Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 30-C Bài 101-150: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ----------------------------------------- Phúc Âm: Lc 18, 9-14: "Người thu thuế ra về được khỏi tội".
“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống" là một giáo huấn rất quan trọng nên thường được Chúa Giêsu đề cập nhiều lần trong Tin Mừng bằng nhiều hình thức (Lc 18,14. Lc 14, 7-11. Mt 23,12)
Lần nầy, để minh hoạ cho bài học của mình, Chúa Giêsu nêu lên hai nhân vật.
Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: "Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!"
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: "Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con".
Quả là ông nầy có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng Thiên Chúa chê bỏ ông vì thái độ tự kiêu của ông. Ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ nào cho Chúa rót thêm.
Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ nên anh đã được Thiên Chúa thứ tha.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."
* * *
Một hôm khi cùng với học trò vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, Đức Khổng Tử thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói với môn sinh: Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để răn dạy người đời. Đó là một chiếc lọ đặc biệt, khi để trống không thì nghiêng, khi đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy nước vào thì lọ đổ nhào. Không rõ vật ấy có phải là cái lọ nầy không?
Rồi ngài sai học trò đổ nước vào thử xem. Quả thật, mới đầu lọ đứng nghiêng, khi nước được rót vào được một nửa, thì chiếc lọ chuyển sang vị thế đứng thẳng; rồi cứ đổ tiếp cho đầy tới miệng thì lọ đổ nhào.
Người đông phương ngày xưa khôn khéo tạo nên chiếc lọ đặc biệt như thế để ghi khắc vào tâm khảm người đời bài học khiêm tốn, bài học trung dung, một cách rất ấn tượng.
Còn người phương tây cũng diễn tả nội dung đó qua một ngạn ngữ khá phổ thông: "virtus in medio - nhân đức nằm ở mực trung".
Người nhân đức là người biết sống trung dung, không bất cập mà cũng không thái quá.
Bởi vì bất cứ điều gì quá dư đầy phải sụp đổ.
"Mặt trời đứng bóng rồi phải xế, Mặt trăng tròn đầy rồi sẽ khuyết, Vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy". (Thái Trạch)
"Cái gì dư đầy sẽ phải đổ "... (Khổng Tử)
Thế nên, Lão tử khuyên chúng ta:
"Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu, Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp".
Bậc thông minh duệ trí thì nên giữ mình bằng khiêm nhường, nhận rằng mình còn nhiều điều chưa biết; bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới hãy biết bảo trọng thân mình bằng cách sống hạ mình như người nhát sợ thì mới được vững bền.
Còn Chúa Giêsu vẫn hằng nhắc nhở chúng ta: chớ dại mà nâng mình lên vì "hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống" như trường hợp người biệt phái trong câu chuyện trên đây hay chớ dại dột chọn ngồi chỗ cao trong bữa tiệc, kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (như ở Tin Mừng Luca chương 14, 7-11).
Trong hơn 100 năm qua, các Nữ Tu Dòng Kín được biết với tên các "Nữ Tu Hồng" đã thay phiên TN 30-C102
Trong hơn 100 năm qua, các Nữ Tu Dòng Kín được biết với tên các "Nữ Tu Hồng" đã thay phiên nhau cầu nguyện liên tục không ngừng nghỉ tại Nhà Nguyện Divine Love ( Chúa Tình Yêu ) ở Philadelphia. Hiện nay để tiếp tục việc cầu nguyện liên lỉ thêm một kỷ nguyên nữa trong lúc nhân số giảm dần, các Nữ Tu Dòng Kính Thánh Thể Công Giáo đã bắt đầu âm thầm tìm cách phát triển Nhà Dòng, trong khi vẫn đang duy trì sống đời sống tách biệt với thế giới bên ngoài nơi Dòng Kín.
Năm ngoái, các Nữ Tu đã treo biểu ngữ bên ngoài Nhà Nguyện và Tu Viện để mời công chúng vào tham dự Thánh Lễ mỗi ngày. Các chị cũng dành nhiều cuộc phỏng vấn cho các phóng viên. Thậm chí còn có những tờ truyền đơn kêu mời tham gia cầu nguyện được treo ngay trước cửa Nhà Nguyện, trong đó có ba câu hỏi được đặt ra là: Bạn có yêu Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể không ? Bạn có nhận thấy sức mạnh của việc cầu nguyện trước Thánh Thể không ? Chúa Giêsu có mời bạn nói “Có” với đời sống cầu nguyện trước Thánh Thể không ?
Trước đây có khoảng 40 Nữ Tu sống tại Tu Viện Philadelphia. Hiện nay thì chỉ còn 20, chị trẻ nhất là 52 tuổi và chị lớn nhất là 90 tuổi. Đây là một đời sống quên mình, tập trung vào việc cầu nguyện xin ơn cho những người mà các chị chưa hề gặp gỡ hay quen biết. Các chị cầu nguyện hầu như suốt ngày, cầu nguyện chung và cầu nguyện riêng luân phiên trước Thánh Thể, thông thường các chị thức dậy lúc 5g15 sáng và đi ngủ lúc 8g tối.
Ai cũng có việc của mình. Người thì làm thẻ Thánh Lễ, người thì làm tràng hạt, tất cả tiền bán sản phẩm được dùng cho việc chi tiêu của Nhà Dòng. Những Nữ Tu khác thì trả lời thư tín, người thì trực điện thoại. Những người gọi tới thường là những người cô đơn hay chán đời muốn tự tử. Các chị chỉ lắng nghe, vậy mà lại có kết quả an ủi khác thường. Nữ Tu Mary Angelica, 55 tuổi, nói là chị muốn cho những người đã mất Đức Tin biết rằng: luôn luôn có người cầu nguyện cho họ “về bất cứ việc gì họ cần.”
Nữ Tu Mary Angelica giải thích rằng: “Chúng tôi sống đơn giản chừng nào tốt chừng ấy để hoàn toàn chú tâm vào Thiên Chúa. Chúng tôi đơn giản trong mọi thứ, kể cả thức ăn, tuy vậy chúng tôi cũng có kem lạnh vào những dịp lễ đặc biệt.” ( Theo AP, Gương cầu nguyện các "Nữ Tu Hồng" đã liên lỉ cầu nguyện 100 năm và đang tiến hành thêm 100 năm nữa ).
Các "Nữ Tu Hồng" quên mình, liên lỉ cầu nguyện cho tha nhân, là gương mẫu cho tất cả Kitô hữu noi theo. Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay thuật dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế cùng lên Đền Thờ cầu nguyện. Nhưng chỉ có lời cầu nguyện của người thu thuế được Chúa thương nhận lời. Bởi vì người thu thuế chân thành cầu nguyện với lòng khiêm hạ, khiêm tốn và khiêm nhu.
Khiêm hạ thân phận
Trước tiên, thái độ cầu nguyện của hai người hoàn toàn tương phản nhau, như trắng đen, như lửa với nước. Trong khi “người Pharisêu đứng thẳng, cầu nguyện,” thì trái lại “người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện cầu.” Đứng thẳng là biểu lộ tương quan bình đẳng, ngang hàng, bằng vai đồng lứa với người đối thoại. Cúi đầu là tự nhận mình là kẻ bề dưới khúm núm, kính trọng người đối thoại là bề trên. Người Pharisêu tự hào đẳng cấp trên thiên hạ, quyền thế, mẫu mực, đạo đức, nên mặc nhiên cho mình đặc quyền cư xử trịch thượng với mọi người, kể cả với Thiên Chúa. Thay vì cảm tạ Chúa, nhờ lãnh nhận biết bao hồng ân, mới được dư giả, mới có thể giữ trọn và hơn Lề Luật, thì ông tự phụ, vô ơn bạc nghĩa, coi như tất cả mọi sự tốt lành đều do công lao của riêng mình. Rồi đây, ”Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” ( Lc 1, 53 ).
Người thu thuế ý thức thân phận hèn kém, bất xứng, đứng xa xa cuối Đền Thờ, khiêm hạ khấu đầu bái lạy. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” ( Lc 1, 53-54 ).
Khiêm tốn biết lỗi
Nhận biết mình chẳng đạo đức, lỗi đức công bằng, cũng chẳng giữ luật, người thu thuế không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực, khiêm tốn ăn năn, sám hối. Chỉ khi nào hạ mình xuống, chân thành nhìn vào tâm can, thẳng thắn xét mình, mới có thể nhận biết rõ ràng những vết nhơ trong đời. Dẫu tiền bạc rủng rỉnh, cơ ngơi bề thế, kẻ ăn người ở, đầy tớ phục dịch, người thu thuế vẫn cảm thấy mình đê tiện, nghèo hèn, bất xứng trước Thánh Nhan.
Mea culpa ! Mea culpa ! Mea maxima culpa ! Lỗi tại tôi mọi đàng. Không dám so sánh với bất cứ ai, không dám sỗ sàng phê phán, xét đoán tha nhân, như người Pharisêu, hãnh diện, kênh kiệu, khoe khoang, kiêu căng, tự đắc, cao ngạo nhận mình tinh tuyền, không bê tha, xấu xa như người thu thuế: “Tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia.” Đức Giêsu đã cực lực cảnh báo và nghiêm cấm chớ hàm hồ miệt thị, kinh chê, phán đoán, xét nét tha nhân: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” ( Mt 7, 1-2 ).
Hơn nữa, người Biệt phái còn hãnh diện, tự cao, tự đại, tự mãn, nhân đức, trọn lành hơn cả Lề Luật ấn định: “Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi.”
Người thu thuế tự cảm nhận đói nghèo tình thương, thiếu đức ái, thiếu lương thiện với tha nhân, nên hết lòng thống hối. Còn ông Pharisêu tự phụ, sung túc phủ phê của cải lẫn nhân đức, chẳng cần nài xin. Vì thế, “kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” ( Lc 1, 53 ).
Khiêm nhu trông cậy
Biết lỗi, nhận lỗi, xin lỗi, sửa lỗi là thái độ khiêm nhu chân thành sâu sắc của người tử tế, tự trọng, quân tử, nhất là con chiên của Chúa. “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Người thu thuế biết mình hèn nhát, hư đốn, yếu đuối, khó cưỡng nổi lòng tham, khó yêu thương đồng bào, khó tuân giữ Lề Luật, nên hết lòng khấn xin, hoàn toàn trông cậy vào Lòng Thương Xót cứu vớt, giải thoát khỏi tội lỗi. Lời kêu xin đó không tự dưng biến người thu thuế trở nên công chính, nhưng được Chúa chạnh lòng đoái thương, công chính hoá. “Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không.”
“Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng khi suy nghiệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, con Thiên Chúa hạ mình chịu mọi sự ngớ ngẩn, dốt nát, hiểu lầm sâu độc, suốt 33 năm vì yêu chúng ta.” ( Đường Hy Vọng, số 510 ).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn ý thức phận phàm hèn, để biết ăn năn, thống hối, hầu được Chúa thương xót ban ơn cứu độ.
Kính xin Mẹ Mai Khôi, cầu bầu, giúp đỡ, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ khiêm nhường cầu nguyện, để tâm tình chúng con xứng đáng được Chúa chấp nhận. Amen.
Dụ ngôn về “Hai hạng người cầu nguyện” của bài Tin Mừng hôm nay phê phán những người biệt phái tự hào mình là người công chính và khinh chê người khác. Người đó đứng riêng biệt một mình để cầu nguyện trong đền thờ, cử chỉ này nói lên phần nào thái độ tự hào và khinh dể người khác. Đứng riêng ra để khẳng định mình là mình, mình có đủ bản lãnh. Cung cách này được xác nhận thêm qua lời cầu nguyện của ông: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác…”. Coi mình không giống như kẻ khác là một vinh dự, một ơn phúc, một mục tiêu để phấn đấu, để dành cho được. Vì thế, khi được như vậy người ta không thể không sung sướng và tạ ơn, qua đó chứng minh sự khác biệt của mình với đại chúng. Để chứng minh, người biệt phái kể ra một số khác biệt của mình với đại chúng, nhất là không giống như người thu thuế vốn nổi bật vì các nết xấu, hay cụ thể hơn nữa là ăn chay một tuần hai lần và dâng cúng cho đền thờ 1/10 hoa lợi.
Tóm lại, sống công chính là thi hành các giới răn của Chúa trong mười điều răn như không tham lam, không ngoại tình và tuân giữ các luật lệ của Môisê như ăn chay, dâng cúng vào đền thờ mà không cần biết tâm tình bên trong cần có. Giữ được như vậy, họ cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác. Vơ đũa cả nắm, họ liệt kê tất cả mọi người vào hạng tội lỗi. Như thế có thể nói đứng riêng một mình là tư thế phản ảnh đích xác sự thánh thiện của người Pharisêu, nó cũng phản ánh quan niệm cũ về sự thánh thiện.
Nhưng trớ trêu thay, số người cho mình là công chính lại không được Chúa nhận cho là người công chính. Như vậy, vấn đề không phải là làm thế nào để được nên công chính cho bằng là phải hiểu thế nào là được nên công chính. Vì làm như thế cốt để cho ai cũng tưởng họ là nên công chính nhưng rốt cuộc là không phải công chính. Và ngược lại, kẻ mà ai cũng tưởng là không công chính thì họ lại được kể là công chính, được cứu độ. Được ơn công chính là ơn nhưng không của Thiên Chúa, như Ngài đã quyết định cho người thu thuế trong dụ ngôn được kể trên là người công chính.
Thiên Chúa không căn cứ trên thành tích nào của ta, và ơn cứu độ chẳng những không làm xa cách loài người mà là đưa ta đến chỗ kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Những việc ta làm không phải là nguyên nhân khiến ta được cứu độ, được nên công chính, nhưng là chính Thiên Chúa ban cho ta.
Người ta đếm được 50 dụ ngôn trong các sách Tin Mừng. Còn nhiều dụ ngôn Chúa nói không được các tác giả ghi lại. Riêng Luca có sở thích về dụ ngôn, đã ghi trên dưới 40 dụ ngôn, 15 là của riêng ngài. Dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế chỉ có nơi Luca.
Bắt đầu câu chuyện, Luca cho thấy: Đức Giêsu gửi nó cho những người tự hào là công chính. Công chính theo Kinh Thánh không chỉ có nghĩa như hiện nay là trả cho mỗi người cái gì là của người đó, song còn là người có lòng kính sợ Chúa, không làm điều gì mất lòng Ngài, đồng thời thương yêu người thân cận, không làm hại người khác. Abraham, Giuse, Giacaria, Isave, Đức Maria... được gọi là người công chính, mỗi người tín hữu đòi phải trở nên công chính.
Tuy nhiên, con người không bao giờ là người công chính, song là người được công chính hóa, nói cách khác, con người không phải là người "có giá"' mà là người "được thi ân". Vì, "bởi tội không vâng lời của một người, mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người, mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế" (Rm 5,19).
Người Pharisiêu
Thế nhưng, một số người tự hào cho mình là công chính, khinh chê người khác, đó là những người Pharisiêu. Chúng ta đừng vội ác cảm với họ. Thời đó, người Pharisiêu được dân chúng kính trọng, không ai giữ luật Maisen hơn họ, điều đó đã được người Pharisêu tỏ bày khi cầu nguyện. Luật chỉ buộc giữ chay một ngày trong năm vào dịp lễ Yom Kippour, lễ đền tội, người Pharisiêu đã tự nguyện thực hành việc sám hối bằng việc ăn chay hai lần trong tuần. Luật buộc nông dân có nghĩa vụ trích một phần mười hoa mầu, để chăm lo người nghèo và việc tế tự trong đền thờ, người Pharisiêu đã tự ý nộp thuế thập phân cả những thực phẩm nhỏ nhất. Bởi vậy khi lên đền thờ cầu nguyện, người Pharisiêu có lý để tạ ơn Chúa về những việc lành đã làm.
Lời cầu nguyện của người Pharisiêu xem ra tuyệt vời, nó tinh tuyền, không có chút gì vị kỷ. Ông không xin điều gì, ông chỉ cảm tạ Thiên Chúa, đó là lời kinh tạ ơn. Thánh lễ của chúng ta cũng là một lời kinh tạ ơn. Thế nhưng người Pharisiêu có điểm không hay đó là tính kiêu ngạo tự mãn.
Trước hết, Luca lưu ý thái độ đứng sững của ông. Tư thế đứng không có gì đáng trách, người thu thuế cũng đứng cầu nguyện. Nhưng có nhiều cách đứng, cách đứng của người Pharisiêu nói lên niềm tự tin, phấn khởi, không có sự kính sợ Thiên Chúa.
Ông đến, để kể công chứ không cầu nguyện, ông phô trương sự công chính trước mặt Chúa như đã quen khua chiêng đánh trống khi bố thí. Ông không để ý đến Chúa, mà chỉ quan tâm đến mình, đến công trạng của mình. Ông cầu nguỵên nơi mình chứ không cầu nguyện với Chúa. Ông không cần Chúa ban thêm hay làm gì cho ông cả. Ông đủ rồi.
Chẳng những thế, ông còn khinh chê người khác. Đức Giêsu không đồng ý với một tấm lòng khinh miệt. Tấm lòng của Người hoàn toàn dịu dàng và nhân hậu. Thiên Chúa không khinh thị một ai. Một người càng khiếm khuyết, hư hỏng, bệnh hoạn, dị dạng... Thiên Chúa càng yêu người ấy. Một người càng bị khinh bỉ, càng được yêu thương bằng một tình yêu không cần đáp lại.
Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, bị kết án, bị gạt ra ngoài lề, không được yêu thương. Con chiên đi lạc trong bụi gai bỗng nhiên hoàn toàn chiếm chỗ trong lòng người mục tử. Khinh chê! Làm thế nào người mục tử có thể khinh chê dù chỉ một con chiên. Một kinh nghiệm, ai cũng thấy: Một đứa trẻ có tật, không những không bị khinh chê mà còn chiếm trong lòng cha mẹ một vị trí quan trọng hơn cả những đứa con khỏe mạnh.
Ôi thật nghịch lý, tình yêu thuần khiết nhất, vô tư nhất, hướng về con người đang cần nó nhất, và xét trong một giới hạn không thể đáp trả tình yêu! Thiên Chúa lúc nào cũng như thế. Tình yêu không tính toán và không đòi đáp trả. Tình yêu tuyệt đối.
Thế nhưng người Pharisêu lại khinh chê người khác. Ông tưởng, ông công chính, không có tội, nhưng ông lại có tội rất nặng, tội tự kiêu tự đại. Tội của ông không phải là việc làm tồi tệ. Ông có vấn đề về thái độ, nhưng người dân châu Mỹ thường nói.
Trước hết là thái độ với Chúa, ông tự mãn, tự cho rằng mình đã tích trữ được một tín phiếu khổng lồ, ông coi Chúa như người mắc nợ. Sau là thái độ của với người khác, cho rằng ông là người công chính, còn những người khác đều tội lỗi.
Người thu thuế
Phần người thu thuế, ông đứng lẻn đàng xa, không dám ngước mắt lên, nhưng đấm ngực mà rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi". Phải, ông là người tội lỗi thực sự, ai cũng biết. Với cái nghề, một nghề không mấy tốt đẹp, bị đồng hương, đồng đạo khinh bỉ cho là giáo gian. Chẳng những cộng tác làm việc cho người Lamã, ông còn ăn cướp bóc lột dân. Ông không có quyền là công dân, mọi người tốt lành tránh xa.
Đau khổ hơn nữa, ông thấy mình quá xa Thiên Chúa, hoàn cảnh của ông cũng như gia đình thật vô vọng. Bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi tức nghề nghiệp, còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền, đã tham nhũng. Làm sao biết được ông đã biển thủ của ai?
Ông cảm thấy mình bị tội lỗi đè bẹp, ông nói với Thiên Chúa điều đó, ông không có công gì để kể, ông đầy tội lỗi, xứng với sự phán xét của người Pharisiêu. Ông không cậy dựa vào sức riêng mình, tín thác nơi Chúa, khấn xin Thiên Chúa thương xót, lời khấn xin của ông đã được chấp nhận. Đức Giêsu bảo: "Ta bảo các ngươi, người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Thiên Chúa đã tha thứ cho người này mà không tha thứ cho người kia".
Lời phán quyết của Đức Giêsu đã giáng trên cử tọa lúc bấy giờ như một tiếng sét, chắc chắn không ai trong họ ngờ được điều đó. Đức Giêsu không cho một lời giải thích nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản, đó là cách Thiên Chúa xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao Thiên Chúa xem ra bất công, Thánh Vịnh 51,18-19 viết: "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát; một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê".
Vâng, Thiên Chúa là thế đó, Ngài nhận lời người tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình. Ngài là Thiên Chúa của những người thất vọng, lòng thương xót của Ngài vô biên, Ngài muốn tha thứ. Aharon đúc tượng bò vàng, hối lỗi ăn năn; Đavít giết chồng cướp vợ, đã hết lòng sám hối; Dân thành Ninivê đã nghe lời tiên tri Giona, ăn chay, mặc áo nhặm, bỏ tro trên đầu đền tội... tất cả đã được Chúa tha thứ. Người Pharisiêu tự cho mình là công chính, như cốc nước đầy không cần đổ đầy nữa, không được tha thứ.
Và để kết luận, Đức Giêsu nói: "Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên".
Tin mừng chúa nhật 30 thường niên C là dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu. Mặc dầu hai người này được xem là hai mẫu người tiêu biểu, đại diện cho người tội lỗi (người thu thuế) và người đạo đức (người Pharisêu), nhưng họ không phải là tiêu biểu cho toàn thể những người mà họ đại diện. Chắc chắn là có nhiều người Pharisêu "tốt hơn" người Pharisêu trong câu chuyện này và nhiều người thu thuế khác cũng vậy. Có lẽ Đức Giêsu không muốn nói những con người cụ thể cũng như những cách sống cụ thể. Dụ ngôn này muốn nói đến Thiên Chúa chấp nhận người tội lỗi hoán cải, và không chấp nhận người chỉ tin vào sự công chính của riêng mình. Như thế, tin nhận Thiên Chúa, sấp mình trước nhan Người thì hơn là bằng lòng với những thành quả đạo đức cá nhân.
Suy niệm
Trong xã hội Do Thái, thời Đức Giêsu có ba việc mà người đạo đức phải thực hiện suốt đời mình, đó là: cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Người Pharisêu trong câu chuyện hôm nay là một người đạo đức. Ông hãnh diện về việc chu toàn lề luật, ăn chay... Ông thực là một người đạo đức, được mọi người chung quanh tôn trọng. "Khiêm tốn là dám chấp nhận những gì mình có được để phục vụ cộng đoàn". Người Pharisêu có thể được coi là "người khiêm tốn", nhưng ông hết khiêm tốn khi đánh giá những việc làm của mình và khinh khi người khác. Hơn thế nữa, trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là con số zêrô lớn. Ông hết khiêm tốn khi hãnh diện về những việc đã làm và tự đánh giá mình "hạnh kiểm loại A" trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính của một người không phải chỉ là những thành quả cá nhân trong đời sống đạo đức, nhưng còn phải tin vào Thiên Chúa và mở lòng đón nhận ơn cứu độ đến từ Người. Nói như thế không phải muốn làm giảm nhẹ những việc đạo đức cá nhân, nhưng việc đạo đức cá nhân đó phải được thực hiện với lòng tin, cậy, mến yêu Thiên Chúa, đồng thời không coi thường người khác.
Đời sống của các vị thánh là một bằng chứng rõ nét. Phong thánh cho một người là đặt người đó làm kiểu mẫu, chuẩn mực, tiêu biểu cho đức tin, cậy, mến Kitô giáo (canonization nghĩa là chuẩn mực hóa, hay còn nghĩa là phong Thánh). Các vị thánh thực hiện các nhân đức như thương người, khổ chế, cầu nguyện... vì các vị tin vào Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn". Nếu không thế, các vị chỉ là những vĩ nhân của cuộc đời. Vả lại, các việc đạo đức các vị làm được không cầu mong được "cấp bằng khen", "giải thưởng" này khác (chắc chắn Mẹ Têrêsa Calcutta không mong những giải thưởng đời ban tặng, nhưng thực tế, Mẹ có nhiều giải thưởng.).
Người thu thuế trong dụ ngôn là người nhận mình chẳng có nghĩa lý gì trước mặt Thiên Chúa. Ông là người bị xã hội Do Thái đánh giá là người tội lỗi. Những người chung quanh - nhất là "những người đạo đức" coi thường ông. Ông đứng xa xa, cầu nguyện như một người đầy mặc cảm vì bị coi thường, nhưng cũng như một người đầy lòng khiêm tốn "không dám ngước mặt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội'". Ông cần Thiên Chúa thương xót và cứu độ. Lòng đầy tin tưởng và cần đến Thiên Chúa đã được Thiên Chúa chuẩn nhận "người này ra về được khỏi tội". Cho dù ông có thực sự tội lỗi đến đâu, lời Đức Giêsu nói đã công chính hóa ông. Thiên Chúa luôn là Đấng đưa tay cứu vớt con người khi họ biết đưa tay cầu cứu Người. Sự công chính của mỗi người cũng bắt đầu từ lúc họ biết đấm ngực, cúi mình xuống và xin Thiên Chúa thương xót.
Phải chăng chúng ta là người "đạo đức" - theo kiểu Pharisêu - hay chúng ta là người "công chính" vì cần đến Thiên Chúa cứu độ - như người thu thuế.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa Giêsu, là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con. Trong tay Ngài, con được an toàn. Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi. Nếu Ngài ruồng bỏ con, con không còn gì để hy vọng nữa. Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con, và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa.
Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm "Cây sung Giakêu" và thưởng thức trái chà là. "Cây sung Giakêu" to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ "cây sung Giakêu" chữa lành mọi thứ bệnh.
Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.
Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.
Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là "thành cây chà là". Sử gia Do thái Josephus gọi là "Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin". Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.
1. Tình thương biến đổi.
Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này. Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người "đứng đầu những người thu thuế", một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.
Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: "Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông". Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).
Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: "Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn". Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này".
Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: "Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn". Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
1. Tình thương hoán cải.
Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.
Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.
Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: "Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung". Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: "Ông vội vàng tụt xuống". Ông còn "vui mừng đón rước Ngài về nhà". Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.
Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu, đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.
2. Tình thương cảm hóa.
Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: "Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!". Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.
Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.
Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.
Đã từ lâu, nền kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục của chúng ta bị mắc vào căn bệnh, gọi là bệnh thành tích, cấp trên chỉ ngồi ở văn phòng và thỏa mãn với những con số báo cáo thành tích của cấp dưới, mà không biết thực tế như thế nào. Các báo cáo toàn là con số ảo, báo cáo láo và chỉ có dân chúng là người thiệt thòi thật, nghèo đói thật. Cũng nhiều lần từ Quốc Hội đến Trung Ương họp bàn và đưa ra kế hoạch chống lại bệnh thành tích này, nhưng dường như vẫn chưa có gì thay đổi, mà ngày càng trầm trọng hơn. Bệnh này không chỉ ở ngoài xã hội, mà có khi nó cũng đang âm thầm ảnh hưởng trong các sinh hoạt của các giáo xứ, giáo phận và giáo hội, khi người ta cũng thỏa mãn với một số công việc bác ái, mục vụ, truyền giáo và nhất là người ta thỏa mãn với các công trình xây dựng bên ngoài mà quên đến chất lượng đời sống đức tin của mình và của người tín hữu, thì đó cũng là bệnh thành tích.
Thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ và Biệt phái là nhóm người lãnh đạo tôn giáo cũng đã mắc căn bệnh hình thức và thành tích này, chính vì thế đã nhiều lần Đức Giêsu đã thẳng thắn cảnh cáo lối sống đạo hình thức ở nơi những con người này. Họ giữ đạo không phải vì lòng yêu mến Chúa, họ chu toàn lề luật là để tỏ ra cho mọi người thấy sự thánh thiện hoàn hảo của mình, và họ làm các việc phúc đức là để phô trương với mọi người và để tính công tính điểm với Chúa. Vì thế nhiều lần chúa Giêsu đã không ngần ngại gọi những người này là đồ giả hình, là mồ mả tô vôi xanh đỏ bên ngoài, là kẻ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo đi đứng nghênh ngang để người ta bái chào.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng cho thấy thái độ của hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái, người biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, gọi là cầu nguyện nhưng thực ra anh ta lên đền thờ để đọc một bài báo cáo thành tích dài trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Thái độ của anh rất nghênh ngang và tự mãn, anh đứng thẳng và nói: Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công ngoại tình, hay như tên thu thuế kia, tôi ăn chay một tuần hai lần và dâng một phần mười hoa lợi của tôi. Kể ra như thế, cho thấy, bên ngoài cuộc sống của anh thật hoàn hảo tốt đẹp, nhưng đàng sau lời cầu nguyện ấy lại là một sự khoe khoang về thành tích của mình. Anh nhìn thấy mọi người chung quanh đều thua kém mình về đời sống đạo đức, anh thấy mình hơn hẳn mọi người về đời sống luân lý: Tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình. Anh còn so sánh mình và chà đạp lên danh dự và thân phận của người khác khi anh so mình: tôi cũng không như tên thu thuế đang quỳ đàng kia, so với việc đạo đức và đời sống của anh, thì người thu thế chỉ như rơm rác. Chưa dừng lai ở đó, bản báo cáo của anh còn trổi vượt khi anh kể lể: Tôi ăn chay một tuần hai lần, điều này vượt quá cả những đòi hỏi của lề luật, và dâng một phần mười hoa lợi, lại càng chứng tỏ rằng anh ta rất quảng đại để dâng cúng vào đền thờ, nhưng có lẽ anh chưa bao giờ biết chia sẻ và cho đi. Ở điểm này anh lại càng có dịp để hãnh diện với mọi người, và có địp để ném cái nhìn khinh miệt vào người thu thuế là kẻ chỉ biết tham lam vơ vét.
Thế nhưng bản báo cáo thành tích của người biệt phái này lại không phải là điều Chúa muốn nghe và muốn thấy. Điều Chúa muốn thấy và chờ đợi đó là một tâm hồn khiêm nhường, là những lời cầu nguyện chân thành phát xuất từ đáy lòng, từ con tim, và Chúa muốn thấy những tâm hồn dám đặt mình vào tay Thiên Chúa hơn là những người đặt mình vào những công việc mình đã làm. Trái lại người thu thuế đã có tâm tình khiêm nhường trước mặt Chúa, anh nhận thấy mình nhỏ bé và tội lỗi trước sự cao cả và thánh thiện của Thiên Chúa, anh không dám bước lên, không dám dứng thẳng, mà chỉ dám quỳ sấp mình ở đàng xa xa, và đấm ngực thú nhận về những sự bất toàn tội lỗi của mình: Lạy Chúa xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi. Anh chẳng có công gì trước mặt Chúa, anh cũng chẳng làm được việc gì nổi bật trước mặt người đời, nhưng anh chỉ có một tâm hồn thống hối sâu xa, để xin sự thương xót tha thứ của Chúa. Chúa Giêsu đã kết luận: Người này ra về thì được nên công chính, còn người kia thì không. Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Thiên Chúa không ưa những kẻ kiêu căng ngạo mạn, Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ trước những kẻ cậy dựa vào bản thân, tiền bạc và của cải vất chất, Thiên Chúa không muốn nghe những lời khoe khoang khoác lác của những kẻ giả hình, trái lại Thiên Chúa yêu mến những người bé nhỏ khiêm nhường, và những người biết cậy trông vào tình thương của Chúa. Tác giả của sách Huấn Ca hôm nay đã đúc kết lại những cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa, khi nói: Thiên Cúa là Đấng xét xứ, Ngài không thiên vị ai, Ngài không vị nể ai mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng lắng nghe lời kêu xin của kẻ bị áp bức, người mồ côi góa bụa. Lời cầu nguyện của kẻ nghèo hèn thì vượt ngàn mây thẳm.
Thưa quý OBACE, bệnh thành tích, lối giữ đạo kể công, có thể nó cũng đang ảnh hưởng trong đời sống đạo của mỗi người, từ các linh mục đến người tin hữu, từ cấp Ban Hành Giáo đến cấp giáo xứ và giáo phận. Người ta rất dễ rơi vào tình trạng huênh hoang khoe khoang về thành tích của ban mình, của nhiệm kỳ mình, của giáo xứ mình, mà lại quên việc canh tân đời sống đức tin, thăng tiến đời sống đạo. Các linh mục rất dễ rơi vào tình trạng an phận với một vài công việc mục vụ của mình, tập trung nhiều vào những hình thức bên ngoài, những công trình vật chất nhiều hơn là xây dựng đời sống cộng đoàn, chú tâm đến những phần nổi mà không quan tâm thao thức về đời sống thiêng liêng, khi nghĩ rằng: tôi vẫn dâng lễ, tôi vẫn cử hành các bí tích, và coi như thế là đủ trong đời sống đạo của cá nhân và của cộng đoàn.
Còn đối với tín hữu, chúng ta rất dễ rơi vào lối sống đạo kể lể công đức với Chúa với mọi người khi cho rằng: tôi vẫn đi lễ Chúa Nhật mỗi tuần, tôi chẳng trộm cắp giết người hay làm thiệt hại của ai, tôi vẫn dâng cúng đóng góp cho nhà thờ, tôi còn làm ông này bà nọ trong xứ, tôi bỏ bào nhiêu công sức, gia đình tôi đóng góp cái này, ủng hộ cái kia…, mà chúng ta quên không làm mới lại tương quan của chúng ta đối với Chúa, không làm phong phú đời sống đức tin, như thế, thì có khác gì người biệt phái trong cầu chuyện của tin Mừng hôm nay.
Như đã chia sẻ ở trên, điều mà Chúa muốn và chờ đợi ở chúng ta là một thái độ khiêm nhường, nhận ra sự yếu hèn thấp kém và tội lỗi của mình, và đến với Chúa để cầu xin sự thương xót và tha thứ. Nhận thật mình là kẻ tội lỗi yếu đuối, điều đó không làm giảm giá trị con người, trái lại nó giúp chúng ta biết khiêm tốn hơn, chân thành hơn khi đến với Chúa và với anh em. Nhận mình là kẻ tội lỗi và xin sự thương xót như người thu thuế trong câu chuyện, là nhận mình cần đến sự trợ giúp và tình yêu của Thiên Chúa, để mình cố gắng hơn nữa, sống tốt hơn nữa.
Lối sống đạo hình thức, thành tích nó cũng đang thể hiện nơi nhiều gia đình, nơi các bậc làm cha mẹ, nhiều người đến với Chúa mà còn tính toán thiệt hơn, sống đạo chỉ là để tránh không phạm luật, không bỏ lễ, mà quên đi điều tích cực và cần thiết, đó là tấm lòng của chúng ta khi đến với Chúa. Vì chỉ để tránh phạm luật, mà nhiều người đến với Chúa hết sức tính toán từng phút, đi trễ về sớm, hoặc là chỉ đến nhà thờ cho có hình thức qua lần, gọi là có đi lễ ngày Chúa nhật mà không hề có một chút tâm tình tạ ơn hoặc thành tâm sám hối.
Cũng như người biệt phái trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, khi đến nhà thờ anh ta đã chỉ còn mân mê với những thành tích của mình mà không nhìn thấy Thiên Chúa nữa, nhiều bạn trẻ ngày nay cũng vậy, bên ngoài họ tự hào, tự mãn về sự thành công và đẳng cấp của mình trong xã hội, nhiều người nghĩ mình đã làm được nhiều thứ, và tự mình có thể giải quyết được tất cả công việc, và không nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của mình, vì thế, họ đến với Chúa với một thái độ hời hợt, như một chương trình đã được cài đặt sẵn, mà không có một tâm tình khiêm nhường sám hối.
Hãy cùng với người thu thuế hôm nay, quỳ gối, đấm ngực mà thưa lên với Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Chúa sẽ nhìn thấy sự khiêm nhường thành thật của chúng ta và sẽ nhận lời cầu xin và biến đổi chúng ta nên công chính. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân)
Có thể nói một trong những hoạt động chính của người có niềm tin là cầu nguyện. Cầu nguyện là hình TN 30-C108
Có thể nói một trong những hoạt động chính của người có niềm tin là cầu nguyện. Cầu nguyện là hình thức giúp người tín hữu gắn kết với Đấng mình đang tôn thờ. Cho nên, không riêng gì những tôn giáo khác, người Công giáo chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện với Chúa một cách kiên trì và liên lỉ, như Tin Mừng Chúa Nhật 29 Thường Niên C nói tới. Hơn nữa, với Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện một cách chân thành khiêm tốn. Đó là cách thức cầu nguyện đẹp lòng Chúa bởi vì những ai chân thành nhận ra mình mỏng dòn tội lỗi trước mặt Chúa, mong được Chúa đoái thương, thì Chúa là Đấng Nhân Từ không ngoảnh mặt làm ngơ trước tâm hồn như thế.
Trong bài đọc I, sách Huấn Ca nói rằng “ lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây, … và nó chẳng rút lui cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn.” (Hc 35,21). Thiên Chúa không nhìn đến vinh quang trần thế của con người nhưng Ngài nhìn đến nỗi nhục nhằn của người nghèo khó, kẻ bị áp bức, kẻ khốn cùng. Lời cầu nguyện của họ được Chúa nhận lời bởi họ biết nhìn lên Chúa là Đấng hay thương xót. Họ biết dâng chính con người của họ cũng những gì họ có để tôn thờ Thiên Chúa là Chúa của mình. Vì thế, những ai khoe khoang về thành quả của mình, vinh quang mà mình đang hưởng thì không được Chúa ghé mắt nhìn xem, họ đã được trả công rồi.
Với bài đọc II, thánh Phaolô đã tin tưởng Thiên Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ ban cho ngài phần thưởng Nước Trời. Bởi lẽ, thánh nhân đã hoàn toàn dùng chính cuộc đời của mình để rao giảng về Chúa Giêsu, Đấng khiêm nhường đến cứu chuộc nhân loại trong thân phận người phàm, ngoại trừ tội lỗi. Thánh nhân đã khiêm nhường nhận ra mình chỉ là rơm rác vậy mà được Chúa mời gọi làm việc lớn lao là loan báo Tin Mừng cứu độ - khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng. Và ngài đã khẳng định rằng mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu, Đấng cứu độ. Nếu không phải có lòng khiêm nhường thì Phaolô cũng vẫn còn ở trong tình trạng Pharisêu tự cao tự đại về sự công chính của mình. Quả thật, với ơn Chúa, thánh Phaolô đã để Thiên Chúa chiếm trọn con tim; với lòng khiêm nhường, thánh nhân trở nên khí cụ mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Con đường khiêm nhường được khẳng định một cách chắc chắn trong Tin Mừng hôm nay. Hai người lên đền thờ cầu nguyện, nhưng một người được Chúa nhận lời còn người kia thì không. Người biệt phái vào đền thờ với thái độ tự mãn vì ông tự cho mình công chính hơn người khác: đạo đức hơn, thánh thiện hơn, giữ luật Chúa tốt hơn, không phạm tội gì. Vì thế, ông chỉ muốn khoe với Chúa nhiều hơn là tạ ơn Ngài về những gì mình đã làm. Cho nên, tâm tình tạ ơn của ông không được Thiên Chúa chấp nhận. Người thu thuế vào đền thờ với thái độ mong được thứ tha, được đón nhận. Ông không dám ngước lên vì mình quá tội lỗi. Ông không dám ngước lên vì mình quá bất xứng. Ông không dám ngước lên trước những lời khinh chê của thế gian. Ông chẳng biết thưa gì với Chúa cho phù hợp, chỉ biết đấm ngực xin Chúa tha thứ cho những tội lỗi của mình. Chắc ông cũng không ngờ rằng tâm tình thống hối của ông lại được Thiên Chúa tỏ lòng khoan dung. Tuy tác giả Tin Mừng không nói tới khi ông về thì lòng ông như thế nào, nhưng chúng ta cũng có thể tưởng nghĩ rằng hẳn ông sẽ thấy tâm hồn mình tràn ngập niềm vui. Quả thật, một người tự mãn khi nâng mình lên để rồi quên rằng mình chỉ là thụ tạo của Chúa, thì họ đã tự đánh mất lòng thương xót của Chúa. Còn người khiêm nhường nhận ra mình chỉ là thụ tạo, xác đất vật hèn, chỉ biết tựa nương vào lòng thương xót của Chúa, thì họ lại được Chúa dủ lòng thương mà tha thứ mọi lỗi lầm.
Lời Chúa hôm nay cũng soi sáng vào tận đáy lòng chúng ta, giúp chúng ta nhìn lại nơi chính bản thân mình trong đời sống đạo. Có thể, đôi khi, chúng ta là người biệt phái vì mình đọc kinh sớm hôm đầy đủ, tham dự thánh lễ không bỏ bữa nào, giữ chay vào ngày thứ sáu hằng tuần, nhưng chúng ta lại khoe khoang so đo với người khác, lắm lúc còn khinh chê họ. Tệ hơn nữa, đọc kinh cầu nguyện, tham dự thánh lễ chỉ vì để người ta biết mình là người đạo đức thánh thiện chứ không phải thờ phượng Chúa thực sự. Khi đến nhà thờ chúng ta hiện diện bằng thân xác nhưng lòng trí thì bận lo toan công những việc khác. Và như thế, Thiên Chúa trở thành Đấng để trang trí cho đời sống chúng ta đối với mọi người. Tâm tình sống đạo như thế quả là giả hình, giả hình đến mức không còn nhận ra mình là gì trước mặt Chúa. Để rồi từ đó, chúng ta lại vênh vang cho người này khô đạo, người kia tội lỗi. Với tâm tình như thế, cho dù ta có đọc kinh nhiều đi nữa, một ngày hai ba thánh lễ, công đức đầy dẫy cũng chẳng là gì đối với Chúa. Nếu không kịp thức tỉnh ắt chúng ta khó lòng đón nhận tình thương của Chúa.
Vậy chúng ta thức tỉnh bằng cách nào? Thưa, chúng ta thức tỉnh bằng cách mặc lấy tâm tình của người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Với thân phận yếu hèn, chúng ta dễ vấp phạm. Với bản tính yếu đuối, chúng ta dễ sa ngã. Vì thế, tâm tình đến với Chúa là khiêm nhường nhận ra những lỗi lầm thiếu sót của thân phận con người; đến với Chúa bằng sự thống hối chân thành cần đến ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa bằng lời cầu nguyện đượm lòng tin tưởng Chúa là Cha và là Đấng khoan dung. Chúng ta hiệp dâng thánh lễ với ước mong được kết hợp một cách sâu xa với Chúa Giêsu Thánh Thể là Đấng xóa bỏ tội trần gian. Nhất là chúng ta luôn biết cảm tạ vì mình chỉ là không không trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa dựng nên để hưởng hạnh phúc với Người.
Hơn nữa, trong đời sống đức tin, chúng ta đừng nhìn sang người khác mà so sánh, hãy nhìn lên Chúa để xem mình đã xứng đáng với ơn Chúa tuôn đổ xuống trên ta mỗi ngày. Hãy nhận ra trong từng giây phút sống, chúng ta được Chúa tỏ tình thương và không chấp nhất những lỗi lầm thiếu sót của ta, nhưng lại yêu thương dắt dìu ta trở về bên Chúa. Có như thế, những giây phút cầu nguyện của ta với Chúa là những giây phút ta được ấp ủ trong vòng tay yêu thương của Cha và chúng ta là người con thảo.
Đặc biệt trong đời sống đức cậy, chúng ta không còn phải ngã lòng vì Thiên Chúa thánh thiện nhưng không ngoảnh mặt với tội nhân. Nếu chúng ta vững lòng trông cậy vào Người, Người sẽ đỡ nâng ta khi ta ngã quị vì sa ngã. Người khiêm tốn đến với ta bằng bí tích để ta có thể hòa giải với Người. Và cũng với lòng khiêm tốn chúng ta chân thành gặp gỡ Chúa Giêsu để được chữa lành.
Ước gì với ánh sáng Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta nhận ra mình cần phải làm gì để đời sống đạo thực sự là thờ phượng, yêu mến Chúa. Đồng thời, chúng ta không còn mặc cảm vì tội lỗi mà không dám đến giao hòa với Chúa và tha nhân. Chúng ta tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa luôn che phủ cho những ai khiêm nhường nhận ra chính mình cần phải lệ thuộc vào Chúa, hầu chúng ta can đảm đấm ngực thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Amen.
Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng... Người biệt TN 30-C109
Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng...
