Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN5-B Bài 101-150 Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau ------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 29-39:“Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật cho chúng ta về những hoạt động và những giờ TN5-B101
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật cho chúng ta về những hoạt động và những giờ phút yên tĩnh của Đức Giêsu khi Người bắt đầu đời sống công khai ở Ga-li-lê-a. Suốt cả một ngày Người đã luôn năng nỗ và không bao giờ mỏi mệt chu toàn sứ mệnh mà Chúa Cha đã giao phó. Sứ mệnh chính yếu của Người là việc rao giảng Nước Thiên Chúa cho hết mọi người: “Chúng ta hãy đi sang các làng bên cạnh; Thầy cũng muốn rao giảng ở những chỗ đó nữa, bởi vì Thầy được sai đến là để làm chuyện đó”. Lời nói này của Đức Giêsu đã giúp chúng ta hiểu được chính xác hơn mục đích của những phép lạ Người đã làm: Tất cả đều nhắm phục vụ cho công cuộc thuyết giáo của Đức Giêsu về “Nước Trời sắp đến gần”. Mọi lời giảng dậy và mọi việc Người làm đều hoàn toàn nhắm tới sứ mệnh rao giảng Tin Mừng như mục đích duy nhất. Trước hết những lời nói và việc làm của Người là mạc khải cho những người có đức tin mầu nhiệm về Nước Thiên Chúa (x. Mc 2,10-12; 4,11). Như có lần thánh Augustinô đã viết: “Các phép lạ cũng có ngôn ngữ riêng, nếu như người ta hiểu được chúng: Chúng nói về Đức Kitô” (In Johann. Tr. 24,2)
Bởi vậy, Phúc Âm nhắc lại cho chúng ta về Đức Giêsu, Đấng đã chữa lành cho bà mẹ vợ của Simon, cho những bệnh nhân và những người bị quỉ ám mà vào cuối ngày người ta đã khiêng tới đặt trước cửa nhà Simon và Anrê để xin Người chữa cho. Nhưng việc quan trọng không phải là để mong được chữa lành bệnh, nhưng là để lắng nghe Đức Giêsu thuyết giáo về Nước Trời. Tiếp đến, ngày xưa cũng như hôm nay, điều người ta cần phải làm là dứt khoát đáp lại lời kêu mời của Đức Giêsu và sống như Người đã sống.
Tuy nhiên, một khi người ta đã không muốn tin và không đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu thì cũng không thể hiểu biết được lời giảng và việc làm của Người (x. Mc 8,11). Dù cho họ có chứng kiến hay nghe nói về các phép lạ Người đã làm bao nhiêu lần đi nữa, thì con mắt tâm hồn họ vẫn trong cảnh mù lòa (x. Mc 4,12).
Do đó Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ từ chối chứng nhân của ma quỉ. Người chỉ muốn thức tĩnh đức tin nơi mỗi người bằng chính lời nói và việc làm của mình. Do đó Người đã bỏ thành Ca-pha-na-um để đi sang các thôn xóm kế cận rao giảng. Đức Giêsu giảng thuyết cho dân chúng về Nước Thiên Chúa và trừ khử ma quỉ. Vì Người đến trong thế gian là để thực thi chuyện đo.
Những hoạt động hăng say cho Nước Trời như thế của Đức Giêsu chỉ bị gián đoạn bằng những giờ phút cầu nguyện hàn huyên với Chúa Cha trong nơi thanh vắng. Đó chính là những giờ phút nghĩ ngơi yên tĩnh của Người. Nơi Đức Giêsu: cuộc sống và sự cầu nguyện, cầu nguyện và cuộc sống hoàn toàn đan kết chặt chẽ với nhau: “Vào buổi sáng sớm, khi trời còn tối, Đức Giêsu đã chỗi dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”. Đây là lần đầu tiên thánh sử Mác-cô tường thuật về sự cầu nguyện của Đức Giêsu. Trong những phần kế tiếp của bản Phúc Âm, thánh nhân còn trình bày chân dung Đức Giêsu như là gương mẫu trong sự cầu nguyện, và đồng thời thánh nhân cũng đã nhắc đến lời cảnh giác của Đức Giêsu là phải cầu nguyện thế nào cho đúng đắn.
Trong bốn thánh sử ghi chép Phúc Âm chỉ có thánh Mác-cô nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu đã đi tới một nơi thanh vắng để Người cầu nguyện. Vâng, đoạn Phúc Âm ghi lại là sau khi làm phép lạ đầu tiên khiến bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng, Đức Giêsu đã đi lên Núi một mình “để cầu nguyện” (6,46). Trong Phúc Âm thánh Mác-cô người ta còn đọc được lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giêsu cùng Chúa Cha trong cơn sầu khổ tột độ: “Áp-ba, Cha ơi” (14,36). Kiểu nói “Áp-ba, Cha ơi” trong tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu là kiểu nói đầy trìu mến của một đứa trẻ nói với cha ruột của mình. Kiểu nói “Áp-ba, cha ơi” vào thời Đức Giêsu chưa một ai dám xử dụng để xưng hô với Thiên Chúa. Chỉ có Đức Giêsu là người đầu tiên duy nhất đã xử dụng kiểu nói đó. Đúng vậy, như một đứa bé lúc gặp phải nguy tử đã chạy đến ôm chặt vào cha mình, Đức Giêsu đã chạy đến cùng Chúa Cha và tin tưởng van nài: “Áp-ba, Cha ơi, đối với Cha tất cả mọi sự đều có thể.
Xin Cha cho con khỏi uống chén đắng này. Tuy nhiên, xin Cha đừng làm theo ý con, nhưng hãy làm theo ý Cha” (14,36). Tình con thảo và lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối của Đức Giêsu trong khi câu chuyện trao đổi với Chúa Cha trên đã giúp cho chúng ta hiểu rõ được lời cầu nguyện của Người trong lúc hấp hối trên thánh giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?” (15,14). Đây không phải là lời kêu hốt hoảng vô ý thức hay một sự bộc lộ thất vọng cay đắng. Trái lại, trong cơn hấp hối đầy sợ hãi, Đức Giêsu đã xướng lên câu đấu của một thánh vịnh (Tv 22,2) như một lời nguyện thầm, mà kết cấu là sự phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Chúa đã nhậm lời con xin” (Tv 22,22)
Đức Giêsu cầu nguyện luôn và người mời gọi chúng ta cũng hãy cầu nguyện không ngừng. Thánh sử Mác-cô đã ghi lại những lời nhắc nhở của Đức Giêsu về sự tĩnh thức cầu nguyện. Vâng, con người luôn phải siêng năng và tĩnh thức cầu nguyện, vì cuộc đời con người là một cuộc chiến đấu dằng co với đủ mọi thứ thù địch, trong đó gay cấn nhất là cuộc “nội chiến” trong chính mình: Con người phải chiến đấu chống trả những cám dỗ (14,38), những xu hướng và những đòi hỏi quá độ của thân xác. Tiếp đến, con người phải đề phòng những nghịch cảnh và những hoạn nạn sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (13,18tt). Nhưng theo Phúc Âm Mác-cô, muốn cho lời cầu xin của mình được chấp nhận, con người cần phải thỏa mãn được hai điều kiện tiên quyết mà Đức Giêsu đã đặt ra, đó là sự tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa (11,22-24) và sự luôn sẵn sàng tha thứ, hòa giải với đồng loại (11,25; Mt 6,14-15).
Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong nơi thanh vắng thực sự là thời gian tĩnh dưỡng, là thời gian “lấy lại sức” để tăng cường cho các hoạt động thuyết giáo của Người. “Ora et labora” - Cầu nguyện và làm việc - đã được Đức Giêsu bắt đầu ở Na-da-ret trong suốt 30 năm trời và nay lại được tiếp tục trong cuộc sống công khai của Người. Điều đó đã đủ nói lên rằng: Cầu nguyện và hoạt động là hai điều kiện tất yếu cho cuộc sống của tất cả mọi Kitô hữu và nhất là của những ai dấn thân làm việc Tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa.
Một điểm khác đáng ghi nhận trong phần cuối bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay là thánh sử Mác-cô đã nhắc đến thánh Phêrô. Với tính bộc phát và hăng hái sẵn có của mình, Simon Phêrô đã dẫn các bạn đồng nghiệp đi lục soát tìm kiếm Đức Giêsu khắp nơi, và khi gặp được Người đang cầu nguyện trong một nơi hoang vắng liền thối thúc Người: “Thưa Thầy, ai nấy đều đi tìm Thầy đó”, chứ ông không hề nghĩ đến chuyện phải tôn trọng “giờ cầu nguyện” của Thầy. Chắc chắn rằng vào lúc bấy giờ Simon Phêrô chưa hiểu được việc cầu nguyện đối với Đức Giêsu quan trọng như thế nào! Ông cũng chưa biết đánh giá được sự yên tĩnh, sự lắng đọng của tâm hồn, hầu có thể nghe được tiếng Chúa, hầu có thể chìm sâu vào trong cầu nguyện!
Phải chăng trong cuộc sống hằng ngày đã có biết bao lần chúng ta cũng đã tư duy và hành động tương tự như Simon Phêrô xưa? Thật sự, đời sống đức tin, đời sống Kitô hữu của chúng ta đang phải đứng trước những mối đe dọa nguy hiểm trầm trọng, nếu chúng ta - vì bất cứ lý do gì - coi thường hay rút ngắn những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong sự lắng đọng của tâm hồn, để lao mình vào đủ thứ công việc - công việc sinh nhai cũng như công việc tông đồ. Vì đời sống một người mà thiếu cầu nguyện, những hoạt động tông đồ mà không có sự cầu nguyện kèm theo thì chỉ là cái xác không hồn hay chỉ là những chiếc xe thiếu xăng dầu.
Vâng, bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật về các hoạt động và cầu nguyện của Đức Giêsu, đã đặt ra cho lương tâm mỗi người Kitô hữu một vấn nạn thực tiễn: Liệu trong suốt chuỗi ngày sống, tôi còn dành cho mình có được giây phút nào đó để cầu nguyện nữa không? Ước gì gương sống của Đức Giêsu - Ora et labora - có được “tiếng dội” trong những ngày sống sắp tới của chúng ta.
Để hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh sốt của bà mẹ vợ ông Simon, ta cần TN5-B102
Để hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh sốt của bà mẹ vợ ông Simon, ta cần phải biết rằng vào thời đó, bệnh sốt được coi như là một trong những hình phạt đối với những người mắc tội bất trung: "Nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta, thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này: Ta sẽ trút xuống các người nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt các ngươi mờ đi và các ngươi mờ đi và các ngươi phải kiệt sức" (Lv 26,15-16a). Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy", người bệnh lập tức được chữa lành, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn và bà đi phục vụ Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài. Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này mang một ý nghĩa biểu tượng: loài người đã từng bị nằm liệt do cơn sốt là tội lỗi. Nhờ Phép Rửa tội, Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy" có nghĩa là Ngài đến giải thoát con người khỏi tội lỗi, chữa lành họ, giúp họ trở thành những kẻ phục vụ Chúa và Giáo Hội. Chính Chúa Giêsu đã làm cho việc được chữa lành và phục vụ đi đôi với nhau.
Chúng ta là những người đã được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng để biết được mình lành mạnh ra sao là nhờ vào những việc phục vụ mà mình đang làm. Tuy nhiên, những công việc phục vụ hữu hiệu luôn đòi hỏi sự quan tâm, biết chia sẻ thời giờ, tiền bạc và của cải, lại là những việc mà chúng ta hay nghi ngại và không thích làm. Nhưng nếu chúng ta ích kỷ, chỉ biết sống cho bản thân mình, đóng khung trong gia đình mình hay nơi một vài người mà mình thương mến, mà thiếu tinh thần phục vụ Chúa, phục vụ Họ Đạo, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân, thì linh hồn mình vẫn còn bệnh hoạn, tâm hồn mình còn đang suy yếu. Khi chúng ta sống đúng tinh thần phục vụ vô vị lợi của Chúa, của Giáo Hội, thì ngay lúc đó, tâm hồn chúng ta mới thực sự được chữa lành và đến ngày sau hết, chúng ta mới được "đỡ dậy", được Phục Sinh với Chúa Kitô.
Nếp sống đơn điệu thường ngày với những bon chen cơm, áo, gạo, tiền, dễ làm cho con người rơi TN5-B103
Nếp sống đơn điệu thường ngày với những bon chen cơm, áo, gạo, tiền, dễ làm cho con người rơi vào mệt mỏi, chán nản và không ít người đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng đối với người Kitô hữu, mỗi ngày sống lại là một quà tặng mà Thiên Chúa ban. Để nhận ra ân ban này và sống với tất cả niềm hạnh phúc, ta được mời gọi nhìn ngắm và noi theo một ngày sống của Chúa Giêsu.
1. Chúa Giêsu cầu nguyện
Khởi đầu ngày sống mới, Chúa Giêsu ưu tiên cho việc cầu nguyện. Tin mừng Marcô cho thấy Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi rao giảng, khi chữa lành các bệnh nhân, khi gặp gỡ đối thoại, khi bị chống đối... Cầu nguyện là một nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Đó là phương thế hữu hiệu để Ngài kết hiệp mật thiết với Cha và tìm ý Cha. Chúa Giêsu cần thời gian thinh lặng để sống riêng tư bên Cha, tâm sự với Cha về gánh nặng của sứ vụ, về những khổ đau của con người, về những cuộc chiến chống lại sự dữ. Mang trong mình bản tính nhân oại, chắc hẳn Chúa Giêsu cũng cần được Cha nâng đỡ, cảm thông và sẻ chia. Cầu nguyện sẽ đưa Chúa Giêsu đến với con người để đồng cảm, chữa lành những khổ đau và hoạt động với con người lại đưa Chúa Giêsu đến gần Cha Người hơn.
2. Chúa Giêsu làm việc lành
Rời hội đường ở Capharnaum, Chúa Giêsu đến nhà Simon và Anrê. Nhạc mẫu của ông Simon đang bị cơn sốt hành hạ và nằm trên giường. Sốt không phải là loại bệnh nan y, khó chữa trị. Nhưng người Do Thái lại xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28, 22; Lv 26, 16) khiến người bệnh chỉ có thể nằm. Người ta gán cho căn bệnh này là do ma quỷ. Vậy mà cách Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt cho bà mẹ vợ ông Simon thật đơn giản: Ngài cầm lấy tay bà và nâng bà dậy, lập tức cơn sốt biến mất và bà có thể đi lại để phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đã nâng một con người dậy bằng quyền năng nào? Sức sống mãnh liệt nào đã truyền qua cử chỉ cầm tay này? Chắc hẳn đó là từ chính Thiên Chúa. Ngày nay, nhân loại cũng cần biết bao được Chúa nắm lấy tay và nâng dậy khi bị sức nặng của những khổ đau, những mải mê trần thế đang ghì kéo con người xuống.
Rồi chiều đến, người ta đem đến cho Đức Giêsu biết bao kẻ đau ốm và bị quỷ ám. Ngài đã chữa lành tất cả. Mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên. Chữa lành là dấu chỉ chiến thắng ma quỷ. Chúa Giêsu đến cứu chữa và giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỷ. Ngài mạc khải cách tiệm tiến cho dân chúng bằng cách cho họ thấy dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Ngài trên tội lỗi, ma quỷ và trên sự sống, để từ đó dẫn họ tới đức tin. Đức tin vào Chúa Giêsu chỉ thật sự có giá trị khi hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Chúa Giêsu, đặc biệt hiểu Ngài phải chết và sống lại để hoàn tất chương trình cứu độ.
Như vậy, Chúa Giêsu đến nhà Simon không chỉ để dùng bữa, nhưng điều quan trọng là để phục hồi sức sống nơi những con người đau khổ, bệnh tật. Chứng tỏ Ngài đến trần gian để tìm kiếm con người chứ không phải của cải của con người và Ngài muốn ban cho con người của cải cao quý từ trời cao là lòng thương xót và sự sống của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu muốn những ân ban này được trao tặng cho mọi người.
3. Chúa Giêsu tiếp tục lên đường
Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, c hữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. “Mọi người đều đi tìm Thầy”, chứng tỏ mọi người ở đây vẫn cần đến Đức Giêsu. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo ý Cha Ngài. “Hãy đi đến những làng, những thành lân cận”, Chúa Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người.
Đó là một ngày sống của Chúa Giêsu, đầy ắp những hoạt động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên cha. Hoạt động và cầu nguyện là những nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi trần gian. Một ngày làm việc của Ngài với bao vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy ta dùng thời gian có ích cho tha nhân bằng việc sống yêu thương và phục vụ.
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp TN5-B104
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
(Suy niệm của John. W. Martens – Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ)
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (Mc1,38)
Có nhiều thái độ khác nhau khi chúng ta thẩm định về những công việc thường ngày. Một người TN5-B105
Có nhiều thái độ khác nhau khi chúng ta thẩm định về những công việc thường ngày. Một người không có công ăn việc làm, cuộc sống sẽ bấp bênh, đời sống kinh tế sẽ không được bảo đảm. Rơi vào tình trạng thất nghiệp, người ta dễ chán nản và mất tự tin. Ngược lại, những ai có việc làm ổn định, sẽ an tâm khi về hưu trí. Cho dù, đôi lúc công việc làm ăn là cả một gánh nặng với bao vất vả, nhưng nó rất cần thiết để đảm bảo nhu cầu vật chất cho cuộc sống mỗi người. Giữa hai trạng huống, một đàng cần có việc làm, đàng khác, lại ước muốn thoát khỏi gánh nặng đó, là một thực tại vẫn luôn giằng co căng thẳng, ẩn sâu nơi cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Tác giả John Hughes đã viết “ Trải dài theo truyền thống Kitô giáo, người ta vẫn nhìn vào công việc với nhiều ý nghĩa khác nhau. Đôi khi người ta xem việc lao động như là một hình thái gắn kết chặt chẽ với bản tính nhân loại trong chính thiện ích của nó ngay từ thưở nguyên sơ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân định rằng đã có lúc, thân phận người lao động cùng khổ cũng gắn liền với kiếp nô lệ, và họ phải luôn đấu tranh mong thoát khỏi để sinh tồn (trích trong sách The end of Work)”
Gióp đã phản hồi với Chúa, khi ông gợi nhắc đến những công việc vất vả trong cuộc sống thường ngày của kiếp người “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày làm lụng vất vả có khác gì đời kẻ làm thuê?” (Gióp 7,1). Gióp đã than vãn cách bi quan khi nhìn vào những vất vả lao động như một gánh nặng, cho dù nhìn ở góc cạnh khác, công việc thường ngày của kiếp nhân sinh vẫn hàm ngậm một chiều kích tích cực hơn. Ngày Sabbat mà Kinh thánh nói tới, là ngày nghỉ ngơi, cho thấy công việc hằng ngày vẫn chỉ mang tính tương đối. Sự nghỉ ngơi đó, theo tác giả Hughes, hướng chúng ta đến một thực tại cao cả hơn, đó là sự an nghỉ cuối cùng trong Chúa. Cùng đích của cuộc nhân sinh chính là sự nghỉ ngơi an bình trong bàn tay của Thiên Chúa, nhưng cuộc sống con người trên trần gian ngày hôm nay vẫn đòi hỏi phải có công ăn việc làm để mưu sinh.
Chúng ta cần phân định giữa những công việc thường ngày để sinh nhai với công việc phục vụ Vương quốc Nước trời mà Tân ước hay nói đến. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta nói rằng những công việc lao động trong thực tại trần thế này không quan trọng. Những công việc đời thường chúng ta làm, vẫn luôn hàm ngậm những sự tốt lành và thiện ích một cách nội tại. Nhưng chúng ta cần phải tránh hai thái cực: Một là, xem công việc như một thần tượng mà chúng ta cần phải tôn thờ, phải đeo bám bằng bất cứ giá nào, hai là chúng ta lại cố né tránh mọi việc làm để ở không một cách lười biếng.
Có lẽ, chúng ta sẽ nhận ra những thiện hảo nơi công việc chúng ta thực hiện hằng ngày, khi đọc lại các bản văn trong kinh thánh. Thánh Phaolô cũng đã từng làm việc để mưu sinh với nghề dệt lều (Cv 18,13). Nhưng công việc phục vụ cho Tin mừng vẫn ý nghĩa hơn, và quan trọng hơn đối với Ngài.
Dầu sao, Thánh Phaolô luôn từ chối mọi thù lao khi Ngài thực hiện sứ mạng tông đồ. Ngài viết “Đối với tôi, rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng. Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công. Còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin mừng, tôi rao giảng không công chẳng hưởng quyền lợi Tin mừng dành cho tôi (1 Cor 16-18). Công việc của Thánh Phaolô để phục vụ Vương quốc Nước Trời là một việc làm mang chiều kích linh thánh, và những ai thực thi sứ vụ này sẽ được vào hưởng sự nghỉ ngơi vĩnh hằng trong tay Chúa.
Chính Đức Giêsu cũng nhận thức được những thiện ích và sự cần thiết của công việc, cùng với sự nghỉ ngơi đi kèm theo. Đó không phải chỉ là sự nghỉ ngơi để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như mục đích tối hậu của cuộc sống con người mà chúng ta vươn hướng tới. Đức Giêsu muốn đề cập đến sự nghỉ ngơi sau những lao nhọc vất vả của cuộc sống nhân sinh. Ngài đến trần gian để thực hiện sứ mạng xây dựng Nước Trời, và chúng ta cũng thấy Ngài thực hiện sứ mạng đó, rất quân bình giữa công việc và sự ngơi nghỉ. Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho nhạc mẫu của Thánh Phêrô, như Tin mừng Marcô thuật lại, bà trỗi dậy ngay sau đó và phục vụ các ngài. Cũng vậy, sau khi Đức Giêsu vất vả chữa lành các bệnh nhân với nhiều chứng bệnh khác nhau, và trừ nhiều quỷ, Ngài cũng kiếm tìm một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, và Ngài cầu nguyện ở đó. Đức Giêsu cũng cần những phút giây tĩnh lặng để thư giãn sau những mệt nhọc vất vả với bao công việc bề bộn thường ngày.
Tuy nhiên, như Marcô trình thuật lại, Phêrô và các bạn đi tìm kiếm Đức Giêsu, lúc Ngài ẩn tránh, lui vào một nơi thanh vắng và ở đó một mình. Ngài không khiển trách các tông đồ cho dù có vẻ như họ đang quấy rầy, xen vào sự tĩnh dưỡng của Ngài. Đức Giêsu nói với họ “ Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để làm công việc này.” Đức Giêsu có những công việc cần phải làm và điều căn bản ở đây, là Ngài đã chu toàn những công việc ấy rất tốt đẹp để phục vụ cho Vương quốc Nước Trời. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có làm việc hay không? chúng ta đã và đang làm những công việc gì, làm cho ai, và làm như thế nào?
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: bệnh bò điên TN5-B106
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: bệnh bò điên (Mad-Cow discease). Những người mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu, người ta phát hiện có mười người mắc phải bệnh này ở Anh quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố: “Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi con người”.
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh Quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỉ đô la.
***
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x.Ds 5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định: “chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng tôi được xua ma quỷ, được chữa lành bệnh tật linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoan tật nguyền. V. Ghika có viết: “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau của kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người”.
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
***
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen.
Chúa Giêsu đến trần gian đem tình thương cho nhân loại. Ngài chữa bệnh và giúp chúng ta thấy TN5-B107
Chúa Giêsu đến trần gian đem tình thương cho nhân loại. Ngài chữa bệnh và giúp chúng ta thấy được ý nghĩa của đau khổ và bệnh tật.
Sống trong thế trần, con người phải trải qua nguyên lý là "sinh, lão, bệnh, tử". Nguyên lý ấy chi phối mạnh mẽ đến nỗi không ai có thể thoát khỏi nó. Một trong những đau khổ đeo bám con người là bệnh tật. Bệnh tật làm cho con người "đau" về thể xác và hơn thế nữa nó còn làm cho họ "khổ" về tinh thần. Hơn nữa vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái cho rằng bệnh tật của con người là do tội lỗi của họ, bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt. Do đó, những người mắc bệnh thường bị cách ly, họ bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Họ đau về thể xác rồi nhưng còn phải khổ hơn về tinh thần vì phải đối diện với quan niệm này.
Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian nhằm mang đến hạnh phúc cho con người. Bên cạnh việc rao giảng Tin mừng, Ngài còn chữa bệnh và cứu sống cho con người. Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau giúp cho con người sống hạnh phúc. Hôm nay Phúc âm ghi lại việc Ngài trả lại sức khoẻ cho bà mẹ vợ ông Simon. Ngài đem lại hạnh phúc cho bà và cho những người chứng kiến. Bởi vì Ngài có quyền năng trên bệnh tật và sự chết. Ngài chính là nguồn vui, là niềm hạnh phúc của nhân loại. Thông qua việc chữa lành Ngài còn hướng chúng ta đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt qua này mà đau khổ của con người có được ý nghĩa tích cực: đau khổ không phải là hình phạt. Ngài khai sáng cho người ta con đường mới: trong đau khổ người ta có thể kết hợp mật thiết với Chúa, gia tăng lòng tin và trông chờ vào Đấng có quyền năng giải thoát.
Như thế, Chúa Giêsu còn hơn vị lương y. Ngài chính là vị cứu tinh của nhân loại. Bởi Ngài không những chữa lành những bệnh tật, đau khổ nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trên đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào sự sống đời đời, một niềm hạnh phúc bất tận. Nhờ đó, đau khổ sẽ là một sự hiện diện của tình yêu. Mặc dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn nạn chưa được giải quyết thoả đáng nhưng đã có tình yêu của Thiên Chúa, mầu nhiệm ấy trở nên ý nghĩa hơn.
Hôm nay chúng ta nhận ra ân huệ Chúa Giêsu đem đến cho con người. Ngài rao giảng Tin mừng và chữa lành. Ngài giúp chúng ta xác tín rằng dù con người có phải vất vả đối điện với đau khổ và bệnh tật nhưng con người vẫn có Thiên Chúa hằng quan tâm chăm sóc và chữa lành. Con người vẫn luôn có Thiên Chúa ở ngay bên để thông cảm, chia sẻ và nâng đỡ. Con người sẽ được khoẻ mạnh và sống bình an. Nhờ đó con người có thể sống vui tươi hơn, hạnh phúc hơn.
Nếu Chúa Giêsu là vị Bác sĩ tài giỏi và nhân từ thì chúng ta hãy chính là những người y tá bác ái, sẵn sàng cộng tác với Chúa Giêsu trong việc chữa lành bệnh nhân. Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, có thể giúp đỡ tha nhân, chúng ta có thể xoa dịu phần nào nỗi khổ đau của nhân loại mang lại niềm vui cho mọi người. Ngoài ra, đứng trước nỗi đau khổ của kẻ khác, có khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết làm cách nào để giúp đỡ họ. Những lúc đó, có thể người ta cần chúng ta cảm thông, chia sẻ với họ bằng thái độ thinh lặng, lắng nghe họ tâm sự, ánh mắt cảm thông. Ngay cả khi chúng ta không thực hiện được điều đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Cùng tất cả tấm lòng yêu thương chân thành của chúng ta, chúng ta hãy hiện diện với họ cả con tim và đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã đến trần gian loan báo Tin mừng và chữa bệnh cho con người. Ngài cho chúng con thấy tình thương của Thiên Chúa và giúp chúng con thấy được mặc dù chúng con gặp đau khổ và bệnh tật, Thiên Chúa vẫn ở bên chúng con và đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn tin yêu và phó thác vào Thiên Chúa tình thương và xin cho mỗi người Công giáo chúng con cũng biết đem niềm vui và hạnh phúc cho những ai mà chúng con gặp gỡ trong môi trường mình đang sống. Amen.
Ông Gióp than thở: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?...Gia TN5-B108
Ông Gióp than thở: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?...Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề." (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con người được trình bày, mô tả. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ nhưng cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì "chiều đến, khi mặt trời đã lặn, ngưòi ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ." (Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn "nhổ cỏ tận gốc", tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái "dục" của con người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra là " diệt dục". Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời "sinh - lão - bệnh - tử là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một người được sinh ra là khổ, cho dù " thoặt sinh ra thì đà khóc choé". Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình "muốn" được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc. Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn. Và sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề có khổ đau, vì không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh...thì người ta đều chân nhận rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự "tri kiến". Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu "hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình", thì sẽ có cơ may vượt qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi".
Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh khổ đau, nhưng không lẫn trốn đau khổ.
Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác TN5-B109
Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi trần gian này. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước cảnh sống cơ cực đó, những kẻ bi quan thì than thở như trong bài đọc thứ nhất của sách ông Gióp: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của tôi. Ngày của tôi giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên bác tiều phu cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa.
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động: lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn. Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
. Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc lao động của chúng ta.
. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
. Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp.
. Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
. Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian...
Xin Chúa ban cho tất cả chúng con một khối óc biết sáng tạo, một đôi tay biết làm nên những bát cơm đầy để xoa dịu những cơn đau do đói khát đem lại, một đôi tay biết xây dựng một mái ấm gia đình nên tươi đẹp. Xin Chúa nâng đỡ những lao công vất vã của chúng con, và xin Chúa ban cho chúng con những ơn lành hồn xác. Amen.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu TN5-B110
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc: Giảng dạy trong hội đường rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; Buổi chiều cho đến tối mịt, Chúa chữa lành dân chúng đủ loại bệnh hoạn tật nguyền; Sáng sớm tinh mơ, Chúa dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha.
Công việc bề bộn mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.
1. Cầu nguyện:
“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Người cần có thời gian sống riêng tư một mình. Người cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nổi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Người thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng.Người cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
2. Rao giảng
Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng. “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy”(1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Người đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Người không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.
Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nói đến bổn phận rao giảng Phúc Âm mà ngài đã lãnh nhận. Thánh nhân đã chu toàn và để công cuộc rao giảng được kết quả, “tôi đã trở nên yếu đuối với người yếu đuối… trở nên mọi sự cho mọi người.”
3. Chữa lành thể xác tâm hồn.
Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy;cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (1,29-31).Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như sau này Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), như sau này Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người” (1,32). Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.
Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).
Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Người không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu đầy ắp yêu thương trong mọi công việc phục vụ. Người có một trái tim rung động luôn “chạnh lòng thương”, có một tấm lòng bao dung vô bờ bến. Rao giảng Tin Mừng yêu thương, làm phép lạ chữa lành, mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ những kẻ tội lỗi. Chúa chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn con người.
Gặp Chúa, những ai sống ích kỷ đều trở nên quãng đại, những ai ghen ghét hận thù đều trở thành yêu thương tha thứ. Gặp Chúa, con người tìm được mùa xuân cuộc đời.
4. Một ngày làm việc của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
5:30 sáng: Khi công trường Thánh Phêrô còn đang yên tĩnh trong bầu khí buổi sáng sớm của thành Rôma và chờ đợi những đoàn du khách sẽ lần lượt kéo đến, trên tầng thứ ba của tòa nhà nơi Đức Giáo Hoàng cư ngụ và làm việc, người ta thấy ánh sáng đèn bắt đầu chiếu lên; đó là lúc Đức Giáo Hoàng thức dậy và bắt đầu một ngày mới với những giờ phút cầu nguyện và tĩnh tâm sáng.
7:00 sáng: Đức Giáo Hoàng dâng Thánh Lễ tại nhà nguyện riêng cùng với sự hiện diện của hai Đức Ông Goerg Gaenswein và Alfred Zuereb (hai vị Thư Ký của Đức Giáo Hoàng) và bốn người giúp việc. Thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì thường có thêm một số khách được vào cùng dâng lễ.
8:30 sáng: Đức Giáo Hoàng làm việc tại Văn phòng riêng. Nếu trời tốt, cửa sổ nhìn ra công trường Thánh Phêrô sẽ mở (chính từ cửa sổ này, vào mỗi trưa Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng nguyện kinh Truyền Tin cùng với các khách hành hương tụ tập tại công trường Thánh Phêrô phía dưới). Một trong hai Đức Ông Thư ký sẽ đem đến cho Đức Giáo Hoàng tập các văn kiện, bản tóm lược các tin tức quan trọng trên thế giới, chương trình làm việc trong ngày, những người Ngài sẽ gặp và những đề tài chính sẽ đề cập đến.
11:00 Trưa: Đức Giáo Hoàng xuống phòng tiếp tân ở tầng hai để tiếp các vị thủ lãnh các quốc gia, các vị Giám Mục, các nhân vật quan trọng… đã được sắp xếp theo chương trình. Sau đó Ngài tiếp các khách đến viếng thăm tại thư viện riêng.
1:30 Trưa: Đức Giáo Hoàng dùng bữa trưa đơn giản tại phòng ăn ở tầng ba với các viên chức hoặc đôi khi có khách được mời. Sau đó Đức Giáo Hoàng thường chơi Piano, đặc biệt những bản của Mozart, rồi đi dạo một chút trước khi nghỉ trưa.
3:30 Chiều: Đức Giáo Hoàng lại làm việc tại văn phòng để duyệt lại các văn kiện và các bài diển văn.
Vào Mùa Đông từ 4:00 đến 4:45 chiều (vào mùa Hè từ 6:45 đến 7:30), Ngài ra vườn để đi dạo với hai vị thư ký.
6:00 Chiều: Ngài gặp gỡ tại văn phòng riêng, các vị cố vấn thân cận, như các Đức Hồng Y, các Giám Mục Tổng Trưởng, Tổng Thư Ký các Bộ tại Tòa Thánh.
7:30 Tối: Đức Giáo Hoàng ăn bữa tối, xem tin tức trên truyền hình. Sau đó Ngài vào Nhà Nguyện để cầu nguyện trong yên lặng ban đêm.
Khi chuông Đại Thánh Đường Thánh Phêrô điểm 11 giờ đêm, đèn phòng ngủ của Đức Giáo Hoàng tắt và Ngài bắt đầu nghỉ đêm. (x.Vietcatholic, 19/06/2008, Lm Anphong Trần Đức Phương Phỏng theo Isabelle de Gaulmyn, “A day in the life of the Pope” trong Catholic Digest April 2008).
Ngày làm việc bận rộn của Chúa Giêsu, ngày làm việc của Đức Giáo Hoàng đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, 1999) nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23).
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).
Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
Một chiều năm 1953, một số ký giả và nhân viên chính phủ Hoa Kỳ đến ga xe lửa Chicagô đón người được giải thưởng Noben Hoà bình năm 1952.
Người vừa xuống xe lửa là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ. Các máy ảnh chớp lia lịa, các nhân viên cao cấp của thành phố đưa tay cao đón chào vị thượng khách. Bỗng vị thượng khách đưa mắt nhìn về sân ga, rồi xin lỗi mọi người đi thẳng về hướng đó. Ai nấy tưởng là ông còn quên hành lý, nhưng ông băng qua đám đông, đến với một người đàn bà da đen đang khệ nệ hai chiếc va li nặng trên tay. Ông cầm lấy hai chiếc va li, mỉm cười nói với người đàn bà và đưa bà lên chiếc xe bus gần đó. Khi quay lại với những người đón rước, ông xin lỗi họ vì đã bắt họ chờ lâu.
Người được giải thưởng Noben Hòa bình đó không ai khác hơn là bác sĩ Ampere Soiyer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh trọn đời cho người nghèo Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban tổ chức đón tiếp ông nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi…”
--------
Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu chính là lời tỏ tình trọn vẹn và sau cùng của Thiên Chúa đối với con người. Cái chết đó là lời loan báo Tin mừng sống động nhất.
Tình yêu luôn mời gọi đáp trả bằng tình yêu. Nhưng tình yêu đích thực không chỉ được nói lên bằng môi miệng mà còn phải được diễn tả bằng hành động cụ thể, bằng tất cả cuộc sống.
Cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa qua cái chết của Chúa Giêsu, người Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi loan truyền và san sẻ tình yêu ấy cho mọi người. Chúng ta không chỉ loan truyền bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta, như Chúa Giêsu qua cái chết của Người, qua các lần chữa bệnh trừ quỷ của Người mà Tin mừng hôm nay kể lại cho chúng ta biết; và như bác sĩ Ampere Soiyer qua cuộc đời hy sinh phục vụ người nghèo và kẻ yếu thế của ông.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
2. Cầu nguyện
Frédéric Ozanam, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin lúc còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ cổ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người đó vừa đứng lên để ra khỏi giáo đường, chàng sinh viên nhận ra người đó chính là nhà bác học vĩ đại Ampere. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
- Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý chăng? Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp: - Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. Xin ông cho tôi hỏi một số vấn đề có liên quan đến đức tin. Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: - Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được gì, tôi sẵn sàng. - Thưa ông, có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không? Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Nhưng ông cũng gượng gạo trả lời: - Anh ơi! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
--------
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu thời danh: “Con người vĩ đại khi họ cầu nguyện”.
Cầu nguyện tức là đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người. Con người chỉ nhận ra phẩm giá cao cả của mình khi nó thấy được thân phận thụ tạo và mối dây liên kết nó với Đấng Tạo Hóa.
Được tạo dựng bởi và cho Thiên Chúa, con người chỉ nhìn thấy ơn gọi và định mệnh của mình trong Thiên Chúa. Biết mình bởi đâu mà ra, biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu, đó chẳng phải là sự vĩ đại của con người sao?
