ tốt và cũng có điều lạ xấu. Chúa Giêsu giáng sinh làm người, chịu chết trên Thập Giá, rồi phục sinh vinh quang. Vô cùng lạ, lạ hơn mọi thứ lạ khác. Các bí tích cũng toàn là những chuyện lạ. Cả đời chúng ta chứng kiến biết bao chuyện lạ, nói đúng ra là phép lạ!
Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Hôm đó là ngày sa-bát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài. Họ sửng sốt vì thấy quá đỗi lạ lùng. Tại sao? Vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Ngay lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập, nó la lên: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Còn hơn cả sự lạ lùng. Chắc hẳn dân chúng càng sửng sốt hơn. Nó không phải quỷ thường, mà là quỷ ô uế.
Nghe nó nói vậy, Đức Giêsu quát mắng nó, bắt nó câm miệng và buộc nó phải xuất ra khỏi nạn nhân. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Nạn nhân được tự do, thoát khỏi nanh vuốt kìm cặp của ma quỷ, đó là nhờ quyền phép của Đức Giêsu, Con-Thiên-Chúa-làm-người, Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta, Đấng Emmanuel. Thấy vậy, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27).
Không lạ sao được khi mà người ta mục kích sở thị chứ chẳng phải nghe đồn hoặc truyền khẩu. Tiếng lành đồn xa. Lập tức danh tiếng Ngài đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết phân biệt cái gì là điều lạ và cái gì là bình thường, cái gì là tốt và cái gì là xấu, để chúng con tin và hành động theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin giúp chúng con vạch rõ làn ranh giữa cái thiện và cái ác để chúng con không mơ hồ giữa cõi thế gian này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời TN4-B75
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm, vừa là phát ngôn viên của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài
Bài đọc I và Tin Mừng minh chứng rằng ở nơi con người của Ngài, Đức Giê-su thể hiện một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en, đó là một vị Ngôn Sứ tuyệt hảo xuất thân từ họ và ở giữa họ.
Đnl 18: 15-20
Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê cảnh giác dân Ít-ra-en coi chừng những “ngôn sứ mạo danh”, nhưng đồng thời ông cũng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Vị Ngôn Sứ này sẽ là“Phát Ngôn Viên của Thiên Chúa” bên cạnh dân Ngài.
Mc 1: 21-28
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm, vừa là phát ngôn viên của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài, đồng thời vừa là phát ngôn viên của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.
1Cr 7: 32-35
Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.
BÀI ĐỌC I (Đnl 18: 15-20)
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi sách“To-ra”, nghĩa là sách “Luật”.
Nhan đề “Đệ Nhị Luật” có nghĩa “luật thứ hai”. Quả thật, sách nầy được đặt vào trong bối cảnh ông Mô-sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en như những lời trăn trối sau cùng, bản di chúc của ông, trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều nầy muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật phản ảnh bối cảnh dân Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Vì thế, bầu khí hăng say nhiệt thành thuở ban đầu đã lắng xuống. Tuy nhiên, nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tình tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.
1/ Định chế ngôn sứ
Đoạn văn nầy được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên vấn đề định chế ngôn sứ.
Theo văn mạch, trong một đoạn văn trước đó, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, thì người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng phải là một người trong số họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15).
Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính “từ giữa đồng bào của anh em” mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn viên của Ngài bên cạnh dân Ngài: “Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy”. Đây không phải là một ngôn sứ độc nhất, nhưng là một vị ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Vì thế, ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát, như câu trích sau cùng nói lên cách rõ ràng hơn: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết”.
Sau nầy, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất từ lâu, người ta sẽ đọc lại bản văn này theo một cách khác và người ta sẽ hiểu lời tiên báo nầy về một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời đại Thiên Sai, một Mô-sê mới. Đó là lý do tại sao những người được Giáo Quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan:“Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” (Ga 1: 21).
2/ Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống
Lời tiên báo nầy đáp lại nguyện ước của dân chúng, vì tại núi Khô-rép trong ngọn lửa sáng rực chỉ một mình Mô-sê mới có thể tiến gần đến Thiên Chúa và đàm đạo diện đối diện với Ngài mà không phải chết: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20: 19).
Đây là sự sợ hãi linh thánh rất phổ biến vào thời đó vì người ta tin rằng không ai thấy thần linh mà có thể sống được. Giữa thần linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như bị tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo chẳng may nhìn thấy thần linh đến nhận của lễ mà mình phải chết chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì“ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối” (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế, ông chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy hình (1V 19: 12-13).
Được đọc trong ánh sáng Tân Ước, bản văn Đệ Nhật Luật nầy mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó. Đức Giê-su là vị Ngôn Sứ đã được ông Mô-sê tiên báo. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, Phát Ngôn Viên trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hữu hình ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết nhưng trái lại được đón nhận “ân nầy đến ân khác” của Ngài nữa. BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 32-36)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trổi vượt trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực “chuyên lo việc Chúa”. Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân.
1/ Kinh nghiệm bản thân
Cách giải thích thứ nhất là chính từ kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thánh nhân là người lữ hành của Thiên Chúa, ngài rong ruỗi trên khắp mọi nẽo đường, tận tâm tận lực chu toàn “sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Vì thế, trong một đoạn văn trước đó, thánh nhân không ngần ngại viện dẫn đời sống độc thân của mình ra làm gương: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1Cr 7: 7).
2/ Quan niệm văn hóa và xã hội
Cách giải thích thứ hai thuộc quan niệm văn hóa vào thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Từ đó suy ra rằng đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những mối dây ràng buộc trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế, chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc “chuyên lo phục vụ Chúa”.
Chuyện vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân: chủ nghĩa thượng tôn nam giới tạo nên rào chắn cho một sự phát triển về quyền bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki-tô giáo. Thật ra, môi trường Cô-rin-tô thấm đẳm văn hóa Hy lạp, vì thế, những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư nầy, ngài nhắc nhở các người phụ nữ phải trùm khăn che đầu và không được lên tiếng trong các buổi hội họp cộng đồng, vì người nữ phải giữ thái độ im lặng và phục tùng, vân vân. Về quan điểm nầy, thánh nhân vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm những quan niệm Do thái giáo kém tiến bộ. Tuy nhiên, ngài biết công bố quyền bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: “Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam”(1Cr 11: 11).
TIN MỪNG (Mc 1: 21-28)
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ cho đến tận thành Ca-phác-na-um.
1/ Thành Ca-phác-na-um
Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp ranh giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pa-lét-tin, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế, thành phố được mệnh danh là “Ngã Tư Quốc Tế”. Chính thành này Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ ngầm hàm chứa chiều kích phổ quát sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau nầy các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô cũng sẽ theo gương Ngài.
Hội đường là nơi các tín hữu tụ họp và cầu nguyện. Chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và hàng giáo sĩ, ở đó các tín hữu mới có thể dâng hy lễ lên Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Vào ngày Sa-bát, các tín hữu tụ họp ở hội đường, luôn luôn vào buổi sáng, để cử hành phụng vụ Lời Chúa (các bản văn Luật và các sách ngôn sứ), hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự nguyện hay được chỉ định, có thể công bố và diễn giải những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su được mời công bố và giải thích Kinh Thánh vào một buổi phụng vụ sa-bát ở hội đường Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng.
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Một mặt, thánh ký bận tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài: Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của một con người thanh khiết và hoàn hảo đến nổi không bất kỳ sự thâm hiểm gian ác nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài. Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm.
2/ Cách thức Đức Giê-su giảng dạy:
“Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo trường lớp về những cách thức giải thích Kinh Thánh một cách tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc tôn sư danh tiếng của họ. Riêng Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ bất cứ trường lớp nào và cũng không quy chiếu đến bất kỳ “kinh sư” hay“bậc tôn sư” nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo rằng mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
3/ Dấu chỉ kèm theo:
Không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử thấu hiểu mầu nhiệm của con người nầy; ở Ca-pha-na-um, nó bày tỏ qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác phải công khai nói lên sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm lặng.
Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là duy nhất, nhưng còn xảy ra nhiều lần ở những nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1: 34).
4/ Mầu nhiệm của Đức Giê-su
Đức Giê-su vẫn còn muốn giữ riêng bí mật về con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Thánh Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi “bí mật Thiên Sai” của Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng nầy, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được vén mở chân tính của Ngài, cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài không được tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Thật không khó để hiểu được thái độ nầy của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thể hiện: hình ảnh của một Đấng Thiên Sai “nhân hậu và khiêm hạ tận mức”, hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể bày tỏ một cách rực rỡ ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.IV/TN-B – Mc 1, 21-28) trình thuật Đức Giê-su giảng dạy tại hội đường TN4-B76
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.IV/TN-B – Mc 1, 21-28) trình thuật Đức Giê-su giảng dạy tại hội đường Ca-phac-na-um, khiến cho “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.” (Mc 1, 22). Làm sao dân Do-thái lại nhận ra được Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng có thầm quyền? Đó là nhờ họ so sánh Người với các kinh sư. Đối với họ, các kinh sư, luật sĩ là những người có “thẩm quyền” giải thích Lề Luật và sách các ngôn sứ. Nhưng trên thực tế, các kinh sư luật sĩ chỉ là những người “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy…Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”(Mt 23, 2-7).
Đức Giê-su thì không như vậy, Người thường đến với những người nghèo khó, bệnh tật, tội lỗi và những lời giảng dạy của Người không là những lời giảng hoa mỹ hùng biện, nhưng bằng những lời bình dân, nhất là những câu chuyện dụ ngôn lấy từ chính đời sống hằng ngày. Nơi Người giảng dạy và làm phép lạ thường là những nơi rất dân dã gắn với đời sống bình dân: bên vệ đường, bên giếng nước hay bên sườn núi hoặc trong nhà những bênh nhân khó nghèo, cô quạnh. Đó quả nhiên không giống một chút nào với đám người kinh sư mà dân Do-thái vẫn gặp thường xuyên. Không những thế, với Đức Giê-su thì lời nói luôn đi đôi với việc làm (làm phép lạ, chữa trị bệnh tật, khu trừ ma quỷ…).
Rất nhiều bằng chứng cụ thể chứng tỏ cho nhận định trên: Đức Giê-su chữa người bị phong hủi;chữa đầy tớ của một đại đội trưởng; chữa bà mẹ vợ ông Phê-rô; chữa lành mọi kẻ ốm đau… (Mt 8, 1-4; 5-13; 16-17); cho con trai một bà goá thành Na-in sống lại (Lc 7, 11-17); cho La-da-rô chết 4 ngày sống lại (Ga 11, 19-27)… Một trong những minh họa sống động nhất là trong dịp giảng dạy tại hội đường Ca-phac-na-um lần này, có một nhân chứng sống động là “một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa! Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”, và ngay lập tức, “Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.” (Mc 1, 22-26).
Dân chúng được nghe những Lời Đức Giê-su giảng dạy chí tình chí nghĩa, luôn luôn biểu lộ tình yêu bao la của Thiên Chúa; lại được chứng kiến phép lạ trục xuất thần ô uế, nên ”Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1, 25-27). Những lời bàn tán của dân chúng bộc lộ một tâm trạng thần phục Đức Giê-su: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”, khác xa giáo lý mà họ từng nghe các kinh sư giảng dạy (đơn cử một ví dụ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa… Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” – Mt 5, 38-39.43-44).
Quả thật, chỉ có Đấng Thánh của Thiên Chúa mới có uy quyền như vậy. Ấy cũng bởi vì Người chính là Ngôi Lời được Chúa Cha sai xuống trần gian, làm Đấng Em-ma-nu-en (Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta). Sự kiện này đã được tiên báo từ Cựu Ước: Thiên Chúa đã cho xuất hiện giữa Ít-ra-en một vị Ngôn Sứ. Sách Đệ Nhị Luật đã mô tả uy quyền của vị Ngôn Sứ này: “Bấy giờ Đức Chúa phán: ‘…Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy… Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó’” (Đnl 18, 18-19). Vị ngôn sứ đó không ai khác hơn là chính Người mà Đức Chúa Cha đã phán dậy: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7). Hãy vâng nghe Lời Người bởi vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sang chỉ đường con đi” (Tv 119, câu 105).
Người Ki-tô hữu “Hôm nay nghe tiếng Chúa, anh em đừng cứng lòng!” (Tv 95), cũng “không phải bận tâm lo lắng điều gì” (1Cr 7, 32); mà “hãy đến với Thiên Chúa”. Vâng, hãy đến với Người trong cuộc hành trình đức tin tiến về Đất Hứa là Nước Trời. “Đừng cứng lòng”, cũng đừng ngại gian khổ, hy sinh, bởi Chúa vẫn luôn ở cùng và đồng hành với chúng ta (“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” – Mt 28, 20). Chúng ta đã được chính Đức Giê-su Thiên Chúa dìu dắt vượt qua Biển Đỏ cuộc đời đầy phong ba bão táp bằng Bí tích Thánh Tẩy. Bây giờ là lúc chúng ta phải can đảm chấp nhận mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã, nhất là những “viên đạn bọc đường” đầy hấp dẫn của ba thù. Vậy thì còn chần chờ gì nữa, mà không đến với Người đã tha thiết kêu mời: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11, 28-29).
Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra uy quyền và sức mạnh của Lời Chúa, xin ban Thần Khí cho con để con đủ sáng suốt vượt qua Biển Đỏ lỗi lầm, và nhất là đủ can đảm vượt qua mọi gian lao thử thách trong sa mạc cuộc đời. Chúng con cầu xin, nhớ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen./.
Hôm ấy, Chúa Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngày sa-bát, Ngài vào hội đường TN4-B77
Hôm ấy, Chúa Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngày sa-bát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Lúc ấy, trong hội đường có người bị ma quỷ ám. Thấy Chúa Giê-su, quỷ biết ngay Ngài là Con Thiên Chúa, nên la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Bấy giờ Chúa Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”
Lập tức Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Mọi người chứng kiến đều hết sức kinh ngạc trước quyền lực của Chúa Giê-su. Ngài không cần dùng roi vọt hay bạo lực để trục xuất ma quỷ. Ngài chỉ cần truyền một lời là quỷ phải xuất ra ngay.
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng
Khi tạo nên vũ trụ càn khôn từ hư vô, Kinh Thánh cho biết là Thiên Chúa không cần dùng đến những chất liệu có trước mà chỉ cần dùng Lời của Ngài để tạo dựng nên muôn vật muôn loài. Thiên Chúa phán hãy có mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao trên bầu trời… thì chúng liền có như Lời Chúa phán. Thiên Chúa phán hãy có đất, có biển, có đủ mọi loài chim trời cá nước… thì mọi thứ hiện hữu như lệnh Chúa truyền.
Và khi xuống thế làm người ở cùng nhân loại, Chúa Giê-su cũng tỏ cho thấy Lời Ngài có sức mạnh vạn năng: Đứng trước bệnh nhân phong, Ngài phán: “Ta muốn, ngươi hãy trở nên sạch”, thì bệnh nhân mắc chứng bệnh phong hủi nan y liền được chữa lành. Đứng trước mồ La-da-rô đã chết bốn ngày rồi, Chúa truyền: “Hỡi La-da-rô hãy đứng dậy ra khỏi mồ” thì người chết đã bốn ngày rồi lồm cồm đứng lên bước ra khỏi mộ. Khi đang ở trên thuyền giữa biển khơi đang cơn bão tố dữ dội, Chúa Giê-su truyền cho sóng gió lặng yên và ngay tức khắc, biển trở nên phẳng lặng như tờ. Tóm lại, Lời Chúa có sức mạnh vạn năng, mọi vật mọi loài đều tuân theo Lời Chúa phán.
Lời Chúa bị vô hiệu hoá bởi sự ngoan cố của con người
Vậy mà khi Chúa truyền cho loài người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” thì nhiều người vẫn im lìm bất động. Khi Chúa truyền “hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha”, nhưng sự giận hờn ghen ghét vẫn chất chứa trong lòng người. Khi Chúa truyền hãy quan tâm phục vụ nhau như Ngài đã hiến thân mình phục vụ con người, thì nhiều người vẫn dửng dưng vô cảm với đồng loại…
Tại sao Lời Chúa chưa cảm hoá được lòng người?
Sở dĩ uy lực của Thiên Chúa và Lời quyền năng của Chúa khựng lại trước con người vì Chúa ban cho con người có tự do để tự định đoạt đời mình và Chúa tôn trọng tự do của họ đến cùng. Cho dù có người viết sách phỉ báng Chúa, Chúa cũng không bẻ bút của họ; cho dù có người dựng phim để lăng nhục Chúa, Chúa cũng không khoá tay họ. Thậm chí ngay cả khi con người dùng tự do của mình để đóng đinh Ngôi Hai Thiên Chúa vào thập giá thì Chúa vẫn tôn trọng tự do của họ đến cùng.
Vì thế, bao lâu con người chưa dùng tự do của mình để quay về với Chúa và để cho Lời Chúa uốn nắn đời mình, thì bấy lâu, Lời Chúa chưa cảm hoá được tâm hồn của họ.
Như mưa trời rơi xuống chan hoà trên mặt đất làm cho đất phì nhiêu, cho hạt nẩy mầm, cho hoa kết trái, cho lúa đơm bông… thì Lời Chúa tuôn xuống tâm hồn ta cũng sẽ làm cho đời ta sinh hoa kết quả như vậy. Tuy nhiên, nếu ta dùng tự do của mình, đóng kín tâm hồn lại như thùng đậy nắp thì Lời Chúa có rơi xuống như mưa cũng không sinh ích lợi gì!
Như ngọn hải đăng bừng sáng giữa đêm đen soi đường chỉ lối cho tàu thuyền về bến bình an, Lời Chúa cũng soi dọi cho bao người tìm về đường ngay nẻo chính, nhưng nếu người ta dùng tự do của mình, khép mắt không nhìn đến thì cũng bằng không.
Lạy Chúa Giê-su,
Ngay cả ma quỷ mà còn biết vâng lệnh Chúa truyền, đang khi chúng con là những người con yêu quý của Chúa, lại không thực hành Lời Chúa phán dạy thì thật là chuyện đau lòng.