Người biệt phái bước đi chững chạc, hiên ngang. Ông đang ở trong Đền Thờ nhưng ông cảm thấy thoải mái dễ chịu như đang ở nhà mình: đầu ngẩng cao, mắt nhìn đầy vẻ tự tin. Bản kết toán của ông đầy nét tích cực: ông biết điều đó và ông nói lên. Ông kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. Ông tự xếp mình vào số những người suy nghĩ tốt, làm tốt, và có đạo đức: Ông tự nhận mình là người công chính.
Nơi ông không có một kẽ hở, không một sự chờ đợi, không một khoảng cách. Ông chiếm trọn cả lớp kịch: vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Trên nguyên tắc, ông thưa với Chúa, nhưng trong thực tế, "ông cầu nguyện nơi chính mình". Ông chiêm ngắm chính mình, ông nói với chính mình. Thiên Chúa chỉ là công chúng nghe ông nói và vị Thiên Chúa đó được đổng hoá với lương tâm của ông, một lương tâm hoàn toàn tin chắc vào chính mình.
Chỉ có một khoảng cách được thú nhận: ông đứng xa người có tội... tức là những người khác, những người bị ông coi thường.
Đó là một con người đã đạt tới đích. Ông còn có thể làm gì hơn được nữa? Chẳng còn một khoảng trống nào để ông băng qua. Ông chỉ còn đợi lãnh triều thiên. Đó là một con người đã hoàn thành. Làm sao ông có thể tái sinh được?
Trong khi đó, người thu thuế đứng xa xa, phía cuối đền thờ. Trước mắt xã hội, hình ảnh của anh không phải là một hình ảnh dễ thương. Anh không được công nhận là công chính vì đã vi phạm quá nhiều, đã thoả hiệp với tiền tài, với quyền lực. Giờ đây, anh dứng im, không dám ngẩng mặt lên. Anh sẵn sàng chui xuống đất, nếu có thể được. Anh biết rằng mình chưa được sinh ra. Và khi ấy, tất cả đều trở thành có thể.
Anh cầu nguyện, anh thưa với Thiên Chúa: "Xin thương xót con." Anh nhận thức trọn vẹn khoảng cách giữa tình trạng con người của anh và sự cao cả của Thiên Chúa, khoảng cách giữa sự "công chính" của anh và sự công chính của Thiên Chúa. Anh tìm kiếm sự liên lạc, tìm kiếm sự gần gũi với Thiên Chúa, một sự hiệp thông mặc dù từ căn bản, có một sự khác biệt: "Con không phải như Thiên Chúa! Con chỉ là một kẻ tội lỗi! Chúa có nghe lời con chăng?" Và khi ấy, tất cả đều có thể.
Khi bước vào đền thờ, mỗi người đều quay trở về với chính mình. Nhưng...
Một người thì vênh vang với lương tâm tốt lành của mình, tự hào vì những xác tín của mình. Ông hiện diện trước Thiên Chúa dựa trên nền tảng là cái có: lối sống của ông, Thiên Chúa của ông, quyền lợi của ông.
Còn người kia trở về với sự khốn cùng bên trong của mình. Anh đứng trước nhan Chúa với nền tảng là sự thiếu thốn: bước vào đền thờ, anh đã bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi tìm một điều gì khác.
Với hai con người như thế, Thiên Chúa sẽ giải quyết cách nào?
Một kẽ hở cho Thiên Chúa
Người biệt phát trình bày dài lê thê. Ông cám ơn Thiên Chúa, mà ông nghĩ rằng mình biết rõ, vì đã nâng đỡ, trợ giúp ông, để ông "không như bao kẻ khác". Trong mối tương giao của ông với Thiên Chúa, ông chối bỏ người khác: ông tự loại mình ra khỏi môi trường hoạt động của tình yêu. Đôi tay ông đã đầy những công phúc, đầu óc ông đầy những xác tín của riêng mình. Đó chính là thái độ của niềm tin mù quáng. Mọi cánh cửa đều đóng kín: Thiên Chúa không thể vào được.
Người thu thuế thì kêu cầu. Bị xã hội chê bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng: biết mình xa cách Thiên Chúa, anh chờ đợi. Anh chẳng còn biết bày tỏ với ai nữa, và anh xin Thiên Chúa can thiệp. Đôi tay anh trống không, anh đợi chờ: đó chính là thái độ của lòng tin. Mọi cánh cửa đều mở toang: Thiên Chúa có thể vào được.
Trước hai con người này, Thiên Chúa không chút do dự. Người làm bạn với chàng thu thuế, cùng với anh rời khỏi đền thờ, và bỏ mặc người Biệt phái với các việc lành của ông, để ông ra về một mình.
Tại sao thế?
Người biệt phái đã làm những việc đạo đức tốt lành, lại không phải là người công chính; đang khi đó người thu thuế là kẻ tội lỗi thì được nên công chính. Thiên Chúa có bất công quá không?
Một khi đôi tay đã đầy, lòng trí đã thoả mãn, thì Thiên Chúa sẽ không thể chen vào được. Làm sao Người có thể đến được khi không có chỗ cho Người? Bởi đó, Thiên Chúa yêu chuộng kẻ khó nghèo không phải chỉ tại họ nghèo, nhưng hơn thế, vì họ cảm thấy mình luôn thiếu thốn và họ chờ đợi. Như vậy, con người luôn phải nhận ra mình nghèo khó trước Thiên Chúa, luôn cần đến sự trợ giúp, cần sự hiện diện của Người. Và quan trọng hơn, điều thiết yếu là con người không được tự nhốt kín sự nghèo khó của mình, nhưng là sống trong thái độ rộng mở. Người nghèo khó, vì nhu cầu cần thiết, luôn biết trông chờ sự giúp đỡ của người khác. Đó chính là thái độ căn bản của Kitô giáo.
Dĩ nhiên, đây không phải là sự nghèo khó vật chất, nhưng là thái độ nghèo khó trong tinh thần. Vẫn có những người túng thiếu cùng cực, nhưng vẫn là một đời sống khép kín. Vẫn có những người có nhiều tài sản vật chất, nhưng lại biết đón chờ, biết mở rộng tâm hổn. Và quan trọng hơn nữa, đó là một thái độ nghèo khó trong đời sống thiêng liêng. Con người không được quyền cậy dựa vào bất cứ hành vi nào để cho rằng mình là người đạo đức, là người đã đạt tới sự thánh thiện. Con người không thể nghĩ rằng mình đã được nên công chính do các việc mình làm. Một khi có quan niệm cho rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện, tức là không cần đến sự trợ giúp, sự can thiệp của Thiên Chúa. Đó là một thái độ đóng kín, thái độ của con người chỉ biết hướng về mình, chứ không phải về người khác, và nhất là về Thiên Chúa. Con người đó không biết thế nào là sám hối, thế nào là trở về, và như vậy, trong tâm hổn của họ, không có chỗ cho Thiên Chúa.
Dù thế nào, dù đạt tới mức độ nào, vẫn phải là người nghèo trước Thiên Chúa, vẫn phải là người cần trợ giúp. Thiên Chúa cần có những cửa ngõ để đi vào, cho dù đôi khi chỉ là một kẽ hở.
Cả hai đều cần
Như tác giả xác định, Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những người tự cho rằng mình là người công chính và khinh miệt người khác. Vào thời Đức Giêsu, đó là những người biệt phái, những người chấp hành luật pháp cách nghiêm ngặt.
Thực ra, các hành vi của người biệt phái thật đáng khen. Có mấy người trong chúng ta thực hành được như ông ta? Thế nhưng, ông thiếu mất một điều, và đó là điều quan trọng nhất: đó chính là thái độ khiêm tốn, biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Chính sự thiếu sót này đã phá tan tất cả cố gắng, tất cả mọi hành động của ông.
Ngày nay, trong chúng ta, vẫn có những người nghĩ rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện nhờ những việc tốt của mình, nhờ việc giữ đạo của mình. Tất nhiên, những điều đó rất tốt. Nhưng nếu dựa vào đó để lấy làm thoả mãn, để coi thường người khác thì thật là tai hại. Phải hiểu rằng người Kitô hữu được mời gọi đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa, và đó là một hành trình dài, hành trình chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng mình đã tới đích, tức là đã ngưng lại, và nguy hiểm hơn nữa, là đã lạc đường, đã mất phương hướng. Mỗi người chúng ta vẫn có thể nhận ra mình, ít là một phần nào đó, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự mãn của người biệt phái.
Tuy vậy, không có nghĩa là Đức Giêsu dạy chúng ta chỉ cần thưa với Thiên Chúa như người thu thuế. Điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu là thái độ trước Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà có quyền bỏ những hành vi đạo đức. Không phải người ta cứ sống theo ý thích của mình, để rổi chỉ cần thưa với Thiên Chúa một câu ngắn gọn là được tha thứ, được nên công chính. Thái độ tin tưởng, trông chờ sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ những nỗ lực của con người.
Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy một mẫu người Kitô hữu đích thực, dựa trên hai nhân vật của bài Tin Mừng. Đó là một con người luôn cố gắng chu toàn những lời giáo huấn của Thiên Chúa, một con người thi hành trọn vẹn những gì luật pháp quy định, đổng thời cũng là người biết tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Càng tiến triển, lại càng phải khiêm tốn. Và người khiêm tốn thì được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa làm cho nên công chính.
Lạy Chúa, Chúa biết rõ nỗi khốn cùng của con, Chúa thấu hiểu nỗi cô đơn đang vây bọc quanh con, Chúa nhìn thấy tình cảnh yếu đuối và bệnh tật của con, ôi Chúa là Đấng dựng nên con. Chúa biết tất cả.
Xin nhìn đến con đang hết lòng khiêm nhường và thống hối. Xin nhìn đến con đang tìm đến bên Chúa. Ôi Chúa là Đấng thương xót, xin đừng nghoảnh mặt làm ngơ. xin đừng quên kẻ đang khao khát tìm Chúa.
...
Trong trái tim Chúa, con tìm được chỗ ẩn thân, trong lòng thương xót Chúa, con tìm được nơi an nghỉ. Con kêu lên Chúa cậy nhờ vào tình yêu Chúa dành cho nhân loại. theo Syméon le Nouveau Théologien.
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: "Thiên Chúa chống TN 30-C110
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (1 Pr 5, 5). Thật vậy, kiêu ngạo là kẻ thù số một của Thiên Chúa, bởi vì nó là con đẻ của Ma Quỷ. Ngược lại, khiêm nhường là trở nên giống Con Thiên Chúa làm người.
Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.
1. Hai hình ảnh và hai thái độ đối lập nhau khi cầu nguyện
Dụ ngôn được khởi đi từ việc Đức Giêsu nhận định về một tầng lớp trí thức trong dân tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9). Họ là những người Biệt Phái, luôn miệng khoe khoang mình là người người đạo đức, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa, tuân giữ cách tỉ mỉ từng dấu chấm, dấu phết, rồi thông luật, nắm bắt được mọi vấn đề và, có lòng quảng đại vượt trội. Điều này được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của người Biệt Phái hôm nay. Ông ta cùng lên cầu nguyện một trật với người Thu Thuế. Khi ông ta cầu nguyện, thay vì tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ mà họ đã nhận được, thì họ lại kể lể, liệt kê thành tích của mình; đồng thời tố cáo anh em đồng loại. Nào là: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12). Quả thật, những thành tích đó, đã gắn liền với cái tôi ích kỷ của ông, nên cũng từ cái tôi đó mà ông trở nên rỗng tuếch. Đúng là: “cái thùng kêu to là cái thùng rỗng”. Ông đâu biết rằng mọi sự là của Chúa, nếu Chúa không ban cho ông thì ông đâu có của cải để mà làm như vậy… Sự khoe khoang của nhà Biệt Phái đã làm cho ông ta mất phần phúc Nước Trời. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã dạy: "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6, 1). Sự khiên nhường của ông chính là một sự khiêm nhường giả tạo. “Khiêm nhường như vậy thì bằng bốn lần kiêu ngạo”.
Hình ảnh người Thu Thuế thì trái ngược hẳn. Ông ý thức mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, nên ông chẳng có gì để khoe cả, ông chỉ có con người tội lỗi, tấm lòng thành và tâm tình sám hối của mình mà thôi. Vì vậy, ông Thu Thuế này đã hết lòng tin tưởng và cậy trông vào sự nhân từ của Thiên Chúa. Ông khiêm tốn không dám ngẩng đầu lên vì coi mình không xứng đáng tiến đến gần Chúa. Vì vậy, từ đàng xa, ông này đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Tấm chân thành của ông đã đụng tới trái tim, lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, nên ông đã được Chúa thương nhận lời. Nói về sự khiêm nhường, Gióp đã phải thốt lên: “Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt” (G 22, 29). Người Thu Thuế hôm nay quả là một người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Ông đã nhận ra con người thật của mình để tự hào một cách khiêm tốn, và tự trọng đúng với giá trị của mình (x. Hc 10, 28).
Kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã kết luận bằng lời xá tội và tuyên án “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" bởi vì “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52).
Hình ảnh và thái độ của người Thu Thuế hôm nay đáng để cho mỗi người chúng ta noi theo.
2. Sống Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay
Muốn khiêm nhường thực sự, chúng ta phải sám hối thật lòng, phải nhìn lại quá khứ lịch sử cuộc đời chúng ta để thấy được Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thứ, trung thành; còn chúng ta thì vô ơn, bội bạc, bất trung… Khi nhìn lại quá khứ của chúng ta như thế, và chúng ta đặt mình trước mặt Chúa để thấy Chúa lớn lao, thấy Chúa là Chúa Tể, ta chẳng có gì, mà nếu có thì cũng là do ơn Chúa. Vì thế, tâm tình sám hối và tạ ơn là dấu chỉ của kẻ khôn ngoan. Thậy vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, ta phải trở nên người bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn.
Nói về đức khiêm nhường, hẳn chúng ta vẫn còn nhớ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Khi ngài còn là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, để sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo và ngài coi là đại ân nhân của mình. Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng, trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: "Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con" (x. Đường Hy Vọng).
Mong thay, mỗi chúng ta hãy có được tâm tình sám hối như người Thu Thuế và thái độ khiêm nhường như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Được như thế, chúng ta sẽ gặp được bình an, hạnh phúc, và được trở nên giống Thiên Chúa. Thật vậy: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” phải là lời cầu nguyện của chúng ta hằng ngày, mọi nơi, mọi lúc. Khi lời cầu nguyện đó được thốt lên thì cũng là lúc ta nhìn lại chính mình, để cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa nhiều hơn; yêu thương anh chị em và không bao giờ dám tố cáo lỗi lầm của người khác như người Biệt Phái khi xưa. Có lẽ nhiều lúc trong mắt chúng ta vẫn có cái xà thì làm sao trông rõ để lấy cái rác trong mắt anh chị em mình. Ý thức được điều đó, ta phải đấm ngực ăn năm vì đó là lỗi của ta chứ không đấm ngực người khác và bảo lỗi tại ông, tại bà, tại anh, tại chị chứ không phải tại tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Biết sám hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khiêm nhường xin ơn tha thứ của Thiên Chúa; đồng thời biết yêu thương anh chị em mình thực lòng chứ không nhân danh đạo đức để tố cáo anh chị em chúng ta như người Biệt Phái khi xưa. Amen.
+Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu: Đây là nhóm người tự tách mình ra khỏi quần chúng. Họ giữ Luật cặn kẽ chi tiết và thường tự hào cho mình là công chính. Tuy nhiên họ làm mọi điều tốt nhằm tìm tiếng khen hơn là vì lòng mến Chúa thực sự. Vì thế họ cố tình đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được chào hỏi ở nơi công cộng và muốn được dân chúng xưng hô là “Thầy” (Ráp-bi) (x. Mt 23,5-7).
+Còn người kia làm nghề thu thuế: Đây là hạng người bị dân chúng đồng hóa với những kẻ tội lỗi và bị khinh dể xa lánh, vì đã cộng tác với chính quyền Rô-ma. Đồng thời còn tham lam, thường ăn chặn tiền thu thuế của người dân đóng góp để làm giàu cách bất chính.
- C 11-12:
+ Người Pha-ri-sêu đứng riêng một mình...: Pha-ri-sêu có nghĩa là tách biệt. Ở đây người Pha-ri-sêu đã tự tách ra khỏi những người Do thái khác khi đến cầu nguyện tại Đền thờ.
+ Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia...: Người Pha-ri-sêu này đã cầu nguyện phê phán người khác về các tội cụ thể như tham lam, bất công, ngoại tình hay tội làm đầy tớ cho ngoại bang như người thu thuế đang đứng cuối Đền thờ.
+ Con ăn chay mỗi tuần hai lần: Luật chỉ buộc người Do thái ăn chay vào lễ Xá Tội tức là ngày 10 tháng 7 hàng năm (x. Lv 16,29). Tuy nhiên, mỗi tuần những người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm hai ngày khác là thứ Hai và thứ Năm, và họ hãnh diện nghĩ mình đạo đức hơn người khác về việc này (x. Lc 5,33).
+ Con dâng cho Chúa một phần mưới thu nhập của con: Người Do thái công nhận Thiên Chúa đã ban lương thực cho mình, nên họ bày tỏ lòng biết ơn bằng việc dâng lên Chúa những hoa quả đầu mùa. Luật qui định phải nộp thuế “thập phân” (một phần mười), đánh trên các hoa màu như lúa mì, rượu mới, dầu tươi và cả những con vật đầu lòng trong đàn bò và chiên dê (x. Đnl 14,22-23). Ngoài ra họ còn tình nguyện nộp thêm phần thuế về các thứ rau quả khác nữa (x. Lc 11,42). Tóm lại, người Pha-ri-sêu này lên Đền thờ không phải để xin Chúa tha tội mà để khoe với Chúa về những điều tốt ông ta đã làm được hơn người khác để đòi Chúa phải trả công cho mình.
- C 13-14):
+ Còn người thu thuế thì đứng đàng xa...: Người thu thuế chỉ biết thú nhận những tội lỗi đã phạm. Ông cảm thấy xấu hổ nên không dám đến gần gian thánh, đứng cúi mình trước bàn thờ không dám đứng thẳng như người Pha-ri-sêu.
+ Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi: Ong ta chỉ biết đấm ngực ăn năn về các tội lỗi đã phạm và xin Chúa tha thứ tội lỗi như lời Thánh vịnh 50 của vua Đa-vít. Chính nhờ thái độ khiêm tốn ấy mà ông đã được Chúa ban ơn cứu độ.
+ Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Câu này đã có ở Lc 14,11 và được Lu-ca thêm vào đây để kêu gọi người ta sống khiêm tốn dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Vì trong lịch sử Ít-ra-en, Đức Chúa thường hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu (x. Lc 1,25).
2. CÂU CHUYỆN: TẠI SAO MA QUỶ KHÔNG ĐƯỢC CHÚA THỨ THA ?
Một hôm có một tên quỷ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng: “Tôi thấy Chúa đối xử không công bằng chút nào!”. Chúa liền hỏi nó: “Tại sao ngươi lại dám bảo Ta đối xử không công bằng ?” Bấy giờ tên quỷ kia mới đáp: “Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội lỗi lớn lao, và chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban cho chúng hạnh phúc thiên đang đời đời. Còn chúng tôi chỉ phạm tội một lần duy nhất. Thế mà Chúa không những không tha mà còn phạt chúng tôi phải sa hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đã thiên vị và bất công lắm sao ?” Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói với tên quỷ rằng: “Loài người có phạm tội không vâng lời Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã sai phạm nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều hồi tâm sám hối và khiêm tốn chạy đến xin Ta tha cho. Còn lũ quỷ các ngươi, có bao giờ các ngươi chịu hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội hay chưa ?” Nghe thấy Chúa đòi hỏi phải ăn năn sám hối và cầu xin tha tội, tên quỷ liền thét lên rằng: “Lòai quỷ chúng ta không đời nào lại hèn hạ ăn năn sám hối và cũng không cần phải xin ai tha tội cả”. Nói thế rồi quỷ liền cong đuôi chạy mất.
3. SUY NIỆM:
Khi nghe Đức Giê-su kết luận người thu thuế tội lỗi ra về được nên công chính, còn người biệt phái nhiều công đức thì không, chắc hẳn nhiều người hiện diện phải ngạc nhiên. Vì người biệt phái xem ra là người mẫu mực trong việc tuân giữ Lề Luật và không phạm phải các tội xấu xa. Ông ta còn làm nhiều hơn Luật dạy khi tự nguyện ăn chay và bố thí. Vậy tại sao Đức Giê-su lại không chấp nhận lời cầu của ông ta ? Tại sao Chúa lại ưu ái người thu thuế tội lỗi, ngay khi anh ta chưa từ bỏ cái nghề tồi tệ đó, và không đả động đến việc đền bù các thiệt hại đã gây ra cho tha nhân ? Chúng ta cân làm gì để diệt trừ thói kiêu ngạo tự ái cao và thực tập khiêm nhường phục vụ ?
1.Nguyên nhân lời cầu của người biệt phái không được chấp nhận:
-Chúng ta phải thừa nhận rằng: Người biệt phái đây là một người tốt, một tín hữu trung thành với Lề Luật. Chỉ tiếc một điều là do tính tự mãn mà bao nhiêu việc tốt anh làm đươc đã bị trôi ra sông ra biển hết. Do cái tôi quá to, nên anh chỉ thấy con người của mình mà không thấy Chúa. Anh coi thành quả đạt được là do tài đức cá nhân, chứ không do ơn Chúa giúp. Giá như anh biết đối chiếu với cuộc đời Đức Giê-su, thì có lẽ anh đã nhận ra sự thiếu sót lớn lao của mình, để không dam khinh thường người khác, và sẽ biết cầu xin lòng khoan dung tha thứ của Chúa.
-Lời cầu nguyện của người biệt phái không được chấp nhận là do anh ta đã “đứng riêng một mình” và cầu nguyện to tiếng với nội dung khinh thường người khác và đề cao bản thân để xin Thiên Chúa trả công cho anh: “Con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc, 8,11).
-Tuy nhiên, con người “nhân vô thập toàn”: Người biệt phái cũng có các tội như: tự mãn, kiêu căng, khinh thường người khác… Nhưng anh ta lại không ý thức về các tội đó. Anh ta không nhận ra mình cũng là tội nhân như người thu thuế mà anh khinh thường. Anh đã không nhận ra sự công chính là do ơn Chúa ban như thánh Phao-lô dạy : “Tôi được như vậy không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do Luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,9). Chính do tự mãn kiêu ngạo mà anh bị mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
2. Nguyên nhân người thu thuế được Chúa xót thương:
-Người thu thuế cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình, nên chỉ dám đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Anh ta cảm thấy bất lực hoàn toàn, chỉ biết phó thác cho lòng Chúa thương xót. Chính nhờ tâm tình ấy mà Chúa đã đoái thương nhìn đến anh và ban ơn thánh giúp anh hoán cải nên công chính.
-Thái độ khiêm cung và lời cầu nguyện sám hối của anh thu thuế cho thấy anh đã mở cửa lòng đón Chúa. Chúa đã vào nhà linh hồn anh ban ơn tha thứ và biến đổi anh nên công chính đẹp lòng Thiên Chúa. Người thu thuế đã ý thức về tình trạng tội lỗi của mình, nên không dám ngước mắt nhìn lên Chúa, chỉ biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót của Chúa. Nhờ đó, anh đã nên công chính như lời Đức Giê-su: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
3. Chúng ta phải làm gì ?
-Cần tránh lối cầu nguyện biệt phái: Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ tự mãn như người biệt phái xưa đã thưa với Chúa rằng: “Xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Nhiều lần chúng ta đã đổ tội cho người khác hơn là khiêm tốn nhận tội như lời kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhiều lần trong tòa xá giải chúng ta đã dài dòng kể tội của người thân trong gia đình hay tội của người hàng xóm đã phạm đến mình, đang khi lẽ ra phải khiêm nhường xưng thú tội lỗi mình đã phạm để cầu xin Chúa tha thứ.
-Cần tập cầu nguyện khiêm hạ như người thu thuê: Người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay đã bày tỏ thiện chí và muốn được ơn thứ tha bằng việc lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy nhiên, anh cũng ý thức các tội lỗi của mình khó được Chúa tha, vì theo Luật Mô-sê: một người lỗi phép công bình muốn được tha thì trước hết phải thanh toán hết số nợ. Ngoài ra còn phải bồi thường thiệt hại cho chủ nợ thêm 1/5 nữa. Anh thu thuế này không có khả năng làm như thế. Dù vậy, anh đã không tuyệt vọng, mà đã biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Noi gương tác giả Thánh vịnh 50, anh đã nài xin Chúa như sau : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Vì vậy anh đã nhận được ơn tha thứ để nên công chính (x. Lc 18,14).
-Cần tránh thói kiêu căng tự mãn: Kiêu ngạo là thói xấu đứng đầu và hầu như mọi người chúng ta đều ít nhiều mắc phải. Đây là thói xấu nguy hiểm nhất và là mẹ phát sinh ra các thói hư khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm thay thế Thiên Chúa. Anh muốn mọi người phải quan tâm phục vụ mình và luôn tạo ra hàng rào tách biệt với tha nhân… Kiêu ngạo phát sinh ra tự ái tự cao và dễ nổi giận khi có ai dám chê trách nói chạm đến mình. Đây cũng là thói xấu thâm căn khó chừa cải nhât. Tuy nhiên kinh “Cải tội bảy mối” cũng cho chúng ta một phương thế hữu hiệu để diệt trừ được thói hư này như sau: “thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Như vậy muốn loại trừ thói kiêu ngạo thì cần xin Chúa giúp thực tập đức khiêm nhường.
-Cần thực tập đức tính khiêm nhương phục vụ: Ai trong chúng ta cũng đều yêu thích người khiêm tốn, nhưng rất ít người có được nhân đức này. Thực ra khiêm nhường là can đảm nhìn thẳng vào con người thật của mình. Khổng Tử đã nói: “Cái gì biết thì nói biết, cái gì không biết thì nói không biết, đó mới thật là biết vậy”. Khiêm nhường tự hạ, quên mình phục vụ luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức sẽ gia tăng giá trị lên gấp bội nếu kèm theo đức khiêm nhường. Cũng như những số 0 (số không) dù nhiều tới đâu cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bằng một con số như số 1 chẳng hạn, thì lập tức những số 0 kia sẽ tăng giá trị gấp 10 lần. Cần tập khiêm nhường băng cách tránh khoe khoang các ưu điểm thành tích của mình và rộng rãi nói lời động viên khen ngợi tha nhân. Cần luôn ý thức mình là người phục vụ và hay nói với người khác: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn ?” rồi sau đó phục vụ họ cách chân thành và vô vụ lợi.
4. THẢO LUẬN:
1) Khi được người khác khen một ưu điểm có thật, bạn thường phản ứng thế nào để thực hành nhân đức khiêm nhường noi gương Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a trong Tin Mừng (x. Lc 1,45-49) ?
2) Bạn đã bao giờ khen người dưới khi thấy họ làm được việc tốt chưa ?
3) Khi biết một người phạm một tội có hại cho tập thể, bạn sẽ làm gì: Giữ im lặng để tránh rắc rối hay lên tiếng để giúp họ sửa lỗi ?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA CHA TỪ ÁI. Trước Thánh Nhan Cha, chúng con chỉ còn biết noi gương người thu thuế mà thưa với Cha rằng: “Lạy Cha, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Thật vậy, đối với Cha, chúng con chỉ là hư không. Những việc tốt chúng con làm được cho Cha, xét cho cùng đều nhờ ơn Cha ban, và đòi chúng con phải dâng lời tạ ơn Cha.
- LẠY CHA. Xin giúp chúng con ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Xin giúp chúng con tránh thói kiêu căng tự mãn của người biệt phái. Xin cho chúng con biết tôn trọng mọi người và không bao giờ dám tự mãn khoe khoang thành tích đã làm. Xin cho chúng con biết luôn cảm tạ Cha về những ơn lành của Cha. Xin cho cuộc sống của chúng con trở thành bài ca tạ ơn: khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi khỏe mạnh cũng như lúc đau ốm... Vì chúng con biết rằng mọi sự Cha để xảy đến cho chúng con đều là hồng ân của Cha và đều đem lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của chúng con.
Tại điểm này của bài tường thuật cuộc hành trình (điểm cuối, theo Luca), tác giả Lc thêm vào một dụ TN 30-C112 Dalat
Tại điểm này của bài tường thuật cuộc hành trình (điểm cuối, theo Luca), tác giả Lc thêm vào một dụ ngôn khác liên hệ đến đề tài cầu nguyện, đó là dụ ngôn Người Pharisêu và người thu thuế (18,9-14). Có lẽ bản văn này được đặt đi theo Dụ ngôn Quan tòa bất chính vì hai bản văn giống nhau về đề tài “cầu nguyện”, chứ không vì được nói ra trong cùng một hoàn cảnh. Đoạn này làm thành một kết luận rất khớp với bài tường thuật cuộc hành trình của riêng Luca (9,51–18,14. Xem “Ngữ cảnh” của Lc 9,51-62), vì kết thúc bằng đề tài quan trọng của Lc là cầu nguyện. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Mở (18,9); 2) Dụ ngôn (18,10-13); 3) Kết luận khuyến thiện (18,14). 3.- Vài điểm chú giải
- một số người tự phụ là công chính mà khinh chê người khác (9): Dịch sát là “những người tin chắc về bản thân họ rằng họ là công chính và cư xử với phần còn lại (của loài người) với sự khinh bỉ”. Mặc dù tác giả không có ý nói đây là những người Pharisêu, những lời của Đức Giêsu ở 16,14-15 vẫn gợi ý như thế. Tuy nhiên, bản văn cũng nhắm đến một nhóm mở rộng hơn, theo như lời Ed 33,13, nghĩa là đúng cho cả các môn đệ của Đức Giêsu.
- lên Đền Thờ (10): Từ ngữ “Đền Thờ” nói đến hai điều. Trước tiên, vì Giêrusalem được xây dựng trên một quả núi với bốn đỉnh, vua Salômôn, nhằm xây dựng một nơi để thờ phượng Đức Chúa, đã san bằng một đỉnh để làm một cái nền làm lễ đài, trên đó, ông quy tụ dân Israel lại để làm công việc thờ phượng. Ta có thể tưởng tượng lễ đài này có hình thang, chung quanh có tường, các bức tường chạy từ bắc xuống nam dài khoảng 450m. Trên cái nền này, có một số công trình xây dựng, để góp phần vào việc thờ phượng Thiên Chúa. Cái nền này được gọi là Đền Thờ. Điều thứ hai, công trình xây dựng ở tại trung tâm trên nền này được làm giống như một cung điện. Cung điện này chạy từ tây sang đông, với một cửa ra vào ở phía trước, cửa này nằm ở cuối phía đông. Phía sau cung điện này tiếp giáp với bức tường phía tây của “Đền Thờ”. Cung điện này gốm có ba phòng hay vùng. Có hai cái sân quây chung quanh (ở về phía đông của tòa nhà), tại đây các phụ nữ và người nam Israel đứng để thờ phượng Thiên Chúa. Rồi có một phòng ở giữa gọi là Gian Thánh, tại đây có bàn dâng hương (x. ông Dacaria gặp thiên thần Gabriel) và một chân nến luôn luôn cháy sáng. Chỉ có các tư tế mới được vào phòng này, còn những người nam Israel thì có thể vào hai hành lang dọc hai bên phòng này. Cuối cùng, có một phòng phía cực tây, Gian Cực Thánh, đã được bao đời coi là Nơi Cư Ngụ của Thiên Chúa, hoặc của Danh Ngài hoặc Vinh Quang Ngài, trên trái đất. Không ai được vào gian phòng này, ngoại trừ thầy thượng tế, mà cũng chỉ mỗi năm một lần. Cung điện này, với ba phòng, cũng được gọi là Đền Thờ. Phía trước Đền Thờ, và trên nền Đền Thờ, có một bàn thờ để dâng những lễ hy sinh và một bể chứa nước, và một hồ nước to.
- cầu nguyện (10): Người ta có thể cầu nguyện tại Đền Thờ vào bất cứ lúc nào trong ngày, nhưng có hai khoảng thời gian được dành cho việc cầu nguyện chung: giờ thứ ba (tức khoảng 9g sáng; x. Cv 2,15) và giờ thứ chín (tức khoảng 3g chiều; x. Cv 3,1).
- Người Pharisêu (10): x. 5,17. Theo sử gia Gioxép (Ant. 18.1,2 § 11), nhóm Pharisêu là một trong ba “triết học” của người Do Thái thời ông; đôi khi ông cũng gọi họ là “phái” (haireseis; x. Ant. 13.5,9 § 171; Cv 15,5). Tên Hy Lạp Pharisaioi rất có thể đã được phiên âm từ tiếng Aram Perishayê, “những người tách biệt”. Đây hẳn là một tên do những người khác dùng mà gọi nhóm này, có thể bởi vì nhóm này có một sự xa cách và tranh giao thiệp với những người Do Thái giữ Tôrah không nghiêm túc (x. Cv 26,5). Họ giải thích Luật Môsê rất chặt, nhấn mạnh không những trên việc tuân giữ luật Torah viết, mà cả trên Luật truyền khẩu, tức là truyền thống được gán cho Môsê và các vị tiền nhân (x. Mc 7,3). Họ coi việc hiểu biết Tôrah và những điều luật truyền và cấm như dấu chỉ và đảm bảo cho lòng đạo đức. Do đó họ tuân giữ chi li ngày sa-bát và các ngày lễ, những quy tắc về thanh tẩy, thuế thập phân, ăn chay. Họ tin vào sự sống lại của thân xác, tin có các thiên thần, có việc Đấng Mêsia đến.
- người thu thuế (10): x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus. Nền hành chánh Rôma quy định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được áp dụng cách võ đoán, nên người thu thuế bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu thuế.
- đứng thẳng (11): Chúng ta không biết ông này đứng ở đâu, nhưng dựa vào câu đối lập là c. 13, ta có thể suy ra là ông đứng trước Sân dành cho Israel bên trong khuôn viên Đền Thờ.
- Lạy Thiên Chúa, xin rủ lòng thương con là kẻ tội lỗi (13): Người thu thuế cầu nguyện trong tinh thần của Tv 51; anh nói ra lời xin được thương xót và tha thứ, chứ không phải tạ ơn. Trong tình trạng bế tắc, anh đọc những câu đầu tiên của Tv 51 và chỉ thêm vào “là kẻ tội lỗi” theo nghĩa đối lập: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con” (c. 3) “là kẻ tội lỗi”, tức là “dù con là kẻ tội lỗi”. Nhưng cũng trong Tv này, có câu: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (c. 19). Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa giống như được Tv mô tả: Ngài chiếu cố đến người tội lỗi đang tuyệt vọng và Ngài không chiếu cố đến kẻ chỉ cậy dựa vào “sự công chính” của riêng mình. 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở (9)
Hoàn cảnh đưa Đức Giêsu đến chỗ kể dụ ngôn này chính là: Người thấy “một số người tự phụ là công chính mà khinh chê người khác”. Như thế, chúng ta đã linh cảm thấy bài này có mục đích giúp người ta hiểu thế nào là cầu nguyện đúng đắn, đâu là sự đạo đức chân thật. Đức Giêsu giúp hiểu nhiều điều liên quan đến cách xử sự sai lạc và cách xử sự đúng đắn đối với Thiên Chúa, đối với người lân cận và đối với chính mình. * Dụ ngôn (10-14a)
Bài dụ ngôn phác ra một cảnh tưởng tượng, nhưng đối với các thính giả của Đức Giêsu, cảnh này cũng rất thực. Ông Pharisêu, một người sống thánh thiện, hẳn là ở trong vùng đông hoặc vùng tây, nơi mà những người nam Israel có thể đứng cầu nguyện. Rất có thể ông Pharisêu này không ở trong một hành lang nào vây quanh. Lời cầu nguyện của ông quay hướng về Thiên Chúa trên trời, Ngài ngự dưới dạng huyền bí trong Gian Cực Thánh. Rất có thể Đức Giêsu muốn ta hiểu rằng người thu thuế cũng ở tại nơi mà các người nam cầu nguyện với nhau, trong một tư thế mà ông Pharisêu có thể thấy và bình luận về anh ta trong khi cầu nguyện. Không chắc là người thu thuế đứng gần ông Pharisêu. Rất có thể khi cầu nguyện, ông Pharisêu quy chiếu về một dung mạo có lẽ xa nơi ông vẫn cầu nguyện.
Trong lời cám ơn Thiên Chúa, người Pharisêu nêu ra cả một danh mục gồm những nhân đức, như một lý do để tự hào. Phần đầu với những yếu tố tiêu cực: Ông không giống như những người khác (trộm cắp, bất chính, ngoại tình), nhất là “tên thu thuế kia”. Phần hai với những yếu tố tích cực: Ông ăn chay và đóng góp quá mức được yêu cầu. Ông nói sự thật. Nhưng ông không cám ơn Thiên Chúa bởi vì Ngài đã gìn giữ ông khỏi điều dữ và đã làm cho ông có khả năng làm điều thiện. Ông xác tín rằng ông nên công chính do sức lực riêng, nên ông tin là Thiên Chúa ủng hộ ông. Như thế, ông đã diễn tả cho thấy ông hết sức bằng lòng về mình và Thiên Chúa cũng phải bằng lòng về ông.
Khởi điểm của người thu thuế rõ ràng là tiêu cực: anh đứng đàng xa, nhìn xuống, đấm ngực, và xin Thiên Chúa đoái thương anh là kẻ “tội lỗi”; anh không biện minh gì về những gì anh đã làm. Anh không đi vào chi tiết trong những tội lỗi của anh. Chúng ta biết một sự vi phạm thường xảy ra trong nghề thu thuế là lừa đảo người khác (x. 3,12; 19,8). Qua phong thái của anh và nhất là trong lời cầu nguyện, người thu thuế chứng tỏ anh nhận định đúng đắn về hoàn cảnh và tình trạng của mình. Anh là một kẻ tội lỗi, nhưng anh nhìn nhận như thế; anh biết mình không xứng đáng được tha thứ, bởi vì muốn được tha thì phải bỏ đời sống tội lỗi, nghĩa là bỏ nghề, và phải đền bù (số tiền đã lấy cộng thêm một phần năm); mà làm sao có thể biết những ai là nạn nhân của anh để đền bù. Do đó, tình trạng của anh là vô vọng. Tuy nhiên anh biết là Thiên Chúa có thể cứu anh khỏi tình cảnh vô vọng này, Ngài có thể tha thứ cho anh, nên anh cứ kêu cầu. Chính vì thế, anh lại tìm được tình trạng công chính trước mắt Thiên Chúa: anh ta được Thiên Chúa tha thứ. Trong khi đó, người Pharisêu nghĩ rằng tự mình đã đạt được sự công chính, vì ông vẫn tránh trộm cắp, ngoại tình, làm điều gian ác, và lại còn ăn chay và cúng dâng cho nhà Chúa. Nhưng Đức Giêsu cho biết: trước mắt người đương thời, ông này chẳng phải là “người thu thuế” hay kẻ “tội lỗi”, nhưng ông không tìm được tình trạng “công chính trước mắt Thiên Chúa”, vì ông tự mãn.
Bài dụ ngôn nhắc lại phản ứng của Đức Giêsu đối với hai kiểu đạo đức, nhưng cũng cho một ví dụ về cách Người khẳng định thái độ đối với người Pharisêu và người thu thuế trong xã hội Paléttina đương thời (x. 5,20-32; 7,36-50). * Kết luận khuyến thiện (14b)
Kết luận đã có ở 14,11, cho thấy rõ rằng dụ ngôn không chỉ được ngỏ với những người đương thời Đức Giêsu, nhưng còn cho các môn đệ Đức Giêsu (các Kitô hữu) nói chung.
Bản văn cung cấp nhiều gợi ý phong phú do sự tương phản giữa hai nhân vật, hai thái độ ở trong Đền Thờ, và do những lời hai người thưa gửi với Thiên Chúa. Chúng ta chẳng bao giờ biết được người Pharisêu đã phạm tội gì hoặc người thu thuế đã đền bù được gì. Đức Giêsu đã để chuyện ấy lại cho phán xét của Thiên Chúa (hoặc cho trí tưởng tượng của độc giả). Người chỉ tuyên bố rằng một người thì được nên công chính dưới mắt Thiên Chúa, còn người kia thì không. Và độc giả hiểu được lý do: người ta không đạt được sự công chính do tự hào hoặc thậm chí do sinh hoạt theo kiểu tự tin vào bản thân hay làm việc thiện khi tuân giữ Luật Môsê và các quy tắc Pharisêu, mà là do biết nhìn nhận bản thân dưới mắt Thiên Chúa. + Kết luận
Có những nhà chú giải cho rằng Đức Giêsu muốn ban một giáo huấn về việc cầu nguyện, hoặc về sự khiêm nhường, hay về việc cầu nguyện khiêm tốn. Trong thực tế, ta có thể theo ý kiến của đa số mà cho rằng Đức Giêsu ban một giáo huấn về hai kiểu sống nội tâm.
Cách thức chúng ta hành động và chịu đựng, hoàn cảnh trong đó chúng ta được đặt vào hoặc trong đó chúng ta rơi nào, có một tầm mức đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, quan trọng hơn, đó là cách thức chúng ta nhìn và sống những điều ấy trước nhan Thiên Chúa. Đức Giêsu diễn tả minh bạch điều này qua lời cầu nguyện của người Pharisêu và người thu tuế. Cả hai trình diện trước nhan Thiên Chúa và đưa đến cho Ngài hoàn cảnh trong đó họ đang sống. Bản thân họ, các cách họ sống và các lời họ cầu nguyện khó mà có thể được giới thiệu trong thế mâu thuẫn sâu sắc hơn được nữa. Đức Giêsu tuyên bố dứt khoát về cách Thiên Chúa theo đó mà đánh giá lối sống của họ, và như thế, Ngài đã cho biết đâu là cách xử sự đúng đắn trước mặt Thiên Chúa. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Độc giả hiện đại có thể nghĩ rằng ít ra người Pharisêu cũng lương thiện với chính mình, vì tuy ông khoe khoang trước mặt Thiên Chúa, ông cũng đang cố gắng sống công chính, cố gắng giữ các điều răn, và thậm chí còn làm hơn thế nữa, trong khi người thu thuế dường như chẳng hề cố gắng gì hay cố gắng không bao nhiêu. Do đó, độc giả hôm nay khó mà tự đồng hóa với người thu thuế. Tuy nhiên, lý luận như thế là ép bản văn quá ý hướng của nó. Bản văn chỉ muốn nêu ra một khía cạnh là sự khoe khoang và kích thích độc giả suy nghĩ thêm; nhưng phần suy nghĩ thêm không được che mất điểm chính của sứ điệp.
2. Thật đáng khen khi ta biết tránh những điều xấu và làm những điều tốt. Cũng thật đáng khen khi biết cám ơn Thiên Chúa về những ân huệ Ngài ban. Chúng ta sẽ không bao giờ cám ơn Thiên Chúa cho đủ được. Do đó, cần coi chừng khuynh hướng pharisêu: coi những điều mình đã làm được như là những công trạng riêng, chứ không phải là những ơn Chúa; coi những việc đó như một điểm tựa cho phép mình được đánh giá mình cao hơn và từ đó, nhìn xuống kẻ khác với ánh mắt khinh bỉ. Những người Pharisêu hôm nay đang khẳng định: “Tôi không giết ai cả; tôi chẳng ăn cắp của gì của ai; tôi không hề ngoại tình. Tôi có gì phải trách mình đâu? Tôi có cần gì đến bí tích hòa giải? Mọi sự nơi tôi đều phải phép mà! Thiên Chúa cũng như người ta phải bằng lòng về tôi thôi, cũng như tôi vẫn đang bằng lòng về tôi đây này!”. Nhưng khi nói như thế, người này không thấy rằng Thiên Chúa không những cấm làm những điều tồi tệ như ngoại tình, giết người và trộm cắp, nhưng còn truyền người ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau như chính mình. Như thế, ai còn có thể bằng lòng về mình?
3. Đứng trước lệnh truyền yêu thương, chúng ta phải thường xuyên suy nghĩ, nhìn nhận những thiếu sót của mình và bắt đầu lại không ngừng, với lòng tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Điểm khởi hành của người Pharisêu thì tốt. Nhưng chính những điều ông làm là tốt đã đẩy ông đến chỗ chắc chắn về mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa, nên ông đã tỏ ra ngạo mạn đối với người thân cận; ông trở nên mù quáng và tự mãn, nên thành thiếu sót đối với những bổn phận lớn hơn.