Nhưng chỉ trong cầu nguyện nghĩa là trong sự kết hợp mật thiết thâm sâu với Thiên Chúa, con người mới có thể cảm nhận được ơn gọi và định mệnh ấy.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy: “Sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc.1,35). Đó là một trong những nét nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người đã không ngừng bày tỏ sự kết hợp Ngài với Thiên Chúa Cha. Đó chính là cách Ngài dạy cho con người sống thế nào cho phải đạo làm người. Sự cao cả của con người, sức mạnh vĩ đại của con người chính là sự cầu nguyện, nhất là cầu nguyện đi đôi với việc làm, như Chúa Giêsu vừa cầu nguyện vừa loan báo Tin mừng, vừa “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ khử nhiều quỷ” (Mc.1,34). Nhờ cầu nguyện mà việc truyền đạo được kết quả phong phú hơn. Chính đời sống cầu nguyện của các nhà truyền giáo đã chứng minh điều đó. (Trích “Sám hối và canh tân”).
3. Tìm nơi thanh vắng cầu nguyện
Tiếng động và sự ồn ào ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Một giáo sư Hy lạp cố vấn tổ chức y tế thế giới quả quyết: “Tiếng ồn ào là một trong những tác nhân chính làm con người mắc bệnh thần kinh”. Các nhà nghiên cứu người Hòa Lan đã khám phá: “Những người sống trong các khu phố ồn ào thường bị áp huyết cao”. Không chỉ người già mới phàn nàn khó chịu về sự ồn ào mà ngay cả tuổi trẻ cũng không thoát khỏi anh hưởng của tiếng ồn. Một nghiên cứu của đại học Rhusdho bên Đức cho thấy học sinh học trong những trường ồn ào bị áp huyết cao hơn học sinh ở các trường trong nơi yên tịnh. Nhất là kinh nghiệm cho chúng ta biết chúng ta thường dễ cau có nóng giận khi sinh sống trong những vùng có nhiều tiếng động.
----------
Sa mạc được xem là nơi ưu biệt của Kinh Thánh. Chính trong sa mạc mà lòng tin của dân Do thái được thanh luyện. Chính trong sa mạc mà các ngôn sứ thường nhận được sứ điệp của Thiên chúa. Chính trong sa mạc mà Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày để chuẩn bị cuộc đời công khai rao giảng Tin mừng. Và Tin mừng hôm nay thuật lại, sau khi Người trừ quỷ chữa bệnh cho nhiều người: “Sáng sớm trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc.1,35). Người thường lui tới nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Người cũng khuyên các môn đệ tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi.
Sự cầu nguyện đòi hỏi sự thinh lặng. Thinh lặng của cõi lòng mới là điều quan trọng. Một cõi lòng thinh lặng cốt yếu là cõi lòng đầy tràn sự hiện diện của Chúa. Khi con người được Chúa ngự trong tâm hồn thì họ luôn cảm nghiệm được sự thinh lặng. Dù sống giữa chốn ồn ào náo nhiệt con người được Chúa hiện diện trong tâm hồn luôn cảm thấy an vui thanh thản. Như thế, qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, cầu nguyện trong thinh lặng bằng cách tiếp xúc thân mật với Chúa, để Người hiện diện trong chúng ta. Người ban cho sống an bình hạnh phúc. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).
4. Niềm vui được chữa lành
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên ngộ nghĩnh: bệnh bò điên. Người mắc bệnh này vì ăn nhằm bò điên. Khi mắc phải bệnh, bộ não họ bị hư hoại dần, tay chân run rẩy và đi lần đến cái chết.
Lúc đầu người ta phát hiện có 10 người mắc bệnh tại Anh quốc, 8 người trong số đó đã chết…
Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh quốc. Các nước Âu châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu châu khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả các con bò mắc bệnh. Việc này đã làm cho Anh quốc thiệt hại cả tỷ đô la.
----------
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và có những thứ bệnh hiện đang bất trị!...
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon-Phêrô. Bà bị cơn sốt liệt giường. Chúa cầm tay bà dậy, bà liền khỏi bệnh và đi tiếp đãi Chúa.
Theo quan niệm của Người Do thái, bệnh tật là hình phạt của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi và do ma quỷ gây ra. Việc Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon-Phêrô và các bệnh nhân khác biểu lộ quyền năng Thiên Chúa trên ma quỷ và tội lỗi. Đó là sứ mạng Thiên sai của chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường sinh sống. E.Lamy khẳng định: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Vì niềm tin tự nó là một lời rao giảng” (Trích “Như Thầy đã yêu”).
5. Chúa chữa người quỷ ám
Ngày 29 tháng 08 năm 1999, người dân Don Timor đã đi bỏ phiến để quyết định về tương lai của xứ sở họ. Thế giới không những quan tâm đến số phận của 800.000 dân sống trên đảo này, mà còn đặc biệt chú ý đến vai trò của Giáo hội tại đây. Giáo hội tại Don Timor được xem là sức mạnh thống nhất giúp cho dân chúng ở đây.
Quả thực, trong 23 năm dưới quyền cai trị của Inđônêsia, Giáo hội đã lãnh đạo cuộc tranh đấu nhân quyền và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập hòa bình cho người dân. Ảnh hưởng của Giáo hội được nhìn nhận qua sự kiện hầu như người dân Don Timor nào cũng sinh ra trong bệnh viện do Giáo hội điều khiển, được giáo dục trong trường của Giáo hội, cưới hỏi trong nhà thờ, được chữa bệnh trong bệnh viện Công giáo, cuối cùng cũng được an nghỉ trong nghĩa trang của đạo. Nhất là mỗi khi gặp tai biến, người dân Don Timor không có nơi nào an toàn hơn là nhà thờ. Đối với 90% dân Don Timor. Hội thánh có uy tín hơn hết. Như thế, khi Hội thánh sống đúng với sứ mệnh của mình. Hội thánh là sức mạnh tinh thần vững chắc cho con người.
----------
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi Chúa chữa bệnh trừ quỷ cho họ. Họ thán phục Người, tìm kiếm Người, vì họ tin vào quyền năng và đức độ của Người. Người quyền năng và đức độ thì lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, sẽ thuyết phục và lôi cuốn người khác.
Chúa Giêsu chỉ giảng dạy những gì Người đã sống và sống những gì Người đã rao giảng. Lời nói của Người củng cố bằng việc làm của Người. Đây chính là sứ mạng Người đã lãnh nơi Chúa Cha và Người cũng trao sứ mạng đó lại cho Hội thánh là tất cả các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chỉ thực hiện được sứ mạng đó khi chúng ta sống và rao giảng những gì Người đã sống và rao giảng. Nói thể khác, chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng Chúa phú giao bằng cách hy sinh phục vụ mà thôi. Điều đó chính các Kitô hữu ở đảo Don Timor đã thực hiện và kết quả thật tốt đẹp. Phải chăng đó là gương mẫu cho chúng ta?
Mẹ vợ là đối tượng của nhiều chuyện vui cười, nhiều chuyện diễu cợt và một số châm biếm suốt một thời gian dài. Một nhà phê bình đã quan sát và nhận xét rằng: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành công có một bà mẹ vợ đang ngạc nhiên”, có lẽ mẹ vợ của thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của Chúa Giêsu khi chọn Phêrô làm đầu tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà đã được chú ý chỉ một lần duy nhất trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được chú ý đó thì rất quan trọng đối với chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn được gọi là Simon, đã lo lắng cho người mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn sốt. Khi Simon nói với Chúa Giêsu về bà, Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền rời khỏi bà. Hành động này của Chúa Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì và hoàn toàn ngạc nhiên, ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa Giêsu và các môn đồ của Ngài. Các bạn nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít thời gian để nghỉ ngơi, nhưng điều đó đã không phải là cách làm của người đàn bà này.
Một số những nhà hoài nghi đã vẽ bức tranh châm biếm người đàn bà được tiền định này, “phụ nữ trong vị trí xã hội thời bấy giờ” là để phục vụ người đàn ông. Sự thật bà đã là tấm gương của chính Chúa Giêsu. Bà đã suy nghĩ về sự quảng đại, về tinh thần bỏ mình trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn tối tại nhà của Phêrô, Chúa Giêsu không nghi ngờ gì là đã kiệt sức sau một ngày lao động vất vả, Người vẫn gây nên bất ngờ là chừa lành cho tất cả những người bệnh trong thành phố, những người đau bệnh và những người bị quỷ ám. Ngài đã đáp trả theo đặc tính riêng của Ngài. Sáng hôm sau, mặc dù rất mệt mỏi nhưng Ngài đã dậy rất sớm như mẹ vợ của ông Phêrô đã dậy sớm sau cơn ốm của mình. Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, nhưng đó không phải là tránh làm công việc tốt. Simon và những người khác đã tìm thấy Người, các ông biết rằng những khoảnh khắc an bình đó của Ngài không phải là tận cùng của một ngày sống. Sứ vụ của Ngài đang vẫy gọi Ngài và Ngài nhận biết rằng Cha đang kêu gọi Ngài, đưa những người cùng khổ thoát khỏi cảnh khổ của mình, điều mà ông Gióp đã cảm thấy khi ông tuyên bố: “Tôi sẽ không còn nhìn thấy hạnh phúc nữa”. Chúa Giêsu đã đi đến những làng mạc để tuyên bố và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã làm viên mãn những ý thức quen thuộc của sự phục vụ. Để xác định sự dâng hiến của ngài trong việc rao giảng Phúc Âm mà ngài đã được kêu gọi, ngài viết: “Tôi đã bị thúc đẩy và không có một chọn lựa nào khác”. Đó là sự nhiệt tình để diễn tả tâm tình bổn phận sâu xa của ngài. Ngài không do dự làm nổi bật sự quảng đại khi ngài nhắc nhở Corintô: “Tôi hiến tặng Phúc Âm một cách nhưng không”. Trong sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi của thánh Phaolô thì việc phục vụ đơn giản được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô cũng được xem không phải là vô nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm của hai người phản ánh sự quảng đại tinh thần vô vị lợi trong việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô có cách của ngài và mẹ vợ của Phêrô có cách của bà. Còn chúng ta, con đường của chúng ta là gì? Chúng ta có thể trở nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn bổn phận ơn kêu gọi trong đời sống của chúng ta, những gì mà chúng ta có thể trở thành. Ngoài mẹ vợ của thánh Phêrô mà thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho chúng ta, có một sự xếp đặt rộng rãi trong việc phục vụ cho những môn đồ của Chúa Giêsu đã được kêu gọi. Chúng ta cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi mà chúng ta thực hiện trong cuộc sống của chúng ta như là cha mẹ, vị hôn phu, thầy dạy, công nhân, những người tự nguyện, một sinh viên, một linh mục, một tu sĩ, những gì chúng ta được kêu gọi để trở thành.
Có sự nghỉ ngơi thì xấu khi chúng ta chỉ nghĩ về mình và những tiện nghi cho chính mình. Không có sự nghỉ ngơi cho công việc tốt, những người theo gương mẫu của Chúa Giêsu. Họ biết rằng hạnh phúc và sự viên mãn trong cuộc sống sẽ đến bằng việc bắt chước sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi của Chúa Giêsu.
Nhìn những công nhân trong ngành xây dựng: họ chịu khó, cực nhọc, đổ rất nhiều công sức vào các công trình. Họ làm nên những ngôi nhà thật đẹp. Họ dùng hết khả năng mình có để tạo nên những nét thẩm mỹ cho đời. Khi kết thúc một công trình, họ không ở lại đó để nhận những lời khen thưởng, họ cũng không lưu luyến nơi mình làm việc mà không thể rời xa được. Cũng không có người nào đòi ở lại hay muốn làm chủ công trình mà mình đã khó nhọc làm nên. Nhưng mọi người đều vui vẻ ra đi khi kết thúc công việc, để đi đến nơi khác và tiếp tục công việc của mình và cũng kết thúc rồi lại ra đi, tìm công việc mới. Đó là nghề của họ, công việc họ phải làm như thế. Họ không bao giờ đòi làm chủ công trình mà họ làm nên, vì họ biết mình chỉ là người thợ, công việc của họ chỉ là công việc của người thợ, họ chỉ có trách nhiệm là hoàn thành công việc của mình thật tốt.
Chúa Giêsu là một người thợ, không chỉ để xây dựng những ngôi nhà bình thường, nhưng để xây dựng những ngôi nhà tâm hồn cho Thiên Chúa. Ngài làm việc cả ngày lẫn đêm, Ngài đem niềm vui, đem sức mạnh đến cho nhiều người. Những ngôi nhà tâm hồn đã bị hư hoại, Ngài đến làm cho nó tốt hơn. Những ngôi nhà không đứng vững được, Ngài nâng đở dậy và làm cho nó hoạt động. Những ngôi nhà tưởng chừng như bỏ đi, có bàn tay của Ngài, nó trở nên hữu dụng. Những ngôi nhà mọi người đều muốn tránh xa vì sợ nguy hiểm, nhưng bàn tay của Ngài chạm tới, nó trở nên mỹ miều và đạt được mức độ nghệ thuật cần thiết. Khi mọi người tìm đến để ca tụng, yêu cầu Ngài ở lại thì Ngài lại ra đi. Ra đi để tiếp tục xây dựng, để làm đẹp cho đời. Ngài không chiếm hữu cũng không đòi hỏi một sự đáp trả nào. Ngài ra đi để tiếp tục công việc mình phải làm. "Ta phải ra đi và đến nơi khác để rao giảng, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó".
Một công việc hết sức bình thường của một người thợ, không có gì khác thường, công việc mà biết bao người của mọi thời đại đều làm như thế. Nhưng công việc bình thường như thế lại có những người không làm như thế. Chúng ta những người được mời gọi theo chân Chúa Giêsu, được mời gọi để làm người thợ như Ngài.
Những người thợ của thời đại mới có khi không rành nghề cho bằng thợ của ngày xưa, nhưng lại đòi hỏi yêu sách nhiều hơn: nào là phải có điều kiện thuận tiện, phải được phục vụ chu đáo theo ý riêng, phải được đáp ứng những nhu cầu cần thiết và phải làm sao cho mọi người biết đến nữa chứ. Nếu cứ âm thầm lặng lẻ mà làm việc thì những người thợ của ngày hôm nay không thể chấp nhận được.
Nhu cầu được đáp ứng, nhưng người thợ không thể hoàn thành được công việc của mình, mà làm cho mọi người phải thất vọng vì tay nghề quá kém mà lại thiếu chữ tín.
May thay cũng còn có những người thợ hoàn thành tốt công việc của mình. Nhưng khi mọi người vui mừng tán thưởng, vây quanh chúc tụng, thế là anh ta chiếm ngay công trình mà mình vừa hoàn thành làm của riêng, không muốn rời xa nó. Càng không muốn ra đi để tiếp tục công việc mà nghề nghiệp đòi buộc. Người thợ đã bỏ nghề nghiệp của mình, giờ đây anh chỉ còn biết sống trong mơ, xa rời thực tế, một ngày nào đó anh phải trả giá cho giấc mơ của mình.
Cũng có được những người thợ của Chúa Kitô trong thời đại mới nầy. Họ noi gương Ngài thật chính đáng, nhìn thấy công việc mình phải làm, chu toàn thật tốt, đem niềm vui cho người và cho đời. Nhưng điều quan trọng là họ biết ra đi, biết tiếp tục công việc cần thiết mà nhiều người đang chờ đợi họ.
Chúng ta là những người thợ của ngày hôm nay, hiện tại chúng ta đang làm việc như thế nào? Là những người khó khăn hay thắc mắc không chấp nhận được hoàn cảnh hiện tại, hay chúng ta đang sống trong giấc mơ của những thành công và không muốn từ bỏ những gì mình đang có. Nếu như thế chúng ta không phải là người thợ chân chính.
Nếu trong đời sống hằng ngày mà biết chu toàn trách nhiệm, chấp nhận hoàn cảnh sống, biết tìm mọi cách để đem niềm vui cho đời và cho người với tất cả những gì có thể làm được. Đó là chúng ta đang bước chân theo Chúa Giêsu, biết ra đi rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn can đảm, để mỗi người nhìn thấy được những việc cần phải làm và thi hành trọn vẹn.
Ở một phòng thí nghiệm, người ta thử 10 con chuột cho lội trong hồ kiếng không chỗ bám. Lúc đầu cho năm con vào, khoảng 8 giờ sau thì chúng chìm. Họ cho một đợt 5 con kế tiếp vào, khoảng 7 giờ thì vớt ra cho nghỉ. Sau đó lại cho vào hồ tiếp. Ngạc nhiên thay, chúng lội suốt 20 giờ mới bắt đầu chìm. Lý do nào mà chúng có sức lội hơn gấp đôi đồng bạn? Các nhà khoa học nghiệm ra rằng: sở dĩ chúng lội được như vậy là vì chúng có niềm hy vọng nhờ vào kinh nghiệm được cứu thoát lần trước. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Sở dĩ chúng ta vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống là nhờ biết hy vọng. Ai không có hy vọng thì sẽ bị đau khổ và thử thách của cuộc sống nhấn chìm.
Người kitô hữu của chúng ta có niềm hy vọng rất lớn lao: niềm hy vọng này không phải hảo huyền, tạm bợ, không phải hy vọng nơi vật chất mau qua chóng tàn nhưng là hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng rất yêu thương chúng ta và đã hy sinh mạng sống vì chúng ta. Cuộc sống trần thế này luôn có những khó nhọc, cam go theo từng giai đoạn, theo từng hoàn cảnh của con người. Chẳng hạn: trẻ phải tập đi vất vả, phải đến trường, lo học hành, lớn phải lao động cực khổ để có miếng cơm manh áo để lo cho gia đình và xã hội. Đó là chưa nói đến những khó khăn đột xuất khác.
Trong bài đọc I, chính thánh Gióp cũng phải chịu nhiều đau khổ, cuộc sống con người cũng chẳng phải là là thời khổ dịch sao, số phận ê chề, ngày đời thấm thoát như thoi đưa, cuộc đời con người chỉ là hơi thở chẳng thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc thánh Gióp trông chờ chỉ có được nơi Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đem lại niềm hy vọng cho dân Israel. Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa hứa ban để cứu nhân loại. Cụ thể trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đi đến đâu là đem tin mừng và cứu chữa tới đó. Vừa mới giảng dạy và trừ quỷ ở hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đến nhà Phêrô để chữa cho bà mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt. Ngày hôm đó, vì là ngày Sabat nên ngườI Do thái nghỉ ngơi theo luật định. Nhưng khi vừa hết ngày Sabat ngườI ta lạI tuôn đến với chúa giêsu, đem theo mọi kẻ ốm đau bệnh tật và những kẻ bị quỷ ám để Chúa Giêsu chữa lành và giải thoát họ.
Sáng sớm hôm sau, khi Đức Giêsu còn đang cầu nguyện thì người ta đã kéo đến tìm, nhưng Chúa Giêsu biết nhiệm vụ của mình là đem Tin mừng, đem niềm hy vọng, niềm hạnh phúc đến cho mọi người nên Ngài không ở lại một chỗ đó mà tiếp tục đi đến những hội đường khác ở những miền khác nữa.
Trong bài đọc II thánh Phaolô rao giảng Tin mừng, đem niềm hy vọng và sự sống cho thế giới. Niềm hy vọng và sự sống đó phát xuất từ Đức Kitô. Ngài không chỉ đem hạnh phúc cho con người ở đời này mà còn cho cả đời sau nữa. Vì Tin mừng đó mà thánh Phaolô sẵn sàng hy sinh tất cả để ngườI ngườI được hạnh phúc.
Chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có đặt hết niềm hy vọng đời mình vào Chúa Giêsu hay chưa, hay chúng ta đặt hy vọng nơi của cải, danh vọng địa vị. Nếu chúng ta đặt hy vọng nơi Chúa rồi, chúng ta hãy tiến thêm bước nữa là hàng ngày xét mình xem chúng ta đã sống với niềm hy vọng đó như thế nào, có sống vì Chúa Giêsu như thánh Phaolô chưa, có luôn nhớ tới Chúa, sống cho Chúa và nói về Chúa cho những người mình gặp gỡ hay chỉ giữ luật cho khỏi bị phạt thôi! Mỗi người chúng ta hãy quyết tâm đi lễ thường xuyên và đối xử tốt với những người xung quanh để họ nhận ra niềm hy vọng và hạnh phúc thật mà người kitô hữu đang theo đuổi để họ cũng được niềm hy vọng ấy và cùng chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu là hy vọng của đời con, là niềm trông cậy, là nguồn hạnh phúc cuộc đời con. Xin Chúa ban ơn giúp con sống niềm hy vọng thật trọn hảo để mai sau được về cùng Chúa hưởng phước Thiên đàng. Amen.
Một trong những sứ mạng quan trọng của Chúa Giêsu khi đến trần gian này là loan báo Tin mừng cho con người. Người không loan báo bằng lời nói suông nhưng bằng những việc làm đem lại sự giải thoát cho con người. Người giải thoát con người khỏi những bệnh hoạn tật nguyền phần xác. Hơn thế nữa, Người đem đến cho con người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Trong quá trình đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu không dừng lại ở bất cứ nơi nào. Vì Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được hưởng nhờ sự giải thoát ấy. Cho nên, sau khi đã đem sự giải thoát ấy cho những người ở thành Capharnaum mặc dù được các Tông đồ báo: "Mọi người đang tìm Thầy đấy" (Mc 1, 37) Chúa Giêsu đã trả lời với họ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (Mc 1, 38)
Đoạn Tin mừng tuần trước chúng ta thấy dân chúng đã quá đỗi kinh ngạc về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Bởi lẽ, Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (Mc 1, 22).Thẩm quyền của Chúa Giêsu không phải để cai trị hay để đàn áp con người nhưng hoàn toàn để phục vụ và hiến mạng sống vì và cho con người.
Cảm nhận được điều ấy nên Thánh Phaolô trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô đã viết: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (2Cr 1, 16). Sau khi trở lại thánh nhân đã thấy rằng chính Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi những điều không đúng. Do đó, suốt cả đời còn lại thánh nhân không ngại khó miễn sao cho Tin mừng của Chúa Giêsu được càng nhiều người biết đến càng tốt.
Mỗi người chúng ta không nhiều thì ít cũng đã và đang được đón nhận sự giải thoát cao quý của Chúa Giêsu. Ước gì qua cách sống đạo của chúng ta mỗi ngày được tiến bộ hơn. Sự tiến bộ nhờ biết gắn bó nhiều với Chúa Giêsu qua việc trung thành tham dự Thánh lễ Chúa nhật và các giờ Kinh sáng tối. Được như vậy là chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu loan báo Tin mừng cho nhiều anh chị em xung quanh.
Cả 3 bài đọc hôm nay đều nói đến việc lao động. Con người sinh ra trong trần gian này và chấp nhận qui luật của nó. Đó là phải lao động. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, làm cực khổ hết ngày này sang ngày khác, làm quần quật hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải lao động vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm - ăn, ăn - làm như một cái vòng lẫn quẫn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc con người sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một ngày làm việc vất vả của Chúa Giêsu: Người vừa giảng dạy trong Hội đường Do Thái và cứu chữa một người bị quỉ ám xong, Người vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêrô đang sốt nặng. Lập tức, Người liền đến nhà bà ấy và chữa lành cho bà. Rồi cũng liền sau đó có cả đám đông đang tụ họp trước cửa nhà, trong đó có nhiều người đau bệnh, cần tới Chúa Giêsu chữa trị. Mãi cho đến chiều tối Người mới có thời giờ nghỉ ngơi.
Chúng ta đã thấy đó, Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng đến chiều tối. Người không phải làm việc để có lợi cho bản thân mình, nhưng Người làm việc để giúp đỡ cho người khác. Người không những chữa lành, là lo cho họ phần xác mà còn lo về phần thiêng liêng, là rao giảng, dạy dỗ cho họ, cứu giúp linh hồn người ta. Qua công việc đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của công việc lao động: lao động là cần thiết, lao động là bổn phận của mọi người, lao động chẳng những giúp ích cho bản thân mà còn giúp đỡ cho tha nhân, lao động sinh ích lợi cho cả phần xác lẫn phần hồn nữa.
Từ các bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy phương hướng sống:
Trước các công việc làm, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những công việc lao động của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta làm. Khi làm việc chúng ta ý thức mình làm vì sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha nhân
Xin Chúa cho chúng ta có sức khỏe thể xác và tinh thần để ta hoàn thành công việc cách tốt đẹp
Xin Chúa cho chúng ta biết sống hết mình và làm việc hết mình vì lòng mến Chúa, để góp phần cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ. Và xin Chúa nâng đỡ những công lao vất vả của chúng ta. Amen.
CÂU CHUYỆN MINH HỌA VỀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp tên Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm trọng. Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh nhận ra ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời danh: " con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện".
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người. Sự cầu nguyện làm cho con người nhìn thấy những giá trị của chính mình, thấy những yếu đuối, bất toàn trong đời sống của mình. Biết mình bởi đâu mà có, biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu và biết mình phải sống làm sao cho tốt đẹp!
Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão. Đã có lúc khoẻ mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.
Tiếng kêu thương
Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt... Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra... tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.
Vị Thượng Tế biết thương cảm
Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.
Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục... (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế?
Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương
"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.
Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.
Lời nguyện của người được sai đi
Lạy Chúa,
Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh... điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.
Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.
Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ....
Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn....
Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con....
Lạy Chúa,
Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)
Chúng ta vừa trải qua những ngày đầu Xuân Nhâm Thìn 2012 với biết bao niềm vui. Trong những ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta đều nhận được rất nhiều lời chúc thật hay, thật ý nghĩa, nhưng có lẽ chỉ một lời Chúc chúng ta cần và mong đợi đó là mỗi ngày trong Năm Mới chúng ta được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Kitô. Chúng ta sẽ nên giống Đức Kitô như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một đáp án, đó là: hoạt động và cầu nguyện như Đức Kitô.
I. LỜI CHÚA: CHÚA NHẬT 5 TN B (Mc 1, 29-39)
(29) Vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
(32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
(35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (39) Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một ngày sinh hoạt của Đức Giêsu tại Caphanaum. Ngay sau khi chữa lành anh chàng bị thần ô uế ám trong hội đường (Mc 1, 23-28), Đức Giêsu tiếp tục thực hiện một chuỗi những phép lạ: chữa lành bà nhạc ông Simon Phêrô và nhiều bệnh nhân khác, đồng thời xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người. Dù trải qua một ngày tất bật trong việc chữa bệnh và trừ quỷ, nhưng Đức Giêsu vẫn dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Thánh Marcô ghi rõ: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện (c.35). Chính Đức Giêsu đã dùng phương thức sống “hoạt động và cầu nguyện” này để đi trọn hành trình cứu độ mà Chúa Cha đã ủy thác cho Ngài. Là môn đệ Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Đức Giêsu đã đi qua việc hết mình phục vụ anh chị em, nhưng đồng thời vẫn giữ trọn mối tương giao thân tình với Thiên Chúa.
1. Hoạt động—Chúa chạnh lòng thương dân Ngài
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô miêu tả thật sống động hình ảnh một Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đến để phục vụ, để chia sẻ và đem lại sự sống đích thực và sung mãn cho con người. Nơi Đức Giêsu, một “Thiên Chúa chạnh lòng thương” đang hiện diện giữa dân Người. Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10, 38).
Mở đầu cho đoạn Tin Mừng hôm nay là việc Giêsu chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (c.30). Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cách Đức Giêsu chữa bệnh thật đơn giản, và thân tình. Với cử chỉ “cầm tay và nâng dậy,” Đức Giêsu đã truyền sức sống Thiên Chúa cho bà và Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà nâng bà dậy. Ngài đã khôi phục lại nơi bà những gì mà “cơn sốt” lấy đi, để bà tiếp tục phục vụ Chúa và anh chị em trong công việc thường ngày.
Sự “chạnh lòng thương” của Đức Giêsu không dừng lại nơi “bà mẹ vợ ông Simon,” nhưng còn trải rộng đến tất cả những ai đang cần đến Ngài. Thật vậy, “chiều đến, khi mặt trời đã lặn,” người ta mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám… Chúa đón nhận hết, và chữa lành tất cả. Chính cuộc sống và hoạt động của Đức Giêsu đã minh chứng sứ mạng của Ngài, được công bố nơi Tin Mừng Thánh Gioan: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Suy niệm đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đưa tay ra để Ngài “cầm và nâng” chúng ta dậy khi gặp thử thách trong đức tin, trong đời sống cộng đoàn, và trong khi đương đầu với những căn bệnh về thể lý. Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi; cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô! Để khi được Chúa chữa lành, được Chúa nâng dậy, chúng ta sống cho đúng với căn tính và phẩm giá của mình là những người đã được Chúa phục hồi và chữa lành. Để sau khi được chữa lành, chúng ta biết trỗi dậy và hăng hái phục vụ anh chị em mình như mẹ vợ ông Simon. Được Chúa chữa lành, là được Chúa tăng sức để hội nhập lại với đời sống cộng đoàn, và cùng chung tay xây dựng để cộng đoàn chúng ta trở thành dấu chỉ của Nước Trời giữa trần gian.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng là một tiếng chuông gióng lên thức tỉnh người Kitô hữu và đặc biệt người tu sĩ, trước căn bệnh “vô cảm” của thời đại. Như chúng ta đã biết, thời gian gần đây các trang mạng đều đề cập đến một căn bệnh của thời đại, đó là bệnh vô cảm. Vào lúc 5 giờ 30 phút chiều ngày 13 tháng 10 vừa qua, tại huyện Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc xảy ra một sự việc đau lòng khiến toàn thế giới nhìn vào đều rùng mình và phẫn nộ. Đó là sự vô cảm của 18 con người dửng dưng trước sự quằn quại trên vũng máu của bé Duyệt Duyệt (Yue Yue) 2 tuổi, bị 2 chiếc xe tải cán qua. Rồi tiếp đến ngày 3-11-2011, chàng thanh niên có nick name là kẹo mút chơi bời đã khoe “chiến tích” tông xe làm chết người của mình với những từ ngữ đùa cợt phản cảm mang “máu lạnh” trên mạng Facebook, đã làm dấy lên làn sóng giận dữ kết án của dân cư mạng. Và mới đây, hôm 23-11-2011, dân cư mạng lại xôn xao bàn tán về câu chuyện cô gái lái xe buýt bị hãm hiếp trước sự bàng quan của hầu hết những người khách trên xe, duy chỉ có một người lên tiếng chống đối hành vi đồi bại của ba tên yêu xanh… Trước những sự kiện đau lòng này, người tu sĩ chúng ta phải làm gỉ?
Ước mong Lời Chúa hôm nay giúp chữa lành căn bệnh “vô cảm” của chúng ta và của con người thời đại này. Xin Chúa giúp chúng ta biết “chạnh lòng thương,” biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra chung quanh chúng ta, đồng thời cho chúng ta sức mạnh để quyết tâm đứng lên hành động theo sự thúc đẩy của tình thương Thiên Chúa.
2. Cầu nguyện
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (c.35). Mặc dù bận rộn với việc chữa bệnh, trừ quỷ, giảng dạy… nhưng Đức Giêsu vẫn không quên dành giờ để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa Cha. Dù không ai gần Chúa Cha, không ai biết Chúa Cha bằng Đức Giêsu, nhưng Ngài vẫn cần gặp Chúa Cha mỗi ngày, mỗi lúc.
Thật vậy, cầu nguyện được coi là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của Đức Giêsu. Ngài cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc: Trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng, Ngài đã dành 40 đêm ngày để cầu nguyện (Mc 1,12-13); trước khi chọn 12 Tông đồ, Ngài cầu nguyện thâu đêm (Lc 6,12); và ở đây, trước khi khởi sự một ngày mới, Ngài cũng tìm đến Chúa Cha để cầu nguyện. Ngài tìm Cha để tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của nhân loại, về cuộc chiến chống lại sự dữ–chống lại Satan. Trong thân phận con người, Đức Giêsu thấy mình cần được Chúa Cha nâng đỡ, cảm thông, và tăng lực để làm tròn sứ mạng. Chính cầu nguyện đã đưa Đức Giêsu kết hiệp với Cha, lãnh nhận sức sống, và quyền năng nơi Cha để phục vụ con người tốt hơn.
Như Đức Giêsu cần gặp Cha như thế nào, thì chúng ta—những môn đệ ngày nay cũng cần gặp Chúa Cha như vậy. Là người được Chúa Cha tuyển chọn để làm chứng nhân Tin Mừng, chúng ta được sai đi đến với mọi người, để chia sẻ cuộc sống, để phục vụ và đem bình an và niềm vui của Chúa đến cho họ. Nhưng việc loan báo Tin mừng, việc phục vụ anh chị em của chúng ta chỉ đem lại hoa trái đích thực và vĩnh cửu, khi chúng ta biết gắn kết với Chúa—Nguồn mạch Tình Yêu và Sự Sống, như Đức Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5).
Như thế, đối với người môn đệ Đức Kitô, cầu nguyện chính là lẽ sống, là nguồn mạch, là sức mạnh cho lời rao giảng, cho sứ mạng tông đồ, vì chỉ có cầu nguyện mới làm cho ta trở nên môn đệ đích thực trước mặt Thiên Chúa. Trong ngày tĩnh tâm này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy rút lui khỏi ngững bận rộn thường ngày, để dành những giờ phút thật riêng tâm giao với Chúa. Chính đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết học nơi Chúa để biết vừa dấn thân hết mình phục vụ nhu cầu của anh chị em, nhạy cảm trước những nỗi đau của họ, đồng thời luôn giữ trọn mối liên lạc thân tình với Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết trân quý những giây phút cầu nguyện, những thời khắc được dành riêng cho cuộc trao đổi thân tình giữa con và Chúa, để con có đủ sức mạnh phục vụ anh chị em con mỗi ngày tốt hơn. Amen.
III. CÂU HỎI THẢO LUẬN CỘNG ĐOÀN
Duyệt quyết tâm tháng 1.2012.
Noi gương Chúa Giêsu, chị và cộng đoàn của chị đã “chạnh lòng thương” trước những người đang cần sự giúp đỡ của chị và cộng đoàn như thế nào? Chị có cảm thấy thấy bị quấy rầy trước những nhu cầu cấp bách của chị em trong cộng đoàn và của những người chung quanh không? Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta phải làm gì để có quân bình trong đời sống cầu nguyện và hoạt động như Đức Giêsu mong ước?
Đức Giêsu khi đi rao giảng Tin Mừng cùng với các môn đệ, Ngài đã không chỉ thuyết giảng mà thôi, nhưng Ngài đã quan tâm tới mọi lớp người, đặc biệt là những bệnh nhân, những người nghèo khổ, những người bị thần ô uế quấy phá vv…Chúa đã xoa dịu nỗi đau khổ của con người, Ngài đã cảm thông với mọi lớp người trong xã hội, đã đến với họ, cứu chữa họ và cảm thông, chia sẻ những nỗi khó khăn, nhọc nhằn họ đang gặp phải trong cuộc sống. Ngài có đôi mắt dịu hiền, con tim nhạy cảm, trái tim yêu thương. Lời nói và việc làm của Chúa luôn luôn đi đôi với nhau, do đó,nhiều người đã tin vào Ngài…
Đức Giêsu hoàn toàn khác biệt với các Kinh sư, Luật sĩ và Biệt phái, bởi vì các vị này nói mà không làm, họ chất gánh nặng trên vai những người khác, bầy đặt, lập ra mọi thứ luật lệ nhỏ nhoi, ty tiện hầu làm cho người khác phải khổ, còn mình thì không thực hiện bất cứ điều gì ! Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Máccô đã cho chúng ta thấy hình ảnh một vị lang y nhân từ, một vị thầy thuốc với tấm lòng, với con tim đầy yêu thương của mình, vị bác sĩ ấy chính là Đức Giêsu. Hình ảnh này làm nổi bật lòng thương xót, tâm hồn quảng đại của Chúa Giêsu, khi Ngài đối diện với sự đau khổ của bệnh tật mà bà mẹ vợ của ông Simon đang gặp trong những ngày nằm trên giường bệnh. Chúa chạnh thương, với uy quyền và tình thương, Ngài đến gần bà nhạc gia của ông Simon, cúi xuống, cầm lấy tay bà mà chữa lành bà. Thái độ, việc làm và cử chỉ đầy yêu thương của Chúa đối với bà mẹ vợ của ông Simon, cũng là cử chỉ yêu thương của tấm lòng quảng đại, nhân ái mà Chúa dành cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta, đặc biệt đối với những con người gặp thử thách, khó khăn trong cuộc đời. Phép lạ Chúa làm cho bà nhạc gia ông Simon nói lên uy quyền tối cao của Chúa Giêsu trên sự dữ.
Đau ốm theo quan niệm của người Do Thái là do con người tội lỗi.Bệnh càng nặng, tội càng nhiều…Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm đó và cho thấy lòng nhân từ thương xót của Chúa đối với mọi người. Cách chữa bệnh và xua trừ ma quỷ của Chúa Giêsu đối với những người bị đau mọi thứ bệnh và đối với những người bị quỷ ám không giống bất cứ vị lang y hay bác sĩ nào ở trần gian.Với lời truyền đầy quyền năng, cùng với cử chỉ đầy yêu thương của Chúa, Ngài đã biểu lộ tình thương vô bờ, tinh thần phục vụ khiêm tốn thẩm sâu của một Vị Thiên Chúa quyền năng.