Xin đừng để chúng con sử dụng tự do của mình để từ khước những Lời khôn ngoan của Chúa nhưng biết mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và khắc sâu Lời Chúa vào trong tâm khảm mình.
Bấy giờ, Lời Chúa sẽ như mưa nguồn làm cho đời sống chúng con nên tươi tốt, như ánh hải đăng soi lối cho chúng con về bến hạnh phúc chan hòa.
Tiên tri là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhắc TN4-B78
Tiên tri là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhắc nhở mọi người biết sống theo lề luật và thánh ý Thiên Chúa, hướng dẫn dân chúng sống giao ước với Thiên Chúa. Trong Cựu ước, đời sống của dân Chúa luôn có sự hướng dẫn của các tiên tri mà Thiên Chúa luôn ban cho họ. Môisen là vị lãnh đạo và cũng là vị tiên tri đã lãnh đạo dân do thái từ đất Ai cập để đi đến đất hứa. Ông vừa là nhà lập pháp và cũng là nhà hành pháp. Chế độ các tiên tri vẫn tồn tại vào thời quân chủ khi những người do thái đã có vua cai trị. Các tiên tri vẫn là những người đồng hành với dân chúng để nhắc nhở họ, và trong thời gian ưu phiền sầu khổ vì bị lưu đày, các tiên tri là những người an ủi họ và nhất là củng cố tinh thần cho họ, làm cho họ được vững vàng trong những gian truân thử thách và biết tin tưởng hướng về tương lai. Chính các tiên tri loan báo cho họ những lời hứa cứu độ và giải thoát . Vào thời Môisen, những người do thái vẫn ghi nhớ cách đặc biệt lời tiên báo của ông về một vị tiên tri mà Thiên Chúa sẽ cho trỗi dậy từ giữa dân để ở với dân Chúa và nói cho họ những lời và mệnh lệnh của Thiên Chúa. Vị tiên tri này cũng sẽ rất mạnh mẽ như Môisen trong lời nói và hành động.
Tin mừng theo Máccô thuật lại trong chương đầu một trình thuật cô đọng và ý nghĩa của hoạt động cứu độ của Đức Giêsu, vị tiên tri đầy quyền năng mà Môisen đã tiên báo. Chúa Giêsu khởi đầu rao giảng trong miền Capharnaum và theo thói quen những người do thái, người vào hội đường vào ngày thứ bảy là ngày hưu lễ và là ngày thánh hóa của họ. Trong hội đường có một người bị quỉ ô uế ám và nó la to lên: “Hỡi ông Giêsu Nazarét, phải chăng ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Trong thế giới cổ thời, người ta thường qui những bệnh tật cho quỉ thần. Ở đây, ma quỉ biết Đức Giêsu và kêu tên của người. Cũng trong thế giới cổ thời này, biết và kêu tên của ai cũng là có quyền năng trên người đó một cách nào đó. Ma quỉ kêu tên Chúa Giêsu, nhưng ngược lại nó cảm thấy không thể có quyền năng gì trên người cả, mà ngược lại nó còn cảm thấy rằng chính người đến để tiêu diệt nó, bởi vì người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Quả đúng như vậy, Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa đầy quyền năng, người đến để kết thúc quyền lực của ác thần và ma quỉ trên con người. Vì thế, bằng một lời truyền khiến đầy uy quyền, người trục xuất ma quỉ ra khỏi người bệnh: “câm đi và ra khỏi người này”. Ở đây, theo cách thuật chuyện của thời xưa, việc xua đuổi ma quỉ ra khỏi một người được kể kèm theo những cảnh đáng sợ, “quỉ vật người đó và hét lên một tiếng lớn và thoát ra khỏi người đó”.
Thật ra, điều chúng ta cần ghi nhận trong tường thuật của Tin mừng, đó là lời truyền khiến đầy uy quyền của Chúa Giêsu trên ác thần để xua trừ chúng ra khỏi con người. Người đã truyền khiến cho ma quỉ ra khỏi người bệnh một cách dứt khoát mạnh mẽ khiến cho dân chúng chứng kiến đều phải kinh ngạc và tự hỏi: “điều gì đây? một giáo huấn mới đầy uy quyền, người truyền khiến cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh người”.
Thực vậy, câu chuyện của bài Tin mừng thuật lại cho chúng ta một trong những chạm trán đầu tiên của Đức Giêsu với ác thần ma quỉ, cuộc đối đầu giữa sự thánh thiện và sự dữ. Loại trừ ác thần và sự dữ là công việc cứu độ mà Đức Giêsu được sai đến thế gian để thực hiện, và người đã thực hiện điều này với uy quyền Thiên Chúa bởi vì người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Sự thánh thiện thì thuộc về Thiên Chúa , ác thần ma quỉ là những gì chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu có uy quyền không đơn giản bởi vì người thuộc về Thiên Chúa, nhưng còn bởi vì người chính là Thiên Chúa, là nguồn gốc của mọi quyền bính, mọi chân lý và mọi sự thiện. Quyền bính của Chúa Giêsu tuôn trào từ chính bản tính Thiên Chúa của người, là nguồn gốc của mọi sự sống và sự thánh thiện.
Người tín hữu cũng phải đối diện với nhiều cuộc chiến giữa thiện và ác trong cuộc đời của mình. Khi chúng ta càng lúc càng lớn lên và già đi, những cuộc chiến này càng lúc càng trầm trọng hơn. Chúng ta phải đối diện với những chọn lựa giữa những ơn Chúa giúp chúng ta lớn lên trong đời sống thánh thiện và sự dữ tội lỗi mà ác thần lôi kéo chúng ta phạm tội làm mất tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với người khác. Để chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa, phải là những người thánh thiện. Thực ra, người tín hữu vốn có uy quyền của chính Chúa Giêsu để tiêu diệt sự dữ trong lòng mình, bởi vì từ khi lãnh bí tích rửa tội, họ đã thuộc về Chúa và nhận lãnh những quyền bính của chính Chúa Giêsu, họ là những người thánh thiện của Thiên Chúa. Qua bí tích rửa tội, Chúa Giêsu ban tặng cho người tín hữu đời sống thần linh thánh hóa họ, và cũng ban tặng cho họ quyền năng để chiến thắng ác thần sự dữ.
Một cách cụ thể, thánh Phaolô trong bức thư gửi giáo đoàn Corintô, nói đến điều kiện của những người tín hữu. Họ là những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội, tức là họ đã được thánh hóa và lãnh nhận đời sống thần linh và dĩ nhiên là họ cần tìm cách để khai triển hiệu quả đời sống thần linh này. Có hai bậc sống được đặt ra mà họ cần suy xét để chọn lựa. Những người nam và nữ lập gia đình và những người không lập gia đình. Những người nam nữ không lập gia đình sẽ có nhiều thời gian hơn để suy nghĩ về Chúa và quan tâm làm đẹp lòng Chúa, trái lại những người nam nữ lập gia đình sẽ bị chi phối nhiều hơn về việc đời, làm sao để làm vừa lòng vợ hay chồng, và vì thế tâm hồn của họ bị chia sẻ, họ không còn có đủ thời gian để phục vụ Chúa và sống mật thiết với Chúa. Cái nhìn của thánh Phaolô thì chân thành và giúp chúng ta nhận ra những điều tốt đẹp của đời sống độc thân để dành nhiều thời gian tìm kiếm Thiên Chúa.
Vào thời thánh nhân, trong Giáo hội chưa có những hình thức đời sống tu trì với những dòng tu như chúng ta ngày nay, thánh nhân chắc đã tiên cảm về lợi ích của đời sống này mà chúng ta sẽ thấy phát triển rất mạnh mẽ vào thế kỷ thứ IV trong Giáo hội với phong trào đan tu, nhiều người sẽ dấn thân vào đời sống đan tu với lý tưởng tìm kiếm Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa nhờ đời sống chuyên cần cầu nguyện và suy ngắm Thánh Kinh.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ người thực là uy quyền trong lời nói và việc làm và trong ý chí của người chống lại ma quỉ và ác thần. Những người trong hội đường đã rất ngạc nhiên về lời giảng dạy và uy quyền của người trên ma quỉ. Người tín hữu cũng được mời gọi cùng với Chúa Giêsu khai triển đời sống thần linh đã lãnh nhận để chiến đấu chống lại ma quỉ và ác thần. Qua đời sống hằng ngày, người tín hữu được mời gọi kết hợp với Chúa Giêsu nhiều hơn nữa bằng cách lắng nghe lời Chúa, bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh chu toàn công việc bổn phận cách trung tín và khiêm nhường. Người tín hữu luôn nhận thức là họ đã nhận đời sống thần linh và họ càng lúc càng phải làm cho đời sống thần linh này được lớn lên trong chính mình bằng những cố gắng để chiến đấu chống lại những cám dỗ của ma quỉ luôn rình rập họ, lôi kéo họ lạc xa khỏi đời sống thần linh, làm cho họ mất đi tương quan sự sống thần linh với Thiên Chúa.
“Người giảng dạy như một Ðấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư.” (Mc 1,22)
Trong cuộc sống có một số người được Thiên Chúa ban cho một sự hấp dẫn làm cho những người khác TN4-B79
Trong cuộc sống có một số người được Thiên Chúa ban cho một sự hấp dẫn làm cho những người khác muốn đi theo mình.
Vua Napoléon xưa là một thí dụ. Có lần ông đã tự hào nói về mình như thế này: “Người ta chỉ cần nhìn ánh sáng nơi mắt của tôi, nghe âm giọng của tôi và chỉ cần nghe một lời từ miệng tôi nói ra thì lập tức ngọn lửa linh thiêng sẽ bùng cháy lên trong lòng họ. Thực sự tôi đã nắm được bí quyết của một năng lực ma thuật có thể lay chuyển được tâm hồn những người khác”
Quả đúng là Napoléon đã chiếm hữu được quyền năng ấy.
Những rồi cũng chính ông ta đã thích thú thêm vào những lời lẽ đầy tự hào trên câu này: “Đức Kitô cũng đã có được quyền năng ấy nhưng ở một cấp độ vô cùng to lớn hơn”
Chúng ta không có được cái diễm phúc sống vào thời đại của Chúa Giêsu
- để được thấy cái nhìn của Chúa
- để được nghe những âm kỳ diệu từ miệng Chúa nói ra
- để được nghe thấy những lời rất ngọt nào nhưng đôi khi cũng rất đanh thép của Chúa Giêsu.
- để được thấy cách Chúa cư xử
- để được cảm nghiệm thấy một sức lôi cuốn đến lạ lùng của Chúa…một sự lôi cuốn mà những người khác không ai có được.
Chúng ta không có phúc nhưng có những người khác đã có phúc. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Sau khi được nghe Chúa giảng họ đã có cảm nghĩ như thế này: “Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như những luật sĩ” (Mc 1,27)
Tại sao thế?
Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với lời dạy dỗ của các luật sĩ.
Khác ở chỗ nào? Vì Ngài giảng dạy cách có quyền.
Các luật sĩ không ai có được uy quyền như Chúa.
Họ không có quyền để tự quyết định một điều gì cả. Những điều họ dạy, họ nói đều phải “căn cứ theo những lời dạy có sẵn trong luật” .
Gặp một điều gì không có trong luật hay có nhưng chưa được rõ ràng thì họ phải cậy dựa vào những bậc thầy về luật pháp mà thiên đã coi trọng trong quá khứ tức là những tập tục của tiền nhân để giải quyết.
Việc cuối cùng mà họ chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán có tính cách cá nhân, độc lập.
Rõ ràng là họ khác xa với Chúa Giêsu.
Còn Chúa khi Chúa giảng dạy, Ngài nói như trên Ngài không có một quyền nào khác cao hơn nữa. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”(Mt 28,18)
Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu.
Ngài không trích dẫn, không dựa vào quyền uy của một chuyên viên nào cả, Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa.
Dân chúng khi nghe những lời giảng dạy như vậy thì chẳng khác nào họ được hưởng một làn gió dịu mát từ Thiên Đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng định và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn của các luật sĩ của người Do thái
Giọng nói đầy uy quyền với sắc thái cá nhân cứ ngân vang, và chính giọng nói ấy đã bắt người nghe phải qui phục.
a/ Như vậy chúng ta thấy vì các luật sĩ chỉ là những con người cho nên họ chỉ có thể gây cho người khác sự phấn kích – chỉ có thể ảnh hưởng về tâm lý.
Còn Chúa thì khác. Ngài là Đấng thánh của Thiên Chúa. Chính ma quỉ cũng phải run sợ mà thốt lên: “Hỡi Ông Giêsu Nagiareth, giữa chúng tôi và Ông có chuyện gì – Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Chúng tôi biết Ông là ai rồi – Là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) cho nên lời dạy của Chúa đầy ắp uy quyền, điều đó cũng không lạ lùng gì.
b/ Các luật sĩ chỉ là những con người, cho nên họ chỉ có thể
- hâm nóng nhiệt tình - kích động lòng hăng say - khơi dậy niềm cảm xúc - kích thích trí tưởng tượng
Họ không thể ban năng lực và sức mạnh riêng của họ cho người khác.
Nếu thực sự có một sự thay đổi nào nơi những người nghe họ thì sự thay đổi đó không phải là do họ mà là do năng lực và gắng sức của những người nghe. + Còn đối với Chúa thì sao?
Thật hoàn toàn khác xa
Chúa có thể đặt tinh thần của Ngài vào trong mỗi người
Chúa có thể chia sẻ quyền năng của Ngài cho họ
Chúa có thể bước vào tâm trí người ta để giúp người ta làm được những điều mà tự sức họ họ không thể nào làm được.
Đây là câu chuyện của thánh Grêgôriô Tử Đạo năm 2314:
Nhà Vua cho xiềng xích và giam ngài vào ngục. Ngài coi như không có chuyện gì xẩy ra. Nhà Vua cho cột ngài vào bánh xe có mũi nhọn và dao bén rồi cho xoay vòng. Ngài vẫn hân hoan vui sướng. Nhà vua truyền ném ngài vạc dầu sôi, Chúa đã làm phép lạ để cứu ngài.
Thấy nhục hình đều vô hiệu, nhà vua thay đổi chiến thuật….dụ ngọt rồi khuyên nhủ.
Thánh nhân xin được đưa đến đền thờ.
Tưởng là thành công cho nên nhà vua cho triệu tập dân chúng lại, dọn sẵn lễ vật cho Grêgôriô dâng kính các ngẫu thần.
Grêgôriô đến trước tượng thần Appolo và nói:
- Ngươi có phải là Thiên Chúa để cho chúng tôi dâng lễ vật không? - Không! Tôi không phải là Thiên Chúa.
Grêgôriô làm dấu Thánh giá và tượng thần sụp đổ vỡ ra tan tành từng mảnh trước mặt mọi người.
Mọi người run sợ. Để khỏi mất mặt với thần dân, nhà vua cho chém đầu thánh nhân.
Vâng, đúng là như thế. Và đó là cái khác to lớn giữa Chúa và người con người …luật sĩ hay bất cứ một nhà lãnh đạo nào với Chúa Giêsu
c/ Phần ta
Làm sao mà cuộc sống của tôi được trở nên tốt hơn?.
Trong một thiên khảo luận, Ralp Waldo Emerson có ghi: “Điều cần thiết chính yếu trong cuộc sống của mỗi người chính là tìm được một ai đó có khả năng giúp ta làm được những gì ta muốn làm”
Và những lời sau đây nữa: có nhiều việc ta muốn làm nhưng 1/2 việc đó là ta muốn làm cho cuộc sống của ta có một ý nghĩa và được sống thực sự hạnh phúc hơn.
Nhưng thử hỏi: Ai?
Không ai khác ngoài Chúa Giêsu
Nhưng làm sao để ta có thể có được Ngài?
Điều duy nhất mà Chúa không thể làm được cho ta đó là Ngài không thể cởi mở tâm hoàn cho ta nếu ta không muốn.
Nhìn hình ảnh của Ngài ở giữa đám đông quần chúng vây quanh – dọc theo bờ biển – Edward Farrel đã phải thốt lên những lời như thế này: “Người là ai? Trông sáng ngời đến kinh khiếp – đang nhìn chúng tôi bằng đôi mắt mỏi mòn, đôi mắt như tìm kiếm chính linh hồn chúng tôi. Người là ai mà thấy được tư tưởng, đọc được tâm hồn sâu kín của chúng tôi bằng ánh mắt yêu thương, thông suốt…như muốn nói rằng: “Ta chẳng muốn gì ngoài bản thân của con”
Vâng hãy để Chúa chiếm lĩnh tâm hồn bạn chiếm lĩnh một cách trọn vẹn, bạn sẽ thấy được được những điều kỳ diệu mà Ngài làm cho bạn, đẹp đến tuyệt vời. Amen.
Thiên Chúa quyền năng và hằng thương yêu. Ngài luôn yêu thương con người và luôn dành cho TN4-B80
Thiên Chúa quyền năng và hằng thương yêu. Ngài luôn yêu thương con người và luôn dành cho con người những điều tốt đẹp nhất. Chúa Giêsu đến trần gian để khai mở Nước Thiên Chúa nhưng vì tôn trọng tự do mà Thiên Chúa để cho ma quỷ cám dỗ con người. Ngài để cho các thế lực sự dữ tấn công con người. Tuy nhiên con người vẫn được những sự trợ lực mạnh mẽ vô song từ phía Thiên Chúa để con người trung thành sống cho Chúa và trong khi can đảm chống lại sự dữ, con người được thêm nhiều ơn ích cho mình.
Hẳn nhiên, trong thế trần, con người phải chịu nhiều sự tấn công từ phía ma quỷ. Để chiếm lấy Nước Trời, để được bảo đảm vào trong vương quốc Thiên Chúa, con người phải chiến đấu trường kỳ và mạnh mẽ. Thế nhưng người ta cần phân biệt ma quỷ là ai? Thưa ma quỷ là thiên thần hư hỏng, đã bị đuổi ra khỏi Thiên Đàng. Nó đã thất bại nên muốn con người cũng thất bại như nó. Nó là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động không ngừng nhằm làm phá hoại con người. Nó muốn con người đi theo con đường của nó. Nó muốn con người từ chối tình thương của Thiên Chúa.