4. Hôm nay chúng ta cũng có dịp xét lại cách thức chúng ta cầu nguyện. Chúng ta có thể tự hỏi về những thái độ chúng ta thường có khi cầu nguyện. Phải chăng đó là những thái độ hướng chiều về sự tự phụ, tự mãn, hoặc nghi kỵ đối với Thiên Chúa? Chúng ta có thẳng thắn và khiêm nhường trình bày hoàn cảnh của mình trước nhan Thiên Chúa chăng, hay là chúng ta không màng thưa chuyện với Ngài, lấy cớ là không nên quấy rầy Thiên Chúa?
5. Cuối cùng, một hệ luận có thể rút ra là: Ai đã làm được những điều đúng đắn, thì cũng đừng sao nhãng những bổn phận lớn hơn khi tỏ ra tự phụ, ngạo mạn khinh bạc hoặc đi theo sự mù quáng của mình. Còn ai thấy mình còn trĩu nặng tội lỗi, thì đừng coi thường hoặc thất vọng, nhưng cứ tin tưởng quay về với Thiên Chúa, vì Ngài không bao giờ từ chối tha thứ cho ai khiêm tốn xin Ngài ban cho. 6. Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy việc cầu nguyện không phải là một sinh hoạt phụ thuộc, bên lề cuộc sống của một con người, nhưng lời cầu nguyện của một người chịu ảnh hưởng của lối sống tổng quát của người ấy. Như thế, lời giáo huấn về cách cầu nguyện đúng đắn trở thành lời giáo huấn về cách cư xử đúng đắn.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm ------------------------------------
Trong những năm đi giảng dạy, Chúa Giêsu luôn dùng những dụ ngôn, những câu chuyện thực tế xẩy TN 30-C113
Trong những năm đi giảng dạy, Chúa Giêsu luôn dùng những dụ ngôn, những câu chuyện thực tế xẩy ra trong xã hội Do Thái lúc đó để giáo dục, huấn luyện các môn đệ và đồng thời trình bầy một giáo huấn, một mầu nhiệm nào đó. Dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế nói lên một thực tại của xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu. Đây là hai lớp người : lớp trí thức, và giới bình dân. Hai giới này cùng đi về Đền thờ và cùng có một mục đích là cầu nguyện.
Dụ ngôn này rất dễ hiểu, nhưng nhằm đưa ra những lời khuyên, những cách cầu nguyện. Vâng, người Pharisêu vào Đền thờ, ông ăn mặc rất khác lạ, trên đầu thì kết thẻ kinh và lời Kinh Thánh. Tin Mừng viết vào Đền thờ, nhưng ông rất huênh hoang, bước lên trên gần cung thánh, ông đứng thắng và với phần mở đầu ông kể ra một danh mục dài để kể công, tự hào với Thiên Chúa và tự mãn với người thu thuế. Ông tự khoe và nói ông không giống như những người khác như trôm cắp, bất chính, ngoại tình, lăng loàn vv…đặc biệt ông không như tên thu thuế kia. Ông rất tự kiêu, tự đại, tự mãn. Ông kể ra những yếu tố khác thật tích cực như ông ăn chay và đóng góp, đóng thuế đạt quá mức yêu cầu. Ông nói lên sự thật.Nhưng ông không cám ơn, tạ ơn, tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã gìn giữ ông khỏi làm những điều bất chính, những điều tà vạy và đã ban cho ông có khả năng, có điều kiện để làm điều thiện. Ông cho rằng tự sức ông làm nên công chính, do đó, Thiên Chúa chắc chắn cũng ủng hộ ông. Ông cho thấy làm như thế, ông rất bằng lòng về ông, nên Thiên Chúa cũng phải bằng lòng về ông. Còn người thu thuế thánh Luca viết, anh đứng xa xa, tận cuối Đền thờ, nhìn xuống, không dám ngẩng mặt lên, đấm ngực, và xin Chúa thứ tha vì anh tội lỗi. Người thu thuế không dám biện minh, không dám kể ra bất cứ công trạng nào cho Chúa.
Nhìn xuống, đấm ngực có nghĩa là nhận mình yếu hèn tội lỗi, phải được Chúa thứ tha, thương xót. Anh nhìn nhận thân phận của mình, một thân phận không xứng đáng, anh luôn cần đến lòng khoan nhân của Chúa. Nhận định của anh về thân mình thật đúng đắn. Anh hiểu rằng anh là người tội lỗi, muốn được Chúa tha thứ, anh phải từ bỏ tội lỗi, bỏ cái nghề thu thuế mà xã hội lúc đó gán cho tội lường gạt, lợi dụng nghề, đồng lõa với ngoại bang để bóc lột dân chúng, nên anh phải bỏ nghề và đền bù, nhưng làm sao đây vì anh không có khả năng để làm điều ấy ! Do đó, anh rất vô vọng. Tuy nhiên, anh tin vững vàng Thiên Chúa có thể cứu anh khỏi tình trạng vô vọng này ! Anh cứ van nài, anh cứ van xin, anh chân thành cầu nguyện và quả thực Chúa nói :” Người thu thuế ra về được bình an, được Ngài nhận lời “, còn người Pharisêu thì không vì ông tự mãn, kiêu ngạo… Những lời của Chúa Giêsu và những lời trong các bài đọc Sách Thánh hôm nay cho chúng ta biết về thái độ phải cầu nguyện làm sao, cầu nguyện thế nào. Người Pharisêu tự mãn, kiêu ngạo, không được Chúa nhận lời, ông không được trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Người thu thuế khiêm nhường, cầu nguyện một cách rất khiêm tốn, nên được Chúa nhận lời và được nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu ở đây muốn trình bầy hai thái độ nội tâm của con người.
Hôm nay, Giáo Hội dành riêng Chúa nhật này để cầu nguyện công việc truyền giáo. Bởi vì lời cầu xin của Chúa Giêsu xưa :” Xin cho mọi người hiệp nhất nên một “, vẫn vang vọng mãi mãi và kêu gọi mọi người tiếp tay trong công việc truyền giáo. Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu hãy loan báo Tin Mừng vì Hội Thánh là truyền giáo. Truyền giáo bằng lời nói, lời rao giảng, nhưng truyền giáo còn là bằng lời cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện luôn là cần thiết…Chúng ta phải có thái độ cầu nguyện khiêm tốn như người thu thuế để Chúa nhận lời. Giáo Hội lữ hành cần phải cầu nguyện để lời cầu nguyện hiến tế của Chúa Giêsu :” …Như Con ở trong Cha và Cha ở trong Con “, được thực hiện và lời gợi ý của Chúa Giêsu :” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt …”, được Chúa Cha nhận lời, sai phái nhiều thợ lành nghề vào cánh đồng lúa chín vàng vv…
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cầu nguyện trong khiêm tốn và xin cho Giáo Hội của Chúa luôn hiệp nhất để mọi người tin nhận một Cha trên trời. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao người thu thuế lại không dám ngước thẳng lên mà lại nhìn xuống đất ? 2.Thái độ của người Pharisêu và thái độ của người thu thuế gọi là thái độ gì ? 3.Truyền giáo có nghĩa là gì ? 4.Tại sao lại cần truyền giáo ?
Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta : một TN 30-C114
Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta : một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Qua dụ ngôn đầy tính hài ước, Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x.Lc 18,1-8).
Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn gồm hai nhân vật đại diện cho con người hôm nay : một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).
Khi đọc lý do tại sao người Pharisiêu lại tạ ơn Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng sự hào phóng của ông thực sự là một người " tốt ", không chê trách được gì. Điều này dường như không phải là quan điểm của Đức Giêsu, Người không kể dụ ngôn này cho những người công chính, nhưng "cho những ai hay tự hào mình là người công chính." (x.Lc 18,9-14)
Người Pharisêu
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, mà phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x.Lc 18,14).
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác : ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình, quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.
Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông "tạ ơn Thiên Chúa" ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ?
Người thu thuế
Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát : "Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội. " (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương và lời anh cầu xin được chấp nhận. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như các pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng mà anh đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình.
Bài học từ hai người trên
Giống như hầu hết các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy hai nhân vật trái ngược nhau. Những người thu thuế hôm qua là những người Pharisêu mới của ngày nay! Ngày nay người thu thuế, kẻ phạm tội, nói với Chúa: "Lạy Chúa con tạ ơn Chúa, vì con không phải như những người Pharisêu có lòng tin kia, giả hình và bất bao dung, lo lắng về sự ăn chay, nhưng trên thực tế sống còn xấu hơn chúng con." Thật nghịch lý, xem ra dường như có những kẻ cầu nguyện như thế này: "Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con là kẻ vô thần! "
Rochefoucauld nói rằng sự giả hình là đồ cống nạp nết xấu trả cho nhân đức. Ngày nay nó thường là đồ cống nạp nhân đức trả cho nết xấu. Đúng thế, điều này được bày tỏ ra, nhất là những kẻ tỏ ra mình xấu hơn và vô sỉ hơn mình, ngõ hầu không xuất hiện kém hơn những kẻ khác. Nhà triết học Tin Lành Soren Kierkegaard viết: "Ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức, nhưng đức tin. "
Một kết luận thực tế : Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày của chúng ta và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.
Nếu chúng ta đành cam chịu nên một ít của cả hai, bấy giờ chúng ta hãy nên kẻ nghịch của điều chúng ta mới diễn tả: Pharisêu trong sự sống hằng ngày và thu thuế trong nhà thờ! Như người Pharisêu, chúng ta phải cố gắng trong sự sống hằng ngày không làm kẻ trộm và người bất chính, nhưng theo những điều răn của Chúa và trả những món nợ chúng ta mắc; như người thu thuế, khi chúng ta ra trước mặt Chúa, chúng ta phải công nhận rằng chút ít gì chúng ta đã làm là hoàn toàn ân huệ của Chúa, và chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta và cho tất cả mọi người lòng thương xót Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ------------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 18:9-14)
Với ba bài đọc Chúa Nhật hôm nay, chúng ta có thể suy niệm về nhiều đề tài khác nhau. Riêng TN 30-C115
Với ba bài đọc Chúa Nhật hôm nay, chúng ta có thể suy niệm về nhiều đề tài khác nhau. Riêng chúng tôi thấy có một điều liên kết tư tưởng của cả ba bài, đó là mối liên hệ giữa cầu nguyện và việc được trở nên công chính. Mở đầu cho đề tài này, bài trích sách Huấn ca đề cập tới sức mạnh lời cầu nguyện của “người nghèo” sẽ xuyên thấu mọi trở ngại để tới đích là Đấng Tối Cao, và chính Người sẽ “xét xử cho người chính trực và thi hành công lý”. Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô đã kể mình vào số những “người nghèo” và ngài xác tín rằng “Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng” cho ngài và những ai hết tình mong đợi Chúa. Riêng bài Tin Mừng, qua dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế cùng cầu nguyện trong Đền Thờ, Chúa Giê-su khẳng định rằng nhờ lời cầu nguyện khiêm nhường nhận biết mình là kẻ tội lỗi, người thu thuế “đã được nên công chính rồi”.
Một trong những mục đích chính của cầu nguyện, ngoài việc chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, chúng ta còn “xin” Chúa nữa. Điều đáng xin nhất, đó là xin cho được nên công chính. Xin được nên công chính nghĩa là xin được giải thoát khỏi tội lỗi. Như thế, khi cầu nguyện thì chúng ta cầu nguyện với tính cách là một kẻ tội lỗi, hay nói khác đi, là những “kẻ nghèo hèn, bị áp bức, mồ côi góa bụa” và kể cả những kẻ tội lỗi nữa. Trước mặt Chúa, chúng ta vẫn là những kẻ tội lỗi, dù chúng ta có làm hết việc tốt này đến việc lành khác. Trong dụ ngôn Chúa Giê-su kể, ông Pha-ri-sêu đã cầu nguyện như ông là một vị… thánh. Nghĩ mình là người công chính nên ông “đứng thẳng” trước mặt Chúa (Justification = ơn công chính, gồm hai từ: jus = quyền; stare = đứng), trong khi ai ai cũng phải cúi rạp trước Chúa vì tình trạng tội lỗi của mình. Mọi tội lỗi và xấu xa ông đổ lên đầu “bao kẻ khác”, trong số đó có cả “tên thu thuế kia” nữa, làm như ông là vị thánh sống duy nhất trong nhân loại không bằng! Khi cầu nguyện, ông nói về mình chứ không nói về Thiên Chúa. Trước hết ông “kê khai” những điều xấu ông không phạm: không tham lam, không bất chính, giống như tên thu thuế tham lam, lừa đảo và bóc lột dân lành. Tiếp đến, ông đắc chí kể lể những việc tốt ông đã làm: nào ăn chay mỗi tuần hai lần, trả nợ cho Chúa một phần mười thu nhập. Không thấy ông kể ra ông đã bố thí cho người nghèo bao nhiêu, có trả lương đầy đủ cho những người làm công cho ông hay không! Cũng chẳng thấy ông đá động gì đến Chúa là Đấng quan phòng, đầy lòng thương xót… vì ông đâu cần tất cả những điều ấy. Ông là người công chính thì tại sao phải xin Chúa thương xót làm gì!
Ông Pha-ri-sêu cầu nguyện lòng thòng bao nhiêu thì “tên thu thuế kia” lại cầu nguyện ngắn gọn bấy nhiêu. Chỉ có một lời nguyện duy nhất thôi: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Đơn giản, nhưng lại là lời cầu nguyện đầy đủ nhất, sâu xa nhất, tha thiết nhất. Cái gì cũng… nhất cả. Kèm theo lời cầu nguyện, chúng ta không thể bỏ qua tư thế của “kẻ tội lỗi” này. Anh ta “đứng đằng xa, chẳng dám ngước mắt lên trời”. Đúng vậy, thấy thân phận mình nhơ bẩn và hèn hạ thì làm sao dám đến gần Chúa là Đấng vô cùng thanh khiết và cao cả; biết mình đầy tội lỗi thì làm sao dám tiến đến Đấng vô cùng thánh thiện. Tóm lại, người thu thuế đã cầu nguyện đúng với thân phận của mình: con là kẻ tội lỗi. Vì thân phận tội lỗi, nên nhu cầu đơn thuần là “xin thương xót con”, nói khác đi, xin Chúa cho con được nên công chính.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có khi nào bạn cầu nguyện như ông… “thánh Pha-ri-sêu” kia không? Hy vọng là không. Nhưng bạn có “dám” cầu nguyện như người thu thuế không? Đương nhiên là dám chứ! Chẳng những dám mà còn “phải” cầu nguyện như thế nữa. Ở trước mặt Chúa, bạn là một trong số những “người nghèo” (anawim), những người có nhu cầu. Thân phận tội lỗi của chúng ta không là điều xấu, vì “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rô-ma 5:20). Thánh Phao-lô sẵn sàng “khoe khoang” những yếu đuối của ngài, bởi ngài xác tín rằng qua những yếu đuối ấy, quyền năng và sức mạnh của Chúa Ki-tô được biểu lộ. Lời cầu nguyện của kẻ nghèo và của Phao-lô đã được Thiên Chúa nhậm lời. Lời cầu nguyện của người thu thuế giúp anh ta nên công chính. Còn lời cầu nguyện của bạn thì sao?
Chúa nhật 30 thường niên năm C Lm. Phêrô Lê văn Chính
Lc 18,9-14
Bài đọc Chúa nhật tuần này vẫn trở lại với chủ đề cầu nguyện và thái độ cần thiết khi cầu nguyện. TN 30-C116
Bài đọc Chúa nhật tuần này vẫn trở lại với chủ đề cầu nguyện và thái độ cần thiết khi cầu nguyện. Không những Chúa Giêsu nhắc nhở cần kiên trì cầu nguyện, người còn nhắc nhở thái độ cần thiết là phải khiêm nhường và chân thành, tránh thái độ kiêu căng khoe khoang bởi vì Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người và yêu thương những ai chân thành khiêm tốn. Kiêu căng khoe mình là tật xấu làm cho người ta không nhìn biết rõ thực trạng của mình mà chỉ thấy điều tốt đẹp của mình và coi thường người khác. Thái độ của người Pharisiêu trong câu chuyện Tin mừng hôm nay là một thái độ tiêu biểu của những người kiêu căng mà Chúa Giêsu cảnh giác. Người Pharisiêu này là người đã thực hành những việc đạo đức và khi ra trước mặt Chúa để cầu nguyện, ông cảm thấy tự hào để kể ra những việc mình đã làm và từ đó phê phán những người thu thuế là người tội lỗi.
Câu chuyện Tin mừng cho thấy cách cụ thể tại sao có những người cầu nguyện không được nhậm lời và có những người cầu nguyện được nhậm lời. Không phải vì Thiên Chúa khó khăn hà khắc yêu sách, không muốn nhậm lời cầu nguyện của người xin, nhưng vì Thiên Chúa là Đấng rất chân thật, nhìn thấy tận thâm sâu trong tâm hồn và muốn nhậm lời cầu xin của người thực sự khiêm nhường. Người Pharisiêu trong câu chuyện có thể rất chủ quan, chúng ta có thể hình dung ông như một người “hassiđim” mà người ta thường gặp đang đứng cầu nguyện quay mặt vào bức tường gọi là “tường than khóc”. Họ thường làm việc vừa đủ để nuôi sống mình và gia đình, còn lại dành thời gian để học hành lề luật. Câu chuyện nói người Pharisiêu đứng cầu nguyện và ca tụng Chúa, ông giữ luật rất cẩn thận và tuân giữ ngay cả những điều cấm của lề luật, ngay cả ông đã thực hành điều mà ít người có thể làm được: ăn chay một tuần hai lần, dâng cúng một phần mười hoa lợi, làm phúc bố thí nhiều.
Thế nhưng, có điều này làm cho lời cầu nguyện của ông không được nhậm lời là thái độ tư cao cho mình là người công chính trước mặt Chúa và khinh dễ phê phán người khác. Ông đứng thẳng và thưa với Chúa “con cảm tạ Chúa vì con không như những người khác, gian tham, ngoại tình, bất công”. Trong khi đó, người thu thuế có thể là người giàu có, làm việc cộng tác cho người Rôma đang chiếm đóng xứ do thái, gian lận tiền thuế của dân chúng để lấy làm của riêng. Thường người thu thuế bỏ nhiều tiền để mua chức vụ, và sau đó ông lấy lại bằng cách áp thuế cao cho người khác. Ông bị mọi người khinh ghét vì thói tham lam của mình. Thế nhưng, ông lại có điều gì đó khiến Thiên Chúa nhậm lời cầu nguyện của ông: ông đứng đằng xa, không dám ngước nhìn lên Chúa, đấm ngực sám hối và van xin thành thật xin Chúa thương xót. Sự khác biệt giữa hai thái độ cầu nguyện của hai con người tiêu biểu này là thế. Một người Pharisiêu đạo đức, làm nhiều việc đạo đức và việc lành lại không được nhậm lời vì ông đã quá tự cao, tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác; trong khi đó người thu thuế tội lỗi lại được nhậm lời vì tấm lòng sám hối chân thành của ông.
Người biệt phái ra về không được nhậm lời vì cách cầu nguyện của ông không phù hợp. Thực ra ông không cầu nguyện mà đây là dịp để ông khoe khoang, kể công trước mặt Chúa và phê phán người khác, như thể là ông không hề phạm tội gì cả. Ông tự cho mình là người công chính và tin tưởng mình đã sống cuộc đời hoàn hảo không có gì đáng chê trách được. Trong khi đó người thu thuế tội lỗi lại biết chân thành nhìn nhận những tội lỗi của mình, nhận thấy mình đã hành động xấu xa tội lỗi và van xin lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa để giúp ông biết sám hối và thay đổi đời sống. Ông không hề dám khoe mình và phê phán ai, chỉ biết chân thành nhìn nhận tội lỗi và đặt lòng tin tưởng vào ơn Chúa tha thứ và đổi mới.
Câu chuyện cũng soi sáng về cung cách sống và cách suy nghĩ. Chúng ta dễ có quan niệm của những người Pharisiêu, nghĩ rằng công chính là chu toàn đầy đủ lề luật, đọc kinh cầu nguyện đầy đủ, chu toàn mọi việc bổn phận đạo đức. Nhưng theo quan niệm Thánh Kinh, công chính là người biết sống theo thánh ý Thiên Chúa, biết cư xử theo Lời Chúa soi sáng hướng dẫn và trong đời sống cầu nguyện, người công chính luôn biết cầu nguyện để điều chỉnh cuộc đời và cách sống của mình theo thánh ý Thiên Chúa. Điều trọng tâm trong câu chuyện này là tấm lòng khiêm nhường chân thật, nhìn thấy những thiếu sót của mình và xin Chúa ban ơn để sửa đổi đời sống cho phù hợp theo thánh ý Thiên Chúa. Người thu thuế không tự lừa dối mình để rồi chìm ngập trong tội lỗi gian tham, thu vén của cải nhưng ông đã biết sáng suốt tự xét mình cách chân thật. Có thể hoàn cảnh bị những người khác xa tránh và khinh ghét làm cho ông nhận thấy được bộ mặt xấu xa của mình rồi cố gắng sửa đổi. Còn người Pharisiêu được mọi người kính trọng do bởi những việc đạo đức của mình làm ông hài lòng với đời sống đạo đức và do đó không còn cần đến lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Người thu thuế nhận thấy rằng mình đã tham lam thu vén, nghĩ nhiều quá cho bản thân và gia đình mình đến độ gây thiệt hại cho người khác, nên ông thành thật sám hối để rồi cố gắng sửa đổi: cầu nguyện cũng là biết nhìn nhận những tội lỗi của mình, chưa cố gắng để hy sinh bản thân mà nghĩ đến tha nhân.
Trong truyền thống khôn ngoan của người do thái qua sách Huấn ca, dân Chúa đã được huấn luyện cho biết kiên nhẫn cầu nguyện với thái độ đúng đắn. Thiên Chúa của họ là Thiên Chúa sẵn lòng nghe lời cầu nguyện của những người nghèo, những người bị áp bức bất công trong xã hội. Những người bị áp bức bất công không biết cậy dựa vào ai, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng nghe lời cầu nguyện của họ, và trong những hoàn cảnh đau khổ, họ hãy tin tưởng và trình bày với Chúa, Chúa sẽ lắng nghe lời họ và sẽ mau mắn đến cứu giúp họ. Trong bức thư gửi Timôthêu, thánh Phaolô đã gửi gấm những lời tâm sự và xác tín cuối cuộc đời rao giảng của mình. Người luôn xác tín vào Thiên Chúa là Đấng sẽ ban thưởng cho người vì người đã trung tín phục vụ cho công việc rao giảng Tin mừng suốt cuộc đời của mình, bất chấp mọi gian lao khốn khó. Người xác tín rằng qua cuộc đời phục vụ việc rao giảng Tin mừng, dù cho có bị người đời bỏ rơi hay bách hại, thì Thiên Chúa luôn là Đấng bênh vực người và nhất là ban tặng cho người triều thiên chíến thắng vinh quang. Phaolô là hình ảnh của người cầu nguyện chân thực, đã đạt được hiệu quả của lời cầu nguyện nhờ luôn sống chân thành với Thiên Chúa dù cho mọi hoàn cảnh khó khăn và bị mọi người bỏ rơi. Thiên Chúa là Đấng nhận lời cầu nguyện của những người chân thành tin tưởng.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 18:9-14)
Cầu nguyện là cách chúng ta biểu lộ đức tin vào Chúa. Cầu nguyện bằng đức tin kiên trì như trong TN 30-C117
Cầu nguyện là cách chúng ta biểu lộ đức tin vào Chúa. Cầu nguyện bằng đức tin kiên trì như trong dụ ngôn bà góa xin ông quan tòa bất chính minh xét cho mình. Hôm nay, Chúa Giê-su kể một dụ ngôn nữa để khai triển thêm đề tài cầu nguyện: mục đích khi chúng ta cầu nguyện là để được nên công chính. Dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện cho thấy mục đích hoặc kết quả của việc cầu nguyện, qua lời khẳng định của Chúa Giê-su: “Tôi nói cho các ông biết: người này [người thu thuế] khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia [ông Pha-ri-sêu] thì không”.
Sách Giáo lý dạy chúng ta về những mục đích của cầu nguyện là để ngợi khen Chúa, cảm tạ Người, xin ơn tha thứ tội lỗi và cầu xin Chúa ban ơn. Nhưng câu chuyện dụ ngôn hôm nay còn đặc biệt nhấn mạnh đến một khía cạnh khác của cầu nguyện, là giúp chúng ta được nên công chính. Hai cách cầu nguyện để được ơn nên công chính của ông Pha-ri-sêu và người thu thuế trái ngược nhau chắc chắn cho chúng ta dịp xét lại cách cầu nguyện của mình.
Trước hết nói về tư thế thể xác khi cầu nguyện. Ông Pha-ri-sêu đứng thẳng. Đứng thẳng quả thực là định nghĩa của sự công chính. Từ “công chính” trong tiếng La-tinh có nghĩa là quyền đứng thẳng (jus+stare; justificatio). Nếu vậy ông Pha-ri-sêu khi cầu nguyện với tư thế đứng thẳng thì ông đã tự cho mình là người công chính rồi! Vì cho mình là công chính, nên ông mới tự hào kể lể với Chúa về sự công chính của mình: nào tạ ơn Chúa vì mình không tội lỗi như những người khác, cụ thể “như tên thu thuế kia” đang đứng ở cuối đền thờ, nào mình ăn chay tuần hai lần và rộng rãi dâng tiền cho Chúa. Kể lể như thế, hoặc là ông muốn chứng minh sự công chính của mình, hoặc là “đòi” Chúa phải công nhận ông là công chính. Trái với cách kiêu căng đòi sự công chính như đòi quyền lợi, cách cầu nguyện “xin” ơn công chính của người thu thuế thật là khiêm tốn. Khiêm tốn trong cử chỉ khi cầu nguyện, là đứng đằng xa, cúi gằm mặt không dám nhìn lên trời, đấm ngực, và ông ta chỉ có thể nói với Chúa một điều duy nhất: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Đúng vậy, tội lỗi đã làm cho con người còng xuống, đã cướp đi khỏi con người cái quyền đứng thẳng trước mặt Chúa. Người thu thuế đã cầu nguyện với con người đích thực của mình, cầu nguyện như một kẻ tội lỗi và với lòng sám hối đấm ngực ăn năn. Ông ta không biết cầu xin điều gì khác hơn là xin Chúa thương xót mình. Ông đến cầu nguyện để biểu lộ lòng tin vào lượng từ bi của Chúa. Nói tóm lại, ông đã nắm chắc được mục đích của việc cầu nguyện, là xin Chúa thương xót nhìn đến thân phận tội lỗi của ông.
Rõ ràng có sự đối nghịch giữa cách cầu nguyện của ông Pha-ri-sêu và của người thu thuế. Cách cầu nguyện tôn mình lên đã hạ ông Pha-ri-sêu xuống, ngược lại, cách cầu nguyện hạ mình xuống đã tôn người thu thuế lên. Một người đòi cho mình quyền đứng thẳng thì phải khom xuống, còn người cúi xuống không dám ngửa mặt lên nhìn Chúa thì được Người cho đứng thẳng lên. Đó chính là ý nghĩa của mục đích việc cầu nguyện vậy!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Cầu nguyện với tư cách là kẻ tội lỗi có thể là điều ít khi nào chúng ta nghĩ tới. Ý thức mình là kẻ tội lỗi không làm cho chúng ta thất vọng chán nản mà không cầu nguyện nữa, trái lại càng là động lực thúc đẩy chúng ta tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa. Thiên Chúa là người cha nhân hậu chờ đón chúng ta trở về và đến với Người. Cánh tay Người luôn rộng mở. Như người cha phục hồi cho đứa con hoang đàng mọi sự nó đã đánh mất do tội lỗi, Chúa cũng phục hồi tư cách con cái Chúa nơi chúng ta và ban cho chúng ta cơ hội mới để phát huy sự thân mật khắng khít với Người. Đức công chính là quyền được làm con cái Chúa, quyền Chúa Ki-tô đã chuộc lại cho chúng ta bằng cái chết của Người trên thập giá. Do đó khi cầu nguyện, chúng ta không quên tạ ơn Chúa đã cho chúng ta được gọi Người là Cha, nhất là Người đã ban Thánh Thần để giúp chúng ta thưa rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha…” (Lu-ca 15:21). Rồi chúng ta sẽ được Người đỡ dậy! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Chúa nhật xxx thường niên, năm C, qui về chủ đề cầu nguyện. Tin Mừng cho hay có hai người lên đền TN 30-C118
Chúa nhật xxx thường niên, năm C, qui về chủ đề cầu nguyện. Tin Mừng cho hay có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người Pharisêu và một người thu thuế.Hai con người. Hai thái độ cầu nguyện khác nhau.Tìm hiểu đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay chúng ta sẽ hiểu được thế nào là cầu nguyện. Thực tế, Ông Pharisêu và người thu thuế đều lên đền thờ để cầu nguyện cùng Chúa. Cả hai người này đều tỏ ra cần cầu nguyện với Chúa. Tuy nhiên, thái độ, cử chỉ và tấm lòng của hai người lại hoàn toàn khác nhau. Chúng ta thử xem: nhân vật thứ nhất là Ông Pharisêu, Ông ăn mặc sặc sỡ, diêm dúa, vào nhà thờ, đứng trước mặt Chúa, Ông có thái độ thật trịch thượng. Ông không biết kính sợ Chúa, Ông coi Chúa như người ngang hàng, vào nhà thờ, Ông coi như nhà Ông và Ông tỏ vẻ tự cao tự mãn, Ông tỏ vẻ thật kiêu ngạo. Tin mừng viết đầu Ông có một sợi dây ghi lời Kinh Thánh, Ông đứng thẳng, giương giương đôi mắt, tự coi mình là nhất, coi Chúa như người bình thường.Xem ra không có gì đáng trách được Ông vì mỗi tuần Ông ăn chay hai lần. Ông tỏ ra thương người, Ông tỏ ra rộng rãi với Chúa vì Ông dâng một phần mười huê lợi cho Đền thờ. Ông lên đền thờ trước hết là để hiệp ý với cộng đoàn, với mọi người có mặt để cầu nguyện. Nhưng thực ra Ông đâu có cần người khác, Ông đâu có đếm xỉa đến cộng đoàn, ông khinh chê,miệt thị cộng đoàn, Ông tự coi ông là nhất, là trung tâm, là số một. Do đó, Ông tự mãn cầu nguyện :” Lạy Chúa, tôi cám ơn Chúa…Vì tôi không như những người khác “. Ông dám trịch thượng, tự kiêu so sánh với người khác và Ông tự ý coi mình hơn hết mọi người. Thái độ của Ông Pharisêu thật đáng chê trách bởi vì nó biểu lộ con người không đạo đức của Ông.
Tại sao Ông lại dám coi mình hơn người khác ? Tại sao Ông lại tự khoe khoang quá đáng như thế. Còn người thu thuế thì ở tận cuối nhà thờ. Ông cúi mặt xuống đất.Một thái độ khiêm hạ thẩm sâu. Ông đấm ngực thưa với Chúa :” Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội “.Ông tự nhận mình là kẻ tội lỗi. Ông biết rằng nghề thu thuế thời Ông là nghề bị coi là tội lỗi, là nghề liên kết với Đế Quốc Roma để bóc lột dân chúng, làm giầu cá nhân, Ông biết mình là kẻ tội lỗi nhưng ông trông cậy, tin tưởng lòng tha thứ, xót thương, nhân từ của Chúa và Ông sốt sắng cầu nguyện. Hai thái độ, hai tâm tình cầu nguyện của hai người Pharisêu và Thu thuế thật trái ngược. Ông Pharisêu kể công, đòi nợ, tự kiêu khi cầu nguyện. Người Thu thuế thì khiêm hạ, nhận ra mình yếu hèn tội lỗi, xin Chúa thứ tha. Ngày nay, cũng có những pharisêu kiểu mới, họ tới nhà thờ bằng những phương tiện giầu có, bằng những xe hơi bóng nhoáng, bằng những quần áo đắt tiền…Ông tới nhà thờ cho có lệ, để khoe khoang của cải, và để khoe khoang ăn mặc vv…Thái độ này thật đáng trách, đáng tránh xa. Vâng, người thu thuế nêu gương sáng ngời về sự khiêm nhượng, về cầu nguyện trong lòng tin, sự cậy trông…Cầu nguyện là khiêm tốn kêu cầu, van xin Chúa. Và rồi Tin Mừng thánh Luca hôm nay kết luận bằng lời nói của Chúa Giêsu :” Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên “.
Chúng ta mượn lời của André Luof để kết thúc bài suy niệm :” Ân sủng mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta là làm cho chúng ta nhận biết tội lỗi của mình.Đó là dấu chỉ cho thấy chúng ta được chữa lành khỏi sự mù lòa.Đó là dấu chỉ chắc chắn của ân sủng, ân sủng duy nhất của chúng ta trên trần gian và cũng là niềm vui duy nhất trên thiên đàng “.
Lạy Chúa Giêsu, xin lời cầu của chúng con dâng lên Chúa được Chúa chấp nhận. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Người Pharisêu đến Đền thờ để làm gì ? 2.Thái độ của người Pharisêu đối với Chúa ? 3.Người thu thuế thế nào ? 4.Thái độ của chúng ta khi cầu nguyện ? 5.Bài học của Tin mừng hôm nay ?
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi khâm phục, tôn vinh, kính thờ Một Vị Thiên TN 30-C119
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi khâm phục, tôn vinh, kính thờ Một Vị Thiên Chúa đầy uy quyền, nhưng cũng giầu lòng thương xót. Tuy nhiên, chúng ta cũng không khỏi giở mếu giở khóc với thói đời đầy đều trớ trêu của nhữnbg người Biệt Phái háo danh, háo thắng, những bọn người tham lam chức quyền, chà đạp những kẻ thấp cổ bé họng, những người chống đối lại sự thật, chống lại Đức Giêsu, Đấng đem một Tin Mừng mới, một lối sống, một hướng đi mới cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta. Tin Mừng của thánh Luca 18, 9-14 cho chúng ta thấy rõ thái độ kiêu ngạo của Pharisêu và cử chỉ khiêm nhường của người thu thuế…
Tin Mừng thánh Luca sáng nay cho hay, người Pharisêu lên Đền Thờ cầu nguyện. Lên Đền Thờ khẩn cầu, tạ ơn, xin ơn là một việc tốt, nhưng ở đây người Pharisêu không thành thật cầu nguyện mà là tự khoe khoang, kể công, kể phúc. Ông cầu nguyện nhưng thực ra ông đang liệt kê một bảng thành tích. Ông cám đội, tạ ơn Chúa nhưng thực ra là ông muốn Chúa biết ơn ông bởi vì ông kể ra vô số việc ông đã làm. Ông liệt kê những công việc ông đã làm quả thực không sai và có thể còn xem ra tuyệt vời. Ông đã giữ luật, ông đã không dám làm những điều lề luật cấm. Những điều được phép làm, ông còn làm nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, ông đã quá tự mãn, tự đề cao mình, đến nỗi ông coi cái tôi của ông là nhất, là to, là quan trọng hơn cả Chúa nữa.
Ông cho rằng mọi việc ông làm được là tự ông chứ không do Chúa. Nên, những việc làm, công trạng của ông kể ra bỗng tiêu tan đi như mây khói, nhất là ông tự kiêu, tự coi mình là trung tâm của vũ trụ mà khinh khi,mạt sát người khác. Sai lầm lớn nhất của ông khi ông dám so sánh với người khác :” Vì con không như kẻ khác : tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia “ ( Lc 18, 11 ). Sai lầm ấy đã dẫn ông tới sự mù quáng: ông khinh miệt người thu thuế, một kẻ hèn mọn trước mặt Thiên Chúa, một kẻ nghèo khó, thiếu thốn trước mặt mọi người. Giả như, ông Pharisêu ngẩng mặt ngước trông lên Chúa và đem ông ra so sánh với Chúa, ông sẽ thấy mình bất toàn, khiếm khuyết và thiếu thốn biết bao ! Chính khi nhìn vào sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa, ông Pharisêu mới nhận ra mình là số không, mọi sự đều bởi Chúa và ông sẽ phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Chúa và như thế, ông mới thốt lên lời nguyện cầu chân thành như người thu thuế :” Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi “ ( Lc 18, 13 ).
Sai lầm lớn lao hơn nữa của ông Pharisêu là ông đã không nhận ra sự công chính, thánh thiện là ân huệ Chúa trao ban cho con người, chứ không không phải ông đã tuân giữ luật, làm việc này việc kia vì luật bắt buộc mà ông đã trở nên hơn người. Khi ông tự mãn không cậy dựa vào Chúa mà tưởng tự mình có thể công chính hóa mình thì chính lúc đó ông đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa.
Lời cầu nguyện của người thu thuế là lời khẩn nài van xin, một lời xin Chúa giúp đỡ. Sự nài van đích thực trong sự khiêm tốn tột cùng, trong sự khiêm nhường thẩm sâu đã được Chúa chấp nhận. Vâng, người thu thuế đã tỏ ra bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung, thương xót. Tâm tình đơn sơ, cậy trông, phó thác đã làm cho Chúa nhìn xuống và làm cho người thu thuế nên công chính.
Thiên Chúa đoái thương những người cầu nguyện khiêm nhường. Đây là bài học của dụ ngôn trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 18, 9-14. Thiên Chúa không ngoảnh mặt đoái nhìn và chấp nhận lời cầu nguyện tự mãn, tự kiêu của những người Pharisêu. Đây không phải là lời cầu xin tạ ơn mà là một chuỗi liệt kê công trạng bắt Chúa phải nhớ đến mình. Chúa phán :” Ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên “ ( Lc 18, 14 ).
Chúng ta sống ở trần gian, đang trên cuộc hành trình đức tin. Chúa luôn muốn con người phải tự biết mình bất toàn, tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa. Chúa đề cao người Samaria nhân hậu. Chúa đề cao người thu thuế tự nhận mình là tội lỗi. Chúa yêu thương Maria Mađalêna đã biết ăn năn hối lỗi…Chúa thương xót người nghèo khó Lazarô…Tất cả cuộc sống, con người của chúng ta đều do ân huệ của Chúa,
“Ôi lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi “.
Lạy Chúa Giêsu, xin đoái nhìn đến chúng con là những kẻ bất xứng, bất toàn đang nài xin lòng Chúa thương xót. Xin cho chúng con biết khiêm nhường nhận ra lòng từ bi nhân hậu của Chúa và luôn cảm thông với những yếu đuối, khiếm khuyết của những người anh em chúng con. Amen.
(Huấn ca 35,12-14.16-18; 2 Timôthê 4,6-8.16-18; Tin Mừng Luca 18,8-14)
Phúc Âm: Lc 18, 9-14
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Suy Niệm:
Lời Chúa hôm nay muốn giáo huấn chúng ta về sự cầu nguyện. Ðúng hơn, Người muốn dạy dỗ chúng TN 30-C120
Lời Chúa hôm nay muốn giáo huấn chúng ta về sự cầu nguyện. Ðúng hơn, Người muốn dạy dỗ chúng ta về chính Người. Hiểu Người hơn, chúng ta sẽ biết cầu nguyện tốt hơn; và nói chung, chúng ta sẽ biết sống đạo hoàn toàn hơn.
Thực vậy, thánh Phaolô có thể sống đạo như trong thư hôm nay người viết, là vì người đã hiểu Chúa như Kinh Thánh Cựu Ước cho biết và nhất là như chính Con Một Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. Giáo lý của bài sách Huấn ca và dụ ngôn trong bài Tin Mừng Luca sẽ giúp chúng ta hiểu Chúa hơn; và nhờ đó, chúng ta cũng sẽ hiểu lời lẽ thắm thiết của thánh Phaolô.
1. Chúa Là Ðấng Chí Công
Bài sách Huấn ca thực ra không có những giáo lý khác thường. Nhiều tiên tri và có thể nói hết mọi tác giả thời Cựu ước vẫn thường nói: Chúa là Ðấng nhân ái; Người không tây vị nhưng vẫn để tai riêng nghe lời rên xiết của kẻ khó nghèo; Người thi hành công lý khi phán xét chí công. Nhưng nếu đặt những tư tưởng này vào văn mạch, và đọc những đoạn sách này với những trang trước sau, chúng ta sẽ thấy tác giả Huấn ca muốn nói nhiều hơn những điều chúng ta vừa hiểu.
Ông vừa đi du lịch về, sung sướng vì đã học được một sàng khôn. Với kinh nghiệm mới này, ông đề cập đến vấn đề sôi bỏng thời bấy giờ, hay là các tế lễ nơi Ðền Thờ có thật sự cần thiết và giá trị không? Việc tiếp xúc với văn minh Hy Lạp đã cho người Do Thái thấy phải chăng mình đã chẳng quá thiên về tế tự và xao nhãng việc suy nghĩ khôn ngoan?
Tác giả không phủ nhận vai trò của việc dâng lễ, nhưng theo ông, người Do Thái nên cố gắng trở về nguồn và nhận định: giữ lề luật, tức là dâng nhiều lễ tế; cẩn thủ lịnh truyền tức là dâng lễ kỳ an. Và như vậy tư tưởng của ông đã góp phần vào việc xây dựng đạo Do Thái thời sau lưu đày. Con cái Israel chú trọng vào việc giữ luật và những người quan trọng trong dân này là luật sĩ.
Nhưng tác giả vẫn đề cao cảnh giác. Chính việc giữ Luật cũng có thể nguy hiểm. Và tôn giáo khi chú trọng đến Luật pháp có thể trở nên vụ luật, cũng như đã có thể trở nên vụ hình thức khi quá coi trọng vai trò của tế tự. Lòng đạo đức chân thật không phục vụ Luật pháp, đồng thời cũng không phục vụ bàn thờ. Nó chỉ phục vụ Thiên Chúa. Người ở trên Luật pháp và lễ tế. Chúng ta cũng đừng mong lấy việc giữ luật bề ngoài và các lễ dâng vụ lợi mà mua chuộc lòng Chúa.
Người là Ðấng chí công. Người không tây vị theo nghĩa ở đây là không thể dùng các của lễ bề ngoài và việc giữ luật một cách máy móc mà làm đẹp lòng người. Sự thờ phượng chân thật Người ưa thích là lòng chân thành của người khó nghèo.
Ðoạn sách Huấn ca hôm nay dùng nhiều hình thức của nhiều câu văn lặp đi nhắc lại chỉ một ý tưởng: Thiên Chúa nghe lời người khó nghèo kêu xin. Ðó là của lễ được nhận...
Chúng ta chỉ có một thắc mắc, kẻ khó nghèo tác giả nói đây là ai? Thuộc hạng người nào? Ðoạn sách trích hôm nay nói đến kẻ nghèo, người oan, kẻ mồ côi, người góa bụa, là những thành phần cô thân cô thế trong xã hội. Nhưng có thật tác giả nhắm đến những người ấy và chỉ nhắm đến họ không? Hay đó chỉ là những hình ảnh văn chương, những bộ mặt tiêu biểu thường được mọi tác giả Kinh Thánh dùng để nói đến hạng người được Chúa chiếu cố và quan tâm cứu độ?
Có nhiều đoạn văn khác làm chứng tác giả sách Huấn ca nghĩ nhiều nhất đến tất cả đồng bào của ông, là con cái Israel thời bấy giờ. Họ phải phiêu bạt đi nhiều nơi, bị dân ngoại chèn ép không nhận được pháp luật bảo vệ trong việc thờ phượng và giữ luật của cha ông. Nhưng họ vẫn cố gắng trung thành với giao ước; vẫn thờ lạy Giavê; vẫn khẩn cầu Danh Chúa. Ðó mới thật là kẻ nghèo, người oan, kẻ mồ côi, người góa bụa. Lòng đạo đức của họ nhất định đẹp lòng Chúa và chắc chắn Người sẽ thi hành công lý cho họ khi Ðấng chí công xét xử.