Vâng, Chúa Giêsu đã hành động, đã làm nhiều phép lạ trong những năm tháng đi rao giảng với trái tim đầy yêu thương, với con tim nhạy cảm, với ánh mắt dịu dàng và với đôi tay nhẹ nhàng, đầy uy lực của một vị lương y nhân từ... Mỗi giây phút trong đời sống, chúng ta cũng đang phải chạm trán, phải đối diện với nhiều người đang gặp thử thách, những bệnh nhân đang mắc đủ chứng bệnh. Đó là những đau khổ của cuộc đời, của kiếp nhân sinh. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy mau mắn xoa dịu những nỗi đau của tha nhân: một lời an ủi, một cử chỉ nhân ái, một nụ cười, một sự giúp đỡ nho nhỏ cũng đủ làm vinh danh Chúa và giúp tha nhân nhận ra Chúa trong ta, và giúp tha nhân hiểu được tình thương của Chúa. Một hành động bác ái yêu thương cũng đủ làm cho danh Chúa lan rộng và tỏa sáng…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết dừng lại công việc để nghỉ ngơi, và đặc biệt để cầu nguyện. Nghỉ ngơi và cầu nguyện sẽ giúp chúng con nhận ra bàn tay nhân từ của Chúa. Xin đừng để cho chúng con bị tiền tài, danh vọng và việc làm khỏa lấp tất cả đến nỗi chúng con quên cầu nguyện, bởi vì không có Chúa chúng con không thể làm gì được. Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và tuân theo lời Chúa dạy:” Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà cầu nguyện và nghỉ ngơi đôi chút “. Xin Chúa giúp chúng con biết xót thương, biết cảm thông với người khác như Chúa đã tỏ lòng nhân từ và xoa dịu, cứu vớt những người tội lỗi và bệnh hoạn tật nguyền. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa đã làm phép lạ cho bà nhạc gia ông Simon ở đâu ? 2.Cách Chúa Giêsu chữa bệnh ? 3.Tại sao Chúa Giêsu lại chữa bệnh cho nhiều người ? 4.Việc Ngài làm như thế nói lên điều gì đối với nhân loại ? 5.Thái độ của chúng ta phải ra sao đối với những người gặp thử thách, gian nan và khó khăn ?
Pascal là một nhà bác học nổi tiếng và cũng là một nhà triết gia lỗi lạc, ông đã có một câu nói thời danh để đời như sau: “Con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện”.
Thật vậy, con người là loài thụ tạo cao quý nhất mà Thiên Chúa dựng nên. Con người có giá trị trổi vượt trên các loài thụ tạo khác. Tuy nhiên, con người chỉ có thể trở nên vĩ đại nhờ có một mối tương quan mật thiết với Đấng là chủ tể của mình ngang qua đời sống cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là chiếc cầu nối liền giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện làm cho con người tìm ra được nguồn cội, cùng đích của cuộc đời. Cầu nguyện cũng giúp cho con người biết mình phải làm gì và khước từ điều gì.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, người lánh sang một nơi thanh vắng để cầu nguyện sau một ngày làm việc mệt nhọc với sứ vụ và tiếp tục với hành trình rao giảng Tin Mừng mới. Điều này cho thấy: cầu nguyện là việc vô cùng cao quý và quan trọng trong hành trình loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu cũng như người môn đệ.
1. Cầu nguyện không ngừng
Đã có lần, Đức Giêsu nghe các môn đệ của mình kể về thành tích mà các ông đạt được sau những ngày vất vả vì sứ vụ. Các ông trở về trong hân hoan và khoe với Ngài về thành tích đạt được, nào là: thành công trong việc chữa lành bệnh tật, nhiều người nghe lời các ông giảng và ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục (x. Mc 6, 30-31).
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không khen ngợi các ông, Ngài cũng chẳng đề nghị các ông tiếp tục thi hành. Và hoàn toàn không mở tiệc linh đình để tuyên dương kết quả! Nhưng Ngài nói với các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Nghỉ ngơi ở đây có nghĩa là trở về với Thiên Chúa và với bản thân trong sự thinh lặng nội tâm sâu xa.
Còn khi dạy các Tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1); chỗ khác Ngài truyền lệnh: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Hơn nữa, khi nói về giới hạn của con người và tầm quan trọng của cầu nguyện, Ngài mặc khải: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5) Hay để khơi lên niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng xót thương, Đức Giêsu khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Như vậy, đời sống cầu nguyện là nền tảng để xây dựng đời sống Tông đồ nơi người môn đệ. Cầu nguyện chính là hồn sống, là thước đo để biết được người Tông đồ thi hành sứ vụ vì ai, cho ai và mục đích gì! Cầu nguyện còn để xác định rõ: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Nói cách khác, đời sống cầu nguyện được ví cá cần nước, cây cần ánh sáng, con người cần hơi thở.
2. Mẫu gương cầu nguyện nơi Đức Giêsu
Khi thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của đời sống cầu nguyện, nên Đức Giêsu không chỉ dạy các môn đệ cầu nguyện, nhưng chính Ngài đã làm gương về đời sống cầu nguyện.
Thật vậy, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển....
Hôm nay, thánh Máccô một lần nữa cho ta thấy Đức Giêsu coi trọng và ưu tiên hàng đầu trong việc cầu nguyện, tác giả viết: "Sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó" (Mc l,35).
Khung cảnh “sáng sớm” cho chúng ta thấy một đêm dài đã kết thúc và một ngày mới khởi đầu. Thái độ cầu nguyện ngay từ khi trời còn tối báo cho chúng ta biết, Đức Giêsu chắc chắn tạ ơn, chúc tụng quyền năng của Thiên Chúa qua những việc Ngài đã làm trong ngày hôm trước như: thăm viếng, chữa bệnh, trừ quỷ…. Mặt khác, trải qua một đêm có lẽ nhiều thao thức, trăn trở và lựa chọn để làm trong ngày mới, nên ngay từ sáng sớm, Ngài đã xin ý của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện, để mọi việc được diễn ra trong thánh ý của Người. Chính vì điều này mà mọi hoạt động của Đức Giêsu đều quy hướng về Thiên Chúa và mang lại vinh quang cho Người.
Như vậy, giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa có một sự gắn kết mật thiết đến độ không thể tách rời đến nỗi đã có lần Đức Giêsu tuyên bố: “Ta và Cha ta là một”; hay "lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34 ).
3. Cầu nguyện là nền tảng cho mọi hoạt động
Ngày nay, chúng ta thấy có rất nhiều sự rạn nứt qua các mối tương quan như: rất nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ, vợ chồng không còn tin tưởng nhau, thiếu sự chung thủy. Nạn phá thai diễn ra như cơm bữa. Lương tâm, chân lý không còn được lưu tâm hay bị lệch lạc. Con cái vô cảm, bất hiếu và hỗn xược với đấng sinh thành. Anh chị em trong gia đình loại trừ nhau. Hàng xóm láng giềng không còn chuyện “tối lửa tắt đèn có nhau”! Thầy cô giáo và học trò ít quan tâm đến chuyện: “Tiên học lễ, Hậu Học văn”; vì thầy chẳng ra thầy, trò chẳng ra trò! Bạn bè với nhau không còn tính trung thực, mà thay vào đó là lợi dụng nhau, thanh toán nhau bằng nắm đấm, song sắt, lưỡi lê….
Nguyên nhân lớn nhất đó là thiếu hay coi thường hoặc không có đời sống cầu nguyện. Bởi vì, không cầu nguyện, con người sẽ không nhận ra Thiên Chúa là ai cũng như không biết coi trọng nhân phẩm của mình và của nhau. Không có đời sống cầu nguyện, người ta cũng không tìm ra lý tưởng và không thể trả lời được về mục đích của sự hiện hữu nơi mình trên trần gian. Đàng khác, khi đời sống cầu nguyện bị sao nhãng, người ta cũng chẳng cần quan tâm đến sự thật và lòng trung thành, từ đó, họ có thể làm bất cứ điều gì mà không sợ áy náy! Họ sẵn sàng “dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt”; hay cả phương tiện và mục đích đều xấu, nhưng lương tâm đã bị trai lỳ, vô cảm nên họ vẫn sẵn sàng làm cho kỳ được để thỏa mãn điều mong muốn một cách bất nhân.
Hơn nữa, nhiều người có cầu nguyện, nhưng sự hời hợt, qua lần chiếu lệ đã làm cho họ chẳng khác gì như hạt giống gieo nơi vệ đường, trên bụi gai và nơi đá sỏi. Hãy nhớ lại câu chuyện Tổ Tông sa ngã chỉ vì hiểu có một nửa sự thật!
Chính vì thiếu đời sống cầu nguyện sâu xa như thế, nên việc sống đạo của chúng ta bị nhàm chán, hờ hững và hình thức bên ngoài, khiến cho những công việc chúng ta làm bị phản tác dụng khi nó quy chiếu về bản thân mình chứ không hướng về Chúa.
Muốn khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần chuẩn bị tinh thần thật minh mẫn, sốt sắng, vui tươi như thể mình đang chuẩn bị đi gặp “người yêu”. Phải thực sự có kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta phải tin tưởng chắc chắn rằng, chúng ta đang ở bên Chúa, Chúa đang ở bên ta, vì thế, cần có thái độ của đức tin để phó thác, thái độ khiêm tốn để lắng nghe. Bởi vì: “Cầu nguyện là hô hấp của tâm hồn”.
Chỉ có thế, chúng ta mới có thể xóa đi cái “tôi” ích kỷ, hư ảo, kiêu ngạo, để thay vào đó là sự khiêm tốn, hiền lành và khiêm nhường như Chúa . Như vậy, nhờ đời sống cầu nguyện, chúng ta mới nhận ra: “Con người vĩ đại nhờ cầu nguyện”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đặt mình bên cạnh Chúa, được sống với Chúa, được nhìn ngắm Chúa, được lắng nghe tiếng Chúa, được gặp gỡ Chúa, và được chìm sâu trong Chúa, Đấng cứu độ chúng con ngang qua đời sống cầu nguyện. Amen.
Nếu như Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình tại Capharnaum, thì bước vào Chúa nhật thứ Năm Mùa Thường niên, sứ vụ Thiên sai của Người được tiếp tục thi hành. Là Thiên Chúa quyền năng trong lời nói cũng như trong hành động. Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, Danh tiếng Người nhanh chóng lan truyền khắp mọi nơi. Uy quyền của một Vì Thiên Chúa được tỏ lộ trong hành động, Chúa mở mắt cho người mù, làm cho kẻ què đi được, người điếc nghe được, nói chung là họ sung sướng vui mừng; mọi người đều ...thán phục ; các thần ô uế phải vâng lệnh. Cụ thể hơn, Chúa Giêsu hiện diện ở đâu thì ở đó người ta ngỡ ngàng và thán phục. Họ hỏi nhau: Người này là ai vậy, mà ngay cả thần ô uế cũng phải tuân lệnh? Quyền năng của Chúa xác nhận thẩm quyền lời Người giảng. Người không chỉ nói mà còn làm. Công trình của Thiên Chúa được thể hiện cả bằng lời nói lẫn việc làm nơi Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thực thi sứ mạng, bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa Cha qua việc rao giảng và các hành động quan tâm, giúp đỡ người đau bệnh, người nghèo đói, các trẻ em và người tội lỗi.
Hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở Capharnaum, trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa, đúng hơn là nhà ông Simon Phêrô: "Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê" (Mt 1,29) . Ở đây, chúng ta khám phá ra một gia đình lắng nghe và thực hành Lời Chúa (Lc 8,21). Bà nhạc gia ông Phêrô bị cảm sốt đang nằm trên giường, Chúa Giêsu tiến lại gần, Người cầm tay bà, một cử chỉ vượt quá những gì mà sách Tin Mừng đã trình bày như: Chúa đưa tay ra và đụng lên người bệnh, tại nhà ông Simon Phêrô, Chúa cầm tay bà và nâng đỡ bà dậy.
Cử chỉ này khiến mọi người phải thốt lên: Thiên Chúa thật quá đỗi hạ mình xuống để tìm kiếm chúng ta, và vì thế mà phẩm giá con người được tìm kiếm được nâng lên!... "Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa để ý lưu tâm? " (G 7,17). Tôi muốn biết tại sao Thiên Chúa lại muốn đích thân đến với chúng ta và tại sao chúng ta không phải là những người đến với Thiên Chúa trước? Việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay, không phải là thói quen của người giàu đi đến người nghèo, ngay cả khi họ có ý tốt lành.
Phần chúng ta, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nhưng có một trở ngại ngăn cản chúng ta: mắt chúng ta bị mù lòa, không thể tiếp cận được Chúa là Áng Sáng; chúng tôi đã bị liệt trên giường bệnh, khiến chúng ta không thể đạt tới sự vĩ đại của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Độ chúng ta, một lương y tốt lành và là bác sĩ của tâm hồn chúng ta đã từ trời cao hạ mình xuống, đến với con người, làm cho đôi mắt ốm yếu của con người thấy được ánh vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha đã đến gần với người nghèo và những người đau khổ mà người ta đưa đến với Chúa để được chữa lành. Bằng cử chỉ đưa bàn tay, Chúa đụng chạm tới họ, nguồn mạch sự sống tuôn trào, họ được giải thoát và được cứu.
Hết thảy mọi người đều tìm kiếm Chúa Giêsu, chỉ có một số người bị buộc đưa đến, vì "lòng chúng ta còn khắc khoải cho tới bao giờ được nghỉ ngơi trong Chúa" (Thánh Augustinô).
Nhưng, cùng một cách thức chúng ta tìm kiếm Chúa vì chúng ta cần đến với Chúa để Người giải thoát chúng ta khỏi sự ác và Sự Xấu, Người đến với chúng ta và đến gần hơn để có thể làm điều mà chúng ta không thể làm được một mình. Người đã trở nên yếu đuối để cứu chuộc chúng ta là những người yếu đuối, "Tôi đã tự cứu mình bằng mọi giá" (1Cr 9,22).
Vẫn có một bàn tay đầy sức mạnh vô hình đang chìa về phía chúng ta, những người đang bị bủa vây bởi muôn điều xấu, chúng lôi kéo chúng ta và giữ chân chúng ta lại. Chúng ta có thể "vươn lên và bước tới" bằng lời cầu nguyện, cụ thể như Chúa: "Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó"(Mc 1,35).
Hơn nữa, mỗi Thánh lễ Chúa nhật là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng đến đưa tay ra để nâng chúng ta khỏi giường tội lỗi và chán nản, làm cho chúng ta sống vui, sống hạnh phúc trong Chúa và với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con kêu cầu Chúa, xin Chúa đưa tay ra nâng đỡ và lôi kéo chúng con lên. Amen.
Bernard Podvin viết:” Ngôn từ của thánh sử Marcô thì giản dị, không rườm rà.Nó càng làm cho lời giảng dạy của Đức Kitô sáng sủa hơn, và yêu sách cho sứ mạng Người rao giảng, càng cấp thiết hơn…Sự tự do của Đức Giêsu thì sáng chói. Dù Người ở Hội đường,dù Người ở trong nhà người ta,dù Người ở trước đám đông,Người chính là Người “loan báo cho những kẻ nghèo hèn Tin mừng của ơn cứu độ…”,như lời Kinh Thánh Thể tuyên xưng”. Cuộc sống trần gian luôn bao trùm bởi nhiều loại bệnh, con người tìm ra được loại thuốc đặc trị bệnh này thì bệnh khác lại phát sinh. Y khoa, khoa học, văn minh, tiến bộ luôn là niềm vui cho con người. Nhưng con người dù có tài giỏi mấy đi nữa vẫn không giải quyết được mọi thứ, mọi loại bệnh đang tràn lan trên thế giới.Tuy nhiên, đọc Tin Mừng chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì Chúa Giêsu chữa được mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền. Hôm nay, Chúa đến nhà bà nhạc gia của ông Phêrô và chữa lành bệnh sốt cho bà bằng một cử chỉ hết sức đơn giản là cầm nhẹ tay bà và nâng bà dậy. Chúa chữa nhiều loại bệnh và xua trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người.
Chúa cho thấy uy quyền tối cao của Ngài trên sự dữ. Bởi vì theo quan niệm của người Do Thái bệnh là do tội lỗi gây ra. Họ cho rằng cảm sốt là hình phạt của của Thiên Chúa và đồng nghĩa với dịch bệnh. Họ cũng cho cảm sốt là do ma quỉ gây ra. Quan niệm như thế, người Do Thái coi mọi thứ bệnh đều do ma quỉ và việc chữa khỏi bệnh là chiến thắng được ma quỉ. Do đó, việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cảm sốt của bà nhạc gia ông Phêrô nói lên ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người, đồng thời biểu lộ vai trò Thiên sai của Chúa Giêsu. Chúa chữa lành cảm sốt cho bà nhạc gia ông Phêrô không cần đến bất cứ một loại thuốc nào.Ngài chữa lành bằng một cử chỉ đơn thuần cầm tay nhẹ bà nhạc gia và nâng dậy. Chúa còn xua đuổi quỉ ra khỏi nhiều người. Đối với nhiều người như Tin Mừng thuật lại, mắc đủ mọi thứ bệnh, nhưng Chúa cũng không hề dùng thuốc thang gì để chữa họ, Ngài chỉ cần đặt tay trên họ, mọi thứ bệnh đều được chữa khỏi. Chúa mang lại cho họ niềm vui và nụ cười. Chúng ta thán phục Chúa vì những việc thật lạ lùng Chúa đã chữa lành các bệnh nhân và xua trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người. Bệnh hoạn, ma quỉ đều là sự dữ ai cũng muốn tránh xa nhưng khi phải đối diện với Chúa Giêsu chúng đều phải khuất phục Ngài.
Chúa chữa lành bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỉ là để củng cố niềm tin cho tất cả những ai đang phải chiến đấu, vật lộn với những thứ bệnh, những thứ quỉ đang hoành hành quấy rối con người nhiều khi ngay ở chính trong bản thân mình, đó là những thứ tội lỗi, những tính hư nết xấu, những khuynh hướng xấu, những đam mê, dục vọng…Con người nhiều khi yếu đuối, mệt mỏi muốn buông xuôi, thả lỏng mặc cho con thuyền cuộc đời muốn trôi đi đâu thì trôi. Tuy nhiên, con người chỉ có thể vượt thắng khi biết đón nhận nó. Đây là thái độ của đức tin. Bên cạnh những phiền toái, những khổ lụy, những ốm đau bệnh tật, chúng ta tin vào Thiên Chúa bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Ngài vẫn làm phép lạ để củng cố niềm tin của chúng ta và tỏ rõ uy quyền tuyệt đối, tối cao của Ngài đối với nhân loại, đối với con người.
Sau khi được Chúa chữa lành, bà nhạc gia ông Phêrô đã đứng dậy và phục vụ mọi người. Cử chỉ của bà giúp chúng ta hiểu được rằng qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đã trở thành con của Chúa và con cái của Hội Thánh, chúng ta hãy mau mắn chỗi dậy ra đi phục vụ anh em đồng loại, đặc biệt những người bé nhỏ, cô thân cô thế, những người neo đơn, ốm đau tật nguyền. Có phục vụ, có chia sẻ với tha nhân chúng ta mới thấy đời mình có ý nghĩa và nhẹ nhàng thư thái bởi vì Chúa đã nói “ Hãy yêu như Thầy đã yêu “ ( Ga 15, 12 ). Chúa luôn kết hợp với Thiên Chúa Cha bằng lời cầu nguyện.Cầu nguyện là nhu cầu, là lương thực đích thực của đời Chúa Giêsu. Ngài luôn kết hiệp và hiệp thông với Cha Ngài. Ngài cần gặp Cha vì Ngài được Cha sai đến trần gian. Chúa Giêsu luôn yêu thương con người. Ngài chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ. Ngài luôn cầu nguyện để đến với nhân loại, đến với con người. Ngài chữa lành, xua trừ ma quỉ, hoạt động để đến với chúa Cha. Ngài không chỉ dừng bước ở Capharnaum, nhưng Ngài còn nhiều nơi khác nữa. Ngài tiếp tục cùng với các môn đệ ra đi. Tin Mừng cần được rao giảng, cần được loan báo nhiều nơi và mọi nơi.
Bernard Podvin viết tiếp:” Một Tin mừng của Chúa nhật thật tuyệt vời, vào thời gian này, đang có biết bao biến cố Xã hội và Giáo hội, xô đẩy chúng ta.Đó là một tiếng kêu mời cho điều cốt yếu! Thật uổng phí chừng nào, khi chúng ta không cột dây neo các dự án mục vụ của chúng ta vào Lời Chúa.Những thách đố khổng lồ của toàn cầu đang ở trước mắt chúng ta.Giáo hội, trong cuộc hàng trình thế giới, đang được trông đợi.Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội được luôn khiêm tốn đi tìm tâm điểm của thế tình “.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa vì chỉ có Chúa mới ban sự sống được cho chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa Giêsu lại làm phép lạ? 2.Bà nhạc gia của ông Simon bị bệnh gì ? 3.Cách chữa trị bệnh của Chúa Giêsu như thế nào ? 4.Phép lạ có cần lòng tin của chúng ta không ?
Những sinh hoạt truyền giáo của Chúa Giê-su được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay là một phần của một ngày làm việc. Chúa Giê-su quả là một con người bận rộn. Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa đã hun đúc tâm hồn Người. Thánh sử Mác-cô kể lại ở đây hai công tác chính trong sứ mệnh của Chúa: chữa lành và rao giảng. Tuy nhiên còn một sinh hoạt quan trọng xen kẽ, đó là Người đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện. Hình ảnh Chúa Giê-su sống có phải là gương mẫu cho chúng ta hay không?
Sau khi đi dọc theo Biển hồ Ga-li-lê để kêu gọi các môn đệ đầu tiên, Chúa Giê-su khởi sự cuộc truyền giáo, phát xuất từ Ca-phác-na-um, nơi có những tổ hợp nghề đánh cá. Nghề lưới cá trở thành sứ mệnh lưới người! Một ngày sinh hoạt của Chúa Giê-su bắt đầu từ Hội đường. Hôm ấy là ngày sa-bát, nên Chúa vào hội đường để giảng dạy. Tiếp theo việc giảng dạy là chữa bệnh, chữa cho “người nhà” trước, là bà mẹ vợ ông Phê-rô. Truyền giáo phải bắt đầu từ “nhà” mình! Được lành bệnh, lập tưc bà nhạc mẫu ông Phê-rô đứng dậy lo nấu nướng, phục vụ các nhà truyền giáo. Có thực mới vực được đạo! Ăn uống xong, chiều đến Chúa Giê-su lại tiếp tục công việc chữa lành. Người không chỉ chữa lành bệnh tật phần xác, mà còn chữa lành những tâm hồn đã bị ma quỷ ám ảnh. Mặt trời đã lặn, đáng lý Chúa và các môn đệ phải được nghỉ ngơi chứ. Nhưng không được, giờ này dân chúng mới đi làm về, mới có thì giờ để “cả thành xúm lại trước cửa”. Trái tim của Chúa Giê-su lúc nào cũng “chạnh lòng thương”, làm sao nỡ đuổi dân chúng về. Trước những việc làm của Chúa, ma quỷ biết Người là ai, nhưng dân chúng thì chưa rõ. Ma quỷ biết ngày giờ quyền lực của chúng bị hủy diệt đã đến gần. Nhưng Chúa Giê-su cấm chúng nói ra cho người ta biết Người là ai. Chúa muốn dân chúng nghe Người giảng và nhìn việc Người làm để tự nguyện mở tâm hồn đón nhận Nước Thiên Chúa.
Màn đêm buông xuống lâu rồi. Đám người đến xin chữa lành cũng đã trở về nhà, ai nấy đều mãn nguyện đã được như ý. Nhưng liệu họ có nhận ra việc chữa lành và những lời giảng của Chúa Giê-su là những dấu chỉ mời gọi họ mở lòng đón nhận Nước Thiên Chúa không? Giờ đây đêm đã khuya, Thầy trò Chúa Giê-su mới được nghỉ ngơi. Có thể các ngài họp mặt lại để nghe Thầy dạy dỗ, chia sẻ kinh nghiệm truyền giáo.
Ngày hôm sau, đối với Chúa Giê-su, một ngày mới bắt đầu từ “sáng sớm lúc trời còn tối mịt” bằng giây phút thiêng liêng: Chúa cầu nguyện. Cầu nguyện là kho ân sủng, sức mạnh và nhiệt tâm, để rồi lại bắt tay vào sứ vụ. Đang khi Chúa chìm đắm trong cầu nguyện, thì ông Phê-rô và các bạn đi tìm Người. Chắc chắc sự kiện các ông thấy Người đang cầu nguyện cũng dạy các ông một bài học sâu xa về sự cần thiết của cầu nguyện trong việc truyền giáo. Khi ông Phê-rô lên tiếng: “Mọi người đang tìm Thầy!” là ông muốn ám chỉ những thành công, danh tiếng của Chúa. Vậy mà Chúa Giê-su lại phản ứng rất khác, Người bảo: “Chúng ta hãy đi nơi khác…” Người không say men chiến thắng. Truyền giáo không nhắm mục đích chính là thành công và tiếng tăm, nhưng là để tình yêu Thiên Chúa được người ta nhận biết và đáp trả.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Năm nay toàn thể Giáo Hội hướng vào công việc Tân truyền giáo. Thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai đã tuyên dương bổn phận truyền giáo. Ngài bảo: Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! Ngài còn tình nguyện “trở thành nô lệ của mọi người để chinh phục thêm nhiều người” cho Chúa và để “thông chia phần phúc của Tin Mừng”.
Bài Tin Mừng cho chúng ta một ngày sống của Chúa Giê-su và các môn đệ trong sứ mệnh truyền giáo. Dĩ nhiên chúng ta ít người có cơ hội và hoàn cảnh để làm y hệt các ngài, nhưng chúng ta có thể làm việc truyền giáo bằng đời sống thường ngày. Điều cần thiết là qua những việc hằng ngày, chúng ta phải có hồn tông đồ, làm mọi việc để phục vụ và yêu thương. Chúa Giê-su đã làm như thế khi Người giảng dạy và chữa lành. Chúng ta cũng có thể “giảng” bằng việc làm và “chữa lành” bằng cách quan tâm đến người khác! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người lại có hai bản tính: Một là Thiên Chúa, hai là loài người. Là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cầu nguyện để tâm sự với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con Người”, Đức Giê-su đại diện cho nhân loại để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài người giao hòa với Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như một người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ.
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA CẦU NGUYỆN: TIẾNG CÒI “YÊN LẶNG”
Một hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm trên vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn tối xong và đang dạo mát trên boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi người đều nhớn nhác không biết điều gì mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng băng ngầm và sắp chìm, thì ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và không biết phải làm gì. Nhưng rồi một hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được thực tập nhiều lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như sau: “Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi, mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối cùng tai nạn cũng đã được xử lý kịp thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị chìm đắm.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta cũng thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù ghét công khai khích bác... Bấy giờ điều tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa phán dạy trong tâm hồn. Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Do đó, ta cần tránh làm những điều xấu khiến người đời khinh thường đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt để anh em lương dân nhận biết “Thiên Chúa chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến Ngài. Cần làm những điều có lợi chung cho tập thể, và tránh những việc ích kỷ hại nhân. Cần làm những điều “tốt đạo đẹp đời” như làm cho mọi người đều có cơm ăn áo mặc, sống vui tươi hạnh phúc hơn và xứng đáng với nhân phẩm hơn...
2) GIÁ TRỊ CỦA CẦU NGUYỆN: LÀNH BỆNH NHỜ CÓ BÌNH AN TRONG TÂM HỒN:
Trong cuốn “Những biến cố trong cuộc đời một bác sĩ”, tác giả là bác sĩ Pôn Tô-mi-ê (Paul Toumier) đã thuật lại câu chuyện sau: “Kết quả cuộc xét nghiệm máu của một bệnh nhân cho thấy anh ta bị chứng thiếu máu trầm trọng. Vì thế tôi đã làm giấy để chuyển anh ta đến Văn Phòng Y Tế Quận để xin nơi đây cho anh được nghỉ việc một thời gian có ăn lương, đồng thời cũng xin Quĩ Bảo Trợ Công Nhân Viên cho phép anh được đi nghỉ 2 tuần để dưỡng bệnh. Nhưng sau đó ba hôm, bệnh nhân kia đã quay lại bệnh viện và đưa cho tôi lá thư của anh bác sĩ bạn tôi, đang làm việc tại Văn Phòng Y Tế. Nội dung lá thư ấy như sau: “Theo đề nghị của anh, tôi đã làm mọi thủ tục để bệnh nhân của anh được nghỉ việc và được đi dưỡng bệnh. Nhưng bệnh nhân lại khai là anh ta đã được khỏi bệnh rồi. Nhưng tôi không tin, và đã cho tái xét nghiệm máu, và quả thật tôi rất ngạc nhiên khi thấy kết quả lần xét nghiệm mới này lại không ăn khớp với kết luận trong bệnh án mà anh đã gửi cho tôi. Vậy đề nghị anh tiến hành xét nghiệm máu thêm một lần nữa trước khi kết luận chính xác về trường hợp đặc biệt này”.
Thật là ngoài sự tưởng tượng của tôi: Kết quả xét nghiệm máu cuối cùng này đúng như lời khai của bệnh nhân là anh ta đã hoàn toàn khỏi bệnh. Tôi hỏi bệnh nhân có uống thuốc hay sử dụng phương thức điều trị nào trong mấy ngày qua không? Anh ta quả quyết là không. Nhưng rồi anh ta cho biết trong mấy ngày vừa qua, mỗi ngày anh ta đã dành ra một tiếng đồng hồ để cầu nguyện với Chúa, và cũng nhờ bầu khí thinh lặng cầu nguyện mà anh ta đã bắt tay hòa giải được với một kẻ đã từng vu khống làm hại anh, khiến anh rất uất ức và quyết tâm trả thù. Giờ đây sau khi làm hoà, anh cảm thấy tâm hồn thanh thản và bình an. Rồi tác giả kết luận: Có nhiều chứng bệnh thể lý sẽ được chữa trị dễ dàng hơn một khi chứng bệnh trong tâm hồn được chữa lành trước.
3) PHẢI CẢI TẠO THẾ GIỚI BẮT ĐẦU TỪ BẢN THÂN MÌNH:
Vào lúc sắp chết, một nhà hiền triết đã khiêm tốn thú nhận như sau: “Lúc thiếu thời, tôi là một người đầy nhiệt huyết và có ước vọng cao. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi đã xin Chúa cho mình có khả năng để cải tạo thế giới nên tốt, nghĩa là: không còn chiến tranh thù hận do những tranh chấp về quyền lợi giữa các quốc gia. Khi đã sống được nửa đời người, tôi tự xét và thấy mình vẫn chưa làm được điều gì đáng kể, chưa làm được gì để giúp cho thế giới được tốt hơn! Tôi đành đổi lại lời cầu nguyện cho phù hợp với thực tế như sau: “Lạy Chúa, con chỉ dám xin Chúa giúp con cải tạo những người thân và bạn bè chung quanh con nên tốt hơn mà thôi”. Nhưng rồi khi về già, thời gian sống chẳng còn được bao lâu, tôi tự xét và thấy mình đã quá ảo tưởng khi muốn cải tạo tha nhân. Vì trong suốt thời gian qua, tôi đã chẳng làm được gì giúp ích cho tha nhân, và cũng chẳng biến đổi được một ai nên tốt lành hơn! Và một lần nữa, tôi đành phải thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con biến đổi chính bản thân con”. Giả như ngay từ tuổi thanh xuân tôi đã biết cầu nguyện khiêm tốn và quyết tâm tự cải tạo trước hết từ bản thân mình, thì có lẽ giờ đây tôi đã không phải hối tiếc vì đã sống cả một đời vô ích!
Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc vất vả của Đức Giê-su từ sáng sớm đến tối đêm. Qua đó, Đức Giê-su đã nêu ra những chỉ dẫn để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.
1) Cần phải chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng:
Ngày Sab-bát, Đức Giê-su đến Hội đường thành Ca-phác-na-um và được mời đọc Sách Thánh và giải nghĩa Kinh Thánh. Sứ vụ loan báo Tin Mừng là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ Đức Giê-su. Những ai muốn làm môn đệ của Đức Giê-su phải hăng say rao giảng Lời Chúa cho mọi người, để nhờ lắng nghe và thực hành Lời Chúa, người ta mới biết sự thật về Thiên Chúa, biết được con đường mình phải đi. Bấy giờ Lời Chúa sẽ trở thành ánh sáng soi đường hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hành động của người tín hữu giúp họ có Sự Sống đời đời. Mỗi người tín hữu cần ý thức sứ vụ của mình là loan báo Tin Mừng như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16)
2) Tin Mừng phải hướng đến việc giải thoát con người:
Ma quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người sẽ bị mất hết ý chí, không thể tự làm điều lành, mà luôn phải làm theo lệnh truyền của ma quỉ. Tin Mừng của Đức Giê-su có sức mạnh giải thoát con người khỏi sự trói buộc của ma quỉ, khỏi những phong tục mê tín lạc hậu. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá làm con Thiên Chúa. Bà nhạc của Si-mon là một bằng chứng: Khi được giải thoát khỏi bệnh sốt, bà liền trỗi dậy làm bữa ăn phục vụ Chúa va các tông đồ.
3) Tin Mừng phải được loan báo nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp:
Sáng sớm, Đức Giê-su đã ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Người đã vất vả cả ngày để rao giảng chữa bệnh và trừ quỷ, nên Người đã dành riêng buổi sáng sớm để cầu nguyện với Chúa Cha. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của cầu nguyện. Đức Giê-su cầu nguyện vì muốn được kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, để tìm thánh ý Chúa Cha và để có nguồn sức mạnh giúp cho các hoạt động loan báo Tin Mừng. Các tín hữu hôm nay muốn dấn thân thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng, mở mang Nước Trời cũng phải biết noi gương Đức Giê-su cầu nguyện để đón nhận được sức mạnh từ nơi Chúa Cha. Việc chăm chỉ học sống Lời Chúa rất cần để hiểu biết thánh ý Thiên Chúa và chia sẻ tình thương của Chúa cho tha nhân.
4) Quảng đại cho đi là phương thế loan Tin Mừng hữu hiệu nhất:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su sau khi ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, đã chữa khỏi bệnh sốt cho bà mẹ vợ của ông Phê-rô, đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Chúng ta dù có đang bị đau khổ, thì cũng sẽ được vơi bớt nếu biết mở rộng lòng để cho đi, biết ra khỏi mình để đến với tha nhân. Sức nặng của thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng nếu chúng ta biết đến cầu nguyện với Chúa Giê-su và biết quên mình xoa dịu nỗi đau của tha nhân. Không ai quá nghèo đến độ không thể cho đi một điều gì đó: Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ động viên, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm manh áo cho người nghèo khó kèm theo tấm lòng yêu thương... Chính trong lúc cho đi là lúc chúng ta sẽ được nhận lại như lời Chúa Giê-su: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) và như lời cầu trong kinh hoà bình của thánh Phan-xi-cô: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin hãy dừng bước chân con, xin hãy dừng bước chân con! Xin cho thần kinh con đang suy nhược được mạnh mẽ, cho gân cốt con đang rệu rã được hồi phục, cho trái tim con đang lo buồn được an ủi, cho tâm hồn con đang xáo trộn được bình an... Xin dạy con biết dừng lại công việc đang làm trong vài ba phút ngắn ngủi để con trở về đối diện với lòng mình, lắng nghe lời Chúa và từ đó rút ra sự can đảm mới, sức mạnh mới và nguồn sống mới để đạt được kết quả tốt hơn. Lạy Chúa, xin hãy dừng bước chân con!
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục nói với ta về một ngày của Chúa Giê-su trên đường rao giảng Tin Mừng. Tại hội đường Ca-phác-na-um dân chúng đã nhận ra cung cách rao giảng của Chúa Giê-su và quyền năng Thiên Chúa ở nơi Người. Tuy nhiên, rao giảng Tin Mừng không chỉ đóng khung trong hội đường hay nhà thờ, mà phải được thực hiện ở ngay những môi trường sống hằng ngày của ta. Do đó, phần thứ hai của đoạn Tin Mừng về một ngày hoạt động của Chúa Giê-su cho ta hình ảnh một Chúa Giê-su bận rộn không ngừng. Nhưng không phải vì bận rộn như thế mà đời sống của Người mất thăng bằng. Trái lại ta gặp thấy ở đó sự nhịp nhàng hòa điệu giữa hoạt động và cầu nguyện, một đề tài sống động để ta suy gẫm và đem áp dụng vào cuộc sống hằng ngày của ta. a) Từ hội đường đến nhà hai ông Si-mon và An-rê Rao giảng trong hội đường là công việc ưu tiên của Chúa Giê-su (1:39), vì hội đường là nơi thuận tiện nhất. Nơi ấy, dân chúng tề tựu đông đủ và bầu khí trang nghiêm, thích hợp cho việc giảng dạy. Thánh sử Lu-ca đã cho ta biết sinh hoạt một buổi giảng dạy của Chúa trong hội đường diễn tiến như thế nào (Lc 4:16-21). Trước hết Người tuyên đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống và bắt đầu nói về đoạn Sách Thánh ấy. Từ miệng Người thốt ra toàn những “lời hay ý đẹp” khiến cho mọi người say sưa lắng nghe và tán thành.
Tuy nhiên hội đường không chỉ là nơi độc nhất để rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng phải vượt qua khuôn viên hội đường để được đem tới “nơi khác, đến các làng xã chung quanh... khắp miền Ga-li-lê” và tới tận cùng trái đất. Chắc không phải vô tình mà thánh Mác-cô ghi lại việc Chúa Giê-su đến nhà hai ông Si-mon và An-rê sau khi ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um. Hai ông là những người theo Chúa thi hành sứ vụ rao giảng. Chúa tới nhà để chữa bệnh cho bà mẹ của hai ông. Làm như vậy, Chúa muốn họ ý thức việc rao giảng Tin Mừng phải bắt đầu từ ngay chính gia đình mình. Gia đình là cái nôi đào tạo người chiến sĩ rao giảng Tin Mừng. Những giá trị Tin Mừng phải được học hỏi và thực hành ngay tại gia đình trước khi được giới thiệu cho người ngoài.
Một chi tiết nữa hết sức độc đáo giúp ta xác tín rằng công việc rao giảng Tin Mừng phải khởi xướng ngay từ gia đình. Thánh Mác-cô ghi: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa nhà”. Nhà ông Si-mon đâu phải bệnh viện, vậy mà mọi người kéo đến đó! Ước mong của Chúa Giê-su là nhà mỗi môn đệ của Người sẽ là địa điểm rao giảng Tin Mừng và tỏ hiện quyền năng Thiên Chúa.
Mô thức rao giảng Tin Mừng như trên được áp dụng cho mọi tín hữu, các môn đệ hôm nay của Chúa Giê-su. Rao giảng không phải bằng lời nói mà thôi, nhưng là bằng những hành động cụ thể như xoa dịu những đau khổ thể xác và tinh thần của anh chị em. Thánh Phan-xi-cô dùng hình ảnh rất cụ thể để diễn tả công việc ấy. Ngài cầu xin Chúa cho ta được trở thành “khí cụ bình an của Chúa” để thay đổi bộ mặt trần gian này. b) “Người đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” Ngay cả việc cầu nguyện cũng không chỉ được thực hiện ở trong hội đường, nhưng ở bất cứ nơi nào dễ cho ta hướng lòng lên với Chúa. Chúa Giê-su đã mở ra một chân trời mới cho việc cầu nguyện, biến việc cầu nguyện trở thành một phần cốt yếu của cuộc sống không thể thiếu vắng được. Trước đây người ta giới hạn việc cầu nguyện trong Đền Thờ hay những nơi đặc biệt nào đó. Cầu nguyện cũng bị đóng khung trong một thời biểu nhất định, thí dụ mỗi năm một vài lần trong những dịp lễ lạc tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hay ngày sa-bát trong hội đường. Nay Chúa Giê-su đưa cầu nguyện vào thời biểu hằng ngày cuộc sống của ta.
Nhìn lại ngày sống của Chúa Giê-su, ta nhận thấy Người quá bận rộn. Thánh Mác-cô diễn tả sự dồn dập công việc của Chúa Giê-su: “Vừa ra khỏi hội đường..., lập tức họ nói cho Người biết...” Ta có cảm tưởng lúc nào Chúa cũng ở trong tư thế sẵn sàng, và như vậy làm gì còn thì giờ để cầu nguyện. Nhưng Chúa có cách sắp xếp của Người. Người đã sử dụng một khoảng thời gian khá dài dành cho việc cầu nguyện, từ lúc “sáng sớm khi trời còn tối mịt” cho tới khi các môn đệ tìm được Người. Người biết phải làm thế nào cho quân bình giữa hoạt động và cầu nguyện. Hoạt động truyền giáo thật là tốt. Nhưng nhiều khi hăng say hoạt động cũng trở thành một cái bẫy. Nó làm cho ta tưởng mình ngon lành và dần dần quên đi mục đích của hoạt động và quên đi chỗ đứng của Chúa. Thay vì để làm cho danh Cha được rạng sáng hơn, thì lại để cho danh “con” được nổi như cồn. Thay vì ý thức kết quả những hoạt động của ta là do Chúa Thánh Thần, thì lại vỗ ngực “đấy, tôi làm điều này, tôi làm điều kia”, hoặc thay vì tạ ơn Chúa thì mình lại hậm hực vì chẳng ai cho mình một lời khen thưởng.
Nếu khiêm nhượng nhận ra được tình trạng ấy, là ta biết mình đã mất quân bình giữa hoạt động và cầu nguyện rồi. Trong cầu nguyện, ta múc lấy sức mạnh và ý chí để hoạt động. Đang khi hoạt động, ta cầu nguyện để luôn nhìn rõ được mục đích của hoạt động. Sau khi hoạt động và trở về với cầu nguyện, ta nhận ra được ơn Chúa đã ẩn tàng và tác động qua những hoạt động của ta, nhờ đó ta biết cảm tạ Chúa. Chúa Giê-su cũng đi qua tất cả những năng động ấy khi Người cầu nguyện, để cho cuộc sống Người càng trở nên sinh động hơn. Rao giảng Tin Mừng là hoạt động, nhưng là hoạt động lấy cầu nguyện làm sức mạnh và nguyên lý cân bằng. Có lẽ đây là điểm người Ki-tô hữu cần phải nghiêm túc suy nghĩ. Ta có quá nhiều lý do để thoái thác cầu nguyện, nhất là những lý do xem ra hết sức thực tế và hữu lý trăm phần trăm. Thí dụ tôi bận làm việc, không có giờ cầu nguyện, thậm chí không có thì giờ tham dự Thánh lễ Chúa Nhật nữa! Ta cứ tưởng những “lý do chính đáng” ấy có thể thay thế việc cầu nguyện để làm cho cuộc sống được thăng bằng. Làm sao mà thay thế được! Làm sao chúng giúp ta sống mối quan hệ với Chúa được! Đọc lại ngày sống của Chúa Giê-su, ta nghĩ cứ điệu này chẳng bao lâu Người sẽ “burnout”, kiệt sức. Nhưng trái lại, cầu nguyện làm cho Chúa tăng sinh lực. Người nói với các môn đệ khi họ tìm thấy Người: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa”. c) Suy nghĩ và cầu nguyện Tôi thử mô tả một ngày sống của tôi gồm những gì? Bận rộn công việc và bận rộn cầu nguyện? Hay chỉ bận rộn công việc thôi nên mất sự quân bình?
Phác họa việc rao giảng Tin Mừng, tôi thấy tôi có thể làm những gì? Bắt đầu ở đâu? Gia đình? Sở làm?
Các môn đệ thưa với Chúa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Tôi có ở trong số những người ấy không? Gặp Người, tôi sẽ xin Người dạy tôi những gì về việc cầu nguyện? Cầu nguyện “Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng. Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa. Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người. Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện. Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 21) Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Một trong những bài hát mà tôi ưa thích nhất là bài TRONG TRÁI TIM CHÚA, với những lời TN5-B126
Một trong những bài hát mà tôi ưa thích nhất là bài TRONG TRÁI TIM CHÚA, với những lời thật hay:
1. Trong trái tim Chúa yêu muôn đời, con xin được một chỗ nghỉ ngơi, nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, như nước mưa tan trong biển khơi. Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, những ước mơ con có trong đời, nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi là tình con trong khối tình Người.
ĐK.- Trái tim hồng Thiên Chúa trái tim Người CHA. Mãi muôn đời yêu dấu chúng con gần xa. Tháng năm đời con sống chứa chan lời ca. Có ân tình Thiên Chúa trái tim nở hoa.
2. Trong trái tim Chúa như nôi hồng, con xin được như bé ngủ mơ, một giấc mơ, nghìn giấc mơ, những giấc mơ ấm êm tuổi thơ. Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, những giấc mơ con có trong đời, là sống vui, là hát vui, là trẻ thơ trong mái nhà Người. ĐK.
3. Trong trái tim Chúa bao ân cần, con xin được say nếm hồng ân, là trái ngon, là trái ngon, những trái ngon dưỡng nuôi đời con. Là bánh thơm, là sữa thơm giúp con mau chân bước lên trời, là đóa hoa, là tiếng ca, gọi lòng con mau bước về nhà. ĐK.
4. Trong trái tim Chúa bao dịu dàng, con xin được nghe Chúa bảo ban, dậy dỗ con, dậy dỗ con, dậy dỗ con biết sống sao thắm tươi tình son. Tìm bước theo đường mến yêu, biết dâng trao, biết thứ tha nhiều. Cùng Chúa đi, cùng Chúa đi, hòa niềm vui chung với mọi người. ĐK.
*****
Bài hát ấy rất phù hợp với đoạn Phúc Âm chúng ta đọc hôm nay (Chúa Nhật 5 Thường Niên B): Chúa Giê-su có một tấm lòng hết sức nhạy cảm trước nỗi đau của con người và vì thế mà Người rất quyết liệt khử trù cái ác và luôn ra tay cứu giúp những người yếu đau bệnh tật, những người bị xã hội khinh khi và gạt ra bên lề.
Chúng ta hãy đọc kỹ các bài Sách Thánh hôm nay để khám phá tấm lòng của Chúa Giê-su cũng là tầm lòng của chính Thiên Chúa trước những nỗi thống khổ của con người.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (G 7,1-4.6-7): "Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối" Bấy giờ Gióp nói rằng: "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 9,16-19.22-23): "Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm" Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng. .
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 1,29-39): "Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau" Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa:
1o) Trong đoạn Sách G 7, 1-4.6-7, ông Gióp không đề cập trực tiếp đến Thiên Chúa nhưng là những lời ông than thở với Người, về những nỗi khổ đang tràn ngập cuộc sống và năm tháng ngày giờ của ông. Ông than thở với Thiên Chúa vì ông tin vào tình thương và quyền năng của Người: chỉ có Thiên Chúa mới cứu được ông khỏi cảnh khổ, mới làm cho những tháng năm của ông có ý nghĩa, mới đem lại hạnh phúc cho ông!
2o) Trong đoạn thư 1 Cr 9,16-19.22-23, Thánh Phao-lô cũng không đề cập trực tiếp đến Thiên Chúa nhưng ngài thổ lộ tâm tư sâu thẳm của mình: Thánh Phao-lô chỉ có một trách nhiệm, một sứ vụ, một mối quan tâm: đó là rao giảng Tin Mừng Cứu độ và giúp đỡ người khác đón nhận Tin Mừng ấy. Sứ vụ/trách nhiệm ấy là do chính Thiên Chúa đã giao cho ngài.
Để chu toàn việc rao giảng Tin Mừng và chinh phục các tâm hồn cho Thiên Chúa, Thánh Phao-lô tự biến mình thành người nô lệ cho Tin Mừng và cho con người. Ngài sống hòa đồng, thậm chí đồng hóa với hết mọi hạng người, để Tin Mừng được loan báo và đón nhận. Tin Mừng mà Thánh Phao-lô phục vụ quả thật là Tin Vui, là Tin Chiến Thắng! Đấng Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô phụng thờ quả là Vị Thần Linh cao cả và tuyệt diệu!
3o) Trong đoạn Tin Mừng Mc 1,29-39, Thánh Mác-cô muốn giới thiệu với chúng ta Chúa Giê-su Na-da-rét là Đấng làm việc không biết mệt mỏi, để rao giảng Tin Mừng và chữa lành những người ốm đau bệnh tật cũng như trừ quỷ ám hại làm nhiều người khốn khổ.
Sở dĩ Chúa Giê-su Na-da-rét làm như thế là vì Người đã được Thiên Chúa sai đến trần gian này để cứu độ chúng sinh và vì Người có tấm lòng của Thiên Chúa: xót thương con người bị hành hạ bởi đủ thứ khốn khổ trên đời. Cùng với tác dụng chữa lành những con người khốn khổ phần hồn phần xác, những phép lạ (hay dấu lạ) Chúa Giê-su đã thực hiện còn mang ý nghĩa khác là bộc lộ lòng xót thương của Thiên Chúa và loan báo Nước Trời đã có mặt, đang hình thành và lớn lên trong thế giới của loài người. Ở đâu có khổ đau ở đấy có Thiên Chúa tình thương. Ở đâu bệnh tật, ma quỷ bị đầy lui, ở đấy Nước Thiên Chúa ngự đến. Ở đâu có lời công bố Tin Mừng, có lời hay hành động công bố Tình Yêu của Thiên Chúa, ở đấy Nước Thiên Chúa hiện diện. Chúa Giêsu ở đâu, Nước Thiên Chúa và chính Thiên Chúa Cứu Độ ở đó!
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa gồm 2 phần:
* Thứ nhất là tìm đến với Chúa Giê-su Ki-tô để nghe Người giảng dạy và để được Người chữa lành tất cả những bệnh hoạn tật nguyền phần hồn phần xác đang hành hạ chúng ta!
* Thứ hai là noi gương bắt chước Chúa Giê-su Ki-tô mà mở rộng tấm lòng trước nỗi khổ của người chung quanh và giúp đỡ phục vụ những người ấy.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng không hề bỏ rơi hay trừng phạt người tôi tớ công chính là ông Gióp trong Cựu Ước, nhưng Người đây đã giao cho Con Một là Đức Giê-su Ki-tô, bộc lộ tấm lòng yêu thương và quyền năng của Người trong việc chữa lành những người bệnh tật, đau khổ.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Muốn thực thi sứ điệp Lời Chúa, có ba việc chúng ta nên làm:
* Một là chúng ta thường xuyên chạy đến với Chúa Giê-su Ki-tô bằng những giây phút riêng tư sống một mình với Người, lắng nghe Lời Người. Chúa nói trong tâm hồn chúng ta và qua các trang Kinh Thánh và các biến cố cuộc đời.
* Hai là chúng ta để cho Chúa Giê-su Ki-tô chạm tới những bệnh hoạn tật nguyền là những tội lỗi, yếu đuối, đam mê của chúng ta để Người chữa lành chúng ta.
* Ba là chúng ta noi gương bắt chước Chúa Giê-su Ki-tô mà tích cực cứu giúp những người bị bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn phần xác để họ được ơn giải thoát khỏi cảnh khốn khổ.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ» Chúng ta hãy cầu xin cho hết mọi người trên thế gian này, nhất là cho những người đang đau khổ phần hồn phấn xác, để ai nấy được Thiên Chúa ủi an nâng đỡ bằng Tình Thương và Quyền Năng vô biên của Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người hăng say nhiệt thành việc tông đồ, hầu giúp nhiều người nhận biết Chúa là Thiên Chúa thật.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, được ơn nhiệt thành rao giảng Tin Mừng cho những người trong gia đình và khu phố/xóm!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngà.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các bệnh nhân và các người già được Chúa chữa lành hoặc được ơn bình an chịu đựng bệnh tật hay tuổi già hầu sống đẹp lòng Chúa và hữu ích cho chính mình cũng như cho người khác.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sài gòn ngày 03 tháng 02 năm 2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
“Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ… Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ”
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ:
Chúa nhật IV Thường Niên Năm B chúng ta đã chiêm ngắm Chúa Giêsu vừa là Thầy Giáo vừa TN5-B127
Chúa nhật IV Thường Niên Năm B chúng ta đã chiêm ngắm Chúa Giêsu vừa là Thầy Giáo vừa là Thấy Thuốc. Chúa nhật V Thường Niên Năm B hôm nay chúng ta sẽ chiêm ngắm Chúa Giêsu cùng lúc là Thầy Thuốc-Thầy Pháp (1)-Thấy Giáo. Ba công việc cứu người của Chúa Giêsu vẫn mang tinh thời sự nóng bỏng, vì hơn bao giờ hết, loài người chúng ta đang rất cần được chữa lành, được trừ quỷ và khai lòng mở trí. Bệnh tật (vd corina virus) và nạn u mê dốt nát đang hoành hành trong mọi quốc gia, mọi tầng lớp xã hội, có học cũng như thất học, giầu cũng như nghèo.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 1,29-39: Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 1,29-39: Có ba nội dung trong bài Phúc Âm:
3.1 Chúa Giêsu chữa mọi thứ bệnh: Thời Chía Giêsu thì xã hội Do-thái chỉ là một xã hội nghèo và kém phát triển. Vì thế bệnh tật là nỗi khổ của rất nhiều người. Có những bệnh thày thuốc chữa được nhưng có những bệnh thày thuốc đành bó tay. Chỉ có Thầy Thuốc Giêsu mới chữa những bênh ấy. Và Chúa Giêsu đã không để một bệnh nhân nào phải thất vọng. Người chữa hết mọi bệnh vì Người thương hết mọi người, nhất là nhũng người đang phải ốm đau và khốn khổ.
3.2 Chúa Giêsu xua trừ quỷ: Trong xã hội Israel thời Chúa Giêsu còn có nhiều người bị quỷ ám và hành hạ. Những thầy thuốc bình thường không đủ năng lực xua trừ ma quỷ ra khỏi con người. Nhưng Chúa Giêsu thì có thể và Người đã xua trừ ma quỷ đang chiếm đóng trong thân xác của nhiều con dân Israel. Làm thế Chúa Giêsu thể hiện quyền năng và lòng yêu thương.
3.3 Chúa Giêsu giảng dậy cho dân: Chúa Giêsu kh6ng chỉ chửa bệnh trừ quỷ mà Người còn chuyên chăm việc giảng dậy cho dân chúng đói khát sự dậy dỗ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu giảng dây về Nước Trời, về Chúa Cha, về giới răn yêu thương, về luật bác ái thứ tha, về con đường cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu giảng dậy hết mọi thánh phần xã hội vì họ cần được nghe lời Thiên Chúa. Chúa Giêsu giảng dậy có uy quyền vì Người có Thần Khí, có Chân Lý và có Tình Thương.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 1,29-39: (Có ba việc phải làm)
4.1 Chúng ta hãy xin và hãy để cho Chúa Giêsu (là Thầy Thuốc) chữa bệnh cho chúng ta: Bản thân mỗi Kitô hữu và xã hội loàai người hôm nay đầy dậy những bênh, bệnh phần xác (như huyết áp cao, đau tim, giãn tĩnh mạch, đau cơ, đau dạ dầy v.v..), bệnh phấn hồn (như lười biếng, ích kỷ, hẹp hòi, nuôi lòng thù hận v.v..). Chúng ta hãy kêu cầu Chúa Giêsu chữa lành phần xác phần hồn cho chúng ta được khỏe mạnh xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa.
4.2 Chúng ta hãy câu xin Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ trong các tâm hồn và xã hội: Chúng ta khó nhận ra sự có mặt và hoạt động phá họai của ma quỷ trong tâm hồn con người, cũng như trong xã hội hiện đại và trong các trào lưu văn minh phò sự chết (thương mại hóa thân xác con người, phá thai, chiến tranh hận thù). Chi có Chúa Giêsu bằng quyền năng của Thiên Chúa mới xua trừ được ma quỷ và tẩy uế mọi môi trường sống. Chúng ta có thể gọi Chúa Giêsu là THẦY PHÁP không the nghĩa thông thường mà theo nghĩa riêng của ngứoi có đức tin, vì Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa mà xua trừ ma quỷ.
4.3 Chúng ta hãy học với Thầy Giêsu (thầy giáo, thầy gỉang): Nhiều giáo dân theo đạo nhưng rất ít hiểu biết về đạo vì không chịu học Giáo Lý, Thánh Kinh, Thần Học. Hầu hết giáo dân quan niệm sai lạc là học giáo lý chỉ để chịu bí tích. Khi đã được xưng tội, rước lễ và kết hôn (tức đã chịu ba Bí tích Rứa Tội, Hòa Giải và Hôn Phối) rồi thì các giáo dân ấy cho rằng mình không cần phải học giáo lý nữa. Chính vì thế mà họ ít hiều Đạo. Ít hiều Đạo thì làm sao yêu mến (vô ri bất mộ) và sống Đạo được Loài người tiến bộ thi các Kitô hữu cũng phải nâng cao trỉnh độ Hiểu Đạo, Mộ Đạo và Sống Đạo cho tương xứng với thời đại (thế kỷ XXI). Chúa Giêsu là Bậc Thầy, là Bậc Sư của chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 1,29-39:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho chúng con để Người khai lòng mở trí và chữa lành hồn xác chúng con. Xin Cha lắng nghe lời cầu xin tha thiết của chúng con.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả các bệnh nhân (phần hồn phần xác), nhất là những người bị nhiễm corona virua, được Chúa Giêsu Kitô cầm tay và chữa lành.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy tiếp nối công cuộc chữa lành của Thầy Thuốc Giêsu để mọi người được lành mạnh xác hốn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu cộng tác với Thầy Thuốc Giêsu chữa lành bệnh nhân và xua trừ ma quỷ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những người trẻ, biết kính trọng Thầy Giáo Giêsu mà nghe lời Người giảng dậy.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban cho chúng con Con yêu đầu của Cha để Người chữa lành và dậy dỗ chúng con. Chúng con chẳng những bệnh đây người (kể tên các chứng bệnh thể xác và tâm linh), mà còn u mê dốt nát và lười biếng nên rất cần đến Thầy Thuốc và Thầy Giáo Giêsu!
Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, là Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến để đưa mọi người về với Cha. Amen.
Sàigòn ngày 04 tháng 02 năm 2021
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Ghu chú:
(1) Chúng ta có thể gọi Chúa Giêsu là THẦY PHÁP không theo nghĩa thông thường mà theo nghĩa riêng của người có đức tin, vì Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa mà xua trừ ma quỷ.
(2) MỜI ĐỌC THÊM BÀI SỰ THẬT VỀ SATAN VÀ…. [trong atttach]
Mỗi người mỗi cảnh, đi tìm kế sinh nhai cách khác nhau, nhiều khi họ phải bán rẻ cả nhân phẩm TN5-B128
Mỗi người mỗi cảnh, đi tìm kế sinh nhai cách khác nhau, nhiều khi họ phải bán rẻ cả nhân phẩm của mình. Nhưng dù sao tất cả họ, vẫn là những người biết kiếm tiền dựa trên chính sức lao động của mình, không như một nhóm người bán nước cầu vinh, chỉ biết lợi dụng lòng nhân ái của người khác để kiếm tiền thông qua tham nhũng, ăn hối lộ, bớt xén của công hay buôn lậu….và làm nhục quốc thể như vụ một nhân viên ngoại giao buôn lậu sừng tê giác bị bắt quả tang, hay vụ công ty tư vấn Thái Bình Dương (PCI) hối lộ quan chức cộng sản, dẫn tới Nhật quyết định ngừng cung cấp viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam. Cũng theo BBC, cho hay các cựu quan chức PCI nhận đã chuyển 820.000 đôla cho ông Huỳnh Ngọc Sỹ, nguyên phó giám đốc Sở Giao thông Công chính thành phố Hồ Chí Minh, để giành thầu trong các dự án hạ tầng có sử dụng vốn vay ODA tại đây. Phe công tố thì nói số tiền lên tới hai triệu đôla. (nguồn BBC)
Đường phố Sài gòn có vẻ tấp nập hơn vào những ngày cuối năm. Người qua kẻ lại, hối hả đi về mong cho kịp giờ đón giao thừa trong mái ấm gia đình, bên những người thân yêu. Nhưng khi bước qua những ngày đầu của năm mới, thì đường phố trở nên vắng vẻ lạ thường. Chỉ còn đây đó xuất hiện những con người lam lũ sống bằng nghề bán hàng rong hay bán vé số dạo, đa phần họ là những người nhập cư. Hỏi ra mới biết vì không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn tết, nên đành phải đón tết xa quê. Cũng trong số họ, có người vốn là dân thành phố, giàu có một thời, nhưng chỉ sau lần “đánh tư sản mại bản” của chế độ cộng sản vào những năm đầu mới giải phóng, đã trở thành một người vô gia cư. Đó là trường hợp của bà Ba bán vé số. Họ nhìn ngắm những gian hàng bánh mứt được trang trí cho đẹp mắt, mà chẳng dám mơ tưởng. Bởi cuộc sống của họ vốn đã eo hẹp, thì nay càng khó khăn hơn vào những ngày giáp tết Kỷ Sửu.
Cũng có ông lão nọ, tuổi đã ngoài bảy mươi, chẳng mấy bận tâm đến cái vẻ nhộn nhịp, hào nhoáng bên ngoài khi ngày tết đang đến gần. Ông dửng dưng trước cái tết, không phải là ông không biết ăn ngon mặc đẹp, nhưng vì “cái khó nó bó cái khôn”, cái nghèo đã không cho phép ông nghĩ đến những chuyện xa xôi hơn cái việc kiếm cho mình một bữa cơm sống qua ngày. Ông chẳng hề quan tâm đến bộ quần áo cũ đang mặc, mà có lẽ đã lâu không được giặt. Thấy tội nghiệp, ngưòi ta cho tiền, nhưng ông từ chối, bởi vì ông sống bằng nghề bán vé số dạo. Mỗi khi bán cho ai được tờ vé số nào, ông đều dặn người ta: nếu có trúng giải đặc biệt, thì hãy giúp cho ông một chiếc xe đạp để ông làm phương tiện đi lại, vì tuổi cao, phải đi bộ nhiều nay ông đã mỏi chân. Trong khi đó, ngày càng có nhiều người tìm đến cái nghề mất ít vốn nhưng lại dễ kiếm tiền, nên ông muốn có chiếc xe đạp để đi bán ở những nơi khác xa hơn, lắm lúc bị người ta xua đi như đuổi tà, vì họ nghĩ người bán vé số dạo thường là những người nghèo kiết xác, nên họ khinh rẻ, dù đó là một người lớn tuổi.
Khi ánh đèn đường đã sáng rõ, cũng là lúc bắt đầu buổi làm việc của một nhóm nghề khác: buôn phấn bán hương. Họ là những cô gái trẻ, chỉ khoảng mười tám đôi mươi, ăn mặc sang trọng, mang dáng vẻ như những tiểu thư đài các. Từng nhóm hai ba người, có khi lên đến bốn hay năm người, chạy trên những chiếc xe tay ga đời mới, nghe nói họ thuê lại của một “má mì “, chạy từ hướng cầu Thị Nghè về phía mũi tàu, đến trước cổng Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm II của hiệp hội người khuyết tật thành phố, thì quay đầu lại. Cứ như vậy, họ chạy đi chạy lại từ lúc 20h – 21h mỗi buổi tối, mong tìm được khách làng chơi. Có hôm họ còn chủ động chạy xe kè theo những người đi xe trên đường, trong số đó có không ít người đáng tuổi cha chú của họ. Và đương nhiên họ chỉ nhận được những cái lắc đầu bỏ đi.
Đau khổ vốn là một trong những vấn nạn nhân sinh, một huyền nhiệm không dễ gì giải thích thấu đáo. Tại sao con người phải chịu nhiều đau khổ? Sinh ra đã là khổ, khi mới sinh đứa bé nào mà chẳng phải khóc thét lên vì cái tát của bà mụ. Lớn lên càng khổ hơn vì phải đổ mồ hôi và nước mắt mới có được miếng ăn mong sống qua những ngày tháng dài tưởng chừng như vô vọng. Rồi còn phải chịu đựng ốm đau, bệnh tật, già yếu và cuối cùng phải chết. Thế nên, theo quan niệm của nhà Phật, thì đời là bể khổ. Và muốn thoát khỏi đau khổ, con người phải tự diệt duc, tức diệt lòng ham muốn nơi mình. Kinh Thánh chỉ rõ hơn: con người đau khổ là do hậu quả của tội lỗi, của sự ác và của ác thần. (x. St 3, 1-7; 3, 17-19)
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, vấn đề càng được khai tỏ. Vì trước mọi đau khổ của cuộc đời, người Kitô hữu luôn được mời gọi hãy ứng xử theo gương Chúa Giêsu, là Đấng Thiên Sai mà tiên tri Isaia đã loan báo, Người đến để giải thoát con người khỏi đau khổ (Is 29, 18-19). Theo gương Chúa: không thất vọng, nhưng đón nhận và hoàn toàn phó thác trong bàn tay nhân từ của Chúa Cha.
Tin Mừng Mc 1, 29-39 ghi lại một ngày sống vất vả của Chúa Giêsu ở Caphacnaum. Người giảng dạy, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ cho mọi người từ sáng đến tối, nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện. Một ngày làm việc của Chúa Giêsu với biết bao nhọc vhằn vì lòng thương người, muốn giải thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật, của ma quỷ. Chính vì vậy, chỉ có niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới có thể giúp con người nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và có sức mạnh để đón nhận nó. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng Người đến để giúp con người chịu đụng đau khổ cách có ích.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật V mùa thường niên này được mô tả là một người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ hết thảy mọi người. Một ngày sống của Người trôi qua cách hữu ích cho tha nhân. Từ sáng đến tối lúc nào cũng tấp nập người bệnh, người bị quỷ ám đến xin cứu chữa. Người đã sử dụng thời gian thật hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha nhân. Chính nhờ cầu nguyện với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng thánh ý Chúa Cha.
Hạnh phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa, bí quyết của hạnh phúc là khám phá và thực thi thánh ý Ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết noi theo gương Chúa, mà sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa bằng cầu nguyện, và sử dụng thời gian cách hữu ích cho tha nhân qua việc sống yêu thương, phục vụ và chu toàn bổn phận trần thế của mình.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay liên kết ba bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ TN5-B129
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay liên kết ba bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô (Mc 1,29-31), một bảng tóm tắt các phép lạ chữa lành (cc.32-34) và một bước tiến trong việc hoàn thành sứ mệnh (cc.35-39). Muốn phân tích ba bản văn, phải lưu tâm đến văn thể khác biệt của chúng.
Bài đọc thứ nhất (G 7,1-4.6.7) là phần nhập đề cho các cuộc chữa lành của Chúa Giêsu: ta đọc thấy trong ấy hình ảnh con người bị đau khổ vì thân phận trần thế, hay đúng hơn vì bệnh tật. Bà mẹ vợ Phêrô một cách nào đó hiện thân cho thân phận này, và những đám đông đi tìm Chúa Giêsu (cc.32.33.37) cụ thể hóa cái phản ứng đầu tiên của con người đứng trước kẻ có thể chữa lành họ. Con người thời đại hôm nay phải chăng đã được giải phóng khỏi thân phận nói trên nhờ và các khoa học và tiềm lực kinh tế? phải chăng họ đã vượt qua phản ứng của những người đồng thời với Chúa Kitô?
TỪ HỘI ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ SIMON (c.29)
Trình thuật chữa lành một kẻ bị quỷ ám đã đặt chúng ta tại hội đường Capharnaum (1,23-28), vì thế Mc viết tiếp: “Và lập tức ra khỏi hội đường…”. Thật vậy thánh sử hình như vẫn giả thiết một khoảng thời gian khá dài giữa lai phép lạ, bởi vì danh tiếng Chúa Giêsu đã có thời giờ lan xa khắp xứ Galilê. Hiển nhiên Mc đã giản lược. Ta biết ông thường dùng trạng từ “lập tức” nhưng chẳng gán ý nghĩa gì đích xác (11 lần nguyên trong chương một: Cc. 10, 12, 18, 20, 21,23,28, 29, 30, 42, 43). Vì ông không mấy quan tâm đểu tính cách liên tục hợp lý, mà chỉ muốn trình bày ở đây (cc.21-39) một ngày mới về sứ vụ Chúa Giêsu: “Ngày Capharnaum” theo thành ngữ cổ điển. [như Luca, nơi ch.24 đã cô đọng trong một ngày tất cả các sự kiện từ Sống lại đến Thăng thiên: “Vừa tang tảng bình minh (c.1):.. Đi thăm mộ về (c.9)… Cũng ngày hôm ấy (c.12)… Ngay giờ đó (c.33)… Họ còn đang trò chuyện (c.36)… Đoạn (c 44)..: Rồi (c.50)…”]. Mátthêô và Luca đã bỏ khung cảnh nói trên và để qua một bên tiếng “lập tức” giả tạo vừa nói. Chúng ta không biết thời biểu thật sự của các sự kiện ra làm sao. Tuy nhiên có thể quả quyết rằng cặp trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô – chữa lành khi chiều đến” bắt nguồn từ một truyền thống có trước các Tin mừng Nhất lãm vì chi tiết “chiều đến” nằm trong Mc lẫn Mt. Nếu Lc đã bỏ qua trạng từ “lập tức” thì trái lại ông đã lưu giữ chi tiết “hội đường”. Ông sẽ khai triển ý nghĩa chi tiết này đến độ làm thành một chủ đề thần học, sẽ nhắc tới nhắc lui trong sách Công vụ của ông: khi rao giảng trong một thành hay một thị trấn, thì Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như vậy.
Chúa Giêsu “ra khỏi hội đường” không chỉ vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng vì các thính giả chưa hiểu được Người. Như các môn đồ khi chương kiến cơn bão dẹp yên, họ cũng đặt câu hỏi về bản thân Chúa Giêsu: “Cái gì vậy? (1,27), “ông này là ai thế? (4,41). Nhưng họ chưa trả lời được. Chắc hẳn phải coi đó là một hình ảnh biểu trưng: bao lâu còn ở trong hội đường, ta chưa thể trở nên môn đồ Chúa Giêsu; cần phải ra khỏi đó như một cuộc xuất hành mới. Nơi c.39, Mc sẽ viết với một đại danh từ độc hữu: “hội đường của họ”. Xa hơn ông kể rằng sau một phép lạ làm trong hội đường do Chúa Giêsu các biệt phái mới họp với phe Hêrôdê để chống Người. Chính vì thế mà người rút lui về bờ “biển”: Người đi ra và có nhiều kẻ đi theo (3,7). Chúa Giêsu cũng sẽ đi xa khi làm phép lạ hóa bánh và nhiều đám đông sẽ đến với Người (6,32-33). Người sẽ còn ra khỏi Đền thờ (11,11) và khỏi Giêrusalem nữa (11,19; 13,1). Về đề tài này, Luca lược đồ hóa rõ ràng hơn Mc: theo Lc Chúa Giêsu rao giảng lần đầu tiên tại hội đường Nadarét. Và ngay từ hội đương này, không những người đã chẳng được hiểu và bị bó buộc phải rời khỏi đó mà còn phải lẩn trốn để khỏi bị giết đi (Lc 4, 16-30).
Chắc Mc đã nghĩ đến chủ đề bất biến này trong Tân ước. Nhưng ta có nên đi xa hơn và xác quyết rằng ông đã muốn đối nghịch hội đường với nhà của Simon-Phêrô, hình ảnh Hội Thánh không? Chưa nên. Vì vẫn biết ngôi nhà này chiếm một chỗ quan trọng trong Tin mừng thứ hai (x. Assemtlées du Seigneur 38, tr.81 và 41, tr.40), nhưng ở đây Lc chưa nói đến Phêrô cách đặc biệt; ông chỉ bảo: “Người đến nhà của Simon và Anrê, cùng với Giacôbê và Gioan.
Bốn môn đồ đã được gọi đầu tiên (1,16-22) và vẫn luôn là những kẻ thân tín nhất này, là chứng nhân của phép lạ. Việc thiết lập nhóm Mười hai chỉ xảy đến về sau.
CHỮA LÀNH MẸ VỢ SIMON (cc.30-31)
Sự kiện:
Người ta đã đề nghị phân biệt các phép lạ của Chúa Giêsu thành hai: các phép lạ thương xót và các phép lạ chiến đấu (E.Trocmé, La formation đe Levangile de Marc, Paris, 1963, tr.123). Dù không tuyệt đối hoàn toàn, cách phân chia này vẫn giúp làm nổi bật hơn chiều hướng của các trình thuật. Những lần trừ quỷ có thể gọi là các phép lạ chiến đấu: Mc muốn nhân mạnh như vậy (1,23-28.29). Việc chữa lành mẹ vợ Phêrô có thể xem như một “phép lạ thương xót”: người ta đã nài xin Chúa Giêsu chữa cho bà (c.30). Tuy nhiên trong tư tưởng Mc, mọi việc chữa lành đều cũng tượng trưng một cuộc chiến thắng ma quỷ; ở giữa việc trừ quỷ và chữa lành tật bệnh, chẳng có phân biệt rõ rệt nào (x. 1,39; 3,15; 6,7 và 13). Còn Lc thì rõ ràng trình bày chuyện chữa lành mẹ vợ Phêrô như một việc trừ quỷ: Chúa Giêsu “hăm dọa cơn sốt” (Lc 4,39)
Theo Mc thì bệnh nhân cảm sốt. Nhưng ta không thể xác định đó là bệnh gì và nặng nhẹ ra sao.
Trong trình thuật của Mc, người ta thường nhận ra được chứng từ của chính Phêrô, là chẳng nhân trực tiếp của quang cảnh. Hình như thánh sử chỉ lấy chữ “chúng tôi” của Phêrô bằng chữ “họ”. Một vài lỗi ngữ pháp hoặc chi tiết văn thể chỉ giải thích được nếu cho rằng chính Phêrô đã kể lại các biến cố: chẳng hạn như chi tiết về Giacôbê và Gioan, vốn có vẻ như một câu ngoài đề.
Việc so sánh với bản văn song song của Mt giúp ta thấy được cách diễn tả phong phú của Mc: Mt không nói đến các môn đồ, họ có vẻ- như vắng mặt: Chúa Giêsu vào, thấy bệnh nhân, cầm tay và và bà cảm thấy “điều đó” (Mt 8,15). Sự đối diện này có lẽ làm cho bài giáo lý của Mt ra rõ ràng và sâu xa hơn, nhưng lại giảm đi tính cách có vẻ thực của trình thuật. Bản văn của Mc thì lại rất đơn giản. Người ta có thể viện dẫn tính cách đơn giản này để biện hộ cho xác thực tính của phép lạ, bởi vì các trình thuật chữa lành bệnh của lương dân thường rất phóng đại chi tiết.
Ý nghĩa của phép lạ theo Mc.
Các trình thuật Tin mừng về việc chữa lành. mẹ vợ Phêrô không giúp ta xác định đúng chủ ý của Chúa Giêsu. Khi Người làm hành vi đó, cũng như ý nghĩa đích thực mà các chứng nhân đầu tiên gán cho việc này. Tuy nhiên ta biết người Do thái đã thường xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28,22; 32,24; Lv 26,16) hay với bệnh dịch (Hb 3, 5). Về sau, người ta năng gán cảm sốt cho một con quỷ. Trong nhãn giới đó, phép lạ ở Capharnaum, đối với mọi người, hẳn muốn bảo rằng Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai mà Isaia đã loan báo là sẽ đến cứu con người khỏi đau khổ, hậu quả của sự ác luân lý (Is 26,19; 29,18t; 33 3; 35,5…). Mc đã lấy việc chữa lành mẹ vợ Phêrô làm một trong các yếu tố của “ngày Capharnaum” ngày mẫu của giai đoạn đầu sứ vụ Cứu Chúa; phép lạ minh giải, bằng một ví dụ, các bảng “toát yếu” về bao cuộc chữa lành mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Như thế phép lạ này là một dấu chỉ cho thấy thời đại cánh chung hay thiên sai đã đến trong bản thân Chúa Giêsu: Người hành động với chính quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng đây vẫn còn là một đấu chỉ. Cần phải mất nhiều thời gian con người mới khám phá và chấp nhận ý nghĩa của dấu chỉ đó (x. Mt 11,4-6). Dẫu sao dự định riêng của Mc sẽ hiện ra rõ ràng hơn khi ta khảo sát kỹ lưỡng câu 31 và câu song song với nó trong Mt 8,15.
Chúa Giêsu nâng dậy con người.
Cách đặt câu 31 có một điểm dị thường, ta hãy thử giải thích. Theo nguyên tự, ta có: “Tiến lại, Chúa Giêsu cho bà chỗi dậy bằng cách nắm lấy tay bà, và cơn sốt đã biến khỏi bà”. Bình thường lẽ ra phải viết: Chúa Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến khỏi bà; bà chỗi dậy…”. Dĩ nhiên Mc trước tiên không lưu tâm đến tính cách thuận lý, nhưng một chi tiết khác tăng cường chú ý của ta: động từ ogeirô Mc sử dụng ở đây đã trở thành một hạn từ chuyên môn chỉ việc sống lại. Mấy chữ “Người cho bà chỗi dậy”, hình như đã được thánh sử chèn vào trong một câu đơn giản hơn của Phêrô khi kể lại biến cố, vì là chỉ có nơi ông (Mt và Lc chỉ nói: bà chỗi dậy) Thành thử có lẽ Mc đã đưa những chữ này vào với mục đích giáo lý, và việc chọn động từ ogeirô nói lên ý hướng biểu tượng của ông. Như đã làm cho mẹ vợ Phêrô chỗi dậy khi cơn sốt đã biến bà bất động như chết trên giường, thì Chúa Kitô cũng đến cho ta chỗi dậy, cho ta phục sinh, để ta có thể phục vụ người. Chữ ogeirô cũng còn gặp trong trình thuật chữa lành em bé kinh phong (Mc 9,26-27), nơi lối biểu trưng còn rõ ràng hơn nữa. Thành thử chẳng lạ gì khi Mátcô đã muốn ám chỉ biểu tượng đó ở đây (x. P.Lamrarche, La guérison de la bolle-mère de Pirre ét le gent’e littéraire des Evangiles, trong NRT (1965) tr.518-520).
Chỗi dậy dể phục vụ
Trong bối cảnh phép lạ, hay đúng hơn trong khung cảnh tiếp đón Chúa Giêsu tại nhà Phêrô, phục vụ trước tiên là cho ăn uống. Trong cùng ý nghĩa đó, sau những cuộc thử thách ở hoang địa, các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu (Mc 1, 13), như Người cũng đã truyền cho con gái của Giairô ăn uống sau khi cho nó sống lại (Mc 5,43). Chúa Giêsu không bỏ qua thực tại trần thế giản đơn này, Người còn đi xa hơn nữa. Có lẽ ở đây Mc đã liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: “Con người chẳng đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ (diakonesai)” (Mc 10,45). Phục vụ không chỉ có nghĩa là hầu bàn, nhưng nếu cần, là “thí mạng làm giá chuộc nhiều người” (c45). Đó là lý tưởng mà Chúa Kitô đã đề ra cho những ai Người phục sinh từ cái chết của tội lỗi.
Trong bản văn ngắn gọn và đặc thù hơn của Mt, ta đã thấy Chúa Giêsu xuất hiện một mình. Số ít của phần cuối câu 15 (bà phục vụ Người) đã làm cho ý nghĩa của động từ được mở rộng. Không còn là vấn đề dọn bữa ăn cho Thầy và cho môn đồ đói mệt vì miệt mài với sứ vụ nữa, song là một chuyện tổng quát hơn. Tình trạng trước của bệnh nhân tượng trưng thân phận con người tội lỗi bao lâu chưa được Chúa Kitô cứu vớt và việc chữa lành thân xác biểu hiệu công trình thiêng liêng Chúa Giêsu hoàn thành. Tin mừng thứ 4 sẽ khai triển cùng lối biểu tượng này trong trình thuật người bất toại ở hồ tắm Bêthesđa (5, 1-18).
III. BẢNG “TOÁT YẾU” (cc.32-34)
Các đặc tính của văn thể “toát yếu”: ý nghĩa và việc tổng quát hóa.
Hiển nhiên là ta không nên hiểu theo mặt chữ những lời xác quyết tuyệt đối như: “Người ta đã đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám” (c.32), nhất là câu của Mt: Mọi kẻ ốm đau, Người đều chữa lành” (Mt 8,16; x. Lc 4,40). Ta biết rằng Chúa Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân; Người đòi hỏi đức tin của họ. Vì thế Mc đã viết: “Chúa Giêsu đã chữa nhiều kẻ ốm đau” (c.34). Cũng có thể có một thái quá trong kiểu nói: Tất cả thành đều tụ tập trước cửa” (c.33): hình như đây là một sự tổng quát hóa, nhưng chắc chắn cũng là kỷ niệm về một sự kiện có thật đã hơn một lần xảy ra và đã đánh vào trí tưởng tượng của lắm người: truyền thống nhiều lần kể lại rằng người ta đã không thể qua cửa mà vào nhà được vì dân chúng quá đông: nên phải chuyền miệng vô lời nhắn gởi (3,32), hoặc đưa bệnh nhân lên mái nhà thòng xuống (2,1-4).
Lũ quỷ
Danh từ hay tĩnh từ quỷ được dùng ba lần trong Mc 1,32-34 và một lần nữa ở c.39. Ta thấy rõ đó là một trong những ưu tư lớn của Mc. Chúa Giêsu đến chiến đấu với ma quỷ và giải phóng con người khỏi quyền lực của nó. Ngay từ đầu, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô như là kẻ mạnh hơn” (1,7); Người khai mạc sứ vụ bằng một cuộc tấn công trực tiếp Satan và hắn bị bại trận (1,12-13). Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng thì một kẻ ma ám thử cản trở Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27); và trong đoạn kết của Mc”, dấu chỉ đặc trưng đầu tiên của người môn đồ là “xua trừ ma quỷ” (16,17) (x. G. Gaide, Les deux maisons, trong Assemblées du Seigneur 41, tr.41-45). Trong nhãn giới này, mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ ma quỷ và mọi cuộc chữa lành nhờ trục xuất- ma quỷ đều là một chiến thắng trên quỷ ma.
c “Bí mật thiên sai (c.34b).
Kết luận của bản toát yếu này thường được xem như là do Mc biên soạn. Mc không để mất một cơ hội trở lại với lời căn dặn giữ bí mật thiên sai như với một chủ đề ưa thích (G. Minettè. de Tillesse, le secret messianique danh l’evangile de Marc, paris, 1968). Câu này sẽ dễ hiểu hơn nếu đặt sau việc trừ quỷ ở hội đường, vì lúc đó người bị quỷ ám kêu lên: “Chúng tôi với Ngài nào có việc gì?… Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24). Để nhắc lại những lời này, Mc hẳn đã thêm một giải thích vào câu 34: “Bởi vì chúng (lũ quỷ) biết Người là ai”. Lc muốn rõ hơn nên đã lặp lại những lời của quỷ (4,34-41).
Lũ quỷ này sáng suốt hơn con người đã tức khắc nhận ra được địch thủ của chúng và gào to lên (1,24; 5,7…). Dĩ nhiên tiếng la hét của chúng chẳng phải là những hành vi đức tin, nhưng là những dấu hiệu sợ hãi và thảm bại trước kẻ mà chúng nhận ra là người được Thiên Chúa sai đến, đầy quyền lực thần hình mà chúng không thể đương cự nổi (x. 3,22-27). Đối với con người, Chúa Giêsu tự mặc khải một cách tiên tiến bằng những dấu chỉ về quyền lực của Người trên các bệnh tật nổi tiếng là nan y.(1,40-45), trên tội lỗi mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ (2,5-12), trên ngày của Chúa là ngày hưu lễ (2,28), và cuối cùng là trên sự sống (ch. 15-16).
Tự hỏi “Giêsu là ai?” tức là đã làm một bước đầu trên con đường đưa đến sự hiểu biết hoàn hảo về bản nhân Người, đưa đến đức tin. Vậy mà Mc muốn từng bước dẫn đưa độc giả (hay thính giả) đến chỗ khám phá Chúa Giêsu Kitô như thế.
Khi nhìn thấy những kỳ công đầu tiên Chúa Giêsu đã làm, trong đó có việc chữa lành mẹ vợ Phêrô, con người chỉ nghĩ đến những hồng ân vật chất tức thời mà họ có thể chờ đợi cho chính họ hay cho thân thuộc họ. Ví dụ như dân làng Nadarét theo Lc (4,23). Khi đó Chúa Giêsu liền lánh mặt.
Ta không cần nhắc lại ở đây những gì đã nói về bí mật thiên sai, chỉ cần nhấn mạnh đến một khía cạnh giáo dục của chủ đề nầy: một hành vi đức tin vào Chúa Giêsu sẽ chỉ thực sự có giá trị khi gói ghém một sự hiểu biết đầy đủ về sứ mệnh và công việc Người, đặc biệt về sự cần thiết phải chết và sống lại để hoàn thành công việc đó. Người thứ 4 diễn tả điều này như sau: “Có lắm kẻ đã tin vào danh Người bởi được chứng kiến các dấu lạ Người làm, nhưng Chúa Giêsu không tín nhiệm vào họ” (Ga 2,23-24).
Tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng Messia mà chẳng tin rằng Người phải chết và sống lại, đó là nói mà không biết mình nói gì, và có thể liều mình chối Chúa Kitô một khi khám phá được thực tế.
HƯỚNG CẢ VỀ XỨ GALILÊ (cc. 35-39).
Trình thuật nơi cc. 35-39 là một bản lề (trình thuật chuyển tiếp): cho đến bây giờ Chúa Giêsu xem ra giới hạn chân trời và hồng ân Người cho dân vùng Capharnaum; từ đây sứ vụ của Người sẽ lan rộng khắp miền Galilê hết thảy (c.39).
Trước lúc hừng đông, khi các môn đồ còn ngủ vì mỏi miệt sau một ngày truyền giáo, Chúa Giêsu đã thức dậy. Sự giao tiếp với con người và niềm vui chữa lành vài bệnh nhân chưa làm Người thỏa mãn. Người lui ra nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa là để đặc biệt tìm gặp sự thân mật với Cha Người. Lc sẽ nhấn mạnh điểm này xa hơn.
Simon còn chưa hiểu ý nghĩa sứ mệnh Chúa Giêsu: tựa như ông muốn khai thác thành công của Thầy. Ông chỉ thấy những phép lạ đã được thực hiện và tưởng rằng sẽ còn nhiều phép lạ khác, có lợi cho dân Capharnaum. Ông hy vọng đưa Chúa Giêsu lui về nhà. Đám dân đã tản mác đêm qua bây giờ trở lại, cũng với kỳ vọng thấy nhiều phép lạ mới: họ mong chờ những cuộc chữa bệnh, trong khi đối với Chúa Giêsu, loài ân huệ này chỉ là bước chuẩn bị cho việc đón nhận Tin mừng và mặc khải về mầu nhiệm bản thân Người thôi.
Mc không ghi lại đối tượng lẫn nội dung của lời Chúa Giêsu cầu nguyện nhưng mẩu đối thoại tiếp theo cho ta thoáng thấy được ý nghĩa của lời cầu nguyện đó. Đối với Chúa Giêsu, đấy không hẳn là xin ơn cho bằng là nói về sứ mệnh của người với Đấng đã sai Người đến. Trước đây lúc chịu phép rửa Chúa Giêsu đã nghe tiếng nói Cha Người (Mc 1,11; x Lc 3,21), đã nhận Thánh Thần là đã được Thánh Thần thúc dẩy tấn công ma quỷ (1,12-13).
Thành ngữ chính vì thế mà “Ta đã ra đi” có nghĩa là gì? Phải chăng là đi ra khỏi Capharnaum (nghĩa tự nhiên) hai đi ra khỏi Chúa Cha để đến trong trần thế (nghĩa của Gioan 16,28)? (x. A. Feuillet, Le Logion suy la rancon, trong Rev. Sc. Phil. Théo. (1967), tr.372). Luca đã hiểu câu nói Chúa Giêsu theo nghĩa thứ hai, vì ông đã viết lại: “chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (4,43 hiểu là từ nơi Chúa Cha). Tuy vậy ta có thể nghĩ rằng đây là kết quả việc Lc suy ngắm về sứ mệnh Chúa Giêsu, và có chủ đích soi sáng sứ mệnh của Giáo Hội cùng của các môn đồ: qua từng giai đoạn, các môn đồ phải vượt ra khỏi mọi biên giới và đem Tin mừng đến tận cùng thế gian (Cv 1,8). Mc đã chẳng đẩy suy tư về sứ mệnh Giáo Hội xa như thế, ông gần với những sự kiện như đã xảy ra hơn: Chúa Giêsu không muốn bị kéo lôi bởi thành quả của Người. Về sau cũng vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh, Người lui ra nơi cô tịch để tránh sự cuồng nhiệt của đám đông và để đặt mình trong ý định của Thiên Chúa (Mc 6.46; Mt 14,23; Ga 6, 15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghetsêmani có thể đem đối chiếu với hai giai thoại này. Trong cả ba trường hợp, Chúa Giêsu lui ra để cầu nguyện ban đêm; các môn đồ, đặc biệt là Phêrô, đều tỏ vẻ kinh ngạc, vì họ chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
NHỮNG KẾT LUẬN CHO THỜI NAY
Cuối bài khảo cứu này, ta thấy bản văn Chúa Nhật hôm nay, có một tính cách thời sự đặc biệt, dĩ nhiên không phải ở điểm gán cho ma quỷ các chứng bệnh, nhưng vì giải tỏa được nhiều ưu tư của ta về phương pháp giáo dục đức tin và về nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội.
Sự dấn thân của đức tin.
Người ta đã có lý khi bảo Tin Mừng thứ hai là một lời rao giảng hơn là một bài giáo lý. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là để theo Mc, chỉ cần một đức tin tối thiểu mà rồi sau đó sẽ đào sâu với giáo lý của Mátthêô, đoạn với thần học của Phaolô hay của Tin mừng thứ tư. Không! Mátcô rất đòi hỏi. Ông chẳng muốn một sự dấn thân khơi khơi bên ngoài. Chính vì thế mà ông không đặt ngay vấn đề dứt khoát. Ý nghĩa của mệnh lệnh giữ bí mật thiên sai là vậy, và đó là một phương pháp giáo dục tuyệt hảo: kẻ rao giảng Tin mừng luôn luôn nói về Chúa Kitô, nhưng cẩn thận mặc khải, bản thân và mầu nhiệm Người cách tiệm tiến, bằng nhiều “dấu chỉ nhiều lời ẩn bí (mashal). Thỉnh thoảng ông cũng kín đáo để lộ cái cốt yếu của mầu nhiệm nhưng lại che dấu ngay lệnh giữ bí mật), nhưng chính Chúa Giêsu khi Người trốn khỏi quần chúng hoặc khi chỉ tỏ lộ vinh quang trong chốc lát lúc biến hình. Vị thánh sử cũng là giáo lý viên có trách nhiệm về các tân tòng. Đã biết nhận ra thính giả của mình chưa sẵn sàng mấy còn cần phải tiến bước lâu dài và thong thả. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu quá vĩ đại, khó mà khám phá trong một ngày, trừ phi được ơn đặc biệt như Phaolô.
Chính nhóm Mười hai cũng đã trải qua nhiều thời gian dài mới tin vào Chúa Giêsu thực sự, mới biết Người đúng như bản chất Người. Chắc hẳn họ đã gắn bó với Người rất sớm, nhưng chỉ đạt được đức tin sung mãn sau tiến cố Tử nạn, Phục sinh và Ngũ tuần thôi. Cho tới lúc đó, đức tin của họ vẫn còn bất toàn và mỏng manh, như ta thấy rõ vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị xử án.
Tại sao có sự đòi hỏi, sự tiệm tiến nơi Mc như vậy. Chắc chắn là vì ông ctã hiểu đức tin lôi kéo sâu xa con người đến mức nào. Có lẽ Phêrô, được soi sáng bởi kinh nghiệm riêng của mình (những lần chối Chúa) đã nhấn mạnh đặc biệt về điểm này chăng? Rồi chắc cũng là vì lúc Tin Mừng Mc được biên soạn dứt khoát thì Giáo Hội Rôma đang sống trong những hoàn cảnh đòi buộc thái độ trên: trong trường hợp bị bách hại, người ta chỉ có thể nhận vào Giáo Hội những tân tòng đã được chuẩn bị kỹ càng và đã quyết tâm theo Chúa Kitô, dù phải mất mạng sống.
Ngày nay đòi hỏi này vẫn còn có giá trị, chứ không chỉ dành riêng cho thời hoặc miền đã bị bách hại mà thôi. Người ta đã không luôn luôn chú ý cho đủ giáo huấn của Mc về điểm này. May thay, thời nay, nhờ nhiều đường lối khác nhau, người ta đã khám phá nó lại.
Lời mời gọi truyền giáo.
Như mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã yêu quê hương làng nước của Người (Nadarét, Capharnaum). Người đã khởi đầu sứ vụ tại đó, nhưng Chúa Cha đã gọi Người đi xa hơn. Trong một đoạn ngắn ngủi, Lc cho thấy làm sao Chúa Giêsu đã bỏ Nadarét. Mc kể lại làm sao Người đã rời Capharnaum. Ngày hôm nay, người ta nhấn mạnh nhiều và không phải không có lý do đến nghĩa vụ truyền giáo ngay bên trong những vùng đất được gọi là Kitô giáo từ lâu đời, và cũng nói đến rất nhiều khó khăn mà những người đem Tin mừng đi xa gặp phải, khiến có nguy cơ làm giảm số lượng những nhà truyền giáo phương xa này. Nhưng như vậy là đã bỏ quên một khía cạnh quan yếu của sứ mệnh Hội Thánh. Bài Tin mừng hôm nay nhắc cho ta nhớ khía cạnh đó lại.
Đứng trước bệnh tật và những đau khổ trần gian khác.
Phản ứng của người dân Capharnaum vẫn tiếp tục bày tỏ. Biết bao nhiêu người, hôm nay vẫn còn, chỉ đến xin Chúa Kitô và Giáo Hội giúp đỡ vật chất và họ phê phán Chúa Kitô cùng Giáo Hội chỉ qua thái độ đáp ứng nỗi chờ mong đó. đây là phản ứng một phần bị thúc đẩy bởi khuynh hướng đã có từ lâu trong Giáo Hội là chỉ giới hạn trong sứ vụ thiêng liêng. Nhưng đàng khác cũng là phản ứng muôn thuở có thể khiến người ta đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Trước một sự chờ đợt như vậy, Chúa Giêsu lánh mình đi. Dĩ nhiên Người đã ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ áp bức khống chế (Cv 10,38). Và Người cũng muốn các môn đồ làm như Người, một cách thích nghi hơn cho thời của họ. Nhưng Người không hề để nình bị giam hãm trong cái vòng đó Môn đồ và Giáo Hội Người cũng phải như vậy.
Gilles Gaide, Assemblées du Seigneur 36, tr.39-48.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Bài đọc1: Gióp hay là “đau khổ trong đức tin”. Gióp sống trong đức tin. Có hai điểm ông cho là cốt yếu và phải giữ vững: đó là có một sự đau khổ bất công và Thiên Chúa thì luôn luôn nhân ái và công bình. Ông không hiểu được làm sao có thể dung hòa hai xác quyết tương phản ấy nhưng vẫn giữ vững cả hai. Trước một đau khổ, mọi lối an ủi như: “Chúa nhân từ yêu bạn! Đời sau sẽ đẹp hơn! Bạn chuẩn bị Thiên đàng! Bạn đền thay cho tội nhân!” đôi khi có vẻ thừa thãi. Sự đau khổ không thể thỏa mãn với một lời giải thích giản đơn. Sự đau khổ, nhất là khi xảy đến cho những kẻ vô tội hoặc khi quá sức lớn lao, là một trong những mầu nhiệm lớn của con người. Trước đau khổ, thái độ đích thực chỉ có thể là một đức tin sâu xa. Thiên Chúa đã phán: tư tưởng các ngươi không phải là tư tương của Ta và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Chúa Giêsu không đến trần gian để tiêu diệt hết mọi khổ đau, bệnh tật. Ngay lúc sinh tiền, Người chẳng chữa lành hết mọi bệnh nhân Người gặp, giải quyết hết mọi vấn đề sinh tồn của con người. Người chỉ ra tay cứu giúp một số ít, đặc biệt những ai có lòng tin để cho họ tin vào sứ điệp Người, thấy lòng nhân ái của Thiên Chúa và hy vọng một tương lai trong đó quyền năng của người sẽ dẹp tan mọi đau khổ. Đúng ra Người đến để mang lại cho đau khổ một ý nghĩa đích thực, một công dụng siêu nhiên. “Sự cao cả tuyệt vời của Kitô giáo là ở chỗ nó không tìm một phương dược siêu nhiên để chống lại đau khổ, nhưng là tìm ra một công dụng siêu nhiên cho đau khổ” (Simone Weii). “Từ khi Chúa Kitô đến, chúng ta được giải phóng không phải khỏi việc đau khổ, nhưng là khỏi việc chịu đau khổ cách vô ích” (P.Charles SJ).
Thiên Chúa không dẹp tan đau khổ cho con người đang sống trong thời gian bởi vì đau khổ cần cho con người. Đau khổ là giá của tự do, là trường rèn luyện nhân cách, là động lực tiến bộ xã hội, là dấu chứng minh tình yêu, là phương tiện để giúp ta từ bỏ hầu chọn lựa được Thiên Chúa. Xét một cách tiêu cực, còn đau khổ trong trần gian là vì con ngươi còn thiếu tình yêu đối với anh em, còn đau khổ trong bản thân là vì con người còn bám chặt lấy hay chưa dứt bỏ nổi cái không phải là hạnh phúc đích thực. “Ngàn lần chúc tụng sự đau khổ đã đưa tôi về với Thiên Chúa” (Francois Coppée). “phương pháp làm nhẹ đau khổ của mình là giảm bớt đau khổ của tha nhân” (P.Charles SJ).
Chúa Giêsu không chỉ loan báo Tin mừng, Người còn cụ thể hóa Tin mừng đó bằng các hành vi cho thấy Vương triều Thiên Chúa (mà Người là nhân chứng và là Messia) đang đến. Trong thế giới này, Kitô hữu chúng ta cũng phải là những người kế tục sứ mệnh Chúa Giêsu Kitô. Làm chứng cho Vương triều Thiên Chúa. Sứ mệnh đó sẽ không chỉ nằm trong lời nói, mà còn trong hành động: đức tin chúng ta phải thúc giục chúng ta cụ thể hóa lời rao giảng bằng một hành động tấn công mọi quyền lực của sự ác như Chúa Giêsu. Kitô hữu là người muốn minh chứng Nước Trời đang đến bằng việc tích cực chống lại những gì là xấu xa, bệnh tật, đàn áp, bóc lột, bất công, đau khổ, tội lỗi. Đó là cách duy nhất để làm cho Nước Trời mau đến. Đó cũng là cách duy nhất mà Giáo Hội – dấu chỉ bí tích của Nước Trời gây niềm tin cho thế gian. Phải làm những hành vi có ý nghĩa như Chúa Giêsu đã làm. Thính giả của Chúa Giêsu rất khó chấp nhận giáo lý phổ quát, đại đồng của Người. Họ vấp phạm, họ thắc mắc khó chịu về tính cách phổ quát ấy. Luôn luôn họ vẫn nghĩ họ là dân riêng duy nhất được ưu đãi, chứ không còn nơi nào khác. Đồng ý là Thiên Chúa tự chọn: Giáo Hội Ngài, nhưng việc chọn lựa đó chỉ là điểm khởi hành để đi đến “nơi khác”. Với Giáo Hội ngày nay, cả với tôi nữa, Chúa Giêsu vẫn còn nhắc: Chúng ta lên đường đi nơi khác”. Lời đó có nghĩa gì cho tôi? Thưa nghĩa là tôi không được bo bo giữ kín Tin mừng để thỏa mãn cho tôi thôi, song phải làm sáng tỏa cho mọi người”.
Chúa Giêsu đã giảng dạy và làm nhiều việc kiến mọi người phải kinh ngạc. Sau buổi họp tại TN5-B130
Chúa Giêsu đã giảng dạy và làm nhiều việc kiến mọi người phải kinh ngạc. Sau buổi họp tại hội đường, Ngài cùng các bạn đến nhà Phêrô. Theo thói quen Do Thái, bữa ăn chính trong ngày Sabát là sau buổi nhóm họp ở hội đường vào giờ thứ sáu, nghĩa là 12 giờ trưa (ngày của dân Do Thái bắt đầu vào 6 giờ sáng, các giờ cứ theo đó mà tính). Có thể Chúa Giêsu muốn được nghỉ ngơi sau những công việc căng thẳng và mệt nhọc trong buổi nhóm họp tại hội đường. Nhưng một lần nữa, có người đang cần đến quyền năng của Ngài, và Ngài lại dấn thân vì người khác. Phép lạ này nói với chúng ta vài điều về ba hạng người.
1/ Chúng ta biết Chúa Giêsu, Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông người trong hội đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không chịu cứu giúp. Nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong hội đường, chúng ta lại thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều thầy trừ quỉ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la hò hét với nhiều đồ nghề và ma thuật. Trong hội đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xẩy ra. Bà mẹ vợ của Phêrô đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Bệnh này từ xưa đến nay vẫn lan tràn tại vùng đất ấy của xứ Galilê. Kinh Talmud cũng có kể ra các phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2.3 rồi đến 4.5. Rồi có một công thức ma thuật đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú theo ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa bệnh cho bà cụ. Từ Hy văn được dùng chỉ quền phép trong đoạn sách trên đây là exousia và exousia được định nghĩa là tri thức, cùng với quyền năng độc nhất vô nhị, đó chính là điều Chúa Giêsu vốn có và là việc Ngài sẵn sàng thi thố ngay trong một căn nhà tranh. Paul Tournier có viết “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: Tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là kiên nhẫn, mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là một nhiệm vụ khó nhọc. Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần Ngài giúp.
2/ Chúng ta biết về các môn đệ của Ngài. Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà mẹ vợ của ông Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình bày mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên. Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một tu sĩ lớn tuổi và ông cũng chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc về cách cầu nguyện vô cùng đơn giản của vị tu sĩ đó. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tu sĩ lão thành ấy luôn luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Ông Paul Tournier nói tiếp: “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy, và chúng tôi cùng cầu xin Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp thân mật với Chúa Giêsu như vị tu sĩ nọ vậy. Từ đó, Ngài đã trở thành trọng tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi đã làm và cũng quan tâm về những việc đó. Ngài là bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời sống mình ra thảo luận. Ngài chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi, Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy lời trên đây bao gồm bản chất của sinh hoạt Kitô hữu. Như lời một bài thánh ca: Hãy trình bày dâng mọi sự cho Chúa bằng lời cầu nguyện. “Thế là các môn đệ đã học được điều đã trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp mình”.
3/ Chúng ta biết vài điều về bà mẹ vợ ông Phêrô. Ngay sau khi được chữa lành, bà cụ liền bắt tay phục vụ. Bà cụ đã dùng sức khỏe được hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Có một gia đình danh tiếng tại Tô cách lan vẫn dùng khẩu hiệu này “được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu cứu giúp chúng ta là để chúng ta giúp đỡ người khác.
NHỮNG ĐÁM ĐÔNG BUỔI ĐẦU
(Mc 1,32-34)
Những việc Chúa Giêsu đã làm tại Caphácnaum không thể nào giấu kín được. Một người mới xuất hiện, có uy quyền, có quyền năng là chuyện không tài nào dấu kín được. Cho nên ngay chiều đó, căn nhà của Phêrô bị một đám đông người mong được Chúa Giêsu chữa lành vậy chặt. Sở dĩ họ phải chờ đến lúc mặt trời lặn là vì luật cấm mang môt vật nặng đi trong thành phố vào ngày Sabát (Gr 17,24), mang một vật nặng như thế là làm việc mà làm việc thì bị cấm. Dĩ nhiên thời bấy giờ họ không có đồng hồ. Ngày Sabát kéo dài từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều và theo luật thì một ngày kết thúc khi có ba ngôi sao mọc trên trời. Cho nên người trong thành phải chờ đến khi mặt trời lặn, sao đã mọc, họ mới ra khỏi nhà và đưa người bệnh đến với Chúa Giêsu để Ngài chữa lành cho họ.
Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho người ta ba lần. Lần thứ nhất Ngài chữa bệnh trong hội đường, lần thứ hai trong nhà một bạn thân của Ngài và giờ đây, lần thứ ba, Ngài chữa bệnh ở ngoài đường phố. Chúa Giêsu nhận biết ngay nhu cầu của bất kỳ ai muốn khấn xin Ngài. Có người nói về tiến sĩ Johnson rằng, gặp bất hạnh là điều chắc chắn để được ông kết bạn và trợ giúp. Bất cứ ở đâu có rắc rối, hoạn nạn thì Chúa Giêsu sẵn sàng sử dụng quyền năng của Ngài, Ngài không hề kén chỗ hay kén người. Ngài nhận biết nhu cầu phổ quát mà mọi người cần đến.
Sở dĩ đông người kéo theo Chúa Giêsu vì họ nhận thấy Ngài là con người có thể làm nhiều việc lạ. Có nhiều người biết nói chuyện, giải thích, thuyết giảng. Nhưng đây là một người không chỉ nói suông mà còn giải quyết mọi sự bằng hành động. Có người bảo rằng “Nếu ai đó biết làm một chiếc bẫy chuột tốt hơn người láng giềng của mình, thì dù người ấy có sống giữa rừng, dân chúng cũng tìm được đường đến nhà người ấy”. Người mà dân chúng cần đến là người có hiệu năng. Chúa Giêsu đã và đang tạo nhiều kết quả.
Nhưng tấm thảm kịch cũng bắt đầu từ đây. Đám đông đã kéo đến, nhưng họ kéo nhau đến là vì họ muốn Chúa Giêsu làm một việc gì đó cho họ. Họ đã không đến vì yêu mến Ngài hoặc vì được thấy một mặc khải mới mẻ, nói cho cùng, họ muốn lợi dụng Ngài. Đó là điều mà hầu như tất cả mọi người đều muốn nơi Thiên Chúa và Con Ngài. Với một lời cầu nguyện được dâng lên cho Chúa trong những ngày thịnh vượng, thì có đến một ngàn lời cầu xin dâng lên trong những lúc gặp khó khăn. Nhiều người không hề cầu nguyện lúc mặt trời đang chiếu sáng, lại bắt đầu cầu nguyện khi có các luồng gió mạnh thổi đến. Có người bảo đã có quá đông người xem đạo giáo như “một đội cấp cứu chứ không phải như một tuyến lửa của cuộc đời”. Với họ thì gặp khủng hoảng, cùng cực lắm, họ mới chạy đến với đạo giáo, chỉ khi họ gặp bước đường cùng trong cuộc sống hoặc khi họ bị cuộc đời cho đo ván, họ mới bắt đầu nhớ đến Chúa. Điều vẫn luôn luôn đúng là tất cả chúng ta phải đến cùng Chúa Giêsu và chỉ một mình Ngài mới có thể cung ứng các nhu cầu của đời sống cho chúng ta. Nhưng nếu việc đi đến và các tặng phẩm đó không làm phát sinh một tình yêu, lòng biết ơn để đáp lại thì thật là một sai lầm thảm khốc. Thiên Chúa không phải là Đấng để chúng ta lợi dụng trong những ngày gặp bất hạnh. Ngài là Đấng phải được chúng ta yêu mến và mong nhớ mỗi ngày trong đời sống chúng ta.
GIỜ YÊN TỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG THÔI THÚC
(Mc 1,35-39)
Chỉ cần đọc qua các sự việc xảy ra tại Caphácnaum cũng đủ thấy Chúa Giêsu không còn chút thì giờ nào để ở riêng một mình. Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ: Ngài không thể sống không có Thiên Chúa. Nếu Ngài cứ phải luôn luôn ban phát thì ít nhất thỉnh thoảng Ngài cũng phải nhận vào. Nếu Ngài tự ban chính mình cho tha nhân thì Ngài cũng luôn luôn cần cầu xin để trợ giúp mình. Chúa Giêsu biết Ngài không thể sống mà không cầu nguyện. Trong một quyển sách nhỏ nhan đề “Cầu Nguyện Thực Hành”, tiến sĩ A.D. Belden đưa ra một trong những câu định nghĩa quan trọng về cầu nguyện “Cầu nguyện có thể được định nghĩa là tiếng kêu của linh hồn”. Không cầu nguyện là mắc phải một lỗi lầm điên rồ vĩ đại, đó là bỏ qua, không biết đưa Chúa vào số tài nguyên sẵn có của chúng ta. Trong cầu nguyện, chúng ta tạo cơ hội cho Chúa nuôi dưỡng các khả năng tinh thần của chúng ta. Chúa Giêsu biết việc đó, Ngài biết nếu phải gặp con người, trước tiên Ngài cần phải gặp Thiên Chúa. Nếu cầu nguyện cần thiết cho Chúa Giêsu đến thế, nó còn cần thiết cho chúng ta biết bao?
Nhưng ngay đến trong những giờ phút đó họ vẫn đi tìm Ngài. Chúa Giêsu không có cách gì để đóng cửa lại đối với họ. Nhà văn chuyên viết truyện ngắn là Rose Macaulay bảo rằng tất cả những gì bà đòi hỏi nơi đời sống là “một phòng riêng của mình”. Đó chính là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ có được. Một bác sĩ lừng danh nhận định nhiệm vụ của y học là “thỉnh thoảng chữa lành, thông thường trấn an và luôn luôn là an ủi, vỗ về”. Nhiệm vụ ấy luôn luôn đặt trên Chúa Giêsu. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “giúp người ta sống và chết”, mà con người thì bao giờ cũng vừa sống vừa chết. Bản tính con người là cố tạo nên những hàng rào để có thì giờ và bình an cho riêng mình, đó là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ làm. Tuy ý thức được sự mỏi mòn suy kiệt của chính mình, Ngài lại ý thức rõ hơn tiếng kêu cứu bất biến của nhu cầu con người. Cho nên khi họ đến với Ngài, thì Ngài đã từ chỗ đang quỳ gối phải đứng lên để đối diện với thách thức của nhiệm vụ. Cầu nguyện chẳng bao giờ lại thay thế việc này việc nọ của chúng ta, điều nó có thể làm là thêm sức để chúng ta có thể làm những việc chúng ta phải làm.
Vậy, Chúa Giêsu lại ra đi, thực hiện một vòng rao giảng trong các hội đường xứ Galilê. Trong sách Maccô, vòng đi này chỉ được thu gọn trong một câu, nhưng chắc nó phải kéo dài nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Trong chuyến đi này, Ngài vừa giảng dạy vừa trừ quỷ. Có vài sự việc vẫn gắn liền nhau mà Chúa Giêsu không bao giờ tách rời.
1/ Ngài không bao giờ tách rời lời nói với hành động. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã làm xong một việc khi công việc ấy đang bị đình chỉ. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã xong nhiệm vụ sau khi đã khuyên dạy người ta đến với Thiên Chúa và sống thánh thiện. Những vấn đề được trình bày, và lời khuyên bảo của Ngài luôn luôn biến thành hành động. Fosdick kể chuyện về một sinh viên thường tìm mua những sách hay nhất, những học cụ tốt nhất, sắm một chiếc ghế đặc biệt để ngồi, có giá để sách hầu học hỏi nghiên cứu cho thuận tiện, rồi anh ngồi vào chiếc ghế ấy mà… ngủ. Người chỉ nói giỏi mà không làm giống như thế.
2/ Ngài không bao giờ phân rẽ linh hồn với thân xác. Có ý kiến cho rằng thân xác dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng con người là cả hồn lẫn xác. Nhiệm vụ của Kitô giáo là cứu chuộc con người toàn diện chứ không phải chỉ cứu một phần con người mà thôi. Dĩ nhiên có người dù sống thiếu thốn trong một căn nhà lụp xụp, gặp hoạn nạn, đau khổ, nhưng luôn cảm nhận được phúc lộc qua những ngày tháng ngọt ngào với Chúa, nhưng đó không phải là lý do để cứ bỏ mặc con người ấy như vậy. Các hội truyền giáo cho người bán khai không phải chỉ đem đến cho họ quyển Kinh Thánh mà thôi, nhưng đem giáo dục và thuốc men nữa, họ cũng đem đến trường học và bệnh viện. Thông điệp của Kitô giáo là thông điệp nhằm rao giảng và làm ích cho cả thân xác lẫn linh hồn người ta.
3/ Chúa Giêsu chẳng bao giờ tách rời đất với trời. Có những người quá bận tâm đến cõi trời đến nỗi quên hết mọi sự thuộc về đất, do đó trở thành những nhà duy tâm, chỉ mơ toàn chuyện lý tưởng không thực tế. Nhiều người khác lại quá bận tâm đến những điều thuộc về đất đến nỗi quên hết những điều thuộc về trời, để chỉ giới hạn cái hay, cái tốt vào cái hay, cái tốt vật chất mà thôi. Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời kỳ mà ý Chúa sẽ thành tựu ở dưới đất cũng như ở trên trời (Mt 6,10). Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời đại mà đất với trời chỉ là một.
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục nói về sứ vụ của Đức Giêsu tại Capharnaum. Để có thể thấy rõ TN5-B131
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục nói về sứ vụ của Đức Giêsu tại Capharnaum. Để có thể thấy rõ hơn về hoạt động của Ngài, chúng ta cùng xem lại bài Tin mừng Chúa Nhật vừa rồi, vì trùng vào ngày Tết và lễ Đức Mẹ dâng Con vào Đền thờ nên chúng ta chưa có dịp nghe. Sau khi gọi các môn đệ đầu tiên mà chúng ta đã nghe trong Chúa Nhật tuần 3, Tin mừng Chúa Nhật tuần 4 vừa qua thuật lại việc Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy cho dân chúng. Khi nghe giáo huấn của Ngài, dân chúng đã hết sức ngạc nhiên vì “Ngài dạy dỗ họ như Đấng có uy quyền, chứ không như các ký lục”. Hơn nữa, Ngài còn dùng quyền năng mà giải thoát “một người bị thần ô uế nhập”. Tất cả những điều đó đã gợi lên một thắc mắc nơi dân chúng về Ngài: “Thế nghĩa là gì?” (x. Mc 1, 21-28).
Kế đó, theo bước Đức Giêsu rời khỏi hội đường, thánh sử Marcô thuật lại liên tiếp ba câu chuyện nhỏ mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng Chúa Nhật 5 hôm nay.
Chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon “ở trong nhà”.
Chữa bệnh và đuổi quỷ cho nhiều người “trước cửa nhà”, nơi “cả thành tụ họp”.
Cuối cùng là việc Chúa đi cầu nguyện ở một nơi “hoang vắng”, và lên đường rao giảng cho khắp các thành lân cận.
Như thế, nhìn thoáng qua, chúng ta có thể nghĩ rằng, sứ vụ của Đức Giêsu đến thế gian này là để chữa bệnh và đuổi quỷ. Điều này đúng nhưng chưa phải là tất cả. Sứ vụ chính yếu của Đức Giêsu khi đến trần gian này, thực ra là để loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, như lời rao giảng đầu tiên mà Ngài đã công bố: “Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1, 15). Sứ vụ này một lần nữa được Đức Giêsu nói rõ với các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay: “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Tin Mừng này không chỉ dành riêng cho người Do thái, nhưng là cho tất cả mọi người.
Từ Đức Giêsu… Đức Giêsu xuống thế để loan Tin mừng Nước Thiên Chúa. Đây chính là Tin mừng của tình yêu, một tình yêu Nhập Thể làm người, hiến thân làm hy tế và để lại thân mình làm của ăn cho chúng ta. Tin mừng về tình yêu này đã được Đức Giêsu khẳng định trong bữa tiệc sau cùng với các môn đệ: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13, 34). Thế nhưng, trong bước đường thi hành sứ vụ của mình, Đức Giêsu đã phải đối diện với biết bao cảnh đau thương của con người, về tinh thần cũng như thể xác. Những nỗi đau mà chúng ta dù muốn hay không, vẫn bị chúng bám chặt lấy. Chính ông Gióp trong bài đọc một giữa những cơn thử thách cũng đã phải thốt lên: “Quân dịch là đời sống của con người trên trái đất… Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: “Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”. Và ông kết luận: “Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc”.
Đó còn là nỗi đau đớn, bất an của những con người sống trong tình trạng tội lỗi, bị bỏ rơi, như bà nhạc gia của Simon đang bị sốt [1], và biết bao bệnh nhân cùng với những người bị quỷ ám. Tất cả những người đó đều cần được Tin mừng của tình yêu soi dọi.
Tin mừng tình yêu mà Đức Giêsu loan báo không phải chỉ là những lời nói xuông, nhưng là một tình yêu cụ thể. Một tình yêu khiến “Ngài tiến lại gần, cầm lấy tay bà, và nâng đỡ dậy”. Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).
Như thế, Tin mừng tình yêu mà Đức Giêsu đến để rao giảng không dừng ở dân tộc Do Thái mà còn dành cho muôn dân, cho từng người chúng ta. Tôi và quý ông bà anh chị em cũng đã từng nhiều lần được Tình yêu của Thiên Chúa đến cầm lấy tay và nâng dậy sau mỗi lần chúng ta sa ngã, hay gặp thất bại trong cuộc sống. Thế nhưng, sau đó chúng ta đã làm gì để đáp lại hồng ân đó?
2…. đến chúng ta hôm nay. Có lẽ tâm tình đầu tiên thích hợp nhất là tâm tình ca ngợi tri ân, một sự tri ân với cả tấm lòng thành, như lời tác giả Thánh vịnh: “Hãy chúc tụng Chúa, Đấng cứu chữa những kẻ dập nát tâm can”.
Kế đó, lòng tri ân của chúng ta không được dừng ở những lời chúc tụng xuông trên môi miệng, nhưng phải được thể hiện qua những hành động cụ thể. Đó là tiếp bước Đức Giêsu và bắt chước bà nhạc gia của Simon sau khi được chữa lành đã chỗi dậy đi “tiếp đãi các ngài”, chúng ta cũng phải là sứ giả của Tin mừng tình yêu. Chính thánh Phaolô, sau khi được Đức Giêsu cầm tay giúp ông chỗi dậy trên đường Đamát (x. Cv 9, 1-18), cũng đã nhiệt thành ra đi rao giảng Tin mừng. Đối với thánh nhân loan truyền Tin mừng không phải là một sự bắt buộc, nhưng chính là một nhu cầu sống còn của bản thân: “Nếu tôi rao giảng Phúc Âm, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.
Hơn nữa, cảm nghiệm được vị ngọt của Tin mừng tình yêu mà Đức Giêsu dành cho mình, thánh Phaolô cũng đã “chạnh lòng thương” đối với những người chưa nhận lãnh Tin mừng. Ngài sẵn sàng làm mọi sự để đưa họ đến với Thiên Chúa là nguồn tình yêu thật như lời ngài tâm sự chúng ta vừa nghe: “Tôi đã đành làm nô lệ mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút nguời yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi”.
Như vậy, điều chúng ta cần noi gương Đức Giêsu không phải là việc chữa bệnh hay làm điều gì thật rầm rộ bên ngoài, mà chính là khả năng “chạnh lòng thương” trước những đau khổ của tha nhân. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu muốn thật sự là Kitô hữu đều phải biết “chạnh lòng thương”, nghĩa là biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra cho những người chung quanh, đồng thời quyết tâm ra tay hành động theo sự thúc đẩy của tình thương. Sự nhạy cảm do tình thương ấy chính là dấu hiệu chắc chắn cho biết Thiên Chúa đang thật sự ở với chúng ta, trong chúng ta, bởi vì thánh Gioan đã nói: “Ai không yêu thương anh em mình thì không thuộc về Thiên Chúa” (1 Ga 3,10; x. 3,17; 4,8).
Giờ đây, hướng về bàn thờ, nơi cử hành hiến lễ của tình yêu, chúng ta cùng cầu xin Thánh Thể trợ lực, để từng người chúng ta cũng biết sống yêu thương ngay từ trong gia đình, cho đến khu xóm, và với những người chúng ta tiếp xúc. Có lẽ đó là cách thiết thực nhất để chúng ta góp phần chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
Một ngày ở Caphácnaum được sánh ví như “ngày làm việc mẫu” của Chúa Giêsu. Trong ngày đó TN5-B132
Một ngày ở Caphácnaum được sánh ví như “ngày làm việc mẫu” của Chúa Giêsu. Trong ngày đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ làm việc liên lỉ, rao giảng Tin mừng, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cho dân chúng,… mà còn không ngừng kết hiệp với Chúa Cha qua đời sống cầu nguyện.
Ra khỏi hội đường Dothái, công việc tiếp theo của Chúa Giêsu là đến thăm viếng bà nhạc mẫu Simon Phêrô. Chính tại đây, Chúa Giêsu không chỉ giúp cho bà khỏi căn bệnh sốt mà còn chữa nhiều người khỏi bệnh. Thời Chúa Giêsu, người ta quan niệm bệnh sốt là do ma quỷ nhập khiến người bệnh khi nóng khi lạnh rất khó kiểm soát. Chính vì thế, việc Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc mẫu của Phêrô còn mang ý nghĩa biểu tượng. Chúa Kytô không chỉ đến để giải thoát nhân loại khỏi quyền lực ma quỷ mà còn để minh chứng cho nhân loại thấy chính Người là Đấng Mêsia đến để phục hồi vương quyền nước Thiên Chúa. Điều này chúng ta thấy rất rõ khi thánh sử Máccô dùng động từ “chỗi dậy” (Egeirein) khi chữa bệnh cho bà nhạc mẫu Phêrô. Động từ egeirein có nghĩa đặc biệt, chỉ sự chỗi dậy từ cõi chết. Chính Máccô trong Tin mừng của mình còn dùng ít là bốn lần nữa để chỉ tình trạng chỗi dậy từ cõi chết (x. 5, 41-42; 9, 27; 12, 26; 16, 6). Như thế, qua việc bà nhạc mẫu của Phêrô và dân chúng được khỏi bệnh, cho thấy vương quyền của Thiên Chúa đã đến thật sự. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng tử thần bằng hành động cho bà nhạc mẫu Phêrô, dân chúng và cuối cùng chính Người cũng chỗi dậy từ cõi chết. Không những thế, một ngày hoạt động liên lỉ không biết mệt mỏi của Chúa Giêsu cho thấy Người yêu thương con người, muốn giải thoát con người khỏi sự kiềm kẹp của bóng đêm tội lỗi, dẫn đưa họ bước vào đường nẻo bình an, vào vinh quang bất diệt của hồng ân cứu độ.
Không chỉ làm việc, Chúa Giêsu còn tìm mọi thời gian, bao có thể để cầu nguyện. Có thể nói, cầu nguyện là điều không thể thiếu trong đời sống tại thế của Chúa Giêsu. Người làm việc không ngừng, nhưng cũng kết hiệp với Chúa Cha cách liên lỉ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn kết hiệp với Chúa Cha, trò chuyện tâm sự với Cha của Người. Cầu nguyện không ngừng nhất là trong những công việc quan trọng cần đến sự cố vấn của Chúa Cha luôn là điểm nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chính vì thế, đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu là mẫu gương cho mỗi người chúng ta.
Thế nhưng cầu nguyện là gì? Chúng ta có thể hiểu đơn giản thế này. Cầu nguyện là một cuộc nói chuyện thân mật giữa chúng ta với Thiên Chúa như hai người bạn thân. Trong cuộc trò chuyện đó, chúng ta chia sẻ với Chúa những niềm vui, nổi buồn trong cuộc sống nhân sinh; đồng thời cũng là lúc chúng ta lắng nghe Chúa “chia sẻ” với chúng ta những nổi niềm riêng tư của Người. Sau cuộc trò chuyện, điều gì sẽ xảy đến? Chúng ta thường nói niềm vui nếu được chia sẻ sẽ nhân lên gấp bội và, nổi buồn nếu được sẻ chia sẽ vơi đi một nửa. Chính vì thế, hiệu quả của việc cầu nguyện là gì nếu không phải là việc tâm hồn chúng ta được thư thái, bình an, được cảm thông và tăng thêm sức mạnh cho tâm hồn? Không chỉ vậy, cầu nguyện còn giúp chúng ta có được sự cố vấn cần thiết để giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống nhờ vị Cố vấn kỳ diệu là Thiên Chúa. Chúng ta sẽ không sợ lạc lối vì biết rõ đường lối của Thiên Chúa rất mực công minh và ngay thẳng nếu chúng ta tuân giữ những hướng dẫn của Người.
Chúa Giêsu đã đi bước trước làm mẫu gương cho chúng ta trong đời sống lao động và cầu nguyện. Lao động mà không cầu nguyện sẽ làm cuộc sống con người mệt mỏi và đơn điệu; ngược lại cầu nguyện mà không lao động khiến con người trở nên sống hình thức, lười biếng và ỷ lại. Vì thế, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết kết hợp cách hài hoà giữa lao động và cầu nguyện để nhờ đó, nhân loại không chỉ biết trân trọng những giá trị do lao động mang lại mà còn biết trân quý hiệu quả lớn lao của đời sống kết hiệp với Thiên Chúa.
Ngày mà nguyện tổ chúng ta phạm tội, Thiên Chúa đã với Adam: ” ngươi phải đổ mồ hôi sôi TN5-B133
Ngày mà nguyện tổ chúng ta phạm tội, Thiên Chúa đã với Adam: ” ngươi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có cơm ăn”. Vì thế, Cựu Ước vẫn có quan niệm rằng: Làm việc là một hình phạt bởi tội, một thứ lao dịch trong đời sống của con người (Job. 1,1-7). Thế nhưng khi Chúa Giêsu đến Người đã dạy cho người ta hiểu rằng: lao động là một ân ban, họ được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đã nêu gương làm việc mà Marcô tác giả Tin Mừng thứ hai tường thuật (Mc.1,29-39), nơi khác Chúa Giêsu còn nói ” Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”. Và Thánh Phalô cũng noi gương Chúa Giêsu, Ngài ra sức làm việc, rao giảng Tin Mừng không biết mỏi mệt ” khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng” và còn hăng hái chu toàn những công việc nặng nhọc như dệt thảm để không trở nên gánh nặng cho mọi người, Ngài tự nguyện làm việc không ngơi nghỉ (x. 1Cor.9,16-19;22-23).
Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu làm việc của Chúa Giêsu trong một ngày tại Caphanaum như thế nào để rút ra bài học:
Bài Tin Mừng kể: Chúa Giêsu vào Hội Đường để rao giảng, Người là một nhà giảng thuyết lợi khẩu, Người đã làm cho những thính giả nghe Người giảng phải say mê, khen ngợi, vì Lời Người như đi vào tâm hồn người nghe, Lời Người nói thì chính Người đã sống một cách thiết thân cho nên có sức cuốn hút người nghe. Trong khi rao giảng Người chữa bệnh cho những ai đang cần đến Người như nhạc mẫu của Phêrô, những người đau yếu bệnh tật khác, cả những người bị quỉ ám cũng được Người trừ cho khỏi. Tuy nhiên, Đức Giêsu không chữa lành hết mọi bệnh nhân, Người chỉ chữa trị một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm báo trứơc ” thời cánh chung”. Tất cả những công việc chữa trị, trừ quỉ chỉ là để củng cố cho lời giảng dạy của Người, Như bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu tất bật từ sáng đến tối, không phải làm vì ích lợi bản thân mà lo cứu giúp người khác, nhưng cũng không phải chỉ lo chữa trị phần xác mà còn cả phần hồn nên Người đã phải rời đi nơi khác để rao giảng, mặc dù ở nơi đó còn rất nhiều người tuôn đến với Chúa để được chữa lành, nhưng Người không muốn người ta lầm tưởng Người là Đấng Mêssia chỉ lo cơm ăn áo mặc, mà trái lại Người là Đấng giải thoát người ta khỏi mọi thứ nô lệ.
Như thế lao động là bổn phận của mọi người, nó giúp ích cho bản thân, cho người khác và cho xã hội. Tuy nhiên làm việc mà không có bồi bổ thân xác thì một ngày nào đó người ta sẽ dần mòn ngã quị. Chúa Giêsu, Người cảm nhận được điều đó hơn ai hết nên sau những giờ làm việc Người thường tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha trong cô tịch. Người kín múc nguồn sức mạnh nơi Cha, Người tỏ bầy mọi thống thiết của nhân lọai với Cha. Đức Kitô đang hiện diện với Cha nhưng không phải một mình mà có cả nhân loại ở đó, trong Người là hiện thân của con người nhân lọai, một kiếp người lầm than mang đầy những nhọc nhằn cơ cực, bệnh tật, chắc chắn lúc ấy Chúa Giêsu tỏ bầy với Chúa Cha tất cả và toàn thể nhân lọai như đang ở trước mặt Người.
Ngày sống của Chúa Giêsu là thế, còn chúng ta thì sao? Hình như chúng ta cũng làm việc nhưng không giống Chúa. Chúng ta quên công việc loan báo Tin Mừng mà chỉ lo lao động vì lao động, đến nỗi không còn giờ để nghỉ ngơi, lao động đã làm cho chúng ta bị thoái hóa, bị vong thân. Và trong nơi mỗi người chúng ta, những con người đầy những bệnh tật cần được chữa trị, đó là tội lỗi, những con người quên mất mình đến nỗi không biết mình bệnh tật để rồi không lo tìm thầy chạy thuốc, nên không tìm đến Bí tích Hòa giải, Bí tích Thánh Thể và quên cầu nguyện. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà Người còn cầu nguyện huống là nữa là chúng ta! Chú Nhật hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách thức lao động của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ẩn mình trong Chúa trong giờ cầu nguyện, đừng để tội lỗi làm chúng con xa lìa Chúa, nhưng xin chữa lành và biến đổi chúng con thành những cộng sự viên của Chúa trong công cuộc loan báo Tin Mừng cứu độ.
TN5-B134: Hãy ra công làm việc như Chúa Giêsu – Huệ Minh
Tâm trạng, cảm xúc của con người thật khó nói. Có những lúc lòng người cảm thấy hứng thú khi TN5-B134
Tâm trạng, cảm xúc của con người thật khó nói. Có những lúc lòng người cảm thấy hứng thú khi làm việc nhưng rồi có những lúc lòng cảm thấy buồn rười rượi bởi lẽ có khi thầy cuộc đời này chẳng là gì cả.
Jean-Paul Sartre – một triết gia, phê bình gia, tiểu thuyết gia và một kịch tác gia nắm một vị trí cao cả, ít ai có trong thế giới văn chương Pháp. Những tác phẩm của Sartre, đặc biệt La Nausée (Xb đầu tiên 1938) đã thu hút một số lượng khổng lồ về triết thuyết hiện sinh của Sartre như một tư tưởng mới và có một ý nghĩa quan trọng. La Nausée/Buồn Nôn là một tiểu thuyết mang tính hiện thực vừa đương đại vừa hiện thực cho một chủ nghĩa hiện sinh mà Sartre chủ xướng một cách trung thực và đầy sáng tạo giữa đời này.
Buồn Nôn là một câu chuyện hư cấu nhưng có thực và sống thực qua nhân vật Antoine Roquentin. Tác giả đã làm kinh ngạc người đọc về triết thuyết hiện sinh. Một tiểu thuyết đầy ấn tượng dưới một thể thức nhật ký mà ông đã diễn tả được cái sâu sắc nội tâm của con người, cái ray rứt, cái tàn nhẫn trong sự cảm nhận giữa thế giới với con người dường như xảy ra quanh đời ông. Tư tưởng của Sartre đạt tới cực điểm và lan tỏa, vượt qua được sức mạnh của cảm giác, tức nỗi đau khổ không cùng của con người đứng trước hiện hữu; tất cả được thể hiện rộng rãi từ dưới thể tính bầy nhầy, nhão quẹt (vicous) trộn lẫn với loãng chất (puddle) của cái thời đầy rẫy bóng tối vây quanh và lan trải như vết dầu loang; những hiện tượng đó là cơ hội dành cho Sartre phát triển chủ nghĩa hiện sinh, mà nhân tố hiện sinh chính là nhân bản, là yếu tố tâm lý và sinh lý giữa hiện thể và hiện vật xẩy ra cùng một lúc.
Buồn Nôn không còn là hư cấu, nó trở nên một luận cứ triết học của học thuyết hiện sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa đường. Tác phẩm Buồn Nôn của ông đã để lại hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt thời gian qua những án văn chương bất hủ, một phạm trù triết học đầy nhân tính trong thuyết hiện sinh của ông. Jean-Paul Sartre là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại của nền văn học sử hiện đại.
Tâm tình nhìn thấy cuộc đời này đầy chán nản ta cũng bắt gặp trong cuộc đời của một người rất thân quen trong Thánh Kinh đó là ông Giob. Ta vừa nghe ông Giob ai oán: “Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: “Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc”.
Sau khi nghe Giob ai oán như thế, ta cũng giật mình tỉnh giấc vì lẽ đôi khi cuộc đời ta cũng rơi vào cảm giác như thế. Bằng chứng rõ nét là ta vẫn thấy quanh ta có những cuộc tự vẫn, có những người tìm đến cái chết bởi vì họ cảm thấy cuộc đời này chán nản. Trong những người tìm đến cái chết đó cả những người có chức có quyền, các minh tinh màn bạc, ca sĩ… Cũng dễ hiểu vì lẽ những người đó đã không tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vậy, cuộc sống của ta, cuộc đời của mỗi người chúng ta vui khi nào? Khi chúng ta ra công làm việc và tất cả những việc lớn bé to nhỏ trong đời ta ta đều kết hiệp với Chúa và dâng hết cho Chúa.
Trang Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay gợi cho ta một hình ảnh của một con người lao động. Con người ấy là ai? Thưa là chính Chúa Giêsu.
Thánh Máccô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu ở thành phố Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn ssốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp tục đi rao giảng ở những nơi khác.
Tóm lại, ta thấy Chúa Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ qủi.
Những công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với Cha Ngài ở trên trời. Ngài còn dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết với Chúa Cha nữa như ở những nơi khác ta thấy Ngài thức suốt đêm để cầu nguyện.
Rõ ràng rằng đời sống làm việc của Chúa Giêsu được kết nối hay nói cách khác là đan xen trong lời cầu nguyện của Ngài. Lao động và cầu nguyện để ngày mỗi ngày càng gần Chúa hơn qua những công việc của Chúa Cha trao phó. Cha trao phó cho Chúa Giêsu công việc chính yếu nhất đó là loan báo Tin Mừng Nước Trời, loan báo niềm vui Tin Mừng.
Nếu như những người bình thường khác, Chúa Giêsu sẽ cảm thấy chán ngán vì ra sức làm việc mà chẳng được gì cả, thậm chí còn bị giới luật sĩ và biệt phái soi mói đủ thứ đủ điều. Thế nhưng, vì Tin Mừng, vì Cha và với Cha, Chúa Giêsu không bận tâm những lời ra tiếng vào nữa và vì làm việc nhiều quá mệt để rồi khi đặt lưng xuống là ngủ chứ không còn thời giờ để suy nghĩ vu vơ.
Ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại, ta vẫn thấy có nhiều người vẫn còn đó những chán ngán của cuộc đời do họ suy nghĩ cuộc đời này vô nghĩa, cuộc đời này không đáng sống. Thật ra, cuộc đời này đáng sống lắm đấy bởi lẽ ai ai sinh ra cũng chỉ một lần và chết cũng có một lần mà thôi. Và vì thế, hãy ra công làm việc
Đâu đó ta vẫn nghe Chúa Giêsu nói: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu” (Ga 6, 27)
Trong hành trình làm người ở trần gian, cần lắm của ăn nuôi sống cái xác thịt 5,6, 7 chục ký này nhưng cần hơn nữa đó chính là của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho mỗi người một khả năng, một ơn gọi, một biệt tài nhưng có khi con người không nhận ra để rồi khi không nhận ra thì cuộc sống cảm thấy chán càng chán thêm.
Có một người đến tuổi trung niên. Bỗng nhiên anh bị tai biến và khả năng đi lại thật khó khăn. Lẽ ra trong cái buồn, trong cái hạn chế của bệnh tật và nhất cả của kiếp người, anh cũng có quyền ai oán nhưng bao người khác nhưng ngược lại, anh cảm thấy anh còn làm được gì thì anh cố làm. Thế là anh chuyên chăm vào chuyện suy gẫm là lắng nghe lời Chúa. Chỉ là một giáo dân bình thường như bao nhiêu người khác nhưng anh đã cố gắng loan báo Tin Mừng bằng suy nghĩ, bằng sẻ chia Lời Chúa hàng ngày của anh. Thật trân trọng tâm hồn và cách lao động làm việc của anh. Cách nào đó anh loan báo Tin Mừng thật tuyệt vời.
Một cô kia cũng đang ở cái tuổi gần 60. Gia đình tương đối đủ ăn đủ mặc và hàng xóm vài người trêu rằng sao không nghỉ ngơi đi mà cứ lo buôn bán. Vui miệng, cô trả lời: “Đủ ăn, đủ mặc rồi nhưng làm thêm để kiếm tiền rải đường đi lên thiên đàng!”. Cô đùa vui thôi. Trong tâm tình, cô chia sẻ với tôi rằng: “Tôi còn sức còn làm và dư ra để tôi lại chia sẻ với người nghèo hơn tôi”. Mà thật! Tôi vẫn thấy cô xuất hiện trong những chuyến từ thiện, những chuyến thăm viếng người nghèo, người tâm thần.
Phải chăng cô không làm việc để tích lũy làm giàu như người khác nhìn vào nhưng cô lao công để chia sẻ cho người khác. Đây là cách sống loan báo Tin Mừng bằng chính sự chia sẻ của cô, của gia đình cô.
Trong thư chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.
Khi ta nghe xong lời ấy, ta có thể trách móc và “đấu” lại với Thánh Phaolô rằng con chẳng có gì để loan báo Tin Mừng cả! Thế nhưng, trong sâu lắng của cuộc đời, ta vẫn còn sống là ta vẫn còn loan báo Tin Mừng bằng đời sống lao động, cầu nguyện của ta đó.
Như Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, trong hoàn cảnh hiện tại, đời sống cầu nguyện của Ngài phải chăng là một đời sống lao động tuyệt vời. Không còn làm việc công khai, không còn lao nhọc công khai nữa nhưng Đức Tổng vẫn kết hiệp mật thiết đời mình với Chúa hơn qua lời cầu nguyện.
Có thể ta già nua tuổi tác, có thể ta bị tai biến như người trung niên đã nói ở trên và có khi ta nghèo nhưng ta vẫn lao động, vẫn cầu nguyện được trong hoàn cảnh của ta. Xin Chúa thêm ơn cho ta để ngày mỗi ngày ta biết lao động như Chúa đã từng lao động để rồi ta thấy cuộc đời ta có ích hơn, ý nghĩa hơn nhất là khi ta kết hợp mật thiết hơn với Chúa qua lời cầu nguyện của ta.
Bỏ lại sau lưng một tuần lễ làm việc với bao vất vả và lao công khổ trí, với bao lo âu và căng TN5-B135
Bỏ lại sau lưng một tuần lễ làm việc với bao vất vả và lao công khổ trí, với bao lo âu và căng thẳng. Giờ đây, trong bầu khí linh thiêng nơi đền thánh này, cộng đoàn chúng ta xum vầy bên nhau để cầu nguyện, hầu kín múc cho mình những nghị lực mới và những niềm hy vọng mới từ nguồn suối ân sủng bất tận của mầu nhiệm Thánh Thể.
Đây chính là cách thức hành động của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Sau một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng, Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Điều đó cho thấy đối với Chúa Giêsu, việc cầu nguyện là quan trọng, là điều không thể thiếu trong cuộc đời của Người. Vì thế, trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa Giêsu thường cầu nguyện với Chúa Cha để kín múc lấy nguồn sức mạnh cho các hoạt động truyền giáo sau này. Và đỉnh điểm của nguồn sức mạnh linh thiêng này được Người biểu lộ trên Thánh giá khi Người cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34)
Cảm nhận sâu xa nguồn sức mạnh của cầu nguyện, Người không ngừng mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Bởi chỉ trong cầu nguyện, chúng ta mới kín múc được suối nguồn ân sủng của Thiên Chúa. Nguồn ân sủng dẫn đưa chúng ta đến chỗ trở nên một phần trong sứ vụ của Chúa Giêsu trong việc dẫn đưa mọi người vào trong sự mật thiết với tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương cầu nguyện không biết mệt mỏi của thánh nữ Monica, mẫu thân của thánh Âutinh. Suốt hai mươi năm, thánh nữ đã khóc hết nước mắt và liên lỉ cầu xin Chúa hãy cứu vớt con trai mình. Cuối cùng, Thiên Chúa đã thương nhận lấy những giọt nước mắt và lời cầu nguyện của thánh nữ mà cho thánh Âutinh quay trở về với Thiên Chúa. Sau này, thánh Âutinh trở thành một vị thánh cả trong Giáo Hội.
Như vậy, chính sự cầu nguyện thẳm sâu đã nối kết tâm hồn thánh Monica với Thiên Chúa và đem lại cho thánh nữ sức sống vượt lên trên mọi thử thách, đau khổ. Nhờ đó mà thánh nữ không chỉ biến đổi chính mình mà còn làm biến đổi người con mà thánh nữ hằng nhớ đến trong những lời cầu nguyện.
Và để có được đời sống cầu nguyện thẳm sâu như thánh Monica, chúng ta hãy học ở nơi người sự tín thác vào Thiên Chúa. Nhờ tín thác vào Thiên Chúa mà chúng ta không chỉ gặp gỡ Người trong tiếng thì thầm và trong tiếng gió hìu hiu mà còn gặp gỡ Người giữa những cơ cực của trần thế, trong những nỗi khốn quẫn và hân hoan của đồng loại. Nhờ đó, chúng ta mang trong tâm hồn mọi đớn đau, sầu khổ; mọi sự đói, cô đơn và cùng khốn của con người.
Và cũng nhờ cầu nguyện, chúng ta để cho sự ấm cúng của tình yêu Thiên Chúa làm tan chảy băng giá của sự hận thù, để cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa mở ra một không gian nơi niềm vui khỏa lấp nỗi buồn; để cho sự hiền lành và ấu yếm của Chúa xua tan sự ghen ghét, sự hững hờ. Như thế, cầu nguyện chính là phương thế tốt nhất đưa dẫn mọi đau khổ tới nguồn mạch của mọi sự chữa lành.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Đôi khi vì thiếu lòng tin, chúng con đã không còn thấy nhu cầu để cầu nguyện. Vì những bận rộn, lo toan trong đời sống mà chúng con không còn muốn chạy đến với Thiên Chúa. Nhất là vì thấy những lời cầu xin của mình không được như ý nên chúng con cảm thấy chán nản, thất vọng và buông xuôi. Xin ban cho chúng con niềm tin mạnh mẽ để chúng con tin rằng những lời cầu nguyện của chúng con nhất định sẽ được Chúa nhậm lời. Để từ đó, chúng xác tín rằng cầu nguyện là lẽ sống, là hơi thở của đời con. Và một khi đã xác tín như thế, chúng con sẽ sẵn sàng dành trọn 30 phút mỗi ngày cho việc cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho con luôn biết phó thác cho tình yêu bao la và quan phòng của Thiên Chúa trong từng giây phút đời con để trong con không còn một khát vọng nào khác ngoài sự kết hiệp mật thiết với Chúa. Amen.
TN5-B136: Lịch Trình Làm Việc Thường Ngày Của Chúa Giêsu
Chúa Nhật V Thường Niên B
vo ha
Theo điều tra dân số 2019, hơn 65% người Việt Nam sống tại nông thôn, làm nghề chống lưng cho TN5-B136
Theo điều tra dân số 2019, hơn 65% người Việt Nam sống tại nông thôn, làm nghề chống lưng cho trời, dán mặt cho đất với canh nông vi bản. Phần còn lại sống tại thị hành; đa số cũng đi làm ngày 8 tiếng đồng hồ hoặc nhiều giờ hơn trong tình cảnh một nắng hai sương.
Mọi người đều phải lao động để sống còn, trước khi được ban tặng vinh quang. Công việc ngành nghề nào cũng có những mệt nhọc, khó khăn, chán chường, như trong Bài I của sách Ông Gióp thời Cựu Ước, được đọc vào Chúa Nhật V thường niên B nầy. Nhưng việc làm, nhìn theo nhãn quan tích cực, cũng mang lại hạnh phúc và nguồn vui, khi mỗi người biết sống vì mọi người, theo mẩu gương làm việc không phải chỉ có hôm nay, mà từ hơn 2000 năm trước, của Chúa Giêsu và Thánh Phaolô cho thấy. Ta cùng đọc ba bài Lời Chúa bên dưới và xin Ngài giúp thêm trí tuệ để biết rộng hơn những việc phải làm.
BÀI ĐỌC I: G 7, 1-4. 6-7 “Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”.
Bài trích sách Gióp.
Bấy giờ Gióp nói rằng: “Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: “Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc”.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 9, 16-19. 22-23
“Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng.
PHÚC ÂM: Mc 1, 29-39
“Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài. Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người. Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: “Mọi người đều đi tìm Thầy”. Nhưng Người đáp: “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Đôi dòng ghi chú và tâm tình Bài đọc I trích từ sách mang tên Ông Giốp, Anh Ngữ là Job: công việc, việc làm. Sách nầy do nhiều người học rộng biết nhiều đóng góp trong khoãng thế kỷ VI – thế kỷ IV TCN, tức là sau thời gian lưu đày từ Babylon trở về đất Do Thái năm 538 TCN. Sách thuộc loại giáo huấn nhắm vào chủ đề thưởng phạt công minh.
Đoạn sách trên được trích ra từ chương 7, sau khi Ông Giốp bị thử thách, hầu như bị xô xuống tận cùng nơi đáy vực thẩm. Con cái của Ông bị chết hết. Bầy đàn nhà cửa bị tiên tan. Thân xác bị ghẻ lở giòi bọ.
Nên trong một lúc ông có cái nhìn chua cay, bi quan về cuộc đời. Cuộc sống nầy, vô vọng nơi dương thế, chỉ để chịu khổ dịch, chỉ để làm việc như nô lệ, bị chìm đắm trong mê sảng, sinh mạng như hơi thở thoáng qua, đời người trống rỗng không chắc chắn, lại vô vọng không có ngày hạnh phúc bao giờ.
Những lối nhìn có vẻ bi quan yếm thế chán chường trong đoạn sách trên đây, được chính Chúa Giêsu hóa giải bằng những sinh hoạt ích lợi cho mình (Ngài) và cho người, tiêu biểu trong lịch làm việc một ngày của Chúa bên trên.
Trong Bài Phúc Âm, Thánh Máccô ghi lại thời khóa biểu một ngày bận rộn của Chúa như sau
Chúa Giêsu chổi dậy từ sáng sớm tinh mơ, tới nơi thanh vắng cầu nguyện. Ngài đã là Thiên Chúa quyền năng như Cha và Thánh Thần mà còn cho con người thấy Ngài vẫn có những giậy phút nối kết nên một trong Ba Ngôi vì Ngài, theo như được soi sáng, để làm gương cho chúng con. Nên nguồn sinh lực của chúng con chính là từ nơi Chúa. Muốn làm việc gì nên, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhở bởi ơn Chúa.
Rồi Ngài đi giảng dạy trong hội đường. Chữa cho nhạc mẫu của Simon hết bệnh sốt rét một lần. Tiếp theo chữa những bệnh khác và trừ tà cho tới chiều tối.
Hôm sau Chúa Giêsu rời chổ cũ, đến những bản làng xa xôi, những thành lân cận khác khắp vùng Galilê, tiếp tục công việc như trên. Chúa đã là mẩu gương cho các nhà truyền giáo sau nầy, đi khắp thế gian, giảng dạy muôn dân.
Nói gọn, công việc của Chúa Giêsu, bận rộn tối ngày. Rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỉ. Việc làm của Chúa vì phúc lợi cho con người dù không sinh ích lợi gì cho Chúa. Nhưng Chúa vẫn làm, vì yêu quí chúng con.
Trở lại Bài đọc II Thánh Phaolô đã có cái nhìn hoan lạc hơn Ông Gióp trong bài đọc I. Tay dệt tay đan (Cv 18{ 1-3) Ngài làm việc, để nuôi thân và cho những người trong nhóm (CV 22:33-35). Không làm gánh nặng cho giáo dân (1Tx 2:9). Nêu gương lao động tốt cho tín hữu (2Tx 3:8-9) từ xa xưa chở không phải thế kỷ 20 mới có cho dân chúng.
Ngoài ra Ngài còn làm ra sản phẩm tinh thần: cầu nguyện, suy tư, giao tế, giảng dạy, thành lập giáo đoàn, thăm viếng, viết thư … làm sao cho thích hợp để cho người Do Thái mang tâm thức đạo cũ và dân ngoại thường mê tín dị đoan với đa thần giáo, chấp nhận Tin Mừng đạo mới cách thuận lợi.
Ngài còn thêm, việc rao giảng Tin Mừng là “nhu cầu đối với tôi” và làm không công. Nhu cầu là cái phải có. Không phải để lợi dụng danh đạo tạo danh đời như tiên tri giả hay người chăn chiên thuê (Đnl 18:20; Ed 34).
“Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” nói cách khác, rao giảng Tin Mừng là hạnh phúc của tôi. Nên rao giảng Tin Mừng, cũng như tin và theo Chúa là tự nguyện chứ không phải do bị bó buộc.
Theo gương Thầy Thuốc Giêsu đồng bàn với người thu thuế và tội lỗi để nâng họ lên và chữa lành (Mc 2:13-17) Thánh Phaolô đã tình nguyện trở nên đồng mệnh với người yếu để chinh phục họ.
Là vị Thánh, Ngài mới dám nói mình trở nên mọi sự cho mọi người. Đây là mẩu gương cho tất cả giáo hữu như chúng con, còn đầy sân si mạng nghi ác kiến, gắng sức noi theo Ngài, được chút nào, tốt chút đó.
Xin dâng lời nguyện
Công việc của Chúa không ngừng nghỉ, từ sáng tạo và cứu chuộc, xin cho công việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh được nhiều thuận tiện và thành quả tốt đẹp.
Chúa đã làm việc không phải cho Chúa, mà cho và vì chúng con. Xin cho các bậc văn võ quan quyền của đất nước, biết cách tạo ra việc là, ngỏ hầu người dân có cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Xin cho chúng con vui lòng chấp nhận những lao công vất vả trong việc làm hằng ngày, để trở nên món quà quí giá đầu năm dâng lên tới Chúa. Xin cho mọi người trong giáo xứ chúng con siêng năng làm việc, nuôi sống chính mình, cũng vừa góp phần xây dựng xã hội và Giáo Hội của Chúa. Xin Chúa thánh hóa những việc làm thường nhât trong đời sống chúng con, hầu được sinh nhiều hoa quả tốt lành phục vụ Chúa và những ai cần thiết. Xin cho chúng con đủ can đảm gánh vác những lao nhọc thuận lợi và cả nghịch cảnh hằng ngày, trong niềm vui có Chúa cùng chung sức. Amen.
Đại dịch COVID-19 được ví như một “cú đấm chí mạng” với sức tàn phá ghê gớm, giáng vào nền TN5-B137
Đại dịch COVID-19 được ví như một “cú đấm chí mạng” với sức tàn phá ghê gớm, giáng vào nền kinh tế thế giới 2020 và tiếp tục đi qua năm 2021.
Tốc độ lây lan chóng mặt của dịch bệnh COVID-19 buộc các quốc gia phải áp đặt các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để chống dịch đã dẫn đến kinh tế toàn cầu suy yếu, làn sóng doanh nghiệp phá sản lan rộng khắp thế giới. Nhiều chuyên gia cho rằng sự ảnh hưởng của đại dịch này còn kéo dài nhiều năm sau nữa mới khống chế được nó.
Và hình như bệnh tật luôn theo đuổi con người như hình với bóng. Con người qua mọi thời đại cứ xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và mỗi thời đại đều có những căn bệnh gọi là bất trị. Rồi cũng có những loại bệnh tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở lại lợi hại hơn xưa với tên gọi mới dầu vẫn chỉ là dịch bệnh lây nhiễm như Covid hôm nay!
Lời Chúa hôm nay kể lại việc Ðức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Ðức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x. Ds. 5, 3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Ðức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đây cũng là phong cách của Chúa Giê-su. Ngài luôn tất bật phục vụ mà không cần nghỉ ngơi. Cả ngày dường như Ngài dành trọn cho Thiên Chúa và tha nhân. Ban ngày phục vụ tha nhân. Đêm về Ngài dành cho Chúa Cha.
Thật hạnh phúc cho người ky-tô hữu, qua bí tích Rửa tội chúng ta được xức dầu xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật và được trở nên con cái Chúa. Thiên Chúa đã ghi dấu ấn tín cho chúng ta thuộc trọn về Chúa để từ đây có Chúa sẽ nên thành lũy che chở cho cuộc đời chúng ta.
Nhất là trong thế giới hôm nay vẫn còn rất nhiều các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của quyền lực; vẫn còn các bệnh tật lan tràn đang làm biết bao người khổ đau. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả các bệnh nhận. Đồng thời, xin cho các tín hữu cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn trong mái ấm gia đình.
Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen
Kinh Thánh Cựu Ước có chuyện ông Gióp ở đất Út. “Ông là một con người vẹn toàn và ngay TN5-B138
Kinh Thánh Cựu Ước có chuyện ông Gióp ở đất Út. “Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1,1). Vì được Thiên Chúa coi là người đầy tớ trung thành, luôn “kiên vững trong đường lối vẹn toàn” (G 2,3), dù rơi vào bất cứ hoàn cảnh nào, nên Xatan ganh ghét Gióp và thưa với Thiên Chúa : “Tất cả những gì người ta có, người ta đều sẵn sàng cho đi để cứu mạng sống mình. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào xương vào thịt nó xem, chắc chắn là nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt! ” (G 2,5), và Xatan xin Chúa cho phép thử thách Gióp. Thiên Chúa đồng ý, cho phép Xatan được thử thách Gióp, người tôi tớ trung kiên của Ngài, khi nói với Xatan : “Được, nó thuộc quyền ngươi, nhưng ngươi phải tôn trọng mạng sống nó” (G 2,6).
Gióp là hình ảnh sống động của con người bất hạnh, bởi từ có tất cả phút chốc mất hết, không còn gì ; từ phương phi vạm vỡ biến thành yếu nhược, tiều tụy, xấu xa ; từ danh giá, được trọng vọng trở thành kẻ bị mọi người khinh dể, nhạo cười, xa lánh ; từ dư dả, giầu sang, bạn bè tấp nập ra vào, kẻ hầu người hạ ngày đêm vồn vã bỗng nhiên thành kẻ thiếu ăn, thiếu mặc, cô đơn, sầu tủi, bị xỉ nhục, mắng nhiếc nặng lời.
Hình ảnh “ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi”, vì “Xatan hành hạ khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu” (G 2,7-8) thật rất đáng thương, nhưng cũng đáng sợ, đáng ngán : sợ mắc chứng bệnh quái ác như ông, ngán cảnh đau đớn, nhơ nhớp cùng mình. Chẳng thế mà vợ ông đã bảo ông : Đừng kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa, nhưng “hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” (G 2,9).
Qủa thực, cơn thử thách của Gióp rất khủng khiếp, nặng nề, đến nỗi ông đã phải đau đớn thốt lên : “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời” (G 3,3), vì “cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và chuỗi ngày lao lung vất vả, đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm : “Khi nào trời sáng ?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi : “Bao giờ chiều buông?… Lậy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7,1-4.7).
Thực vậy, ông Gióp là người đã chịu mọi thử thách của ma qủy nên thấm thía những đau đớn trên thân xác và đau khổ trong tâm hồn. Ông cho chúng ta thấy mãnh lực áp đảo của sự dữ, bất hạnh trên đức tin và lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa, bởi trước đau khổ, không phải ai cũng trung tín, và hy vọng để nói được như ông Gióp : “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2,10).
Câu chuyện của Gióp đã làm tiền đề cho Tin Mừng hôm nay kể về những phép lạ Đức Giêsu đã làm để chữa mọi kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và bị qủy ám đến với Ngài (x. Mc 1,34).
Nhưng tiếp liền theo trình thuật chữa bệnh, trừ qủy, thánh sử Máccô kể lại: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simôn vá các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa : “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Người bảo các ông : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm điều đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ qùy” (Mc 1,35-39).
Theo ngữ cảnh, thì “Mọi người đang tìm Thầy !” được hiểu là nhiều người đau bệnh, tật nguyền, bị qủy ám đang chờ được gặp Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Nhưng thay vì ra gặp họ để tiếp tục chữa bệnh, trừ qủy theo lời mời của các tông đồ, Đức Giêsu đã trả lời : “Chúng ta hãy đi nơi khác… Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Điều này cho chúng ta thấy sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng, loan báo Nước Thiên Chúa đang có mặt, ở giữa mọi người để tất cả nhận được ơn thương xót của Thiên Chúa hầu được sự sống đời đời. Còn những phép lạ chữa lành mọi thứ bệnh tật và trừ qủy Ngài làm chỉ có mục đích cho mọi người biết và tin Ngài là Thiên Chúa, Đấng có quyền trên mọi sự, mọi loài, mọi quyền lực. Nói cách khác, niềm tin vào Ngài là Thiên Chúa mới là điều quan trọng, bởi đức tin mới đem lại ơn cứu rỗi cho chúng ta, trong khi những phép lạ chỉ có mục đích củng cố niềm tin còn yếu kém của chúng ta, như Đức Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành ruợu ngon ở tiệc cưới Cana cốt để các môn đệ tin vào Ngài (x. Ga 2,11).
Vì thế, nếu chúng ta chỉ đi đạo để được phép lạ, chỉ yêu mến, phụng thờ Chúa, nếu được Chúa cho khỏi bệnh, buôn may bán đắt, hoạn lộ thênh thang, công danh lên vùn vụt thì đức tin của chúng ta không thể đứng vững khi gặp thử thách, đối mặt với nguy nan, đau khổ, bởi nếu chỉ đòi thấy những dấu lạ mới tin, chúng ta sẽ bị Chúa khiển trách như những người Do Thái yêu cầu Đức Giêsu làm phép lạ năm xưa : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Qủa thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Lc 11,29-30). Ý Đức Giêsu muốn nói về sự phục sinh của Ngài.
Tóm lại, bệnh tật, đau khổ không chỉ là dấu ấn của thụ tạo có giới hạn, mà còn là hậu qủa của tội lỗi nơi con người. Cũng chính vì thương xót con người, mà Đức Giêsu đã xuống thế làm người để chia sẻ thân phận người và cứu độ con người bằng sự sống, sự chết và phục sinh của Ngài để chuộc lại quyền làm con Thiên Chúa của con người, hầu con người được hạnh phúc đời đời trong sự sống của Thiên Chúa. Và đức tin của mỗi người là điều kiện để Lời Hứa cứu độ được thực hiện, đức tin mà Đức Giêsu phục sinh đã dậy cho môn đệ Tôma : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29), vì ông không tin Thầy đã sống lại, mặc dù tất cả anh em môn đệ đều đồng thanh khẳng định : “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20,25), cho đến khi chính Đức Giêsu phục sinh hiện ra và bảo ông : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27).
Và như các thánh Tông Đồ năm xưa, chúng ta khiêm tốn và tín thác thưa với Đức Giêsu : “Lậy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Một ngày làm việc của Chúa Giêsu diễn ra thật tuyệt vời. Sau khi rời khỏi hội đường, Thầy Giêsu TN5-B139
Một ngày làm việc của Chúa Giêsu diễn ra thật tuyệt vời. Sau khi rời khỏi hội đường, Thầy Giêsu ghé thăm nhà ông Simon, có hai ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đến nơi, người ta nói với Thầy về tình trạng của mẹ vợ ông Simon: bà đang lên cơn sốt. Không chần chừ, Thầy Giêsu đến ngồi cạnh bà, đỡ bà dậy. Lập tức, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Thầy Giêsu không chỉ thuyết phục người khác bằng lời giảng dạy nhưng còn bằng chính hành động đầy yêu thương.
Chiều đến, người ta kéo đến đầy nhà, ai cũng muốn được gặp Thầy, ao ước được Thầy chữa cho lành bệnh. Trước những con người bệnh tật ấy, Thầy Giêsu chạnh lòng thương họ. Người đã chữa lành bệnh và trừ nhiều quỷ. Ai cũng thán phục Thầy. Quả thật, Thầy đã giải thoát họ khỏi nỗi khổ đau vì bệnh tật, khỏi tội lỗi và khỏi quyền lực của Satan. Được đến với Thầy, họ chẳng còn phải lo lắng hay sợ hãi gì cả. Bởi đó, người ta mong giữ Thầy lại.
Sáng sớm, khi trời còn tối mịt, Thầy đã đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện. Không thấy Thầy đâu, mọi người đều nhốn nháo. Ai cũng nóng lòng được gặp Thầy. Thế rồi ông Simon và các môn đệ khác kéo nhau đi tìm Thầy. Thầy đang ở đâu, phải kiếm Thầy cho kỳ được. Dân chúng say mê nghe những lời giảng dạy tuyệt vời của Thầy, họ ngưỡng mộ Thầy, biết ơn Thầy. Ai ai cũng yêu quý Thầy. Tìm được rồi, các ông thở phào nhẹ nhõm. Thầy lạ quá. Thầy đến nơi hoang vắng này để cầu nguyện. Thầy muốn rời khỏi sự ồn ào, sự hồ hởi, sự quấn quýt của những người hâm mộ. Thầy chỉ muốn dành một chỗ thật riêng tư để tâm sự cùng Chúa Cha. Thầy đã đến đây là vì vậy.
Trong mỗi ngày sống, ta có muốn dành một khoảng thời gian thật riêng tư để ở lại cùng Chúa không? Trong những lúc quá bận rộn với nhiều công việc, ta có dành giờ để nạp năng lượng thiêng liêng cho trái tim của mình không? Hãy nhìn, hãy nghe, hãy để tâm suy nghĩ về những gì Chúa nói với ta. Ta hãy vội vã chạy đi tìm Chúa như các môn đệ ngày xưa, để khi ở trong Người, ở bên Người, ta sẽ được Người chỉ cho biết phải làm sao. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc xung quanh để rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy được sai đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38). Có những lần ta bị cám dỗ ở lại trong thành công, ở lại nơi vùng an toàn: đó là một công việc ổn định, được nhiều người biết tới, nhiều người yêu thương… Thật khó để có thể rời bỏ nơi ấy, vùng an toàn mà ta đã vất vả mới có được. Nỗi lo lắng, sợ hãi trước những thách đố của “vùng đất mới” khiến ta chùn bước. Hãy lắng nghe xem Thầy Giêsu muốn ta làm gì.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con được cộng tác với Ngài trong sứ vụ mới. Xin Chúa ban Thánh Thần tình yêu soi chiếu tâm hồn con để con luôn sẵn sàng với mệnh lệnh Chúa truyền ban. Amen.
Cuộc khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra đang khiến cho bao người, bao gia đình điêu TN5-B140
Cuộc khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra đang khiến cho bao người, bao gia đình điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp phá sản. Nhiều người mất việc làm. Không có việc làm, cuộc sống vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Chắc hẳn những chuyên gia kinh tế thế giới đang cố gắng tìm một giải pháp tốt nhất để giải quyết khủng hoảng. Là những môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta có thể làm gì để giải quyết cuộc khủng hoảng này?
Có một câu chuyện tôi đọc được trên báo kể về trường hợp của một chị phụ nữ khiến tôi cảm thấy thật xót xa. Chị lấy chồng được một người con thì chồng bỏ đi. Giờ với đồng lương quá thấp không đủ nuôi con, chị đã tìm đến với cái chết. Chị không những muốn kết thúc cuộc đời của chị mà cả đứa con nhỏ nữa. Chị đã cho nó uống thuộc độc để cả hai mẹ con cùng đi về thế giới bên kia của loài người. Cái chết như là giải pháp cuối cùng để chấm dứt khủng hoảng. Tôi hình dung ra nhiều người cũng đang rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Cũng giống như trường hợp của Gióp trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Ông nhìn vào cuộc đời và chỉ thấy một màu xám ngắt. Chẳng có chi hạnh phúc. Chẳng thấy một tia hy vọng. Chúng ta hãy nghe những lời lẽ của Gióp:
Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ (G 7, 6-7)
Con người khi đứng trước cuộc đời nhiều bất công và đau khổ thường hay có thái độ hoặc là muốn chấm dứt cuộc đời, hoặc là để mặc cuộc đời trôi dạt về đâu. Thế nhưng tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Bài tin mừng hôm nay cho tôi một tia sáng để tìm ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng, một hướng đi cho cuộc đời.
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, tôi thấy dường như Chúa nói với tôi rằng hãy sống tích cực con ạ. Đừng ngồi đó mà than thân trách phận. Đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Đừng thất vọng đến mức tự hủy hoại đời mình. Làm như thế là hèn lắm. Sống mới khó còn chết thì dễ thôi con ạ. Hãy thắp lên một ngọn nến để soi tỏ đường con đi và cho người khác cùng đi. Ta hãy xem Chúa Giêsu làm gì trong một ngày sống. Một ngày của Chúa thật bận rộn. Người tới Hội đường giảng dạy. Giảng xong, Người tới chữa bệnh cho bà mẹ vợ của Simon Phêrô. Chiều tối, Người lại chữa đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền. Rồi sáng sớm tinh sương, Người đã thức dậy cầu nguyện. Và khi các môn đệ đi tìm Chúa, Người nói với họ tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng cho những thành khác. Chúa dường như không có giờ để nghỉ ngơi, không có giờ để mà buồn chán. Người chữa lành những vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn của con người. Người muốn đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc. Tất cả những ai gặp được Người đều được chữa lành. Chúa cũng bảo với tôi: con hãy đi và làm như vậy. Nhưng trước khi lên đường, Người bảo tôi hãy cầu nguyện. Hãy dành những giây phút đầu ngày và cuối ngày để ngước nhìn lên cao. Hãy thinh lặng để sức mạnh của Chúa đổ đầy vào trái tim ta. Tự sức ta sẽ chẳng làm được việc gì. Tôi tự hỏi tại sao những môn đệ của Chúa ngày hôm nay không đủ sức chữa lành, không đủ sức xoa dịu những nỗi đau của người xung quanh? Và câu trả lời đó là vì họ thiếu cầu nguyện.
Nhìn ra thế giới xung quanh, tôi cũng thấy tương tự như vậy. Con người chỉ lo đi tìm kiếm vật chất, còn linh hồn thì không được quan tâm đủ mức. Truyền thống của cha ông ta thật sâu sắc. Ngày tết có cả bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng tượng trưng cho đất, còn bánh dầy tượng trưng cho Trời. Trời tròn đất vuông theo quan niệm dân gian. Cha ông ta muốn dạy chúng ta rằng con người đầu đội trời, chân đạp đất nên luôn phải có đủ hai yếu tố đó. Trong khi mưu sinh, phải lo tìm kiếm những gì thuộc cõi trời cao. Con người không chỉ là một mớ vật chất mà còn có một chiều sâu tâm linh thăm thẳm. Và để nuôi dưỡng cái chiều sâu ấy, ta chỉ có một con đường là chìm vào cõi lặng. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay mà học đòi bắt chước. Từ sáng sớm, Người đã chìm vào cõi lặng. Ở đó, ta gặp được chính nguồn mạch sự sống và bình an. Từ nguồn mạch ấy, ta sẽ có đủ sức mạnh để lên đường. Ta sẽ sống một cách tích cực và phong phú hơn. Ta sẽ có thể chữa lành những nỗi đau nơi tâm hồn và thể xác của tha nhân. Xung quanh ta, cuộc khủng hoảng đang bao trùm. Là môn đệ của Chúa, ta được mời gọi hãy làm một cái gì đó. Hãy làm một cái gì đó, nhỏ thôi, đi từ tình thương yêu con người. Hãy bắt đầu! Đừng chờ đợi bởi ta sẽ không biết phải đợi đến bao giờ.
Lạy Chúa, xin cho con có thái độ sống tích cực, để con có thể đem Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người bởi vì như Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,17).
Cùng đi với Đức Kitô có ông Gicacôbe and Gioan, thăm gia đình mẹ vợ ông Simon. Bà bị TN5-B141
Cùng đi với Đức Kitô có ông Gicacôbe and Gioan, thăm gia đình mẹ vợ ông Simon. Bà bị bệnh sốt liệt giường. Đức Kitô cầm tay bà nâng bà dậy và bệnh sốt liền biết mất, và bà phục vụ Đức Kitô và phái đoàn. Việc bà phục vụ các ngài cho biết tình trạnh bệnh tật của bà biến mất, bà khỏi hẳn, mạnh khoẻ như trước. Bà không cần phải nghỉ, tỉnh dưỡng, cho lại sức, nhưng có thể làm việc ngay. Có lẽ bà là người nấu ăn ngon nhất nhà, và bà đã làm công việc chuẩn bị bữa ăn cho toàn gia đình. Đức Kitô coi trọng việc phục vụ tha nhân, Ngài coi đây là một trong những công việc mục vụ chính trong cuộc đời Ngài công khai rao giảng. Chính Ngài xác nhận, ‘Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ’ Mk 10,45. Phục vụ trở thành ‘biểu tượng’ môn đệ Đức Kitô. Biểu tượng này giúp người ta nhận biết các ngài môn đệ Đức Kitô. Các ngài tự nguyện phục vụ tha nhân.
Từ ‘nâng dậy, đỡ dậy’ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ. Nhân loại sa ngã do tội bất phục tòng gây nên thời tổ phụ Adong. Đức Kitô xuống thế, giải thoát, nâng con người lên, trở về tình trạng nguyên thủy, thời khởi đầu Chúa tạo dựng con người. Những ai tin theo, Đức Kitô ban cho cuộc sống mới, biến họ trở thành Kitô hữu. Ngài nâng đỡ từng người một và cuối cùng cứu độ, nâng toàn thể nhân loại đứng dậy, làm hoà cùng Thiên Chúa.
Một hôm có viên sĩ quan tên Jairus đến xin Đức Kitô chữa bệnh cho con gái ông đang hấp hối tại nhà. Khi ông còn đang nài van thì người nhà đến báo tin buồn là. Đừng làm phiền Đức Kitô nữa, con gái ông đã chết. Đức Kitô an ủi ông, ‘Đừng sợ, vững lòng tin thì sẽ được’ Mk 5,36. Ngài vào nhà ông, ‘Người cầm lấy tay nó và nói. Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy’ Mk 5,41. Cháu bé đứng dậy đi lại bình thường như chưa hề mắc bệnh. Đức Kitô ban cho cháu bé cuộc sống mới, bởi lòng tin vững chắc của cha cô. Chính Đức Kitô cũng chỗi dậy từ cõi chết sau ba ngày chôn cất trong mồ. Đức Kitô đỡ con người dậy, còn chính Ngài thì Ngài chỗi dậy, không cần ai nâng dậy.
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho biết Đức Kitô nâng bà mẹ vợ ông Simon dậy mang í nghĩa thể chất, và í nghĩa tâm linh. Về phương diện thể chất, bà hoàn toàn bình phục. Về phương diện tâm linh, bà trở thành môn đệ Đức Kitô. Có lẽ bà là người phụ nữ đầu tiên trở thành môn đệ Đức Kitô. Điều này thể hiện qua việc bà hãnh diện được phục vụ Đức Kitô và phái đoàn. Tâm hồn bà hân hoan, tràn ngập niềm vui vì được hạnh phúc đón Đức Kitô vào trong gia đình bà. Đây là một thiên ân Đức Kitô dành riêng cho gia đình mẹ vợ ông Simon. Từ một bệnh nhân thành người mạnh khoẻ, từ kẻ xa lạ trở thành thân hữu trong nhóm của Đức Kitô, từ một người ít ai biết đến bà trở thành người toàn thế giới biết đến về hành động bác ái. Về cuối đời bà còn được Đức Kitô đón nhận vào nước Thiên Chúa hằng sống. Đức kitô có hai nhóm môn đệ. Nhóm thứ nhất cùng Ngài đi nơi này, nơi khác, nghe Ngài giảng dậy và chữa bệnh. Nhóm thứ hai là các môn đệ không cùng đi đây đó với Đức Kitô nhưng ở tại nơi họ đang sống. Đại đa số chúng ta thuộc nhóm thứ hai.
Bệnh tật gây khổ đau cho con người, nhất là những gia đình nghèo khó. Khi có người nhà mắc bệnh, tình trạng kinh tế gia đình khủng hoảng, chạy tiền, mang công, mượn nợ có tiền chạy thuốc. Người đó đã không tiếp tục sinh hoạt bình thường, còn cần người mạnh khoẻ chăm sóc. Mọi sinh hoạt từ gia đình, đến xóm làng, đến cộng đoàn đều đình trệ. Đôi khi bệnh nguy hiểm còn tạo nên mối lo cho toàn làng.
Chữa bệnh và khai trừ ma quỷ là hai công việc Đức Kitô thực hiện trong lúc rao giảng. Khi chữa bệnh cho ai, Đức Kitô đụng chạm vào người đó. Tuy nhiên khi trừ ma quỉ, Đức Kitô không đụng chạm đến, nhưng ra lệnh cho ma quỉ xuất khỏi người và chúng vâng phục Ngài. Dù Ngài không đụng chạm đến ma quỉ mà kẻ chống đối Ngài cũng có lần khoác lác, ma quỉ vâng phục Đức Kitô vì Ngài là tướng quỉ. Điều vu khống, bịa đặt trên hoàn toàn do tưởng tượng mà ra, không hề có một chút sự thật nào. Đức Kitô đã không đụng chạm đến ma quỉ và Ngài còn ngăn cấm chúng không được mở miệng. Xua đuổi ma quỉ chỉ là bước đầu trong chương trình cứu độ. Bước cuối cùng là tiêu diệt sức mạnh đen tối của chúng. Chính ma qủi nhận biết điều này nên chúng than khóc, kêu la,‘Ông Giesu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi’ Mk 1,24.
Đức Kitô loan báo ‘Nước Trời đã đến gần’. Nước trời đến gần là tin vui, tin khải hoàn, chiến thắng cho môn đệ Đức Kitô, và những ai yêu mến Ngài. Nước trời đến gần lại là tin buồn, tin chết, cho ma quỉ, chúng sắp bị tiêu diệt. Nước trời đến gần lại gây khủng hoảng, thất vọng cho những kẻ chống đối Đức Kitô.
Là môn đệ Đức Kitô chúng ta chung lời cảm tạ ơn trường sinh Ngài ban, và cùng giúp nhau tiến về nhà Cha khi cuộc đời trần thế hoàn tất.
Ngày ra mắt tại hội đường ở Caphanaum, Chúa Giêsu đã biểu lộ uy quyền trong lời giảng dạy và TN5-B142
Ngày ra mắt tại hội đường ở Caphanaum, Chúa Giêsu đã biểu lộ uy quyền trong lời giảng dạy và chứng tỏ quyền năng trong việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Sau đó, ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu đi về nhà ông Simon. Ở đây, bà mẹ vợ ông Simon đang bị cơn sốt nên nằm liệt giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”. Cách xử sự của Chúa Giêsu hoàn toàn khác khi đuổi thần ô uế; Ngài ân cần “lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”. Hiệu quả tức khắc: “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Uy quyền của Chúa Giêsu không chỉ biểu lộ trong hội đường mà ngay trong nhà, không chỉ đuổi thần ô uế mà xua tan được cả cơn sốt.
Tiếng vang truyền đi rất nhanh. Đoạn kết Tin Mừng tuần trước: “lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.Vì thế “người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.
Chúa Giêsu như bị cả một đoàn người đau thương và bần khốn vây quanh; họ đặt niềm hy vọng nơi Ngài. Và Ngài đã ra tay giúp đỡ.Vì thế, dân chúng muốn giữ Ngài lại để luôn luôn họ có sự trợ giúp của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không để cho người ta cầm giữ lại. Ngài biết rằng nhiệm vụ của mình không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.
Một Ngày Mới “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”.
Bắt đầu một ngày mới. Ưu tiên số một của Chúa Giêsu là cầu nguyện, sau đó là công việc rao giảng và chữa lành bệnh tật cho dân chúng. Đó là khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.
a/ Cầu nguyện:
“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện”. Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Ngài cần có thời gian sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Ngài thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
b/ Rao giảng
Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy” (1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Ngài không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.
c/ Chữa lành thể xác tâm hồn.
Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục: “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như có lần Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), lần khác Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.
Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).
Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Chúa Giêsu tiếp tục lên đường Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo thánh ý Cha: “Hãy đi đến những làng, những thành lân cận”. Đây mới là trọng tâm của sứ mạng. Ngài đến không phải để tìm thành công mà để rao giảng Tin Mừng. Ngài không chỉ đến lo cho một số người, mà cho mọi người. Ngài thuộc về mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người.
“Cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” Khởi đầu ngày mới bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu tìm kiếm và nhận ra thánh ý Chúa Cha muốn gì cho đời sống hoạt động tông đồ của mình. Ngài nhận ra con đường mà Chúa Cha muốn Ngài đi và những công việc mà Chúa Cha muốn Ngài thực hiện. Chính qua việc cầu nguyện, gặp gỡ với Chúa Cha, Chúa Giêsu như tiếp thêm năng lượng cho sứ vụ. Kết thúc một ngày làm việc bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu lại đặt trọn công việc đã làm và cả ngày sống của mình cho Thiên Chúa Cha.
Một ngày sống của Chúa Giêsu đầy ắp những hoạt động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên Chúa Cha. Hoạt động và cầu nguyện là hai nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi thế trần. Một ngày làm việc của Ngài với bao vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy chúng ta dùng thời gian có ích cho tha nhân bằng đời sống yêu thương và phục vụ.
Một ngày mới của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).
Các phóng viên rất thắc mặc tại sao Mẹ thánh Têrêsa Calcutta lại có thể làm được những việc mà nhiều người khác không thể làm được ? Ngay từ sáng sớm cho đến chiều tối, có những ngày quên ăn quên ngủ, Mẹ Têrêsa cùng với các chị em trong Dòng đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thành phố Calcutta để tìm kiếm những người đau yếu, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có nhiều lần Mẹ đem về nhà những người nằm dưới cống hoặc bị bỏ bê lâu ngày hôi thối, bẩn thỉu, bị mọi người tránh xa. Mẹ ôm những người ấy vào lòng, đem về đặt trên gường của mình để săn sóc. Mẹ giải thích : Vì tôi muốn họ được chết như một con người chứ không như con vật. Khi được hỏi tại sao Mẹ và các chị em của mẹ có thể làm được như thế ? Mẹ trả lời : Một ngày của chúng tôi được bắt đầu từ Thánh lễ. Chính từ Thánh Thể, chúng tôi có nguồn sức mạnh và có nguồn năng lượng cho một ngày làm việc. Các chị em trong Dòng chúng tôi mỗi ngày có ít nhất một giờ bên Thánh Thể Chúa, đó là sức mạnh cho chúng tôi. Cuộc sống thiêng liêng của người tín hữu cần phải được thường xuyên nạp năng lượng thì mới có thể sống và hoạt động tốt được.
Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
Kiếp Thế Nhân Lắm Gian Truân Khốn Khổ Tình Thiên Chúa Hằng Bổ Dưỡng Yêu Thương Chúa Giêsu TN5-B143
Kiếp Thế Nhân Lắm Gian Truân Khốn Khổ Tình Thiên Chúa Hằng Bổ Dưỡng Yêu Thương
Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Còn người ta có câu nói “cửa miệng” thế này: “Đời là bể khổ.” Thật vậy, ai cũng cất tiếng khóc chào đời khi sinh ra. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài như phần cứng đã cài mặc định?
Thánh Vịnh gia đã than thở: “Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi. Xin lấy vò mà đựng nước mắt con.” (Tv 56:9) Nước mắt quá nhiều, khăn thấm không hết mà phải lấy vò đựng, chắc chắn như thế thì khổ lắm!
Là một hoàng tử sống sung sướng an nhàn, nhưng ông Thích Ca Mâu Ni đã “giác ngộ” sau khi quan sát bốn cửa thành và thấy người dân đau khổ quá. Ông nhận thức: “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ.” Phật giáo có bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế hoặc Tứ Thánh Đế: Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).
Hằng ngày, đau khổ y như ma quỷ, cứ “ám” chúng ta không ngừng. Nhưng hơn thua nhau ở cách xử lý: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm. Người bi quan phàn nàn về cơn gió. Người lạc quan hy vọng gió đổi chiều. Người thực tế tìm cách chỉnh cánh buồm.” (William Arthur Ward, 1921-1994, Mỹ) Dù sao cũng phải cố gắng, chắc chắn không thể tránh né!
Thật vậy, nỗi khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu “vòng kim cô” đau khổ. Đau khổ xuất hiện mọi nơi: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi, càng tránh thì càng đau khổ, càng diệt khổ càng thấy khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó,” tức là coi nó như không có, sẵn sàng chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23)
Đau khổ là mầu nhiệm. Mặc dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải chịu đau khổ. (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25) Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại. Đau khổ của chúng ta cũng có giá trị nếu kết hợp với đau khổ của Ngài.
Từ khi Nguyên Tổ nghe lời đường mật của xà tinh, mọi nơi và mọi lúc đều thấy có đau khổ. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu. (St 6 :5-6) Ngài không tạo điều ác bởi vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra sự dữ – tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết. (x. Gc 1:13-15) Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này. Tại mình chứ chẳng tại ai!
Mdc rất tốt lành, nhưng ông Gióp vẫn chịu đau khổ, và là hiện thân của đau khổ. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’ Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’ Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4) Con người cứ thao thức cả đời, hầu như không được thảnh thơi, rồi lại lo sợ, rồi hoang mang,… Cứ thế và cứ thế, kiếp người chịu đủ thứ đọa đày, lận đận suốt kiếp. Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Đúng là khổ thật!
Có vẻ như ông Gióp cảm thấy thất vọng, rồi hầu như tuyệt vọng, nhưng ông vẫn cầu xin tha thiết: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.” (G 7:6-7) Buồn quá! Não nuột quá! Thê thảm quá! Tuy nhiên, chịu đau khổ mà lại là may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, có thể còn tệ hại hơn là chịu đau khổ.
Con người nhiêu khê lắm. Cái mình bảo là hên nhưng có khi lại chỉ là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như Tái Ông mất ngựa vậy. Tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài mà thôi. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Israel tản lạc về.” (Tv 147:1-2)
Là Đấng giàu lòng thương xót, Thiên Chúa đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ. (Lc 11:35) Và Kinh Thánh xác định: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen.” (Tv 147:3-6) Thiên Chúa của chúng ta luôn động lòng trắc ẩn, nhất là đối với những người hèn mọn. Là người đời bình thường mà người ta còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra.” Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc bí lối giữa mê cung đau khổ suốt đường lữ hành hằng ngày.
Thánh Phaolô vẫn kiên trì trong mọi gian khổ và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16) Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Ông lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người.” (1 Cr 9:15-19) Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Kiểu “ngược đời” rất độc đáo!
Nói và làm thật, chứ không nói suông. Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” (1 Cr 9:22-23) Can đảm thì chắc chắn có phúc.
Có bốn “mũi dùi” luôn chĩa vào con người là Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Lận đận mà không than thân trách phận thì người đó thực sự can đảm, có “sức mạnh” hơn người khác. Trình thuật Mc 1:29-39 (Mt 8:14-17; Lc 4:38-44) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn “mũi dùi” đó.
Khi Chúa Giêsu ra khỏi hội đường Caphácnaum và đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê, cùng đi còn có ông Giacôbê và ông Gioan. Đó là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm môn đệ đầu tiên. Hôm đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Thật tuyệt vời đối với cả người chữa lành và người được chữa lành.
Tin tức được người ta đồn rất nhanh. Khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Máccô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa.” Ôi, thế thì đông lắm, đông như kiến như cỏ, chắc chắn ai cũng muốn chứng kiến “sự lạ” tận mắt. Hôm đó, Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng Ngài cấm quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì chưa đến lúc, chưa cần thiết.
Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là việc làm thực sự rất cần thiết, nhất là khi mới thức dậy vào buổi sáng. Không thấy Thầy đâu, ông Simôn và các bạn cùng đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Ôi, tìm làm gì mà sớm vậy nhỉ?
Chúa Giêsu nghe đệ tử nói vậy thì nói với họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và hành động. Ngài với các môn đệ đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ. Ngài diệt khổ cho những người đang phải chịu khổ. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều đó.
Con người chẳng là gì nhưng lại rất chảnh – vừa hợm mình vừa giả hình, thế nên cứ tự chuốc lấy những thứ sai lầm. Vì sai lầm mà phạm tội, vì tội lỗi mà đau khổ. Cứ lận đận, lụi đụi thế mà vẫn cố chấp. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em.” (Cn 6:16-19) Khi nào tránh được ảo tưởng thì không bị ảo giác, nghĩa là chúng ta thoát sai lầm, không sai lầm thì không vướng tội, tránh được tội thì khỏi khổ. Mong thay!
Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng cuộc đời các ngài rất lận đận, từng đau khổ nhiều – tinh thần hoặc thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều. Đau khổ có giá trị đặc biệt!
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp con ý thức và nhận thức để biết giá trị của đau khổ. Con không xin thoát khỏi đau khổ nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc con trong đau khổ, xin tăng lực cho con, vì sáng danh Ngài, để cứu các linh hồn, cầu cho Giáo Hội, cho thế giới, cho mọi người, và đền tội con. Xin giúp con sống đúng bổn phận và can đảm hành động theo khả năng Ngài ban cho. Con chân thành cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Truyện cổ “Cây tre trăm đốt”, là một minh chứng: sự thiện thắng sự ác. Anh nông dân hiền lành TN5-B144
Truyện cổ “Cây tre trăm đốt”, là một minh chứng: sự thiện thắng sự ác. Anh nông dân hiền lành chất phác, mẹ cha mất sớm, nhà phú hộ xí dụ anh đến làm người giúp việc cho ông. Ông phú hộ lợi dụng người đầy tớ tốt lành, ông hứa sẽ gả con gái cho, nếu mày chăm chỉ làm việc. Ngày qua ngày, anh nông dân làm việc “cật lực” từ sáng tới tối, không lương bổng, bữa no bữa đói, hết sức tội nghiệp. Cho đến một ngày kia, ông gả con gái cho nhà phú hộ ở làng bên cạnh, ông gọi anh đầy tớ và bảo: mày hãy rừng sâu tìm cho ta “cây tre trăm đốt” mang về đây, ta sẽ gả con gái ta cho. Người nông dân thật thà lên rừng tìm kiếm cây tre như ý chủ, nhưng không thể tìm thấy, tủi thân, anh ta chỉ biết khóc mà thôi. Bụt thần đã hiện ra, cho anh ta một câu thần chú, giúp anh hóa giải mọi việc. Đúng là câu truyện được xây dựng trên nền tảng đạo đức: thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cũng có ý mời gọi mọi người hãy sống hết mình.
Đồng ý rằng, người xưa đã hết sức cẩn thận khi khuyên dạy con cháu: trèo cao ngã đau, hoặc liệu cơm gắp mắm. Thực tế ở xã hội, người chăm chỉ, nhẫn nại, ít nhiều vẫn có quyền mơ tới một kết quả đẹp nhất như câu thành ngữ: trời nào có phụ ai đâu, hay học thì sang, hay làm thì có. Câu truyện cổ “Cây tre trăm đốt”, ở hiền gặp lành, người ta sống hết tình hết mình, dù không có danh cũng có phận. Với sự đơn sơ chân thành, thánh sử Marcô diễn tả một ngày làm việc của Đức Giêsu thật bận rộn. “Đức Giêsu ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon và Anrê chữa cảm sốt cho bà nhạc gia của họ. Đến chiều muộn, họ vẫn mang nhiều người, nhiều thứ bệnh khác nhau, Đức Giêsu chữa cho họ, xua trừ tà thần, sáng sớm Ngài đến nơi thanh vắng cầu nguyện…”. Vâng, tất cả vì yêu, vì tất cả đều là đối tượng lòng thương xót Chúa.
Một trong những nét đẹp của tình yêu là không tính toán hơn thiệt, không mưu cầu lợi ích cá nhân, dù người ta có chú trọng đến hạnh phúc hiện tại, tương lai, họ vẫn kính nể những ai dám dấn thân phục vụ không màng danh lợi thú. Xét về mặt tự nhiên, đại đa số người ta tìm gặp Đức Giêsu vì được ăn, được nghe, được chữa lành bệnh tật, muốn được xem thấy phép lạ, về mặt tâm linh, vì tình yêu, vì tác động của Thánh Thần, người ta thật hạnh phúc khi gặp được Đức Giêsu. Sống hết mình, tận dụng hết công sức khả năng, chưa chắc đã mang lại sự giầu sang địa vị, nhưng ít là người ta không phải hối tiếc vì thời gian trôi đi một cách phí phạm. Niềm vui, bình an, thành đạt, chắc chắn sẽ để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho hậu thế, do đó: đừng ai thở dài, hãy vươn vai mà sống, bùn ở dưới chân, nhưng nắng ở trên đầu.
Đức Giêsu trở nên vĩ đại dưới cái nhìn của các học trò, các ông vui vì Thầy của họ thật hùng biện với những bài giáo huấn, các ông hạnh phúc bởi Thầy của họ vừa tài vừa đức, chữa trị được các loại bệnh tật. Tình yêu và hoạt động của Đức Giêsu vẫn mãi là lực hút trước mọi đối tượng xã hội, dù là dân đen, là thành phần tri thức, là giáo sĩ tu sĩ, ai cũng có cơ hội để trở nên môn đệ của Đức Kitô, theo khả năng, hoàn cảnh riêng của mình. Sống đẹp trước bổn phận nơi gia đình, sống tốt trước trọng trách là người tín hữu kitô, hay sống nhiệt tâm nhiệt tình với sứ mạng được trao phó, nhất định thiên hạ sẽ nhận biết ta là môn đệ của Thầy Giêsu. Nếu Vị Thầy Giêsu đã thu hút đám đông, đã biến đổi được tâm tính các học trò, đã có ảnh hưởng đến bậc sinh thành của ta, ắt hẳn, là thế hệ con cháu chúng ta hạnh phúc biết bao, khi mỗi người đang sống, đang đặt mình vào vị trí của nhau.
Nét đẹp của đạo làm người: sống tết, chết giỗ, lời nhắc nhớ vừa mang tính biết ơn, trọng tình, trọng nghĩa, vừa nối kết tình hiệp thông với cội nguồn, dù các ngài còn sống hay đã khuất, công đức các ngài sẽ không rơi vào lãng quên. Sự trưởng thành nơi các môn đệ theo Đức Kitô, không phải là các ông biết “vận kế dụng mưu”, đúng hơn là các ông biết mình là ai, các ông nhận biết Thầy Giêsu luôn hiện diện nơi những ai đang vì yêu mà sống hết bổn phận, trọng trách của mình. Nếu ở đời cho rằng: người bi quan để cơ hội chìm vào nỗi khó khăn, người lạc quan biến khổ đau thành cơ hội, người theo Đức Kitô sẽ đủ khôn ngoan để tình yêu và hoạt động, việc làm của ta, luôn theo thánh ý Chúa. 33 năm tại trần thế, Đức Giêsu đã đụng chạm, đã giải thoát, khử trừ sự xấu của tà thần, nhưng vẫn không xuể, Ngài mời gọi các môn đệ và mỗi chúng ta hãy sống hết mình, hãy cùng Ngài tiếp tục làm cho tình yêu của Thiên Chúa là Cha hoàn thiện con người giới hạn của nhân loại tội lỗi chúng ta. Amen.
Trong Chúa Nhật trước chúng ta đã được thánh Marco cho thấy uy quyền trong lời giảng dạy của TN5-B145
Trong Chúa Nhật trước chúng ta đã được thánh Marco cho thấy uy quyền trong lời giảng dạy của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đến để rao giảng cho người ta về mầu nhiệm Nước Trời. Ngài đã đến với sứ mạng để kéo con người lên, đưa con người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng đã hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Họ đã mong chờ một vị cứu tinh với nhãn quan trần tục và quẩn quanh trong thân xác ở đời này.
Sứ mệnh của Đức Giêsu
Bài Tin mừng Chúa nhật này nổi lên hình ảnh Đức Giêsu tận tụy xoa dịu những đau khổ của con người. Ngay sau khi chữa người bị thần ô uế ám nơi hội đường Capharnaum, Đức Giêsu đến nhà mẹ vợ của ông Phêrô để chữa bệnh cho bà. “Chiều đến, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Đức Giêsu đã cúi xuống để xoa dịu tất cả các bệnh nhân. Cả một ngày, Đức Giêsu đã làm việc không biết mệt mỏi vì lòng yêu thương dân chúng.
Hôm sau dân chúng lại tiếp tục kéo đến. Thế nhưng người ta đã bắt gặp cách hành xử lạ lùng nơi Đức Giêsu. Đêm đó Ngài đã đi ra một nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Sáng ra, khi ông Phêrô mời Ngài về để tiếp tục chữa bệnh thì Ngài đã từ chối và lên đường đi nơi khác. Ngài đã không tiếp tục chữa bệnh cho họ ở đó. Phải chăng Ngài không còn thương họ nữa?
Sự thường người ta dễ dàng dừng lại trong vinh quang hiện tại để tận hưởng. Đức Giêsu đang nổi danh và được nhiều người kéo tới với Ngài. Nhưng Ngài không dừng lại với những vinh quang chóng qua ấy. Sứ mạng mà Ngài đến trong thế gian là để nâng con người lên, kéo họ ra khỏi cảnh trầm luân, đưa họ vào trong đời sống mới trong vinh quang vĩnh cửu.
Ông Gióp trong bài đọc thứ nhất đã thốt lên với tất cả trải nghiệm của ông về cuộc đời này: “Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở!” (G 7,6-7). Nếu chỉ quẩn quanh ở đời này thì quả thực cuộc sống nó chẳng là gì. Nó vô nghĩa và trống trơn.
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng đã khẳng định với dân thành Corintô rằng “Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng” (Cr 1, 22-23). Ngài không tìm vinh quang ở đời này, nhưng là hướng về vinh quang bất diệt, hướng về những giá trị trường cửu.
Bệnh tật yếu đau của con người cần được chữa lành và xoa dịu. Nhưng Đức Giêsu muốn cứu giúp người ta thoát khỏi khổ đau ấy cách tận căn. Ngài muốn kéo người ta ra khỏi sự nô lệ của tử thần, ra khỏi u mê của tội lỗi, ra khỏi bàn tay thống trị của ma quỷ để được trở nên thanh sạch vui sống trong bình an hạnh phúc Nước Trời với Thiên Chúa, cả ở đời này và đời sau.
Sứ mệnh của Đức Giêsu là đưa mọi người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng lại mong chờ những thứ tạm bợ ở thế gian mà thôi.
Dân chúng hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu
Sống trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, dân Do thái chỉ mong chờ vị cứu tinh đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc. Họ mong chờ có ngày được độc lập, mong chờ một vị vua tài ba lỗi lạc để lãnh đạo dân. Tất cả những gì họ mong chờ chỉ đáp ứng cho đời sống hiện tại ở trần gian.
Họ đã lầm tưởng Đức Giêsu đến để đáp ứng cho họ những chuyện đó mà thôi. Khi thấy Đức Giêsu chữa lành mọi thứ bệnh tật, có uy quyền khiến ma quỷ cũng phải tùng phục, thì dân chúng đã mường tượng ra một vị vua mà họ đang mong chờ. Ngài sẽ cứu họ khỏi đế quốc Rôma, sẽ chữa trị mọi bệnh tật cho họ, sẽ làm vua của họ.
Nếu Đức Giêsu thuận theo dân chúng để rồi họ sẽ tung hô Ngài làm vua; Nếu Đức Giêsu không ở lại với Chúa Cha nơi thanh vắng để bám chặt vào sứ mệnh chính yếu của mình, thì cả thầy lẫn trò đã chìm đắm trong vinh quang trần thế.
Việc Đức Giêsu từ chối trở lại với dân chúng và yêu cầu các môn đệ lên đường đi đến nơi khác đã khiến dân chúng phải tự hỏi Đức Giêsu là ai? Thánh Marco muốn người ta khám phá Đức Giêsu từ từ từng bước, xuyên qua những thực tại trần thế, những việc làm cụ thể của Đức Giêsu để nhận ra khuôn mặt thực của Ngài, sứ mệnh thực của Ngài. Một Đức Giêsu Cứu Thế.
Đến với Đức Giêsu – vị Cứu Chúa
Không phải chỉ những người Do thái năm xưa mới hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Ngày hôm nay không ít người vẫn còn đang hiểu lầm về Ngài.
Người ta tìm đến với Đức Giêsu nhưng để học hỏi những điều hay lẽ phải nơi Ngài trong thân phận là con người mà thôi. Với họ, Ngài cũng chỉ giống những hiền giả vĩ đại trong lịch sử như đức Khổng Tử, đức Lão Tử, đức Phật Thích Ca hay như một triết gia vĩ đại nào đó bên trời Tây.
Có những người đến với Đức Giêsu chỉ vì Ngài đã từng làm phép lạ chữa lành bệnh tật ai đó hay giúp họ ăn nên làm ra. Họ đến với Giêsu để cầu mong sự an nhàn thịnh vượng nơi cuộc sống hiện tại mà thôi.
Thậm chí có những người còn nhìn Giêsu như là kẻ ru ngủ nhân loại. Họ tìm cách gạt bỏ Giêsu, gạt bỏ tất cả những ai theo Giêsu. Đối với họ, Ngài là hiểm hoạ cho nhân loại nên phải đóng đinh Ngài vào cây thập giá mà treo lên khỏi mặt đất, tách Ngài rời khỏi nhân loại.
Không! Đức Giêsu là vị Cứu Chúa của chúng ta. Ngài đã đến trong thế gian với tất cả lòng yêu mến con người. Tâm hồn Ngài luôn khát khao mòn mỏi mong cứu lấy chúng ta. Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài đã sống thân phận con người để cảm thông nâng đỡ mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu không chỉ cứu giúp, không chỉ chữa lành thân xác chúng ta; không chỉ chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta ở đời này. Ngài muốn kéo chúng ta lên. Ngài muốn chúng ta mở to mắt và nhìn thấy thân phận cao quý của mình mà tiến lên; Ngài muốn con người thực sự trở lại là tác phẩm kỳ diệu của Tạo Hóa. Trên hết, Ngài đưa chúng ta ra khỏi bàn tay của tử thần và đưa tất cả chúng ta vào đời sống sung mãn, vượt lên trên những bình diện hạn hẹp của cuộc sống này.
Bạn hãy đến với Chúa Giêsu, hãy chiêm ngắm Ngài trong dung nhan là một con người và là Thiên Chúa nữa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ bạn. Chính Ngài sẽ cứu vớt bạn khỏi mọi nỗi ô nhục. Chính Ngài sẽ là nguồn bình an và là niềm hy vọng vĩnh cửu cho cuộc đời bạn.
Lạy Chúa Giêsu, vị Cứu Chúa của đời con, xin Ngài cứu lấy con cho khỏi mọi sự dữ và dẫn dắt con tiến về Trời cao.
Trong bốn cuốn sách Phúc Âm, chi tiết về gia đình của các Tông đồ ít khi nào được tường thuật, đề TN5-B146
Trong bốn cuốn sách Phúc Âm, chi tiết về gia đình của các Tông đồ ít khi nào được tường thuật, đề cập đến; nhưng đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 1, 29-39) đã thuật lại một trong những sự kiện hiếm hoi, và điều này không khỏi làm chúng ta thắc mắc, tự hỏi: liệu Thánh sử Mác-cô muốn nhắn gửi chúng ta điều gì khi thuật lại sự kiện Chúa Giê-su đến thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô)? Phải chăng, Ngài muốn chúng ta quan sát thật kỹ, hướng nhìn về những hành động của Chúa Giê-su khi Người đến thăm bệnh nhân, đặc biệt là mẹ vợ của Si-mon (Phê-rô)? Để rồi, chúng ta học hỏi nơi Người điều gì đó chăng?
Trong anh chị em, nhiều vị đã có kinh nghiệm trong việc thăm viếng bệnh nhân, thăm những người già nua, neo đơn, không người chăm sóc, v.v…Đó là điều tốt, phải đạo nên làm. Tuy nhiên, các bài đọc Phụng vụ hôm nay giúp chúng ta đào sâu công việc Tông đồ thăm viếng bệnh nhân hơn, qua gương sống của Chúa Giê-su khi Người viếng thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô) “…tiến lại gần, Người cầm tay, nâng đỡ dậy” (x. Mc 1,31).
Thứ nhất, “tiến lại gần”. Hành động này tuy đơn giản, nhưng khi áp dụng trên thực tế thì khó biết bao. Chợt nghĩ chỉ là đưa chân bước, tiến lại gần người anh chị em của mình thôi mà, đâu có khó gì!!! Đối với người khác, tiến tới gần người anh chị em mình thì chẳng gì phải lo!!! Thôi thì ‘nhắm mắt, đưa chân’ ắt sẽ tiến lại gần người anh chị em mình, có gì phải sợ nhỉ!!! Hành động ‘tiến lại gần’ của Chúa Giê-su không đơn thuần vì trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải đến viếng thăm; nhưng thiết nghĩ: Ngài tiến gần bà nhạc phụ của Si-mon với cả con tim và con người của Ngài. Để làm được như vậy, chúng ta phải chiến thắng chính bản thân, phải bỏ mình, ra khỏi những toan tính, suy tưởng, lo lắng riêng tư, phải ra khỏi nơi ‘chăn ấm, nệm êm’ của lòng mình, dám mạo hiểm, chấp nhận những thách đố có thể xảy ra ngoài ý muốn. Vừa qua trong một cuộc tiếp kiến chung, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã đến chào một người đàn ông với khuôn mặt bị biến dạng. Khi trực diện với những gì ghê sợ, rùng rợn, con người chúng ta thường có khuynh hướng tháo lui, tránh né, chốn chạy…, nhưng Đức Thánh Cha đã tiến đến, ôm choàng lấy ông với tất cả tâm hồn của người Mục Tử, vị đại diện Chúa Ki-tô ở trần gian này. Đứng trước những người dị hình dị dạng, bệnh truyền nhiễm, những người mắc bệnh nguy cơ lây nhiễm cao, chúng ta có thể tiến lại gần họ với cả con tim mình chăng? Chúng ta có thể ra khỏi con người đầy suy tính của mình để đến với anh chị em mình, và biết chấp nhận họ không?
Thứ hai, “Người cầm tay”. Thật vậy, hành động này chỉ xảy ra khi cử chỉ “tiến lại gần” được thực hiện. Chúng ta không thể cầm tay ai đó ở tư thế đằng xa, hoặc cầm tay họ như một ‘nụ hôn gió’ hay ‘mi gió’ mà thường được ví von!!! Hơn nữa, cũng không thể nào nhờ ai đó ‘cầm tay’ người anh chị em giùm mình được! Hành động này đòi hỏi chúng ta phải trực diện với anh chị em. Thứ đến, tình trạng của bệnh nhân, những người được viếng thăm không hoàn toàn khoẻ mạnh, tráng kiện như ta, cho nên để ‘cầm lấy tay’ người anh chị em mình, chúng ta phải đặt mình vào trạng huống, hiện tình, tâm tư, lối suy nghĩ…của họ, và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể ‘chạm đến’ con tim, mới có thể cảm thông, lắng nghe những tâm sự, với cả ưu tư, lo lắng của họ. Về điểm này, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô khuyên nhủ mỗi chúng ta như sau: “mặc dầu tôi tự do đối với tất cả mọi người, nhưng tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người…tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau,…tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi” (x. 1Cr 9,19.22). Theo Ngài, vì lợi ích của anh chị em, để mọi người được thông phần vào ơn cứu rỗi, Ngài đã ‘trở nên mọi sự đối với tất cả mọi người’ để Tin mừng được họ lắng nghe, đón nhận. Vì thế, đối với Ngài “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (x. 1Cr 9,16)
Thứ ba, “nâng đỡ dậy”. Cử chỉ sau cùng này liên quan mật thiết với hai hành động trên. Tương tự, nếu chưa ‘tiến lại gần’ và ‘cầm tay’ anh chị em mình, thì ắt hẳn chúng ta không thể ‘nâng đỡ’ họ được. Chúa Giê-su đã ân cần tiến đến, cầm lấy tay và nâng đỡ bà nhạc phụ của Si-mon dậy với cả lòng mến của một vị Thiên Chúa xuống thế làm người. Người chữa lành bà với tất cả niềm cảm thông sâu xa của Con Người, và qua Người, mọi người được nhìn thấy, cảm nhận, tiếp xúc với chính vị Thiên Chúa gần gũi, trìu mến, lân tuất vô bờ. Một khi, chúng ta bỏ mình, đặt mình vào hoàn cảnh, đời sống của anh chị em, thì chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể khuyến khích, nâng đỡ, cộng tác, động viên họ một cách hữu hiệu; và trong khoảnh khắc đó, chúng ta mới thực sự sống và rao giảng Tin Mừng mà thôi. Nào còn chần chờ gì nữa, nếu không thực hiện bây giờ thì đến khi nào chúng ta mới ra đi, sống chứng tá cho Thiên Chúa – một Thiên Chúa cao cả, nhưng lại thật gần gũi, yêu thương chúng ta liên lỉ, không chút than phiền. Hãy cùng tôi lên đường, sống Tin mừng, sống tươi vui, chia san từ ngay bây giờ vì “đời người chỉ là hơi thở” (x. G 7, 7), “vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (x. Tv 144, 4).
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết mở lòng, bỏ mình, đến với anh chị em; biết quên đi lợi ích cá nhân, biết cảm thông, thấu hiếu anh chị em; biết dâng cho Chúa ưu tư, nguyện vọng cũng như lo lắng của bản thân, để chấp nhận, khuyến khích, cộng tác, nâng đỡ anh chị em qua mọi phương diện. Sau cùng, xin cho chúng con luôn hướng nhìn lên Chúa, để rồi luôn biết cậy trông vào Ngài.
Như Người “tiến lại gần” Xin cho con ân cần. “Người cầm tay” con người Ban cho con nụ cười. “Nâng đỡ dậy” anh (chị) em Sống một đời trôi êm. Amen
Cuộc đời của ông Gióp là một bài học quý giá cho những ai đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Một TN5-B147
Cuộc đời của ông Gióp là một bài học quý giá cho những ai đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Một cuộc đời có những thăng trầm năm chìm bảy nổi. Có khi giàu sang phú quý, có lúc bị tước đoạt tất cả. Sông có khúc, người có lúc. Ông được hưởng những tháng ngày vui xướng ngập tràn, nhưng rồi bỗng một ngày ông trở thành trắng tay và rơi vào cơn cùng khốn. Khi khỏe mạnh cường tráng cũng như bệnh tật yếu đau, ông Gióp luôn một niềm cậy trông vào Chúa. Ông diễn tả cuộc đời rất thật, chân chạm đất với những nỗi lo âu sầu khổ. Ông Gióp không chạy trốn thực tại nhưng đối diện với cuộc sống trong thời gian thử thách. Sự mong ước thúc đẩy niềm hy vọng vào một ngày mới tươi đẹp. Ông luôn ý thức đời sống chỉ là một hơi thở qua mau.
Phúc âm thánh Mátcô thuật lại việc Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng khắp xứ Galilê. Chúa chữa cảm sốt cho bà nhạc phụ của ông Simon và tất cả các bệnh nhân người ta mang đến cho Ngài. Chúa chữa trị những người bị quỷ ám và xua trừ ma qủy. Tin Mừng cứu độ được khai mở, đó là Nước Chúa. Cả bốn thánh sử Matthêu, Mátcô, Luca và Gioan dùng từ Nước Chúa (Kingdom of God). Riêng thánh sử Matthêu dùng cả hai từ Nước Chúa và Nước Trời (Kingdon of Heaven). Chúng ta không phải chờ đợi Nước Trời đến gần mà là Nước Trời ngay trong cuộc sống hôm nay. Ngày xưa Chúa mời gọi dân chúng ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Năm Hồng Ân đã đến rồi. Chúa Giêsu đã đón nhận nhiều tâm hồn vào Nước của Chúa. Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả về Nước Trời như dụ ngôn người gieo giống, hạt cải, cỏ lùng, men trong bột, kho báu và viên ngọc quý và chiếc lưới thả xuống biển…
Nước Chúa đang lan rộng khắp nơi. Mọi thời đều cần nhiều chứng nhân và thợ lành nghề làm việc trong vườn nho của Chúa. Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã bộc bạch : Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc âm. Thánh Phaolô đã đi cùng khắp để mang tin vui đến cho mọi người. Ngài được mang danh hiệu là Tông đồ Dân Ngoại. Ngài chịu khổ cực trăm bề để nên nhân chứng cho Đấng đã hiến mình vì nhân loại. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả chỉ vì phần rỗi của chúng nhân. Phaolô nhiệt thành rao giảng Lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Ngài chịu bắt bớ, đánh đập, tù đầy, giam giữ cùng mọi sự khốn khó trên đường truyền đạo. Niềm cậy trông vào ơn cứu độ thật mãnh liệt. Phaolô viết thơ giảng dạy, an ủi và khuyến khích các giáo đoàn giữ vững niềm tin.
Điều quan trọng là mỗi người chúng ta hãy sống tinh thần Nước Trời ngay trong hoàn cảnh hiện tại. Hãy an hưởng tất cả những phúc lộc của cuộc sống. Chúng ta không biết ngày giờ Chúa lại đến nhưng chúng ta chắc rằng Chúa sẽ đến đón chúng ta vào ngày sau hết. Chúa mời gọi chúng ta luôn trong tư thế sẵn sàng và tỉnh thức. Trong cuộc lữ hành, sự chuẩn bị sám hối lúc nào lúc cần thiết. Chúng ta không phải đợi nước đến chân rồi mới nhảy. Mỗi ngày sống chúng ta đều có cơ hội lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúng ta không cần phải lo lắng, chao đảo hay run sợ trước những tin đồn thất thiệt về ngày Chúa đến.
Một số người chủ trương: cuộc sống vắn vỏi, phải hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu trước. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra cho ngày mai. Không cần phải bận tâm suy nghĩ và lo lắng chi về tương lai. Thế là cuộc sống bị buông thả theo dòng chảy của thời gian. Lý tưởng bị hỏa mù và cùng đích cuộc đời cũng bị rơi vào sự nghi ngờ vô định. Nhiều khi chúng ta bị lạc lõng trong cuộc lữ hành trần thế. Vì thế, muốn tiến được tới đích cùng, chúng ta cần phải có hướng đi và có mục đích để đạt tới. Điều này chúng ta đang thực hành mỗi ngày. Trong đời sống, mỗi ngày khi thức dậy, chúng ta biết việc gì phải làm, nơi nào phải đi và ý nào phải thực hiện.
Đời sống của người Kitô hữu không như thế, chúng ta biết đường đi và cùng đích là vui hưởng trong Nước Chúa. Sống tinh thần của Nước Trời từng giây phút trong đời sống, chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an và thánh thiện. Có Chúa Kitô là Thầy, là đường, là sự thật và là sự sống dẫn đường. Phó thác, cậy trông và bám chặt lấy giáo lý của Chúa Kitô, chúng ta không sợ bị lầm lạc. Ngài chính là ngôi sao dẫn đường tới quê thật. Hãy ngước nhìn lên chiêm ngắm thập giá nơi Chúa Kitô đã hy sinh chết vì yêu, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho tất cả mọi vấn nạn trong đời. Dù đường đời nổi trôi, năm chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh, chúng ta vẫn có nơi tựa nương và phó thác cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ. Chúa đã hạ thân đem tin vui Cứu Độ cho nhân loại. Xin cho chúng con học theo thánh Phaolô biết xả thân đem Tin Mừng ơn cứu độ đến cho mọi người. Niềm vui hạnh phúc là mọi người nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa cùng yêu thương nhau như anh chị em để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời.
Con người sống trên đời chỉ có một lần, vì thế, dù ở bậc nào, ai cũng phải cố gắng sống sao cho TN5-B148
Con người sống trên đời chỉ có một lần, vì thế, dù ở bậc nào, ai cũng phải cố gắng sống sao cho có ý nghĩa. Thế nào là sống có ý nghĩa? Đó là sống an vui, thanh thản, chấp nhận hiện tại và nhận ra những niềm hạnh phúc, dù nho nhỏ, đang có sẵn xung quanh mình. Người sống có ý nghĩa cũng là người biết sống vì tha nhân, mong cầu hạnh phúc đến với họ. Không chỉ là mong cầu, mà còn thực hiện những hành vi nhằm giúp người khác đạt được hạnh phúc và niềm vui trong cuộc sống. Trong xã hội của chúng ta, có nhiều người sống vô nghĩa, tức là đời sống của họ không có mục đích, tới đâu hay tới đó. Hạng người này không bao giờ bằng lòng, luôn hằn học ghen tương với người khác chỉ vì người ta hơn mình. Cách đây vài tuần, có một thanh niên ngồi trên xe máy, tay cầm chiếc kiếm, hễ gặp chiếc xe hơi nào là anh ta chặt phăng chiếc gương chiếu hậu của chiếc xe đó. Khi bị bắt, anh ta khai: vì buồn khi thấy những người khác hơn mình, còn mình thì suốt đời nghèo khổ và chỉ có chiếc xe máy (!). Người biết sống có ý nghĩa, là người khám phá những điều tốt lành ngay trong những thời điểm khó khăn của cuộc sống. Ông Gióp trong Cựu ước là một người thánh thiện và sống đẹp lòng Chúa. Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp. Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi. Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông”. Ông Gióp là hình ảnh của biết bao người bi quan khi gặp thử thách trong cuộc sống. Đối với họ, cuộc sống mang màu sắc ảm đạm. Họ sống mà không có niềm hy vọng vào tương lai. Tuy vậy, cần lưu ý đây chỉ là một giai đoạn nhất thời của cuộc đời ông Gióp. Sau đó, Chúa mạc khải cho ông thấy ý nghĩa của sự đau khổ và nhờ xác tín cậy trông vào Chúa, ông tìm lại được niềm vui và hạnh phúc. Nếu chúng ta biết nhìn nhận với con mắt đức tin và với tình yêu mến chân thành, thì mỗi ngày sống đều đong đầy ý nghĩa. Thánh Máccô kể lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất bận rộn. Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu luôn là một cuộc lên đường. Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng. Lộ trình của Chúa không có điểm kết thúc. Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho hết mọi người. Hình ảnh Chúa Giêsu làm việc không mệt mỏi là gương mẫu cho chúng ta tìm thấy niềm vui khi dấn thân phục vụ tha nhân. Cuộc sống sẽ như một ao tù, nếu ta sống khép kín và lạnh lùng với người khác. Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì người khác và đem cho họ niềm vui. Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm vui. “Nhàn cư vi bất thiện”, một cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục. Thánh Phaolô đã noi gương Chúa Giêsu và ông tìm thấy ý nghĩa khi dấn thân phục vụ anh chị em: “Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng” (Bài đọc II). Dấn thân đến mức trở nên giống người đau khổ và bệnh tật, đó là sự hy sinh tới mức anh hùng. Đối với thánh nhân, cuộc sống còn có ý nghĩa đặc biệt khi nhiệt thành giới thiệu Chúa cho mọi người. Đây là một bổn phận quan trọng, đến nỗi ông cảm thấy mình bị chúc dữ nếu không loan báo Tin Mừng. Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm. Bạn hãy tự xét mình xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không. Đừng quá chú trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành công nho nhỏ bạn đã đạt được. Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì xung quanh ta có biết bao bạn thân. Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời. Chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Mậu Tuất. Năm hết tết đến là dịp chúng ta suy nghĩ về cuộc đời. Cũng giống như người quản lý tính sổ sách cuối năm, chúng ta cần suy tư xét mình trước mặt Chúa về thời gian Chúa ban cho chúng ta. Có những người sử dụng thời gian ấy một cách tốt đẹp và sinh ích lợi; cũng có những người vô tình để thời gian trôi đi một cách vô nghĩa, chẳng ích lợi cho bản thân, cũng không ích lợi cho gia đình và cộng đồng xã hội. Ước mong mỗi chúng ta, dù bất cứ hoàn cảnh nào, cũng khám phá được những điều kỳ diệu của cuộc sống, nhờ đó, sẽ yêu cuộc sống này hơn và yêu mến tha nhân nhiều hơn.
Nhìn vào thực tế của nhiều đôi vợ chồng, người ta phải công nhận rằng cuộc sống lứa đôi không TN5-B149
Nhìn vào thực tế của nhiều đôi vợ chồng, người ta phải công nhận rằng cuộc sống lứa đôi không luôn luôn dễ dàng. Hạnh phúc gia đình luôn bị đe doạ bởi những áng mấy đen bất ngờ xông tới. Khiến cuộc sống chung luôn cảm thấy buồn nhiều hơn vui. Khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Đến nỗi ca dao đã từng nói:
Chồng gì anh, vợ gì tôi? Chẳng qua là cái nợ đời chi đây! Mỗi người một nợ cầm tay, Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.
Con đường tình yêu không êm xuôi nhưng luôn lên xuống gập ghềnh, suối thác. Vì, cuộc “trăm năm” nào cũng đầy những thử thách. Biềt bao cặp vợ chồng đang hạnh phúc rồi bỗng dưng cả hai cùng phàn nàn về nhau: không ngờ người ta đổi thay đến thế. Lúc đầu thì thế nào cũng được, miễn là yêu nhau. Nhưng rồi người ta thấy thế này là bất công, thế kia là khó chấp nhận: lẽ nào mình cứ phải quét nhà rửa bát mãi! Tại sao mình cứ phải nấu cơm đi chợ?
Rồi luôn nghĩ thiệt hơn và luôn tìm lợi cho mình mà chẳng ai chịu ai.
Khi mà không còn yêu nhau, người ta thường dễ tố cáo nhau là ích kỷ, là hẹp hòi , chẳng bao giờ làm cho mình được như ý. Quả đúng như lời nhà tâm lý Jacques Dyssord: “Tình yêu thường mở đầu bằng khoa hùng biện và rồi đổi dần ra khoa triết lý”. Từ chỗ nói cho hay trở thành cãi cho hăng. Từ chỗ chín bỏ làm mười đến chỗ kết án hờn ghen.
Thế là đời sống gia đình trở nên như một nhà tù. Có khi vì danh dự gia đình, hay để tránh không cho con cái biết, hai vợ chồng cố gắng đóng kịch, một bi kịch rất não nề thê thảm, thường tệ hại hơn cả những cuộc cãi vã lớn tiếng. Vì cãi vã xong còn nói chuyện được với nhau nhưng khi không còn gì để nói với nhau thì cuộc sống dài lê thể trong đau khổ.
Sở dĩ hôn nhân thất bại là vì họ hết còn hy sinh cho nhau, hết quan tâm chăm sóc nhau. Nhiều người khi chiếm được nhau thì họ không còn quan tâm người bạn đời, có khi còn hắt hủi, bỏ rơi nhau, khiến người bạn đời cô đơn trong chính mái ấm gia đình mình.
Đây là lúc người ky-tô hữu cần sống tinh thần phục vụ quên mình của Đức Giê-su. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Tình yêu Ngài không so đo tính toán. Ngài chỉ dồn hết tâm sức để mang lại niềm vui, bình an cho người mình yêu.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giê-su. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn trong mái gia đình.
Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen
Cháu về nhà ngày đi kẻo không kịp. – Có chuyện gì vậy cô Hai? – Mẹ cháu đang bệnh nặng lắm TN5-B150
– Cháu về nhà ngày đi kẻo không kịp.
– Có chuyện gì vậy cô Hai?
– Mẹ cháu đang bệnh nặng lắm. Xem chừng không qua khỏi.
Nghe tin mẹ bệnh, Nam vội vàng bắt xe từ Sài Gòn về Bình Thuận. Quãng đường xa càng khiến cho cậu con trai thêm nóng ruột.
Trong cuộc sống, ta cần được thông tin điều này điểu kia. Nếu như cô Hai không gọi điện cho Nam, cậu ấy đâu biết mẹ bệnh nặng mà về thăm. Ta cũng đã từng phải thốt lên hai từ “giá mà”, “nếu như” chỉ vì ta đã không thể làm được điều gì đó cho một người thân.
Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu từ Hội đường Caphácnaum đến nhà mẹ vợ ông Simon, ta được chứng kiến cung cách hành xử rất đẹp của Thầy. Được tin mẹ vợ của Simon đang ốm, các ông lập tức báo cho Thầy biết. Ta tự hỏi nếu các ông không nhanh chóng báo tin cho Thầy liệu Thầy có biết trong nhà đang có người bệnh nặng không? Có lẽ, đây không phải là lần đầu tiên Thầy ghé thăm nhà mẹ vợ ông Simon. Ta hình dung những lần trước, khi Thầy ghé thăm, bà nhạc đã đon đả ra tiếp Thầy và các môn đệ rồi. Hôm nay, Thầy ghé thăm đây mà chưa thấy bà ra đón như mọi lần thì sẽ thấy sự bất thường. Các môn đệ cùng đi theo Thầy lúc ấy đã báo ngay cho Thầy biết tình trạng của bà. Thầy đã nhanh chân đến gần bà, cầm lấy tay bà và đỡ dậy. Lập tức, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (x. Mc 1,37- 38). Thầy đã tỏ ra rất ưu ái bà nhạc của môn đệ Simon khi đến gần bà, cầm lấy tay và đỡ bà dậy. Có những khi ta vật vã trên những căn bệnh của chính mình và cần một ai đó đến bên cạnh và đỡ dậy. Ta hãy xin Thầy Giêsu cầm lấy tay ta và kéo ta ra khỏi cơn bệnh đang ghì chặt lấy thân xác yếu hèn này. Khi được Thầy chữa lành cho rồi, ta hãy mau mắn và vui mừng phục vụ anh chị em mình.
Chiều đến, người ta đưa mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám đến cho Thầy và Thầy đã chữa lành tất cả. Thầy đã dành hết thời gian trong ngày để dạy dỗ và chữa lành những tâm hồn thương tổn. Danh tiếng Thầy bây giờ đã được truyền đi xa. Đúng như câu tục ngữ của người Việt “tiếng lành đồn xa”. Nhiều kẻ chịu ơn Thầy và muốn Thầy lưu lại với họ lâu hơn nữa. Nhưng Thầy muốn đến với những người khác nữa, bước chân người truyền giáo không phải là lưa lại lâu hơn nhưng là thắp lủa cho nhiều tâm hồn hơn, mang ánh sáng Tin Mừng đến những vùng còn lạnh lẽo và tối tăm. Khi không thấy Thầy đâu, các môn đệ liền đi tìm Thầy. Sáng sớm khi trời còn tối đất mà Thầy có thể đi đâu được? Thầy đã đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện ở đó. Thầy muốn dành giây phút đầu ngày cho Chúa Cha và để tâm sự cùng Cha những thao thức, những nỗi niềm của mình, để có sức mạnh vượt thắng mọi cám dỗ. Có một lần, ta đi tìm người chị em và được người khác chỉ cho: “Muốn tìm chị ấy thì chỉ có tìm trong nhà nguyện thôi.”. Gắn bó với Chúa là thế đó, chỉ muốn ở một mình với Chúa thôi. Thế nên, người ta mới bảo cầu nguyện là hơi thở của cuôc sống. Thầy Giêsu là Thiên Chúa làm người vẫn luôn giữ mối dây mật thiết cùng Chúa Cha. Hãy noi gương Thầy.
Lạy Chúa! Này con đây luôn mang trong mình những căn bệnh. Con đã từng nằm hôn mê trong căn bệnh của mình. Con cần Chúa đến bên cầm tay nâng dậy và kéo con ra khỏi tình trạng ấy. Giữa những khó khăn và cám dỗ của cuộc sống, xin cho con tin tưởng rằng, cầu nguyện là cách con bước ra khỏi những khó khăn ấy. Amen.