Có những thời gian nào đó, ma quỷ được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu như thế thì người ta sẽ dễ dàng nhận ra chúng và chúng khó lòng cám dỗ chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Ma quỷ là kẻ dối trá. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình ảnh xinh đẹp và hấp dẫn. Nó hoạt động rất tinh vi, kín đáo và khôn khéo nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Nhờ người ta không tin ma quỷ hiện hữu nên nó càng dễ dàng hoạt động nhằm tấn công con người, làm cho con người nghi ngờ Thiên Chúa, sống lấp lửng, sống nước đôi và thậm chí người ta không cộng tác trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ma quỷ được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ. Thế nên chúng ta hãy xác tín và quả quyết ma quỷ là có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này.
Ma quỷ hoạt động rất tinh vi và khôn khéo làm cho con người bị nô lệ trói buộc mà không hay biết. Nếu không sáng suốt, con người sẽ nhầm lẫn, dễ trở thành người cộng tác tích cực với ma quỷ,dễ phạm tội và sống trong tội lỗi mà không hay biết gì cả. Đôi khi chúng ta đang bị xiềng xích của ma quỷ trói buộc như sống thiếu bác ái, tham danh vọng, không yêu mến Chúa và không cộng tác với Giáo hội, vô hình trung chúng ta trở thành kẻ nô lệ của chúng mà nhiều lúc con người không nhận ra. Thế nên, khi xét mình lại, chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình đang làm nô lệ của những thói xấu trên. Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của ma quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, ngay từ nội tâm mỗi người. Bên cạnh đó, chúng ta không dè rằng ma quỷ, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là ma quỷ nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái. Vì thế, con người cần sám hối, cần xin ơn Chúa trợ giúp để sáng suốt, can đảm chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ, trung thành với Chúa và trung thành sống yêu thương như Chúa muốn. Chúng ta phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Nó chỉ muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương muốn cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ. Chúng ta hãy chỗi dậy, tỉnh táo và khôn ngoan. Đừng để mình bị lừa dối của ma quỷ nữa, hãy mau mắn tin tưởng và bước theo Chúa Kitô để chúng ta được sống hoàn toàn tự do trong ân sủng và tiếp tục bước đi vào vương quốc Thiên Chúa. Là con cái Chúa nhờ bí tích rửa tội, chúng ta phải tin Thiên Chúa và can đảm bước theo Người. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ. Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để sáng suốt khám phá ra âm mưu hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng. Hơn hết, chúng ta phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quyền năng và hay thương xót.
Hôm nay chúng ta được mời gọi để kiểm chứng lại tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, kiểm chứng lại cuộc chiến đấu của chúng ta với ma quỷ để phát hiện những thiếu sót trong tình yêu đáp trả của mình và sự cộng tác của chúng ta đối với ma quỷ. Chúng ta nhìn nhận những lỗi lầm của mình và kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta. Đồng thời chúng ta xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta quyết tâm sống xứng đáng hơn với ơn Chúa đã lãnh nhận, tin tưởng vào tình thương và quyền năng Chúa đang hoạt động mạnh mẽ trong tâm hồn chúng ta qua các Bí tích, nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể. Nơi Thánh Lễ và các bí tích Thiên Chúa không ngừng đổ tràn ân sủng của Người để tái tạo con tim yêu thương đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và không ngừng làm cho sự sống trong tâm hồn chúng ta luôn phát triển và đạt đến tầm vóc sự sống viên mãn trong Chúa Kitô, cho chúng ta tham dự vào sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa và ngay bây giờ nếm trước nguồn hạnh phúc bất diệt nơi Mình Máu Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con siêng năng chạy đến bí tích Giải tội và Thánh Thể, để chúng con mạnh mẽ tin vào quyền năng và tình thương của Chúa, để chúng con can đảm từ bỏ lối sống tội lỗi. Chúng con không còn phải sợ sệt hay lo âu vì thế lực ma quỷ đang chế ngự chúng con. Xin cho chúng con dám sống cho Chúa, dám thể hiện đức tin và lòng mến đối với tha nhân. Amen.
Chúa Giêsu thiết lập Vương Quốc của Ngài trên trái đất này.Nhưng Vương Quốc của Ngài lại là Vương TN4-B81 Dalat
Chúa Giêsu thiết lập Vương Quốc của Ngài trên trái đất này.Nhưng Vương Quốc của Ngài lại là Vương Quốc Tình Yêu chứ không phải một thế lực quyền uy như con người suy nghĩ, ước muốn. Chúa trao Vương Quốc này cho nhân loại, cho mỗi người Kitô thực hiện.
Tin Mừng của thánh Máccô hôm nay trình bầy về giáo huấn của Chúa Giêsu và việc Ngài chiến thắng thần dữ. Vâng, thánh Máccô cho hay Chúa Giêsu vào trong Hội Đường Do Thái, Ngài giảng dạy và mọi người đều sửng sốt, kinh ngạc về những lời Ngài giảng dạy, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không nói rỗng tuếch,đầu môi chóp lưỡi như các Biêt phái, Luật sĩ vv…Chúa Giêsu nhân dịp này, đã xua trừ ma quỷ, đã chữa lành cho một người bị thần ô uế quấy phá, ràng buộc.Ngài đã chiến thắng thần dữ.Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Ngài biểu lộ uy quyền qua việc làm, đời sống và lời giáo huấn, Ngài chạm đến từng nỗi đau của con người, Ngài cảm thông với mọi hoàn cảnh của từng người, đặc biệt Ngài chữa lành, xua trừ ma quỷ. Ngài đến với mọi lớp người, tiếp xúc với những kẻ nhỏ bé, những người thu thuế, những kẻ tội lỗi.Ngài xoa dịu cơn đói khát của những người đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy. Ngài thiết lập Vương Quốc Yêu Thương ngay giữa mọi người, ngay giữa thế gian này. Cung cách, thái độ của Ngài, gương sáng của Ngài hoàn toàn nổi bật và khác biệt với những Kinh sư, Biết phái…Những người này chỉ nói mà không làm, chỉ ra luật mà không thực hiện.Chính vì thế, họ chất gánh nặng trên vai những người khác, họ sống giả hình và đầy mâu thuẫn với lời của họ giảng dạy:” Ngôn hành của họ bất nhất “. Chúa Giêsu, Vị Vua nhân từ đến cứu độ nhân loại, giải thoát con người khỏi tội lỗi bằng tình yêu và lòng thương xót của Ngài…Chúa không đến như một Vị Vua trần gian, đầy uy quyền trần thế như nhiều người mong chờ.
Phép lạ Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ ra khỏi một người bị thần ô uế nhập trong Hội Đường chứng tỏ quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều đó, các Kinh sư, Biệt phái chỉ nhìn người bị quỷ ám mà run sợ, họ không thể xua trừ thần ô uế, họ bất lực và hoàn toàn bị tê liệt, bị bó tay trước sức mạnh của thần dữ…Lời của Chúa là Lời cứu rỗi, Lời có sức mạnh đem lại sự bình an và xua trừ ma quỷ. Còn lời của các Kinh sư chỉ là lời của phàm nhân, lời bất lực, lời không có uy quyền vv…
Chúa trao Nước Thiên Chúa, Nước Tình Yêu cho nhân loại, cho chúng ta để chúng ta và mọi người hoàn tất nó. Nhiệm vụ của chúng ta là phải hoàn thành trách nhiệm xây dựng Nước Yêu Thương ngay giữa thế giới, ngay giữa chúng ta, ngay giữa xã hội, tập thể, cộng đồng chúng ta đang sống…Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa, Nước Yêu Thương bị trì trệ ở thế gian này là do chúng ta chưa biết yêu thương, chưa biết nhận ra tha nhân là Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng đồng hóa mình với người đói, người khát, người rách rưới, nghèo hèn, rách rưới, tù tội vv…Nhận ra Chúa nơi những người khác, nơi tha nhân để yêu thương họ và nhận ra họ là tạo vật xinh đẹp được Chúa dựng nên, đáng được yêu thương như chính chúng ta đã được Chúa yêu thương, tha thứ, chúc lành. Là chúng ta đang hoàn thành Nước Tình Yêu giữa trần thế gian.
Chúa mời gọi chúng ta hãy biết dùng lời nói yêu thương, dùng những việc làm bác ái của chúng ta để xoa dịu những nỗi khổ đau của tha nhân vì chính tha nhân đã được Chúa dựng nên như chúng ta và cũng đang cần được chúng ta yêu thương như chúng ta đã được Chúa yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim rộng mở, một
tấm lòng quảng đại để chúng con luôn biết yêu thương mọi người và trở nên chứng nhân cho Nước Yêu Thương của Chúa.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Chúa chiến thắng thần dữ bằng cách nào ? 2.Tại sao Kinh sư và Biệt phái rao giảng, người khác không nghe, không phục ? 3.Hội Đường là gì ? 4.Chúa Giêsu muốn ai thực hiện Vương Quốc Tình Yêu của Chúa? 5.Tại sao lại gọi là thần dữ ?
Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà TN4-B82
Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người. Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa (x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)
Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.
Với những lẽ đó, khi cử hành bí tích Thanh Tẩy, nghi thức đầu tiên mà ta đón nhận đó chính là nghi thức trừ tà.
Có lẽ không để ý, lời nguyện trừ tà như thế này:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sai Con Một Chúa đến giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi và cho sống trong tự do của con cái Chúa, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa đây, khi đã nghiệm thấy những quyến rũ của trần gian và mưu mô ma quỉ cám dỗ, biết nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Con Chúa, xin Chúa cứu người này khỏi quyền lực tối tăm, và xin luôn luôn giữ gìn tôi tớ Chúa trên đường đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lời nguyện ấy chính là lời nguyện trừ tà mà linh mục chủ sự nguyện xin Thiên Chúa khi bắt đầu nghi thức Thanh Tẩy.
Vì sao thế? Vì con người sinh ra trong trần gian đã mang trong mình cái thân phận yếu đuối và tội tổ tông truyền để rồi xin ơn Chúa cứu con người ra khỏi quyền lực tối tăm.
Tiếp đến các phần trong nghi thức Thanh Tẩy, ta thấy có phần hết sức quan trọng là từ bỏ tà thần.
Linh mục chủ tế hỏi ta Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ tội lỗi không? Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? Ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?
Đáp lại 3 lần hỏi đó là 3 lần thưa: Thưa từ bỏ.
Sau khi ta từ bỏ tội lỗi rồi ta bước vào phần tuyên xưng đức tin để lãnh bí tích Thanh Tẩy.
Chính Chúa Giêsu trong thân phận làm người Ngài cũng đã phải chịu ma quỷ cám dỗ 40 đêm ngày trong sa mạc. Và cũng chính Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là "thủ lãnh thế gian này" (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian.
Hơn một lần, thánh sử Luca thuật lại chuyện Chúa Giêsu chịu thử thách, chịu cám dỗ của ma quỷ như thế này “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi!”. Và ta nghe Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”.
Cũng chưa yên, ma quỷ lại đem Người lên nơi cao cho Người xem thấy tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông mọi quyền lực và vinh quang của các nước này, vì tất cả đều là của tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy thuộc về ông!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi!”.
Cũng chưa xong, ma quỷ lại đưa Người lên nóc đền thờ Giêrusalem và bảo Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: ‘Chúa sẽ cho Sứ Thần gìn giữ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá’”. Sau khi cám dỗ đủ cách, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
Đúng như vậy bởi vì ma quỷ luôn luôn rình rập, chờ cơ hội để tấn công Chúa Giêsu. Không chỉ tấn công Chúa Giêsu nhưng còn tấn công tất cả mọi người khi có thể.
Trang Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại cho ta nghe câu chuyện khá hấp dẫn về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thành Capharnaum vào ngày nghỉ lễ và Chúa Giêsu đã vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Nghe như vậy, Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!"
Mọi người có mặt ngày hôm ấy hết sức ngạc nhiên và hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người".
Họ suy nghĩ như thế cũng dễ hiểu bởi lẽ họ không tin vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu và hơn nữa họ không tin vào quyền năng Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8, 26-39).
Chúa Giêsu đến thế gian và để lật đổ sự thống trị của Satan. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài: "Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ" (1Ga 3,8).
Không phải thời ông bà nguyên tổ, thời Chúa Giêsu mới có ma quỷ nhưng ngay trong thời của chúng ta, ma quỷ xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết.
Chúng xuất hiện trong những vẻ đẹp thật hoa mỹ, những lời mời rất bóng bẩy và những quyến rũ xem ra ta khó có thể từ chối được.
Rất giản đơn để nhận ra điều đó từ chuyện phim Tôn Ngộ Không.
Tác giả muốn cho ta thấy trong bản thân của con người có 4 hình ảnh của một con khỉ nghịch phá, một quỷ satan, một trư bát giới con heo ham mê ăn uống sắc dục và một Đường Tăng.
Thầy Trò lên Tây Trúc để thỉnh kinh. Trên đoạn đường dài đăng đẳng đi thỉnh kinh đó Đường Tăng không ít lần gặp rắc rối. Khi con quỷ nổi lên thì đủ những cám dỗ, khi con beo bát giới nổi lên thì ham mê ăn uống, khi con khỉ nổi lên thì nổi lên một con người ngông cuồng.
Tâm hồn, cõi lòng ta cũng thế như Thánh Phaolô nói: "Điều tôi biết là tốt tôi lại không làm mà điều tôi biết là không tốt tôi lại cứ làm". Con quỷ làm điều không tốt ngày đêm ẩn trong mình ta để xui khiến ta làm những điều không tốt. Con quỷ ấy luôn luôn tìm cách lấn ác tâm thiện mà Chúa tạo dựng, Chúa trao ban cho cuộc đời ta.
Ta vẫn biết vật chất, danh vọng, tiền bạc... là phù vân nay còn mai mất đấy nhưng ta cứ mãi đi tìm và cứ mãi ôm khư khư thật chặt trong đời ta. Nhưng, ta quên rằng khi ta nằm xuống xuôi đôi bàn tay thì tất cả đều phải bỏ lại cho người khác hưởng dùng và ta ra đi mãi mãi.
Danh vọng, xác thịt, cái nóng nảy, cái hơn thua, cái tôi của ta nó chẳng là gì cả nhưng cơn cám dỗ đi tìm nó và ta khư khư ôm chầm lấy nó.
Kinh nghiệm, bí quyết để Chúa Giêsu vượt thắng các cơn cám dỗ đó chính là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Nhờ kết hiệp với Cha, nhờ quyền năng của Cha mà Chúa Giêsu không chỉ thắng được ma quỷ mà còn trừ được ma quỷ nữa.
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thật hay: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Lời cầu xin đó như lời niệm khẩn thiết xin Chúa gìn giữ ta khỏi các cơn cám dỗ, để sống mật thiết với Chúa hơn. Ta hãy bám vào Chúa, hãy nài xin quyền năng Chúa tuôn đổ trên ta để gìn giữ ta khỏi sa chước cám dỗ và khỏi sự dữ. Amen.
Từ điển bách khoa wikipedia cho rằng theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con TN4-B83
Từ điển bách khoa wikipedia cho rằng theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có hình hài con người, sẽ gọi là "ma", "hồn ma", "thánh", "thần" hay "thiên sứ". Theo tín ngưỡng Việt Nam, trong con người có cái vật chất và tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm linh hồn. Người Việt cho rằng con người có 3 hồn, 7 vía (nam), còn nữ có 9. Như vậy khái niệm ma đơn giản chính là linh hồn và vía của con người không hại ai.
Cũng cuốn từ điển này cho rằng quỷ xuất phát từ tiếng Hán Gwei(鬼), dùng để gọi linh thể của những người đã chết. Theo quan điểm của người phương Đông, sau khi chết đi, linh hồn của con người sẽ đầu thai chuyển thế vào kiếp khác. Nhưng vì một lý do nào đó, linh hồn không thể đầu thai mà vẫn lưu lại trên thế giới vật chất thì được gọi là quỷ. Còn theo Do Thái Giáo: Quỷ là các thiên thần lạc lối. Các thiên thần đều thờ phụng Đức Chúa là Thiên Chúa, trong đó vị tổng lãnh Thiên Thần là Michael. Tuy nhiên, có một thiên thần khác tên là lucifer đã nổi dậy cùng 1/3 thiên thần khác để giành quyền thống trị với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giáng phạt tống xuống đất thành tưởng quỷ Lucifer hay còn gọi là Satan, nghĩa là Kẻ Chống Đối. Qủa thế, Thánh Kinh dạy rằng “Con Rắn xưa, mà người ta gọi là quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó” (Kh 12,9). Kinh Thánh chỉ cho thấy rằng quỷ là những thiên sứ sa ngã cùng với Satan nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời. Như vậy, rõ ràng người Công giáo khi nói đến quỷ là hàm ý chỉ đến Xa-tan và các thiên thần sa ngã. Mà Thiên thần là loài thiêng liêng được Thiên Chúa dựng nên. Như vậy, khi nói quỷ Thánh kinh không bao giờ ám chỉ đến các linh hồn người đã qua đời và quỷ không có hình hài nào cả. Cho nên, người ta thường nói “ma hiền quỷ dữ”.
Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh của các tà thần được mệnh danh là quỷ dữ. Qủy nó dữ không phải nơi bộ mặt hay hình dáng mà là nó luôn cám dỗ ám hại thân xác và linh hồn con người vì chưng chúng hy vọng khi làm hại được con người thì làm hại được Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa quyền phép hơn chúng, thấu hiểu hết âm mưu sảo quyệt của chúng và có thể tiêu diệt chúng bất cứ lúc nào. Cụ thể, Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của quỷ dữ chỉ bằng một lời phán: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! Tên qủy lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta".
Tuy là thời đại văn minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng quỷ hiện diện khắp nơi, và thậm chí ẩn mình nơi mỗi người chúng ta để cảm dỗ và gây ác hại cho tâm hồn và thể xác chúng ta. Chẳng hạn, quỷ kiêu ngạo, nó làm cho cái tôi của chúng ta lên cao để rồi mình coi ai không ra gì, không ai tốt bằng tôi, đạo đức như tôi...! Cho nên tôi sẵn sàng triệt hạ, dèm pha, chê bai, trách móc, chửi bới, xét đoán, trừng phạt kẻ khác mà quên rằng tôi là cũng là người “nhân vô thập toàn”, không có ai trên đời này hoàn hảo cả, chỉ có Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Thứ đến, con quỷ tham lam, mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta lam tham hay ăn uống thái quá đánh mất nhân tính và đánh mất tình người.