Như vậy, tư tưởng của tác giả rất cổ điển và chính thống. Nó là giáo huấn của các tiên tri. Nó là niềm tin hướng về cứu độ thiên sai của Do Thái giáo. Nó vừa chuẩn bị vừa có thể gây trở ngại cho giáo huấn của Chúa Giêsu sau này, vì tuy nói đến địa vị ưu việt của người nghèo khó, tác giả vẫn còn óc Do Thái và Cựu Ước: Ðồng hóa người khó nghèo của Chúa với Dân Do Thái và hứa một sự phân xử cứu độ ở bình diện trần gian khi Ðấng Thiên Sai đến. Những tư tưởng này sẽ được Ðức Giêsu sửa chữa, như chúng ta cũng có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Chúa Ban Ơn Công Chính
Một mình tác giả Luca thuật lại dụ ngôn này. Trong Matthêô, Marcô và Gioan chúng ta không thấy câu chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Dĩ nhiên không phải Chúa nói dụ ngôn nào thì cũng được cả bốn tác phẩm Tin Mừng ghi lại.
Riêng Luca có một sở thích về dụ ngôn... Trong số chừng 50 dụ ngôn Chúa đã nói, Luca ghi lại trên dưới 40. Ông không thể nào quên dụ ngôn hai người biệt phái và thu thuế hôm nay, vì ông rất thích nói về cầu nguyện; mà hai người này đã lên Ðền thờ cầu nguyện; Chắc là Luca đã cẩn thận theo dõi Lời Chúa kể. Nhờ vậy chúng ta có bài dụ ngôn rất hay.
Trước hết, tác giả Luca xác nhận: Ðức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những kẻ tự tin rằng mình là công chính và khinh miệt người khác. Những kẻ ấy là ai? Theo câu chuyện tiếp theo chúng ta phải hiểu họ là các biệt phái thời Ðức Giêsu. Nhưng chúng ta đừng vội mất cảm tình với họ, chúng ta nghĩ đến những người đã mạnh tay và to mồm trong vụ án Chúa Giêsu; và chúng ta coi họ là những người xấu. Nhưng trước mặt người thời bấy giờ và trước cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, họ được kính trọng và kính nể. Họ là những người như Luca vừa kể, được coi là công chính trong đạo cũ vì không ai giữ luật pháp Môsê hơn họ. Chính việc tuân thủ, chấp hành luật pháp rất cặn kẽ này làm cho họ tự tin, ý thức mình là công chính và khinh miệt người khác... Họ biết mình "hoàn toàn" và ung dung giữ đạo, không mảy may sợ phán xét của Chúa.
Hôm nay, Ðức Giêsu nói dụ ngôn này với họ và cho họ, để họ suy nghĩ. Và vì thế bài dụ ngôn không nhắm dạy cách thức cầu nguyện cho bằng muốn triệt hạ lòng tự tín, phủ nhận một lối sống đạo, một sự công chính sai lầm và đề ra tinh thần đạo đức thánh thiện thật... Chúng ta hãy nghe bài dụ ngôn.
Hai người lên Ðền thờ cầu nguyện: một người là Biệt phái, người kia làm nghề thu thuế; một người được xã hội kính trọng; người kia bị người đời đàm tiếu; một người chấp hành luật đạo nghiêm chỉnh, người kia mang tiếng là tội lỗi. Người Biệt phái nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi đội ơn Ngài vì tôi không như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình hay là như tên thu thuế kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần, tôi nộp thuế thập phân về hết mọi vật tôi mua".
Người ấy không nói ngoa. Ông ta không có tội mà người khác hay phạm. Cuộc đời ông thánh thiện khác hẳn nếp sống của phường thu thuế. Tiêu cực như thế; còn tích cực thì đừng bảo ông chỉ giữ luật; ông còn làm quá luật dạy, chứng tỏ ông sốt sắng thánh thiện khác thường. Vì luật đâu có buộc ăn chay mỗi tuần hai lần và nộp thuế thập phân về các hàng mua.
Ðó là những hành vi khuyên và dành cho những người hoàn toàn. Sống được như vậy mà không tạ ơn Thiên Chúa sao? Ông cám ơn Chúa vì ông đã công chính như vậy... Lời nguyện của ông là lời kinh tạ ơn và tạ ơn là đúng.
Tuy nhiên tác giả Luca vì quen để ý đến việc cầu nguyện, nên đã nhận ra những khuyết điểm trong cách tạ ơn như vậy. Trước hết, tác giả lưu ý chúng ta thái độ dửng dưng mà cầu nguyện của người Biệt phái. Tư thế "đứng" không có gì đáng chê. Người thu thuế cũng sẽ đứng mà cầu nguyện. Nhưng có nhiều cách đứng. Và cách đứng của người Biệt phái nói lên niềm tự tín, phấn khởi. Không có sự kính sợ Chúa trong cách đứng của ông. Ông đến kể công chứ không cầu nguyện. Ông quen phô trương sự công chính thánh thiện trước mặt người khác khi khua chuông đánh trống lúc bố thí và cầu nguyện, nên cũng chỉ có thái độ phô trương công trạng trước mặt Thiên Chúa...
Thật ra, ông có để ý gì đến Chúa, mà chỉ quan tâm đến mình, đến sự nghiệp của mình. Ông cầu nguyện nơi mình chứ không cầu nguyện với Chúa. Ông nói cho mình nghe và cùng lắm cho người khác nghe, chứ đâu có cần Chúa biết, vì ông không chờ Người ban cho hay làm gì cho ông cả. Ông cầu nguyện để thêm tự tín và phô trương, thế thôi.
Ðang khi ấy; người thu thuế đứng lẻn đàng xa, không dám, ngước mắt lên, nhưng đấm ngực mà rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin khấng thương tôi là đứa tội lỗi". Người ấy có thái độ kính sợ Chúa và khiêm nhường thống hối ăn năn. Chắc chắn, người ấy không dám kể công vì có thể chẳng có công gì mà kể. Nhưng chúng ta cũng đừng ngạc nhiên vì người ấy không kể tội ra. Có lẽ vì không cần thiết nữa: người biệt phái đã kể rồi. Người ấy chỉ cần công nhận phán xét của người biệt phái... và khi công nhận mình là đứa tội lỗi, chắc chắn người ấy coi việc kể tội là dư thừa... Ðiều người ấy chú ý là tha thiết nài xin lòng Chúa khấng thương xót cho mình, thế thôi.
Ðức Giêsu bảo: Người thu thuế ra về thì được giải án tuyên công, tức là được công chính hóa, khác với người biệt phái kia thì không. Phán quyết của Người không làm chúng ta ngạc nhiên, vì chúng ta đã biết nhiều về giáo huấn của Người. Nhưng chắc chắn nó đã làm những biệt phái và Do Thái thời ấy giật mình mà suy nghĩ. Và họ sẽ chỉ có thể hiểu được nếu nhớ lại giáo huấn của Cựu Ước như chúng ta đã thấy trong bài sách Huấn ca.
Người ta đừng lấy lễ vật và việc giữ luật mà "hối lộ" Thiên Chúa. "Nỗi hồn cay đắng là của lễ được nhận", tác giả sách Huấn ca đã viết như vậy (35,16). Lòng đạo đức chân thành nằm nơi tâm hồn thống hối ăn năn. Chính Chúa công-chính-hóa con người, chứ con người không thể là công chính. Nếu chúng ta đã để ý thì thấy Chúa Giêsu nói dụ ngôn này "với những kẻ tự tín rằng mình là kẻ công chính" để rồi chúng sẽ nhận ra mình không được công chính hóa; đang khi kẻ thấy mình không công chính nhưng biết ăn năn hối cải và cầu xin lòng thương xót thì được Chúa công chính hóa. Thành ra bài dụ ngôn đã kết luận: "Kẻ nào nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống; còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nhấc lên".
Câu kết luận càng cho chúng ta thấy rõ bài học của bài Tin Mừng hôm nay. Chúa không ưa kẻ tự tín. Họ không chờ ơn Người cứu độ. Ngược lại ai khiêm tốn cầu xin ơn tha thứ, sẽ được Chúa nhận lời và ban cho ơn trở nên công chính.
Giáo huấn của Chúa còn làm sáng tỏ bài sách Huấn ca. Nhờ ánh sáng Tin Mừng Chúa Giêsu mang đến, chúng ta hiểu kẻ khó nghèo đích thực luôn được Chúa chiếu cố nghe lời và thi hành công lý cho là mọi kẻ khiêm nhường như người thu thuế, nhận rằng mình là đứa tội lỗi và khẩn thiết cầu xin ơn cứu độ. Họ cần được công-chính-hóa chứ không đòi được nhìn thấy sự chí công của Chúa ở đời này. Những tâm tình như vậy, chúng ta gặp thấy rõ ràng trong bài thư Phaolô hôm nay.
3. Chúa Ðộ Vào Nước Trời
Thánh Tông đồ bấy giờ không những đang ở tù, mà còn biết sắp được tử đạo. Như người ta có thói quen đổ rượu (hoặc nước, hoặc dầu) trên của lễ trước khi dâng, máu ngài cũng sắp đổ ra trên cái chết của ngài. Do đó giờ ra đi lên đường của ngài đã đến.
Nhìn lại cuộc đời, Phaolô thấy mình đã chiến đấu tốt, đã chạy đến cùng đích rồi. Nhưng không vì vậy mà ngài tự tín, tự phụ vì ngài đã phấn đấu như thế chỉ để kiên giữ lòng tin vào Chúa; và ngài đã chạy như vậy như thể dưới mắt quan sát và trọng tài của Chúa. Ngài không làm gì cho mình, cũng như không phải để cho ai xem. Ðối với ngài tất cả chúng ta đều như các lực sĩ nơi thao trường. Khán giả duy nhất là Chúa, Ðấng phán xét chí công. Người sẽ ban triều thiên công chính cho hết mọi người đã đầy lòng yêu mến trong cuộc trông đợi cuộc hiển linh của Người mà chạy.
Như vậy chỉ có Chúa là lẽ sống của Phaolô. Các phấn đấu của ngài là để được triều thiên công chính. Ngài biết mình chưa là công chính. Sự công chính nằm nơi tay Chúa. Người sẽ ban nó cho hết thảy những ai biết phấn đấu.
Phaolô đã phấn đấu tốt, không phải với sức mình, nhưng hoàn toàn nhờ sức Chúa. Mới rồi đây, khi bị đưa ra tòa để biện hộ, Phaolô đã trơ trọi. Chẳng một ai ủng hộ ngài... Nhưng Chúa đã giúp sức. Và Phaolô đã ăn nói dạn dĩ làm chứng cho Chúa và đã thoát nạn. Ngài tin chắc rằng Chúa còn ban ơn để cuối cùng Chúa sẽ cứu mà độ ngài vào Nước Trời.
Và như vậy từ đầu chí cuối Phaolô chỉ có những tâm tình khiêm cung của kẻ biết mình yếu đuối mà thành khẩn trông cậy ơn Chúa... Ngài sống như kẻ "khó nghèo" của Phúc Âm; và vì thế ngài không hề phàn nàn về người khác. Ngay khi nhớ lại lúc bị mọi người bỏ rơi một cách bất công bất nhẫn, ngài cũng chỉ cầu nguyện cho họ được ơn tha thứ. Ngài bắt chước "Ðấng Khó Nghèo" khi ở trên thánh giá đã cầu nguyện cho kẻ giết mình. Ngài để lại cho chúng ta những tâm tình thắm thiết trong lời di chúc hôm nay để Hội Thánh chúng ta muôn đời suy nghĩ.
Chúng ta ghi nhận lời ngài và luôn luôn ghi nhớ gương sáng của ngài. Nhờ đoạn thư hôm nay của ngài, chúng ta hiểu Cựu Ước và Tân Ước hơn khi những sách này nói đến tư cách khó nghèo của những người được Chúa chọn. Nhất là nhờ giáo huấn của ngài bây giờ chúng ta biết đi vào thánh lễ với những tâm tình chân thật.
Ðây không phải là lễ dâng bề ngoài, vì có thể nói bề ngoài chẳng có gì đáng kể. Chúng ta đây là những người dâng lễ cũng chẳng công chính gì. Chúng ta giống người thu thuế trong bài Tin Mừng hơn là giống người biệt phái. Chúng ta đến đây không phải chỉ để cầu xin lòng thương xót Chúa.
Hơn nữa, chúng ta còn muốn tham dự vào hành vi khó nghèo của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thánh giá. Chúng ta muốn được sự sống của Người để trong đời sống chúng ta học với Người mà ở hiền lành khiêm nhường... Không những chúng ta sẽ đẹp lòng Chúa mà còn giúp ích được cho đời. Ðó là điều chúng ta cầu nguyện cho nhau hôm nay trong thánh lễ này.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) ------------------------------------
Được Nên Công Chính Lc 18:9-14: 9 Với những kẻ tự tín rằng mình là công chính và khinh miệt người khác, Ngài nói ví dụ này: 10 "Hai người lên Ðền thờ cầu nguyện, một người là Biệt phái, và người kia là một người thu thuế. 11 Người Biệt phái đứng sững mà cầu nguyện nơi mình thế này: "Lạy Thiên Chúa, tôi đội ơn Người, vì tôi không phải như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia. 12 Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần, tôi nộp thuế thập phân về hết mọi vật tôi mua". 13 Còn người thu thuế đứng lẻn đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, nhưng đấm ngực mà rằng: "Lạy Thiên Chúa, Xin khấng thương tôi là đứa tội lỗi!" 14 Ta bảo các ngươi: Người này xuống về nhà thì đã được giải án tuyên công, khác với người kia! Vì phàm kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên".
Trong văn mạch chung bàn về việc lại đến của Con Người, dụ ngôn người Pharisêô và người thu thuế TN 30-C121
Trong văn mạch chung bàn về việc lại đến của Con Người, dụ ngôn người Pharisêô và người thu thuế không bàn đến sự kiên trì cầu nguyện như đoạn trước nữa (18:1-8), mặc dù có nói đến sự cầu nguyện của người thu thuế (18:13), mà thái độ nội tâm phải có để có thể đến với Thiên Chúa khi Nước của Người đến. Điều nầy liên kết đoạn nầy với đoạn kế tiếp, nói đến việc Chúa Giêsu muốn các trẻ nhỏ đến gần Người (18:15-17). Đoạn nầy được phân chia như sau: - Dẫn vào dụ ngôn và mục đích (c. 9); - Câu chuyện của người Pharisêô và thu thuế (c. 10-13); - Kết luận (c. 14). Chủ đề chính của đoạn là bàn về sự công chính (c. 9.11.14). Chữ “dikaios” “dikaioō” đóng khung đoạn nầy. Dụ ngôn trình bày hình ảnh của người Pharisêô tự cho mình không thuộc hạng những người bất chính, và người thu thuế nhìn nhận mình là người tội lỗi. Tuy nhiên, cuối cùng Chúa Giêsu cho thấy ai sẽ được Người tuyên bố là công chính.
Dẫn vào dụ ngôn và mục đích (c. 9)
Chúa Giêsu tiếp tục kể dụ ngôn, và lý do của dụ ngôn được nêu ra ngay từ đầu (x. 18:1; 19:11) là “nhắm vào”, pros, (x. 20:19) những người “tự tin là mình công chính và khinh miệt những người còn lại”. Đối tượng của dụ ngôn, được xác định và hạn chế, ám chỉ những người Pharisêô (x. 16:14-15). Một đàng họ lấy sự công chính như là nền tảng cho họ để tin vào chính mình; “hoti” dịch là “bởi vì”, sự công chính được xem như là sự kiện. Sự “công chính” nầy sẽ được hiểu như thế nào, và sẽ được kể ra trong lời của người Pharisêô (18:11-12). Động từ peithō, từ gốc có nghĩa là “buộc vào”. Động từ nầy, có epi theo sau, có nghĩa là “lệ thuộc”. Những người được nói đây lệ thuộc hay buộc mình vào chính bản thân họ, dựa trên sự công chính của họ. Khác với người thu thuế, dựa vào Thiên Chúa. Đàng khác, họ “khinh miệt những người còn lại” (c. 9b). Động từ “exoutheneō”, có nghĩa rất mạnh là “khinh miệt”, là xem người khác không ra chi, chế nhạo họ (x. 23:11) và loại bỏ họ (x. Cv 4;11). “Loipos”, những người còn lại. Như thế, dựa trên sự công chính, những người nầy đặt mình tách ra khỏi “những người còn lại”, và khinh miệt họ.
Dụ ngôn người Pharisêô và người thu thuế
Các câu 10-13 trình bày câu chuyện, ngắn gọn, đối xứng mà không cân bằng. Sau ghi nhận sự kiện chung là cả hai người lên đền thờ cầu nguyện (c. 10), Luca dành hai câu trình bày thái độ và những gì người Pharisêô nói về chính mình (cc. 11-12); trong khi về người thu thuế chỉ trong một câu (c. 13). Trái lại, trong câu kết luận, Luca chú tâm nhiều hơn trên người thu thuế (c. 14). Mục đích lên đền thờ là để cầu nguyện (x. 1:10; 2:37; Cv 3:1). Hành trình ngược lại là về nhà (c. 14a). Đền thờ là nơi dành cho mọi người đến để cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa (2:27); nên không có phân biệt nào cả giữa hai người “một người là… người kia là”; họ chỉ khác nhau ở cuối dụ ngôn (c. 14). Tuy nhiên, đền thờ là nơi có tính xã hội, người Pharisêô cũng muốn tỏ vai trò và quyền hành của họ (x. 20:1); ở đây sự công chính của họ.
Người Pharisêô (cc. 11-12)
Về mỗi người, Luca trình bày tư thế khi cầu nguyện, thái độ và nội dung lời cầu nguyện của họ. Người Pharisêô đứng, histēmi. Động từ nầy chắn hẳn ám chỉ tư thế đứng thẳng, hướng về người đang đối thoại (x. 19:8). Đứng cầu nguyện là tư thế thường thấy giữa người do thái (1 Sam 1:26; 1 V 8:14, 22; Mt 6:5; Mc 11:25). Vì người thu thuế “đứng đàng xa” trong đền thờ, có nghĩa là người Pharisêô đứng phía trước. Khi cầu nguyện, ông kể lể rất dài (động từ ở thể quá khứ chưa hoàn thành). Ở đây có một khó khăn về bản văn: nếu pros heauton (c. 11a) đi theo động từ “đứng”, nó nghĩa là người Pharisêô “đứng riêng”, so sánh với người thu thuế đứng “đàng xa”. Nếu pros heauton đi theo động từ “cầu nguyện”, có nghĩa là người Pharisêô “tự nói với chính mình”. Tuy nhiên, điểm chung trong cả hai trường hợp là người Pharisêô tách mình ra khỏi người khác và cả Thiên Chúa nữa.
Người Pharisêô nói về đời sống đạo đức của mình. Ho Theos, ở thể nominative được hiểu như vocative “Lạy Chúa!”. Ông tạ ơn về những điều đang diễn ra trong đời sống của ông (động từ “tạ ơn” ở thì hiện tại). Dẫn vào danh sách đầu tiên (c. 11b), ông đặt mình tách khỏi số “những người còn lại”, loipoi (cc. 9.11). Ông không “giống như” họ, hay không “như” người thu thuế. “Những người còn lại” nầy như thể đều bị xem là trộm cắp, bất chính, ngoại tình; người thu thuế là thí dụ điển hình cho những người như thế. Sự phân biệt của ông phản ánh suy nghĩ của người thời đó về những người nầy (5:29-30; 7:34; 15:1). Trong danh sách thứ hai (c. 12), ông liệt kê những việc đạo đức cá nhân đang làm để chứng minh ông “không giống như” những người khác. Cả hai động từ “ăn chay” và “đóng góp” đều ở thì hiện tại. Ông đưa ra hai việc tiêu biểu mà người Pharisêô thường làm và hãnh diện về những việc đó: ăn chay (x. 5:33; Mt 9:14); đóng góp cho đền thờ (11:42; Mt 23:23). Sabbaton, ở đây hiểu là một “tuần lễ”, chứ không phải là ngày sabbát, khó có thể hiểu là ăn chay hai lần trong một ngày sabbát. Những điều người Pharisêô kể ra đây thuộc về luật buộc chung. Người nầy hãnh diện vì ông chu toàn tất cả và xem đó như công nghiệp của ông.
Người thu thuế (c. 13)
Tư thế, thái độ và lời cầu nguyện của người nầy khác hẳn với người Pharisêô. “Đứng đàng xa” không chỉ xác định khoảng cách không gian, mà còn cho thấy nơi của người đang đứng đó không phải là chỗ chính và quan trọng. Người phú hộ trong âm phủ (16:23), Phêrô ngoài dinh thượng tế (22:54), những người biết Chúa và các phụ nữ xa nơi Chúa chịu treo trên thánh giá (23:49). Như thế, vị trí “đằng xa” của người thu thuế chắc chắn không phải là ở phần chính trong đền thờ như vị trí người Pharisêô đang đứng. Ông “không muốn ngay cả ngước mắt lên trời”. Luca dùng từ phủ định “ouk…oude” để nhấn mạnh ước muốn của ông. “Ngước mắt lên trời” là để nhìn thấy phúc lành (6:22); ơn cứu độ (16:23; 21:28) và vinh quang của Thiên Chúa (Cv 1:9). Người thu thuế từ chối cách quyết liệt điều nầy vì biết mình không xứng đáng chút nào trước mặt Thiên Chúa. Hành vi “đấm ngực” là dấu hiệu tang chế (x. 8:52), hay thống hối (23:48). Giống như người Pharisêô, người thu thuế kêu cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa! ”, nhưng nội dung khác hẳn “Xin tỏ lòng khoan nhân với tôi, một người tội lỗi”. Động từ “hilaskomai” có nghĩa là “nguôi giận” “giao hòa với ai”. Khi ở thể thụ động, động từ có nghĩa là “tỏ ra quảng đại”, “tỏ lòng thương xót”. Thiên Chúa thường là chủ ngữ của hành động nầy. Người thu thuế xin Thiên Chúa tỏ lòng khoan nhân đối với ông và tha thứ cho ông là người tội lỗi. Tiếng kêu cầu nầy vọng lại lời cầu xin của các hối nhân trong các Thánh vịnh (24:11; 79:9). Như thế, người thu thuế vừa nhận biết Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, vừa nhận biết mình tội lỗi, nên ông đã có thái độ và hành động xứng hợp; đồng thời đã tìm kiếm lòng thương xót chữa lành và giao hoà từ nơi Người.
Kết luận (c. 14) mở đầu với lời “Tôi nói với các ông” (7:26.28; 11:8; 12:5, …) để nhấn mạnh uy quyền trong dạy dỗ và phán quyết của Chúa Giêsu. Người thu thuế bây giờ được đặt lên trước. Ông được Chúa Giêsu tuyên bố là “được nên ông chính”, trong khi người Pharisêô xem là người tiêu biểu cho hạng người bất chính (c. 11). Còn người Pharisêô tự xem mình là người “công chính” (c.1), không được kể là công chính trước mặt Thiên Chúa; họ có thể được xem là công chính trước mặt con người (x. 16:15). Phần thứ hai của câu kết luận (c. 14b), lập lại câu kết của trình thuật 14:8-11. Áp dụng của nó có khác đi. Luca xem người Pharisêô đã nâng mình lên trước mặt Thiên Chúa, khi ông kể ra những điều ông đã tuân giữ theo lề luật. Ông xem đó là sự công chính của riêng ông, và không cần gì đến Thiên Chúa cả! Trong khi người thu thuế được xem là người hạ mình trước mặt Thiên Chúa, vì ông đã thống hối và cầu xin Thiên Chúa làm cho ông nên công chính.
Điều Thiên Chúa cần nơi con người là lòng thống hối để được Người làm cho nên công chính. Việc tuân giữ lề luật không làm cho con người nên công chính khi không nhận biết Đấng Công Chính và nhận sự thánh hoá từ nơi Người. Không dừng lại ở lề luật và cho mình là công chính vì đã tuân giữ chúng. Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 18:9-14)
Thánh Lu-ca nói với chúng ta là Chúa Giê-su kể dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, nhưng TN 30-C122
Thánh Lu-ca nói với chúng ta là Chúa Giê-su kể dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, nhưng hầu như chúng ta đều nghĩ rằng đây không phải là dụ ngôn mà là câu truyện có thực. Hai mẫu người cầu nguyện đã cho chúng ta một bài học thực tế về tâm tình cần phải có khi chúng ta cầu nguyện, đó là cầu nguyện với lòng khiêm nhường. Nếu “đừng nản chí” là điều phải có khi cầu nguyện (Lu-ca 18:1) thì “hạ mình xuống” cũng là điều không thể thiếu vắng.
Cầu nguyện với thái độ “tôn mình lên” được diễn tả qua cung cách người Pha-ri-sêu cầu nguyện trong Đền Thờ. Đối với ông, cầu nguyện là phương tiện để ông phô trương công đức của mình, hoặc một cách để ông ngầm nói với Chúa rằng: “Thưa Chúa, Ngài thấy rõ tôi đã làm những việc lành và sống tốt như thế đấy. Vậy Chúa phải cho tôi được nên công chính, vì tôi xứng đáng!” Khi ấy, việc được nên công chính đã trở thành một thứ quyền lợi người Pha-ri-sêu đòi hỏi, chứ không phải là một ân huệ nhưng không do Chúa ban!
Trái lại, cầu nguyện với thái độ “hạ mình xuống” của người thu thuế đơn thuần biểu lộ thực tại rõ ràng, đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của người thu thuế ngắn gọn đơn sơ, nhưng lại chứa đựng rất nhiều. Nó nói lên được mọi chiều kích của mối tương quan giữa Chúa và chúng ta. Một đàng nó tuyên dương tình yêu của Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (Ê-phê-xô 2:4; Thánh Vịnh 103:17) sẽ nâng cao kẻ khiêm nhường (Gióp 12:19). Đàng khác nó nói lên thân phận tội lỗi, bất xứng của chúng ta trước nhan Chúa và sự tin tưởng phó thác của chúng ta vào lòng thương xót của Người. Mối tương quan giữa người Cha nhân từ với đứa con nhân loại dễ thương và đáng thương chẳng phải là hình ảnh và lý tưởng Chúa Giê-su muốn rao giảng và cổ võ trong suốt cuộc đời dương thế của Người đó sao? Sống theo mối tương quan ấy tức là chúng ta cầu nguyện rồi!
Mục đích của cầu nguyện không hẳn chỉ là xin ơn, mà nhất là để “được nên công chính”. Được nên công chính có nghĩa là bắt đầu đi từ trạng thái tội lỗi và thù nghịch với Thiên Chúa để tiến mãi mỗi ngày một hơn trong hành trình làm con cái Chúa. Tuy Chúa Giê-su đã chết trên thập giá để biến đổi thân phận chúng ta thành con cái Chúa, nhưng chúng ta vẫn phải “cầu nguyện”, tức là phải tiếp tục sống mối tương quan làm con cái với Chúa thì chúng ta mới được cứu độ. Muốn cầu nguyện hữu hiệu, chúng ta không thể không “hạ mình xuống” trước mặt Chúa để xin Người thương xót.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hôm nay Chúa Giê-su giúp chúng ta khám phá một khía cạnh tuyệt vời khác của việc cầu nguyện: cầu nguyện với lòng khiêm nhường, hay nói khác đi, cầu nguyện như chúng ta là ai và Chúa là Đấng nào. Nếu chỉ cầu nguyện để xin ơn, chúng ta sẽ dễ dàng thất vọng chán nản vì nhiều khi không được như ý mình muốn. Nhưng nếu cầu nguyện để phát triển lòng yêu mến Chúa và tín thác nơi quyền năng quan phòng của Đấng chúng ta gọi là Cha trên trời, chúng ta sẽ chẳng bao giờ chán cầu nguyện cả.
Cầu nguyện không những đem chúng ta đến gần Chúa hơn mà còn gần với anh chị em nữa. “Chúa Giê-su kể dụ ngôn này cho một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác”. Vậy chúng ta hãy tự hỏi mình có ở trong số những người tự hào ấy không? Có khi nào chúng ta ý thức cầu nguyện giúp chúng ta nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa, đồng thời cũng mang cùng một thân phận tội lỗi với anh chị em không?
Chúng ta đang sống giữa một thế giới mà con người đang cạnh tranh nhau về chỗ đứng và quyền TN 30-C123
Chúng ta đang sống giữa một thế giới mà con người đang cạnh tranh nhau về chỗ đứng và quyền lực. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Muốn mình giàu có hơn, tài giỏi hơn, quyền thế hơn và nổi nang hơn. Nhiều khi chẳng giỏi hay không giàu nhưng vẫn tỏ ra và tự cao tự đại cho mình hơn người, khoa trương, đánh bóng và thổi phồng sự thật. Đó là thói kiêu căng tự mãn ở đời! Dù thế, người ta chẳng ưa thích gì những kẻ kiêu ngạo nhưng lại dễ mến người khiêm nhường và dễ gần người hiền lành biết mình, như câu chuyện trong sách Trang Tử thuật cho chúng ta về hai nàng hầu:
Nhà kia nơi nước Tống có hai nàng hầu, một đẹp một xấu. Một hôm Dương Chu đến trọ, quan sát và nhận thấy trong nhà ai cũng quí yêu nàng hầu xấu mà khinh thường nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu gọi hỏi cậu bé trong nhà, cậu ta trả lời:
– Nàng hầu đẹp kia tự cho mình là đẹp và khinh chê nàng hầu xấu nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy nét đẹp của nàng nữa! Còn nàng hầu xấu tự biết mình là xấu mà khiêm nhu kính trọng mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng.
Dương Chu liền gọi môn sinh đến và dặn: Các con nhớ ghi lấy bài học này. Giỏi hay đẹp mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi và đẹp thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu mến, tôn trọng.
Cũng vậy, trong Tin Mừng hôm nay, nhân việc Chúa Giêsu thấy “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác”, Người đã dạy chúng ta bài học khiêm nhường qua dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế.
Hai người cùng lên đền thờ và dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện cá nhân. Người Pharisiêu nhìn mình, nhìn những công trạng, những việc làm của mình và tự mãn. Anh ta chỉ thấy đó là công sức của mình và cho là đã đủ, đã tốt. Anh ta như chiếc bình đầy kiêu ngạo do thổi phồng mình lên! Còn người thu thuế nhìn mình, thấy mình tội lỗi, bất xứng! Anh không dám ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa nhưng chỉ biết đấm ngực thống hối. Anh như chiếc bình rỗng, chỉ chờ mong ân huệ và lòng xót thương của Chúa tuôn đổ vào để tha thứ và thánh hóa anh nên công chính. Anh cầu nguyện với lòng thành khẩn “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, như người khó nghèo cầu nguyện trong cơn quẫn bách “Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con, vì thân con nghèo hèn túng quẫn.”(Tv 85,1).
Thiên Chúa lắng tai nghe lời của kẻ nghèo hèn dâng lên Ngài với lòng khiêm nhượng, nhìn nhận, và xưng thú tội lỗi của mình, vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.”(Gc 4,6) Thiên Chúa-Đấng giàu lòng thương xót chỉ lắng tai nghe lời kẻ cầu khẩn lòng thương xót. Ngài không nghe những lời của kẻ nâng mình lên, tự phụ, cậy sức mình, nghĩ mình chẳng còn thiếu những việc tốt lành nào mà không làm.
Người Pharisiêu đã thực hiện những việc đạo đức, ăn chay, dâng cúng vào nhà thờ hay không làm điều xấu. Điều đó thật tốt và đáng noi theo. Thế nhưng, anh ta tự cho mình là công chính nhờ những việc anh ta làm, kể lể trước Thiên Chúa và so sánh, khinh chê người khác không tốt như mình “Tạ ơn Chúa vì con không như tên thu thuế kia…” Người ta được nên công chính không phải do việc làm mà do lòng tin và ân sủng của Chúa, như lời thánh Phaolô nói “… Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.”(Rm 4,4-5)
Đứng trước Thiên Chúa, con người chúng ta chỉ là những tội nhân khốn khổ nghèo hèn. Ta phải biết chân nhận thân phận con người đầy bất toàn, giới hạn và yếu đuối. Ta làm được gì cũng là nhờ ân sủng và sức mạnh từ Chúa, như lời thánh Phaolô khẳng định: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7) Vì thế, như anh thu thuế, chúng ta hãy biết nhìn nhận con người thật của mình, cầu nguyện với lòng khiêm nhường sám hối, cậy dựa vào lòng thương xót và kho tàng ân sủng của Thiên Chúa “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây… cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn” (Hc 35,17-18) Chắc chắn lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta sẽ được Chúa lắng nghe và nhậm lời, vì Người thấu suốt những đau khổ nơi tâm hồn ta.
Qua dụ ngôn này, chắc hẳn Chúa rất muốn nói với chính chúng ta, cả những mục tử và từng Kitô hữu trong Hội Thánh. Thiên Chúa, Đấng Cao Cả, Chí Thánh; đến trước Ngài, chúng ta trần trụi, ô nhơ nên thái độ khiêm nhường và đấm ngực xưng thú tội lỗi phải là thái độ của mỗi Kitô hữu. Trong cầu nguyện hay nơi cuộc sống, người công chính thật thì chẳng bao giờ khoe khoang, nâng mình lên và chê bai người khác. Người thánh thiện thật thì mọi cử chỉ, lời nói, hành động đều mang đậm nét khiêm tốn, tôn trọng và nâng người khác lên. Trái lại, trong đời sống cộng đoàn giáo xứ, chúng ta thường thấy có những người mãi không lọt tai lời khiển trách nặng nề của Chúa với người Pharisiêu. Họ phô trương ngay cả những thực hành đạo đức như dâng lễ, cầu nguyện, ăn chay, bố thí… trước mặt thiên hạ. Họ chê bai người khác như để đạp lên người cho mình cao hơn.
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Ước mong sao Lời Chúa hôm nay thấm đẫm trong mỗi chúng ta. Xin Tình yêu và ân sủng Chúa biến đổi chúng ta trở nên khiêm nhường, giúp chúng ta thật lòng thống hối về tất cả những lỗi phạm, kiêu căng tự phụ trong đời sống đạo, để rồi ta biết sống khiêm hạ trước Chúa và anh chị em. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha và ngày càng nên giống Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện. Lạy Thiên Chúa, chúng con đang ở trước nhan Ngài, xin giúp chúng con nhận biết những yếu hèn và tội lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Chúa Cha, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Kitô, Chúa đã mặc lấy xác phàm để cảm thấu thân phận mỏng dòn của chúng con, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng sự dữ và tử thần, xin thương xót chúng con!
Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng và mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường là như TN 30-C124
Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng và mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường là như thế, nhưng thực sự nhiều khi lại không phải như thế, bằng chứng là có lần chúng ta cầu nguyện thì được như ý, nhưng cũng không thiếu những lần chúng ta cầu nguyện hoài mà chưa được hay không được. Cũng vậy, có người cầu nguyện thì được Chúa nhận lời, có người thì không. Tại sao vậy? Có phải chúng ta thiếu điều kiện nào chăng? Đúng vậy, một trong những yếu tố hay điều kiện quan trọng, đó là thái độ và tâm tình thích hợp. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và tâm tình thích hợp cần có, đó là khiêm tốn, khiêm nhường.
Để hiểu biết sức mạnh của khiêm nhường, chúng ta hãy tưởng tượng hay hình dung hai cỗ xe: một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa là nhân đức và kiêu ngạo, còn cỗ xe kia được kéo bởi hai con ngựa là tội lỗi và khiêm nhường. Cả hai xe cùng chạy, nhưng chẳng bao lâu cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nhân đức. Tại sao vậy? Chắc chắn không phải do khả năng của chính nó, tức là tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khiêm nhường cùng đi chung với nó. Còn cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải vì nhân đức yếu đuối mà vì sự kiêu ngạo quá nặng nề và to lớn. Điều ấy bảo cho chúng ta biết: đức khiêm nhường, nhờ cố gắng vươn lên, đã thắng được sức cản của tội lỗi, và lên đến trời trước nhất, còn kiêu ngạo, vì nặng nề và to lớn, nên át cả sự nhanh nhẹn của nhân đức, và dễ dàng kéo nó xuống sâu.
Về hai cỗ xe này, chúng ta đem áp dụng vào hai người Pha-ri-sêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chúng ta sẽ thấy rõ: người Pha-ri-sêu đã cột chung nhân đức với kiêu ngạo: ông đứng thẳng một cách hiên ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, và mắt có lẽ liếc nhìn người thu thuế một cách khinh bỉ và hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Ông cầu nguyện gì? Ông không cầu gì cả, ông kể công với Chúa, ông tự mãn về những gì ông đã làm, ông lên đền thờ để khoe mình chứ không phải để cầu xin với Chúa, nên lời cầu nguyện của ông chẳng những không đưa ông tới gần Chúa mà còn làm cho ông xa Chúa hơn và làm cho Chúa buồn hơn.
Trái lại, người thu thuế đã cột chung tội lỗi với khiêm nhường: ông khép nép, khúm núm, đứng mãi đàng xa, không dám đến gần bàn thờ, cũng chẳng dám ngước mắt lên trời, tức là ông tự nhận mình bất xứng, chỉ biết cúi đầu, đấm ngực tỏ lòng ăn năn sám hối. Còn về lời cầu nguyện, ông nói với Chúa chứ không nói về mình, ông chẳng có gì hay để kể cho Chúa nghe, chẳng có công gì để khoe với Chúa và cũng chẳng dám xin gì khác ngoài lòng thương xót của Chúa.
Qua đó, chúng ta thấy tại sao cả hai người cùng cầu nguyện, nhưng chỉ có một người đẹp lòng Chúa, được Chúa tha thứ ban ơn, chỉ vì người ấy khiêm nhường, tin tưởng, cậy trông vào tình thương của Chúa, còn người kia tự mãn về những gì ông làm thì ông trở về với những gì ông đã làm, Chúa không ban gì cho ông. Nói rõ hơn, người thu thuế về nhà được công chính hóa, còn người Pha-ri-sêu thì không, đó là kết quả tất yếu: người Pha-ri-sêu đâu có cần đến Chúa, đâu cần Chúa công chính hóa, ông tưởng rằng tự ông có thể mua được sự công chính bằng công trạng của mình, ông đã lầm to, vì được trở nên công chính hay không là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho người biết khiêm nhường như người thu thuế đã làm, là ý thức rõ cái tôi tội lỗi, hèn kém, bất lực của mình, thái độ đó Thiên Chúa rất vui lòng, rất đẹp lòng Thiên Chúa.
Từ hai nhân vật tiêu biểu về khiêm nhường và kiêu ngạo, được xác định bằng thái độ của họ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em, Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ đựơc tôn lên”. Ai hạ xuống? ai tôn lên? Thưa chính Thiên Chúa. Kẻ tự tôn mình lên thì Thiên Chúa hạ xuống, kẻ tự hạ mình xuống thì Thiên Chúa tôn lên. Đó là lối hành động của Thiên Chúa, đó là cách Thiên Chúa trả lời cho kẻ tự đắc, kẻ cho mình là công chính và khinh chê những người khác. Bởi vì chẳng ai có thể tự đắc trước mặt Thiên Chúa, chẳng ai có gì để kể công với Người. Tình thương của Thiên Chúa là tình thương nhưng không, ai xin thì được, còn ai tự cho mình là có quyền đòi thì Thiên Chúa không cho. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, tất cả đều nghèo hèn, cần đến lòng thương xót của Người.
Chúng ta là người Pha-ri-sêu hay người thu thuế? Chắc chắn không ai nhận mình là người Pha-ri-sêu, nhưng chưa chắc đã nhận mình là người thu thuế. Đúng, chúng ta không tự nhận là người Pha-ri-sêu, dù có khi chúng ta còn tệ hơn người Pha-ri-sêu, nhưng chúng ta có dám bắt chước người thu thuế không?
Chúng ta có thể sánh ví việc cầu nguyện của chúng ta cũng giống như chiếc cầu mong manh dẫn chúng ta tới Chúa. Khi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm ván hay những khúc cây mong manh, chúng ta phải hết sức cầm trí và ý tứ cẩn thận thế nào, thì khi cầu nguyện chúng ta cũng phải cầm trí và cẩn thận như vậy, tức là chúng ta phải có thái độ khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông.
Cầu nguyện và Tin luôn gắn liền với nhau: vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ TN 30-C125
Cầu nguyện và Tin luôn gắn liền với nhau: vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ cầu nguyện nên đức tin của chúng ta được củng cố thêm. Bởi thế Chúa Giêsu dạy các tín hữu Ngài phải cầu nguyện luôn, nghĩa là không chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện gì khó khăn, mà phải cầu nguyện trong mọi lúc.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa dạy chúng ta biết cầu nguyện và giúp chúng ta cầu nguyện luôn, để đức tin của chúng ta ngày càng thêm vững mạnh.
Gợi ý sám hối
Chúng ta thường mải mê với công việc mà lười biếng cầu nguyện.
Tuy chúng ta có cầu nguyện nhưng chúng ta không cầu nguyện cách kiên trì.
Nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà trong lòng không mấy tin tưởng vào Chúa.
Lời Chúa
Bài đọc I (Xh 17, 8-13)
Chuyện này kể về thời dân Do Thái đang tiến vào Đất Hứa. Họ phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Đoạn này thuật cuộc giao chiến với quân Amaléc:
Môsê giao cho ông Giôsuê dẫn quân đi giao chiến. Phần ông thì ở trên núi giang tay cầu nguyện.
Khi nào Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Israel thắng thế; ngược lại khi Môsê mỏi mệt quá bỏ tay xuống thì quân Israel thua. Người ta mới lấy một tảng đá kê cho Môsê ngồi, lại cử thêm hai người giúp Môsê nâng tay lên. Nhờ đó Môsê có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ, và kết quả là Israel đã toàn thắng.
Chuyện này muốn nói rằng chiến thắng không phải do sức mạnh của quân Israel, mà nhờ sự phù hộ của Chúa do lời cầu nguyện của Môsê.
Đáp ca (Tv 120)
Thánh vịnh này tiếp nối ý tưởng của bài đọc I: “Ơn phù trợ tôi bởi nơi nao? Ơn phù trợ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”
Tin Mừng (Lc 18, 1-8)
Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy “các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Dụ ngôn có hai vai:
bà góa: trong xã hội Do Thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy đến kêu cứu với thẩm phán.
thẩm phán: lẽ ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
* Bài học: một người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.
Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng: “Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”.
Bài đọc II (2 Tm 3, 14–4, 2) (Chủ đề phụ)
Phaolô biết rằng mình sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho môn đệ mình là Timôtêô để khuyên ông này giữ vững những gì đã học được từ Sách Thánh.
Gợi ý giảng
* 1. Vai trò của cầu nguyện
Không ai có thể sống đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.
Có 3 người bị kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này?
– Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
– Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
– Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.
Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.
Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Trên đây là 3 thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện:
– Người thứ nhất coi cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được?
– Người thứ hai coi cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.
– Người thứ ba tin tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.
* 2. Cầu nguyện luôn
Đoạn Tin Mừng hôm nay bắt đầu như sau: “Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện sau đây là câu trả lời cho những người ấy.
Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v. v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.
Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật: “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi”.
Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì:
Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.
Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.
Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.
Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.
Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.
* 3. Hai tư thế cầu nguyện
Hồi còn bé, chúng ta được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chấp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy. (FM)
* 4. Cầu thay nguyện giúp
Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 30O đồng nhé”.
Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.
Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!”
***
Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.
Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.
Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.
Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.
Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.
***
Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen. (Thiên Phúc)
Mảnh suy tư
a/ Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin Hoa trái của đức tin là tình yêu Hoa trái của tình yêu là phục vụ Và hoa trái của phục vụ là bình an.
b/ Lời cầu nguyện của ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình.
– Lời cầu nguyện của bệnh nhân được đáp lời, không phải khi anh khỏi bệnh, mà khi anh cảm nhận được Chúa vẫn ở cạnh mình, nhờ đó anh ý thức rằng cơn bệnh không phải là hình phạt của Chúa, cũng không phải là dấu Chúa đã bỏ anh.
– Có thể sự cầu nguyện không thay đổi thế giới, nhưng nó giúp ta có thể trực diện với thế giới.
c/ Hồi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy cầu nguyện bằng cách đọc kinh. Bây giờ đã lớn, chúng ta hãy học cầu nguyện bằng cách mở rộng cõi lòng ra cho Chúa. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trải qua bao thế hệ, Đức Kitô đã muốn cho Hội thánh, nhiệm thể của Người, phải không ngừng tiếp tục đời sống cầu nguyện và lễ tế hy sinh mà Người đã khởi sự khi còn sống ở trần gian. Với quyết tâm tuân giữ lệnh truyền của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
Ngay từ đầu / các tín hữu đã chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy / luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu ngày nay / biết noi gương các tín hữu ngày xưa mà siêng năng nguyện cầu.
Khiêm tốn và kiên trì khi cầu nguyện / là điều mà bài Tin mừng hôm nay muốn nói với tất cả mọi Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết khiêm tốn dâng lên Chúa lời cầu khẩn thiết tha của mình.
Hội thánh kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện theo lối các Giờ Kinh Phụng vụ / kể cả những người mà luật không buộc phải cử hành Thần vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết sốt sắng tham dự các Giờ Kinh Phụng vụ / vì đây là một trong những phương tiện giúp chúng ta nên thánh.
Lời kinh tuyệt vời Chúa Giêsu đã để lại cho người Kitô hữu là kinh Lạy cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vừa đọc vừa suy niệm / và sống tinh thần của lời kinh quan trọng nhất / trong đời sống đức tin của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con: Phải cầu nguyện luôn và không bao giờ được chán nản. Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết triệt để thực thi lệnh truyền của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Không lời cầu nguyện nào tuyệt vời bằng lời cầu nguyện chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài cầu nguyện bằng những lời Ngài dạy.
Giải tán
Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu dạy “Hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ nản chí”. Chúc anh chị em được bình an nhờ làm theo lời Chúa dạy.
Trang Tin Mừng hôm nay gợi ý để ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của TN 30-C126
Trang Tin Mừng hôm nay gợi ý để ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.
Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.
Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.
Lời cầu nguyện của ông biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, cùng với những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông thường làm. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ xá tội, nộp 1/10 lợi tức cho đền thờ, mà hơn thế nữa, ông còn tự nguyện làm những việc đó ở một mức độ cao. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, mà chỉ luôn tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy vẻ tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình tạ ơn của ông, bởi vì tâm tình tạ ơn thực sự bao giời cũng gắn liền với sự khiêm tốn.
Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: “Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình…” Đó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.
Người Pharisêu đến đền thánh, không phải để cầu nguyện nhưng để khoe khoang, để cho Chúa biết ông ta tốt chừng nào, để cổ võ chính hình ảnh của ông. Lời cầu nguyện của ông đầy những chữ “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đó là “tự kỷ trung tâm” (tự cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ), thay vì đặt để Thiên Chúa làm trung tâm điểm.
Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Lời cầu nguyện của người Pharisêu nhằm đề cao “cái tôi”, trong khi lời cầu nguyện của người thu thuế nhắm đến “Thiên Chúa”. Người Pharisêu nói: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình…” (Lc 18, 11). “Tôi!” Còn người thu thuế chỉ nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13). “Chúa!”
Trong khi đó, anh thu thuế lên đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là kẻ tội lỗi. Anh đặt mình trước tôn nhan Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Chúa tha thứ và được hoà giải với anh em. Anh chỉ dám đứng xa xa vì thấy mình bất xứng.
Người thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.
Người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ nên anh đã được Thiên Chúa thứ tha.
Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Từ hai hình ảnh trên chúng ta thấy: Ông biệt phái đi gặp Chúa vì ông cảm thấy mình có thế giá nhiều hơn những người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức và nghiệm nhặt. Ông đi gặp Chúa với một kho tàng công nghiệp to lớn của riêng ông. Thế nhưng cái kho tàng đó quá lớn đến độ đã ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa, mà chỉ còn thấy có chính mình ông. Có quá nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông: Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này người khác… Rốt cuộc, ông lại là người quay vào mình, khép lại trên chính mình, mặc dù môi miệng ông đã kêu lên: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh người biệt phái: đứng, còn người thu thuế: quì gối khi họ cầu nguyện mà có người cho đó là kiêu ngạo và khiêm nhường. Thực ra đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Người khác nữa khi nghe lời cầu nguyện của người biệt phái chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Vậy, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh biệt phái.
Điều Thiên Chúa cần nơi con người là lòng thống hối để được Người làm cho nên công chính. Việc tuân giữ lề luật không làm cho con người nên công chính khi không nhận biết Đấng Công Chính và nhận sự thánh hoá từ nơi Người. Không dừng lại ở lề luật và cho mình là công chính vì đã tuân giữ chúng.
Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai TN 30-C127
Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa. Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa.
Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống các người khác, không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích. Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy.Thường người ta chỉ ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: Vì tôi không như bao người khác, tôi không như tên thu thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quảng đại nhưng lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình. Thật đúng, kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.
Người thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisiêu (hay như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy đầy niềm tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì anh biết rằng: dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính, Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa, anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.
Đức Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt phái thì không được…. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Người thu thuế ra về và được tha hết mọi tội, tâm hồn thành trắng trong.
Người biệt phái ra về tội lỗi vẫn cứ còn đó.Cái tôi nặng quá nên còn phải gánh thêm sức nặng của tội lỗi nữa, thật đáng thương cho đời một người quá tự kiêu tự mãn.
Tội lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn thói kiêu căng. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội lỗi và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa.
Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính.Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết điều tốt thành điều xấu. Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói: Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.
Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa. Sự triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ lại, là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.
Một Đấng Thánh vĩ đại như Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp hèn nhất (1Cor 15,9); một ngôi sao chói lọi trong công việc bác ái từ thiện như Thánh Vincent Phaolô mà cũng đã tự gọi mình là người thấp hèn nhất trần gian thì huống là chúng ta! Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống mới vào được mà thôi. Thiên Chúa luôn chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng luôn ban ơn cho kẻ khiêm nhường (x. Gc 4,6; 1Pr 5,5).
Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen(1770-1844)nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói: tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói: Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.
Đức Cha Fulton J. Sheen viết trong cuốn “Người Galilê vĩnh cửu”: Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng, nhưng Ngài giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Một số người quá tự mãn không hạ mình sẽ không thấy được niềm vui bên trong hang đá. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như thế, họ thấy mình không ở trong một cái hang, nhưng ở trong một thế giới khác. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng, và cánh tay ẵm Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất, nơi chúng ta đang sống. Và khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, tôi tự hỏi: không biết những người thông thái ghen với những người đơn sơ, hay những người đơn sơ ghen với những người thông thái? Tôi hướng tới xác tín rằng: các đạo sĩ ghen với các mục đồng, bởi vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người thu thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, anh hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Sách huấn ca dạy: “Lời cầu nguyện của người khiêm tốn xuyên thấu các tầng mây” (Hc 35,17). Sách giáo lý cũng dạy: “Khiêm tốn là thái độ căn bản phải có để đón nhận ơn cầu nguyện” (GLCG số 1559).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con có là gì mà chẳng do Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm để luôn được Chúa xót thương tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống một cuộc đời rất khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, xin cho chúng con biết sống quên mình, tự hạ, yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.
Chúng ta thường nghe câu định nghĩa quen thuộc: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Định TN 30-C128
Chúng ta thường nghe câu định nghĩa quen thuộc: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng nói lên bản chất và cách thức cầu nguyện.
Dĩ nhiên ở đây, việc “nâng tâm hồn lên” cần được hiểu sâu xa. “Nâng lên” có nghĩa là ý thức mình chỉ là một thụ tạo kém cỏi, thấp hèn, luôn sống trong trần thế, dễ bị ràng buộc vào những truyện “dưới đất”. Và như vậy, khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng vươn cao tâm hồn lên, vượt ra khỏi những gì thuộc hạ giới, tạm thời tách rời những liên quan nhân loại, để thiết lâp một liên quan có tính cách hướng thượng, cao hơn, xa hơn, thanh thoát hơn. Cũng chính vì thế, Chúa Giêsu thường tìm nơi vắng vẻ thanh tịnh để có những giờ phút hiệp thông với Cha Ngài. Thánh lễ, cùng với việc rước lễ, là một hiệp thông hoàn hảo nhất, nên trước khi bước vào phần phụng vụ Thánh Thể, chủ tế nói với ngững người dự lễ: “Anh chị em hãy nâng tâm hồn lên”.
Ở đây, yếu tố được nhấn mạnh không phải là những cử chỉ của thân thể, những âm thanh trong lời đọc hay tiếng hát, nhưng chính là trạng thái của tâm hồn. Hiểu như thế, nhiều khi chúng ta đọc kinh lớn tiếng, dang tay cao, mà vẫn không phải là cầu nguyện, vì lòng trí chúng ta chưa thực sự thoát khỏi những ràng buộc của lo toan trần thế. Do đó, lời cầu của chúng ta vẫn chưa tới Chúa, tâm hồn chúng ta vẫn chưa gặp được Ngài.
Trong cuốn “150 More Stories”, Jack Mac Ardle kể một câu truyện:
Một người chìm vào giấc mơ, thấy mình được nâng lên trời và gặp Chúa Giêsu. Chúa đưa anh đi nhiều chỗ khác nhau và sau cùng hai người dừng chân tại một thánh đường giữa lúc đang cử hành thánh lễ. Chàng thanh niên nhìn thấy các ca viên đang mở sách hát, nhưng không nghe thấy tiếng hát; thấy một người đang lướt các ngón tay trêm phím đàn nhưng không nghe thấy tiếng nhạc; thấy mọi ngượi đang mở miệng đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh phát ra từ miệng họ. Ngạc nhiên, anh ta hỏi Chúa Giêsu: tại sao chỉ thấy im lặng. Chúa trả lời: “Chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của họ, nếu họ thực sự cầu nguyện với tất cả tâm hồn mà thôi”
“Với tất cả tâm hồn” không chỉ được hiểu là hết sức lực, hết tâm trí, nhưng còn hiểu là cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, với lòng khiêm nhượng và tình bác ái.
Qua dụ ngôn hôm nay, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy: dù có đến nhà thờ, dù có giơ cao đôi tay hay lớn tiếng đọc kinh, nhưng không ý thức thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, trái lại, tự cao tự đại, coi thường anh chị em mình, thì hành động và lời nói của chúng ta chỉ trở thành vô ích, không bao giờ được Chúa lắng nghe và chấp nhận. Người thu thuế, vì ý thức mình tội lỗi, yếu hèn, cần đến ơn tha thứ, nên trong khi cầu nguyện, anh đã được Chúa nhận lời và thứ tha. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn.
Lạy Chúa, mỗi lần trước khi đến với Chúa, trước khi mở miệng cầu nguyện, chúng con xin Chúa hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi các ý nghĩ kiêu căng, ghen ghét, giận hờn và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc bận tâm trần thế.
Nhận thức là một quá trình bao gồm sự nhận biết (mức độ thấp) và sự hiểu biết (mức độ cao) TN 30-C129
Nhận thức là một quá trình bao gồm sự nhận biết (mức độ thấp) và sự hiểu biết (mức độ cao). Có nhận thức thức đúng đắn thì mới khả dĩ ý thức.
Có nhiều thứ cần nhận biết, nhưng khó nhất vẫn là nhận biết chính mình. Muốn nhận biết chính mình thì phải can đảm đối diện với chính mình. Nhưng cần nhận biết điều gì về bản thân? Cũng có nhiều thứ: sức mạnh, sức khỏe, điểm yếu (nhược điểm, sở đoản), điểm mạnh (yếu điểm, sở trường), tài năng, kiến thức, quan điểm, niềm tin, ước vọng, cảm xúc, bản năng, thói quen, tâm lý,…
Theo cách nhận thức riêng về cuộc đời, Allan Rufus ví von thú vị: “Cuộc đời như ổ bánh mì kẹp. Sinh ra là một lát bánh, và chết đi là lát bánh còn lại. Điều bạn kẹp vào giữa là tùy bạn. Ổ bánh mì của bạn thơm ngon hay chua cay?”. Đừng tự lừa dối, kẻ lừa bịp đáng sợ nhất là chính mình.
Và rồi chính Albert Einstein cũng đã từng thắc mắc: “A question that sometimes drives me hazy: am I or are the others crazy? – Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi cảm thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?”. Cuộc đời luôn là một ẩn số, không có cách lý giải chuẩn xác. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại, đúng như Agatha Christie nhận xét: “Chính điều bên trong con người của bạn làm cho bạn hạnh phúc hay bất hạnh”.
Thật chí lý khi người ta nói “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Từ ánh mắt của ai đó, người khác có thể nhận thấy người đó có sức mạnh, uy tín, đáng tin hay khả nghi,… Người ta sợ nhau từ ánh mắt. Thật vậy, khi hai người nhìn nhau, ai yếu bóng vía sẽ tự cảm thấy mình “lép vế” ngay. Dám nhìn thẳng vấn đề là một thế mạnh của người quân tử.
Cuộc đời vốn dĩ là bể khổ, tất nhiên liên quan nước mắt. Nước mắt của nhà giàu và nhà nghèo giống nhau về vị mặn, nhưng khác nhau xa về tính chất và nguyên nhân. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu lại chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng” (Hc 35:15b-17).
Trước mặt người đời đời, người nghèo là cái gai cần phải đập gãy, nhưng với Thiên Chúa thì không như vậy. Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót thì không thể làm ngơ trước lời van xin tha thiết của những con người hèn mọn, khốn khổ.
Điều gì chưa xảy ra, ngay cả công lý, là vì Thiên Chúa chưa cho phép xảy ra, chưa đến lúc theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Cứ tin tưởng, an tâm để Ngài dắt đi và bước theo Ngài thì chúng ta sẽ thanh thản. Đừng sợ loài người, chỉ sợ Thiên Chúa mà thôi. Và điều gì đến sẽ phải đến: “Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân. Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy theo việc họ làm, và xét xử hành động của người ta theo ý hướng của họ” (Hc 35:20-22a). Tất cả đều đúng thời, đúng lúc, không gì có thể xảy ra ngoài Thánh Ý Chúa. Chắc chắn như vậy!
Thật vậy, Thánh Phaolô tha thiết nhắn nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7).
Tác giả Thánh Vịnh cũng chân thành bày tỏ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Dù sướng hay khổ, dù buồn hay vui, cứ trò chuyện với Chúa thì chẳng có gì phải lo, phó thác hết cho Ngài, cứ để Ngài hành động.
Là những con người đầy tội lỗi và nhiều sai lầm, thế mà không cha mẹ nào nỡ lòng muốn điều xấu cho con cái, những đôi lứa yêu nhau cũng luôn muốn điều tốt cho nhau, thậm chí cọp dữ còn chưa nỡ ăn thịt con kia mà. Chắc chắn Thiên Chúa còn hơn như vậy: “Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu. Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:17-18).
Và còn hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Đúng vậy, ngôn sứ Isaia còn nói rõ ràng và chi tiết hơn: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, Ngài chẳng nỡ tắt đi” (Is 42:3). Văn hào Victor Hugo (1802-11885, Pháp) đã nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; ai chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Thật là chí lý! Nhưng có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt đối của Ngài viên mãn tới mức đôi khi chúng ta nghi ngờ, không dám tin. Và cũng đã có những người coi tình yêu ấy là tình yêu điên rồ. Vâng, điên thật!
Cũng nhớ “khối tình điên” ấy mà chúng ta mới hiện hữu và sống tới hôm nay. Nhận thức như vậy để có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài: “Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” (Tv 34:23).
Cuối đời, Thánh Phaolô nhắn nhủ Timôthê: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:6-8). Dù là một “tân tòng”, nhưng ông Phaolô đã nhận thức sâu sắc về ơn gọi của mình, đồng thời biết mình sống thế nào nên ông tin tưởng mình sẽ được cứu độ. Thật hạnh phúc! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết Chúa và biết mình như vậy!
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể và rạch ròi: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:16-18).
Ông được đặc ân nhưng không tự mãn, ông chấp nhận sự vô cảm của người khác và còn xin Thiên Chúa tha thứ cho những người đã đối xử tệ với mình. Thật cao thượng!
Ai cũng biết đức khiêm nhường là nhân đức cần thiết, nhưng lại khó thể hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn (nhưng không hề vĩ đại). Trình thuật Lc 18:9-14 nói về dụ ngôn “Người Pharisêu và Người Thu Thuế” – một người khiêm nhường, một người kiêu ngạo. Hai thái cực đối lập, hai động thái trái ngược. Người Việt có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Thùng càng rỗng càng kêu to. Người ta cũng thế, càng dốt càng chảnh, càng “nổ”. Kheo khoang vì muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, không muốn người khác biết “thùng mình rỗng”. Nhưng càng “nổ” mạnh thì càng văng miểng nhiều, khiến người ta “sợ” dính miểng nên phải xa lánh.
Người Pharisêu mệnh danh là nhóm Biệt Phái, tức là những người được tách khỏi dân thường và có nhiệm vụ riêng biệt. Vì được coi trọng nên họ kiêu hãnh, luôn ra vẻ ta đây. Nhưng đó chỉ là động thái giả hình, coi trọng bề ngoài, coi trọng hình thức, coi trọng nghi thức, nhưng bên trong rỗng tuếch. Chúa Giêsu đã từng gọi họ là “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23:27), bên ngoài sơn son thếp vàng nhưng bên trong đầy giòi bọ hôi thối.
Để đánh động những người tự nhận mình công chính mà khinh chê người khác, Chúa Giêsu kể dụ ngôn thế này…
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng và nguyện thầm: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Theo mặc định của xã hội Do Thái, người biệt phái là công chính, người thu thuế là tội lỗi (vì làm việc cho ngoại bang mà đàn áp dân lành, và có thể lóm lém tiền bạc). Chúng ta thấy có những động thái đối nghịch: ngẩng đầu – cúi đầu, dang tay – khép tay, chê người – thú nhận, tự mãn – khiêm nhường. Chúa Giêsu xác định: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính, còn người biệt phái thì không. Xã hội luôn có những kẻ có “máu” Pharisêu, ngay trong các dòng tu, các giáo xứ và các hội đoàn cũng không thiếu. Thật đấy!
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Liên quan vấn đề nhận thức, đại nhân Khổng Tử xác định: “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo không đủ tài mà nhận lãnh chức vị mà thôi”. Đó là cách nhận thức giản dị mà thâm thúy, khả dĩ giúp người ta sống thanh thản, không ảo tưởng, dù là ai và ở cương vị nào. Ca dao Việt Nam cũng nói:
Người trồng cây Hạnh người chơi Ta trồng cây Đức để đời về sau
Hãy cứ bình thường khi gặp người khác, dù người đó là ai. Người có như vậy có thể sẽ bị coi là lạnh lùng, dửng dưng, khinh người,… nhưng không phải vậy. Bắt chước là hèn nhát, nịnh bợ là nhục nhã. Hãy cứ là chính mình. Không sợ hãi trước kẻ quyền thế, không hống hách với người yếu thế, không luồn cúi hoặc nịnh bợ người khác để có lợi cho mình, đó chính là phong cách của quân tử. Thật là đê tiện với những ai có cái kiểu “cáo mượn oai hổ”.
Biết mình và biết người là điều cần thiết trong cuộc sống, cao cấp nhất là nhận biết Thiên Chúa – dạng nhận thức tâm linh. Thánh Augustinô phân tích: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho con người nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng là khiến cho người ta nhận biết Thiên Chúa”. Rất hay, rất lô-gích!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận thức đúng đắn, khả dĩ biết Chúa, biết người, và biết chính con, để con không ảo tưởng mà kiêu ngạo, và để con biết sống khiêm nhường theo đúng Tôn ý Ngài.
Lạy Đấng giàu lòng thương xót, cơn bão Sakira (số 7) đang làm cho miền Trung ngập trong biển nước, hơn 30.000 gia đình không có chỗ trú thân, trong khi đại họa Formosa chưa nguôi, khổ chồng lên khổ. Xin Chúa chúc lành và che chở họ, xin thêm đức tin cho họ trong cảnh khốn khó này.
Lạy Đức Mẹ La Vang, xin Mẹ choàng Chuỗi Mân Côi quanh miền Trung để bảo vệ họ khỏi thiên tai và nhân tai, xin cho những người hữu trách có được nhận thức theo Tháy Ý Chúa, và xin ban bình an cho Việt Nam bé nhỏ của dân tộc chúng con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Tiếng Việt có một cụm từ rất hay: xét đoán. Tôi thích dùng hai chữ này theo lối hài hước, đó là TN 30-C130
Tiếng Việt có một cụm từ rất hay: xét đoán. Tôi thích dùng hai chữ này theo lối hài hước, đó là xét một vấn đề cho thật kỹ, rồi cuối cùng, cũng chỉ đoán mà thôi. Nếu kết luận chỉ là đoán, thì thường không chính xác. Biết không chính xác nhưng nhiều người vẫn thích dùng. Vì nghề này không cần bằng cấp, không cần giấy phép nên người ta có thể hành nghề khắp nơi. Trong khi cụm từ “xét nghiệm,” cần công thức hóa học, và phải có bằng cấp, nên chỉ có thể được thực hành ở những nơi được phép.
Tiếng Việt còn có cụm từ “xét nét,” ám chỉ về người quá khó tính, người hay “vạch lá tìm sâu” nơi người khác. Người có tính xét nét thì cũng có khuynh hướng xét đoán một cách chủ quan. Vì không có công thức như làm xét nghiệm, nên dễ kết luận sai lầm. Bài toán xét rồi cũng chỉ đoán này dễ sai, nên tôi cần cẩn thận.
Chợ Và Đền Thờ
Phúc Âm có câu chuyện tương tự. Người thu thuế và người biệt phái cả hai cùng lên đền thờ. Người biệt phái kể công, người thu thuế sám hối. Người biệt phái chỉ trích, người thu thuế thinh lặng. Người thu thuế xét mình dùm cho người khác, còn người thu thuế xét mình cho riêng ông. Vì lo xét cho người khác nên ông quên xét lòng ông. Điều buồn, là cuối cùng người biệt phái đoán sai.
Ông đoán người thu thuế là người khó được Chúa chấp nhận, vì có tội lỗi công khai, và dân chúng loại trừ. Thế nhưng, phúc âm kể thật hay. Trong chính giây phút mà người biệt phái chỉ trích người thu thuế, thì ở cuối đền thờ, và ngay trong tâm hồn của người thu thuế đang diễn ra một mùa sám hối trọn vẹn, và ơn Chúa đang tuôn đổ trên ông. Không chờ đến ngày mai, không chờ cho ánh mặt trời lên, ơn thánh đến ngay lúc đó.
Ơn hoán cải của một con người diễn ra như một huyền nhiệm và không ai, dù là giới lãnh đạo tôn giáo, cũng không thể nắm bắt được điều gì đang diễn ra trong lòng của một con người. Do đó tôi cần cẩn thận khi đánh giá một con người qua hình thức và ngay cả qua những hành vi bên ngoài của họ.
Một chi tiết thật hay khác của câu chuỵện đó là sự có mặt của người thu thuế nơi đền thờ. Lẽ ra người biệt phái phải thắc mắc tại sao người thu thuế lại có mặt ở đây? Thông thường, mấy người thu thuế đâu có vào đền thờ cầu nguyện. Họ lo bận rộn đi thu tiền ngoài chợ. Vì đa số người dân không có học, thiếu tính toán, nên mấy người thu thuế hay thêm bớt con số để kiếm tiền thêm bỏ túi, chứ lên đền thờ đâu có chút lợi nhuận nào.
Hôm nay người thu thuế có can đảm bước chân đến đền thờ, có nghĩa là lòng sám hối của anh đã trải dài từ những ngày tháng trong cuộc sống rồi. Những đêm dài thao thức của lòng sám hối nơi anh không có phát thanh trên đài, nên không ai nhận ra, và người biệt phái không nghe được tin vui này. Không biết được tin vui sâu thẳm của lòng sám hối, nên ông vẫn nghĩ rằng chỉ có thái độ công chính mới làm cho đời vui.
Ông sai hai bài toán về cuộc sống: 1) xét sai về tâm hồn người khác; 2) sống niềm vui giả tạo trong thái độ công chính. Cả hai bài toán, hôm nay tôi cần tránh.
Chúng con vừa nghe một câu chuyện trong bài Tin mừng thật hay. Câu chuyện có liên quan đến TN 30-C131
Chúng con vừa nghe một câu chuyện trong bài Tin mừng thật hay. Câu chuyện có liên quan đến hai người. Hai người này là những người rất quen thuộc trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu. Đó là một người Biệt phái thuộc giai cấp lãnh đạo xã hội lúc đó. Và một người thu thuế, bị liệt vào hạng những người bị ghét bỏ nhất thời bấy giờ.
Cha hỏi chúng con: Qua câu chuyện hôm nay chúng ta học được bài học gì nào?
- Thưa cha bài học về lòng khiêm nhường. - Bài học về sự kiêu ngạo. - Bài học về việc sống tôn trọng mọi người.
Cám ơn chúng con! Chúng con trả lời rất hay. Riêng cha qua câu chuyện hôm nay, cha có thể rút ra được mấy bài học rất cần cho cuộc sống của cha.
1. Bài học đầu tiên: Chúa không thích những ai kiêu ngạo tôn mình lên.
Trong câu chuyện vừa nghe chúng con thấy người biệt phái là người như thế. Người này đến với Chúa với một thái độ tự mãn. Ông ta đứng thẳng để kể công với Chúa về những việc ông ta đã làm. Ông không thấy mình có bất cứ một lỗi làm nào dù là rất nhỏ trước mặt Chúa. Hơn nữa ông còn kiêu ngạo coi mình hoàn hảo hơn người thu thuế đang đứng xa xa kia.
Cha hỏi chúng con nếu chúng con là Chúa, thì chúng con sẽ có thái độ như thế nào đối với con người này. Theo Cha thì chắc là Chúa không vui, không thích và Chúa không muốn nghe lời cầu nguyện của những người như thế.
Cha kể cho chúng con câu chuyện vui này:
Anh Guton Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của mình vào sổ tay, đến ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước toà Chúa và trình lên Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng cộng tất cả là 50.000 việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang nhưng Ngài không phản ứng gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào đó hồi lâu rồi nói với anh.
- Con nói là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của Ta thì chỉ có một việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta mà phải trở lại trần gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta xét.
Anh Guton Boris vội vã thanh minh.
- Thưa Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con ghi ngay vào sổ. Quả thật tất cả là con đã làm 50.000 việc lành trong suốt đời sống con ở trần gian. Tại sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc kia thì sao.
Bấy giờ, Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:
- Này con, con đã làm 50.000 việc tốt nhưng với ý khoe khoang chứ không phải vì ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất con làm vì ý ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu tiên. Ý ngay lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm không có giá trị gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người khen ngợi, vì thế 49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.
Vâng, con người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được Chúa.
2. Bài học tiếp theo: Chúa thích những ai sống khiêm nhường và sẵn lòng ban ơn tha thứ cho họ. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Bây giờ chúng ta nói về người thu thuế. Câu chuyện ghi: "Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương cót con là kẻ tội lỗi.". Người này đứng trước mặt Chúa thấy mình tội lỗi và chỉ mong được Chúa thứ tha.
Cha hỏi chúng con: Chúa có tha không chúng con. Theo kết quả của câu chuyện thì Chúa bảo là Chúa tha."Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không" (Lc 18,13). Tại sao Chúa lại tha? Thưa vì người này biết khiêm nhường nhận lỗi. Người biết khiêm nhường nhận lỗi thì luôn được Thiên Chúa tha thứ.
Công tước D'Ossome, phó vương xứ Napoli (Ý) sống vào thế kỷ 17. Một hôm, Ngài đi thị sát một chiến thuyền, vốn là loại được chèo bởi một đạo quân đông đảo. Ngài đi xuống lòng thuyền để hỏi han từng tù nhân lý do nào đã đẩy họ đến kiếp sống chung thân gắn chặt với mái chèo với đủ cả xiềng xích ở chân và ở cổ như vậy?
Tất cả các tù nhân đều kêu oan, bào chữa mình là vô tội. Duy chỉ có một tù nhân ngồi cúi gằm đầu xuống, im lặng, không hé răng nói một lời. Công tước thấy lạ tiến lại gần, dịu dàng hỏi mãi anh ta mới nói :
- Thưa Ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi thật xứng với tội tôi đã phạm trước đây. Công tước liền quay lại nói lớn tiếng với mọi người chung quanh:
- Ah! Đây mới đúng là một tên phạm trọng tội. Một kẻ chẳng ra gì, hắn không xứng đáng được ngồi ở đây, chung chạ với những người vô tội này! Vì thế hãy tống cổ sang một nông trại để cải tạo lao động.
Ít lâu sau, anh ta được phóng thích tự do, trở về với đời sống bình thường. Chỉ nhờ lòng khiêm tốn chân thành biết nhận lỗi, biết chấp nhận hình phạt để đền bù tội ác đã phạm, mà tù nhân đó đã được vị Công tước nhân từ phóng thích khỏi kiếp nô lệ khổ sai chung thân đó.
3. Bài học: Hãy cố gắng sống khiêm nhường để được Chúa yêu thương.
Có người hỏi Thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226) tại sao và bằng cách nào ngài làm được nhiều sự trọng đại, Ngài vui vẻ trả lời:
- Cũng dễ thôi, Chúa từ trời cao nhìn xuống và nói: "Ta kiếm đâu được một người yếu đuối nhất, bé mọn nhất, vô nghĩa nhất ở trần gian này!" Ngài nhìn thấy tôi, Ngài nói: "Đây là người Ta tìm được và Ta muốn hành động qua người này. Người ấy sẽ thấy rằng Ta dùng nó chỉ vì nó là con người hèn mọn nhất, khiêm hạ nhất".
Lời Đức Mẹ: "Chúa hạ kẻ quyền thế khỏi địa vị của họ và nâng các kẻ khiêm nhường lên" (Lc 1,52).
Vâng! Phải có một lòng khiêm nhường chân thực mới có thể sống được như thế.
Lúc nhỏ thánh Gioan Boscô có lần làm bể cây đèn nhưng vì khiêm nhường nhận lỗi nên được bà mẹ tha. Hôm đó bà Magarita là mẹ của Boscô đi chợ, Boscô muốn lấy cái mũ trên đầu tủ. Nhưng vì tủ cao quá, cậu phải lấy ghế kê sát tủ đứng lên mới với lấy được. Chẳng may đụng phải cây đèn dầu rớt xuống đất bể tan. Dầu chảy lênh láng. Boscô định phi tang để khỏi bị phạt nhưng không thể được vì dầu đã loang ra sàn nhà. Cậu định đổ lỗi cho con mèo, nhưng rồi cậu quyết thú lỗi và xin mẹ tha. Cậu ra vuờn chặt cây roi, để sẵn chờ mẹ về. Bà Magarita vừa về tới, cậu chạy ra ôm bà và nói:
- Mẹ ơi, mẹ cầm 1ấy roi này đi .
Mẹ cậu ngạc nhiên hỏi:
- Cầm lấy roi làm chi vậy con?
- Vì con đà làm bể cây đèn đèn trên đầu tủ. Xin mẹ phạt con rồi tha cho con.
Bà Magaria nhìn cậu cảm động :
- Boscô, con làm bể đèn, đáng bị phạt. Nhưng con biết nhận lỗi, mẹ tha cho con. Từ nay con phải ý tứ hơn.
***
Nhận biết lỗi mình và thành thực xin tha thứ thì chắc chắn sẽ được thứ tha. Nhưng lòng chân thành thú lỗi chỉ có nơi tâm hồn khiêm tốn thâm sâu như Boscô và người thu thuế trong Tin mừng hôm nay.
Thiên Chúa không thể cầm lòng trước những tâm hồn thành thật và khiêm tốn nhận lỗi! Khi người thu thuế trong Tin mừng hôm nay sấp mặt xuống đất, đấm ngực ăn năn, Chúa Giêsu tuyên bố: "Người nầy khi trở xuống về nhà, thì được nên công chính rồi ". Còn người biệt phái vì kiêu căng tự đắc, thay vì thú nhận tội lỗi, đã khoe công trạng và khinh dễ kẻ khác, nên Chúa bảo : "Còn người kia thì không". Không được tha tội, không được nên công chính, không đáng khen mà còn đáng phạt nữa" Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên " (Lc 18,14).
(Trích 31 bài giảng của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Lời Chúa:
BÀI ĐỌC I: Hc 35, 12-14.16-18
Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với TN 30-C132
Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van.
Nỗi hồn đắng cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm 4, 6-8. 16-18
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh quang muôn đời! Amen.
PHÚC ÂM: Lc 18, 9-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi’. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
Suy niệm
Giáo huấn của nhà khôn ngoan Ben Sira, người kế thừa giáo lý ngôn sứ xưa về sự công chính và lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với những người nghèo khổ và bị áp bức, dẫn chúng ta tới những tột đỉnh của linh đạo Kinh Thánh đích thực. Sách Đệ Nhị Luật cảnh báo rằng Thiên Chúa là Ðấng “không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10:17), ngược hẳn với con người thường thiên vị dựa theo những thành kiến xã hội, chủng tộc, hay ý thức hệ, khiến cuộc sống của những người thấp hèn phải chịu thiệt thòi. Giáo lý này được áp dụng rộng rãi bởi Đức Giêsu trong lời rao giảng và hoạt động giải phóng của Người, cũng như bởi các tông đồ và các tác giả Tin Mừng, được trình bày trong các bài viết của các ngài và được truyền bá trên khắp thế giới. Trong lòng thương xót vô biên của Người, Thiên Chúa luôn luôn đến với những ai ý thức được tội lỗi và những yếu đuối của mình và tìm kiếm sự trợ giúp và tha thứ của Người. Trái lại, đối với những kẻ kiêu căng, Người để mặc họ lang thang và hoang mang với những tư tưởng kiêu hãnh trong lòng họ.
Dụ ngôn của Đức Giêsu về người thu thuế và người Pharisêu chứng tỏ cách Người nhìn con người, cũng là cách Thiên Chúa nhìn con người. Người không xét đoán người ta theo vẻ bề ngoài, cũng không dựa theo thành kiến, nhưng dựa theo những gì Người thấy rõ trong tâm khảm con người, nhận ra động cơ thực sự thúc đẩy các hành động và lời cầu nguyện của họ.
Trên thực tế, trong các sách Tin Mừng, chúng ta lần đầu tiên gặp thấy ý tưởng Thiên Chúa không thiên vị ai, được nói ra từ chính miệng các địch thủ của Đức Giêsu; mặc dù họ âm mưu hãm hại Người, họ vẫn phải công khai nhìn nhận sự chính trực vẹn toàn của Người, khi họ nói, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20:21; x. Mt 22:16). Đây là đường lối của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thực hành và đã dạy. Người đã chứng tỏ điều này không những trong cách Người tiếp xúc với những người thấp hèn và những người bị loại trừ và bị gạt ra bên lề xã hội vì bị coi là những kẻ tội lỗi, như những gái điếm và những người thu thuế, hay những người bị coi là ô uế và bị chúc dữ, như những người phong cùi; nhưng Người cũng chứng tỏ điều đó trong tất cả hoạt động loan báo Tin Mừng của Người, phá vỡ mọi bức tường ngăn cách của sự kỳ thị, dù là kỳ thị tôn giáo, xã hội, hay chủng tộc. Thực vậy, Đức Giêsu đã từng chấp nhận lời cầu xin khiêm tốn của viên đại đội trưởng Rôma và đến chữa lành cho đầy tớ ông.
Hơn nữa, trong những chuyến đi liên tục như một Thầy dạy lữ hành, Người đã đến thăm vùng Samaria và thường khen ngợi người dân vùng này. Khi đi ngang qua vùng đất dân ngoại, Người đi đến xứ Tyrô và chữa lành cho con gái người phụ nữ Syrô-Phênixê. Băng qua bên kia Biển Hồ Tibêriát, Đức Giêsu đi về phía Thập Tỉnh và chữa lành những người bệnh tật yếu đau. Những chuyến băng qua Biển Galilê liên tục của Người chứng minh Đức Giêsu là Chúa trên thực tại mà biển là biểu tượng; Người cũng có quyền năng dẹp yên bão táp và đi trên mặt biển. Biển cả đáng sợ, một biểu tượng tiêu cực, không còn là một sức mạnh của sự phân cách nữa, nhưng đã trở thành một cây cầu, và qua sứ vụ của Đức Giêsu, trở thành con đường dẫn tới sự hòa giải giữa hai bên, dân Do Thái và Dân Ngoại.
Trong hội đường tại Nadarét, nơi Đức Giêsu giới thiệu chương trình sứ vụ của Người, Người đã thách thức cử tọa về địa vị của Ítraen so với các dân tộc khác như là dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Trên thực tế, những người hiện diện đã phản ứng tiêu cục, lên án lời giảng của Người về sự ứng nghiệm các lời ngôn sứ. Các ví dụ về ngôn sứ Êlia, người được sai đến với bà góa xứ Phênixê, và ngôn sứ Êlisê, người từng chữa lành cho viên tướng Naa- man người Syria, đủ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai hay một dân tộc nào; mọi tạo vật đều quí giá trong con mắt của Thiên Chúa. Như lời thánh vịnh gia nói, Đức Chúa tốt lành với mọi người, lòng từ ái của Người bao trùm muôn vật. Người đến gần tất cả những ai thành tâm kêu cầu người. Thánh vịnh gia không kể ra cụ thể một chủng tộc hay quốc gia nào, cũng không nói đến địa vị hay màu da. Nếu tình thương của Thiên Chúa thấm nhập mọi loại, đó là vị muôn loài đều là tạo vật từ bàn tay Người làm ra, và vì thế tình thương của Người là tình thương phổ quát, đầy sự chăm lo cho mọi người, không có một sự phân biệt nào.
Nói thế không có nghĩa là phủ nhận rằng Ítraen đã được Thiên Chúa tuyển chọn để đi vào một giao ước đặc biệt với Người. Nhưng sự tuyển chọn này là để phục vụ một sứ mạng đặc biệt vì lợi ích của mọi dân tộc, phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống trong lịch sử như là Đấng giải phóng những người bị áp bức và cứu chuộc con người trong tất cả thực tại của nó: Chính các ngươi là nhân chứng của Ta – sấm ngôn của ÐỨC CHÚA – là bề tôi Ta đã tuyển chọn, để các ngươi nhận biết và tin Ta, và hiểu rõ Ta vẫn là Ta: trước Ta, chẳng có thần nào khác được hình thành, và sau Ta cũng vậy. (Is 43:10)
Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ chọn người tôi tớ của Người, nhưng còn hình thành và dạy dỗ người ấy: Ta là Ðức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm. (Is 42:6-7)
Nhìn kỹ hơn lời dạy của Đức Giêsu trong dụ ngôn của Người về người thu thuế và người Pharisêu trong Đền Thờ, chúng ta thấy rằng sự khác biệt giữa hai người này chính là ở những gì có trong lòng họ, được phơi bày trước sự hiện diện của Thiên Chúa trong cầu nguyện.
Suy cho cùng, chính là với ý hướng cầu nguyện mà người thu thuế và người Pharisêu đi vào Đền Thờ, nhờ đó họ được chia sẻ một thời gian ngắn trong cùng một nơi thánh. Nhưng cái cách riêng mà mỗi người trong họ bắt đầu cầu nguyện chính là yếu tố quyết định số phận và tình trạng thiêng liêng cuối cùng của mỗi người. Người thu thuế, vì có lòng khiêm nhường và thành thật nhìn nhận mình bất xứng và tội lỗi để nài xin ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên người này trở về nhà thành một người tốt hơn, được biến đổi và được giao hòa bên trong. Đáp lại lời cầu nguyện chân thực của người này, ơn Chúa đã được ban cho. Một lần nữa, chúng ta học được sự thật rằng “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18:14b).
Trái lại, người Pharisêu là một tù nhân bị giam hãm trong cái tháp ngà của tính kiêu ngạo thiêng liêng của mình. Quá ý thức về những việc lành của mình và về giai cấp tôn giáo-xã hội của mình, ông nghĩ mình cao hơn và tốt hơn mọi người khác, dựng lên những rào cản giữa ông và họ, nhục mạ và miệt thị họ. Có lẽ ông là người tốt cho tới lúc ấy, nhưng thái độ của ông cho thấy sự kiêu căng trong lòng ông, làm hại đến nhân đức mà ông tưởng là mình có trong tâm hồn.
Hơn nữa, chúng ta không đến với Thiên Chúa trong Đền Thờ để ăn mừng và nhìn ngắm bản thân mình trong sự ngưỡng mộ, đồng thời đứng ở trên để nhìn những người khác phía dưới. Chúng ta đứng trước mặt Thiên Chúa trong một cuộc gặp gỡ của tình yêu, và để gặp gỡ những người khác trong Thiên Chúa. Theo nghĩa này, cầu nguyền là chiêm ngắm Chúa, vui mừng vì những điều kỳ diệu mà ơn sủng của Người hoạt động hằng ngày trong lòng sự yếu đuối của loài người, và vui mừng vì lòng thương xót không mỏi mệt của Người giúp nâng dậy những người đã ngã và những người muốn đứng dậy trở lại.
Khi nghe dụ ngôn này, chúng ta tức khắc có thể bị cám dỗ tự đồng hóa mình với người thu thuế, đơn giản là vì người này có chỗ đứng tích cực trong câu chuyện. Đó là một dấu hiệu của ước muốn tế nhị của con người là làm cho mình được an tâm. Nhưng dụ ngôn mời gọi chúng ta nhìn vào bên trong để loại bỏ mọi sự ý thức về tính tự mãn của mình và sự khinh dể người khác, để tìm được một trái tim đơn sơ, khiêm nhường và đầy tình huynh đệ, biết cách nhìn vào mình và người khác với một cái nhìn từ tâm và hi vọng. Về phương diện này, thường cần phải đặt câu hỏi về cách chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện bộc lộ cho chúng ta điều gì về chiều sâu và chất lượng của trái tim chúng ta? Cầu nguyện tỏ cho chúng ta biết điều gì về bản thân mình, về cách chúng ta giao tiếp với người khác và về cách chúng ta nhận định về người khác một cách tự nhiên trong tương quan với chúng ta? Nó tỏ lộ cho chúng ta thấy điều gì về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và ơn cứu độ của Người?
Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên nhắc nhở chúng ta về vị trí trung tâm của cầu nguyện trong tương quan với Hội Thánh và sứ mạng của Hội Thánh. Cầu nguyện là linh hồn của việc truyền giáo, bởi vì hiệu quả của việc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, các mức độ tương quan đúng đắn của chúng ta với chính mình và với thế giới trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, là gốc rễ của trải nghiệm về sự thật cứu rỗi chúng ta. Nhờ cầu nguyện, người môn đệ truyền giáo luôn luôn coi mình nằm trong số những người cần được ơn cứu rỗi mà mình được kêu gọi để loan báo và thông truyền trong các bí tích. Điều chắc chắn là sứ mạng loan báo Tin Mừng được uỷ thác cho chúng ta với danh nghĩa là Hội Thánh không thể được thực hiện trong sự thật nếu chúng ta chọn một thái độ thống trị trong quan hệ với người khác, tự tin và tự mãn về ưu thế đạo đức và tôn giáo của chúng ta. Truyền giáo phải là một đề nghị khiêm nhường về tình bạn với Đức Kitô, với một sự kính trọng sâu xa đối với tự do tôn giáo của những người khác thuộc thời đại chúng ta, kính trọng văn hóa và lịch sử của họ. Khiêm nhường đích thực không bao giờ thiếu sự thật. Đúng hơn, nó là một sự hiện diện hiệu quả của sự thật, một sự thật phán xét, tha thứ và cứu rỗi những người rao giảng và những người nghe rao giảng sự thật ấy. ------------ Nguồn:
Uỷ ban loan báo Tin Mừng
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên bé nhỏ trước mặt Ngài, và nhỏ bé trước anh em khi TN 30-C133
TMĐP- Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên bé nhỏ trước mặt Ngài, và nhỏ bé trước anh em khi cầu nguyện, để cái nhìn của chúng ta về người khác được đổi mới, ánh mắt trên anh em của chúng ta dạt dào trìu mến của tình huynh đệ và lòng xót thương.
Một trong những việc người kiêu căng tìm làm và hăng say làm, đó là xét xử. Họ tìm mọi dịp để xét xử người khác vì cho mình hoàn hảo, vượt xa thiên hạ; họ hăng say xét xử anh em bất cứ lúc nào vì cần làm nổi bật cái tôi, cần nâng cao mình lên chót vót, ngất ngưởng như người cao cả, tuyệt vời. Ngay cả trong khi cầu nguyện, ở giữa Đền Thờ, trước mặt Thiên Chúa, những người có lòng dạ kiêu căng ấy cũng không thể tạm gác lại lòng trí kiêu căng của họ, nhưng như muốn tranh giành quyền xét xử với Thiên Chúa.
