Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 31-C Bài 1-50: Ông Da-kêu, chứng nhân của lòng thương xót ---------------------------------------------- Phúc Âm: Lc 19, 1-10: "Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Sau khi được Chúa tha thứ, ông Giakêu đã thưa lên cho mọi người được biết: - Tôi sẽ lấy nửa: TN 31-C1
Sau khi được Chúa tha thứ, ông Giakêu đã thưa lên cho mọi người được biết:
- Tôi sẽ lấy nửa gia tài để làm phúc bố thí cho người nghèo và nếu đã làm thiệt hại ai, tôi xin đền bù gấp bốn.
Lời nói này biểu lộ thái độ sẵn sàng đền bù và sửa lại những sai lỗi của mình. Đã có một chuyển biến, đã có một đổi thay nơi con người Giakêu. Vì thế, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vai ý nghĩ đơn sơ về sự đền bù.
Có một người bỏ xưng tội lâu năm, tìm gặp vị ẩn tu trong sau mạc để xưng tội. Vị ẩn tu ra việc đền tội là một kinh Lạy Cha, khiến người ấy hết sức ngạc nhiên. Vị ẩn tu trả lời:
- Chỉ có vậy mà thôi, nhưng con phải đọc cho thật sốt sáng.
Người tội lỗi quì gối giữa vùng sa mạc cát nóng, đôi tay giang rộng, mắt ngước nhìn lên trời và bắt đầu đọc chậm chậm kinh Lạy Cha với tất cả sự trang nghiêm của mình. Và khi đọc tới những chữ cuối cùng, người ấy cảm thấy mệt mỏi rã rời, hơi thở đứt đoạn, rồi ngã gục xuống và nhẹ nhàng từ bỏ cuộc sống. Vị ẩn tu nhìn thấy linh hồn người ấy bay lên trời như một cánh chim bồ câu trắng.
Nhờ việc xưng thú, tội lỗi chúng ta đã được tha thứ, nhưng nhờ việc đền bù, những hình phạt do tội lỗi gây ra cũng được xóa bỏ. Chính vì thế, linh hồn có thể không phải qua luyện ngục, mà tiến thẳng đến cùng Chúa. Do đó, chúng ta hiểu được tại sao vị linh mục bao giờ cũng ra việc đền tội cho chúng ta sau mỗi làng xưng thú. Ngài muốn hoàn tất trọn vẹn công việc của ngài: xóa bỏ tội lỗi cũng như những hình phát bởi tội mà ra. Ngài muốn cho chúng ta thoát khỏi những tháng ngày đày đọa nơi luyện ngục. Bởi đó, hãy chu toàn việc đền tội của mình.
Tuy nhiên, những người thiện chí như muốn nói:
- Xin cha hãy ra việc đền tội nặng hơn một chút.
Tối lắm. Chúng ta cứ việc hoàn tất việc đền tội linh mục đã chỉ định, rồi sau đó tự ý làm thêm những việc khác, chẳng hạn như lần chuỗi hay đi chặng đàng Thánh giá…
Sau khi xưng tội, đừng vội vã rời bỏ nhà thờ, nhưng hãy ở lại ít phút để cầu nguyện với Chúa bằng tất cả tâm hồn trong sạch của mình. Chúa sẽ lắng nhge lời chúng ta trong những phút giây ấy.
Tuy nhiên, việc đền tội không nhất thiết phải là đọc kinh nọ, kinh kia, nhưng có thể là những hy sinh và hãm mình. Hãy sống tinh thần sám hối trong chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Thánh Louis đã kể lại rằng: trong suốt cuộc sống mình chỉ phạm có hai tội nhẹ mà thôi. Tội thứ nhất, đó là hồi còn bé ngài đã ăn cắp mấy xu của một người lính. Tội thứ hai, đó là ngài đã nói lời tục tĩu một lần. Ngài đã làm nhiều việc hãm nình để đền bù hai sai lỗi nhỏ bé ấy. Là hoàng tử, nhưng ngài luôn vui vẻ giúp đỡ người khác. Mỗi khi cầu nguyện, ngài đều quì trên đất cứng, thay vì quì trên nhung lụa. Mỗi tuần, ngài ăn chay hai ngày. Ban đêm, thay vì ngủ trên chăm ấm nệm êm, thì ngài lại nằm trên một tấm ván.
Sau này, ngài đã rời bỏ cung điện để vào tu trong một nhà dòng. Tại đây, ngài vui mừng vì được làm những công việc tầm thường như quét nhà, rửa bát…Khi cơn dịch bộc phát, ngài đã hăng say đi giúp đỡ các bệnh nhân và sau cùng, ngài cũng đã mắc phải bệnh dịch.
Mặc dù đớn đau, ngài không bao giờ than van oán trách. Ngài chấp nhận tất cả để đền bù tội lỗi. Tại sao thế ? Vì ngài biết Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng và sẽ trừng phạt cả những sai lỗi nhỏ bé nhất. Ngài muốn bị trừng phạt ở đời này, còn hơn là bị trừng phạt ở đời sau.
Tuy nhiên, co một cách đền tội thật tốt đẹp, đó là hãy uốn nắn những sai lỗi, sửa đổi những khuyết điểm, để thăng tiến bản thân, mỗi ngày một trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
Chúng ta hãy noi gương thánh Phêrô, ông đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó, ông đã ăn năn sám hối, đã làm lại cuộc đời và đã trở nên một vị thánh.
Trước khi xưng thú, chúng ta là những kẻ tội lỗi. Còn sau khi xưng thú, chúng ta phải trở nên những vị thánh.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 31-C Bài 1-100: ----------------------------------------------
Đoạn Tin Mừng hôm nay được đặt vào đoạn cuối của lần sau cùng khi Chúa Giêsu vào thành: TN 31-C2
Đoạn Tin Mừng hôm nay được đặt vào đoạn cuối của lần sau cùng khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, nơi đây Người sẽ chịu khổ nạn và sẽ bị giết bởi tay người Do thái, rồi ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Câu chuyện ông Giakêu được đặt kế tiếp sau phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người mù thành Giêricô. Người mù được Thiên Chúa chữa lành, vì tin vào Chúa Giêsu mà ông ta được sáng mắt. Phép lạ của người mù chuẩn bị cho thính giả hiểu được sâu xa cuộc cách mạng tinh thần của ông Giakêu, một cuộc cách mạng tận gốc rễ, đổi mới hoàn toàn. Từ bóng tối của cảnh mù lòa bước vào ánh sáng của người được chữa lành. Từ bóng tối của tội lỗi bước sang con đường sáng của cuộc đời mới, của cuộc sống thánh thiện. Từ cuộc gian tham khéo léo bước sang con đường ngay chính chân thật và quảng đại. Từ cuộc sống xa Chúa được xích lại gần Chúa hơn, được kết hợp với Chúa Giêsu và hòa giải với tha nhân.
Do đó, trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay nêu bật một khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu, đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói gọn trong tình yêu khoan dung. Vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngụ ý của lỗi lầm, của tha thứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ mình yêu trong hiện tại đen tối của người ấy, nhưng còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tương lai. Trong cách hành sử của Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng tha thứ. Để biểu lộ một tình yêu chân thành trên, Chúa Giêsu đã tiếp xúc với người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội bấy giờ gán cho là những kẻ tội lỗi. Ngài không cấm họ không được lui tới nghe Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài cùng ăn uống và đồng bàn với họ.
Vì thế, những cuộc gặp gỡ và giao tiếp này minh chứng rằng, Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: Trạng thái hiện tại của họ và những trạng thái họ có thể trở nên tốt trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dầu họ đang sống trong tình trạng tội lỗi, nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải. Và những điều họ có thể trở nên tốt được minh chứng qua những hành động cụ thể, ví dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa Giêsu như trường hợp của Ông Gia kêu. Ông là một người thu thuế nhưng khi nghe Chúa Giêsu gọi, ông liền bỏ bàn thu thuế đứng dậy và theo làm môn đệ của một người tự nhiên tả: “Con cáo có hang, con chồn có tổ nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Do đó, sự cải tạo xã hội tận căn phải bắt đầu bằng ý thức về tội lỗi và sám hối, và đây có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Vào thời Chúa Giêsu, nghề thu thuế được hiểu như là cấu kết với ngoại bang để hà hiếp và bóc lột người đồng hương, nên cũng đồng nghĩa với tham lam bất chính. Một cách nào đó, phường thu thuế là một ung nhọt của xã hội, trong khi xa lánh là biện pháp thanh trừng đối với nhà lãnh đạo Do thái dành cho những người thu thuế thì trái lại Chúa Giêsu đến với họ, ngồi đồng bàn với họ. Chúa Giêsu không làm như thế để biện minh cho hành động tham lam bất chính đối với những người thu thuế cũng như đối với các cô gái điếm. Ngài đến gần họ, trước hết là để cảm thông với thân phận bị đẩy ra bên lề xã hội của họ, đồng thời Ngài mời gọi họ ý thức về hành động tội lỗi của họ.
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên chức giàu có tên là Giakêu tại thành phố Giêricô cho thấy cuộc cách mạng ấy bắt đầu bằng việc sám hối và cải thiện cuộc sống. Thật ra, sám hối đích thật luôn đi liền với cải thiện. Anh mắt của Chúa Giêsu đã đi xuyên suốt tâm hồn ông, khiến ông nhận ra được những lỗi lầm của mình. Anh mắt ấy lại từ nhân và mời gọi, đến nỗi đã làm cho ông cảm thấy thôi thúc và cải thiện đời sống. Vì thế, ơn cứu độ đã thực sự đến nhà ông và cuộc tái sinh đã khởi đầu::Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, mà nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn lần”. Ông Giakêu không chỉ sám hối và cải thiện cuộc sống bản thân, nhưng ông còn góp phần vào việc cải tạo xã hội, đúng hơn nữa sự hoán cải cá nhân của ông ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc sống xã hội. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được chiều kích xã hội của lòng sám hối. Vì thế, không những người tín hữu Kitô đóng góp tài trí của mình cho công cuộc cải tạo xã hội, nhưng niềm tin của họ được thể hiện bằng lòng sám hối và cải thiện cuộc sống làm trọng tâm và cũng là linh hồn của bất cứ một cuộc cách mạng và cải tạo xã hội nào. Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 31-C Bài 1-100:
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sinh động và thú vị về thái độ của một tay: TN 31-C3
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sinh động và thú vị về thái độ của một tay trùm thu thuế có tên là Giakêu. Giakêu là một con người khá đặc biệt. Đặc biệt vì ông ta có vóc dáng quá khiêm tốn, vừa nhỏ vừa lùn. Đặc biệt vì ông ta là một người giàu có ai cũng biết, nhưng sự giàu có của ông là do nghề nghiệp thu thuế, một nghề mà đối với người Do thái bấy giờ là nghề tội lỗi. Tội lỗi với dân tộc vì làm tay sai cho ngoại bang, cho đế quốc đàn áp và bóc lột đồng bào. Tội lỗi với Gia vê Thiên Chúa và với lề luật, vì đã tham nhũng và thủ lận tiền chung bỏ vào túi riêng.
Một người như ông mà lại tò mò đến nỗi phải leo lên cây sung, vì ao ước chỉ được xem thấy Chúa Giêsu và cuối cùng không những được xem thấy mà còn đối diện với Ngài, tiếp đón Ngài vào nhà. Cuộc tiếp xúc này dẫn ông đến việc tự nộp mình vào cuộc đánh tư sản mại bản của chính bản thân ông: “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ phân phát cho người nghèo và nếu tôi có gian lận của ai, tôi sẽ đền gấp bốn”.
Thái độ của Giakêu không phải là thái độ rửa tiền hay chạy tội của một kẻ quan chức tham ô thủ đoạn. Nhưng là một thái độ chân thành hối cải, một thái độ của người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Một lần và chỉ một lần giữa Đức Giêsu và Giakêu đã làm biến đổi cả cuộc đời. Nhưng dầu sao đi nữa, điều làm cho chúng ta lưu ý chính là dung mạo đích thực của Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại.
Giakêu hôm nay tôi lưu lại nhà ông và hôm nay ơn được cứu độ đã đến cho nhà này.Vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất. Chúa Giêsu không những đã vượt qua và còn phá đổ những giới hạn và những gía trị của tập tục Do thái và những quan niệm của những người biệt phái. Ngài la cà tiếp xúc với những người tội lỗi, Ngài vào nhà và ăn cơm với những người thu thuế. Ngài để cho người đàn bà tội lỗi quấn quít rồi để cho bà lấy tóc lau chân Ngài. Ngài đã cứu chữa những người bệnh tật trong ngày Sabbat.
Hình ảnh của Đức Giêsu cho thấy một Thiên Chúa giống như bài đọc 1 sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt uếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không ? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không ? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không ? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng thánh lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không ? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua kinh tin kính.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng do thánh Luca kể lại. Ngài được mệnh danh là “Thư ký: TN 31-C4
Câu chuyện trong bài Tin Mừng do thánh Luca kể lại. Ngài được mệnh danh là “Thư ký của lòng thương xót”, vì trong Tin Mừng của ngài đã kể lại nhiều giáo huấn và công việc Chúa Giêsu làm để bày tỏ lòng Chúa xót thương loài người tội lỗi. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng điển hình rõ ràng. Trên đường lên Giêrusalem, khi đi ngang qua thành Giêricô, Chúa Giêsu đã gặp một người tội lỗi, nhưng đầy thiện chí, là ông Dakêu. Chúa đã ghé vào trọ nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông, bất chấp mọi lời dị nghị, gièm pha.
Ông Dakêu không những là một người thu thuế, mà còn là thủ lãnh những người thu thuế, tức là một chủ thầu thuế má, nên ông cũng là một người rất giàu có. Dân Do thái rất ghét những người thu thuế, coi họ là những người tội lỗi, không thể ăn năn hối cải, không thể tha thứ, làm tay sai cho ngoại bang: thu thế cho nhà nước bảo hộ, tức đế quốc Rôma. Trong nghề đó, người ta có thể bày rất nhiều trò ma giáo để ăn hối lộ những kẻ muốn trốn thuế, hay muốn giảm thuế phải đóng. Bởi đó, người Do thái ghê tởm những người thu thuế. Ông Dakêu là người như thế. Không những ông bị thiên hạ khinh dể mà còn có thân hình thấp lùn.
Ông muốn tìm cách để xem Chúa Giêsu là người như thế nào. Nhưng dân chúng chen chúc chung quanh Chúa đông quá. Ông quyết không bỏ lỡ cơ hội. Một người chủ thầu phải có nhiều sáng kiến. Ông chạy tới trước và leo lên một cây sung bên đường. Ông yên tâm chờ đợi, vì Chúa Giêsu sắp đi ngang qua đó. Lòng ước muốn của ông thật là mãnh liệt, vì ông không sợ đám đông chế diễu. Ông chỉ còn biết một điều là làm sao thấy được mặt Chúa Giêsu. Quả thực, ông đã có thiện chí. Bấy nhiêu đã đủ để Chúa trọng thưởng tấm lòng chân thành của ông.
Chúa Giêsu đi tới, Ngài nhìn lên và gọi đích danh ông. Điều quan trọng là Chúa không chỉ đi ngang qua cho ông Dakêu nhìn Chúa, chính Chúa nhìn lên và gọi ông đúng như có lần Chúa đã nói: “Ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”. Ông Dakêu đi tìm và ông đã thấy, ông đã gõ cửa và Chúa đã mở cho ông, bằng cách xin ông mở cửa nhà ông cho Ngài vào. Chúa muốn đến với ông và đến tận nhà ông.
Được đáp ứng quá sự trông mong. Ông muốn thấy Chúa thì Chúa đến tận nhà để ông nhìn cho đã. Chúa quảng đại vô cùng. Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Nhưng đám đông lại sầm xì với nhau. Họ khó chịu với Chúa Giêsu, vì Chúa vào trọ nhà một người tội lỗi. Ông Dakêu đã tìm ra giải pháp để vượt qua cái giới hạn của tấm thân lùn. Liệu ông có tìm được giải pháp cho thân phận tội lỗi của ông để thắng được lời xì sầm kia không ? Ông không sợ đám đông chế diễu khi leo lên cây sung để nhìn mặt Chúa, thì Chúa đã đáp lại, Ngài không sợ đám đông sầm xì khi yêu cầu ông đón Ngài về ở nhà ông.
Đứng trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn. Ông sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, ông thưa với Chúa là đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo. Không những thế, ông thấy mình còn phải thực hiện sự công bình nữa: làm thiệt ai ông sẽ đền gấp bốn. Lòng quảng đại của ông sánh với lòng quảng đại của người đàn bà tội lỗi: ông yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. Lòng yêu mến của ông đối với Chúa Giêsu diễn tả thành lòng yêu mến người nghèo và những người đã bị ông bóc lột.
Sau khi ông Dakêu tuyên bố quyết định của ông, thì Chúa Giêsu nói: “Hôm nay nhà này được cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Ông Dakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ông Dakêu đã bị đám đông loại trừ, vì thân ông lùn và phận ông tội lỗi. Nhưng Chúa đã rời đám đông kiêu hãnh kia để đi tìm ông và đem ơn cứu độ cho ông. Chúa đã nhìn ông và cứu ông. Cái nhìn của Chúa, cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt. Ông Dakêu đã tìm cách nhìn thấy Chúa, nhưng ông cũng đã để cho Chúa nhìn ông và chinh phục ông. Ông được cứu độ.
Qua những điều trên, chúng ta hãy ghi nhớ hai điều sau đây: Thứ nhất, những tội bất công hay tham nhũng mà ông Dakêu phạm, đã làm cho ông mất tước hiệu là con cái Abraham. Nhưng với sự ăn năn sám hối, muốn làm lại cuộc đời, sửa lại những lỗi lầm, ông Dakêu đã được chính Chúa Giêsu tha tội và trả lại cho ông tước vị đó. Tước vị con cái Abraham là một vinh dự của người Do thái. Nhưng người Công giáo, ngoài tước vị đó ra, chúng ta còn là con cái Thiên Chúa. Người Do thái rất hãnh diện về tước vị đó. Còn chúng ta, chúng ta có hãnh diện về tước vị làm con Thiên Chúa không ? Nếu làm mất danh hiệu con cái Thiên Chúa, chúng ta cũng cần bắt chước Dakêu mà sửa lại những lỗi lầm gây nên sự mất mát kia, để Chúa cũng trả lại danh hiệu nghĩa tử Thiên Chúa cho chúng ta và tuyên bố về chúng ta rằng: “Người này cũng là con cái Thiên Chúa”.
Thứ hai, nhiều người Công giáo quên mất rằng: Đạo Chúa là đạo cứu thế chứ không phải đạo phán xét. Do đó, người Công giáo cũng phải có tinh thần cứu thế, không phán xét, khinh dể những người tội lỗi… Chúa Giêsu đã không hùa theo người Do thái mà khinh dể, loại trừ ông Dakêu. Trái lại, đã đến với ông để cứu ông và cả gia đình ông, làm cho họ trở thành con cái thực thụ của Abraham. Thế thì người Công giáo cũng vậy, phải yêu thương tội nhân, đến với họ, mang ơn cứu độ cho họ và làm cho họ lấy lại tước vị “con cái Abraham” trong đức tin và “con cái Thiên Chúa” trong tình yêu thương bác ái.
Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo: TN 31-C5
Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo hức như gặp người yêu, gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu… Tuy nhiên, gặp kẻ khó ưa, gặp tên trấn lột, tên lường gạt… thì chẳng ai mong muốn. Ngoài ra lại có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa, có sức hoán cải, làm thay đổi cả con người. Cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở gặp mặt, gặp gỡ xã giao, nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn.
Trang Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ hết sức thú vị giữa Đức Giêsu và Giakêu. Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị mọi người xa lánh. Thế nhưng trong cuộc kết giao này. Đức Giêsu chẳng mất mát gì, trái lại Ngài đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội lụy ; còn Giakêu, dù là chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng lại được mối lợi thật to. Ông và cả gia đình đón nhận được hồng ân cứu độ. Quả là một cuộc gặp gỡ diệu kỳ đưa đến hoán cải tận căn.
Phải chăng là sự hài hước, chế giễu hoặc là một nghịch lý ? Danh xưng “Giakêu” trong tiếng Do thái có nghĩa là “người thanh khiết, người công chính”. Con người tội lỗi công khai ấy lại có tên “thanh khiết, trong sạch” làm chúng ta nghĩ tới một kẻ lừa bịp ác tâm mà người ta đặt cho là “người vô tội”.
Bạn của Giakêu là “tiền”, còn phương châm sống là “bất chấp dư luận”. Thế nên, dù có vóc dáng nhỏ thó với chiều cao khiêm tốn, ông cũng leo lên được nấc thang xã hội, đã đạt được vị trí ước mong, đã thu tích được một gia tài. Có được gia tài này, một phần là nhờ trí tuệ, sự miệt mài làm việc, một phần cũng là nhờ bòn mót và kiếm chác của người khác. Bởi lẽ ông đứng đầu những người thu thuế. Ông coi những người khác là bần cùng, khố rách áo ôm. Còn người ta lại khinh bỉ ông là kẻ tội lỗi. Giakêu, một con người bị tránh xa như bệnh dịch, kẻ tội lỗi hoàn toàn hư mất. Cấm không được giao du với hạng người hư hỏng đó. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ông đã sống để kiếm tiền và khuấy động thành phố. Nhân danh pháp luật, ông bức bách người ta. Nhưng khi nghe nói Đức Giêsu đi qua đó, và Người là bạn của những kẻ không được ai yêu thương, ông đã leo lên một cây sung bên đường để xem cho biết mặt Đấng ấy. Khi tới chỗ ấy, Đức Giêsu dừng lại và đưa mắt nhìn lên. Chẳng biết Người muốn nói gì nơi ông ?
Chúng ta có thể gọi chỗ này là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu như Đức Giêsu đã không ngước mắt nhìn lên kẻ ở trọ lạ lùng – trên cây sung. Người “nhìn lên” Giakêu. Người không xem thường ông, nhưng nhận ra nơi ông một con người sẵn sàng hoán cải. Anh mắt, thái độ và lời nói của Người không ngừng biểu lộ sáng kiến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Giakêu muốn gặp mặt Đức Giêsu, không kèn, không trống, không kẻ hầu người hạ. Ông đi một mình trơ trụi, bị đẩy lại sau những kẻ tò mò, và điều hạ nhục ông là ông phải làm một chuyện kỳ dị đối với một viên chức cao cấp. Có thể nói ông đã làm một bước nhảy vọt, vượt trên mọi dư luận, mọi thành kiến. Ông làm tất cả những điều đó cốt để tận mắt thấy Đức Giêsu. Quả là đáng khâm phục ! Thế nhưng, Đức Giêsu lại làm một cữ chỉ đáng kinh ngạc hơn. Trong lúc được đám đông dân chúng vây quanh và hết lòng ngưỡng mộ, Người lại tách mình ra khỏi đám đông hỗn độn ấy để đến với một kẻ tội lỗi. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời xì sầm, bàn tán hay dị nghị. Đấng Thánh của Thiên Chúa hạ mình xuống làm bạn với một người tội lỗi.
Tình yêu vượt lên mọi thành kiến, mọi trở ngại, mọi rào cản.
Hiển nhiên, đám đông chờ đợi và hy vọng Đức Giêsu sẽ cho Giakêu một bài học đích đáng. Và nếu Người làm như vậy, Người sẽ được dân chúng tán dương. Nhưng Đức Giêsu từ chối đối xử với ông như vậy. Thay vào đó, Người lại muốn trọ tại nhà ông. Dân chúng lập tức đâm ra ghét Người ; còn Giakêu thì vô cùng bỡ ngỡ, ông vui vẻ đón tiếp Người.
Người ta ghét Giakêu. Họ không muốn thấy ông được cứu độ. Họ chỉ muốn ông bị kết án và bị trừng phạt. Nhưng Đức Giêsu không nghĩ như vậy. Người thấy rằng điều Giakêu cần không phải là bị kết án nhưng là ơn cứu độ. Giakêu có xứng đáng hay không xứng đáng lãnh ơn cứu độ – điều đó không quan trọng – Giakêu cần ơn cứu độ, như thế là đủ đối với Đức Giêsu. Nếu Người cũng như đám đông dân chúng kết án, hạ nhục hay tránh né ông, thì chắc chắn phép lạ hoán cải đã chẳng xảy ra.
Nghịch lý trong tên gọi của Giakêu lúc đầu giờ đây lại hoàn toàn hữu lý. Chúng ta thấy rằng niềm vui của cuộc gặp gỡ làm nảy sinh nơi người tội lỗi ước vọng thiết tha được khởi đầu một cuộc sống mới: “Thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Ban đầu, Giakêu chỉ muốn xem cho biết Đức Giêsu là người thế nào. Thay vì chỉ thoáng thấy Chúa đi ngang, ông được diễm phúc diện đối diện, và còn hơn thế nữa tâm hồn ông gặp được tấm lòng bao dung của Thiên Chúa. Tâm hồn Giakêu giờ đây giống như vùng đất sa mạc được tưới mát sau cơn mưa lớn.
Cuộc hoán cải của Giakêu đã xảy ra tức khắc, tỏ tường và chúng ta có thể chắc chắn về điều đó. Tuy nhiên, đây không phải chỉ là cuộc hoán cải thuộc lãnh vực trí tuệ. Ông đã thay đổi cõi lòng. Trên quan điểm của Tin Mừng, đây là cuộc hoán cải có tầm quan trọng nhất và cũng để lại những dấu ấn sâu đậm nhất. Sợ hãi chẳng thể nào làm nảy sinh được cuộc hoán cải nội tâm. Chỉ có tình thương và lòng bao dung mới có thể làm được điều đó. Một sự tiếp cận cứng cỏi sẽ đưa tới một con tim khép kín và chai đá. Một sự tiếp xúc dịu hiền, như Đức Giêsu đã cư xử với Giakêu, sẽ dẫn đến một con tim mềm mại và cởi mở.
Lời tuyên bố của Đức Giêsu cho thấy phép lạ thật sự đã xảy ra ngay trong cuộc gặp gỡ giữa Người và Giakêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giờ đây, Giakêu không còn mang danh hiệu kẻ tội lỗi nữa, nhưng ông có thể mang tên thật của mình là “người thanh khiết”.
Đức Giêsu không chỉ muốn gặp gỡ Giakêu nhưng Người cũng muốn gặp gỡ mỗi người chúng ta. Trước mặt Thiên Chúa chúng ta cũng là những kẻ tội lỗi đáng thương như Giakêu, cũng cần đến sự hoán cải và ơn tha thứ.
Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Người. Người luôn đi bước trước. Bao giờ cũng chính Người đến với ta, và Người vẫn còn đến mãi bao lâu chưa tiếp xúc được với chúng ta.
Thế nên chúng ta phải hành động để tìm gặp Thiên Chúa. Người không đòi ta phải leo lên cây sung như Giakêu, nhưng quan trọng là phải đi gặp Người bằng chính hành động của mình. Cũng như Giakêu, Thiên Chúa không đòi ta phải bỏ nhiệm vụ của mình mà lánh vào sa mạc. Người giúp Giakêu khám phá ra rằng ông phải chu toàn nhiệm vụ của mình một cách công bằng và đền bù những lạm dụng. Do đó, chúng ta cũng nên xét lại những bổn phận và cách cư xử của mình có hợp với lẽ công bằng hay chưa. Có thể chúng ta chẳng lấy cắp hay chiếm cứ tài sản của ai cách công khai, nhưng chúng ta lại thỏa hiệp với việc lấy cắp của công, tham ô, hối lộ, bớt xén thời gian làm việc, đầu cơ trục lợi hoặc cho vay nặng lãi. Bên cạnh đó, có bao giờ chúng ta đã để tâm sống đức công bằng qua việc tôn trọng danh dự, phẩm giá người khác ; hay chúng ta coi việc gièm pha, vu khống, hỗn láo, nói xấu người khác… là chuyện bình thường ?
Sự hoán cải của Giakêu là một cuộc hoàn lương. Tất cả chúng ta cũng cần một cuộc hoán cải như vậy. Mỗi người đều có khả năng mà Giakêu đã có, cho dẫu nó có thể bị che khuất hay chưa được tỏ lộ. Thế nên, chúng ta cũng cần hoán cải hằng ngày để từ một quả tim khép kín trở nên rộng mở, từ một quả tim chai đá, bất công trở thành thịt mềm, ngời sáng đức công bằng.
Khi sửa chữa người khác, cách tiếp cận mà chúng ta chọn rất quan trọng. Nếu chúng ta tiếp cận: TN 31-C6
Khi sửa chữa người khác, cách tiếp cận mà chúng ta chọn rất quan trọng. Nếu chúng ta tiếp cận họ chỉ để chất vấn những lỗi lầm của họ thì có nhiều khả năng, chúng ta không làm được gì. Thật vậy, chúng ta hầu như làm cho vấn đề trở nên tồi tệ. Họ sẽ khép kín, trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Một người quản lý nhà tù nói rằng cách duy nhất để thay đổi người ta phải thông qua một tương quan với người ấy. Bạn không thể cải thiện người khác bằng cách tránh xa hoặc bỏ rơi họ. Một bầu khí lạnh lùng không khích lệ sự trưởng thành.
Nếu bạn làm bẽ mặt một người, bạn chỉ làm cho tâm hồn người ấy chai cứng. Bạn chỉ tìm cách nào để tâm hồn người ấy cảm động. Mọi người, kể cả người có máu lạnh nhất đều có cái cốt lõi của sự lễ nghĩa, và có khả năng thay đổi, nếu tâm hồn họ cảm động.
Chúng ta phải tiếp cận những người khác cách nào để họ thấy rằng chúng ta tin tưởng và tín nhiệm họ. Kết quả là họ sẽ dẹp bỏ sự thủ thế, dè chừng và cởi mở lòng họ. Một khi họ cởi mở thì một điều gì đó có thể xảy ra. Chúng ta thấy điều đó trong trường hợp của Dakêu.
Đức Giêsu nhìn thấy Dakêu trên cây. Lúc đó cách sống của Dakêu hoàn toàn trái ngược với những điều mà Đức Giêsu bảo vệ. Chắc chắn đám đông chờ đợi và hy vọng Đức Giêsu sẽ quở trách và cấm ông ta không được làm bậy. Làm như thế, Người sẽ làm cho dân chúng trong thành thêm yêu thích Người.
Nhưng Đức Giêsu từ chối quở trách Dakêu. Trái lại, Người đã làm một điều khiến dân chúng lập tức không còn yêu thích Người. Người nói với Dakêu Người muốn dùng cơm tối ở nhà ông và với sự kinh ngạc. Dakêu vui mừng đón tiếp Người. Dân chúng than phiền: “Ông ấy đến ở lại nhà người tội lỗi”. Họ ghét Dakêu. Họ không muốn nhìn thấy ông được cứu. Họ muốn nhìn thấy ông bị lên án và trừng phạt.
Nhưng Đức Giêsu đã không nghĩ như thế, Người thấy rằng điều mà Dakêu cần không phải là sự lên án mà là sự cứu chuộc. Vấn đề không phải là ông ta có xứng đáng với sự cứu chuộc hay không. Ông ta cần có – đối với Đức Giêsu, như thế đã đủ. Với việc đi đến nhà ông, đối đầu với sự bất mãn và giận dữ của dân chúng trong thành, Đức Giêsu cho Dakêu thấy rằng Người quan tâm đến ông. Nếu Người tránh xa ông hoặc lên án ông, phép lạ hẳn không bao giờ xảy ra.
Dakêu đã cảm nghiệm tình yêu thương của Đức Giêsu. Điều này đã là một kinh nghiệm kỳ diệu đối với một người mà cho tới nay chỉ có kinh nghiệm về sự oán ghét. Được một người tín nhiệm chúng ta, người ấy không phán xét hoặc lên án chúng ta nhưng yêu thương chúng ta, đó là một cảm giác tuyệt vời. Tâm hồn Dakêu nở bung ra với sự sống như một sa mạc sau trận mưa to.
Được người ta yêu thương vì mình tốt lành không có gì là to lớn, khác thường. Cũng như khi mình xứng đáng. Nhưng được yêu thương khi mình xấu xa – như trường hợp của Dakêu quả là kỳ diệu. Dakêu đã cảm nghiệm sự kinh ngạc ấy vì được yêu. Điều này khiến cho những điều tốt đẹp nhất trong ông được triển nở. Sự hoán cải của ông là một sự hoán cải hướng đến điều thiện hảo. Với mức độ nhiều hơn hoặc ít hơn, tất cả chúng ta cần có sự hoán cải ấy.
Truyền hình đang đe dọa biến tất cả chúng ta thành những khán giả, kẻ bàng quan, người ngoài: TN 31-C7
Truyền hình đang đe dọa biến tất cả chúng ta thành những khán giả, kẻ bàng quan, người ngoài cuộc. Giả sử bạn là một người yêu thích thiên nhiên. Giờ đây, bạn không cần phải để cho giày mình bị bẩn, hoặc bạn phải đội mưa. Bạn cũng không cần phải ra khỏi phòng khách hoặc đi xa lò sưởi. Truyền hình đem lại cho bạn lễ hội với quang cảnh và âm thanh. Không nguy hiểm, không mệt nhọc, không rắc rối. Tuy nhiên, đó là một sự thay thế quá nghèo nàn so với cảnh vật.
Có những người tuyên bố rằng mình yêu thiên nhiên nhưng hiếm khi hoặc không bao giờ họ đi dạo trong rừng, băng qua các cánh đồng hoặc đi dọc theo bờ biển. Nói cách khác, họ chỉ là những khán giả. Họ không thật sự bị lôi kéo để tham gia. Tham gia là góp phần mình vào việc đó. Nhưng bạn sẽ thu hoạch nhiều hơn điều bạn cho đi.
Tuy nhiên, khi làm khán giả, ít nhất, người ta cũng có sự quan tâm. Và nơi nào có sự quan tâm, ở đó có khả năng người ta sẽ thật sự tham gia.
Trường hợp của Dakêu là như thế. Lúc bắt đầu câu chuyện ông chỉ là một khán giả. Ông có thể nhìn thấy mà không bị nhìn thấy, ông chỉ là một người đi xem. Ông cảm thấy thuận tiện khi bị quan sát. Tất cả chúng ta chẳng như thế sao ?
Ông không hòa nhập vào đám đông. Ông trèo lên cây sung giữa những cành cây. Và bằng cách đó, ông chơ vơ, không có chỗ để bám. Ông đứng bên lề, không phải vì nghèo nàn mà vì giàu có. Sự giàu sang đã cô lập ông với những đồng bào ông trong thành mà phần lớn đều nghèo khó.
Là một người đi xem, ông chỉ tham dự một cách thụ động. Ông ở đó trong những giới hạn của mình. Hẳn ông phải có một sự quan tâm nào đó, nhưng không liều lĩnh, không dấn thân. Khi mọi việc qua đi, ông có thể trở về nhà, và nếu ông muốn, ông sẽ quên hết mọi chuyện.
Nhưng điều gì đã xảy ra ? Đức Giêsu đã nhìn thấy ông và mời gọi ông trở thành một người tham dự. Thình lình Dakêu bị lôi từ đường biên vào thẳng trung tâm của hành động. Ông giống như một khán giả đi xem bóng đá và thình lình giám đốc đội banh phát hiện anh ta, thẩy cho anh ta một bộ đồ cầu thủ và nói: “Anh ra sân đi ?” Và anh thấy mình đang chơi banh.
Điều làm ngạc nhiên là không những Dakêu đáp lại một cách tích cực mà còn hân hoan làm như thế ngay lập tức. Có niềm vui khi đi xem nhưng niềm vui còn lớn hơn khi tham dự. Kết quả đối với ông thật là to lớn, nó biến đổi cuộc đời ông. Đời sống hoạt động theo ơn gọi Kitô hữu của chúng ta sẽ thay đổi đời sống của chúng ta.
Dakêu đã cảm nghiệm một ơn hoán cải – hoán cải hướng về sự thiện hảo. Với mức độ lớn hơn hoặc nhỏ hơn, tất cả chúng ta cần có loại hoán cải ấy.
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong: TN 31-C8
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy ?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoià ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Giakêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung ; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !”. Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương ; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đến gấp bốn”. Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Thật vậy ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Abraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao giờ cũng trổi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Chắc hẳn Dakêu đã nghe người ta nói nhiều điều tốt về Chúa Giêsu. Nhưng ông muốn chính: TN 31-C9
Chắc hẳn Dakêu đã nghe người ta nói nhiều điều tốt về Chúa Giêsu. Nhưng ông muốn chính mình gặp Ngài, lý do thứ nhất là để xem tướng mạo Ngài ra sao, và lý do thứ hai quan trọng hơn là để biết con người của Ngài thế nào.
Hôm đó cũng có rất đông người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Họ ở cạnh Ngài, họ bao quanh Ngài. Còn Dakêu thì không đến gần được, ông phải trèo lên một cây sung. Thế mà Chúa Giêsu lại đặc biệt để ý tới ông. Thật sung sướng khi được người khác để ý tới.
Tuy nhiên, để ý tới ai không hẳn chỉ là để chăm sóc hay khen ngợi người đó. Nếu người đó là kẻ xấu thì có thể người ta để ý tới để mà dò xét hay khiển trách. Dakêu là người xấu, nhưng Chúa Giêsu để ý tới ông không phải là để khiển trách. Ngài dừng lại và nhìn lên ông. Dakêu hiểu là Chúa Giêsu quan tâm đến ông. Được để ý tới là sung sướng, được quan tâm lại càng sung sướng hơn.
Chúa Giêsu còn nói với Dakêu nữa. Đặc biệt là Ngài không nói một lời nào về những tội lỗi của ông. Thay vào đó Ngài gọi đích danh ông “Này ông Dakêu”. Rồi Ngài gọi ông xuống “Xuống mau đi”. Ngài còn ngỏ ý muốn đến trọ nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Điều này không ai ngờ. Dakêu không ngờ, mà tất cả mọi người có mặt ở đó cũng không thể ngờ một người đạo đức như thế mà lại đến trọ nhà một người tội lỗi công khai. Dakêu sung sướng quá. “Ông vội vàng trèo xuống và mừng rỡ đón tiếp ngài”. Ban đầu ông chỉ mong nhìn được Chúa Giêsu một cái thôi. Bây giờ ông được nhìn Ngài mặt đối mặt và sắp được ở chung với Ngài ngay trong nhà của ông nữa.