Ví dụ, ngày xưa chỉ vì ham lam tiền bạc mà Giuđa bán Chúa, là Thầy mình với giá chỉ 30 đồng bạc còn hôm nay vì ham tiền không bán người như Giuđa mà giết người luôn. Cụ thể, báo Zing điện tử đưa tin: sáng ngày 21/1, Nguyễn Văn Tiến đột nhập vào nhà để ăn trộm nhưng bị phát hiện liền giết cả gia đình ông Nguyễn Văn Cường (56 tuổi) tại thôn Ia Tang, xã Ia Kla, huyện Đức Cơ là người cùng làng với các nạn nhân. Hay mới đây Báo điện tử đưa tin: Anh Y del Ê-nuôi ở Đaklak nhậu xỉn ở quán nhậu, khi về nhà không thấy vợ đâu, anh đi tìm nhưng không gặp. Khi chị H’Bluân về thì 2 người nảy sinh mâu thuẫn, anh chồng đấm 2 cái vào mặt và đạp vào bụng vợ. Thấy vậy, chị H’Bluân liền vùng dậy bỏ chạy ra trước cổng. Anh ta đuổi theo rồi đấm đá liên tiếp vào mặt, lưng, đầu làm chị H’Bluân ngã xuống bất tỉnh. Được gia đình đưa đi cấp cứu nhưng chị đã tử vong do chấn thương sọ não, xuất huyết não. Con qủy tham lam đã làm hại đời người đáng sợ thay! Cho nên, Chúa Giêsu luôn nhắc bảo chúng ta rằng: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu" (Lc 12, 15).
Rồi trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy chúng ta hãy khử con quỷ khoái lạc nơi chúng ta bằng cách hãy ăn ở tiết độ: Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, còn người có vợ thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng vợ. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng chồng”. Còn, Thánh Phêrô dạy rằng “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5,8-9).
Dù quỷ có hung ác đến cỡ nào, Chúa Giêsu vẫn trừ và loại chúng ra khỏi thân xác và tâm hồn của anh chàng thanh niên xưa và ngay cả chúng ta hôm nay. Vì chưng, Chúa là Đấng có thẩm quyền và Lời của Ngài có uy quyền trên các thần ô uế chứ không như các kinh sư. Vì vậy, chúng ta hôm nay, dù quỷ dữ đến và cám dỗ chúng ta dưới hình thức nào, chúng ta vẫn loại trừ được chúng nhờ có Lời và Thánh Thể Chúa Giêsu. Trên trần gian Chúa Giêsu đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Ngài trên thập giá. Xem như quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Chúa Giêsu sự chiến thắng vẻ vang. Vì vậy, trong mỗi Thánh lễ đều tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại, Chúa chúng ta chiến thắng quỷ dữ. Vậy, nhờ Thánh lễ chúng ta cử hành, nhờ việc sống Lời Chúa mỗi ngày, chắc chắn chúng ta được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi quỷ ra khỏi tâm hồn và cuộc sống của mỗi người hầu tâm hồn chúng ta thật sự là đền Thánh Đức Chúa Trời ngự và cuộc sống chúng ta đầy ấp tình Chúa và tình người.
Lạy Chúa, xin thăm viếng chúng con, và đuổi xa mọi âm mưu ma quỷ. Xin sai thiên thần Chúa đến ở đây, để gìn giữ chúng con bình an, và xin tuôn đổ phúc lành trên chúng con luôn mãi. Amen.
Những câu chuyện chung quanh chữ tín gần đây đã làm cho nhiều người dở khóc dở cười, ảnh TN4-B84
Những câu chuyện chung quanh chữ tín gần đây đã làm cho nhiều người dở khóc dở cười, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống người giáo dân. Đó là câu chuyện tín dụng, chuyện giật hụi, chuyện biển thủ... Tất cả đều là những hình thức lợi dụng chữ tín để lừa đảo, để lường gạt. Nó cho thấy ngoài sự lỏng lẻo về cung cách quản lý của nhà nước, còn có một sự khủng hoảng về chữ tín, về niềm tin, một sự sút giảm về phương diện đạo đức trong xã hội. Đạo đức trở thành thứ yếu trên bậc thang giá trị của những liên hệ giữa người với người. Vậy thì chúng ta phải làm gì để lấy lại niềm tin, để dựng lại chữ tín.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ rao giảng của mình tại Capharnaum. Nội dung và cung cách rao giảng của Ngài xuất phát từ cơ sở của chính bản thân Ngài chứ không dừng lại ở những điều đã học trong sách vở, trong truyền thống như bọn luật sĩ và biệt phái. Giáo lý của Ngài làm cho nhiều người tin tưởng và tuân theo. Lời của Ngài đã được đón nhận như là lời của Đấng có thẩm quyền.
Thâm quyền đó khởi đầu từ cuộc đời hội nhập với nhân loại trong đêm giáng sinh, chấp nhận cắm lều ở giữa con người. Ngài đến không phải để đàn áp, dùng quyền lực khuất phục người khác, làm cho người khác phải tin theo. Ngài cũng không dùng ngay cả những quyền năng của mình để lôi cuốn, hấp dẫn để họ tin tưởng một cách mù quáng vào Ngài. Thẩm quyền của Ngài thể hiện qua lời rao giảng, rao giảng cách nhưng không bằng chính tình thương của Thiên Chúa, xác tín con đường cứu độ của mình và chấp nhận mọi gian nan thử thách cho đến chết và chết trên thập giá.
Giá trị mới trong mối tương quan giữa người với người cần phải được xây dựng trên chữ tín, một thái độ xuất phát từ chính bản thân mình, như một người có thẩm quyền chỉ biết sống yêu thương và phục vụ, thầm tin tưởng rằng: Phẩm giá của mình và của mọi người là cao quý. Do đó cần phải chung lưng hợp tác với nhau để giải quyết những khó khăn trong đời sống, chứ không phải tìm cách lừa dối nhau, bon chen tranh dành phần lợi cho mình trên sự thiệt thòi của người khác.
Chúa Giêsu đã lấy chính bản thân mình làm bảo chứng cho niềm tin, còn chúng ta thì sao? Con người chúng ta có phải là một bảo chứng cho niềm tin, hay là chúng ta cũng chỉ là một phường lừa gạt dối trá mà thôi, để rồi một sự thất tín vạn sự chẳng tin. Và cuối cùng, không còn một ai dám đặt niềm tin tưởng nơi chúng ta nữa.
Chưa bao giờ ma quỷ mạnh thế như ngày hôm nay. Quyền lực ma quỷ đang bao trùm khắp thế TN4-B85
Chưa bao giờ ma quỷ mạnh thế như ngày hôm nay. Quyền lực ma quỷ đang bao trùm khắp thế giới. Hiện nay, ma quỷ chi phối, lôi kéo, lèo lái rất nhiều người theo chúng. Có cả một tôn giáo mới được lập nên để tôn thờ Sa-tan gọi là đạo thờ Sa-tan và các tín đồ của đạo nầy quyết tâm phá hại đạo thánh Chúa và triệt hạ lòng đạo đức.
Hiện nay ma quỷ xem ra đang thắng thế trên khắp địa cầu. Chưa bao giờ tội lỗi lan tràn khắp chốn như ngày hôm nay: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn. Một trong những mối lo của xã hội hôm nay là càng ngày thanh thiếu niên phạm pháp càng nhiều, ngay cả những thiếu nhi ở độ tuổi học trò cũng ra tay giết người cách thản nhiên như giết một con thằn lằn, không mảy may xúc động. Đời sống đạo đức khắp nơi trên thế giới đang suy đồi khủng khiếp. Một trong những tội lỗi đáng sợ là tệ nạn tình dục đồng phái và hôn nhân đồng tính: người nam quan hệ tình dục với nam, nữ quan hệ tình dục với nữ, rồi những cặp nầy đòi sống chung và đòi được pháp luật công nhận họ như một gia đình. Làm như thế là tuyệt nòi tuyệt giống. Làm như thế là sa đoạ hơn cả dân thành Sôđôma và Gômôra ngày xưa.
Những điều nói trên chứng tỏ ngày nay ma quỷ đang thắng lớn và nếu không có một mặt trận tinh thần chống lại thì nguy cơ huỷ diệt của loài người ngày càng chắc chắn. Điều khôn khéo của ma quỷ là chúng thường ẩn mặt, không mấy khi lộ diện nên nhiều người lầm tưởng chúng không hiện hữu trên đời. Ma quỷ ngày nay ít xuất đầu lộ diện hơn thời trước.
Cách đây vài chục năm, có một con quỷ nhập vào một phụ nữ tại giáo xứ Bảo Toàn, thuộc giáo phận Xuân Lộc, khiến cho giới trẻ khiếp sợ nên siêng năng đến nhà thờ đông đúc không nơi nào có. Hễ đến giờ lễ giờ kinh là thanh niên nam nữ vào chật cứng nhà thờ.
Khi người ta biết có ma quỷ hiện diện, người ta khiếp sợ chúng, ắt người ta chạy đến với Chúa khiến ma quỷ khó làm ăn. Thế nên ma quỷ hôm nay tinh khôn hơn. Chúng rất ít khi xuất đầu lộ diện, nhưng luôn ẩn mặt dấu mày, đứng trong bóng tối và dùng ma lực của chúng điều khiển, xui khiến người ta phạm tội như ta sử dụng remote để điều khiển màn hình TV.
Vì lầm tưởng ma quỷ không hiện hữu nên không mấy ai đề phòng mưu thần chước quỷ của chúng. Và khi người ta không đề phòng thì ma quỷ càng dễ chi phối điều khiển con người làm nô lệ cho chúng.
Khí giới độc hại ma quỷ thường dùng là phim ảnh xấu, sách báo xấu, âm nhạc đồi truỵ, những điệu vũ khiêu dâm, nạn mua bán dâm tràn lan khắp nơi dưới mọi hình thức.
Chúng còn tạo ra những mốt thời trang hở hang gợi dục, xui khiến giới trẻ mặc những kiểu áo quần thiếu vải. Nhiều bạn gái trẻ lòng non dạ, hăm hở chạy theo mốt thời trang thiếu đoan trang nầy và vô tình trở thành những người tiếp tay cho ma quỷ trong việc làm băng hoại giềng mối đạo đức và tiết hạnh.
Lấy gì để xua đuổi, để diệt trừ quyền lực Sa-tan?
Người ta không thể tưới xăng đốt chúng, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy chúng được.
Thậm chí người ta không thể dùng bom đạn, vũ khí hoá học, bom vi trùng, bom nguyên tử để tiêu diệt chúng vì chúng vô hình.
Chỉ có phương thế duy nhất để tẩy trừ chúng ra khỏi tâm hồn và trí não là cậy nhờ vào lời quyền năng của Thiên Chúa.
Hãy dùng Lời Chúa để xua quỷ khỏi tâm hồn mình.
Tin mừng Mác-cô thuật lại: Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! "Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.” (Mác-cô 1, 21-27)
Quả là Lời Chúa Giê-su có sức mạnh vạn năng.
Trước nấm mồ của La-da-rô đã chết đến bốn ngày, Chúa Giê-su đã dùng lời quyền năng của Người mà phán: “Ladarô! hãy ra ngoài!” thì người chết liền đội mồ sống lại.
Khi cùng các môn đệ chèo thuyền trên biển, sóng gió bão táp nổi lên tư bề, Chúa Giê-su cũng dùng lời truyền lệnh cho bão tố và sóng gió liền lặng im.
Khi trong hội đường có người bị quỷ nhập, Chúa Giê-su đã dùng lời truyền khiến: “Hãy xuất khỏi người nầy” và quỷ phải xuất ra.
Chỉ có lời quyền năng của Chúa Giê-su mới có thể đẩy lùi quyền lực ma quỷ và xua trừ chúng khỏi lòng người.
Vậy chúng ta hãy quý trọng lời Chúa Giê-su và vận dụng lời Người để thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi mọi tham vọng xấu xa, khỏi những ước muốn đê hèn; loại trừ khỏi cuộc đời chúng ta những hành vi gian ác.
Một khi Lời quyền năng của Chúa Giê-su đã thanh luyện cuộc đời và làm cho tâm hồn chúng ta được bừng sáng nhân đức thì quyền lực của ma quỷ sẽ từng bước bị đẩy lùi và vương quốc Chúa Giê-su ngày càng lan rộng trong tâm hồn, trong gia đình và trong xứ đạo chúng ta.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Cả hội đường đều ngạc nhiên về lời giảng và lời trừ quỷ của Đức Giêsu. Tại sao họ kinh ngạc? Họ TN4-B86
Cả hội đường đều ngạc nhiên về lời giảng và lời trừ quỷ của Đức Giêsu. Tại sao họ kinh ngạc? Họ kinh ngạc thấy Đức Giêsu là một thường dân, không có địa vị đạo đời, không phải tư tế, giáo trưởng, luật sĩ, biệt phái hay quan chức. Người chỉ là thứ dân, thợ mộc làm công, làm mướn, dám đứng lên đăng đàn thuyết pháp trước một cử tọa đông đủ các nhân vật quan trọng của một thành phố sầm uất phồn thịnh như Caphanaum.
Người ta càng kinh ngạc hơn nữa trước những lời đầy uy quyền. Lời Người thật khác xa lời của các luật sĩ, giáo trưởng, tuy họ rất thông thạo tập tục, luật lệ kinh điển tiền nhân và các tiên tri, nhưng họ chỉ biết giải thích tỉ mỉ, khô khan theo mạch chữ chết, một cách nhồi sọ máy móc vô hồn. Phần Đức Giêsu, Người dạy một đạo lý mới, đạo lý phát xuất từ tâm tư sống động, từ lòng xác tín mãnh liệt, từ chính cuộc sống sung mãn của con người, cuộc sống tôn giáo thâm sâu huyền diệu, cuộc sống linh thiêng hài hòa với kinh nghiệm sống đạo thực tế của chính bản thân. Người tô điểm lời đạo lý bởi trời bằng nhiều cảnh sắc thiên nhiên phong phú. Bất cứ ai lắng nghe học hỏi, đều nắm bắt ý nghĩa đích thực vừa ý mình. Lời đạo lý của Người chứa ẩn nhiều kho tàng quý giá, ai mộ mến tìm tòi, suy gẫm, chiêm niệm đều được sống sung mãn dồi dào.
Tuy nhiên, Người trình bày ý tứ rất đơn sơ trong sáng, hợp với mọi tâm trí người ta. Do đó, họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa đang bao trùm khắp muôn dân, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, sang hèn, thống trị hay nô lệ, Do thái hay Hy lạp. Tất cả đều là anh em, con một Cha chung trên trời. Lời Người đang đổ tràn vào lòng họ tình yêu vô biên trong một thế giới đầy chia rẽ, hận thù. Họ cảm động trước lòng nhân từ của Thiên Chúa bao dung, đầy lòng thương xót hết mọi tội nhân, như mục tử tốt lành đi tìm chiên lạc giữa sói rừng. Lời Người làm cho họ sống lại, thoát khỏi sự chết dưới ách tội lỗi và gông cùm quỷ dữ. Lời Người khiến quỷ dữ đang trói buộc, ám hại con người phải thét lên tuyệt vọng: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi”. Lời Người là lời cực thánh đầy sức mạnh thánh hóa khiến quỷ không chịu nổi sự thánh thiện của Người, nên chúng phải thốt ra, tuyên xưng cho mọi người biết: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô chỉ được đưa lên tầng trời thứ ba thôi, thế mà không thể tả được những sự lạ lùng ông thấy. Ông chỉ kêu lên: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm thấy bao giờ”. Người dưới đất kể chuyện trên trời còn lạ lùng như vậy. Huống chi lời người trên trời giảng những sự trên trời còn tuyệt diệu biết bao! Đến nỗi thánh Marcô chỉ có thể tả lại sự xúc động tột độ của thính giả bằng tiếng: thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên - Mọi người đều kinh ngạc.
Họ kinh ngạc, nhưng họ chưa nhận ra được tại sao lời Người đầy uy quyền, lời Người trừ khử quỷ dữ?
Lời Người đầy uy quyền vì lời Người là lời của Thiên Chúa, chứ không phải của các kinh sư hay của vua chúa phàm trần. Lời Người cứu chữa kẻ bị quỷ ám, trừ khử quỷ dữ vì lời Người là lời Thiên Chúa. Đây thực sự là điều rất kinh ngạc: Thiên Chúa đã đến ở cùng loài người. Loài người không còn xa lạc Thiên Chúa nữa, không còn dưới ách tội lỗi, dưới ách sa tan. Loài người không còn chết nữa, loài người sẽ được sống vinh quang trong gia đình Thiên Chúa, nếu họ nhận biết và thực thi lời Người, sống hòa hợp và yêu mến Người.
Nếu chúng ta giống như người Do thái chỉ ngạc nhiên thấy vẻ uy quyền bề ngoài của Đức Giêsu như xem xiếc, xem kịch, thì thật vô ích và đáng thương.