Một trong những khuôn mặt kiêu căng thích tìm và hăng say xét xử thiên hạ được Đức Giêsu chọn làm tiêu biểu trong Tin Mừng hôm nay là người Pharisêu mà thánh sử Luca nhận xét là “tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18,9).
Thực ra, nếu chỉ xét đời sống bên ngoài với xã hội, thì ông Pharisêu này qủa thực là người công chính, vì như ông tự hào vanh vách khai lý lich và công trạng trước Thiên Chúa khi lên Đền Thờ, tiến gần cung thánh, và đứng thẳng người cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).Ông được mọi người kính trọng vì ông tuân giữ nhiệm nhặt Luật Môsê; ông có chức tước, vị thế trong phẩm trật giáo hội, vì ông không làm điều gì gian ác, xấu xa,đồi bại, và ông hoàn toàn có lý để tạ ơn Chúa, vì ông “không như bao kẻ khác”.
Nhưng chính vì thấy mình “không như bao kẻ khác” mà ông đã sai lầm nghiêm trọng, khi lên tiếng khinh khi và hàm ý xét xử người thu thuế cùng lên Đền Thờ cầu nguyện với ông, nhưng chỉ dám đứng đằng xa, ngước mắt lên trời và đấm ngực nhận mình là kẻ có tội, mà không chỉ riêng ông Pharisêu, nhưng hầu như tất cả mọi người đều quả quyết những người thu thuế là phường phản quốc, gian tham, ăn trên xương máu đồng bào và bị liệt vào hàng tội lỗi.
Vì thấy mình “không như bao kẻ khác”, mà ông Pharisêu đã không khiêm tốn đặt mình dưới cái nhìn thương xót của Thiên Chúa trong kinh nguyện, nhưng lại đặt người thu thuế đang cầu nguyện dưới cái nhìn phẫn nộ, trừng phạt của quan toà nghiêm khắc, không có lòng bao dung là ông.
Vì thấy mình “không như bao kẻ khác”, người Pharisêu thay vì đứng chung hàng ngũ với người thu thuế vì là đồng đạo và cùng lên Đền Thờ cầu nguyện, đã ngồi vào chỗ của Thiên Chúa, chiếm quyền xèt xử của Ngài.
Vì thấy mình “không như bao kẻ khác”, ông ta đã không nhận ra sự thật bên trong của mình, sự thật mà chỉ một mình Thiên Chúa mới thấu suốt và xét xử công bình vì là sự thật của trái tim luôn được che dấu.
Khác với ông Pharisêu thấy mình “không như bao kẻ khác” vì bao kẻ khác tham lam, bất chính, ngoại tình, lại không ăn chay, đóng thuế cho Đền Thờ, nguời thu thuế lại chỉ thấy mình “không giống ai”, vì giữa những người đạo đức, công chính, chỉ riêng mình là gian tham, bất chính, nên cúi đầu, đấm ngực thống hối ăn năn, nài xin ơn thương xót. Kết quả là Thên Chúa đã dành lạo quyền xét xử ông, con người tội lỗi, mà không để quyền ấy trong tay người Pharisêu tuy “công chính theo Lề Luật” nhưng kiêu căng và thiếu lòng thương xót theo phán quyết của Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền xét xử, khi Ngài tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết: người này (tức người thu thuế) khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
ThánhPhaolô nhắc nhở môn đệ Timôthê hãy bắt chước ngài mà kiên trì “trong cuộc thi đấu cao đẹp và giữ vững niềm tin”, vì vòng hoa chiến thắng và phần thưởng đời đời sẽ được Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao cho chúng ta trong Ngày ấy (x. 2 Tm 4,7-8).
Hôm nay, qua các bài đọc và Tin Mừng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy trở nên bé nhỏ trước mặt Ngài, và nhỏ bé trước anh em khi cầu nguyện, để cái nhìn của chúng ta về người khác được đổi mới, ánh mắt trên anh emcủa chúng ta không còn rực lửa kiêu căng xét xử, lên án, nhưng dạt dào trìu mến của tình huynh đệ và lòng xót thương, vì Thiên Chúa “không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7).
Tâm lý thông thường, ai trong chúng ta cũng có khuynh hướng và thói quen xét đoán người khác TN 30-C134
Tâm lý thông thường, ai trong chúng ta cũng có khuynh hướng và thói quen xét đoán người khác khi người ta vắng mặt. Việc xét đoán và kết luận về một người nào thường mang tính chủ quan phiến diện và nhiều lúc gây ra những hậu quả khôn lường. Khi xét đoán người khác, chúng ta tự coi mình là chuẩn mực, và nếu ai không giống như chúng ta thì đều bị kết án và phê bình. Xét đoán là một thói quen xấu. Người tin Chúa cần loại bỏ thói xấu này.
“Hai người lên Đền thờ cầu nguyện” – Chúa Giêsu bắt đầu câu chuyện với mục đích cảnh báo chúng ta về thói quen xét đoán chỉ trích người khác. Người biệt phái tự coi mình là người công chính. Anh lên Đền thờ cầu nguyện, nhưng thực ra anh đã lợi dụng môi trường thiêng thánh này để khoe mình và để xét đoán người khác. Nội dung lời cầu nguyện của anh toàn là những lời khoe khoang. Không những khoe khoang những việc đạo đức mình làm, anh còn nặng lời kết án người khác. Nhận định của anh về người khác thể hiện rõ sự ghen tỵ, hằn học. Chúa Giêsu kết luận: lời cầu nguyện của người biệt phái không được nhận lời. Bởi lẽ anh không đến Đền thờ để cầu nguyện nhưng để phô trương.
Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng có quyền xét xử. Ngài là thẩm phán công minh – tác giả sách Huấn Ca khẳng định như thế. Truyền thống Kinh Thánh thường diễn tả Thiên Chúa bênh vực và bảo vệ những người nghèo khổ cô thế cô thân. Những ai lợi dụng quyền hành mà bắt nạt và chèn ép những người yếu thế, sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Cũng vậy, lời cầu nguyện của người nghèo được Chúa lắng nghe. Tác giả đã dùng hình ảnh “lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm” để diễn tả mối quan tâm của Thiên Chúa. Ngài luôn nhận lời họ khi họ cầu nguyện. Lời cầu nguyện của người thu thuế trong câu chuyện là lời cầu nguyện chân thành. Nội dung lời cầu nguyện của anh là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình để xin Chúa rù lòng thương. Anh không khoe khoang. Anh cũng không lôi người khác vào lời cầu nguyện của mình. Lời cầu nguyện của anh là những lời tâm sự chân thành giữa anh với Chúa, với xác tín Ngài sẽ nhận lời.
Người tín hữu tin Thiên Chúa là Đấng thẩm phán công minh. Họ phải sống thế nào để không bị kết án vào lúc cuối của cuộc đời. Quả vậy, tất cả những hành vi cử chỉ và lối sống của mỗi chúng ta đều được “ghi chép” và sẽ được phơi bày trong ngày phán xét. Ý thức mình sẽ bị phán xét sẽ giúp con người thận trọng hơn trong cách ứng xử và trong đời sống hằng ngày. Tin vào Chúa là Đấng thẩm phán công minh, người tín hữu không hoảng loạn trước đau khổ thử thách. Phaolô đang bị cầm tù và sắp bị đưa ra xét xử. Ông viết cho môn sinh của mình là Timôthê những dòng tâm sự đầy xác tín: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”. Phaolô đón nhận đau khổ thử thách trong niềm hy vọng, vì ông biết Thiên Chúa sẽ thưởng công cho mình.
“Phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Đó là giáo huấn rút ra từ câu chuyện hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Đó cũng là bài học Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Cuộc sống đầy bạo lực, xung đột và chia rẽ do con người thiếu khiêm nhường, và sẵn sàng được thua mà không nghĩ đến đạo lý làm người. Trong những ngày cuối tháng Mười này, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, mẫu gương của sự khiêm nhường. Chính từ sự khiêm nhường mà Mẹ được tôn vinh: “Muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phúc”. Xin Mẹ giúp chúng ta biết thưa “Xin vâng” như Mẹ. Đó là lời xin vâng có phó thác, cậy trông và khiêm tốn. Từ lời xin vâng tuyệt diệu ấy, đất trời được nối kết, Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm C ca ngợi tấm lòng khiêm hạ trong cầu nguyện TN 30-C135
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm C ca ngợi tấm lòng khiêm hạ trong cầu nguyện.
Hc 35: 15b-17, 20-22a
Bài Đọc I, trích từ sách Huấn Ca của hiền nhân Si-rác, ca ngợi lời cầu nguyện của những người khiêm hạ và những người nghèo; lời cầu nguyện của họ được Chúa lắng nghe và đón nhận.
2Tm 4: 6-8, 16-18
Những lời vĩnh biệt của thánh Phao-lô là bài ca khải hoàn và tâm tình cảm tạ tri ân. Lời cầu nguyện sau cùng của thánh nhân là chúc tụng Thiên Chúa.
Lc 18: 9-14
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn nổi tiếng về người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Người Pha-ri-sêu cầu nguyện với thái độ tự mãn; còn người thu thuế cầu nguyện với tấm lòng khiêm hạ, ông ta nhận ra mình là tội nhân: lời cầu nguyện này được Chúa đoái thương và ban ơn công chính hóa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
BÀI ĐỌC I (Hc 35: 15b-17, 20-22a)
Ông Si-rác là một hiền nhân Do thái sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Vào thời kỳ này, kể từ sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê, nền văn hóa Hy-lạp đã ảnh hưởng đến tận miền Pa-lét-tin. Giới quý tộc và tư tế Giê-ru-sa-lem đã mở rộng vòng tay đón nhận văn hóa Hy-lạp. Ông Si-rác không ác cảm với nền văn hóa này, nếu như Do thái giáo không đánh mất đi căn tính của mình. Chính vì để bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông mà ông đã soạn thảo tác phẩm của mình. Ông tỏ ra là người bênh vực nhiệt thành Lề Luật, nền tảng cốt yếu của Do thái giáo, nhưng là Lề Luật mà ở đó những yêu sách luân lý (công bình, đức hạnh, tình thương, vân vân) cũng phải đòi buộc tuân giữ. Tác phẩm của Si-rác bộc lộ tâm tình tôn giáo tinh tế và bày tỏ nỗi bận lòng đến đức hạnh cá nhân với những điểm nhấn mới.
1. Cách thức phụng tự làm đẹp lòng Thiên Chúa
Đoạn văn hôm nay được trích từ một trong những chương tiêu biểu nhất của sách Huấn Ca, chương 35, một trong những đỉnh cao của tác phẩm – ở đó tác giả định nghĩa phẩm chất của việc phụng tự chân thật được Thiên Chúa đoái thương chấp nhận:
“Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa, chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội” (35: 3)
hay:
“Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu. Đừng ỷ vào hy lễ bất chính. Vì Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức” (35: 11-13).
2. Lời cầu nguyện của những người khiêm hạ
Người nghèo hèn trong xứ, kẻ bị áp bức, cô nhi quả phụ đó là tất cả những người mà Cựu Ước gọi là “những người nghèo của Đức Chúa”, những người không có của cải nào khác ngoài một lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và gặp thấy ở nơi Ngài là Đấng bênh vực họ:
“Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa được an lòng. Họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn, chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý” (Hc 35: 17-18).
Lòng kính trọng mà ông Si-rác dành cho những người phận nhỏ này xem ra rập theo khuôn mẫu của truyền thống, như chúng ta đọc thấy trong các thánh vịnh, tại các ngôn sứ. Như chúng ta biết, lời cầu nguyện chiếm lấy một chỗ quan trọng trong tác phẩm của bậc hiền nhân này. Ông ca ngợi lời cầu nguyện hết lời. Ông dừng lại những luận bàn của mình để sáng tác lời cầu nguyện của riêng mình. Ông đã thích cầu nguyện từ thời thơ ấu; chính nhờ cầu nguyện mà ông đã gặp thấy sự khôn ngoan. Ông Si-rác đưa những người nghèo và những kẻ bất hạnh ra làm mẫu gương, không vì cảm thương số phận của họ cho bằng ca ngợi giá trị lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện của họ chỉ là lời cầu nguyện đơn thuần, trơ trụi, không có hiến lễ ngoạn mục nào đi kèm theo. Vì thế, lời cầu nguyện của họ chạm đến tấm lòng của Thiên Chúa, động lòng trắc ẩn của Ngài.
BÀI ĐỌC II (2Tm 4: 6-9, 16-18)
Đoạn cuối thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê là bản văn cảm động nhất trong số các thư của thánh Phao-lô. Đây là những lời trăn trối sau cùng của người sắp chờ đợi nhận lãnh phúc tử đạo, ấy vậy, những lời vĩnh biệt này lại vang lên khúc ca khải hoàn.
Thánh Phao-lô khảo sát hiện tại một cách nghiêm túc: thánh nhân sắp đổ máu ra làm của lễ. Thánh nhân khảo sát quá khứ với sự sáng suốt: ngài đã kiên vững trong đức tin và đã hoàn thành sứ mạng mà Ngài đã chịu thương chịu khó cho đến cùng. Thánh nhân khảo sát tương lai với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào sự công chính của Thiên Chúa và vào lời hứa vinh quang bất diệt của Nước Trời.
1. Hiến Lễ
Trong các hy lễ của người Do thái cũng như của dân ngoại, người ta đổ dầu hay rượu trên tế vật trước khi hiến tế, như trong Xh 29: 40 hay trong Ds 28: 7. Thánh Phao-lô dâng hiến đời mình thành hy lễ và máu của mình sẽ đổ ra làm rượu tế.
Trước đây, khi còn bị giam cầm có thể ở Ê-phê-xô, và không biết số phận dành cho ngài, thánh nhân gợi lên cho các tín hữu Phi-líp-phê, theo cùng những từ ngữ, tình huống là ngài có thể bị án tử: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em…” (Pl 2: 17).
Thánh Phao-lô sẽ đổ máu mình, nhưng từ lâu ngài đã dâng hiến đời mình làm hy lễ rồi, như ngài đã khuyên nhủ mọi người Ki-tô hữu: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12: 1).
2. Bài ca khải hoàn
Phúc tử đạo này thánh nhân chờ đợi một cách nghiêm túc sẽ là giờ ngài phải ra đi. Thánh nhân gợi ra cái chết của ngài với cung điệu khải hoàn, như người lính chiến đã chiến thắng quân thù, như vận động viên đã dành được vòng nguyệt quế, như người Ki-tô hữu vẫn một mực trung tín cho đến hơi thở cuối cùng: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”.
Thánh Phao-lô nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ trao phần thưởng cho ngài, vào Ngày Quanh Lâm, tức là vào ngày phán xét, và cùng với ngài, cho tất cả những ai đã hết lòng mong đợi Triều Đại Thiên Chúa. Ở phần cuối đoạn văn này, thánh nhân suy nghĩ thêm nữa đến số phận của chính ngài: “Chúa sẽ cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”.
3. Tâm tình cảm tạ và tri ân
Phần thứ hai của đoạn trích hôm nay mang giọng điệu đượm buồn. Thánh Phao-lô chứng thực rằng các bạn đồng hành xưa kia đã bỏ mặc thánh nhân. Không ai trong họ, kể cả các Ki-tô hữu Rô-ma, đến bênh vực thánh nhân, vào lúc thánh nhân bị điệu ra trước tòa lần đầu tiên. Như Chúa Ki-tô trong cuộc khổ nạn của Ngài, thánh nhân bị bỏ mặc; cũng như Chúa Ki-tô, thánh nhân tha thứ: “Xin Chúa đừng chấp họ”. Hành vi cảm tạ tri ân theo liền sau những giọng điệu buồn phiền. Thánh nhân trông cậy mọi sự vào Chúa. Trong suốt sứ vụ tông đồ của ngài, thánh nhân đã nương tựa vào Chúa. Thánh nhân đã thoát khỏi mọi nanh vuốt sư tử nhờ Chúa bảo vệ che chở; ngài đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa trong những giờ phút sắp đến. Và rồi thánh nhân xướng lên bài thánh thi của những người được tuyển chọn: “Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời”.
TIN MỪNG (Lc 18: 9-14)
Đây là dụ ngôn riêng của thánh Lu-ca, một hạt ngọc được đẽo gọt rất tinh xảo. Thánh Lu-ca họa nên chân dung người Pha-ri-sêu vênh vang tự đắc, còn thánh Mát-thêu thì đã kích kịch liệt hạng người này.
Người Pha-ri-sêu, theo nguyên ngữ Do thái có nghĩa “Biệt Phái”, là một bè phái của những người Do thái trí thức và chính thống. Họ tự tách biệt mình khỏi đám đông bởi kiến thức Kinh Thánh và việc tuân giữ Lề Luật nghiêm nhặt của họ. Tuy nhiên, họ biết kết hợp duy luật với tinh thần cởi mở, chấp nhận những sự phong phú của truyền khẩu (trái với nhóm Xa-đốc). Theo thánh Lu-ca, vài người Pha-ri-sêu, thậm chí những bậc vị vọng, đã mời Chúa Giê-su dùng bữa tại nhà họ. Sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử, được sách Công Vụ củng cố khi tường thuật việc một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên, lên tiếng can thiệp cho các tông đồ trong phiên xử của Thượng Hội Đồng (Cv 5: 34-39).
1. Lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác… Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Người Pha-ri-sêu này tiêu biểu những người Pha-ri-sêu tự cho mình là đạo đức bằng việc tuân giữ nghiêm nhặt chẳng những những đòi buộc của Lề Luật, thậm chí còn hơn thế nữa. Ví dụ như Lề Luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay chỉ một ngày, vào ngày lễ Xá Tội, họ còn sốt sáng ăn chay một tuần hai ngày vào ngày thứ ba và thứ năm. Vì thế, họ tự xem mình là người công chính và coi thường những người khác.
Người Pha-ri-sêu mà dụ ngôn miêu tả chân dung của ông ở nơi lời cầu nguyện này rất tương xứng với những gì mà thánh Phao-lô nói về con người Pha-ri-sêu xưa kia của ngài và con người Ki-tô hữu ngày nay của thánh nhân: “Nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi. Vì Người mà tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3: 6-8).
2. Lời cầu nguyện của người thu thuế
Những người thu thuế là những viên chức nhà nước được chính quyền Rô-ma ủy nhiệm thu thuế dân Do thái ở miền Pa-lét-tin. Họ bị thù ghét vì họ cộng tác với chính quyền chiếm đóng và bị đối xử như kẻ trộm cướp vì người ta nghi ngờ rằng họ làm giàu nhờ lạm dụng chức vụ của mình.
Dụ ngôn đưa ra sân khấu một người trong bọn họ. Lời cầu nguyện của người thu thuế này thì trái ngược với lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu về dáng điệu bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Anh ta không dám tiến lại gần, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời. Và lời cầu nguyện của anh chỉ vỏn vẹn một câu, nhưng đầy lòng khiêm hạ: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người thu thuế này, chắc hẳn là một người giàu có như bao người thu thuế khác, lại là một người có tâm hồn khó nghèo, những người mà Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện của họ.
3. Lời kết
Lời kết đặt câu chuyện vào bối cảnh thuần túy của sách Tin Mừng, tức tôn vinh đức khiêm hạ, như Đức Ma-ri-a đã cất tiếng ca trong Bài Ca “Ngợi Khen” (Mangificat):
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).
Lời kết này cũng theo chiều hướng chủ đề của thánh Phao-lô về ơn công chính hóa nhờ Đức Tin chứ không nhờ Lề Luật. Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giê-su không đối lập Lề Luật với Đức Tin (người Pha-ri-sêu là một người tin); nhưng Ngài đối lập tính tự mãn của kẻ lấy mình làm chuẩn mực đạo đức với đức khiêm hạ của người biết nhận ra những bất toàn của mình và cầu xin lòng xót thương của Chúa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
Lời cầu nguyện đích thật là một hành vi đầy khiêm hạ. Cầu nguyện, chính là nhận ra thân phận yếu đuối của con người và đức hạnh mỏng dòn của con người để mà đặt trọn niềm tin, cậy và mến vào Chúa. 10. Mũi nhọn xung kích
(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’ của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn sống động và mang tính khái quát. Rất gọn về số câu, số chữ nhưng lại rất rộng về hàm ý nội dung. Chỉ có hai nhân vật với vài nét chấp phá sơ sài nhưng cũng đủ khái quát cho mọi tầng lớp dân chúng. Chỉ là một thoáng lên Đền cầu nguyện nhưng lại biểu trưng cho mọi sinh hoạt tôn giáo. Chỉ quanh quẩn trong chu vi Đền Thánh nhưng lại điển hình đến nỗi có thể nới rộng ra cả cuộc đời.
Nhưng điều làm cho dụ ngôn sống động đến hôm nay thiết tưởng không những vì tính khái quát ấy mà đáng lưu ý hơn, theo ngôn từ báo chí, còn vì “tính xung kích” với những mũi nhọn không thể tránh né của nó.
Đẹp lắm nhưng cũng đau lắm. Khéo léo lắm nhưng cũng nhức nhối không kém. Xin chia sẻ về tính xung kích ấy.
1. Mũi nhọn thứ nhất: tố giác một não trạng tôn giáo đầy ảo tưởng
Đối với người Do Thái, luật Thiên Chúa là trên hết, đời sống của họ được khuôn đúc theo lề luật, xã hội của họ gắn liền với tôn giáo nên cũng được tổ chức theo lề luật. Đã có những thành phần ưu tuyển chuyên viên về lề luật được gọi là Luật sĩ và cũng có những thành phần khác chú tâm đến việc thi hành luật đến độ tỉ mỉ, đó là mấy ông biệt phái. Luật lệ là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống. Quan điểm ấy không có gì đáng phàn nàn nếu qua lề luật người ta nhận ra bàn tay và tấm lòng của Thiên Chúa luôn dẫn đưa và giáo hóa con người. Nhưng quan điểm ấy trong thực tế đã không giữ được vẻ tinh ròng của nó mà đã bị biến chất dần dà theo năm tháng để trở thành một thái độ tôn giáo kệch cỡm, di căn trong nếp nghĩ và đồng thời méo mó trong thực hành. Và đây là một thực trạng nguy hiểm mà Chúa Giêsu gọi là “men Biệt phái” cũng là điều dụ ngôn hôm nay tố giác.
Nguy hiểm nhất là tất cả đã bị đảo lộn: luật lệ thay vì là phương tiện đã được nâng lên hàng mục đích và Thiên Chúa thay vì là cùng đích lại bị xếp xuống hàng phương tiện.
Nguy hiểm thứ hai là tất cả đã trở thành máy móc: làm như cứ chu toàn một số khoản luật là tức khắc người ta trở thành công chính và có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải ký tên đóng dấu chứng thực cho sự công chính này, giống như kiểu chấm công và báo công trong các xí nghiệp trước đây đã bị báo chí phê bình gay gắt, chấm công thì rất nhiều nhưng việc chẳng chạy bao nhiêu, ấy là chưa nói tới việc công, việc tư, lẫn lộn và thế là vỡ nợ thất bại.
Và nguy hiểm hơn hết là tất cả đã làm thành một ảo tưởng đặc dầy về quá khứ công trạng để rồi thành chuẩn mực phủ định những người không thuộc về phe cánh mình, không giống như mình, không đúng ý mình, kể cả Thiên Chúa nữa.
Ông Biệt phái trong dụ ngôn đã rơi vào cái ảo tưởng mà Chúa Giêsu muốn tố giác này:
Lời kinh của ông khởi đầu bằng tâm tình tạ ơn rất đẹp, nhưng đã nhanh chóng trở nên xấu bởi có ý đồ níu kéo Thiên Chúa thỏa hiệp với lối sống vụ luật “trên mức bó buộc” của ông. Có biết đâu ông đã ảo tưởng. Thiên Chúa vì yêu thương tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, nhưng chính ông lại xây dựng một Thiên Chúa theo hình ảnh của ông.
Và lời kinh của ông còn tồi tệ hơn khi tự hào cho mình là công chính để so sánh mình với đời sống bên ngoài của những người khác. “Đứng thẳng nguyện thầm” có vẻ tốt đấy, nhưng kênh kiệu làm sao và cũng ảo tưởng biết bao. Khẳng định mình đúng cách là tốt, nhưng khẳng định mình bằng cách phủ định kẻ khác, bằng cách dèm pha nói xấu bôi nhọ khinh chê người ta thì quả thật là trơ trẽn.
Và nguy hiểm cuối cùng đến từ những mối nguy hiểm trên là chính mình không còn cảm thấy nỗi hiểm nguy nào nữa, thành ra khô đạo mà tưởng mình sống đạo, phá đạo mà tưởng mình xây đạo, bài tôn giáo ngay giữa lòng tôn giáo và bóp nghẹt Thiên Chúa trong khi tưởng như mình vẫn tôn thờ Ngài, làm lu mờ Danh Chúa mà tưởng như mình đang làm sáng danh Ngài.
2. Mũi nhọn thứ hai: xây dựng một thực chất tôn giáo.
Nếu qua hình tượng ông biệt phái, dụ ngôn muốn tố giác một thứ đạo đức ảo tưởng đầy nguy hiểm, thì ngược lại qua ông thu thuế, dụ ngôn lại nhắm một mục đích tích cực nhưng cũng không kém phân xung kích, đó là xây dựng một nền đạo đức đích thực tôn giáo.
Nền đạo đức đích thực ấy dựa trên những thái độ cơ bản là không phải chỉ tin có Thiên Chúa mà phải tới chỗ tin vào Ngài. “Tin có” và “tin vào” là hai động từ gói ghém những thái độ khác nhau lắm dẫu ở đó đều hiện diện chữ “tin”. Không ít người tin có Thiên Chúa, nhưng để gọi được là tin vào Thiên Chúa thì còn phải hạ hồi phân giải tùy theo chất lượng chứng minh của cuộc sống. Ông biệt phái tin có Thiên Chúa quá đi chứ, nhưng nếu hỏi “ông có tin vào Ngài chưa?” thì phải trả lời là chưa, mà ngược lại, thay vì tin vào Ngài, đời sống ông lại cho thấy chỉ tin vào mình, cậy dựa vào sức mình để kèn cựa sao cho người khác xem mình là công chính.
Còn ông thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.
Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Tin vào Thiên Chúa sẽ gặp được tình thương của Ngài, còn chỉ tin vào mình rốt cuộc lại gặp chính mình trong những ảo tưởng chất chồng. Nhưng cũng phải thưa ngay rằng: luôn luôn có một sự quân bình giữa một đàng là tình thương Thiên Chúa và đàng khác là cố gắng của con người. Chỉ ỷ lại vào tình thương Thiên chúa cũng sẽ rơi vào ảo tưởng như là chỉ ỷ y vào sức mình. Thế nên, đạo đức đích thực chính là dung hòa giữa nỗ lực và cậy trông. Xin mượn kiểu chơi chữ của thánh Augustinô để minh họa. Ngài bảo ai càng cảm nhận về sự khốn cùng của mình, người ấy càng gặp được sự khôn cùng của tình thương Thiên Chúa. Ai sống hết mình với cái miseria của mình, người ấy cũng biết cách để tiếp nhận cái misericordia của Thiên Chúa. Giống như người say rượu một khi biết tật của mình mới hết khướt say.
3. Mũi nhọn thứ ba: cật vấn hôm nay.
Với hai mũi nhọn trên, dụ ngôn đã trở thành sống động và sở dĩ còn sức sống đến hôm nay là vì mũi nhọn thứ ba: dụ ngôn là lời cật vấn gởi đến mọi kẻ tin, ngân vang tới mọi sinh hoạt tôn giáo và len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường. Thế nên vấn đề được đặt ra ở đây trên bình diện cá nhân cũng như tập thể với những thích ứng cần thiết là hãy thử nhận diện cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình.
Có thể ta không gặp sừng sững một ông Biệt phái lộ liễu ngất ngưỡng ở trong lối sống đạo của ta, nhưng biết đâu cái ảo tưởng an toàn khi chu toàn các bổn phận trong đạo như ông biệt phái lại chẳng lây lan len lỏi lập lòe trong tâm thức của mình? Biết đâu lúc này khác hơn một lần ta đã tự ru mình vào giấc ngủ “tự hào” khi bằng lòng với cách thể hiện đức tin hiện tại? Biết đâu đó đây trong ngày sống ta đã chiều theo ý nghĩ so sánh đời ta với đời người khác về phương diện đạo đức, theo kiểu “Trông lên mình chẳng bằng ai, nhưng khi trông xuống chẳng ai bằng mình”? Xưa Chúa Giêsu gọi đó là “men Biệt phái”, nay có lẽ nên gọi là “viris BP” xin tránh xa. Nếu “virus BP” mà giống “dầu nhớt BP liên tục phát triển” như quảng cáo trên tivi thì nguy quá! Trượt té dài dài.
Có thể ta thấy mình bỗng dưng gần gũi với ông thu thuế vì đời ta vương nhiều tội lụy, vì ta đi lễ thích đứng cuối nhả thờ, và vì ta cầu nguyện chỉ mong thật ngắn chẳng thích dài lời như như Phúc Âm kể: “Ông thu thuế đứng dàng xa, không dám ngước mặt, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện: Lạy Chúa xin thương con là kẻ tội lỗi”. Nhưng chưa chắc đâu, bởi ông thu thuế khiêm tốn hết mình để được thứ tha hết tình, còn ta có khi chỉ là khiêm tốn nửa mùa tưởng bở, như thoáng thấy qua trang Nhật Ký của Đức Gioan XXIII ngày nào: “Tôi tưởng mình là cậu bé Séraphim nhưng nhìn kỹ tôi lại thấy mình là một chú Lucife nhỏ”.
Và vượt lên tất cả chính là lời thầm nhủ: hãy tin vào tình thương của Chúa mà sống tốt cuộc sống Ki-tô của mình. Với người này có thể trút bỏ những ảo tưởng tự hào, với người kia có thể là nhen lên lòng sám hối khiêm cung. Riêng cá nhân tôi nhân ngày tròn bảy năm linh mục, cùng với lời tạ ơn Thiên Chúa, lời cảm tạ cha sở và cộng đoàn, cũng sẽ là một lời kinh âm thầm xin được luôn tin vào tình thương Thiên Chúa.
Chiều qua khi đang sắp xếp lại sách vở, nghe cassette nhà ai mở bài “L’amour c’est pour rien” với lời hát “Tình cho không biếu không chớ nên mua bán tình yêu”, bất giác tôi nghĩ về tình thương Thiên Chúa: một tình thương luôn sẵn cho đi, một tình thương chẳng chờ đợi gì, một tình thương không mong đáp trả, một tình thương mãi mãi thứ tha.
Cầu chúc mọi người luôn tin vào tình thương Thiên Chúa để mãi vươn lên trong mọi cảnh ngộ cuộc đời, bởi xét cho cùng mỗi cảnh ngộ cũng là một dụ ngôn sống động ẩn chứa những mũi nhọn xung kích mời ta khám phá không ngừng.
Giáo xứ kia là một giáo xứ gần như toàn tòng Công giáo. Có một người ngoại giáo từ làng khác TN 30-C136
Giáo xứ kia là một giáo xứ gần như toàn tòng Công giáo. Có một người ngoại giáo từ làng khác tới giáo xứ để làm nghề. Vì thế mà anh ta quen biết nhiều người trong giáo xứ. Thấy anh sống tốt, có người gạn hỏi anh: Sao anh không theo đạo với chúng tôi luôn đi. Anh trả lời: Tôi ăn ngay ở lành, không trộm cắp, không giết người, không lừa lọc ai. Đạo nào mà chẳng thế. Tôi sống thế là được rồi.
Nếu sống đạo là chỉ giữ những luật lệ, tránh không phạm tội trọng thì quả thực đạo nào cũng như đạo nào. Bởi cái luân thường đạo lý ở đời đâu mà chẳng vậy. Theo Đạo của Chúa là không chỉ sống tốt ở đời mà còn sống thánh, sống vươn lên vượt ra khỏi cái hạn hẹp quẩn quanh ở đời này.
Trong bài Tin mừng Lc 18, 9-14, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn. Trong dụ ngôn này có hai nhân vật đứng trong cùng một nhà thờ nhưng với hai thái độ khác nhau.
Người biệt phái dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về những gì ông đang có. Ông không xin Chúa thêm điều gì. Ông hãnh diện về những gì ông đã làm được: ông không tham lam, không bất công, không ngoại tình như những người khác. Ông cảm tạ Chúa không về những gì Chúa đã làm cho ông nhưng là những gì chính ông đã làm được. Đi xa hơn nữa, ông biệt phái đã so sánh ông với người thu thuế đang đứng phía cuối nhà thờ: Tôi không như tên thu thuế kia, tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả những hoa lợi của tôi.
Ông dám kết án người thu thuế là kẻ gian tham vì người thu thuế đứng ra lấy thuế của dân mà nộp cho đế quốc Rôma. Nộp đủ chỉ tiêu thì được hưởng huê hồng số thu phụ trội!
Ông dám kết án người thu thuế là kẻ bất lương vì dân Do Thái đang có khát vọng độc lập, thoát ra khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, thì kẻ lấy thuế của dân mà nộp cho ngoại xâm là củng cố thế lực cho đế quốc, là hành động bất lương.
Ông dám kết án người thu thuế là kẻ ngoại tình vì người thu thuế đã đánh mất niềm tin và lòng trung thành với Chúa. Ông đã phản bội Thiên Chúa, đi ngoại tình với đế quốc Rôma.
Ông biệt phái đứng đó trước nhan Thiên Chúa nhưng ông không hướng nhìn lên Chúa. Ông đã nhìn xuống người thu thuế và suy xét lòng mình với những lề luật lẽ đời, ông thấy mình đạo đức. Ông ngẩng đầu cao ngạo và thấy mình xứng đáng được hưởng Nước Trời rồi.
Còn người thu thuế thì ngược lại với thái độ của ông biệt phái. Người thu thuế quả thực đã phạm nhiều điều đáng trách. Nhưng chắc chắn ông không phải là người tội lỗi nhất thế gian. Nếu ông nhìn xuống ông cũng sẽ thấy những người tội lỗi hơn ông nữa. Nhưng người thu thuế đã không nhìn xuống những người khác. Ông ngước nhìn lên Thiên Chúa. Ông suy xét lòng mình trước sự cao cả và tràn đầy tình thương của Thiên Chúa, ông thấy mình quá tội lỗi và thật xấu hổ. Ông không dám nhìn lên Chúa nữa mà chỉ biết cúi đầu ăn năn kêu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).
Người biệt phái nhìn xuống người khác mà không biết nhìn lên Thiên Chúa nên ông dám đứng thẳng để cầu nguyện, để vênh váo. Người thu thuế không nhìn xuống người thấp hèn hơn mình nhưng nhìn lên Thiên Chúa nên ông không dám ngẩng đầu mà chỉ biết cúi mình kêu xin. Người biệt phái cậy dựa vào sức của riêng mình. Còn người thu thuế cậy dựa vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế chỉ lo giữ trọn lề luật, tự hào về những gì mình đã làm được mà không biết đến tình thương của Thiên Chúa. Người thu thuế ăn năn về những điều mình đã lỗi phạm, chạy đến với Chúa với tình con thảo nài xin Chúa xót thương.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã quả quyết: “người này ra về và được khỏi tội còn người kia thì không. Vì tất cả những ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).
Nếu tôi thường xuyên hướng nhìn lên Chúa, sống gắn bó với Thiên Chúa thì mọi sự tôi đã làm được chẳng đáng là gì trước những gì Chúa làm cho tôi. Nhìn lên Chúa tôi chỉ còn biết thờ lạy và cảm tạ Ngài. Tôi ý thức được sự yếu hèn của mình. Và như vậy tôi không còn dám chê trách ai vì tôi quá tội lỗi, tôi đâu có đáng gì. Tôi chỉ còn biết nài xin Chúa thương xót và cứu vớt lấy mình, cứu vớt lấy người anh chị em đang sống quanh tôi. Tôi hiểu được sự đau khổ của người khác và sẵn sàng cảm thông, chia sẻ với người khác trong cuộc sống hằng ngày.
Theo đạo là để sống với mọi người và luôn hướng lòng về với Chúa. Theo đạo là bước đi trên con đường tiến tới sự thánh thiện mà Thiên Chúa là đích điểm. Người tín hữu sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Tiêu chuẩn sống của người có đạo là tiêu chuẩn Nước Trời. Sống không chỉ để tránh làm điều bất trung bất nghĩa, nhưng còn phải yêu thương, phục vụ, và nên thánh. Người có đạo luôn bước đi với đôi mắt ngước nhìn Trời.
Lạy Chúa, giữa đêm tối mịt mùng xin Ngài cất tiếng, để con định hướng lòng con về với Ngài. Con chỉ là phận hèn tội lỗi, xin thánh hoá con và kéo con đi trên con đường nên thánh.
Một người cha dẫn đứa con nhỏ ra thăm đồng lúa đang độ chín vàng chờ ngày thu hoạch. Lần đầu TN 30-C137
Một người cha dẫn đứa con nhỏ ra thăm đồng lúa đang độ chín vàng chờ ngày thu hoạch. Lần đầu tiên được tung tăng giữa cánh đồng bao la và được nhìn tận mắt những bông lúa mà bé chỉ được nghe kể bằng lời, cháu bé tỏ ra thích thú và lên tiếng hỏi ba:
- Bố ơi! Tại sao có những bông lúa cúi đầu xuống và cũng có những bông lúa khác vểnh đầu lên?
Người cha đáp:
- Những bông lúa cúi đầu là những bông lúa no đầy, chắc hạt, sẽ trở thành những hạt gạo ngon lành; còn những bông vểnh đầu lên là những bông lúa lép, chẳng có gì bên trong, chỉ còn là vỏ trấu.
Hình ảnh bông lúa cúi đầu đã in sâu vào tâm trí người dân Nhật từ rất xa xưa. Người Nhật xem bông lúa cúi đầu là biểu tượng cho những người khiêm tốn, chín chắn, có phẩm chất cao đẹp; còn bông lúa vểnh đầu lên là biểu tượng cho những người huênh hoang, rỗng tuếch.
Thế là từ đó, người Nhật rút ra một câu phương ngôn nhớ đời, in sâu vào tim óc các thế hệ về sau, đó là câu “Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu.” hoặc: “Bông lúa cúi đầu là bông lúa chín.”
Qua phương ngôn này, những bậc tiền bối người Nhật muốn dạy con cháu: “Hãy khiêm tốn cúi đầu” trước mọi người, để chứng tỏ mình là người đức hạnh.
Thế là nền văn hóa cúi đầu ăn sâu vào máu thịt người Nhật cũng như người Hàn quốc. Khi gặp nhau, họ chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cách khiêm tốn; ông chủ cúi đầu trước khách hàng vì xem khách hàng là ân nhân; nhân viên phục vụ trên sân ga cúi đầu chào khách khi đoàn tàu chuyển bánh; cô trực thang máy cúi đầu chào khi có người đi vào, đi ra cửa thang máy… Đâu đâu cũng đầy dẫy những người chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cung kính. Bản sắc của người Nhật là như thế và đó cũng là yếu tố làm cho thế giới càng nể phục họ hơn.
Bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập đến hai nhân vật, một người cúi đầu và một người huênh hoang ngẩng đầu cao.
Người biệt phái được Chúa Giê-su đề cập trong Tin mừng hôm nay thuộc dạng bông lúa vểnh đầu cao. Ông ta là người đầy tự phụ, huênh hoang, phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác. Ông cầu nguyện với Chúa bằng những lời lẽ trịch thượng như sau: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Còn người thu thuế thuộc dạng bông lúa cúi đầu. Ông ta vốn biết thân, biết phận thấp hèn, tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 9-14).
Thái độ khiêm tốn của người thu thuế làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên cho dù ông mang nhiều tội, ông cũng được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc; trái lại, thái độ tự phụ tự cao của người biệt phái bị Chúa Giê-su chê trách và lên án.
Tại sao vậy? Chúa Giê-su cho biết lý do: “Vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
Ngoài ra, vì khiêm tốn là đức tính cao đẹp và cần thiết nên Chúa Giê-su cũng đã nhiều lần mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29).
Ngoài ra, Mẹ Maria cũng răn dạy chúng ta phải coi chừng hậu quả của thói kiêu căng, qua câu nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.” và Mẹ khuyến khích chúng ta sống khiêm nhường, qua lời dạy: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 51-52).
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa dạy chúng con chớ dại dột nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như người biệt phái trong câu chuyện trên đây, cũng đừng tranh dành chỗ quan trọng (như trong dụ ngôn bữa tiệc) kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (Luca 14, 7-11).
Xin cho chúng con biết cư xử khiêm nhường như Chúa để được Chúa rót đầy ân sủng và đổ đầy tình yêu thương.
Hai người lên Đền thờ cầu nguyện, nghĩa là họ đến trước mặt Chúa. Người Pharisêu hiên ngang TN 30-C138
Hai người lên Đền thờ cầu nguyện, nghĩa là họ đến trước mặt Chúa. Người Pharisêu hiên ngang dõng dạc, lên tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi tạ ơn Chúa, vì tôi không (xấu xa) như những người khác…”
Đọc dụ ngôn này, tự nhiên chúng ta có cảm tưởng là người Pharisêu này đáng ghét, kiêu căng, tự mãn. Đúng thế, nhưng chúng ta đừng vội phê phán, cũng đừng quá nghiêm khắc. Phải công nhận rằng người Pharisêu này cũng đáng khen trên khía cạnh nào đó. Anh biết tạ ơn Chúa. Đó là một điều hợp lý và phải lẽ. “Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần”. Như thế anh cũng tốt đấy chứ! Chúng ta dám ăn chay như anh không? “Tôi dâng một phần mười hoa lợi của tôi”…“Tôi không tham lam, không bất công, ngoại tình…” Tất cả những việc lành ấy thật tốt và rất đáng khen. Người Pharisêu giữ luật rất chính chắn và họ lấy làm vinh hạnh vì đã giữ luật một cách trọn hảo. Nhưng nhiều lần Chúa Giêsu đã kịch liệt phản đối người Pharisêu vì họ chỉ biết giữ Luật theo hình thức mà không biết yêu mến Chúa. Họ đã bỏ quên điều răn trọng nhất. Họ phô trương công đức trước mặt thế gian… mà quên rằng Chúa mới là Đấng phán xét chí công, sẽ ân thưởng mọi người theo công việc họ làm…
Thánh Âu–tinh nói: “Không có gì xấu xa cho bằng kiêu căng vì nhân đức.”
Người Pharisêu trong dụ ngôn thật sai lầm khi tự ban cho mình bằng cấp công chính. Nhưng nhìn về bản thân chúng ta, chúng ta có hơn người Pharisêu đó không? Có lẽ chúng ta đôi khi cũng cảm thấy hài lòng vì những việc đạo đức của chúng ta, và rất nhiều khi, chúng ta phê phán những anh chị em khác… Tinh thần Pharisêu chưa chết đâu! Nó vẫn sống và vẫn sống rất dai! Trong mỗi người chúng ta, nếu chúng ta thành thật với chính mình, chúng ta vẫn che giấu một anh Pharisêu nào đó… Chúng ta không nói ra như anh Pharisêu kia, nhưng âm thầm có lẽ chúng ta cũng bằng lòng với thực trạng đạo đức của mình… Chúng ta còn “men Pharisêu” trong xương tủy chúng ta.
Chúng ta hãy nhìn về nhân vật thứ hai của dụ ngôn: người thu thuế.
Anh lên Đền thờ cầu nguyện. Người thu thuế bị loại ra khỏi cộng đoàn, bị xem như những phần tử xấu xa nhất trong xã hội Do Thái, bóc lột và làm tôi mọi cho ngoại bang… Có lẽ anh còn một chút lòng đạo nào chăng? Anh còn nhớ đến Chúa mặc dù anh đang sống trong tình trạng bất hợp pháp.
Chúa Giêsu nói: “Anh đứng xa, không dám ngước mặt lên trời”, một thái độ e sợ, khiêm tốn, vì anh thấy mình không xứng đáng đến trước mặt Thiên Chúa. Người Do Thái vẫn có một tâm thức hết sức rõ ràng về sự cao cả của Thiên Chúa. Chúng ta nhớ thái độ của Mô-sê, của tiên tri Isaia… Anh ý thức tình trạng tội lỗi của mình và tỏ ra lòng khiêm nhượng của mình bằng một thái độ thành thật. Chúa Giêsu nói thêm: “Anh đấm ngực” tỏ lòng thống hối và cầu nguyện bằng một lời thôi: “Xin Chúa thương xót tôi là kẻ có tội”.
Nhìn nhận mình là kẻ có tội một cách thành thật là một thái độ mà không mấy người làm được. Chúng ta cũng nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta, nhưng qua loa, hời hợt. Chúng ta cần tìm lại sự thật của lòng mình. Ý thức một cách chân thành tình trạng không mấy tốt đẹp của mình, Hãy lột hết tất cả những mặt nạ của chúng ta để ánh sáng của Chúa có thể chiếu tỏa chan hòa trên khuôn mặt tội lỗi của chúng ta và ban ơn tha thứ cho chúng ta. “Có thì nói có, không thì nói không”, Chúa Giêsu đã dạy như thế.
Sự lầm lẫn của người Pharisêu là tự cho mình phần thưởng, vì họ tưởng rằng họ có thể được ân thưởng vì những việc họ làm mà không nghĩ rằng chỉ có Thiên Chúa là Thẩm phán chí công mới ân thưởng cho mọi người tùy theo những việc họ làm với lương tâm trong sạch, với tâm tình khiêm tốn. Giá trị của chúng ta không phải là những gì chúng ta tự đánh giá. Chúa không nhìn dáng vẻ bề ngoài, nhưng là nhìn tận tâm can. Chúng ta nhớ lời Chúa nói với tiên tri Samuen khi chọn Đa-vít: “Đừng nhìn dáng vẻ bên ngoài. Ta nhìn tận tâm can”…
Chỉ một mình Chúa mới biết chúng ta như thế nào. Chúng ta không cần phải phô bày thành tích của chúng ta. Chúa dệt chúng ta từng sớ thịt trong dạ mẹ. Cha chúng ta trên trời đủ sáng suốt để biết chúng ta đã sống thế nào…
Vấn đề của chúng ta là hãy sống trước mặt Chúa như Chúa đã dạy Abraham: “Hãy đi trước mặt Ta và hãy sống trọn lành”.
Bài học Chúa Giêsu hôm nay rất thực tế và dễ hiểu, nhưng cũng rất khó thực hành vì vô tình hay hữu ý, chúng ta vẫn không bao giờ thành thật trọn vẹn với chính mình và luôn so sánh với người khác. Đó là một căn bệnh mà không bác sĩ nào có thể chữa lành. Chỉ có một vị lương y duy nhất có thể giúp chúng ta mà thôi, đó chính là Đấng đã dạy chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng.”
Bước vào thánh lễ hôm nay, chủ tế đã mời gọi chúng ta nhìn nhận tội lỗi và xin Chúa thương xót thứ tha cho chúng ta. Với một tâm hồn khiêm tốn như thế, của lễ của chúng ta mới đáng Cha trên trời chấp nhận và chúng ta mới có thể nhìn về Chúa một cách tin tưởng. Chúng ta còn được mời gọi dự bàn tiệc của Chúa. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể với tất cả niềm tin để thấy rằng Chúa chúng ta là một Thiên Chúa khiêm tốn tuyệt đối. Vì thương chúng ta, Ngài không từ chối nhận lấy thân phận một tấm bánh, hình thức nhỏ bé nhất, nhờ đó Ngài đến tận trong con người chúng ta và giúp chúng ta sống với Ngài, như Ngài. Nếu không có Chúa Giêsu sống trong chúng ta, cuộc đời chúng ta sẽ là gì? Hãy cầu xin Ngài ở lại mãi trong chúng ta và giúp chúng ta sống đẹp lòng Cha trên trời hơn là ganh đua với thế gian, sống khiêm tốn quên mình để cho Danh Cha cả sáng.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu TN 30-C139
Chúa Giêsu kể dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế, có ý cho thấy cái tai hại của những người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê những người khác.
Dụ ngôn khiến chúng ta phải nhìn lại chính mình và thấy rằng nhiều khi chúng ta cũng có thái độ giống như người biệt phái mà chính chúng ta cũng không ngờ, không hề hay biết.
Chẳng hạn chúng ta có thể có ý tưởng và cầu nguyện như những mẫu sau:
Nhìn về một người sống lang thang, lười biếng, một người cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa, là vì con đã có được một việc làm tốt, con đã biết sống tiết kiệm. Con biết quý trọng những đồng bạc do mồ hôi nước mắt làm ra. Con không giống như những người không lo làm ăn, cứ lang thang, la cà hết chỗ này đến chỗ nọ, ăn xài phung phí.
Nhìn về một người rượu chè say sưa, đánh đập vợ con, một người khác cầu nguyện: Lạy Chúa, con có uống rượu, nhưng uống chừng mực, con biết lúc nào nên dừng lại. Con không như cái thằng cha kia. Hôm nào cũng say xỉn, ăn nói lè nhè, thật đáng xấu hổ, lại còn đánh đâp vợ con nữa chứ!
Nhìn về một người đạo đức cầu nguyện trong nhà thờ, một người dự lễ, nhưng đứng bên ngoài nhà thờ cầu nguyện và thấy mình khiêm tốn hơn. Ông cầu nguyện: Lạy Chúa, con không sốt sắng đạo đức mấy, con ngồi ở ngoài là để cho người ta thấy lòng khô đạo của con. Con không muốn người ta thấy con có vẻ đạo đức. Họ cho mình là xứng đáng để thờ phượng Chúa, nhưng ngoài nhà thờ họ lại sống như không có đức tin. Như cái bà kia sáng đi lễ chiều đi nhà thờ mà về nhà thì chưởi rủa um sùm, chưởi con cái, chưởi hàng xóm; chưởi không ai bằng!
Tất cả những người kể trên đều thành thật với chính mình. Họ không nói dối. Họ đã nói những gì họ làm. Người biệt phái trong dụ ngôn Chúa Giêsu cũng vậy. Ông ta rất thành thật, đã giữ luật Chúa rất kỹ lưỡng. Còn hơn thế nữa, ông muốn làm nhiều hơn luật dạy để đẹp lòng Chúa. Luật chỉ dạy ăn chay một năm một lần, nhưng ông ta ăn chay hai lần một năm. Quả là một tâm hồn nhiệt thành. Và nữa, thuế thập phân chỉ áp dụng cho một số sản phẩm. Còn ông ông áp dụng cho tất cả lợi tức của ông.
Vậy thì ông đã sai lầm, hay ngay chính chúng ta cũng đã sai lầm, đã xấu. Hãy xét thêm là sự sai lầm hay xấu xa đó là ở chỗ nào?
Thứ nhất, đó là thái độ của ông đối với Chúa. Ông muốn kể công với Chúa. Dường như ông ta muốn Thiên Chúa phải nhìn đến những điều xấu mà ông đã tránh được và nhìn vào những việc tốt lành mà ông đã làm được. Thiên Chúa như đang mắc nợ ông, phải thưởng công cho ông.
Thứ hai, thái độ của ông đối với người thu thuế. Ông đã nhìn xuống và đã có thái độ khinh dễ kẻ khác. Ông ta nghĩ rằng ông ta tốt, khi đem so sánh với cái xấu của người thu thuế.
Người biệt phái trong câu chuyện được Chúa Giêsu dùng như một cảnh giác cho chúng ta, những người được coi là đạo đức, lương thiện. Vì lẽ, ít ra chúng ta nhận thấy mình: tin có Chúa, dự lễ ngày Chúa Nhật, đi xưng tội rước lễ thường xuyên; mình tuy có lỗi phạm đó, nhưng mà nhè nhẹ thôi, vì mình đâu có gian dâm, đâu có dối gạt ai, đâu có giết người cướp của... Rồi nhìn ra chung quanh, ra xã hội, ra thế giới, chúng ta thấy quá nhiều, dối trá, lừa gạt, quá nhiều tội ác, tham nhũng hối lộ, trộm cắp ... trong khi đó, chúng ta sống chân thật, không tham lam gì cả, còn làm việc từ thiện phước đức nữa chứ!
Chúng ta có thể không nói to, nói lớn ra hay cầu nguyện nho nhỏ rằng: “Con cảm ơn Chúa vì con không như họ...” nhưng mà trong thâm tâm, trong chính tư tưởng, chúng ta làm vẫn thường có cái tự hào, vì sự tin Chúa, vì sự giữ đạo tốt, vì những việc đạo đức, việc tốt chúng ta đã làm.
Chúng ta nghĩ rằng mình có công lao, có đạo đức, hay ít ra là người đàng hoàng, ngay chính, không làm điều gì thất đức.
Còn người thu thuế nói: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" (Lc, 18,13).
Anh ta nói lên một sự thật. Sự thật thứ nhất là anh tuyên xưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và anh tín thác vào Ngài. Sự thật thứ hai là anh tội lỗi. Anh không dám sánh mình với kẻ khác. Anh chỉ nhìn xuống, không dám ngẩng đầu lên.
Anh chân thành cầu khẩn Chúa. Trọng tâm của anh là không hướng về mình nhưng hướng về Chúa. Anh không tin tưởng vào sự tốt lành của mình nhưng tin tưởng vào sự tốt lành của Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu đã nói: “Người này, khi trở xuống và về nhà thì được công chính rồi, còn người kia thì không.” (Lc, 18,14).
Dụ ngôn của Chúa Giêsu về hai người lên đền thờ cầu nguyện cho chúng ta thấy có mối nguy hiểm phát sinh từ lối sống tự nhận mình là đạo đức và có ý phê bình người khác. Nó dễ làm cho mình kiêu ngạo, xa rời Thiên Chúa và anh em.
Cái gian tham, dối trá, cái xấu xa tội lỗi của xã hội của những người khác, ta dễ nhận ra, để rồi phê bình chỉ trích. Ngay trong họ hàng, gia đình, chúng ta cũng dễ thấy, dễ nhận ra cái tham lam, cộc cằn thô lỗ, cái ích kỷ, bất lịch sự, cái khô đạo... của người vợ người chồng, của người bà con chú bác, của ông bà xui gia. Chúng ta không thấy cái tốt, mà chỉ thấy cái xấu, cái sai của họ và thấy mình là tốt, là đúng!
Rõ ràng là cái kiểu nhận thức đó khiến gây xung đột trong gia đình, trong xã hội. Nếu mỗi người khiêm tốn hơn, chắc sẽ không có xung đột, không có làm khổ cho nhau, không có chiến tranh. Xin Chúa giúp con người chúng ta có lòng khiêm tốn thật sự, nhìn nhận cái yếu kém của mình để luôn tin cậy vào tình thương của Thiên Chúa.
Trong kinh Bảy mối tội đầu, Hội Thánh dạy: “Thứ nhất Khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Vì sao140
Trong kinh Bảy mối tội đầu, Hội Thánh dạy: “Thứ nhất Khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Vì sao chúng ta phải khiêm nhường chớ kiêu ngạo? Vì trong con người chúng ta luôn có hai bản năng khiêm nhường và kiêu ngạo nhưng chúng ta là con người có trí khôn và ơn Chúa giúp chúng ta sống khiêm nhường để trở thành nhân và thành thánh nếu không thì sẽ thất bại, tội lỗi. Chẳng hạn, trong phim “Tây Du ký”, mới đầu con khỉ Tôn Ngô Không mới sinh ra thì ngoan hiền, sau này muốn bằng trời nên mới tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh nên mới bị trừng phạt giam cầm dưới núi và sau này cũng không thành Phật. Còn trong Thánh Kinh, chúng ta thấy Thánh Phê-rô, sau một đêm vất vả chài lưới chẳng bắt được con nào, gặp Chúa, Chúa cho mẻ cá đầy thuyền. Đó là thất bại một đêm vì kiêu ngạo không cần Chúa, để ông khiêm nhường chuẩn bị cho thành công một giờ. Lần khác, Ngài đã thất bại một giờ chối Chúa, để khiêm nhường chuẩn cho thành công một đời làm vị thủ lãnh trong khiêm nhường thẳm sâu, và đền bù bằng một tình mến nồng nàn. Rồi, qua lời khiêm nhường của thánh Gioan Tẩy Giả: “Tôi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế” (Mt 3, 11). Chúa đã đáp trả bằng một lời tôn vinh mà Ngài có nằm mơ cũng không thấy: “Trong con cái loài người không có ai cao trọng bằng Gioan”. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11), điều đó cũng có nghĩa rằng ai coi mình là con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Thiên Chúa ngự trị. Còn ai cho mình là đầy đủ, thì lại bị loại bỏ, rơi vào con số không.
Vì vậy, khiêm nhường là một nhân đức được Thiên Chúa yêu mến, còn tính tự cao, tự đại, cao ngạo là một mối tội. Khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu chố trũng thấp, để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, mà những hồng ân đó không thể dừng lại ở những đồi núi kiêu ngạo, nhưng chảy xuống và động lại ở những thung lũng dưới chân đồi là khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi, phục vụ yêu thương tha thứ và sẻ chia. Còn kiêu ngạo sẽ làm chúng ta tự mãn, bất cần Chúa và mọi người, khinh chê và sống phóng đảng. Cho nên, qua trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ khiêm nhường và thống hối trong cầu nguyện để nhờ đó mà không bao giờ kiêu ngạo, khoe khoan, bê bai người khác.
Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho thấy thái độ của hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái, người biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, gọi là cầu nguyện nhưng thực ra anh ta lên đền thờ để đọc một bài báo cáo thành tích dài trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Ông tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Và ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông nhiều ơn khác nữa. Điều đáng chú ý nữa là ông tỏ ra khinh miệt người khác, khi so sánh công trạng mình với người thu thuế tội lỗi, trước mặt Chúa. Thế nhưng, sai lầm lớn nhất của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của ông và lời cầu nguyện khiêm nhường trong tâm tình sám hối, cần được Thiên Chúa tha thứ và xót thương. Ông nhận thấy mình thiếu thốn, yếu hèn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Ông kêu xin với lòng khiêm nhường và ông đã được Thiên Chúa nhận lời ban ơn tha thứ và ra về nên người công chính. Như Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy: “Vì Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức. Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa”.
Trong đời sống Đạo, chúng ta rất dễ rơi vào lối sống Đạo kể lể công đức với Chúa và với mọi người để rồi chê bai, khinh bỉ người khác: tôi vẫn đi lễ Chúa Nhật mỗi tuần, tôi chẳng trộm cắp giết người hay làm thiệt hại của ai, tôi và gia đình vẫn dâng cúng ủng hộ đóng góp cho nhà thờ cái này, cái kia, tôi còn làm ông này bà nọ trong cộng đoàn…, mà chúng ta quên không biết rằng mình được như thế là do ơn Chúa ban để khiêm tốn tạ ơn Chúa và thờ phượng Ngài trong yêu thương đồng thời biết sẻ chia đồng hành và nâng đỡ người kém may mắn hơn, kém đạo đức hơn hoặc nghèo hơn mình thay vì tự mãn, khinh chê người khác. Bởi lẽ, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều là những yếu kém và tội nhân. Cho nên, Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa thương giúp mỗi người chúng ta luôn biết sống khiêm nhường nhờ đó biết yêu thương, tôn trọng và nhân ái với tất cả mọi người. Và khi cầu nguyện, chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện của người thu thuế mà thưa lên với Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi, con là kẻ thấp hèn yếu đuối, xin nâng đỡ phù trì con” – Amen.
Sáng nay, lên mạng, tôi say sưa với câu chuyện đầy ý nghĩa “Nắng chiều dọi lên hiên nhà bà TN 30-C141
Sáng nay, lên mạng, tôi say sưa với câu chuyện đầy ý nghĩa “Nắng chiều dọi lên hiên nhà bà Thảo, con Phúc buồn buồn nằm tắm nắng. Những vết thương lở loét trên khắp thân thể nó như đang lành, ngứa ngáy khó chịu nhưng nó không buồn đưa chân lên gãi. Giờ này mấy đứa con nó đều đang lẩn quẩn trong nhà, không dám ra ngoài này vì sợ thằng Bạo nên chẳng ai quấy phá nó. Nó nằm lim dim không ngủ, hồi tưởng về tất cả những gì xảy ra trong đời nó.
Cuộc đời nó, lẽ ra cũng êm ả, hạnh phúc như bao nhiêu con chó khác vì nó may mắn có được bà chủ tốt bụng. Bà Thảo thương nó lắm. Ngày nó còn trẻ, sạch sẽ, bà dẫn nó đi nhiều nơi lắm. Bà thương nó như những đứa con của bà. Câu chuyện chỉ bắt đầu từ khi cái gã chủ quán thịt cầy dọn tới ở sát bên nhà.”(1)
Đọc xong, tôi nghĩ ngay tới thân phận người thu thuế trong xã hội đạo đời Do thái ngày xưa. Dưới mắt ông Pharisêu, người thu thuế có khác gì con Phúc? Nhưng cuộc đời cứ nhìn nhau như vậy, liệu có giải quyết được vấn đề gì không? Xã hội và Giáo hội đi tới đâu?
KHÚC CA LÊN ĐỀN
Tất cả những khó khăn trong cuộc sống đều bắt nguồn từ sự vô minh về bản thân. Hôm nay, Chúa đưa ra hình ảnh hai người đang cầu nguyện trong đền thờ, để mọi người thấy ngay cả đạo đức cũng cần xét lại. Ngay cả trong việc cầu nguyện, chưa chắc đã tìm được sự công chính cần thiết cho Nước Trời. Chính trong tương quan với Thiên Chúa tha nhân, con người có thể xác định bản chất và những công việc của mình.
Cầu nguyện với Thiên Chúa trong Đền thánh không phải là một việc ngoài chợ. Thế mà con người vẫn còn bị những thứ tiếng động quấy phá. Tiếng động không phát xuất từ bên ngoài, nhưng từ chính nội khảm của cái tôi. Không có lời cầu nguyện nào ồn ào như lời nguyện phát xuất từ miệng lưỡi người Pharisêu hôm nay. Ông thấy mình đứng giữa một tương quan hai chiều, với Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng cả hai tương quan đều cho thấy ông đang đánh mất chính mình. Trước nhan Chúa, ông khoe khoang mọi việc đạo đức của mình. Làm như Thiên Chúa cũng cần ông mách nước mới khám phá những kỳ công đạo đức trong cuộc đời! Đối với tha nhân, tương quan của ông cũng chẳng êm thắm chút nào. Cái tôi của ông phì nộn tới mức báo động. Ông thấy mình vượt xa đồng loại, nhất là người thu thuế đang cầu nguyện với ông trong đền thờ. Tóm lại, ông muốn Thiên Chúa phải khâm phục trước những việc phi thường ông đã thực hiện.
Ngay cả sự công chính của con người cũng phải xét lại. Mù quáng và kiêu ngạo chi phối vào tận lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: trộm cướp, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” (Lc 18:11) Những việc đạo đức đã làm ông lóa mắt đến nỗi không nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa. Đúng hơn, ông muốn biến Thiên Chúa thành một con nợ. Có một khoảng cách giữa niềm tin Thiên Chúa và công việc đạo đức. Dựa trên những việc đó, ông nghĩ mình có thể tự cứu lấy mình.
Trái lại, người thu thuế cảm thấy mình hoàn toàn bất lực vì tội lỗi. Ông cảm thấy không thể tự cứu và không xứng đáng xuất hiện trước Thiên Chúa. Tất cả tùy thuộc lòng quảng đại của Thiên Chúa. Bởi đó, ông kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Nhìn lại mình, ông thấy toàn những công việc bất chính, nhất là đã cộng tác với đế quốc đàn áp dân tộc bằng chính sách sưu cao thuế nặng. Cái nhìn của dân chúng về ông và nhóm người như ông quả không sai. Cùng với những bọn đĩ điếm và ngoại giáo, ông bị xếp vào hạng những người tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu lại thích giao du và ăn uống với hạng người này. Chúa không đến kêu gọi người công chính, nhưng những người tội lỗi (Mt 9:13 và 11:19). Chúa qủa quyết những người thu thuế và bọn đĩ điếm vào Nước Thiên Chúa trước những tư tế và trưởng lão trong dân (Mt 21:31).
Chúa biết có những người thu thuế đáng kính, những người trở lại như Lêvi (Mt 10:3), Giakêu (Lc 19:2), hay như người đã gợi hứng cho Chúa nói dụ ngôn này. Chính sự khiêm tốn trong lời cầu nguyện đã làm cho người tội lỗi trở thành người công chính. Lý do vì chỉ có tâm hồn như thế mới thấy và đón nhận được tất cả hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Khi nhìn nhận mình yếu đuối, người thu thuế ngấm ngầm nhìn nhận mình cần một “đấng cứu độ.” Ông nhận biết mình không thể đơn thương độc mã thoát khỏi tình trạng tội lỗi. Ông nói lên sự thiếu thốn của mình và thú nhận mình cần đến Chúa để học cách yêu thương. Còn Pharisêu tự tin mình hoàn hảo, tự mãn và tự cao. Đây là một bi kịch: ông tin mình có thể sống mà không cần đến Thiên Chúa. Tự thâm tâm, ông luôn ca bài: “Không! Không! Tôi không cần yêu ai nữa!” Ông không cần ai, kể cả Thiên Chúa.
Thực tế, chỉ những ai nhìn nhận mình “mỏng giòn,” yếu ớt, thiếu thốn mới có thể đọc lên lời kinh thấu đến tận con tim Đấng Cứu Độ. “Lời nguyện của người nghèo vươt ngàn mây thẳm.” (Hc 35:17) Triết gia Emmanuel Levinas cũng nói: “Chỉ khi bị tổn thương, bản thân mới có thể yêu thương tha nhân.” Điều đó đúng từ trong sách vở đến ngoài thực tế. Tra tự điển Anh Pháp, chúng ta sẽ thấy chữ “prayer” (prière, cầu nguyện) và “precarious” (précaire, mỏng giòn) đều có cùng gốc La tinh (precarius). Thật là thú vị.
Trong mỗi người đều có người thu thuế như thưa lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Con biết sự công chính của con không do chính con, nhưng do Chúa, nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô!” (Rm 3:22) Dụ ngôn không ngừng dạy chúng ta một bài học đơn giản: Chúa cực kỳ thánh thiện, còn chúng ta là những tội nhân. Đó là điều làm chúng ta xa cách Chúa nhất, nhưng cũng là điều làm chúng ta hướng về Chúa nhất. Thay vì tìm những việc tốt để khoe khoang, nêu cao những công trình, biện minh cho chính mình, chúng ta cần noi gương người thu thuế, nhận thực về mình: “Chính khi ta nói với Thiên Chúa: con hư vô, thì Chúa nói: Ta làm cho con hiện hữu. Chính khi ta nói với Thiên Chúa: con tội lỗi, thì Chúa nói: Ta tha thứ và yêu thương con. Khi tự đặt mình vào số phận chân thật nhất, chúng ta có thể có tất cả, không chỉ cho mình, nhưng còn cho tha nhân. Trái lại, nếu tự phụ, chúng ta sẽ đánh mất tất cả và chẳng làm ích gì cho ai, dù chúng ta có là gì và quyền lực tới đâu.
BIẾT MÌNH BIẾT NGƯỜI
Vì không biết mình, Pharisêu không thể trở nên công chính. Cá nhân bất chính, xã hội tắc loạn. Nhiều lần Chúa Giêsu khiển trách họ sống công chính theo mã bề ngoài, trong khi bên trong “đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” (Lc 11:39) Lúc nào miệng cũng hô hào phải tuân giữ lề luật. Nhưng thực tế, họ “xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa.” (Lc 11:42) Không những cá nhân mà cả tập thể tôn giáo và xã hội đều xây dựng trên sự thật ảo.
Về phương diện thiêng liêng, những con người giả hình không có khả năng hướng dẫn ai. Suốt đời họ nỗ lực “khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào!” và “làm cho (thiên hạ) đáng xuống hỏa ngục gấp đôi.” (Mt 23:13.15) Về phương diện xã hội, không những họ không bao giờ phục vụ ai, mà còn ra sức bóc lột người nghèo. Bằng chứng, họ “nuốt hết tài sản của các bà góa” (Mt 23:14) để vinh thân phì da. Tôn giáo của họ là một rừng nghi lễ. Một đoàn người theo họ đang lạc lõng bơ vơ như mất định hướng, vì chính họ đã dẹp “bỏ diều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín.” (Mt 23:23) Bởi thế, họ không ngần ngại nhúng tay vào những tội ác như sát hại các ngôn sứ (x. Mt 23:34).
Niềm tin Pharisêu là một niềm tin cứng ngắc và đầy hình thức. Niềm tin đó không đem lại sự giải thoát cho nhân loại. Cũng không thể tìm thấy công lý nơi lối sống đạo thiếu chiều sâu đó. “Quả thực, công lý không phải là một khê ước thuần túy nhân loại, vì điều ‘công chính’ trước tiên không phát xuất từ lề luật, nhưng từ căn tính sâu xa của con người quy định.” (2) Nếu không bắt nguồn từ căn tính sâu xa đó, tôn giáo sẽ bất lực trong việc giải quyết mọi vấn đề của con người và xã hội. Công lý cũng không hiện diện trong các tổ chức tôn giáo đó. Dĩ nhiên, “tự bản chất, công lý không đủ. Thực thế, nếu không mở ra đón nhận quyền năng sâu xa hơn, tức tình yêu, công lý có thể phản bội chính mình. Thực vậy, Học Thuyết Xã Hội của Giáo hội đặt giá trị tình liên đới bên cạnh giá trị công lý, mở ra con đường độc đáo dẫn tới hòa bình.” (3) Nhìn lại lời nói và hành động của Pharisêu, chúng ta thấy ông vừa thiếu công lý vừa phá tan mối dây liên đới với đồng loại. Làm cách nào có thể hòa giải hòa hợp hai lối sống và nếp nghĩ khác nhau như thế?
Thiếu sự hiểu biết về Thiên Chúa và tha nhân, Pharisêu đã hoàn toàn thu gọn tầm nhìn vào những công trình cá nhân. Nhưng “không thể yêu thương tha nhân như chính mình, và kiên trì trong hành động này nếu không quả quyết mạnh mẽ và kiên nhẫn hành động mưu ích cho tất cả và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm với mọi người. Theo giáo huấn Công đồng, chúng ta phải tôn trọng và yêu thương những người suy nghĩ và hành động khác chúng ta về những vấn đề xã hội, chính trị, và tôn giáo. Thực vậy, càng suy nghĩ sâu xa về những cách suy nghĩ cách êm ái, càng có thể dễ dàng đối thoại với họ.” (4) Thực tế, cuộc đối thoại không dễ dàng thực hiện, vì còn tùy thuộc quan niệm và cách xử sự của đối tác nữa.
Làm sao đối thoại với Pharisêu khi ông tự nâng mình lên chín tầng mây xanh? Muốn bắt đầu đối thoại, cần phải có bình đẳng và công lý. Công lý đòi mọi người phải tôn trọng nhau như những nhân vị. Cuộc đối thoại chỉ có thể thành công, khi mọi người đều nhắm đến công ích. “Nguyên tắc hướng dẫn công ích có liên quan tới mọi mặt đời sống xã hội, nếu đạt đến ý nghĩa trọn vẹn, phát xuất từ phẩm giá, sự hiệp nhất và bình đẳng của mọi người.” (5) Rõ ràng Pharisêu đã không theo đúng nguyên tắc đối thoại. Ông không có khả năng đối thoại, vì ông chỉ biết có mình. Ông mở đầu lời nguyện rất “ngon lành.” Nhưng kết thúc thật tệ hại vì dẫn đến kết quả trái ngược. Uổng cả một đời nỗ lực nên công chính! Chỉ vì khinh thế ngạo vật, mọi sự tan ra mây khói.
ĐỐI THOẠI?
Nhìn vào xã hội Việt nam hôm nay, ai dám nói đang có một cuộc đối thoại thực sự để giải quyết những vấn đề xã hội? Cả trong đạo ngoài đời, những người cầm quyền có dám nhìn thẳng vào thực tế không? Họ có thực sự nhắm đến lợi ích quần chúng không? Làm sao đối thoại hữu hiệu với Nhà Nước, trong khi Giáo Hội không được nhìn nhận là một thực thể pháp nhân? Đó chính là lý do tại sao Giáo hội không được phép tham gia sinh hoạt trong các ngành giáo dục, y tế và không được hợp tác trong nhiều lãnh vực để hướng dẫn và phục vụ quần chúng, nhất là giới trẻ.
Trong dịp viếng mộ thánh Phêrô năm 2002, các Giám mục Việt Nam đã được ĐGH Gioan Phaolô II mở ra một định hướng mục vụ tích cực: “Đối thoại chân thành và hợp tác lành mạnh.” Nhưng nhìn lại, “phải chăng trong mấy thập niên vừa qua, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cố gắng thể hiện định hướng đó bằng những hình thức và cách thế riêng? Nhưng có bao nhiêu cơ hội để thể hiện nó?” (6) Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, không phải chỉ có kinh tế thị trường, nhưng cả tôn giáo cũng phải đi vào định hướng xã hội chủ nghĩa, do đảng tự do tung hoành lãnh đạo về mọi mặt. Chỉ có một thực tại duy nhất tồn tại là đảng mà thôi. Trong tình thế đó, có đối thoại cả trăm năm cũng không cải tiến được xã hội. Nếu không có đối thoại, mọi việc hợp tác đều giả hiệu và vô hiệu. Thực vậy, làm sao phục vụ, nếu không có công lý? Làm sao có công lý, nếu không có sự thật? Làm sao tìm được sự thật, nếu không đối thoại? Thánh Augustinô quả quyết: “Bất cứ những gì trái với sự thật đều không thể có công lý.”
Làm sao có thể đối thoại khi Đảng chỉ công nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” (7)? Khi không công nhận Giáo hội, họ cũng chẳng cần biết “mục đích của Giáo Hội và Nhà Nước thuộc hai lãnh vực khác nhau, có những phương tiện riêng, và độc lập trong những lãnh vực hoạt động liên hệ.” (8) Nếu thực tình phục vụ con người, ai chẳng cần đến những cái nhìn và nỗ lực từ nhiều phía? Thật vậy, “công việc phục vụ phúc lợi quần chúng và cộng đồng nhân loại chỉ có thể hữu hiệu khi có cuộc đối thoại theo cơ chế giữa Giáo hội và chính quyền. Mục đích nhằm góp phần vào công cuộc tiến bộ mỗi dân tộc và toàn thể nhân loại trong công lý và hòa bình.”(9) Đối thoại là con đường duy nhất để nhìn ra vấn đề và phục vụ hữu hiệu. Thực vậy, muốn có công lý để hành động, cần phải vận dụng tư tưởng và lời nói để đối thoại. Nếu không, sẽ lãng phí nhiều tài nguyên quốc gia và Giáo hội và chẳng bao giờ có thể đáp ứng những nhu cầu lớn lao của quần chúng.
Trước cảnh đau thương của dân tộc, Giáo hội đành bó tay khi nhìn các nạn nhân đang quằn quại trong các bệnh viện hay bị bưng bít trong nền giáo dục một chiều. Thật vậy, “ngành y tế chúng ta cũng đang gặp khủng hoảng, cả về chất lượng lẫn số lượng. Tại Tp HCM chẳng hạn, để thực hiện công tác điều trị bình thường, mỗi ngày cần khoảng 14.000 giường cho bệnh nhân. Thế nhưng, tất cả bệnh viện công và tư ở thành phố mới có khoảng 8000 giường, nghĩa là chỉ mới đạt tới hơn một nửa nhu cầu. Vì thế tình trạng 2 bệnh nhân một giường sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới. Nếu Tp HCM là đầu tàu kinh tế của cả nước mà còn xảy ra tình trạng thiếu hụt ở trên, thì những vùng sâu, xa và cao của đất nước sẽ sao? Trong quá khứ giới Công giáo đã đóng góp nhiều cho lãnh vực y tế. Bao giờ mới được tái nhập cuộc để xoa dịu nỗi đau và nỗi khổ của đồng bào?”(10)
Trong ngành giáo dục, vấn đề trầm trọng không kém. Dù việc phục vụ tương lai dân tộc đang bị bỏ bê và xuống cấp vì thiếu thốn cơ sở cũng như nhân sự trầm trọng, nhưng giáo dục vẫn là lãnh vực độc quyền của Nhà Nước. Giáo hội làm được gì khi bị đặt ra ngoài cơ chế giáo dục, dù mình có rất nhiều nhân sự sẵn sàng nhập cuộc? “Nhiều người vẫn băn khoăn thắc mắc: Tại sao vẫn chưa cho phép các tôn giáo trong nước, những người cùng chung một giòng máu và một tình tự dân tộc được trực tiếp tham gia vào lãnh vực giáo dục? Tại sao chưa để cho các tu sĩ có cơ hội đóng góp tim - óc của mình cho tương lai dân tộc?” (11) Thật là tiếng kêu bức xúc và thất thanh giữa sa mạc!
Biết thế, HĐGMVN năm 2007 vẫn bàn về một lãnh vực mà mình chẳng có ảnh hưởng gì, ngoài trường mẫu giáo? Thư Chung 2007 nói về quá khứ như một điều đáng tiếc, nhưng vẫn quyết tâm và tin tưởng kêu gọi giáo hội Việt NAM Tham gia vào lãnh vựa giáo dục trong kế hoạch ba năm. Hy vọng với sự quyết tâm ấy, giáo hội sẽ tìm ra cơ hội để cống hiến cho thế hệ trẻ tương lai.
Tóm lại, cùng trong một đền thờ, cùng tôn thờ một Thiên Chúa, và cùng nhìn vào bản thân, nhưng ông Pharisêu và người thu thuế theo những đường hướng khác nhau. Vì kiêu ngạo, Pharisêu đã không nhận ra sự thật về Thiên Chúa, bản thân và tha nhân. Ông đánh mất tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Lời cầu nguyện trở thành độc thoại. Ông tự tách mình khỏi Thiên Chúa và anh em. Trái lại, trong khiêm cung, người thu thuế đã được nâng lên hàng công chính, vì “kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây.” (Hc 35:16)
Cùng lên đền thờ Thiên Chúa, nhưng mỗi người ca một khúc khác nhau. Tiếng ca của người Pharisêu chói tai cả Thiên Chúa lẫn con người. Có lẽ giờ đây, không ai muốn đồng hội đồng thuyền với Pharisêu. Ai cũng tự xếp mình vào hàng ngũ người thu thuế. Như vậy, phải chăng mình cũng đang muốn mình hơn người Pharisêu?! Coi chừng khúc ca cũng chói tai không kém đâu nhé!
Lạy Chúa, tất cả cuộc đời và sứ mệnh con đều tùy thuộc vào lòng thương xót của Chúa. Xin cho con được gặp gỡ Chúa và đồng loại hôm nay để có thể phục vụ theo đúng thánh ý Chúa. Amen.
đỗ lực 28.10.2007 ------------------------------ 1. Đoàn Kiếm, http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4046 2. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 202. 3. ibid., 203. 4. ibid., 43. 5. ibid., 164. 6. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577 7. http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577 8. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 445. 9. Ibid. 10. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577 11. Ibid. 12 HĐGMVN, Thư Chung 2007, số 19, http://www.conggiaovietnam.net/tulieugiaohoi/thuchungHDGMVN2007.htm
Đã bao giờ tự hỏi: “Đâu là thái độ cầu nguyện được Thiên Chúa chấp nhận?” Hôm nay, Thầy Giêsu TN 30-C142
Đã bao giờ tự hỏi: “Đâu là thái độ cầu nguyện được Thiên Chúa chấp nhận?” Hôm nay, Thầy Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác. Dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện mà Thầy kể cho ta nhìn về thái độ, tâm tình ta có khi đến với Chúa. Nếu đến với Chúa để kể công trạng, đòi Chúa trả công thì sự kiêu ngạo tự mãn sẽ kéo ta xa Chúa. Nhưng nếu đến với Chúa với tâm tình khiêm tốn, nhìn nhận tội lỗi của mình, chỉ biết phó thác nơi lòng thương xót của Chúa, thì chính Người sẽ thương xót những ai kêu cầu Người.
Bức tranh hai người lên Đền Thờ cầu nguyện được thánh sử Luca vẽ lên thật rõ nét, hai hình ảnh hoàn toàn đối lập nhau. Hình ảnh của người Pharisêu đứng thẳng nổi bật cả bức tranh. Ở một góc nhỏ trong bức họa ấy là hình ảnh nhỏ bé của người thu thuế, hình ảnh ấy dường như mất hút nhưng lại khiến cho bất cứ ai sau khi nghe xong câu chuyện đều phải dừng lại suy gẫm. Nếu như người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm kể lể bao công trạng với Chúa thì người thu thuế lại chỉ dám đứng từ xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời nhưng vừa đấm ngực thống hối về bao tội lỗi của mình. Người Pharisêu đại diện cho những người công chính theo Lề Luật, ông đến với Chúa và kể lể về công trạng của mình. Ông hết lời tạ ơn Chúa nhưng lại so sánh mình với người khác khi đề cao bản thân mà hạ thấp người khác. Ông tự thấy mình không như bao kẻ tội lỗi khác, không như người thu thuế tội lỗi kia. Ông đứng thẳng, nguyện thầm lời tạ ơn Chúa nhưng lòng ông lại chỉ quy về mình, hạ thấp người khác. Ông tự mãn, tách mình ra khỏi những kẻ tội lỗi. Và vì thế, lời cầu nguyện của ông không đẹp lòng Chúa.
Còn người thu thuế, vốn bị coi là phường tội lỗi, ông đến với Chúa nhưng chỉ dám đứng đằng xa, thậm chí không dám ngước mắt lên trời. Ông hổ thẹn với Chúa về tội lỗi của mình, mắt không dám nhìn Chúa nhưng lại hướng trọn tâm hồn về bên Chúa, phó thác hoàn toàn cho lòng thương xót Chúa. “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Ông hướng nhìn Thiên Chúa với niềm cậy trông, ông hướng nhìn về chính mình với lòng sám hối. Ông đã được Chúa xót thương, khi trở về thì được nên công chính.
“Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14). Thầy Giêsu đã khẳng khái tuyên bố điều ấy. Người cũng dạy ta hãy biết nhìn về Thiên Chúa với tâm tình tạ ơn, khắc ghi tình yêu Chúa trong từng ngày sống và nhìn về những tội lỗi của mình để sám hối ăn năn. Trước mặt Chúa, mỗi người đều là tội nhân. Dù mang thân phận tội lỗi khốn cùng, ta cũng hãy tìm về bên Chúa với niềm phó thác để được Chúa xót thương.
Lạy Chúa Giêsu! Xin dạy con cầu nguyện. Chúa biết rõ con hơn con biết con, Chúa hiểu con hơn con hiểu chính mình, và Chúa yêu con đến cùng. Xin cho con từng ngày biết chạy đến với Chúa với một tâm hồn tan nát giày vò, để khi biết tựa nương nơi Chúa, con được ra về với lòng hân hoan. Amen.
Biết, hiểu, sống, có đủ để minh chứng về một sự thật nơi mỗi chúng ta là người tốt, là được giáo TN 30-C143
Biết, hiểu, sống, có đủ để minh chứng về một sự thật nơi mỗi chúng ta là người tốt, là được giáo dục, là đang chuyên tâm xây dựng một gia đình, một xã hội hạnh phúc ? Chăm chỉ làm ăn để kiếm lợi nhuận, chúng ta đã từng nghĩ tới ; hiểu câu nói của tiền nhân: thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn, mấy ai chưa nghe ? Với người lao động bình dân, làm ra tiền để mua sắm chi tiêu, đã khó rồi, sử dụng đồng tiền đúng, hợp lý, để miệng lưỡi thiên hạ không cười vì ta rộng, ta phóng khoáng, không chê vì ta hẹp ta keo kiệt, rất cần đến tính chuẩn mực của khôn ngoan. Bằng lời lẽ thương vợ yêu chồng, có trách nhiệm với con cháu, nếu chỉ sống dựa trên môi miệng lý thuyết, làm cha làm mẹ như thế có gì gọi là đáng tự hào ? Được gọi là trai tài gái sắc, người trẻ nào mà không mơ tưởng ? nhưng đẹp và tài có thể là thảm hoạ: có tài mà cậy chi tài, chữ tài đi với chữ tai một vần. (Nguyễn Du) !
Người kitô hữu chúng ta đến nhà thờ hằng tuần, hằng ngày, minh chứng mình là công giáo đã tốt đẹp rồi, nhưng để mang lại ơn ích cho tâm hồn, cho gia đình, phải tuỳ thuộc vào tâm tình biết và sống lời cầu nguyện với Chúa mỗi ngày. Khi đưa ra hình ảnh khá đặc biệt về hai người tới đền thờ cầu nguyện, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta biết: lối sống “hình thức” hay chủ trương đạo “tại tâm” đều bất ổn ! Có kiến thức trình độ, để làm kinh tế, có khả năng giữ tiền của không thất thoát cách vô lý, cả 2 cùng khó ; đúng hơn, làm gì để giữ được hạnh phúc gia đình, điều đó là cần thiết và vô cùng quan trọng ! Các luật sĩ biệt phái đạo đức, những kẻ thu thuế tội lỗi, cả đám đông dân chúng xưa, nay, tất cả đều có cơ hội gặp gỡ và nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, khi mọi người biết sống niềm tin vào Đấng ta kêu cầu.
Để cho thấy sự công bằng, sòng phẳng, trong các tương quan làm ăn, người ta vẫn sử dụng câu thành ngữ: có qua có lại mới loại lòng nhau. Để cho thấy tâm hồn bình an, để trở nên người công chính thật sự, mỗi người phải học lấy tinh thần đạo đức của các biệt phái luật sĩ, phải biết mình biết ta như người thu thuế, thật lòng sám hối ăn năn, ta sẽ xác tín hơn: Chúa chính là Thiên Chúa cứu độ. Vẻ đẹp bên ngoài khiến người ta sững sờ khi “bạn toát lên sự thánh thiện”, nhưng tính chất bên trong của nét đẹp tâm hồn đã để lại cho mọi người phải tâm phục khẩu phục, khi họ biết bạn đã sống lời cầu nguyện. Người luật sĩ biệt phái từng giảng dạy, từng chỉ giúp người khác cầu nguyện, và đám đông dân chúng kính nể, nhưng Đức Giêsu lại hài lòng bởi lời cầu nguyện, và hành động sám hối của người thu thuế: “người tội lỗi này, khi trở về nhà thì đã được trở nên công chính rồi”.
Tại sao Thiên Chúa thương yêu người thu thuế, liệu con người tội lỗi thu thuế ấy có trở nên công chính không, khi mà Đức Giêsu chưa bắt kẻ tội lỗi ấy thề hứa, hãm mình đền tội ? Ai cũng có thể trả lời: Chúa là tình yêu, Thiên Chúa yêu thương hết tất cả mọi người, không phân biệt, kỳ thị tiếng nói mầu da, Chúa không xỉ vả tội nhân, không im lặng làm ngơ với người thánh thiện. Trong đời sống tự nhiên, người luật sĩ biệt phái, kẻ thu thuế tội lỗi, và chúng ta hôm nay, đều phải chu toàn bổn phận của mình trước gia đình xã hội. Trong đời sống siêu nhiên, hiện tại tiến về tương lai, ai cũng phải thực hành sám hối và nhanh chóng sống niềm tin, hầu trở nên công chính, trong ơn gọi và sứ vụ riêng của mình. Trong tương quan xã hội, chẳng ai vui khi phải áp dụng câu thành ngữ cho mình: 1 tiền gà, 3 tiền thóc. Trong tương quan với Chúa và tha nhân, nếu chỉ là hình thức “sáo ngữ”, hẳn việc cầu nguyện của ta đáng bị quở trách vì: thiếu lòng thành, việc tạ ơn chỉ là môi mép.
Tiền nhân chúng ta ví von: con lợn có béo thì lòng mới ngon ; Đức Giêsu đã từng nói thẳng nói thật: “Ta đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn…”. Đại đa số ở đời, ai cũng muốn là người dễ nhìn, dễ coi, dễ thu phục bởi hình thức và nội dung ; Đức Giêsu sẽ còn mãi nhắc nhớ: điều cần hơn cả đối với chúng ta là mỗi người phải trở nên công chính. Lương tâm của con người không bao giờ yên ổn mỗi khi trở về gia đình của mình, nếu họ làm điều xấu xa ghê tởm. Tâm hồn người tín hữu làm sao bình an, khi ta hiểu giới luật của Chúa mà không thực hành, chưa sống đức tin và đức ái ! Người luật sĩ biệt phái có thể khiếu nại Chúa về hình thức đạo đức của họ, nhưng họ chắc chắn phải tâm phục khẩu phục, khi mà tâm trí họ đã thốt ra những lời xét đoán anh chị em mình bằng thái độ đầy kiêu căng tự phụ ! Niềm vui của Chúa Giêsu là tất cả những ai tin Chúa, sẽ không sống trong mơ mộng hão huyền, lầm tưởng mình đạo đức hơn người. Hãy sống khiêm tốn, và sớm nhận ra mình bất xứng tội lỗi, hầu được Chúa thương yêu thứ tha, Ngài sẽ dẫn đường chỉ lối cho ta trở nên công chính thánh thiện, đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Amen.