Dakêu đã biết chẳng những tướng mạo mà cả con người của Chúa Giêsu. Ông còn biết được tâm hồn dạt dào yêu thương của Ngài nữa.
Và khi nhìn thấy tâm hồn Chúa Giêsu rồi, Dakêu cũng nhìn lại tâm hồn của ông: một tâm hồn đầy tội lỗi. Ông thấy đời mình bấy lâu nay như một sa mạc khô cằn, thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại đến, như một cơn mưa rào.
Thế là dakêu hoán cải. Cuộc hoán cải thể hiện bằng những hành động cụ thể: đền bồi tất cả những thiệt hại đã gây ra cho người khác, và phân chia tài sản mình cho những người nghèo. Đây không phải là hoán cải chỉ bằng ý muốn mà bằng cả con tim. Dakêu đã biết xót xa cho những người bị ông làm thiệt hại, và biết yêu thương những người nghèo khổ. Đây chính là sự hoán cải thật, vì con tim có hoán cải thì cuộc đời mới hoán cải thật.
Con tim của Dakêu hoán cải nhờ Chúa Giêsu đã để ý tới ông, quan tâm ông, đối xử nhẹ nhàng với ông. Goethe đã viết: “Hãy đối xử với một người như người ấy là, và người ấy sẽ xấu hơn. Hãy đối xử với người ấy như người ấy phải là, hoặc như người ấy muốn là, và người ấy sẽ tốt hơn. Bởi vì những ước muốn trong chúng ta chính là phần tốt nhất của con người chúng ta”.
Chúa Giêsu hiểu rằng những việc làm xấu của Dakêu không phải là toàn phần con người của ông ; Ngài hiểu trong ông còn có phần tốt, phần muốn làm điều tốt và có khả năng làm những điều tốt ấy. Ngài đã khơi lên chính cái phần tốt ấy.
Cuộc hoán cải của dakêu là hoán cải con tim, là hướng con tim về điều tốt.
Cũng giống như Dakêu, trong con người chúng ta cũng có phần tốt mặc dù có thể phần tốt ấy xưa nay bị những việc xấu chèn ép và chưa phát huy ra. Hãy hoán cải con tim bằng cách để Chúa để ý đến ta, quan tâm ta, nói với ta, trọ trong tim ta và đánh động con tim ta.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương con người, và luôn đi tìm tội nhân để dẫn đưa họ: TN 31-C10
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương con người, và luôn đi tìm tội nhân để dẫn đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa luôn đi bước trước
Thiên Chúa đã đánh động Giakêu, để ông có lòng khao khát gặp Đức Yêsu. Thiên Chúa đã thúc đẩy để Giakêu, người trưởng của những người thu thuế, nhiều tiền, dám trèo lên cây để nhìn ngắm Đức Yêsu. Đây là thái độ của người khiêm nhường, không tự phụ vì tiền bạc mình có, không kiêu căng vì chức vụ trưởng thu thuế của mình, nhưng can đảm làm điều như một em bé, trèo lên cây để nhìn Đức Yêsu. Thái độ này đã đánh động Đức Yêsu. Đức Yêsu đã dừng lại, ngó lên, và gọi Giakêu, đề nghị được ở lại nhà ông. Giakêu đã trèo xuống, vui vẻ chấp nhận đề nghị của Đức Yêsu. Và không chỉ vậy, ông hứa sẽ bố thí cho người nghèo nửa gia tài của ông, và bồi thường gấp bốn những gì ông đã làm hại người khác.
Giakêu đã làm điều vượt khỏi quan niệm “thế gian thường tình”. Ông đã trở lại với Chúa và với con người, với những anh em cụ thể sống xung quanh ông. Và với điều này, cả trời đất vui mừng. Con người vui và Thiên Chúa cũng vui.
Thiên Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu
Thiên Chúa, Đấng đánh động Giakêu, là Thiên Chúa hay thương xót và yêu thương. Thiên Chúa vẫn yêu thương tất cả mọi loài, cho dù trước nhan Thiên Chúa, toàn thể vũ trụ chỉ như hạt cát dính bàn cân, như giọt sương mai rơi trên đất.
Tương tự như cha mẹ yêu thương con cái vì con cái do cha mẹ sinh ra, Thiên Chúa cũng yêu thương tất cả mọi loài vì tất cả mọi loài đều được Thiên Chúa tạo dựng. Thiên Chúa tạo dựng con người qua cha mẹ mỗi người. Thiên Chúa là Cha của tất cả. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, Ngài là Cha của người con trưởng lẫn người con thứ trong dụ ngôn người cha nhân từ. Thiên Chúa là Cha của người công chính cũng như của người tội lỗi.
Chính vì yêu thương, mà Thiên Chúa đã tạo dựng mỗi người. Nếu không yêu thương, Ngài đâu tạo dựng họ. Hiện hữu là một hồng ân vô cùng lớn, mà chỉ những người cảm nhận tình yêu mới nhận ra.
Thiên Chúa yêu thương cả những tội nhân
Thiên Chúa vẫn yêu thương, cả những người tội lỗi. Ngài yêu thương qua việc Ngài kiên nhẫn và không trừng phạt tội nhân ngay khi họ phạm tội.
Hình ảnh Đức Yêsu chết trên thập giá và những người chủ mưu giết Ngài, những người hành hình Ngài, giúp con người thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Tại sao Thiên Chúa Cha không hủy diệt những người âm mưu giết Con Ngài, tại sao Thiên Chúa không làm cánh tay của những kẻ đóng đinh Đức Yêsu phải tê liệt, tại sao Ngài không làm những người đánh Người Con yêu của Ngài phải chết! Vì Ngài nhân từ yêu thương, Ngài yêu thương cả những kẻ giết Con Ngài. Ngài nhân từ để chờ họ nhận biết chân lý và trở lại với Ngài.
Ai cũng phạm tội, và có lẽ mỗi người đều cảm nghiệm tình yêu thương nhân từ và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài luôn mời gọi con người trở lại với Ngài, để Ngài tha thứ và để con người được chia sẻ sự sống với Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Trong cách hành xử của Giakêu, có điều gì hay mà bạn thiếu? 2. Bạn thường nhìn người tội lỗi thế nào? Bạn có “phân biệt đối xử” hông? Bạn có thái độ (như người con) của Thiên Chúa không? 3. Thiên Chúa là ai đối với bạn?
Giờ này là giờ thuận tiện; đây là ngày cứu độ," Thánh Tông Đồ Phaolô đã viết cho các phần tử: TN 31-C11
"Giờ này là giờ thuận tiện; đây là ngày cứu độ," Thánh Tông Đồ Phaolô đã viết cho các phần tử của Giáo đoàn Corintô (2 Cor 6:2). Giờ này! Hôm nay! trong chính giữa những lên lên xuống xuống của đời sống thường nhật chúng ta, giữa những vui vui buồn buồn của chúng ta, giữa cuộc hành trình dương thế của chúng ta, Thiên Chúa muốn mang chúng ta sống lại trước Thiên Nhan cứu độ của Ngài. Thiên Chúa muốn chúng ta đưa Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô vào trong làm chính nền tảng của mọi ngày chúng ta, kinh nghiệm ngay bây giờ.
Một luật sư thuật lại một biến cố đáng nhớ nhất trong nghề nghiệp của ông: Một ngày nọ, một người phụ nữ khoảng hai mươi mấy tuổi, xinh đẹp và diện rực rỡ bước vào văn phòng tôi. Cô đã lấy chồng được 5 năm. Cô kể cho tôi biết cô gặp khó khăn với chồng của cô. Tôi cho rằng cô đến để làm thủ tục giải thoát hợp pháp. "Cô có bất cứ kiện chứng nào mà cô có thể dựa vào đó để ly dị ông không?" Tôi hỏi. "Ồ không, thưa ông," cô trả lời, "tôi không muốn ly dị." Rồi tôi trình bày cho cô biết trên phương diện nào cô có thể đòi được ly thân. "Nhưng tôi không muốn ly thân," cô phản kháng lại. Cảm thấy bối rối, tôi nói với cô có thể đưa ra toà về những liên hệ gia đình hầu bắt buộc chồng cô phải trả tiền nuôi cô hàng tuần. "Tôi không muốn anh ấy trả tiền nuôi tôi," cô khóc lóc trả lời. "Tôi làm nhiều tiền hơn anh ấy." Tôi đã đến độ cáu tiết. "Được rồi, bà cô," tôi nói, "Cô không muốn ly dị, cô không muốn ly thân và cô không muốn chồng cô trả tiền nuôi cô. Vậy cô muốn gì?" Nước mắt bắt đầu trào tràn trên khuôn mặt cô. Cô ấp úng, rồi cà lăm từng tiếng một, "Tôi muốn ... anh ấy ... ơ ... tôi muốn anh ấy yêu tôi!"
Có nhiều người trên trần gian này cần đến tình thương của bạn, những người mong muốn các bạn yêu thương họ ngay bây giờ! Đây là ngày cứu độ! Đây là ngày cho các bạn biết sắp xếp lại những ưu tiên của các bạn trong ánh sáng Sứ Điệp Phúc Âm. Đây chính là ngày cho các bạn trở nên một con người tuyệt diệu, ân cần, yêu thương mà Thiên Chúa muốn các bạn là. Đây chính là ngày cho các bạn tiến vào cuộc cảm nghiệm của đời sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Cuộc sống vĩnh cửu là "biết Cha, là Thiên Chúa độc nhất chân thật," Chúa Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa Cha (Jn. 17:3). "Anh chị em thân mến," Thánh Gioan viết, "Chúng ta hãy yêu thương nhau vì tình yêu đến từ Thiên Chúa và ai yêu thương thì sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không thể nào nhận biết Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu..." (1 Jn. 4:7-8).
Trong đêm Halloween, một người hàng xóm vui tính quyết định hù các trẻ đi xin kẹo. Ông mặc một chiếc áo choàng đen dài lết đất, đội một chiếc mũ đen gắn hai chiếc sừng quỷ, và một chiếc mặt nạ hãi hùng. Rồi ông ngồi đợi. Sau cùng, chuông nhà ông rung lên. Ông tắt hết đèn điện. Ông mở cửa và hét lớn hù người. Rồi ông nhìn xuống và thấy đang đứng trước ông một bé gái 5 tuổi, xinh xinh tóc vàng, hoá trang là một nàng tiên dễ thương. Cô bé trợn mắt nhìn ông. Rồi cô đưa cặp mắt chạy dài trên chiếc áo đen dài to tướng, nhìn thẳng vào chiếc mặt nạ khủng khiếp, mỉn cười và nói, "Mẹ có mua kẹo không?"
Nhiều lúc, trong mối giây liên hệ với tha nhân, dù là chúng ta có gặp ma quỷ hay thiên thần thì thường lệ thuộc vào thái độ căn bản của chúng ta về cuộc sống. Chúng ta có đem kiến thức tôn giáo mà chúng ta đang giữ trong đầu óc vào thâm tâm của ta chưa? Chúng ta có mang Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô làm nền tảng hằng ngày chưa?
Câu chuyện Phúc Âm hôm nay nói đến cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một người đàn ông mà đã được biến đổi từ căn bản. Ông Gia-kêu là một người thu thuế đã làm giàu trên nghề nghiệp của ông. Chúng ta có thể phỏng đoán từ những gì chúng ta biết về những tình trạng xã hội và chính trị của thời mà ông rút xén được một phần trong gia tài của ông qua việc làm bất lương -- ngay cả đảng phái, cướp bóc. Tuy nhiên, ông Gia-kêu đã thống hối: cải tổ cuộc sống ông; thay đổi đường lối của ông. Và khi mà Chúa Giêsu đang tiến vào thành, ông Gia-kêu kiên quyết đến gần Ngài. Số đông dân chúng đổ xô ra đón Chúa Giêsu trong khi Ngài tiến vào thành Giêricô. Bởi vì Gia-kêu là một người thấp lùn, và đám đông lại cản tầm nhìn của ông.
Ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu. "Ông chạy ra trước," Thánh Luca thuật, ông "trèo lên một cây sung trên đường Chúa Giêsu sẽ qua." Chúa Giêsu nhìn thấy một con người vui tươi, đang đứng trên cành cây, và nói với ông, "Gia-kêu, xuống đây. Nhanh lên, vì Ta sẽ ngự tại nhà ông hôm nay" (Lk. 19:6). Nghe những lời này, đám đông trở nên phẫn uất bực bội với Chúa Giêsu. Họ biết ông Gia-kêu là một người thu thuế. Họ càu nhàu, "Ngài lại đến ở trong nhà của một người tội lỗi." Qua chính lý do này, Gia-kêu là người khắc khoải nhất. Ông đã lo cải tổ cuộc sống. Ông nói với Chúa Giêsu rằng ông đã tiến xa hơn những gì đòi buộc của lề luật trong niềm nỗ lực của ông đền bù lại những gì mà ông đã làm sai với người khác. Ông đã làm hại người khác trong quá khứ và giờ đây ông đã đi cố đi thêm một dặm hầu được làm hoà với họ. Và ông cảm thấy thật là vui sướng. Đấy chính là lý do mà ông đã nhốn nháo chạy quanh đám đông để cố có một ánh nhìn phớt qua về Chúa Giêsu. Đấy chính là lý do mà ông đã trèo lên cây sung. Đấy chính là lý do mà ông đã vội tụt xuống từ cành cây khi Chúa Giêsu nói chuyện với ông. Cái gì đó kỳ diệu và vui sướng đã xảy ra cho cuộc sống của ông và ông đã chia sẻ niềm vui tốt lành này với Chúa Giêsu và tha nhân.
Khi Ân Sủng Thiên Chúa ngự trị trong chính trung tâm con người của các bạn, Nguồn Lực của sức sống sẽ ban cho các bạn một ý nghĩa chân thật và đưa các bạn đến cuộc sống mới trọn vẹn.
Ơn cứu độ của bạn đã gần kề! Hãy làm cho sống động lời van nài "tôi muốn bạn yêu tôi!" Hãy làm cho sống động, cái cảm nghiệm của niềm vui mà đến được qua những hành vi phản chiếu Tình Thương của Thiên Chúa trong đường lối hàn gắn và cứu giúp.
Giakêu là một người thu thuế giàu có. Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không: TN 31-C12
Giakêu là một người thu thuế giàu có. Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không yên. Ông vẫn tìm kiếm một Ai đó có thể nâng đỡ ông dậy. Hẳn ông đã nghe người ta bàn tán về Đức Giêsu. Ngài chẳng sợ làm bạn với những người bị khinh như ông. Giakêu mong có ngày thấy Đức Giêsu.
Dịp may đã tới, ông đi với đám đông theo sau Ngài, nhưng vẫn không sao thấy được Ngài, vì dân chúng thì đông, còn ông lại thấp bé. Giakêu không thất vọng. Lòng khát mong đích thực chẳng bao giờ chịu bó tay.
Ông chạy trước đám đông và leo lên một cây sung. Ông hí hửng với sáng kiến khôn ngoan của mình, và tin chắc mình sẽ toại nguyện. Giakêu núp ở trên cây, tưởng không ai trông thấy. Nào ngờ Đức Giêsu ngừng lại, nhìn lên và gọi tên ông.
Ngài thấy ông trước khi ông thấy Ngài. Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống, nhưng lời của Ngài lại làm ông sung sướng, ngỡ ngàng: Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông. Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất.
Đường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không rõ, nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui.
Giakêu thấy mình mất đi những mặc cảm thấp kém. Ông như lấy lại được danh dự trước đám đông, bởi lẽ Đức Giêsu sắp đến thăm nhà ông, bất chấp những lời xầm xì phản đối.
Ông chỉ ao ước thấy mặt Ngài, còn Ngài lại muốn bày tỏ cả bề sâu của lòng mình: dịu dàng, tha thứ, yêu thương, tế nhị.
Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về Tình Yêu.
Ánh mắt, lời nói, thái độ của Đức Giêsu đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu, và khiến lòng ông tan chảy.
Bỗng chốc Giakêu thấy mình được tự do thanh thoát.
Những gì xưa nay trói buộc ông, làm ông say mê, bây giờ trở nên vô vị. Một cách hồn nhiên, ông dâng nửa gia sản cho người nghèo, và xin đền gấp bốn những gì đã lường gạt.
Giakêu sẽ trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông hạnh phúc hơn xưa nhiều, vì ông cũng là con cháu tổ phụ Apraham.
Ước gì chúng ta bao dung như Đức Giêsu và quảng đại như Giakêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giakêu muốn thấy Đức Giêsu và ông đã được quá lòng mình mong ước. Theo ý bạn, để thấy Đức Giêsu trong đời mình, cần có thái độ nào? Mẫu gương của Giakêu có giúp gì cho bạn không?
Xã hội hôm nay vẫn có nhiều Giakêu: những người bị coi thường hay loại trừ, những thanh niên đã có tiền án, trẻ bụi đời, gái điếm, những người nghiện ma túy... Họ cần những người có trái tim của Đức Giêsu. Bạn nghĩ mình có thể giúp gì để họ thay đổi cuộc sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất.
Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari. Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân. Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con, để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi.
Ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người, và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
Đối với người xấu, thái độ xa tránh để trừng phạt họ và thái độ gần gũi yêu thương họ, thái độ: TN 31-C13
1. Đối với người xấu, thái độ xa tránh để trừng phạt họ và thái độ gần gũi yêu thương họ, thái độ nào có tác dụng cảm hóa họ nhiều hơn?
2. Để trở nên tốt, con cái ta cần tình thương hay cần những lời khuyên của ta hơn? Cái nào có khả năng thúc đẩy chúng làm điều tốt nhiều hơn?
3. Khi con cái bạn sợ roi hơn sợ bạn buồn, bạn có nghĩ rằng bạn đã chưa biểu lộ tình thương của bạn đối với con cái đúng mức phải có? Hoặc bạn đã dùng quá nhiều lời khuyên mà quên rằng chúng cần bạn biểu lộ tình thương đối với chúng nhiều hơn nữa (qua sự quan tâm, âu yếm, dịu dàng…)?
Suy tư gợi ý:
1. Hai thái độ có thể có đối với những người tội lỗi
Đối với những người tội lỗi, để giúp họ từ bỏ con đường tội lỗi hầu trở nên tốt hơn, người ta có thể có hai thái độ:
• Một là tẩy chay xa lánh họ để nhờ đó họ nhận ra tội lỗi của mình mà sửa chữa. Sách Dân số đã từng khuyên: «Này, chớ tới gần lều của những con người hư đốn ấy, và đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ diệt cùng với tất cả tội lỗi của họ» (Ds 16,26). Thánh Phao-lô có khi chủ trương tương tự: «Thưa anh em, nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền cho anh em phải xa lánh mọi người sống vô kỷ luật, không theo truyền thống anh em đã nhận được từ nơi tôi» (2 Tx 3,6), và ngài khuyên Ti-mô-tê: «Anh hãy xa lánh tất cả những người ấy» (2 Tm 3,5). Chính Đức Giê-su cũng có khi chủ trương phải dùng biện pháp này đối với những kẻ ngoan cố như biện pháp cuối cùng sau khi tất cả mọi biện pháp đều thất bại: «Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế» (Mt 18,17).
Do đó, nhiều Ki-tô hữu được gọi là đạo đức cũng chủ trương như vậy, thậm chí áp dụng nó một cách hết sức máy móc. Biện pháp này mang tính cảnh cáo, trừng phạt, nhiều khi cần thiết và có tác dụng rất tích cực, nhưng cũng rất lắm khi bị phản tác dụng: tạo khó khăn, gây bất mãn, bít đường sống lương thiện, hoặc đẩy sâu vào đường tội lỗi.
• Thái độ thứ hai ngược lại là gần gũi và biểu lộ tình thương đối với họ. Đây là thái độ mà Đức Giê-su thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những kinh sĩ và người Pha-ri-siêu thường làm. Ngài sẵn sàng ở trọ nhà người tội lỗi (x. Lc 19,7), ăn uống và giao du thân thiện với họ (x. Mt 9,10; Mc 2,15; Lc 5,30). Người Do Thái thời ấy không thể tưởng tượng được một ngôn sứ như Ngài lại có thể đối xử thân mật như thế đối với người tội lỗi, hoặc để họ đụng chạm đến thân thể mình (x. Lc 7,39). Không những thế, Ngài còn nhận một người thu thuế vào số các môn đệ thân tín nhất của mình (x. Mt 10,3; Lc 5,27).
Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi (thu thuế, đĩ điếm…) trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin Mừng, mà bài Tin Mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giê-su sẵn sàng vào nhà ông Da-kêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ tại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Da-kêu như cách mà người Do Thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao! Còn biết bao trường hợp trở lại khác vì thái độ bao dung và gần gũi của Ngài (x. Lc 7,36-50; Ga 4,39-42; 8,2-11), đến nỗi Đức Giê-su cho biết chính bọn tội lỗi biết hối cải ấy còn vào thiên đàng trước và đông hơn cả bọn kinh sĩ và Pha-ri-siêu nữa (Mt 21,31-32).
2. Người Ki-tô hữu nên có thái độ nào
Thực ra, thái độ nào cũng có cái hay và cái dở của nó. Vì thế, người Ki-tô hữu nên tùy nghi mà áp dụng thái độ này hay thái độ kia trong từng trường hợp, miễn sao đạt được kết quả tốt. Thái độ yêu thương gần gũi thường có nhiều cơ may cảm hóa được người tội lỗi hơn thái độ tẩy chay rất nhiều. Điều này được chứng tỏ trong Tin Mừng qua thái độ của Đức Giê-su. Thái độ tẩy chay chỉ nên áp dụng một cách hạn chế, như một biện pháp cuối cùng, sau khi mọi biện pháp khác đều thất bại. Và chỉ nên áp dụng khi được thúc đẩy bởi tình thương và tinh thần trách nhiệm chứ không phải bởi lòng ghen ghét, ác cảm, với tinh thần bỏ mặc, vô trách nhiệm. Rất tiếc, biện pháp này lắm khi đã bị lạm dụng trong Giáo Hội gây ra rất nhiều điều đáng tiếc.
Cũng nên nhắc lại rằng cần phân biệt sự ác và người ác. Cần phải ghét bỏ và xa tránh sự ác chứ không phải người ác. Đức Giê-su và các tông đồ dạy ta phải yêu thương người ác và kẻ thù, làm ơn cho họ (x. Mt 5,44; Lc 6,27; Rm 12,20, v.v…). Trong số các điều ác, thì dường như Đức Giê-su tỏ ra ghét tính kiêu ngạo, sự giả hình, tính hay kết án và khinh chê người khác hơn tất cả những tính xấu khác. Tội lỗi bao nhiêu Chúa cũng tha được, nhưng dường như Chúa không tha tội cho những kẻ không chịu tha thứ cho người khác (x. Mt 18,23-35), những kẻ hay kết án người khác (x. Lc 6,37), những kẻ tự kiêu và lên mặt chê bai người khác (x. Lc 18,9-14). Chính vì thế mà bọn thu thuế và đĩ điếm dễ vào thiên đàng hơn bọn kinh sư và Pha-ri-siêu là những kẻ hay lên án và khinh chê kẻ khác. Do đó, chúng ta phải xét lại thái độ của chúng ta đối với người xấu, coi chừng kẻo Chúa kết án ta nặng hơn những kẻ bị ta kết án vì thái độ bất bao dung và kiêu ngạo của ta.
3. Kinh nghiệm cải hóa trong việc giáo dục con cái
Kinh nghiệm giáo dục con cái cho tôi thấy: con cái mà hư hỏng không phải vì chúng không biết điều nào nên làm điều nào nên tránh cho bằng chúng không có đủ động lực thúc đẩy chúng làm những điều chúng biết phải làm, và xa tránh những điều chúng biết là không nên làm. Chúng cũng có một tâm lý như thánh Phao-lô, và cũng là tâm lý của tất cả mọi người: «Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm» (Rm 7,15.19). Ai cũng có tính xác thịt yếu đuối: «Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn» (Gl 5,17). Vì thế, đừng quan trọng hóa những lầm lỗi của chúng hơn việc biểu lộ tình thương và thông cảm của ta. Hãy bắt chước Thiên Chúa: «Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải» (Kn 11,23). Ngài kiên nhẫn chờ đợi ta trở về với Ngài. Tại sao ta không thể kiên nhẫn chờ đợi con cái mình thay đổi?
Điều quan trọng là tạo cho chúng sức mạnh hơn là cho chúng một mớ lý thuyết. Khi làm cho con cái mình cảm nghiệm rằng chúng được cha mẹ yêu thương, quan tâm, tôn trọng, chăm sóc và sẵn sàng hy sinh tất cả cho chúng, thì tôi nhận thấy chúng tỏ ra yêu thương cha mẹ hơn, hiếu thảo, vâng lời, chịu khó làm việc hơn, vì thế ít lầm lỗi hơn. Khi ấy, tôi thấy rõ rằng hình phạt không làm chúng sợ cho bằng việc nhìn thấy chúng tôi buồn. Chính tình thương đầy thông cảm và tha thứ mà chúng cảm nhận được nơi chúng tôi, và những gương hy sinh, chiến đấu mà chúng thấy nơi chúng tôi đã giúp chúng vượt thắng khi chiến đấu với cám dỗ, với thói hư tật xấu của tuổi trẻ. Chúng tôi khám phá ra rằng để trở nên tốt, con cái chúng ta cần tình thương, sự dịu dàng, âu yếm, sự quan tâm, gần gũi của chúng ta hơn những lời khuyên bảo, trừng phạt. Nếu chúng không cảm nghiệm được tình thương của ta, thì mọi lời khuyên, mọi cố gắng giáo dục của ta đều trở nên vô ích.
Vì thế, tôi không muốn khuyên bảo con cái tôi quá nhiều, nhất là về những điều mà tôi nghĩ chúng đã quá biết rồi. Khuyên và trừng phạt quá nhiều chỉ làm cho bầu khí giữa cha mẹ và con cái luôn căng thẳng, khiến sự thân mật và thông cảm giữa chúng với ta ngày càng giảm đi. Nhất là làm cho chúng có cảm tưởng rằng chúng ta ghét chúng hoặc không thương chúng đủ. Và từ đó, chúng càng ngày càng xa cách ta, không muốn nghe ta nói gì nữa, khiến cho mọi lời khuyên bảo răn đe của ta đều ra «công dã tràng». Cổ nhân ta có câu: «giáo đa thành oán» mà tôi phải công nhận là đúng khi thấy mình thất bại trong việc giáo dục con cái một thời gian. Hay chê bai và phiền trách chúng quá nhiều có thể làm chúng thất vọng, mất tự tin, khiến chúng nghĩ rằng chúng không thể làm được điều tốt. Vì nếu không có động lực là tình yêu thúc đẩy, chúng không thể làm được những điều chúng biết là phải làm. Tình yêu của chúng đối với ta là động lực mạnh nhất để chúng nên trở nên tốt.
4. Áp dụng vào việc cải hóa người xấu
Làm cho mọi người chung quanh ta trở nên tốt hơn là một bổn phận của mọi Ki-tô hữu. Từ bài học của bài Tin Mừng hôm nay, và từ kinh nghiệm giáo dục con cái, tôi nhận ra rằng: để trở nên tốt, người ta cần lời khuyến khích hơn trách cứ, cần cảm thông hơn kết án, cần động viên hơn trừng phạt, cần tình thương và gương sáng hơn lời khuyên bảo, cần được gần gũi hơn bị xa tránh. Cả hai cách đều tốt, nhưng cách trước thường tốt, dễ sử dụng và có hiệu quả hơn cách sau mà không gây tai hại. Cách sau khó sử dụng hơn rất nhiều, vì nó có thể động chạm đến tự ái, danh dự, quyền lợi của người khác, hoặc tạo nên khó khăn cho họ, nên dễ bị phản tác dụng, có thể gây ác cảm, thù ghét, căng thẳng. Vì thế, muốn sử dụng cách sau thì phải hết sức khôn khéo và tế nhị. Nhưng dù sử dụng cách nào thì cũng phải làm cho người mà ta muốn cải hóa cảm nhận được tình thương, thiện cảm và thiện chí của ta đối với họ. Và trước khi cảm hóa ai, hãy nhận thức rằng rất nhiều khi – trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai – ta cũng yếu đuối và lầm lỗi không kém gì họ.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con nhận ra bản tính yếu đuối và hay lầm lỗi của mình trước khi muốn cảm hóa bất kỳ ai. Nhờ nhận thức đó, con sẽ thông cảm với tất cả những yếu đuối và lầm lỗi của mọi người, con sẽ yêu thương họ nhiều hơn. Chính nhờ sự yêu thương và thông cảm đó, con sẽ cảm hóa được nhiều người hơn. Xin cho con học được cách hành xử của Đức Giê-su đối với những ai bị mọi người coi là tội lỗi như Da-kêu. Cho con biết thật sự yêu thương những con người như thế trước khi muốn cảm hóa họ. Amen.
Ông Da-kêu với cái nhình của người Do Thái trong bài Tin Mừng Luca. Còn Đức Giê-su, Ngài: TN 31-C14
Ông Da-kêu với cái nhình của người Do Thái trong bài Tin Mừng Luca.
Còn Đức Giê-su, Ngài đã nhình Da-kêu như thế nào? Nhờ đâu ông được lãnh nhận ơn cứu độ?
Suy tư gợi ý:
Ông Da-kêu với cái nhìn của người Do Thái:
Tin Mừng Thánh Luca hôm nay cho chúng ta hình ảnh ông Da-kêu. Ông là thủ lãnh những người thu thuế và người giàu có. Vào thời này đế quốc Rôma đang đô hộ nước Do Thái. Công việc và chức vụ của ông – đối với người Do Thái – là lời thú tội công khai: ông là kẻ làm giàu bất chính và là kẻ phản quốc. Người ta khinh bỉ và tránh giao tiếp với ông, sợ bị ô uế. Và khi Đức Giê-su ngỏ lời muốn đến và lưu lại tại nhà Da-kêu, họ đã xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ." Một bức tường vô hình đã ngăn cách Da-kêu với số đông những người Do Thái mộ đạo, họ đã nhìn ông với cái nhìn soi mói, nghi kỵ không khoan nhượng. Và kết quả là đường ai nấy đi.
Còn Đức Giê-su, Ngài đã nhìn Da-kêu như thế nào và ông đã đáp lại ra sao?
Cho dầu có nhiều lỗi lầm đến đâu, nhưng Da-kêu làm sao quên được nguồn gốc của mình: Thuộc dân tộc Do Thái, một dân tộc được tuyển chọn làm dân riêng của Chúa và đang chờ đón Đấng Cứu Thế đến. Nghe biết Đức Giê-su, một Ngôn Sư, sắp đi ngang qua khu vực, ông có ý định muốn nhìn xem Ngài tận mắt. Nhưng vì dân chúng thì đông mà ông lại thấp, ông liền chạy đến phía trước, trèo lên một cây cao để xem cho rõ. Ông tưởng việc mình làm không ai để ý. Không ngờ, vừa đến gần, Đức Giê-su nhìn lên và bảo ông xuống mau vì Ngài sẽ lưu lại tại nhà ông. Một khám phá quan trọng làm ông vô cùng ngạc nhiên và sung sướng: chính Đức Giê-su đang chủ động tìm gặp ông. Ngài không xa lánh ông như những người khác. Vội vàng ông tụt xuống khỏi cây và đón tiếp Ngài vào nhà. Mọi mặc cảm tội lỗi nơi ông tan biến hết. Ông đã thay đổi hoàn toàn. Tiền bạc, danh vọng, những điều mà trước đây ông háo hức kiếm tìm không còn lôi kéo được ông nữa. Và với một lòng thống hối chân thành, ông đã thưa với Đức Giê-su: "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." (Lc 19, 8).
Do đâu mà ông Da-kêu đã được lãnh nhận ơn cứu độ cách kỳ diệu như vậy? Chính cái nhìn đầy lòng nhân từ của Đức Giê-su đã mở cho ông nhận ra Ngài chính là Đức Kitô, Đấng Cứu Độ, nguồn mạch mọi ân sủng. Để minh định cho biến cố trọng đại vừa xảy ra với Da-kêu, Đức Giê-su đã long trọng tuyên bố về ông trước mặt mọi người: "Hôm nay Ơn Cứu Độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apraham, vì chưng con người đến tìm và cứu chữa những gì đã mất." (Lc 19, 9-10)
Những bài học từ câu chuyện:
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay là lời tuyên xưng long trọng về lòng nhân từ của Chúa: Ngài yêu thương mọi loài mọi vật vì tất cả là tác phẩm do tay Ngài tạo nên.
Thiên Chúa giáo huấn con người từ từ, từng chút một, không nóng vộ, chậm bất bình và giàu lòng yêu thương. Ngài không nỡ bẻ gẫy cây lau đã dập, không dập tắt tim đèn còn khói.
Khi con người bất trung Ngài sẵn sàng chịu đựng, chờ đợi: "Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải." (Kn 11, 23). Để có dịp Ngài ban ơn tha thứ, tha thứ không giới hạn. Mặc dù thông biết mọi sự, Ngài vẫn đợi cho đến giây phút cuối cùng của đời người, mới đem ra phán quyết tối hậu.
Sứ mạng của Chúa: Ngài đến không phải cho những người ngay lành, mạnh khoẻ nhưng là để "tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19, 17). Để chu toàn sứ mệnh, Ngài đã chấp nhận hi sinh, hi sinh cho đến chết và chết trên thập giá.
NGUYỆN
Lạy Cha, chúng con cám ơn Cha đã dạy chúng con bài học tuyệt vời về lòng khoan dung nhân hậu, Cha đã làm đối với những kẻ xúc phạm đến Cha. Chúng con thật thấp hèn, yếu đuối. Xin Cha ban sức mạnh để chúng con vượt thắng chính mình. Xin cho chúng con được gặp Cha thật sự và được đổi mới để chúng con biết: " đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm". Amen.
Để nhìn thấy và gặp được Đức Giêsu, Dakêu có phải vượt qua trở ngại nào không? Trở ngại nào: TN 31-C15
1. Để nhìn thấy và gặp được Đức Giêsu, Dakêu có phải vượt qua trở ngại nào không? Trở ngại nào khó vượt nhất? Từ đó, ta rút ra bài học gì?
2. Xét trên bình diện tự nhiên, động lực nào khiến Dakêu quyết định trở về con đường ngay chính? Ông hoán cải là do những bài giảng tuyệt vời của Chúa, hay do cách đối xử đầy tình người của Ngài? Những người hoạt động tông đồ có thể rút ra bài học nào cho hoạt động của mình?
Suy tư gợi ý:
1. Dakêu, một viên quan thuế vụ của đế quốc
Dakêu là một viên chức nhà nước giàu có, là người có địa vị trong xã hội dân sự. Bài Tin Mừng cho biết: «Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có», nhưng không cho biết thêm là ông «đứng đầu» ở cấp nào: xã? huyện? hay tỉnh? Thu thuế mà có nhiều nhân viên cấp dưới như ông thì ít gì cũng phải là cấp xã trở lên. Thời nay người làm công việc như ông thường được gọi là «trưởng ban thuế vụ». Trưởng ban thuế vụ ở phường, xã hiện nay chẳng phải là một chức vụ lớn, nhưng ngày xưa, thời Đức Giêsu, người có chức vụ như thế trong xã cũng là một quan chức mà dân chúng phải trọng vọng, nể vì. Hơn nữa, ông lại là một người giàu có. Lêvi, tức tông đồ Matthêu, cũng là một người thu thuế nhưng chắc chắn không cao cấp bằng Dakêu.
Thời đó, đế quốc Rôma đánh thuế rất nặng trên tất cả các nước họ đô hộ. Vì thế, những người Do Thái yêu nước hoặc sùng đạo như người Pharisêu, chủ trương không nộp thuế. Dakêu là quan thuế vụ của đế quốc, nghĩa là ông cộng tác với một dân tộc ngoại giáo đang đô hộ dân tộc mình cách khắc nghiệt. Là người Do Thái chính gốc nhưng ông lại làm tay sai cho kẻ thù của dân tộc và tôn giáo mình. Thêm vào đó, những người thu thuế như ông thường hay lạm quyền, bóc lột dân chúng: thay vì thu thuế đúng như luật định, thì bắt dân đóng nhiều hơn để đút túi riêng (x. Lc 3,12-13). Chắc chắn sự giàu có của ông – nếu không phải chủ yếu thì cũng là phần nào – đến từ sự bóc lột này. Ngoài ra, để thích nghi với địa vị xã hội, chắc hẳn ông cũng đã sống như một người ngoại đạo. Vì thế, tuy có địa vị xã hội, nhưng về mặt tôn giáo, ông vẫn bị dân chúng khinh bỉ, xa lánh như hạng người ô uế, phản quốc, bội đạo, tội lỗi.
2. Dakêu đã vượt qua những khó khăn để gặp Đức Giêsu
Đọc bài Tin Mừng này, ta thấy Dakêu gặp Đức Giêsu một cách thật dễ dàng. Ông chỉ việc trèo lên cây, Đức Giêsu đi ngang qua và gọi ông xuống. Nhưng về mặt tâm lý và xã hội, sự việc không đơn sơ như vậy. Để gặp được Đức Giêsu, ông cũng phải vượt qua nhiều trở ngại từ bên trong bản thân ông.
Ông đã được nghe nói về Đức Giêsu là một «thầy đạo» có những bài giảng chí lý, thấm thía, lại còn có những khả năng lạ lùng như chữa bệnh, đuổi quỉ, làm kẻ chết sống lại nữa. Sự tò mò khiến ông muốn được ít nhất là nhìn thấy Ngài, biết mặt Ngài. Nhưng gặp tận mặt Ngài thì khó, vì ông rất ngại đi vào trong đám đông, vì dân chúng sẽ nhận ra ông rồi tỏ thái độ khinh ghét hay nói xúc phạm ông thì phiền lắm. Còn đứng xa mà nhìn thì cũng khó, vì ông là một người lùn, thấp bé, làm sao thấy được Đức Giêsu giữa đám đông? Không chịu bó tay, ông nhất định phải làm sao nhìn thấy cho bằng được con người đặc biệt này. Bài Tin Mừng viết: «Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó». Đoán trước Đức Giêsu sắp đi ngang qua chỗ nào, ông bèn tới đó trước, rồi leo tuốt lên một cây cao và chờ Ngài đi tới. Như thế ông có thể nhìn rõ Đức Giêsu.
Để thực hiện việc ấy, Tin Mừng nói «ông liền chạy tới phía trước». Ông chạy chứ không đi, điều này nói lên lòng ham muốn gặp Đức Giêsu lên đến cao độ. Một người có chức vụ cao trong xã hội, một viên chức chính phủ, hẳn phải là người rất ý thức về «cái tôi» và địa vị của mình. Họ không khi nào lại chịu chạy ở ngoài đường, lại càng không chịu leo lên một ngọn cây ở ngoài đường như trẻ nhỏ hay như hạng người bình dân. Họ phải giữ tư cách hay thế giá, nghĩa là phải bảo vệ «cái tôi» của mình, nhất là khi mà đám đông kia đang coi thường mình! Thế mà Dakêu không ngại những chuyện ấy, ông đã từ bỏ «cái tôi» của mình để được thấy và biết mặt Đức Giêsu.
3. Muốn gặp Chúa, phải vượt qua «cái tôi» của mình
Mặc dù là Kitô hữu, nhưng có thể chúng ta chưa hiểu biết nhiều về Thiên Chúa, về Đức Giêsu. Và cũng rất có thể chúng ta chưa hề gặp gỡ Ngài một cách thật sự, mặc dù chúng ta vẫn cầu nguyện, dự thánh lễ và rước lễ hằng ngày. Vì nếu chúng ta thật sự gặp gỡ Ngài, chắc chắn chúng ta phải được biến đổi một cách sâu xa như Dakêu đã từng được Chúa biến đổi. Nếu chúng ta vẫn sống một cách tầm thường, thiếu niềm vui, sức mạnh, tình thương, thì chứng tỏ chúng ta chưa thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Muốn gặp được Đức Giêsu, chúng ta phải có một quyết tâm, và phải sẵn sàng vượt khó khăn trở ngại để đến với Ngài. Trở ngại lớn lao nhất vẫn là «cái tôi» của chúng ta. Muốn gặp gỡ ai một cách thâm sâu và thật sự, chúng ta phải dẹp bỏ «cái tôi» ích kỷ và đáng ghét của mình đi. Cũng vậy, muốn gặp gỡ Thiên Chúa, muốn theo Đức Giêsu, điều kiện quan trọng là chúng ta phải «từ bỏ chính mình» (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23), nghĩa là phải vượt khỏi hay coi nhẹ «cái tôi» của mình cùng với những quyền lợi của nó.
4. Thái độ yêu thương của Đức Giêsu khiến Dakêu hoán cải
Nếu Dakêu chỉ nhìn thấy Đức Giêsu thì ông cũng đã toại nguyện rồi, vì mục đích của ông chỉ có thế. Và sau đó đời ông không chắc có chuyện gì thay đổi. Nhưng sở dĩ ông thay đổi một cách sâu xa là vì thái độ của Đức Giêsu đối với ông. Đang khi mọi người Do Thái khác – nhất là người Pharisêu – tỏ ra khinh bỉ và xa lánh ông, thì Đức Giêsu quan tâm tới ông, trân trọng và yêu thương ông. Ngài yêu thương và trân trọng ông đến nỗi đã để ý đến ông dù ông ở tuốt trên cây, rồi Ngài kêu ông xuống và ngỏ ý muốn ở lại nhà ông, không chờ ông lên tiếng mời. Để tỏ ra trân trọng và yêu thương ông như thế, Ngài cũng phải vượt qua trở ngại là những lời dị nghị, khó chịu của đám đông đang đi theo Ngài: «Mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!"» Chính thái độ yêu thương của Đức Giêsu đã làm ông cảm động và quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng: «Thưa Ngài, tôi sẽ chia phân nửa tài sản của tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn». Đức Giêsu chưa hề lên tiếng khuyên hay giảng cho Dakêu một lời nào, mà ông đã hoán cải. Ta thử đặt vấn đề ngược lại: giả như Ngài giảng cho Dakêu một bài thật hay và xúc tích về Nước Trời, nhưng cách đối xử của Ngài với ông không có gì khác những người Do Thái khác, thì thử hỏi ông có hoán cải nhanh chóng như vậy không?
5. Người tông đồ phải trân trọng và yêu thương mọi người
Cũng như biết bao người bình thường khác, Dakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Đức Giêsu, người muốn loan báo Tin Mừng cho ông. Ngoài ơn Chúa tác động trên bình diện siêu nhiên, thì trên bình diện tự nhiên, việc trở lại của Dakêu cũng như những người tội lỗi khác phần lớn đến từ cách xử sự đầy tình nghĩa của người làm tông đồ. Thống kê cho thấy đa số những trường hợp trở lại Kitô giáo hay con đường ngay chính là do họ cảm kích thái độ yêu thương và cách sống gương mẫu của người tông đồ. Ngược lại, nhiều Kitô hữu đã bỏ đạo chỉ vì cách xử sự bất công, khinh người, ích kỷ, «ngôn hành bất nhất» của người làm tông đồ.
Vì thế, muốn hoạt động tông đồ hữu hiệu, thiết tưởng thái độ quên mình và yêu thương chân thành – như thái độ của Đức Giêsu đối với Dakêu – còn quan trọng và đem lại nhiều kết quả hơn những bài giảng hay, những kiến thức thần học uyên bác. Rất tiếc nhiều trường đào tạo tông đồ hiện nay chỉ quan tâm đào tạo cho những người tông đồ tương lai những kiến thức Kinh Thánh và thần học, mà không quan tâm lắm tới việc tăng trưởng tình yêu đích thực của họ, để họ có thể đối xử một cách chan chứa tình người với những người mà họ có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng. Cách đối xử chan chứa tình người này mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, khi làm tông đồ, con cứ ngỡ điều quan trọng là phải nói hay viết về Chúa cho hay, cho thuyết phục mới đem lại kết quả. Nhưng câu chuyện của Dakêu cho con thấy không phải như vậy. Chính thái độ ân cần, yêu thương và đầy tôn trọng của Đức Giêsu đối với Dakêu đã đánh động lòng ông hùng hồn và hữu hiệu gấp hàng trăm lần những bài giảng hay, những lời khuyên chân tình. Vậy, xin Cha hãy giúp con ý thức được tầm quan trọng của tình yêu đích thực trong công việc tông đồ của con và có được tình yêu đó.
Trong bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay, chúng ta bắt gặp một khuôn mặt kỳ lạ với một vóc dáng: TN 31-C16
Trong bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay, chúng ta bắt gặp một khuôn mặt kỳ lạ với một vóc dáng thấp bé. Đó là Giakêu, một ty trưởng quan thuế tại thành phố Giêricô, nằm cách Giêrusalem 15 dặm về hướng đông bắc.
Giakêu không những được mô tả như một người thiếu thước tấc về thể xác, nhưng còn là kẻ quá thấp bé về tâm hồn, dưới cái nhìn của người Do thái. Không "thấp" lắm sao khi cấu kết với ngoại bang Rôma để vơ vét tài sản của dân tộc, đất nước! Không "bé" lắm sao khi đi làm giàu trên bao mồ hôi xương máu của những người lầm than khốn khổ!
Từ xưa đến nay, chẳng mấy ai ưa thích chuyện thuế má. Người Do thái lại càng chán ghét chế độ sưu thuế do chính sách đô hộ Rôma áp đặt. Số là tại các thuộc địa, để không phải trực tiếp bóc lột, chính quyền cai trị Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế tại từng khu vực. Tất nhiên chỉ có kẻ giàu mới có khả năng và mới có cơ may trúng thầu. Khi trúng, họ có quyền qui định mặt hàng cũng như giá thuế phải đóng. Lắm khi người trúng thầu phải ra giá thật cao để gỡ vốn. Và không ít khi cao thêm tí nữa để có lời. Thế nên, dân Do thái tự động xem hạng thu thuế là phường bán rẻ lương tâm, phá nước hại dân, làm giàu bất chính. Người ta tránh xa như gặp phải những con vật dơ nhớp, nguy hiểm. Thậm chí còn coi họ như quân ngoại đạo và tội lỗi.
Thành ra con người Giakêu hẳn là quá thấp bé trong tầm nhìn luân lý của những kẻ "đang bị bóc lột." Đã vậy vóc dạng của ông cũng chẳng cao ráo sáng sủa gì. Lùn quá! Có nhón gót cũng chẳng thấy Đức Giêsu đâu. Đám đông che mất tầm nhìn của ông.
Mặt khác, danh xưng của ông còn khơi lên ý tưởng mỉa mai châm biếm khi nó tương phản với công luận. Giakêu là phiên âm từ chữ "Zakkay," trong tiếng Do thái có nghĩa là "người công chính" hay "người thanh khiết." Gọi một kẻ tội lỗi, nhơ uế là "công chính" và "thanh khiết," nếu không phải là chế giễu và khinh bỉ thì là gì?
Nhưng dù thân xác và tinh thần có bị bao quanh bằng những hàng rào của mặc cảm tự ti, hay sự khinh thường ghét bỏ của dân chúng, lòng khát mong gặp Đức Giêsu đã như tác động đầu tiên đưa đến biến đổi và thăng hoa con người.
Lòng khát khao mãnh liệt thôi thúc Giakêu trèo lên cây và khiến lòng ông "cao lên" so với bao người chen chúc trong đám đông hiếu kỳ. Ông muốn nhìn Chúa, nhưng đúng hơn, Chúa lại muốn tìm ông. Khi vừa đến chỗ cây sung có Giakêu đang trèo trên đó, Đức Giêsu "nhìn lên và trông thấy ông." Giả như không có ánh mắt nhìn lên đó thì chuyện gì sẽ sảy ra? Có lẽ Giakêu cũng tuột xuống ra về trong âm thầm. Cái nhìn của Chúa làm biến đổi cuộc đời.
Nhìn và thấy diễn tả một sự chú ý kiếm tìm. Nhìn vào bao con người chen chúc chung quanh, với đủ mọi thành phần, trình độ, sang hèn, tuổi tác, nhưng Đức Giêsu lại chỉ thấy có một tâm hồn mà Ngài đang muốn tìm về. Niềm vui rạng rỡ đã bật thành lời: "Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi"(Lc 19:5). Ngài đã tìm thấy "con chiên lạc" đang vướng trên cành, và lòng Ngài ngập tràn hân hoan.
Con tim cháy lửa yêu thương đã tìm gặp được tâm hồn khao khát thương yêu. Và thương yêu đã biến đổi phận người! Đúng là "Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình… Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh." Tình huynh đệ nảy sinh khi Giakêu tự nguyện "bố thí nửa phần gia tài cho người khổ đau." Tình đệ huynh lại được hàn gắn khi Giakêu can đảm "đền trả gấp bốn cho người bị ông làm thiệt hại."
Không gặp được Đức Kitô chẳng ai có đủ sức đền bù, chia sẻ, hay trao ban. Không có tình thương sưởi ấm chắc chắn chẳng ai có thể đổi đời. Nhưng khi có tình Chúa chiếu soi, người ta sẽ "cao lên" trong tình người. Và như thế, không ai có quyền kỳ thị hay gạt bỏ, vì họ cũng là "con cái của Abraham." Không ai được phép xem họ như người ngoại hay kẻ lầm lạc, vì họ cũng là môn đệ của Tình Yêu Thiên Chúa.
Trở lại với lời tâm sự ban đầu. Thiết tưởng cao to thân xác mà thấp bé cõi lòng thì ăn thua gì. Mang danh có đạo mà không bác ái hy sinh thì cũng thiếu xót lắm thay. Thế nên, việc cần thiết nhất không phải là cao lùn, mập ốm, rửa tội hay chưa, nhưng là có được tình yêu đúng nghĩa chiếm ngự tâm hồn hay không.
Tình yêu đúng nghĩa chỉ có khi được Đức Giêsu lưu lại trong đời. Và như Lệ Vũ, người phụ trách "Tuổi Biết Buồn" xác quyết: "Tìm được tình yêu và yêu thật lòng, ba cái chuyện cao gầy, lùn mập, miệng méo, mắt Sài gòn, mắt Chợlớn, sẽ không thành vấn đề quan trọng."
Xin tình yêu của Đức Kitô gặp gỡ đời con và đời người.
Harold Hughes đã viết về lúc còn trẻ như sau: “Tôi từng là một kẻ nghiện rượu, gian dối và: TN 31-C17
Harold Hughes đã viết về lúc còn trẻ như sau:
“Tôi từng là một kẻ nghiện rượu, gian dối và lừa đảo người khác.” Một quãng cuộc đời ông tưởng rằng đã phá đổ và đánh mất tất cả. Một buổi tối nọ, ông đã vào bồn tắm và định tâm sẽ tự sát. Ông lấy khẩu súng và chỉa mũi súng vào miệng ông. Khi Hughes đang định bóp cò súng thì ông chợt nhớ lại tự hại thân thể mình thì có tội. Ông viện mọi lý do giãi bày với Chúa tại sao ông làm như thế. Sau khi giãi bày với Chúa, ông đã quì xuống đất và cúi đầu xuống. Ông nói chuyện với Thiên Chúa và khóc nức nở. Trong tâm hồn, ông cảm thấy một cảm nghiệm rất sâu xa mà ông không thể nào quên được. Ông viết lại cảm nghiệm này như sau: “Một cảm nghiệm bình an dạt dào bừng lên trong tâm hồn tôi... Tất cả tội lỗi trong mình tôi như tan biến hết... Thiên Chúa như đang cúi xuống và chạm đến tôi... Như một đứa con đang run sợ đi lạc trong cơn bão tố và nó bất chợt tìm thấy được bàn tay rất ấm áp của Cha nó... Quì trên sàn nhà phòng vệ sinh, tôi đã dâng mình cho Chúa và thưa cùng Chúa rằng tôi sẽ làm tất cả mọi sự gì Chúa muốn.”
Chính giây phút linh thiêng cảm động đó đã biết đổi của đời của Harold Hughes. Mười năm về sau, ông được bầu làm thống đốc tiểu bang Iowa. Mười bảy năm sau đó, ông được bầu làm thượng nghị sĩ Hoa kỳ. Khi về hưu, ông đã tham gia vào công việc giúp những người nghiện rượu và hút sách.
Câu chuyện về Harold Hughes giống với câu chuyện ông Giakêu trong bài Phúc âm hôm nay.Đó là một câu chuyện kể về một người đã được ơn biến đổi từ một cuộc đời tội lỗi thành một cuộc sống phục vụ. Đó là một câu chuyện về một người đã biết mở rộng cửa lòng đón nhận Thiên Chúa và được tràn đầy niềm vui hạnh phúc mà ông không hề tưởng sẽ được.
Chúa Giêsu muốn đi vào trong cuộc đời chúng ta và biến đổi chúng trở nên tốt hơn như Ngài đã làm cho Giakêu. Chúa Giêsu không bao giờ cưỡng ép chúng ta, hoàn toàn tôn trọng tự do của chúng ta. Trong sinh hoạt hằng ngày, Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống mỗi ngưòi chúng ta như Ngài đã bước vào cuộc sống của Giakêu. Chúng ta chỉ cần bám lấy Ngài, và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi điều như Ngài đã từng làm cho những người khác.
Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống chúng ta, gần gủi với chúng ta qua ba trường hợp nầy. Thứ nhất Chúa Giêsu có thể nói với chúng ta khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa. Như vậy Chúa có dịp bước vào tâm hồn chúng ta. Thứ hai là lúc chúng ta đón rước Chúa Giêsu Thánh thể . Chúa Giêsu nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. (Jn 6:56). Sau hết, Chúa Giêsu bước vào trong cuộc sống của chúng ta lúc chúng ta gặp những người nghèo khổ túng quẫn. Chúa Giêsu dạy: “Ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này là làm cho chính Ta.” (Mt 25:40)
Khi gặp Ngài, chúng ta hãy xin Ngài làm cho chúng ta những điều Ngài đã làm cho Hughes và Giakêu. Đó là sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay. Đó là điều chúng ta đang cùng nhau cử hành trong phụng vụ hôm nay.
Toàn bộ sách Tin Mừng được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần: TN 31-C18
Toàn bộ sách Tin Mừng được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần gian. Đó là quan niệm của các môn đồ tiên khởi về thân thế và sự nghiệp của Ngài.
Trên thực tế, Ngài đã cứu họ. Ngài rất hiểu sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài nói: “Con Người đến trong thế gian để tìm cứu những gì đã hư mất” (Lc 19:10)
Điều đáng tiếc là trong Giáo hội, đề tài này chỉ mặc được một ý nghĩa rất giới hạn. Gần như chỉ giới hạn vào những gì sẽ xảy đến cho chúng ta sau khi chết mà thôi. Được cứu rỗi có nghĩa là đời sau, tại bên kia thế giới, chúng ta được vào thiên đàng, sống bên cạnh Chúa muôn đời.
Điều này thật sự thì rất dễ hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Thiên đàng là nơi cực lạc, thoát ra ngoài những truân chuyên buồn khổ của trần gian. Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng ước được vào thiên đàng.
Nhưng đây không phải là điều mà sách Phúc âm nhấn mạnh trước hết trong công cuộc cứu độ trần gian của Đức Kitô. Trong Phúc ân, các thánh sử đã trình bày Ngài như một vị Tôn sư giúp con người ta đối phó với những thử thách của cuộc đời, giải thoát con người ngay trên dương thế.
Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Đức Yêsu đến thăm nhà một ông trưởng thuế vụ. Chúng ta biết câu chuyện đã bắt đầu như thế nào, và đã kết thúc làm sao. Nhưng giữa đó những gì đã xảy ra? Chúng ta không được biết rõ. Đầu hết, Đức Yêsu trên đường đi ngang qua thành Yêricô, nhìn thấy trên cây sung một người thấp bé. Ngài liền nói:
“Hỡi Zakhê, hãy xuống mau. Hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”
Kết thúc là ông Zakhê hứa cùng Chúa sẽ lấy nửa phần của cải to lớn của ông bố thí cho người nghèo. Sẽ đền bù gấp bốn cho những người ông đã gian lận. Gian lận ai 100, ông sẽ bù lại cho 400. Chúng ta có thể đoán được sự Chúa viếng thăm ông đã làm cho ông được vui mừng hạnh phúc như thế nào, đã đổi mới đời ông, giải thoát ông như thế nào.
Và Đức Kitô đã tỏ mình là đấng cứu độ loài người ngay trên trần gian nầy như thế nào.
Đây lời Ngài phán trong cuộc tiếp xúc với ông Zakhê:
“Hôm nay đây, nhà này được ơn cứu độ.”
Lời Chúa vừa nói có nghĩa gì? Chúng ta có thể nghĩ rằng hôm nay ông Zakhê đang được ở trên thiên đàng?
Nhưng đó không phải là điều mà bài Phúc âm muốn nhắm. Chúa đang nói về kinh nghiệm cứu độ xảy đến ngay ngày hôm đó tại nhà ông Zakhê. Ông đã được cứu độ cách rất thiệt thực trong đời sống hằng ngày của ông tại thành Yêricô.
Nhìn vào bối cảnh của đời ông, chúng ta có thể hiểu được phần nào Đức Kitô đã cứu giúp ông như thế nào. Phúc Âm nói: “Ông là một trưởng ty thuế vụ vùng Yêricô, tức là người cầm đầu các nhân viên thu thuế. Điều nầy làm cho ông Zakhê trở thành một người bị đồng hương ghét bỏ hoàn toàn. Người thu thuế là hạng người đáng ghét nhứt, đáng khinh bỉ nhất trong dân Israel thời bấy giờ.
Người thu thuế trong Phúc âm với người có tội cũng là một. Họ có tội thứ nhất, là tội phản quốc. Cộng tác với kẻ thù là dân cai trị Rôma, để thâu tiền về cho đế quốc. Họ có tội thứ hai là tội lỗi phép công bằng. Họ thâu đa mà nộp thiểu. Họ thâu mười mà không biết có nộp cho chính phủ được bốn năm hay không? Họ được chính phủ cho phép tha hồ làm giàu trên dân chúng.
Người thu thuế quả là người có tội. Mà ông Zakhê không những là người thu thuế, mà còn là cầm đầu các người thu thuế. Với cương vị trưởng ty thuế vụ, ông còn bốc lột hơn các đồng nghiệp. Người thu thuế đã đáng ghét rồi, ông trưởng ty phải đáng ghét gấp bội. Không ai muốn nói chuyện với ông. Trên đường phố, ai cũng xa lánh ông. Ông bị cấm tham dự các buổi lễ nghi tôn giáo.
Sự khinh khi ghét bỏ của xã hội chung quanh đó hẳn gây ảnh hưởng tai hại lớn lao cho tính tình ông, cho đời sống hằng ngày của ông. Ông chỉ là cái đích cho thiên hạ phỉ nhổ.
Tôi sẽ không thể có được một chút tự tin hay hãnh diện nào về bản thân tôi, nếu không có một người nào khác giúp tôi có đuợc sự tự tín hay hãnh diện về tôi.
Đức Yêsu chính là người khác đó của ông Zakhê. Trong khi những người đồng hương xa lánh ông, coi ông như phẩn thổ, thì Đức Kitô nhận biết ông, gọi ông đích danh: “Hỡi Za khê”. Trong khi những người khác khinh thị ông, thì Đức Kitô kính nể ông. Ngài không sợ người chung quanh thấy Ngài chuyện vãn với ông. Hơn nữa, Ngài muốn lưu lại nhà ông hôm đó, dường như là bạn cố tri của ông Zakhê vậy.
Sự Đức Kitô chấp nhận ông là khởi điểm ơn cứu độ của ông. Ngài cho ông chỗ đứng trong đời sống mới.
Người chung quanh chỉ thấy ông là một người tham lam bất lương. Và hình như ông Zakhê cũng mặc nhận như vậy. Nhưng Đức Kitô nhìn thấy trong ông những đức tính tiềm tàng có thể làm ông trở nên một ngưới lương thiện.
Thái độ của Đức Kitô đối với ông đã làm cho những đức tính tiềm tàng kia hiện ra và đáp ứng với những thách đố của một đời sống cao thượng.
Trước đây ông vốn tham lam, bất lương. Nhưng hôm nay ông đã đổi đời, không đi theo con đường cũ nữa. Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi trong bao nhiêu năm, hôm nay, với sự hiện diện của Đức Kitô, lòng quảng đại đó đã bộc phát một cách thật rõ ràng.
“Tôi xin bố thí nữa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu xưa nay tôi có làm thiệt hại ai, tôi xin bù lại gấp bốn.”
Quả là một sự lạ lùng. Rất lạ lùng: “Hôm nay đây nhà nầy được ơn cứu độ.”
Hôm nay đây ông Zakhê đã trở nên người hiền lương, một người bạn dân. Ông sẽ được các đồng hương kính nể, yêu vì. Khi cần, họ sẽ cầu bàu cùng Đức Yêsu cho ông như họ đã cầu bàu cùng Ngài cho viên sĩ quan Rôma rằng: “Ông nầy đáng được Ngài giúp đỡ, vì ông quí mến dân ta.” (Lc 7:5). Phải: “Hôm nay đây, chính hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”
Phương pháp Đức Kitô dùng để cứu đời là giúp người ta khai thác những khả năng tiềm tàng của mình: Ngài nhìn họ như người điêu khắc nhìn thấy một pho tượng tốt đẹp trong khối đá cẩm thạch sù sì. Ngài giúp họ khai thác các đức tính của họ như thầy giáo giúp học trò khai thác các tài năng của mình. Lòng ưu ái của Ngài đã làm cho những đức tính vốn tiềm tàng của họ được hiện ra sống động.
Một người khác tên Simon, vốn rất yếu đuối và nhu nhược, đến nỗi run sợ trước một cô sen, chối bỏ Thầy đến những ba lần. Thế mà lòng ưu ái của Ngài đã biến đổi con người yếu đuối dễ thất trung thất tín ấy thành Phêrô, hòn đá tảng của Giáo hội. Ông được cứu độ hoàn toàn trong đêm thứ Sáu Tuần thánh.
Một người khác nữa tên Saolô, thuộc nhóm biệt phái, cuồng tín, hung hăng dữ tợn, bắt bớ đạo Chúa không ai bằng. Thế mà Ngài đã cảm hóa được. Và Saolô đã trở thành Phaolô, vị tông đồ thượng thặng của các dân ngoại. Phaolô đã được cứu độ hoàn toàn trên đường Damas.
Đối với chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có thể quả quyết rằng tất cả những gì là tốt lành, là lương thiện trong chúng ta, một phần lớn là do nơi lòng tin tưởng một cách nào đó, một lúc nào đó, của một người nào đó đối với chúng ta.
Cũng như sự nghi ngờ, khinh khi của người khác đối với tôi sẽ làm cho mất tinh thần, bế tắc, bại hoại, xuống giốc, thì lòng tin tưởng, ưu ái của người khác đối với tôi, là một động lực thúc đẩy tôi trở thành người tốt, hầu đáp lại lòng tin tưởng và ưu ái của họ.
Đức Kitô đã tin tưởng vào ông Zakhê. Ngài giúp ông tìm ra thế giá của mình.
Rồi Ngài đi một bước xa hơn. Ngài đã giúp ông ý thức được trách nhiệm đối với người khác. “Tôi sẽ chia sẻ nửa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu tôi đã làm thiệt hại ai, tôi sẽ đền bù cho họ gấp bốn.”
Trau dồi các nhân đức nơi bản thân và lưu tâm giúp đỡ kẻ khác, là như đôi ngựa song phi. Hai điều kiện hình thành ơn cứu độ. Người chỉ lo cứu linh hồn mình, mà không quan tâm gì đến việc giúp đỡ kẻ khác, người đó tự lừa dối mình.
Một buổi sáng bêm bờ hồ Galilê, Đức Yêsu hỏi Simon Phêrô: - Con có yêu mến Thầy không?
Phêrô trả lời:
- Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.
Không đợi cho Phêrô nói gì thêm, Đức Yêsu tiếp liền:
- Hãy chăn dắt các con chiên Ta. (Yo 21:16)
Cứu độ là một danh từ vĩ đại trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới. Toàn bộ sách Phúc âm được cấu tạo chung quanh hai tiếng cứu độ. Một ơn cứu độ torng đời sống thường ngày ngay trên trần gian. Nhưng ơn Cứu độ bao giờ cũng có hai chiều song song. Chúa cứu độ tôi. Và đến lượt tôi, tôi phải thực hành ơn cứu độ đó nơi kẻ khác, bằng cách bớt thời giờ, bớt sức lực, bớt tài năng, bớt của cải, để phục vụ Chúa nơi kẻ khác. Chỉ có lúc bấy giờ, lời Chúa phán hôm nay mới được đầy đủ thể hiện nơi tôi:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến: TN 31-C19
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến rằng “chẳng ra gì”. Nhưng không riêng gì Việt Nam mà có lẽ nhiều nước trên thế giới như Do Thái cũng không coi trọng hạng người thiếu thước này.
Phúc Âm hôm nay thuật lại một câu chuyện ngộ nghĩnh của một “chú lùn” lọt mắt xanh Chúa Giêsu đó là ông Gia-kêu, một người vừa lùn lại vừa làm nghề thu thuế là nghề được coi là bất chính dưới cái nhìn của dân Do thái.
Nhận biết thân phận lùn của mình, nên Giakêu đã làm một công việc có vẻ “ấu trĩ”, đó là trèo lên một cây cao để có thể nhìn thấy Đức Chúa Giêsu đi ngang qua, vì dân chúng đông đúc. Ông giật mình hoảng sợ vì không ngờ Đức Chúa Giêsu đã ngước nhì lên và gọi đích danh cùng ngỏ ý muốn trọ tại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống khỏi cành cây, lòng tràn ngập vui mừng đón rước Chúa vào nhà và khoản đãi trịnh trọng.
Trước mặt Chúa Cứu Thế, ông đã tà quy chính và hứa sẽ bồi thường thiệt hại gấp bội cho những ai mà mình đã làm thiệt hại. Đáp lại Chúa Giêsu đã tuyên phúc: “Hôm nay nhà được ơn cứu độ... Con Người đến để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã mất”. Vì lòng chân thành mà ông Giakêu đã được tha thứ vá chúc phúc, còn gì hạnh phúc hơn.
“Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102:8.10).
Sách khôn ngoan nói bài đọc thứ nhất đã nói đến phẩm tính nầy của Thiên Chúa. Trong Phúc âm, đã nhiều lần Đức Chúa Giêsu dùng hình ảnh dụ ngôn để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa và sứ mạng của Ngài như: Người cha và đứa con hoang đàng, người mục tử đi tìm con chiên lạc, bà goá tìm một đồng bạc bị mất v..v..
Dĩ nhiên Thiên Chúa yêu thích những người thánh thiện công chính, nhưng cũng không bỏ rơi những kẻ lầm đường lạc lối. Chúng ta hãy cố gắng sống đạo đức thánh thiện nhưng đừng ngã lòng khi sa chân lỡ bước vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.”
Chúng ta đang ở chặng cuối cùng của hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn: TN 31-C20
Chúng ta đang ở chặng cuối cùng của hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn đệ để thực thi công cuộc cứu độ. Chặng cuối của hành trình và cũng là cửa ngõ đi vào thánh thánh Giêrusalem chính là thành phố Giêrikhô. Chính nơi đây, thánh sử Luca ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên trưởng quan thu thuế Dakêu. Câu chuyện thật cảm động và thật ý nghĩa. Lý do là vì nó không chỉ cho chúng ta biết cách thức, hành trình của một tội nhân trở lại đón nhận ơn cứu độ, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu thương và sứ mệnh của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi.
Tên gọi Dakêu có nghĩa là “người thanh liêm”- xem ra có vẻ mâu thuẫn với chính con người cũng như công việc hiện tại của ông, nhưng đó lại là sự thật. Vâng, thánh sử Luca đã không ngần ngại liệt kê lý lịch đầy bất hảo của ông- ít nữa trước mắt người Dothái: “Đứng đầu người thu thuế và là người giàu có”. Rõ ràng Dakêu là quan thu thuế, mà không chỉ là quan thu thuế bình thường, ông là đại quan, là “đầu sỏ” của những tên thu thuế, bóc lột dân đen để làm lợi cho đế quốc Rôma. Thế nên, sự giàu có của ông cũng là điều dễ hiểu. Đó là sự giàu có không do công sức của mình mà phần lớn xuất phát từ những trò ma mãnh trong ngành mà có. Vì lẽ đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Dakêu bị dân chúng Dothái khinh bỉ, bị tẩy chay và cho là kẻ ô uế. Thế nhưng dù có bị dân chúng tẩy chay, khinh bỉ, Dakêu vẫn cố tìm cách để nhìn thấy Chúa khi biết Người sẽ đi qua thành phố Giêrikhô thân yêu. Chúng ta có thể thấy nổ lực của Dakêu trong việc cố tìm cách để thấy Chúa không hẳn xuất phát từ sự tò mò, hiếu kỳ trước con người Giêsu, mà đó còn là khởi điểm cho một hành trình đức tin, tìm về cội nguồn chân lý. Đám đông cũng như vóc dáng nhỏ bé không cho phép ông nhìn thấy Chúa, ông không thất vọng, ông trèo lên cây sung và nóng lòng đợi chờ…
Những nổ lực của Dakêu cuối cùng đã có tác dụng nhờ Chúa Giêsu chính là người đã đi bước trước. “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chính Chúa Giêsu đã cố tìm Dakêu vì sứ mệnh của Người là đi tìm những con chiên lạc, quy tụ về một ràn chiên. Không chỉ thế, Chúa Giêsu tự làm khách đến nhà của Dakêu - điều mà trước đây chẳng mấy ai làm, ngoại trừ bị ông kêu đến để hoạch hoẹ về chuyện thuế má. Chúa đến nhà ông, đồng bàn cùng ông, bởi như ngôn sứ Êdêkien, Chúa Giêsu “không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18, 23), Người muốn Dakêu nhận ra những lầm lỗi của mình để trở về.
Chúng ta có thế thấy nổi vui mừng khôn tả của Dakêu khi được Chúa Giêsu viếng thăm. Ông không thể ngờ rằng trong khi mọi người trong thành phố Giêrikhô này đều căm ghét, lạnh lùng và khinh bỉ ông, thì cái ông Giêsu “bắc kỳ” (miền Galilê) lại vui vẻ thân tình với ông. Ông có ngờ đâu đang khi người dân của thành phố Giêrikhô liệt ông vào hạng người tội lỗi, bán linh hồn cho ma quỷ, thì lại được Chúa Giêsu công khai nhìn nhận ông là “con cháu tổ phụ Apraham”. Ông cũng có ngờ đâu xuất phát từ ý muốn có thể là bộc phát chỉ để nhìn thấy Chúa, đơn giản thế thôi, thì giờ đây khi được tiếp xúc với Người, được đồng bàn với Người, ông quyết định làm lại cuộc đời. Cuộc đổi đời của Dakêu không chỉ trong việc ông chia sẻ, bố thí cho người nghèo “phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”, mà còn được thể hiện trong ước muốn sống đời sống công bình ngay thẳng nữa. Ông thú nhận với Chúa: “Nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúng ta biết luật Dothái cũng như luật Rôma chỉ quy định khi có bằng chứng xác thực về tội ăn trộm chiên hoặc bò, thì phải đền 5 lần đối với bò và 4 lần đối với chiên (x. Xh 21, 37). Dakêu không chỉ buộc mình có vậy, ông còn đi xa hơn nữa trong tất cả mọi của cải chiếm đoạt.
Có thể nói không gì có thể sánh ví niềm vui mừng khôn tả của Dakêu khi cuộc đời ông được gặp gỡ Chúa và được Chúa biến đổi. Cuộc gặp gỡ và biến đổi đó không chỉ trên bình diện cá nhân, mà còn lan rộng, mang chiều kích xã hội. Ước gì mỗi người trong chúng ta cũng được Chúa Kytô biến đổi để trở nên những Dakêu thanh liêm hầu mưu ích cho muôn người.
Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong: TN 31-C21
Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện liên lỷ đừng nản lòng, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ.
Sỡ dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
1. Lòng thương xót của Thiên Chúa: Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường muốn sự dữ, và những kẻ làm điều ác, những người sống bất công phải trả giá ngay lập tức. Khi suy nghĩ như thế, mặc nhiên chúng ta đang tự đặt mình trong tư thế của những người công chính để lên án kẻ khác. Nhưng Thiên Chúa thì khác, bài sách Khôn ngoan hôm nay cho chúng ta thấy rõ lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc dù Thiên Chúa luôn đối lập với sự dữ, nơi Ngài không hề có bóng dáng của bất cứ một sự dữ nào, thế nhưng Ngài lại hết lòng thương xót các tội nhân. Ngài luôn chờ đợi sự trở về của những người tội lỗi. Và chính lòng thương xót vô biên đó đã chứng tỏ cho chúng ta thấy được quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm thực tế cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ những người yếu mới tìm cách để loại bỏ những người mình không ưa thích, còn những người mạnh mẽ thực sự thì lại thường dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, và tạo mọi cơ hội để người khác có thể làm lại cuộc đời.
Tương tự như thế chính vì là Đấng dựng nên muôn loài, nên Thiên Chúa luôn yêu thương và không muốn bất cứ một tạo vật nào của Ngài phải hư đi, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, … Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó. Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được?”. Thậm chí, Ngài còn “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối”. Thiên Chúa chưa xét xử và kết án chúng ta, không phải vì Ngài không biết, hay đồng ý với cách sống của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn dành cho chúng ta một thời gian, một cơ hội để chúng ta “ăn năn sám hối”, trở lại với Ngài.Vâng, nếu Thiên Chúa cư xử với chúng ta như cách chúng ta cư xử với anh em, với những người chúng ta không thích, có lẽ tôi và quý vị không ai còn có mặt trên cõi đời này. Sỡ dĩ, chúng ta vẫn còn sống và đang tiếp tục nhận được biết bao hồng ân của Thiên Chúa, thì chẳng phải là do chúng ta đạo đức thánh thiện, nhưng bởi vì “Chúa là Đấng nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng”. Ngài luôn sẵn sàng đưa tay “nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên”.
Chính lòng thương xót đã thúc đẩy Đức Giêsu dừng bước để ngỏ lời và viếng thăm gia đình ông Giakêu, một thủ lãnh của những người thu thuế, nghĩa là một người tội lỗi đầy mình theo cái nhìn của người Do thái. Nhưng cho dù dưới mắt mọi người Giakêu có là người tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì dưới con mắt yêu thương của Đức Giêsu, Giakêu vẫn là “con cái Abraham”, nghĩa là xứng đáng nhận được ơn cứu độ. Do đó, Đức Giêsu đã đến và dùng bữa tại nhà ông, và ban ơn cứu độ cho gia đình ông, bởi lẽ sứ mạng của Đức Giêsu là “đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”. Cảm nghiệm điều này, thánh Phaolô chia sẻ với giáo đoàn Thessalônica: “Thiên Chúa chúng ta đã đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi anh em”.Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót vẫn sẵn sàng ban ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, để nhận được ơn cứu độ, về phần mình, giống như Giakêu, mỗi người chúng ta cũng cần có những nỗ lực cá nhân để xứng đáng với ơn ban của Thiên Chúa.
2. Lời mời gọi đáp trả:
Trở lại với bài Tin mừng, lúc đó Đức Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, và có rất đông dân chúng cùng đi với Ngài. Lúc đó có một người thủ lãnh của những người thu thuế tên là Giakêu cũng muốn đến gặp mặt Đức Giêsu, nhưng không thể được, vì dân chúng quá đông còn vóc dạng của ông thấp bé. Nhưng cho dù có nhiều trở ngại, ông vẫn không bỏ cuộc. Ông đã đoán hướng đi của Chúa và chạy trước đến một cây sung và trèo lên để có thể nhìn thấy Chúa. Điều này chứng tỏ được lòng nhiệt thành và quyết tâm của ông. Mặc dù là một thủ lãnh của những người thu thuế, nhưng ông đã quên đi địa vị của mình để rồi, trèo lên cây như một đứa trẻ. Và khi được Chúa ngỏ lời sẽ đến và ở lại nhà ông, ông đã vui vẻ trèo xuống và đón tiếp Người cách hân hoan, mặc cho những lời xì xầm, đàm tiếu của đám đông dân chúng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”. Ông biết rõ mình là người tội lỗi, nhưng ông không giấu giếm điều đó. Ông thành tâm muốn giao hoà với Thiên Chúa.
Không chỉ giao hoà với Thiên Chúa. Ông còn muốn giao hoà với anh em. Và chính sự giao hoà lại với anh em này của Giakêu đã trở nên một dấu chỉ rõ ràng cho tâm tình sám hối chân thành của ông. Ông thưa với Chúa: “Tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Không chỉ đền trả theo lẽ công bằng, Giakêu xin đền gấp bốn. Thậm chí ông còn tự nguyện chia sẻ nửa phần gia tài của ông cho tha nhân. Giakêu đã vượt qua sự công bình thông thường để đi đến đức ái. Lòng nhân ái của Giakêu, chắc hẳn phát xuất từ cảm nghiệm của ông về lòng nhân ái của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Ông biết Thiên Chúa luôn yêu thương ông. Do đó, ông cũng có bổn phận yêu thương và chia sẻ cho anh chị em mình.
Mặc dù câu chuyện của Giakêu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng có lẽ mẫu gương của Giakêu vẫn là bài học thiết thực cho mỗi người chúng ta hôm nay. Tương tự như ông Giakêu, trong hành trình theo Chúa, mỗi người chúng ta vẫn đang gặp biết bao khó khăn, trở ngại. Nào là đường xá xa xôi, lầy lội, thời tiết bất thường đi lại khó khăn; nào là bận rộn với công việc làm ăn bởi vì hôm nay “người khôn của khó”; nào là Nhà thờ chật chội, nóng nực, lại còn bị muỗi đốt … Thế nhưng, theo gương của Giakêu, chúng ta hãy cố gắng “chạy lên trước” vượt qua những khó khăn bên ngoài, rồi can đảm “trèo lên cây”, để vượt thắng sự nhỏ bé ươn lười của chính bản thân, để đến với Chúa trong các Thánh Lễ mỗi ngày, nhất là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, và sốt sắng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ một cách chu đáo. Và nhờ có Chúa trong tâm hồn, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta sẽ là một lời chứng sống động để dẫn đưa anh chị em chúng ta đến với Chúa. Amen.
NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES):Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn: TN 31-C22
a- NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES):Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Victor Hugo. Nội dung tác phẩm tường thuật câu chuyện về cuộc đời của một nhân vật tên là Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp sát nhân đã từng ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã nếm mùi bị mọi người khinh dể xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; Vào trong nhà trọ thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; Đi qua ổ chó, thấy bộ dạng bề ngoài nhếch nhác râu ria sồm soàm của anh, chúng liền thi nhau sủa lên inh ỏi…Chỉ khi bước vào nhà Đức Giám Mục My-ri-ê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi máu tham, đã nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao và vác lên vai chuồn mất. Nhìn thấy bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền khám xét và bắt được mấy chân đèn bạc giấu kỹ trong bao. Anh liền bị giải đến trước mặt vị Giám Mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không la mắng kết tội, mà còn bao che tội của anh bằng cách nhận trước cảnh sát là đã tặng anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu. Nhưng phải mau ăn năn sám hối để làm lại cuộc đời”. Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương khoan dung của ngài. Anh quyết tâm hối lỗi và trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau đó, Văn Giang đã được mọi người quí mến và còn bầu làm thị trưởng của thành phố. Ong đã biến đổi từ một tên tội phạm thành một con người lương thiện, và còn được mọi người kính nể là nhờ đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục đầy lòng khoan dung nhân ái.
b- SỨC MẠNH CỦA THÁNH DON BOSCO:
Một hôm, khi cha Bosco mới được thụ phong linh mục, sắp đến giờ dâng lễ mà không có một em giúp lễ nào. Bất chợt ngài thấy một thiếu niên bụi đời đang ngấp nghé ở cửa phòng thánh. Ông từ nhà nguyện trông thấy bộ dạng của cậu ta liền chạy tới đuổi đi chỗ khác vì sợ cậu ăn cắp đồ. Cha Bosco liền yêu cầu ông từ chạy ra gọi cậu bé quay lại. Khi gặp cậu, cha thân mật hỏi chuyện nhưng cậu ta trả lời cách cộc lốc vì thất học. Tuy vậy cha vẫn không buồn và tiếp tục nói chuyện. Khi cha hỏi cậu bé có khả năng gì cậu liền trả lời có tài huýt sáo. Cha khuyên cậu ta hãy phát huy tài năng đó. Kể từ ngày ấy, cậu thiếu niên thô lỗ cộc cằn kia đã cảm nhận được tình thương nơi cha Bosco và bằng lòng theo học với cha. Cuối cùng cậu đã dần dần biến đổi trở nên một người tốt, tích cực cộng tác với cha trong việc giáo dục thanh thiếu niên bụi đời khác.
c- TÌNH THƯƠNG CỦA TÊ-LÊ-MA-CÚT (Telemachus):
Tê-lê-ma-cút là một ẩn sĩ. Một hôm ông được Chúa thôi thúc rời bỏ khu rừng đang ở tu luyện mà đến Rô-ma thủ đô công giáo. Bấy giờ tại Rô-ma vẫn còn tồn tại một tục lệ dã man là những cuộc giác đấu, tuy dã man nhưng lại được nhiều người kéo đến xem. Đây là những cuộc quyết đấu tay đôi giữa hai người nô lệ mà cuộc chiến đấu chỉ ngừng khi một trong hai bị đâm chết. Mỗi ngày nhiều người bị chết thê thảm trước sự cổ võ của đám đông cuồng loạnmất hết tính người. Tê-lê-ma-cút nghĩ rằng: “Cần phải chấm dứt tục lệ dã man này càng sớm càng tốt. Vì bao lâu dân chúng còn ham xem những cuộc tàn sát đẫm máu thế này thì không thể xứng đáng trở thành con cái của Thiên Chúa được”. Nghĩ thế rồi, Tê-lê-ma-cút liền leo xuống đấu trường và chạy đến đứng giữa hai lực sĩ giác đấu giơ tay yêu cầu hai người thôi đâm chém nhau, nhưng họ đẩy ông sang một bên và lại tiếp tục cuộc chiến. Khán giả thấy vậy nghĩ ông muốn phá cuộc vui của họ, liền la ó phản đối và yêu cầu chính quyền can thiệp. Viên quan cai quản đấu trường chịu sức ép của quần chúng và muốn mau chóng vãn hồi trật tự, liền rút gươm hạ sát ông. Khi Tê-lê-ma-cút ngã xuống đất và máu tuôn trào lai láng trên mặt đất thì cả đấu trường đột nhiên im lặng, hai đấu sĩ cũng không còn hăng hái chiến đấu nữa. Mọi người đều tỏ vẻ bức xúc hối hận và không còn thích xem giác đấu nữa. Từ ngày đó, do đề nghị của nghị viện Rôma, hoàng đế ra lệnh bãi bỏ thói tục giác đấu trong toàn thể đế quốc. Chính cái chết anh dũng và đầy tình người của Tê-lê-ma-cút đã giúp dân thành Rôma hồi tâm hoán cải, và bỏ được tục giác đấu đã giết hại bao mạng người cách dã man.
* SUY NIỆM:
- “Này ông Da-kêu xuống mau đi”: Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến một nhân vật là Da-kêu. Là một người thu thuế giàu có, ông đã nghe biết về Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, có tình thương đặc biệt đối với những người thu thuế tội lỗi và bị khinh dể như ông. Ông ước mong có ngày được gặp Đấng ấy. Dịp may đã đến, một hôm thấy đám đông đi qua trước nhà, ông hỏi thăm thì biết có Đức Giêsu dẫn đầu, ông liền đi theo và hòa mình vào đám đông. Nhưng sau nhiều cố gắng mà vẫn không sao thấy mặt Người, vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn thấp. Da-kêu quyết định chạy trước một quãng đường và leo lên một cây sung, chờ đợi Đức Giêsu đi qua thì chắc là sẽ trông thấy mặt Người. Ông nép mình để không ai có thể thấy ông. Bất ngờ, khi đi tới cây sung nơi Da-kêu núp, thì Đức Giêsu dừng lại, nhìn lên cây và gọi đích danh ông. Thật là bất ngờ ! Đức Giêsu biết rõ ông và đã nhìn thấy ông trước khi ông thấy mặt Người !
- “Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Da-kêu không ngờ được Đức Giêsu biết rõ ông và còn tỏ ý muốn đến ở trọ nhà ông, khi ông đang là một người thu thuế tội lỗi ! Ong vui mừng thấy danh dự của mình được Đức Giêsu phục hồi trước mặt đám đông trước đây vẫn luôn khinh dể ông. Còn Đức Giêsu thì đã bỏ ngoài tai những tiếng xì xầm phản đối của những kẻ hiện diện, công khai bày tỏ ý định đến ở trọ tại nhà của Da-kêu.
- “Thưa ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”: Anh mắt bao dung, lời nói âu yếm và thái độ yêu thương của Đức Giêsu đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của Da-kêu, thổi ngọn lửa sự thiện còn đang leo lét để cho nó bùng cháy lên. Quả thật, hoán cải là kết quả của một cảm nhận về Tình Yêu. Da-kêu bổng chốc cảm thấy tâm hồn được tự do thanh thoát. Ông cảm thấy không còn dính bén với của cải vật chất đời này như trước, nên đã tự nguyện hiến nửa phần gia sản để chia cho người nghèo và sẵn lòng đền trả gấp bốn lần về những gì ông đã lỗi phép công bằng trước đó.
- “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apraham”: Dù Da-kêu có trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông vẫn cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn, vì ông đã được Đức Giêsu đến thăm và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông. Người còn công nhận ông là con cháu của tổ phụ Apraham.
- Xã hội hôm nay vẫn còn có nhiều Da-kêu. Đó là những người bị coi thường hay bị loại trừ, những thanh niên có tiền án tiền sự, những trẻ em bụi đời lang thang không nhà không cửa, những cô gái đứng đường vào lúc đêm tối, những người nghiện ngập sì-ke ma túy, những người luôn tìm hưởng lạc thú trong những quán ba, dùng chén rượu để quên sầu trong cuộc sống… Họ cần những người có trái tim bao dung nhân ái như Đức Giêsu, để giúp họ hoán cải thành con người mới như ông Da-kêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
* THẢO LUẬN: Vậy mỗi người chúng ta có thể làm gì trong khả năng của mình để giúp đỡ những người thuộc thành phần bị xã hội khinh dể, giúp họ được thêm phấn khởi để hoán cải nên con người lương thiện, quyết tâm bỏ những hành vi tội lỗi để làm lại cuộc đời ?
* HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU, ngày nay mỗi khi đến với chúng con, Chúa thường đến trong hình hài của một người nghèo khó đi xin ăn, một bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang, một người đau khỗ đang cần một lời động viên an ủi. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari, cần năm chiếc bánh va hai con cá, cần căn nhà của Da-kêu để có chỗ nghĩ qua đêm. Chúa khiêm tốn mở lời xin chúng con chút ít tiền bạc, chút lòng hảo tâm, chút sự thương cảm…để rồi sau đó Chúa lại đổ xuống trên chúng con muôn vàn ân phúc nhiều hơn gấp bội.
LẠY CHÚA, Xin dạy chúng con biết đến với hết mọi người, biết khám phá ra một đốm lửa của sự thiện vẫn đang còn cháy leo lét nơi tâm hồn những người tội lỗi. Ước gì chúng con biết nhìn tội nhân bằng ánh mắt nhân từ của Chúa, dám hy vọng vào tình thương đang có nơi tâm hồn mỗi người, và kêu gọi họ cùng hợp tác trong việc xua đuổi cái xấu cái ác ra khỏi gia đình, khu xóm, trường học, và nhà máy…mời gọi mọi người cùng nhau làm việc thiện. Nhờ đó thế giới này sẽ ngày càng trở nên nhân bản hơn, chan hòa tình yêu hơn và mọi người sẽ được sống trong an bình hạnh phúc hơn.
2) LẠY MẸ MARIA, qua bài Tin Mừng hôm nay, con nhận thấy con Mẹ là Chúa Giêsu thật có tài đánh động lòng người. Người chỉ cần gặp gỡ Da-kêu trong giây lát là đã biến đổi ông nên con người mới: đang từ một người keo kiệt gian tham, trở nên một người quảng đại sẵn sàng chia sẻ phân nửa của cải mình cho tha nhân.
LẠY MẸ, chính nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, mà ông Da-kêu và cả gia đình đã được ơn cứu độ. Xin Mẹ giúp chúng con mỗi lần đón rước Chúa Giêsu vào nhà linh hồn, con cũng được đổi mới đời sống. Xin cho con biết quảng đại chia sẻ cơm bánh cho những ngườiđói rách, biết cộng tác với các vị chủ chăn để đưa nhiều người lạc xa Chúa được trở về với Người. Xin đừng để con khinh dể xa lánh những người tội lỗi, nhưng biết tỏ lòng nhân từ yêu thương họ. Hy vọng rằng một khi cảm nghiệm được tình thương của Chúa qua cách đối xử của con, họ sẽ biến đổi thành những con chiên ngoan trong đàn chiên của Chúa.
Cuộc đời mỗi người chúng ta được định nghĩa như một cuộc hành trình với những lựa chọn để tìm: TN 31-C23
Cuộc đời mỗi người chúng ta được định nghĩa như một cuộc hành trình với những lựa chọn để tìm đúng hướng đi cho chính mình. Cuộc hành trình của mỗi ngưòi khác nhau. Khác nhau về thời gian vì có người sống được mười năm, hai mươi năm hoặc có người bước đi được ba chục năm hoặc bảy chục năm. Nhưng điểm khác biệt quan trọng đáng nói hơn cả chính là sự lựa chọn ý nghĩa cuộc sống mà mỗi người đang theo đuổi. Có những điều chúng ta không thể chọn lựa cho chính mình. Dĩ nhiên, không ai trong chúng ta chọn lựa để được sinh ra hay không sinh ra. Không ai trong chúng ta được chọn lựa để làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta được lựa chọn để được sinh ra trong gia đình này hay gia đình kia. Tuy nhiên, chúng ta có thể chọn cho mình một hướng đi có ý nghĩa cho cuộc sống.
Hướng đi thì nhiều, nhưng đâu là hướng đi có ý nghĩa thật cho cuộc sống của chúng ta. Bài Phúc âm Luca hôm nay trong câu chuyện Giakêo tìm gặp Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta một hướng đi rất ý nghĩa. Luca thuật rằng ông Giakêo là thủ lãnh, làm đầu của những người thu thuế và là người giàu có. Trong tâm tư và môi miệng của người Do thái, ông là con người tội lỗi vì làm việc cho người ngoại bang, người Rôma và chỉ tìm cách bóc lột dân chúng qua việc nộp thuế. Nhưng ông Giakêo đã tìm thấy hướng đi thật cho chính ông khi gặp gỡ Chúa Giêsu.
Giakêo đã không sợ dư luận khinh khi là người tội lỗi nhưng dám nhìn vào sự thật, nhìn vào chính con người ông và can đảm thay đổi cuộc sống. Trước kia hướng đi của ông có lẽ chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho chính ông, không nghĩ đến người khác. Nay gặp gỡ Chúa Giêsu ông đã tình nguyện bố thí nửa phần của cải ông cho kẻ khó, và còn nữa nếu ông có làm thiệt hại cho ai điều gì, ông xin đền gấp bốn. Ông đã biết sống trao ban cho người khác. Ông đã quan tâm đến tha nhân, đến những nghèo khó và sống công bằng với mọi người.
Hướng đi nào cũng có những khó khăn, trắc trở trong đó. Đòi phải can đảm để tiến bước. Ông Giakêô cảm thấy khó khăn khi tìm gặp Chúa Giêsu. Ông thì lùn, nên cứ phải chạy dọc chạy xuôi, cố nhón chân cao để nhìn thấy Chúa Giêsu và còn phải trèo lên cây vì đám đông chen chúc quanh Chúa Giêsu làm ngăn cản ông nhìn đến Chúa Giêsu. Cuối cùng ông Giakêô đã gặp Chúa. Chính trong cuộc gặp gỡ này mà ông đã tìm thấy hướng đi cho ông. Tuy nhiên, có lẽ ông Giakêô sẽ không tìm thấy được hướng đi thật và ý nghĩa cuộc sống thật nếu ông không gồng mình gạt bỏ mọi dư luận và không muốn mở rộng tấm lòng thật để đón nhận Chúa Giêsu.
Trong hành trình của bạn và tôi, đâu là hướng đi mà mỗi người trong chúng ta cần phải chọn và làm ngay trong lúc này. Trách nhiệm tìm và lựa chọn cuộc sống có ý nghĩa là của mỗi người. Một người cha, một người chồng cần giã từ cuộc sống bê tha trong rượu chè, bài bạc, trác táng để trở về với gia đình làm tròn bổn phận của mình. Một người mẹ, một người vợ cần phải từ giã những thói hư tật xấu để chu toàn nhiệm vụ làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Một người con bỏ nhà ra đi sống không định hướng cần trở về gia đình. Trong khía cạnh tích cực của hướng đi, bạn ạ, những người xung quanh chúng ta đang chờ mong chúng ta một lời chào hỏi, một nụ cười thân thiện, một thái độ yêu thương, một cử chỉ nâng đỡ, một lời nói an ủi chân thành, một tấm lòng quảng đại và tha thứ, một miếng cơm cho người nghèo đói...
Trong cuộc hành trình trần thế có nhiều hướng đi. Có hướng đi dẫn tới sự sống, có hướng đi đem tới sự chết, có hướng đi mang niềm hy vọng, có hướng đi dẫn tới thất vọng. Nhiều lúc chúng ta lầm đường lạc hướng vì những ảo ảnh và phù phiếm của cuộc sống lôi cuốn chúng ta. Chúng ta đã đọc sai những bản chỉ dẫn đi tìm sự sống đích thực của chúng ta. Chúng ta phải chân nhận rằng đã nhiều lần chúng ta lạc hướng. Điểm quan trọng là chúng ta có đủ can đảm để quyết tâm định hướng dựng lại cuộc đời và bước đi hay không, hay là chúng ta vẫn cứ mãi bước theo hướng đi ảo ảnh nào đó?
Là Những Kẻ Khốn Cùng (Les misérables) đã kể câu chuyện về Văn Giang (Han Valjean), một tên: TN 31-24
Là Những Kẻ Khốn Cùng (Les misérables) đã kể câu chuyện về Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp sát nhân bị tù 19 năm. Khi được thả ra, không ai dám đến gần. Chàng vào tiệm ăn, bị đuổi ; vào trọ đêm, vừa thấy mặt người ta đóng sập cửa lại ; vào ổ chó, chó sủa inh ỏi ; vào trọ nhà Đức Giám Mục Myriet (Miriét) được tiếp đãi hết sức trọng hậu. Nhưng đến đêm, chàng nổi máu tham, ăn cắp năm cây đèn bạc chuồn mất. Chính quyền bắt được, giải tới Giám Mục. Ngài nói: Chính tôi tặng chàng và tặng thêm hai cây đèn nữa và nói với chàng: “Anh cầm lấy, người anh em hãy bỏ ác theo thiện, tôi mua linh hồn anh và trao cho Chúa”.
Từ đó, Văn Giang suy nghĩ, hối cải và sau này trở thành một Thị trưởng rất đạo đức.
Đức Giêsu cũng đã xử rất thân tình với một người thâu thuế mang tiếng là ông tổ tham nhũng, ăn cướp của dân, tên là Giakêu.
Phân tích bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba lối xử sự, lối thứ nhất sợ: “Gần mực thì đen,” - lối thứ hai “Gần đèn thì rạng” - lối thứ ba “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, còn làm cho bùn đượm vẻ thanh tao đẹp đẽ, hay đúng hơn đó là ánh sáng thế gian, là muối đất còn hơn là hoa sen.
Lối xử sự thứ nhất của những người xì xầm nói hành Đức Giêsu: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Theo quan niệm dân Do Thái bấy giờ coi những người dân ngoại, những người công chức bám gót đế quốc Rôma và nhất là hạng thâu thuế cho Đế quốc, bị coi là hạng tội lỗi ghê tởm. Họ phải xa tránh, lỡ phải tiếp xúc với những người ấy, khi về nhà, họ phải thanh tẩy bằng tắm rửa để khỏi ô uế. Lối xử sự đó gây ra hậu quả tai hại là phân chia giai cấp, chia rẽ chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, tự cô lập mình. Hậu quả tai hại thứ hai tạo ra hạng người kêu căng, tự coi mình là trong sạch, công chính hơn những người khác, hơn dân tộc khác. Họ không biết mình cũng đầy tội lỗi như mọi người. Họ phải đấm ngực ăn năn xin Thiên Chúa tha thứ. Họ không được phép kết án ai để khỏi bị Thiên Chúa lên án. Có lần họ đã kết án người đàn bà phạm tội ngoại tình và xin Đức Giêsu kết án ném đá chị. Nhưng Người bảo họ: Ai không có tội, hãy ném đá chị đi. Họ đã rút lui để khỏi bị Đức Giêsu kết án họ.
Lối xử sự thứ hai của ông Giakêu: “Ông đứng đầu những người thâu thuế và là người giầu có”. Chế độ thu thuế lúc bấy giờ là cho đấu thầu. Dĩ nhiên ai nhiều tiền lắm của mới trúng thầu. Ông Giakêu chắc trúng thầu mới là người đứng đầu những người thâu thuế. Người chủ thầu mặc sức thâu thuế để mau thu lại vốn và làm giầu. Sự giầu có của ông còn hơn cả những chủ thầu các thành khác, vì thành Giêricô, cách Giêrusalem 23 cây số, là đô thị cổ nhất thế giới đã có từ hơn mười nghìn năm, và nổi tiếng văn minh thương mại sầm uất, cũng là một đô thị chiến lược được xây cất rất kiên cố ngay thời ông Giosuê dẫn dân Do Thái về đất Hứa. Giầu có và sang trọng như thế, nhưng ông lại rất có lòng khao khát được thấy Đức Giêsu. Lòng khao khát mạnh đến nỗi thúc đẩy ông bỏ cả thể diện sang trọng giầu có, sẵn sàng trèo lên một cây sung, như đứa trẻ nhỏ để nhìn cho được thấy Đức Giêsu. Đức Giêsu lúc đó, đối với ông chỉ là thường dân, khá lắm thì chỉ là một tiên tri nào đó đối với dân thôi, còn đối với chính quyền đời và đạo, Người không có một chức tước gì. Nhờ lòng khao khát mạnh mẽ đó, ông Giakêu đã được ơn soi sáng thấy một điều lạ lùng: ông đã được thấy Đấng Cứu thế, và cả gia đình ông được cứu độ: “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Đời ông đã đổi mới hẳn: ông sẵn sàng bán nửa gia tài giúp cho người nghèo khó. Đức bác ái của ông dâng cao. Đức công bằng cũng không kém: “Nếu tôi làm thiệt hại ai, tôi xin đền gấp bốn”.
Ông Da-kêu chỉ rước Chúa vào nhà có một ngày, đời ông đã hoàn toàn đổi mới, đã hoàn toàn sống theo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa vào linh hồn không biết bao nhiêu lần, đời chúng ta đã đổi mới, đã nên giống Đức Giêsu chút nào chưa?
Lối xử sự của Đức Giêsu là lối xử sự của Thiên Chúa, Người làm cho mặt trời mọc soi sáng cho muôn loài, cho kẻ lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống cho mọi tạo vật, cho kẻ công chính cũng như bất lương ; là lối xử sự của Đấng Cứu độ hằng thương xót những kẻ tội lỗi, hướng dẫn những kẻ lầm đường lạc lối, cứu chữa những kẻ yếu đuối, tìm kiếm nhũng kẻ hư mất, phục sinh những kẻ đã chết. Thật ra, “toàn thể vũ trụ trước mặt Người chỉ như là hạt sương sớm rơi trên đất, thế mà Người vẫn thương xót … Người xử sự thật khoan dung, vì chúng ta là của Người. Lạy Chúa tể tốt lành và hiếu sinh dường bao” (Bài đọc I). Thiên Chúa nhân hậu và quý trọng sự sống của chúng ta như vậy, cho nên thánh Phaolô cầu nguyện cho chúng ta vững tin: “Đừng hoảng sợ”. Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Lạy Chúa, xin cho con vững tâm tin tưởng mừng rước Chúa đến ngự vào nhà con, cho con được đổi mới và được ơn cứu độ như ông Giakêu.
Tội là một điều xấu và những gì liên quan tới tội cũng đều xấu, từ những dịp tội, tức là những: TN 31-C25
Tội là một điều xấu và những gì liên quan tới tội cũng đều xấu, từ những dịp tội, tức là những hoàn cảnh thúc đãy chúng ta dễ dàng vấp ngã, đến những tội nhân, tức là những kẻ trót lầm lỡ hay cố tình lặn ngụp trong tội lỗi.
Đã xấu thì khó lòng thương nổi, đồng thời phải ghét bỏ. Sự ghét bỏ đối với kẻ tội lỗi được biểu lộ qua thái độ nhìn họ bằng cặp mắt khinh bỉ, nói về họ bằng những lời phê bình chỉ trích và xa tránh họ như xa tránh một kẻ mắc bệnh truyền nhiễm. Tiếp xúc với họ là một sự nguy hiểm cho danh dự và uy tín của mình.
Đó chính là thái độ của bọn biệt phái và nhiều khi cũng là thái độ của chúng ta đối với những kẻ tội lỗi và chúng ta cho như vậy là đúng.
Tuy nhiên, nếu quả thực như thế, chúng ta phải ghét bỏ chính bản thân mình cũng như phải ghét bỏ mọi người chung quanh bởi vì chẳng ai là người thánh thiện và vô tội, như thánh vịnh đã xác quyết:
- Từ trong lòng mẹ, tôi đã là tội nhân, Thoạt sinh ra tôi đã mắc tội rồi.
Vậy phải chăng giữa người với người chỉ còn lại sự khinh bỉ và ghét bỏ ? Rất may không phải là như vậy. Tội lỗi thì xấu xa đáng ghét, nhưng tội nhân tuy xấu xa nhưng còn biết bao nhiêu điều tốt. Họ là những người đáng thương và cần được cứu vớt.
Chính Chúa Giêsu đã giảng dạy và làm gương cho chúng ta về vấn đề này. Thực vậy, Ngài đã dùng biết bao nhiêu hình ảnh thật cảm động để diễn tả lòng thương xót của Ngài đối với các tội nhân.
Ngài đã sánh vì mình như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng, để khi cậu trở về thì liền tha thứ ngay cho cậu.
Ngài đã sánh ví mình như người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên lạc và khi tìm thấy thì đã vác nó lên vai mà mang về nhà. Ngài đã khẳng định:
- Một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn sám hối.
Ngài đã sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiến đồng bạc bị đánh rơi và khi tìm thấy thì đã mời lối xóm tới chia vui. Ngài còn xác quyết:
- Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi.
Không phải Ngài chỉ giảng dạy trên môi trên miệng, mà hơn thế nữa, trong cuộc sống Ngài còn thực hiện những lời giảng dạy ấy bằng những việc làm cụ thể.
Trước hết, Ngài luôn đứng về phía những kẻ tội lỗi để bênh vực họ. Chúng ta có thể nói được rằng: lập trường của Ngài hoàn toàn khác biệt với lập trường của bọn biệt phái. Ngày kia người ta dẫn đến cho Ngài người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình mà chiếu theo luật Do thái, thì sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng, Ngài đã không làm như vậy. Sau khi mọi người bỏ đi, Ngài đã nói với chị:
- Ta không kết án chị đâu. Chị hãy về bình an và đừng phạm tội nữa.
Nếu tôi có mặt trong đám đông hôm ấy, có lẽ tôi cũng đã kết án và ném đá chị, hay ít nữa tôi cũng đã chê bai và khinh bỉ chị ra mặt.
Trên núi Sọ, trước thái độ hận thù của đám đông, Ngài đã cắt nghĩa lành và cầu nguyện cho họ:
- Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết việc chúng làm.
Tiếp đến, Ngài thường tiếp xúc, cảm thông và tha thứ cho họ. Một Matthêu làm nghề thu thuế, chắc hẳn cũng đã nhiều lần tham nhũng và hối lộ, nhưng Ngài đã chọn ông làm môn đệ của Ngài. Và qua đoạn Tin mừng hôm nay, một Giakêu bị kết án là nối giáo cho giặc mà bóc lột đồng bào của mình bằng nghề thu thuế, nhưng Ngài cũng đã ghé thăm và dùng bữa tại nhà ông, nhờ đó ông đã làm lại cuộc đời. Rất nhiều lần Ngài đã tha thứ, chẳng hạn cho Phêrô, cho người trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Vậy chúng ta phải có thái độ nào đối với kẻ tội lỗi cũng như đối với chính bản thân mình ?
Trước hết là đối với kẻ tội lỗi. Chúng ta hãy có thái độ cảm thông, rồi từ đó tìm cách dẫn đưa họ trở về cung Chúa. Thực vậy, tôi là kẻ tội lỗi thế mà Chúa vẫn yêu thương tôi, vậy tại sao tôi lại không yêu thương họ như Chúa đã yêu thương tôi ? Nếu tôi cho rằng họ xấu, thì tại sao tôi lại không nhận ra rằng bản thân tôi cũng xấu và có lẽ còn xấu hơn họ nữa ? Nếu tôi xử tệ với họ, thì tại sao tôi không nhớ rằng Chúa cũng sẽ xử lại với tôi như vậy ?
Tiếp đến là đối với chính mình. Hãy tin tưởng vào lòng nhân từ và thương xót của Chúa, bởi vì:
- Ở đâu tội lỗi càng nhiều, thì ơn sủng càng đầy.
Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu chăng nữa, thì cũng đừng bao giờ thất vọng như Giuđa. Chính thái độ ngã lòng cậy trông là một hành động xúc phạm nặng nề đến lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Thấy chị Scholastica lúc nào cũng lo buồn vì nghĩ rằng mình sẽ bị Chúa luận phạt. Thánh Philipphê Nêri mới hỏi:
- Chúa đã chết cho ai ?
Chị trả lời:
- Cho những kẻ tội lỗi.
Và thánh nhân mỉm cười nói:
- Con là kẻ tội lỗi, nhưng Chúa đã chết cho con, vì vậy thiên đàng là của con.
Thế nhưng, tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa không có nghĩa là chúng ta cứ nằm lỳ trong tội lỗi, bởi vì đó là một sự sỉ nhục đối với tình thương của Chúa, giống như đứa nhỏ, thấy ba má yêu thương mình, nên lại càng nghịch ngợm và hỗn láo. Hãy noi gương bắt chước ông Giakêu: dứt khoát với dĩ vãng, đền bù những sai lỗi và bắt đầu một cuộc sống mới, bởi vì làm lại cuộc đời mình chính là một cách thức chúng ta đáp lại tình thương cứu độ Chúa đã dành cho chúng ta.
Danh họa người Ý, Leonarde de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn: TN 31-C26
Danh họa người Ý, Leonarde de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị Tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong một thánh đường ở Roma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thánh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin người kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Người kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên Thần. Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp được một người ăn mày, áo quần rách rưới tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự nhủ: “Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫn với vẻ mặt Thiên Thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng cho người họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình ngồi chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói: “Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say xưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.
Thử hỏi cái gì đã biết đổi và tàn phá ghê gớm một con người như vậy ? Câu trả lời thật đơn giản: Đó là do tội lỗi và tính hư nết xấu gây nên. Bởi vì, qua kinh nghiệm bản thân cũng như bên ngoài cho chúng ta hay: Một người có một cuộc sống trong sạch vô tội thì tâm trí luôn thanh thản vui tươi và nhờ đó cử chỉ, lời ăn tiếng nói, nét mặt lúc nào cũng tỏa sáng sự ngây thơ thánh thiện. Trái lại, nếu kẻ nào buông thả mình vào sa đọa bê tha, cứ sống vô luân bất chính, đương nhiên lương tâm bị dày vò, cắn rứt thì làm sao tâm hồn bình an thư thái được. Và khi cứ sống trong bất an, áy náy hoài thì toàn bộ con người và đời sống dần dần sa sút, héo hắt, bị tàn phá, hủy hoại.
Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn đời mình lâm vào tình trạng bi đát đó để phải chuốc lấy những hậu quả khủng khiếp, thê thảm cho phần hồn và phần xác, nhưng khi bảo chúng ta phải cố gắng bài trừ tính mê nết xấu, chịu khó tuân giữ các giới răn, can đảm chừa bỏ tội lỗi thì chúng ta lại dùng giằng, lười biếng, buông xuôi, thiếu quyết tâm. Chẳng lẽ, thấy nguy tai gần kề mà vẫn cứ để mình chịu chết thảm, có giải pháp, cơ hội cứu sống mà dại dột từ chối, bỏ qua. Có thể Giakêu tội lỗi trầm trọng hơn nhiều người trong chúng ta, nhưng Giakêu đã biết can đảm lại tìm cho mình ơn cứu rỗi. Muốn thế, chúng ta hãy làm như Giakêu là hãy gặp gỡ và đổi mới.
Trước hết, phải tạo cho được cuộc gặp gỡ giữa Chúa và ta. Phía Chúa, như Ngài luôn luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu là Ngài hành động ngay. Xem câu chuyện trong bài Phúc Âm hôm nay sẽ rõ: Giakêu vì tò mò muốn thấy mặt ông Giêsu mà mọi người đồn đãi như thế nào. Lập tức Chúa bắt chuyện với ông ta liền và bất chấp dư luận Ngài mau mắn đến nhà ông ta dùng bữa cơm như một người bạn thân.
Phần ta, ta cũng phải làm như Giakêu, nghĩa là phải tỏ một dấu hiệu thiện chí đó có thể là: Đêm thanh vắng nhìn bầu trời bao la mà lòng xúc động nghĩ tới tình Chúa thương ta, nằm vắt tay trên trán nghĩ đến tội lỗi bê tha của mình mà tiếc nuối, khi lỡ bước sa cơ, thất bại nặng nề khiến chán nản thất vọng muốn chạy đến Chúa tìm sự an ủi, gặp dịp lễ trọng đông người lòng thấy nao nao một nỗi buồn vì đã sống bất xứng… Tóm lại có nhiều cơ hội đưa đẩy ta tới gặp gỡ Chúa, chỉ cần ta cố gắng bước tới một bước để tìm Chúa là Chúa đón chờ ngay.
Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi chưa đủ vì khi gặp Chúa như gặp một người qua đường tình cờ thì sau đó sẽ lãng quên và không để lại một mối giao hảo thân tình nào cả. Cho nên, muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách đền bù lỗi đức công bằng ra sức làm bố thí. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như: Bỏ dần những tính hư tật xấu, cắn đứt ngay những liên hệ xấu xa, ma quái, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như xem lễ, đọc kinh, lần hạt và đi xưng tội để rước lễ…
Với sức yếu đuối của con người thì không thể làm gì được, nhưng với sự trợ lực của Chúa chắc chắn chúng ta sẽ biến đổi được cuộc đời của mình nên tốt hơn, hữu ích hơn, bớt xấu xa hơn. Chỉ cần một dấu hiệu thiện chí, một bước tới ao ước là Chúa đến làm bạn với ta ngay.
Từ ban đầu Thiên Chúa đã không dựng nên sự ác trong thế gian. Nếu sự ác có mặt thì đó là: TN 31-C31
Từ ban đầu Thiên Chúa đã không dựng nên sự ác trong thế gian. Nếu sự ác có mặt thì đó là do ma quỉ và tay sai của chúng gây ra. Thiên Chúa không ủng hộ sự ác, nhưng Người cũng không nỡ tiêu diệt người làm điều ác, bởi lẽ Người là Thiên Chúa của lòng từ bi và đại độ. Niềm ao ước của Người là mọi người được ơn cứu rỗi.
Cứ dựa theo bối cảnh lịch sử Do thái thời Chúa Giêsu, và theo lời tự thú của ông Giakêu, ta có thể nghĩ rằng ông thuộc loại người gian ác và tội lỗi. Ông là người phản quốc vì tiếp tay với ngoại bang thống trị đất nước mình. Ông là người hại dân vì chế độ thuế khóa bất công do ông định đoạt. Ông đã làm giàu trên xương máu của đồng bào mình. Là trưởng ty quan thuế, hẳn ông phải nắm trong tay cả một kho tàng kếch xù. Với kho tàng ấy, ông muốn gì mà chả được.
Vậy mà ông vẫn cảm thấy có một khoảng trống rất lớn trong tâm hồn. Ông vẫn còn băn khoăn khắc khoải vì thiếu một cái gì đó, thiếu một ai đó và ông đã đi kiếm tìm. Việc ông trèo lên cây sung là một bày tỏ lòng khao khát và tìm kiếm ấy. Ông đã tìm và đã thấy.
Anh mắt của Chúa Giêsu, lời kêu gọi của Chúa Giêsu đã đáp lại lòng khao khát và sự kiếm tìm của ông. Sự hiện diện của Chúa Giêsu tại nhà ông như một lấp đầy khoảng trống mênh mông của tâm hồn ông. Chúa Giêsu đã đi qua đời ông và đưa ông trở về. Dù Người không hỏi tội ông, nhưng ông đã vội vã trình bày những phương án đền tội. “Thưa Ngài, nửa phần của cải của tôi, tôi xin bố thí cho người nghèo khó. Và nếu tôi gian lận của ai, tôi xin đền trả lại gấp 4”. Đó chính là phản ứng của một con người quyết tâm trở về. Thật dứt khoát, không chần chừ, không hẹn lần hẹn lượt. Trước đây ông muốn vơ vét thật nhiều cho mình, bây giờ ông muốn cho đi tất cả. Trước đây ông gian lận và bóc lột người khác, giờ đây ông muốn đền bù mọi thiệt hại. Chính do tình thương của Thiên Chúa mà một con chiên lạc đã được tìm thấy. Chính do lòng thành tâm mà ông Giakêu đã được cứu độ.
Nếu như Thiên Chúa thẳng tay trừng trị những người gian ác thì có lẽ ông Giakêu đã phải chết thê thảm trong tội của mình. Nếu như Thiên Chúa thẳng tay trừng trị những người người tội lỗi thì có lẽ mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây cũng đã chết từ lâu rồi. Ông Giakêu đã gặp Chúa chỉ một lần, nhưng ông đã hoàn toàn đổi đời. Chúng ta gặp Chúa có lẽ đã đến cả ngàn vạn lần rồi, nhưng đời sống của chúng ta có đổi mới được chút nào không, thưa quí ông bà và anh chị em ?
Một lần kia, Đức Giáo Hoàng Lêo XII đến thăm một nhà tù ở Ý. Ngài hỏi từng tù nhân lý do: TN 31-C28
Một lần kia, Đức Giáo Hoàng Lêo XII đến thăm một nhà tù ở Ý. Ngài hỏi từng tù nhân lý do tại sao phải ở tù. Hầu hết các tù nhân đều biện minh cho mình là kẻ vô tội. Ai cũng cho mình ở tù là oan ức, chứ có tội tình gì đâu ? Nhưng có một tù nhân thú thật với Đức Giáo Hoàng: “Tâu Đức Thánh Cha, con ở tù như thế này là thậm phải, vì con là kẻ bất nhân và tội lỗi ngập tràn. Án của con thế này còn nhẹ. Lẽ ra, con phải ngồi tù lâu hơn mới xứng với tội của con…”. Trước khi rời khỏi nhà tù, Đức Giáo Hoàng xin viên cai tù: “Xin ông vui lòng tha cho kẻ tội lỗi này. Kẻ này nhiều tội quá, nếu để nó sống chung với những người vô tội kia, e rằng nó sẽ đầu độc kẻ khác”. Vì kính trọng Đức Giáo Hoàng, viên cai ngục đã tha bổng cho tù nhân khiêm nhường nhìn nhận mình là kẻ có tội.
Để được Chúa thương tha thứ tội lỗi, chúng ta phải khiêm nhường nhận mình là kẻ có tội và phải thực lòng sám hối ăn năn. Tên trộm lành được Chúa thương cho hưởng phúc thiên đàng “ngay hôm nay”, vì anh khiêm nhường nhận mình là kẻ có tội, và thật lòng sám hối tội lỗi. Anh nói với tên trộm dữ: “Chúng ta phải chịu thế này thật đáng kiếp, vì xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm điều gì xấu đâu ?” Rồi anh thành khẩn kêu xin với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, khi nào Ngài về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.
Hai tên trộm đều đáng phải phạt, nhưng một người được ơn cứu rỗi vì người ấy biết trông cậy vào lòng từ bi thương xót của Chúa.
Cũng vì lòng từ bi thương xót, Chúa Giêsu đã đến và “Lưu lại” tại nhà ông Giakêô. Trong bữa tiệc vui đón tiếp Chúa và các môn đệ, ông Giakêô đã hứa với Chúa: “Con sẽ bố thí nửa phần gia sản của con cho kẻ khó. Con sẽ đền bù gấp 4 những gì con đã làm thiệt hại cho kẻ khác”.
Có lẽ, Giakêô cũng không ngờ được tại sao Chúa thương ông và cả gia đình ông đến thế. Chúa Giêsu nói với mọi người trong đám tiệc: “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái của Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
Người đời thường nói: “Không ai nắm tay đến tối và không ai gối đầu đến sáng”. Đúng vậy, đủ thúc thủ đến đâu, cũng có lúc ta lầm với lỡ. Vì thế, chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa. Chúng ta đã phạm tội rất nhiều: Trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Hãy cố gắng tìm Chúa và gặp Chúa như ông Giakêô. Hãy khiêm nhường nhận tội và tha thiết nài xin Chúa thứ tha cho mình như người trộm lành…
Văn Hào Victor Hugo Víchto Huygô viết tác phẩm nổi tiếng tựa đề là Những Kẻ Khốn Cùng: TN 31-C29
Văn Hào Victor Hugo Víchto Huygô viết tác phẩm nổi tiếng tựa đề là Những Kẻ Khốn Cùng Les misérables đã kể câu chuyện về Văn Giang Han Valjean, một tên cướp sát nhân bị tù 19 năm. Khi được thả ra, không ai dám đến gần. Chàng vào tiệm ăn, bị đuổi ; vào trọ đêm, vừa thấy mặt người ta đóng sập cửa lại ; vào ổ chó, chó sủa inh ỏi ; vào trọ nhà Đức Giám Mục Myriet Miriét được tiếp đãi hết sức trọng hậu. Nhưng đến đêm, chàng nổi máu tham, ăn cắp năm cây đèn bạc chuồn mất. Chính quyền bắt được, giải tới Giám Mục. Ngài nói: Chính tôi tặng chàng và tặng thêm hai cây đèn nữa và nói với chàng: “Anh cầm lấy, người anh em hãy bỏ ác theo thiện, tôi mua linh hồn anh và trao cho Chúa”. Từ đó, Văn Giang suy nghĩ, hối cải và sau này trở thành một Thị trưởng rất đạo đức.
Đức Giêsu cũng đã xử rất thân tình với một người thâu thuế mang tiếng là ông tổ tham nhũng, ăn cướp của dân, tên là Giakêu.
Phân tích bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba lối xử sự, lối thứ nhất sợ: “Gần mức thì đen”, lối thứ hai “Gần đèn thì rạng”, lối thứ ba “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, còn làm cho bùn đượm vẻ thanh tao đẹp đẽ, hay đúng hơn đó là ánh sáng thế gian, là muối đất còn hơn là hoa sen.
Lối xử sự thứ nhất của những người xì sầm nói hành Đức Giêsu: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Theo quan niệm dân Do thái bấy giờ coi những người dân ngoại, những người công chức bám gót đế quốc Rôma và nhất là hạng thâu thuế cho Đế quốc, bị coi là hạng tội lỗi ghê tởm. Họ phải xa tránh, lỡ phải tiếp xúc với những người ấy, khi về nhà, họ phải thanh tẩy bằng tắm rửa để khỏi ô uế. Lối xử sự đó gây ra hậu quả tai hại là phân chia giai cấp, chia rẽ chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, tự cô lập mình. Hậu quả tai hại thứ hai tạo ra hạng người kêu căng, tự coi mình là trong sạch, công chính hơn những người khác, hơn dân tộc khác. Họ không biết mình cũng đầy tội lỗi như mọi người. Họ phải đấm ngực ăn năn xin Thiên Chúa lên án. Có lần họ đã kết án người đàn bà phạm tội ngoại tình và xin Đức Giêsu kết án ném đá chị. Nhưng Người bảo họ: Ai không có tội, hãy ném đá chị đi. Họ đã rút lui để khỏi bị Đức Giêsu kết án họ.
Lối xử sự thứ hai của ông Giakêu: “Ông đứng đầu những người thâu thuế và là người giầu có”. Chế độ thu thuế lúc bấy giờ là cho đấu thầu. Dĩ nhiên ai nhiều tiền lắm của mới trúng thầu. Ông Giakêu chắc trúng thầu mới là người đứng đầu những người thâu thuế. Người chủ thầu mặc sức thâu thuế để mau thu lại vốn và làm giầu. Sự giầu có của ông còn hơn cả những chủ thầu các thành khác, vì thành Giêricô, cách Giêrusalem 23 cây số, là đô thị cổ nhất thế giới đã có từ hơn mười nghìn năm, và nổi tiếng văn minh thương mại sầm uất, cũng là một đô thị chiến lược được xây cất rất kiên cố ngay thời ông Gosuê dẫn dân Do Thái về đất Hứa. Giầu có và sang trọng như thế, nhưng ông lại rất có lòng khao khát được thấy Đức Giêsu. Lòng khao khát mạnh đến nỗi thúc đẩy ông bỏ cả thể diện sang trọng giầu có, sẵn sàng trèo lên một cây sung, như đứa trẻ nhỏ để nhìn cho được thấy Đức Giêsu. Đức Giêsu lúc đó, đối với ông chỉ là thường dân, khá lắm thì chỉ là một tiên tri nào đó đối với dân thôi, còn đối với chính quyền đời và đạo, Người không có một chức tước gì. Nhờ lòng khao khát mạnh mẽ đó, ông Giakêu đã được ơn soi sáng thấy một điều lạ lùng: Ông đã được thấy Đấng Cứu thế, và cả gia đình ông được cứu độ: “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Đời ông đã đổi mới hẳn: Ông sẵn sàng bán nửa gia tài giúp cho người nghèo khó. Đức công bằng cũng không kém: “Nếu tôi làm thiệt hại ai, tôi xin đền gấp bốn”. Ông Dakêu chỉ rước Chúa vào nhà có một ngày, đời ông đã hoàn toàn đổi mới, đã hoàn toàn sống theo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa vào linh hồn không biết bao nhiêu lần, đời chúng ta đã đổi mới, đã nên giống Đức Giêsu chút nào chưa?
Lối xử sự của Đức Giêsu là lối xử sự của Thiên Chúa, Người làm cho mặt trời mọc soi sáng cho muôn loài, cho kẻ lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống cho mọi tạo vật, cho kẻ công chính cũng như bất lương, là lối xử sự của Đấng Cứu độ hằng thương xót những kẻ tội lỗi, hướng dẫn những kẻ lầm đường lạc lối, cứu chữa những kẻ yếu đuối, tìm kiếm những kẻ hư mất, phục sinh những kẻ đã chết. Thật ra, “Toàn thể vũ trụ trước mặt Người chỉ như là hạt sương sớm rơi trên đất, thế mà Người vẫn thương xót… Người xử sự thật khoan dung, vì chúng ta là của Người. Lạy Chúa tể tốt lành và hiếu sinh dường bao”. Thiên Chúa nhân hậu và quý trọng sự sống của chúng ta vững tin: “Đừng hoảng sợ”. Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc: TN 31-C30
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này. Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dể kẻ khác không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dể người khác không ?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: Đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế má quá qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: Thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: Ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: Phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
Được thấy Đức Thánh Cha quả là một diễm phúc đối với nhiều người Công giáo. Đối với vị: TN 31-C31
Được thấy Đức Thánh Cha quả là một diễm phúc đối với nhiều người Công giáo. Đối với vị đại diện của Chúa, người ta đã có một mơ ước như thế, còn đối với chính Ngài thì sao ? Khi Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem, từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi xem Ngài, có kẻ thấp bé đã phải leo lên cây để được thấy Ngài. Đó chỉ là một hành động hiếu kỳ, nhưng đã trở thành khởi điểm cho một cuộc gặp gỡ và hoán cải tận căn.
Giêricô là một thành phố nằm ở vùng biên giới, là nơi buôn bán sầm uất và là điểm gặp gỡ giữa cá vùng Đông Nam Á và Palestina. Giới con buôn và nhân viên thuế vụ của chính quyền La Mã sống mạnh tại đây.
Giakêu là một nhân viên thu thuế giàu có trong vùng. Trước mắt người Do thái, ông là người không có hy vọng được cứu rỗi, vì đã là người giàu có thì khó vào Nước trời, huống chi của cải của ông đang thu tích đều bắt nguồn từ những biển luận siết cổ bóp họng dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu không thất vọng bao giờ, với ánh mắt xuyên suốt tâm hồn, Ngài đã nhận ra ý hướng tốt tươi nơi Giakêu. Thái độ của Chúa Giêsu khiến nhiều người ngạc nhiên và rất bất bình: Tại sao Ngài lại đến gặp gỡ và trò chuyện với một tên đầu mục thu thuế tội lôi như thế ? Cái nhìn của Giakêu là cái nhình tò mò, còn cái nhìn của Chúa Giêsu là cái nhìn thanh tẩy và hoán cải.
Khởi đầu của bất cứ cuộc hoán cải nào cũng là ý thức về tội lỗi và yếu hèn của mình. Giakêu đã không biện minh cho hành động tị lỗi của mình, ông tức khắc nhận ra sự yếu hèn tội lỗi mà mình đã phạm. Cũng trong giây phút đó, Chúa Giêsu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Lịch sử Giáo hội đã không nói đến vị thánh Giakêu, nhưng chắc chắn cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu đã thay đổi cả cuộc đời và gia đình ông.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng đến gặp gỡ chúng ta trong từng giây phút của cuộc sống. Ngài muốn chúng ta hoán cải và tin vào lòng nhân từ của Ngài.
Ước gì mỗi hy sinh và gặp gỡ thường ngày của chúng ta được diễn ra dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những: TN 31-C32
A. Hạt giống...
1. Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những người thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” ; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.) ; đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
2. Có hai nhân tố tạo nên sự thay đổi đó:
- một là những cố gắng của chính Dakêu: “tìm cách xem” mặt Chúa Giêsu, “chạy tới phía trước”, “leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu”.
- hai là lòng nhân từ của Chúa Giêsu: Ngài “nhìn lên” ông, Ngài gọi ông “xuống mau đi”, Ngài đưa đề nghị đến nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chúa Giêsu tự giới thiệu là “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
B. ... nẩy mầm.
1. Ơn cứu độ là kết quả sự hợp tác của hai phía: con người (Dakêu “tìm cách xem” mặt Chúa, “chạy tới phía trước”, “leo lên cây sung”) và Thiên Chúa (Chúa Giêsu “nhìn lên”, gọi Dakêu, và đến “trọ nhà” ông).
2. Dakêu là hình ảnh:
- của những người giàu: giàu tiền nhưng nghèo đạo đức thì trong lòng vẫn còn thiếu thốn và trống trải. Dakêu đi tìm Chúa Giêsu để lấp đầy khoảng trống thiếu thốn trong lòng mình.
- của người môn đệ: Tin Mừng Luca thường ghi lại những lời Chúa Giêsu khuyên môn đệ hãy bán tài sản để mua Nước Trời, hãy đem tài sản phân phát cho người nghèo rồi theo Ngài. Dakêu đã làm đúng như vậy.
- của người hoán cải: trước khi hoán cải, Dakêu thu gom tiền bạc, làm hại người khác, ích kỷ. Sau khi hoàn cải, ông không tiếc tiền, dùng tiền một cách quảng đại để đền bù thiệt hại mình đã gây ra cho người khác, lại còn bố thí cho người nghèo. Khi hoán cải, người ta trở nên quảng đại, vì người ta biết rằng những gì mình cho người khác chẳng đáng là gì so với những gì Chúa ban cho mình.
3. “Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta chìa khóa của sự bình an, đó là hãy sống quảng đại. Thiên Chúa đang ngự trong tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta chỉ cảm nhận được sự hiện diện đó nếu chúng ta ra khỏi chính mình để sống quảng đại với người khác” (trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Dakêu chắc không phải tình cờ. Một trong những ý định khiến Chúa Giêsu đi ngang qua Giêrikhô là để tìm cứu Dakêu, như lời Ngài nói “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Ơn cứu độ luôn sẵn đó. Chỉ cần kẻ “hư mất” chịu khó tìm đến Chúa để lãnh nhận thôi.
5. Telemachus là một ẩn sĩ. Một hôm Chúa thúc đẩy ông rời rừng để đi đến thành Rôma. Rôma là thủ đô Kitô giáo, nhưng ở đó vẫn còn tồn tại một tục lệ dã man là những trận giác đấu đã làm chết biết bao nhiêu mạng người. Tệ hơn nữa là khán giả rất thích cảnh giết người dã man đó. Telemachus nghĩ: “Khi nào người ta còn thích tàn sát lẫn nhau thì người ta chưa sống xứng đáng là con Chúa”. Nghĩ thế rồi Telemachus đi vào một đấu trường. Ông chạy vào giữa những lực sĩ giác đấu để khuyên họ ngừng tay. Nhưng không ai nghe, họ còn đầy ông ra. Dù vậy ông vẫn cứ xông vào tiếp tục khuyên can. Viên quan cai quản đấu trường cho rằng Telemachus cố tình phá hoại cuộc vui nên rút gươm hạ sát ông. Khi Telemachus ngã xuống, người ta mới biết là đã giết lầm một vị thánh. Người ta hối hận. Và từ đó đế quốc Rôma bãi bỏ tục giác đấu. Bằng cái chết của mình, Telemachus đã giúp cho Rôma hoán cải.
Việc hoán cải một tập thể phải bắt đầu từ một con người. Muốn hoán cải một gia đình thì một người nào đó trong gia đình phải khởi sự hoán cải trước. Muốn hoán cải một cộng đoàn thì phải có ai đó trong cộng đoàn khởi sự trước. (Barclay)
6. “Ông Dakêu đứng lên thưa với Chúa rằng: Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8)
Ngồi học bài mà tôi không thể yên được vì thỉnh thoảng tiếng la ó cổ vũ cho đội tuyển VN trong Cúp Châu Á lại rộn lên. Bầu khí gia đình tôi vui hẳn lên. Ai cũng xôn xao phấn khởi trước những bàn thắng của đội nhà. Đến lớp, các bạn tôi dường như gần gũi nhau hơn và nói về thắng lợi của đội tuyển VN như là thắng lợi của chính mình. Niềm vui khiến người ta gần gũi nhau hơn.
Niềm vui của một Dakêu được gặp Chúa, được Con Thiên Chúa “đụng chạm” đến đã cho ông sức mạnh phá đổ mọi hàng rào ngăn cách giữa mình với anh em.
Giêsu ơi, xin Lời Chúa và Thánh Thể mà con được diễm phúc lãnh nhận trở nên niềm vui, nguồn hạnh phúc cho con, để con trở nên đẹp hơn và xích lại gần anh em con hơn. (Hosanna)
Chỉ còn bốn tuần lễ nữa, kể cả tuần này, là hết Phụng Niên năm 2001. Bởi thế, từ tuần XXXI: TN 31-C33
Chỉ còn bốn tuần lễ nữa, kể cả tuần này, là hết Phụng Niên năm 2001. Bởi thế, từ tuần XXXI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay đây, chúng ta đã bắt đầu đi vào Mầu Nhiệm Cánh Chung, mầu nhiệm Chúa Kitô tái giáng, như chúng ta nghe thấy bài đọc Thứ Hai trích từ Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Thessalônica nói rằng: “Về vấn đề Chúa Giêsu Kitô đến và việc chúng ta qui tụ lại với Người, hỡi anh em, chúng tôi van xin anh em đừng có động một tí thì bấn loạn lên hay tỏ ra run sợ, khi nghe thấy có lời tiên báo hay tin đồn hoặc thư mạo danh chúng tôi mà tin rằng ngày của Chúa tới nơi rồi”. Qua đoạn Thánh Thư này, chúng ta thấy, ở thời nào cũng vậy, từ thời Giáo Hội sơ khai tới nay, Kitô hữu chúng ta hầu như cảm thấy và tỏ ra rùng rợn về Ngày Chúa đến cũng được gọi là ngày tận thế. Thế nhưng, bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy Chúa đến là để cứu độ chứ không phải trừng phạt: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu độ những gì đã hư mất”. Lời Người quả quyết với viên trưởng ban thu thuế lùn Giakêu này chỉ lập lại lời Người đã minh định với viên chức Nicôđêmô thuộc phái Pharisiêu trong Hội Đồng Do Thái đã đến gặp Người ban đêm trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 17, đó là: “Thiên Chúa không sai Con xuống thế gian để luận phạt thế gian song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta có thể đặt vấn đề là, dù lần đầu Chúa đến thế gian không phải để phán xét, song lần Chúa đến sau này, lần Người đến cuối cùng, là để “phán xét kẻ sống và kẻ chết”, như trong Phúc Âm Thánh Mathêu cho thấy ở đoạn 25 từ câu 31 đến câu 46 về việc Người phân chiên và dê trong ngày chung thẩm. Đúng thế, về hình thức, lần Chúa đến sau cùng vào ngày tận thế là lần Chúa đến phán xét, nhưng Chúa phán xét những gì và phán xét để làm gì, chúng ta vẫn thấy hợp với những gì Người tuyên bố trong lần Người đến lần thứ nhất, như vừa được trích dẫn trên đây, đó là Người đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt. Thành phần dê trong ngày chung thẩm sở dĩ bị luận phạt là vì, như Chúa Giêsu khẳng định ngay sau câu Phúc Âm Thánh Gioan cùng đoạn trên đây, đó là: “Ai tin vào Người thì khỏi bị luận phạt, còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Thiên Chúa duy nhất. Phán quyết luận phạt là thế này”, Chúa Giêsu cho biết lý do như sau: “đó là ánh sáng đã đến trong thế gian, song con người đã chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều là những việc gian ác”. Như thế, qua lời Chúa Giêsu ở đây, rõ ràng là con người tự luận phạt mình khi không chịu tin vào Người, đó là lý do họ “đã bị luận phạt rồi”, ngay lúc họ không chịu tin Người, chứ không cần phải đợi cho tới khi Chúa đến lần sau hết nữa. Đó cũng là lý do, trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, ở đoạn 9 câu 28, Vị Tông Đồ Dân Ngoại mới khẳng định là “Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người”. Bởi thế, chúng ta mới hiểu được lý do tại sao khi đến thế gian vào ngày tận thế, Chúa Giêsu mới phán xét con người về đức tin của họ, xem con người có thật sự tin vào Người như Người đã tỏ mình ra cho họ vào lần đến thứ nhất hay chăng, “ai tin … sẽ được cứu độ còn ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mk 16:16).
Đến đây chúng ta có thể đặt vấn đề, thế thì tại sao Phúc Âm Thánh Mathêu cho thấy trong ngày chung thẩm Chúa Giêsu phán xét về đức bác ái, chứ đâu phải về đức tin? Thật ra, nếu “xem quả thì biết cây”, như Chúa Giêsu phán ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 7 câu 20, thì Người chỉ cần phán xét hoa trái bác ái của con người là biết ngay cây đức tin của họ ra sao thôi. Không phải hay sao, trong ngày chung thẩm, trước ngai Đấng phán xét chung, cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời với Người rằng “chúng tôi đâu có thấy Ngài đói khát, xa lạ, trần truồng, tù tội hay yếu đau mà đáp ứng những gì Ngài cần” (Mt 25: 44, xem cả 37-39)? Thế mà, dù không thấy Người, thành phần chiên vẫn làm, còn thành phần dê thì không, như trường hợp của người phú hộ đối với Lazarô cùng cực trong dụ ngôn cách đây sáu tuần. Như vậy, không phải là thành phần chiên làm việc bác ái theo đức tin mãnh liệt của mình hay sao, như trường hợp người Samaritanô nhân lành hết lòng ra tay cứu giúp nạn nhân xa lạ đang ngấp ngoái chết vì bị cướp bóc dọc đường trong dụ ngôn Chúa Nhật 15 cách đây 16 tuần? “Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người” là như thế. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao con người có thể tin tưởng để được cứu độ, nghĩa là làm sao con người có thể nhận biết Chúa Kitô để được cứu độ? Và nếu Chúa Kitô thực sự đến cứu độ con người, như chính Người đã khẳng định với viên chức Pharisiêu Nicôđêmô, nhất là với viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn trong bài Phúc Âm hôm nay: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu độ những gì đã hư mất”, thì càng tội lỗi, nghĩa là càng không có đức tin hay yếu đức tin, con người càng cần phải đến với Đấng là Cứu Chúa của mình, chứ tại sao lại tỏ ra sợ hãi Đấng đến cứu độ mình, như thái độ của Kitô hữu giáo đoàn Thessanôlica trong bài đọc hai hôm nay?
Trước hết, về vấn đề con người làm sao để có đức tin, hay để có thể nhận biết Cứu Chúa của mình, nhờ đó họ mới được cứu độ, vì tự mình, họ vốn có khuynh hướng, như Chúa Giêsu nhận định và quả quyết với Nicôđêmô trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 19: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng”. Tuy nhiên, chính trong lúc loài người “còn ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết” như thế, như lời tư tế Giacaria, thân phụ của Thánh Gioan Tẩy Giả, tuyên nhận trong bài ca vịnh mở miệng lưỡi của ông ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 79, mà “ánh sáng đã chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng”, như Phúc Âm Thánh Gioan chân nhận ở đoạn 1 câu 5. Đó là lý do trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 5 câu 24, 25 và 28, Chúa Giêsu đã tuyên bố với những người Do Thái đang có ý định giết Người như thế này: “Tôi bảo thật cho các người biết, ai nghe lời Tôi mà tin vào Đấng đã sai Tôi thì có sự sống đời đời. Họ không bị luận phạt, song vượt qua sự chết vào sự sống. Tôi bảo thật cho các người biết, giờ đang đến, mà thật sự đã đến rồi, lúc mà kẻ chết nghe thấy tiếng của Con Thiên Chúa và ai lắng nghe thì được sống… Các người đừng có lấy làm lạ lùng bỡ ngỡ là giờ đang đến đây, tất cả những ai đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của Người thì bước ra”. Vậy thành phần “kẻ chết” đây, thành phần “đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của Người thì bước ra” đây là ai, nếu không phải, một Lazarô chết thối bốn ngày, như được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 11 câu 43 và 44, một trường hợp sống lại về phần xác tiêu biểu hết sức sống động và cụ thể cho trường hợp sống lại về phần hồn, điển hình nhất là trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tuy nhiên, tại sao Giakêu lại có thể “đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của Người thì bước ra” được một cách dễ dàng như thế, còn những “kẻ chết” khác thì không được như vậy hay chưa được như ông, chẳng hạn như những người thấy Chúa Giêsu vào nhà của viên trưởng ban thu thuế này, theo Phúc Âm hôm nay thuật lại, “bắt đầu lẩm bẩm với nhau rằng: ‘Hắn vào nhà của một kẻ tội lỗi như một vị khách’”? Không phải hay sao, chỉ vì Giakêu, hiện thân đích thực của người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện tuần trước, chân nhận mình là một kẻ tội lỗi đáng thương, một con người tật nguyền bệnh nạn, một con người cần đến thày thuốc, còn những người lẩm bẩm trong bài Phúc Âm hôm nay thì không, vì họ tự cho mình là kẻ công chính, thành phần lành mạnh không cần đến thày thuốc, không cần đến Đấng tuyên bố “Tôi đến để kêu gọi tội nhân chứ không phải những ai cho mình là công chính”, trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 9 câu 13, đoạn Người kêu gọi viên thu thuế Mathêu theo Người nên đã bị nhóm Pharisiêu chê trách.
Chính vì thế Giakêu đã không sợ Vị Cứu Chúa của mình, trái lại, còn mong gặp Người là đàng khác. Đến nỗi, theo Phúc Âm hôm nay thuật lại, vì lùn, ông đã phải leo lên cây để có thể nhìn thấy Người, chiêm ngưỡng Người, cho đến khi được Người gọi đích danh của ông và ngỏ ý muốn vào nhà ông, ông liền vui mừng hớn hở, chứ không vì thấy mình tội lỗi xấu xa mà e thẹn hay sợ sệt trong việc ngại ngùng đón tiếp Người. Chính vì “ai có lòng khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no thỏa vậy”, như mối Phúc Đức thứ bốn Chúa Giêsu dạy trong bài Giảng Trên Núi được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 5 câu 6, mà Giakêu đã được Chúa Giêsu cho biết trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến với nhà này” hay “Hôm nay nhà này đã được ơn cứu độ” cũng thế. Tóm lại, ai chưa thực sự nhận biết mình tội lỗi sẽ rất lo sợ Ngày Chúa đến, lo sợ phải đối diện với chính “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, “Redemptor Hominis”, nhan đề của bức Thông Điệp mở màn cho giáo triều của Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị đã mở lời kêu gọi ngay từ đầu: “Đừng sợ”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Kitô hữu giáo đoàn Thessalônica tỏ ra lo sợ Ngày Chúa đến, phải chăng vì họ thực sự chưa nhận mình là kẻ có tội, hay chính vị biết mình tội lỗi nên mới sợ Chúa đến phán xèt. Nếu giả thuyết thứ hai đúng thì phải chăng họ không coi Ngài là Cứu Chúa yêu thương của họ, mà chỉ là một vị thần công minh thưởng phạt, như cảm giác của người đầy tớ ở dụ ngôn về ngày thế mạt trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25 câu 24 và 25, được chủ trước khi đi xa trao cho một nén bạc, song đã vì cho rằng chủ của mình là một con người khắc nghiệt nên đã đem chôn giấu kỹ lưỡng những gì chủ trao phó để có thể hoàn trả đầy đủ cho chủ của mình, do đó đã bị luận phạt trầm luân?
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay nhấn mạnh về ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại. Đó là đề: TN 31-C34
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay nhấn mạnh về ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại. Đó là đề tài mà Luca ưa thích. Luca thường nhắc đi nhắc lại việc Đức Giêsu đến là để cứu vớt loài người: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Lc 5,32). Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Độ (Lc 2,11).
Nhưng ơn cứu độ hệ tại ở điều gì? Thiết tưởng cần phải cắt nghĩa điều này dựa vào trình thuật ông Da-kêu, bởi lẽ nhiều Kitô hữu quan niệm ơn cứu độ một cách không chính xác. Họ kể ơn đó như là việc cứu lấy linh hồn mình bằng mọi giá, kể cả thực hiện điều đó vào phút chót. Hãy coi ai đó suốt đời sống xa cách Chúa trong tình trạng tội lỗi và ích kỷ, nhưng vào phút chót, người đó xưng tội. Vậy người đó được cứu! Quan niệm như vậy về ơn cứu độ quả là sơ sài. Chúa Giêsu đã không quan niệm như vậy như ta thấy trong trình thuật ông Da-kêu.
Cứu độ là hiệu quả của tình yêu
1. Trước hết phải nói rằng ơn cứu độ là hiệu quả của tình yêu Thiên Chúa. Ta hiện hữu vì Thiên Chúa yêu thương ta: Chúa yêu thương mọi tạo vật và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì thì Người đâu có tác tạo nó. Tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt hơn tội lỗi loài người vì Chúa "nhắm mắt làm ngơ" trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chính vì Người yêu ta nên Người muốn ta tồn tại mãi mãi. Đó chính là ơn cứu độ! "Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được." Thật là tuyệt đẹp trang sách Khôn Ngoan ta nghe trong bài đọc 1 Chúa Nhật hôm nay.
Được cứu là được hoàn toàn triển nở 2. Ơn cứu độ gồm một phương diện bản vị mà thánh I-rê-nê diễn tả bằng một câu nói súc tích rất đẹp là "Vinh danh Thiên Chúa chính là con người đang sống" tức là được hoàn toàn là mình, được hoàn toàn triển nở. Khi sinh ta ra, Thiên Chúa Cha đã nhìn ngắm Con chí ái của Người là Đức Giêsu và Người đã tạo thành ta theo hình ảnh của Người Con chí ái đó: "Vì … Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người" (Rm 8,29). Người giao cho ta nhiệm vụ suốt đời phải thể hiện hình ảnh Đức Giêsu, mỗi người theo mức độ Chúa Cha đã ấn định. Hình ảnh đó của Đức Giêsu mà mỗi người phải thể hiện chính là nhân cách riêng của từng người, là cái tôi đích thực của mỗi người. Ta có thể dùng hình ảnh mà tông đồ Phaolô đã dùng (1Co 3,10-15) là mỗi người chúng ta phải xây dựng bản thân bằng cách sử dụng cũng những vật liệu từng hình thành nên Đức Giêsu. Không ai có thể vào thiên đàng ở với Thiên Chúa nếu không thể hiện hình ảnh Con của Người: thiếu hình ảnh đó ta sẽ không được cứu và còn phải ở luyện tội. Thiên đàng gồm đầy những người thành công, không ai thất bại cả! Ta thấy điều đó nơi ông Da-kêu: ông từng là người tội lỗi vì nhắm tiền của như mục đích đời mình, ông từng sống ích kỷ.
Như vậy là ông đã từng đặt mình ra ngoài kế hoạch mà Thiên Chúa dành cho ông. Kế hoạch ấy hệ ở việc tăng cường về khả năng tự hiến cho Thiên Chúa và cho đồng loại theo gương Đức Giêsu. Vì thế ôn đã "hư mất". Đức Giêsu mang lại cho ông ơn cứu độ vì Người thúc đẩy ông mở rộng sự sống của ông ra cả hai phía trên và dưới: cần phải ra khỏi ích kỷ để bước vào tình yêu, bước ra khỏi đời sống tập trung vào mình để tiến tới một đời sống tập trung vào người khác: tức là sống theo gương mẫu của Con Thiên Chúa là Đấng đến "không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10,45) Tiếp theo cuộc viếng thăm của Đức Giêsu, ông Da-kêu đã trở nên một con người mới "con người sống động": vì ông đã bắt đầu trở nên một con người qui về Thiên Chúa và tha nhân, như Đức Giêsu. Ông bắt đầu xây dựng lại cái tôi của ông từng bị méo mó do tính ích kỷ.
"Tôi là một cô gái 21 tuổi, đang học đại học, yêu đời, thích sống tự do và độc lập. Tôi đã được cơ may sinh ra trong một gia đình đạo đức; nhờ đức tin và sự hướng dẫn của cha mẹ, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân đã đâm rễ rất sâu trong tâm hồn tôi và giúp tôi có một cuộc sống tương đối trưởng thành. Bằng việc khắc chế tình dục, mặc dầu có rất nhiều người theo đuổi tôi, tôi đã có được cuộc sống trong sạch cho đến nay.
"Cách đây 3 tháng, tôi đã bắt đầu yêu một người đàn ông 40 tuổi, có vợ và 2 con. Tại sao tôi lại sa ngã như thế? Vì trong người đàn ông này, tôi đã khám phá ra và tìm thấy sự chân thành mà những bạn đồng lứa với tôi không hề có. Ông nói với tôi ngay từ ban đầu rằng ông thích tôi và mong muốn có tôi, nhưng không bao giờ ông sẽ bỏ vợ con ông. Ông muốn tôi phải lựa chọn chơi với ông hoặc thôi.
"Tôi đã chấp nhận chơi với ông ta. Tôi ý thức rằng tôi đang sai lầm và phá vỡ tương lai của tôi; nhưng tôi không thể xa lìa ông ấy, vì tôi quá thích ông."
Cô gái vừa mới chia sẻ những điều vừa nói đã đặt mình ra ngoài con đường cứu độ, bởi lẽ cô ta đã bước ra khỏi con đường của yêu thương, của tự hiến, để sa vào con đường tìm kiếm mình, chính là con đường ích kỷ. Như vậy là cô ta không còn xây dựng bản thân để nên giống Đức Giêsu nữa. Cô ta cần được Đức Giêsu đến viếng thăm cõi lòng mình.
Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Và kìa, có một người tên là: TN 31-C35
Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Và kìa, có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó.
Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !" Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !" Còn ông Da-kêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn".
Đức Giê-su nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham ! Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất !"
NGHỆ THUẬT CẢM HOÁ CỦA CHÚA GIÊ-SU
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Da-kêu.
Ngay cả Chúa Giê-su, dù Ngài chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng."
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giê-su, Ngài có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao thượng này có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Ngài là niềm nở tiếp đón và trân trọng ho, coi họ như bạn bè. Dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” ( Mt 11, 19 )
Chúa Giê-su thừa biết Da-kêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giê-su không nhìn Da-kêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Da-kêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giê-su đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: "Này ông Da-kêu...” Chúa Giê-su gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật này khiến ta nhớ lại lời Chúa Giê-su nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” ( Ga 10, 3 ).
Và Chúa Giê-su tiếp: “xuống mau đi !”. Có lẽ đây không phải là lời thúc giục mà chỉ là lời vui vẻ thân mật ở giữa bạn bè. Rồi Chúa Giê-su lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Da-kêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông”.
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giê-su lúc đó chắc hẵn phải khiến cho Da-kêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và nổi tiếng như Đức Giê-su mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Da-kêu ư ? Chuyện thực mà tưởng như mơ ! Và Da-kêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giê-su vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giê-su đối với Da-kêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai dám mong đợi. Bấy giờ Ông Da-kêu đứng lên thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một nghĩa cử anh hùng ! Từ một người đáng khinh, Da-kêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục !
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Ao con ướt đẫm sương đêm rồi ! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh !”
Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc. Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giê-su đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Da-kêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Vậy, lạy Chúa Giê-su, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương; Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng; Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
Đối với những người tội lỗi, để giúp họ từ bỏ con đường tội lỗi để trở nên tốt hơn, người ta có thể: TN 31-C36
Đối với những người tội lỗi, để giúp họ từ bỏ con đường tội lỗi để trở nên tốt hơn, người ta có thể có hai thái độ:
Một là tẩy chay xa lánh họ để nhờ đó họ nhận ra tội lỗi của mình mà sửa chữa. Sách Dân số đã từng khuyên: “Này, chớ tới gần lều của những con người hư đốn ấy, và đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ diệt cùng với tất cả tội lỗi của họ” ( Ds 16, 26 ). Thánh Phao-lô có khi chủ trương tương tự: “Thưa anh em, nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền cho anh em phải xa lánh mọi người sống vô kỷ luật, không theo truyền thống anh em đã nhận được từ nơi tôi» ( 2 Tx 3, 6 ), và ngài khuyên Ti-mô-thê: “Anh hãy xa lánh tất cả những người ấy” ( 2 Tim 3, 5 ). Chính Đức Giê-su cũng có khi chủ trương phải dùng biện pháp này đối với những kẻ ngoan cố như biện pháp cuối cùng sau khi tất cả mọi biện pháp đều thất bại: “Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” ( Mt 18, 17 ).
Do đó, nhiều Ki-tô hữu được gọi là đạo đức cũng chủ trương như vậy, thậm chí áp dụng nó một cách hết sức máy móc. Biện pháp này mang tính cảnh cáo, trừng phạt, nhiều khi cần thiết và có tác dụng rất tích cực, nhưng cũng rất lắm khi bị phản tác dụng: tạo khó khăn, gây bất mãn, bít đường sống lương thiện, hoặc đẩy sâu vào đường tội lỗi.
Thái độ thứ hai, ngược lại, là gần gũi và biểu lộ tình thương đối với họ. Đây là thái độ mà Đức Giê-su thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những kinh sĩ và người Pha-ri-sêu thường làm. Ngài sẵn sàng ở trọ nhà người tội lỗi ( x. Lc 19, 7 ), ăn uống và giao du thân thiện với họ ( x. Mt 9, 10; Mc 2, 15; Lc 5, 30 ). Người Do-thái thời ấy không thể tưởng tượng được một ngôn sứ như Ngài lại có thể đối xử thân mật như thế đối với người tội lỗi, hoặc để họ đụng chạm đến thân thể mình ( x. Lc 7, 39 ). Không những thế, Ngài còn nhận một người thu thuế vào số các môn đệ thân tín nhất của mình ( x. Mt 10, 3; Lc 5, 27 ).
Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi ( thu thuế, đĩ điếm... ) trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin Mừng, mà bài Tin Mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giê-su sẵn sàng vào nhà ông Da-kêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ tại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Da-kêu như cách mà người Do-thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao! Còn biết bao trường hợp trở lại khác vì thái độ bao dung và gần gũi của Ngài ( x. Lc 7, 36-50; Ga 4, 39 – 42; 8, 2 – 11 ), đến nỗi Đức Giê-su cho biết chính bọn tội lỗi biết hối cải ấy còn vào thiên đàng trước và đông hơn cả bọn kinh sĩ và Pha-ri-sêu nữa ( Mt 21, 31 – 32 ).
Người Ki-tô hữu nên có thái độ nào ?
Thực ra, thái độ nào cũng có cái hay và cái dở của nó. Vì thế, người Ki-tô hữu nên tùy nghi mà áp dụng thái độ này hay thái độ kia trong từng trường hợp, miễn sao đạt được kết quả tốt. Thái độ yêu thương gần gũi thường có nhiều cơ may cảm hóa được người tội lỗi hơn thái độ tẩy chay rất nhiều. Điều này được chứng tỏ trong Tin Mừng qua thái độ của Đức Giê-su. Thái độ tẩy chay chỉ nên áp dụng một cách hạn chế, như một biện pháp cuối cùng, sau khi mọi biện pháp khác đều thất bại. Và chỉ nên áp dụng khi được thúc đẩy bởi tình thương và tinh thần trách nhiệm chứ không phải bởi lòng ghen ghét, ác cảm, với tinh thần bỏ mặc, vô trách nhiệm. Rất tiếc, biện pháp này lắm khi đã bị lạm dụng trong Giáo Hội gây ra rất nhiều điều đáng tiếc.
Cũng nên nhắc lại rằng cần phân biệt sự ác và người ác. Cần phải ghét bỏ và xa tránh sự ác chứ không phải người ác. Đức Giê-su và các Tông Đồ dạy ta phải yêu thương người ác và kẻ thù, làm ơn cho họ ( x. Mt 5, 44; Lc 6, 27; Rm 12, 20, v.v... ). Trong số các điều ác, thì dường như Đức Giê-su tỏ ra ghét tính kiêu ngạo, sự giả hình, tính hay kết án và khinh chê người khác hơn tất cả những tính xấu khác. Tội lỗi bao nhiêu Chúa cũng tha được, nhưng dường như Chúa không tha tội cho những kẻ không chịu tha thứ cho người khác ( x. Mt 18, 23 – 35 ), những kẻ hay kết án người khác ( x. Lc 6, 37 ), những kẻ tự kiêu và lên mặt chê bai người khác ( x. Lc 18, 9 – 14 ).
Chính vì thế mà những người đã từng hành nghề thu thuế và mãi dâm, mà biết hoán cải hoàn lương thì lại dễ vào thiên đàng hơn bọn kinh sư và Pha-ri-sêu là những kẻ hay lên án và khinh chê kẻ khác. Do đó, chúng ta phải xét lại thái độ của chúng ta đối với người xấu, coi chừng kẻo Chúa kết án ta nặng hơn những kẻ bị ta kết án vì thái độ bất bao dung và kiêu ngạo của ta.
3. Kinh nghiệm cải hóa trong việc giáo dục con cái
Kinh nghiệm giáo dục con cái cho tôi thấy: con cái mà hư hỏng không phải vì chúng không biết điều nào nên làm điều nào nên tránh cho bằng chúng không có đủ động lực thúc đẩy chúng làm những điều chúng biết phải làm, và xa tránh những điều chúng biết là không nên làm. Chúng cũng có một tâm lý như thánh Phao-lô, và cũng là tâm lý của tất cả mọi người: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” ( Rm 7, 15 . 19 ). Ai cũng có tính xác thịt yếu đuối: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” ( Gl 5, 17 ).
Vì thế, đừng quan trọng hóa những lầm lỗi của chúng hơn việc biểu lộ tình thương và thông cảm của ta. Hãy bắt chước Thiên Chúa: “Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” ( Kn 11, 23 ). Ngài kiên nhẫn chờ đợi ta trở về với Ngài. Tại sao ta không thể kiên nhẫn chờ đợi con cái mình thay đổi ?
Điều quan trọng là tạo cho chúng sức mạnh hơn là cho chúng một mớ lý thuyết. Khi làm cho con cái mình cảm nghiệm rằng chúng được cha mẹ yêu thương, quan tâm, tôn trọng, chăm sóc và sẵn sàng hy sinh tất cả cho chúng, thì tôi nhận thấy chúng tỏ ra yêu thương cha mẹ hơn, hiếu thảo, vâng lời, chịu khó làm việc hơn, vì thế ít lầm lỗi hơn. Khi ấy, tôi thấy rõ rằng hình phạt không làm chúng sợ cho bằng việc nhìn thấy chúng tôi buồn.
Chính tình thương đầy thông cảm và tha thứ mà chúng cảm nhận được nơi chúng tôi, và những gương hy sinh, chiến đấu mà chúng thấy nơi chúng tôi đã giúp chúng vượt thắng khi chiến đấu với cám dỗ, với thói hư tật xấu của tuổi trẻ. Chúng tôi khám phá ra rằng để trở nên tốt, con cái chúng ta cần tình thương, sự dịu dàng, âu yếm, sự quan tâm, gần gũi của chúng ta hơn những lời khuyên bảo, trừng phạt. Nếu chúng không cảm nghiệm được tình thương của ta, thì mọi lời khuyên, mọi cố gắng giáo dục của ta đều trở nên vô ích.
Vì thế, tôi không muốn khuyên bảo con cái tôi quá nhiều, nhất là về những điều mà tôi nghĩ chúng đã quá biết rồi. Khuyên và trừng phạt quá nhiều chỉ làm cho bầu khí giữa cha mẹ và con cái luôn căng thẳng, khiến sự thân mật và thông cảm giữa chúng với ta ngày càng giảm đi. Nhất là làm cho chúng có cảm tưởng rằng chúng ta ghét chúng hoặc không thương chúng đủ. Và từ đó, chúng càng ngày càng xa cách ta, không muốn nghe ta nói gì nữa, khiến cho mọi lời khuyên bảo răn đe của ta đều ra “công dã tràng”.
Cổ nhân ta có câu: “Giáo đa thành oán” mà tôi phải công nhận là đúng khi thấy mình thất bại trong việc giáo dục con cái một thời gian. Hay chê bai và phiền trách chúng quá nhiều có thể làm chúng thất vọng, mất tự tin, khiến chúng nghĩ rằng chúng không thể làm được điều tốt. Vì nếu không có động lực là tình yêu thúc đẩy, chúng không thể làm được những điều chúng biết là phải làm. Tình yêu của chúng đối với ta là động lực mạnh nhất để chúng nên trở nên tốt.
Áp dụng vào việc cải hóa người xấu
Làm cho mọi người chung quanh ta trở nên tốt hơn là một bổn phận của mọi Ki-tô hữu. Từ bài học của bài Tin Mừng hôm nay, và từ kinh nghiệm giáo dục con cái, tôi nhận ra rằng: để trở nên tốt, người ta cần lời khuyến khích hơn trách cứ, cần cảm thông hơn kết án, cần động viên hơn trừng phạt, cần tình thương và gương sáng hơn lời khuyên bảo, cần được gần gũi hơn bị xa tránh. Cả hai cách đều tốt, nhưng cách trước thường tốt, dễ sử dụng và có hiệu quả hơn cách sau mà không gây tai hại. Cách sau khó sử dụng hơn rất nhiều, vì nó có thể động chạm đến tự ái, danh dự, quyền lợi của người khác, hoặc tạo nên khó khăn cho họ, nên dễ bị phản tác dụng, có thể gây ác cảm, thù ghét, căng thẳng.
Vì thế, muốn sử dụng cách sau thì phải hết sức khôn khéo và tế nhị. Nhưng dù sử dụng cách nào thì cũng phải làm cho người mà ta muốn cải hóa cảm nhận được tình thương, thiện cảm và thiện chí của ta đối với họ. Và trước khi cảm hóa ai, hãy nhận thức rằng rất nhiều khi – trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai – ta cũng yếu đuối và lầm lỗi không kém gì họ.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con nhận ra bản tính yếu đuối và hay lầm lỗi của mình trước khi muốn cảm hóa bất kỳ ai. Nhờ nhận thức đó, con sẽ thông cảm với tất cả những yếu đuối và lầm lỗi của mọi người, con sẽ yêu thương họ nhiều hơn. Chính nhờ sự yêu thương và thông cảm đó, con sẽ cảm hóa được nhiều người hơn. Xin cho con học được cách hành xử của Đức Giê-su đối với những ai bị mọi người coi là tội lỗi như Da-kêu. Cho con biết thật sự yêu thương những con người như thế trước khi muốn cảm hóa họ. Amen.
Có hai thứ mùa xuân: Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời cho cây cối đâm chồi, nảy: TN 31-C37
Có hai thứ mùa xuân: Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời cho cây cối đâm chồi, nảy lộc, ra hoa kết trái. Xuân tâm hồn khi lòng người thanh thản, bình an, chan chứa niềm vui. Tâm hồn Da-kêu phơi phới mùa xuân về, đón nhận Ơn Cứu Độ khi gặp gỡ được Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ. Da-kêu được biến đổi từ một cuộc đời tội lỗi thành cuộc sống quảng đại, phục vụ nhờ “gặp gỡ Đức Ki-tô, biến đổi cuộc đời mình”.
Chúa Giê-su đi qua Giê-ri-khô, tiến về Giê-ru-sa-lem, bước vào khổ nạn cùng với đoàn người hành hương tầng tầng lớp lớp. Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Da-kêu gặp nhau. Anh mắt Da-kêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế; một người bị vạ tuyệt thông cách ly; một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa; một con chiên lạc đang tìm lối về...
Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Niềm vui của Đấng Cứu Độ đi tìm và cứu chữa những gì hư mất đã bật thành lời; “Hỡi Da-kêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Da-kêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý.
Trước đây Da-kêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác, trước đây ông vốn tham lam, bất lương. Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi bao nhiêu năm nhưng hôm nay gặp được Đức Giê-su ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người, lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: “Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn”. Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Da-kêu, ngập tràn ánh nắng và niềm vui, bình minh Ơn Cứu Độ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
Trong sách Lv 5, 20 – 26; Xh 21, 37; Ds 5, 6 đều nói đến phải trả lại, đền bù cho người nghèo, kẻ bị thiệt hại một số của cải. Đó là luật trong Cựu Ước. Da-kêu trình bày ngay vấn đề cho thấy có lẽ Ong đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó, tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới. Thánh Luca đã nói rõ. Ông là thủ lãnh của những người thu thuế.
Giê-ri-khô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rô-ma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giê-su, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông ? Là người giàu có, sang trọng, ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Đức Giê-su đi qua.
Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ra ngoài mọi phê bình. Động lực nào thúc đẩy ông đi tìm Đức Giê-su ?Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động và tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa !
Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giê-su đem mùa xuân về cho tâm hồn Da-kêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Da-kêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần, vì ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Độ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Lạy Chúa, ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, nói với họ bằng ngôn ngữ Phúc Am, sống với họ bằng hành vi bác ái, hy vọng vào lòng tốt nơi mỗi người, tin tưởng vào sự quảng đại nơi họ, hầu chúng con có thể đưa mùa xuân về cho tất cả những ai chúng con gặp gỡ trong cuộc đời. Amen
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN C / 31st Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: NHẪN NẠI VÀ THƯƠNG XÓT
* We should learn patience and mercy *
* Ai tin vào Con của Người thỉ khỏi phải chết nhưng được Sống muôn đời . (Gioan 3, 16)
Chúa thương xót hết mọi người,… Ngài nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người.: TN 31-C38
• BÀI ĐỌC 1: Kh.ngoan 11,22--;12,1-2= Chúa thương xót hết mọi người,… Ngài nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người./ He have mercy on all…He overlook the sins of men that they may repent.
• BÀI ĐỌC 2: 2 Thêxalônica 1,11--;2, 2=Danh cuả Chúa Kitô phải được tôn vinh trong ta. Chúng ta haỹ nên giống Ngài./ The name of Jesus must be glorifird in us. We must be like Him.
• TIN MỪNG(Gospel): Luca 19, 1-10= Này ông Da-kêu, xuống mau đi! Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông ! Zacchaeus, hurry down. I mean to stay at your house.
A- Ý Chúa muốn nói gì với tôi qua ba bài đọc trên: (Some points of Reflection to live out and share)
1/ Câu truyện Phúc âm hôm nay kể ông Dakêu là người thu thuế giầu có: khi Chúa Giêsu đi vào thành Giêricô, ông trèo lên cây sung để nhìn xem Đức Giêsu. Ngài liền nhìn ông và nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”(Lc 19,5) Hôm nay, Chúa Giêsu cũng biết tôi, tâm tánh, hoàn cảnh gia đình của tôi. Ngài biết tôi đang ở đâu và biết tôi đang cần gì. Chúa đang tìm tôi! Tôi đang giầu có nhưng thiếu hạnh phúc, tôi không có Chúa trong đời sống, tôi cảm thấy khổ cực, cô đơn, không hy vọng. Chúa có quyền cứu gíup tôi thay đổi những gì?
2/ Ông Dakêu, một người lớn trở thành trẻ nhỏ: Tại sao ông lại lăng xăng trèo lên cây sung cao như vậy? Có thể vì tính tò mò, vì ông muốn ẩn mình, vì lương tâm thấy mình có tội, có thể sự thúc giục của Chúa Thánh Linh? Ông đã thực sự muốn gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Thì ông đã trở nên con trẻ có tấm lòng đơn sơ, một em bé tin cậy ở cha mẹ mình, nên Chúa muốn vào nhà ông: “Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ.” (Lc 19, 7) Tại sao bạn phải trở nên như con trẻ? Trước khi được gặp Chúa bạn phải làm gì?
3/ Ai đi tìm Chúa chắc sẽ gặp được Ngài: ông Dakêu tưỏng mình đi tìm Chúa nhưng thực ra Chúa lại tìm ông. Tổ phụ loài người cũng vậy, họ đã trốn Chúa nhưng Ngài vẫn tìm và gặp được họ. Chúa vẫn làm việc này với sự cộng tác của Chúa Thánh Linh đã thu hút và thúc đẩy ông. Dakêu đã quyết hứa với Chúa: “Thưa Ngài. tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt cuả ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19, 8) Ông Gia kêu đã tìm kiếm Chúa bằng hành động. Tôi đã thay đổi gì để gặp được Chúa trong Gia đình và Công đoàn?
4/ Một người nhỏ bé thành người lớn lao: Con người nhìn bề ngoài, nhưng Chúa nhìn thấy suốt trong lòng, ông Dakêu thấy tâm hồn mình nhỏ bé, ông đã đón nhận ý Chúa ngay lập tức và Chúa đã nâng lên. Ông được gọi là con cái Ápraham, điều đó làm ông trở nên vĩ đại. Chúa hoàn vũ đã vui lòng bước vào và ở lại qua đêm với một gia đình người thu thuế., Chúa nói: “Hôm nay ơn cưú độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham.” Làm sao bạn có thể tiếp đón Chúa vào tâm hồn?. Điều gì đã làm cho bạn trở nên người Tín hưũ tốt lành hôm nay?
5/ Ông đã trở thành khách tại nhà mình: Đức Giêsu đã tự mời chính Ngài vào nhà Dakêu và ông đã vui vẻ đón tiếp Ngài, ông đã trở thành khách. Ông sẵn sàng trở thành khách và làm những gì Chuá muốn. Ông muốn càng ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu. Sách Khôn ngoan nói: “Vì thế, những ai sa ngã Chúa sửa dạy từ từ, Chúa cảnh cáo họ…để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kngoan 12,2) Tôi cần bắt chước ông Dakêu để vui vẻ tiếp rước Chúa vào đời mình. Tôi đón tiếp Chúa cách nào trong hoàn cảnh hiện tại?
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm châm ngôn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
THƯA NGÀI, TÔI XIN LẤY PHÂN NỬA TÀI SẢN CỦA TÔI MÀ CHO NGƯỜI NGHÈO (Lc 19, 8 )
I give half my belongings, Lord, to the poor
C-Ngay bây giờ tôi phải làm gì để thực hành Lời Chúa: (So what am I doing / For Action.)
Tôi chọn 1 hay 2 trong 5 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ trong phần A để áp dụng vào đời sống.
C- Tôi dựa vào Lời Chúa để Cầu nguyện: (Pray and practice /In Action) Laỵ Cha, Đức Giêsu đã nói: Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông. Xin cho con biết mau mắn mở cửa tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa.
Hoa thơm cỏ lạ: SÁM HỐI KHÔNG CHỈ BẰNG LỜI NÓI NHƯNG LÀ BẰNG HÀNH ĐỘNG
Ngày ấy, ông Môsê đang đi chăn đàn vật tại núi Sinai. Bất ngờ, ông nhìn thấy bụi gai bóc cháy phừng: TN 31-C39
Ngày ấy, ông Môsê đang đi chăn đàn vật tại núi Sinai. Bất ngờ, ông nhìn thấy bụi gai bóc cháy phừng phực, nhưng bụi gai thì không hề bị thiêu rụi. Quá lạ thường, ông chạy đến để nhìn cho rõ sự tình. Đến gần, ông nghe tiếng phán từ trong bụi gai rực lửa ấy: “Môsê, bỏ dép ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh”. Môsê bạt vía kinh hồn, càng không thể hiểu nổi điều mình đang chứng kiến tận mắt. Nhưng Đấng ngự giữa bụi gai diệu kỳ ấy chính là Thiên Chúa của tình yêu. Ông khám phá ra rằng, Người là tác giả của ơn giải thoát.
Người ban cho ông mệnh lệnh giải thoát dân của Người ra khỏi tình trạng nô lệ Aicập. Người sai ông đến gặp Pharaô, vua Aicập và nói cho nhà vua biết: Hãy để cho dân tôi đi, hãy giải thoát dân tôi khỏi cảnh nô lệ lầm than, hãy để cho dân tôi đi về miền đất tự do… Thiên Chúa là Thiên Chúa giải thoát. Người đã ngỏ lời với ông từ trong bụi gai, giữa một cảnh tượng hùng vĩ. Người là Thiên Chúa giải thoát. Người ngự trong bụi gai, đã không làm bụi gai bị thiêu rụi. Và vì là Thiên Chúa giải thoát, ngự giữa đám dân nô lệ, Người trao ban tình yêu, trao ban sức mạnh, trao ban tự do và bình an.
Là Thiên Chúa giải thoát, Người ngự nơi nào, nơi ấy được giải thoát. Nơi Đức Maria, Thiên Chúa mà ngày xưa phán từ giữa bụi gai để giải thoát dân Người, trở nên gần gũi với con người hơn bao giờ hết. Người không chỉ ngự vào tâm hồn Mẹ, mà còn hóa nên nhục thể, chấp nhận một thân xác lấy từ chính thân xác của Mẹ. Bằng cách ấy, Người đã ngự hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất nơi tâm hồn và cung lòng Mẹ, đến nỗi không thể có bất cứ cuộc ngự trị nào khác sánh ví. Mẹ đón nhận Người bằng tâm hồn yêu mến, đức tin và một niềm trông cậy không dễ gì lay chuyển. Chẳng những Chúa yêu thích ngự vào lòng Mẹ, mặt khác Mẹ còn vui sướng đón nhận Người, vì thế Người đã giải thoát Mẹ khỏi mọi vướng bận của tội lỗi và thế gian. Một cuộc giải thoát tuyệt vời trên mọi cuộc giải thoát: tinh tuyền, trong trắng và rực sáng giữa triều thần thánh, giữa muôn loài, qua muôn thế hệ.
Hôm nay, Tin Mừng lại mang đến cho bạn và cho tôi một bằng chứng mới về việc Thiên Chúa giải thoát. Ông Giakêô, người thu thuế, đã khôn ngoan mở rộng lòng đón nhận Chúa Kitô. Chúa Kitô đã vui mừng ngự đến nơi ông. Qua ông, Người sung sướng ngự vào gia đình ông. Người đã ban tặng cả gia đình ông những lời quá sức ngọt ngào, đó cũng chính là ơn cao cả mà mọi người chờ mong: “Hôm nay, ƠN CỨU ĐỘ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
Mặc dù ông chỉ nhìn thấy Chúa như mọi người nhìn thấy. Nhưng ngay việc ông tiếp nhận Chúa, không phải một cuộc tiếp đón xã giao, nhưng là sự đón nhận trong lòng yêu mến của tâm hồn, đã là một sự hiện diện và ngự trị trọn vẹn của Chúa nơi tâm hồn ông. Chỉ cần có thế thôi, chỉ cần lòng người đừng khép lại, nhưng có một chút quảng đại, một chút thiện chí, là Chúa đã có thể ngự vào.
Chúa là Thiên Chúa giải thoát như đã từng giải thoát dân của Người và giải thoát tâm hồn Đức Maria, đã ngự đến trong lòng, đến trong gia đình Giakêô giải thoát ông, giải thoát gia đình ông. Những hình ảnh thật cảm động mà thánh Luca đã diễn tả qua lời đối thoại của Chúa Giêsu và hành động của Giakêô: “Một người tên là Giakêô, đứng đầu những người thu thuế… chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu… Người nhìn lên và nói với ông: ‘…Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông’. Ông vội vàng tụt xuống, mừng rỡ đón rước Người… Ông Giakêô đứng và thưa với Chúa: ‘…Phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo… Tôi xin đền gấp bốn…”, cho thấy hạnh phúc của kẻ tội lỗi là biết nhận ra mình tội lỗi.
Ông hạnh phúc đến độ, đường đường là quan chức, trưởng của cả một đội thu thuế, vậy mà hành động như một đứa bé: lăng xăng chạy về phía trước để thấy Chúa bằng được. Không thể nhìn thấy, ông trèo lên cây, ngồi trên đó mà nhìn xuống. Đến khi nghe Chúa gọi, ông lại tụt xuống mừng rỡ trước mặt Người. Ông ngỡ chắc chẳng ai thấy mình vắt vẻo trên nhánh sung. Nhưng ông lầm. Chúa đã thấy ông. Người thấy ông trước khi ông thấy Người. Chỉ với lòng ham muốn gặp gỡ Chúa,
Giakêô quên hết, và gác một bên mọi danh dự, chức bậc mình đang có.
Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất. Đường từ gốc sung về nhà ông xa hay gần, ta không rõ. Nhưng chắc chắn đó là con đường đầy ắp niềm vui. Kể từ đó, ông ý thức thân phận nhỏ nhoi, không phải vì thấp bé, nhưng vì ông biết mình chỉ là người bất xứng; dưới mắt mọi người, chỉ là kẻ tội lỗi, gian ác. Nhưng suy cho cùng, người bị coi là tội lỗi, gian ác như ông, lại nhận biết mình đến vậy, vẫn là người tốt hơn bất cứ ai chỉ thấy mình cao trọng trong sự thanh sạch, khỏe khoắn trong đường nhân đức, mạnh mẽ trong cơn cám dỗ, lớn lao trong đời sống đức tin, để rồi ngủ vùi trong tự mãn, không thấy bản chất thật của thân phận yếu đuối.
Phía Thiên Chúa, chỉ cần Giakêô có một thoáng nhận ra thân phận mình thôi, Người đã đến với ông. Ta cũng được như thế, nếu biết mang lấy tâm tình của Giakêô. Thực ra, Chúa vẫn có đó, Chúa chờ ta mở lòng mình để Người xóa khoảng cách tưởng xa vô cùng của Đấng là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối với con người tội lỗi. Chúa cao sang là thế lại vui mừng quá đỗi khi được ta đón nhận và được trú ngụ trong nhà tâm hồn ta. Vì nếu Chúa nói với Giakêô: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”, Người cũng nói với ta như thế, khi ta biết để Chúa ngự trong ta. Vì Người là Đấng giải thoát, Người ngự nơi đâu, nơi đó được giải thoát.
Nhưng trong lịch sử cứu độ đâu chỉ có dân Chúa, hay Đức Maria, hay ông Giakêô được Chúa giải thoát. Thánh Mathêô, thánh Phaolô, thánh Maria Mađalêna, thánh Augustinô… và không biết bao nhiêu người con của Giáo Hội đã vươn lên từ trong những chặng đường tối tăm nhờ ơn giải thoát của Thiên Chúa.
Cũng vậy, hôm nay nếu có Chúa ở cùng, bạn và tôi sẽ được Người giải thoát khỏi mọi vướng bận của trần gian, của những u mê lầm lạc. Hãy để Chúa ở cùng. Thực ra, Chúa vẫn ngự trong tâm hồn mỗi người. Chỉ cần gìn giữ Thiên Chúa trong cuộc đời mình, ta sẽ hạnh phúc, mạnh mẽ, đáng yêu như Chúa muốn. Cách hay nhất để giữ ơn Chúa trong đời mình, chẳng cao xa hay khó thực hiện, mà vẫn chỉ là những gì Giáo Hội dạy: chuyên chăm cầu nguyện, siêng năng lãnh bí tích, giữ luật Chúa, luật Giáo Hội, thực hiện bác ái yêu thương với mọi anh em… Ước mong ơn giải thoát của Chúa luôn sống mãi trong ta để ta luôn thuộc về Người.
Bài Tin Mừng hôm nay nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai có sứ mệnh “tìm và cứu chữa: TN 31-C40
1) Ý CHÍNH:Bài Tin Mừng hôm nay nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai có sứ mệnh “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Cụ thể là ông Da-kêu, một người giàu có và là thủ lãnh các người thu thuế ở thành Giê-ri-khô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được người ưu ái đến ở trọ tại nhà ông. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã được biến đổi nên một người mới, thể hiện qua thái độ quyết tâm hoán cải và sẵn sàng đền bù cho người bị hại. Ông còn quảng đại chia nửa phần gia sản để phân phát cho người nghèo. Đức Giêsu đã tuyên bố gia đình ông được ơn cứu độ, và công nhận ông thực là con cái của tổ phụ Apraham.
2) CHÚ THÍCH:
• Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Và kìa, có một người tên là Da-kêu. Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông lại lùn.Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó (Lc 19,1-4):
+ Đức Giêsu vào thành Giê-ri-khô và đi ngang qua thành: Chuyện xảy ra ở Giê-ri-khô, một thành phố cách Giêrusalem 37 km. Có hai thành trùng tên Giê-ri-khô: Một thành cũ bị Gio-su-ê phá hủy, và một thành mới do Hêrôđê xây dựng cách nơi cũ không xa. Tại Giê-ri-khô Đức Giêsu đã chữa lành người mù tên là Bác-ti-mê (x. Mc 10,46). Người cũng thuật lại dụ ngôn người Samari nhân hậu xảy ra trên con đường từ Giêrusalem xuống Giê-ri-khô (x. Lc 10,30).
+ Có một người tên là Da-kêu: tên Da-kêu nghĩa là “Người trong sạch”. Nhưng vì đứng đầu ngành thu thuế tại thành Giê-ri-khô, nên ông bị liệt vào hạng người tội lỗi. Sự thành tâm thiện chí của ông biểu lộ qua thái độ quyết tâm vượt qua trở ngại là sự lùn thấp của ông và số đông người cùng đi với Đức Giêsu, bằng cách chạy lên phía trước, trèo lên một cây sung để có thể nhìn thấy khi Người đi qua.
• Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” (Lc 19,5-7):
+ Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Đức Giêsu đã biết rõ về con người của Da-kêu trước khi ông gặp được Người. Người đã nhìn thấy ông giữa muôn người, biết rõ tên và công khai gọi tên ấy. Nhất là Người còn đến ở trọ tại nhà của ông.
+ Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người: Cảm động trước tình thương của Đức Giêsu, ông Da-kêu vội vàng tụt xuống khỏi cây sung và đón rước Người về nhà. Da-kêu chỉ muốn được thấy mặt Đức Giêsu, nhưng ông lại được Người thương đến ở trọ tại nhà ông. Lòng ưu ái của Người vượt quá lòng mong ước của ông.
+ Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà Người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !: Theo quan niệm của người Do thái, ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng bị nhiễm ô uế và đáng bị khiển trách (x. Lc 5,30; 7,34; 15,2). Ở đây, Đức Giêsu không những đã tiếp chuyện, mà còn đến ở trọ tại nhà của Da-kêu, là thủ lãnh những người thu thuế, nên không tránh khỏi những tiếng xì xầm phản đối của đám đông chứng kiến. Qua thái độ này, Người muốn chứng minh sứ mệnh của Người là đi tìm và cứu chữa những người tội lỗi mà Da-kêu là đại diện.
• Còn ông Da-kêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Đức Giêsu nói với ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,8-10):
+ Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo…: Cảm nghiệm được tình thương của Đức Giêsu, Da-kêu đã biểu lộ quyết tâm hoán cải bằng cách làm việc đền tội mà ông chắc thế nào cũng có sai lỗi khi hành nghề thu thuế trước đó. Ong tự nguyện chia nửa tài sản để phân phát cho người nghèo và đền trả gấp bốn lần những thiệt hại đã gây ra, trong khi Luật Môsê chỉ buộc đền gấp bốn cho tội trộm chiên (x. Xh 21,37; 2 Sm 12,6).
+ Hôm nay: Luca nhấn mạnh đến tính hiện tại của ơn cứu độ, giống như lời khởi đầu bài giảng của Người tại hội đường Nadarét trước đây (x. Lc 4,21).
+ Ơn cứu độ đã đến cho nhà này: Nhà ông Da-kêu bị người Do thái cho là nơi tội lỗi bất xứng, thì giờ đây nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, đã trở nên một nơi được cứu độ.
+ Con cháu tổ phụ Apraham: Da-kêu làm nghề thu thuế nên bị coi là người tội lỗi và không còn thuộc dòng dõi Apraham. Nhưng sau khi ông ăn năn sám hối và quảng đại chia sẻ tài sản cho người nghèo, ông lại được Đức Giêsu công nhận là con cháu của tổ phụ Apraham như trước.
+ Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất: Câu kết này là chủ đề của đoạn Tin Mừng, nhấn mạnh đến vai trò của Đức Giêsu là để tìm kiếm và giúp những người tội lỗi hồi tâm sám hối để được cứu độ, mà Da-kêu là một bằng chứng cụ thể.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
2) CÂU CHUYỆN: SỨC MẠNH CỦA TÌNH THƯƠNG
a- NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES):Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Victor Hugo. Nội dung tác phẩm tường thuật câu chuyện về cuộc đời của một nhân vật tên là Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp sát nhân đã từng ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã nếm mùi bị mọi người khinh dể xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; Vào trong nhà trọ thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; Đi qua ổ chó, thấy bộ dạng bề ngoài nhếch nhác râu ria sồm soàm của anh, chúng liền thi nhau sủa lên inh ỏi…Chỉ khi bước vào nhà Đức Giám Mục My-ri-ê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi máu tham, đã nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao và vác lên vai chuồn mất. Nhìn thấy bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền khám xét và bắt được mấy chân đèn bạc giấu kỹ trong bao. Anh liền bị giải đến trước mặt vị Giám Mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không la mắng kết tội, mà còn bao che tội của anh bằng cách nhận trước cảnh sát là đã tặng anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu. Nhưng phải mau ăn năn sám hối để làm lại cuộc đời”. Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương khoan dung của ngài. Anh quyết tâm hối lỗi và trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau đó, Văn Giang đã được mọi người quí mến và còn bầu làm thị trưởng của thành phố. Ong đã biến đổi từ một tên tội phạm thành một con người lương thiện, và còn được mọi người kính nể là nhờ đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục đầy lòng khoan dung nhân ái.
b- SỨC MẠNH CỦA THÁNH DON BOSCO:
Một hôm, khi cha Bosco mới được thụ phong linh mục, sắp đến giờ dâng lễ mà không có một em giúp lễ nào. Bất chợt ngài thấy một thiếu niên bụi đời đang ngấp nghé ở cửa phòng thánh. Ông từ nhà nguyện trông thấy bộ dạng của cậu ta liền chạy tới đuổi đi chỗ khác vì sợ cậu ăn cắp đồ. Cha Bosco liền yêu cầu ông từ chạy ra gọi cậu bé quay lại. Khi gặp cậu, cha thân mật hỏi chuyện nhưng cậu ta trả lời cách cộc lốc vì thất học. Tuy vậy cha vẫn không buồn và tiếp tục nói chuyện. Khi cha hỏi cậu bé có khả năng gì cậu liền trả lời có tài huýt sáo. Cha khuyên cậu ta hãy phát huy tài năng đó. Kể từ ngày ấy, cậu thiếu niên thô lỗ cộc cằn kia đã cảm nhận được tình thương nơi cha Bosco và bằng lòng theo học với cha. Cuối cùng cậu đã dần dần biến đổi trở nên một người tốt, tích cực cộng tác với cha trong việc giáo dục thanh thiếu niên bụi đời khác.
c- TÌNH THƯƠNG CỦA TÊ-LÊ-MA-CÚT (TELEMACHUS):
Tê-lê-ma-cút là một ẩn sĩ. Một hôm ông được Chúa thôi thúc rời bỏ khu rừng đang ở tu luyện mà đến Rô-ma thủ đô công giáo. Bấy giờ tại Rô-ma vẫn còn tồn tại một tục lệ dã man là những cuộc giác đấu, tuy dã man nhưng lại được nhiều người kéo đến xem. Đây là những cuộc quyết đấu tay đôi giữa hai người nô lệ mà cuộc chiến đấu chỉ ngừng khi một trong hai bị đâm chết. Mỗi ngày nhiều người bị chết thê thảm trước sự cổ võ của đám đông cuồng loạn mất hết tính người. Tê-lê-ma-cút nghĩ rằng: “Cần phải chấm dứt tục lệ dã man này càng sớm càng tốt. Vì bao lâu dân chúng còn ham xem những cuộc tàn sát đẫm máu thế này thì không thể xứng đáng trở thành con cái của Thiên Chúa được”. Nghĩ thế rồi, Tê-lê-ma-cút liền leo xuống đấu trường và chạy đến đứng giữa hai lực sĩ giác đấu giơ tay yêu cầu hai người thôi đâm chém nhau, nhưng họ đẩy ông sang một bên và lại tiếp tục cuộc chiến. Khán giả thấy vậy nghĩ ông muốn phá cuộc vui của họ, liền la ó phản đối và yêu cầu chính quyền can thiệp. Viên quan cai quản đấu trường chịu sức ép của quần chúng và muốn mau chóng vãn hồi trật tự, liền rút gươm hạ sát ông. Khi Tê-lê-ma-cút ngã xuống đất và máu tuôn trào lai láng trên mặt đất thì cả đấu trường đột nhiên im lặng, hai đấu sĩ cũng không còn hăng hái chiến đấu nữa. Mọi người đều tỏ vẻ bức xúc hối hận và không còn thích xem giác đấu nữa. Từ ngày đó, do đề nghị của nghị viện Rôma, hoàng đế ra lệnh bãi bỏ thói tục giác đấu trong toàn thể đế quốc. Chính cái chết anh dũng và đầy tình người của Tê-lê-ma-cút đã giúp dân thành Rôma hồi tâm hoán cải, và bỏ được tục giác đấu đã giết hại bao mạng người cách dã man.
3) SUY NIỆM:
- “Này ông Da-kêu xuống mau đi”: Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến một nhân vật là Da-kêu. Là một người thu thuế giàu có, ông đã nghe biết về Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, có tình thương đặc biệt đối với những người thu thuế tội lỗi và bị khinh dể như ông. Ông ước mong có ngày được gặp Đấng ấy. Dịp may đã đến, một hôm thấy đám đông đi qua trước nhà, ông hỏi thăm thì biết có Đức Giêsu dẫn đầu, ông liền đi theo và hòa mình vào đám đông. Nhưng sau nhiều cố gắng mà vẫn không sao thấy mặt Người, vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn thấp. Da-kêu quyết định chạy trước một quãng đường và leo lên một cây sung, chờ đợi Đức Giêsu đi qua thì chắc là sẽ trông thấy mặt Người. Ông nép mình để không ai có thể thấy ông. Bất ngờ, khi đi tới cây sung nơi Da-kêu núp, thì Đức Giêsu dừng lại, nhìn lên cây và gọi đích danh ông. Thật là bất ngờ ! Đức Giêsu biết rõ ông và đã nhìn thấy ông trước khi ông thấy mặt Người !
- “Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Da-kêu không ngờ được Đức Giêsu biết rõ ông và còn tỏ ý muốn đến ở trọ nhà ông, khi ông đang là một người thu thuế tội lỗi ! Ong vui mừng thấy danh dự của mình được Đức Giêsu phục hồi trước mặt đám đông trước đây vẫn luôn khinh dể ông. Còn Đức Giêsu thì đã bỏ ngoài tai những tiếng xì xầm phản đối của những kẻ hiện diện, công khai bày tỏ ý định đến ở trọ tại nhà của Da-kêu.
- “Thưa ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”: Anh mắt bao dung, lời nói âu yếm và thái độ yêu thương của Đức Giêsu đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của Da-kêu, thổi ngọn lửa sự thiện còn đang leo lét để cho nó bùng cháy lên. Quả thật, hoán cải là kết quả của một cảm nhận về Tình Yêu. Da-kêu bổng chốc cảm thấy tâm hồn được tự do thanh thoát. Ông cảm thấy không còn dính bén với của cải vật chất đời này như trước, nên đã tự nguyện hiến nửa phần gia sản để chia cho người nghèo và sẵn lòng đền trả gấp bốn lần về những gì ông đã lỗi phép công bằng trước đó. - “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apraham”: Dù Da-kêu có trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông vẫn cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn, vì ông đã được Đức Giêsu đến thăm và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông. Người còn công nhận ông là con cháu của tổ phụ Apraham.
- Xã hội hôm nay vẫn còn có nhiều Da-kêu. Đó là những người bị coi thường hay bị loại trừ, những thanh niên có tiền án tiền sự, những trẻ em bụi đời lang thang không nhà không cửa, những cô gái đứng đường vào lúc đêm tối, những người nghiện ngập sì-ke ma túy, những người luôn tìm hưởng lạc thú trong những quán ba, dùng chén rượu để quên sầu trong cuộc sống…Họ cần những người có trái tim bao dung nhân ái như Đức Giêsu, để giúp họ hoán cải thành con người mới như ông Da-kêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
4) THẢO LUẬN: Vậy mỗi người chúng ta có thể làm gì trong khả năng của mình để giúp đỡ những người thuộc thành phần bị xã hội khinh dể, giúp họ được thêm phấn khởi để hoán cải nên con người lương thiện, quyết tâm bỏ những hành vi tội lỗi để làm lại cuộc đời ?
II. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU, ngày nay mỗi khi đến với chúng con, Chúa thường đến trong hình hài của một người nghèo khó đi xin ăn, một bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang, một người đau khỗ đang cần một lời động viên an ủi. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari, cần năm chiếc bánh va hai con cá, cần căn nhà của Da-kêu để có chỗ nghĩ qua đêm. Chúa khiêm tốn mở lời xin chúng con chút ít tiền bạc, chút lòng hảo tâm, chút sự thương cảm…để rồi sau đó Chúa lại đổ xuống trên chúng con muôn vàn ân phúc nhiều hơn gấp bội.
LẠY CHÚA, Xin dạy chúng con biết đến với hết mọi người, biết khám phá ra một đốm lửa của sự thiện vẫn đang còn cháy leo lét nơi tâm hồn những người tội lỗi. Ước gì chúng con biết nhìn tội nhân bằng ánh mắt nhân từ của Chúa, dám hy vọng vào tình thương đang có nơi tâm hồn mỗi người, và kêu gọi họ cùng hợp tác trong việc xua đuổi cái xấu cái ác ra khỏi gia đình, khu xóm, trường học, và nhà máy…mời gọi mọi người cùng nhau làm việc thiện. Nhờ đó thế giới này sẽ ngày càng trở nên nhân bản hơn, chan hòa tình yêu hơn và mọi người sẽ được sống trong an bình hạnh phúc hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) LẠY MẸ MARIA, qua bài Tin Mừng hôm nay, con nhận thấy con Mẹ là Chúa Giêsu thật có tài đánh động lòng người. Người chỉ cần gặp gỡ Da-kêu trong giây lát là đã biến đổi ông nên con người mới: đang từ một người keo kiệt gian tham, trở nên một người quảng đại sẵn sàng chia sẻ phân nửa của cải mình cho tha nhân.
LẠY MẸ, chính nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, mà ông Da-kêu và cả gia đình đã được ơn cứu độ. Xin Mẹ giúp chúng con mỗi lần đón rước Chúa Giêsu vào nhà linh hồn, con cũng được đổi mới đời sống. Xin cho con biết quảng đại chia sẻ cơm bánh cho những ngườiđói rách, biết cộng tác với các vị chủ chăn để đưa nhiều người lạc xa Chúa được trở về với Người. Xin đừng để con khinh dể xa lánh những người tội lỗi, nhưng biết tỏ lòng nhân từ yêu thương họ. Hy vọng rằng một khi cảm nghiệm được tình thương của Chúa qua cách đối xử của con, họ sẽ biến đổi thành những con chiên ngoan trong đàn chiên của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Gặp gỡ bao giờ cũng gây cho con người nhiều bất ngờ: hoặc là một tin vui hay một tin buồn nào đó mà: TN 31-C41
Gặp gỡ bao giờ cũng gây cho con người nhiều bất ngờ: hoặc là một tin vui hay một tin buồn nào đó mà qua cuộc gặp gỡ con người có thể thu lượm được. Cái trớ trêu vẫn là con người có khi muốn thấy mặt nhau để trò chuyện, để tâm sự, để trao đổi hoặc thông báo cho nhau những điều muốn nói. Tuy nhiên, cảm giác của mỗi lần gặp gỡ qua từng đối tượng lại rất khác nhau. Muốn tìm Chúa Giêsu, thấy Ngài và gặp Ngài là một biến cố hồng phúc của con người. Phụng vụ Chúa nhật hôm nay và đặc biệt đoạn Tin mừng của thánh Luca 19, 1-10 thuật lại cuộc gặp gỡ đầy ân sủng, kỳ diệu giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu.
HAI THÁI ĐỘ CỦA HAI HẠNG NGƯỜI:
Tin Mừng của Chúa Giêsu vẫn luôn gợi lên cho nhân loại nhiều chuyện dí dỏm, hóm hỉnh, có khi nực cười ra nước mắt. Chuyện của hai người lên đền thờ cầu nguyện. Câu chuyện của người con hoang đàng trở về với Cha. Chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình vv…Tất cả những tường thuật ấy đều nói lên những thái độ khác nhau của con người đứng trước tình thương vô biên của Chúa.Trong đọan Tin Mừng của thánh Luca 19, 1-10, ta nhận thấy hai thái độ của hai hạng người. Thái độ thứ nhất là thái độ của những con người không muốn người khác tới gặp Chúa vì họ tự kiêu, khinh chê kẻ khác, họ tự mãn cho mình là công chính và người khác là tội lỗi không xứng đáng lãnh nhận ân huệ và sự tha thứ của Chúa. Họ là những người lẩm bẩm trách Chúa ân cần tiếp đón, ngồi đồng bàn với những kẻ tội lỗi. Nơi đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu là người có sáng kiến trước, muốn gặp gỡ ông Giakêu, Ngài đã thấy Giakêu trên cành sung dù rằng Giakêu luôn muốn gặp gỡ Chúa, tìm mọi cách để cho Ngài thấy cũng như được thấy Ngài.
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu. Đây là một cuộc gặp gỡ kỳ quặc: một người bị dân Do Thái kết án là tội lỗi, tiếp tay với đế quốc Roma để bóc lột dân chúng, đã muốn đi ra khỏi chính con người ích kỷ của mình để tìm gặp cho bằng được Chúa Giêsu mà ông đã nghe nói về Ngài từ lâu và đàng khác Chúa Giêsu muốn tìm kiếm những kẻ lạc mất, trong đó có Giakêu. Quả thực, Giakêu là người giầu có, ông làm trưởng thu thuế, ông có nhiều của cải và dù ông không biết Chúa Giêsu là ai, tâm hồn ông cứ băn khoăn, bối rối, ông như bị một hấp lực nào thúc đẩy, ông đã nhất quyết tìm mọi cách để gặp bằng được một ngôn sứ, ông đã nhận ra Chúa Giêsu ngay sau đó. Cả Chúa Giêsu và cả Giakêu đều xúc động như người Cha tìm gặp được đứa con hoang trở về sau bao năm tháng lưu lạc…Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu đã biến đổi hoàn toàn con người của Giakêu. Chưa cần Chúa Giêsu nói gì, việc có mặt của Chúa nơi nhà ông trưởng thu thuế Giakêu đã làm cho ông đổi đời. Ông đã mau mắn thưa với Chúa Giêsu về lòng ăn năn sám hối, quay trở về đường ngay của ông. Giakêu đã tự động đề nghị với Chúa Giêsu: bố thí nửa phần gia tài của ông cho những người nghèo, đền bù gấp bốn cho những ai mà ông đã làm thiệt hại xưa nay, nghĩa là quá mức định của luật Do Thái. Giakêu đã thật lòng trở về với Chúa. Ông đã được cứu độ. Thánh Luca đã kết thúc đoạn Tin Mừng này bằng câu:” Hôm nay nhà này đã được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu của tổ phụ Ap-ra-ham”( Lc 19, 9 ).
CHÚA LUÔN NHÂN TỪ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI BIẾT ĂN NĂN, ĐỔI MỚI:
Giakêu là con người tội lỗi, tuy nhiên nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn luôn luôn có khát vọng hướng về Chúa, đi tới Chúa và gặp gỡ Chúa: ông muốn gặp Chúa đi qua và ước mong ấy đã giúp ông được Chúa ban ơn cứu rỗi. Bởi vì trong con người tội lỗi của Giakêu lại có Chúa. Sự ước muốn gặp Chúa đến việc đổi đời, quay trở về với Chúa quả thực không có khỏang cách không thể vượt qua được. Sự thiện chí, lòng chân thành của Giakêu với những quyết tâm hết sức chân thật của ông đã giúp ông nhận lãnh ơn cứu độ của Chúa. Đã bao lần, con người gặp gỡ Chúa Giêsu. Biết bao lần chính chúng ta đã gặp Ngài trong thánh lễ, trong kinh nguyện, trong bí tích Thánh Thể, nơi những người chúng ta tiếp xúc hàng ngày, nhưng nào chúng ta có nhận ra Chúa đâu ! Hoặc có bao nhiêu lần chúng ta đã gặp Chúa, chúng ta đã hứa quyết tâm đổi đời, sống tốt, sống theo chân lý, nhưng sau đó chúng ta lại quay trở về con đường cũ. Chúa luôn yêu thương, sẵn sàng chờ đón chúng ta trở về và vẫn luôn giang đôi tay rộng mở để ôm chầm chúng ta trong đôi tay yêu thương của Ngài như người Cha đã chờ đón đứa con hoang đàng trở về với tất cả tấm lòng nhân từ ( Lc 15, 20 ). Chúa luôn luôn kiên nhẫn chờ đợi con người trở về:” …Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”( Lc 19, 10 ).
Lay Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng nhiệt thành muốn tìm gặp Chúa như ông Giakêu và quyết tâm đổi mới cuộc đời, quay về với Chúa và với anh chị em mà chúng con đã có lúc vô tình hay hữu ý làm thiệt hại.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1 - Câu chuyện của ông Giakêu nói gì cho bạn ? 2 - Tại sao Chúa lại đi tìm những con chiên lạc ? 3 - Phải gặp gỡ Chúa như thế nào ?
Quốc gia nào cũng cần tiền thuế để điều hành guồng máy chính phủ và làm việc tiện ích công cộng: TN 31-C42
Quốc gia nào cũng cần tiền thuế để điều hành guồng máy chính phủ và làm việc tiện ích công cộng. Tuy nhiên cũng có những hệ thống thuế vụ bất công, mà người ta gọi là siêu cao thuế nặng. Ngay cả cái luật thuế vụ được coi là công bình nhất thế giới, cũng có những kẽ hở với những luật giảm chước miễn trừ mà những người giàu có thường dùng để trốn thuế. Vì thế mới có câu chuyện Phúc âm hôm nay.
Ông Dakêu người thu thuế đã nghe biết về Chúa Giêsu với những lời giảng dạy và những phép lạ Người làm. Vì thế hôm nay ông muốn được thấy Chúa. Đây là cơ hội hiếm có nên ông tìm hết cách cho được nhìn xem thấy Chúa. Tuy nhiên đám đông chen lấn khiến ông không thể thấy Chúa được vì ông là người nhỏ bé. Cũng may cho ông là ở Giêrikhô, thành phố giàu có thời bấy giờ với đất đai phì nhiêu, có nhiều cây ăn trái như sung vả, chà là trồng hai bên đường. Cây sung vả có thân cây vắn với nhiều cành cho nên dù ông Dakêu nhỏ bé và không phải người trèo cây chuyên môn, ông vẫn có thể trèo lên được để được xem thấy Chúa. Nhìn lên cây, Chúa gọi: Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông (Lc 19:5). Đáp lại lời mời gọi của Chúa, ông Dakêu liền xuống khỏi cây để đón tiếp Chúa vào nhà. Việc Chúa Giêsu vào nhà ông đã làm nhiều người Do thái, nhất là người Pharisêu thời bấy giờ chau mặt lại. Họ không tán đồng việc Chúa vào nhà người tội lỗi. Theo họ thì ông Dakêu là người tội lỗi, vì ông đánh thuế nặng, hơn nữa ông còn thâu thuế cho chính phủ ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời bấy giờ.
Phúc âm kể lại ông là người giàu có nhờ tiền thuế thặng dư. Chính quyền La mã thời bấy giờ đang cai trị người Do thái, không đánh thuế dân cách trực tiếp, mà cho dân đấu thầu để thu thuế. Và ông Dakêu đã trúng thầu để thu thuế cho chính quyền La mã. Nếu họ thu thuế cao hơn cái mức được ấn định trong giao kèo, thì họ được bỏ túi cái phần phụ trội. Vì thế người thu thuế thường bị dân chúng coi rẻ, và còn bị coi rẻ hơn nữa nếu người ấy lại đánh thuế nặng. Trước mặt Chúa, ông Dakêu đã ăn năn sám hối tội lỗi mình. Cái lòng thành của ông trong việc ăn năn thống hối được minh chứng bằng việc ông sẵn sàng đền bù lại gấp bốn lần những gì ông đã làm thiệt hại cho người khác. Theo luật pháp thì ông không phải đền gấp bốn lần, nhưng ông đã làm như vậy cách tự nguyện.
Cái điểm tột đỉnh của câu chuyện là lúc Chúa Giêsu loan báo: Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apraham (Lc 19:9). Lời Chúa đây có nghĩa là tội lỗi ông đã được tha thứ. Như vậy ta thấy việc Chúa gọi ông Dakêu không những giải thoát ông khỏi tội lỗi, nhưng còn khiến ông cắt đứt khỏi xiềng xích tham lam trói buộc ông lại.
Hôm nay mỗi người cần tự hỏi những xiềng xích nào đang trói buộc ta lại? Có phải tính tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo, ghe tương, hận thù, danh lợi, thú vui hay những mối tình ngang trái đang trói buộc ta lại không? Để được tự do thật, ta phải cắt bỏ xiềng xích ràng buộc ta lại, làm cản trở mối liên hệ vói Chúa. Thiên Chúa hằng đứng ngoài gõ cửa nhà linh hồn ta, và chờ đợi tiếng đáp trả. Nếu ta không mở cửa và không mời Chúa vào, thì Chúa cũng chịu vì Chúa tôn trọng tự do của loài người: hoặc đáp trả hay từ chối. Chúa không ép buộc loài người phải đáp trả. Nếu không có tự do lựa chọn, sẽ không có vấn đề công tội, cũng không có vấn đề thưởng phát.
Chúng ta đang ở vào giai đọan cuối cùng của đời sống công khai của Chúa Giêsu. Ngài sắp lên: TN 31-C43
Chúng ta đang ở vào giai đọan cuối cùng của đời sống công khai của Chúa Giêsu. Ngài sắp lên Giêrusalem để chịu chết, trong bầu khi các môn đệ tỏ ra chưa hiểu gì (18,31-33). Đó là bầu khí đầy tính chất bi kịch, trong đó các biến cố sau đây lần lưôt diễn ra: người mù được chữa lành trên đường Giêricô và câu chuyện ông Giakêu trở lại. Bầu khí trên tạo cho hành động của Chúa Giêsu có một ý nghĩa đặc biệt đáng lưu ý.
Một phép lạ chữa lành hay một cuộc trở lại đặc biệt đối với Đức Kitô, không chỉ có nghĩa là những hành vi đơn giản về lòng thương xót, nhưng chúng mang tính cách tiên tri, từ vị Tiên Tri số một là Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, cuộc trở lại của Giakêu đọc lên cho chúng ta nghe một giáo huấn rất đẹp về lòng thương xót của Thiên Chúa, về chỗ đứng của người tội lỗi trong chương trình cứu độ, về chiều kích mầu nhiệm mà mọi cửa tâm hồn nào mở ra đón nhận Đức Kitô đều có thể đạt tới.
Thái độ của Chúa Giêsu:
Tình yêu của Đấng Tạo Hóa và cứu độ chấp nhận lối đi rất đơn sơ, rất thân mật, rất thân ái, biết tiếp nhận cái không ra gì trước khi ban phát ơn ban cao cả. Cách thế như vậy lại là một trong những cách biểu lộ cao cả nhất lòng thương xót của Thiên Chúa. Nếu vị hòang tử biết hóa trang thành người ăn xin để ban phát của cải mà không làm tổn thương tự ái của người nhận, thì Chúa Giêsu cũng ra đi đến với Giakêu đang lơ lửng trên cây, như một người giảng thuyết lang thang đi xin bữa ăn trưa. Ngài nói với Giakêu: “Giakêu, xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi...”(c.5). Trong cái vội vã của Đức Kitô có một đường nét dí dỏm rất dịu dàng, dường như thể muốn nói rằng: Giakêu, Ta đang đói lắm, nhanh lên, Ta đang muốn lưu lại nhà ngươi để thực hiện cho ngươi mầu nhiệm cứu độ mà Ta đã đến để mang lại cho thế gian !
“Mọi người thấy thế, thì kêu trách rằng: Ông ấy vào ngụ nhờ nhà một người tội lỗi”(c.7). Sự bực mình của người Do Thái lên đến cực điểm, vì Chúa Giêsu không những quyết định dùng bữa ở nhà người thu thuế, mà còn muốn lưu lại ở đó một thời gian nữa. Dùng bữa với người tội lỗi đã là đáng trách lắm rồi, huống chi là ngụ lại nhà họ ! Nhưng điều đó không có ý nghĩa gì đối với Chúa Giêsu, vì Ngài đến là để cứu chữa những gì đã hư mất.
Hành trình trở về của Giakêu:
Ông Giakêu đón tiếp Chúa Giêsu trước cửa nhà, và ông đã lớn tiếng tuyên bố cho mọi người biết sự trở về thực sự của tâm hồn ông “Thưa Ngài, nửa phần của cải tôi, tôi xin bố thí cho kẻ khó, và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn…”(c.8). Giakêu công bố rằng chỉ có lòng bác ái mới có thể xóa bỏ những thiệt hại gây ra do lòng tham lam tiền bạc. Và chỉ có lẽ công bình mới xóa bỏ được bất công. Đồng thời ông cũng cho biết hành động của CG là hòan tòan đúng khi Ngài chọn nhà của ông để tạm trú, một người không qúa xấu xa như người ta lầm tưởng !
Qua lời tuyên bố công khai, ông Giakêu vừa làm một việc thống hối công khai, nói lên sự quảng đại của lòng mình, vừa cho thấy cái nhìn sâu sắc của vị Tiên Tri cao cả là Chúa Giêsu. Cái nhìn của Ngài có thể xuyên thủng mọi bí mật của tâm hồn và làm vọt lên từ đó ánh sáng của Thiên Chúa ngự trong tâm hồn ấy.
3. Sự xác nhận trở về của Giakêu:
Bấy giờ Chúa Giêsu tuyên bố: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi chưng người này cũng là con cái Abraham. Vì Con Người đến để tìm những gì đã hư mất”(9-10). Chúa Giêsu nói với đám đông để gỉai hòa Giakêu với cộng đòan Israel, hòan tòan trả lại cho ông đặc ân và vinh dự của người thừa kế lời hứa với Abraham. Ngòai ra, Ngài công khai bác bỏ ý kiến của các thầy Rabbi Do Thái cho rằng, một vài tội nhân công khai, không thể được ban ơn cứu độ. Cuối cùng, lời ấy nhắc lại một lần nữa rằng: “Sứ mạng của Con Người là đến để tìm và cứu điều đã hư mất”.
Giakêu đã quảng đại đáp lại ơn ban cứu độ ấy. Ông đã thực hành ngay lập tức lời dạy của Đức Kitô, chuyển đổi của cải trần gian thành kho tàng tồn tại mãi trên trời: (x.Lc.12,33-34).
Sứ điệp Tin Mừng:
- Sự trở về của Giakêu là kết qủa của hai ý muốn: Một của Chúa Giêsu đi tìm và cứu chữa điều đã hư mất, và một của chính Giakêu muốn đi ra khỏi chính mình để gặp Thiên Chúa. Cuộc trở về hằng ngày của mỗi người chúng ta cũng xẩy ra như thế: Thiên Chúa đi tìm ta, một tội nhân, và ta mong ước tìm đến Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống đời đời.
- Chúa Giêsu đến ngự nhà Giakêu, ông ta được cứu độ và tỏ lòng thống hối, đền bù lại những sai sót mình đã mắc phải. Mỗi ngày Chúa ngự trong tâm hồn ta, mang ơn cứ độ cho ta, ta cũng phải tìm kiếm những sai lầm mà sửa chữa, mà phục thiện…để mỗi ngày được hiến thánh cho Thiên Chúa hơn.
- Ngôi nhà của Giakêu đã trở thành đền thờ nơi Thiên Chúa trú ngụ. Tâm hồn ta cũng là đền thờ, nơi Thiên Chúa ngự, nơi mạch suối sự sống đời đời không ngừng chảy. Ta có ý thức sâu xa về điều đó trong cuộc sống của ta không ?
Lạy Chúa, xin hãy ngụ lại nhà linh hồn chúng con, để sự hiện diện của Chúa là năng lực biến đổi chúng con nên thánh đức, cho mọi người nhận ra đời sống mới nơi chúng con mà ca ngợi Thiên Chúa.
“Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Da-kêu ; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !" Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !" Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
***
Giê-ri-khô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Gio-đan, là: TN 31-C44
Giê-ri-khô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Gio-đan, là giao điểm của đường lên Giê-ru-sa-lem và các lối qua sông Gio-đan để tỏa về các vùng đất phía đông sông Gio-đan. Giê-ri-khô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giê-ri-khô là "thành cây chà là." Sử gia Do-thái Josephus gọi là "Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Pa-lét-tin." Người La-mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới. Tất cả những hoa lợi đó hợp lại khiến nó trở nên một trong những trung tâm quan thuế lớn nhất trong cả xứ Pa-lét-tin. Giê-ri-khô cũng là thành phố nổi tiếng về đức tin cũng như về không tin "Bởi đức tin tường thành Giê-ri-khô đổ xuống", cũng bởi không tin đến mù quáng những tường thành đã được xây lại để hình phạt đã giáng xuống trên người ương ngạnh. Khi Chúa Giê-su đi ngang qua thành này, Ngài cũng phải chứng kiến cả đức tin lẫn không tin: sự không tin của dân chúng và đức tin của một người tên là Da-kêu. Trong nước Pa-lét-tin có nhiều loại thuế, và cách đánh thuế của họ là cơ hội thuận tiện cho những nhân viên thâu thuế làm giàu mau chóng. Tên Da-kêu có nghĩa là "thanh khiết" nhưng dùng nó để chỉ con người này thật không đáng chút nào. Những ai biết rõ ông sẽ gọi ông là tên ác ôn và có lẽ họ gọi đúng. Ông đứng đầu những người thâu thuế. Có thể có nhân viên thâu thuế lương thiện, nhưng như vậy ông ta sẽ phải nghèo. Các người thâu thuế thường làm giàu bằng tống tiền và tham ô. Da-kêu là một người đã tiến tới mức cao nhất trong nghề nghiệp nhưng cũng là người bị khinh ghét nhất trong vùng.
1. Da-kêu giàu có nhưng không vui thỏa.
Dĩ nhiên ông cô đơn trơ trọi vì đã chọn con đường làm cho mình thành một con người bị xã hội xa lánh. Ông đã nghe nói về Đức Giê-su hay tiếp nhận các người thâu thuế và những tội nhân và ông cũng muốn thử xem thái độ của Ngài đối với ông. Bị mọi người khinh chê ghét bỏ, ông tìm đến với tình yêu Chúa.
2. Da-kêu quyết định nhìn xem Chúa Giê-su và không muốn để bất cứ điều gì cản trở mình.
Đối với Da-kêu, trà trộn với đám dân chúng là một việc đòi hỏi nhiều can đảm, bởi nhiều người sẽ lợi dụng cơ hội đó để tặng anh chàng thâu thuế lùn tịt này một cái đá, một cái đấm, một cái xô đẩy … Đây là một dịp may mà họ không bỏ qua đâu ! Ngày đó Da-kêu có thể bị chen lấn, xây xát, ông sẽ không thể nhìn thấy Chúa Giê-su và đám dân chúng lấy làm khoái chí khi làm cho Da-kêu không thể thấy. Vì thế ông đã chạy trước trèo lên cây sung, đó là thứ cây thường mọc bên đường, có nhiều lá cho bóng mát rất dễ trèo vì thân ngắn và nhiều cành tỏa ra tứ phía. Mọi sự đều khó khăn cho Da-kêu, nhưng con người thấp hèn này có can đảm của con người tuyệt vọng.
Thiện chí của ông được đền đáp bất ngờ, vì khi Chúa Giê-su tớ chỗ ấy, Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông." Đây là lần duy nhất Chúa Giê-su tự mời Ngài làm khách, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài luôn sẵn sàng trú ngụ trong những tấm lòng mở rộng để tiếp đón Ngài. Có người bảo rằng Da-kêu đã "theo đạo" trước khi ông xuống tới đất. Chắc chắn đã có một sự thay đổi lớn lao trong lòng ông khi ông biết rằng Chúa Giê-su đã biết ông tường tận, và ông đoán được Chúa sẽ làm gì cho mình.
3. Da-kêu đã nhân cơ hội để tỏ cho xã hội của ông biết rằng ông đã được thay đổi.
Khi Chúa Giê-su nói với ông rằng hôm nay Ngài sẽ đến nhà ông, và khi ông đã khám phá ra rằng mình đã gặp được một người bạn mới rất tuyệt diệu, lập tức ông có một quyết định. Ông đã quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm. Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới buộc phải đền gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5. Ds 5,7). Da-kêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải. Giáo sĩ Boreham có kể một chuyện đáng sợ. Trong một buổi họp kia, khi vài bà đứng lên làm chứng ơn phước đã được ban, có một bà ngồi câm lặng buồn rầu. Người ta mời bà làm chứng thì bà từ chối. Khi hỏi lý do, bà trả lời: "Trong số những bà vừa đứng lên làm chứng đó có bốn bà nợ tiền tôi mà tôi và gia đình tôi đang đói lắm vì không có tiền mua thức ăn." Lời chứng sẽ hoàn toàn vô giá trị nếu không được bảo đảm bằng hành động thực tế xác chứng cho sự thành thực của lời nói. Chúa Giê-su không đòi sự thay đổi trong lời nói, nhưng Ngài đòi hỏi sự thay đổi trong đời sống.
4. Câu chuyện chấm dứt bằng lời công bố long trọng: "Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." Chúng ta phải luôn cẩn thận để hiểu ý nghĩa của chữ "mất" này. Trong Tân ước, chữ mất không có nghĩa là bị đoán phạt hay kết án, mà chỉ có nghĩa "ở sai chỗ". Một cái gì mất là khi nó ra khỏi chỗ riêng của no, ở vào chỗ không đúng của nó. Một người lạc mất là khi người đó lìa khỏi Thiên Chúa, và người đó được tìm thấy khi người đó bước vào chỗ thích hợp của mình như một người con vâng phục trong nhà và gia đình của cha mình. Bởi tin vào Chúa Giê-su, người thâu thuế thành Giê-ri-khô đã chứng tỏ mìnhlà con cháu của Áp-ra-ham "Cha của mọi kẻ tin". Lòng tin cậy nơi Chúa Giê-su đem lại ơn cứu rỗi dành cho tất cả mọi người, cả cho những kẻ thấp hèn, tuyệt vọng và khinh miệt nhất.
Chúng ta đang ở cuối cuộc đời công khai của CGS. Đức Kitô sắp lên Giêrusalem để chịu chết, dù: TN 31-C45
1. Chúng ta đang ở cuối cuộc đời công khai của CGS. Đức Kitô sắp lên Giêrusalem để chịu chết, dù các tông đồ không hiểu ý nghĩa sự loan báo cuộc tử nạn (18,31-33). Vậy chính trong một viễn tượng bi thảm mà sắp diễn ra những biến cố sau đây: Chúa chữa lành người mù trên đường đến Giêrico, ông Giâkêu ăn năn trở lại. Bầu khí này làm nổi bật những cử chỉ của CGS.
Chữa lành bệnh nhân, việc người ta ăn năn trở lại một cách đặc biệt, đối với Đức Kitô thì không phải đơn thuần là những hành vi thương xót có tính cách vật chất hay tinh thần. Chúng có ý nghĩa tiên tri do CGS, thủ lãnh các tiên tri làm chủ. Quả vậy, Ngài biết rằng ngôn ngữ con người có thể diễn tả các ý niệm nhân loại, nhưng bất lực khi biểu lộ một vài thực tại tinh thần cao siêu hơn. Khi tiếp tục truyền thống tiên tri của Israel trong thứ ngôn ngữ này, Ngài không thể không biết rằng các cử chỉ trong một vài hoàn cảnh có thể thay thế cho từ ngữ và có thể nói lên ý nghĩa của cái vô hình một cách hữu dụng hơn. Những cử chỉ tiên tri này của Đức Kitô làm thành một thứ giáo huấn cụ thể dễ hiểu đối với những người đơn hèn nhất, nhưng lại khiến những người khôn ngoan nhất phải thán phục. Chắc chắn đó là một sự chuẩn bị cho những cử chỉ mà CGS phải làm sau đó dưới hình thức nhiệm tích. Việc ông Giakêu ăn năn trở lại dạy ta cách rõ ràng về lòng thương xót của TC, về địa vị người tội lỗi trong chương trình cứu chuộc và về chiều kích mầu nhiệm mà bất cứ nhà nào mở cửa đón đấng Kitô đều đạt được.
2. Lúc gần tới Giêrico, một người mù tuyên xưng Ngài là Con Vua Đavit. Và CGS đã chữa lành ông ta. Người được làm phép lạ quấn quít theo Ngài và tất cả đám đông bắt đầu ca tụng TC và Ngài đã làm những điều kỳ diệu dường ấy. Tiếng vang của việc chữa lành đầu tiên này lan rộng như cát bụi bay tới Giêricô. Một trong những người đầu tiên nghe được tiếng vang này là ông trưởng ty quan thuế.
Lc thường không nói lên các chi tiết liên quan đến những nhân vật mà ông đề cập đến. Tuy vậy, ông cũng cho ta biết tên của viên chức này là Giâkêu. Cái tên này có nghĩa là “người trong sạch”. Về phía Lc, phải chăng đó là chuyện hài hước ? Bởi vì một người thu thuế mệnh danh là “người trong sạch” cho ta cảm tưởng tương tự như một người hà tiện có biệt hiệu là “người quảng đại”. Nếu Lc không muốn làm hề để chúng ta cười thì những người ở Giericô, chính họ chắc chắn biết cái tên này không thích hợp với con người chút nào: Giâkêu, người tôi lỗi do bởi chức vị, dưới mắt họ được gọi tên là kẻ bị khai trừ. Giâkêu là người thu thuế; ông giàu có nhờ đó, nhưng cũng vì đó mà gặp phải bất hạnh.
3. Đức Kitô là người đưa ra sáng kiến giúp ăn năn trở lại. Đã đến lúc CGS xin hoặc nhận sự trợ giúp để tạo nên cơ hội cho Ngài ban ân sủng. Ngài xin người đàn bà xứ Samaria một chút nước để mạc khải cho Ngài biết Ngài có một thứ nước hằng sống làm hết khát và có thể biến cải bất cứ hữu thể nào thành nguồn nước tuôn trào trong cuộc sống vĩnh cửu. Ngài nhận dầu thơm của người đàn bà tội lỗi để minh nhiên hóa việc tha thứ Ngài ban cho bà trước mặt mọi người. Như vậy, TC làm người muốn biểu lộ một tình yêu chứ không phải là một sự thương hại. tình yêu sáng tạo và cứu độ trước hết chấp nhận đường lối đơn giản, thân tình của tình bạn là nhận ngay trước khi trao ban. Và chắc chắn đó là một trong những biểu lộ cao cả nhất của lòng thương xót của TC đối với những hữu thể mà Ngài muốn ban đầy ơn phúc.
Trong khi vị hoàng tử cải trang thành người ăn mày để bố thí mà không đánh mất danh dự, thì CGS đến với người thu thuế đang ở trên cây, như một người giảng rong để kiếm ăn: Ngài nói với ông: “Giâkêu, trèo xuống mau”. Trong cái vội vàng của CGS có một thứ hài hước đầy dịu dàng, gần như là Chúa muốn nói với ông: Giakêu ta đói lắm rồi, vội vàng lên chứ ! Thực vậy Ta muốn khẩn trương tới nhà ngươi để mầu nhiệm cứu độ mà Ta mang đến cho thế giới được hoàn tất nơi ngươi.
“Thấy vậy, mọi người xôn xao và nói: ông này đến trọ nhà một người tội lỗi” (c.7). Gương xấu lên tới tột điểm khi CGS không những chỉ quyết định dùng cơm tại nhà người thu thuế, mà còn muốn ở lại đó một thời gian. Nguyên việc dùng cơm với những người tội lỗi công khai đã là nặng rồi; hơn nữa việc tạm trú trong nhà người tội lỗi công khai chắc chắn làm người ta chỉ trích ầm ĩ. Lời xôn xao này, không phải chỉ do một vài người biệt phái ưa chỉ trích, nhưng chắc chắn là của toàn thể đám đông.
4. “Nhưng Giakêu nhất quyết nói với Chúa: vâng, lạy Chúa, con sẽ lấy nửa gia tài của con để cho người nghèo...” (c.8a). Thật vậy, Giakêu đang đón Đức Kitô nơi cửa nhà ông. Dường như, ông cố ý tuyên bố công khai với hai chủ đích. Một đàng muốn nói lên sự thành tâm ăn năn trở lại của ông, Đàng khác, một cách nào đó, ông có ý khẳng định trước mặt mọi người rằng CGS đã làm đúng khi chọn trọ tại nhà một người không có tà tâm như người ta tưởng. Khi công khai thống hối để nói lên tấm lòng đơn sơ quảng đại của ông, Giakêu đã cho cử tọa thấy và biết cái nhìn phi thường của vị tiên tri ghé qua Giêricô hôm ấy. Cái nhìn của Ngài thành công ở chỗ đụng tới tim đen và từ đó làm lóe lên ánh sáng của TC.
Câu nói của người thu thuế trùng hợp cách kỳ lạ lời cầu nguyện của người biệt phái đầy kiêu căng - xem dụ ngôn thuật lại ở trên - “Tôi dâng một phần mười của cải của tôi” (Lc 18,12). Tuy nhiên giữa người tự kiêu vì đã chu tất của lễ mình dâng và người tội lỗi công khai dưới tác động của ân sủng, bằng lòng cho đi nửa gia tài, thật là khác biệt giữa một lòng sùng đạo cách ngu ngốc với một người như thánh Phanxicô khó nghèo hoặc thánh Gioan TC, là những vị đã bị đảo lộn bởi những tác động đầu tiên của TC. Khi hy sinh như thế, không có gì là nặng nề đối với người biết mình đã được tha thứ.
Thế nhưng, Giakêu để ý ngay đến việc bác ái và công bằng. Ông biết rõ là khi hành nghề, ông đã có thể lạm thu thuế má và bây giờ ông hối hận và muốn sửa lỗi. Ông áp dụng cho ông luật ghi trong sách xuất hành Ai cập (Xac 21,1) được Đavit nhắc lại (2S 12,6) được dự trù trong những trường hợp tương tự. Giakêu cũng phát biểu rằng chỉ có lòng bác ái mới xóa sạch các vết nhơ do việc làm tiền quá đáng của ông, rằng chỉ có sự công bằng mới xóa sạch bất công. Dù sao ông cũng không keo kiệt.
5. Bấy giờ, CGS quay về phía Giakêu, nhưng lại nói với tất cả cử tọa; hình thức văn phạm của Lời Ngài (Ngài nói về ông Giakêu ở ngôi thứ ba) chứng minh điều này. Qua đó, Ngài hòa giải Giakêu với cộng đoàn Israel, trả lại cho ông các đặc quyền thừa tự lời hứa. Ngoài ra, Ngài còn công khai bác bỏ luận điệu của những luật sĩ tham quyền, theo đó , một số người tội lỗi công khai không thể có hy vọng được cứu rỗi. Cuối cùng, những lời này một lần nữa nhắc lại sứ mạng của Con Người “đến tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất” (x.Lc 15,6.9.24.32).
Khi quảng đại đón nhận ơn cứu độ, Giakêu khẩn trương thi hành lời khuyên quí báu nơi phúc âm Lc: phải mau mắn biến cải những sự giàu có thế gian thành những giá trị thiêng liêng theo định luật nhiệm mầu về sự giao hoán do Đức Kitô đề ra: “Của cải, các ngươi hãy bán đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền không hề hư hỏng, kho tàng không hề hư hao trên trời, nơi trộm cắp không lai vãng và mối mọt không nhấm nát. Bởi vì, kho tàng các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi ở đó” (Lc 12,33-34). Thật vậy, phải có ân sủng do sự hiện diện của CGS mới có thể khuất phục cách mau lẹ một nhà tài chánh thay đổi hệ thống kinh tế của mình.
6. Câu chuyện Giakêu có một sắc thái đặc biệt khi được đặt trên hậu cảnh CƯ, gợi lại sự hiện diện đáng sợ của TC trong một vài nơi đặc biệt. TC, đấng xưa kia chỉ vào nơi cung thánh của đền thờ với vẻ lộng lẫy cao cả của vinh quang Ngài, bây giờ đang ở trong nhà người tội lỗi với vẻ đơn sơ của Ngôi Lời Nhập Thể. Chắc chắn, đền thờ Salomon xây đã trở nên nơi gặp gỡ của dân tộc tội lỗi với TC của họ (1V 8,20-40), thế nhưng, thực tế người ta đến đó triều bái hoàng tử để xin Ngài thương xót. Ngày hôm nay TC di tản chiến thuật, chính Ngài đến cư ngụ nhà người tội lỗi.
Có một cái gì đó đã thay đổi trong quan niệm về cung thánh và người Kitô hữu bây giờ không còn thấy Đền thờ của họ như kiểu mẫu thời xưa. Đối với người đàn bà Samaria, CGS mạc khải ngày tàn của các cung thánh muốn trở thành trung tâm của thế giới: TC phải được tôn thờ “trong tinh thần và chân lý” (Gio 4,24). CGS cũng nói cho chúng ta biết thân xác của Ngài là đền thờ mới (Gio 2,19-21). Khi CGS vào nhà ông Giakêu, Ngài chính là đền thờ đích thực, là cung thánh duy nhất, từ đó tuôn ra nước hằng sống cho đời sống vĩnh cửu đến thánh hóa nhà người tội lỗi.
Nhà của người bất xứng, nhờ có Đức Kitô hiện diện, trở thành một nguyện đường, nơi đó cử hành phụng vụ về lòng xót thương và nghi lễ hiệp thông. Giakêu trần tình nơi cửa nhà ông. Không ai cấm ông ngồi bên CGS trong bữa ăn được dọn ra sau khi Ngài vào nhà. Như vậy trong một vài giờ, tại một căn nhà ở Giêrico có cử hành mầu nhiệm thánh, khiến nhà ở của con người trở thành nơi cư trú của Đền thờ chân thật duy nhất là nhân tính của CGS.
KẾT LUẬN
Câu chuyện Giakêu ăn năn trở lại gồm tóm tất cả những từ ngữ cũng như những ý tưởng đặc trưng của Lc: hôm nay, ơn cứu độ; cứu vớt những ai lạc mất; (người) nhỏ bé, (người) tội lỗi, (người) thu thuế; ý định cứu độ của TC là cần thiết; sự vội vàng đón tiếp vào nhà, sự vui mừng. Chính ân sủng dồi dào của TC và thiện ý đầy tràn của con người được tỏ lộ tại Giêricô, thành phố mà từ đó CGS lên Giêrusalem, thành chờ đợi lịch sữ cứu độ hoàn tất, là nơi phát xuất ơn cứu độ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. CGS để ý thấy Giakêu đang ở trên cây sung và Ngài là người có sáng kiến mang lại ơn cứu độ cho ông. Về phía Giakêu, ông ước ao gặp CGS và làm mọi cách để cho Ngài thấy cũng như được thấy Ngài. Sự gặp gỡ kỳ quặc giữa kiểu cách con người và sáng kiến của Chúa xem ra rõ ràng trong cảnh này tại Giêrico. Dù với hai chủ đích khác nhau, hai tiếng gọi đã gặp nhau, tiếng gọi của con người muốn đi ra khỏi chính mình và vận dụng mọi cách để đạt được điều đó và tiếng gọi của Chúa muốn tìm kiếm những ai lạc mất.
2. Giakêu không thiếu gì, ông giàu có, ông đã thỏa mãn được những khát vọng của mình; tuy nhiên, ông vẫn còn kiếm tìm một vật gì khác, một con người nào khác vì cảm thấy tâm hồn băn khoăn; có thể ông không biết CGS là ai, thế nhưng bị một thứ gì đó thúc đẩy ông muốn nhìn xem vị tiên tri này: chỉ ngay sau đó ông mới nhận biết Ngài. Dường như ông Giakêu và CGS, cả hai đều xúc động do cùng một hấp lực hỗ tương.
3. Trong câu sau cùng của trang phúc âm này, CGS xem ra không nói với ông Giakêu, đúng hơn Ngài nói với các nhân chứng, với đám đông. Ngài bắt đầu câu “người này cũng là con cái Abraham”. Qua đó, hình như Ngài muốn nói với chúng ta biết rằng mọi người đều là con TC và nếu chúng ta từ chối hoặc khai trừ ai chính là vì chúng ta ngu dốt, hoặc thiển cận. Rồi Ngài nói tiếp: “Bởi vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất”. Ở đây cũng vậy, Ngài muốn dạy chúng ta đừng giới hạn ánh sáng phúc âm, chỉ dành riêng cho những người xem ra xứng đáng đối với chúng ta.
4. Sự gặp gỡ giữa Giakêu tội lỗi và CGS tượng trưng cho chính tâm trạng của chúng ta. Trong mỗi người chúng ta đều có con người tội lỗi và Chúa. Con TC đến sống trong mỗi người tội lỗi; trong mỗi tín hữu, Giakêu vẫn tiếp tục hiện hữu cho đến khi “Chúa dùng quyền năng của Ngài mà kiện toàm những ý định ngay lành”, như thánh Phaolô viết trong thư gởi tín hữu Thessalonica mà chúng ta vừa nghe đọc. Điều này khiến chúng ta vừa bạo dạn để có thể chu toàn những đòi hỏi riêng biệt do đức tin của chúng ta, bất chấp dư luân của “đám đông chung quanh”, cũng như lưu ý chúng ta phải luôn thận trọng khi có ý kiến về những người khác.
5. Người rước lễ cũng đón nhận CGS vào nhà mình. Để việc hiệp thông Thánh Thể trở thành hiện tại của ơn cứu độ, người rước lễ phải sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì Chúa biết.
6. Trong thánh lễ này, chúng ta hãy cầu ngumyện cho nhau, cho mọi người, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ “bị lạc mất” mà Chúa đang tìm kiếm để cứu vớt.
Ai tin Chúa cũng hy vọng nhờ Chúa là Đấng toàn năng và Thánh thiện, Ngài tiêu diệt tội lỗi: TN 31-C46
Ai tin Chúa cũng hy vọng nhờ Chúa là Đấng toàn năng và Thánh thiện, Ngài tiêu diệt tội lỗi không còn nảy sinh từ lòng người, gian ác không còn lan tràn trong xã hội. Nhưng thực tế xem ra ngược lại niềm tin trên. Do đó sách khôn ngoan lên tiếng giải thích: “Chúa xót thương mọi người, vì Người toàn năng phép tắc. Người làm lơ đi trước tội lỗi người phàm, chờ chúng hối cải, vì Ngài yêu quý những gì Ngài đã dựng nên, chứ không ghét bỏ nó, vì chúng hết thảy là của Chúa, do đó Ngài muốn sự gì tồn tại nó có mãi” (bài đọc I).
Như thế sự dữ còn xảy ra diễn tả tình thương, sự kiên nhẫn của Chúa, Ngài là Đấng mạnh, vì người ác và yếu thế mới tiêu diệt đối phương, bậc trượng phu nhân ái và toàn năng đâu có hành động như phàm nhân.
Nhưng sự ác không tồn tại muôn đời được, đến ngày Chúa quang lâm, sự ác bị tiêu diệt hoàn toàn, do đó Thánh Phaolô nhắc: “Chúng ta đừng giao động, vì Chúa trở lại Ngài cho ta được hội ngộ với Ngài. Điều quan trọng phải lo lắng là chúng ta luôn sống xứng đáng với ơn Thiên triều, và lấy quyền năng làm cho viên thành ý chí ngay lành và công việc của lòng tin” (Bài đọc II). Ong Zakhê trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ sống động những Giá trị nêu trong bài đọc I và II:
1/ Ý THỨC MÌNH CÓ TỘI, THÌ TÌM HẾT CÁCH ĐỐI DIỆN VỚI CHÚA:
Ađam và Eva xưa phạm tội, Chúa đến tìm họ nhưng họ lại lủi vào lùm cây để lánh mặt Chúa (x St 3,8-9). Ong Zakhê thì khác hẳn: Chạy đi tìm Chúa và leo lên cây cao để nhìn Chúa, vì ông thấp bé nhất tong đám vây quanh Chúa, cuối cùng người tội lỗi “lùn” này lại là người “cao”nhất trong đám đông ấy !
Bạn tội lỗi hơn mọi người ư ? Bạn đừng mặc cảm và thất vọng, hãy bắt chước Zakhê tìm hết cách đối diện với Chúa. Cụ thể bạn đã có sáng kiến gì trong việc tìm kiếm lời Chúa? Đón nhận bí tích? Quan tâm đến nhu cầu người khác?
2/ QUÊN MÀ NGHĨ ĐẾN NGƯỜI KHÁC LÀ DẤU CÓ CHÚA Ở CÙNG
Khi Zakhê được Chúa nhìn, ông được gọi tên, được Chúa đến nhà. Nói tắt, Zakhê được Chúa biết đến và được Ngài ở cùng, tức khắc một phép lạ xảy ra khiến anh nên người công bằng và bác ái, rất quảng đại như lời Zakhê thưa với Chúa: “Này nửa phần của cải tôi, thưa Ngài, tôi xin chia sẻ cho kẻ khó, và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp 4” (Lc 19,8). Làm thế ông đã quảng đại hơn luật đòi hỏi:
- Lv 5, 22-24: Phải đền 1+1/5 của gì vớ được hay của ăn gian người khác.
- Xh 22, 3-6: Phải đền 1+1(gấp đôi) khi trộm chiến cừu, bò, lừa mà chưa giết, hay chưa bán đi; hoặc trộm của cải gì mà chưa tẩu tán.
- Xh 21, 37: Phải đền 1+3 (gấp 4) khi trộm chiến cừu mà đã giết hay đã bán đi; phải đền gấp 5(1+4) khi trộm trâu bò mà đã giết hay đã bán đi.
Rõ ràng ông thu thuế Zakhê này:
Hơn ông biệt phái: giữ luật vì Chúa, dâng cho Chúa 1/10 tài sản ông có (Lc 18,11t). Khác với ông Zakhê, giữ luật vì người ta, dâng cho người ta 1/2 gia tài ông có và đền gấp 4 lần của cải cho ai ông đã gian lận, trong khi luật chỉ buộc kẻ ăn gian đền gấp 1+1/5 (Lv 5, 22-24).
Ông thu thuế Zakhê này cũng hơn ông thu thuế tuần trước, đến nhà thờ chỉ thấy mình có tội, nên không dám ngước mắt mhìn Chúa (Lc 18-13).
Zakhê đã hành động theo mãnh lực tình yêu: “Dù nước lũ có dâng lên, dù sóng cồn có ập tới, cũng không dập được tình yêu. Ai đem hết gia tài sự nghiệp đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dễ” (Dc 8,7).
Thật đúng như lời triết gia Kierkegaard nói: “Làm một Kitô hữu mà không có chút điên khùng, thì không phải Kitô hhữu chính danh”.
3/ GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC ÁI:
a. Đức ái tạo nên dòng giống Thiên Chúa chúc phúc:
Cả một tập thể Do Thái, thuộc dòng giống Abraham theo huyết nhục, họ chen chúc theo Chúa trên đường Giêrusalem đi ngang qua Giêrikhô, thế mà Chúa không xác nhận ai là con Cháu Abraham, Ngài chỉ tuyên bố một mình Zakhê thuộc dòng giống Abraham, được Chúa chúc phúc: “Ta sẽ ban phúc lành cho ngươi nên đông đúc như sao trên trời như cát bãi biển, và dòng giống ngươi sẽ chiếm đoạt cửa thành quân địch. Mọi dân Thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe lời Ta” (St 22,17-18).
Tại sao thế? Ay tại Zakhê biết rộng tay chia sẻ, như xưa Abraham đón ba người khách lạ vào nhà (x St 18,1-15).
b. Đức ái cứu mình và cứu người thuộc về mình:
Một mình Zakhê có quyết tâm chia sẻ mà Chúa xác nhận: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến nhà này”. Vì “việc chia sẻ thanh tẩy tội phạm và cứu khỏi sự chết” (xem Tob. 4,10; 12,9; Dan.4,24; Hc 3,30; I Pr 4,8). Thực vậy, bà Linh Dương biết chia sẻ, khi chết được Thánh Phêrô cầu cho bà sống lại (xem Cv 9). Con của các bà ngoại giáo ở Sarepta hay ở shunem đã chết, nhưng Elya và Elysê đã cầu cho hai cậu sống lại, vì mẹ của họ đã giúp người của Thiên Chúa (xem I V.17. 2 V. 4).
Chính vì thế mà Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Ở nhà thờ thân xác Chúa Kitô không cần quần áo, mà Ngài cần tâm hồn sám hối của ta, nhưng ở ngoài nhà thờ, thì Ngài lại cần cả quần áo. Vậy anh em hãy tôn kính Ngài theo kiểu Ngài ưa thích: đó là chia sẻ cho kẻ khó, Thiên Chúa không cần bình vàng, nhưng cần tấm lòng vàng. Trước khi dâng cúng gì cho Chúa, anh em hãy chia sẻ cho đồng loại. Thiên Chúa mới vui nhận lễ vật anh em dâng. Vì khi dâng lễ vật thì chỉ có người dâng cúng được lời, còn khi chia sẻ thì cả người dâng, lẫn người nhận đều có lời. Việc dâng cúng có thể là cơ hội xem ra phô trương công đức, còn việc chia sẻ thì chỉ là việc từ thiện biểu hiện lòng thương xót” (Trích bài đọc II trong giờ kinh sách thứ bảy, tuần 21).
Kết luận:
Dưới ngòi bút của Luca tong Tin Mừng và trong Tông đồ Công vụ ông rất gay gắt về vấn đề tiền của, ông cho thấy nó xấu hơn là tốt, đan cử:
- Lc 6, 20-21: Mối Phúc - Họa - Lc. 12, 13t: Phú hộ được mùa xây kho lẫm. - Lc 16t: Quản lý bất lương; phú hộ và Lazarô. - Cv 5, 1t: Ananya và Saphira gian dối.
Nhưng đặc biệt chỉ có hai hình ảnh người biết dùng tiền của:
Lc 8, 1-3: Các bà tội lỗi và ngoại Giáo cùng một số bà đã lấy của cải do tay làm ra để giúp Chúa Giêsu và các môn đệ trong 3 năm truyền Giáo. Các bà đã được kể chung trong danh sách môn đệ Chúa.
Lc 19, 1t: Zakhê là người cuối cùng Chúa gặp sau ba năm truyền Giáo, ông là người tiêu biểu cho quản lý trung tín của Chúa biết cách dùng tiền của, nên ông đã trở thành như mẫu người được đi chung đường khải hoàn vào đền Thánh Giêrusalem (Lc 19, 18t).
Trong Thánh Lễ này, chúng ta có điều kiện được hơn Zakhê khi xưa, vì ngoài lòng sám hối và Đức ái của ta, ta còn được Chúa thanh tẩy và ban cho ta nên một dòng giống trong Con Thiên Chúa hơn dòng giống Abraham. Nhưng thực tế Thánh Lễ đông nghẹt người, mà liệu có người nào được Chúa chúc phúc như Zakhê không? Vậy ít ra ta đã sám hối và cậy vào lòng thương xót của Chúa như tên trộm lành (Lc 23, 35-43), hay như ông thu thuế đến nhà thờ sấp mặt sám hối trước nhan Chúa ! (Lc 18, 13).
Khi đại tướng Eisenhovver từ Âu Châu trở về, máy bay của ông đáp xuống Axores để dùng bữa: TN 31-C47
Khi đại tướng Eisenhovver từ Âu Châu trở về, máy bay của ông đáp xuống Axores để dùng bữa sáng. Đại tướng đi bộ quanh đảo, bắt tay và ký tên lưu niệm. Máy bay sắp cất cánh, một người lính trẻ chạy đến kêu lên: “Tôi nhớ đại tướng Eisenhovver, tôi phải thăm Người và bắt tay Người”. Viên sĩ quan hộ vệ nói với Đại tướng: “Một người bạn của Đại tướng ở ngoài kia”. Tức thời tổng thống tương lai ra khỏi máy bay đặt tay quanh vai người lính trẻ, bắt tay và ký tên lưu niệm, sau đó đại tướng trở lên máy bay.
Cái khao khát được thấy người có danh vọng và gặp gỡ họ, là bình thường giữa chúng ta. Yakêu trong bài Tin Mừng hôm nay đã có cái khao khát ấy, ông muốn thấy Chúa Giêsu, ông đã nghe nói nhiều về Người, sứ điệp của Người và hoạt động của Người. Ong muốn thấy Ngài, dù phải leo lên cành cây vì ông thấp bé.
Cái khao khát đó ở nơi mục đồng, khi thiên thần báo tin về một hài nhi ở Betlem: “Chúng ta đến Betlem và xem sự việc được xảy ra”. Cái khao khát này ở nơi những người dân ngoại, họ đến với Philippe và xin: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp đức Giêsu”, cái ước mong đó còn thấy nơi những môn đệ của Gioan: “Thưa thày, Thày ở đâu ?” Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến mà xem”. Người phụ nữ tại bờ giếng Giacop nói với dân làng: “Hãy ra mà coi”.
Hai ngàn năm sau đó bạn và tôi cũng có cùng một khát vọng được thấy Chúa Giêsu, nhìn được Người một cách nào đó. Lạ lùng thay chúng ta có thể thấy Người, mà thật chúng ta thấy Người.
Như Yakêu, bạn cố gắng để thấy Chúa Giêsu bằng việc đến tham dự thánh lễ này. Khi truyền phép vị linh mục dâng cao Mình Thánh Chúa Kitô. Ngẩng đầu lên, nâng lòng lên bạn nhìn thấy Người. Trước khi rước lễ vị linh mục nâng cao Chúa Giêsu cho bạn thấy và nói: “Đây chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hãy nhìn vào Chúa chúng ta. Hãy nhìn Người khi bạn sắp sửa rước lấy Người. Khi xưa Người ta dạy rằng: hãy nhắm mắt lại khi bạn rước Chúa, phương cách mới và tốt hơn là bạn ngắm nhìn của lễ thánh, Chúa chúng ta khi bạn rước Người. Bạn thấy và nghe Chúa trong bài Tin Mừng công bố mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta thấy Chúa Kitô trong con người vị linh mục đang chủ sự thánh lễ.
Chúng ta cũng có thể thấy Chúa Giêsu trong những người chung quanh chúng ta, nhất là trong những người thiếu thốn, nghèo nàn, đó khát, bệnh tật, buồn phiền, ngu dốt. Chúa Giêsu ẩn núp trong thân xác họ, trong y phục của họ: “Những gì các con làm cho họ là các con làm cho Thày”.
Lòng khao khát thấy Chúa Giêsu là một lý do – chúng ta – những người công giáo chưng bày ảnh tượng Chúa trong nhà mình.
Vậng, chúng ta muốn thấy Chúa Giêsu như có thể như Zakêu, như người lính trẻ muốn gặp đại tướng Eisenhovver. Chúng ta hãy cố gắng mọi cách để thấy Người. Và chúng ta thấy Người – Trong giờ này đây.
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su đi ngang thành phố Giê-ri-khô, một trung tâm thương: TN 31-C48
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su đi ngang thành phố Giê-ri-khô, một trung tâm thương mại quan trọng giữa Giê-ru-sa-lem và phương Đông. Ông Da-kêu làm xếp thuế quan ở đây thì đúng là chuột sa hũ nếp, “quá xá đã” ! Chỉ có điều hơi oái oăm ngay trong cái tên của ông. Tiếng Do-thái, Da-kêu có nghĩa là “sạch”, thế mà ông lại chấp nhận... dơ cũng được, miễn là có tiền ! Dân Do-thái thời ấy coi nhân viên thuế quan là những người tội lỗi công khai, ngang tầm với bọn trộm cắp, giết người, đĩ điếm. Ăn thua chi, xầm xì mặc bây, tiền thầy bỏ túi ! Dân không ưa nhưng nhà nước Rô-ma thì dung túng, có thế thì tiền bạc mới chui đều đều vào kho mẫu quốc chứ. Thánh Lu-ca khi viết Tin Mừng này chắc cũng có tính hài hước dí dỏm: cái ông Da-kêu ở dơ như thế mà ai gặp ngoài đường cũng phải: “Thưa ông Da-kêu”, tức là “Thưa ông Sạch” cơ đấy !
Chuyện kể rằng người ta đi theo Chúa Giê-su đông lắm, lùn như Da-kêu thì không cách chi thấy được ông Thầy Giê-su đang nổi như cồn này. Làm xếp mà lại phải leo cây thì không được đẹp cho lắm, càng khó coi hơn nếu xếp có bụng bự, nhưng vì quá háo hức hiếu kỳ, Da-kêu vẫn muốn nhìn xem ông Giê-su một phen cho biết. Mà xếp có phải leo cây thì chắc cũng bảo gia nhân bắc thang lên cây trước nhà. Ra đường đụng với đám đông này chẳng may chúng nó nhận ra thì chỉ tổ cho chúng nó tha hồ đàm tiếu, châm chọc, xỏ xiên, ấy là chưa kể băng nhóm Nhiệt Thành có thể lợi dụng cơ hội trà trộn đánh nguội cho vài chiêu rồi biến mất.
Ông Da-kêu có thể bất cần dư luận, nhưng tự trong thâm tâm ông biết mình có tội với nhân dân, có tội với Chúa. Ông biết chứ, trước mặt ông người ta vâng vâng dạ dạ vì ông có quyền và có tiền, ông lên xe xuống ngựa, nhưng trong bụng thì họ khinh. Còn Chúa ? Ông bỏ lâu rồi ! Ông xa Chúa xa người. Ông cô đơn. Ông là loại... nhà giàu cũng khóc. Nước mắt khô lăn chảy trong lòng. Nhưng ông nghe người ta nói có một vị Thầy nhân danh Chúa mà đến, làm bao nhiêu là phép lạ, mà lại đi giao du thân tình với những phường tội lỗi như ông, lại còn nhận cả một nhân viên thu thuế làm đồ đệ nữa chứ ! Một chút “sạch” còn sót lại trong ông bừng dậy cùng với sự hiếu kỳ. Ông muốn thấy vị Thầy ấy cho bằng được.
Khi tội lỗi đi vào thế giới, Thiên Chúa lấy ra khỏi con người ta cõi Địa Đàng, và thay vào đó là một lời hứa: một chút gì đó tinh tuyền trong sạch sẽ không hề mất được. Bao lâu còn sống trong cái bể tội đời này thì người ta còn quay quắt với lời hứa ấy, cho dẫu người ta muốn gạt phăng nó đi cho khỏi bị quấy rầy.
Tôi thường nhận đi Giải Tội ngoài Bắc, Mùa Chay nào cũng có những người ngày xưa bỏ Đạo để vào Đảng, bây giờ nghỉ hưu lại quay về với Chúa. Có người xưng tội tỉnh queo nhưng cũng có người nức nở. Thế mới biết rằng dù tỉnh queo hay nức nở thì ba, bốn, năm chục năm dài trôi qua vẫn không hủy diệt được cái lời hứa bé như hạt cải ấy. Nó vẫn cứ nằm đó chờ một cơn mưa. Thánh Âu-tinh nói thế này: “Tại vì Chúa đã dựng nên con, nên tâm hồn con cứ chao đảo bâng khuâng mãi cho tới khi nó được về nghỉ yên trong Chúa”.
Chúa Giê-su gọi đích danh “Da-kêu” cũng là “Sạch”. Ngài gọi ngay cái “sạch”, đụng tới cái lời hứa nằm sâu trong con người tội lỗi công khai ấy. Hạt cải khi đó gặp mưa rào. Và lập tức mọc thành cây lá xanh tốt: “Đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Chúa dạy ta đừng thất vọng trước bất kỳ một người tội lỗi nào, cho dù thực bụng chúng ta thấy trăm phần trăm hết thuốc chữa. Chuyện ấy chẳng có chi là lạ, vì chúng ta đâu có biết một chút “sạch” còn có nơi người ta nằm ở chỗ nào. Còn Chúa thì biết chính xác, vì Người đã đặt nó ở đó từ thuở tạo thành và chẳng bao giờ quên nó, quên “lời hứa” của Ngài. Thế nên đi truyền giáo, đi lôi kéo những người bỏ Chúa lâu năm mà không cầu nguyện, không nhờ Chúa gọi đích danh người ta như Chúa đã gọi ông Da-kêu thì cầm chắc thất bại. Thế nên chỉ có Chúa mới có thể xoay chuyển lòng dạ một con người.
Thật vậy, hãy thử xem nếu chỉ dựa vào sức người ta không mà thôi, chẳng cần nhờ tới Chúa thì làm được gì với một ông Da-kêu bê bối, bết bát và bậy bạ như thế này ? Bài Tin Mừng nói rằng mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Hết ! Nghĩa là người ta chỉ trông thấy “tội” chứ không hề thấy chút gì “sạch” nơi ông Da-kêu. Tệ hơn thế, cả cái nhà ông ta ở cũng lây tội nên đừng có mà léng phéng lui tới làm gì. Thế nhưng, tiếng Chúa gọi mới là yếu tố quyết định, Chúa phải lên tiếng mới xong, vì vậy chúng ta đừng bao giờ coi thường lời cầu nguyện cho người tội lỗi. Thánh Clemente Hofbauer, vị Thánh hoạt động vào bậc nhất của DCCT vẫn bảo rằng: “Hãy nói với Chúa về người có tội hơn là nói với người có tội về Chúa !”
Thật là thiếu sót lớn nếu chúng ta không nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa trong câu chuyện hôm nay. Ngay từ thuở tạo thành, khi trời chiều hiu hiu gió, Thiên Chúa theo thói quen, lại ghé qua vườn Địa Đàng dạo chơi trò chuyện với con người. Vào cái ngày con người phạm tội, A-đam và E-và trốn chui trốn nhủi khi nghe tiếng bước chân Người đến. Tìm không thấy, Thiên Chúa lên tiếng gọi: “Ngươi ở đâu ?” Kể từ đó, Thiên Chúa mải miết đi tìm con người, còn con người thì luôn luôn tìm cách lẫn tránh Thiên Chúa.
Hôm nay chắc ông Da-kêu chỉ muốn leo cây để nhìn bóng dáng Chúa xa xa mà thôi, làm gì dám nghĩ đến chuyện Chúa sẽ ghé vào nhà ? Nhưng Chúa ngàn năm vẫn là người đi tìmđđi kiếm, ngàn năm vẫn là Đấng lên tiếng gọi con người. Với ông Da-kêu, Chúa Giê-su đã dùng một phương thế hết sức tự nhiên pha một chút tế nhị dễ thương để có dịp ban Ơn Cứu Độ: Ngài xin ông một bữa ăn trưa, một chỗ ngả lưng ngơi nghỉ. Một xếp như Da-kêu trong hoàn cảnh như thế hẳn đã không hề bị chạm tự ái khi nhận mình có lỗi để được Ơn Cứu Độ.
Chưa hết, thấy đám đông xầm xì về “nhà người tội lỗi” ư ? Chúa Giê-su công khai tuyên bố: “Hôm nay, Ơn Cứu Độ đã đến cho nhà này”. Vẫn chưa xong, ông Da-kêu bị cộng đồng loại bỏ ư ? Chúa Giê-su mang ông trở về lại: “Người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”. Ban Ơn Cứu Độ cho một người tội lỗi cỡ như Da-kêu mà vẫn trân trọng và tế nhị. Chúa Giê-su thật tuyệt vời ! Đám đông so với Đức Giê-su, tình người so với tình Chúa, một vực một trời !
Chúa Giê-su còn muốn đi xa hơn sự tha thứ. Mọi sự tha thứ đã xong rồi ở trước cửa nhà ông Da-kêu. Bây giờ thì Ngài muốn hơn thế, muốn vào nhà, muốn đồng bàn, muốn lưu lại. Nhà có Chúa là nhà tràn ngập tình thân ái, ông Da-kêu ngỏ ý mời bạn và tôi vào chung vui với ông một ly. Thế, bạn có chịu vào không ? Hình như Chúa Giê-su cũng có ý ghé chơi nhà bạn nữa đấy. Bạn có chỗ cho Ngài lưu lại không ?
Đọc bài Tin Mừng Chúa Nhật 31 Thường Niên năm C, tôi thấy ấm lòng, vì xác tín rằng Chúa Giê TN 31-C49
Đọc bài Tin Mừng Chúa Nhật 31 Thường Niên năm C, tôi thấy ấm lòng, vì xác tín rằng Chúa Giê-su đến thế gian này để tìm và cứu những những người tội lỗi .
Thật vậy, trong bài Tin Mừng, mọi người khinh bỉ và xa lánh ông Da-kêu, nhưng Chúa Giê-su lại chủ động kết thân với ông. Trong thế giới người Do Thái thời ấy, ông Da-kêu là người tội lỗi đáng nguyền rủa vì đã tiếp tay với đế quốc bóc lột đồng bào mình qua việc thu thuế. Ông Da-kêu đứng đầu những người thu thuế, vậy ông còn đáng ghét hơn những người thu thuế khác bội phần. Chúa Giê-su cũng là người Do Thái, nhưng Ngài không cư xử với ông theo cách thức của những người cùng thời. Thấy ông vì thân mình quá thấp bé phải vất vả leo lên cây để tìm cách trông thấy Ngài, Chúa Giê-su gọi ông xuống và đề nghị ở lại nhà ông. Một lời đề nghị gây “sốc” cho mọi người có mặt lúc đó: ”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !”
Vâng, theo luật Do Thái thì phải xa lánh người tội lỗi. Ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng bị nhiễm uế, đáng khiển trách ( Lc 5, 30; 15, 2 ). Chúa Giê-su không phân biệt người tội lỗi với người công chính; người tốt với kẻ xấu theo thói tục thông thường.Dưới mắt Ngài, chỉ có một nhân loại đáng thương, một nhân loại không biết mình đang chìm đắm trong vòng tội lỗi, một nhân loại nhân danh chân lý để nghi kỵ và giết nhau không thương tiếc. Ngài được sai đến để giải thoát họ, để đưa họ về sống đúng với nhân phẩm của con cái Thiên Chúa.
Ngay khi được Chúa gọi, Ông Da-kêu đã trở nên một con người khác: một con người sám hối và quãng đại. Từ trên cây, ông vội vàng tụt xuống, mừng rỡ đón rước Chúa và đứng mà thưa với Ngài rằng: ”Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi có chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Bởi đâu mà một con người từ trước nay chỉ biết lấy của người khác làm của mình, nay lại hào phóng đem nửa cái tài sản ki cóp được chia cho người nghèo ? Bởi đâu mà tên ”ăn cắp tài sản của dân” cách vô hình, bằng lòng trả lại “của lấy cắp “gấp 4 lần ? ( Luật Do Thái chỉ buộc đền gấp 4 lần tội trộm chiên, và luật Rô-ma tội trộm có chứng cứ ).
Rõ ràng có một thay đổi trong cách nghĩ và cách làm của ông Da-kêu. Ông đã thấy mình đi sai đường và ông thật lòng muốn sửa. Từ một người thu góp của dân, ông trở thành người phân phát cho kẻ nghèo. Từ chỗ bị khinh ghét, ông trở nên đáng kính qua sự quảng đại có một không hai. Cái gì đã biến đổi ông ? Cái gì đã thay đổi cách nhìn của ông ? Chắc chắn đó là cách cư xử đầy tình thương của Chúa Giê-su đối với ông. Cái nhìn yêu thương, câu nói kết thân của Chúa. Một cái nhìn, một lời nói, làm biến đổi cả một đời người ! Chắc chắn ông Da-kêu đã cảm nhận được ơn tha thứ. Cảm nhận được lòng quãng đại của Chúa, nên ông trở nên quãng đại với người khác. Hay nói khác đi,ông thấy mình phải thay đổi cách nghĩ, cách làm. Da-kêu trước khi gặp Chúa khác hẳn với Da-kêu sau khi gặp Chúa. Và đó là sự biến đổi của Ơn Cứu Độ .
“Hôm nay Ơn Cứu Độ đã đến cho nhà này. Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Chúa Giê-su mang Ơn Cứu Độ cho Da-kêu cũng như cho tất cả mọi người, nếu ta nhận ra thân phận tội lỗi của mình và bằng lòng để Chúa tác động nơi ta. Da-kêu mất danh dự vì hành động lầm lạc. Chúa đến phục hồi danh dự cho ông và ông đã đi vào con đường đúng .
Nghĩ về Da-kêu rồi nhìn lại mình, tôi tự hỏi: Tôi có ý thức mình là người tội lỗi để cố gắng “trèo lên cây” tìm gặp Chúa không ? Tôi đánh mất mình như thế nào: tự mãn với lối sống đạo đức của mình ? Khinh chê, xếp loại người khác ? Đắm mình trong cuộc sống ăn chơi hay chạy đua với tiền tài danh vọng ? Có trăm ngàn cách tự đánh mất mình. Đôi khi, đó là lúc tôi từ chối không để cho Chúa Giê-su dùng tôi như một “thân cây” giúp người khác trèo lên để gặp Chúa !
Chúa có thể dùng cuộc đời của ai đó như cái cớ để tôi được cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài. Chung quanh tôi có biết bao nhiêu người nghèo khó cần tôi chia sẻ; có biết bao bệnh nhân đang thiếu người chăm sóc; có biết bao trẻ em không nơi nương tựa; có biết bao cảnh đời lầm lạc cần sự giúp đỡ... Qua ánh sáng cứu độ ngày chịu phép Rửa, tôi có thể nhận ra lời mời gọi của Chúa nơi anh chị em tôi, hôm nay, ngay bây giờ. Nhưng... nhiều lần tôi đã ngoảnh mặt làm ngơ !
Có một điều an ủi: đó là người đời có thể chê bỏ tôi, nhưng Chúa vẫn luôn thương tôi. Khi nhận ra mình đáng khinh chê vì tội lỗi đã phạm, tôi không sợ hãi, chán nản. Ngược lại, tôi chạy đến với Chúa Giê-su, sà vào lòng Người, để Người lau cho tôi những giọt nước mắt vừa sám hối ăn năn, vừa vui mừng vì biết mình luôn quý giá đối với Người. Những giọt nước mắt cứu độ ! Tôi khóc vì biết mình được Chúa yêu ! Điểm khởi đầu cho một cuộc đổi đời !
Lạy Chúa, phận con yếu đuối mỏng dòn. Con cám ơn Chúa thương con nên đã đón nhận con, cho con gia nhập vào Giáo Hội qua Bí Tích Thánh Tẩy Xin giúp sức để con biết lan tỏa Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho mọi người. Xin cho con biết múc lấy sức mạnh đời con nơi Bí Tích Thánh Thể, nguồn mạch của Ơn Cứu Rỗi. Amen.
“Vì Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”.
Lời của Chúa Giêsu xác định rất minh bạch sứ mạng thật cao cả của Ngài. Sứ mạng này Ngài đã lãnh: TN 31-C50
Lời của Chúa Giêsu xác định rất minh bạch sứ mạng thật cao cả của Ngài. Sứ mạng này Ngài đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha, Đấng đã yêu thương loài người quá bội, nên đã sai Con Một Chí Ái của Ngài đến cứu chữa toàn thể nhân loại đã ra hư hoại vì bao tội lỗi họ gây nên khi chạy theo lời phỉnh nịnh của ma quỷ mà chối bỏ Thiên Chúa tình yêu.
Vì mưu thâm chước độc của ma quỷ khiến con người đã mất niềm tin vào tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, dành quyền làm chủ vận mệnh của chính mình không cần phục tùng Thiên Chúa nữa. Từ đấy trở đi, loài người càng ngày càng dấn sâu hơn vào con đường tách lìa khỏi Thiên Chúa, nghĩa là khỏi nguồn sống duy nhất tiếp sức cho họ được sống đời đời. Loài người đã ngây ngô tin theo lời đường mật của ma quỷ xúi dục, tự ý chặt đứt ‘đường ống tiếp liệu’ từ Thiên Chúa cho họ! Hậu quả tất nhiên của việc tách rời này là cái chết đời đời! Tin theo lời xí gạt của ma quỷ, con người nghĩ rằng bản thân ta có thể sống không cần Thiên Chúa, nhưng thực tế không phải như họ đã nghĩ! Thiên Chúa nhìn thấy cảnh khốn đốn loài người phải chịu, mà tự họ không thể làm gì hơn để thay đổi được sự mất mát vĩnh viễn này. Thiên Chúa tình yêu không đành lòng bó tay nhìn các thụ tạo tốt đẹp của Ngài đâm đầu vào cõi hư nát đời đời. Ngài dốc cạn hết tình thương trong Ngài để mở cho họ một lối thoát khỏi hoàn cảnh bi đát này: tin vào Con Môt Chí Ái của Ngài là đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, đức Giêsu không có sứ mạng nào khác hơn ở trần gian này, ngoài công việc tìm và cứu chữa những gì đã mất. Ngài hết lòng giải bày tình thương của Chúa Cha, với mong ước rằng họ nhìn thấy rõ mà tin vào Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ trần gian. Trong Ngài không hề có lòng ghét bỏ một ai, xong Ngài phải dùng đủ mọi lời lẽ cần thiết mà cảnh tỉnh con người: dịu ngọt có và nghiêm khắc cũng có.
Hôm nay trong nhà ông Da-kêu, một người khét tiến là tội lỗi vì đứng đầu đám ‘cán bộ thuế vụ’ chuyên nghề bóc lột dân lành, nhất là những mẹ góa con côi; đức Giêsu đã thân mật báo cho ông và cả gia đình một tin hết sức đáng mừng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.” Mong sao lời ngọt ngào của Chúa Giêsu hôm nay luôn vang vọng trong từng tâm hồn, từng gia đình của chúng ta. Lm. Phêrô Trần Văn Trợ SJ