Thực ra, bây giờ chúng ta không được trực tiếp mắt thấy, tai nghe những việc lạ lùng cụ thể của Đức Giêsu nên không còn ngạc nhiên như người Do thái xưa. Nhưng chúng ta hơn người Do thái, đã được phúc học hỏi biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng quyền năng thánh thiện vô cùng. Lời Người là lời hằng sống, lời cứu độ muôn dân. Chúng ta càng phải có trách nhiệm đón nhận lời Người để lời Người như nguồn mạch sự sống càng uống càng làm chúng ta mãn nguyện thỏa thuê. Lời Người như “hạt giống tốt gieo vào lòng chúng ta sinh hoa kết quả, hạt được một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi” (Mt. 13, 8). Sinh hoa kết quả cho mình và cho mọi người, như bài đọc một, đòi chúng ta phải thực hiện làm ngôn sứ loan truyền lời đầy uy quyền của Chúa cho mọi người được giáo lý mới, được Đấng Thánh của Thiên Chúa đến giải thoát họ khỏi vòng tội lỗi của quỷ dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vào hội đường giảng dạy, xin Chúa vào giảng dạy trong lòng con, cho con thấm nhuần giáo lý mới của Đấng Thánh. Chúa đã rảo khắp các làng mạc, thành phố (Mc. 1, 9 Lc. 4, 43), xin cho mọi Kitô hữu trở nên những ngôn sứ biết loan truyền lời Chúa cho muôn dân được thấy ánh huy hoàng rực rỡ soi sáng cho họ thoát khỏi cảnh đời lầm than của bóng tối tử thần. Allêluia.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Máccô cho rằng phép lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện là trừ TN4-B87
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Máccô cho rằng phép lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện là trừ quỷ. Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang theo Vương quốc Thiên Chúa vào trần gian, Vương quốc "công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần". Và như thế, quyền năng cụ thể, rõ ràng và tuyệt đối mạnh mẽ của Đức Giêsu đã phá hủy vương quốc Satan; vương quốc sự ác, sự dữ…
Có bao giờ đời sống lại tiện nghi như hôm nay chưa nhỉ? Đủ các loại phương tiện phục vụ đời sống mỗi ngày… các phương tiện giải trí, các phương tiện truyền thông xã hội… Có lẽ chưa bao giờ trái đất lại thu hẹp đến như thế. Chỉ cần bật một nút tivi lên, các thông tin trên khắp thế giới được tường thuật. Chỉ cần nhấc máy điện thoại lên, một người từ bán cầu này có thể nói chuyện với một người ở bán cầu khác, v.v…
Nhưng có bao giờ đời sống nhiều lo âu như hôm nay không nhỉ? Đủ loại các phương tiện "làm hư" con người: xì ke, ma túy, mại dâm, tội ác, bạo lực… và mọi hình thức sự dữ rình rập đè bẹp con người. Tất cả những thứ "làm hư con người" đó đồng nghĩa với vương quốc Satan, một vương quốc đang càng ngày càng bành trướng, bất chấp mọi nỗ lực đang cố "làm sạch".
Còn hơn thế nữa, ngay trong con người, có một vương quốc sự dữ đang hoành hành. Thánh Gioan nói đó là "dục vọng của bản tính đam mê, của đôi mắt, và sự kiêu căng vì tiền bạc" (1Ga 2,16). Những đam mê, dục vọng đó hoành hành khắp nơi.
Thế gian và con người cần được Thiên Chúa giải thoát. Đức Giêsu đã đến với Vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Nơi nào có Thiên Chúa hiện diện, nơi đó là chính Nước Thiên Chúa, nơi đó có sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Mỗi ngày, trong Thánh lễ, lời cầu chúc "Chúa ở cùng anh chị em"; "bình an của Chúa ở cùng anh chị em" được gởi tới từng anh chị em như lời mời gọi xây dựng Nước Thiên Chúa. Xin Chúa ở cùng chúng ta, bình an của Chúa ở cùng chúng ta để giải thoát chúng ta "khỏi mọi sự dữ". Amen.
Lạy Chúa Giêsu, Chỉ có Chúa là Đấng giải thoát chúng con khỏi vương quốc của sự dữ. Xin Chúa cũng đồng hành với chúng con trên bước đường đời Và cùng chiến đấu với chúng con trong cuộc chiến hằng ngày.
Có hai vợ chồng kia đã nhiều lần nghi ngờ xét đoán nhau. Lần này đang lúc tranh cãi hăng say TN4-B88
Có hai vợ chồng kia đã nhiều lần nghi ngờ xét đoán nhau.
Lần này đang lúc tranh cãi hăng say, người chồng bèn đề nghị:
“Này chúng ta đừng cãi nhau nữa, mỗi người hãy lấy giấy bút ra, rồi viết tất cả những lỗi lầm tật xấu của nhau, rồi trao cho nhau”
Người vợ đồng ý liền, người chồng cầm tờ giấy, nhìn vợ rồi cúi xuống viết.
Người vợ thấy chồng viết, cũng hối hả viết và kể lể hết mọi sự xấu xa của chồng, người vợ viết xong xem ra hả dạ.
Sau đó họ trao bản kết tội cho nhau.
Khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt vợ bổng đổi sắc vì xúc động, chị vội vã đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng, và có thái độ làm hòa.
Trong tờ giấy, người chồng chỉ viết một câu duy nhất: “Em à, Anh yêu em, đừng giận anh nữa!”
Có lẽ ai trong chúng ta cũng hiểu sức mạnh của lòng thương xót. Lòng thương xót chữa lành. Lòng thương xót mang lại bình an hạnh phúc. Lòng thương xót gìn giữ ngọn lửa tình yêu cho các gia đình.
Gia đình nếu không có lòng thương xót sẽ gây gỗ, bất hòa, nghi kỵ, hiểu lầm nhau. Gia đình không có lòng thương xót là một hỏa ngục tại thế. Vì sống bên nhau nhưng không hiểu nhau, không đối thoại được với nhau sẽ làm cho đời sống chung ngột ngạt và đau khổ.
Tin mừng Chúa Giê-su loan báo là tin mừng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho con người. Lòng thương xót của Chúa đã đích thân đi tìm con người. Lòng thương xót ấy chữa lành, xoa dịu nỗi đau cho con người. Lòng thương xót đẩy lùi sự dữ và mang lại bình an cho nhân thế.
Nhìn vào những việc làm của Chúa Giê-su người Do Thái cũng thấy nơi người toát lên lòng thương xót. Lòng thường xót chính là một giáo lý mới mẻ và đầy uy quyền mà người Do Thái ngỡ ngàng cảm phục. Chúa Giê-su không nói về sự công thẩm của Thiên Chúa mà trọng tâm rao giảng của Chúa là về tình thương của Ngài. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mô tả không phải là vị thẩm phán, nhưng là người cha giầu tình thương. Một Thiên Chúa không phân biệt giữa dân tộc này hoặc dân tộc nọ. Một Thiên Chúa không quan tâm đến của lễ toàn thiêu cho bằng con người thương yêu đùm bọc nhau. Một Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta trong quan hệ cha-con, chứ không phải là vua-tôi. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng là một Đấng trung tín, từ bi và nhân hậu. Ngài chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả, sẵn sàng đón nhận tất cả.
Năm nay với chủ đề “gia đình hãy là dấu chỉ Lòng thương xót” cụ thể là đồng hành cùng gia đình trẻ như là tiếng mời gọi các gia đình hãy tham gia vào sứ mạng của Hội thánh, rao truyền một nền văn minh tình thương và sự sống. Bằng tình thương chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi nền văn hoá bạo lực và chết chóc đang lan tràn chung quanh chúng ta. Vợ chồng hãy đối xử từ bi nhân ái với nhau. Cha mẹ hãy sống bao dung với con cái. Người trong xứ đạo hãy sống hòa hợp với nhau. Đây chính là sức mạnh của lòng thương xót mà người Do Thái đã nhìn ra nơi Chúa Giê-su như Đấng có đầy uy quyền. Bởi vì, uy quyền của Ngài đến từ lòng yêu thương, tinh thần phục vụ khiến mọi con tim thán phục, cảm mến.
Ước mong bóng tối sẽ bị đẩy lùi khi mỗi người tín hữu hãy thắp sáng lên tình yêu của Lòng thương xót ngay từ mái ấm gia đình mình. Xin cho các người cha người mẹ đừng lấy quyền mà áp đặt con cái nhưng biết thể hiện uy quyền của mình qua tình thương quan tâm dành cho con cái. Xin cho các đôi vợ chồng không đối xử hơn thua nhau nhưng bằng tình thương phục vụ mà khiêm tốn phục vụ lẫn nhau. Xin cho các đôi vợ chồng biết sống lòng thương xót để mái gia đình ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Amen.
Hoàng đế César Augusto của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La TN4-B89
Hoàng đế César Augusto của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch.
Nhưng trong triều đại của César Augusto, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến la Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất.
Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật.
Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
***
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh nngạc, vì: “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc 1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân: “Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi” (Mt 5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích Kinh thánh mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là “Giáo lý mới mẻ”. Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là: “Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy n iệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
G. Courtois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối, men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng”, của những người sống Lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Jacques Delarue viết: “Mọi phần tử trong Giáo Hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc: “Hãy ra đi bình an”. Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật”.
Sống Lời Chúa chính là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:
“Lời Chúa là đèn soi cho con bước, Là ánh áng chỉ đường cho con đi” (Tv 118, 105)
Lạy Chúa, qua Kinh Thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con; qua Bí tích Giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con; qua Bí tích Thánh Thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen.
Quỷ dữ hay Satan là loại Thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa phạt trong Hỏa ngục. Nhưng Thiên TN4-B90
Quỷ dữ hay Satan là loại Thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa phạt trong Hỏa ngục. Nhưng Thiên Chúa vẫn cho chúng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử.
Chúng thường xuyên cám dỗ con người. Nếu cậy vào sức mình, thì con người không phải là đối thủ của chúng. Ngay từ khi con người mới xuất hiện, Nguyên tổ chúng ta đã thua chúng. Và cứ như thế, theo dòng lịch sử, con người luôn bị Quỹ dữ quấy phá, xúi giục phạm tội để làm nô lệ cho chúng. Cuộc chiến giữa con người và quỷ dữ vẫn còn tiếp tục mãi cho tới Tận thế.
Ngày hôm nay, ít khi chúng ta chứng kiến cảnh Quỷ dữ công khai làm hại con người, nhưng chúng vẫn hiện diện và làm hại con người qua sự dữ, sự ác, sự tội. Chúng dụ dỗ, quyến rũ con người dưới nhiều chiêu thức khác nhau. Ngày 3 tháng 10 năm 2015, khi nói chuyện với các Hiến Binh Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng “Satan là một kẻ dụ dỗ, nó gieo những nguy hiểm tiềm ẩn và dụ dỗ với đầy sự quyến rũ, và sự quyến rũ ma quỷ này khiến anh em tin mọi thứ. Nó biết cách làm thế nào để rao bán thật quyến rũ, nó bán rất chạy, và cuối cùng người ta phải trả giá rất cao!”. Trong các bài giảng của mình, Đức Phanxicô còn đưa ra các chiêu thức cụ thể mà Ngài cho là Quỷ dữ đang hoạt động nơi con người.
Đó là khi con người không dám tuyên xưng Đức Kitô. Ngài nói: “Khi một người không tuyên xưng Đức Kitô, người đó sẽ tuyên xưng sự trần tục của ma quỷ.”
Đó là khi con người rơi vào tình trạng bi quan trong cuộc sống. Ngài nói: “Chúng ta đừng bao giờ để mình rơi vào tình trạng bi quan, hay cay đắng là những điều ma quỷ đưa đến cho chúng ta hàng ngày.”
Đó là khi con người ghen tương, tham vọng, chia rẽ hay tham lam. Ngài nói: “Ma quỷ có hai vũ khí rất mạnh để tiêu diệt Giáo hội: đó là chia rẽ và tiền bạc... ma quỷ gieo trong lòng người sự ghen tương, tham vọng, và các ý tưởng chia rẽ hay tham lam. Nó gieo vào lòng người một cuộc chiến bẩn thỉu, gây ra chia rẽ như chủ nghĩa khủng bố.”
Đó là khi con người ngồi lê đôi mách, nói xấu nói hành nhau. Ngài nói: “Ẩn sau những lời đồn thổi là sự đố kị và ganh ghét. Những câu chuyện ngồi lê đôi mách này chia rẽ cộng đoàn, phá hủy cộng đoàn. Buôn chuyện là một vũ khí rất hiệu quả của ma quỷ.”
Ngoài ra, Đức Phanxicô còn cho biết: “Ma quỷ đang tấn công dữ dội vào các gia đình, là nơi ma quỷ không muốn tình yêu được thể hiện và chúng đang tìm cách để phá hủy tình yêu…”. Ngài còn cho biết thêm: “Ma quỷ không bao giờ chịu đứng im nhìn sự thánh thiêng và tốt lành của Giáo hội hay của mỗi chúng ta mà không cố tìm cách phá hủy sự tốt lành đó.”
Vậy, trước các hoạt động Quỷ dữ đang tấn công con người, chúng ta phải làm gì để đối phó với chúng? Đức Phanxicô dạy chúng ta là đừng bao giờ đối thoại với chúng mà hãy dùng Lời Chúa để đối phó với chúng. Ngài nói: “Hãy xem cách Đức Giêsu đáp trả lại [những cám dỗ]: Người không đôi co với Satan, như Eva trong vườn Địa đàng. Đức Giêsu biết rất rõ rằng con người không thể dùng miệng lưỡi đôi co lại với Satan vì hắn rất xảo quyệt. Vì vậy, thay vì tranh luận với hắn như Eva xưa, Chúa Giêsu đã chọn cách vững chắc là dùng Lời Chúa để đáp lại ma quỷ với uy quyền của Lời Người. Chúng ta hãy ý thức điều này mỗi khi chúng ta bị cám dỗ …: Đừng đối thoại với Satan, nhưng hãy dùng Lời của Chúa để bảo vệ chúng ta. Và Lời Người sẽ cứu thoát chúng ta.” (Nguồn Lời giảng của Đức Phanxicô sưu tầm trên Internet).
Chúng ta nhớ lại biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc (x. Lc 4,1-13): khi Satan dùng danh, lợi, thú để cám dỗ Ngài, Ngài đã dùng Lời Chúa để chiến đấu với nó và lần đầu tiên, Satan đã thất bại thảm hại. Đức Giêsu đã chiến thắng lẫy lừng. Bởi Ngài không chiến đấu do sức lực của con người nhưng chiến đấu do sức mạnh của Thần linh đến từ Lời của Thiên Chúa. Từ đó, Satan luôn luôn bị Đức Giêsu khuất phục. Tin mừng Thánh Marcô hôm nay cho chúng ta biết (x. Mc 1,23-28): Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa.” Đức Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu trừ quỷ.
Đọc Tin mừng cho chúng ta thấy nhiều lần nhiều nơi, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Ngài để trừ quỷ (x. 1,34.39; 3,11-12). Chẳng hạn, Ngài cho cả một đạo quân Quỷ dữ nhập vào đàn heo và cả đàn heo lăn xuống biển mà chết (x. Mc 5,1-20); Ngài chữa người bị quỷ ám mắc chứng bệnh động kinh (x. 9,14-29). Không những Ngài trực tiếp trừ quỷ mà Ngài còn gián tiếp giúp con người thoát khỏi ách thống trị của chúng như chữa lành bệnh tật, tha thứ tội lỗi: Ngài cho kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được, kẻ điếc được nghe, kẻ què đi được, người mắc bệnh phong được khỏi; Ngài tha tội cho kẻ bất toại, người phụ nữ ngoại tình, những người thu thuế và các cô gái điếm…giúp họ thoát khỏi sự kìm kẹp của Quỷ dữ để họ được gia nhập với cộng đoàn. Vì theo quan niệm của người Do thái thì bệnh tật, tội lỗi là do Quỷ dữ gây ra.
Như vậy, Đức Giêsu có quyền trên Quỷ dữ, Ngài luôn chiến thắng chúng. Vì vậy, chúng ta muốn chiến thắng Quỷ dữ thì cần phải nhờ ơn Chúa giúp. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc ăn chay và cầu nguyện. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc đọc, suy gẫm và sống Lời của Ngài, vì “Lời của Ngài có uy quyền”. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc từ bỏ ý riêng để tuân phục ý Chúa. Tuân phục thánh ý Chúa bằng cách chu toàn bổn phận đấng bậc mình, sống gắn bó với Chúa như lời Thánh Phaolô căn dặn trong bài đọc II hôm nay: “Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình.” (1Cr 7, 32-34).
Lạy Chúa, Quỷ dữ luôn tấn công chúng con với nhiều chiêu thức khác nhau. Tự sức chúng con không thể thắng được chúng. Vì vậy, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống khăng khít với Chúa để nhờ đó chúng con mới có thể thắng được mọi cơn cám dỗ của Quỷ dữ. Amen.
Hoàng đế César Augustô đã biến La mã từ những đổ nát thành một La mã nguy nga tráng lệ, với TN4-B91
Hoàng đế César Augustô đã biến La mã từ những đổ nát thành một La mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà lộng lẫy đồ sộ.
Nhưng ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu nhỏ bé đã làm chấn động cả thế giới và thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu sinh ra nghèo hèn trong một làng xa xôi hẻo lánh đã biến cả La mã khổng lồ của ông thành một vương quốc vĩ đại. Ông đâu ngờ các thần mInh ông tôn thờ phải lui bước, nhường chỗ cho một Thiên Chúa toàn năng, khiến ma quỷ phải khâm phục và mọi người tôn vinh.
--------
Đó là sức mạnh siêu phàm của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện và biểu hiện uy quyền của Người qua lời giảng dạy mới mẻ, qua sự kính phục của ma quỷ, và qua lòng ngưỡng mộ của mọi người: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo” (Mc.1,28).
Chính “giáo huấn mới mẻ: làm cho mọi người nhìn nhận Người là Đấng cứu thế; thẩm quyền của Người khiến ma quỷ phải kính phục, và việc ma quỷ tuân phục Người nói lên vương quốc cứu độ của Người đã đến với loài người.
Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, nhận ra quyền năng của Người tác động trong cuộc đời chúng ta, làm cho nó sinh bông kết trái thiêng liêng hằng ngày G.Coutois đã khẳng định:
“Nếu chúng ta biết sống Lời Chúa trong môi trường hằng ngày, chúng ta sẽ âm thầm trở nên muối và men cho cả nhân loại, vì ánh sáng của người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều.”
“Lời Chúa là đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv.118). (Theo “Như Thầy đã yêu”).
2. Sức mạnh của Lời Chúa
Đi khắp nước Phi-luật-tân, đâu đâu cũng thấy nhan nhản những câu Lời Chúa, nhắc nhở mọi người nhớ Chúa, nhất là đem ra thực hành trong đời sống. Sở dĩ ở Phi-luật-tân có được điều đó là vì số Kitô hữu chiếm hơn 90 phần trăm dân số.