Có lần tôi về quê dự đám cưới họ hàng. Đây có thể là dịp để mình gần gũi trò chuyện với người TN 30-C144
Có lần tôi về quê dự đám cưới họ hàng. Đây có thể là dịp để mình gần gũi trò chuyện với người thân. Nhưng hình như nó lại là ngày được nghe những lời chê “vô tội vạ”. Các bạn thử nghe xem:
– Ơ, cha lâu rồi không gặp, gớm kỳ này béo thế!
– Ôi mẹ ơi, giảm béo đi, béo quá rồi.
– Bao nhiêu cân rồi cụ? Trông hai má có nọng luôn rồi.
– Ăn ít thôi, ăn như lợn thì lo gì không béo!
– Hehe . .
Đa số họ không phải là ghét nên chê, mà hình như chê đã thành thói quen nơi cửa miệng nhiều người. Họ chỉ biết chê maà không biết khen nên cách nói chuyện cũng tẻ nhạt là vậy. Vì:
“Khi được khen ai cũng vui tươi,
Khi bị chê ai cũng buồn chán”
Con người thì ai cũng thích được khen, nhưng lạ, là lại thích chê bai người khác cho sướng cái miệng. Nhất là các cô gái thích đăng ảnh facebook và chờ được khen, nhưng lại hay chê các cô khác. Có nhiều lần tôi nghe:
– Con bé này ngoài đời chẳng “hot” như trong hình đâu cha ơi! Rồi đến cô kia dạo này già nhanh quá!, và “Bạn B. lớp con ngày xưa, gớm tự tin thật đấy, body thế này mà chụp hình khoe suốt. Vậy mà cũng nhiều người khen xã giao ghê!”.
Khổng Tử từng dạy rằng: đừng than phiền về tuyết trên nóc nhà hàng xóm khi ngưỡng cửa nhà bạn chưa sạch. Nhiều người thường có thói quen chê bai người khác mà không tự nhìn lại bản thân mình. Họ tưởng rằng khi chê bai một ai đó thì họ trở nên giá trị hơn trong mắt những người xung quanh.
Chúa Giê-su cũng không hài lòng về kiểu nói chê bai người khác của người Phariseu.
“Người Phariseu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không giống như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (lc 18.11)
Nhìn lại mình đôi khi chúng ta cũng từng tranh cãi với người khác: Tôi đúng, anh sai ?
Đôi khi chúng ta cũng từng bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa?
Đôi khi chúng ta cũng tự hào hãnh diện khi thấy mình hơn ai đó nhiều mặt đó sao?
Như vậy, chính tôi là những Phariseu đứng thẳng trong đền thờ và khoe với Chúa công trạng của mình.
Chúa chắc chẳng không cần công trạng của chúng ta. Chúa cần tấm lòng khiêm cung ăn năn sám hối của chúng ta mà thôi.
Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo chứa đựng trong lời kêu gọi của Chúa Giêsu:”Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sự sám hối đòi phải có thái độ khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ giúp chúng ta sống đúng với con người thật của mình. Sự khiêm nhường cũng giúp chúng ta không cậy dựa vào sức mình quá đáng nhưng biết cậy dựa vào ơn Chúa và sự trợ giúp của đồng loại để hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn. Sự sám hối sẽ giúp ta chân thành nhận ra sự bất toàn, khuyết tật của mình để biết cảm thông với thiếu sót của tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, để hiểu và thông cảm với anh em và để có thể cất lời ngợi khen Chúa là Đấng thánh, ngàn trùng chí thánh. Xin đừng vì những thói tự cao tự đại mà trở thành kẻ lừa dối Chúa và anh em. Amen.
Đức tin khi quá khích gây nên những thiệt hại bởi tính kiêu căng trỗi dậy. Phán xét người khác, và TN 30-C145
Đức tin khi quá khích gây nên những thiệt hại bởi tính kiêu căng trỗi dậy. Phán xét người khác, và xem nhẹ những người bị họ kết án là tội lỗi. Chúa Giê su dạy lại cho họ bài học đức tin trong khiêm nhường bằng dụ ngôn hai người lên đến thờ cầu nguyện.
Không tự nhiên xuất hiện nhóm người Pharisêu, Xa đốc, Ê sen, tách biệt ra như những người mang đức tin mạnh mẽ đôi khi đến quá khích. Theo sử gia Josephus thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên. Nhóm người này rất phẫn nộ về việc Đế quốc Roma ra lệnh kiểm tra dân số nam giới theo định kỳ để xác định quyền lợi và thuế thu của người dân. Bối cảnh lịch sử như thế, dẫn nhóm người kể trên đụng chạm đến lòng tin của họ, chỉ có Thiên Chúa mới là chủ nhân đích thực dân tộc, chủ thể quê hương, đất nước của họ.
Nhóm tách biệt, theo sử gia Josephus: “Họ có một nỗi đam mê đối với tự do không thể kềm chế được; vì họ chỉ tin có một mình Thiên Chúa là thủ lãnh, và là tôn sư của họ.” Họ khinh ghét những người làm việc cho đế quốc Roma, đại diện cho Đế quốc Roma cai trị dân, và ghét nhất những kẻ làm thuế vụ. Đóng thuế cho Đế quốc Roma là làm nô lệ cho ngoại bang. Nhóm Xa đốc theo đường lối riêng, nhóm E sen rút vào hoang địa sống đời nhiệm nhặt, có một số người trong nhóm Pharisêu vẫn cuồng tín chống phá tất cả những gì làm nguy hiểm về một “vương quốc tư tế, một dân tộc thánh thiện” (Xh 19, 6)
Những cuộc khởi nghĩa của nhóm nhiệt thành (Zealots) là những xung đột sâu sắc với người cai trị. Họ sẵn sàng chịu chết vì Chúa của họ và họ tin rằng Chúa đứng về phe họ mà chống lại kẻ thống trị. Khi Chúa Giêsu xuất hiện tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là cái gai trong mắt họ, điều ấy cũng dễ hiểu, vì bao đời nay họ chỉ tin nhận Một Thiên Chúa duy nhất không có một Thiên Chúa nào khác, ngay cả danh xưng Con Thiên Chúa là quá xúc phạm.
Đức tin cần có khiêm nhường.
Thiên Chúa của người Pharisêu là một Thiên Chúa đòi hỏi, nên họ sống hết sức với lề luật, dường như lòng nhiệt thành đi quá xa, khiến người Pharisêu xem như mình phải có trách nhiệm với đồng loại. Nêu gương cho người khác, đồng thời cũng xét đoán người khác, người đó không giống như tôi (Pharisêu), cần phải tuân thủ lề luật một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ. Chính vì thi hành lề luật hết sức nghiêm túc như thế mới mong đạt được tới Nước Trời. Đó là một quan niệm sai lầm chết người! Vì Nước Trời vừa là một ân ban vừa cần được cộng tác bằng nỗ lực, cố gắng của bản thân.
Thánh Phao lô cũng nhận mình là người Pharisêu thứ thiệt: “sống theo Lề luật như Biệt phái; nhiệt thành đến nỗi bắt bớ hội thánh; chiếu theo đức công chính trong Lề luật, thì thực vô phương trách cứ!” (Pl 3, 5 – 6). Thánh Phaolô đã nhận ra điều quan trọng: “Chúa Kitô đã chiếm đoạt tôi” (Pl 3, 12). Không phải nhờ cố gắng, nỗ lực sống đạo đức của mình, mà mình đã chiếm đoạt được Thiên Chúa như cách nghĩ của người Pharisêu, cần khiêm nhường để nhận biết như Thánh Phaolô: Chúa Kitô, Ngài đã chiếm đoạt tôi và “Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô,”(Pl 3, 9).
Tương quan giữa Chúa Giêsu và người Pharisêu có nhiều trường hợp cùng chung nhiều quan điểm, và có những thiện cảm: Như câu chuyện giữa Chúa Giê su và ông Nicôđêmô (Ga 3, 1); một nhà thông luật trao đổi Chúa khen: “ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12, 34). Ông Gamaliel, một nhà lãnh đạo của những người Pharisêu, đã bảo vệ Phêrô và Gioan (Cv 5, 34-39).
Người Pharisêu không hoàn toàn đối nghịch với niềm tin họ theo đuổi, miễn là họ có lòng nhân từ, như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy có lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36), để tránh lối sống tự cao, tự đại. Không xét đoán người khác, đưa mình ra như một tiêu chuẩn đạo đức, “nó không được như tôi!”.
Dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, chỉ ra cho con lòng nhiệt thành nhà Chúa cũng cần có cung cách người phục vụ khiêm tốn: “Con chỉ là đầy tớ vô dụng” (Lc 17, 10). “Con được Chúa chiếm đoạt” (Pl 3, 12). Nhờ ân huệ của Chúa mà con được Chúa xót thương để con cũng biết yêu thương người khác với những lầm lỗi của họ.
Thiên Chúa biết rõ mỗi người với tất cả những điều tốt đẹp và cả những yếu đuối nơi họ. Thiên TN 30-C146
Thiên Chúa biết rõ mỗi người với tất cả những điều tốt đẹp và cả những yếu đuối nơi họ. Thiên Chúa đoái nhìn và xót thương mỗi người, Ngài luôn dành điều tốt nhất cho từng người với một tình yêu của người cha nhân lành. Con người luôn được mời gọi hướng về Thiên Chúa, “Đấng Đầu Tiên và Cuối cùng”, để mỗi ngày được thuộc trọn về Chúa hơn nữa.
Hôm nay, Thầy Giêsu đã kể cho những người tự xem mình là công chính mà khinh chê kẻ khác một dụ ngôn. Dụ ngôn đó kể về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người thuộc nhóm Pharisêu còn người kia làm nghề thu thuế. Cả hai đều đến cùng Thiên Chúa để bày tỏ tâm tình của mình. Người Pharisêu đứng thẳng nguyện thầm. Trước hết, ông tạ ơn Thiên Chúa vì biết bao điều tốt đẹp ông làm được. Khi so sánh bản thân với những người khác, ông nhận ra mình đạo đức thánh thiện vượt xa họ (x. Lc 18, 9-12). Thế nhưng, lời cầu nguyện của ông không đẹp lòng Thiên Chúa. Bởi Thầy Giêsu đã khẳng định, ông ra về nhưng không được kể là người công chính. Đứng ở cuối Đền Thờ, có người thu thuế đang run rẩy, cúi mặt chẳng dám nhìn lên. Ông vừa đấm ngực vừa kêu xin: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. (Lc 18,13). Thầy Giêsu khẳng định, ông ra về và đã được nên công chính rồi. Cái kết của câu chuyện quả là bất ngờ cho những người đang lắng nghe lời Thầy Giêsu dạy.
Cuộc sống mỗi ngày đều qua đi với nhiều cung bậc khác nhau. Có nhiều “cái kết” khiến ta quá bất ngờ. Ta bất ngờ khi nhận được một món quà từ ai đó gửi tặng, bất ngờ vì nhận được một tin nhắn của người bạn đã lâu không gặp,… Có bao giờ ta bất ngờ trước lòng thương xót mà Thiên Chúa đã dành cho ta? Đã bao lần, ta đến với Chúa trong tâm thế của một người Pharisêu, lòng đầy hãnh diện về biết bao điều tốt đẹp ta thực hiện. Những việc ấy ta đã làm với tất cả sự cố gắng, nỗ lực của bản thân. Thật bất hạnh cho ta vì ta đã không biết quy hướng về Thiên Chúa để chúc tụng, cảm tạ, ngợi khen và tôn vinh Ngài. Ta ngủ quên trong vinh quang trần thế, tự ở lại trong những thành công và tự tôn mình lên mà ta chẳng hay. Ta cũng tạ ơn Chúa về những gì ta đạt được, nhưng lời tạ ơn ấy không đẹp lòng Chúa vì ta vô tình tự tôn mình lên khi so sánh với người khác. Chính khi so sánh như thế, ta đã vô tình hạ thấp người anh em của mình. Đó là điều làm mất lòng Chúa. Ta hãy có tâm tình sám hối ăn năn như người thu thuế, dám nhìn vào chính lòng mình để thấy được những điều làm mất lòng Chúa, thấy mình tội lỗi cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Ta cần trở nên người đạo đức biết chu toàn luật Chúa như người Pharisêu vừa phải luôn luôn có tâm tình sám hối của người thu thuế khi đến với Chúa. Khi biết quy hướng tất cả con người và đời sống của mình về Thiên Chúa thì chính Ngài sẽ làm cho ta được nên giống Chúa hơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu! Cảm tạ Chúa đã cho con được làm con của Chúa, để mỗi ngày con có thể đến với Ngài và bày tỏ con người thật của mình. Dù con có trở nên tốt hơn nhờ tình thương yêu và dìu dắt của Chúa, hay con có nên xấu xa vì những yếu đuối và lỗi lầm của mình, thì con cũng xin tôn vinh, chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa. Con tin rằng, mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Chúa (Rm 8,28). Con xin được yêu mến Chúa hết lòng, bằng toàn thể con người con, bằng tình yêu của Chúa Kitô hiện diện trong con. Amen.
Trong cuộc sống, không ai muốn hạ mình trước người khác, cũng không ai muốn tôn người khác TN 30-C147
Trong cuộc sống, không ai muốn hạ mình trước người khác, cũng không ai muốn tôn người khác lên trên mình, mà lại luôn muốn hơn người khác. Còn Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14).
Chúa Giêsu kể dụ ngôn về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện: một người thuộc nhóm Pharisêu còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác… hoặc như tên thu thuế kia” (x. Lc 18, 11-12). Ông kể toàn những việc đạo đức và những việc bố thí cho Chúa nghe. Ông đến với Chúa trong tâm tình kể lể, khoe khoang và khinh chê người khác. Đối với Chúa, Ngài biết rõ những việc ông làm. Như vậy, ông đã mắc tội kiêu ngạo. Chúa chỉ vui thích tấm lòng chứ không phải của lễ bên ngoài. Còn người thu thuế, ông đến với Chúa với tâm tình chân thật. Ông đã chỉ dám đứng đằng xa, chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Ông chẳng dám ngước mắt lên, nghĩa là ông chỉ dám nhìn thẳng vào con người của mình, nhìn thấy tội lỗi bên trong và thật lòng hối cải về những tội lỗi đã phạm. Ông đấm ngực và kêu xin lòng thương xót của Chúa. Ông kêu xin Chúa là ông đã hạ mình xuống, chỉ cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa và ông đã được Thiên Chúa nhận lời. Ông đã được kể là người công chính. Vì đối với Chúa, hối cải là điều Chúa mời gọi đầu tiên đối với người tội lỗi (Kh 2,5).
Ngày nay, ai là người tôn mình lên? Người tôn mình lên là người hãnh diện về tất cả những gì mình có, hãnh diện về khả năng và những việc làm của mình. Từ đó, họ khinh chê người khác và coi mình tốt hơn cả. Họ chẳng bao giờ để mình thua thiệt trong bất cứ điều gì. Có khi, họ cũng chẳng cần đến Chúa. Do đó, người ấy khó nhận ra tội lỗi của mình, khó có sự kiên trì đến với Bí tích Hòa giải. Nếu cứ sống trong tình trạng ấy, họ sẽ chẳng có hạnh phúc bền vững ngay ở đời này và đời sau. Nhìn lại chính mình, tôi có cậy dựa vào những gì mình có mà khinh chê người khác không? Tôi có thật sự hạ mình vì người khác hay cố ý để người khác tôn mình lên? Mỗi khi đến với Bí tích Hòa giải, tôi có tâm tình và ý thức nào để xứng đáng với lòng thương xót của Chúa? Ngài là Đấng thương xót tôi và nâng đỡ tôi trong mọi lúc.
Lạy Chúa! Xin cho con biết hạ mình khiêm nhường trước mặt Chúa và tha nhân. Để xứng đáng hưởng lòng thương xót của Chúa và đem lại sự bình an và hạnh phúc cho anh chị em mình. Amen.
Dụ ngôn Chúa dậy hôm nay, Xét mình khiêm tốn, thẳng ngay sống đời. Hai người cầu nguyện dâng TN 30-C148
Dụ ngôn Chúa dậy hôm nay, Xét mình khiêm tốn, thẳng ngay sống đời. Hai người cầu nguyện dâng lời, Một thầy Biệt phái, một thời kiêu căng. Khoe khoang so sánh mà rằng, Ăn chay bố thí, siêng năng cúng đàn. Dâng công hoa lợi thí ban, Sống đời công chính, cầu van mỗi ngày. Kìa người thu thuế xưng bày, Sấp mình đấm ngực, mắt cay lệ nhòa. Đời con tội lỗi mù lòa, Lạy Ngài thương xót, giải hòa cho con. Thật lòng sám hối héo hon, Thứ tha lỗi phạm, sắt son một lòng. Chúa thương tha thứ sạch trong, Ra về đổi mới, trong lòng hân hoan. Ai người kiêu ngạo bất toàn, Nâng mình cao ngất, lỗi hoàn như xưa. Khiêm cung hạ xuống không thừa, Chúa thương chúc phúc, ơn mưa dạt dào.
Cầu nguyện là tâm tình của người con đến với Cha. Chúng ta cần cầu nguyện luôn và đừng chán nản. Hôm nay Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ khiêm tốn khi cầu nguyện. Chúa nêu ra dụ ngôn của hai người lên đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái khoe khoang rằng ông không trộm cướp, không tham lam, không lỗi giới luật, ăn chay nhiều ngày trong năm, trả thập phân cho nhà thờ và ông tự hào mình là người công chính. Còn người kia đứng cuối nhà thờ cầu nguyện, ông ta là người tội lỗi, tham lam, trộm cắp, bất công nhưng biết đấm ngực ăn năn: Lạy Chúa xin thương xót tôi là kẻ có tội.
Sau khi cầu nguyện, người có tội được tha, còn người tưởng mình là công chính thì vẫn thế, không được Chúa nhận lời. Đôi khi chúng ta cũng rơi vào thái độ của người tưởng mình thánh thiện trước mặt Chúa. Chúng ta cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì gia đình bằng an, con cái ngoan hiền, học hành giỏi giang, không như con cái người hàng xóm kia đi sớm về khuya và bỏ học nhập vào băng đảng. Người Biệt phái khi cầu nguyện đã so sánh với người tội lỗi, để rồi tưởng mình là người đạo đức. Trước mặt Chúa, chúng ta đều là tội nhân. Người Biệt phái đã không đủ khiêm tốn để nhận biết mình là người có tội, nhưng lại tự hào mình là người công chính trước mặt Chúa.
Chúng ta thường hay so sánh để đoán xét người khác. Đoán xét người khác là phát xuất bởi lòng xấu và thiếu lòng yêu mến Thiên Chúa. Người đoán xét kẻ khác là người hay kiêu ngạo và thiếu sự khôn ngoan thật. Khi chúng ta đeo kính mầu gì thì chúng ta sẽ nhìn thấy mọi vật theo mầu đó. Cũng như lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng. Lòng chúng ta có thiên kiến xấu về một ai thì mắt, trí lòng và sự phán đoán của chúng ta cũng bị hướng chiều theo thiên kiến đó.
Những người hay xét đoán xấu về người khác, thường biết rất ít về mình. Vì sự không hiểu biết chính bản thân mình, nên dễ gây tại hại cho người khác. Muốn biết chính mình cần phải khiêm tốn nhận lỗi mình và thận trọng trong lời nói việc làm. Ông Biệt phái cầu nguyện chỉ là để tự hào về mình và khinh bỉ kẻ khác. Ông đã tách biệt mình ra khỏi kẻ khác và tự đặt mình lên trên mọi người và tự mãn về mình. Nên ông đã không nhận được ơn Chúa thứ tha.
Truyện kể: Có hai vợ chồng đã nhiều lần nghi ngờ đoán xét nhau. Lần này, đang lúc tranh cãi hăng say, người chồng đề nghị: Này, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Mỗi người lấy tờ giấy viết tất cả lỗi lầm và tật xấu của nhau rồi trao cho nhau. Người vợ đồng ý. Người chồng cầm tờ giấy, nhìn vợ rồi cúi xuống viết. Người vợ thấy chồng viết cũng hối hả viết và kể lể mọi sự xấu xa của chồng. Người vợ xem ra hả dạ. Sau đó, họ trao bản kết tội của nhau. Khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt vợ bỗng đổi sắc vì xúc động. Bà vội vã đòi lại giấy đã đưa cho chồng và có thái độ làm hòa. Trong tờ giấy người chồng chỉ viết có một câu duy nhất: Anh yêu em.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của chúng con. Chúng con xin Chúa thương xót và tha thứ.
Trong các bài Tin mừng của các Chúa nhật trước, Đức Giêsu đã dạy các tông đồ phải cầu nguyện TN 30-C149
Trong các bài Tin mừng của các Chúa nhật trước, Đức Giêsu đã dạy các tông đồ phải cầu nguyện với lòng tin tưởng, biết ơn và kiên trì. Chúa nhật này Ngài còn tiếp tục dạy các ông phải cầu nguyện trong tinh thần khiêm nhường và thống hối, vì Thiên Chúa luôn tỏ ra thương yêu những người công chính và nghèo hèn bé mọn. Để nói lên tư tưởng ấy, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện.
Trong khi cầu nguyện hai người có hai thái độ khác nhau và trái ngược nhau. Người biệt phái tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ơn cứu chuộc, lại còn tỏ ra khinh miệt người thu thuế tội lỗi nữa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của tâm hồn ông đã làm đẹp lòng Chúa. Lời cầu nguyện khiêm nhường của ông làm cho ông nhận được ơn tha thứ.
Qua dụ ngôn này, ta nhận thấy, mặc dù người biệt phái này thích khoe khoang những công đức của mình, lại còn khinh dể người khác, nhưng cái sai trái lớn của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Còn người thu thuế nhận thấy mình thiếu thốn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa, kêu xin với lòng khiêm nhường, ông đã được Chúa nhận lời ban ơn tha thứ. Đúng là :
Muôn đời Chúa cự kiêu căng, Và người khiêm nhượng Chúa hằng ban ơn. (Gc 4,6)
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 35,15b-17.20-22a.
Chúa nhận lời kêu xin của kẻ nghèo hèn. Đây là chủ đề của đoạn sách Huấn ca này. Trong một xã hội, tiền bạc và quyền lực là tất cả, “dân nghèo” không có cơ may. Nhưng bài đọc 1 hôm nay khẳng định Thiên Chúa đối xử tử tế với hết mọi người. Ngài không thiên vị người giầu có và quyền thế. Ngài lắng nghe lời cầu nguyện khiêm nhường của người công chính và bé mọn, vì Ngài là thẩm phán công minh và là người Cha nhân hậu.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 4,6-8.16-18.
Thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma. Ngài biết cuộc đời của mình sắp được kết liễu. Trong thư gửi cho Timôthêô, Ngài đã nói lên những suy nghĩ rất lạc quan :
– Ngài sung sướng vì mình như một vận động viên sắp về tới đích vì ngài đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin mừng.
– Ngài cảm tạ Chúa vì đã ban sức mạnh cho ngài được vượt qua những gian lao thử thách phải chịu. Ngài còn nôn nóng mong chờ ngày ngài được gặp lại Đấng mà ngài đã dành trọn cuộc đời mà phục vụ.
– Cái chết của ngài sẽ là một lễ tế dâng cho Chúa và ngài đón chờ vinh quang Chúa sắp ban cho ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 18,9-14.
Bài Tin mừng đưa ra hai mẫu người đối lập nhau về thái độ sống :
a) Người biệt phái: Ông này tự mãn khoe khoang những việc tốt của mình : không có tội gì cả, lại còn ăn chay, dâng cúng 1/10 lợi tức cho Chúa… Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ta ơn cứu chuộc. Thực ra, ông ta không có lòng yêu Chúa, chỉ khoe khoang công lênh của mình và Chúa phải yêu thương cũng như ban thưởng cho ông.
b) Người thu thuế: Người này cũng chẳng có gì để khoe khoang, anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Anh biết anh chỉ là một tội nhân, vì thế anh phó thác mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Anh chỉ nói ít lời :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Thái độ khiêm nhường của anh làm đẹp lòng Chúa và được nhận lời.
Sau cùng Đức Giêsu kết luận : Chúa không nhận lời cầu xin của người biệt phái mà chỉ nhận lời cầu xin của người thu thuế vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. DỤ NGÔN NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ NGƯỜI THU THUẾ.
Hai mẫu người trái ngược nhau. Dụ ngôn nói về người biệt phái và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện : thái độ của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của chính mình; còn thái độ của người thu thuế, tuy là một tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Kết quả : một người bị từ chối, một người được chấp nhận. Dụ ngôn này nêu lên hai nhân vật đặc biệt có tính cách tương phản để nói lên hai thái độ khác biệt khi cầu nguyện.
a) Người biệt phái.
Biệt phái thuộc nhóm Pharisêu, bắt nguồn từ nhóm người đạo đức (Hassidin) có từ thời Maccabê. Những người này sống tách biệt thành những cộng đoàn nhỏ để nên thánh. Họ chuyên cần suy niệm Lời Chúa và tuân giữ tỉ mỉ mọi lề luật thành văn cũng như truyền khẩu. Họ tin linh hồn bất tử, tin có sự sống lại, tin Thiên Chúa là Đấng thông suốt duy nhất. Nhưng họ lại quá bảo thủ những tập tục truyền thống của cha ông hơn cả Thánh Kinh. Họ thi hành luật quá đến câu nệ vào hình thức, giữ từng nét, mà thiếu hẳn Đức Ai. Đức Kitô đã không tiếc lời phê phán họ (Mt 23,13t; Lc 11,39; Mc 12,38t).
b) Người thu thuế.
Họ là những người cộng tác với đế quốc Rôma, thu thuế của người Do thái nộp cho người Rôma. Họ thường hà khắc để thủ lợi, để làm giầu cho bản thân mình. Hạng người này bị người Do thái căm ghét, khinh bỉ, coi họ là những tội nhân ngang hàng với gái điếm, cần phải tránh xa.
Hai người lên đền thờ cầu nguyện. a) Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ là nơi cầu nguyện, có tầm quan trọng đối với người Do thái. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào những ngày sabát, ngày lễ, ngày chay để nghe Thánh Kinh, hát thánh vịnh và cầu nguyện. Tuy nhiên, mỗi người cũng có thể đến đó vào những lúc khác.
Có lẽ người biệt phái và người thu thuế đã lên Đền thờ cầu nguyện vào buổi sáng hay buổi chiều. Cùng với các tín hữu khác, họ đến tham dự nghi thức tha tội được cử hành mỗi ngày hai lần trong Đền thờ.
b) Người biệt phái cầu nguyện.
Người biệt phái đứng riêng một mình mà cầu nguyện. Ông không muốn đứng gần những người dân thường, sợ mắc phải nhơ uế cuả họ. Ông đứng thẳng người giống người Do thái quen làm khi cầu nguyện.
Lời nguyện của người biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo đó là danh sách những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm và cuối cùng là bản báo cáo thành tích vẻ vang của ông : chẳng những ông đã làm các việc đạo đức như Luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộp 1/10 lợi tức cho Đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho Đền thờ 1/10 tiền mua sắm mọi vật mình sử dụng.
Xét ra, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Ông thật là con người đúng mức, một con người hoàn hảo, không có gì đáng chê trách, một tín đồ trung thành với Lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Đây là một lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Chúng ta thấy ông không xin gì cho bản thân mình, nhưng chỉ là lời tạ ơn.
Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự kiêu tự mãn nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bèo bọt của mình mà trôi ra sông biển hết, lại còn có thái độ khinh bỉ người khác nữa :”Vì con không như bao người khác : tham lam , bất chính, ngọai tình, hoặc như tên thu thuế kia”(Lc 18.11). Nếu ông biết nhìn vào mình và đối chiếu với Đức Kitô thì ông không dám có thái độ ấy.
Còn một cái sai lầm nữa của ông là ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó, ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
c) Người thu thuế cầu nguyện.
Người thu thuế cũng đến Đền thờ cầu nguyện. Anh ý thức rằng mình làm cái nghề không tốt đẹp, ai cũng ghét, bị cho là giáo gian, đi cộng tác làm lợi cho ngoại bang. Anh tự cho mình là một tội nhân, ngang hàng với gái điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người biệt phái (“hay như người thu thuế kia”), nên anh khỏi cần cáo tội mình, anh chỉ đặt mình trước mặt Thiên Chúa, cúi đầu xuống, đấm ngực ăn năn :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng. Ngay lúc đó, anh đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho anh nên công chính.
d) Kết quả sau lời cầu nguyện.
Sau khi đưa ra hai thái độ cầu nguyện của người biệt phái và thu thuế, thì Đức Giêsu đã phê cho một câu :”Người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”(Lc 18,14). Đức Giêsu muốn nói, lời cầu nguyện của người thu thuế với thái độ khiêm tốn và thống hối nên được ơn nghĩa với Thiên Chúa và được ơn tha thứ; còn lời cầu nguyện của người biệt phái với thái độ tự mãn thiếu lòng khiêm tốn và hoán cải, vì ông chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình nên không được ơn nghĩa gì trước mặt Chúa và không được tha thứ. Người biệt phái này tuy tốt về phương diện không sai lỗi luật, nhưng ông không nhận ra rằng những ân tứ ông đang có là do Chúa ban cho chứ không phải tự ông mà có. Cái sai lầm của ông ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là một ân huệ của Chúa ban, nên ông đã tự mãn về sự công chính của ông.
Chúa đã tha thứ cho người thu thuế, còn người biệt phái thì không “vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 18,14). Người ta thường nói :”Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi, huống chi Thiên Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại không sao ? Nhiều lần, Đức Giêsu bày tỏ cho chúng ta biết : Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15).
II. THÁI ĐỘ PHẢI CÓ KHI CẦU NGUYỆN.
Phải thống hối. Trong khi cầu nguyện chúng ta phải làm 4 việc : thờ lạy, cám ơn, xin ơn và thống hối. Ta thường quên việc sau cùng này, nên hay đến với Chúa với tâm tình của người biệt phái. Trái lại, người thu thuế thì nhìn rõ trình trạng tội lỗi, bê bối của mình. Anh ta không quan tâm cái gì khác ngoài việc thấy rõ khoảng cách giữa tình trạng xấu xa với tình trạng lành thánh. Dù biết vậy, nhưng anh ta vẫn cố gắng kiên trì vươn lên, đồng thời chỉ còn biết van nài lòng thương xót của Chúa giúp sức mà thôi. Chính thái độ và cung cách đó của anh ta, lại được Chúa tha thứ và thương yêu. Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm cho cuộc sống mới.
Truyện : Qủi không sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:”Tôi thấy Chúa đối xử không công minh chút nào”! Chúa liền hỏi nó rằng:”Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng”? Bấy giờ tên quỉ mới đáp:”Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và con ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhất. Thế mà Chúa không khi nào tha thứ mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao” ? Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:”Loài người có phạm tội đi với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho. Còn lũ quỉ các ngươi, có bao giờ các ngươi hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho chưa”? Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng :”Ma qủi chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả”. Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
Cầu nguyện là đặt mình trước mặt Chúa. Cầu nguyện không phải là lúc chúng ta đem mình so sánh với người khác, hay kể lể công trạng, nhưng là đặt mình trước sự thánh thiện và công minh của Thiên Chúa, như lời chia sẻ của thánh Phaolô với giáo đoàn Côrintô:”Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên tòa nhân loại nào xét xử, mà ngay tôi, tôi cũng không xét xử chính mình nữa. Vì cho dù trước lương tâm, tôi không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là tôi được giải án tuyên công. Đấng xét xử tôi, chính là Chúa (1Cr 4,3-4). Chỉ khi chúng ta đặt mình trước ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ sự bất toàn, và thiếu thốn của mình, nhờ đó, chúng ta mới có thể mở lòng mình đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cầu nguyện còn là mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Cầu nguyện là giây phút chúng ta nhìn lại, để nhận rõ con người yếu đuối của mình. Chúng ta cần biết những thiếu thốn của mình, để có thể mở lòng đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tin mừng ghi lại :”Người thu thuế đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng:”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Người thu thuế đã không dám ngước mắt lên, vì anh ta biết mình là kẻ có tội, vì thế anh ta cũng biết rõ mình cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế đã kêu cầu đến lòng thương xót của Thiên Chúa, và anh đã được Thiên Chúa xót thương.
Cầu nguyện không chỉ là tạ ơn.
Xem thái độ cầu nguyện của người biệt phái, ta thấy ông ta rất tự hào và tự mãn. Ông ta đem cái kho công nghiệp của ông để trình bầy cho Chúa. Nhưng khốn nỗi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như thế này, không như người khác. Rốt cuộc, ông biệt phái lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa. Ông khép lại trên chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói :”Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài”. Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Ông biệt phái đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người biệt phái không xin Chúa điều gì, bởi vì ông không thấy mình thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình (Augustine).
Cầu nguyện với thái độ khiêm nhường.
Tục ngữ ta có câu :”Cái thùng trỗng thì kêu to” hoặc “Biết ít thì khoe khoang, biết nhiều thì khiêm tốn”. Thêm một danh nhân có nói đại ý : người khiêm tốn là người sáng suốt vì biết mình và biết người, còn người kiêu căng thì ngược lại… Vũ trụ thế giới có biết bao điều kỳ lạ. Càng sống, càng học ta phải nhận ra mình còn “dốt”, vì hiểu biết thì hạn hẹp, so với cả thế giới thì chẳng nghĩa lý gì. Huống chi là dám kể công với Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ muôn vật thì quả là một sai lầm biết bao !
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phó thác vào Chúa Quan phòng, đại lượng vô song, khôn ngoan vô cùng. Sau nữa, khi cầu nguyện ta không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Ta phải luôn nhớ rằng ta thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Thiên Chúa đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho. Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ qùi xuống bằng đầu gối, mới vào được.
Truyện : Hãy qùi gối xuống.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói :
– Tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chả thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói :
– Ông phải qùi xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, ta cũng phải qùi gối xuống mà van xin.
III. KHIÊM NHƯỜNG TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY.
Nết xấu hàng đầu : Kiêu ngạo. Trong kinh bảy mối tội đầu, ta đọc thấy ngay : Cải tội bảy mối có bảy đức, thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Qua đó ta thấy kiêu ngạo là nết xấu làm đầu mà không ai tránh được, kẻ nhiều người ít vì nó đã thâm căn cố đế vào trong con người ta.
Liền sau khi con người phản bội, Thiên Chúa hiện đến chỉ vào mặt :
– Hỡi người, hãy nhớ mình xuất thân là một hạt bụi (St 11,19).
Đã là một hạt bụi thì chớ nên tự cao tự đại.
Thế nhưng, người đời mấy ai còn nhớ tới lời dặn bảo của Thiên Chúa !
Tính kiêu căng rõ là một chứng bệnh gia truyền nan trị. Nó nan trị vì nó bắt nguồn từ tính TỰ ÁI.
Tự ái, ích kỷ, ngu muội, là ba chứng bệnh nguy hiểm mà nhà Phật gọi là Tham, Sân, Si.
THAM là vì ích kỷ. SÂN là vì tự ái. SI vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì SÂN là khó diệt hơn cả. Bởi vì tự ái là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói :”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Nếu nói rằng kiêu ngạo có nguy hiểm gì đâu, làm gì bằng tội giết người ? Nhưng thực sự nó nguy hiểm nhất trong các tội, vì nó làm hỏng các tính tốt và làm phát sinh ra các tính xấu khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm, thay thế cho Thiên Chúa. Họ quay ra thờ ngẫu thần : đó là họ tôn thờ chính mình. Họ không coi Chúa là trung tâm điểm nữa. Tha nhân không là gì khác mà chỉ là những diễn viên trong một vở kịch, mọi người phải lo phục vụ cho riêng họ. Họ trở nên tự tôn tự đại, muốn cho mọi người để ý đến mình, họ tự tạo ra những hàng rào ngăn cách, tạo ra giai cấp, những chênh lệch trong xã hội, tạo ra xung khắc giữa người này người khác, dân này với dân khác, nước này với nước khác, kỳ thị da trắng da đen…
Họ coi thế giới như là của riêng mình. Mình có thể dùng khoa học để điều khiển được tất cả theo ý mình. Con người có thể tự tạo ra được hạnh phúc, biến thế giới này thành thiên đàng. Họ loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài để thành lập một thứ tôn giáo mới, trong đó con người được tôn thờ chứ không phải là Thiên Chúa nữa.
Tính tốt hàng đầu : Khiêm nhường.
Ai cũng thích người khiêm nhường, ai cũng ca tụng đức khiêm nhường, nhưng ít người thực hiện được đức khiêm nhường, thậm chí lại có người đả kích tính khiêm nhường. Môn phái của triết gia Nietzsche nói thẳng thừng:”Khiêm nhường là đức tính của kẻ nô lệ”.
Sự thật thì Khiêm nhường tức là hiểu biết mình, là can đảm nhìn thẳng vào sự thật. Vì thiếu can đảm nhìn thẳng vào sự thật, nên người ta ai cũng sợ mình, và sợ mình hơn hết. Kẻ mà tôi tìm cách tránh né nhất là … chính mình tôi. Cần phải là người quân tử mới dám đối thoại với mình. Cuộc đối thoại với chính mình là cuộc đối thoại hồi hộp nhất, dễ sợ nhất. Nhiều lúc bi đát, đắng cay, xỉ nhục vô cùng cho tính tự ái. Nhưng tôi cần nó để tự giác và sống làm người.
Đức Khổng Tử đã nói:”Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri tức tri dã” : Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì chịu là không biết, ấy là biết vậy.
Người ta thường nói :”Cao nhân tức hữu cao nhân trị” hay “Bảy mươi còn học bảy mốt”, đã cho thấy rằng dù ta có giỏi đến đâu cũng có người giỏi hơn. Ta phải tự thấy rằng mình chưa biết, trình độ mình còn kém thì ta mới có thể thâu nhận những lời dạy bảo của người khác, có như thế ta mới tiến bộ và có thể hiểu biết mình nhiều hơn được. Nhà tư tưởng Blaise Pascal nói rất đúng:”Tôi chỉ biết một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nói như thế có vẻ cường điệu, nhưng nó nói lên sự hiểu biết hạn hẹp của con người đối với ngoại vật, nhất là đối với chính mình.
Tâm tính người đời bất cứ ai làm việc gì thường muốn như ngọn hải đăng, càng đặt lên cao, càng chiếu rọi ra xa, nhưng đồng thời chung quanh dưới chân hải đăng tối tăm mờ mịt. Vì thế, một vị Linh mục dòng Tên nói:”Đức khiêm nhường của người công giáo không phải là ngọn hải đăng, nhưng là một ngọn đèn giấu kín giữa bản thân, nó có sức chiếu sáng khắp cùng thân thể, thấu ra bên ngoài, không nơi nào không có ánh sáng”.
Theo tâm lý chung của con người, thì người ta thích là con công hay múa hơn là một con sò im lìm dưới đáy biển. Con công có bộ lông thật đẹp để làm cảnh cho thiên hạ. Suốt ngày con công chỉ biết múa để mua vui cho thiên hạ :
Con công hay múa, Nó múa làm sao ? Nó rụt cổ vào, Nó xòe cánh ra…
Con công chỉ có một công dụng là múa để làm trò cho thiên hạ, ngoài ra không dùng vào được việc gì. Trái lại, con sò tuy im lìm sống dưới đáy biển, không mấy người trông thấy nó, nhất là không bao giờ trông thấy diện mạo cuả nó, nhưng thịt của nó là một món ăn tốt, thơm ngon. Nhất là… đôi khi nó ngậm một hòn ngọc trai ! Con sò mà ngậm hạt trai thì quí hóa biết bao, bao nhiêu con công cũng không sánh kịp.
Đức Hồng y Mercier kể : Cuộc chiến tranh xong, lần thứ nhất gặp thống chế Foch tôi vui mừng bắt tay và nói :”Chào vị tướng lỗi lạc, đã làm vẻ vang nhân lọai”. Nhưng thống chế giơ tay lên, phân bua và nói :”Thưa Đức Hồng y, chúng tôi chỉ là khí cụ mù quáng trong tay Thiên Chúa”.
Càng thánh thiện càng phải khiêm nhường và phải khiêm nhường thật lòng. Benjamin Franklin đã cảnh giác chúng ta như sau:”Giả như tôi đã tập luyện được nhân đức khiêm nhường rồi, không nghi ngờ gì tôi sẽ trở nên hãnh diện vì nó”. Tôi có cảm giác rằng những người khiêm nhường thực sự phải là những người không biết đến sự khiêm nhường ở nơi mình. Ngay khi chúng ta biết rằng mình đang khiêm nhường , cũng là lúc chúng ta đánh mất nó.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô.
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô nói rằng:”Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”. Còn khi ngài nghe nói : Ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui suớng và biết ơn.
Đức Khiêm nhường cần thiết.
Khiêm nhường là nhân đức quan trọng nhất trong việc nên thánh. Người ta coi khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ nên có giá trị khi đứng chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị : càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
Lời Chúa trong tin mừng hôm nay, Chúa nhật XXX thường niên, cho chúng con một lời nhắc TN 30-C150
Lời Chúa trong tin mừng hôm nay, Chúa nhật XXX thường niên, cho chúng con một lời nhắc nhở về việc sống đạo sao cho công chính trước mặt Chúa. Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Đức Giêsu đã đặt hai nhân vật đại diện cho con người ngày hôm nay : một bên là người pharisiêu công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào .
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, coi khinh kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm một lỗi lầm, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh ta không nghĩ cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, nhưng đúng hơn nhờ lòng thương xót Chúa. Sự ưu tiên của Đức Giêsu giữa hai người này rõ rệt, như câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”, tức là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, mà phải mất sự công chính của Chúa.
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như những người khác, ông ăn chay, nộp thuế…Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình khi quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông “tạ ơn Thiên Chúa ” ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ? ( Web TGP HN)
Trái ngược với những con người giả hình đó Chúa Giêsu lại hết sức khen ngợi người thu thuế khiêm tốn, với tâm tình yêu mến chân thành. Những con người tội lỗi một mực tin tưởng vào Thiên Chúa, “ Đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng : “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi “. Tâm tình của ông được Chúa chúc phúc là người được nên công chính.
Lạy Chúa,
Con đang tự hỏi mình là hạng người nào trước mặt Chúa? Con không là Pharisêu, nhưng cũng ít nhiều có vị trí nào đó trong xã hội, trong Giáo hội. Ít nữa là một tín hữu được đón nhận Phép rửa, là con cái Chúa từ vài chục năm nay. Con đã từng là người trên của các đứa em, là cha mẹ của con cái trong nhà. Con có sống thực với vai trò của người trên với người dưới ? là cha mẹ đối với con cái ? Là người huynh trưởng trong hội đòan, là người đại diên của khu họ, của cộng đòan. Con cũng được tín nhiệm hay được trao cho trách nhiệm giúp đỡ giáo dục, khuyên bảo người khác. Con có nói đi đôi với làm? Con có tin điều mình tuyên xưng ? có làm điều con rao giảng ? Quả thật con còn có nhiều lầm lỗi, thiếu sót. Con có khác chi thái độ giả hình của các ông biệt phái ngày xưa bị Chúa phê phán .
Xin Chúa giúp con khi nhận ra bản thân mình tội lỗi, như người thu thuế, nhận ra những thiếu sót của mình, để xin Chúa tha thứ và thêm sức cho con sửa chữa lỗi lầm. Con có thể sống giả dối trước mặt mọi người, nhưng không thể giả hình trước mặt Chúa. Và dù có giả dối được hôm nay, trong cuộc sống này, thì đến một lúc nào đó con cũng phải ê chề vì thái độ sống của mình trước mặt Chúa và anh em . AMEN.