Trong cuộc thế giới đại chiến lần thứ hai vừa qua, nhiều thành phố đã bị đổ nát dưới những trận mưa bom. Chỉ trong một vài tiếng đồng hồ, tất cả đều bị phá hủy, chỉ còn lại những đống gạch vụn. Còn những người thân yêu, kẻ thì bị ngã gục ngoài chiến trường, kẻ thì bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Quả thực đó là một kinh nghiệm đắt giá, một bài học chua cay về chiến tranh.
Thế nhưng, chỉ mấy năm sau, những đống gạch vụn ấy không còn nữa. Người ta đã xây dựng lại tất cả từ những chỗ đổ nát ấy, để rồi đã mọc lên những nhà máy, những cao ốc và dân chúng đã có được một nếp sống sung túc.
Thế nhưng, cùng với những sự giàu sang và xa hoa, chúng ta lại phải chứng kiến một cảnh tượng đau thương và bi đát khác. Con người dần dần đánh mất đi những cái hay, những cái đẹp. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Và rồi âm thầm từng bước một, họ đã xa lìa Thiên Chúa, Đấng là trọng tâm mà đáng lẽ cuộc đời họ phải tìm về.
Dĩ nhiên, người ta không chối bỏ Thiên Chúa hay giơ những nắm tay lên trời để nguyền rủa Ngài, nhưng người ta đã âm thần loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống và quên đi sự hiện diện của Ngài.
Từ đó, tất cả lại trở nên một đống gạch vụn, mặc dù bên ngoài đầy vẻ tráng lệ và tiến bộ. Cũng giống như một trái cây, bên ngoài vẫn còn tốt, vẫn còn đẹp, nhưng bên trong đã bắt đầu rữa thối.
Con người cô độc ngồi trên đống đổ nát, không biết mình từ đâu mà đến, để rồi sẽ lại đi về đâu. Người ta sẽ tìm ở đâu cho ra niềm an ủi và khích lệ giữa những khổ đau và bất hạnh gặp phải ? Người ta không đi tìm nơi kinh nguyện, nơi tòa giải tội, hay nói cách khác nơi chính Thiên Chúa. Trái lại, người ta đi tìm nơi quán nhậu, nơi rượu chè, nơi cờ bạc và nơi những hưởng thụ khác nữa.
Nói thế không có nghĩa là chúng ta chống lại những tiến bộ và những tiện nghi vật chất. Tất cả những phương tiện ấy đều tốt và chúng ta được phép sử dụng. Tuy nhiên, chúng ta phải ý thức rằng: bao lâu xua đuổi Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta sẽ đi vào ngõ cụt và những tiến bộ cũng chỉ là một đống gạch vụn không hơn không kém. Thay vì phụng sự con người, thì chúng lại trở nên một thứ vũ khí nguy hiểm, giết hại con người.
Bao lâu con người chỉ biết quyến luyến với vật chất và chỉ biết có vật chất mà thôi, thì con người sẽ cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa và thế giới là như một thùng rác. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quá bi quan. Tiện nghi vật chất một khi đã lên tới cao điểm của nó, thì người ta sẽ nhận ra những giới hạn của nó. Và lúc bấy giờ, phải chăng con người sẽ nhận biết thời gian ơn sủng của Thiên Chúa.
Bởi đó, trong bầu khí những ngày cuối của năm phụng vụ, Giáo hội báo trước cho chúng ta hay sẽ tới một ngày tất cả những gì chúng ta đã cố gắng gầy dựng sẽ bị sụp đổ. Tất cả cuộc đời chúng ta trở nên như một đống gạch vụn.
Trong ngày đó, chỉ còn lại những gì chúng ta đã xây dựng trong đức tin và trong tình mến. Chính trong đức tin và trong tình mến, chúng ta làm cho cuộc đời chúng ta có được một giá trị vượt thời gian.
Bởi vì chính trong ngày đó, Thiên Chúa sẽ tạo dựng cho chúng ta một trời mới và một đất mới. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc và vĩnh cửu.
Những tai nạn máy bay gần đây đã gây hoang mang sợ hãi cho nhiều người. Thật là khủng khiếp khi: TN 33-C2
Những tai nạn máy bay gần đây đã gây hoang mang sợ hãi cho nhiều người. Thật là khủng khiếp khi mạng sống con người bị cướp đi trong nháy mắt. Bao nhiêu đau khổ cho những người thân còn lại … Rõ ràng cuộc sống vô cùng bấp bênh. Giữa cảnh đời đắp đổi đó, Đức Giêsu lên tiếng: “Đừng sợ hãi !” (Lc 21:9)
Hai hình ảnh trái ngược nhau ngay dòng đầu tiên của Tin Mừng hôm nay. Trước cảnh “đền Thờ lộng lẫy nguy nga với những phiến đá đẹp” (Lc 21:5), Đức Giêsu tiên báo “sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc 21:6) Bao nhiêu mồ hôi nước mắt sẽ tan ra mây khói. Phải chăng đó không phải là số phận của cả vũ trụ này hay sao ? Cuộc đời còn có nghĩa gì không khi không còn gì tồn tại ?
Cuộc xáo trộn lớn nhất không phải là vật chất, nhưng là một cuộc đổ nát về tinh thần. Nhân loại sẽ đánh mất hướng sống. Cuộc khủng hoảng niềm tin sẽ làm rúng động cả tâm thức nhân loại. Bởi vậy, Đức Giêsu thận trọng dặn dò các môn đệ: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và ‘thời kỳ đã đến gần’; anh em chớ có theo họ.” (Lc 21 8) Đã có nhiều kẻ mạo nhận như thế ngay trong thời kỳ Giáo hội sơ khai, đến nỗi thánh Phaolô đã cảnh giác: “Không có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Kitô đó thôi.” (Gl 1:7) Các tà thuyết chẳng khác các quái vật đang hút máu nhân loại. Một cơn khát tinh thần kèm theo đủ mọi thứ bệnh tật đã gieo tai rắc họa khắp nơi. Bởi vậy, cũng như Dân Chúa xứa, trên sa mạc trần gian, các Kitô hữu “cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.” (1 Cr 10:4) Tảng đá ấy cũng là tựa điểm vững chắc cho những ai muốn tránh mọi tai họa đang đổ xuống trần gian.
Nếu không có nơi trú ẩn vững chắc đó, chắc chắn con người sẽ lâm vào một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm. Nguy hiểm lớn nhất đến từ sự bất công. Bất công sẽ làm cho xã hội điên đảo và hỗn loạn. Con người không cần kính trọng nhau. Thiên Chúa cũng bị loại trừ ra khỏi lương tâm nhân loại. “Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh.” (Ml 3:20a) Mặt trời công chính đó là Đức Giêsu. Chính Người là “ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8:12) Sống trong Người là sống trong sự bình an. Chỉ một mình Người mới có thể trấn an chúng ta giữa những thử thách cùng cực. Bởi vậy, Người mới nói: “Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi.” (Lc 21:9) Chiến tranh chỉ là con đẻ của bất công. Chỉ một mình Người mới tiêu diệt được chiến tranh, vì chỉ có một mình người là Đấng Công chính.
Dù gặp những tai họa do con người hay thiên nhiên, người tín hữu vẫn vững dạ an lòng, vì họ luôn sống trong Đức Kitô là nguồn bình an của chúng ta (x. 1 Pr 5:14) Cuộc đổ vỡ tinh thần đã kéo theo sự sụp đổ trong tình tự nhân loại. Vì mất hướng, nên con người cũng không còn nhận ra anh em. Con người đã trở thành lang sói đối với con người. Cuộc ngược đãi lớn nhất đã xảy ra cho các Kitô hữu.
Đức Giêsu đã không giấu giếm điều gì với các môn đệ. Người nói với họ những sự việc rồi sẽ gặp khó khăn. Khi Người nói về thế gian. Người rất thực tế. Người nói về chiến tranh và cách mạng, động đất, dịch bệnh và nạn đói, về sự bách hại và cầm tù, phản bội, thù ghét và giết chóc.
Người nói với họ những điều xảy ra ấy sẽ đem đến cho họ một cơ hội để làm chứng cho Người và cho Tin Mừng. Chính trong những thời kỳ đen tối, cần có ánh sáng. Chính trong những thời kỳ giả dối, cần có sự thật. Chính trong những thời kỳ chiến tranh, cần có hòa bình. Và chính trong những thời kỳ khó khăn, cần có chứng nhân Kitô giáo.
Bằng việc báo cho họ biết trước, Đức Giêsu trang bị cho họ. Người nói: Anh em cần sự khôn ngoan – đừng thất vọng. Anh em cần lòng can đảm – đừng sợ hãi. Anh em cần chống đỡ quyền lực và có sức chịu đựng – đừng bỏ cuộc. Người sẽ làm cho họ chiến thắng trong thời kỳ sau cùng miễn là họ phải luôn kiên trì.
Thời đại chúng ta đem đến nhiều cơ hội để làm chứng cho Đức Giêsu và Vương Quốc của Người. Nhiều bi kịch và tai họa xảy ra trong thế giới chúng ta có thể dễ dàng dẫn chúng ta đến chỗ tuyệt vọng và làm cho chúng ta tin rằng chúng ta là những nạn nhân đáng buồn của hoàn cảnh. Nhưng Đức Giêsu không nhìn các biến cố như thế. Người gọi các biến cố là các cơ hội.
Đức tin dường như phát triển trong nghịch cảnh. Dĩ nhiên, một đôi khi đức tin được sinh ra vì nghịch cảnh. Trong khía cạnh này, nó giống với một số loài hoa dại: Khi trồng nó trong vườn, nó sẽ cho hạt ; nhưng khi trồng chúng trên sườn núi, chúng sẽ nở hoa.
Trong chế độ cộng sản ở nước Nga, có một bé gái mười tuổi mà cả gia đình bị phân tán trong những trại lao động cách xa nhau vởi vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Cô bé trước tiên được đưa đến một cô nhi viện. Ở đây cô từ chối tháo bỏ cây Thánh giá mà mẹ cô đã đeo quanh cổ cô trước khi chia tay. Cô đã cột một cái nút để người ta không thể cởi khi cô đang ngủ. Cuộc chiến đấu tiếp tục nhưng đã không tốt đẹp. Cô không rời bỏ cây thánh giá. Cô cũng đã từ chối để mình bị cải tạo, cô không học những bài học tuyên truyền của Đảng. Trong viện cô nhi, cô bị buộc sống với những thiếu niên cặn bã của xã hội Nga. Tuy nhiên, cô từ chối chửi lộn và ăn cắp. Người ta không bao giờ khuất phục được cô. Cô đã kết thúc đời mình sau mười năm trong một trại lao động.
Trong một thế giới với rất nhiều sự biến động xã hội và chính trị, người có đức tin thường bị coi là ngây thơ, vô tích sự và không thích hợp. Tuy nhiên, chúng ta không nên sợ hãi thái độ hoài nghi và vô liêm sỉ, nhưng tin rằng. Thiên Chúa sẽ cho chúng ta sức mạnh để giữ vững lập trường.
Điều nâng đỡ chúng ta là niềm tin rằng sau cùng cái thiện sẽ thắng cái ác. Vì thế, dù ở giữa biến động, chúng ta cũng vui mừng bởi lẽ chúng ta biết rằng Thiên Chúa ở với chúng ta. Nhận thức ấy cho chúng ta sức mạnh để sống qua bi kịch cuộc đời với tinh thần không bị khuất phục của chúng ta.
Đức Giêsu nói về việc Đền thờ bị tàn phá. Điều này đã đến và làm cho mọi người Do thái tan tác. Thế hệ chúng ta đã chứng kiến những thay đổi to lớn. Không phải một công trình mà cả một thế giới đã qua đi. Điều duy nhất tồn tại là sự trung tín của Thiên Chúa. Điều duy nhất không thay đổi là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta.
Đức tin không phải là một phương thế để ước muốn sự việc khác đi. Không ai giúp đỡ cho người đã khước từ. Đức tin cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với thực tại vốn như thế. Thiên Chúa không tránh cho chúng ta sự đau khổ, nhưng cứu giúp chúng ta khỏi sự tuyệt vọng.
Trong kho tàng văn hóa phong phú của Trung Quốc, người ta đọc thấy một câu chuyện răn đời sau đây: “Ngày xửa ngày xưa có một vị hoàng đế, tuổi đã quá bát tuần, mà vẫn chưa đọc được một quyển sách nào của các bậc thánh hiền. Bộ sách mà nhà vua tthèm khát được đọc là Bộ sách Lịch sử loài người.
Nhưng khốn nỗi cuộc đời nhà vua, từ mái đầu xanh đến lúc tóc đã bạc phơ, răng đã long, không lúc nào được rảnh rỗi thư nhàn. Cuộc đời nhà vua luôn luôn sống trên lưng ngựa, nằm sương gối tuyết trên bãi chiến trường của thời chinh chiến loạn lạc. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chặn nước kia xâm lăng. Đôi mắt của nhà vua chỉ nhìn thấy có gươm giáo và máu lửa. Nhà vua rất ân hận vì trong suốt cuộc đời chưa có hân hạnh được đọc một trang sách của các bậc thánh hiền.
Nay chiến tranh đã tạm yên, đất nước đã thanh bình. Nhà vua muốn dành thời gian còn lại để đọc cho kỳ được Bộ sách Lịch sử Loài người, để tìm hiểu xưa nay con người sống để làm gì, chết đi về đâu ? ! Nhưng phiền một nỗi, tuổi của nhà vua đã quá cao, mà bộ sách lại quá dầy. Biết sức mình không thể đọc hết bộ sách, nhà vua ra lệnh cho viên quan ngự sử làm thay mình công việc khó khăn ấy. Với sự giúp đỡ của một ủy ban 50 người, viên quan ngự sử bắt đầu miệt mài đọc sách.
Sau mười năm cắm cúi đọc, viên quan ngự sử và ủy ban đã có thể tóm tắt Bộ sách Lịch sử Loài người thành 10 cuốn và mang vào triều đình dâng lên nhà vua. Nhưng vừa nhìn thấy 10 cuốn sách và đo lường tuổi tác sức khỏe của mình, nhà vua lại cảm thấy không còn đủ sức đọc hết bộ sách, dù đã được rút ngắn thành 10 cuốn ! Nhà vua bèn ra lệnh cho viên quan ngự sử và ủy ban tiếp tục làm việc thêm một thời gian nữa.
Sau 5 năm làm việc thêm, viên quan ngự sử và ủy ban đã tóm lược Bộ sách Lịch sử Loài người thành 5 cuốn. Nhưng khi ủy ban và viên quan ngự sử mang 5 cuốn sách vào cung ra mắt nhà vua thì cũng chính là lúc nhà vua đang hấp hối trên giường bệnh. Biết mình không còn sống bao lâu, cũng không thể nào đọc được dù chỉ một trang sách, nhà vua mới thều thào nói với viên quan ngự sử hãy tóm tắt Bộ sách Lịch sử Loài người chỉ trong một câu thôi.
Lúc đó viên quan trưởng ban tu sửa mới tâu trình nhà vua như sau: “Hạ thần xin vâng lệnh. Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ là con người sinh ra để khổ rồi chết !” Nhà vua gật đầu… đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện rồi tắt thở ! Giữa lúc ấy, viên quan ngự sử cũng nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng!
Nhìn lại một năm sắp qua, với biết bao nhiêu biến cố vì khổ đau, bệnh tật, tai nạn, động đất, lũ lụt, chiến tranh, chết chóc đã xảy ra với loài người cũng như cho gia đình và bản thân, có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng muốn đi đến kết luận bi quan như viên quan ngự sử của nhà vua trong câu chuyện răn đời trên đây: “Con người sinh ra để khổ rồi chết !”
Chúng ta có bi quan nhìn đời như viên quan ngự sử không ? Hoàn toàn không ! Chúng ta không chối bỏ thực tại của khổ đau, của bệnh tật, của chết chóc. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa tạo dựng nên thế giới, tạo nên chúng ta là để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Cho nên hướng đi lịch sử của loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống. Bên kia của thất bại khổ đau, bên kia của bệnh tật chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Vì thế không có tâm tình nào thích hợp cho chúng ta trong những ngày cuối năm này cho bằng cảm tạ và phó thác. Cảm tạ và phó thác tất cả cho Thượng đế, vì Ngài là Cha của chúng ta, luôn yêu thương và quan phòng cuộc đời chúng ta. Cảm tạ và phó thác vì Ngài là Thượng đế của tình thương, của sự sống. Cảm tạ và phó thác vì Ngài là đường, là sự thật và là lẽ sống của chúng ta. Cảm tạ và phó thác cho Thượng đế, vì nhờ Ngài cuộc sống này vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Trong muôn vàn khổ đau của cuộc sống, chúng ta hãy hân hoan lập lại: Thượng đế yêu thương tôi như chỉ có một mình tôi trên cõi đời này. Đừng bao giờ chúng ta quên một chân lý căn bản soi sáng cho đời ta: “Chúng ta không chỉ sinh ra cho cuộc sống đời tạm này mà cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau”. Đó chính là niềm tin của bạn, của tôi và của mọi người.
Một hôm vua Ai cập đang đứng chiêm ngưỡng những công trình mà ông cho xây dựng tại thành phố Eliôpôli, bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu tới đã cười ngạo nghễ và thách thức nhà vua:
- Hãy bỏ lại tất cả và cút đi !
Nhà vua giận tím gan, nhưng ông ta đã nén giận và hỏi:
- Hỡi lão già, ngươi là ai mà dám ra lệnh cho ta cách hỗn xược như thế ? Không lẽ ngươi quyền thế hơn ta ?
Ông lão quả quyết:
- Đúng thế ! Vì ta là thời gian.
Nghe đến tên thời gian, vua Ai cập tái mặt, té nhào khỏi ngai vàng. Cùng với ông, cả đế quốc Ai cập cũng sụp đổ.
Lão già thời gian cũng rảo qua khắp các đế quốc trên địa cầu. Lão đi đến đâu, các đế quốc đều rơi như sung rụng.
Nhưng ngày kia, người ta bỗng thấy xuất hiện, tại đồi Vatican một cụ già khác. Lão già thời gian cũng một giọng điệu vô cùng hách dịch đến trước thành Vatican gầm lớn:
- Ta là thời gian đây !
Tiếng gầm thét đó làm rung chuyển trái đất, nhưng lại không làm cho cụ già trên đồi Vatican mảy may lo sợ. Cụ bình tĩnh đáp:
- Còn ta, ta chính là vĩnh cửu ! Xuyên qua các thế hệ ta phải đại diện cho lòng chung thủy của Thiên Chúa đối với con người.
Không có gì là vĩnh cửu dưới bầu trời này. Nhiều người Do thái nhìn ngắm và khen ngợi đền thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ, được xây cất bằng đá cẩm thạch nguyên khối, mỗi cây cột cao hơn 12 mét. Đền thờ được trang trí với cây nho lớn bằng vàng ròng, quyên góp từ các tín hữu. Mặt tiền đền thờ được dát bằng vàng lá, mỗi khi mặt trời lên, nó phản chiếu ánh sáng chói lòa rực rỡ. Nhìn từ xa, đền thờ trông như một núi tuyết khổng lồ vì màu trắng toát của đá cẩm thạch. Chính vẻ huy hoàng lộng lẫy của đền thờ mà người ta tưởng nó sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm sai lầm đó. Người loan báo đền thờ sẽ bị tàn phá một cách thảm hại, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Quả thật, tiên báo này đã hoàn toàn ứng nghiệm năm 70 sau Công nguyên, khi vua Titô đem quân bao vây, tàn sát dân chúng, bắt những tù binh, và thiêu hủy đền thờ thành ra hoang vu tiêu điều.
Mọi người kinh hoàng sợ hãi khi nghe Chúa Giêsu loan báo việc đền thờ bị phá hủy. Họ xin Người cho biết thời gian và điềm báo trước. Nhưng Người không cho biết gì thêm lại còn dựa vào lời tiên báo trên để nói về ngày tận thế. Trước ngày đó, sẽ có những thử thách đức tin.
Có thể có những ngôn sứ giả hiệu, mạo danh Chúa để mê hoặc tín hữu, hay loan báo thời gian đã đến gần để làm mất niềm hy vọng nơi những kẻ tin.
Có thể có những cuộc bách hại các tín hữu, thậm chí cả sự chia rẽ trong các gia đình.
Nhưng Người khuyên họ: “Đừng sợ”. Hãy tin tưởng trong phó thác và bền đỗ trong đức tin. Vì Thiên Chúa luôn quan phòng chở che cho những ai cậy trông nơi Người.
Đối với Chúa Giêsu, bách hại và thử thách không phải là điều đáng sợ mà là một cơ may, để người tín hữu có dịp “làm chứng”: để cho kẻ bách hại hiểu biết đức tin của người tín hữu, và để người tín hữu chứng tỏ lòng tin vào Thiên Chúa trong cơn thử thách.
Quả thật, Thiên Chúa muốn niềm tin phải là một hành động tín nhiệm sâu xa nơi Người, một biểu lộ tín thác tuyệt đối vào Người, cho dù có phải chịu thử thách đớn đau nhất, kể cả sự chết. Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen có viết: “Để trắc nghiệm đức tin của ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc thuận buồm xuôi gió”.
Cuối bài Tin Mừng này, sau khi nói đến những gian truân thử thách. Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy kiên trì: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Kiên trì là gì ? Thưa là dù gặp phải gian truân thử thách, ta không lùi bước, không nản lòng, không bỏ cuộc nhưng vẫn luôn giữ vững niềm tin và lý tưởng sống của mình.
Anne Frank là một cô bé Do thái bị bọn Đức quốc xã bắt giam trong trại tập trung. Nơi đó cô bé đã chứng kiến biết bao cảnh khổ, cô đã thấy rất nhiều người vì quá khổ mà trở thành mất nhân phẩm, mất lý tưởng, mất đức tin. Chính cô cũng khổ và nhiều lần hoang mang tự hỏi: có công lý thật không, có Thiên Chúa không ? Nhưng sau những lúc giao động ấy, cô cương quyết giữ vững niềm tin của mình: cô tin rằng dù biểu hiện bên ngoài của con người có gian ác thế nào đi nữa thì trong thâm tâm con người vẫn tốt ; dù hiện tại có xấu xa đến đâu đi nữa nhưng cuối cùng sự thiện sẽ chiến thắng sự ác ; dù hiện nay xem ra Thiên Chúa vắng mặt, nhưng chính Thiên Chúa là người có tiếng nói cuối cùng. Những suy nghĩ ấy được cô ghi lại trong một quyển nhật ký. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, quyển “Nhật ký Anne Frank” đã được xuất bản, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, và nổi tiếng khắp thế giới.
Điều gì giúp người ta kiên trì ? Trước hết đó là xác tín về lẽ phải của mình ; thứ hai là gương can đảm chịu đựng của những người khác ; và thứ ba nhưng quan trọng nhất là đức tin tôn giáo. Gandhi nói: “Người nào tin vào Thiên Chúa thì không bao giờ thất vọng, bởi vì người đó biết rằng cuối cùng thì sự thật sẽ chiến thắng”.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Anh em đừng sợ”. “Đừng sợ” không có nghĩa là không có cảm giác sợ, mà là không để cho cảm giác ấy đè bẹp mình, nhưng mình phải làm chủ cảm giác ấy và chiến thắng nó. “Anh hùng không phải là người không biết sợ mà là người chiến thắng nỗi sợ”. (Solzhenitsyn)
Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu về những sự kiện sẻ xảy ra khởi đầu nghe giống như những bài kinh nguyện mà chúng ta nghe trên chương trình Tin Tức Lúc 11 Giờ Đêm. "Những sự kiện này phải xảy ra," Chúa Giêsu phán, "đừng xao xuyến ... đừng kiếp sợ ... bởi không một sợi tóc nào trên đầu các con bị hư hỏng. Nhẫn lại chịu đựng thì các con sẽ cứu được sự sống các con."
Chúa Giêsu nài xin các môn đệ của Ngài hãy gắng nhẫn lại với Ngài; kiên gan trong đức tin, ngay cả giữa tất cả những tai ương khủng khiếp mà Ngài dạy họ hãy trông mong y như là một phần của cuộc sống vậy. "Khi tai ương xảy đến, đừng chịu thua," Ngài phán dạy. "Hãy nhớ Lời Ta; Nước Thiên Chúa sẽ đến trọn vẹn; không gì có thể đánh bại những mục đích của Thiên Chúa; không một quyền lực quỷ ma nào cản trở nổi ý định Thiên Chúa cho sự hoàn thành của các con được."
Trong Sứ điệp hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng chúng ta phải thi hành nhẫn lại chịu đựng -- ngay cả khi toàn thể thế giới coi như đang đi đến điên dại; ngay cả khi những sự kiện coi như hoàn toàn vô nghĩa, ngay cả khi những biến cố coi như trái nghịch với lời hứa của Ngài để thoả mãn sự đói khát của chúng ta về Cuộc Sống Mới.
Chúa Giêsu dùng mọi phương pháp giáo huấn có thể -- ngay cả đến cực đoan của chính cái chết của Ngài -- để truyền đạt Sứ Điệp Thánh của Ngài về ý nghĩa và mục đích chính của cuộc sống chúng ta. Tỉ dụ như trong Sứ Điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn kéo sự chú ý của chúng ta, làm cho chúng ta thật sự lắng nghe, trong khi Ngài nói về những tai ương sẻ xảy ra: động đất, đói kém, những điều khủng khiếp trên trời, bắt bớ khủng bố, chiến tranh, nổi loạn, quốc gia này chống quốc gia nọ, chết chóc. Y như là Ngài muốn đánh động chúng ta phải lắng nghe.
Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn còn quá lo lắng cho diện mạo của bạn. Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn còn lo nghĩ về ấn tượng mà bạn muốn gây cho người khác. Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn còn đang tính toán mình sẽ làm gì khi bạn rời đây đi. Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn đưa lời đáp trả của bạn vào một công thức ngay cả khi Lời Chúa đang được phán dạy. Lắng nghe là hành vi của tình yêu. Khi bạn thật sự lắng nghe lời nói của người khác, bạn làm cho chính bạn dễ bị ảnh hưởng và nhạy cảm tới lời nói đấy. Chúng ta thật sự lắng nghe lời hứa của Chúa Giêsu về sự hoàn thành trong Nước Tình Thương đang đến cho đến mức chúng ta buộc chính chúng ta phải xây dựng Nước Tình Thương này.
Cố văn nhân William Allen White đã được coi là một trong những nhà viết xã luận đáng kính nhất trong lịch sử Nhà Báo Hoa Kỳ. Ông đã viết một bài tưởng niệm một người bạn: "Một ngày nọ tại Emporia, một đám ma dài nhất trong vòng mười năm qua tiễn đưa Linh Mục John Jones dài đến ba dặm trong một ngày nóng nảy tháng Bảy đến một nghĩa địa khô ráo. Lý do mà có nhiều người xếp hàng theo xe tang của một ông già rất là đơn giản: họ mến cha. Cha đã hy hiến trọn đời sống cha để giúp đỡ mọi người. Với một cách thức thật đơn giản, không tiền của hay quyền hành thế gian, cha đã trao ban sự nhân ái của cha đến cho mọi người chung quanh cha. Chúng ta có khuynh hướng nói rằng đồng tiền nói, thế nhưng nó nói một ngôn ngữ nghèo nàn và đứt quãng. Tiếng nói của con tim phong phú hơn, mạch lạc hơn, và minh mẫn hơn. Người cha già này với giọng nói nhỏ nhẹ và với cách cư xử nhân hậu thấu hiểu ngôn ngữ của con tim. Cha đã can trường và với một ý chí làm việc trong phần vườn nho của cha. Không ngã lòng, nhưng kiên nhẫn chịu đựng, cha nắm giữ một đức tin đơn giản và truyền thống vào Thiên Chúa và lòng nhân từ yêu thương của Ngài. Khi kẻ khác cho tiền, cha ban lời cầu nguyện, sự khó nhọc và kích lệ. Trong phạm vi của ngài, ngài chính là sức mạnh. Và như thế khi ngài nằm xuống an nghỉ, hàng trăm bạn hữu lê bước khóc lóc tiễn đưa ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Với kiên nhẫn chịu đựng, nắm giữ một đức tin đơn thuần và truyền thống vào Thiên Chúa và lòng nhân từ yêu thương của Ngài, bạn sẽ trở nên chính quyền lực trong phạm vi của bạn. Có nhiều người chung quanh bạn cần đến tài năng của bạn. Với kiên nhẫn chịu đựng, nắm giữ một đức tin đơn thuần và truyền thống vào Thiên Chúa và lòng nhân từ yêu thương của Ngài, bạn sẽ được trao quyền ban phát sự nhân hậu của lòng bạn.
Bất kể dù có trái ngược lại, những tin tức xấu mà bạn đọc được trên báo chí và coi thấy trên TV trong tuần này, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa. Ngài hành động trong lịch sử. Ngài sẽ không ruồng bỏ chúng ta. Khi mà sự khó đến, hãy chịu khó, và hãy để tình yêu mà bạn đưa vào trong tình huống đó được tỏ sáng và là dấu chỉ thuyết phục của Tình Yêu Thiên Chúa.
Thi sĩ John Greenleaf Whittier nói về hai ông Luật Sĩ, trong ngày đền tội, cầu nguyện suốt cả một ngày dài như thế nào. Mỗi ông xin cho tội của ông được tha thứ. Ngay trước khi tối đến, mỗi ông đều còn cảm thấy gánh nặng tội lỗi trong tâm khảm của các ông. Sau cùng, một ông Luật Sĩ cầu xin, "Lạy Chúa là Thiên Chúa, nếu đó là Thánh Ý Ngài không tha thứ tội lỗi tôi, xin Chúa hãy tha thứ tội lỗi của anh em tôi đang quằn quại trong sầu khổ của tâm hồn." Và ngay lúc ấy, ông cảm thấy chính ông đã được thứ tha.
John Whittier muốn nói: Cửa thiên đàng không mở cho kẻ đến một mình. Hãy cứu lấy linh hồn của kẻ khác, và bạn sẽ cứu được chính linh hồn bạn.
(c.5) Với người Do Thái, đền thánh Giêrusalem là trung tâm của mọi hy vọng.
(c.6) Lúc Lu-ca viết sách Tin Mừng này (khoảng năm 80 hoạc 85), Chúa Giêsu đã chết, sống lại và về trờị Thành phố và đền thánh Giêrusalem đã bị tàn phá. Lu-ca muốn giới thiệu Chúa Giêsu như "một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói".
(c.7) "các sự việc đó": điềm baó trước của các việc này thay đổi từ sự phá hũy của đền thánh Giêrusalem đến sự sụp đổ của thành phố Giêrusalem, rồi đến thời cánh chung của thế giới.
(c.8) Các tông đồ không nên lẫn lộn sự phá hũy của đền thánh Giêrusalem với sự trở lại của Chúa Giêsu, "Con Người". Sự sợ hải và sự trông đợi làm con người dễ tin vào những thông điệp sai lầm và những Mê-sia giả mạo.
(cc.9-11) Những dấu chỉ mà Chúa nói đến như chiến tranh, động đất, đói kém, ôn dịch, hiện tượng kinh khủng, là những điềm lạ có thể thấy trong mọi thời đại. Nó cho thấy ngày cánh chung đang gần kề, nhưng nó không giúp chúng ta định trước ngày giờ được.
(cc.12-15) Các môn đệ của Chúa không nên quá sợ hải và lo âu khi làm chứng nhân. Họ không cần lo nghĩ phải nói gì khi bị lên án. Họ sẽ nói với một thần khí khôn ngoan mà không ai có thể nói ngược lạị Vai trò của Chúa Thánh Thần được nhắc đến.
(cc.16-18) Cũng như Đức Giêsu, qua những khổ hình này các môn đệ Ngài mới vào trong vinh quang của Người. Lời hứa sẽ không bị tổn hại cho dù một sợi tóc trên đầu có vẽ kỳ quặc với lời tiên đoán sẽ bị bách hại. Đó chỉ là cách nói tượng hình về sự che chở rất thánh cho những người chịu đựng bách hại vì danh Chúa Giêsu.
Thái độ kiên trì cho đến cùng trong ơn thánh Chúa bất chấp mọi gian nguy và bách hại dẫn đến sự cứu rỗi đời đời.
Suy Niệm
Phần lớn chúng ta rất sợ khi nói đến tận thế. Bạn có khi nào nghĩ là "ngày tận thế của bạn thật sự xảy đến khi bạn không chấp nhận Thiên Chúa?" Hãy trở về với thế giới của bạn và suy nghĩ câu hỏi này.
Hãy so sánh câu "...người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy" với câu "Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầỷ" Bạn có kinh nghiệm trải qua những thử thách đó chưa? Hãy tự hỏi mình có thể làm gì để làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày của mình.
1. Có gì trên đời tồn tại mãi, không có ngày cùng tận không?
2. Trong bản thân ta, trong cuộc đời ta, những gì sẽ chóng qua và những gì tồn tại lâu dài? Giữa hai thứ ấy, người khôn ngoan nên quan tâm tới thứ nào? Bản thân ta thường quan tâm đến thứ nào?
3. Thế giới này có tồn tại vĩnh viễn không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày cùng tận của nó không? Thời của chúng ta đã có những dấu hiệu ấy chưa? Nếu có thì chúng ta nên có thái độ nào?
Suy tư gợi ý:
1. Mọi sự trên đời đều chóng qua, đều có ngày cùng tận
Chúng ta đang sống trong một thế giới vô thường, tạm bợ, mọi sự đều thay đổi, mọi sự đều qua đi (x. 1 Cr 7,31b; 1 Ga 2,17). Không một điều gì sự gì thuộc thế giới này tồn tại mãi, cho dù hiện tại chúng có vẻ kiên cố vững chắc tới đâu đi nữa. Đức Giê-su đã nói lên chân lý ấy trong bài Tin Mừng hôm nay: «Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo: "Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào"». Lúc ấy, người Do Thái không thể nào tưởng tưởng được Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đẹp và quí giá như thế, kiên cố và vĩ đại như thế, chỉ 40 năm sau (từc năm 70), lại có thể trở thành bình địa. Đây là chân lý quan trọng mà chúng ta cần phải suy gẫm để sống cho phù hợp và khôn ngoan.
«Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích» (Tv 103,15-16). Đời sống chóng qua như thế, nếu ta cứ tìm và thu gom cho mình những thứ vô thường tạm bợ, thì khi đời sống này qua đi, ta sẽ hoàn toàn trắng tay khi bước vào đời sống vĩnh cửu. Coi chừng kẻo ta chỉ được giàu có trong chốc lát để rồi muôn đời phải nghèo khổ! Còn gì dại dột bằng? Người khôn ngoan biết dùng những thứ chóng qua này để làm cho mình giàu có trong đời sống vĩnh cửu (xem dụ ngôn người quản lý bất trung, Lc 16,1-13). Đừng vội chóa mắt vì sự vinh quang hay hạnh phúc mà những cái chóng qua này đem lại. Vinh quang hay hạnh phúc ấy cũng rất chóng qua! Hãy suy nghĩ: «nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang như thế, thì cái tồn tại mãi mãi lại chẳng vinh quang hơn sao?» (2 Cr 3,11).
2. Cái gì trong ta và trong cuộc đời ta tồn tại vĩnh cửu?
Chỉ những gì thuộc về thế giới vĩnh cửu mới tồn tại. Cái vĩnh cửu ấy đã được gieo mầm trong tâm hồn chúng ta từ khi chúng ta bắt đầu hiện hữu. Đó là bản tính thần linh và thứ tình yêu phù hợp với bản tính ấy: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Trong thế giới vô thường này chúng ta có thể vun trồng và làm cho bản tính thần linh và tình yêu cao cả ấy lớn lên bằng những tư tưởng, lời nói và việc làm cụ thể phù hợp với bản tính và tình yêu ấy. Nói cách khác, bằng cách làm theo ý của Thiên Chúa: «Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa» (1 Ga 2,5). Bản tính hay tình yêu thần linh ấy sẽ mất đi nếu ta cứ hành động ngược lại những gì mà bản tính hay tình yêu ấy đòi hỏi: «Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?» (1 Ga 3,17).
3. Chúng ta đang hành động thế nào? kiểu khôn hay kiểu dại?
Người khôn thì nhắm lợi ích lâu dài, còn kẻ dại chỉ nhắm lợi ích trước mắt. Nguyên tắc ấy ai cũng biết, nhưng trong thực tế người ta vẫn sống ngược lại nguyên tắc khôn ngoan ấy do bị lóa mắt vì những lợi ích trước mắt. Chẳng hạn, ai cũng biết câu: «Quan nhất thời, dân vạn đại». Nhưng trong xã hội, biết bao kẻ sẵn sàng luồn cúi, nịnh bợ những ông tham quan, những thủ trưởng bất tài thất đức vốn chỉ tại chức một thời gian nào đó, chỉ để họ ban phát cho mình chút ân huệ mà sẵn sàng làm hại anh em, bạn bè mình, bất chấp mình phải sống cả đời giữa những người thân yêu ấy. Biết bao kẻ sẵn sàng ca tụng, nịnh hót những ông vua, những chế độ bạo tàn, chỉ vì chút quyền lợi nay còn mai mất của mình, bất chấp sự nịnh hót đó bất lợi cho toàn dân, trong đó có biết bao người thân mình đang phải sống với, phải gặp mặt hằng ngày, và sẽ có lúc trong đời mình phải cần tới họ, phải nhờ họ cưu mang! Những kẻ dại dột ấy sợ bị thất sủng trong hiện tại trước mặt kẻ quyền thế hơn sợ bị miệng đời nguyền rủa mãi mãi! Kinh nghiệm cuộc đời cho thấy những kẻ sẵn sàng bán đứng anh em mình, những kẻ sống không có hậu ấy thường kết thúc cuộc đời trong đau khổ, cô đơn, và nhục nhã!
Cũng vậy, thật dại dột những người chỉ biết có lợi ích chóng qua đời này, không nghĩ gì đến hạnh phúc lâu dài đời sau! Của cải, quyền lực, địa vị, danh vọng… tất cả đều sẽ qua đi như lời Thánh Gio-an: «Thế gian đang qua đi cùng với những dục vọng của nó. Chỉ những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa mới tồn tại mãi mãi» (1 Ga 2,17). Chỉ những gì vĩnh cửu mới tồn tại lâu dài!
4. Ngày cùng tận của thế gian
Mọi sự trong thế gian đều có ngày cùng tận, và ngay cả chính thế gian cũng có ngày cùng tận của nó. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nói về ngày cùng tận của thế gian và những điềm báo trước ngày ấy. Điềm Ngài nói tới trước hết là các ngôn sứ giả đội lốt chiên (x. Mt 7,15) mạo danh người của Thiên Chúa (x. Lc 21,8) để lường gạt nhiều người (Mt 21,11), nhờ thế họ được thế gian trọng vọng và ưu đãi (x. Lc 6,26). Điềm kế tiếp là chiến tranh giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, cùng với các thiên tai (động đất, bão lụt, dịch tễ, đói kém…). Trong thời gian ấy, những người công chính hay các ngôn sứ thật bị bắt bớ, ngược đãi, bách hại, cầm tù, hãm hại… Theo lời Đức Giê-su, thời này là một cơ hội tốt để người Ki-tô hữu làm chứng cho Thiên Chúa, cụ thể là làm chứng cho công lý và tình yêu của Ngài. Chính vì làm chứng như thế mà họ «bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp», kết án, làm mặt lạ, «bị mọi người thù ghét», bỏ rơi, thậm chí bị giết. Nhưng không một sự gì xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa: «dù chỉ một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu!». Hãy tự hỏi ta có quan tâm đến việc làm chứng cho Ngài, cho công lý và tình thương không?
Cứ xem thời điềm thì biết được thời đó sắp đến hay chưa. Người khôn ngoan thì luôn tỉnh thức vì biết rằng «ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm» (1 Tx 5,2). Do đó, «hãy sống như giữa ban ngày» (Rm 13,13), «sống trong ánh sáng» (1 Ga 1,7), «không sống trong bóng tối kẻo ngày ấy như kẻ trộm đến bất chợt không hay biết» (1 Tx 5,4). «Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người» (Lc 21,36). «Ai bền chí đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22; 24,13; Mc 13,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, biết bao điềm mà Đức Giê-su nói về ngày cùng tận của thế gian đang xảy ra trước mắt con, nhưng dường như chúng không ảnh hưởng gì đến thái độ nội tâm của con và của bao người chung quanh con. Con vẫn sống như thể con sẽ tồn tại mãi, như thể địa vị và hoàn cảnh tốt đẹp của con sẽ tồn tại mãi, như thể thế gian và mọi sự trong đó sẽ tồn tại mãi! Xin cho con ý thức được thái độ như thế thật là ngu xuẩn. Xin cho con biết tỉnh thức như Đức Giê-su đã cảnh báo, để khi ngày cùng tận ấy xảy đến, con vẫn luôn đứng vững trước mặt Cha. Amen.
1. Có vật nào trên thế gian có ngày sinh ra mà không có ngày biến mất không? Thế giới này có ra khỏi định luật đó không? Các tôn giáo thì sao?
2. Các tôn giáo bị suy thoái, đánh mất tinh thần và sức sống ban đầu là do nguyên nhân nào? Ai chịu trách nhiệm?
3. Quá coi trọng phương tiện mà quên đi mục đích sẽ dẫn đến hậu quả gì? Những phương tiện tối cần để đạt mục đích có thể làm hại chính mục đích ấy không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật «thành, trụ, hoại, không» trong vũ trụ
Mọi vật trong thế giới hiện tượng này đều phải tuân theo định luật «thành, trụ, hoại, không», nghĩa là mọi vật đều được sinh ra và tồn tại, nhưng trong khi tồn tại thì lại bị hư hoại dần, rồi tới một lúc nào đó thì biến mất khỏi vũ trụ. Mọi công trình, mọi đoàn thể, mọi quốc gia, mọi tôn giáo, mọi thiên thể, mọi thế giới, hễ đã có lúc khởi đầu sinh ra thì cũng có lúc bị thoái hóa rồi biến mất. Đó là định luật bất di bất dịch cho thế giới hiện tượng. Chỉ những gì thuộc thế giới siêu hình và vĩnh cửu mới thoát khỏi định luật ấy.
2. Các tôn giáo cũng bị suy thoái và có ngày suy tàn
Tôn giáo cũng có lúc suy tàn theo định luật trên. Cụ thể nhất là Do Thái giáo, một tôn giáo được chính Thiên Chúa thiết lập mà người Do Thái xưa tưởng rằng sẽ tồn tại vĩnh cửu và lan tràn khắp thế giới. Tôn giáo này đã có lúc suy thái chỉ còn là hình thức bên ngoài, nên đã được thay thế bằng Kitô giáo. Sự suy tàn của các tôn giáo thường được báo hiệu bằng sự suy đồi về tinh thần. Nghĩa là các tín hữu của tôn giáo không còn nắm được tinh thần hay cốt tủy của tôn giáo mình nữa, mà chỉ nắm được phần hình thức hay cái vỏ bên ngoài của tôn giáo. Thánh Phaolô đã báo trước điều đó trong thư gửi cho Timôthê: «Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ» (2Tm 3,1.5). Chính Đức Giêsu cũng đã từng bi quan về thời suy tàn ấy: «Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?» (Lc 18,8b). Vì người mang danh có đức tin thì vô số, nhưng người thật sự tin – nghĩa là thể hiện đức tin thành cuộc sống – thì chẳng bao nhiêu.
3. Một nguyên nhân suy thoái của tôn giáo: các ngôn sứ giả
Sự suy đồi hay biến chất này thường là do các ngôn sứ giả trong mọi thời đại tạo nên. Các ngôn sứ giả này không phải là ít, thánh Gioan cho biết: «Ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian» (1Ga 4,1). Các ngôn sứ giả của mọi thời đại đều có những đặc tính tương tự như các ngôn sứ giả thời của Đức Giêsu. Ngài mô tả họ là hạng người «nói mà không làm» (Mt 23,3), là «những kẻ dẫn đường mù quáng» (Mt 23,16.24). Vì họ thường quan trọng hóa những điều phụ thuộc và bỏ qua những điều chính yếu, rồi dạy người khác như vậy: «Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình nhân ái và lòng chân thành» (Mt 23,23; x. 23,16-22). Họ thường chú trọng những hình thức bên ngoài, mà coi thường tinh thần ở bên trong: «Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ» (Mt 23,15). Họ vinh danh ca tụng các ngôn sứ thời xa xưa, nhưng lại ra tay bách hại và giết chết những ngôn sứ đồng thời với mình (x. Mt 23,29-31). V.v…
Những ngôn sứ giả này «lừa gạt được nhiều người» (Mt 24,11), «lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn» (Mt 24,24), bề ngoài «họ đội lốt chiên» nhưng «bên trong, họ là sói dữ tham mồi» (Mt 7,15). Để nhận diện họ, Đức Giêsu cho ta một tiêu chuẩn: «Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai» (Mt 7,16.20), nghĩa là căn cứ vào những việc họ làm, cách họ đối xử với nhau hoặc với người khác, thì biết họ là hay không là người của Thiên Chúa. Vì «cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,17-18). Đức Giêsu còn cho ta một tiêu chuẩn chắc chắn khác để biết ai là môn đệ đích thực của Ngài, là người của Thiên Chúa: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35). Như vậy, người không có tình thương, đối xử với tha nhân thiếu tình nghĩa, thì đó là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy họ không phải là ngôn sứ hay tông đồ đích thực.
4. Cảnh báo của Đức Giêsu: coi chừng bị lừa gạt
Đức Giêsu cảnh báo: «Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ» (Lc 21,8). Vào thời cuối cùng, sẽ có nhiều kẻ lường gạt, họ tự xưng là người của Chúa, đến từ Thiên Chúa, thậm chí có thể «làm những dấu lạ và những việc phi thường» (Mt 24,24b). Mục đích của họ, vô tình hay hữu ý, là làm người ta xa Chúa, xa chân lý, xa lìa tinh thần của Thiên Chúa. Phương cách của họ, như đã nói ở trên, là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc – vốn cũng rất tốt – để người ta quên đi hoặc không biết đến những điều chính yếu, cứ nhấn mạnh đến những phương tiện để làm người ta quên đi mục đích. Chẳng hạn, tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân là tinh thần quan trọng nhất, là cốt tủy của đạo Chúa, còn việc cầu nguyện, việc cử hành các nghi thức, v.v… là những phương tiện cần thiết để có thể sống yêu thương. Nhưng nhiều người chỉ nhấn mạnh đến những phương tiện đó, làm như đó là điều cốt tủy của đạo Chúa, khiến người ta quên mất hoặc coi nhẹ việc sống yêu thương. Nếu sử dụng phương tiện mà không biết hoặc không nhắm đạt đến mục đích, thì phương tiện ấy có ích lợi gì? Muốn viết một bài thì phải dùng cây viết, không có cây viết thì không viết bài được. Nhưng nếu cứ mải lo tìm cho thật nhiều cây viết, mà quên đi việc viết hay chẳng chịu viết gì cả, thì những cây viết ấy – dù nhiều hay quý giá đến đâu – nào có ích lợi gì?
Cốt tủy của đạo Chúa nằm ở chỗ yêu thương nhau, chứ không nằm ở chỗ cầu nguyện, các bí tích, các nghi thức, mặc dù những thứ này rất cần thiết để thực hiện được cái cốt tủy kia. Nhưng khi quá chú trọng đến những phương tiện đó, thì chúng sẽ trở thành nguyên nhân làm người ta quên đi mục đích chính yếu kia. Như thế, phương tiện thay vì dẫn đến mục đích thì lại làm người ta lạc hướng. Đức Giêsu không nói: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em cầu nguyện nhiều, cử hành hay lãnh nhận bí tích cho nhiều, v.v…» mà nói: «... là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35). Ngày phán xét, Thiên Chúa không xét xem ta có cầu nguyện hay lãnh nhận bí tích thế nào, mà chỉ xét xem ta yêu thương tha nhân thế nào (x. Mt 25,31tt; xem thêm 5,23-24: «Hãy để của lễ lại… đi làm hòa trước đã…»). Điều này cho thấy cốt tủy của Kitô giáo, của người tông đồ Chúa không phải là cầu nguyện hay thực hiện các bí tích cho bằng sống yêu thương. Coi cầu nguyện hay các bí tích quan trọng hơn cả tinh thần yêu thương là phản Kitô giáo.
Đạo Chúa bị biến chất và cuối cùng không phát triển được cũng vì có nhiều người đã hướng dẫn tâm linh không đúng với chiều hướng của Đức Giêsu, khiến cho đạo Chúa ở nhiều nơi chỉ còn là hình thức, là cái vỏ bên ngoài. Chính họ góp phần làm cho đạo Chúa bị suy tàn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu đã báo trước sự suy tàn của thế giới trong bài Tin Mừng trên, và sự suy thoái nơi đạo của Ngài trong câu: «Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?» (Lc 18,8b). Thánh Phaolô cũng cho biết: «Vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Hình thức của đạo thánh thì người ta còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ» (2Tm 3,1.5). Xin Cha giúp con và mọi Kitô hữu hiểu được cái chính yếu của đạo thánh Cha là gì, để con không chỉ giữ những hình thức bên ngoài, mà còn có được cả cái cốt yếu bên trong nữa. Xin đừng để đạo của Cha bị suy thoái nơi bản thân con.
Cách đây nhiều năm, một cuốn phim do Hollywood thực hiện đã chiếu về một thương gia nọ muốn mua tờ báo của tương lai. Thấy người ta mua báo, ông chợt nghĩ, “Không biết tôi có thể mua một tờ báo ngày mai trong hôm nay không?”
Với ý nghĩ chuyện đó có thể xảy ra, làm ông rất hứng khởi. Trong đầu óc ông hiện lên biết bao nhiêu việc thương mại tốt lành sẽ mở ra cho ông.
Tiếp đến một sự việc bất thường đã xảy ra. Một người đàn ông già nua tuổi tác bước vào văn phòng chỗ người thương gia đang đứng và đưa một tờ báo ngày mai trong hôm nay cho ông và nói: “Tôi đến để ban cho ông điều ông đang mơ ước.”
Đoạn sau của cuốn phim nói đến những việc đã xảy ra cho người thương gia kia, những kết quả của sự hiểu biết những việc tương lai làm cho cuộc sống của ông thay đổi và ông đã thành công trong việc kinh doanh.
Cũng giống như thế, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ Ngài điều tương tự như trong câu chuyện trên, qua bài Phúc âm hôm nay. Ngài đã cho các ông một cái nhìn thoáng qua về tương lai.
Điểm đặc biệt là Ngài đã cho các ông biết trước về việc sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem, một biến cố xảy ra sau đó bốn mươi năm , khi quân Rôma vây hãm và tàn phá tất cả. Đối với người Do thái, Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy thì cũng giống như là ngày tận thế.
Quả thật là vậy, Giáo hội dùng bài đọc hôm nay như là một bài chính cho Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ. Khi năm phụng vụ sắp sửa kết thúc, Giáo hội muốn chúng ta hãy để tâm đến cái ngày mà Chúa Giêsu sẽ tái giáng lâm trong vinh quang.
Trong khi nói về Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, Chúa Giêsu đã liên quan đến sự kiện Ngài sẽ trở lại trong ngày tận cùng của thế giới. Nói về ngày ấy, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: “Chính ta đây và thời giờ đã gần đến, các con chớ đi theo chúng.” Chúa Giêsu còn nói những người theo Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bắt bớ trước khi Ngài tái lâm: “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất.” Nhưng Chúa Giêsu cũng nói: “Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.”
Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức về vấn đề ngày tận cùng của thế giới. Chúng ta hãy chuẩn bị chờ đón không phải trong tư thế sợ sệt, bối rối, hoặc lo âu. Đúng hơn, nó mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị trong tư thế phó thác và tin tưởng. Trong tư thế phó thác, nghĩa là chúng ta biết đem những năng khiếu tài năng mà Chúa ban cho chúng ta để phục vụ cho Nước Thiên Chúa được hiện trị trên trần gian này. Trong tư thế tin tưởng, nghĩa là chúng ta thi hành những gì Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc âm hôm nay.
Bài Phúc âm hôm nay đưa vào tay chúng ta một tờ báo cho ngày mai. Bởi vì thế nên cuộc sống của chúng ta cần phải biến đổi. Nếu chúng ta biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, thì chúng ta sẽ được vinh quang chiến thắng và không sự gì có thể làm hại chúng ta.
Đó là tin mừng chứa đựng trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta không sợ hãi khi người khác ghét chúng ta bởi vì chúng ta có Chúa Giêsu. Chúng ta không sợ hãi khi Chúa Giêsu ngự đến trong đám mây vinh quang. Ngược lại, chúng ta sẽ có tất cả lý do để vui mừng, ca hát và hân hoan.
Vào khoảng năm 538 trước Công nguyên, sau khi được Hoàng đế Ba tư là Kyrô ban sắc chỉ ân xá, con cái Israen rời đất lưu đày Balylon, tiến về thánh điện, khởi công tái thiết quê hương xứ sở giữa muôn vàn gian nan khốn khó.
Đứng trước cảnh đổ nát hoang tàn của đền thờ, đất đai bị ngoại bang lấn chiếm, tinh thần của dân Do thái hồi hương không khỏi lao đao. May nhờ có sự hổ trợ của Ezra và Nêhêmia là hai người giàu có, thế lực dưới triều vua Artaxerxes, dân Israen đã xây lại được một phần nhỏ đền thờ Giêrusalem và thánh hiến nó vào koảng năm 516 trước Công nguyên (BC).
Thế nhưng, chưa hưởng trọn niềm vui tự trị và tự do, người Do thái lại bị các quốc gia hùng mạnh như Ai cập và Hy lạp quấy phá. Đến năm 169 BC, người Xyria do vua Anticô II dẫn đầu, đã tiến vào đánh chiếm cướp phá đền thờ. Một lần nữa đền thánh Giêrusalem lại rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát.
Mãi đến năm 63 trước Công nguyên, sau khi người Rôma chiếm đóng Palestine và đặt Hêrôđê làm quan tổng trấn cai trị vùng đất Giuđê, đền thờ mới được tái thiết nguy nga và được thánh hiến vào năm 19 BC.
Biết bao cẩm thạch, vàng bạc, gỗ quí, và công sức được đổ ra cho việc xây cất một đền thờ lộng lẫy, làm nên niềm tự hào và sức sống của cả dân tộc Israen. Trong cuốn sách “Những Cuộc Chiến của Người Do Thái”, sử gia Josephus đã mô tả về “niềm tự hào” đó như sau: “Mặt tiền của Đền thờ đủ làm choáng ngợp tâm trí và đôi mắt người ta. Nó được bọc bằng những miếng vàng lớn. Khi ánh thiều dương vừa tỏa sáng ở chân trời, thì cả đền thờ rực lên bởi những tia sáng phản chiếu, khiến những ai muốn nhìn thẳng vào đó cũng bị lóa mắt, đến nỗi họ phải quay đi. Đối với khách lạ, thì từ đàng xa, Đền thờ nổi bật lên như một núi tuyết trằng xóa. Không có phần nào mà không được chạm trổ hay bọc vàng.”
Đứng trên núi Cây Dầu nhìn xuống đền thờ rực rỡ trong ánh nắng huy hoàng, các môn đệ không khỏi buông lời trầm trồ khen ngợi. Nhưng, thay vì hòa điệu với những rung cảm trước vẻ hoa lệ của Đền thờ, Đức Giêsu lại tiên báo về một sự sụp đổ không tránh khỏi. Những gì thế gian cho là vững chắc và xinh đẹp chỉ là những thứ mỏng dòn và tạm bợ. Tất cả sẽ bị tàn phá. Ngay như công trình và “niềm tự hào” của Israen đây cũng sẽ bị sụp đổ, “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào” (Lc 21:6). Đức Giêsu đã tiên báo như thế.
Và sự gì đã xảy ra?
Năm 70 sau khi Chúa Giêsu sinh ra, tướng Titô đem đại quân Rôma đến vây hãm thành Giêrusalem. Dân chúng bị đói khát đến nỗi phải ăn thịt lẫn nhau. Kẻ nào tìm cách trốn khỏi vòng vây đều bị giết chết. Tính ra số người bỏ mạng lên đến 1.100.000, và số người bị bắt sau khi thành thất thủ là 97.000. Đền thờ bị lính Rôma phóng hỏa tan tành. Tướng Titô chỉ cho chừa lại một mảng tường thành để sau này con cháu Israen đến đó mà than khóc. Như thế, lời tiên báo của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm.
Nhưng sự sụp đổ của thànnh Giêrusalem chỉ là hình bóng của ngày thế tận. Rồi đây, sẽ chẳng còn thứ gì tồn tại. Thời gian sẽ hủy diệt tất cả. Sự sống, sắc đẹp, sức lực, sung sướng... của cuộc đời này đều mỏng dòn và ngắn ngủi. Mọi sự đều tiến về cái chết, dù nhanh hay chậm.
Vì thế, thánh Anphong từng nhắc đi nhắc lại: “Chỉ có một việc ta phải lo là việc rỗi linh hồn, vì mỗi người chỉ có một linh hồn mà thôi.” Thánh Phanxicô Saviê cũng nói: “Mỗi người chỉ có một linh hồn. Nếu được rỗi thì được hưởng thiên đàng, nếu bị mất thì phải sa hỏa ngục.” Xưa Vua Đavít suy về điều này mà thốt lên lời nguyện cầu: “Tôi chỉ ước trông một điều, đêm ngày tôi khấn xin, là cho tôi được vui sống trong nhà Chúa trọn đời” (Tv 26:4)
Nhưng để được ở trong nhà Chúa, tức là để chiếm được Nước Trời, người ta phải nỗ lực chiến đấu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Nước Trời ở dưới sức cường bạo,và những kẻ cường bạo chiếm đoạt lấy.” (Mt 11:12) Không gắng công chống trả ba thù, thiếu quyết tâm đi vào cửa hẹp, làm sao có thể tìm được thiên đàng đích thực.
Lạy Chúa, xin trợ lực chúng con chống trả ba thù, kiên vững niềm tin, hầu mai kia được hưởng niềm vui trường sinh trong Nước Chúa. Amen.
Cả thế giới hoảng hốt kinh hoàng khi nhìn qua màn ảnh truyền hình, cảnh khu phố Manhattan ở Newyork và khu Pentagon ở Washington bị không tặc dùng phi cơ đâm bổ xuống hôm 11.09.2001, gây cảnh đổ nát, cháy thiêu rụi, chết chóc hoang tàn. Có những phóng viên diễn tả cảnh tượng hãi hùng này như cảnh ngày tận thế trong sách Khải Huyền. Tất cả trở nên đổ nát bình địa. Lòng người ly tán hoang mang tưởng như mất luôn cả niềm tin. Vì đã mất tất cả, ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa và không còn gì là bảo đảm an toàn nữa ngay trong một xứ hoà bình, giầu có thịnh vượng với nền văn minh kỹ thuật tân tiến hàng đầu trên thế giới!
Có những người tự hỏi về ý nghĩa và mục đích của đời sống là gì? Không lẽ cuộc đời chỉ là cảnh tượng kinh hoàng chết chóc như vậy sao? Con người có thể tìm thấy một điểm tựa nơi niềm tin trong giờ phút hoang mang kinh hoàng không? Ai là người hướng dẫn, nâng đỡ cuộc đời con người?
Có những tâm hồn tuy sống hoang mang sợ hãi cùng tột, nhưng đã tìm thấy cho mình và cho người khác những lời an ủi gây niềm tin tưởng phấn chấn, như lời nguyện than thở:
Lạy Cha, niềm tin vào Cha dạy con: đời sống con phát nguồn từ nơi Cha và sau cùng qua ngưỡng của sự chết, tất cả trở về với Cha. Trong vòng tay Cha, tất cả tìm được nguồn an vui. Vì Cha là tình yêu vô bờ bến của đời sống con người! Cho dù bây giờ con người chúng con đang trong cảnh hoang mang lo âu, buồn sầu và không sao hiểu được sự gì đã đang và sẽ xảy ra…
Lời cầu khẩn này là nhân chứng của một tâm hồn tràn đầy niềm tin tưởng, niềm hy vọng vào tình yêu của Đấng Vô Hình, người hằng đồng hành với trong cuộc đời.
Lời cầu khẩn đầy tin tưởng và chan chứa niềm hy vọng này là ánh sáng soi chiếu cho ta, khi đọc hay nghe đoạn Tin Mừng nói về cảnh tượng thành Giêrusalem bị tàn phá hoang tàn đổ nát (Lc 21, 5-19). Đó chưa phải là ngày tận thế đâu. Tất cả nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Không có sự gì xảy ra mà không nằm trong sự quan phòng của Ngài.
Lời của Chúa là ánh sáng cho trần gian trong đêm tối của hoang mang lo sợ. Lời của Chúa mang lại cho tâm hồn sức sống niềm an ủi hy vọng.
Con người không nên nghĩ đến ngày tận thế, đến hoang tàn đổ nát, nhưng hãy nghĩ đến sự sống. Sự sống con người bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Và trong suốt dọc cuộc sống, Ngài hằng yêu thương đồng hành với. Nơi ngài có nguồn an ủi và nguồn bình an.
Đó là mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa mà tâm hồn ta chỉ cảm nghiệm thấy, mà trí khôn không hiểu thấu được.
Những tuần lễ cuối cùng của năm Phụng vụ, Mẹ giáo hội mời gọi con cái mình hướng đến thời cánh chung của lịch sử nhân loại, đồng thời cũng cho thấy một thế giới mới được khai sinh trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa hằng sống.
TỪ NHỮNG DẤU CHỈ THỜI ĐẠI…
Những người Dothái thời Chúa Giêsu tự hào với lối kiến trúc nguy nga, đồ sộ của Đền thờ Giêrusalem - công trình được vua Hêrôđê Cả trùng tu bắt đầu từ năm 20 trước công nguyên và mãi đến thời tổng trấn Rôma Albinus khoảng năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Như thế, thời Chúa Giêsu, Đền thờ vẫn chưa hoàn thành mà đã được nhiều người tấm tắc khen ngợi, đủ cho thấy vẻ hoành tráng của nó như thế nào sau khi hoàn tất. Thế nhưng Chúa Giêsu lại loan báo cho khách hành hương biết công trình mà họ đang chiêm ngưỡng rồi đây sẽ “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Lời loan báo đó thành hiện thực vào ngày 29.8.70, khi 4 đoàn quân của Titô, con hoàng đế Vétpaxianô bao vây thánh đô và bình địa. Dấu chỉ thời đại này phải chăng là lúc đánh dấu ngày tận cùng của thế giới, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người sẽ không còn nữa như những người thời Chúa Giêsu lo ngại và phải chăng đó là thời gian đánh dấu sự trở lại của Đức Kytô trong vinh quang như cộng đoàn thời thánh Luca đã đặt ra?
Chúng ta có thể thấy lập trường rõ ràng của Chúa Giêsu trong vấn đề này. Theo đó, tận thế là điều không thể tránh khỏi, nhưng việc Đền thờ bị phá huỷ, bị bình địa không hẳn là ngày tận thế như nhiều người lầm tưởng. Mặt khác, không chỉ có mỗi dấu chỉ về sự sụp đổ của Đền thờ, nhân loại sẽ phải đối mặt với những thăng trầm, biến động của lịch sử, nhiều dấu chỉ thời đại như ngôn sứ giả, chiến tranh loạn lạc, động đất, nổi loạn, ôn dịch, đói kém,… cũng như sự bách hại xảy đến. Thế nhưng dù tất cả những dấu chỉ thời đại ấy cứ lần lượt xuất hiện đúng như Chúa Giêsu loan báo, thì đó cũng chưa hẳn đã là ngày tận thế. “Những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu”. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng như vậy. Vấn đề ở chỗ, chúng ta phải đối diện với những thực tại này như thế nào.
… ĐẾN NIỀM HY VỌNG CHO NHỮNG AI KIÊN TRÌ
Người Kytô chắc chắn không đi ra khỏi dòng chảy của lịch sử nhân loại, và như thế, chúng ta cũng sẽ đồng hành, sẽ đối diện với những bước thăng trầm biến động, những dấu chỉ của lịch sử, của thời đại. Nếu như người khác nhìn những dấu chỉ đó để hoảng loạn, không có điểm tựa vì sợ hãi, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta “đừng sợ hãi”, và khi có bách hại thì cũng “đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào”. Người Kytô chúng ta luôn vững tin vào kế hoạch huyền nhiệm của Thiên Chúa toàn năng đối với lịch sử nhân loại. Kế hoạch đó cuối cùng sẽ viên mãn, sẽ thành công nếu chúng ta kiên trì giữ vững đức tin, tiến bước trong đường lối những huấn lệnh của Thiên Chúa.
Người Kytô chúng ta đứng trước những dấu chỉ của thời đại thay vì đi kiếm tìm những sự an toàn lệch lạc nơi những bùa chú, tin đồn nhảm nhí, chúng ta hãy làm như Chúa Giêsu đã dạy, là hãy biết đọc ra những dấu chỉ kia như khi người ta nhìn vào sự đâm chồi nẩy lộc của cỏ cây, người ta biết rằng mùa hè sắp đến; Cũng thế, đứng trước sự biến động của lịch sử cũng như sự bách hại, chúng ta hãy vui mừng và hân hoan, “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21, 28) vì niềm tin, niềm hy vọng cứu rỗi của chúng ta sắp trở thành hiện thực. Nước Thiên Chúa đang đến. Đức tin kiên vững và bền đỗ của chúng ta sẽ là chìa khoá để chúng ta bước vào diện kiến Thánh Nhan Thiên Chúa.
Mỗi một dấu chỉ thời đại xảy đến trong thế giới, trong giáo hội và trong cuộc đời mỗi con người luôn kèm theo lời nhắn nhủ của Thiên Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết “đọc” ra những dấu chỉ đó để có thể nhận ra đâu là thánh ý Chúa hầu mau mắn đáp lại lời mời gọi của Người cho xứng hợp.
Có một người nổi tiếng trong huyện có tài ba sạo. Quan cho gọi người ấy đến, một bên để mấy thỏi vàng, một bên để cây roi, và nói: “Ta nghe nói ngươi có biệt tài đánh lừa thiên hạ. Bây giờ ta thácy ngươi lừa được ta. Nếu thành công ta sẽ thưởng cho người mấy chục lượng vàng, ngược lại, nếu thất bại ta sẽ quật cho mấy chục hèo?” Người kia vội kêu lên: “Bẩm quan, thật oan cho con. Con nào có tài cán gì đâu! Chẳng dấu gì ngài, ông nội của con hồi xưa có đi sang Tầu, và mang về một cuốn sách kể các chuyện lạ ở xứ ấy. Con đọc sách rồi kể cho người ta, nên bị mang tiếng oan đó thôi! Xin ngài minh xét cho con!.” Quan huyện trả lời: “Được rồi, vậy thì ngươi hãy về lấy quyển sách đến đây cho ta xem!.” Lúc đó người kia cười lên khanh khách, nói: “Quan bị lừa rồi! Con đâu có sách vở gì đâu!” Quan đành chịu thua, trao cho người ta số vàng.
Lừa lọc gian dối là thói thường của người đời, nhưng đối với các Kitô hữu, tính chân thật phải chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống. Chân thật là sống theo chân lý, mà chân lý trên hết là chính Thiên Chúa. Vì chân lý người Kitô hữu sẵn sàng chịu hy sinh mạng sống. Đó có nghĩa rằng chân lý có giá trị cao hơn sinh mạng. Chúa Kitô đã nhắc nhở rằng chúng ta sẽ bị ghét bỏ vì danh Ngài, nhiều người sẽ bị giết. Điều đó xảy ra vì có sự hiện diện của thần dối trá, Satan, trong thế gian. Thế lực của sự dối trá thật lớn mạnh, như chúng ta thấy torng thế giới ngày nay. Nhiều vị nguyên thủ quốc gia đã trở nên công cụ cho thần dối trá sai khiến. Chính vì vậy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cảnh cáo thế giới về “văn hóa sự chết” đang chiếm ưu thế trong tâm tư con người ngày nay.
Trong tác phẩm Ngư ông và Biển cả, văn hào Hemingway mô tả một ông lão nghèo khổ, khô gầy, chân tay nứt nẻ vì cọ sát dây câu... Hàng chục ngày câu cá, không được con nào, lão còn bị bọn dân chài chế nhạo. Không nản chí, quyết câu được cá to, lão ra tít mù khơi, thả câu, chờ tới chiều, bỗng dây câu giựt mạnh: lão suýt té, bám lấy mạn thuyền, thuyền bị kéo chạy phăng phăng. Lưng vai, tay lão bị dây xiết chặt, lão vừa đói khác, vừa mệt lã. Có lúc lão thiếp đi. Ba ngày sau, cá đuối sức, lão đâm, chm, đập xiên xọc cho cá chết, rồi buộc vào mạn thuyền lôi cá về. Con cá kiếm dài hơn thuyền, nặng tới sáu bảy tấn. Lão vui mừng, khỏe hẳn lại. Ngờ đâu bọn cá mập đánh hơi thấy mùi máu tanh nhào lại rúc rỉa. Lão chống trả quyết liệt với bọn sư tử biển này. Cá mập bỏ chạy, nhưng cá kiếm của lão chỉ còn lại bộ xương. Lão kéo lên bờ. Người ta trầm trồ trước bộ xương vĩ đại với đuôi cá khổng lồ. Còn lão, lão ngủ thiếp đi trong giấc mộng lởn vởn với đàn sư tử biển.
Mỗi người chúng ta là một lão ngư ông trên biển đời mà Đức Giêsu đã diễn tả trong bài Tin Mừng, cho chúng ta thấy những sức mạnh tàn phá kinh khủng của nó.
1.Trước hết là sức mạnh tàn phá của thời gian: Thời gian sẽ tàn phá hết mọi sự trên đời, đền thờ Giêrusalem là một điển hình. Người ta trầm trồ khen ngợi đền kiên cố, đồ sộ, còn mới nguyên, được trang hoàng bằng cẩm thạch bóng loáng, chạm vàng óng ánh và trầm hương thơm ngát. Nhưng Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết. Không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.”
Lịch sử đền thờ Giêrusalem đã trải qua những bước thăng trầm, để rồi bị tàn phá trụi. Đền thờ thứ nhất được vua Salômôn xây cất kỳ công kiệt tác, để rồi vua abucôđônôsô kéo quân đến tàn phá và bắt dân Do thái đi đầy ở Babilon.
Đến thời vua Kyrô và Darius nước Ba Tư, dân được về xây cất lại đền thờ dưới quyền chỉ huy của Zorababen (năm 520-515): Đây là đền thờ thứ hai rất sơ sài, sau lại bị quân Anticô IV chiếm cứ tế thần Zeus Olympic; năm 169 anh em Juda Macabê nổi lên đánh đuổi bọn xâm lăng và tẩy uế đền thờ năm 164.
Đến thời Hêrôđe đại đế, đền được xây lại nguy nga lớn hơn đẹp hơn, để rồi quân Rôma do tướng Titus đến đốt sạch, phá hết vào năm 70 sau Đức Giêsu.
Cuộc đời con người còn mong manh mỏng dòn, dễ bị tàn phá hơn đền thờ rất nhiều.
2.Thứ đến là sức tàn phá của lừa gạt, giả dối, giả mạo. Mấy anh Việt kiều kể: có giáo phái giúp Việt kiều rất tử tế để rủ theo họ, nhưng khi theo rồi phải đóng thuế nặng như đóng thuế cho nhà nước. Nhiều người đã mắc bẫy lừa gạt như vậy.
Lịch sử còn cho biết: bao nhiêu dân lành đã thiêu thân trong những cuộc chiến đẫm máu vì những lời lừa gạt; chiến đấu vì bảo vệ tôn giáo, chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, bảo tồn dân tộc, chiến đấu cho tự do dân chủ... Những khẩn hiệu đẹp đẽ lừa gạt đó ngầm chứa những tham vọng cá nhân làm bá chủ, độc tài, gia đình trị, như Napoléon, Hitler, Polpot...
Thời xa xưa, tiên trei Mikayahu cảnh cáo vua Akhab chớ xâm chiếm thành Ramat Galat. Akhab không nghe, ông triệu tập được bốn trăm tiên tri giả nịnh bợ bảo vua: “Tiến lên, Đức Chúa sẽ nộp thành trong tay đức vua.” Akhab đi đánh bị quân Ramat bắn chết (1 V 22:5-37).
Tiên tri Giêrêmia cũng nói thật với vua Sêđêquia chớ liên minh với Ai cập. “Nhưng các tiên tri giả vô đạo, ngoại tình, dối trá, củng cố lũ ác ôn của nhà vua bằng lời lừa gạt rằng: “Thành Giêrusalem sẽ được bình an vô sự, không có tai họa nào cả.” Chẳng bao lâu quân của vua Nabucôđônôsô kéo đến phá tan thành, vì đã liên minh với Ai cập chống lại Babilon. Và tất cả dân chúng bị bắt đi đầy sang Babilon.
Người ta vẫn nói: “Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang” (Một lời làm đất nước hưng thịnh, một lời đủ sức phá tan đất nước.) Trước sức mạnh tàn phá của lời nói lừa gạt, Đức Giêsu dạy các môn đệ và chúng ta phải hết sức đề phòng bọn tiên tri giả, những lời dụ dỗ đường mật, lời mị dân, lời nịnh bợ lôi cuốn chúng ta vào mê hồn trận, khiến chúng ta kiêu ngạo, lầm lạc nâng mình lên để rồi sẽ bị ngã nhào: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: Chính Ta đây, anh em chớ theo họ”.
3.Sức tàn phá thứ ba là sự khủng bố của con người: sau giai đoạn lừa gạt thì đến khủng bố. Theo kẻ lừa gạt, hay không theo thì cũng chết: “Anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” Người ta sẽ bắt và ngược đãi anh em... Họ sẽ giết một số trong anh em. Sự khủng bố nầy được mô tả bằng thù ghét, bắt bớ, ngược đãi, xét xử, tù đầy và giết đi. Sự khủng bố này do tất cả mọi hạng người, từ vua chúa quan quyền, các người của hội đường, của nhà tù, và đau sót hơn nữa có cả những người thân yêu ruột thịt như cha mẹ, bà con và bạn hữu nhúng tay vào bắt nộp. Họ khủng bố anh em chỉ vì lý do anh em đã theo Thầy vì danh Thầy. “Đó là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.” Đây là cơ hội vàng ngọc để anh em nên giống Thầy: Thầy đã biến thân xác loài người nên thân xác Đấng Cứu Thế, đã biến khổ giá thành giá cứu chuộc, khiến lưỡi đòng thâu trái tim, cho máu và nước chảy ra rữa sạch tội loài người, cho trái tim mỡ ra yêu thương loài người, cho mão gai thành triều thiên, cho sự chết thành sự sống lại. Anh em cũng phải biến thân xác mình thành của lễ hy sinh, biến ngược đãi thành yêu thương, biến khổ hình thành Thánh giá, để làm chứng về Thầy. Cố kiên trì làm chứng như thế, anh em mới giữ được mạng sống mình trong vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời lênh đênh giữa những sức tàn phá của biển đời. Xin cho con luôn nghe được tiếng Chúa nói: “Thầy đây, đừng sợ”, để con vững tin sống xứng đáng là chứng nhân của Người. Amen.
Như hai bài chia sẻ hai tuần trước đã nhận định, theo tiến trình Phụng Niên, chúng ta đang cùng với Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô liên quan đến Mầu Nhiệm Cánh Chung. Theo Phụng Vụ Lời Chúa đã, đang và sẽ được công bố trong bốn tuần cuối cùng này, hai tuần trước chúng ta đã cảm nghiệm Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ơn Cứu Độ, tuần trước chúng ta tiến đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Xác Phục Sinh, tuần tới, tuần cuối cùng của Phụng Niên, Lễ Chúa Kitô Vua, Mầu Nhiệm Cánh Chung được kết thúc ở việc Chúa Hiển Trị, tuần này, chúng ta sang đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ngày Thế Mạt. Về Ngày Thế Mạt, nếu lý trí có thể suy luận và nhận biết có Đấng Tối Cao thế nào, thì tự nó cũng có thể suy biết về Ngày Thế Mạt như vậy. Bởi vì, theo lý luận tự nhiên, dựa trên kinh nghiệm thực tế, vật chất hữu hình, dù là mặt trời và tinh tú trên khung trung bao la hầu như bất tận đi nữa, cũng không thể nào vĩnh viễn tồn tại được, nghĩa là tất cả mọi sự trên thế gian này, trong vũ trụ này, thuộc phạm trù thời gian và không gian này, phải có lúc cùng tận, cũng như chúng đã có lúc xuất hiện vậy, bằng không, nếu chúng không bao giờ cùng, chúng phải tự mình mà có, tức chúng toàn là và phải là những hữu thể tối cao, là nguyên lý đệ nhất, vô cùng bất tận như Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa mất rồi. Tuy nhiên, nếu giới hạn của lý trí chỉ có thể nhận biết Thiên Chúa hiện hữu mà thôi, chứ tự mình không thể biết Ngài thực sự như thế nào, nếu chính Ngài không tự ý mạc khải cho con người biết, thì về Mầu Nhiệm Cánh Chung liên quan đến Ngày Thế Mạt cũng thế, con người không thể nào biết được Ngày Thế Mạt sẽ xẩy ra như thế nào và xẩy ra vào lúc nào (qua những dấu hiệu báo trước), nếu không có Mạc Khải Thần Linh.
Đúng thế, bài Phúc Âm theo Thánh Luca của Chúa Nhật 33 Mùa Thường Niên Năm C hôm nay cho chúng ta thấy Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ngày Thế Mạt, khi thuật lại những gì Chúa Giêsu nói về số phận của đền thờ Giêrusalem “một ngày kia” sẽ hoàn toàn bị tàn rụi cùng với những dấu hiệu báo trước thời điểm tận cùng này. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, khi nói về số phận hoàn toàn bị tàn rụi của Giêsurusalem, Chúa Giêsu có ám chỉ về Ngày Thế Mạt hay chăng, vì đền thờ này đã bị tướng Titô của đế quốc Rôma thiêu hủy từ năm 70 AD? Nếu quả thực Người có ý ám chỉ về Ngày Thế Mạt, thì hình ảnh đền thờ Giêrusalem ở đây là gì, hay nói cách khác, tại sao Chúa Giêsu lại dùng hình ảnh đền thờ Giêrusalem để nói về Ngày Thế Mạt? Tại sao Ngày Thế Mạt lại chỉ xẩy ra những biến cố hay những hiện tượng được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay mà thôi, chứ không phải là những biến cố hay những hiện tượng nào khác?
Khi nói về số phận hoàn toàn bị tàn rụi của Giêsurusalem Chúa Giêsu có ám chỉ về Ngày Thế Mạt hay chăng, vì đền thờ này đã bị tướng Titô của đế quốc Rôma thiêu hủy từ năm 70 AD?
Căn cứ vào chính bài Phúc Âm của Thánh Luca hôm nay, người ta có thể kết luận là Chúa Giêsu quả thực nói về Ngày Thế Mạt qua hình ảnh tàn rụi của đền thờ Giêrusalem. Trước hết, kết luận này được căn cứ vào câu Người, sau khi cho biết về những dấu hiệu xẩy ra trước đó, tức trước khi đền thờ bị tàn rụi, liền khẳng định, “Những điều này phải xẩy ra trước, thế nhưng cùng tận không xẩy ra ngay sau đó”. Thế nhưng, những dấu hiệu như Chúa Giêsu cho biết sẽ xẩy ra báo trước biến cố đền thờ Giêrusalem bị tàn rụi, một tình trạng hoàn toàn bị tàn rụi đến nỗi “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào” như Người diễn tả ấy, những dấu hiệu mà, theo lịch sử, thật sự đã không có, như hiện tượng kitô giả xuất hiện cùng với các cuộc chiến tranh nổi loạn xẩy ra, kèm theo những thiên tai, như động đất, dịch tễ, đói kém. Bởi thế, như trên đã nhận định: “người ta có thể kết luận là Chúa Giêsu quả thực nói về Ngày Thế Mạt qua hình ảnh tàn rụi của đền thờ Giêrusalem”. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói ở khúc cuối trong cùng đoạn Phúc Âm Thánh Luca này, những lời không có trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng cho chúng ta thấy rõ ngụ ý của Người. Chẳng hạn như những lời này: “Giêrusalem sẽ bị Dân Ngoại chà đạp cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn… Người ta sẽ chết đi vì sợ hãi khi nghĩ đến những gì xẩy ra trên mặt đất. Các năng lực trên bầu trời sẽ bị lay chuyển. Sau đó, người ta sẽ thấy Con Người đầy uy quyền và vinh hiển đến trên mây trời…”
Nếu quả thực Người có ý ám chỉ về Ngày Thế Mạt, thì hình ảnh đền thờ Giêrusalem ở đây là gì, hay nói cách khác, tại sao Chúa Giêsu lại dùng hình ảnh đền thờ Giêrusalem để nói về Ngày Thế Mạt?
Phúc Âm Nhất Lãm nói chung và Phúc Âm Thánh Luca hôm nay nói riêng không cho chúng ta biết rõ ràng lý do tại sao Chúa Giêsu lại dùng hình ảnh đền thờ Giêrusalem để nói về Ngày Thế Mạt. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Luca, như câu đầu của đoạn vừa trích dẫn, chúng ta thấy được thêm một chi tiết quan trọng, đó là: “Giêrusalem sẽ bị Dân Ngoại chà đạp cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn…”. Theo lịch sử, quả thực Giêrusalem đã “bị Dân Ngoại chà đạp” vào năm 70 AD, qua cuộc thiêu hủy của một vị tướng dân ngoại là Titô thuộc Đế Quốc Rôma. Thế nhưng, tình trạng Giêrusalem “bị Dân Ngoại chà đạp” như thế, một tình trạng “cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn” đây phải hiểu như thế nào? Thực tế cho thấy, Đền Thờ Giêrusalem ở Đất Thánh bị phá hủy năm 70 AD ấy cho đến nay vẫn chưa được xây cất lại, nghĩa là vẫn còn ở trong tình trạng “bị Dân Ngoại chà đạp”, chứ chưa được tái thiết như đã xẩy ra lần đầu vào năm 538 BC, sau cuộc Lưu Đầy Babylon của Dân Do Thái, như được thuật lại trong Sách Ezsa và Nêhêmia. Phải chăng sự kiện “cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn” đây liên quan đến lời tiên báo của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma đoạn 11 câu 25: “cho đến khi đủ số Dân Ngoại thì bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu độ”?
Nếu hiểu theo nghĩa “đủ số Dân Ngoại” này thì Dân Ngoại đây không ai khác hơn Kitô Giáo, một Dân Tân Ước do Chúa Kitô triệu tập làm nên Giáo Hội của Người, một Giáo Hội được Người dựng xây trên đá tảng Phêrô cũng như trên nền tảng Tông Đồ (xem Mt 16:18; Eph 2:20). Vậy “cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn” đây, hay “cho đến khi đủ số Dân Ngoại” đây, phải chăng, tức là cho đến khi Giáo Hội Chúa Kitô hoàn tất sứ vụ của mình? Đúng thế, nếu Chúa Giêsu “đã hoàn tất” (Jn 19:30) sứ vụ của Người bằng thập giá và trên thập giá thế nào, thì Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, với thân phận “tôi tớ không thể hơn chủ nhân” (Jn 15:20), Giáo Hội cũng sẽ hoàn tất thời điểm của mình trong quằn quại thương đau. Ở chỗ, như chính Giáo Hội đã cảm nhận qua Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675 thế này: “Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy ‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”.
Tại sao Ngày Thế Mạt lại chỉ xẩy ra những biến cố hay những hiện tượng được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay thôi, chứ không phải là những biến cố hay những hiện tượng nào khác?
Tại vì những biến cố hay những hiện tượng cuối thời được Chúa Giêsu đề cập đến ở đây, trong Phúc Âm Nhất Lãm nói chung, cũng như trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay nói riêng, có liên quan đến vấn đề “thời điểm Dân Ngoại được nên trọn”, một thời điểm cũng đã được chính Giáo Hội cảm nghiệm và diễn tả trong câu Giáo Lý vừa trích dẫn trên đây. Đọc lại bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy bốn hiện tượng chính yếu sau đây: kitô giả, chiến tranh nổi loạn, thiên tai và bách hại Kitô giáo. Trong bốn hiện tượng này, có hai hiện tượng hoàn toàn tương phản nhau, đó là hiện tượng tiên tri giả và hiện tượng bách hại Kitô giáo. Không phải hay sao, trong khi hiện tượng kitô giả cho thấy rất nhiều Kitô hữu chẳng những không sống đúng với đức tin của mình mà còn rao truyền những điều sai lạc, “hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật”, như ủng hộ hay chủ trương thần học giải phóng, đồng tính luyến ái, đồng tính kết hôn, ngừa thai nhân tạo, phá thai, ly dị v.v. , thì ngược lại, cũng có không ít Kitô hữu lại rất hiên ngang với đức tin của mình, thậm chí dám lấy chính mạng sống mình để làm chứng cho chân lý, như đã từng và vẫn còn đang xẩy ra cho Kitô hũu khắp nơi hiện nay, chẳng những ở ngay trong thế giới văn minh vật chất duy nhân bản pro-choice, phò quyền tự quyết tối thượng của mình, “một chủ trương ngụy kitô làm cho con người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài”, mà còn ở tại những nơi dầu sôi lửa bỏng tính cách cực đoan trong việc kỳ thị và sát hại tôn giáo nữa.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh Giáo Hội Chúa Kitô, và nếu Tân Đền Thờ Giêrusalem là Giáo Hội Chúa Kitô này sẽ bị hoàn toàn tiêu rụi “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”, thì phải chăng lời tiên báo này, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo công nhận “Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu”, thật sự có liên hệ hết sức mật thiết với lời Chúa Kitô vấn nạn, cũng trong Phúc Âm Thánh Luca ở Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm C cách đây 4 tuần, đó là vấn nạn: “Khi Con Người đến, không biết Người có còn tìm thấy đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?” Nếu đúng như thế thì phải chăng bao giờ chúng ta thấy dấu hiệu Giáo Hội bị trầm trọng khủng hoảng đức tin, như trường hợp năm cô phù dâu khôn ngoan trong khi chờ đợi chàng rể đến vào lúc nửa đêm, lúc đen tối nhất, cũng ngủ thiếp đi với năm cô dại khờ bên cây đèn đức tin hoàn toàn bị tắt lịm của các cô (xem Mt 25:5,7), bấy giờ chúng ta nắm chắc được rằng đó là lúc Chúa Kitô sắp sửa tái giáng đến nơi rồi vậy…?
(Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org buổi phát thanh thứ sáu mươi hai, Chúa Nhật 18/11/2001)
Trong năm vừa qua, hàng trăm ngàn người đã thiệt mạng bởi những tai ương hoạn nạn xẩy ra đó đây truên thế giới. Có nhiều người cho rằng đây là những dấu hiệu của ngày tận thế sắp xẩy ra trong một ngày gần đây. Vì Chúa đã nói khi ngày tận thế đến, “sẽ có những trận động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể” (Lc 21:11). Điều này khiến cho lòng chúng ta phải băn khoăn và tự vấn, phải chăng ngày tận thế đã đến gần? Nhưng trong thực tế, chúng ta sẽ không bao giờ biết rõ ngày giờ Chúa đến, như Lời Chúa đã phán: “Về ngày giờ ấy không ai biết, kể cả thiên thần trên trời, và cả Con Người nữa, chỉ Thiên Chúa Cha biết” (Mt 24:36)
Nghĩ đến ngày tận thế, nhiều người cảm thấy rùng mình khiếp kinh. Cũng trong đoạn Phúc âm này, Chúa nói: “Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc thì đừng sợ hãi” (Lc 21:9). Chúa luôn luôn biết chúng ta suy tưởng và cảm nghĩ gì; Ngài biết chúng ta đang sống trong tình trạng lo lắng và sợ hãi. Nỗi lo lắng băn khoăn về tương lai là một chuyệt rất tự nhiên. Theo lẽ thường, bất cứ điều gì chúng ta không thể nắm chắc trong tầm tay đều làm cho chúng ta cảm thấy băn khoăn lo lắng. Trong tâm tư chúng ta có thể có những khúc mắc về tương lai như: Tận thế bao giờ đến ? Nếu ngày tận thế đến, tôi có sẳn sàng chưa?...v.v. Chúng ta không nên lo lắng sợ sệt ngày Chúa đến, nhưng ngược lại hãy nên rộng mở cánh cửa tâm hồn để sẳn sàng đón Chúa. Nếu chúng ta sống trong tâm tình phó thác cậy trông vào sự quan phòng của Thiên Chúa thì không có điều gì đáng cho chúng ta phải lo ngại. Quá khứ, hiện tại, và tương lai của chúng ta đều nằm trong vòng tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.
Lo lắng để dọn mình sẵn sàng cho ngày Chúa đến là điều cần thiết và rất quan trọng; vì Chúa đã nói: “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày giờ Chủ các ngươi đến. Hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm sẽ vào, hẵn ông đã tỉnh thức và không để chúng đào ngạch khoét vách nhà ông. Vì thế các ngươi cũng vậy, hãy sẵn sàng vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:42-44). Nhưng tại sao chúng ta lại sợ đến ngày tận thế? Phải chăng vì chúng ta đã chưa ý thức sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố thường ngày của chúng ta? Mỗi người hãy gắn liền cuộc đời của mình với sức sống thần linh của Thiên Chúa; để qua những biến cố hân hoan vui mừng cũng như buồn phiền đau khổ chúng ta đều nhìn ra bàn tay yêu thương và quyền năng của Chúa trên cuộc đời chúng ta. Những ai vẫn kết hiệp với Chúa trong cuộc sống hằng ngày cũng sẽ được kết hiệp với Chúa trong ngày Chúa đến. Và Chúa sẽ đến trong vinh quang để đem sức sống của Ngài cho chúng ta. Chúa phán: “Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào.” (Jn 10:10)
Hãy để Chúa dẫn dắt chúng ta trên con đường thánh ý của Ngài. Nếu Chúa cùng đồng hành với chúng ta trên bước đường đời thì dù hôm nay, ngày mai, hoặc năm tới tận thế cũng chẳng sao.
Chúng ta hãy can đảm để sống từng giây phút trong niềm vui và an bình. Hãy phó thác và giữ vững niềm tin nơi Chúa trong mọi biến cố thăng trầm của cuộc sống. Để qua những việc hết sức tầm thường của cuộc sống trần thế ấy chúng ta sẽ nhìn ra sự cao cả phi thường của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, cuộc đời con Chúa đã an bài. Con xin phó thác quá khứ, hiện tại, và tương lại đời con trong ân tình Chúa. Lạy Chúa là cùng đích và là tất cả của đời con, xin ban cho con một tấm lòng luôn khát khao yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy giữ gìn và ban cho con một tâm hồn trong sạch để bất cứ lúc nào Chúa đến con đều sẵn sàng.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã tiên báo về sự tàn phá đền thờ Giêrusalem,: TN 33-C20
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã tiên báo về sự tàn phá đền thờ Giêrusalem, cũng như về ngày tận cùng của vũ trụ vật chất.
Trước ngày trọng đại ấy sẽ có những biến cố xảy ra: nào là các tiên tri giả xuất hiện, nào là chiến tranh, động đất, bệnh tật và đói kém, nào là bắt bớ và cấm cách cho những người môn đệ của Chúa. Tuy nhiên điều làm cho chúng ta tò mò và băn khoăn hơn cả đó là bao giờ thì ngày trọng đại ấy sẽ đến?
Đứng trước câu hỏi này Chúa Giêsu đã không trả lời, vì đó là một bí mật, một mầu nhiệm trong quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta thường phản ứng ra sao, chúng ta thường sống như thế nào trước vấn đề này? Trải qua dòng lịch sử chúng ta có thể ghi nhận được ba loại phản ứng, ba kiểu sống khác nhau.
Kiểu sống thứ nhất của những người cho rằng đó chỉ là một câu chuyện viển vông, bịa đặt. Họ sống như là không phải chết bao giờ, và vũ trụ này sẽ tồn tại mãi mãi. Họ bình thản lặn ngụp trong tội lỗi và thoả sức thực hiện những mưu đồ gian tham của mình, để rồi cuối cùng, bừng con mắt dậy thấy mình tay không, họ sẽ mất cả chỉ lẫn chài, cả vốn lẫn lãi, cả đời này lẫn đời sau.
Kiểu sống thứ hai của những người cho rằng ngày tận thế sắp đến nơi rồi, và họ trở thành như tê liệt, không còn thiết tha gì đối với cuộc sống hôm nay. Việc quan trọng đối với họ đó là chờ đợi ngày Chúa sẽ đến. Đây cũng là thái độ của một số các tín hữu sơ khai, làm cho họ trở thành bi quan và chán nản.
Kiểu sống thứ ba phải là kiểu sống của chúng ta. Vậy thì kiểu sống ấy như thế nào? Trước hết chúng ta xác tín rằng: Bản thân chúng ta cũng như vũ trụ vật chất này, đã có một khởi đầu thì cũng sẽ có một kết thúc. Bao giờ thì kết thúc ấy sẽ xảy ra, thiết tưởng chúng ta không cần biết đến, điều quan trọng trong giây phút hiện tại đó là chúng ta phải biết chuẩn bị để chúng ta sẽ không trở thành những kẻ bị thua lỗ khi ngày trọng đại ấy xuất hiện.
Chúng ta chuẩn bị bằng cách khử trừ thói hư tật xấu. Chúng ta chuẩn bị bằng cách thực hiện những hành động bác ái yêu thương giúp đỡ những người chung quanh. Làm như thế, chúng ta tích góp phần xây dựng cho xã hội này mỗi ngày một tốt đẹp, cũng như nhờ đó mà chúng ta thực hiện được mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta, là sẽ được trở về cùng Chúa trên quê hương Nước Trời.
Như thế, niềm tin tưởng vào Chúa lại đến trong vinh quang, sẽ không làm cho chúng ta bị tê liệt, hay thất vọng chán ngán, trái lại sẽ làm cho chúng ta thêm hăng hái, thêm phấn khởi để chu toàn những bổn phận trần thế của mình bởi vì hiện tại sẽ xác định cho tương lai. Ngày mai của chúng ta có tươi sáng hay không là do tất cả những gì chúng ta đang cố gắng xây dựng trong hiện tại, trong hôm nay, bởi vì tương lại phải được bắt đầu từ hiện tại và ngay mai phải được bắt đầu từ hôm nay.
Chúa nhật 33 TN/C: 18-11-01 / The destruction of Jerusalem
Lời Chúa cho hôm nay: SỰ SỤP ĐỔ CỦA THÀNH GIÊRUSALEM.
Bài đọc 1: Mal.3, 19-20= Ngày của Chúa đang đến / The day of the Lord is coming.
Bài đọc 2: 2 Thess.3, 7-12=Anh em phải bắt chước tôi / You know, ought to imitate us.
Tin Mừng: Luca 21, 5-19= Sự cúu độ trong Đức Giêsu / Salvation in Christ.
A- Cảm nghiệm sống và chia sẻ 3 bài đọc trên: ( Reflection, live out and share )
1/ Đức Giêsu nói về Đền Thờ Giêrusalem: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó có ngày sẽ bị tàn phá hết…” Tôi đã thấy những gì Chúa đang đề xảy ra trong thế giới vật chất này? Tại sao vậy.?
Jesus said: “These things you are contemplating, the day will come. . . ( Lc. 21, 5-6 )
2/ Đức Giêsu nói tiếp: “Khi anh em nghe có chiến tranh lọan lạc thì đừng sợ hãi, vì những việc đó phải xảy ra trước… Bạn làm gì khi thấy chiến tranh, khủng bố đang xảy ra? Gia đình cần gì nơi bạn?
Neither must you be pertubed when you hear of wars and insurrections. ( Lc. 21, 9 )
3/ Thánh Phaolô khuyên: “Chính anh em thừa biết là Anh em phải bắt chước chúng tôi, chúng tôi đã không sống vô kỷ luật. “ Biến cố đang dốn dập xảy ra đã gíup gì cho tôi? Tôi đã sửa sai những gì?
You know how you ought to imitate us. We did not live of disorder when we were among you. ( 2 Thess..3, 7 )
4/ Sách Tiên tri Malakhi viết: “Vì này ngày ấy đến, đốt cháy như hỏa lò, mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ…Nhiều người bị chết cháy trong các tại nạn đã nói với tôi hôm nay?
Lo, the day is coming, blazing like an oven, when all the proud and all evildorers will be stuble. ( Mal. 3, 19-20)
B- Câu Kinh thánh đánh động tôi nhất chọn làm Châm ngôn Sống: ( The Best God’s Word )
CÓ KIÊN TRÌ, ANH EM MỚI GIỮ ĐƯỢC MẠNG SỐNG MÌNH. ( Luca 21, 19 )
By patient endurance you will save your lives.
C- Tôi phải làm gì để thực hành Lời Chúa tuần naỳ: ( So what am I doing / For action )
Tôi chọn 1 trong 4 gợi ý Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
( Tôi tập bỏ tính kiêu căng, tránh tham lam vật chất, không nói xấu, nghĩ tốt,làm tốt, gíup đỡ nhau … )
D- Tôi cầu nguyện và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice )
1- Lạy Chúa, Đức Giêsu đã nói: những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó có ngày sẽ bị tàn phá hết… Xin cho con đừng qúa tôn trọng vật chất; nhưng dùng nó là phương tiện làm vinh danh Chúa.
2- Lạy Chúa, Chúa đã dạy: khi có Chiến tranh loạn lạc đang xảy ra thì đừng sợ hãi, vì những sự đó phải xảy ra trước. Xin giúp con bền chí, can đảm chịu đựng theo Chúa và luôn sửa đổi chính mình.
3- Sách tiên tri Malachi đã viết: Mọi kẻ kiêu ngạo và làm điều gian ác sẽ như rơm rạ và ngày ấy sẽ như hỏa lò thiêu rụi chúng. Xin cho con biết kính sợ Chúa và luôn lánh dữ làm lành để phục vụ nhau.
- Bài đọc I: Khi Ngày của Chúa đến, những kẻ gian ác sẽ bị tiêu diệt, còn những người công chính sẽ được vinh quang.
- Đáp ca: Chúa ngự đến xét xử muôn dân theo lẽ công bình.
- Bài đọc II: Trong khi đón chờ Ngày đó, tín hữu không được lười biếng mà trái lại càng phải tích cực làm việc.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu tiên báo - bằng cách diễn tả khải huyền - về ngày thành Giêrusalem bị tàn phá và về những điều xảy ra trước khi Ngày của Chúa đến.
Sống theo năm Phụng vụ giống như làm một cuộc hành trình. Hôm nay đã gần hết năm Phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, còn được gọi là ngày tận thế.
Chúng ta thường nghe người ta bàn tán về ngày tận thế, với những hiện tượng khủng khiếp và những tai ương rất đáng sợ. Nhưng thực ra ngày đó có khủng khiếp không, khi nào nó đến và chúng ta phải chuẩn bị đón ngày đó ra sao ? Đó là những vấn đề mà Lời Chúa hôm nay sẽ giải thích cho chúng ta.
Nhưng trước hết, như thường lệ, chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng tâm tình sám hối lội lỗi chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta sống như đám lục bình trôi, nghĩa là không nghĩ đến chặng cuối của cuộc hành trình đời mình.
- Nhìn lại một năm phụng vụ sắp hết, chúng ta thấy mình đã có rất nhiều thiếu sót.
- Trước những hoàn cảnh khó khăn, chúng ta đã chán nản và hầu như mất lòng tin.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ml 3,19-20a)
Trích đoạn này nói về "Ngày của Chúa". Thuật ngữ này được Thánh Kinh dùng khá nhiều, với ý nghĩa là lúc Thiên Chúa chính thức ngự trị. Thánh Kinh mô tả ngày đó bằng những hình ảnh của văn thể khải huyền với ý nghĩa ám chỉ, nên ta không nên hiểu theo nghĩa đen. Ý nghĩa chính của những hình ảnh đó là:
- Khi đó Thiên Chúa sẽ tiêu diệt những thế lực gian tà.
- Và Khi đó Ngài sẽ cho những người công chính được vinh quang.
2. Đáp ca (Tv 97)
Tv này cũng nói tới Ngày Thiên Chúa đến. Đó không phải là một ngày khủng khiếp - có khủng khiếp chăng là chỉ đối với những kẻ gian ác - mà là một ngày hân hoan. Bởi đó tác giả Thánh vịnh kêu mời mọi người - và cả vũ trụ vạn vật - hãy đàn hát lên để mừng đón Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 21,5-19)
Đoạn này mở đầu một đơn vị văn chương được gọi là "diễn từ chung luận" (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu bàn đến những vấn đề "chung kết" của lịch sử là: sự sụp đổ của thành Giêrusalem, ngày tận thế, và ngày Đức Kitô quang lâm. Diễn từ này khó hiểu, một phần vì được viết theo văn thể khải huyền, phần khác vì 3 biến cố trên được nhắc đến xen lẫn nhau khiến người đọc không biết rõ những câu nào nói đến biến cố nào.
- các câu 5-6: Chúa Giêsu tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá.
- câu 7: thính giả liên tưởng tới ngày tận thế nên hỏi Chúa Giêsu khi nào thì tận thế và có dấu nào báo trước không.
- câu 8-11: Chúa Giêsu không muốn cho biết những dấu chỉ rõ ràng về ngày tận thế. Bởi đó trước tiên Ngài khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Kế đó Ngài dùng những hình ảnh khải huyền khó hiểu để nói một cách úp úp mở mở rằng khi tận thế thì những gì xưa nay người ta cho là chắc chắn đều sẽ lung lay.
- các câu 12-19: Chúa Giêsu báo trước cho môn đệ mình biết rằng có một thời kỳ Giáo Hội sẽ bị bắt bớ. Rồi Ngài dạy họ phải sống thế nào trong thời kỳ đó: hãy coi những khốn khó đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa (câu 13) ; đừng sợ phải bào chữa thế nào, vì Ngài sẽ ban cho họ sự khôn ngoan mà kẻ thù không thể nào thắng được (cc 14-15) ; đừng sợ khi bị bắt bớ và thù ghét, vì vẫn có Chúa quan phòng trong tất cả những hoàn cảnh éo le đó (cc 16-18) ; phải kiên trì (câu 19).
4. Bài đọc II (2 Tx 3,7-12)
Nhiều tín hữu trong giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế, cho nên họ lười biếng không muốn làm gì nữa cả.
Thánh Phaolô khiển trách điều đó. Ngài lấy chính bản thân ngài ra làm gương: không bao giờ sống vô kỷ luật, không ăn bám vào ai, trái lại luôn làm lụng vất vả. Phaolô đã nói một câu rất nặng: "Ai không làm việc thì đừng ăn"
IV. Gợi ý giảng
1. Thời gian
Trong kho tàng văn hóa phong phú của Trung Quốc, người ta đọc thấy một câu truyện răn đời sau đây: Ngày xửa ngày xưa có một vị hoàng đế, tuổi đã quá bát tuần, mà vẫn chưa đọc được một quyển sách nào của các bậc thánh hiền. Bộ sách mà nhà vua thèm khát được đọc là Bộ Sách Lịch Sử Loài Người
Nhưng khốn nỗi cuộc đời nhà vua, từ mái đầu xanh đến lúc tóc đã bạc phơ, răng đã long, không lúc nào được rảnh rỗi thư nhàn. Cuộc đời nhà vua luôn luôn sống trên lưng ngựa, nằm sương gối tuyết trên bãi chiến trường của thời chinh chiến loạn lạc. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chặn nước kia xâm lăng. Đôi mắt của nhà vua chỉ nhìn thấy có gươm giáo và máu lửa. Nhà vua rất ân hận vì trong suốt cuộc đời chưa có hân hạnh được đọc một trang sách của các bậc thánh hiền.
Nay chiến tranh đã tạm yên, đất nước đã thanh bình. Nhà vua muốn dành thời gian còn lại để đọc cho kỳ được Bộ Sách Lịch Sử Loài Người, để tìm hiểu xưa nay con người sống để làm gì, chết đi về đâu ? ! Nhưng phiền một nỗi, tuổi của nhà vua đã quá cao, mà bộ sách lại quá dầy. Biết sức mình không thể đọc hết bộ sách, nhà vua ra lệnh cho viên quan ngự sử làm thay mình công việc khó khăn ấy. Với sự giúp đỡ của một ủy ban 50 người, viên quan ngự sử bắt đầu miệt mài đọc sách.
Sau 10 năm cắm cúi đọc, viên quan ngự sử và ủy ban đã có thể tóm tắt Bộ Sách Lịch Sử Loài Người thành 10 cuốn và mang vào triều đình dâng lên nhà vua. Nhưng vừa nhìn thấy 10 cuốn sách và đo lường tuổi tác sức khỏe của mình, nhà vua lại cảm thấy không còn đủ sức đọc hết bộ sách, dù đã được rút ngắn thành 10 cuốn ! ! Nhà vua bèn ra lệnh cho viên quan ngự sử và ủy ban tiếp tục làm việc thêm một thời gian nữa.
Sau 5 năm làm việc thêm, viên quan ngự sử và ủy ban đã tóm lược Bộ Sách Lịch Sử Loài Người thành 5 cuốn. Nhưng khi ủy ban và viên quan ngự sử mang 5 cuốn sách vào cung ra mắt nhà vua thì cũng chính là lúc nhà vua đang hấp hối trên giường bệnh. Biết mình không còn sống bao lâu, cũng không thể nào đọc được dù chỉ một trang sách, nhà vua mới thều thào nói với viên quan ngự sử hãy tóm tắt Bộ Sách Lịch Sử Loài Người chỉ trong một câu thôi.
Lúc đó viên quan trưởng ban tu sử mới tâu trình nhà vua như sau: " Hạ thần xin vâng mệnh. Lịch Sử Loài Người từ khai thiên lập địa đến giờ là con người sinh ra để khổ rồi chết ! ! " Nhà vua gật đầu… Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện rồi tắt thở ! ! Giữa lúc ấy, viên quan ngự sử cũng nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng ! !
Nhìn lại một năm sắp qua, với biết bao nhiêu biến cố vì khổ đau, bệnh tật, tai nạn, động đất, lũ lụt, chiến tranh, chết chóc đã xảy ra với loài người cũng như cho gia đình và bản thân, có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng muốn đi đến kết luận bi quan như viên quan ngự sử của nhà vua trong câu truyện răn đời trên đây:" Con người sinh ra để khổ rồi chết ! ".
Chúng ta có bi quan nhìn đời như viên quan ngự sử không ? Hoàn toàn không ! ! Chúng ta không chối bỏ thực tại của khổ đau, của bệnh tật, của chết chóc. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa tạo dựng nên thế giới, tạo nên chúng ta là để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Cho nên hướng đi lịch sử của loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống. Bên kia của thất bại khổ đau, bên kia của bệnh tật chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Vì thế không có tâm tình nào thích hợp cho chúng ta trong những ngày cuối năm này cho bằng Cảm Tạ và Phó Thác. Cảm Tạ và Phó Thác tất cả cho Thượng Đế, vì Ngài là Cha của chúng ta, luôn yêu thương và quan phòng cuộc đời chúng ta. Cảm Tạ và Phó Thác vì Ngài là Thượng Đế của Tình Thương, của sự Sống. Cảm Tạ và Phó Thác vì Ngài là Đường, là Sự Thật và là Lẽ Sống của chúng ta. Cảm Tạ và Phó Thác cho Thượng Đế, vì nhờ Ngài cuộc sống này vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Trong muôn vàn khổ đau của cuộc sống, chúng ta hãy hân hoan lập lại: Thượng Đế Yêu Thương Tôi Như Chỉ Có Một Mình Tôi Trên Cõi Đời Này. Đừng bao giờ chúng ta quên một chân lý căn bản soi sáng cho đời ta: " Chúng ta không chỉ sinh ra cho cuộc sống đời tạm này mà cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau ". Đó chính là Niềm Tin của Bạn, của tôi và của mọi người. (Linh mục Trần quý Thiện)
2. Trắc nghiệm đức tin
Một hôm vua Ai Cập đang đứng chiêm ngưỡng những công trình mà ông cho xây dựng tại thành phố Êliôpôli, bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu tới đã cười ngạo nghễ và thách thức nhà vua:
- Hãy bỏ lại tất cả và cút đi !
Nhà vua giận tím gan, nhưng ông ta đã nén giận và hỏi:
- Hỡi lão già, ngươi là ai mà dám ra lệnh cho ta cách hỗn xược như thế ? Không lẽ ngươi quyền thế hơn ta ?
Ông lão quả quyết:
- Đúng thế ! Vì ta là thời gian.
Nghe đến tên thời gian, vua Ai Cập tái mặt, té nhào khỏi ngai vàng. Cùng với ông, cả đế quốc Ai Cập cũng sụp đổ.
Lão già Thời Gian cũng rảo qua khắp các đế quốc trên địa cầu. Lão đi đến đâu, các đế quốc đều rơi như sung rụng.
Nhưng ngày kia, người ta bỗng thấy xuất hiện tại đồi Vatican một cụ già khác. Lão già Thời Gian cũng một giọng điệu vô cùng hách dịch đến trước thành Vatican gầm lớn:
- Ta là Thời Gian đây !
Tiếng gầm thét đó làm rung chuyển trái đất, nhưng lại không làm cho cụ già trên đồi Vatican mảy may lo sợ. Cụ bình tĩnh đáp:
- Còn ta, ta chính là Vĩnh Cửu ! Xuyên qua các thế hệ ta phải đại diện cho lòng chung thuỷ của Thiên Chúa đối với con người.
*****
Không có gì là vĩnh cửu dưới bầu trời này. Nhiều người Do thái nhìn ngắm và khen ngợi đền thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ, được xây cất bằng đá cẩm thạch nguyên khối, mỗi cây cột cao hơn 12 mét. Đền thờ được trang trí với cây nho lớn bằng vàng ròng, quyên góp từ các tín hữu (2 Mcb 2,13). Mặt tiền đền thờ được dát bằng vàng lá, mỗi khi mặt trời lên, nó phản chiếu ánh sáng chói loà rực rỡ. Nhìn từ xa, đền thờ trông như một núi tuyết khổng lồ vì màu trắng toát của đá cẩm thạch. Chính vẻ huy hoàng lộng lẫy của đền thờ mà người ta tưởng nó sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Đức Giêsu đã đánh đổ quan niệm sai lầm đó. Người loan báo đền thờ sẽ bị tàn phá một cách thảm hại, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Quả thật, tiên báo này đã hoàn toàn ứng nghiệm năm 70 sau Công nguyên, khi vua Titô đem quân bao vây, tàn sát dân chúng, bắt những tù binh, và thiêu huỷ đền thờ thành ra hoang vu tiêu điều.
Mọi người kinh hoàng sợ hãi khi nghe đức Giêsu loan báo việc đền thờ bị phá huỷ. Họ xin Người cho biết thời gian và điềm báo trước. Nhưng Người không cho biết gì thêm lại còn dựa vào lời tiên báo trên để nói về ngày tận thế. Trước ngày đó, sẽ có những thử thách đức tin.
Có thể có những ngôn sứ giả hiệu, mạo danh Chúa để mê hoặc tín hữu, hay loan báo thời gian đã đến gần để làm mất niềm hy vọng nơi những kẻ tin.
Có thể có những cuộc bách hại các tín hữu, thậm chí cả sự chia rẽ trong các gia đình.
Nhưng Người khuyên họ: "Đừng sợ". Hãy tin tưởng trong phó thác và bền đỗ trong đức tin, vì Thiên Chúa luôn quan phòng chở che cho những ai cậy trông nơi Người.
Đối với Đức Giêsu, bách hại và thử thách không phải là điều đáng sợ mà là một cơ may, để người tin hữu có dịp "làm chứng": để cho kẻ bách hại hiểu biết đức tin của người tín hữu, và để người tín hữu chứng tỏ lòng tin vào Thiên Chúa trong cơn thử thách.
Quả thật, Thiên Chúa muốn niềm tin phải là một hành động tín nhiệm sâu xa nơi Người, một biểu lộ tín thác tuyệt đối vào Người, cho dù có phải chịu thử thách đớn đau nhất, kể cả sự chết. Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen có viết: "Để trắc nghiệm đức tin của ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc thuận buồm xuôi gió".
*****
Lạy Chúa, đức tin không giữ cho chúng con khôi chết, cũng không cứu chúng con thoát đau khổ, nhưng đức tin chính là hiến dâng mạng sống.
Xin ban thêm đức tin cho chúng con, để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con vẫn luôn kiên trì giữ vững niềm tin vào Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
3. Làm chứng trong gian khổ
a. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói đến nhiều cảnh gian truân khổ sở như chiến tranh, bắt bớ, thiên tai, chia rẻ v.v. Nhưng cái đáng chú ý là Chúa Giêsu nói rằng "Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy". Tại sao ? Thưa vì:
Trong lúc tối tăm người ta mới cần ánh sáng hơn Trong thời buổi đầy dối gian, người ta mới cần sự thật hơn Trong xã hội đầy hận thù, người ta mới cần tình thương hơn Trong chiến tranh người ta mới cần đến hòa bình hơn.
Thời đại chúng ta ngày nay là thời văn minh hưởng thụ, người ta chạy theo vật chất, người ta chỉ quan tâm đến đời này. Một bầu không khí thờ ơ với tôn giáo bao trùm khắp nơi. Có thể nói, đây là thời kỳ khủng hoảng đức tin. Nhưng chính trong thời kỳ này, từ tận thâm tâm, con người mới cần đức tin hơn. Vì thế đây là thời gian tốt để tín hữu chúng ta làm chứng về đức tin của mình.
b. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng nói đến sự sụp đổ của thành Giêrusalem. Ngày nay cũng có nhiều sụp đổ: không chỉ là sụp đổ một ngôi nhà mà sụp đổ rất nhiều thứ. Chỉ có một điều bền vững không bao giờ sụp đổ thôi, đó là tình thương của Chúa. Vì vậy, đây cũng là cơ hội cho tín hữu chúng ta làm chứng về tình thương của Thiên Chúa.
4. Kiên trì
Cuối bài Tin Mừng này, sau khi nói đến những gian truân thử thách, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy kiên trì: "Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình".
Kiên trì là gì ? Thưa là dù gặp phải gian truân thử thách, ta không lùi bước, không nản lòng, không bỏ cuộc nhưng vẫn luôn giữ vững niềm tin và lý tưởng sống của mình.
Anne Frank là một cô bé do thái bị bọn Đức quốc xã bắt giam trong trại tập trung. Nơi đó cô bé đã chứng kiến biết bao cảnh khổ, cô đã thấy rất nhiều người vì quá khổ mà trở thành mất nhân phẩm, mất lý tưởng, mất đức tin. Chính cô cũng khổ và nhiều lần hoang mang tự hỏi: có công lý thật không, có Thiên Chúa không ? Nhưng sau những lúc giao động ấy, cô cương quyết giữ vững niềm tin của mình: cô tin rằng dù biểu hiện bên ngoài của con người có gian ác thế nào đi nữa thì trong thâm tâm con người vẫn tốt ; dù hiện tại có xấu xa đến đâu đi nữa nhưng cuối cùng sự thiện sẽ chiến thắng sự ác ; dù hiện nay xem ra Thiên Chúa vắng mặt, nhưng chính Thiên Chúa là người có tiếng nói cuối cùng. Những suy nghĩ ấy được cô ghi lại trong một quyển nhật ký. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, quyển "Nhật ký Anne Frank" đã được xuất bản, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, và nổi tiếng khắp thế giới.
Điều gì giúp người ta kiên trì ? Trước hết đó là xác tín về lẽ phải của mình ; thứ hai là gương can đảm chịu đựng của những người khác ; và thứ ba, nhưng quan trọng nhất, là đức tin tôn giáo. Gandhi nói: "Người nào tin vào Thiên Chúa thì không bao giờ thất vọng, bởi vì người đó biết rằng cuối cùng thì sự thật sẽ chiến thắng".
Chúa Giêsu bảo các môn đệ "Anh em đừng sợ". "Đừng sợ" không có nghĩa là không có cảm giác sợ, mà là không để cho cảm giác ấy đè bẹp mình, nhưng mình phải làm chủ cảm giác ấy và chiến thắng nó. "Anh hùng không phải là người không biết sợ mà là người chiến thắng nỗi sợ" (Solzhenitsyn)
5. Chuyện minh họa
a/ Thời gian
Người kia rất tham việc, không dám lãng phí một phút nào.
Trên đường ra phố, ông dự định xem sẽ mua sắm ở cửa hiệu nào. Trong cửa hiệu, ông dự định nơi ông sẽ đi dạo. Trong lúc đi dạo, ông dự định nơi ông sẽ đến ăn. Trong khi ăn món chính, ông dự định sẽ ăn món tráng miệng gì. Trong khi tráng miệng, ông nhìn bảng danh mục để chọn xe buýt về nhà.
Ông chẳng bao giờ chú ý đến những gì ông đang làm. Ông luôn chuẩn bị cho những sự việc kế tiếp.
Một ngày kia ông phải đối đầu với điều mà ông không chuẩn bị là cái chết. Khi sắp chết, ông kinh ngạc về cuộc đời trống rỗng và vô nghĩa của mình. Ông chẳng bao giờ sống với hiện tại.
b/ Ngã lòng
Nếu bạn cậy vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Kẻ khiêm nhường thực thì không ngã lòng, kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa" (J.N.D."Scripture Truth")
c/ Kiên trì
Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.
Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn vào không.
Vị khách nói như mê sảng: "Này ông, tôi vào được không ? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi ?".
- Ồ, ông biết đấy: Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng chúng ta vẫn an lòng, vì chúng ta biết có Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với Ngài:
VI. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã biết cuộc hành trình dương thế sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Vậy chúng ta hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình, với sự đồng hành yêu thương của Chúa.
1. Diễn từ này bắt đầu bằng một lời khuyến cáo (cc. 8-9). Chủ đề chỉ được đề cập với các câu 10-11: mô tả các tai họa trong vũ trụ. Diễn từ này bị gián đoạn vì lời khai triển dài dòng về các biến cố sẽ phải đến “trước tất cả các điều đó”, là các biến cố không có giá trị dấu chỉ tiên báo ngày chung cục sắp đến: một đàng là các cuộc bách hại người Kitô hữu sẽ phải chịu (cc.12-19), đàng khác là hình phạt sắp giáng xuống Giêrusalem (cc.20-24). Lúc đó bài diễn từ mới bàn tiếp các tai họa vũ trụ sẽ phải xảy ra khi đến ngày thế mạt (cc.25-33). Diễn từ kết thúc bằng một lời khuyến cáo mới (cc.34-36). Đây là lược đồ qui tâm (expose concentrique) của diễn từ.
A. Lời khuyến cáo đầu tiên (cc. 5-9) B. Các tai họa vũ trụ (cc. 10-11) C. Điều xảy ra trước:
a) bách hại người Kitô hữu (12-19) b) hình phạt Giêrusalem (20-24)
B'. Các tai họa vũ trụ ngày thế mạt (25-33) A'. Lời khuyến cáo cuối cùng (34-36)
Như vậy đoản văn chúng ta chú giải dừng lại ở giữa bài diễn từ. Tuy nhiên đừng quên rằng mỗi một thành tố đều có ý nghĩa trong toàn thể.
2. Câu người ta hỏi CGS ở câu 7 có hai phần: trước hết hỏi về thời gian ("khi nào ?"), đoạn hỏi rõ ràng hơn về dấu chỉ để nhận ra biến cố thực sự đang xảy ra. Cách đặt câu hỏi như thế giống với hai phúc âm nhất lãm kia. Nhưng biến cố Lc nhắm đến là việc phá hủy đền thờ, còn Mt và Mc đi từ việc phá hủy đền thờ sang ngày thế mạt. Rõ ràng hơn Mc 13,4, Mt đặt câu hỏi như sau: “Khi nào các điều đó xảy ra và đâu là dấu chỉ điềm báo ngày Ngài quang lâm và ngày thế mạt đến ?” (Mt 24,5). Việc phá hủy Giêrusalem, việc Con Người đến và ngày thế mạt liên hệ mật thiết với nhau. Lc hủy bỏ mối liên hệ đó. Việc phá hủy đền thờ không là thành tố của các biến cố đó. trong suốt bài diễn từ, Lc cố ý tách rời việc phá hủy đền thờ khỏi biến cố thế mạt, loại bỏ mọi tương quan giữa hai sự kiện đó. Ngay từ đầu, ông đã muốn tránh mọi lầm lẫn giữa hai biến cố. Ông tạm thời lưu tâm đến số phận đền thờ và chỉ đề cập đến ngày thế mạt khi ông có thể minh chứng thế mạt không liên hệ gì đến biến cố năm 70. Câu hỏi trong câu 7 rõ ràng nhắm đến số phận đền thờ, và toàn bộ bố cục diễn từ cũng xác quyết điểm đó.
3. CGS nói lời cứng rắn mạnh mẽ chống lại đền thờ và nói đó được xem như là thời điểm cao nhất trong việc rao giảng phúc âm, vì lời đó tiên báo Israel sẽ bị kết án và loại bỏ. Theo Lc, CGS nói lời đó ngay chính trong đền thờ, sau khi đã thanh tẩy đền thờ, điều đó cho thấy Ngài thực sự quản lý vật sở hữu của Ngài. Đền thờ là dấu chỉ cụ thể TC đang hiện diện giữa dân Người; Israel thấy đền thờ là lý do tồn tại của mình trong tư thế là dân được tuyển chọn. Việc phá hủy từ đây ám chỉ họ đã bị bỏ rơi và cùng khổ, nhục nhã, là những điều mà tiên tri Malakia đã tiên báo (3,21). Trong lúc mọi người hết lời ca tụng, ngưỡng mộ vẻ đẹp đền thờ, CGS chỉ thấy đổ nát thiêu hủy. Qua sự kiện này, Ngài tiếp nối sự nghiệp các tiên tri liên tục tiên báo các sự đổ nát đã xảy ra (Mi 3,9-12; Giêr 7,14; 26,18; Ez 2,21). Đến lượt mình, CGS nói tiên tri và hoàn tất sự đổ nát, vì từ đây Ngài là dấu chỉ duy nhất về sự hiện diện của TC giữa nhân loại.
4. CGS không trả lời câu hỏi về ngày giờ và dấu chỉ cuộc phá hủy Giêrusalem. Thay vì trả lời như thế, c.8 đề phòng các Kitô hữu coi thường các kẻ gian manh sẽ tìm cách đánh lừa họ. Lc trước hết lấy lại phương cách mà Lc đã gán cho họ: họ là những kẻ tự xưng là đến “nhân danh” CGS, họ nói: “chính ta đây”, và tìm cách làm thiên hạ kính trọng họ như là Đấng Kitô. Mc chú tâm nhiều đến hiểm họa Kitô giả, đến nỗi đã nhắc lại trong phần cuối bài diễn từ (Mc 13,21-23); họ sẽ làm nhiều dấu chỉ và phép lạ, và lừa gạt được nhiều người. Lc loại bỏ lời khuyến cáo thứ hai, và việc đề phòng của ông, ở c.8 không xác quyết là họ sẽ thành công trong việc lừa gạt thiên hạ.
Ngược lại Lc thấy trước một hiểm họa khác, đối với ông xem ra khẩn trương hơn: hiểm họa các người gian manh loan báo “thời giờ đã đến gần đến”. Theo Lc, đó là “thời giờ” nào ? Dựa vào câu hỏi ở c.7, người ta có thể nghĩ đó là thời gian tàn phá đền thờ. Nhưng chắc chắn Lc không nghĩ đến điều đó. Ta thấy được điểm này nhờ câu thiếp theo, là câu nói đến tai ương mà người ta chỉ có thể kết luận là “ngày tàn” của các tai ương đó sắp chấm dứt. Diễn từ tiếp tục đề cập đến các dấu chỉ, theo đó có thể biết là “sự cứu thoát các con đã gần kề” (c.28), và “Nước TC đã gần đến” (c.31). Sai lầm mà Lc muốn người Kitô hữu đề phòng là sai lầm trong ông lưu ý trong 19,11: “CGS lại nói thêm một dụ ngôn nữa, vì Ngài đã đến Giêrusalem, và người ta tưởng rằng liền ngay đó nước TC sẽ xuất hiện”. Đây là hiểm họa làm Lc lo lắng: là các Kitô hữu háo hức nghe theo ảo giác của những kẻ tưởng giờ thế mạt đã gần kề, rằng Nước TC sắp tỏ hiện trong vinh quang, rằng Con Người sẽ ngự xuống trên đám mây. Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ và sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin: người ta sẽ thôi chờ đợi, không sống trong hy vọng nữa. Chính vì thế Lc nhấn mạnh: “Các con chớ nghe theo chúng”.
Câu 9 cũng cản giác một nguy hiểm tương tự: nguy hiểm giải thích các biến cố (không chút liên hệ đến thế mạt) như là dấu chỉ ngày thế mạt đã gần kề. Theo Mc, người ta sẽ nghe nói về chiến tranh giặc giã; Lc xác định rõ hơn: “Có chiến tranh và hoan lạc”, là chữ chỉ các cuộc nổi dậy, phản động, và người ta nghĩ ngay đến cuộc nổi dậy của dân Do thái. Lúc bấy giờ chớ sợ hãi. Mc giải thích: “các điều đó sẽ phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận thế”. Ở đây Lc cũng xác định và nhấn mạnh rõ: “Các điều đó phải đến trước, nhưng chưa phải là tận cùng ngay đâu”. Đối với Mc, chiến tranh giặc giã chỉ là dấu chỉ xa của ngày tận thế thì ra chúng biểu hiện “giờ đau khổ đã điểm” (Mc 13,8). Trong Lc, chiến tranh, nổi loạn không có giá trị dấu chỉ tiền phong, dù là dấu chỉ xa; chúng không liên hệ gì với ngày tận thế. Chúng phải xảy ra trước, nhưng không phải là lời loan báo về ngày tận thế.
Lc biết ngày tận thế không thể đến ngay. Ông sợ các ảo giác về vấn đề này sẽ làm lung lạc đức tin của Kitô hữu, khiến họ phải thất vọng. Lời khai mào diễn từ cánh chung đã bị ảnh hưởng bởi mối ưu tư về nguy hiểm trên.
Vì chính vì biết ngày tận thế không đến ngay, nên Lc đã không mô tả các dấu chỉ tiền phong của ngày tận thế: chỉ cần hai câu để mô tả là đủ (cc.10-11). Vả lại, các dấu chỉ đó không cho biết thêm điều gì. Các đối thoại viên của CGS đã xin một dấu chỉ, nhưng không phải dấu chỉ về ngày thế mạt, nhưng là dấu chỉ về việc tàn phá Giêrusalem. CGS không cho một dấu chỉ, nhưng nhiều dấu chỉ và các dấu chỉ này không liên hệ tới việc tàn phá Giêrusalem, nhưng liên hệ tới ngày thế mạt. Hơn nữa, các dấu chỉ này mơ hồ đến nỗi bất cứ thời nào cũng cảm thấy bị chúng ảnh hưởng. Nhưng ngoài bối cảnh lu mờ đó, có một điều rõ ràng: ngày tận thế sẽ không đến ngay.
5. Càng nói phớt qua và không minh xác các dấu chỉ tiền phong đó, Lc càng nhấn mạnh đến thái độ người Kitô hữu phải có cho đến ngày thế mạt. Vì thế ngày thế mạt xa dần trong một tương lai bất định, người Kitô hữu càng cần phải sống trong thời gian, đương đầu với lịch sử. Đặc biệt họ phải anh dũng đối đầu với các cuộc bách hại. Và trong lúc Lc ghi lại diễn từ này, các lời CGS tiên báo về việc bách hại trong tương lai đã thực sự thể hiện trong lịch sử; sách Cvsđ đã minh chứng điều đó (Cvsđ 8 và 12).
Lc đã lưu tâm đến đoản văn liên hệ đến các cuộc bách hại đó. Người ta có cảm tưởng ông muốn khích lệ các người bị bách hại khi nhấn mạnh đến các lý do nhằm làm họ tin tưởng cậy trông trong các cuộc thử thách đó. Như thế lòi tiên báo đã biến thành lời mời gọi tin tưởng phó thác. Và Lc làm nổi bật tất cả những gì đem lại lợi ích cho người bị bách hại.
“Điều đó sẽ giúp các con làm chứng” (c.13). Cách dịch này chẳng để ý gì đến việc thay đổi nhãn quan. Ông đặt mình về phe người bị bách hại, để cho thấy lợi ích của các cuộc thử thách họ phải chịu: đây là bằng chứng chắc chắn cho thấy họ sẽ được cứu rỗi. Do đó đúng hơn phải dịch là: “Điều đó sẽ là dịp để các con làm chứng”. Đây là một lời khuyến khích chịu đựng các đau khổ, chúng là chiến tích hùng hồn biện hộ cho họ trước tòa án TC.
Phải đặt lời khuyên đừng lo lắng phải biện hộ thế nào trước mặt vua chúa quan quyền trong chiều hướng khuyến khích đó, vì lời khuyến khích là sứ điệp thiết yếu của diễn từ. Không những TC sẽ lo liệu bằng cách ban khôn ngoan và miệng lưỡi, nhưng còn lo liệu cho lời nói đó đừng trở nên cớ vấp phạm. Không gì có thể thắng nổi lời nói đó. “Ta sẽ cho các con miệng lưỡi và khôn ngoan, làm kẻ nghịch các con hết thảy đều vô phương chống lại hay bắt bẻ các con” (c.15). Cuối cùng Lc thêm lời hứa: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng chẳng hư mất” (c.17). Câu này được gặp lại ở chỗ khác, trong một bối cảnh khác hẳn (x. Lc 12,7; Mt 10,30) được đặt ở đây, trong cuối đoản văn mô tả các cuộc bách hại, câu đó đưa ra một viễn ảnh đen tối và nặng nề; nó nhắc lại sự che chở đã được hứa trước. Đây cũng là lời mời gọi mới để tín hữu thêm can đảm và tín thác ngay khi gặp phải cảnh bắt bớ gian truân.
6. “Các con sẽ giữ mạng sống nhờ biết bền đỗ” (c.19). Đây là một câu ngắn của Lc, có một nghĩa tổng quát: nó không còn liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của những người sống ngay trước ngày thế mạt. Nó có giá trị trong mọi thời. Thực ra, Lc đã không ám chỉ đến ngày sau hết có trong Mc: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Lc biết ngày sau hết không phải là gần đến; ông kết án là gian manh những kẻ chủ trương như thế (c.8). Đó là tất cả ý nghĩa việc Lc đọc lại viễn ảnh cánh chung học của Mc: các cuộc bách hại không liên hệ với thời sau hết. Đúng hơn chúng biểu thị thân phận người Kitô hữu trong thế giới, trong lịch sử nhân loại đang còn tiếp diễn.
Sự bền đỗ đó là sự kiên tâm bền chí giúp người Kitô hữu can đảm tin tưởng đương đầu với những vô vị của cuộc sống thường nhật cũng như các hoàn cảnh đặc biệt của thời bách hại. Đó là quộc thử thách đức tính kiên nhẫn mà Giêremia đã nói, ông là người đã hết lòng tin tưởng vào Chúa, nhưng rồi cũng đã thất vọng vì đó: “Lạy Giavê, Ngài đã dụ dỗ tôi, và quả thật tôi đã bị dụ dỗ, Ngài đã bắt tôi và đã thắng tôi. Mỗi ngày tôi biến thành trò cười, nọi người ai cũng chế nhạo tôi” (Giêr 20,7). Sự bền đỗ theo phúc âm biểu thị “những người nghe lời với thái độ tốt, đã đào sâu lời đó và mang lại nhiều hoa quả nhờ kiên tâm bền chí” (Lc 8,15); sự bền đỗ đó chắc chắn giúp ta được sống cũng như được vào vương quốc (x. Cvsđ 14,22). Nó được TC hứa và minh chứng lòng tín thác vào đấng hoàn tất lời hứa.
KẾT LUẬN
Thời của giáo hội là thời bách hại. Thời gian này đang tiếp tục. Việc giải phóng và ơn cứu độ hoàn toàn chỉ bắt đầu với việc Con Người đến nhưng Ngài chưa đến gấp. Do đó phải kiên nhẫn và bền chí đứng vững.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đứng bên CGS, có nhiều người trầm trồ khen ngợi Đền thờ và lấy làm hãnh diện sung sướng về các viên đá tốt và các lễ vật quí người ta dâng cúng. Thật thỏa mãn và vui mừng biết bao khi thấy ở chính Giêrusalem có một dấu chỉ minh nhiên sự hiện diện của Chúa. Nhất là hãnh diện biết bao, vì đền thờ nguy nga lộng lẫy là công trình của toàn dân, đồng thời nói lên lòng trung tín của các tín hữu cũng như sự che chở của Đấng toàn năng. Tất cả điều đó khiến họ hài lòng thỏa mãn.
Trước sự ngưỡng mộ chính đáng và quan yếu đó, CGS phán: “những gì các ngươi nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào, tất cả sẽ bị tàn phá”. Nghe vậy chắc các thính giả xôn xao lo lắng lắm. Đền thờ bị phá hủy thì còn đâu sự che chở của đấng Tối Cao, đâu còn chứng tích của lòng trung tín ?
Chính vì thế, họ tò mò và quan ngại: “Thưa thày, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến ?”
Qua câu hỏi này, thính giả CGS cho thấy họ đã nhận thức tầm quan trọng của việc chuẩn bị sống các biến cố đó. Phải khắc phục các tai ương đó, chứ đừng bị chúng bắt chợt. Niềm tin vào đền thờ, nơi Đấng tối cao đang hiện diện, càng sống động. Đền thờ càng trở nên quan trọng vì là dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện này, do đó người ta càng khó chịu khi thấy đền thờ bị tàn phá.
Ngày nay phải chăng người ta cũng có một tâm tưởng như thế, khi nghĩ là giáo hội đang trên đường diệt vong ? Trước những biến đổi sâu xa do công đồng đem đến, nhiều người tức tối, nuối tiếc phụng vụ cổ xưa, các bài giảng ngày trước, việc bình thản nhàn hạ đã có từ lâu. Niềm tin của các bạn trẻ hôm nay, được biểu lộ một cách khác xưa, có còn là niềm tin nữa không ? Các linh mục liên hệ với cộng sản là vô thần, có còn là linh mục nữa không ? các nữ tu đến sống với các những nghèo trong các ổ chuột tồi tàn có còn là nữ tu nữa không ? Cuối cùng, dù với những ý tưởng ngay lành của thế giới, người ta sẽ chẳng phá hủy giáo hội sao ? Cũng như dân Do thái ngày xưa muốn bảo trì đền thờ Giêrusalem của họ, ngày nay người ta cũng muốn giữ gìn giáo hội và những cái gọi là truyền thống của giáo hội, nhưng giáo hội mới cứu người tín hữu.
2. Sau các câu hỏi mà giờ đây chúng ta đã hiểu rõ, CGS mới bắt đầu lên tiếng. Ngài không cho biết khi nào sẽ xảy ra cuộc tàn phá Giêrusalem, cũng như các dấu chỉ tiên báo cuộc tàn phá đó. Ngài không bao giờ trả lời để thỏa mãn tính tò mò hay xoa dịu nỗi ưu tư xao xuyến. Ngài giúp ta can đảm và bình thản đón nhận biến cố. Chính vì thế, Ngài nói trước các nguy hiểm, các sai lệch hoặc các cuộc đào tẩu bội phản có thể xảy ra; đoạn cho biết phải xử dụng năng lực của mình như thế nào cho hợp lý.
Trước tiên là các nguy hiểm và ảo tưởng. CGS canh chừng thính giả khỏi mắc mưu các Messia giả. Vào thời hoan lạc, con người quá xao xuyến đến nỗi phải tìm đến người có thể trấn an và hướng dẫn họ cách quyền uy. CGS cảnh giác họ đừng vội tin những người bịa đặt những phép lạ dễ dãi và những thày phù thủy chữa bệnh tâm tư phiền muộn; đừng vội theo những ai đơn giản hóa sự việc bằng cách đồng hóa đức tin với các hệ thống kinh tế hoặc chính trị của họ.
CGS đề phòng chống lại các ngày thế mạt giả mà chúng ta thường tin cách dễ dàng: chiến tranh, động đất, ôn dịch, đói kém... đó là những lệnh báo động giả, nhiều khi rất đánh động, nhưng chúng ta đừng vì đó mà xao lãng hoặc quên mất điều cốt yếu.
Điều cốt yếu là sống đức cậy trông Kitô giáo trong thế giới, là giữ vững đức tin. Niềm tin luôn làm thế giới chống đối: CGS nói đó là điều không thể tránh được. Môn đệ không hơn thày. Người Kitô hữu có thể bị cám dỗ hoảng sợ và kinh hãi những tội phạm vì lòng yếu đuối của mình. CGS cho họ biết là trong họ có một sự hiện diện siêu phàm đang ngự trị. Khi đến giờ làm chứng tá, người Kitô hữu không phải chuẩn bị đối phó, tự vệ: chính CGS sẽ linh ứng cho họ điều phải nói. Do đó ngay bây giờ phải sống hiện tại cách tin tưởng hoàn toàn phó thác vào Chúa: không một sợi tóc trên đầu chúng ta rụng đi mà không có sự thỏa thuận đồng ý của Ngài. Điều quan hệ là hôm nay hãy sống đời môn đệ Chúa Kitô cách trung tín ngày qua ngày, luôn kiên trì trong đời Kitô hữu. Đó là đường duy nhất đưa đến cứu rỗi.
Phụng vụ Lời Chúa vào cuối mùa phụng vụ đặt trước mắt ta cái viễn tượng Chúa đến lần thứ hai vào ngày thế mạt. Khi chọn đoạn thánh kinh từ sách Malakhi, Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về ngày của Chúa, ngày phán xét. Đó là cái ngày khi Chúa biện hộ cho dân Người, khi những người công chính sẽ được chiếu sáng. Bài Phúc âm cũng đưa ra những hình ảnh về ngày tận thế. Những dấu hiệu về ngày tận thế được mô tả bằng những tai hoạ, chiến tranh, động đất và những điềm sợ hãi. Tuy nhiên không phải hễ có chiến tranh, động đất và tai hoạ xẩy ra là ngày tận thế sắp đến. Nhiều người đương thời cũng đã chứng kiến cảnh chiến tranh, động đất, thiên tai, nhưng ta vẫn sống, thế giới vẫn tồn tại. Như vậy lời Chúa trong Phúc âm hôm nay muốn nhắc nhở cho ta khi thấy những tai hoạ xẩy đến thì đừng lầm tưởng rằng ngày tận thế đã gần.
Thánh Phaolô đã nhận ra cái lỗi lầm đó của tín hữu Thêxalônica. Nhiều giáo dân thành Thêxalônica nghĩ rằng ngày tận thế gần đến, nên họ chỉ ăn không ngồi rồi để đợi chờ. Và đó là quan niệm bi quan, chán đời, không thực tế. Cách đây hơn một thế kỷ, có một nhóm giáo phái Kitô giáo tiên đoán ngày tận thế sẽ đến vào năm 1843. Tới năm đó, không có gì xẩy ra, họ lại đề nghị năm khác cho ngày tận thế. Trước khi bước sang thiên niên kỷ thứ ba, người ta cũng nghe những tin giật gân từ những tiên tri giả tung ra và được những cơ sở truyền thông loan đi, bảo là sẽ có tai hoạ xẩy ra và rồi ngày tận thế sẽ đến vào năm 2000. Có những người nhẹ dạ đi lấy nước thánh để dùng và mua nến để đốt trong những ngày đen tối. Chúa bảo ta chớ có theo họ (Lc 21:8).
Là người công giáo, ta tin Chúa cứu thế sẽ đến vào ngày thế mạt như ta tuyên xưng trong lời kinh Tiền tụng sau khi truyền phép Thánh thể: Con tuyên xưng Chúa đã chết đi, con tuyên xưng Người đã sống lại... Sự việc Chúa đến lần thứ hai là cái đối tượng của đức tin người công giáo. Trong tất cả những lần đàm thoại về ngày thế mạt, Chúa Giêsu không bao giờ ám chỉ về thời gian khi nào ngày tận thế sẽ đến.
Vậy ngày tận thế có thể được hiểu là ngày sau hết của đời sống mỗi người ở trần thế, hoặc là ngày tận cùng của thế giới. Nếu hiểu ngày tận thế là ngày cuối cùng của cuộc sống mỗi ngườì ở trần thế, thì ngày tận thế chính là cái chết của mỗi người, ngày Chúa gọi mỗi người ra khỏi thế gian đến trước toà thẩm phán. Khi nào ngày cuối hết của mỗi người hay khi nào ngày cuối hết của thế giới xẩy ra, và xẩy ra thế nào, đối với ta không hẳn là quan trọng. Cái điều quan trọng là ta sửa soạn cho ngày đó. Cái điều ám chỉ trong phúc âm hôm nay là ta phải trả lẽ trước mặt Chúa, và nếu ta khôn ngoan, ta sẽ liệu làm hoà với Chúa khi còn đủ thời giờ. Cho tới khi thiên thần Chúa đến gõ cửa nhà linh hồn, ta không thể ngồi đó, nhàn cư vi bất thiện, như những người dân thành Thêxalônica.
Trong khi chờ ngày Chúa đến, cái ngày phán xét, ta không được quên rằng, ta phải làm phận vụ của mỗi người. Ta cần sống sung mãn cái giờ phút hiện tại, tỉnh thức và đợi chờ. Trong khi ta sống giữa cái thời gian - thời gian đã qua và thời gian chưa đến - thời gian khi Chúa đến lần thứ nhất trong lịch sử loài người và khi Người sẽ trở lại trong vinh quang, để kết thúc lịch sử loài người, ta không được gỉa bộ làm ngơ. Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận thức rằng vẫn còn thời giờ cho việc phát triển đời sống nội tâm, và đời sống đức tin, và phát triển mối liên hệ với Chúa. Với đức tin ta phải coi những thiên tai như động đất, bão tố, lụt lội, dịch tả. . và những tai hoạ do loài người gây nên như chiến tranh, tai nạn, khủng bố gây đổ nát, thiêu huỷ và chết chóc cho hàng trăm, hàng ngàn người như là những dấu hiệu Chúa muốn nói với ta điều gì đó. Phải chăng Chúa bảo ta phải sửa soạn tâm hồn sẵn sàng để đến trước toà Chúa vì ta không biết ngày giờ nào ta phải đối diện với tử thần, cái ngày tận thế của đời sống cá nhân ta.
Ngôn sứ Malachia là một gương mặt màu nhiệm. Tên của ông có nghĩa là “Sứ Giả Của Ta”, nhưng chúng ta chẳng hay biết gì về ông, thời gian ông tuyên sấm cũng không chắc chắn. Có lẽ vào năm 515 trước công nguyên, sau khi Đền thờ Giêrusalem được thánh hiến. Điều chúng ta biết được là sứ điệp của ông: “Này ngày Chúa đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác, sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng”. Ngoài ra chẳng còn gì hơn nữa, có thể nói ông là một tiên tri vô danh. Đọc hết những điều ông viết ra cho chúng ta quan niệm là ông hô hào một nền đạo đức chính danh, không giả dối bôi bác, phục vụ thành tâm và nghiêm chỉnh. Nhất là một nền công lý chân thật và rộng khắp: “Con phải kính trọng cha, tôi tớ kính sợ chủ. Vậy nếu ta là cha, thì đâu là lòng kính trọng Ta? Và nếu ta là chủ thì đâu là lòng kính sợ Ta? Đức Chúa các đạo binh nói với những tư tế khinh thường danh ta”. Chủ yếu dân tộc Do thái được Thiên Chúa xây dựng là để thờ phượng Ngài cho phải đạo, gìn giữ Đền thờ, sống thánh thiện và thừa hưởng lời hứa cứu độ. Nhưng họ đã lơ là, chạy theo tiền tài, sắc dục và thần tượng ngoại bang. Cho nên vị tiên tri đã hô lớn lời cảnh báo về việc phụng thờ thiếu xót đó. Phần trích dẫn hôm nay ở đoạn 3 câu 19-20 thách thức những ai than phiền về Đức công chính của Thiên Chúa: Người ngay lành phải khốn đốn còn kẻ gian ác được thành đạt.
Tiên tri Malachia thẩm định một cách ngay thẳng nếp sống sa đoạ của xã hội hiện thời và tuyên bố rằng mặc dù kẻ dữ được may mắn nhưng về lâu dài sẽ lãnh những hậu quả tai hại. Chúng ta có thể đồng ý với vị tiên tri về quan điểm này và cùng có quan điểm với ông về thời tương lai. Cho nên đừng nản chí, đừng vì hào nhoáng bề ngoài, chạy theo thế gian, và bị Satan lừa dối thê thảm. Trái lại hãy can đảm đi theo đường ngay nẻo chính của Đức Chúa Trời, và liên kết với những kẻ sống trong lề luật Thiên Chúa. Nhất định sẽ có một ngày, tiên tri cảnh báo, Đức Chúa Trời thiết lập vương quốc công lý một cách viên mãn trên mặt địa cầu. Khi ấy chắc chắn tai hoạ khủng khiếp sẽ đổ lên đầu những kẻ làm điều gian ác. Do đó ngôn sứ loan báo “Ngày của Thiên Chúa” sắp đến: “Này ngày của Thiên Chúa sắp đến, đốt cháy như hoả lò... Ai chịu nổi ngày người đến? Ai đứng được khi Ngài xuất hiện? Quả thật, Người như lửa luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt, Người sẽ ngồi để luyện kim, tẩy bạc. Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc”. Đúng là một lời cảnh báo nghiêm khắc. Tiên tri đã nói lên sự thật này từ nhiều nghìn năm trước. Nhưng cho đến hôm nay, thiên hạ vẫn bỏ ngoài tai, giả điếc làm ngơ. Người tín hữu không thể có thái độ như vậy. Nhưng phải chú ý lắng nghe sứ điệp của tiên tri, mà nhìn lại nếp sống của mình. Đồng thời phải tin chắc có ngày báo oán của Thiên Chúa. Ngày mà người lành được thưởng, kẻ dữ bị trừng phạt. Cho nên lúc này mặc dù tín hữu xem ra nhỏ bé, tiếng nói của họ chẳng có ý nghĩa nào trước những bất công của xã hội, chiến tranh, thù ghét, thối nát, tham nhũng, áp bức kinh tế, chính trị thì cũng không sờn lòng. Thiên Chúa chẳng hề ngủ quên, Ngài luôn quan tâm đến số phận của những kẻ yếu hèn, chịu đựng đau khổ. Ngài là thẩm phán cuối cùng, sẽ lo toan cho thế gian ở trong trật tự ngay thẳng và hợp lý.
Phụng vụ mấy tuần vừa qua đã đổi giọng các bài đọc, người ta có thể nhận ra chu kỳ C sắp kết thúc. Kinh thánh nói nhiều về việc Thiên Chúa trừng phạt kẻ dữ, bênh vực người lành. Những xấu xa, tội lỗi sắp được xét sử công minh. Thế giới lui dần đến ngày tận số. Như vậy chúng ta phải sống thánh thiện, đợi chờ ngày Thiên Chúa ra quyết định. Tiên tri Malachia loan báo “Mặt trời công chính “ đang xuất hiện: “Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ danh ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh”. Đây không phải là lời nói dối, mà là sự thật vững chắc. Các tín hữu tiên khởi đã căn cứ vào sự tiên báo này như dấu chỉ Đền thờ Giêrusalem sắp bị phá huỷ, dân tộc Do thái đi lưu đầy, tản mác khắp nơi, đất nước bị xoá tên. Chúa Giêsu cũng nói về ngày tận cùng và nói trước khi sự việc xảy ra, như Tin mừng hôm nay thuật rõ. Đức Giêsu đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây” và thời kỳ đã đến gần... Sẽ có chiến tranh, loạn lạc, sẽ có những trận động đất lớn và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém”. Thánh Luca ghi lại sự kiện này sau khi thành Giêrusalem bị triệt hạ năm 70, để chứng tỏ lời Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm đầy đủ. Tuy nhiên, ngày tận cùng của thế giới chưa tới. Người tín hữu còn chịu nhiều những bách hại. Họ sẽ bị các lãnh đạo tôn giáo, chính trị đàn áp. Một số người sẽ bị sát hại. Các cơ cấu hỗ trợ họ sẽ bị phá huỷ. Ngay trong gia đình, cha tố cáo con, anh chị em tố cáo lẫn nhau. Chúng ta chẳng thể đoán trước được tình hình sẽ thế nào cho các tín hữu, cho Giáo hội toàn cầu. Bởi lẽ sự thù nghịch của thế gian ngày càng gia tăng. Tuy nhiên Chúa Giêsu bảo đảm, ngay trong thời gian tệ hại nhất, chúng ta vẫn có bàn tay Thiên Chúa che chở: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu”.
Hẳn quý vị đã được nghe câu chuyện nhiều tập “còn sót lại” (left Behind). Từ năm 1995 đã có 11 tập được xuất bản với hơn 40 triệu ấn bản. Những sách này đặt căn bản trên sự giải nghĩa của sách Khải huyền. Bài đọc 3 hôm nay xem ra gần với cuốn sách danh tiếng đó về cách mô tả sự tàn phá vũ trụ, trời đất, biển khơi, trăng sao tinh tú. Nội dung trung tâm của “còn sót lại” là sự mang đi (the Rapture). Khi việc đó xẩy ra, người lành thánh sẽ được Chúa Giêsu đưa về trời, hưởng phúc lộc vô tận, còn kẻ dữ là đa số nhân loại sẽ bị bỏ lại (the left behind). Sau đó (tức sau Rapture) phản Kitô sẽ ngự trị trái đất. Lúc ấy thế gian sẽ là hoả ngục: Chiến tranh, tai hoạ, dịch bệnh, đói khát lan tràn khắp nơi. Những kẻ bị bỏ lại sẽ chịu cực hình khủng khiếp, xưa nay chưa từng thấy, vì những sự dữ chúng đã thực hiện. Phải chăng sự kiện đó xác nhận lời tiên tri của Malachia hôm nay: “Này ngày của Đức Chúa đến, đốt cháy như hoả lò”. Phải chăng nó cũng báo trước những tai hoạ mà Chúa Giêsu đề cập trong Phúc âm chúng ta vừa nghe đọc? (xin xem thêm trong tạp chí “Rao giảng” (Preach magazine) số tháng 12, 2004).
Khi người ta đòi hỏi những dấu chỉ của ngày mà Đền thờ sẽ bị “lật nhào”. Chúa Giêsu trả lời bằng những tai họa chiến tranh, phá huỷ, dịch bệnh, thì các nhà chú giải hiểu ngay là Ngài muốn nói một cách cụ thể theo nghĩa đen, đúng như Malachia và Luca mô tả. Ví dụ loạt truyện “còn sót lại” mà chúng tôi vừa đề cập tới. Nhưng trong truyền thống giải thích của Giáo hội, chúng ta hiểu chúng chỉ có tính cách ẩn dụ áp dụng ý nghĩa vào cuộc sống hiện tại của mỗi người. Tối thiểu khi chúng ta cảm thấy thất vọng về hiện tình của thế giới và bị cám dỗ buông xuôi vì nghĩ rằng dầu sao thì sự dữ luôn luôn thắng thế. Các bài đọc hôm nay không cho phép chúng ta thất vọng. Ngay cả khi phải chịu khốn đốn vì bênh vực điều lành. Chúng ta luôn tin cậy vào lòng tín trung của Thiên Chúa. Tất yếu ngài sẽ giơ tay cứu chữa. Thực tế, Chúa Giêsu nói: “Có kiên trì anh em mới giữ được mạng sống mình”. Như vậy đau khổ vì Danh Ngài sẽ là cơ hội tốt để chúng ta làm chứng về Ngài, cho đến khi ngày của Chúa được tỏ hiện và mọi sự sẽ được an bài theo ý định của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, ngay sau đó Chúa phán một điều xem ra trái ngược: “Nhưng dù một sợi tóc tên đầu anh em cũng không bị mất đâu”. Chúng ta phải hiểu ý nghĩa lời tuyên bố này ra sao? Đây là lời xác nhận số phận loài người ở trong tay Thiên Chúa, không chi làm hại được chúng ta, cho nên mô tả của Luca và Malachia không thể hiểu theo nghĩa đen được. Nó chỉ là lời cảnh báo nghiêm khắc để mọi người xem lại tình trạng tâm hồn mình.
Hiện thời chúng ta sống trong thời kỳ chờ đợi. Sự sống, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô đã mở màn thời cánh chung. Chúng ta chẳng thể biết được khi nào nó đến và bằng cách nào nó đến. Thời gian còn bao lâu nữa? Nhưng có một điều chắc chắn chúng ta phải vững vàng trong đức tin và có những việc chúng ta phải thực thi. Đó là làm chứng cho Đức Kitô, bất chấp đau khổ và bách hại. Tin cậy vào lòng Chúa xót thương, luôn ủi an nâng đỡ những tâm hồn tan nát. Nhiều tín hữu đã kinh nghiệm lời tiên báo của Chúa Giêsu, tình hình thế giới trong những ngày đầy xáo trộn này cho chúng ta thấy rõ điều đó. Trong nháy mắt và chẳng hề được báo trước, nhiều mạng người vô tội đã bị nổ tung vì hận thù chính trị, kinh tế, tôn giáo. Theo thống kê thì có hàng ngàn, hàng vạn mỗi ngày. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Lời Chúa Giêsu nên hiểu về tận cùng của mỗi cá nhân, khi chúng ta phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống như bệnh tật, đau ốm, căng thẳng. Chúa kêu gọi chúng ta trung thành với Ngài. Sự trung thành này không những nâng đỡ chúng ta, làm cho chân tay và tinh thần vững mạnh, mà còn biến chúng ta thành những chứng nhân của Ngài. Thiên hạ sẽ nhìn vào đức tin của các tín hữu mà nhận ra Thiên Chúa kiện cường các môn đệ của Chúa Giêsu ra sao! Nhiều lần Chúa Giêsu đã tuyên bố chỉ trong đau thương mà chúng ta chứng tỏ mình là đồ đệ thật của Ngài và những đau khổ cá nhân chịu đựng trong âm thầm biểu lộ sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài đang hoạt động trong các cá nhân đó để xây dựng cộng đoàn. Sự ồn ào bề ngoài không có ích lợi bao nhiêu.
Quí vị đã được chứng kiến những tâm hồn trung thành trong gian lao khổ cực vì Chúa Giêsu chưa? Nếu có, quý vị được xây dựng nhiều lắm đấy, nhờ gương sáng của họ. Nhiều vị thánh trong Giáo hội suốt đời bệnh tật nhưng đã nêu gương sáng đức tin cho người đồng thời. Hoặc chúng ta nhìn xem chung quanh mình, nhiều người cha người mẹ trong gia đình chịu đựng thiếu thốn, thất nghiệp, tàn tật, mất mát, sức khoẻ kém, nhưng vẫn chứng tỏ một đức tin sáng ngời. Nếu chịu thử thách như họ, liệu chúng ta còn đứng vững được không? Trong các giáo xứ, nhiều gia đình cả nhà đi bán vé số hoặc nhặt ve chai. Vậy mà họ vẫn cố gắng cho con cái đi học giáo lý đều đều. Tâm hồn họ thật vững mạnh trong đức tin. Cho nên chúng ta phải xác nhận Thiên Chúa vẫn đứng bên cạnh các gia đình khốn khổ đó, an ủi và nâng đỡ họ trong gian nan thử thách.
Rõ ràng trong trình thuật của thánh Luca hôm nay, chúng ta đang sống trong thời kỳ chờ đợi (12-14). Chúng ta phải trải qua nhiều khốn khó, để Thiên Chúa thử thách đức tin và lòng trung thành của các môn đệ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa nói: “Dầu một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Anh em kiên trì thì sẽ giữ được mạng sống mình”. Chúng ta không chịu gian nan một mình, có Chúa luôn hiện diện bên cạnh, cùng chịu đựng với chúng ta. Đó là lý do chúng ta cử hành Bí tích Thánh thể. Bởi lẽ Thánh thể là của ăn nuôi dưỡng tín hữu qua những khó khăn hằng ngày mà họ phải gánh chịu. Hy vọng mỗi người thực sự ý thức được thực tế đó. Amen.
Ý ĐẸP: Chuyện đầu tiên phải nói là Tân ước khích lệ chúng ta nên thánh: “Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã chịu nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Eph 5,1-2). Việc quan tâm căn bản không phải là nhận định điều cấm làm, điều được phép. Lời Chúa luôn khuyến khích chúng ta bước đi về phía thánh thiện Kitô giáo, sống như Chúa đã sống, bắt chước Ngài, có trái tim tự do, lòng yêu thương kẻ khó nghèo, thanh sạch, tử tế và cảm thông. Nói cách khác, Kinh thánh kêu gọi chúng ta tiến tới hơn là chỉ xa tránh tội lỗi hoặc tự mãn không làm điều ác. Nó thúc đẩy chúng ta tự hỏi: “Điều chi dẫn đến sự viên mãn Kitô giáo? Điều chi dẫn cộng đoàn tín hữu lớn lên trong yêu thương và hy vọng?” (Kevin 1. O’neil, CSSR)
“Anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào, vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được.” Chúa Giêsu đã ban một lời nhắn nhủ đầy an ủi cho các môn đệ của Ngài, khuyến khích các ông hãy can đảm lên để chấp nhận những ngược đãi của người đời vì danh Thầy."
Chúng ta đang ở trong những tuần cuối của năm phụng vụ, nên Giáo Hội muốn nhắc nhở con TN 33-C26
Chúng ta đang ở trong những tuần cuối của năm phụng vụ, nên Giáo Hội muốn nhắc nhở con cái về thời gian sau cùng, trước khi Chúa Giêsu vinh quang trở lại. Như lời Chúa đã cảnh báo cho hết thảy rằng, sẽ có những biến cố kinh hoàng bởi loài người cũng như từ thiên nhiên xảy tới làm cho nhiều người xôn xao sợ hải. Rồi ngay giữa những ngày tháng đầy hoang mang đó, lại có nhiều kẻ xấu lợi dụng nước đục thả câu mạo nhận họ chính là đức Kitô. Chúa Giêsu lại nhắc nhở các môn đệ của Ngài là đừng sợ hãi, vì việc gì phải đến tất sẽ đến, phần các con đã có Thầy dùng quyền năng bảo vệ. Các con cần phải bình tỉnh mới có thể nhận ai là người chân thật và ai là kẻ giả dối. Đừng nhẹ dạ tin theo các kẻ giả dối để họ lung lạc đức tin của các con, nhưng hãy vững tâm tin tưởng vào quyền năng cao cả nhất của Thầy. Cho dù bị người ta bắt bớ, hành hạ đánh đập, các con chớ có đau buồn và nao núng bời vì Thầy vẫn ở gần bên để giúp đỡ, dạy chúng con biết cách khôn ngoan đối đáp với mọi địch thủ.
Trong suốt lịch sử loài người, không có bậc thầy nào đã từng tuyên bố những lời đầy an ủi cho các môn đệ của mình như thế. Qua những lời tiên báo chắc nịch này, Chúa Giêsu cho chúng ta biết Ngài vẫn ở thế chủ động, làm chủ tình hình trước những sự việc có vẻ rối loạn trong mắt chúng ta. Tuy Ngài không xuất hiện như lúc còn ở trần gian, nhưng Ngài rất gần gũi với mọi người trung tín với tình yêu của Ngài. Chắn chắn Chúa không bỏ rơi con cái Ngài, khiến họ thành kẻ mồ côi yếu ớt, vì Chúa là Đấng chân thật, trung thành với mọi lời Ngài đã hứa, và Ngài thừa khả năng để giúp đỡ mọi kẻ đặt miềm trông cậy nơi Ngài.
Lạy Chúa, chúng con xin cảm tạ Chúa nhiều về tất cả những lời an ủi chân tình này. Chúa đã báo trước để chúng con biết chuẩn bị tâm hồn và không phải nao núng hay khiếp sợ khi sự việc xảy đến. Xin giúp chúng con kuôn tin tưởng vào tình yêu cao cả và quyền năng vô song của Chúa.
BÀI ĐỌC 1: Ma-la-khi 3,19-20= “Này Ngày của Chúa đến đốt cháy như hỏa lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ./ Lo, the day is coming, blazing like an oven, all the proud and all evildoers will be stubble.
BÀI ĐỌC 2:2Thêxalônica 3,7-12= Trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũmg xen vào./ We hear that some of you are unrule, not keeping busy, but acting like busybodies.
TIN MỪNG(Gospel): Luca 21,5-19= Sự Cứu độ trong Chúa Kitô: Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.
Salvation in Christ: By patient endurance you will save your lives.
A- Bạn và tôi cũng cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trênL (Some points of Reflections)
1/ Những sụp đổ về vật chất: Môĩ ngày tôi đang thấy bao nhà cửa tốt đẹp bị đổ vỡ, con người phải chết vì thiên tai, chiến tranh. Nhân loại đã đam mê của cải, làm nô lệ những cái mau qua, vì thế Đức Giêsu nói: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào.” (Lc 21,6) Những phương tiện vật chất giúp tìm đến Chúa, làm vinh danh Ngài. Ngày quang lâm Chúa sẽ đến làm thay đổi tất cả. Những chuẩn bị của tôi để giống hình ảnh Chúa?
2/ Bạn là chứng nhân của Chúa: Hôm nay những quyến rũ cuả thế giới tội lỗi, cảnh tàn phá của chiến tranh, chết chóc, khủng bố, xăng dầu tăng gía, tội ác,...lan tràn đó đây làm điên đảo con người. Đức Giêsu nói: “Đó là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.”(Lc 21,13) Những cảnh này đêù báo trước cho ngày cánh chung của bạn nói riêng và thế giới nói chung. Chắc bạn cũng nhận ra được Chúa muốn bạn cần giống Ngài, phải khổ hình rồi mới vào vinh quang. Nói những làm chứng của bạn cho Chúa?
3/ Tôi cần kiên trì theo Chúa: Trong nhân loại đầy tội ác này, tôi rất dễ bi giao động, lo lắng đủ thứ nếu không biết bình tâm cầu nguyện và tin vào quyền năng của Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ là sự khôn ngoan cho tôi trong lời ăn tiếng nói, là sức mạnh tiến bước trước những chê bai, ghét bỏ từ gia đình cho đến xã hội: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” (Lc 21,19) Vâng, Nước Trời chỉ chiếm được bằng sự tâm chịu đựng và bền đỗ đến cùng. Lòng cương quyết của tôi trước thử thách tại gia đình?
4/ Chúa yêu thương, nhưng công bình: Chúa luôn để ý ghi tên những kẻ kính sợ Người vào cuốn sổ riêng, nên Người sẽ phân biệt được người công chính và kẻ gian ác. Vì thế Chúa phán: Này ngày của Đức Chúa đến, đốt cháy như hoả lò, mọi kẻ kiêu ngạo và làm điều gian ác sẽ như rơm rạ.” (Ml 3,19) Hãy sống khiêm tốn và là điều thiện, Chúa sẽ cho bạn những vinh hiển và đền bù những lần nhục nhã đã chịu. Vì mọi tạo vật sẽ bị tiêu diệt cùng với ai lưu luyến nó. Việc tu luyện tâm linh của bạn hôm nay?
B- Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
CÓ KIÊN TRÌ, ANH EM MỚI GIỮ ĐƯỢC MẠNG SỐNG MÌNH (Lc 21, 19)
By Patient endurance you will save your lives
C- Thực hành Lời Chúa tuần này cho tôi và cho cả Nhóm: ( So what am I doing / For Action)
Bạn và tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A, hay một việc khác tuỳ ý.
D- Tôi dựa vào Lời Chúa để cầu nguyện và Sống cầu nguyện: (I pray and practice / Pray in Action)
Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. Xin giúp con biết bến chí trước mọi gian nan thử thách và quyết xa lánh những quyến rũ cuả thế giới vật chật mau qua này.
Phó tế JB. Định Nguyễn
------------------ Hoa thơm cỏ lạ:
VUI THÚ TRẦN GIAN KHÔNG THỂ SÁNH VỚI NIỀM VUI THIÊN ĐÀNG
The pleasures of earth cannot compare with the joys of heaven.
Câu hỏi về Ngày cánh chung (The Last Day), Ngày Phán xét sau hết, đã được đặt ra ngay từ thời Chúa Giêsu còn tại thế, đang rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho dân Do Thái. Trong suốt 2000 năm qua, người ta đã thao thức về vấn đề này với nhiều giả thiết, dự đoán, vừa lo âu, sợ hãi lẫn hy vọng đợi chờ. Khi có môn đệ hỏi Chúa Giêsu về việc này, Chúa chỉ trả lời một cách gián tiếp rằng “ sẽ có những điềm chứng khác thường xảy ra trên trời dưới đất như chiến tranh, giặc giã, động đất đói khát " và “ muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu” (Lk 21 25-26). Nhưng Chúa cũng nói ngay là “ tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn, chứ chưa phải là ngày sau hết”
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở mọi người chúng ta về ngày cánh chung này để mời gọi chúng ta lưu tâm, chuẩn bị thích đáng cho ngày ấy. Ngôn sứ Malakhi, trong bài đọc 1, đã gọi Ngày đó là “Ngày thiêu rụi những kẻ làm điều gian ác như rơm rạ bị đốt cháy trong hỏa lò” nhưng đối với những người kính sợ danh thánh Chúa thì đó sẽ là ngày cứu độ. Tuy nhiên, bao giờ xảy ra ngày kinh hoàng ấy thì không ai được biết, trừ Chúa Cha, như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa kia: “Ngày và giờ đó thì không ai được biết, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả Con Người cũng không biết. Chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mat 24:36).
Vấn đề đặt ra cho chúng ta hôm nay không phải là thắc mắc bao giờ xẩy ra Ngày cánh chung nhưng là phải chuẩn bị thế nào cho ngày ấy, mà chắc chắn sẽ xẩy ra như biến cố chúng ta được sinh ra và đang sống thân phận con người trong trần thế này.
Thật vậy, sự chết là một thực tế của đời sống con người. Lạc quan hay bi quan chán nản thì người ta cũng phải đối diện với thực tế này. Tuy nhiên, sống trong hoàn cảnh thế giới ngày nay người ta dễ bị lôi cuốn vào ảo tưởng muốn quên đi thực tế ấy để vui hưởng cuộc sống hiện tại với những lạc thú và tiện nghi tân kỳ của văn minh khoa học kỹ thuật. Người ta đang dự tính mở những cuộc du hành cho công chúng vào không gian và nói đến viễn ảnh “di cư” đến các hành tinh khác như Sao Hỏa, Mặt trăng để thay đổi cuộc sống con người trên quả địa cầu này.Trong tâm thức ấy, người ta cố tránh nói đến một ngày cánh chung khi không còn sự sống trên hành tinh này nữa. Người ta ngại nói đến “Ngày tận thế” để quên đi thực tế đáng sợ là cái chết hầu an tâm hưởng thụ trong giây phút hiện tại mọi thú vui và tiện nghi trong cuộc sống này.Nhưng thực tế có cho phép người ta “an tâm” được mãi như vậy không? Lạc quan hay bi quan, thực tế hay ảo tưởng thì mọi người đều phải nhìn nhận rằng cho dù ngày thế mạt chưa xẩy ra cho toàn thể nhân loại trên mặt đất này, thì mỗi ngày vẫn có hàng trăm, hàng ngàn người thuộc mọi lứa tuổi và địa vị xã hội đang âm thầm từ giã cõi đời này ở khắp nơi trên thế giới. Nghĩa là ngày tận thế vẫn đang xẩy ra cho nhiều cá nhân mỗi phút, mỗi giây trong lúc người ta đang cố quên đi cái lo sợ phải chết, phải từ bỏ mọi vinh hoa, phú quí và người người thân yêu trong cuộc sống ở đời này để đi vào thế giới vô hình.
Riêng chúng ta, những người có niềm tin vào Thiên Chúa và sự sống đời đời thì chúng ta phải có thái độ nào về ngày cánh chung này ?
Trước hết, chúng ta không nên lo sợ về viễn ảnh của ngày giờ ấy, vì nó sẽ phải xảy ra để giúp con người bước vào một cuộc sống mới thực sự có giá trị lâu bền và hạnh phúc hơn. Chúng ta cũng không nên bi quan, chán nản và thất vọng về thực chất giả tạo, chóng qua của cuộc sống con người trên trần thế này. Nghĩa là chúng ta không được phép chán đời và muốn chạy trốn cuộc sống, cho dù nó bất toàn và có nhiều đau khỗ. Nhưng chúng ta cũng không nên lạc quan yêu đời đến mức coi cuộc sống trần thế là cứu cánh duy nhất của đời mình, để không còn phải khao khát đi tìm một hạnh phúc nào khác nữa.
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu nói đến việc Đền thờ Giêrsalem sẽ bị phá hủy đến độ “không một tảng đá nào trên tảng đá nào”.
Phải chăng Chúa muốn ám chỉ sự hủy hoại của mọi công trình và giá trị của cuộc sống trên trần thế này? Tất cả chỉ là hư vô (vanity) và thay đổi theo thời gian. Chỉ có Thiên Chúa tồn tại vĩnh cửu và tình thương của Ngườì là bền vững không hề đổi thay.
Như vậy, khôn ngoan và quân bình phải chăng là không nên chỉ gắn bó vào những thực tại hay thay đổi, và chóng qua của cuộc sống này để quyết tâm đi tìm những gì là vĩnh cửu, là vinh quang và hạnh phúc thực sự, đang khi phải sống và tiếp cận với mọi thực tế chỉ có giá trị tương đối tạm bợ trên trần thế này ? Và đó phải chăng cũng là sự chuẩn bị thích đáng cho ngày cánh chung,, tức ngày Chúa Kitô trở lại (Parousia) trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết như chúng ta tuyên xưng cùng với Giáo Hội trong kinh Tin kính đọc mỗi ngày Chúa Nhật ?
Đoạn này mở đầu một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu bàn đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử là: sự sụp đổ của thành Giêrusalem, ngày tận thế, và ngày Đức Kitô quang lâm. Diễn từ này khó hiểu, một phần vì được viết theo văn thể khải huyền, phần khác vì 3 biến cố trên được nhắc đến xen lẫn nhau khiến người đọc không biết rõ những câu nào nói đến biến cố nào.
- các câu 5-6: Chúa Giêsu tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá.
- câu 7: thính giả liên tưởng tới ngày tận thế nên hỏi Chúa Giêsu khi nào thì tận thế và có dấu nào báo trước không.
- câu 8-11: Chúa Giêsu không muốn cho biết những dấu chỉ rõ ràng về ngày tận thế. Bởi đó trước tiên Ngài khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Kế đó Ngài dùng những hình ảnh khải huyền khó hiểu để nói một cách úp úp mở mở rằng khi tận thế thì những gì xưa nay người ta cho là chắc chắn đều sẽ lung lay.
- các câu 12-19: Chúa Giêsu báo trước cho môn đệ mình biết rằng có một thời kỳ Giáo Hội sẽ bị bắt bớ. Rồi Ngài dạy họ phải sống thế nào trong thời kỳ đó: hãy coi những khốn khó đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa (câu 13) ; đừng sợ phải bào chữa thế nào, vì Ngài sẽ ban cho họ sự khôn ngoan mà kẻ thù không thể nào thắng được (cc 14-15) ; đừng sợ khi bị bắt bớ và thù ghét, vì vẫn có Chúa quan phòng trong tất cả những hoàn cảnh éo le đó (cc 16-18) ; phải kiên trì (câu 19).
B.... nẩy mầm.
1. Mọi công trình con người xây dựng, dù cho kiên cố và quý giá đến đâu đi nữa, kể cả Đền thờ Giêrusalem... tất cả đều sẽ có ngày sụp đổ. Chẳng có gì bền vững ở thế giới này. “Trăm năm bia đá cũng mòn” ; “Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Hoa nào không phai tàn ? trăng nào không khuyết ? ngày nào mà không có đêm ? yến tiệc nào không có lúc tàn ?”
2. Triết lý Á Đông: “sự vật hễ có hình thì có hoại”.
3. Trong tuần lễ cuối cùng của năm Phụng vụ, Lời Chúa nhắc chúng ta hãy suy nghĩ về những vấn đề cuối cùng của đời người: chết, phán xét, số phận đời đời...
4. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong chuyện dưới đây:
“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sợ đền trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa “Hãy chạy hết tốc lực”. Xe chạy một quãng, ông mới giật mình hỏi “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy ?”. Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực”. (Clifton Gadiman).
5. Cả cuộc sống êm ả lẫn cuộc sống bất ổn cũng đều tiềm tàng những thuận lợi và những hiểm nguy cho đời sống thiêng liêng. Vấn đề là làm sao luôn rút được ích lợi ngay giữa hai tình cảnh đối nghịch đó:
- Nếu được sống triền miên trong sự êm ả (Td: sống trong một xã hội sung túc đầy đủ, không bao giờ phải lo chiến tranh hoạn nạn…) người ta sẽ dễ an tâm sống đạo thờ phượng Chúa. - Nhưng cũng dễ rơi vào chỗ coi thường, bất cần đến đạo, bất cần đến Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, mỗi khi dân Chúa li bì trong cảnh thái bình mà đâm ra trụy lạc, tự mãn, không coi Thiên Chúa ra gì, thì thường xuất hiện vị ngôn sứ loan báo tai hoạ để nhắc nhở dân (gọi là ngôn sứ báo hoạ).
- Ngược lại, nếu luôn phải sống trong phập phồng lo sợ, người ta dễ thấy mạng sống mình mong manh, thấy của cải vật chất không giúp bảo đảm gì nhiều cho mình. Khi đó người ta dễ chạy đến với Chúa. - Nhưng nếu cứ phải sống triền miên trong bất ổn, cuộc đời dễ mất ổn định và khó lòng đạt được những hoa trái của sự bình an. Suy niệm đời ông Gióp giúp ta hiểu rõ hơn.
6. “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6)
Ồ một chiếc bông hồng vừa hé nở đẹp quá ! Thế mà chỉ vài ngày sau nó đã tàn úa, vì đó chỉ là những vẻ đẹp chóng qua.
Đền thờ Giêrusalem, một công trình mất đến 40 năm mới hoàn tất, vậy mà Chúa bảo rồi sẽ có ngày bị tàn phá. Giữa những vẻ đẹp nhân tạo, những vẻ đẹp của trần thế chóng qua, Chúa muốn tôi tìm kiếm vẻ đẹp không bao giờ tàn úa. Chỉ có vẻ đẹp của tâm hồn, chỉ có sự thánh thiện mới không có gì phá huỷ được. Vẻ đẹp đó chỉ có thể tô điểm bằng yêu thương và phục vụ.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ, để giữ mãi vẻ đẹp của tâm hồn. (Hosanna)
7. Câu 13: gian nan khốn khổ là những cơ hội để làm chứng. Những cha mẹ giàu cho con cái rất nhiều tiền nhưng chúng vẫn không tin rằng cha mẹ thương chúng, bởi vì chúng chưa có “bằng chứng” về sự tận tụy cực khổ của cha mẹ. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết để chứng tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương họ. Cũng vì thế, các tông đồ rất vui mừng khi bị bách hại, vì đó là dịp họ chứng tỏ tấm lòng của họ đối với Chúa.
8. Trong Tin Mừng có nhiều “lời hứa” rất đáng sợ: “Chúng con sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp” ; “Họ sẽ giết một số người trong chúng con” ; “Vì danh Thầy, chúng con sẽ bị mọi người thù ghét” v.v. Tại sao thế ? Bởi vì đó chính là con đường mà người môn đệ phải đi: “Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34) ; và đó cũng chính là hạnh phúc thật của người môn đệ Chúa “Phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính” (Mt 5,10).
9. Có lúc nào đó chúng ta thử chậm rãi đọc lại những lời thấm thía trong kinh cầu các thánh tử đạo Việt Nam:
- “Là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô”,
- “Là thành phần trung kiên của Hội Thánh”,
- “Xưa Chúa đã ban cho các Ngài được vững tin vào Lời Chúa, và đầy sức mạnh của Thánh Thần, nên các Ngài đã cam lòng chịu gian lao đau khổ, quyết một lòng theo Đức Kitô trên con đường thập giá và hy sinh đến giọt máu cuối cùng”,
- “Các Ngài đã hy sinh tất cả vì đức tin”...
10. Kiên trì trong nhiệm vụ: Nhiệm vụ của đồng là mỗi giây phải kêu lên một tiếng tic-tac. Một chiếc đồng hồ trẻ vừa sinh ra từ một hãng chế tạo được đưa về đặt trong phòng khách một gia đình. Cậu bé làm bài toán về những tiếng tic-tac mình phải phát ra: mỗi phút 60 giây, một giờ 60 phút, một ngày 24 giờ, một tháng 30 ngày, một năm 12 tháng. Cậu rùng mình sợ hãi vì không biết mình phải làm nhiệm vụ bao nhiêu năm. Thấy thế, cụ đồng hồ già đứng ở xó nhà lên tiếng an ủi: “Cháu ơi đừng quá lo sợ như thế. Bác đã làm công việc này suốt 3 thế hệ rồi. Kinh nghiệm của bác là chỉ cần để ý mỗi giây phát ra một tiếng thôi”. (Bruno Hagspiel)
11. “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21,19)
Một chàng thanh niên nọ bị bỏ rơi từ khi mới lọt lòng mẹ. Nhờ tình thương của ông bà cụ, anh thoát chết. Được sự nuôi nấng của gia đình, theo thời gian, anh lớn lên, rồi trở thành một ngư phủ. Hằng ngày anh ra khơi đánh cá về giúp cha mẹ nuôi. Cuộc sống tưởng êm đẹp. nào ngờ một hôm tai họa ập đến, anh bị thương trầm trọng do tai nạn thuyền gây ra. Mặc dù đã bán hết tài sản để chữa chạy nhưng anh vẫn không khỏi bệnh. Bố mẹ anh “gạt nước mắt” làm một cái chòi ở đầu đường rồi đặt anh vào đó để anh được sống nhờ lóng thương xót của khách qua đường. Do không được săn sóc, người anh mọc đầy ghẻ lở. Bệnh tật ngày một tăng, cơ thể hao mòn, cuộc đời như đã mất…
Nhưng rồi Thiên Chúa lại mỉm cười với anh. Với những lời động viên, an ủi, khuyến khích của bố mẹ nuôi mới, anh đã cố gắng kiên nhẫn tập luyện: mỗi ngày 1 giờ, rồi 2 giờ, 3 giờ và cứ thế… Bây giờ trong anh bừng lên một niềm vui sung sướng, hạnh phúc: Tôi sẽ bình phục.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa luôn ở với con, gìn giữ con và nâng đỡ con. (Hosanna)
“Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo: "Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào." Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước ?"
Đức Giê-su đáp: "Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: 'Chính ta đây', và: 'Thời kỳ đã đến gần' ; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu". Rồi Người nói tiếp: "Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém ; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện
"Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.
***
Trước vẻ lộng lẫy của Đền Thờ, nhiều môn đệ như ngây ngất chiêm ngắm, Chúa nhân cơ hội này: TN 33-C30
Trước vẻ lộng lẫy của Đền Thờ, nhiều môn đệ như ngây ngất chiêm ngắm, Chúa nhân cơ hội này ban một thông điệp có tính cách tiên tri mà người ta đặt tên là diễn văn cánh chung vì đề cập đến các biến cố thời thế mạt. Chúa đề cập đến ba đề tài riêng rẽ nhưng lại trộn lẫn vào nhau: sự tàn phá thành Giê-ru-sa-lem (40 năm sau đó xảy ra). Ngày thế mạt và Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang. Dịp này Chúa cũng tiên báo các môn đệ của Chúa sẽ bị bách hại nặng nề, khuyến khích họ bền tâm vững chí trong cầu nguyện và tỉnh thức.
Có tư tưởng về "ngày của Chúa".
Người Do-thái chia thời gian ra làm hai thời kỳ. Thời kỳ hiện tại mọi sự đều xấu xa tội lỗi, vô phương cứu chữa, chỉ dành cho sự hủy diệt mà thôi. Có thời kỳ hầu đến, tức là hoàng kim thời đại của Đức Chúa, lúc đó dân tộc Do-thái sẽ đứng đầu thế giới. Giữa hai thời đại đó sẽ có "ngày của Chúa" là một thời kỳ đảo lộn và tan tành trong vũ trụ, thời kỳ đau đớn cực độ để sản sinh ra thời đại mới.
Đó là một ngày khủng khiếp: "Kìa một ngày của Đức Chúa đến, ngày khắc nghiệt, ngày của phẫn nộ và lôi đình, ngày làm cho đất tan hoang và tiêu diệt phường tội lỗi, không còn một tên nào ở đó" (Is 13,9). "Ngày của Chúa đến như kẻ trộm ban đêm" (2Pr 3,10). Đó là một ngày mà thế giới sẽ tan tành: "Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc đã tối sẫm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng. Ta sẽ làm cho trời chấn động, đất chuyển rung rời chỗ trong cơn giận của Đức Chúa các đạo binh vào ngày Người nổi cơn lôi đình." (Is 13,10.13). Ngày của Chúa là một trong những ý tưởng nền tảng của tôn giáo trong thời Chúa Giê-su. Ai nấy đều biết những hình ảnh khủng khiếp này.
Có lời tiên tri về sự tàn phá thành Giê-ru-sa-lem.
Thành bị tàn phá bởi quân đội La-mã năm 70 SC sau một thời gian bị bao vây khốn cực. Trong cuộc vây hãm đó dân cư trong thành đói đến độ phải ăn thịt người, và kinh thành bị tàn phá đến từng viên đá. Sử gia Josephus nói, cuộc vây hãm này đã khiến một triệu một trăm ngàn người chết, chín mươi bảy ngàn người bị bắt làm phu tù. Quôc gia Do-thái bị quết sạch và Đền Thờ bị thiêu hủy, trở thành nơi hoang vu.
Có sự trở lại của Chúa Giê-su.
Chúa biết chắc chắn Ngài sẽ trở lại thế gian và Hội Thánh đầu tiên đã chờ đợi việc Chúa trở lại – trước ngày Chúa trở lại, sẽ có nhiều kẻ lường gạt tự xưng mình là Chúa Cứu Thế và sẽ có những biến động lớn lao.
Có ý tưởng về sự bắt bớ;
Chúa Giê-su đã nhìn thấy trước và nói trước những điều kinh khủng mà dân Ngài sẽ phải chịu vì danh Ngài trong những ngày tương lai.
Đoạn Kinh Thánh trước đây khó tiếp thu cho chúng ta vì một đàng chúng ta không quen với lối văn khải huyền rất thông dụng đối với người Do-thái, đàng khác có tới bốn tư tưởng liên hệ với nhau. Dầu vậy chúng ta cố gắng lượm lặt ý nghĩa bài học Chúa muốn dậy. Chúa phán những lời này nhân dịp chiêm ngưỡng vẻ lộng lẫy của Đền Thờ. Trong Đền Thờ, các cột trụ của cổng và hành lang đều toàn bằng cẩm thạch trắng, cao hơn mười hai mét, mỗi cột làm bằng đá nguyên khối. Về trang trí thì nổi tiếng nhất là cây nho lớn bằng vàng ròng, mỗi chùm nho cao bằng một người. Sử gia Do-thái Josephus mô tả Đền Thờ vào thời Chúa Giê-su: "Mặt tiền của Đền Thờ có đủ vẻ huy hoàng khiến cho mắt và trí loài người phải ngạc nhiên, bởi vì nó phủ bằng tấm vàng lá rất dày và nặng, khi mặt trời mọc lên, nó phản chiếu một sự rực rỡ chói lòa, khiến ai muốn nhìn cũng phải quay đi, khác nào nhìn vào chính mặt trời vậy. Nhưng cả Đền Thờ hiện ra như một trái núi phủ tuyết đối với những khách lạ khi còn ở đàng xa, bởi các phần khác của Đền Thờ không phủ bằng vàng thì có màu trắng toát." Đối với người Do-thái, sự vinh hiển dường ấy của Đền Thờ mà bị tan thành tro bụi là điều không thể tưởng tượng nổi. Qua đoạn Kinh Thánh này ta học được mấy điều về Chúa Giê-su và về đời sống ki-tô hữu.
Chúa Giê-su có thể đọc được những dấu hiệu của lịch sử.
Các kẻ khác có thể mù lòa đối với tai họa sắp đến, nhưng Ngài thấy rõ trái núi sắp đổ xuống. Chỉ khi nào con người nhìn xem mọi sự bằng con mắt của Thiên Chúa, bấy giờ mới thấy rõ ràng.
Chúa Giê-su rất thành thật.
Ngài phán với các môn đệ: "Đó là điều các ngươi phải gặp nếu muốn theo ta." Chẳng những lần này mà nhiều lần khác: trong bữa tiệc chia tay Ngài nhắc lại lời cảnh báo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ, nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ các con."(Ga 15,20). Đó là điều không tránh được: "Vả lại, những ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt bớ." (2 Tm 3,12). Tuy nhiên, bách hại xảy ra không ngoài kế hoạch của Thiên Chúa, Chúa cho phép xảy ra, để đem lại lợi ích lớn lao hơn. Đó là cơ hội để làm chứng cho Chúa Ki-tô.
Lần kia, giữa trận chiến quyết liệt cho công lý, một thủ lãnh anh hùng đã viết cho người bạn rằng: "Những đầu người đang rụng xuống trên bãi cát, hãy đến và thêm vào đó đầu của bạn nữa !" Chúa Giê-su tín nhiệm con người đến với Ngài chỉ cho họ không phải vì một con đường dễ dãi, song là con đường của một vĩ nhân anh hùng.
Chúa Giê-su hứa rằng các môn đệ của Ngài sẽ không bao giờ chịu khổ một mình.
Lịch sử chứng thực rằng trong khi thân xác bị cực hình và chờ đợi giờ chết, các ki-tô hữu chân chính đã bao lần viết lên những giờ phút thân mật thiết tha với Chúa Giê-su. Ngục tù có thể như một cung điện, đoạn đầu đài như một ngai vàng, cơn bão táp của đời người giống như cảnh êm đềm khi có Chúa Giê-su ở với chúng ta.
Chúa Giê-su đã nói về sự an toàn vượt quá mọi đe dọa của thế gian.
Ngài phán: "Dù một sợi tóc trên đầu cũng không mất." Trong những ngày đại chiến 1914 -1918, bởi niềm tin và lý tưởng của mình, Brooke đã viết: "Chúng ta đã nắm được một sự bình an mà muôn đời không bị lay chuyển bởi đau khổ." Người nào bước đi với Chúa Cứu Thế có thể mất mạng sống, nhưng không mất linh hồn.
Chỉ còn một tuần nữa là kết thúc năm phục vụ với lễ Chúa Kitô Vua. Phụng vụ hướng dẫn ta đón: TN 33-C31
Chỉ còn một tuần nữa là kết thúc năm phục vụ với lễ Chúa Kitô Vua. Phụng vụ hướng dẫn ta đón Chúa Kitô Vua khởi đi từ kinh nghiệm lịch sử dân Do Thái chờ đón Chúa Kitô Vua, đến hôm nay chúng ta đang chờ đón Ngài trở lại cho chúng ta đựơc chung đường khải hoàn vào vương quốc của Ngài.
I. KINH NGHIỆM LỊCH SỬ DÂN DO THÁI CHỜ ĐÓN ĐẤNG KITÔ:
Muốn hiểu lời sám hối của Malaki (Bái đọc I) chúng ta phải đặt mình vào bối cảnh lịch sử dân Do Thái vào khoảng năm 450 trước công nguyên: lúc ấy sau cuộc lưu đầy trở về quê hương tái thiết lại đền thờ Giêrusalem, họ gặp nhiều khó khăn về mọi mặt, Chúa đã hứa cho dân trở về quê hương cách vinh quang: Đền thờ sẽ được xây lại cách huy hoàng, vì có cả bàn tay Cyros vua Batư ngoại giáo giúp đỡ vật chất, Giêrusalem trở nên bừng sáng, khiến muôn dân tộc tuôn đổ về đó để cầu khấn danh Thiên Chúa. Nhưng thực tế trái ngược: nay Do Thái bị Ai Cập xâm chiếm, mai lại bị Hy Lạp thống trị. Vì vậy hàng tư tế cũng đâm ra chán nản, rồi chểnh mảng việc phụng vụ đền thờ. Đối với dân chúng sa sút nhiều về luân lý và công bình xã hội. Sự kiện ấy có phải là dấu Thiên Chúa không mạnh, không trung thành với lời đã hứa.
Trong bối cảnh ấy, Chúa sai các ngôn sứ của Ngài đến, cụ thể như Malaki trong Bài đọc I hôm nay: đừng nghĩ sự dữ cứ tung hoành mãi, nó chỉ như cỏ ngoài đồng rồi sẽ bị thiêu trong hoả. Điều này khi Đấng Kitô đến, Ngài sẽ thực hiện, đó là “Ngày của Thiên Chúa”.
Nhưng khi Đức Kitô đến, Ngài cũng không diệt kẻ ác như rơm rác thiêu trong lò, trái lại Ngài tỏ ra nhân ái với kẻ tội lỗi, làm cho lời giảng về Đấng Kitô của Gioan cũng bị hụt hẫng (x Mt 3, 10.12 ; 11,2-6). Như thế Đấng Kitô đến Ngài đã không đáp ứng khát vọng tôn Giáo của dân Do Thái, kể cả người đạo Đức như Gioan Bt. được Chúa khen là “cao cả nhất trong các người do người nữ sinh ra”(Mt 11,11) và như thế Đấng Kitô đã được ban tặng cho người Do Thái, nhưng dân này đã không đón nhận Ngài lại còn quyết liệt loại trừ ! Chỉ vì họ đã có một phong thế về Đấng Kitô dựa vào lời ngôn sứ Malaki theo ý họ hiểu, và cũng không muốn lắng nghe lời giải thích của Đức Kitô về sứ mệnh của Ngài: “Tôi đến không phải là diệt kẻ ác, nhưng để tiêu diệt sự ác, để cứu kẻ ác cần đến lòng thương xót của tôi” (Lc 5, 27t ; Lc. 19, 1t ; Lc 23, 42-43).
Vậy ai không có lòng nhân ái, không đón nhận được Đấng Kitô.
II. SỐNG ĐỨC TIN CHỜ ĐÓN ĐẤNG KITÔ TRỞ LẠI:
Bài Tin Mừng của Luca hôm nay, tác giả cũng dùng lại lối văn Khải huyền của Malaki: qua thực tại hữu hình đời này, diễn tả giá trị vô hình của Nước Trời do Đấng Kitô thiết lập: ai muốn nhập tịch nước trời của Đấng Kitô, họ phải kinh qua những chiến đấu liên lỉ:
- Chiến đấu với tư tưởng của các ngôn sứ giả để giữ vững Đức tin vào Đấng Kitô (Lc 21, 8).
- Trước sự đe doạ, bắt bớ, trù dập của vua Chúa quan quyền trên kẻ tin Chúa ; hay sự chống đối gây cớ vấp phạm do người thân yêu trong gia đình gây nên, cũng không dập tắt được hành động đức tin của người đã tin Giêsu là Đấng Kitô (xem Lc 21, 12-17). Đấng Kitô không để cho kẻ tin Ngài phải cô đơn trong cuộc chiến, nhưng “Ngài đã ban Thánh Thần cùng chiến đấu với họ, đến nỗi hết mọi kẻ chống đối họ đều vô phương cự lại hay kháng lý họ” (Lc 21, 14-15). Và không ai làm thiệt hại người đã thuộc về Đấng Kitô, dù chỉ 1 sợi tóc trên đầu họ (Lc 21, 18).
Khi Đức Giêsu nhắc đến “1 sợi tóc không hề mất”, là Ngài động viên lòng tin của các tông đồ, không được thua ba chú bé bị vua Nabukodonosor ném vào lò lửa cháy hồng, vì các chú không thờ thần của vua, một chỉ thờ Thiên Chúa mà thôi, dù Chúa không cứu các cậu khỏi bàn tay độc ác của vua ! Nhà vua ngạc nhiên thấy các chú bé nhảy múa trong lò lửa với một người thứ tư xinh đẹp như Thiên Thần, vua hạ lệnh kéo các cậu bé ra, nhưng chỉ thấy có ba sợi tóc trên đầu các cậu lửa không làm quăn dù chỉ một sợi?! (Dan 3)
Dù là thực tế hôm nay, kẻ tin Chúa có khi còn phải mất mạng sống vì tin vào Đấng Kitô, thì đó cũng không phải là Giá trị tận cùng đời họ. Bởi vì nếu có xảy ra như thế, thì cũng chỉ coi là giai đoạn tất yếu của cuộc chiến như khi có giặc giã loạn lạc, có gì mà phải hốt hoảng? Vì sự ấy phải xảy ra trước đã, nhưng vẫn chưa là tận cùng ngay đâu (Lc 21, 9), chỉ khi nào Đấng Kitô trở lại trần gian lần 2, lúc đó mới thấy giá trị tận cùng của hai kẻ chiến đấu vì Chúa là được sống vinh hiển như Chúa cả hồn lẫn xác trong vương quốc của Đấng Kitô.
Để làm chứng cho Giá trị niềm tin trên, Đức Kitô đã tiên báo cho số phận của đền thờ Giêrusalem sẽ bị phá huỷ vào năm 70: “Sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, bất cứ sự gì cũng bị phá tan tành” (Lc 21,6). Sự ấy đã xảy ra không phải là chuyện hoang đường mà là thực tại đang hình thành trong lịch sử nhân loại.
2/ Sống lao động:
Người Kitô hữu hôm nay dù thấy bao cảnh thăng trầm của cuộc sống, bao cảnh thay đổi trớ trêu của niềm tin, bao sự ác diễn ra phủ ngập đầu mọi người…! Cũng không cho phép họ Chán nản, buông xuôi bỏ việc, chỉ còn cầu nguyện chờ Chúa đến như Giáo dân Thessalonikê, đến nỗi Thánh Phaolô phải lên tiếng trách và nhắc nhở họ: “Anh em phải bắt chước chúng tôi, đã không sống vô trật tự, ăn bám vào người ta, trái lại lao nhọc vất vả đêm ngày để khỏi trở nên gánh nặng cho ai, vì ai không muốn làm đừng có ăn !” (Bài đọc II). Sống đạo như thế là thực hành chương trình cứu độ Chúa muốn: “mọi sự thuộc về anh em; anh em thuộc về Chúa Kitô ; Chúa Kitô thuộc về Chúa Cha” (I Cr 3,22-23).
Vậy luôn ứng trực làm điều tốt trong bất cứ cảnh huống nào của cuộc đời, là một thái độ sẵn sàng thức tỉnh cụ thể nhất để dọn đường cho ngày quang lâm của Chúa sẽ đến bất ngờ (All).
KẾT LUẬN:
Trong Thánh Lễ này, nhờ lòng sám hối nghe lời Chúa, và rước Chúa là ta đã mời Chúa đến không phải là sự bất ngờ, nhưng là một sự ý thức đã chuẩn bị đón Ngài, nhờ trái tim nhân hậu với tha nhân, tinh thần dũng cảm chiến đấu sống đức tin giữa bao thử thách, cùng với bàn tay luôn làm điều tốt vì Nước Trời.
Một nhân vật chống đối Giáo hội vào bậc nhất, là Julian, người hội giáo, ông làm Hoàng đế Roma: TN 33-C32
Một nhân vật chống đối Giáo hội vào bậc nhất, là Julian, người hội giáo, ông làm Hoàng đế Roma năm 360. Mặc dù đã được rửa tội và giáo dục Kitô giáo, ông hoàn toàn quay lại chống đối Chúa Kitô và môn đệ của Người. Ông đã cúng các thần ngoại giáo, lấy nhà thờ làm chùa miếu, hạn chế giảng về đạo, ông khởi xướng một phong trào bài bác và hành hạ Kitô giáo.
Ong cố gắng làm cho lời tiên báo của Chúa Giêsu về đền thờ Ỵerusalem mà chúng ta vừa nghe đọc là sai: “Sẽ tới ngày không còn hòn đá nào chồng lên nhau mà không bị lật đổ". Điều này xảy ra vào năm 70. Julian ra lệnh xây lại đền thánh. Nhưng khi cố gắng đặt nền móng mới, theo sử gia ngoại giáo, “Những bầu lửa kinh hoàng bốc cháy lên từ lòng đất kề chân móng, làm cháy áo những người thợ, và họ không thể đến gần được.
Sự kiện nầy nói lên một sự thật bị quên lãng: Chúa Giêsu đã tiên báo và lời tiên báo ấy đã ứng nghiệm. Chúng ta nghe nhiều lời tiên báo về đức Kitô trong Cựu ước, nhưng rất ít lời tiên báo Chúa Giêsu nói về chính mình. Đây là những lời tiên báo đó: Chúa Giêsu tiên báo về những đau khổ, cái chết, sự sống lại, lên trời và việc Chúa Thánh Thần đến. Người cũng nói trước về sự phản bội của Juda. Phêrô chối thầy và sự trốn chạy của các tông đồ.
Chúa Giêsu cũng tiên báo nhiều biến cố lịch sử mà trí khôn loài người không thể thấy trước, như sự tàn phá thành Giêrusalem trong bài Tin Mừng hôm nay. Điều đó càng lạ lùng hơn, vì từ đó quan hệ với Roma tốt đẹp và người Rôma tìm cách bảo vệ thành Giêrusalem an toàn. Chúa Giêsu nói trước về Giáo hội của Người sẽ lan tràn khắp thế giới, về sự bách hại Giáo hội và sự trường tồn của Giáo hội. Đã hai ngàn năm lịch sử minh chứng lời Người đã thực hiện.
Từ những điều đó, tôi muốn nêu lên điểm này: vì mọi lời tiên báo của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm, chúng ta có thể tin chắc rằng: lời tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay cũng sẽ ứng nghiệm, nhất là thế giới này sẽ có ngày cùng tận, ở nơi khác trong bài Tin Mừng theo thánh Mathêu. Chúa Giêsu còn nói đến sẽ có một ngày chung thẩm (phán xét chung).
Lát nữa chúng ta sẽ tuyên xưng đức tin vào lời tiên báo của Người: “Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ vô tận”.
Ngay sau truyền phép, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm này: “Chúa Kitô đã chết, Chúa Kitô đã sống lại, Chúa Kitô sẽ lại đến”. Chúa Kitô là một sứ ngôn, là thầy dạy chân lý chính thức, Người cũng là vua chúng ta sẽ mừng lễ vào Chúa nhật tới.
Tại đây, lúc này Chúa Kitô giữ lời hứa qúi giá: “Thầy sẽ ban cho chúng con Thịt thày để ăn, máu Thầy để uống. Khi chúng ta rước Người. Hãy nói với Chúa của chúng ta rằng: bạn tin mọi lời Chúa đã nói.
Trước khi qua đời vào năm 1996, bà tiên tri mù Baba Vanga trăn trối rằng, vài năm sau khi bà mất TN 33-C33 Ephata
Trước khi qua đời vào năm 1996, bà tiên tri mù Baba Vanga trăn trối rằng, vài năm sau khi bà mất sẽ có một cô bé kế tục bà được sinh ra ở châu Âu, vào đúng thời điểm nhiều biến cố lớn trên thế giới xảy ra. Phải đến năm 2009, mọi người mới nhớ ra lời trăn trối của Vanga, khi một tờ báo Pháp đăng bài ngắn nói về khả năng tiên tri của cô bé Kaede Uber.
Năm 2011, cô bé 7 tuổi đã thu hút sự chú ý của dư luận với khả năng tiên tri và chữa bệnh của mình. Cô càng ngày càng có nhiều đặc điểm giống nhà tiên tri mù Vanga. Khi thị lực của cô kém dần đi, cùng với những cử chỉ rất giống bà. Trong một chương trình do truyền hình của Nga, Uber đã dự đoán được rằng thị trường tài chính thế giới sẽ khủng hoảng trầm trọng vào năm 2008. Khi đang diễn ra bầu cử Tổng thống ở Nga, hai phóng viên đã đưa cho Uber xem hình ảnh các ứng cử viên Tổng Thống. Cô bé đã chỉ vào một tấm hình của Putin. Lời tiên đoán của cô trở thành sự thật. Tuy nhiên, khi những thông tin về Uber chính thức được xác nhận, thì cô bé và gia đình bắt đầu bị theo dõi, không được sống yên ổn, họ đột nhiên biến mất trong suốt 5 năm liền.
Cho đến tận tháng 1 năm 2016, cô bé Uber mới xuất hiện trên sóng truyền hình Nga NTV, và đưa ra những dự đoán tiếp theo: "Nếu tình trạng tấn công khủng bố tiếp tục tràn lan ở Châu Âu, cùng với đó là việc không tìm ra lời giải cho bài toán nhập cư, cả thế giới có thể sẽ gặp nguy hiểm." Ban đầu dư luận không mấy để tâm tới lời tiên tri của của Uber, cho đến khi nhìn nhận lại vấn đề từ vụ khủng bố xảy ra ở Bỉ cuối tháng 3 và mới nhất là vụ tấn công ở Nice, Pháp giữa tháng 7.
Mới đây, Uber lại tái xuất trên sóng truyền hình NTV để trả lời 15 câu hỏi quan trọng nhất về nhiều vấn đề thế giới đang quan tâm. "Rất nhiều người sẽ bị sát hại và máu sẽ đổ xuống rất nhiều." Lời tiên đoán của Kaede Uber khiến mọi người lo lắng và hoang mang, thế giới sẽ trải qua một nỗi kinh hoàng mới và Mỹ có thể sẽ là nơi phải hứng chịu một cuộc khủng bố đẫm máu. Cô bé khẳng định: "Tai họa sẽ ập đến trong 4 tháng nữa." ( Thanh Mai, tổng hợp ).
Lời tiên báo của cô Kaede Uber có thể trở thành hiện thực, có thể không, như bà Baba Vanga đã sai hoàn toàn, khi tiên báo Châu Âu trở nên hoang địa vào năm 2016. Trái lại, Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, thuật lại Đức Giêsu tiên báo rất chính xác Đền Thờ Giêrusalem hoàn toàn bị phá huỷ, cũng như số phận nghiệt ngã của Kitô Giáo chân chính đã và đang phải gánh chịu.
Phù vân
"Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá." Mặc dầu Đền Thờ Giêrusalem mất hơn 63 năm xây dựng, kiến thiết và trùng tu, với các mái vòm dát vàng, với các dây leo kỳ vĩ bằng vàng ròng ở cổng chính, với những cột đá cẩm thạch cao 12m hết sức nguy nga, tráng lệ, vốn là niềm tự hào của dân Do Thái. Năm 70, tướng La mã Titus đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem trong vòng sáu tháng. Thành thánh bị thiêu hủy bình địa. Dân Do Thái đầu hàng, bị giải giáp và phân tán tứ phương kể từ ngày thảm hại đó.
“Vanitas vanitatum et omnia vanitas.” Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân ( Gv 1, 2). Những gì mà người ta coi là vĩ đại, kiên vững, trường tồn thì đều sẽ sụp đổ, tan nát theo thời gian. Mọi sự đều có thời, một thời để chào đời, một thời để lìa thế ( Gv 3, 1-2 ). Đời người cũng mong manh, sớm nở tối tàn, héo hon dần theo năm tháng, rồi trở về cát bụi. “Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.” ( Tv 103, 15-16 ).
Cánh chung
Chiến tranh, thiên tai, loạn lạc, động đất, ôn dịch đói kém xảy ra trước ngày tận thế, ngày cánh chung của nhân loại. Nhưng cái chết là ngày cánh chung mỗi người.
Qua cái chết, con người bước vào cuộc đời mới, sẽ được hưởng vinh phúc trường cửu hay chịu án phạt muôn đời, tuỳ theo đã sống trên thế gian như thế nào. "Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.” ( Mt 16, 27 ).
Bách hại
“Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng.”Thời nay, không còn cảnh cấm đạo thô bạo, nhưng thế gian bách hại Kitô hữu rất tinh vi, khéo léo và xảo quyệt khôn lường. Vật chất, danh lợi, hưởng thụ nghiễm nhiên trở thành ngẫu tượng bò vàng cho nhân loại.
Quyền lực sự dữ hiện nay hầu như đang thống trị trên mọi bình diện của nền văn minh. Vì thế, tín hữu Kitô phải chịu thử thách nặng nề, khi phải chọn lựa Thiên Chúa hay thế gian, văn minh sự sống hay sự chết. “Thế gian đang qua đi cùng với những dục vọng của nó. Chỉ những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa mới tồn tại mãi mãi.” ( 1Ga 2, 17 ). Chỉ những gì vĩnh cửu mới tồn tại lâu dài!
Chứng nhân
Thiên Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài, luôn che chở những ai trung tín làm chứng nhân, có thể chống lại sự dữ.“Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.”
Mặc dù người Kitô hữu bị thế gian thâm thù, ghét bỏ, giết hại, vì danh Chúa, thì linh hồn vẫn được Chúa thương xót cứu thoát, được hạnh phúc muôn đời. “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con.” Vì chưng, Chúa đã bao lần khuyến khích, nhắc nhủ: “Ai bền chí đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát.” ( Mt 10, 22; 24, 13; Mc 13, 13 ).
“Giữa những thử thách bên trong, bên ngoài khủng khiếp nhất, con hãy nhớ lời sách Khải Huyền: "Và Người sẽ lau sạch nước mắt họ, chết sẽ không có nữa, phiền muộn, kêu gào và khó nhọc sẽ không còn nữa, vì các điều cũ đã qua." ( Đường Hy Vọng, số 682 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con noi gương các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam được mừng kính hôm nay, để cũng trở nên chứng nhân kiên trung trước những thử thách nặng nề ngày hôm nay.
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng con được bền vững tin cậy mến Chúa đến hơi thở cuối cùng. Amen.
Vũ trụ vật chất này cũng như cuộc đời chúng ta đã có một khởi đầu, thì cũng sẽ có một kết thúc: TN 33-C34
Vũ trụ vật chất này cũng như cuộc đời chúng ta đã có một khởi đầu, thì cũng sẽ có một kết thúc và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu mô tả một cách cụ thể sự hủy diệt Giêrusalem và đền thờ. Đối với người Do Thái, sự hủy diệt hai nơi này đồng nghĩa với ngày tận thế. Vì vậy, Giáo Hội muốn chúng ta dừng lại để suy nghĩ vê sự kiện này trong những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ.
Khi ngày trọng đại ấy xảy đến, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu. Vậy thì ngay từ bây giờ, cuộc sống của chúng ta, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm có thấm nhuần tình yêu hay không? Bởi vì tương lai thì bắt đầu từ ngày hôm nay. Và cuộc sống vĩnh cửu nảy mầm từ cuộc sống hiện tại. Chúng ta hãy hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương của Chúa như thế nào?
Trước hết là trong tư tưởng. Chúng ta thường bảo: lòng đầy thì mới tràn ra ngoài, tư tưởng thì hướng dẫn hành động. Vậy thì trong cõi lòng, chúng ta có nuôi dưỡng sự hận thù ghen ghét hay không? Chúng ta có muốn đặt mình lên trên người khác để rồi soi mói, bắt lỗi họ hay không?
Tiếp đến là trong lời nói. Chúng ta thường bảo: người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói. Ngôn ngữ và tiếng nói là điều Chúa trao ban để chúng ta chuyển thông tư tưởng hầu tạo được một sự hòa thuận, cảm thông. Thế nhưng chúng ta có biết cẩn thận, đắn đo trong lời nói. Có biết ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói, để tránh đi những lời nói nóng nảy, chửi bới cộc cằn, cũng như những lời nói dèm pha hạ nhục uy tín người khác hay không? Bởi vì lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Có ba vị lãnh đạo tôn giáo, quyết định tĩnh tâm chung với nhau. Trong giờ chia sẻ kinh nghiệm sống, họ nói với nhau về những thiếu sót thường vấp phải. Vị linh mục Công giáo thú nhận: Tôi hơi chè chén một chút. Vị giáo sĩ Do Thái thì nói: mới đây, tôi có bài bạc gian tham đôi lần. Còn vị mục sư Tin lành thì bảo: thú thực với hai vị, tôi chả giữ kín được điều gì cả. Tôi có tật ham nói này nói nọ mà không tài nào sửa được. Câu chuyện trên khiến chúng ta tự hỏi: tôi đã sử dụng lời nói như thế nào.
Sau cùng là trong việc làm, chúng ta đã thực sự giúp đỡ anh em, nhất là những kẻ túng thiếu bất hạnh hay chưa?
Cách đây nhiều năm, có chín người tàn tật đã thành công trong việc leo lên một ngọn núi cao 4000 mét. Chín người ấy gồm một người què, một người mắc bệnh kinh phong, hai người điếc và năm người mù. Được hỏi là đã leo lên đỉnh núi như thế nào, thì một người trong nhóm đã trả lời một cách đơn sơ:
- Chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự trợ giúp của nhau.
Câu chuyện trên khiến chúng ta tự hỏi: chúng ta đã thực sự giúp đỡ lẫn nhau hay chưa. Chúng ta có biết nương tựa vào nhau trên bước đường tiến lên núi thánh, là quê hương Nước Trời hay chưa?
Tóm lại, chúng ta có thực thi giới luật yêu thương thì chúng ta mới được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời trong ngày sau hết, bởi vì tương lai thì đang bắt đầu từ ngày hôm nay và cuộc sống vĩnh cửu được bắt đầu từ những tháng năm hiện tại.
Khi nghe đọc bài Tin Mừng hôm nay và hồi nhớ lại những gì đã cập nhật được qua các phương: TN 33-C35
Khi nghe đọc bài Tin Mừng hôm nay và hồi nhớ lại những gì đã cập nhật được qua các phương tiện truyền thông hằng ngày, người ta phải tự hỏi: Phải chăng chúng ta đang sống trong chính thời gian mà những loan báo của Đức Giêsu về những điều khủng khiếp đã quá rõ ràng cụ thể trước mắt: Chiến tranh, bom mìn, nạn khủng bố, các tai ương, dịch tễ - ở Áp-ga-nít-tan, ở Pa-kít-tan, ở Pa-lét-ti-na, ở I-rắc, v.v…?
Dĩ nhiên người ta có thể nhắm mắt làm ngơ trước tất cả những biến cố đó, và tiếp tục sống như không có gì xảy ra cả. Tuy vậy, nhiều khi chúng ta cũng cảm thấy rùng mình sợ hãi, nhất là khi những điều bất hạnh khủng khiếp đó xảy ra sát kề bên cạnh chúng ta.
Những gì thực sự đã xảy đến cho thế giới? Phải chăng chúng ta đang phải chứng kiến cảnh tượng thế giới lao mình vào chốn diệt vong? Hay: Thế giới nhân loại đang đứng trước sự chấm tận của mình với bao sự kiện khủng khiếp?
Nhiều khi vào mỗi buổi sáng, khi tôi thức dậy và thấy mình vẫn còn sống, bỗng nhiên nẩy sinh ra trong tôi tư tưởng: Thế là trong đêm nay đã chưa có gì xảy ra cho tôi cả, tôi vẫn còn sống, và tôi lại có được một ngày mới tươi đẹp.
Nhưng liệu điều may mắn đó còn kéo dài được bao lâu nữa? Và một câu hỏi khác cũng được đặt ra: Phải chăng những điều đang xảy ra chung quanh chúng ta, lại chính là những điều Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, tức chiến tranh, sự xung đột, bất ổn, động đất và các tai ương dịch tễ? Và phải chăng điều đó muốn nói lên rằng thời sau hết đã điểm?
Một điều đã quá rõ ràng chắc chắn là: Những gì Đức Giêsu đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đều có liên quan đến biến cố ngày thế mạt. Vâng, đó là sự thật. Và Đức Giêsu làm điều đó ngay trước đền thờ Giê-ru-sa-lem của dân Do-thái. Điều này mang một ý nghĩa tượng trưng rất quan trọng. Vì theo lẽ thường, những người Do-thái mỗi khi nhắc đến đền thờ Giê-ru-sa-lem, họ đều nói về vẻ huy hoàng tráng lệ, về những khối đá tuyệt đẹp, về những quà cáp quý hiếm trong ngày thánh hiến đền thờ, v.v…! Tất cả những gì người ta mang đến dâng hiến cho Thiên Chúa cũng như tất cả những gì người ta thực hiện trong đền thờ Giê-ru-sa-lem để tôn vinh Thiên Chúa, quả là vô cùng quý giá và tuyệt tác, thử hỏi còn nơi nào trên thế giới lại có thể tìm thấy hay thực hiện hơn được?
Thế nhưng, Đức Giêsu đã công khai tuyên bố rằng rồi đây tất cả những huy hoàng đó sẽ bị phá huỷ hoàn toàn, đến nỗi không một hòn đá nào chồng trên hòn đá nào nữa. Vâng, người ta cứ tưởng rằng những gì họ đã thực hiện cho Thiên Chúa đều hoàn toàn tuyệt vời, nhưng rồi đây chẳng còn sót lại gì nữa cả.
Lời tiên báo này có ý nghĩa gì?
Nếu người ta thực sự muốn hiểu được những lời nói về thời sau cùng đó, thì người ta cần phải biết rằng: Bản Phúc Âm này đã được viết vào lúc đền thờ Giê-ru-sa-lem đã bị phá hủy. Nghĩa là thánh sử Luca đã đích thân kiểm chứng được rằng những gì Đức Giêsu tiên báo về Giê-ru-sa-lem đã được ứng nghiệm. Không còn thành thánh nữa. Không còn nơi thánh cho Chúa ngự nữa. Tất cả mọi sự đã bị tiêu tan. Xưa kia các Môn đệ đã hỏi Chúa là khi nào thì các điều đó xảy ra, khi nào thì thời sau hết sẽ đến? Người ta có thể dựa vào dấu hiệu nào để có thể nhận ra được ngày giờ đó? Và theo thánh sử Luca, các Môn đệ đã cho rằng một khi những điều đó xảy ra, một khi đền thờ bị phá hủy, thì thế giới cũng bị chấm tận. Nhưng rồi thế giới vẫn còn đó. Nhân loại vẫn tiếp tục tồn tại.
Và Thánh Thần Đức Kitô đã soi sáng cho tất cả họ hiểu được trọn vẹn sự thật. Vâng, Thánh sử và các Kitô hữu thuộc Giáo đoàn của ngài đã hiểu ra rằng lời tiên báo của Đức Giêsu không có ý nói là một khi đền thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và chiến tranh bùng nổ thì lập tức sau đó là ngày tận thế. Điều đó cũng muốn khẳng định rằng - đúng như chính Đức Giêsu đã từng nói – người ta không thể đưa ra được những xác định cụ thể và rõ ràng về ngày thế mạt. Người ta chỉ có thể coi những biến cố xảy ra như dấu hiệu và như những bằng chứng giúp chúng ta phải lưu tâm sửa soạn mà thôi.
Thật vậy, Đức Giêsu đã không hề quả quyết rằng một khi các điều đó xảy ra thì tất nhiên ngày tận thế sẽ tới. Trái lại, trong bài Tin Mừng hôm nay, Người đã rõ ràng muốn báo trước cho chúng ta hay rằng: Giữa tình cảnh hỗn mang đó, sẽ có những vị tiên tri và những vị cứu tinh giả xuất hiện. Vâng, sẽ có những người tự đứng ra và quả quyết rằng ngày tận thế đã đến. Nhưng Đức Giêsu đã nói: «Các con đừng lo lắng sợ hãi!» Tiếp đến, Người còn căn dặn: «Các con hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt», «nếu họ nói là thời kỳ đã đến gần, các con chớ nghe theo họ!»
Chiến tranh, các xung đột và và bất an, các ôn dịch và tai ương hoạn nạn, sự đau khổ và chết chóc, v.v… Tất cả cũng đã xảy ra vào thời Đức Giêsu cũng như đã, đang và sẽ tiếp tục xảy ra trong suốt bao thế kỷ nay của lịch sử thế giới, mãi cho tới trong thời đại ngày nay của chúng ta; nhưng tất cả chỉ có tính cách như dấu hiệu mà thôi.
Vậy, điều đó có ý nghĩa gì khi chỉ có tính cách dấu hiệu mà thôi?
Mãi cho tới nay tôi vẫn chưa quên, vào năm 1975 khi chiếc xe tăng của bộ đội cộng sản Bắc Việt lần đầu tiên chạy vào Saigon và ngạo nghễ cán sập cổng dinh Độc Lập một cách không cần thiết, như muốn khẳng định sự chiến thắng cuối củng của mình trên 25 tiêu đồng bào Miền Nam, mặc dù trước đó quân đội Mỹ đã rút khỏi Miền Nam từ lâu rồi và nhất là ông Dương Văn Minh, Tổng thống Miền Nam lúc bấy giờ, đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiên và toàn thể quân đội Miền Nam đã buông súng, tự giải tán hàng ngũ, chứ không còn tham chiến chống cự nữa.
Cũng chính ngay lúc đó tôi đang cầm trong tay cuốn Sách Khải Huyền của thánh Gioan, và tôi đã đọc thấy đoạn sách kể: Một người cưỡi con ngựa lửa phóng ra và y đã gây nên chiến tranh. Và Sách Khải Huyền còn viết về người cưỡi con ngựa lửa: «Người đó được ban cho một thanh kiếm lớn.» (Kh 6,4). Bấy giờ tôi liền nhận ra rằng đó cũng chính là lời Đức Giêsu đã khẳng định với Phông-xi-ô Phi-la-tô, viên Toàn quyền Roma rằng: «Ông chẳng có quyền hành gì trên tôi cả, nếu như Trời chẳng ban cho ông quyền đó» (Ga 19,11). Qua đó, tôi cũng liền hiểu được rằng cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc Việt Nam – mà tôi từng chứng kiến và từng cho là vô lý – lại thực sự nằm trong kế hoạch an bài của Thiên Chúa. Trước kia, tôi đã coi chiến tranh, người cưỡi con ngựa lửa trong sách Khải Huyền, là một dấu chỉ. Nhưng kể từ lúc ấy, tôi mới hiểu được rằng lời Đức Giêsu và tất cả những gì được đề cập tới trong bài Tin Mừng hôm nay, đều thuộc về dấu chỉ đó. Tất cả chúng đều chỉ cho chúng ta thấy một điều gì đó. Trong mọi thời đại, chúng luôn luôn chỉ cho chúng ta thấy cùng một điều: Đó chính là sự tiệm tiến bất khả cản ngăn của thế giới hướng về ngày sau cùng, hướng về sự kết thúc của mình. Và tất cả những điều này cần xảy tới, vì Đức Kitô, Quan Án chí công của toàn thể vũ trụ muốn giáng lâm để xét xử muôn dân.
Còn tất cả những gì xảy ra chung quanh chúng ta đều là dấu chỉ. Nhưng dĩ nhiên, những dấu chỉ đó sẽ không tiếp tục xảy ra một cách vô tận, như chúng ta hiện đang chứng kiến. Chúng sẽ chấm dứt không xảy ra nữa khi ngày sau cùng tới. Đức Kitô sẽ ngự tới và Người sẽ tỏ mình ra qua các dấu chỉ mà Người luôn luôn cho xảy ra, không chỉ hôm nay mà thôi, hầu người ta không thể lạm dụng để xác định được thời kỳ sau hết được. Dĩ nhiên, khi những dấu chỉ đó xuất hiện thì người ta có thể bàn tán và lý giải này nọ. Đó chính là điều người ta đã từng làm trong năm 1000, và rồi cũng chính là điều người ta lại tái làm trong năm 2000, tức ai nấy đều đinh ninh rằng có lẽ ngày tận thế sắp tới nay mai, đặc biệt vào lúc có lại xảy ra các cuộc xung đột, các cuộc động đất và các tai biến trên khắp thế giới. Nhưng rồi mọi sư vẫn thế, chứ không có gì thay đổi cả.
Điều đó muốn khẳng định cho chúng ta rằng: Không một ai có thể biết trước hay xác định trước được một cách rõ ràng ngày và giờ của thời sau hết. Nhưng bao lâu thế giới còn tồn tại, con người cũng cần phải ý thức rõ điều này là: Đừng bao giờ thiết kế cuộc sống trần gian này của mình một cách tuyệt đối; hay nói đúng hơn, đừng quá bám bíu vào cuộc sống đời này như mục đích sau cùng, vì nó chỉ là quán trọ tạm thời và tất cả chúng ta – dù muốn hay không - cũng chỉ là lữ khách mà thôi. Thế giới vật chất này một ngày nào đó sẽ qua đi. Tất cả chỉ có tính cách tạm thời mà thôi. Trái lại, con người cần soạn sửa đón nhận một cuộc sống mới trong một thế giới mới mà Thiên Chúa sẽ ban cho, bằng những tính chất nhân bản đối với đồng loại và bằng sự hoán cải trở về cùng Thiên Chúa ngay trong cuộc sống hiện tại.
Nói tóm lại, các bài Tin Mừng trong hai ngày Chúa Nhật cuối niên lịch Phụng vụ của Giáo Hội muốn cống hiến cho chúng ta những suy tư hợp lý cần thiết, chứ không phải cố ý làm cho chúng ta sợ hãi. Vâng, Phúc Âm luôn luôn nhắc đi nhắc lại lời Đức Giêsu hằng nhắn nhủ chúng ta: «Các con đừng lo lắng sợ hãi!» vì «đến cả tóc trên đầu của các con cũng đã được đếm cả rồi!»
Quả vậy, bài Tin Mừng luôn chỉ muốn mang đến cho chúng ta sự an tâm tin tưởng. Nhưng đồng thời cũng muốn cho chúng cần phải quan tâm lưu ý là đừng bao giờ khinh suất bỏ qua các dấu chỉ cần thiết.
Anh em hãy tin tưởng vào Đức Kitô và đừng để mình bị mắc lừa bởi các tiên tri giả hay bởi những lợi ích chóng qua đời này. Hãy chờ đợi Đức Kitô và đừng quá gắn bó ôm đồm với thế gian. Hãy trung thành bền đỗ và anh em sẽ chiếm đạt được sự sống chân thật, anh em sẽ chiếm đạt được sự cứu rỗi cho linh hồn mình!
“Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối; vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: “Chính ta đây, và thời giờ đã đến”. Các con chớ đi theo chúng” (Lc 21:8).
Trích đoạn Tin Mừng trên đem tôi về với tâm trạng hoang mang và mất định hướng của chính: TN 33-C36
Trích đoạn Tin Mừng trên đem tôi về với tâm trạng hoang mang và mất định hướng của chính mình đôi khi vẫn thường xẩy ra trong cuộc sống hiện tại. Có lẽ vì đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa, nên khi đối diện với những khó khăn trong cuộc sống tôi thường trở nên bối rối, hoang mang. Đôi khi những điều nàylàm tôi trở thành quá lo lắng đến mất bình an, mặc dù Chúa đã bảo tôi trước: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối; vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: “Chính ta đây, và thời giờ đã đến”. Các con chớ đi theo chúng” (Lc 21:8).
Thật vậy, khi đối diện với những xui xẻo, những mất mát, những đau khổ, những bất công, và những sự dữ thường xẩy ra chung quanh cuộc sống cho tôi, cho những người thân của tôi, và cho chung mọi người, tôi thường cảm thấy hết sức hoang mang và bức xúc. Nhiều lần tôi không biết phải nói với lòng mình làm sao, và trấn an chính tôi như thế nào! Vì có thể nào những người hiền lành, đạo đức, những người chân thật và đơn sơ lại cứ phải gặp chịu muôn vàn đau thương, thử thách; trong khi đó, trước mắt tôi, những kẻ xem như xấu xa, độc ác, và bẩn thỉu kia lại sống ung dung, giầu có, và đầy thế lực. Trong những cảnh huống như thế, mỗi lần nghe có ai nói đã tìm được một giải pháp, đã khám phá ra chân lý, và đã tìm được “Thầy”, là tôi vội vã tin theo ngay.
Nhưng cũng như Chúa Giêsu đã báo trước, những sự dữ, những đau khổ ấy vẫn chưa phải là cuối cùng, chưa phải là kết thúc cho tôi, cho một đời người, và cho cả nhân loại. Chúa nói: “Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu” (Lc 21: 9). Và điều này cũng chính là điều nhắc nhở tôi về sự tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, vào sự tín thác nơi quyền năng Ngài, cũng như vào giá trị thật của đời sống con người.
Nếu tận thế được coi là sự tận diệt, cái chết của nhân loại, thì tận thế một nghĩa nào đó, chính là cái chết của cá nhân tôi, hay của những người khác. Điều này xem như gần gũi và thực tế đối với tôi hơn. Vì ai mà chả phải chết. Ai cũng phải đối diện với ngày và giờ ấy mặc dù thời gian, không gian, và cách thế có khác nhau. Tháng vừa qua, tôi đã chứng kiến ngày tận thế của 3 người bạn, người thầy thân thiết, một ở Việt Nam và 2 ở Hoa Kỳ. Cả ba đều là những người tôi quen biết, thân thiết, và đã có một thời gian dài cùng sinh hoạt và làm việc bên nhau. Những cuộc ra đi như thế đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ và cảm nhận. Tôi thấy đời người chóng qua. Tôi thấy vinh quang con người chỉ là phù du, giả dối. Tôi thấy tất cả khả năng con người nhằm chống lại với cái chết đều trở thành vô dụng, và không có giá trị. Và có lẽ ở điểm này đôi lúc mới làm tôi thật sự hoang mang, lo lắng.
Nghèo đói thì cũng có thể chịu đựng được. Bị người đời chê bai, coi thường thì cũng có thể chịu đựng được. Bị vu oan, giáng họa, bị tù đày, bắt bớ thì cũng có thể chịu đựng được. Nhưng đối diện với cái chết, với ngày chung thẩm của đời mình thì tôi thấy sợ hãi, và đôi khi quá sợ hãi. Sợ hãi, lo lắng không phải vì phải chết, bởi chết là số phận của con người. Nhưng sợ hãi vì nếu mình chết mà trong lòng vẫn còn mang nhiều hận thù không tha thứ, nhiều ham muốn chưa đạt được, và nhiều tội ác xúc phạm đến Thiên Chúa, đến con người, và ngay cả đến chính bản thân mình mà chưa có cơ hội sửa sang, đền bù.
Trở lại với lời khuyên của Chúa Giêsu, thì nếu tôi không làm gì được, không thay đổi được những sự kiện vẫn thường xẩy ra cho tôi, cho con người để dẫn đến cái chết, dẫn đến những đau khổ thì tôi phải như thế nào? Và câu trả lời của Chúa Giêsu mà Thánh Luca ghi lại chính là: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được sự sống mình” (Lc 21: 18-19).
Nhưng làm sao tôi có thể tin được rằng trong những cơn gian nan, hoạn nạn, rủi ro, và nghiệt ngã như vậy, “dù một sợ tóc trên đầu tôi cũng không bị hề hấn”? Vì thực tế là tôi bị người ta ghét bỏ, xỉ nhục, khinh thường, và cũng trong thực tế là tôi nghèo nàn, và túng thiếu, và tôi bệnh tật. Ở vào một trong những cảnh huống ấy mà bảo rằng tôi đừng sợ, và bảo rằng tôi sẽ không bị hề hấn gì là một thử thách và một điều xem như khó đối với tôi. Chính vì vậy mà tôi đã vội vàng tìm mọi phương pháp để trốn chạy, kể cả những phương pháp tồi tệ nhất, xấu xa nhất khiến tôi đành đánh mất mạng sống mình, đổi cả linh hồn mình.
Một lần, trong một câu chuyện xẩy ra giữa tôi và một người bạn. Tôi cảm thấy bị bức xúc và đau khổ về hành động của người ấy. Tôi đã dùng mọi lý luận, khả năng trí tuệ và lợi khẩu của mình để dồn người ấy vào chỗ chấp nhận là những việc làm như vậy đã gây ra thiệt hại và đau khổ cho tôi, cho gia đình tôi; và rằng hành động ấy không phải là hành động của một người bạn tốt. Tôi muốn người ấy có một câu trả lời thỏa đáng, một thái độ sửa sai thỏa đáng, nhưng rốt cuộc, tôi đã nghe được những lời bào chữa như sau: “Cùng lắm mất linh hồn là cùng chứ gì!”
Mất linh hồn. Chết. Tôi không tin là người ấy dám nghĩ và làm như vậy, nhưng thực tế đã cho thấy rằng trước muôn cám dỗ, những thử thách, đôi lúc tôi cũng có câu trả lời tương tự như vậy: “Người ta tham nhũng đầy đường, gian dối đầy đường, ngoại tình đầy đường, lưu manh đầy đường, phá thai đầy đường có sao đâu. Cùng lắm là bị bắt, bị tù, hoặc chết là cùng chứ gì!”.
Nhưng Chúa Gêsu lại có lối giải quyết khác. Ngài không muốn ai đánh đổi linh hồn, đánh đổi mạng sống vì bất cứ những gì thuộc về thế giới vật chất này. Ngài muốn cho mọi người, cho tôi hiểu rằng những lo toan, những trăn trở, những tính toán của tôi không phải là không có bằng cớ, không chính đáng. Tôi vẫn phải lo lắng, vẫn phải đề phòng, vẫn phải canh chừng, bởi vì những cái đó tôi có thể làm được, và chúng thuộc về tôi, về bổn phận của con người như tôi. Riêng phần Ngài, Chúa muốn nhấn mạnh với tôi rằng, đừng quá tin tưởng, đừng quá cậy dựa vào thế gian để làm mình hoang mang, sợ hãi, và mất niềm tin., nhưng hãy đặt niềm tin ấy vào chính Ngài, vào Đấng mà có thể gìn giữ từng sợ tóc tôi ngay trong những lúc nguy hiểm nhất. Chính niềm tin ấy sẽ giữ được mang sống tôi. Và cũng chính niềm tin ấy sẽ giải thoát tôi: “Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được sự sống mình” (Lc 21:19).
Chiến tranh, loạn lạc, bệnh tật, nghèo đói, khủng bố, giết người, bất công, tham nhũng, tham quyền. Những thứ ấy đời nào cũng có, và ở nơi nào dưới gầm trời này cũng thấy xẩy ra. Và nhất là chết, thì ai cũng phải chết. Chết cách này, chết cách khác. Chết già, chết trẻ, chết ở tuổi trung niên. Người nghèo đói, kẻ quyền quý. Người thấp cổ bé miệng, người quyền uy danh vọng... Tất cả đều phải chết. Nhưng nếu những cái ấy là những điều không thể tránh được trong cuộc sống của con người, thì cách thức giải quyết duy nhất, cần thiết nhất và hữu lý nhất vẫn là sống sao để chuẩn bị cho ngày mình chết. Sống trong niềm tin và sự tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Và theo lời khôn ngoan thì chính mỗi khi suy nghĩ đến ngày mình chết, ngày tận thế mà giúp mình chừa đi được một tội, bớt đi được một ham muốn, bỏ đi được một tự ái, thì đó là một sự chuẩn bị tốt. Nó sẽ làm cho chính tôi không còn sợ hãi, hoang mang và lo lắng nữa. Vì: “Phúc cho những ai luôn suy ngắm về sự chết đêm ngày.”
Sẽ có tận thế. Tận thế sẽ đến với tôi trong một ngày không xa. Ngày đó sẽ xẩy ra cho tôi như thế nào? Ở đâu? Tôi không hề biết và tôi cũng không thể tránh được. Vậy cách tốt nhất để chuẩn bị cho ngày ấy, giờ ấy là sống trong sự tín thác và đặt mình trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Sống như Chúa muốn tôi sống. Sống như người con cái Chúa. Sống như người cha, người mẹ tốt lành. Sống như người con thảo hiếu. Sống như người bạn quí và trung tín. Sống như ngày hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình. Ngài nói với tôi: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được sự sống mình” (Lc 21: 18-19).
Tại sao Chúa nói đến ngày tận thế, một bí ẩn đối với chúng ta? Vả lại chúng ta phải quan: TN 33-C37
Tại sao Chúa nói đến ngày tận thế, một bí ẩn đối với chúng ta? Vả lại chúng ta phải quan tâm đến thời buổi chúng ta đang sống, chúng ta có bổn phận hoàn thiện xã hội bây giờ, phải làm sao cho trên địa cầu có thêm công bằng, tình thương, bình đẳng trong sự phân phối an lạc hạnh phúc, thêm tự do về phương diện vật chất và tinh thần. Nói cho đúng, bài giảng của Đức Giêsu về ngày tận thế đặt vấn đề mục tiêu và cứu cánh mọi nền văn minh. Chúng ta có tưởng tượng được không một nền văn minh sản xuất những công trình tuyệt tác, kể cả những công trình hiến dâng Thiên Chúa như Đền Thờ Giêrusalem, những công trình có thể tồn tại mãi mãi, không có gì phá huỷ được? Chừng nào sẽ xuất hiện một nền văn minh không có chiến tranh? Không có nạn đói? Không chống đối thù nghịch Thiên Chúa và Đức Kitô của Người? Chúa Giêsu trả lời ngay: không. Vậy thì Kitô hữu mọi thời đại phải mang niềm hy vọng đích thật, phải tin tưởng vào tác động Thiên Chúa trong tâm hồn mình để có sức mạnh mang hy vọng vào xã hội đương thời. Chúa phán:
1) “Hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt”.
Ai ai cũng thấy lòng mình se thắt lại vì khao khát hy vọng. Rất nhiều sứ giả tìm đến đề nghị những giải đáp lừa gạt hy vọng. Thậm chí, một số đội danh nghĩa Đức Kitô. Chúa bảo chúng ta hãy coi chừng bọn lái buôn hy vọng hão huyền. Đừng để bị lừa gạt, nghĩa là hãy an tâm vững chí trong sự thật. Hoạt động để “Danh Thánh” được nhìn nhận trong hy vọng, trong nền văn minh là đem chất men sự thật vào hy vọng con người, vào văn minh nhân loại. “Danh Thánh” là tên Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc thế gian. Chúng ta đóng góp vào công cuộc cứu vớt một nền văn minh tuỳ theo chúng ta nhiều hay ít dùng thực tại đời sống, lời nói, hoạt động Tông đồ, làm chứng rằng con người chỉ thành toàn trong quan hệ với Đức Giêsu. Người thờ phụng Thiên Chúa và hy sinh mạng sống cho nhân loại anh em Người.
2) “Người ta sẽ bách hại các ngươi”.
Đem niềm hy vọng Kitô giáo vào thế gian tất nhiên gặp những phản ứng thù nghịch của thế gian. Chúa bảo, đó là điều không tránh được. Môn đệ không trọng hơn Thày. Kitô hữu có thể khiếp sợ, có thể áy náy dễ gặp những giây phút yếu đuối. Chúa bảo, một sự hiện diện siêu phàm ngự trị trong tâm hồn Kitô hữu. Chính Đức Giêsu ban cho môn đệ cách ăn nói và sự khôn ngoan, nhưng thế gian đáp lại bằng ác tâm ác ý. Tuy nhiên có những tâm hồn ngay thẳng đáp ứng bằng một thái độ bắt đầu tìm hiểu. Đức Giêsu bảo môn đệ chớ có chuẩn bị tự bào chữa, nghĩa là Kitô hữu không được thấy vậy mà sinh ra âu lo áy náy, nhưng phải đặt ra cho mình nghĩa vụ trở nên tài giỏi, có khả năng tuỳ sức mình tỏ ra cho thế gian thấy mình đã suy nghĩ nhiều về đức tin của mình, sống đức tin cách ý thức, lấy đức tin làm giá trị đời mình. Kitô hữu phải làm chứng rằng đức tin tăng giá trị đời sống con người mình. Kitô hữu có thể trông cậy vào Đức Kitô, xin Người trợ giúp mình trong nỗ lực nói trên để đối phó với những chống đối.
Sẽ có ngày cả thế giới và vũ trụ này biến đổi. Bao giờ? Thế nào? Và có những dấu hiệu nào báo: TN 33-C38
Vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên, Ngôn Sứ Malaki đã ra đi tuyên sấm. Ông loan báo “ngày của Chúa” sẽ đến, nhằm làm sống lại niềm hy vọng của Dân Chúa sau cuộc hồi hương của Babylon trở về. Đất nước bị dân ngoại chiếm đóng, đền thờ vẫn hoang tàn, tôn giáo bị biến chất, lễ bái trở nên vô vị. Từ đó, dân chúng chán nản ngã lòng. Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ dân Ngài. Phải chăng Thiên Chúa đã không trung thành giữ lời Ngài đã hứa?
Ngôn sứ Malaki loan báo: Đừng tưởng mọi sự sẽ như thế nầy mãi. Thiên Chúa không bỏ Dân Ngài. Sự ác không thống trị mãi… Ngày của Chúa sẽ đến. Ngày ấy sẽ là ngày khủng khiếp, ngày tiêu diệt. Tất cả những kẻ kiêu căng cà làm điều ác sẽ như rơm rạ làm mồi cho ngọn lửa…
Nhưng “Ngày của Chúa” sẽ là ngày đầy hy vọng của những người công chính. Bởi vì là ngày họ sẽ trông thấy công bình và thánh thiện chiến thắng vĩnh viễn tội ác, ngày mà các dân sẽ nối gót Dân Chúa tiến về với Chúa, tiến lên Đền Thánh mới.
Như vậy, lời tiên tri của Ngôn sứ Malaki hôm nay không phải là lời tiên báo ngày tận thế. Đó là lời tuyên báo ngày Chúa đến cứu độ Dân Ngài, sau những thời gian thử thách nặng nề nhằm kêu gọi Dân Chúa hãy luôn hy vọng và tin tưởng vào ngày cứu độ.
Tin Mừng hôm nay minh họa Ngày cảu Chúa với những hình ảnh của Cựu Ước: vẫn là cảnh trời long đất lở, lửa cháy phừng phừng, trừng phạt kẻ dữ, thưởng công người lành. Sau biến cố năm 70, Đền thờ Giêrusalem từng là niềm kiêu hãnh của người Do Thái, đã không còn hòn đá nào trên hòn đá nào: mọi thứ đều sụp đổ, tiêu tan… đối với các Kitô hữu đầu tiên, phải chăng đó là dấu chỉ ngày tận thế? Phải chăng Nước Trời mà Chúa Kitô loan báo đã gần kề? Họ tưởng như vậy và nôn nóng chờ đợi. Nhưng rồi thời gian không thiên vị ai, và cảnh chờ đợi sốt ruột kia cứ kéo dài mãi không ngừng. Họ bắt đầu chán nản thất vọng.
Chúa Giêsu đã không gắn liền thời gian cùng tận với những hiện tượng xã hội và thiên nhiên xảy ra. Ngài không đến để báo trước ngày tận thế như những tiên tri giả. Trái lại, Ngài bảo: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lường gạt”, vì sẽ có người tự xưng là tiên tri và tiên đoán ngày tận thế. “Các con đừng tin theo họ”. Cũng đừng căn cứ vào các tai biến mà cho là ngày tận thế sắp đến rồi, vì chiến tranh, thiên tai, địa họa là những tai biến thời nào cũng có. “Các con đừng sợ, vì những biến cố ấy phải xảy đến trước, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu”.
Cả những cuộc bách hại Giáo Hội cũng không phải là dấu hiệu ngày tận thế. Chúa đã tiên báo: “Người ta sẽ cầm tù các con, sẽ đưa các con ra trước tòa án”. Nhưng Chúa lại căn dặn: “Đừng lo sợ, vì đó là cơ hội để các con làm chứng cho Thầy”. Thiên Chúa sẽ trợ lực chúng con, “nếu chúng con can trường, kiên trì, bền đỗ đến cùng, các con sẽ cứu được sự sống của các con”.
Thưa anh chị em,
Chắc chắn thế giời sẽ có ngày tận cùng. Năm 2000 chăng? Không ai biết được. Ai khẳng định điều đó, người ấy là tiên tri giả. Ai coi chiến tranh, động đất, ôn dịch, đói kém là dấu hiệu bắt đầu tận thế để rồi chán nản, buông xuôi, bỏ bê công việc, thay vì hoạt động góp phần ổn định đời sống, đem lại công lý, hòa bình, ấm no, hạnh phúc, người đó là tiên tri giả hiểu, láo khoét, lừa bịp thiên hạ. Nhưng đáng tiếc là khi gặp khó khăn, đau khổ, người ta lại dễ tin theo các “tiên tri dỏm” đó!
Người Kitô hữu chúng ta, trước mọi nghịch cảnh, phải sống theo niềm tin đích thực vào Thiên Chúa. Phải luôn trung thành trong đức tin của mình và làm chứng cho Nước Chúa, Nước vĩnh cửu, bất diệt ở bên kia thế giới nầy. Phải kiên trì, trung thành trong bổn phận hằng ngày thì mới mong kiên vững trước nghịch cảnh. Nếu không kiên trì trong việc tầm thường hằng ngày thì khó mà kiên trì trong lúc gặp nguy biến.
Nếu ngay bây giờ, từng giây phút, chúng ta cố gắng sống trung thành trong đức tin, trong bổn phận, thì “khi nào tậnt hế?”, điều đó không thành vấn đề. Vì “ai kiên trung bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát và được sống đời đời”.
Vậy, đừng bận tâm khi nào tận thế, hãy lo sống hiện tại và kiên trì. Đừng tin những lời đồn đại xuyên tạc trước những biến cố khủng khiếp của lịch sử. Điều quan trọng duy nhất là trung thành làm chứng cho Chúa. Mỗi người chỉ có hôm nay để xây dựng ngày mai và cuộc sống vĩnh cửu.
Anne Frank là một cô gái Do Thái tuổi độ mười ba sống ở Amsterdam trong những năm đầu của: TN 33-C39
Anne Frank là một cô gái Do Thái tuổi độ mười ba sống ở Amsterdam trong những năm đầu của chiến tranh Thế giới II. Khi quân Đức quốc xã săn lùng mọi người Do Thái, cô và gia đình trốn tránh. Tất cả có bảy người, họ ẩn núp hai năm liền trong một tầng gác sát mái nhà. Ở đó, họ chờ đợi từng ngày trong nỗi sợ hãi cái ngày mà mật vụ Đức khám phá ra họ.
Trong thời gian này, Anne viết nhật ký mà sau khi chiến tranh chấm dứt cha cô đã tìm thấy. Cuốn nhật ký ấy được dịch ra nhiều thứ tiếng và có được hàng triệu độc giả. Trong đó, Anne diễn tả những suy nghĩ và những cảm nhận của cô với sự già dặn vượt quá tuổi cô. Trong một đoạn đáng để ý. Cô viết:
“Đám trẻ chúng tôi phải chịu khó khăn gấp đôi để giữ vững tinh thần, trong một thời đại khi mọi lý tưởng tan vỡ và bị huỷ hoại, khi người ta bộc lộ khía cạnh tồi tệ nhất của mình và không biết mình có tin vào chân lý, lẽ phải và Thiên Chúa hay không”.
“Quả là một điều kỳ diệu vì tôi đã không đánh mất mọi lý tưởng của tôi, bởi vì chúng có vẻ rất phi lý và không thể thực hiện được. Tuy nhiên tôi vẫn giữ chúng vì dù sự việc có ra sao, tôi vẫn tin rằng trong thâm tâm con người vẫn tốt lành.
“Tôi nhìn thế giới đang trở lại với sự dã man, tôi luôn nghe thấy sự đe doạ đến gần, nó sẽ huỷ hoại chúng ta, tôi có thể cảm thấy sự đau khổ của hàng triệu con người nhưng nếu tôi nhìn lên trời cao, tôi nghĩ rằng mọi người muốn lên đó, sự tàn bạo này sẽ chấm dứt, hoà bình và yên tĩnh sẽ trở lại”.
Đây là một sự diễn tả lạ lùng về đức tin và hy vọng ở một thời đại với biết bao biến động. Anne không bao giờ nhìn thấy hoà bình và sự yên tĩnh trở lại. Một ngày nọ tiếng gõ cửa chết người vang lên ở cửa. Cô và gia đình cô bị đưa đến trại tập trung Nelsen. Năm 1944, cô chết ở đó.
Điều gì giúp cho một người chịu đựng? Sự đúng đắn của chính nghĩa cho người ta sức mạnh to lớn. Gương sáng và sự nâng đỡ của những người khác cũng là một sự hỗ trợ to lớn. Và rồi, có một sự giúp đỡ tốt hơn hết, đó là đức tin. Đức tin mang lại cho con người niềm xác tín rằng điều thiện hảo sau cùng sẽ chiến thắng và Thiên Chúa sẽ có tiếng nói quyết định.
“Một người với một hạt giống đức tin vào Thiên Chúa không bao giờ mất hy vọng, bởi vì người ấy luôn luôn tin vào chiến thắng sau cùng của chân lý” (Gandhi).
Trong một thế giới với quá nhiều biến động xã hội và chính trị, những người có đức tin thường bị coi là ngây thơ vô tích sự và không thích hợp. Tuy nhiên, chúng ta không nên sợ hãi thái độ hoài nghi và vô liêm sỉ, nhưng tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để giữ vững lập trường.
Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Anh em đừng sợ”. Người ta không phải là một con người nếu không cảm thấy sợ hãi khi bị nguy hiểm đe doạ. Vấn đề không phải là sợ hãi mà là vượt qua sợ hãi. “Một người không biết sợ không phải là anh hùng; người nào vượt qua sợ hãi mới là anh hùng” (Solzhenitsyn).
Đức Giêsu nói: “Bởi sự chịu đựng, anh em sẽ không mất linh hồn”.
Đức tin chỉ có thể được làm chứng trong đau khổ và chịu đựng. Đức Giêsu biểu lộ sự nhẫn nại và chịu đựng khi Người vác thập giá. Sự chịu đựng là cái mà tất cả chúng ta cần có. Chịu đựng có nghĩa là tham dự khổ đau của Đức Kitô. Nếu chúng ta tham dự khổ đau của Người, chúng ta sẽ tham dự vinh quang của Người.
Đức Giêsu đã nhìn thấy thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá. Người tiên đoán Đền Thờ lộng lẫy sẽ: TN 33-C40
Đức Giêsu đã nhìn thấy thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá. Người tiên đoán Đền Thờ lộng lẫy sẽ chỉ còn là đống gạch vụn. Đối với người Do Thái bình thường điều đó dường như không thể xảy ra, thậm chí không thể nghĩ đến được. Đây không phải là một công trình bình thường. Đền Thờ tượng trưng cho toàn bộ hệ thống thờ phượng của người Do Thái.
Lời tiên tri của Chúa Giêsu đã thành sự thật từng chữ một. Giêrusalem đã bị người La Mã tàn phá năm 70 trước công nguyên sau một cuộc bao vây kéo dài. Một triệu người đã bị giết chết hoặc bị chết đói trong cuộc vây hãm kéo dài. Đền Thờ bị đốt cháy đến tận nền móng.
Đức Giêsu muốn cứu thành Giêrusalem mà Người yêu mến nhưng không thể làm được. Có lần Người đã khóc và nói rằng: “Giêrusalem! Giêrusalem! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái các ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu”.
Thật khủng khiếp khi ở bên giường một người bạn đang đau khổ hoặc hấp hối mà không thể nào cứu được người ấy. Chúng ta cảm thấy không tương xứng. Thông thường chúng ta không còn gì để nói nữa. Nhưng biết rằng Đức Giêsu chia sẻ sự bất lực của chúng ta quả là một điều an ủi. Người cảm thấy như chúng ta cảm thấy, nhưng Người không bỏ đi. Trong những trường hợp như thế, tác vụ duy nhất của chúng ta đơn thuần là có mặt. Cả khi mà điều đó có khó khăn, đó là việc quan trọng và quý giá. Giống như Đức Maria ở dưới chân thập giá, chúng ta phải ở lại với người đau khổ và hấp hối. Một sự hiện diện làm yên lòng và nâng đỡ người có ý nghĩa bằng cả thế giới đối với người chịu đau khổ.
Leonard Cheshire là một phi công nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới II. Cuối cuộc chiến, ông rời bỏ nước Đức. Ông cảm thấy ghê tởm chiến tranh và muốn làm một điều gì đó tốt đẹp hơn với phần còn lại của cuộc đời mình. Sau cùng, ông quyết định cống hiến đời mình để giúp những người bệnh tật. Người đầu tiên được gởi đến ông là một người đàn ông có tên là Arthur. Ông này sắp chết vì bệnh ung thư. Cheshire cảm thấy hoàn toàn bất lực, nhưng ông quyết định đem lại điều duy nhất mà ông có thể, đó là tình bằng hữu.
Suốt mấy tháng cuối đời của Arthur, một tương quan cao thượng đã phát triển giữa hai người. Arthur chịu nhiều đau đớn. Những đêm dài là những lúc cô đơn nhất. Khi cơn bệnh trở nên trầm trọng. Cheshire đặt một tấm nệm bên ngoài phòng ngủ của Arthur và ngủ ở đó. Ông đưa cho Arthur một cái chuông nhỏ cầm tay mà Arthur có thể rung lên bất cứ lúc nào ông này cần.
Có một người hiện diện bên cạnh mình, quan tâm đến mình một cách sâu xa tạo nên một thế giới khác cho Arthur, cả khi sự hiện diện ấy không cắt đi cơn đau hoặc làm ngưng lại tiến trình dẫn đến cái chết. Dù Arthur là người đơn sơ nhưng ông đã chết với phẩm cách to lớn. Vốn là một người Công giáo bỏ đạo, trong những tháng cuối đời, ông đã tìm lại được đức tin, và có được sự thanh thản làm cho ông trở thành một con người khác hẳn con người ông vẫn thế cho tới lúc đó. Nhờ có gương sáng của Arthur, chính Cheshire đã trở thành con người Công giáo.
Khi người đau bệnh biết có người chăm sóc mình điều đó tạo nên một thế giới khác cho người ấy. Nó cứu người ấy khỏi viễn cảnh đáng sợ phải chết một mình và bị bỏ rơi.
Để làm loại tác vụ ấy, người ta không cần có các kỹ năng đặc biệt. Chỉ cần có lòng yêu thương. Những người thật sự yêu thương sẽ đem lại cho người đau bệnh sức mạnh không thể đo lường hết, chỉ bằng việc họ có mặt, đứng kế bên. Và trong một thế giới ở đó tính vị kỷ lan tràn thì yêu thương là cách tốt nhất để làm chứng cho Đức Kitô và cho Tin Mừng.
Đền thờ là nơi qui tụ giáo dân, là nơi mọi người được nghe lời của Chúa, là nơi các tín hữu được TN 33-C41
Đền thờ là nơi qui tụ giáo dân, là nơi mọi người được nghe lời của Chúa, là nơi các tín hữu được lãnh nhận các phép bí tích. Thời Chúa Giêsu sống, Hội Đường là nơi Ngài hằng lui tới để đọc Sách Thánh, diễn giảng và sống huynh đệ với nhau. Hôm nay, nhân ngày Chúa Giêsu vào Đền thờ Giêrusalem, có nhiều người đã trầm trồ khen ngợi Đền thờ được trang trí cách rất mỹ thuật bằng đá quí, bằng vật quí. Chúa Giêsu đã nói tiên trị về việc phá hủy Đền thờ…Họ ngạc nhiên, thắc mắc và hỏi Ngài những dấu hiệu nào báo trước việc sẽ xảy ra. Chúa Giêsu đã cho biết có ba dấu chỉ này: một là sự xuất hiện của các tiên tri giả, hai là có chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi, ba là các sứ giả Tin Mừng bị bắt bớ.
Thực vậy, theo sử gia Joseph cho biết thì Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, bị san bằng vào năm 70 khi tướng Titô đem quân tới vây chiếm Thành Thánh Giêrusalem trong đó có Đền thờ rất đẹp và lộng lẫy vì đền thờ được xây dựng bằng những đồ vật quí giá, đắt tiền. Đọc lại lịch sử chúng ta được biết Đền thờ Giêrusalem được Vua Hêrôđê Cả xây dựng trong 46 năm từ 19 năm trước Công nguyên cho hiện thời lúc Chúa nói, còn mới và Đền thờ sẽ được khánh thành đưa vào xử dụng vào năm 60 sau Công nguyên. Sử gia Joseph cho chúng ta biết những chi tiết này và cho biết rằng tiền đường Đền thờ được trang trí bằng nhiều hiện vật quí giá, những chiến lợi phẩm thu lượm được qua những trận chiến, tạo nên sự uy nghi của Đền thờ.Đọc lại lịch sử chúng ta cũng hiểu được lời Chúa nói tiên tri rất đúng trước khi Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy. Sử gia Joseph đã nói tới các tiên tri giả xuất hiện và chiến tranh lan tràn. Quả thực đúng như thế vì sau cái chết của Hoàng đế Néron thì xẩy ra việc bốn vị tranh giành nhau ngôi Hoàng đế làm cho Đế Quốc Roma lâm vào cuộc nội chiến thật khốc liệt.
Chúa Giêsu tiên báo về việc Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá là vì Ngài đã thấy trước sự việc ấy và rồi khi Ngài nói đến sự tàn phá Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu cũng cho nhân loại biết về ngày cùng tận của thế giới, ngày thế mạt nghĩa là ngày tận thế. Khi cho đọc các bài Tin Mừng nói về ngày thế mạt, Chúa Giêsu muốn cho mỗi người nghĩ tới cái chết của chúng ta, nghĩ tới sự cùng tận của thế giới loài người. Mọi công trình, mọi sự ở trần gian này chỉ là tạm bợ, ngay đối với con người thì cuộc sống hôm nay cũng chỉ tạm bợ, mau qua như hoa phù du, sớm nở chiều tàn. Cuối cùng chỉ có Thiên Chúa, con người và những gì thuộc về thiêng liêng là tồn tại mà thôi.
Chính vì thế, tiếp nối những điều Chúa Giêsu loan báo là các tông đồ, những chứng nhân của Chúa sẽ bị bách hại. Quả thực đúng như thế, trong cuộc cấm cách bắt bớ, đặc biệt là đối với các tông đồ như Phêrô và Phaolô, những vị lãnh đạo Giáo Hội và các tông đồ, các môn đệ đã vững vàng làm chứng cho Chúa, họ đã kiên trung, đổ máu, được phúc tử đạo để làm chứng cho tình yêu vô biên của Chúa. Có những vị không được phúc tử đạo nhưng vẫn luôn trung thành với Chúa, do đó, dù họ sống hay chết vẫn cứu được linh hồn của mình.
Vâng, theo Chúa luôn phảy hy sinh, từ bỏ, chiến đấu, nhưng tin vào Chúa, chúng ta an tâm làm chứng cho Ngài. Và rồi mỗi người được Chúa phân chia một công việc tùy theo địa vị của mình, nhưng tất cả luôn được Chúa thương che chở, gìn giữ.
Xin dùng lời của Cha Alain Faucher để kết luận bài chia sẻ này: “Ngay khi Giêrusalem sụp đổ, có lẽ các Kitô hữu tiên khởi đã nghĩ rằng “Mọi sự đã hết”. Sau đó, những con người đầy quả cảm ấy đã thực hiện một chọn lựa có tính quyết định: ra đi trên khắp nẻo đường thế giới. Nếu hôm nay chúng ta sống những người nam, người nữ Kitô hữu ở mọi nước trên thế giới, là nhờ sự bùng nổ việc loan báo Tin mừng từ sự kiện này. Trong cảnh hỗn loạn ấy, cần phải học cách xoay sở và hoạt động như các môn đệ đích thực”.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin của chúng con, để chúng con sẵn sàng tung cánh chim đi muôn phương, làm chứng cho Chúa phục sinh. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Lời tiên tri của Chúa Giêsu về Đền thờ Giêrusalem có đúng không? 2. Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá vào năm nào? Do ai tàn phá? 3. Khi nói về Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, Chúa Giêsu còn ám chỉ đến gì? 4. Ba dấu chỉ trước Giêrusalem bị tàn phá?
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ, chúng ta đang sống trong những năm: TN 33-C42
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ, chúng ta đang sống trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới, những năm có quá nhiều những xáo trộn, biến động trên thế giới và trong Giáo Hội. Đặc biệt chúng ta dừng lại một ít sự kiện và biến động trên thế giới có liên quan đến Tin Mừng chúng ta vừa nghe: chẳng hạn như các vụ động đất, lụt lội, hạn hán ở An độ, Nhật bản, và ngay cả ở miền Trung Việt Nam vừa qua; biến động ở Trung đông vẫn tiếp diễn giữa người Palestine và người Israel …
Chúng ta cũng dừng lại ít giây để ngẫm nghĩ về một sự kiện quan trọng nào đó xảy ra nơi chính bản thân hay trong gia đình, chẳng hạn trong gia đình có một người thân qua đời.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trình thuật những viễn cảnh về “Thời cánh chung” với ngôn ngữ Khải huyền. Sách Khải huyền là dấu chỉ của Niềm Hy Vọng. Thiên Chúa nói: “Các con hãy tin vào Ta”. Dù cho các ngôi sao rơi rụng, dù cho các ngôn sứ suy sụp, dù cho mọi sự nhân loại sụp đổ, vẫn còn có thể có một tương lai… Dù khi cái chết diễn ra vẫn còn hy vọng triệt để, tuyệt đối… không dựa trên con người nhưng dựa trên Thiên Chúa.
Tin Mừng đã gởi cho chúng ta một sứ điệp hợp thời về ngày tận thế. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không ai biết khi nào ngày tận thế sẽ đến, ngoại trừ Cha trên trời. Còn về vấn đề đó chúng ta nên hy vọng hơn là sợ hãi. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để cứu độ chúng ta chứ không luận phạt. Vì thế, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta là chính Đức Giêsu Kitô: “Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất hôm qua, hôm nay và mãi mãi”. Bởi vậy, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Thầy là Đường, là sự Thật và là sự Sống”. Đức Giêsu là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Đức Giêsu là Sự Thật, bởi vì Người mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa, về Chúa Cha; Người chỉ đường cho chúng ta tới gặp Chúa Cha, Người cho thấy phải sống thế nào cho hợp ý Thiên Chúa. Đức Giêsu còn mặc khải về chính mình và sứ mạng của Người đối với nhân loại. Chúng ta đến với Đức Giêsu, lãnh nhận Lời của Người, nhận lấy giáo huấn của Người, rồi được thúc đẩy và được hướng dẫn đến với Chúa Cha. Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha, bởi vì Người là sự sống. Đường của Người là dẫn tới mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn với Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giêsu, và chỉ có Đức Giêsu mới có thể ban sự sống vĩnh cửu ngay ở đời này cho những ai tin vào Người.
Niềm tin giúp chúng ta xác tín rằng thế giới này sẽ không kết thúc, thảm họa không thể đảo ngược. Hoặc nếu có kết thúc thì chỉ là một sự hoàn tất. Nhờ sự Phục sinh của Chúa Giêsu, Người đã thắng sự dữ và cái chết. Chúng ta nên lo lắng hơn về giờ chết của chúng ta, nó chắc chắn sẽ đến, hơn là về ngày tận thế, vì nó ở ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta.
Qua hơn 2000 năm, lịch sử vẫn tiếp diễn với bao nhiêu người đã trở nên chứng nhân của niềm hy vọng. Đó chính là các vị thánh, chứng nhân của Đức Kitô, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta; Người chính là Vua vũ trụ mà Giáo Hội sẽ mừng trọng thể vào Chúa nhật cuối của năm phụng vụ. Ngoài Đức Kitô ra, không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Đúng vậy, lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều này, nó được thể hiện qua các thánh là những chứng nhân cho niềm tin vào thập giá và Phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì các thánh đã kính chào thập giá Đức Kitô là niềm hy vọng duy nhất của các ngài; chính thập giá Đức Kitô cũng là ơn cứu độ và là vinh quang của thế giới! Trong lịch sử nhân loại đã có biết bao nhiêu vị thánh trở nên chứng nhân của niềm hy vọng. Từ các thánh tông đồ cho đến ngày nay đã có hàng hàng lớp lớp người là chứng nhân của cuộc Phục sinh của Đức Kitô. Phải một đoàn lũ các chứng nhân hy vọng: chứng nhân vì đức khiết tịnh, chứng nhân cho công lý; các chứng nhân đó gồm đủ mọi thành phần trong xã hội của mọi dân tộc (nam, phụ, lão, ấu…). Đó là cả một bức tranh của một nhân loại Kitô hữu hiền lành, khiêm nhường, không bạo lực, chống trả lại sự dữ, yếu đuối nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ trong đức tin, đã yêu và tin cho tới bên kia cái chết.
Đặc biệt, các thánh Tử Đạo Việt Nam, mà Giáo Hội mừng kính vào ngày 24 tháng 11; đó chính là những chứng nhân của niềm hy vọng mà chúng ta đáng tự hào. Đúng vậy, các thánh Tử Đạo Việt Nam là gia sản cho chúng ta, những người Kitô hữu của thế kỷ 21. Chúng ta phải ôm ấp và lựa chọn niềm hy vọng quí báu này trong cuộc sống mỗi ngày, trong các khó khăn bé nhỏ cũng như lớn lao, trong sự lột bỏ mọi gây hấn, hận thù và bạo lực. Gia sản của các ngài, những chứng nhân của niềm hy vọng phải được tiếp nhận mỗi ngày qua một cuộc sống đầy yêu thương, hiền lành và trung tín.
Năm phụng vụ sắp kết thúc, chúng ta có thể nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II rằng: “Nỗi vui mừng của chúng ta là Chúa Kitô, nhưng Người cũng là hoan lạc của chúng ta”. Từ hơn 2000 năm nay, Hội thánh sống bằng sự hiện diện và niềm hy vọng ấy. Muốn được như vậy hai phương thế rất hiệu nghiệm cho cuộc sống Kitô hữu, đó là:
. Thứ nhất, hãy nên có đời sống thánh thiện. . Thứ hai, hãy nên có tinh thần cầu nguyện.
Để bổ túc cho hai phương thế này, chúng ta cần có một đức tính căn bản đó là kiên trì. Vì như Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng ở câu kết rằng: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Sau hết, xin được mượn lại lời của vị cha chung gởi cho tất cả chúng ta, nhân ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 16, như mời gọi chúng ta quyết tâm sống niềm hy vọng:
“Hỡi các bạn trẻ, hãy mở mắt và quan sát thật kỹ: đó không phải là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng là con đường nhận chìm cho chết. Đức Giêsu đã nói: “Quả vậy ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Đức Giêsu không bỏ mặc chúng ta trong ảo tưởng: “Được cả thế gian mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có ích lợi gì?” Bằng chân lý của những lời cứng cỏi nhưng chất chứa bình an này, Đức Giêsu mặc khải cho ta bí quyết của cuộc sống đích thực (x. Bài nói chuyện với giới trẻ Rôma 2.4.1998).
Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi chúng con trên ngàn năm thứ ba. Nếu chúng con để cho ân sủng tác động trên chúng con, và hoàn thành cách nghiêm túc lời cam kết này hằng ngày, thì chúng con sẽ biến thế kỷ mới này thành một thời gian tốt đẹp hơn cho mọi người”.
Cầu chúc các bạn nên chứng nhân niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Khi nói đến phải làm gì trong Ngày của Chúa hoặc biến cố Chúa Ki-tô sẽ trở lại trong ngày phán: TN 33-C43
Khi nói đến phải làm gì trong Ngày của Chúa hoặc biến cố Chúa Ki-tô sẽ trở lại trong ngày phán xét chung, rất nhiều người có thái độ tiêu cực. Hoặc người ta bối rối lo lắng muốn biết đích xác khi nào ngày ấy xảy ra. Hoặc người ta phản ứng qua lối sống của mình: nếu ngày ấy còn xa thì mình cứ việc vui chơi cho thỏa, lo gì; còn nếu ngày ấy sắp đến thì hãy mau sống nốt những ngày còn lại, cần gì phải làm việc, nhưng hãy sống buông thả. Đó cũng là mối quan tâm của thánh Phao-lô và Giáo Hội mọi thời. Trích dẫn thư 2 Tx cho Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật trước, Giáo Hội nhắc nhở mọi người phải cầu nguyện cho nhau để sống xứng đáng, chuẩn bị cho ngày đó. Bài đọc hôm nay đề cập tới thái độ tiêu cực của một số anh chị em tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, nhưng cũng là của nhiều người ngày nay, đó là lối sống buông thả phóng túng.
Chúng ta không rõ vì lý do nào, một số tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca lại chọn lựa lối sống vô kỷ luật, như thánh Phao-lô diễn tả là họ "chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào" (3:11). Vậy lối sống vô kỷ luật và không chịu làm việc tất nhiên đưa tới việc ăn bám vào kẻ khác (3:10) và ăn không ngồi rồi thì hay làm điều xằng bậy (nhàn cư vi bất thiện). Tuy không rõ lý do, nhưng có thể một số người nghĩ rằng Ngày của Chúa gần kề nên họ không cần làm việc nữa.
Để đối phó với tệ nạn sống vô kỷ luật này, thánh Phao-lô muốn nêu lên tấm gương của bản thân ngài và xin tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy noi theo. Đã nhiều lần thánh Phao-lô làm như vậy (xem Pl 3:17; 4:9; 1 Cr 4:16; 11:1; 1 Tx 1:6). Khi sống tại Thê-xa-lô-ni-ca, ngài đã làm việc ngày đêm để đủ tiền sinh sống và không trở thành gánh nặng cho cộng đoàn. Ngài tự mình kiếm sống và không ăn bám vào ai. Lối sống ấy thật ý nghĩa và phù hợp với việc trông chờ Chúa lại đến. Chính ngài đã hy vọng ngày cánh chung sẽ xảy ra sớm, có lẽ đang lúc ngài còn sống (1 Tx 4:15), cho nên niềm hy vọng đó trở thành động lực thúc đẩy ngài làm việc và hăng say rao giảng Tin Mừng. Lối sống của ngài trở nên mẫu gương cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Chúng ta đang sống trong thời gian chuyển tiếp, giữa biến cố Chúa Ki-tô Phục Sinh và ngày Quang lâm của Người. Vậy đâu là thái độ chính đáng thánh Phao-lô dạy cho chúng ta? Vì Chúa Ki-tô đã sống lại, là "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại," nên thánh Phao-lô biết rằng ngày Quang lâm có thể xảy đến bất cứ lúc nào, ngay cả lúc ngài còn đang sống. Do đó, lẽ sống của ngài là sống trong niềm hy vọng cùng được sống lại với Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, hy vọng không có nghĩa là ngồi đấy mà chờ, mà "buông xuôi" vì đời không còn nghĩa lý gì nữa, nhưng là hăng say làm việc vì đời chóng qua như gió thổi mây bay. Đức Ki-tô đâu có ngồi đấy chờ đợi giờ bị treo lên thập giá! Ngài lợi dụng mọi thì giờ để quân bình hóa cuộc sống của Người: có thì giờ để rao giảng, có thì giờ để chữa lành, có thì giờ để dạy dỗ huấn luyện môn đệ, và cũng có thì giờ để chìm đắm trong cầu nguyện và kết hiệp với Chúa Cha. Chính Người đã nhắn nhủ môn đệ: "Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được" (Ga 9:4). Tiếp theo, Người nói về chính mình: "Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (9:5). Vậy thánh Phao-lô cũng theo gương Thầy, hăng hái làm việc và khuyên nhủ anh chị em tín hữu hãy làm việc. "Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô" (1 Cr 11:1).
Với ba bài đọc liên tục trích dẫn thư 2 Thê-xa-lô-ni-ca, có lẽ chúng ta đã nhận ra chủ ý của Giáo Hội muốn chúng ta suy niệm điều gì trong những Chúa Nhật cuối cùng (31-33) của Năm Phụng vụ. Đề tài suy niệm là về Ngày của Chúa. Muốn suy niệm cách sâu xa và hữu hiệu hơn, chúng ta nên đọc lại tất cả Thư 2 Tx để nắm vững sứ điệp về ngày cánh chung. Cũng có thể tóm tắt sứ điệp ấy như sau: Mặc dù không biết khi nào Chúa Ki-tô sẽ quang lâm, nhưng chúng ta tin tưởng rằng Người sẽ trở lại trong thời giờ của Thiên Chúa và trong cách thức của Thiên Chúa. Khi Người đến cũng là khi sự cứu rỗi Thiên Chúa hứa ban được thể hiện đầy đủ và vững bền. Kết luận thực hành là đang khi chờ đợi Ngày của Chúa, chúng ta hãy sống và làm việc, với niềm hy vọng chắc chắn và với thái độ tích cực cũng như lạc quan.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Từ trước tới nay tôi đã coi những năm tháng sống trên trần gian này theo những cái nhìn nào? Những cái nhìn ấy đã ảnh hưởng lối sống của tôi như thế nào?
Có khi nào tôi là kẻ ăn bám vào người khác không? Suy nghĩ về lối ăn bám của tôi.
Thánh Phao-lô coi mối nguy hiểm cho đời sống cộng đoàn là những người "chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào" và những người không chịu "ở yên mà làm việc." Nếu tôi không thuộc hạng người ấy, thì tôi phản ứng thế nào trước lối sống của họ? Nếu tôi thuộc hạng người chẳng chịu làm gì, nhưng chỉ thích phê bình, chỉ trích và quậy phá, thì tôi phải làm gì để sửa đổi?
Mẫu gương làm việc của Chúa Giê-su và của thánh Phao-lô dạy tôi những bài học thiết thực nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, cùng hát một bài thích hợp, hoặc đọc kinh sau đây:
Lạy Chúa Giê-su, con thường thấy mình không có thì giờ, nhưng đồng thời cũng thấy mình lãng phí bao thời gian quý báu. Nhiều khi con tự hỏi mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỡi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút đang trôi qua mà con không sao giữ lại được. Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian, để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa. Xin cho con luôn làm việc như Chúa: hặng say, tận tụy và vui tươi, vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua, và tương lai thì chưa đến, nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại. Xin cho con thấy Chúa lúc này đang ở đây bên con, và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này như một hy lễ, với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố. Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 107)
Các bài Tin Mừng của các Chúa Nhật quanh năm từ sau mùa Phục Sinh cho đến hết năm Phụng vu: TN 33-C44
Các bài Tin Mừng của các Chúa Nhật quanh năm từ sau mùa Phục Sinh cho đến hết năm Phụng vụ đều nhắm khai triển chủ đề làm môn đệ Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay đưa ta tới kết luận thực hành trước khi ta tôn vinh Chúa Giê-su là Vua vũ trụ. Bài giảng của Chúa Giê-su về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem mô tả hoàn cảnh thế giới tại đó ta sẽ phải sống như người môn đệ Chúa, tức là trung thành theo Người và làm chứng cho Người, dù phải chịu bách hại hay bị giết.
a) Giê-ru-sa-lem là hình ảnh ám chỉ một thế giới đầy biến động, nơi Ki-tô hữu phải làm chứng cho Chúa
Trong mỗi sách Tin Mừng Nhất lãm đều có bài giảng của Chúa Giê-su về biến cố ngày thế mạt, nhất là những gì sẽ xảy đến cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền thờ. Nhưng thánh Lu-ca sử dụng những tài liệu của bài giảng để trình bày tư tưởng thần học của ngài. Qua sách Tin Mừng Lu-ca và đặc biệt trong bài giảng này, ta thấy thánh sử nhấn mạnh đến sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem sắp xảy tới. Tuy nhiên vì sách Tin Mừng Lu-ca được viết sau khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ, nên sự kiện Giê-ru-sa-lem sụp đổ không có nghĩa là ngày thế mạt đã tới, nhưng là dấu chỉ nói lên tình trạng của một thế giới đầy khó khăn đối với người môn đệ muốn làm chứng cho Chúa Ki-tô.
Qua lời giảng của Chúa, ta có thể hình dung ra một thế giới đầy biến động bất lợi và nguy hiểm cho việc sống đời Ki-tô hữu và làm môn đệ Chúa. Chúa Giê-su nêu lên một số những biến động ấy. Trước hết là “có nhiều người mạo danh Chúa” đến làm cho ta hiểu lầm đó chính là Chúa. Tin Mừng Lu-ca đã ghi lại lời cảnh cáo này của Chúa. “Người ta sẽ bảo anh em: ‘Người ở kia!’ hay ‘Người ở đây này!’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo” (Lc 17:23). Kinh nghiệm cho ta thấy có nhiều “ông đạo” hoặc “bà đạo” đã thu hút được không biết bao nhiêu người theo. Người ta còn vui mừng cùng chết với họ trong những cuộc tự sát tập thể, thí dụ như sự kiện “Thiên môn” (Heavenly Gate) cách đây không lâu tại nam California, Hoa-kỳ. Nếu ta nhẹ dạ và không có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, ta sẽ dễ dàng bị lôi cuốn theo những Ki-tô giả ấy. Tiếp đến là những hỗn loạn của thế giới như chiến tranh, thiên tai, đói kém, những hiện tượng kinh khủng và những điềm lạ tinh tú. Những hỗn loạn này thường bị hiểu lầm là dấu chỉ cho thấy sắp đến ngày tận thế. Ta có thể thấy được phản ứng hãi sợ của bao nhiêu người: họ tích trữ gạo, nước, đèn cầy... vì sắp sửa có hiện tượng trời tối đen ba ngày ba đêm! Chỉ lợi cho hãng lọc nước và làm đèn cầy thôi!
Tóm lại, tất cả những gì đã xảy ra hoặc đang xảy ra mà Chúa Giê-su nêu lên chỉ cốt nói lên một thực tế Ki-tô hữu phải sẵn sàng đối phó, nghĩa là sống giữa thế giới này, họ sẽ bị bách hại vì danh Chúa và “đó là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.”
b) Làm chứng cho Chúa
Làm môn đệ Chúa nghĩa là “bước theo sau Người”, đi vào lốt chân của Người. Trên đường Em-mau, Chúa Giê-su đã cho môn đệ thấy rõ con đường Người đã đi qua: “Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24:26). Bách hại là điều dĩ nhiên xảy tới cho người môn đệ. “Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17:14). Chúa Giê-su đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại, đến nỗi Người sẵn sàng chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su đã trao phó sứ mệnh làm chứng cho các Tông đồ, ông Tê-pha-nô, ông Phao-lô, sai các ông đi công bố Người đã sống lại và là Chúa. Từ ngữ “làm chứng” của Hy-ngữ có nghĩa là “tử đạo”. Tuy đó là chức năng thuần túy của các ngài, nhưng mọi Ki-tô hữu đều được mời gọi tham dự vào việc “tử đạo” ấy khi họ can đảm sống đức tin vào Chúa Ki-tô và sẵn sàng chấp nhận những thiệt thòi vì lòng tin.
Hoàn cảnh xã hội mọi thời mọi nơi đều trở thành “cơ hội” cho Ki-tô hữu biểu lộ đức tin Công giáo của mình qua lời nói và hành động cũng như trong những giao tiếp ở bất cứ cảnh huống nào. Từ trong gia đình cho tới cộng đồng xã hội, Ki-tô hữu đều sẵn sàng “tử đạo”, không hẳn lúc nào cũng phải là cảnh đòn vọt, máu chảy đầu rơi, nhưng là phải chấp nhận những kỳ thị, đố kỵ, thiệt hại quyền lợi và thù ghét do những kẻ không muốn cùng đi con đường Ki-tô của họ.
Cảm nhận được khó khăn của việc làm chứng, Chúa Giê-su mời gọi ta hãy hoàn toàn đặt tin tưởng vào Người, vì chính Người sẽ đích thân dạy dỗ ta cách đối phó với kẻ thù và chính Người sẽ bênh vực ta để “dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu”, hoặc nói nôm na, không ai dám đụng tới cái lông chân của ta được!
c) “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”
Giữ được mạng sống nghĩa là được cứu rỗi, được vinh quang với Chúa Ki-tô, sau khi đã vượt qua được mọi thử thách. Với tất cả kinh nghiệm cá nhân, Chúa Giê-su khuyên ta một lời cuối, nhưng cũng là lời quan trọng nhất đối với ta, đó là phải kiên trì. Ta cứ tưởng tượng ra cảnh Chúa Giê-su phải đối phó với mọi kẻ thù chung quanh Người. Ma quỷ đã luôn “chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13) để tiếp tục cuộc cám dỗ Người. Người phải chấp nhận những tham vọng và yếu đuối của nhóm Tông đồ, đụng độ với những bắt bẻ rình rập của đám thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư, nhân từ đối với những đòi hỏi vô lý của đám dân chúng... Với Chúa Giê-su, kiên trì có nghĩa là trung thành với sứ mệnh Chúa Cha trao phó, là trân trọng thánh ý Chúa Cha và yêu mến nhân loại cho đến nỗi thí mạng sống mình.
Khi giải nghĩa dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giê-su đã đề cao đức kiên trì như điều kiện cần thiết để lời Thiên Chúa sinh hoa trái vĩnh cửu: “Hạt giống rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8:15). Sau này, thánh Phao-lô cũng thường nhắc tới đức kiên trì là đức tính cần thiết cho mọi Ki-tô hữu để cùng được vinh hiển với Chúa Ki-tô. Vậy kiên trì là thái độ cương quyết chống lại mọi nguy hiểm đang đe dọa lòng tin của ta vào Chúa Ki-tô và Tin Mừng của Người.
Trong hành trình làm môn đệ Chúa Giê-su, Giê-ru-sa-lem mang nhiều ý nghĩa. Một trong những ý nghĩa ấy là nó biểu tượng cho giai đoạn quyết liệt nhất của hành trình môn đệ, nói lên những thử thách lớn lao cho người môn đệ muốn gắn bó với Thầy mình và giáo lý của Người. Nhưng cũng chính trong giai đoạn này, sự hiện diện của Chúa bên ta lại được nhấn mạnh qua lời hứa của Người để ta sẽ “giữ được mạng sống” và hiển trị với Đấng là sự sống lại và là sự sống.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi đã gặp thấy những “Ki-tô giả” trong những hoàn cảnh nào? Tôi có bị ảnh hưởng gì do những mời mọc quyến rũ của chúng không? Tôi đã làm gì để không đi theo chúng?
Tôi thử nhìn lại những cuộc “tử đạo” trong đời sống hằng ngày của tôi cho biết đó là những loại tử đạo nào? Tôi đã chấp nhận những cuộc “tử đạo” ấy như thế nào?
Chúa Giê-su thường nói: “Vì danh Thầy, anh em sẽ...” Vậy tôi có xác tín cuộc sống Ki-tô hữu của tôi luôn luôn phải là “vì danh Chúa” không? Hay là vì danh những Ki-tô giả khác?
Có bao giờ tôi thiếu “kiên trì”, muốn bỏ cuộc trước những thử thách của sứ mệnh làm chứng cho Chúa Ki-tô và những giá trị Tin Mừng không? Tôi đã chỗi dậy thế nào để tiếp tục hành trình?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước. Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi. Xin cứu con khi con hầu chìm. Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã. Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 55)
Nhiều người tự hào rằng thế giới loài người văn minh, trang bị máy móc tối tân, tiện nghi, hưởng: TN 33-C45
Nhiều người tự hào rằng thế giới loài người văn minh, trang bị máy móc tối tân, tiện nghi, hưởng thụ như ý. Thế nhưng, bài Phúc Âm hôm nay làm tôi suy nghĩ. Ngày xưa, dân Do Thái cũng tự hào về đền thờ Giêrusalem, về nền văn minh của dân tộc họ. Đúng là đền thờ của họ rất nổi tiếng, trang hoàng bằng đá quý, lễ vật dâng cúng rất nhiều, có một không hai trên thế giới thời bấy giờ, bề ngoài không chê vào đâu được. Thế nhưng Chúa Giêsu lại bảo:
- Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.
Có lẽ các môn đệ ngỡ ngàng lắm nên hỏi Chúa Giêsu cho rõ: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước? ”
Chúa Giêsu phán: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu".Thì ra, Chúa Giêsu vừa nói tiên tri về thành Giêrusalem vừa muốn cảnh báo về ngày cánh chung sẽ xảy đến.
Vậy bao giờ sẽ tận thế? Khi nghe nói chiến tranh, động đất, ôn dịch đói khát, bắt đạo, chúng ta nghĩ đến ngày tận thế. Thế nhưng Chúa Giêsu cũng nói thêm, có những điềm báo để chúng ta chuẩn bị, nhưng chưa phải là hết đời ngay.
Năm nay chúng ta nghe nói đến động đất, núi lửa, lụt lội và nhiều khó khăn khác xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Đó là dấu Chúa nhắc chúng ta chuẩn bị tâm hồn. Núi lửa ở Indonesia chỉ một thoáng giết hại gần hai trăm người, lũ lụt miền trung cũng gây thiệt hại không nhỏ, một số người Kitô hữu bị sát hại … Nhưng ai bền đổ đến cùng sẽ cứu được linh hồn .
Loài người sống trung bình chưa được 100 năm nhưng lại lo vun vén, cư xử như mình không bao giờ chết. Là Kitô hữu, chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật: con người thì “sinh, lão, bệnh, tử”.
Ai cũng phải chết một lần. Do đó, hãy “sống sao xứng phận, chết dành tiếng thơm”. Kitô hữu càng phải lo sống đúng giới răn Chúa trong tình bác ái để xứng đáng với phần thưởng cao trọng vô cùng là nước Thiên Đàng chúa hứa ban.
Chúa là Đấng thưởng phạt vô cùng. Trong Bài đọc I, sách tiên tri Malakia đã cảnh báo: sẽ đến ngày những kẻ kiêu căng, làm ác sẽ như rơm rạ, còn kẻ kính sợ Chúa sẽ được mặt trời công chính mọc lên, mang theo sự cứu chữa. người lành sẽ được chính Chúa chăm sóc yêu thương.
Để chuẩn bị cho ngày hạnh phúc đó, chúng ta hãy sống tốt như Thánh Phaolô trong bài đọc II đã dạy: anh em hãy noi gương chúng tôi. Đó là siêng năng làm việc, siêng năng cầu nguyện, mỗi người lo chu toàn công việc của mình cho thật tốt và tôn trọng vai trò của anh em mình.
Người Kitô hữu hướng lòng lên Chúa, nghĩ đến cái chết, nghĩ đến đời sau nhưng không được xao lãng bổn phận đời này. Càng yêu mến Chúa, chúng ta càng phải tích cực lao động làm ra của cải vật chất, phục vụ anh em đồng loại. Những ai đã đủ ăn vẫn phải tiếp tục làm việc để dùng phần dư thừa mà giúp cho những ai yếu bệnh không làm việc được. Chúa trao bao nhiêu nén bạc thì phải dùng cho hết, không được chôn giấu hoặc vì thấy mình tài năng mà khinh thường người khác, chỉ trích tha nhân; thay vì dùng khả năng của Chúa ban mà giúp đỡ tha nhân, những người kém hơn mình trong sự khiêm nhường trong tình anh em, thì lại tự phụ, ỷ quyền thế, bắt người khác phải luỵ phục mình. Thế giới này sẽ mất trật tự nếu người có khả năng thì ngồi chỉ tay bắt người khác làm và còn chê bai chỉ trích. Đó là dấu chưa có lòng bác ái, chưa đạo đức thật sự.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết nhìn xa, trông rộng, biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách chu toàn bổn phận đời này cho thật tốt trong tình mến Chúa và yêu thương anh em.
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 21, 5-19) Chúa Giêsu và các môn đệ vào đền thờ khi công: TN 33-C46
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 21, 5-19) Chúa Giêsu và các môn đệ vào đền thờ khi công việc tu bổ vừa hoàn tất. Những cây cột của ác cổng hình vòng cung và của các hành lang trong đền thờ đều bằng đá cẩm thạch trắng, cao 40 feet – 11m882. Mỗi cột là một khối đá duy nhất. Cách trang hoàng nổi tiếng nhất là h#nh cây nho được làm bằng vàng đặc, mỗi một chùm nho có kích thước cao bằng một người. “Từ phía trước, vẻ mặt bên ngoài của đền thờ đã làm kinh ngạc con mắt và trí óc của con người, vì nó được bao phủ toàn bộ bằng những miếng vàng rất nặng, vào lúc mặt trời mọc, nó phản chiếu lại sự huy hoàng cực kỳ chói lọi, làm cho những ai cố gắng bắt buộc mình nhìn thẳng vào nó đều phải quay đi nơi khác, giống như thể họ vừa nhìn vào ngay ánh mặt trời. Nhưng từ ở đàng xa, đền thờ xuất hiện đối với những người lạ, giống như một ngọn núi được bao phủ bằng tuyết, vì đối với những phần không được mạ vàng, chúng lại cực kỳ trắng xoá”. Đứng trước sự tráng lệ huy hoàng của đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu quá xúc động vì Ngài đã nhìn thấy trước sự tàn phá của nó: “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá” (Lc 21, 6)
Bốn mươi năm sau khi Chúa Giêsu chịu chết, vào năm 70 sau dương lịch, vì sự nổi loạn của người Do Thái, quân đội Roma đã bao vây thành Giêrusalem và đền thờ bị phá huỷ. Theo nhà chú giải thánh kinh William Barclay, sử gia Josephus đã cho biêt một con số tổn thất không thể tưởng tượng nổi, 1 triệu 1 trăm ngàn người bị chết trong vòng vây, và 97.000 người bị bắt mang đi. Giống như ngày tận thế! Đây là ngôi đền thờ thứ 3 bị tàn phá nối tiếp nhau theo sự thăng trầm của dân tộc Do Thái. Trước thời lưu đày, đền thờ Salomon do vua Salomon xây dựng vào năm 922 trước công nguyên bị người Babylonian đốt phá năm 587 trước công nguyên. Sau thời lưu đày, đền thờ Zerubbabel được hoàn tất vào năm 515 trước công nguyên, nhưng vẫn không thế nào so sánh nổi với đền thờ của vua Salomon được. Yếu tố thời gian và chến tranh đã làm đền thờ bị tàn lụi dần. Năm 37 trước công nguyên, vua Herode Đại Đế của đế quốc Roma lên ngôi, cho phép dân Do Thái xây lại đền thờ lớn hơn và đẹp hơn, gọi là đền thờ Herod. Đây chính là đền thờ Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay.
Ngày nay đền thờ chỉ còn lại một bức tường duy nhất, gọi là “Wailing Wall” “Bức Tường Than Khóc!” Sự phá huỷ của đền thờ ở Giêrusalem vào năm 70 sau dương lịch và sự tàn phá của toà nhà Tháp Đôi vào năm 2001 đã biến đổi tâm thức của con người thời đại. Họ đã chứng kiến và cảm nghiệm những thảm kịch vô cùng bi đát, để rồi từ nối đau đớn đó vươn tới một chân trời mới, nhiều hy vọng và hứa hẹn hơn.
Giáo Hội sơ khai đã biến đổi từ một cộng đoàn nhỏ bé người Do Thái ở Giêrusalem trở thành những người nhiệt tình trong nổ lực rao giảng Tin mừng. Họ là những ngươờ đã biết bỏ lại đàng sau lưng sự đổ nát của đền thờ và thành thánh Giêrusalem để hướng về tương lai trong một thế giới rộng lớn hơn. Qua sự phá huỷ và tiêu diệt thành Giêrusalem, những người Roma đã giải thoát những người Kitô hữu buôi sơ khai khỏi sự hạn hẹp của quốc gia, chủng tộc, văn hoá, và tôn giáo, để họ phải dấn thân vào thế giới mới. Họ đã đưa Kitô giáo đi vào lịch sử của nhân loại, lịch sử của chúng ta. Chúng ta sẽ không có mặt ở đây trong nhà thờ này nếu những người Kitô hữu ban đầu cứ bám víu chặt chẽ lấy đền thờ ở Giêrusalem. Qua sự phá huỷ của đền thờ, đạo Kitô giáo ở buổi ban đầu đã được biến đổi để trưởng thành.
Trong Thông Điệp Tin mừng Sự Sống – Evangelium Vitae đoạn 12, ĐGH Gioan Phaolô II viết: “Chúng ta đang đối đầu với một thực tại to lớn hơn, một thực tại có thể được diễn tả như là một cấu trúc tội lỗi thực sự, do tình trạng phát hịên của một nền văn hoá chối bỏ tính cách đoàn kết, và trong nhiều trường hợp còn mặc lấy cả hình thức “văn hoá tử vong” thực sự nữa.
Trong lãnh vực tôn giáo, người ta không còn ngây thơ nghĩ rằng niềm tin tôn giáo luôn luôn là một động lực thúc đẩy con người sống cho tình yêu và hoà bình nữa. Ngày nay đã có nhiều giáo phái di ngược lại những điều răn của Thiên Chúa, chúng ta đã thấy tôn giáo phát sinh ra những con người quá khích, những tên khủng bố. Họ đã nhân danh Thiên Chúa để giết người, càng giết nhiều người càng làm vui lòng Ngài!
Ngày 26 tháng 3 năm 1997, 39 tín đồ của nhóm Heavens Gate tự sát, xác của họ đã được tìm thấy gần San Diego. Họ tin rằng họ ra đi vào không gian với Thiên Chúa. Để đạt điều đó, họ đã ăn bánh tráng miệng làm bằng bột pha thuốc độc, uống rượu Vodka, và chờ đợi cái chết đến đưa họ lên trời. Sau đó, báo Chicago Tribune số ra ngày 28/03/1997, tại Jonestoum, Guyana, do sự thúc đẩy của Jim Jones, tự xưng là Đấng Thiên Sai (Messiah), 913 người đã tự sát tập thể do các giáo phải rao giảng về ngày tận thế.
Ngày 18/11/1978, tại Jonestowwn, Guyana, do sự thúc đẩy của Jim Jones, tự xưng là Đấng Thiên Sai- Messiah, 913 người đã tự sát hay bị cưỡng ép uống độc dược chết trong rừng. Đây là giáo phái Kitô hữu có tên Peoples Temple, ra giảng về ngày tận thế. Sau đó là hàng loạt các vụ tự sát tập thể của các giáo phái cực đoan khác nhau xuất hiện.
Ngày 19/04/1993, 78 người theo giáo phái Branch Davidian, trong đó có 18 trẻ em và giáo chủ David Koresh, chết cháy hoặc bị bắn, sau khi FBI tấn công vào khu vực thờ phượng bằng hơi khói ở Waco, Texas.
Tháng 10/1993, 53 dân làng người Việt Nam tự sát tập thể bằng súng hoả mai và các vũ khí vì tin rằng họ sẽ đi lên trời.
Ngày 5/10/1994, chính quyền Thuỵ Sĩ đã tìm thấy xác chết của 48 người có liên hệ với Order of the Solar Temple- Tu hội Đền Thờ Mặt Trời- trong một ngôi nhà ở nông trại và trong 3 ngôi nhà gỗ, tất cả đều bị đốt cháy. Ngày 23/12/95, 16 thành viên khác của Order of the Solar Temple bị đốt cháy trong một ngôi nhà ở Grrenoble, trong vùng núi French Alps. Tất cả các xác chết được xếp theo hình ngôi sao nằm dưới nền nhà. Ngày 22/03/97, thêm 5 thành viên nữa của Order of the Solar Temple tự vận chết ở St. Casimir, Quebec, Canada. Các tín đồ của giáo phái này tin rằng việc tự tử sẽ đưa họ đến một thế giới mới trên một hành tinh khác được gọi là Sirius.
Những biến cố Chúa Giêsu đã cảnh giác trong bài Phúc Âm hôm nay đang dồn dập xảy ra. Chúng đã giúp chúng ta biến đổi được gì? Chúng ta đã sửa sai được những gì? Niềm tin tôn giáo có mang lại cho chúng ta tình yêu thương đồng loại và an bình trên thế giới hay dẫn chúng ta đến hận thù huỷ diệt?
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực thi tình yêu thương theo tinh thần bác ái như Chúa mời gọi. Amen.
Cđ: “Những gì anh em nhìn thấy, sẽ có ngày bị tàn phá, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.” (Lc 12, 6)
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ Giêrusalem. Đây là đền thờ do vua Hêrôđê Cả xây: TN 33-C47
a/. Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ Giêrusalem. Đây là đền thờ do vua Hêrôđê Cả xây. Nhân có mấy người khen ngợi đền thờ được trang hoàng với những hàng cột lộng lẩy, bằng vàng bạc và những viên đá quí, đồ dâng cúng, Chúa nói với họ: những gì họ thấy đây, sẽ có ngày bị tàn phá. Họ hỏi Chúa: vậy những điều đó chừng nào sẽ xảy ra? Thay vì trả lời ngay câu hỏi của họ, Chúa báo trước về ngày cánh chung. Chúa nói anh em sẽ nghe giặc giả loạn lạc, chiến tranh giữa các nước, động đất, dịch tể, các điềm lạ trên trời….Rồi Chúa kết luận: nhưng trước tất cả những chuyện đó, môn đồ của Chúa sẽ bị bách hại, có khi bị giết, nhưng trên tất cả mọi sự …hãy kiên nhẫn, vì dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không mất đâu.
b/. Đền thờ Giêrusalem Chúa đang giảng dạy, là do vua Hêrôđê Cả xây nên. Ông vua này dù gian ác, nhưng có tài về xây dựng. Các cậy cột của các cổng hình vòm cung đều bằng cẩm thạch trắng, nguyên một khối, duy nhất, cao 11, 80m. Cách trang hoàng nổi tiếng là các cùm nho, bằng vàng khối, cao bằng một người. Sử gia Joseph Flavius đã hết lời ca ngợi sự nguy nga và tráng lệ của đền thờ Giêruslem.
Đền thờ đầu tiên do vua Salomon xây năm 922 (TCN), rất nguy nga, đồ sộ, bị người Babylon đốt phá năm 587(TCN). Sau thời lưu đày, Esdras và Nêhêmi xây đền thờ thứ 2 nhỏ hơn, năm 515. Năm 37 (TCN), Hêrôđê Cả xây lại đền thờ thứ ba, nơi Chúa Giêsu đang giảng dạy. Đứng trước đền thờ, Chúa xúc động, Người tiên báo: “những gì anh em nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá”. Thực tế, bốn mươi năm sau khi Chúa chết, là năm 70 (SCN), dân Do thái nổi loạn. Lamã đem quân bao vây, và đền thờ bị phá hủy. Sử gia J. Flavius cho biết: 1.100.000 người chết trong vòng vây, và 97 ngàn người bị bắt đi lưu đày. Ngày hôm nay, đền thờ này vẫn còn lại một bức tường gọi là: Bức tường Than Khóc.
C/. Chúng ta đang sống những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, chính vì thế, bài Tin Mừng hôm nay muốn nói đến viễn tượng của ngày cuối cùng cuộc đời của con người và thế giới…..Ai sống trên đời, không nhiều thì ít, vẫn luôn băn khoăn về tương lai, về số phận của mình. Ai cũng mong cho tương lai mình được tươi sáng… Thử nhìn lịch sử đã qua, con người luôn sống trong tình trạng bất ổn: chiến tranh liên miên – đói kém – bảo lụt – động đất mất mùa – kỳ thị - bạo lực. Ý là: Con người là “sinh vật thượng đẳng” đó, với trí tuệ và tài năng phi thường, vừa là chủ nhân của trái đất, vừa là con người thông minh tuyệt đỉnh, với bao phát minh sáng chế, làm ra bao tiện nghi, khống chế mọi loài lớn nhỏ trên mặt đất…. Vậy mà xem ra đời sống lại khá nhiều âu lo, bất an. Ta thử nhìn xem bầy ong, bầy kiến, chúng sống khá yên lành, không mấy lo toan như con người nhân loại. Vì thế, một danh nhân đã nói: “đời người là một cuộc chiến đấu không ngừng”. Vậy nên số phận con người tùy thuộc vào TINH THẦN và KHẢ NĂNG CHIẾN ĐẤU. Chính Chúa Giêsu dạy ta hãy kiên nhẩn, tỉnh thức, nhất là cố gắng vượt qua khó khăn, gian khổ với ơn sũng của Chúa luôn đi kèm, để nâng đở hổ trợ đầy tin yêu, thông cảm …
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Mỗi người ngay lúc sinh ra, đều mang án tử, nghĩa là phải có ngày chết. Chính tôi đã thấy nghững người lớn hơn tôi có, nhỏ hơn cũng có, họ đã ra đi ngay trước mắt tôi. Bao lâu nay tôi đã chuẩn bị gì cho chuyến đi cuối cùng của tôi? Tôi có thường nghỉ tới nó không?
Có một chuyện kể rằng: “Một hôm, có một người ăn mặc lôi thôi đứng ở góc đường tấp nập: TN 33-C48
Có một chuyện kể rằng: “Một hôm, có một người ăn mặc lôi thôi đứng ở góc đường tấp nập tại thành phố Chicago . Giữa lúc nhân viên các công tư sở đang trên đường đi ăn trưa, bổng hắn giơ cánh tay lên, chỉ tay về một người đứng gần hắn và hét to:”Mi có tội !”
Rồi chẳng nói chẳng rằng, hắn lại trở lại vị thế bất động trong một vài giây để tiếp tục làm những hành động kết án như cũ – “Mi có tội !”
Hậu quả về phía những nhân viên qua lại gần như là sự khó chịu. Họ chỉ liếc qua hắn, nhìn đi chỗ khác, nhìn lại hắn lần nữa và vội cất bước đi nhanh.”
Tuy câu chuyện có vẻ khôi hài, nhưng cũng nêu lên được một điểm quan trọng: đó là chúng ta đều có phạm tội và một ngày nào đó sẽ bị Thiên Chúa xét xử.
Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của năm phụng vụ 2007. Trong những ngày này, Giáo hội muốn chọn những đoạn Thánh Kinh nói về sự chung cục của vũ trụ và của đời người. Giáo hội mời gọi chúng ta này hãy kiểm điểm và nhìn lại hành trình đức tin và lối sống của chúng ta xem chúng như thế nào. Bởi vì, tất cả chúng ta sẽ phải trả lẽ về mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta trước toà Thiên Chúa.
Bài đọc I hôm nay được trích trong sách tiên tri Malakia, cho chúng ta thấy rằng: đối với người tội lỗi, ngày của Chúa là một ngày xét xử ; còn đối với người công chính, đó là ngày cứu độ. Vậy chúng ta hãy sống thế nào để ngày Chúa đến trở thành niềm vui và là ngày cứu độ cho tất cả chúng ta.
Một trong những tư tưởng then chốt trong trong Tin mừng của Thánh Luca là sự Đảo lộn số phận của con người sau khi chết . Tư tưởng “Reversal”, mà ở đây tôi tạm gọi nó là “Sự Đổi Ngôi”. Ví dụ: những người giàu có mà không biết sống chia sẻ sẽ trở thành nghèo khổ, được ở đời này thì sẽ mất ở đời sau . . .
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy được một trong những khía cạnh của “sự đổi ngôi” đó. Chúa Giêsu tiên báo về cảnh hoang tàn của Đền thờ Giêrusalem, mà giờ đây dân chúng đang ngất ngây chiêm ngưỡng trước vẻ đẹp và sự nguy nga tráng lệ của nó. Chúa Giêsu cũng cho thấy sự lấn át của thế quyền trên thần quyền. Nhưng thật ra đó chỉ là cơn vùng vẫy của một con mãnh thú trước giờ chết mà thôi. Những người Kitô hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa nếu trung tín đến cùng sẽ được vinh hiển muôn đời trong Nước Chúa. Đó sẽ là một “cuộc đổi ngôi” cho mọi con cái của Chúa do chính Người thực hiện. “Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con”
1. Mọi sự rỗi sẽ qua đi.
Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay có đề cập đến vấn đề những người trầm trồ khen ngợi về Đền Thờ Giêrusalem, làm cho chúng ta liên tưởng đến biến cố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ. Có ai ngờ rằng, Đền thờ Giêrusalem kiên cố như vậy, nguy nga lộng lẫy như vậy lại có ngày bị cảnh “Không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”. Theo đúng như lời tiên tri của Chúa Giêsu. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Năm 70 sau CN, Titus ( của Đế quốc Rôma) đã kéo quân vào chiếm Giêrusalem và tàn phá Đền thờ một cách thảm hại.
Cũng vậy, toà Tháp Đôi, trung tâm thương mại thế giới tại Hoa Kỳ được xem là biểu tượng về sự kiên vững của thế giới, đã bị sụp đổ tan tành trong chốc lát.
Với những biến cố như thế cho ta thấy rằng, chúng ta đang sống trong một thế giới hết sức tạm thời và bấp bênh. Tất cả rồi sẽ qua đi. Tất cả rồi sẽ được biến đổi trong nháy mắt. Như vậy, chúng ta cần có thái độ nào trong cuộc sống hôm nay. Chúng ta cần chọn lựa chỗ dựa cho mình là gì? Cần bám níu và nương tựa và ai? Đâu là thái độ sống của người khôn ngoan? Lời Thánh vịnh 22 đã cho chúng ta thấy được rằng “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan”.
2. Thế quyền vùng vẫy.
Đọc lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy, thời ào cũng có những người bách hại đạo Chúa; hành hạ, làm khó dễ những người tín hữu Chúa.. Quyền lực của thế gian xem ra đã lấn át quyền uy của Thiên Chúa! Nhưng không phải thế.
Chúa Giêsu đã tiên báo, vào những lúc tận cùng của thế giới,sẽ có những cuộc bách hại tàn khốc với những người Kitô hữu. Trong thời gian này, kẻ thù của chúng ta là chính những người thân của chúng ta, là bạn hữu thân thiện của ta, là anh em của ta . . . Đó là một cuộc thanh luyện, một cuộc trắc nghiệm nghiêm khắc và quyết liệt cho những tín hữu Chúa, để chuẩn bị cho một cuộc đổi ngôi. Huy hoàng: “Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con”.
3. Cuộc giáng lâm (Parousia) vinh hiển của Chúa:
“Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2, 26 ). Sau cơn vùng vẫy kinh hoàng của thế quyền, nó sẽ bị Thiên Chúa tiêu diệt cùng với những phe cánh và những người nhát đảm bị nó quyến rũ theo. Quyền lực thế gian này sẽ “ra không” và nhường chỗ cho sự cai trị và lên ngôi vinh hiển và vĩnh cửu của Đức Giêsu Kitô, Con chiên vẹn toàn của Thiên Chúa. Khi đó, Ngài sẽ đội lên đầu những tôi trung của Ngài mũ triều thiên sự sống để họ được sống mãi trong hạnh phúc viên mãn, Những kẻ bị coi là thua thiệt, bị hành hạ vì danh Chúa, bị vu khống, bị hiểu lầm và bị khinh khi vì can trường trong niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, sẽ được “lên ngôi”. Đó là một cuộc “đổi ngôi” huy hoàng và quyết định cho số phận đời đời của con người. “Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con”.
Lạy Chúa, xin giúp con sống ngày nay xứng đáng để được vui thoả trong ngày Chúa xét xử.
Bên Mỹ, bằng quan trọng nhất là bằng lái xe. Ở Louisiana thì cứ bốn năm phải lấy bằng lại, chụp: TN 33-C49
Bên Mỹ, bằng quan trọng nhất là bằng lái xe. Ở Louisiana thì cứ bốn năm phải lấy bằng lại, chụp hình lại, kê khai rõ nặng bao nhiêu, cao bao nhiêu, mắt màu gì, và không được phép quên con số an ninh xã hội, là con số đã được phán xét phân loại sang hèn tốt xấu ở nước này hẳn hòi rồi. ít nhất là từ văn phòng của FBI. Đây cũng là thẻ "căn cước ID" được hỏi kỹ nhất. Hình chụp thì chỉ mất mấy chục giây, mà phải mang nó đi trình diện thiên hạ cả bốn năm liền. Ông cảnh sát đuổi xe phạt cũng đòi hỏi thăm hình trong bằng lái. Nhân viên ngân hàng cũng yêu cầu được nhìn cho rõ. Người ghi phòng khách sạn cũng đòi coi mắt, tai, mũi, họng... xem có phải là thứ thiệt không!
HÌNH CHỤP TRONG BẰNG LÁI XE
Điều đặc biệt là chẳng mấy ai hài lòng về hình chụp trong bằng lái xe. Có hình trông giống tên tội phạm vượt ngục thứ dữ mà cảnh sát đang lùng bắt. Có hình khi giơ ra thì bọ hay gián gì cũng phải chạy. Bà Angela Hill của đài CBS ở New Orleans thì chỉ mong cơ quan chụp hình bằng lái xe có thêm kính lọc (filter) để che bớt những vết nhăn và nhám đi cho bớt già cỗi; và phải biết kỹ thuật chụp hình tối thiểu để chụp hình những người béo mập như bà trông thon thon ra một tí.
Thì ra sở dĩ mình không thích hình trong bằng lái xe vì nó giống mình quá, lộ liễu quá, chả thẩm mĩ chút nào. Thợ chụp hình chuyên nghiệp ăn tiền phải học kỹ thuật ánh sáng rất nhuyễn để hình chụp trở thành lung linh hấp dẫn: phải thêm đèn chiếu phía sau cho nổi thân người lên, thêm đèn chiếu vào tóc để những sợi tóc bạc bớt bạc bẽo đi cho bồng bềnh thơ mộng; và phải biết dùng kính lọc che bớt đi những gì trên khuôn mặt mà khách hàng không mấy ưa thích. Trong mười cái hình chụp thì hình đẹp nhất chưa hẳn là hình giống thật. Hèn chi nhiều bà nhiều cô đi sửa sắc đẹp về soi gương nhìn khuôn mặt mới với cằm giả, mũi giả, lông mi giả, lại khen mình đẹp quá mới lạ chứ, vì có còn phải là mình nữa đâu!
TRUYỆN ĐI TÌM XÁC CHẾT
Trận bão Katrina tại New Orleans thật khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử, đã tàn phá thành phố này một cách khủng khiếp. Bao nhiêu người không còn nhà ở. Người chết cũng bộn!
Chắc hẳn ai cũng đã từng chứng kiến hoặc nghe về những cái chết khác nhau. Chết êm ả trên giường bệnh bên những người thân yêu hay chết tức tưởi lòi ruột vọt óc ở ngoài mặt trận. Chết quằn quại sau vụ cháy hoặc đụng xe. Chết không kịp trối trăng khi bị ngưng tim. Chết cách nào thì cũng là một cái chết.
Tôi có dịp chứng kiến một lúc nhiều xác chết với nhiều cách khác nhau. Hồi mới sang Mỹ, dân ta chưa quen những thủ tục khi nhà có người chết bất ngờ. Một đêm, tôi bị một gia đình đánh thức dậy xin giúp đi tìm xác một người thân chết ở nhà vì trúng gió mà cảnh sát đã mang đi đâu không biết. Họ hốt hoảng quá, sợ mất xác thì tìm đâu bây giờ, mà tôi thì cũng chả hiểu đầu đuôi ra sao, nên cũng đành vác xe chạy. Hỏi tới hỏi lui thì được chỉ tới nha cảnh sát, chỗ phòng khám nghiệm tử thi ở đường Tulane góc đường Broad.
Mắt nhắm mắt mở bước vào, tôi thấy sao người đợi đông thế. Nhìn kỹ lại thì thấy toàn là xác chết không à. Tóc tôi dựng đứng, da nổi ốc hột bò rần rần. Thì ra xác chết từ các nơi được cảnh sát đưa về đây khám nghiệm: từ vụ đâm chém ngoài đường, từ vụ chết ở nhà ban đêm, từ vụ chết cháy, chết tai nạn bẹp dí lôi từ xe ra, chết chương phềnh vớt từ nước lên... Có xác ngồi, xác nằm xoải, xác nằm co quắp, có xác cháy rụi, có xác mất đầu ... Nhìn sang phòng bên cạnh thì thấy một cái xác khác đang được để trên bàn, mấy người da mầu mắt đỏ hoe đang làm công tác mổ bụng lấy ruột ra vất nhanh vào thùng rác bên cạnh kêu bẹt lên một tiếng khan mà nhễ nhụa.Tôi bỗng rùng mình giật bắn người lên, vì vừa nhận thức ra một mùi tổng hợp nồng nặc không thể tưởng được xộc thẳng vào mũi, chỉa sâu vào da. Vừa tanh vừa thối khăm khẳm đến phát ói và lạnh buốt xương sống. Cái mùi quái gở này đã bám sát ám ảnh tôi suốt một tuần lễ: ăn không được, đang ngủ thì bị giật dậy!
TIN VUI CHỤP HÌNH BẰNG LÁI VỀ BÊN KIA CỬA TỬ
Nhìn lại những tấm hình chụp trong đời, mình thấy mình thay đổi nhiều quá. Mới hồi nào là một chú bé chụp chung với các bạn cùng lớp ở Phú Nhuận, thơ ngây bé dại. Rồi nhiều hình kế tiếp, mỗi năm mỗi khác. Những năm gần đây thì hình có vẻ gồ ghề ra, nhiều chỗ phát triển không đồng đều. Tóc thì cứ lớp lớp hát bài tạ từ "mùa thu lá bay", những sợi còn lại thì "lơ thơ tơ liễu buông mành" đếm thành con số được. Thì chả lẽ cứ trẻ mãi à! Không biết hình năm tới ra sao? Rồi hình của 10 năm nữa, 20 năm nữa, hay 50 năm nữa, mình khó mà hình dung nổi.
À, tôi nhận ra rồi. Tuần này tôi đã trông thấy hình chụp tôi sau đây 50 năm. Chuyện thật đấy. Tôi bị nha sĩ bảo phải mổ cả hai hàm răng. Sợ quá mà cũng phải theo, vì nếu không thì nha sĩ đe dọa rằng không lâu nữa sẽ phải đeo hàm răng giả.
Trước khi mổ, nha sĩ cho chụp hình tia sáng X, rồi để tấm hình với hai hàm răng nhe ra ngay trước mặt mà ngắm nghía và phân tích. Nhiều mũi thuốc tê được chích vào lợi, những kim chích dài cứ tàn nhẫn cắm sồn sột ngập sâu vào chân thịt đến rợn người. Tôi co người nín thở đỡ đòn. Thế là cả hai hàm đều hết cảm giác. Nha sĩ tha hồ tung hoành: nào khoan, khoét, nạo, đục, mài, nậy, giũa... tiếng vang lên inh ỏi như trong xưởng thợ tiện, nào cho máy mút máu chảy láng lênh... Tôi nằm chịu trận, cố nhìn hình tôi qua hai hàm răng chụp tia sáng X phía trước như kiểu "tôi nhìn tôi trên vách". Và tôi nhìn rõ hình tôi là như thế sau đây 50 năm! Tia sáng X kỳ diệu quá, nhìn thấu qua da thịt để chỉ còn thấy xương, giống hệt như tia thời gian xuyên thủng xác thân này cho già cỗi đi, cho thối rữa ra... Cái gì còn lại sau 50 năm nữa ngoài bộ xương kia nhỉ? Và tôi đã xin nha sĩ chụp lại tấm hình đó để tôi đưa về giữ làm thẻ "căn cước" cuộc đời.
Nhìn thấy hình của mình sau đây 50 năm là cảm nhận được Tin Vui của Chúa Giêsu qua câu chuyện: "Bấy giờ có người khen Đền Thờ lộng lẫy khác thường vì những bức đá chạm, và những đồ phụng hiến rất đẹp. Người nói: "Những thứ các con đang ngắm bây giờ, sẽ có ngày tan nát hết, không còn viên đá nào chồng lên viên đá nào." (Luca 21:5-6).
Câu nói của Chúa Giêsu không chỉ là một lời tiên tri, vì chỉ sau đó chưa đầy 40 năm, tức vào năm 70, quân Rôma đã đập tan sức kháng cự mãnh liệt của người Do Thái. Và để giằn mặt, họ đã san bình địa thành phố Giêrusalem, chỉ để lại một bức tường để ghi nhớ cho mà sợ, đó là Bức Tường Khóc còn tồn tại đến ngày nay.
Thực ra Chúa muốn nói về những ngôi nhà tưởng là kiên cố khác là thân xác con người: sẽ có ngày thối rữa hết, không còn một miếng thịt nào chồng lên miếng thịt nào, như hình chụp bộ răng kia!
Mình thử hình dung ngồi nhìn cái xác chết của chính mình dưới ngôi mộ qua nhiều giai đoạn xem sao. Trước hết, xác sẽ lạnh cứng, rồi dần dần xám đen lại. Một thời gian thì thấy những kẽ nứt trên da, nước vàng rỉ ra, nhiều phần bắt đầu thối, mùi tanh và thối xông lên nồng nặc, rồi toàn thân nát rữa, trơ ra bộ xương dần dà xụm xuống... Chụp hình lúc này chắc ớn lắm nhỉ? Nhưng đây là Tin Vui của Chúa: mỗi người vẫn có thể chụp được bức hình của mình đẹp nhất. Đó là chụp được hình linh hồn mình đã được tạo dựng "giống như hình ảnh Chúa" (Khởi Nguyên 1:27) với hành trang mới.
Kiếp ngắn dài một mộ bia
Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian
Dừng chân đếm túi hành trang
Những gì còn lại chuỗi vàng lời kinh.
NHỮNG GÌ SẼ ĐEM THEO VỀ CÕI CHẾT
Nhìn lá rụng mùa thu, tự nhiên ai cũng nghĩ về thân phận mình: một ngày không xa thân xác cũng sẽ rụng xuống như vậy. Đúng là điệu múa tử thi. Cái gì mất, cái gì còn? Mất, nhiều khi lại còn. Mà tưởng là còn, thì lại đã mất! Vậy xin mượn tâm tình của nhạc sĩ Phạm Duy trong bài "Những Gì Sẽ Đem Theo Về Cõi Chết" như một lời trần tình để chụp hình mình lấy bằng lái xe mà đi về Cõi Chúa là gia nghiệp đời mình.
Một mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây? Tôi không đem với tôi được tiền tài hay danh vọng,
Tôi không đem theo với tôi được gái đẹp hay rượu nồng,
Tôi không đem với tôi được mộng giàu sang phú quí... Tôi không đem với tôi được quyền hành trong giai đoạn,
Tôi không đem với tôi được giới hạn tiếng anh hùng,
Tôi không đem với tôi được tượng đồng bia đá trắng... Tôi không đem với tôi được nhiều điều tôi mong đợi,
Tôi không đem với tôi được danh với lợi ra ngoài đời,
Tôi không đem với tôi được cả buồn vui mấy nỗi... Rồi mai đây tôi sẽ chết...
Trong lòng mừng không hối tiếc,
Tôi không đem theo với tôi những gì đâu!
Một vị linh mục sau khi cầu nguyện, xin Chúa cho phép tra vấn một tên quỉ: -Nhân danh Chúa: TN 33-C50
Một vị linh mục sau khi cầu nguyện, xin Chúa cho phép tra vấn một tên quỉ:
-Nhân danh Chúa, ngươi hãy cho ta biết: đâu là nơi ngươi cho là hạnh phúc nhất?
Quỉ nhanh nhẹn đáp:
-Chính là Thiên đàng. Được thấy Chúa là niềm hoan lạc vô biên. Sống với Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Nếu ông lấy mọi của cải châu báu trần gian sánh với kho báu trên trời thì chỉ là con số không.
Vị linh mục thắc mắc:
-Ngươi đã được hưởng tất cả hạnh phúc đó trên Thiên đàng, sao ngươi đánh mất?
-Chỉ vì chúng tôi đã lỡ kiêu ngạo phản loạn. Bây giờ thì ăn năn đã muộn. Nhưng dù phải chịu tất cả cực hình hỏa ngục để đổi lấy hạnh phúc Thiên đàng trong giây lát, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận.
Chúng ta biết rằng tất cả những khó nhọc ở đời này so với một chút đau khổ cực hình trong hỏa ngục, cũng chưa đáng là gì. Thế mà ma quỉ sẵn sàng chịu tất cả mọi cực hình của hỏa ngục để đổi lấy một chút hạnh phúc Thiên đàng cũng không được, vì thời kỳ thử thách và lập công đã chấm dứt. Mỗi người hãy theo lời khuyên của thánh Phaolô là luôn làm việc để nuôi thân, xây dựng Hội thánh và làm phong phú nước Thiên Chúa.
Nhìn vào sinh hoạt của thế giới, mọi vật đều làm việc: Địa cầu luôn luôn chuyển động, đất đá là nguồn sinh lực cho thảo mộc, thảo mộc làm của ăn cho động vật, con người được hưởng tất cả hoa lợi để phụng sự Chúa. Chúng ta thử thu gọn thế giới vào trí tưởng tượng hay mở lại những trang sinh hoạt của thế giới trong các băng ghi hình, đĩa của máy vi tính…. Mọi cảnh vật diễn ra thật kỳ diệu: Những vực sâu thăm thẳm, ngọn núi hùng vĩ cao chót vót; những bông hoa đẹp tuyệt vời, những con vật khổng lồ trông có vẻ oai phong hay những con vật dễ thương làm sao! Thậm chí cả những vật li ti như hạt cát, mảnh ngọc trai, bông hoa đồng nội, con kiến v.v. Tất cả chúng làm nên tác phẩm kỳ diệu của công trình do bàn tay Chúa tạo dựng. Thế nhưng mọi tạo vật sẽ qua đi mà nhường chỗ trời mới đất mới, ngày tận thế sẽ chấm dứt cảnh sinh hoạt hiện nay, chỉ còn lại tình mến bao la vĩnh cửu trên nơi Thiên quốc.
Đi vào “thế giới con người” mới kỳ diệu: Một em bé mới thôi sữa được thời gian ngắn đã được gởi vào nhà trẻ lớp mầm non, lớp chồi, lớp lá… Cộng thêm 12 năm trung học, 5 năm đại học, thêm vào đó một số năm để lấy bằng tiến sĩ. Với bầu trời kiến thức đó, con người đi vào cuộc đời để xây dựng “tình yêu lý tưởng”. Tuy nhiên những “sản phẩm” cao quí này lại chứa đựng trong một thân xác rất mong manh, nếu có sống thọ cũng chỉ một là khúc thời gian. Đấy là chưa kể những người bị thất bại, đứt gánh nửa chừng, chúng ta đã từng chứng kiến nhiều cảnh tang thương trong xã hội. Dù may mắn hay cùng quẫn trong cuộc sống, mọi sự cũng sẽ qua đi hết.
Có những người khôn ngoan hơn, đi giúp việc từ thiện, thực thi công ích xã hội, góp phần xây dựng công trình của Giáo hội, như việc xây dựng nhà thờ, chẳng hạn như đền thờ Giêrusalem trong Phúc Âm hôm nay: Lúc đó, tại khuôn viên thánh đường, có một số người nhìn ngắm và trầm trồ khen ngợi lối kiến trúc đẹp đẽ nguy nga tráng lệ. Trong đền thờ, các cột trụ của cổng và hành lang đều toàn bằng cẩm thạch trắng, cao hơn 12 mét; mỗi cột làm bằng đá nguyên khối. Phần trang trí nổi tiếng nhất là cây nho lớn bằng vàng ròng, mỗi chùm nho cao bằng một người. Mặt tiền của đền thờ được phủ bằng tấm vàng lá và nặng , khi mặt trời mọc lên, nó phản chiếu một sự rực rỡ chói lòa, đến nỗi những ai muốn nhìn cũng phải quay đi, như không dám nhìn vào mặt trời vậy. Các phần khác của đền thờ có mầu trắng tinh, những khách lạ khi còn ở xa, trông thấy ngôi đền thờ ấy giống như ngọn núi phủ đầy tuyết. Nhưng Chúa Giêsu tiên báo một lời làm kinh hoàng mọi người: Đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá khốc liệt đến nỗi không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào. Và lời tiên báo đó đã được thực hiện năm 70 sau công nguyên, khi Titus kéo quân vào chiếm thành Giêrusalem.
Chúng ta thấy ở đời này chẳng có gì tồn tại, ngay cả những người bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu cũng bị bách hại, họ bắt bớ cả chính Chúa Giêsu (Ga.15,20). Nhờ đó để chúng ta hướng lòng về những thực tại siêu nhiên cao cả. Trong đại chiến 1914-1918, Brooke đã viết: “Chúng ta đã nắm được sự bình an mà muôn đời không bị lay chuyển bởi đau khổ, là người nào bước đi với Chúa Cứu Thế có thể mất mạng sống, nhưng không mất linh hồn.”
Như vậy linh hồn là nền móng của đền thờ tâm hồn để chúng ta xây dựng. Và ai cũng phải có trách vụ xây đền thờ tâm hồn cho riêng mình. Khả năng xây dựng đền thờ này không cần phải đòi kiến thức hay của cải giầu sang, nhưng tất cả mọi người có thể trang điểm cho tâm hồn bằng các nhân đức. Hơn nữa chính những đau khổ ở đời này là vật liệu rất quí giá cho ngôi đền thờ tâm hồn được tráng lệ lộng lẫy.
Cuối cùng mọi người có thể bắt tay ngay vào việc để xây dựng toà nhà tâm hồn cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, cho linh hồn chúng ta hưởng nhờ mai ngày trên Thiên quốc. Như gương sáng 12 nhân đức của Đức Mẹ là triều thiên chói ngời cho muôn vàn thế hệ. Nếu ta nghèo nhân đức đi nữa, chúng ta có thể bù lại bằng lòng ước ao, bằng lòng mến yêu liên tục qua lời nguyện vắn tắt mà mọi người có thể thực hành dễ dàng: “Giêsu Maria Giuse, con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn”.