Những lời Chúa đó khích lệ, động viên các tín hữu Phi-luật-tân hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh của từng giây từng phút sống. Lời Chúa có sức mạnh cải biến con người như thư Do-thái nói:
“Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hiện hữu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tìnhcũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
--------
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sức mạnh của Lời Chúa luôn tác động mọi loài mọi vật và phát sinh hiệu lực như ngôn sứ Isaia nói:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về với trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta cũng vậy. Một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”.
Là đồ đệ Chúa và là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời chúa vào tâm hồn chúng ta và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Đó là cách tốt nhất để loan báo Chúa Kitô cho anh chị em xung quanh, vì loan báo bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. (Theo “Ánh Sáng thế gian”).
3. Hai vương quốc giao tranh
Năm 1970 bộ phim “Người trừ quỷ” ra mắt đã phá kỷ lục bán vé. Bộ phim kể lại một thiếu niên bị quỷ ám như anh chàng trong Tin mừng hôm nay.
Đó là cậu trai 14 tuổi sống ở vùng Raimer, bang Maryland vào năm 1949. Phòng cậu ở, mọi vật đều di động. Ban đêm cậu không sao ngủ được, miệng luôn thốt ra những lời nguyền rủa hung hãn. Và đến một lúc nào đó đầu cậu bị cột vào giường ngủ, thì thân xác cậu đầy những vết tích đẫm máu…
Nhưng cậu bình phục nhờ được trừ tà, hiện cậu còn sống ở vùng Washington nước Mỹ. Vị linh mục đã trừ tà cho cậu nói: “Nhờ dịp này, tôi đã biến đổi cuộc sống tốt hơn”.
----------
Trong Tin mừng hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu trừ được quỷ, dân chúng thắc mắc: “Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”.
Đó là vì Chúa Giêsu “dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến” (Lc.11,20). Việc Chúa Giêsu trừ được quỷ nói lên vương quốc Satan giờ đây nhường chỗ cho vương quốc Thiên Chúa.
Điều này lại gợi lên vấn nạn: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa hơn 2000 năm nay, tại sao điều ác sự dữ vẫn còn? Tức là vương quốc ma quỷ vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta? Lý do vì vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc, đó là một bước tiến từ từ. Hơn nữa, Chúa giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất. Có thể vì vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng, giao cho chúng ta vun phân tưới nước cho nó lớn lên và sinh bông kết trái như ý Chúa muốn.
Điều này lại dẫn đến vấn nạn thứ hai: Tại sao vương quốc ma quỷ lâu tàn lụi và vương quốc Thiên Chúa chậm phát triển như thế? Câu trả lời phải nói là tại chúng ta chểnh mảng, không lo chu toàn trách nhiệm Chúa phú giao. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta kính mến chúa hết lòng, thương yêu người như Chúa thương? Có bao nhiêu người trong chúng ta trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho người khác? Có bao nhiêu người chúng ta sống hiền lành khiêm nhượng như Chúa Giêsu? !...
(Theo “Sunday Homilies”).
4. Ông là Đấng Thánh
Có người mẫu Susam Missi gốc nước Anh đã bảo hiểm thân thể cô trị giá 15.800.000 mỹ kim. Cô rất hãnh diện về số tiền bảo hiệm cho thân thể cô. Nhưng phải chăng đó là giá trị của con người.
Đọc qua bản tin này, ai có quan niệm sống là để hưởng giàu sang và khoe khoang của cải sắc đẹp thì người đó thán phục và mơ ước mình cũng được như thế. Nhưng đối với những ai có tâm hồn quãng đại, yêu người thì sẽ trách phiền người mẫu kia là vô tâm, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ mà không biết thương giúp đồng loại đau khổ thiếu thốn. Nhưng dù có phản ứng thế nào thì đây cũng là dịp tốt mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống, về phẩm giá con người.
Sự sống của mỗi người chúng ta có giá trị vô song, không thể sánh với tiền của vật chất. Người mẫu Susan Missi đã bảo hiểm thể xác mình gần 16 triệu mỹ kim, nhưng sự sống của cô không có gì đổi được.
--------
Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa dạy cho biết sự sống con người thật quý giá, và sự sống đó sẽ triển nở đến muôn đời. Sự sống đó quý giá đến nỗi máu Con Thiên Chúa phải đổ ra chuộc lại.
Thánh Phêrô bảo chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anhh em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh Thiện… Anh em hãy biết không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn vô tỳ tích là Đức Kitô…
Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn… hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tuông cùng mọi lời nói xấu gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ… (1Pr.1,15-2,2).
Chúng ta nhắc lại lời Thánh Phêrô kêu mời chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”.
Và trong Tin mừng hôm nay, chính thần ô uế cũng phải tuyên xưng: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc.1,24).
Đời là bể khổ", Đức Phật nói như thế! Ta có thể nói ngược lại "Bể khổ là đời!". Đã sinh ra trong TN4-B92
"Đời là bể khổ", Đức Phật nói như thế! Ta có thể nói ngược lại "Bể khổ là đời!". Đã sinh ra trong thân phận làm người, ai ai cũng mang trong mình những đau khổ của cuộc đời. Không khổ nhiều cũng khổ ít chứ chẳng thể nào ai mà thoát khổ được. Trong những lúc cuộc đời gặp đau khổ, con người phải đối diện với chính trong sâu thẳm của lòng mình. Thường, người ta vẫn thường nói "lúc gian nan mới biết ai là bạn". Cũng vậy, trong những lúc gian nan thử thách của cuộc đời, ai là người để chúng ta tin tưởng, để chúng ta bám víu, để chúng ta trông cậy?
Buổi sáng nọ, đang làm việc, bỗng dưng sơ phụ trách cộng đoàn gọi tôi có việc. Ra hành lang thì thấy sơ dẫn hai mẹ con nọ đến gặp tôi. Tôi ngạc nhiên nhưng bình tĩnh hỏi chuyện.
Bà mẹ nói trước: "Thưa Cha! Con được người em con về nói văng vẳng bên tai con là con phải theo đạo Mẹ Maria, theo đạo ông Giêsu Kitô... mô phật! mô phật!" Tôi nghe bà nói tôi cảm thấy căng đây vì lẽ sao mà theo đạo Mẹ Maria mà miệng lại cứ mô phật, mô phật. Tôi lấy hết bình tĩnh để nghe hai mẹ con trình bày.
Chuyện là chồng của người con của bà đã bỏ vợ để đi theo một người đàn bà khác. Cuộc sống ngày một khó khăn, chu cấp không như ngày xưa nữa. Bực bội trước cảnh đó và rồi người con của bà suy nghĩ nhiều, căng thẳng, mất ngủ! Nghe thấy nó làm sao đó, tôi mới hỏi là tình hình sao thì người con nói là gần 1 năm nay, cô ta không ngủ được, chỉ chợp mắt nằm đó thôi và giờ đang buồn ngủ (lúc đó 9 giờ sáng). Bỗng dưng cô lăn ra chiếc ghế dài cô đang ngồi và cô nằm xuống, nằm một lát cô ngồi dậy. Tôi cảm thấy bắt đầu lúng túng và chỉ biết cầu nguyện thôi.
Đang lúc ấy thì miệng bà mẹ cứ mô phật, mô phật!
Bà mẹ lại nói tiếp rằng lúc nào bà cũng bị tiếng nói gì đó văng vẳng bên tai! Tiếng nói ấy bảo bà đến để theo đạo Kitô!
Tôi thấy cũng căng trước hai người phụ nữ không bình thường này. Tôi nghi là hai người này có chơi bùa chơi ngãi hay đi coi thầy bà gì đây và tôi hỏi thật lòng là hai người có đi coi thầy không thì tôi mới giải quyết vấn đề được. Ban đầu còn ấp úng nhưng sau đó cô con gái đã thú nhận là đã đi coi thầy khi gia đình gặp khủng hoảng, khó khăn, nhất là khi ông chồng bỏ vợ đi theo vợ bé. Cô còn khai thêm là người ta cho uống cái nước gì đó và hiện tại bây giờ mỗi ngày vẫn còn uống nước đó!
Tôi đã hiểu vấn đề và nguyên nhân của hậu quả mà hai mẹ con đang lãnh nhận.
Đó là hai mẹ con đã chơi với thế lực ma quỷ, thế lực của sự dữ nên giờ đây phải đón nhận hậu quả bi đát này.
Để giúp cho hai mẹ con. Tôi bắt đầu phân tích cho họ thấy rằng nếu như ông thầy bói toán mà biết được cuộc đời của mọi người để ông coi bói sao ông không biết được cuộc đời của ông để mà ông phải ngồi đó để bói toán cho những con người nhẹ dạ và cả tin như các cô các bà. Nếu ông biết được tương lai, biết được mọi chuyện thì đơn giản nhất là ông mua vé số để trúng số lấy tiền mua nhà lầu xe hơi chứ sao phải ngồi trong căn nhà ọp ẹp bói toán mà còn phải canh chừng công an!
Tôi nói thêm là thời nào cũng có ma quỷ. Như thời của Chúa Giêsu như trong trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Maccô thuật lại đấy! Thời nào cũng có ma quỷ cả! Ma quỷ chính là những thiên thần đã bất tuân lệnh Chúa. Và từ những trang đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy ma quỷ đã dụ dỗ bà Eva để rồi bà cùng ông phạm tội bất tuân Thiên Chúa. Chính vì hai mẹ con của bà ấy đã đi theo hay nói đúng hơn là chơi với ma quỷ thì phải lãnh nhận hậu quả như hiện nay.
Tôi bảo với hai mẹ con rằng nếu như muốn thoát khỏi tình trạng hiện nay thì phải dứt khoát với ma quỷ, không còn uống nước của ông thầy cúng cho nữa. Muốn theo đạo ông Giêsu cũng được nhưng trước hết, ngay trong hiện tại cứ cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ đã rồi từ từ học đạo để theo đạo.
Nguyên nhân mà hai mẹ con này gặp phải hậu quả này đó chính là khi cuộc sống gặp khó khăn đã đi tìm đến thế giới của ma quỷ, thế giới của tà thần để giúp mình. Đơn giản nhất, khi người chồng đã theo vợ bé không còn chu cấp như xưa nữa thì chính người vợ phải cố gắng lao động để nuôi 3 đứa con, đàng này, người vợ ăn ở không, không chịu làm gì cả và rồi chạy đến thầy bùa, thầy ngãi để "giải hạn". Tưởng chừng "giải hạn" nhưng nào ngờ "hạn" nó đến với hai mẹ con này không biết đến ngày nào mới giải được.
Thời nào cũng vậy, khi gặp khó khăn người ta không cố gắng vươn lên bằng chính khả năng của mình nhưng cứ muốn dựa vào thế lực nào đó để giải thoát mình. Lẽ ra người ta đi tìm đến Đấng Cứu Độ của đời mình, Đấng làm chủ thời gian và không gian, làm chủ trời đất muôn vật để giúp họ nhưng không, người ta vẫn cứ đi tìm những thế lực nào đó.
Như sách Đệ Nhị Luật vừa cho chúng ta biết thánh ý của Đức Chúa trên dân qua miệng Môsê. Thiên Chúa hứa sẽ cho một ngôn sứ xuất hiện để giúp cho dân, ngôn sứ ấy sẽ nói lời của Đức Chúa và người nào không nghe lời ngôn sứ ấy thì Đức Chúa sẽ hạch tội người đó.
Trước đoạn sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta vừa nghe, tác giả sách đã cảnh báo dân rằng: "Nếu ở giữa anh em xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó báo trước cho anh em một dấu lạ hay một điềm thiêng, nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác", những thần mà anh em không biết, thì anh em đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải theo; chính Người là Đấng anh em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người. Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô hào nổi loạn chống Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập và đã chuộc anh em khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh em ra khỏi con đường Đức Chúa đã truyền cho anh em phải đi. Anh em phải khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh em". (Đnl 13, 2,-6). Con người mọi thời đại vẫn nghe ngóng, vẫn trông chờ vào lời nói của những ngôn sứ giả.
Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử cứu độ. Đức Chúa đã cho quá nhiều ngôn sứ đến để nói cho dân biết về tình thương cứu độ của Chúa, về thánh ý của Ngài nhưng rồi dân chúng cứ như bỏ ngoài tai để chạy theo không biết bao nhiêu là tà thần.
Thư gửi tín hữu Do Thái đã nói cho chúng ta: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng đến thời sau hết là những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử".
Quả thật, có quá nhiều ngôn sứ đã được Chúa sai đến để dạy bảo, để chỉ vẽ cho dân chúng biết con đường để đi theo Chúa nhưng rồi cha ông chúng ta và thậm chí chúng ta đây có nghe lời của các ngôn sứ đâu? Chúa nói quá nhiều, Chúa - vì yêu thương chúng ta - đã quá chăm sóc cho chúng ta nhưng nào chúng ta có chịu nghe Chúa. Những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử, qua Con Chí Ái của Ngài nhưng rồi chúng ta, cha ông chúng ta thời Chúa Giêsu - Con Chí Ái của Thiên Chúa - nhưng cha ông chúng ta và chúng ta có chịu nghe đâu? Nếu chúng ta thật sự nghe theo lời Chúa Giêsu thì cuộc đời của con người, cuộc đời của mỗi người chúng ta đâu có lao đao vất vả như thế này.
Cuộc đời chúng ta, chắc có lẽ phần nào cũng giống như hình ảnh của hai mẹ con nọ mà tôi đã gặp và tôi đã kể ở trên. Những lúc cuộc đời gặp lao đao vất vả, hai mẹ con ấy cũng như chính mỗi người chúng ta đã không biết tìm đến Chúa để mà bám víu. Chúng ta vẫn chạy theo người đời để nghe đủ mọi lời ngon ngọt của người phàm mà quên đi lời của Thiên Chúa. Giả như chúng ta quên thì Thiên Chúa với lòng bao dung của Ngài, Ngài sẽ tha thứ tất cả cho chúng ta nhưng chúng ta lại cố tình quên, đó mới là chuyện đáng nói.
Còn và còn khá nhiều người trong cuộc sống khi gặp gian nan khốn khó đã không chịu tìm đến với Chúa nhưng đã chạy theo tà thần. Khi bị những cơn sóng của cuộc đời xô đẩy, lẽ ra đi tìm đến Chúa nhưng không, lại đi tìm những thầy bói của cuộc đời.
Tôi quen một gia đình nọ. Người em thì hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa, người chị thì ngược lại. Đã hơn một lần người chị rủ người em đi xem bói nhưng người em dứt khoát là không. Người em kể lại chuyện ấy với tôi và bảo rằng chị không bao giờ đi xem bói vì chị không tin. Trong chúng ta cũng có một số người như người chị của người chị mà tôi quen này luôn tìm đến thầy bà để xem vận mạng của mình nhưng nào có ai biết được tương lai phận đời của mình đâu.
Chúng ta vẫn bị giằng co của cuộc đời. Những người bói toán là những con người cùng xác cùng thịt như chúng ta lại có "khả năng" biết được vận mạng, biết được tương lai của chúng ta. Còn Chúa, Chúa với chúng ta hình như nó xa vời vợi làm sao đó để rồi chúng ta không còn tin Chúa nữa mà tin theo người bói toán. Chúa vẫn ở đó, vẫn lặng lẽ để theo dõi, để quan sát, để chở che, để quan phòng chúng ta nhưng chúng ta không chịu nhận ra Ngài đó thôi.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa chính là cùng đích, là lẽ sống, là nguồn cậy trông của cuộc đời mỗi người chúng ta để rồi giữa những lao đao vất vả của cuộc đời xảy đến chúng ta luôn chạy đến Chúa, bám vào mình Chúa mà thôi.
Hoán cải và tin theo Chúa Giêsu vì Nước Trời gần đến là lời mời gọi của Đấng Thiên sai (x. Mc 1, 14-20). TN4-B93
Hoán cải và tin theo Chúa Giêsu vì Nước Trời gần đến là lời mời gọi của Đấng Thiên sai (x. Mc 1, 14-20). Sứ vụ Thiên sai ấy được tiếp tục thi hành với Lời Quyền Năng Cứu Độ, Lời có sức chữa lành những người bị quỉ ám, khiến cho những người mù được sáng, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều ...thán phục; các thần ô uế phải vâng lệnh Người (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).
Hơn cả luật sĩ
Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người ngồi đấy đều đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Người giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh Thánh. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, là Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Lời của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật (Mc 1, 22). Câu hỏi được đặt ra: Vậy có điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý ".
Hơn một Tiên tri
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).
Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi " (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó"(Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa. Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta ...
Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là " Đấng thánh của Thiên Chúa " (Mc 1, 24).
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì? " (Mc 1, 27).
Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1, 24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi! " (Mc 1, 25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.
Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.
Đám đông nghe Đức Kitô giảng giải và họ xì xào, bàn tán với nhau. Ngài là ai mà 'Giáo lí thì TN4-B94
Đám đông nghe Đức Kitô giảng giải và họ xì xào, bàn tán với nhau. Ngài là ai mà 'Giáo lí thì mới mẻ và người dạy lại có quyền' c.27. Người ta không thể so sánh nếu không biết. Như thế đám đông so sánh với lời giảng của ai? Thưa đó chính là giáo huấn của các Kinh Sư. Các vị này thường dựa vào luật lệ và truyền thống để buộc tín hữu giữ luật hết sức nghiêm ngặt. Đức Kitô vạch ra sai lầm của họ khi họ đặt truyền thống trên Lời Chúa:
Các ông lấy truyền thống đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời của Thiên Chúa Mk 7,13
Các Kinh Sư và Luật Sĩ còn buộc người ta nhiều luật lệ khắt khe. Đức Kitô mô tả họ là những kẻ giả hình vì họ chất những ánh nặng trên vai người ta còn chính họ lại sống ngoài luật lệ, không tuân giữ lề luật Mt 23.
Giáo huấn của thánh Gioan Tiền Hô đưa ra đã mới và giáo huấn của Đức Kitô còn mới hơn. Gioan Tiền Hô kêu gọi thống hối và lời kêu gọi của Gioan kèm theo đe doạ và hình phạt; trong khi giáo huấn của Đức Kitô kêu gọi 'thống hối và tin vào Tin Mừng' mà không kèm theo đe dọa cũng không phải thống hối rập khuôn theo nguyên tắc lề luật truyền lại.
Mới mẻ
Thưa mới mẻ bởi Đức Kitô dậy từ sự khôn ngoan của riêng cá nhân Ngài. Kinh Thánh có lần nhắc rõ thời ẩn dật Đức Kitô
‘ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa Lc 2,40
Lời giảng dậy mới mẻ đến độ thính giả nghe đầy kinh ngạc lên tiếng hỏi nhau:
Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là làm sao? Mc 6,2
Lời giảng mới mẻ bởi giáo huấn của Ngài cởi trói, giải thoát họ khỏi bị luật lệ ràng buộc chặt chẽ đến độ con người trở thành nô lệ cho lề luật. Giáo huấn của Đức Kitô làm cho việc tôn thờ Thiên Chúa trở nên nhẹ nhàng, vui thích, chứ không bị bó buộc như xưa. Giáo huấn của Đức Kitô mới mẻ khai sáng họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và thương xót. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn, xoá tan mọi lỗi bất trung, bất tín họ phạm; lòng Chúa xót thương vô bờ và lượng từ bi Chúa dành cho tất cả, không loại trừ ai. Đây là những điều mới mẻ.
Uy quyền ra sao?
Đức Kitô dậy có uy quyền bởi Ngài là Con Thiên Chúa và mặc khải một Thiên Chúa uy quyền nhưng rất mực yêu thương. Các Kinh Sư và Luật Sĩ cũng như Biệt Phái rất muốn tìm cơ hội bắt Đức Kitô nhưng lại sợ uy quyền Ngài. Giáo huấn theo truyền thống và nhờ vào uy quyền truyền thống để áp dụng luật; Đức Kitô không dựa vào truyền thống nhưng dựa vào tình yêu Thiên Chúa để giảng dậy. Chính Đức Kitô xác định điều này khi Thượng Tế và Kinh Sư chất vấn quyền của Ngài. Khi chữa lành người bệnh liệt giường Đức Kitô cho biết uy quyền của Ngài không nhắm vào trói buộc, ra hình phạt nhưng chú trọng vào tha thứ, ân xá và hoà giải một khi chấp nhận hoán cải.
Để các ông biết, ở dưới đất này Con Người có quyền tha tội. Đức Kitô bảo người bại liệt: Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà’ Mk 2,11
Đức Kitô có quyền xoá bỏ tội lỗi ta. Ngài có quyền trên quỷ ô uế và thần dữ bắt chúng vâng phục. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng sợ hãi la lớn tiếng: Tôi biết ông là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa. (Mc 1,24)
Một uy quyền khác cho biết Đức Kitô có toàn quyền trên thế giới thiên nhiên khi các tông đồ sợ hãi thuyền chìm giữa biển vì sóng to, gió lớn. Họ kêu cầu và Ngài truyền lệnh cho sóng gió bão bùng ngưng lại.
Điều giảng dậy thì mới mẻ cộng với quy quyền không phải cho Đức Kitô mà cho chúng ta, cho nhân loại.
Khi nghe đồn thổi có phép lạ người ta rủ nhau đến người thì xem cho biết, kẻ thì đến xin ơn TN4-B95
Khi nghe đồn thổi có phép lạ người ta rủ nhau đến người thì xem cho biết, kẻ thì đến xin ơn riêng cho chính mình hoặc cho gia đình. Thế mới rõ nhu cầu vật chất dư thừa nhưng đói khát tâm linh. Con người có khả năng sáng chế ra đủ thứ mang lại tiện nghi cho cuộc sống nhưng tiện nghi không mấy hỗ trợ cho thiếu thốn tinh thần. Họ vẫn cần ơn lạ. Có một loại phép lạ xảy ra cho mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Loại phép lạ này đôi khi gây ngạc nhiên cho người nghe. Lạ ở điểm người đó không có phép nhưng lại thích ban phép. Cho những gì mình không có mà vẫn muốn cho và đòi cho bằng được. Điểm đó mới là lạ, lạ hơn cả phép lạ.
Ai cũng biết gia đình có phép tắc gia đình; làng có phép làng; nước có phép nước. Nhưng không phải ai cũng có thẩm quyền cho các phép đó mà chỉ những ai được trao trách nhiệm mới có quyền. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp con người lạm dụng quyền hạn đến mức khó lường. Người có ưu thế đều tự ban cho mình quyền cho phép người làm việc này; cấm người kia làm việc nọ. Người ta lạm quyền ngay cả cho Đức Kitô.
Đức Kitô vào trong đền thờ giảng dậy, Người xua đuổi quỉ ra khỏi một người bị quỉ ám lâu năm. Ma quỉ kinh sợ, hét lên. Hỡi ông Giêsu, ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao. Chúng tôi biết ông là Con Đấng Tối Cao. Nhưng Đức Kitô cấm không cho chúng nói về Ngài.
Khi làm điều này Ngài tỏ ra là Đấng có thẩm quyền trên cả ma quỷ. Quyền này không phải chỉ thể hiện qua lời nói suông mà quyền đó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Trước mặt, không phải một nhóm nhỏ mà là đám đông dân chúng. Ngài ra lệnh và ma quỉ phải phục tùng. Thứ nhất ma quỷ vâng lời Ngài ra khỏi người kia mà không làm hại người đó. Thứ hai ma quỷ phải câm miệng, không được nói về Thiên Chúa, kể cả ca tụng hay nói điều tốt lành, cũng không được phép. Điều này cho thấy không phải bất cứ ai có kiến thức về Thiên Chúa đều có quyền nói về Ngài. Không phải như thế. Quyền rao giảng về Thiên Chúa dành riêng cho những ai dù không thuộc về Thiên Chúa, nhưng nếu yêu mến Thiên Chúa, mới có quyền nói về Thiên Chúa, rao giảng về nước Thiên Chúa. Bất cứ ai, dù ở bất cứ ngành nghề, giai cấp nào trong xã hội, một khi không yêu mến Thiên Chúa đều không có quyền nói về Thiên Chúa. Tiếng nói của họ là tiếng nói của kẻ lạm quyền, dù quyền đó không có nhưng vẫn lạm quyền. Đức Kitô ngăn cấm ma quỉ khi chúng nói về Ngài vì trong chúng không có tình yêu mến Thiên Chúa. Ma quỉ sợ Ngài nên nghe lệnh Ngài, người ta trái lại tự cho mình quyền không biết kính sợ Thiên Chúa nên nói về Ngài với lòng khinh dể, nhạo báng.
Không có lòng yêu mến Thiên Chúa thì không được phép nói về Ngài, ngay cả nói những điều tốt lành về Ngài cũng không được phép, nói chi đến những bài báo bài xích tôn giáo, chê trách Giáo Hội và công khai phỉ báng những người giao giảng Tin Mừng. Những loan tin nhằm bài xích, cách li, chia rẽ, đáng lừa công luận nhằm mục đích tuyên truyền không thể nào đến từ lòng yêu mến Thiên Chúa.
Đám đông dân chúng, trái lại, với lòng thành họ nghe Ngài giảng dậy thì tỏ lòng yêu mến, thể hiện thái độ thần phục, tâm phục, khẩu phục và thành tâm loan truyền niềm vui họ nhận được. Họ nói với nhau giáo lí của Ngài thì mới mẻ và Ngài giảng dậy như Đấng có quyền năng. Rõ ràng, sự thật là vậy. Ngài là Đấng có quyền, Ngài giảng dậy với quyền năng, quyền đó đến ngay cả ma quỉ còn phải thốt lên một sự thật - Ngài là Con Thiên Chúa.
Bài Phúc âm hôm nay nhóm chống đối Đức Kitô không dám lên tiếng vì sợ đám đông. Họ thầm bàn tán với nhau tại sao ông Giêsu lại làm việc này trong ngày Sabbath là ngày cấm làm việc. Việc ông ta phạm tội, lỗi luật ngày Sabbath không phải tại nơi đầu đường xó chợ, hay tư gia, chỗ kín đáo mà lại công khai phạm tội ngay giữa đền thờ là nơi thờ phượng. Điều này không thể bỏ qua, không thể tha thứ mà phải trừng trị đích đáng. Họ đã âm thầm họp kín với nhau để khi cơ hội thuận tiện ra tay như chúng ta biết sau này họ đã kết án Ngài về tội không giữ luật ngày hưu lễ.
Chúng ta cầu xin biết sống và rao giảng lời Chúa với tâm tình yêu mến. Đặc quyền này dành riêng cho người tôn kính, yêu mến Thiên Chúa.
VÌ MẾN TIN CÙNG CHÚA ÔM THẬP GIÁ BỞI LẦM LỖI TỰ MÌNH VÁC CUỘC ĐỜI
Một định luật bất biến đã được chính Chúa Giêsu minh định: “Ai muốn theo Tôi, phải TỪ BỎ TN4-B96
Một định luật bất biến đã được chính Chúa Giêsu minh định: “Ai muốn theo Tôi, phải TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Hai động từ với hai hành động trái ngược: Bỏ cái này để lấy cái kia. Nghe chừng rất đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê! Tuy nhiên, theo Chúa là hành động tiên quyết mà mỗi người Kitô giáo phải thực hiện mọi ngày trong suốt cuộc đời mình. Nhưng cái gì cũng có điều kiện nhất định!
Cuộc sống không hề đơn giản, tức là khó và phải nỗ lực không ngừng, nhưng con người không phải cố gắng chiến đấu một mình. Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em, hãy nghe vị ấy” (Ðnl 18:15). Đó là người được sai đi, chấp nhận lời sai đó tức là chấp nhận bước theo Chúa, đi theo thì phải hành động tích cực, không thể thụ động.
Và Ngài còn động viên: “Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó” (Ðnl 18:18-19). Ngài không hề hù dọa, mà đó chính là công lý và công bình. Mỗi người đều có trách nhiệm rao truyền và làm chứng nhân của Thiên Chúa. Trách nhiệm thì phải làm, không làm thì có tội. Thật vậy, chính Ngài đã cảnh báo: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói thì ngôn sứ đó phải chết” (Ðnl 18:20).
Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Không chỉ vậy, chúng ta còn phải “cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên chúng ta, vì chính Người là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6). Đặc biệt và cấp bách hơn: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa, đừng cứng lòng!” (Tv 95:7-8). Thời điểm là hiện tại, không phải là quá khứ hoặc tương lai. Đó là lời cảnh báo nhưng cũng chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, bởi vì Ngài vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về, cứ hết ngày dài lại qua đêm thâu.
Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta lo lắng, thế nên phải biết khéo léo buông hoặc giữ cái gì để giữ cân bằng tâm sinh lý. Một trong nhiều cách đó là tạo “khoảng riêng” để tách mình ra khỏi cuộc đời xô bồ. Chắc chắn “khoảng sa mạc” trong tâm hồn rất cần thiết để có thể lắng nghe Tiếng Chúa. Thánh Phaolô đã nói rõ: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì” (1 Cr 7:32). Với nguyên nhân và mục đích rất cụ thể: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:33-34). Đó là hai cách thức khác nhau mà mỗi người có quyền tự do chọn lựa – bỏ cái này để lấy cái khác, chỉ có thể chọn một trong hai.
Khi nghe nói vậy, chắc chắn người đời không thể tin và không thể chấp nhận với tầm nhìn của phàm nhân bình thường, bởi vì những điều đó “không bình thường” chút nào và rất “ngược đời”, phải có tầm nhìn của đức tin mới khả dĩ chấp nhận mà hành động. Thánh Phaolô biết đó là những điều “khó nghe” mà lại rất thật, cho nên ông phân trần: “Tôi nói thế là để mong tìm ÍCH LỢI CHO ANH CHỊ EM, tôi không có ý GÀI BẪY anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em ĐƯỢC GẮN BÓ CÙNG CHÚA mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Và đó cũng là lời động viên dành cho mỗi chúng ta.
Cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê nên luôn có những điều khó chọn lựa. Có lần Chúa Giêsu đã phân tích: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6:45). Lần khác, Ngài lại xác định: “Kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12:34). Theo nghĩa bình thường, kho tàng là tiền bạc, của cải hoặc vật chất, là những gì mình sở hữu. Cũng chính “kho tàng” đó có thể là chướng ngại vật trên hành trình theo Chúa. Điển hình là thanh niên nọ đến hỏi Chúa Giêsu về cách trở nên hoàn thiện, Chúa Giêsu bảo về bán tài sản và cho người nghèo, anh ta nghe vậy thì buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19:16-22; Mc 10:17-22; Lc 18:18-23).
Quả thật, sức hấp dẫn của vật chất rất mạnh, mạnh đến nỗi người ta gọi đó là ma lực. Người ta gọi thần tiền bạc là “thần tài”. Vật chất là một loại “thần” – thường mang nghĩa không tốt, vì nó có thể khiến người ta mê muội, mù quáng, mất cả nhân tính mà trở thành mưu mô và độc ác. Hàng ngày vẫn có nhiều vụ giết người dã man để cướp của đã xảy ra. Các “thần xấu” đó là các loại thần ô uế làm “biến chất” con người từ ngoài vào trong.
Rất nhiều vụ án dã man đã và đang xảy ra nơi này hoặc nơi kia, thậm chí có những vụ giết người cướp của đã xảy ra ngay trong các mối quan hệ ruột thịt gia đình. Những kẻ thủ ác là những người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, có kẻ vẫn còn ở độ tuổi thiếu niên, và chuyện xích mích đôi khi chỉ là chuyện nhỏ, đúng như người ta nói “có bé xé ra to” hoặc “có ít xít ra nhiều”. Điều đó cho thấy rằng lòng người ta rất nhỏ mọn và luôn có “lửa” oán thù, chỉ cần chút gió là nó cháy bùng lên ngay. Thật là kinh khủng quá!
Trình thuật Mc 1:21-28 (Lc 4:31-37) đề cập sự đối đầu giữa Thiện và Ác, giữa Chúa Giêsu và thần ô uế. Một hôm nọ, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập, người này “chịu không nổi” nên đã phải la to: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Mắt phàm nhân chưa nhận ra nhưng “thần ô uế” đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Tuy nhiên, Ngài liền quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (Mc 1:25).
Chắc chắn ma quỷ không hề muốn ra khỏi “lãnh địa” mà nó đang chiếm giữ, thế nhưng nó vẫn phải tuân lệnh Chúa Giêsu. Rõ ràng Chúa Giêsu có quyền trên mọi thứ và mọi loài, cả hữu hình và vô hình. Ma quỷ không muốn quy phục Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa nhưng nó vẫn phải vâng lời, thậm chí nó còn phải trình diện Ngài (G 2:1). Nó có thể làm hại người ta nhưng nó “phải tôn trọng mạng sống” của người khác – cụ thể là trường hợp của ông Gióp (G 2:6).
Ngay sau khi “thần ô uế” xuất ra khỏi người kia, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27-28). Giáo lý mới mẻ và người dạy có uy, lạ lùng lắm, xưa nay chưa hề thấy có ai làm được như vậy. Những người chứng kiến đã nhận xét như vậy thì kể ra cũng lạ thật, nhưng cũng thật đáng khen vì họ có thể mau chóng tiếp thu được cái “mới mẻ” đó. Cuộc sống rất cần tinh thần phục thiện và dễ thích nghi như vậy. Đó cũng là một cách biết bỏ cái không cần thiết để nhận lấy cái cần thiết – đặc biệt là khi “cái cần thiết” đó lại không vừa ý mình.
Điều-cần-thiết-mà-trái-ý-mình chính là “vác thập giá hàng ngày”, điều mà Chúa Giêsu luôn khuyến khích. Ngài có cách động viên cũng chẳng giống ai, rất độc đáo. Thật vậy, C. S. Lewis đã nhận định thế này: “Thiên Chúa thì thầm với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ”. Đúng là “đầu óc bã đậu” của chúng ta không thể nào hiểu nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu thấu, bởi vì chính Thiên Chúa đã xác định: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:9).
Lạy Thiên Chúa là dũng lực của con, xin ban Thần Khí Chúa để con khả dĩ chân nhận Tiếng Chúa trong chính cuộc đời con, xin giúp con mau mắn bước theo Ngài và can đảm hành động đúng Tôn Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh sống. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Cụ già mù lòa ngồi ăn xin bên đường, ông ta chờ người qua lại bố thí cho những đồng xu để TN4-B97
Cụ già mù lòa ngồi ăn xin bên đường, ông ta chờ người qua lại bố thí cho những đồng xu để kiếm sống qua ngày, và ông ghi trên một tờ giấy với dòng chữ như sau: “ Tôi bị mù lòa, xin vui lòng giúp đỡ tôi”. Thế nhưng, chẳng ai thèm nhìn ngó và động lòng bố thí cho ông. Một cô gái xinh đẹp đi ngang qua, cô ta nhìn thấy ông ta vẫn chưa có đồng xu nào trong cái lon, cô gái thấy thương cho ông lão. Thế là cô ngồi xuống và viết lại thành một dòng chữ khác: “ Bầu trời hôm nay rất đẹp lắm, nhưng mắt tôi không thể nhìn thấy”. Khi cô gái bỏ đi, thì có nhiều người qua đường nhìn thấy dòng chữ này họ đã cảm thương và bố thí tiền cho cụ.
Thông điệp của cô gái viết rất đơn giản, nhưng nó đã làm thay đổi cõi lòng của nhiều người qua đường. Sức mạnh của ngôn từ thật là kỳ diệu, nó có thể làm thay đổi lòng người và thế giới xung quanh, giống như là một phép lạ dành cho ông lão ăn xin. Ông ta luôn tin vào lòng quảng đại của con người và tin vào cuộc sống. Nếu chúng ta dành chút thời gian trong ngày để thinh lặng và cầu nguyện, thì Lời Chúa có thể làm tan chảy cõi lòng cứng cỏi, chay lỳ của chúng ta. Lời Chúa có sức mạnh làm biến đổi lòng người. Mọi người đều sững sờ đến nỗi họ phải bàn tán với nhau: " Thế nghĩa là gì? Lời dạy thì mới mẻ, Người dạy có uy quyền. Ngài đã ra lệnh cho các thần ô uế phải tuân theo".
Khi nói đến phép lạ và quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường, thì chúng ta dễ đi đến một thái độ hồ nghi và miễn cưỡng. Chúng ta chỉ chấp nhận những gì hiện hữu và nhìn thấy bằng con mắt xác thịt, bằng những thứ mà chúng ta đang có và chiếm hữu nó ở trần gian này. Trong khi đó, phép lạ là một mầu nhiệm khởi đi từ đức tin. Không chỉ con người ngay nay hoài nghi về quyền năng của Chúa mà ngay cả người Do thái ngày xưa đi theo Chúa Giê-su. Nhưng khi Chúa cho thần ô uế xuất khỏi người này, thì họ ngạc nhiên và thán phục.
Và ngày hôm nay cũng thế, chúng ta có thể nghe Lời Chúa rất nhiều, nhưng hạt giống Lời Chúa chưa thực sự được lớn lên trong cõi lòng chúng ta, bởi các thần ô uế đang ngự trị nơi sâu thẳm cõi lòng chúng ta với ganh đua, hận thù, gian ác, lọc lừa, giả dối, hơn thua, dục vọng...thì Lời Chúa đang bị chết nghẹt và không đơm hoa kết trái được. Chúng ta không còn nghe được tiếng nói lương tâm để thức tỉnh và ngạc nhiên phép lạ đang xẩy ra trong đời sống thường ngày. Con mắt chúng ta đang bị mù, nhưng cứ tưởng mình sáng. Trái tim ta đang chết dần, nhưng tưởng mình sống mạnh mẽ. Tất cả là trò chơi giả dối của Satan đang hoạt động trong mỗi người và trong thế gian này.
Lạy Chúa, Ngài cho con có đôi tai để lắng nghe Lời Chúa, và cho con có trái tim biết rung động và xót thương, họ là những cụ già ăn xin bên đường, những trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, những người đang mang căn bệnh cần được chăm sóc và an ủi, những người già nua ốm đau bệnh tật, những người đang gặp thử thách, đau khổ, thất nghiệp và nghèo khổ, thì Lời Chúa là sức mạnh, là ngọn đèn soi bước chân con. Amen.
Hầu hết chúng ta đã từng cắp sách đến trường và được các thầy cô dạy bảo. Chúng ta đã được TN4-B98
Hầu hết chúng ta đã từng cắp sách đến trường và được các thầy cô dạy bảo. Chúng ta đã được thụ giáo dưới sự chỉ dẫn của các bậc làm thầy, bởi lẽ ‘Nhất tự vi sư, bán tự vi sư’, một chữ hay dù nửa chữ, các ngài cũng là thầy giáo dạy bảo chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã từng nói với các học trò: “Đừng gọi ai dưới đất là thầy, vì anh em chỉ có một ‘Rabbi’, một thầy duy nhất (Mt 23,8)”. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô cũng trình thuật lại việc Chúa Giêsu vào hội đường ở Capharnaum và giảng dạy như một Đấng có uy quyền (Mc 1,22). Cách Đức Giêsu dạy dỗ khác xa với cung cách làm thầy của các rabbi hồi xưa, cũng chẳng giống các vị tiến sỹ đứng trên bục giảng trong các giảng đường đại học ngày hôm nay. Ngài không nổi trội về kiến thức uyên bác hay có những bằng cấp chuyên môn, nhưng trên hết, Đức Giêsu là Đấng ‘Messia’, là Đấng đã đến trần gian để công bố cho chúng ta một Tin Mừng. Tin Mừng đó được hiển thị rõ nét qua các phép lạ Chúa Giêsu thực hiện như được Thánh sử Marcô mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa giảng dạy kèm theo những phép lạ chứng tỏ Ngài là một ‘Đấng có uy quyền’, và đó là dung mạo của vị tôn sư đích thực mà chúng ta cần cung chiêm và học hỏi.
Tư cách làm thầy
Một giáo sư đại học khi dạy các sinh viên về môn Thuyết giảng trước công chúng (Public Speaking) đã nói: “Trong một lớp học, không bao giờ có học sinh dốt, nhưng chỉ có những ông thầy dốt. Dốt, vì ông ta không biết cách truyền đạt những kiến thức để cho sinh viên am hiểu”. Muốn làm thầy, người đó phải được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm. Cũng vậy, muốn trở thành thầy dạy (magistero) về đức tin, các các anh em linh mục cũng phải được đào tạo kỹ lưỡng ở chủng viện về các bộ môn thần học hay kinh thánh, nhất là phải có chiều sâu đức tin, bởi vì ‘Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có, không ai có thể dạy người khác điều mà mình không biết’.
Chúng ta được mời gọi nhìn vào chân dung Đức Giêsu, vị tôn sư đích thực của chúng ta. Khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta cần nhớ rằng mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những học trò của Ngài mà thôi, cho dầu chúng ta là Giám mục hay Linh mục, chúng ta có bằng tiến sỹ này hay bằng chuyên môn nọ.
Ngày xưa, Chúa chọn 12 môn sinh để họ kế tục sứ mệnh làm thầy giống như Ngài, tức là đi ‘rao giảng Tin Mừng’ cho người khác. Những anh học trò này chắc chắn không phải là những chuyên viên về Kinh thánh, tức là những ‘Halakha’ của thời bấy giờ. Một chữ bẻ làm đôi có lẽ nhiều vị cũng không biết. Nhưng điều mà các tông đồ đã học dưới mái trường do Đức Giêsu khai sáng, chính là mầu nhiệm về Thiên Chúa, hiển thị rõ nét nơi Đức Giêsu, vị tôn sư khả kính mà họ được thông dự vào qua cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, sau ngày lễ Ngũ tuần, các ông đã hăng hái đi đến mọi ngõ ngách để giảng giải, để nói về Đức Giêsu cho mọi người, không loại trừ ai. Khán thính giả của các tông đồ ngày xưa gồm đủ mọi thành phần, từ chính quyền đến thường dân, từ những nhà trí thức đến những bác dân quê mộc mạc chất phác. Ngôi trường mà Chúa Giêsu đã thiết lập cũng chẳng giống với ngôi trường nào. Ở đó không có sách vở, không có bàn ghế hay giấy bút. Khi được thụ giáo dưới mái trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp với văn bằng này hay chứng chỉ nọ. Chúng ta phải học, phải nghiền gẫm và phải đeo bám cho đến suốt đời. Đức Giêsu mãi mãi vẫn luôn là vị tôn sư khả kính mà chúng ta cần phải không ngừng học hỏi nơi Ngài.
Sức mạnh của ‘Lời’
Lời nói con người giống như một con dao hai lưỡi. Nó có thể giúp xây dựng hòa khí thân thương song cũng có thể tạo ra những đổ vỡ. Lời Thiên Chúa thì khác. Những gì Thiên Chúa nói luôn mang lại cho con người sự sống. Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường Capharnaum kèm theo phép lạ để diễn bày tính năng cứu độ nơi Ngài. Ngài đã làm phép lạ trừ quỷ cách nhãn tiền khiến đám đông kinh ngạc và bảo nhau: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (c. 27)”. Đây là uy quyền của một vị Thiên Chúa, Đấng đem đến cho con người sự chữa lành và ơn tha thứ. Những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện không phải nhằm phô diễn một kỳ tích hay như một màn ảo thuật để đánh lừa thị hiếu của đám đông. Mọi phép lạ Chúa làm đều mang chở một sứ điệp sâu xa, mời gọi con người hãy ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’ (Mc 1,15). Đó là Tin Mừng về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người, giục giã gọi mời chúng ta trở về để đón nhận. Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà sách Đệ nhị luật đã tiên báo như chúng ta được nghe trong bài đọc 1 hôm nay. Đây là ‘vị ngôn sứ’ đích thực của Chúa Cha, và vị ngôn sứ đó sẽ nói những điều Thiên Chúa truyền (Dnl 18, 18). Điều mà Đức Giêsu ngỏ trao chính là sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, mà đỉnh điểm là chính cái chết của Ngài trên Thập Gía.
Tác vụ giảng dạy
Các bài đọc lời Chúa hôm nay được gửi đến mọi người, đặc biệt các anh em linh mục. Chúng ta được mời gọi nhìn vào hình ảnh của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng để biết cách chu toàn tác vụ thánh trong việc công bố và giảng giải Lời Chúa. Trong cuốn ‘Chỉ nam Giảng thuyết (Homiletic Directory) do Thánh bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích ban hành năm 2015, Giáo hội cũng nhắc nhở các anh em linh mục đừng bao giờ biến bài giảng trong Thánh lễ thành một bài chú giải Kinh thánh mang tính khoa bảng, hay chỉ để chia sẻ những những kinh nghiệm cá nhân. Trên hết, tòa giảng phải là nơi để các linh mục dùng Lời Chúa nuôi dưỡng đời sống đức tin của cộng đoàn. Vì thế, Giáo hội cũng khuyên các cha hãy chuẩn bị bài giảng thật kỹ lưỡng qua việc suy niệm và cầu nguyện, nhất là cử hành Lectio Divina, để Lời Chúa chạm đến cõi lòng chúng ta và lay động tâm hồn của chính chúng ta. Có như thế chúng ta mới có thể dùng Lời Chúa như lương thực trường sinh, giúp nuôi dưỡng đức tin cộng đoàn. Không ít giáo dân than phiền về nội dung cũng như cách thức các cha giảng trong Thánh lễ, thậm chí có những giáo dân tỏ ra chán ngán vì có những vị còn lạm dụng cả tòa giảng để chửi bới giáo dân nữa.
Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền. Đây không phải là một thứ uy quyền để nạt nộ hay chửi rủa, nhưng là uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.
Kết luận
“Đức Kitô bị đóng đinh trên Thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta” (Đức Cha Lambert de la Motte). Đó cũng là đối tượng duy nhất mà chúng ta phải luôn cung chiêm và học hỏi. Chúng ta học hỏi nơi Ngài cách sống, cách chữa lành và cách thức Ngài rao giảng. Ngài chính là vị tôn sư duy nhất mà chúng ta cần phải xách cặp đến để xin thụ giáo cho đến suốt đời.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị TN4-B99
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỉ ám.
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. "Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo". Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?" Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: "Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã biết điều đó".
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
(Suy niệm của John W. Martens – Lm. GB. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
“Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền” (Mc, 1,27)
Trong cuộc sống, chúng ta đa phần đã trải nghiệm qua thời kỳ làm học sinh hay sinh viên một TN4-B100
Trong cuộc sống, chúng ta đa phần đã trải nghiệm qua thời kỳ làm học sinh hay sinh viên một cách chính thức. Nhưng, hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta đã từng là những học trò để học hỏi, để tiếp thu biết bao nhiêu điều từ những người khác, không phải trong trường lớp nhưng ngay nơi trường đời. Cũng vậy, nhiều người đã từng là thầy giáo đứng bên bục giảng để chỉ huấn cho các học sinh đang thụ giáo nơi mình. Nhưng cũng hiểu theo nghĩa rộng, mọi người chúng ta đều đã từng làm thầy, khi chỉ dẫn cho người khác điều này hoặc điều nọ. Chúng ta hướng dẫn về cách sống, dạy bảo về cách ứng xử, cách giải quyết một vấn đề nào đó. Chúng ta chỉ giáo để uốn nắn một đứa bé, để giúp đỡ người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta dạy không phải bằng lý thuyết, nhưng dạy bằng những trải nghiệm cụ thể trong cuộc sống đời thường của chúng ta.
Nhiều người trong chúng ta trở thành thầy giáo, sau khi đã được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm, và chúng ta thường coi nghề dạy học như một ơn gọi. Chúng ta dạy các học trò trong những lãnh vực chuyên môn mà chúng ta đã đắc thủ kiến thức qua tiến trình đào tạo cách bài bản. Nhưng, Đức Giêsu đã từng nói với chúng ta “Anh em đừng để ai gọi mình là Rabbi, là thầy, bởi vì anh em chỉ có một thầy duy nhất, và tất cả chúng ta đều là học trò của Ngài. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, bởi vì anh em chỉ có một cha Đấng ngự trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người chỉ đạo, vì anh em chỉ có một người chỉ đạo là Đấng Messia” (Mt, 23,9-10). Lời huấn dụ này được ngỏ trao cho tất cả mọi Kitô hữu, không loại trừ ai.
Nhưng rất khó để nói điều đó đối với những ai đã từng làm thầy dạy, làm giáo sư, hay làm người hướng dẫn kẻ khác. Có lẽ chúng ta dễ quên rằng khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta phải biết rằng, tất cả đều xuất phát nơi Ngài, và mãi mãi chúng ta cũng chỉ là học trò của Ngài mà thôi. Cũng vậy, đặc biệt đối với các học giả Kinh thánh, chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng Đức Giêsu đã không tuyển chọn các môn sinh từ giữa các chuyên viên về thánh kinh, tức là các “Halakha” của Do Thái, thời bấy giờ. Đó là các kinh sư, các vị thông luật, tương tự như các tiến sĩ giáo luật ngày nay. Trái lại, Ngài chọn các học trò từ giữa đám dân chài thất học. Các ngư phủ quê mùa dốt nát đó làm sao có thể trở thành giáo sư dạy kinh thánh và dạy về luật Do Thái được, bởi lẽ họ chưa từng được đào tạo chính quy một ngày nào trong những lãnh vực chuyên môn đó. Nhưng sự hiểu biết của họ có gì khác với tri thức uyên bác nơi các chuyên viên, các thầy thông luật hay không? Chắc chắn rất khác xa.
Tri thức mà các bác dân chài Galilê đắc thủ được, đó là sự hiểu biết, hoặc họ mong gặp gỡ để hiểu biết một đối tượng, là chính Thiên Chúa. Những ngư phủ tuy thất học và dốt đặc cán mai, nhưng họ đã biết Đức Giêsu, đã từng sống với Ngài, và họ cũng mong muốn học được nhiều điều từ nơi Đức Giêsu, người Thầy của họ. Họ có được những kiến thức mà các tiến sĩ luật, các nhà thông thái lúc bấy giờ đã không thể có. Đó là lý do rất quan trọng. Vì vậy, vài năm trước, học giả Ben F.Meyar đã diễn tả như sau: Các nhà thông luật và chuyên viên giải thích Kinh thánh thời Chúa Giêsu luôn muốn tỏ ra mình nổi trội hơn những người khác, đặc biệt trong việc cắt nghĩa kinh thánh. Họ thích tỏ ra mình là những nhà lãnh đạo trổi trang và muốn được nể trọng. Tuy nhiên, đằng sau dáng vẻ trịnh trọng đáng kính bên ngoài, khi họ cố cắt nghĩa các bản văn, bình luận về giá trị và những chân lý ẩn chứa bên trong, thì sự cao ngạo hợm hĩnh của họ cho thấy, họ chỉ là những chuyên viên rỗng tuếch, không đáng tin cậy chút nào.
Điều mà Đức Giêsu muốn huấn luyện cho các môn sinh của Ngài, không phải là những kiến thức uyên bác qua trường lớp, nhưng là giúp họ tiếp cận Lời của Thiên Chúa. Lời đó có sức biến đổi và khơi dậy sự tự hiến nơi họ. Đức Giêsu có một đám đông học trò vây quanh. Họ là những con người rất bình thường ở Galilê, ở Giuđêa hoặc đến từ một vùng nào đó. Đức Giêsu hướng dẫn họ đi tìm kiếm chân lý. Họ đã vây quanh Đức Giêsu, tỏ ra khao khát, khi ngài giảng dạy để giúp họ học hỏi về một thực tại sâu sa nhất, đó là về Thiên Chúa và về chính họ. Vào một ngày Sabbat, Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy dân chúng. Đám đông kinh ngạc về những điều Chúa Giêsu dạy bảo, bởi vì Ngài dạy dỗ họ như một Đấng có uy quyền, chứ không giống các kinh sư thời đó. Những nhà lãnh đạo tôn giáo, các ký lục và các nhà thông luật, đã được Marcô nhắc tới ở đoạn văn này, cho dù dường như họ không có mặt tại hội đường lúc bấy giờ. Marcô đã nhắc đến họ như một hình thái tương phản với uy quyền của Đức Giêsu. Có lẽ nếu những kinh sư có mặt ở đó, họ sẽ phản kháng ngay lập tức. Họ sẽ hạch sách vì lời dạy của Đức Giêsu đụng chạm đến cuộc sống và đặc quyền của họ. Chắc chắn họ không chấp nhận rằng uy quyền của Đức Giêsu đặt nền tảng trên Kinh thánh hoặc uy quyền đó khởi nguồn từ nơi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, động thái cuối cùng của Đức Giêsu tại hội đường Capharnaum đã minh chứng rằng, uy quyền của Ngài qua lời giảng dạy, bắt nguồn đích thực từ nơi Thiên Chúa, khi Ngài chữa lành một người bị thần ô uế ám. Người bị quỷ ám la lên “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi. Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã chữa cho người bị quỷ ám, và đám đông một lần nữa lại tỏ ra kinh ngạc. Sự ngạc nhiên của họ cũng gợi lại sự kinh ngạc khi họ nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ hỏi nhau “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.” Đó là sự hiện diện và uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng đang ở giữa họ. Uy quyền và những lời dạy đó không phải là một bài học lý thuyết để chúng ta động não và nhồi nhét vào đầu, nhưng là một thực tại linh thánh để chúng ta đi đến và gặp gỡ.
Các thầy giáo cần phải nắm bắt kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực mà mình giảng dạy, đặc biệt về thần học và kinh thánh. Sự chuyên sâu và có thẩm quyền để giảng dạy luôn cần thiết trong mọi lãnh vực chúng ta chuyên trách. Nhưng trên hết, tất cả chúng ta đều là học trò, đang thụ giáo nơi một vị thầy duy nhất. Thầy giáo đó có uy quyền thực sự, uy quyền đem đến cho ta niềm vui và ơn cứu độ. Học dưới ngôi trường này, và được thụ giáo nơi vị tôn sư này, chúng ta sẽ mãi mãi không bao giờ tốt nghiệp, và vị thầy đó mãi luôn còn hướng dẫn và dạy dỗ chúng ta. Ngài sẽ dạy chúng ta hướng đến một mục tiêu duy nhất: Đó là để chúng ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa, và đi đến sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài.