Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 31-C Bài 151-197: Ông Da-kêu, chứng nhân của lòng thương xót ---------------------------------------------- Phúc Âm: Lc 19, 1-10: "Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Việc chủ động xin vào trọ trong nhà ông Da-kêu, một thủ lãnh nhóm thu thuế, một lần nữa lại cho thấy, đời Đức Giê-su luôn gắn liền với các người tội lỗi… Có thể Ki-tô hữu chúng ta đã dần quen và xem thường hình ảnh này, nhưng không phải vậy đối với các Biệt Phái và đám quần chúng Do Thái; “Mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Lý do duy nhất Đức Giê-su đưa ra để biện minh cho quyết định táo bạo này là: “Bởi vì người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”, cho dầu ông ta có tội lỗi bất xứng tới đâu.
“Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”! Bằng nhiều cách nói khác nhau, Đức Giê-su đã không ngừng xác định sứ mệnh của Người khi đến trần gian là: để cứu vớt. Đó là mục tiêu chính và lẽ sống của Người! Do đó, tin và chấp nhận Đức Ki-tô sẽ không là gì khác hơn: chân thành nhìn nhận rằng mình đáng bị hư mất. Ai không nhìn nhận như thế sẽ không thể là Ki-tô hữu, đơn giản vì họ cho là mình không có lý do gì để đón nhận ơn cứu độ Người mang đến. Nhưng để giải thích được điều rất mới mẻ này, tối hậu Đức Giê-su chỉ trưng ra được có một lý giải duy nhất; Người long trọng tuyên bố: “người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”. Câu nói này mang tính cách mạng ghê gớm! vì trong đầu óc và ngôn ngữ Do Thái thì câu này cũng tương tự như nói với người Công Giáo về một người phạm trọng tội đáng bị rút phép thông công rằng: “vì người tội lỗi này cũng đang là con cái Thiên Chúa!”
Đối với quần chúng Do Thái, nhất là các luật sĩ và nhóm Biệt Phái, thì các người thu thuế nói riêng, và mọi kẻ tội lỗi nói chung, không còn là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham nữa: họ đã phản bội Giao Ước, họ phải bị khai trừ, họ đáng bị khinh miệt và ghét bỏ, họ sẽ bị coi như người dân ngoại. Mọi người Do Thái chân chính đáng danh con cháu tổ phụ Áp-ra-ham buộc phải xa tránh họ và nếu có thể…, tiêu diệt họ bằng cách ném đá cho chết. Do đó bất cứ ai tiếp xúc với họ (huống hồ tới trú ngụ trong nhà họ) đều bị coi là đã ‘mắc ô uế’. Lối suy nghĩ tương tự như thế là hoàn toàn hợp lý, và rất phổ biến trong bất kỳ tập thể xã hội hay tổ chức nào dựa trên luật lệ, kể cả xã hội Ki-tô giáo chúng ta hôm nay xét theo diện một tổ chức (thử nghĩ tới thái độ đối với các bè rối với những vạ tuyệt thông…). Vậy mà Đức Giê-su đã xác định ngược lại: thu thuế hay tôi lỗi tới đâu cũng vẫn là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, và vì thế cần phải đi tìm và cứu vớt họ. Câu hỏi được đặt ra là: dựa trên tiêu chuẩn nào mà Người lại đòi hỏi như thế?
Suy nghĩ thông thường vẫn là: anh sai phạm thì anh phải cải tà qui chính để may ra được chúng tôi thứ tha và được nhận trở lại chăng; nếu anh thành tâm sám hối và sửa lỗi mình thì anh mới được tha, và được cho hội nhập trở lại. Rất thường khi, sự tha thứ này còn kèm theo nhiều điều kiện hoặc thử thách khắc nghiệt khác nữa. Trường hợp của Da-kêu cho ta thấy một tiến trình trái ngược: Đức Giê-su chủ động xin tới với ông ta trước, Người vào nhà chia sẻ cuộc sống với ông; điều này xảy ra trước cả khi ông hứa sẽ đền bù thỏa đáng những lầm lỗi của mình. Đối với Người, trình tự này là hoàn toàn hợp lý với lời giải thích: “hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham!”. Nếu sau đó ông Da-kêu có thưa với Người: “Đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” thì đó vẫn không phải là lý do tại sao Đức Giê-su quyết định vào nhà ông; đó chẳng qua chỉ là hậu quả của việc Người chủ động xin đến trú ngụ mà thôi. Nếu vậy thì ta phải đi tới kết luận: khi Đức Ki-tô có quyết định đến với bất cứ tội nhân nào thì không phải là vì họ đã có công trạng gì trước, kể cả có lòng thống hối chân thành. Người cứu chuộc chúng ta chỉ vì Người là Con Thiên Chúa từ nhân, và muôn đời Người sẽ còn tiếp tục hành sử với chúng ta như thế. Cho dầu tội lỗi đầy mình tới mấy, chúng ta vẫn luôn mãi là con cái của Thiên Chúa, là con cái của tình yêu tha thứ xót thương. Đối với Người, con chiên dầu có đi lạc thì vẫn là chiên của chủ chăn, đồng bạc dầu có bị mất thì cũng vẫn là đồng bạc của bà chủ, và đứa con có đi hoang thì vẫn luôn là con của ‘cha già’. Vì như Người khảng định: “Con Người đến để tìm và cứu những gì (Người) đã mất”.
Một trong các tư tưởng căn bản của nền thần học Ki-tô giáo là: ơn cứu độ của Thiên Chúa hoàn toàn là một quà tặng biếu không (gratuitous). Chúng ta chỉ có thể khiên tốn đón nhận với lòng tri ân sâu xa chứ không bao giờ xứng với nó. Nếu có ai cho rằng mình xứng đáng được hưởng ơn cứu độ, hoặc vì lắm công nhiều nghiệp, hoặc vì đầy dẫy các nhân đức, thánh thiện, trung thành tới mức tử đạo, hoặc tối thiểu, vì đã chân thành thống hối ăn năn, thì, trong tiêu chuẩn của Đức Giê-su, người đó đã mắc sai lầm cực kì nghiêm trọng. Ngay cả Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta, vị nữ tu cả đời chỉ làm toàn việc thiện và bác ái, được người đương thời bất luận thuộc tôn giáo nào tán dương như một vị đại thánh, một vĩ nhân, cũng vẫn phải chân thành nhìn nhận: “Thiên Chúa yêu thương tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành, vì biết rằng Chúa thương yêu tôi”. Thế đấy, khi nói lên các việc đền bù mình sẽ làm, Da-kêu cũng đang cố gắng trở nên tốt hơn, chỉ vì nhận thức ra rằng: Thầy Giê-su đã chủ động yêu thương và tha thứ cho mình trước. Do đó ta có thể kết luận: nỗ lực sửa mình và cố gắng vươn lên không phải là điều kiện để được Chúa tha thứ và thương mến, nhưng chỉ là hiệu quả của niềm tin đó mà thôi; và đương nhiên việc vươn lên đó còn tùy thuôc rất nhiều vào mức độ ta nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương đến đâu. Hình như có một tỷ lệ thuận nào đó giữa hai vế, nhưng thứ tự lại ngược hẳn với lối suy nghĩ thông thường: không phải ‘ai yêu nhiều thì được tha nhiều’, nhưng là “Ai được tha nhiều (và nhận thức rõ điều đó) thì yêu nhiều hơn” (xem bình giải Lc 7:47 trong Christian Community Bible) .
Ôi sức mạnh của việc nhận biết lòng thương xót Chúa: vừa rất êm dịu, lại vừa mãnh liệt xiết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho con không ngừng nhận biết lòng Chúa xót thương, nhất là trong các dịp xét mình hay đi xưng tội. Ngay cả trước khi bước vào tòa giải tội để xưng thú tội lỗi, trước cả khi giục lòng thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình, con biết Chúa đã tha thứ cho con vô điều kiện rồi. Với niềm thâm tín này, xin cho các nỗ lực vươn lên của con luôn xuất phát từ niềm tin vào tình yêu tha thứ của Chúa, để ngay cả những lúc thấy mình tội lỗi và thấp hèn nhất, niềm tin của con vẫn luôn hòa quyện trong tâm tình tri ân cảm tạ sâu xa. A-men.
-------------------------------------
TN 31-C152: HÀNH TRÌNH TRỞ VỀ: BIẾT CHÚA – BIẾT NGƯỜI – BIẾT MÌNH
Tin Mừng Luca nói rất nhiều về lòng thương xót của Chúa đối với các tội nhân. Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ tiêu biểu. Tuần trước, Chúa Giêsu đề cao gương khiêm nhường của một người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện với tâm tình sám hối. Tuần này, Thánh Luca cũng thuật lại cuộc hành trình trở về của Giakêu, cũng là một người thu thuế với bao tội lỗi. Giakêu không chỉ là một viêc chức quèn, nhưng còn là một cán bộ cao cấp và có thế giá trong ngành thuế vụ. Với chức vụ đó, đương nhiên ông ta rất giàu (c.2). Ông là người có dáng vóc nhỏ bé. Có lẽ Thánh Luca còn hình tượng hóa, không phải chỉ nói về sự nhỏ bé thể lý, nhưng cũng diễn bày sự bé nhỏ nơi tâm hồn của ông, khi ông ý thức được những lầm lỗi của chính mình. Cuối cùng, Giakêu đã hoán cải sau khi gặp được Đức Giêsu. Lộ trình trở về của Giakêu gồm 3 yếu tố: Biết Chúa – Biết người – và Biết về chính mình.
Biết Chúa.
Khởi đầu Giakêu muốn biết Chúa chỉ vì tò mò. Chúa Giêsu khá nổi tiếng lúc bấy giờ và được dân chúng nể phục. Nhân lúc Đức Giêsu sắp đi ngang qua, Gia kêu trèo lên một cây sung để xem rõ mặt mũi nhân vật nổi tiếng ấy như thế nào. Đây là điểm khởi đầu để dần dần ông được Chúa biến đổi, cho dẫu sự bắt đầu chỉ thuần mang tính nhân loại.
Ông Pchychari khi còn là dự tòng và đang trên con đường tìm kiếm Chúa, vẫn chân thành dâng lên Chúa lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, xin hãy tỏ ra cho con biết Chúa là ai.” Biết Chúa không phải là động thái của tri thức, nhưng trên hết, đó là thái độ của tâm hồn. Đi vào thế giới của mầu nhiệm, không cần chúng ta phải vắt óc để lý luận, nhưng cần mở rộng cõi lòng để ánh sáng chân lý soi chiếu. Nhiều triết gia lỗi lạc đã nặn óc suy tư với những lý luận sắc bén, nhưng đã không tiếp cận được và biết về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25). Cuộc hành trình trở về của Giakêu bắt đầu từ việc ông khao khát biết Chúa, cho dầu động cơ nơi ông có như thế nào chăng nữa.
Biết người.
Sau khi Chúa gọi Giakêu lúc ông đang ở trên cây, ông đã vui mừng tụt xuống ngay và tiếp đón Đức Giêsu đến nhà mình cách trọng thị (c.6). Điều này cho thấy rằng cho dù ông đã làm nhiều điều xấu, đã thu quén tiền bạc một cách bất chính, nhưng căn gốc sự thiện vẫn còn nơi tâm hồn ông và nay được dịp bùng phát. Chúa Giêsu đã khơi dậy sự thiện hảo nơi ông, vốn đã bị vùi lấp từ lâu do sự cuốn hút của tiền bạc. Kết quả là ông đã được biến đổi. “Thưa Thầy, tôi xin lấy phần nửa tài sản của tôi cho người nghèo. Nếu tôi chiếm đoạt của ai cái gì , tôi xin đến gấp bốn”. Từ chỗ biết Chúa, Giakêu đã đi đến việc biết người. Biết người tức là biết chia sẻ, biết lưu tâm đến cận nhân nghèo khổ sống chung quanh. Một người giàu có đã từng chỉ biết thu gom tiền bạc để hưởng thụ cách ích kỷ, bây giờ can đảm chia một nửa tài sản cho người nghèo, là một con người rất đáng trân quý. Sự cao quý nơi Giakêu ở chỗ, ông đã can đảm phá vỡ pháo đài ích kỷ vốn đã xơ cứng nơi tâm hồn mình, bây giờ trở thành trái tim thịt mềm, một trái tim biết rung lên những giai điệu đồng cảm và yêu thương. Giakêu đã được biến đổi vì ông đã biết Chúa và biết người.
Biết mình.
Căn gốc của sự hoán cải chính là tự biết mình. Giakêu biết rõ mình là con người tội lỗi và bị mọi người khinh ghét. Nhưng ông còn biết rõ hơn, là chính Thiên Chúa không ghét bỏ ông. Đức Giêsu đã tuyên bố cho mọi người cũng như cho ông biết rằng: “Con người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất”. Chúng ta vẫn thường đi xưng tội, và trước khi xưng tội, chúng ta phải xét mình. Xét mình không phải chỉ là liệt kê một bản danh sách các tội một cách máy móc và điền đại vào đó số lần để xưng cho xong. Khi xét mình, chúng ta cần phải đi sâu vào tĩnh lặng để bới tìm những bẩn thỉu ẩn kín sâu tận bên trong. Chúng ta rất dễ bới móc cái rác trong mắt của tha nhân mà vẫn không nhận ra cái đà to đùng nơi con mắt của mình (Mt 7,3). Chúa Giêsu nói điều đó với chút cường điệu để dạy chúng ta phải khiêm tốn nhìn vào nội tâm, chứ đừng vội vã kết án người khác. Đây là phương thức để chúng ta biết về mình cách thực sự.
Tiến trình trở về của Giakêu là như thế. Tiến trình này được thể hiện do chính Đức Giêsu chủ động và lôi kéo. Thiên Chúa luôn đi bước trước để gọi mời, còn chúng ta hoàn toàn tự do để đáp trả hay từ chối. Giakêu đã nghe tiếng Chúa gọi. Ánh sáng từ đôi mắt Chúa đã hắt dọi vào tâm hồn ông và ông đã được biến đổi hoàn toàn. Ông đã gặp Chúa, đã tiếp đón Chúa tại nhà và đã được biết Chúa là ai, là ‘Đấng đến tìm kiếm và cứu chữa những gì hư mất’. Chúa đã soi sáng để ông cũng biết đến tha nhân bằng cách mở rộng cõi lòng chia sẻ. Nhưng quan trọng nhất, ông đã biết về chính mình với bao yếu đuối và tội lỗi. Sự biến đổi nội tâm nơi Giakêu là mô hình để chúng ta thực hiện cuộc trở về mỗi ngày.
Kết luận
Xin được kết luận bằng một câu chuyện dân gian Việt Nam. Một chàng thư sinh rất tự mãn về kiến thức của anh ta. Trên đường trở về quê, anh chàng phải đi qua một con sông lớn và bác lái đò quê mùa ở đó vẫn ngày ngày chở khách qua sông. Trên thuyền, chàng sinh viên khoe khoang hỏi bác lái đò: “Bác ơi bác có biết đọc biết viết hay không? – Cậu ơi, tôi không biết. Chàng thư sinh nói tiếp: “ Thế là bác chết một phần tư đời người rồi”. “Bác ơi, bác có biết về khoa học hay kỹ thuật gì không?”. Bác lái đò vẫn bình thản trả lời: “Cậu ơi, tôi quê mùa có biết gì về văn minh khoa học tí nào đâu” – Tiếc cho bác, thế là bác chết thêm một phần tư đời người nữa rồi”. Chàng thanh niên tiếp tục khoe khoang: “Thế, bác có biết chút gì về nghệ thuật hay không ? -Tôi đã bảo là tôi mù tịt, không biết gì cả. – “Thế là bác chết thêm ¼ cuộc đời nữa, tội nghiệp bác quá”. Đi đến giữa sông, trời bỗng nổi cơn giông rất mạnh. Bác lái đò hỏi chàng thanh niên:“Cậu ơi, cậu có biết bơi không”. “Thưa bác, không”. Chàng thanh niên run sợ trả lời. Bác lái đò nhẹ nhàng nói: “Thôi, thế là cậu sắp chết cả đời người rồi, tiếc cho cậu quá”.
Triết gia Socrates đã nói: “Khởi đầu của sự khôn ngoan là hỡi người, hãy ‘biết’ về chính mình.” Chúng ta hãy học lấy thái độ của Giakêu để thực hành cuộc sám hối trở về, bằng cách biết Chúa, biết người và biết rõ về mình.
Để hiểu bài Tin mừng Chúa nhật tuần này về câu chuyện Zakêu người thu thuế, cần bắt đầu với chủ đề của sách Khôn ngoan về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Một cách rất hiện thực và trong một cái nhìn tổng thể, sách Khôn ngoan cho thấy điều kiện của nhân loại rất là mong manh yếu đuối trước mắt Thiên Chúa, ví được như là hạt gạo trên đĩa cân, hay sương sa trên mặt đất, nó chẳng là gì cả, dễ tan biến vào hư vô. Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, Người yêu thương nhân loại vô cùng nên rất nhẫn nại và chờ đợi con người sám hối tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi loài là ý định tạo dựng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, có nghĩa là Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và có ý định ban tặng sự sống cho mọi loài. Và điều quan trọng, đó là lần hồi, nhờ thần trí của Thiên Chúa tốt lành, Chúa sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn những người tội lỗi để họ trở về với Thiên Chúa và từ bỏ con đường tội ác của mình mà được sống hạnh phúc sung mãn.
Điều này được cụ thể hoá qua hình ảnh cụ thể của người thu thuế Zakêu, một người tội lỗi, được Chúa Giêsu viếng thăm tại nhà và vui mừng thay đổi đời sống đón nhận ơn cứu độ. Điều rất cao đẹp và quí giá mà Thiên Chúa thực hiện cho con người, đó là từ tình trạng xấu xa tội lỗi và hậu quả là phải chết tủi nhục, Thiên Chúa biến đổi để con người trở nên thánh thiện và xứng đáng đón nhận sự sống đời đời. Sự biến đổi và thánh hóa của Thiên Chúa thực là kỳ diệu, và con người luôn được Thiên Chúa mời gọi và tìm kiếm, bởi vì Thiên Chúa luôn nhớ đến mỗi người và thành tín yêu thương vô cùng. Zakêu là một khuôn mặt tiêu biểu đáng nêu lên bởi vì sự biến đổi mà Thiên Chúa thực hiện nơi ông đã diễn ra một cách rất nhẹ nhàng và đầy niềm vui. Ông là một ông trùm trong số những người thu thuế giàu có, một người tội lỗi công khai vì nghề thu thuế tai tiếng. Đàng khác, vóc dáng nhỏ thó, lùn tịt của ông cũng làm cho ông bị người khác coi thường.
Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêrikô là nơi ông ở, Zakêu đã có một cử chỉ thực là hồn nhiên, là leo lên cây để được nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua. Đáp lại, Chúa Giêsu quyết định đến gặp Zakêu tại nhà để đáp lại cách cụ thể ước muốn của ông, nên người nhìn lên và nói với ông: “Zakêu! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi muốn tới ở nhà ông”. Và điều kỳ diệu bất ngờ đã xảy ra, vượt mọi dự đoán của mọi người. Trong khi mọi người khác vẫn còn đóng kín trong những phê phán hẹp hòi chật hẹp thiếu hiểu biết của mình, nói rằng Chúa Giêsu đến nhà người tội lỗi. Zakêu đã có những quyết định rất táo bạo cương quyết: “Thưa thầy, tôi xin bố thí nửa phần tài sản của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đến gấp bốn”. Ông không nói bố thí hết tài sản, mà chỉ chia một phân nửa, phần còn lại giữ lại cho mình và đền bù gấp bốn lần cho những người mà ông đã làm thiệt hại. Thế nhưng đó đã là một cuộc hoán cải đầy đủ và trọn vẹn, nhắc lại phần nào lời giải đáp xưa kia của Gioan Tẩy giả khi rao giảng ở sông Giorđan. Cuộc gặp gỡ và hoán cải hiện thực là như thế, không viễn vông ảo tưởng nhưng chân thành hiện thực. Zakêu phải can đảm chấp nhận cho đi những của cải của mình. Đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng phải chăng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ là như thế, không dừng lại ở cái nhìn tò mò, nhưng là đón nhận chính Đấng cứu thế vào trong nhà mình và can đảm mở lòng để đền bù lại những thiệt hại mà mình gây cho người khác, giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu.
Trên con đường Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, tin mừng theo Luca cho chúng ta được khám phá nhiều điều mới mẻ về ơn cứu độ. Chúa Giêsu đi đến gặp gỡ từng người trên con đường người đi qua. Một cách nghịch lý, những con người tội lỗi, bị ghét bỏ trong xã hội, bị đánh giá thấp lại là những người gặp gỡ được tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Và lời nói tiêu biểu của Tin mừng Luca được lặp lại như đã được công bố ở hội đường Nazarét: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cái Abraham”. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn đến ơn cứu độ thực sự, đầy tràn niềm vui, đầy tràn sức sống. Ơn cứu độ trả lại cho con người phẩm giá làm con Thiên Chúa. Zakêu, một con người bình thường như những người khác, lại có điều gì đó mà chúng ta cần phải học hỏi. Không yếu ớt, không tự phụ, không thu mình trong địa vị của hàng tư tế hay biệt phái tự cho mình là những người thánh thiện trong sạch, nhưng dám quyết định và hành động mạnh mẽ chia sẻ chính tài sản của mình, đền bù lại những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Đồng thời ơn cứu độ mà Zakêu nhận được là điều rất cao quí. Từ nay, ông lại được đón nhận thừa hưởng gia nghiệp của con cái Abraham. Từ tình trạng tội lỗi và thân phận phải hư mất đời đời, ông được chữa lành và được đón nhận vào trong sự sống sung mãn của Giao ước với Thiên Chúa. Lời mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khởi đầu ở hội trường Nazarét, giờ đây lại được công bố cách mạnh mẽ: “Hôm nay ơn cứu độ lại đến với nhà này”.
Cộng đoàn Kitô giáo thời thánh Phaolô là cộng đoàn những người đã bắt đầu tin vào Chúa Giêsu và dấn thân trên con đường đón nhận ơn cứu độ của đời sống mới. Họ có thể bị chao đảo bởi những hoàn cảnh lịch sử mà họ đang phải trải qua. Họ vẫn tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại gần kề, nhưng nghịch lý là Chúa Giêsu vẫn chưa đến như mọi người mong đợi. Thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy vững vàng trong ơn gọi của mình. Thái độ tỉnh thức và chờ đợi Chúa trở lại là thái độ cụ thể, không phải chỉ là những tâm tình chờ đợi hốt hoảng lo âu vì những tuyên bố của người này người khác không có thẩm quyền chính thức của tông đồ. Ngược lại, thái độ chờ đợi Chúa đến thực sự là luôn vững vàng trong lòng tin của mình và sống thánh thiện theo ơn Chúa kêu gọi.
Quyết định là điều khó khăn nhất để có thể bắt đầu hành động, phần còn lại là có kiên trì hay không. Cần phải mạnh mẽ và dứt khoát để có thể quyết tâm mau chóng, nhưng cần phải nhận thức tinh tế mới khả dĩ quyết tâm đúng đắn.
Edward Bulwer-Lytton (1803-1873, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và chính khách người Anh) nhận xét: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững vàng sẽ tự nhiên dần trở thành bậc anh tài”. Còn William Arthur Ward (1921-1994, nhà giáo dục người Mỹ) nhận định: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến những nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Những mục đích của ngày hôm nay có thể biến những thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai”.
Càng về cuối năm Phụng Vụ, Lời Chúa càng “xoáy sâu” vào tâm hồn chúng ta – rõ ràng hơn, thẳng thắn hơn, mạnh mẽ hơn, và cũng… “gay gắt” hơn. Cuối năm là thời điểm cần thiết để xem lại chính mình, luôn có nhiều điều cần quyết tâm hoặc tái quyết tâm – cả về đời thường và tâm linh.
Vì yếu đuối, phàm nhân luôn cần phải cố gắng quyết tâm và tái quyết tâm. Thật hạnh phúc vì chúng ta có một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân từ và kiên nhẫn: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11:23). Chắc chắn không có thần linh nào như Thiên Chúa của chúng ta. Trong St 18:20-32, Tổ phụ Abraham đối diện Thiên Chúa với mối quan ngại về điều sẽ xảy ra cho thành Xô-đôm. Tổ phụ Abraham đã “mặc cả” với Thiên Chúa, và Ngài sẵn sàng tha thứ cho Xô-đôm nếu thành này có được 10 người công chính.
Kinh Thánh xác định: “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11:24-26). Thật vậy, Thiên Chúa là ĐẤNG HẰNG SINH (Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 & 45; 1 Sm 17:26 & 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 & 21; 1 Sm 25:26 & 34; 1 Sm 26:10 & 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25) và là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), nhưng Ngài lại luôn GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT và RẤT MỰC YÊU MẾN chúng ta (Ep 2:4).
Quả vậy, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, “những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ; Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kn 12:1-2). Nếu Thiên Chúa không đại lượng như vậy thì chúng ta chết từ lâu rồi. Chỉ riêng một điều là chúng ta còn hít thở không khí ngày hôm nay cũng đủ cả đời để chúng ta cảm tạ Ngài – dù chúng ta còn khỏe hay đau yếu!
Là thụ tạo, chúng ta không chỉ có bổn phận tôn thờ ngài, mà còn có bổn phận chúc tụng và tôn vinh Ngài. Bức tượng không có quyền đòi hỏi gì ở nhà điêu khắc. Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, hãy noi gương tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 145:1-2).
Thiên Chúa mà chúng ta nhận biết và tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu, của lòng trắc ẩn, của lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:8-11).
Vì bản chất của Ngài là yêu thương, Ngài không thể đứng nhìn các thụ tạo của Ngài chịu đau khổ. Ngài sẽ ra tay kịp thời để bảo vệ chúng ta: “Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên” (Tv 145:13cd-14). Mặc dù giờ của Ngài chưa đến, nhưng lời cầu nguyện chân thành của chúng ta có thể thay đổi số phận, càng hiệu quả hơn nếu chúng ta biết cầu xin Đức Maria. Sự việc đã xảy ra ở tiệc cưới Cana, miền Galilê, là một ví dụ điển hình (x. Ga 2:1-12).
Lời cầu nguyện thành tâm không chỉ có hiệu quả đối với chính mình mà còn đối với người khác – những người chúng ta cầu nguyện cho, đồng thời còn sinh ích lợi cho chính mình: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Thánh Francis Assisi). Thánh Phaolô đã áp dụng cách cầu nguyện “hai chiều” đó: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (2 Tx 1:11).
Đức tin sinh ra yêu thương, yêu thương sinh ra hành động, và hành động vì đức tin. Đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền, mà chính xác: “Tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Vả lại, chính Chúa Giêsu đã phục sinh, điều này giúp chúng ta thêm xác tín.
Thánh Phaolô nói: “Về ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2 Tx 2:1-2). “Ngày ấy” có thật và sẽ xảy ra, nhưng chúng ta không tin những kẻ lợi dụng thời cơ để gây náo động. Tin phải có cơ sở đúng đắn, cần có lý trí lành mạnh. Tin để sống tốt hơn chứ không theo kiểu “phong trào”. Quyết tâm canh tân đời sống luôn là điều cấp bách.
Không ai biết ngày giờ tận thế, và cũng không biết chúng ta có được chứng kiến “ngày ấy” hay không, nhưng chắc chắn ai cũng chứng kiến ngày tận thế của cuộc đời mình: Chết. Vì thế mà luôn phải sẵn sàng – thay đổi và dứt khoát. Đó là quyết tâm vô cùng cần thiết, càng sớm càng tốt!
Trình thuật Lc 19:1-10 cho biết về một nhân vật đặc biệt: trưởng trạm thuế vụ Da-kêu. Ông là người có dáng dấp thấp bé, ngắn ngủn, lùn tịt, nhưng đức tin của ông lại cao vòi vọi. Ông là người thông minh, can đảm, dứt khoát, có quyết định mau mắn và chính xác.
Một hôm, Chúa Giêsu vào thành Giê-ri-khô. Ở đó có một trưởng trạm thuế vụ giàu có là Da-kêu. Nghe người ta nói về Chúa Giêsu, ông tìm cách để xem cho biết Ngài Giêsu là ai, nhưng ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu vì ông lùn quá, trong khi dân chúng chen chúc đông như kiến. Vốn thông minh và nhanh trí, ông chạy tới phía trước và leo lên một cây sung, vì Chúa Giêsu sắp đi qua đó.
Tới chỗ cây sung, Chúa Giêsu nhìn lên và nói: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Lạ nhỉ, chưa gặp mà Ngài đã biết tên ông ta là Da-kêu. Có lẽ cũng vì thế mà ông Da-kêu càng tâm phục khẩu phục. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Ghen ăn, tức ở, những con người như thế thật là xấu xa. Trong chúng ta cũng vẫn có những con người nhỏ nhen và hèn hạ như thế, có vẻ biết rõ người khác nhưng lại mù lòa về chính mình!
Chúa Giêsu biết người ta xì xầm, bàn ra tán vào, nhưng Ngài không nói gì vì chưa cần thiết, chưa đến lúc. Cũng có thể chính ông Da-kêu cũng biết người ta ghét và nói xấu mình, nhưng ông cứ mặc kệ, việc mình thì mình làm, cứ là chính mình, ai nói sao thì nói.
Hãy quyết tâm điều này: “Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm trong đời bạn thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình” – kiểu giống như ông Pharisêu tự tôn nên chê trách ông thu thuế (x. Lc 18:9-14). Kể cũng lạ, có những kẻ chuyên gièm pha, ưa thọc gậy bánh xe, khoái ngậm máu phun người, thấy mình không ăn được thì phá cho hôi,… Họ là dạng “siêu nhân” thế nào? Văn sĩ Dale Carnegie (1888-1955, tác giả cuốn “Đắc Nhân Tâm” nổi tiếng) nhận định: “Bất cứ kẻ ngu nào cũng có thể chỉ trích, chê trách và phàn nàn – và phần lớn những kẻ ngu xuẩn đều làm như vậy” (Any fool can criticize, condemn and complain – and most fools do).
Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Ông này nhanh trí nên quyết tâm được ngay, nhanh mà chính xác chứ không liều lĩnh hoặc bốc đồng. Đức Giêsu nói về ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để TÌM và CỨU những gì ĐÃ MẤT”. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn những kẻ lẻo mép kia vuốt mặt không kịp, đành phải câm họng mà thôi. Biết mắc cở mà sám hối thì tốt, nhưng khốn thay có những kẻ vẫn cố chấp, không phục thiện, chỉ tỏ ra bằng mặt mà không bằng lòng!
Biết mình, biết người mới có thể quyết tâm đúng đắn. Kẻ thù lớn nhất là chính mình, chiến thắng chính mình mới thực sự là dũng cảm. Không mặc kệ lời người ta nói về mình, nhưng đừng sợ vì người ta ghét mình, cần xét xem mình có sai như họ nói hay không để tự chấn chỉnh. Đa số chưa chắc hơn thiểu số. Có một nhận xét rất hay: “Nếu có bất cứ ai làm bạn tổn thương, bạn hãy coi họ như TỜ GIẤY NHÁM. Giấy nhám CHÀ XÁT và làm bạn ĐAU ĐỚN, nhưng bạn sẽ trở nên SÁNG BÓNG, còn họ thành miếng giấy VÔ DỤNG, chỉ BỎ ĐI thôi”.
Trong cuốn “Tự Thuật” (Confessions III, 6, 11), Thánh GM TS Augustinô (354-430) đã chia sẻ kinh nghiệm tâm linh: “Deus intimior intimo meo – Chúa còn thân mật với tôi hơn chính tôi thân mật với tôi”. Cuối cùng chỉ còn Chúa, chính Ngài mới là người mà chúng ta phải sợ, vì Ngài là Đấng “thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).
Quyết tâm đúng thì phát ngôn đúng và hành động đúng, quyết tâm sai thì phát ngôn sai và hành động sai. Đó là điều tất yếu. Trong những ngày trung tuần tháng 10-2016, cơn bão dữ Sarika đã làm cho dân miền Trung điêu đứng – đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Trong khi đó, người ta lại cho xả đập để “nhận chìm” dân lành, rồi còn nói rằng làm vậy chỉ tính “đúng quy trình” chứ chưa tính đến hậu quả. Thật tồi tệ!
Có người còn phát ngôn “vô tư” rằng mong cho bão lụt nữa để tẩy rửa chất độc của Formosa thải ra. Không hề có chút yêu thương nào! Chưa hết, khi người ta xót xa đồng bào mà làm từ thiện thì lại bị cấm, chỉ có nhà nước mới có “quyền” đó – tức là để có dịp “chia chác” chăng? Một cán bộ của “trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng” đã tuyên bố bất nhân thế này: “Làm từ thiện là làm mất bản sắc dân tộc”. Khốn thay, vì người ta dám cấm người khác thể hiện lòng yêu thương!
Tiền nhân đã dạy rằng: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Thế nhưng lời dạy này không được người ta coi trọng. Buồn thay, vì còn đâu là tình nhân loại và nghĩa đồng bào! Một danh nhân đã nói: “Chỉ có những ai có lòng yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Thật đúng như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết chính con và người khác, đặc biệt là xin cho con nhận biết Ngài. Xin giúp con luôn có quyết tâm đúng đắn, dứt khoát và chính xác theo Thánh Ý của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Lời Chúa trong trang Tin Mừng Chúa Nhật cuối tháng Mân Côi hôm nay ( Lc 19, 1-10), xác tín cho chúng ta một lần nữa, Đức Giêsu- Kitô là: “ Đấng giải thoát ”.
Vậy , ai cần Người “TÌM và CỨU “, tức được giải thoát thì hãy chạy đến với Người, như người thu thuế Giakeu trong Tin Mừng. Vâng, và như vậy, hình ảnh ông Giakeu hôm nay là một tấm gương cho chúng ta, hầu đón nhận được ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa qua Đức Giêsu- Kitô.
Chúa Giêsu khẳng định: Người đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất. ( Lc 19, 10). Vậy, điều kiện để được đón nhận “ƠN CỨU ĐỘ” là gì ? thưa, đó là “ Tâm hồn Giakeu ”. Vâng, thật vậy, chúng ta phải có tâm hồn như Giakeu:
Giakeu nhận thức được Lời chúa
Giakeu khao khát Ơn cứu Độ
Giakeu mau mắn đặt trọn niềm tin vào Đấng Cứu Thế
Giakeu thể hiện niềm tin của mình bằng cách đón tiếp Chúa Giêsu.
Giakeu mau mắn đền bù tội lỗi.
Rõ ràng, với những tâm tình ấy của Giakeu, Chúa Giêsu đã nói: “ Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này…”( Lc 19, 9)
Chúng ta thấy, qua đoan Tin Mừng hôm nay, thuật lại biến cố trên đường truyền giàng Tin Mừng Cứu độ, Chúa Giêsu đã đón nhận một tâm hồn như lòng Chúa mong ước: đó là Giakeu, một con người có tài sản, có tất cả, nhưng chưa có Thiên Chúa. Dù người đời gièm pha, nhưng với ơn cứu độ, Chúa Giêsu đã mặc khải cho biết sứ vụ của Người đến trần gian là “TÌM và CỨU “những gì đã mất.
Đến đây, chúng ta hiểu rõ ràng về sứ vụ Thiên Sai của Đấng Cứu Thế là “TÌM và CỨU” những gì đã mất. Vâng, trước khi cứu thì phải đi tìm, tìm thấy và cứu chữa. Tìm thấy lý tưởng của Đấng Cứu Thế trong trang Tin Mừng hôm nay, mà Đức thánh cha Phanxico đã có những lời giáo huấn , về vác chiên lên vai, hay muc tử phải có mùi chiên, hoặc truyền giáo trực tiếp từ Đức Kitô- Giêsu, ra những vùng ngoại vi đến với muôn dân
Vâng, TÌM và CỨU là hai động gói gọn dễ nhớ, nhưng không dễ thực thi, nếu không có ”TRÁI TIM NHÂN TỪ QUẢNG ĐẠI “ của Thiên Chúa là Cha.
Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, chính Người đã sống và thực thi. Xác tín một cách minh định nầy là nhân vât Giakeu, tâm hồn ông đã cảm nghiệm, xác tín Lời Chúa Giêsu, mà chúng ta được suy niệm qua trang Tin Mừng hôn nay.
Giakeu, một chứng nhân, đã cảm nghiệm Lời rao giảng của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến vì để “TÌM và CỨU “ những gì đã mất. Trải qua bao thế hệ,. những Giakeu như các vị đại thánh, đến những ai bước theo Đức Kitô đều phải thực thi. Nếu tất cả những ai mang tâm hồn Truyền giáo biết thực thi sứ vụ của Đứcc Kitô là: “TÌM và CỨU “ những gì đã mất, thì thật tuyệt vời
Ý thứ hai: Đức Kitô không đi tìm người công chính, nhưng tìm kiếm kẻ tội lỗi biết sám hối.
Vâng , thưa quý vị bài đọc I hôm nay (Kn 11, 22- 12 , 2) sách Khôn ngoan cho chúng ta hiểu được điều đó, bởi vì, Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan, Người thực thi sự khôn ngoan bởi chính Thiên Chúa, để kẻ kiêu ngạo, tự đắc vì mình thánh thiện, sẽ phải cúi đầu thuần phục suy tôn Thiên Chúa. Vì hành động THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa chính là: NÂNG CAO MỌI KẺ KHIÊM NHƯỜNG.
Vâng, khiêm nhường chinh là hành động , là thái đội ăn năn, hối lỗi, nhìn nhận thận phận bụi tro, thấp hèn của con người thế nhân, là thụ tạo. Như vậy, tai sao, Chúa Giêsu hành động theo hai động từ “TÌM và CỨU “đó. ? Thưa, bởi vì đó là hành động khôn ngoan của Thiên Chúa.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta học được bài học bởi Giakêu, là lắng nghe lời Chúa, mau mắn thực thi, và luôn khát khao chân lý. Vì khi thân xác bị thương, ốm đau bệnh tật, thì nhờ đến thầy thuốc để chữa bệnh thân xác. Nhưng , khi linh hồn bệnh tật hoặc bị lầm lạc, thì cần đến ai ? Há, chẳng phải là Đức Kitô – Giêsu hay sao? ! Vì , Người chính là Vị Lương Y của linh hồn.
Cũng vậy, theo đó, Bài đọc II hôm nay, thánh Phaolo trong ( 2 Tx 1, 11- 2, 2) khuyên chúng ta luôn vững tìn vào Đức Kitô, và Giáo Hội luôn cầu nguyện cho chúng ta. Cùng với những mặc khải mà được loan báo về ngày Chúa ngự đến, dù có những dấu lạ, điềm thiêng, chúng ta cũng đừng dao động.
Trở lại ý nghĩa Lời Chúa hôm nay , chúng ta thấy, tại sao, Thiên Chúa muốn tìm kiếm kẻ tội lỗi? Thưa, là bởi vì: “Lòng Thương xót ” của Thiên Chúa phù hợp với sự sám hối của tội nhân. Điều quan trọng là tội nhân phải biết sám hối. Điều nầy là căn nguyên mà Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian. Chúng at thấy, kẻ tội lỗi chính là những kẻ không nhận biết Thiên Chúa, không có Thiên Chúa, nó chỉ sợ luật pháp trần gian trừng phạt. Nhưng, luật pháp trần gian luôn bị giới hạn, bởi sự hữu hạn của nó. Theo đó, những kẻ cầm quyền bất minh, nghĩ rằng luật pháp ở trong tay nó, thì nó tha hồ thao túng. Mặc nhiên, khi ấy những kẻ nầy hoàn toàn không có Thiên Chúa, nó chỉ dựa vào sự bất minh để hưởng lợi và thăng tiến. Hữu nhiên, ơn cứu độ không đến với nó, nhưng , nếu như nó nhận thức bởi lương tâm và sự thúc đẩy nội tâm , khi có dịp nghe nói đến Thiên Chúa và muốn cải tà quy chánh như Giakeu , thì nó cũng nhận được ơn cứu độ của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến trần gian không phải để kêu mời người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn. Xin cho những kẻ tội lỗi biết lắng nghe Lời Chúa, nhận thức bởi sự thúc đẩy của Thánh Thần, hầu biết đáp trả chân lý và hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa./. Amen.
Một cuộc gặp chẳng hẹn mà hò, hay có thể nói cuộc hội ngộ quá bất ngờ giữa Chúa Giê-su với viên thuế vụ Gia-kêu. Không biết vô tình hay hữu ý mà Chúa Giê-su đi ngang qua thành Giê-ri-kô, nơi làm việc của ông giàu có Gia-kêu. Từ đây câu chuyện thêm li kỳ và có thể là hiếu kỳ, khi có quá nhiều bất ngờ xảy ra.
Bất ngờ với Gia-kêu
Ông không nghĩ mình sẽ có diễm phúc để gặp được Chúa, khi Ngài đi ngang qua. Vốn là một viên thu thuế mà lại là trùm nữa. Dưới cái nhìn của những người Do Thái. Gia-kêu là người tội lỗi, ông bị mọi người ghét bỏ, lên án và xa lánh. Có lẻ cũng đôi chút mặc cảm, nhưng cũng có khi do hoàn cảnh, công ăn việc làm mà ông đành chấp nhận vậy. Đã vậy, ông còn có một chiều cao hơi khiêm tốn, trước đám đông đang bủa vây Chúa Giê-su, làm sao có thể nhìn thấy Chúa, nếu không đứng ở một vị thế cao hơn mọi người. Nực cười cái sáng kiến hết sức “ hai lúa” của Gia-kêu. Trèo lên nhành cây sung để nhìn Chúa Giê-su khi Ngài đi ngang qua. Và cũng thật thi vị, Đức Giê-su dừng lại và nhìn lên Gia-kêu. Lúc này đám đông như khựng lại, có lẻ không ai ngờ Chúa Giê-su lại dừng lại cách đột ngột như thế. Xem ra có điều gì đó từ bốn ánh mắt gặp gỡ, và cấu thành dòng điện chạy vào con tim. Lúc này đây, vị thế, cách thức, hay mọi ánh nhìn thành kiến xung quanh, không còn ý nghĩa gì. Đức Giê-su không đi nữa Ngài quyết định dừng lại, và lưu lại nhà của Gia-kêu.
Bất ngờ với những người xung quanh
Một pha cứu thua trông thấy, nếu Chúa Giê-su không đứng lại và mở lời: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” (Lc 19,5), thì chắc Gia-kêu bẽ mặt vô cùng. Mọi người sẽ được phen ném gạch đá dư luận về ông. Vốn đã xấu thi giờ lại xấu hơn nữa. Nhưng không, Đức Giê-su thấy rõ lòng dạ của con người, và những kiếp người. Điều ngược lại đã xảy ra, đám đông dân chúng không thể tin vào mắt mình: Đức Giê-su đã bỏ lại đằng sau, 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc. Ngài vào nhà và cùng ăn uống với gia đình ông Gia-kêu. Hôm đó chắc các ông kinh sư, Pha-ri-siêu, luật sỹ…giận Chúa Giê-su lắm, vì quá bất ngờ khi Ngài lưu lại nơi gia đình của một người tội lỗi.
Bất ngờ vì được ơn cứu độ
Như trong một giấc mơ, Gia-kêu đâu dám mơ cao, nhưng nào ai có thể biết được, ơn cứu độ đã được mang đến cho ông: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Một ngày hồng phúc cho Gia-kêu, chắc ông đã nở một nụ cười viên mãn, sau bao nhiêu năm tháng đợi chờ, và “ Hôm nay”, một từ ngữ hết sức quen thuộc trong Kinh Thánh lại thuộc trọn về viên thu thuế Gia-kêu.
Tìm thì sẽ gặp, gõ thì sẽ mở cho, trong cuộc sống hằng ngày, xin cho mỗi chúng con biết đi tìm Chúa, qua ơn gọi mà Chúa ban cho từng người. Đối với Chúa, chúng con là vô giá, duy nhất và không thể thay thế. Chúa luôn đi tìm chúng con, xin cho lòng chúng con khắc khoải cho tới khi được an nghỉ trong Chúa. Amen.
Điệp khúc trong ca khúc ‘ Gặp Gỡ Đức Kitô’, Lm nhạc sĩ Tiến Lộc đã cảm nhận: “ Gặp gỡ Đức Ki tô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, Gặp gỡ Đức Kitô, nẩy sinh tình đệ huynh.” Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu hôm nay biểu lộ những tâm tình qua điệp khúc ấy.
Trước tiên, ông Giakêu là ai? Ông là người đứng đầu những người thu thuế. Ông giàu có. Nhưng đối với dân chúng ông là một người tội lỗi, vì ông là người tiếp tay với đế quốc Lamã để bóc lột người ghèo và có thể ông trở nên giàu có vì những việc bất chính trong nghề nghiệp của ông. Nhưng trong địa vị xa hoa, giàu sang ấy, hình như ông vẫn chưa thỏa mãn với chính mình. Tự nơi thâm sâu của lòng mình, ông vẫn cảm thấy có một sự trống vắng. Người ta lánh xa thù ghét ông như một phường tội lỗi. Ông nghe dân chúng nói nhiều về ông Giêsu nào đó có quyền lực làm được những việc lạ như cho kẻ chết sống lại, chữa nhiều tật bệnh mà các thầy thuốc đều bó tay… Thế rồi một lần nghe nói ông Giêsu sẽ đi qua thành phố Giêri khô, ông quyết định phải xem cho được nhân vật nổi tiếng ấy.
Ông Giakêu âm thầm trong đám đông để tìm gặp Chúa. ông không dám xuất đầu lộ diện trước quần chúng, hơn nữa ông lại lùn; đám đông sẽ che khuất tầm nhìn của ông. Khi thấy Chúa sắp đi qua, ông liền chạy đến phía trước, leo lên một cây sung. Có thể ông tìm biết Chúa vì tò mò, nhưng từ sự tò mò ấy, ông đã nhận được ơn hoán cải cuộc đời.
Ông đi tìm biết Chúa, nhưng Chúa lại là người đi bước trước. Chúa đã xóa bỏ ranh giới giữa người tội lỗi và người công chính. Dù chưa một lần quen biết, nhưng Ngài đã biết tên ông; và giữa đám đông đang bao quanh, dù ông leo lên cành cây cao, Ngài vẫn thấy ông, đã gọi đúng tên ông và còn gợi ý với ông: “ Hôm nay tôi sẽ ghé nhà ông.” Làm sao một Đấng thánh thiện lại bất kể dư luận để ghé đến nhà một người mà ai cũng cho là tội lỗi, đáng khinh bỉ như thế! Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Còn đám đông lại xầm xì: “ Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Chúa thì xóa bỏ ranh giới giữa người tội lỗi, còn dân chúng lại phân cách với người tội lỗi! Ông mau chóng nhận ra Đấng ấy không phải là một người xa lạ, nhưng là một Đấng gần gũi, khoan dung. Qua việc ghé thăm nhà ông, ông đã đón nhận được ơn cứu độ, được trở thành con cháu Ápraham. Ông đã quyết định chia phân nửa gia tài cho người nghèo và đền bù gấp bốn lần cho những ai ông đã làm thiệt hại. Làm sao một người thu thuế bị mang ta mang tiếng như thế mà trong chốc lát đã có những hành động cách mạng đổi đời. Tiền bạc, địa vị gây cho ông tội lỗi, thì ông lại lấy chính kết quả ấy mà đền bù tội lỗi của ông. Tất cả cũng phát xuất từ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa. Ông đã nhận ra ân huệ ấy. Giữa ông và Đấng Giêsu không còn gì ngăn cách. Ông tìm và ông đã gặp Thiên Chúa qua lòng yêu thương và khoan dung của Ngài.
“Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên.” (Kn 11:24) “ Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.”( Kn 12:2). Đáp lại khát vọng muốn tìm gặp Chúa, Chúa đã đi bước trước để đến với ông. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã mau chóng biến đổi cuộc đời ông qua cái nhìn yêu thương, tha thứ và khoan dung của Thiên Chúa.
Là những người Kitô hữu, chúng ta cũng đã gặp Chúa, nhưng chúng ta đã biến đổi hay vẫn cứ sống theo nếp sống cũ như người chưa gặp Ngài! Cuộc gặp gỡ Chúa đã làm biến đổi cuộc đời ông Giakêu. Ông đã đón nhận ơn tái sinh và từ đó ông đã nẩy sinh đệ huynh. Còn chúng ta thì sao?
Đôi mắt, trái tim, sẽ phản ứng rất nhanh nhạy, khi chúng lên tiếng yêu thương, ví như các nhạc sĩ biết hòa trộn lời ca vào âm giai mùi mẫm: đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn ; và con tim đã vui trở lại. Tình yêu đến, có thật là làm cho “mắt sáng” và “tim rung” lên vì sung sướng không ? Ở đây tình yêu nơi “chú lùn”, Đức Giêsu và cả số đông hôm xưa hôm nay, đều ngỡ ngàng bởi lời nói và hành động của ông. Chúng ta đôi lúc vẫn lẫn lộn giữa tình ái và tình yêu, thực ra, tình đời hay tình người cũng dễ biến ta nên dại khờ, lãng mạn, trước tình yêu thật đang lý giải tâm trạng nơi tâm hồn ta.
Cách tiếp cận khá ngộ nghĩnh về “chữ tình” được tỏ bày nơi chú lùn tên Giakêu, Đức Giêsu đã lấy tình yêu để đáp đền cho hành động rất “trẻ con” của ông. Khi đến nơi, Chúa Giêsu nói: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông !” Nét độc đáo giữa hai người yêu nhau, họ hiểu, họ nhận biết việc phải làm qua ánh mắt, sự rung động của trái tim, không cần phải dùng đến ngôn ngữ hoa mỹ nào cả. Tục ngữ có câu: xanh vỏ đỏ lòng. Đức Giêsu mời gọi đám đông chúng ta, hãy cùng Ngài nhìn Giakêu bằng ánh mắt nhân từ, yêu thương, đừng nhìn ông là tên thu thuế tội lỗi gian tham, bớt xén hại dân…
Tình yêu đến, tình yêu làm thay đổi hình ảnh Giakêu người thu thuế, tình yêu nơi ông trở nên dại khờ, xứng tầm với hình ảnh mới: xem mặt đặt tên. Tình yêu đến, tình yêu không thể im lặng khi người ta nhận mà quên cho đi, tình yêu thật biến đổi ông Giakêu trưởng thành trong đức tin và đức ái. “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản tôi, tôi xin chia cho người nghèo, và nếu tôi chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Tình yêu đến nơi người thu thuế, sẽ không còn là “rung rinh”, với ý nghĩ làm cho két sắt to lớn hay thu tích thêm tiền tài. Chữ tình ở Giakêu sẽ thơm và mùi bền vững hơn từ sâu thẳm tâm hồn, được ông xem là trách nhiệm, là công bằng.
Tình yêu thật không có ranh giới giầu nghèo, không “loáng thoáng” bởi vẻ đẹp hay tính hào phóng bề ngoài ; tình yêu thật không cần thỏa thuận hay điều kiện, mà là cho đi, là chia sẻ. Chúa Giêsu không đến để kêu gọi người thánh thiện đạo đức, Chúa không đến vì người giầu có địa vị, cũng không đến vì ông Giakêu thấp bé, Ngài đến ban “tình yêu cứu độ” cho muôn dân. Cuộc gặp đầy tình yêu thương giữa Đức Giêsu và cuộc hoàn lương trở lại nơi ông Giakêu sẽ còn là giai điệu rung động mọi thời, các bạn đừng lầm tưởng cứ trái đỏ là chín, cứ trái thơm đều là quả mít.
Tiền đến, thần tài đến, tình yêu đến, đều mang chung một ý là vận may đang tới, Đức Giêsu có vô tình đi ngang qua chỗ Giakêu hay không, nếu nghi ngờ, hãy hỏi các nhà chuyên môn. Nơi Giakêu, tự câu truyện đã cho biết ông rất muốn được nhìn xem Thầy Giêsu, vì sợ không nhìn được Thầy, ông đã chủ ý trèo lên cây sung với hy vọng nhìn thấy rõ. Lộ trình Đức Giêsu đi không hề mờ ảo trước đám đông dân chúng, nhưng với Giakêu, cường độ bất ngờ mỗi lúc một tăng dần, từ ánh mắt Chúa dõi nhìn, đến việc gọi tên, và tỏ ý ở lại nhà ông.
Thực hư của quan niệm: nhất lé nhì lùn, mẫu người bị tiếng là xấu người xấu nết, dịch nghĩa rộng hơn, không thể tìm ra người hiền tài trong số “bần nông”, khó thấy người tốt nơi hình ảnh khó coi. Ca dao cũng có câu đáng để ta bớt hồ đồ: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Người thấp bé không thẩm mỹ, không áp đặt được “đại chúng”, nhưng chú lùn Giakêu đã minh chứng ông không tầm thường, không thể để cái đẹp hình thức đè bẹp nét đẹp tâm hồn của ông. Tình đến, tình đi, hay tình ở lại, tùy tự do của mỗi người. Tình yêu đến với Giakêu, ông đã trân trọng đón nhận, cộng tác và làm cho Tình Giêsu thực sự biến đổi ông nên người toàn diện trong công bằng của đức ái.
Nếu đặt câu hỏi, vì cớ gì Thầy Giêsu đến đồng bàn với người thu thuế, ta sẽ có câu trả lời của Thầy: vì Ta mang tình yêu đến thế gian để cứu chữa những gì đã hư mất. Nếu hỏi Giakêu, ông “tỉnh hay say đó”, cớ sao ông hào phóng đến độ bỏ phân nửa tài sản, bỏ nghề, chỉ vì một lần gặp Vị Thầy Giêsu ? Nếu được trả lời, ông sẽ trả lời ngắn gọn súc tích: bỏ tiền của chưa là gì đâu, tôi còn muốn bỏ mình vì tình yêu Ngài mang tới cho tôi. Vì gặp Ngài tôi sung sướng như thể Rồng đến nhà tôm, như tôi đang sắp chết chìm trong “biển trần” gặp được “phao cứu hộ”. Các bạn hãy mang tình yêu của mình đến với Ngài, các bạn cũng sẽ có cảm nghiệm về tình yêu của Đấng cứu độ, các bạn sẽ vui sướng hạnh phúc và từ bỏ như tôi. Amen.
Trong những tuần vừa qua, cả nước hướng về miền Trung để chia sẻ với đồng bào những khốn khó do nhân tai và thiên tai gây ra khiến cho hàng chục ngàn người bị ngập lụt, đói khát. Nhờ các trang mạng xã hội, chúng ta có thể thấy, người dân Việt Nam có một tấm lòng hết sức quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với đồng bào ruột thịt. Một anh chàng MC Phan Anh kêu gọi trên facebook chỉ một ngày mà số tiền mọi người nhờ anh chuyển ra miền Trung đã gần 20 tỉ. Còn rất nhiều các cá nhân, tổ chức tư nhân khác nữa cũng đem những nhu yếu phẩm ra cho đồng bào. Những thông tin ấy cho thấy tấm lòng quảng đại chạnh thương của rất nhiều người. Ngược lại cũng có những người đã ăn chặn những đồng tiền đóng góp đó. Một số cán bộ tìm cách cho con cháu, người nhà của mình được nhận quà, còn người nghèo thực sự thì không được, hoặc bị ăn chặn dưới nhiều hình thức. Hành động này cho thấy sự gian dối, vô cảm và ác tâm của những người có trách nhiệm.
Ông Giakêu ngày xưa, dù là một quan chức chính quyền giàu có, là đội trưởng đội thu thuế, nhưng trong cộng đồng Do Thái, ông đã bị coi thường, bị tẩy chay, loại trừ. Ông bị coi là hạng tội lỗi, bởi vì ông thường xuyên tiếp xúc với dân ngoại, đã gian tham để trở nên giàu có. Ông bị khinh coi như những kẻ tham ô phản quốc.
Dù trong mắt người Do Thái, ông là kẻ tội lỗi, nhưng ông lại có một tâm hồn rất đẹp và thiện chí. Ông chỉ nghe đồn về thầy Giêsu nhưng chưa có dịp gặp Ngài. Hôm nay có cơ hội, thầy Giêsu đi ngang qua, không phải vì tò mò cho bằng ông đã nuôi trong lòng sự khát khao tìm kiếm Ngài, ông đã quyết định xem cho biết Đức Giêsu là ai. Lọt trong một đám rất đông, lại vì thấp bé, ông không mặc cảm tự ti hay tự ái, ông quyết định trèo lên cây sung bên đường để xem Đức Giêsu sắp đi ngang qua.
Trong lúc mọi người không quan tâm đến sự hiện diện của ông, thì Chúa Giêsu đã nhìn thấy ông. Ánh mắt của lòng xót thương đã chạm đến tâm hồn Giakêu. Ngài thấu suốt thiện chí thành tâm của ông, Ngài gọi ông: Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay, tôi phải ở lại nhà ông. Chúa Giêsu đã đáp ứng hơn cả sự khát mong của Giakêu. Ngài không chỉ nhìn và gọi tên ông, nhưng Ngài còn muốn bước vào nhà ông và ở lại đó.
Thánh Luca cho thấy, lòng xót thương của Chúa Giêu như dòng suối tuôn trào, đã gặp được một mảnh đất khô cằn nứt nẻ đang khát khao dòng nước. Dòng nước đem lại sự tươi mát, hồi sinh cho mảnh đất và còn làm cho mảnh đất trở nên màu mỡ và trổ sinh hoa thơm trái ngọt. Giakêu đã mở lòng để Chúa Giêsu bước vào tâm hồn khô cằn của ông và biến đổi ông. Không quan tâm đến những lời xì xèo của đám đông, Giakêu như một mảnh đất đã hồi sinh, ông đã được biến đổi hoàn toàn nhờ tình thương Chúa dành cho ông.
Trước đây làm nghề thu thuế, Giakêu chỉ biết vơ vét về cho mình ; trước đây chưa biết Chúa, ông hành xử gian tham dối trá để được lợi ; trước đây cuộc đời ông, tâm hồn ông khép kín bởi chức vị, tiền bạc, của cải, nay khi đón nhận lòng thương xót của Chúa, ông đã được biến đổi, đã mở lòng mình, đã để cho tình yêu tuôn chảy đến người khác. Ông đứng lên công khai thưa với Chúa Giêsu: Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa gia sản tôi có để phân chia cho người nghèo; nếu tôi chiếm đoạt của ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn. Với hành động này, ông đã khai thông được sự bế tắc trong tâm hồn, khai thông được ao tù ích kỷ đã tích tụ lâu ngày trong cuộc đời ông. Từ nay, tâm hồn ông như một dòng chảy, đón nhận nguồn nước tình thương từ nơi Thiên Chúa, và để qua ông, dòng chảy tiếp tục lan tràn tình thương đến với người khác, đặc biệt là những người nghèo và những người bị thiệt hại.
Chúa Giêsu đã thấy thiện chí của ông, đã biến đổi ông, Ngài cũng không chịu thua lòng quảng đại của ông. Chúa Giêsu đã tuyên bố: Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apbraham, vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất. Với lời tuyên bố này, Chúa Giêsu cho thấy ơn cứu độ Ngài đem đến, hôm nay, đã khởi đầu và đã sinh hiệu quả cho Giakêu và gia đình ông. Sự khởi đầu này bắt đầu từ những con người bị coi là tội lỗi, bị loại trừ khinh miệt, nhưng lại có một tâm hồn rộng mở, đã tin và đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu, đã chấp nhận để cho lời Chúa biến đổi nên những con người mới.
Do sự trợ giúp của Thiên Chúa, ông Giakêu đã bước được một bước dài trong đức tin, ông đã tin thầy Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ. Ông tin rằng, khi ông đón Chúa vào tâm hồn và vào gia đình ông là ông có tất cả. Trước đây, ông tìm niềm vui trong công việc, ông cậy dựa vào tiền bạc và địa vị, nay biết Chúa Giêsu và tin Ngài, những thứ kia chẳng còn giá trị gì nữa, ông không giữ lại cho mình, nhưng cho đi tất cả để được Đức Kitô và ơn cứu độ của Người. Chúa Giêsu còn khẳng định: Bởi người này cũng là con cháu Apbraham. Chúa Giêsu muốn cho những người Do Thái khác thấy rằng, họ tự hào là dòng dõi Apbraham, nhưng họ đã không có đức tin như tổ phụ Apraham, không dám bước theo lời mời gọi của Thiên Chúa như Apbraham. Trái lại, ông Giakêu bị mọi người loại trừ, nhưng Giakêu lại tin vào Thiên Chúa, dám từ bỏ quyền lực địa vị và tiền bạc vì tin vào Chúa Giêsu, như thế, Giakêu mới xứng đáng là con cháu Apbraham.
Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người. Lòng thương xót của Chúa không bao giờ bị giới hạn bởi bất cứ sự cản trở nào. Lòng thương xót của Chúa tuôn trào như sương mai rơi trên mặt đất; Ngài không tìm cách hủy diệt con người, cho dù tội của con người có tràn lan thì lòng thương xót của Thiên Chúa như biển cả nhấn chìm tất cả mọi loài mọi vật trong đại dương yêu thương của Ngài. Sách Khôn Ngoan đã khẳng định như thế. Tác giả còn lý luận rằng: Thiên Chúa yêu thương mọi vật mọi loài, không bao giờ chê bỏ nó, vì nếu Chúa không yêu thương nó, thì Ngài đã chẳng dựng nên nó làm chi.
Ánh mắt cảm thông và trái tim chạnh thương của Thiên Chúa đã đụng chạm đến tâm hồn của Giakêu cũng đang dành cho chúng ta. Cái nhìn của Thiên Chúa không bao giờ là cái nhìn thất vọng, nhưng là cái nhìn khích lệ và nâng đỡ, mời gọi chúng ta chỗi dậy đón Người vào nhà và vào tâm hồn mình. Chúa cũng ngỏ lời với mỗi người như Chúa đã nói với Giakêu: Hôm nay, Ta muốn cư ngụ tại nhà con.
Vì thế, hãy sẵn sàng vượt qua tất cả các mặc cảm tội lỗi và những trở ngại là những lười biếng ngại ngùng để mỗi người vui mừng đón Chúa bước vào tâm hồn qua Bí tích Thánh Thể và Thánh lễ mỗi ngày. Có Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ tìm lại được bình an và niềm vui thật sự. Khi có niềm vui và bình an của Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn những bực bội, nóng nảy, cãi vã nữa, nhưng sẽ sống trong niềm vui, cư xử vui tươi và là người đem niềm vui đến cho người khác. Có Chúa bước vào tâm hồn, giống như Giakêu, chúng ta sẽ không tìm kiếm lợi lộc của thế gian, không thu vén về cho mình, không còn chỉ nghĩ đến bản thân, nhưng biết nghĩ đến, quan tâm đến và chia sẻ cho người khác những gì Chúa đã ban cho mình. Có Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn khép kín trong ích kỷ và cái tôi tự mãn, nhưng biết mở lòng ra với anh em để cảm thông và yêu thương.
Hôm nay, tôi muốn cư ngụ tại nhà ông – Chúa đang muốn vào cư ngụ và dùng bữa với mỗi gia đình chúng ta. Hãy mở rộng cửa nhà để mời Chúa bước vào và dành cho Chúa sự tiếp đón chân thành. Mỗi gia đình hãy dành cho Chúa một vị trí trong bàn ăn và trong sinh hoạt của gia đình, làm cho bữa cơm gia đình đậm đà hơn. Hãy cùng trò chuyện, tâm sự với Chúa mỗi ngày qua các giờ kinh, dù đó là một ngày thành công hay một ngày thất bại. Hãy trao đổi với Chúa về những toan tính, dự định của gia đình và tâm sự với Chúa về những vướng mắc, khó khăn của gia đình. Chúa sẽ giải gỡ những khó khăn cho chúng ta.
Tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, noi gương ông Giakêu, hãy mạnh dạn vứt bỏ khỏi gia đình những nóng nảy cãi vã, sự tham tiền tham việc để có nhiều giờ dành cho Chúa và cho nhau hơn, giúp gia đình mỗi ngày nên tốt hơn, ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.
Cách đây 2.000 năm, Do-thái bị đế quốc La-mã đô hộ. Chính quyền La-mã lúc đó đòi hỏi mỗi vùng thuộc địa phải đóng một số thuế đã được định trước, và họ cho bán đấu giá quyền thu thuế trong mỗi vùng. Người mua có thể thu thuế từ dân chúng bao nhiêu tùy ý, miễn là đóng lại cho chính quyền La-mã đủ số tiền đã định trước. Dân chúng bị những người thu thuế bóc lột một cách thẳng tay, rút tỉa đến tối đa, để bỏ vào túi riêng của mình. Người thu thuế là những người làm giàu trên xương máu đồng bào mình, vì thế, họ bị coi là hàng ngũ tội lỗi không thể tha thứ được, là người bị khinh bỉ nhất trong xã hội Do-thái lúc đó. Ông Da-kêu là một người như thế và còn hơn thế nữa, là một đầu sỏ của nhóm người tội lỗi này: ông là Trưởng ban Thuế vụ tại Giê-ri-khô. Có lẽ chính ông Da-kêu cũng nhận ra điều này; đàng khác, chắc chắn ông cũng nghe nhiều người kể lại danh tánh một người tên là Giê-su ở làng quê Na-da-rét, tự xưng là Con Thiên Chúa, đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh cho nhiều người, và một điều đặc biệt là ông Giê-su ấy chỉ chuyên đến với những người nghèo hèn, tội lỗi, tù rạc, bệnh hoạn. Vì thế, Da-kêu muốn tìm cách gặp để xem ông Giê-su là người như thế nào và có thực đúng như những lời đồn đại hay không.
Cơ hội đã tới, khi biết người mình muốn tìm sắp đi ngang qua thành Giê-ri-khô, Da-kêu liền chen vào đám đông thực hiện ý định, chỉ hơi tiếc một điều là dân chúng chen chúc quanh Đức Ki-tô thì quá đông, mà ông lại quá… lùn. Nhưng ông quyết không bỏ lỡ cơ hội, bèn tìm cách leo lên cây cao để nhìn cho rõ, và đó chính là một sáng kiến xuất phát từ lòng ao ước muốn đạt mục đích. Cũng chính từ lòng ao ước ấy mà ông được toại nguyện còn hơn cả sự mong muốn của mình. Đức Giê-su không chỉ đi ngang cho Da-kêu nhìn thấy, mà Người còn gọi đích danh ông và hứa vào tận nhà ông (“Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” – Lc 19, 5). Quả đúng như lời đồn đại về Đức Giê-su, không những thế, Người còn thực hiện đúng những gì Người đã dạy (“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” – Mt 7, 7).
Tất cả những sự kiện xảy ra nhãn tiền đã khiến ông Da-kêu, từ một người mới chỉ nghe danh và tò mò muốn biết Đức Ki-tô là ai và là người như thế nào, đã trở thành một người vững tin và quyết tâm sám hối, sửa chữa lỗi lầm của mình (“Thưa Ngài, đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” – Lc 19, 8). Hành động ấy đã khiến Đức Giê-su xúc động và nói về ông Da-kêu thế này: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19, 9-10). Lời dạy này mang ý nghĩa gì ?
Có 2 điều cần suy gẫm: Thứ nhất, ông Da-kêu là con cháu tổ phụ Ap-ra-ham, mà tổ phụ Ap-ra-ham là con cái Thiên Chúa, nên ông Da-lêu cũng là con cái Thiên Chúa. Đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều bình đẳng trong ân nghĩa Chúa, hay nói khác hơn, đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều được cứu độ, dù cho có bị lạc đường vì tội lỗi thế nào mặc lòng (xc “Con chiên lạc” – Mt 18,12-14) bởi Chúa đã khẳng định chắc nịch: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 8). Tuy nhiên, những con chiên bị lạc đường vì tội lỗi ấy khi được Chúa tìm và vui vẻ vác trên vai trở về, liệu có thực lòng muốn trở về đường ngay nẻo chính hay không? Và đó chính là điểm cần suy gẫm thứ hai: Ông Da-kêu khi được gặp Chúa, được Chúa lại thăm tận nhà, ông đã sáng mắt sáng lòng hiểu ra con người thực của mình chứa đầy tội lỗi nhuốc nhơ, hiểu được chính Con Người mà ông tò mò muốn biết là Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, nên ông đã thực lòng ăn năn sám hối và đã được cứu độ. Tất cả gói ghém trong Ánh mắt xót thương của Đấng giàu lòng thương xót.
Đó là ánh mắt biểu lộ sự quan tâm đặc biệt: Da-kêu thật thấp bé, nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Và thật lạ lung, giữa đám đông người chen chúc, dù Da-kêu thấp bé, Chúa vẫn nhìn thấy ông, lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Da-kêu, chắc chắn sẽ làm ông cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa. Đó là ánh mắt khiêm nhường: Cảnh Chúa ngước lên nhìn Da-kêu, thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Da-kêu chắc chắn phải choáng ngợp vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Chúa Giê-su còn nhìn Da-kêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng Da-kêu sẽ nên người tốt, sẽ làm lại cuộc đời, nên Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha, quên đi quá khứ tội lỗi của ông, mà hướng về tương lai tốt đẹp. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Da-kêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Nói cách cụ thể thì đó chính là Ánh Mắt Xót Thương của Đức Giê-su – hiện thân Lòng Chúa Thương Xót.
Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXI/TN-C), người tín hữu thấy rõ được 2 ánh mắt xuất phát từ 2 phía: Ánh mắt của Da-kêu là ánh mắt tin tưởng, phó thác đã “dán chặt vào Chúa Giê-su”. Đối lại với ánh mắt Da-kêu là ánh mắt Đức Giê-su nhìn thấu tâm can Da-kêu nên đã chủ động tìm ông vì Người không muốn ông sống mãi trong tình trạng tội lỗi; đó là ánh mắt nhân từ thương xót. Vâng, chính “Ánh mắt yêu thương của Chúa đã cứu Da-kêu và Mat-thêu khỏi vòng nô lệ tiền bạc; đã giúp người đàn bà ngoại tình và Ma-đa-lê-na không còn kiếm tìm hạnh phúc nơi thụ tạo; đã khiến Phê-rô khóc lóc vì trót phản bội Chúa, và đã hứa Thiên Đàng cho người trộm cướp có lòng ăn năn.” (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót). Quả thật “Với đôi mắt của chúng ta dán chặt vào Chúa Giê-su và ánh mắt xót thương của Ngài, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Sứ vụ của Chúa Giê-su được Chúa Cha trao phó là mạc khải mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa trong sự viên mãn của tình yêu ấy. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 8.16).” (Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus”, số 8).
Như vậy là đã rõ, Lòng Thương Xót Chúa tuôn đổ tràn đầy, không phân biệt nội ngoại, giàu nghèo, sang hèn. Vấn đề đặt ra là anh có nhận ra và phân biệt được đâu là thật và đâu là giả giữa cõi đời chân giả khôn phân này hay không mà thôi. Và khi đã phân biệt được chân giả, thì biết tìm đến chân lý với tất cả lòng tin, với tất cả thiện chí. Chỉ đến khi đó, Thiên Chúa sẽ “…dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin” (2Tx 1, 11). Chắc chắn sẽ có một cuộc đổi đời xảy đến với anh cũng như đã xảy đến với ông Da-kêu thủa xưa. Cũng bởi vì “danh của Chúa chúng ta là Đức Giê-su, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giê-su Ki-tô.” (2Tx 1, 1). Ước được như vậy. Xin cùng dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã dạy chúng con phải thương xót như Cha trên trời, và cho chúng con biết: ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha. Xin tỏ cho chúng con thấy nhan thánh Chúa và chúng con sẽ được cứu thoát. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã cứu Da-kêu và Mat-thêu khỏi vòng nô lệ tiền bạc; đã giúp người đàn bà ngoại tình và Ma-đa-lê-na không còn kiếm tìm hạnh phúc nơi thụ tạo; đã khiến Phê-rô khóc lóc vì trót phản bội Chúa, và đã hứa Thiên Đàng cho người trộm cướp có lòng ăn năn. Xin cho chúng con biết lắng nghe, như chính Chúa đang gửi đến mỗi người chúng con, những lời Chúa đã nói với người phụ nữ Samaria: “Nếu chị biết nhận ra ơn Chúa!”
Chúa là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình, gương mặt của Thiên Chúa đang đem lòng xót thương và tha thứ mà biểu lộ uy quyền trên mọi sự: xin cho Hội Thánh được nên gương mặt hữu hình của Chúa nơi trần gian, gương mặt của Chúa sống lại hiển vinh. Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa cũng phải khoác lên người sự yếu đuối để biết đồng cảm với những người đang sống trong u mê và lầm lạc: xin cho mọi người đến với các thừa tác viên đều thấy mình được Thiên Chúa tìm kiếm, yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa gửi Thánh Thần đến và xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con, để Năm Thánh Lòng Thương Xót này trở thành năm được Chúa ban ân sủng, để Hội Thánh Chúa được thêm lòng nhiệt thành mang Tin Mừng đến với người nghèo, loan báo tự do cho những người bị giam cầm và áp bức, và cho người mù lại được nhìn thấy. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, chúng con nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen. (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót)
Lúc con người bước vào đời cũng là lúc khởi đầu hành trình kiếm tìm Thượng Đế. Hành trình tìm TN 31-C161
Lúc con người bước vào đời cũng là lúc khởi đầu hành trình kiếm tìm Thượng Đế. Hành trình tìm kiếm này khác nhau nơi mỗi người: có người thì thuận lợi, có người thật khó khăn; có người thật lâu dài, lại có người rất đơn giản ngắn gọn. Mục đích của việc kiếm tìm Thượng Đế là để gặp gỡ Ngài, được Ngài chia sẻ tính thần thiêng và vinh quang của Ngài. Có nhiều cách trình bày Thượng Đế khác nhau, tùy truyền thống văn hóa hay quan niệm tôn giáo tín ngưỡng. Người Kitô hữu được mặc khải cho biết Đấng Cao Cả có một tên gọi: Thiên Chúa. Hành trình cuộc đời cũng là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Nhờ nỗ lực tìm kiếm Chúa mà chúng ta có thể nên giống Ngài ngay khi còn sống ở thế gian này, là bảo đảm sẽ được nên giống Ngài hoàn toàn ở đời sau.
Ông Giakêu là một người tìm kiếm Chúa. Dưới ngòi bút của thánh Luca, Giakêu là một người khá giả và là một thủ lãnh của những người thu thuế. Tuy vậy, sự giàu có và sung túc của ông không làm cho ông được thỏa mãn. Vì vậy, khi nghe nói có vị ngôn sứ tên là Giêsu đi ngang qua, ông đã vượt qua mặc cảm tự ti về vóc dáng, sẵn sàng trèo lên cây vả để nhìn rõ vị ngôn sứ sắp đi ngang qua. Vóc dáng ông tuy lùn, nhưng ý chí của ông lại cao. Dù là một thủ lãnh thu thuế, ông không ngại những lời chê bai đàm tiếu của công chúng. Cử chỉ trèo lên cây cho thấy nỗ lực tìm kiếm Chúa của ông.
Nếu con người mọi thời đang nỗ lực tìm kiếm Chúa, thì Chúa cũng chủ động kiếm tìm con người. Chúng ta thấy điều này nhiều nơi trong Tin Mừng thánh Luca. Những dụ ngôn “người chủ chiên đi tìm chiên lạc”, “người đàn bà tìm đồng bạc bị mất” đều diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Đang khi ông Giakêu còn loay hoay ngồi trên cây, thì Chúa Giêsu chủ động đề nghị: “Ông hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”. Một vinh dự không ngờ! Giakêu chỉ nghĩ leo lên cây để nhìn Chúa đi ngang qua, nhưng Chúa lại đích thân đến nhà ông. Không phải chỉ có chúng ta ngạc nhiên, mà những người Do Thái đương thời cũng ngạc nhiên không kém. Không những ngạc nhiên, họ còn ganh tỵ với ông Giakêu và xầm xì với nhau. Đó là tâm lý thường thấy nơi con người. Khi thấy người ta hơn mình điều nọ điều kia thì tìm cách bới móc những khuyết điểm của họ để hạ thấp giá trị của họ xuống. Không chỉ ganh tỵ với ông Giakêu, những người đương thời còn tỏ ra bất bình với Chúa Giêsu, vì “nhà người tội lỗi mà ông ta cũng đến trọ”.
Trong khi những người Do Thái xầm xì với nhau, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố ông Giakêu là người được ơn Cứu độ. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã làm ông thay đổi cuộc đời. Từ một người thu thuế hay gian lận tham lam, ông trở thành người quảng đại, sửa lỗi bằng cách sẽ đền bù cho người bị thiệt và chia cơm sẻ áo cho người nghèo. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp ông vượt lên mọi thành kiến xã hội, lấy lại tự tin và niềm hy vọng. Việc Chúa đến thăm nhà giúp ông xua tan mọi mặc cảm về nghề nghiệp cũng như thân phận của mình. Những gì ông thưa với Chúa cho thấy một sự đổi đời tận gốc rễ. Ông Giakêu, một người thu thuế đã thực sự trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một người con đích thực của Abraham, người công chính. Ông Giakêu đại diện cho vô vàn vô số những người nam nữ già trẻ trong mọi thời đại đang tìm kiếm Chúa. Họ tìm kiếm Chúa như hoa hướng dương tìm về mặt trời, như suối tìm về nguồn và như chim tìm về tổ. Con người không ngừng tìm kiếm Chúa mặc dầu họ chưa biết rõ về Ngài. Tin Mừng Thánh Luca là “Tin Mừng của lòng thương xót”, vì vậy tác giả thường trình bày Chúa Giêsu như một vị Ngôn sứ rao giảng và diễn tả lòng bao dung. Hãy nhớ lại điều người cha ngỏ với con mình trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,31). Hoặc lời Chúa Giêsu trên thập giá: “Tôi bảo thật, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Đó là một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Đoạn sách trích từ sách Khôn ngoan hôm nay (Bài đọc I) là một ví dụ. Thiên Chúa thương xót hết mọi người. Ngài nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi của họ để mong họ sám hối trở về và được cứu rỗi. Chúa luôn giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân, nếu họ thành tâm trở về với Ngài. Như thế, người tín hữu cần vững lòng trông cậy vào lòng từ bi Chúa. Niềm trông cậy phải được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, qua cách ăn nết ở của chúng ta – Thánh Phaolô khuyên các tín hữu như vậy (Bài đọc II). Người trông cậy Chúa sẽ không hoang mang lo sợ trước những lời đồn đại và những tư tưởng lầm lạc, vì họ tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa.
Cuộc tìm kiếm Chúa mặc dù còn nhiều gian nan, nhưng chắc chắn những ai nỗ lực tìm Chúa sẽ được gặp Ngài. Chúa đang hiện diện trong cuộc đời và trong chính tâm hồn chúng ta. Việc gặp Chúa thực ra rất đơn giản: tin tưởng, yêu mến và cậy trông vào Ngài, tất yếu sẽ được gặp Ngài và được Ngài ban trọn niềm vui.
Cuộc đời của chúng ta thường có nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà chúng ta biết trước và cũng có những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Có những cuộc gặp gỡ chúng ta cố tránh né, nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ mà chúng ta cảm thấy hồi hộp như đi phỏng vấn tại tòa đại sứ để đi đoàn tụ, hay có những sự háo hức mong đợi như về thăm những người thân yêu tại Việt Nam, hay như hẹn hò gặp người yêu, hay gặp một nhân vật nổi tiếng như tổng thống hay Đức giáo hoàng. Hàng tuần chúng ta đến nhà thờ để gặp gỡ Chúa Ki-Tô một cách đặc biệt và thân tình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ nào cũng để lại những dư âm, những cảm xúc hay có ảnh hưởng đến đời sống chúng ta. Và có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa có sức hoán cải hay thay đổi hoàn toàn cuộc sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay mang nhiều tính cách và có kết quả bất ngờ, tuy cuộc hành trình của Chúa có mục đích rõ ràng. Khi đến thời điểm, Chúa Giê-su cương quyết lên Giê-ru-sa-lem để bày tỏ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa Cha cho nhân loại. Trên con đường và không bao lâu, Chúa biết không thể dùng đường tắt mà đi, cũng như phải đối diện với nhiều cản trở và gặp gỡ nhiều hạng người khác nhau. Trước hết, Chúa phải đương đầu với sự khinh bỉ và thù hằn của người Samaritan chống đối không cho Chúa đi qua thành của họ, vì vậy, Chúa phải đi đường vòng khó khăn, nguy hiểm và xa hơn. Sau đó, Chúa phải đối diện với những sự dận dữ, muốn trả thù của các môn đệ. Nhưng với một cử chỉ sửa trách nhẹ nhàng và quyết định đi đường khác, Chúa đã hóa tan những cản trở, những sự thù hằn và chống đối.
Trong khoảng đường còn lại, Tin mừng thánh Lu-ca cho chúng ta thấy Chúa gặp và đương đầu với những tình cảnh khó khăn và những cản trở to lớn khi những người Pha-ri-sêu và luật sĩ thù hằn đưa ra những câu hỏi cố ý đánh lừa để tìm cách hại Người. Ngoài ra, Chúa còn gặp những đầy tớ bất lương, sự chống đối của bà con thân thuộc, đối diện không những với ma quỉ mà còn tướng của ma quỉ, đó là chưa kể tới những sự chống đối và tẩy chay của dân chúng, cũng như sự lo sợ và yếu kém của các môn đệ theo Chúa. Nhưng thánh Lu-ca cho chúng ta biết, Chúa đã trấn an các môn đệ với những lời tăng thêm lòng xác tín của các ông vào Chúa: “Dân chúng sẽ chào mừng các con”, “Satan sẽ rơi xuống từ trời”, “Các con sẽ trừ được rắn độc, bò cạp và quyền lực của ma quỉ, và không có sự gì làm hại được các con”, “Tên các con đã được ghi sổ trên trời”, “Cha Ta sẽ ở cùng Ta”, “Lời cầu nguyện của các con sẽ được nghe lời”, “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống.”
Tin mừng cho chúng ta biết, ngày hôm đó Chúa đang đi trên lộ trình ngang qua thành Giêricô để lên thành Giêrusalem. Ngài chỉ đi như vậy thôi hay là còn có một mục đích nào khác nữa không? Câu chót của đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa không phải chỉ đi lang thang, mà có mục đích rõ ràng, đó là để “tìm cứu vớt những gì đã hư hỏng”, và ngày hôm đó Chúa đã gặp Gia-kêu. Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Gia-kêu là một trong những câu chuyện đẹp trong Tin mừng của Thánh Lu-ca. Cuộc gặp gỡ này đã biến Gia-kêu từ một người rất xấu trở nên đẹp lạ thường.
Chúng ta nhận thấy mở đầu câu chuyện gặp gỡ, hình ảnh của Gia-kêu rất xấu vì ông được diễn tả như là một người gian dối tội lỗi, bị dân chúng thù hằn, khinh bỉ và tránh xa. Lý do là vì ông làm nghề thu thuế và còn là thủ lãnh thu thuế và giàu có. Nhưng sau đó vào cuối câu chuyện ông đã thay đổi, một sự thay đổi tuyệt vời làm cho Chúa Giê-su cũng phải nhìn nhận: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ.” Sự thay đổi như thế nào, thì chúng ta hãy nghe chính Gia-kêu thưa với Chúa: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Ông bà anh chị em thân mến. Gia-kêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời không những của ông mà còn cả gia đình của ông. Đây không phải là cuộc gặp gỡ tình cờ, vì như chúng ta biết đối với Chúa Giê-su, mục đích của cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem là đem tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người. Thế nhưng, chúng ta tự hỏi do đâu hay nguyên nhân nào mà Gia-kêu đã thay đổi cuộc đời như thế?
Chúng ta nhận ra hai yếu tố thúc đẩy và tạo nên sự thay đổi cuộc sống của Gia-kêu. Yếu tố thứ nhất là sự khao khát và thôi thúc của chính Gia-kêu. Có lẽ ông đã nghe nói về lời rao giảng, những phép lạ và con người của Chúa Giê-su, cho nên, khi nghe nói Chúa đi ngang qua thành của mình thì ông tìm cách xem mặt Chúa Giê-su. Ông vội vã chạy tới phía trước, nhưng vì sự cản trở của đám đông dân chúng, và nhất là vì thân hình ông nhỏ bé, cho nên ông leo lên một cây sung để xem Chúa Giê-su. Như Chúa Giê-su đã tìm mọi cách vượt qua những cản trở để lên Giê-ru-sa-lem, ông Gia-kêu cũng đã tìm mọi cách để vượt qua những cản trở trong con người của mình là tội lỗi, và cản trở bên ngoài là đám đông dân chúng, để xem thấy mặt và gặp được Chúa. Tình yêu, lòng thương xót, ơn tha thứ và cứu độ của Chúa luôn sẵn đó, chỉ cần Gia-kêu hay chúng ta, chịu khó và hy sinh tìm đến để lãnh nhận là có ngay. Quả thực, chúng ta thấy chính Gia-kêu đã đóng góp một cách hết sức tích cực và chân thành vào sự biến đổi cuộc đời của ông.
Yếu tố thứ hai tạo nên sự thay đổi cuộc đời của ông Gia-kêu là lòng nhân từ và thương xót của Chúa Giê-su. Tin mừng cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su đã nhìn lên và gọi ông xuống mau đi. Hơn nữa, chúng ta thấy Chúa còn muốn tháo gỡ những cản trở của dân chúng chỉ trích về khía cạnh tội lỗi cũng như sự không xứng đáng của ông Gia-kêu, để tạo sự mật thiết với ông và gia đình ông, và đem tình yêu tha thứ và ơn cứu độ đến cho gia đình ông. Vì vậy. Chúa đề nghị đến nhà ông: “Hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi.” Và còn cho ông biết “Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.”
Ông bà anh chị em thân mến. Tin mừng thánh Lu-ca khẳng định cho chúng ta biết nếu cuộc hành trình của chúng ta thực sự có sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tháo gỡ được những cản trở, thay đổi cục diện, tình huống từ hoàn cảnh xấu trở thành tốt, đầy hy vọng và ơn sủng của Chúa, cũng như có sức mạnh biến đổi cuộc sống người khác, như Chúa đã biến đổi cuộc sống của ông Gia-kêu trong Tin mừng hôm nay. Xin Chúa cho chúng ta cũng có một tấm lòng nhân từ như của Chúa và tấm lòng quảng đại như Gia-kêu. Một chút nữa đây, Chúa Giê-su sẽ đến và ngự trong tâm hồn chúng ta. Xin Chúa Giê-su Thánh Thể biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành sứ giả đem tình yêu và lòng thương xót của Chúa đến cho mọi người chung quanh.
-------------------------------------
TN 31-C163: Ánh mắt và tiếng gọi của Lòng Xót Thương
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Chúa Giêsu vẫn đang trên hành trình lên Giêrusalem và đây là chặng đường cuối. Thánh Luca đã TN 31-C163
Chúa Giêsu vẫn đang trên hành trình lên Giêrusalem và đây là chặng đường cuối. Thánh Luca đã kể cho chúng ta về cuộc gặp gỡ thật đẹp giữa Chúa và Giakêu- ông xếp của ngành thuế trong thành phố Giêrikhô, một người giàu có khét tiếng. Đó là cuộc gặp gỡ của Lòng Thương Xót đem đến ơn hoán cải cho Giakêu, một người mà đối với mọi người, nhất là với giới Pharisiêu, ông như kẻ đã hư mất. Người ta coi ông là người tội lỗi, người cộng tác với thế lực nước ngoài để hại dân mình, người gian lận và bất công, sống trong giàu có và xa hoa.
Dù sống trong danh vọng, tiền của dư thừa, nhưng Giakêu vẫn chưa thỏa mãn. Trong ông như còn thiếu thốn điều gì đó mà hôm nay ông đang tìm kiếm để thấy, gặp: Chúa Giêsu- Đấng mà ông muốn biết Người là ai? Giakêu nóng lòng thấy Chúa, mà đám đông lại như bức tường dựng trước con người thấp bé của ông! Ông phải chạy vượt lên phía trước. Ông không ngại người ta nhạo cười mình. Bằng mọi cách, ông phải thấy được Chúa Giêsu. Một phương cách đầy sáng tạo được ông áp dụng. Không bận tâm đến địa vị, gia thế, ông leo lên một cây cao, dưới những ánh mắt mỉa mai của người xung quanh nhận ra ông. Bất chấp tất cả, ông đã thỏa lòng...
"Khi Chúa Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên" Chắc hẳn Giakêu đã nghe người ta nói về Chúa Giêsu, nên ông chỉ mong ước một điều "được thấy Chúa". Thế nhưng, Chúa đã dừng lại, ngước mắt lên cành cây mà Giakêu đang vắt vẻo trên đó, nhìn ông và gọi đúng tên ông. Giakêu tìm mọi cách để thấy Chúa nhưng Chúa đã nhìn thấy ông, thấu rõ từng cử chỉ của ông. Chúa nhìn sâu trong trái tim ông và biết rõ lòng chân thành nơi ông. Từ khi ông chưa thấy Chúa, Chúa đã thấy rõ ông. Giờ đây, không chỉ thấy, nhưng ông còn được phúc đón rước Chúa vào nhà " Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" Chúa nói với Giakêu như với một người bạn lâu ngày Người gặp lại. Còn niềm vui nào lớn hơn. Vượt quá những gì ông mong ước. Có lẽ ông nghĩ đời mình đã tàn. Thế nên, nghe lời Chúa ngỏ, "Ông vội vàng xuống và mừng rỡ đón rước Người."
Từ cái nhìn của Chúa, Giakêu đã cảm nhận ông được yêu thương. Chúa có thể nhìn Giakêu, nói với ông một câu rồi tiếp tục đi. Chúa cũng có thể đến trọ nhà người Dothái tốt lành khác. Thế nhưng không, Chúa lại chọn ở lại nhà Giakêu, "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!" Chắc chắn Chúa đã biết lòng người Pharisiêu và nhiều lần họ lên án Chúa "Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!"( Lc 5,30) Dưới mắt họ, lại lần nữa Chúa đón tiếp người thu thuế, phường tội lỗi và ăn uống với họ. Đây là một cớ vấp phạm cho người Dothái vì họ chẳng nhận ra tình yêu bao la của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Họ cũng không đón nhận được Lời mà nhiều lần Chúa đã nhắn nhủ "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn"(Lc 5,32) và "Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối"(Lc 15,10) Nhưng chỉ Giakêu, chỉ những con người khiêm hạ nhìn nhận thân phận tội lỗi trước Chúa, mới nhận ra lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa nơi Người.
Với cung cách hành xử đầy tràn lòng thương xót, Chúa đã cảm hóa lòng của Giakêu. Ông thưa với Chúa rằng "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Giakêu đã thực sự được biến đổi. Ông được ân sủng và tình yêu thương xót của Chúa đụng chạm. Ông cảm nhận Chúa xót thương ông, tha thứ cho ông là kẻ ngập tràn tội lỗi. Những gì ông có thể làm bây giờ là trao lại tình thương cho anh em qua lòng quảng đại chia sẻ phân nửa tài sản. Có Chúa, có tình yêu Chúa là tất cả đối với ông. Ông sám hối về những lỗi phạm, thiếu sót với tha nhân và cần phải đền trả thiệt hại.
Từ đây, Giakêu trở nên ngay lành và công chính, bởi vì: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến nhà này...Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." Vâng, hôm nay, Chúa Giêsu muốn cứu Giakêu, Người muốn cứu tất cả những ai tội lỗi, biết thống hối ăn năn. Chúa tha thứ, chữa lành và phục hồi phẩm giá là con cái Abraham cho Giakêu, và còn hơn nữa là con cái Thiên Chúa tình yêu. Lòng thương xót của Chúa thật lớn lao, bao phủ những con người tội lỗi. Người chỉ muốn đi tìm, yêu thương, tha thứ và cứu độ con người.
Hôm nay, Chúa vẫn mỗi ngày dừng lại trước chúng ta, ánh mắt Người vẫn nhìn chúng ta và nói với chúng ta như đã nói với Giakêu "Hôm nay Ta muốn ở lại nhà con" Điều quan trọng là ta có ước ao gặp Chúa, vội vàng, nhiệt tình đón Người, mở rộng cánh cửa tâm hồn để Người ở lại, yêu thương, tha thứ, ban ơn cứu độ và biến đổi chúng ta hay không? Chúa muốn đến với chúng ta và cứu chúng ta, nhưng phần ta có muốn hay chăng, như lời thánh Augustinô nói "Để cứu độ con, Chúa cần con đáp lời". Ước mong sao mỗi chúng ta hãy biết đứng lên, chạy đi trước, tìm mọi cách để gặp được Chúa. Khi ấy ta sẽ thấy bầu trời tình yêu và lòng thương xót bao la của Chúa bao phủ ta và ta sẽ được biến đổi.
Hôm nay, còn đó biết bao anh chị em mang hình ảnh của Giakêu với nhiều trạng thái. Những người chỉ vì hoàn cảnh, cuộc sống đưa đẩy, đã bị gạt ra khỏi xã hội và Giáo Hội. Những anh em thấp cổ bé miệng, bị khinh miệt, cô lập, không người thân cận. Những anh chị em sinh viên hay di dân nghèo, quê mùa,...đến sống giữa thành phố xa lạ chẳng quen biết ai và cũng khó hòa nhập với Giáo xứ mới! Nhiều lắm những Giakêu của thời đại hôm nay đang ở xung quanh chúng ta. Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng hãy noi gương Chúa "Tìm và cứu những gì đã hư mất", rẽ vào con đường của thành Giêrikhô là những ngôi nhà lụp xụp, cúi nhìn những người anh em sống bên cạnh ta để cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ và giúp họ hội nhập. Nhất là dẫn họ trở về với Chúa và đưa Chúa đến ở lại nhà của anh chị em. Có như thế, ơn cứu độ của Chúa mới đến được với muôn dân trên Quê hương Việt thân yêu của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Tình Chúa đã yêu thương chúng con. Xin từng ngày, hãy dõi mắt nhìn, xót thương gọi chúng con ra khỏi những đam mê tội lỗi, xuống khỏi những bóng cây kiêu căng và thực lòng thống hối trở về làm con cái của Chúa. Amen.
Dân Do-thái rất ghét những người thu thuế vì thấy họ hay sách nhiễu dân tình, hối mại quyền thế TN 31-C164
Dân Do-thái rất ghét những người thu thuế vì thấy họ hay sách nhiễu dân tình, hối mại quyền thế, tham ô nhũng lạm, và nhất là vì họ làm tay sai cho ngoại bang (thu thuế cho nhà nước bảo hộ Rô-ma). Vì thế, những người thu thuế thường bị coi là hàng ngũ tội lỗi. Ông Da-kêu là một người như thế và còn hơn thế nữa, là một đầu sỏ của nhóm người tội lỗi ấy (“ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có” – Lc 19, 2). Có lẽ chính ông Da-kêu cũng nhận ra điều này. Đàng khác, chắc chắn ông cũng nghe nhiều người kể lại danh tánh một người tên là Giê-su Con Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh cho nhiều người, và một điều đặc biệt là ông Giê-su ấy chỉ chuyên đến với những người nghèo hèn, tội lỗi, tù rạc, bệnh hoạn. Vì thế, ông muốn tìm cách gặp để xem ông Giê-su là người như thế nào và có thực đúng như những lời đồn đại hay không.
Cơ hội đã tới, khi biết người mình muốn tìm gặp sắp đi ngang qua thành Giê-ri-khô, Da-kêu liền chen vào đám đông thực hiện ý định; chỉ hơi tiếc một điều là dân chúng chen chúc quanh Đức Ki-tô thì quá đông, mà ông lại quá... lùn. Nhưng ông quyết không bỏ lỡ cơ hội, bèn tìm cách leo lên cây cao để nhìn cho rõ, và đó chính là một sáng kiến xuất phát từ lòng khao khát muốn đạt được mục đích. Cũng chính từ lòng khao khát ấy mà ông được toại nguyện còn hơn cả sự mong muốn của mình. Đức Giê-su không chỉ đi ngang qua cho Da-kêu nhìn thấy, mà Người còn gọi đích danh ông và hứa vào tận nhà ông ("Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" – Lc 19, 5). Quả đúng như lời đồn đại về Đức Giê-su, không những thế, Người còn thực hiện đúng những gì Người đã dạy ("Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho" – Mt 7, 7).
Tất cả những sự kiện xảy ra nhãn tiền đã khiến ông Da-kêu, từ một người mới chỉ nghe danh và tò mò muốn biết Đức Ki-tô là ai và là người như thế nào, đã trở thành một người vững tin và quyết tâm sám hối, sửa chữa lỗi lầm của mình ("Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." – Lc 19, 8). Hành động ấy đã khiến Đức Giê-su chạnh lòng và nói về ông Da-kêu thế này: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." (Lc 19, 9-10). Lời dạy này mang ý nghĩa gì ?
Có 2 điều cần suy gẫm: Thứ nhất, ông Da-kêu là con cháu tổ phụ Ap-ra-ham, mà tổ phụ Ap-ra-ham là con cái Thiên Chúa, nên ông Da-lêu cũng là con cái Thiên Chúa. Đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều bình đẳng trong ân nghĩa Chúa, hay nói khác hơn, đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều được cứu độ, dù cho có bị lạc đường vì tội lỗi thế nào mặc lòng (như trường hợp “Con chiên bị mất” – Lc 15, 4-7; “Đồng bạc bị mất” – Lc 15, 8-10; Đứa con hoang đàng “đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy" – Lc 15, 11-32). Tuy nhiên, những con chiên bị lạc đường vì tội lỗi ấy khi được Chúa tìm và vui vẻ vác trên vai trở về, liệu có thực lòng muốn trở về đường ngay nẻo chính hay không? Và đó chính là điểm cần suy gẫm thứ hai: Ông Da-kêu khi được gặp Chúa, được Chúa lại thăm tận nhà, ông đã sáng mắt sáng lòng hiểu ra con người thực của mình chứa đầy tội lỗi nhuốc nhơ, hiểu được Con Người mà ông tò mò muốn biết chính là Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, nên ông đã thực lòng ăn năn sám hối và đã được cứu độ.
Nhìn vào hình ảnh Da-kêu, nảy sinh ý nghĩ: Mặc dù là Ki-tô hữu, nhưng có thể tôi, anh – chúng ta – chưa hiểu biết nhiều về Thiên Chúa, về Đức Giê-su. Và cũng rất có thể chúng ta chưa hề gặp gỡ Người một cách thật sự, mặc dù chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng lễ, rước lễ hàng ngày. Vì nếu chúng ta đã thực sự được gặp gỡ Người, chắc chắn chúng ta phải được biến đổi một cách sâu xa như Da-kêu đã từng được Chúa biến đổi. Vấn đề đặt ra là chúng ta không có được tâm tình như Da-kêu, hay nói cách khác, trở ngại lớn nhất cản bước chúng ta tìm đến gặp gỡ Chúa chính là “cái tôi” đã định hình trong chúng ta một tính cách vị kỷ. Thật thế, “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7, 15.19). Vì thế muốn gặp gỡ Đức Ki-tô để có thể biến đổi, hoán cải cuộc đời mình, thì tiên vàn phải dẹp bỏ cái tôi – tức là phải “từ bỏ chính mình” (Mt 16, 24; Mc 8, 34; Lc 9, 23) – hơn thế nữa còn sẵn sàng “vác thập giá mình” mà theo Chúa.
Như vậy là đã rõ, tình yêu Chúa tuôn đổ tràn đầy, không phân biệt nội ngoại, giàu nghèo, sang hèn. Vấn đề đặt ra là anh có nhận ra và phân biệt được đâu là thật và đâu là giả giữa cõi đời chân giả khôn phân này hay không mà thôi. Và khi đã phân biệt được chân giả, thì biết tìm đến chân lý với tất cả lòng tin, với tất cả thiện chí. Chỉ đến khi đó, Thiên Chúa sẽ "dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin" (2Tx 1, 11). Chắc chắn sẽ có một cuộc đổi đời xảy đến với anh cũng như đã xảy đến với ông Da-kêu thủa xưa. Ấy cũng bởi vì "danh của Chúa chúng ta là Đức Giê-su, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giê-su Ki-tô" (2Tx 1, 1). Ước được như vậy. Amen.
Nhân vật Giakêu là nhân vật có thật, vì đây không phải là dụ ngôn, một câu chuyện có thật, người TN 31-C165
Nhân vật Giakêu là nhân vật có thật, vì đây không phải là dụ ngôn, một câu chuyện có thật, người thật, việc thật. Có thể nói, Ông Giakêu là nhân chứng của Tin Mừng, một con người làm nghề thu thuế, giàu có, vóc dáng nhỏ bé, lùn. Nhưng có một “ đức tin “ cao vời, ông đã nhận ra Đức Kitô bằng một ý thức chắc chắn, có nghĩa là ông đã cảm nhận và xác tín rằng: Giêsu- Nazaret không đơn thuần là một con người, mà là ông đã nhận ra nơi Chúa Giêsu là một Đấng Messia, nên nghĩa cử và lời nói của ông dành cho Chúa Giêsu rất đặc biệt. Đặc biệt đến nỗi ông đã có sáng kiến cho việc thiếu chiều cao của mình, để được nhìn thấy Đấng cứu thế, và như vậy lòng thành của ông đã được đón nhận, được Chúa Giêsu khen ngợi và ở lại nhà ông, chính Người nói: “Hỡi Giakêu! Hãy xuống mau, vì hôm nay Tôi sẽ ở lại nhà ông”. (Lc 19,5).
Quả thật, không còn hạnh phúc nào bằng, vì ông đã mong muốn đón nhận Chúa Giêsu bằng mọi cách,dù là sự hạn chế về mặt thể lý của ông, ông cũng tim cách vượt qua.
Điểm nổi bật của Giakêu là: Ông dám đặt mọi thứ dưới chân Chúa Giêsu, xem nhẹ của cải sau khi nhận ra Người. Niềm tin của ông mạnh đến độ dám đánh đổi tất cả chỉ vì nhận ra Người là “Đấng Thánh”. Như vậy, nhân vật Giakêu là một nhân vật tuyệt vời đối với những ai dám dấn bước theo Chúa Giêsu, từ bỏ tất cả những gì trước khi gặp được Chúa.
Một nữa tài sản của ông sẽ cho người nghèo, còn những gì ông làm thiệt hại ai, ông sẽ đền gấp bốn. Đó là một hành động dũng cảm, dám đánh đổi hoàn toàn, một sự tín thác trọn vẹn.Nhân vật Giakêu đã làm lu mờ những suy nghĩ không tốt đẹp của người Dothai đối với Chúa Giêsu. Người Dothai xem thường những người như Giakêu, nhưng Chúa Giêsu thì không. Vì Người đến để tìm và cứu những gì đã mất. (c10).
Qua Đoạn Tin Mừng (Lc 19, 1-10) hôm nay, chúng ta thấy cách xử sự của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi như thế nào, một sự khoan hồng độ lượng, để người ta tim đến với Chúa.Sẵn sàng tha thứ, khi họ nhận ra lỗi lầm và yêu thương họ.(c 5)
Thái độ của nhân vật Giakêu là mong muốn đón nhận ơn cứu độ. Khi nhận ra Đấng Cứu thế, ông liền tim cách tiếp cận Người cho dù thể lý bị giới hạn.Ông sẵn sàng đáp trả bằng mọi giá, đánh đổi tài sản mình có để chuộc lại lỗi lầm. Một nghĩa cử như thế, nên Chúa Giêsu đã tiếp nhận ông.
Cách nhìn thiển cận của người Dothai, nhỏ nhen, ích kỷ, không rộng lượng vừa lên án người khác là tội lội, vừa xúc phạm đến Đấng cứu thế. Họ tự đặt mình lên trên Thiên Chúa, và như vậy là họ không đón nhận ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối, đó là mục đích cao cả của chương trình cứu chuộc, trong số đó có nhân vật Giakêu, một người thu thuế giàu có, bị hạn chế về thể lý, nhưng có một lòng tin vững mạnh. Xin thương ban cho mỗi người Kitô hữu biết đánh đổi tất cả, để chỉ có được Cháu mà thôi. Amen.
Lạy Chúa trước thánh nhan Ngài, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai TN 31-C166
“Lạy Chúa trước thánh nhan Ngài, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai trên đất. Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kng 11,22-23)
Đó là thông điệp tác giả sách Khôn Ngoan gửi đến cho con cái Israel ở Ai Cập khi họ sinh lòng thù ghét những tay sai của đế quốc thống trị, đến nỗi họ muốn Thiên Chúa trừng phạt, tru diệt bọn chúng ngay tức khắc.
Vâng, Thiên Chúa không xử trí với con người tội lỗi theo cách của con người, đúng như thông điệp sách Khôn ngoan đã dạy. Không chỉ trong thời Dân Thiên Chúa lưu đày, mà ngay hôm nay, người gian ác, kẻ tội lỗi, người hô to đã đảo Thiên Chúa, cấm cách bức bách đạo Chúa…. vẫn sống nghênh ngang, vẫn thói vênh vang, vẫn tự do trên đường “thênh thang ta bước” ngông cuồng đi về phía phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận cả công trình tình thương của Ngài. Có người nói: “Sống chung với lũ”, còn dễ sống hơn “sống chung với lũ”. Lòng thù của con người thời nào cũng thế, có thể nói đến mức quá độ, khi nỗi áp bức của “lũ tay sai cho giai cấp thống trị”, “cho satan”, hoành hành ngang ngược. Nhưng, đối với “Thiên Chúa đầy lòng yêu thương, thì Ngài vẫn yêu thương mọi loài hiện hữu. Vì giả như Chúa ghét loài nào, thì Ngài đã chẳng dựng nên” (Kng 11,24). “Chúa sửa dạy từ từ. Ngài cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kng 12, 2).
Khác với con người, Thiên Chúa không có lòng thù. Thiên Chúa chỉ có lòng thương. Đức Giêsu Kitô đã đến và mặc khải tình thương bao la ấy. Trang Tin Mừng hôm nay chứng minh cho điểm nầy. Dưới con mắt thế gian, thì Giakêu, tên trưởng ty thuế vụ, cũng chẳng khác gì mấy tên tay sai cho ngoại bang, cho giai cấp thống trị thời Ai cập. Giàu có mua được chức trưởng ty, rồi thu quén của dân bù khoản chi ấy. Cuối cùng, nhân dân là người gánh chịu. Bị một tên vừa lùn vừa bé, vừa đè đầu cưỡi cổ, vừa móc túi lấy tiền, làm sao mà người dân không hậm hực tức tối. Cách sống đó không chỉ là tội lỗi mà còn là tội ác. Thế mà, “Chúa nhắm mắt làm ngơ”, “Chúa đã sửa dạy từ từ” cách nào đó. Chúa đã “cảnh cáo” cách nào đó” để cho ông ta biết ông ta “đã phạm tội gì” để rồi hôm nay “ông đã bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (xem Kng 11,24).
Quả vậy, khi nghe tin Đức Giêsu đi ngang qua Giêricô, ông tìm cách để xem cho biết Ngài là ai. Sự khao khát tìm gặp Đức Giêsu, đã phát sinh trong ông cái sáng kiến “leo lên cây sung” cho dễ nhìn. Ông đã bất ngờ, vì khi chưa kịp lên tiếng gì, thì Chúa Giêsu đã ngước nhìn lên và bảo “Giakêu, ông xuống đi, vì hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông”. Chúa Giêsu cũng đã có một sáng kiến bất ngờ: “hôm nay tôi sẽ ở lại nhà ông”, một sáng kiến ngoài kế hoạch trên đường về Giêrusalem- một sáng kiến đảo lộn cái ý nghĩ thấp bé của loài người: “Nhà người này tội lỗi, mà ông ấy cũng ghé thăm” (Lc, 19,7). Hai sáng kiến của lòng khao khát nơi “con người bị cho là tội ác tày trời”, và của tình thương “Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi”đã gặp nhau, và trổ sinh một cuộc đổi đời kỳ diệu. Sự biến đổi thâm sâu trong cõi lòng “tên Gia kêu gian ác”, đã khiến ông thốt lên lời quyết tâm: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Cuộc sống mới mở ra, trước tiên là lấp lại cho đầy cái hố sâu bất công, tham nhũng, cùng với việc biết bỏ đi cái lòng ích kỷ nhỏ nhoi để nghĩ đến những người nghèo do chính tội tham nhũng của mình gây nên.
Thiết nghĩ, trước đó, ông Giakêu đại diện cho những con người chưa nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, ánh sáng của Tin mừng. Ông đã sống và làm việc theo cách suy nghĩ rất con người tự nhiên trong cuộc chạy đua của danh vọng và sinh tồn. Sự gian ác của ông như là một quy luật tất yếu trong cuộc vật lộn với cuộc sống “mạnh được yếu thua”. Suy nghĩ ông chỉ có thế, thấp bé và ngắn ngủn như vóc dáng ông lùn tịt. Nhưng khi gặp được Đức Kitô, ông bỗng thay đổi thành một con người mới, con người của Tin Mừng, con người được ơn cứu độ. Chúa Giêsu nói: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy, bởi người nầy cũng là con cháu của tổ phụ A-bra-ham” (Lc 19 9). Câu nói nầy minh chứng cho Lời Thiên Chúa trong sách Khôn ngoan: “ Chúa không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra” (Kng 11,24), và Ngài đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu “đến để tìm và cứu những gì đã hư mất” (Lc 19,10).. Chúa Giêsu đã tái lập cho ông một tương quan với Thiên Chúa và ông đã thể hiện sự công bằng theo lề luật Chúa- điều kiện ắt có và đủ để ông bắt đầu một cuộc làm chứng về Thiên Chúa và vào được Nước của Ngài
Vẫn còn trong tôi, trong bạn, trong thế giới loài người chúng ta, những suy nghĩ ngắn ngủn thấp bé và cách sống của con người cũ, con người gian ác tự nhiên trong cuộc sinh tồn như Gia kêu. Và luôn còn một Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ con người tiếp nhận ánh sáng của cuộc sống mới nơi Đức Giêsu Kitô, nơi Tin mừng. Tiếc là đã có người nhìn thấy ánh sáng, nghe biết Tin Mừng, nhưng không tiếp nhận vì không muốn chia tay với chủ thuyết không Thiên Chúa, chưa khao khát một lối tìm về, lại muốn giữ cách sống cũ của con người cũ để được những lợi lộc của trần gian. Thiên Chúa yêu thương đã kiên trì cảnh cáo, giáo dục bằng nhiều cách. Đã có người bỗng dưng thuộc lòng tiểu sử các Thánh Tử đạo Việt Nam dịp phong thánh 19-6-1988, có cơ hội tiếp cận với Thiên Chúa, với những chứng nhân Đức Kitô, nhưng rồi sức cuốn hút của đồng tiền, quyền lực và sự thoải mái thế gian mà Satan ban tặng vẫn làm mờ mắt họ, và họ chưa tiếp nhận ánh sáng. Đã không ít cơ hội dành cho họ, đã không ít nỗ lực của những chứng nhân Chúa Kitô trong một bối cảnh chấp nhận cách kiên trì, nhưng vẫn chưa thấy nhiều tín hiệu của “Gia kêu mới”. Vì thế, cơn giận loài người của con cái Chúa đôi lúc không kiềm hãm nỗi, có khi còn buồn trách Chúa sao cứ để cho sự dữ hoành hành, cho người gian ác vẫn vênh váo trong khi vẫn phạm hết tội ác nầy đến tội ác khác trầm trọng hơn…
Bài học của Tin mừng hôm nay không cho phép tôi tiếp tục dòng suy tư theo kiểu loài người cũ rích như thế. Ý hướng của Thiên Chúa về cuộc đấu tranh cho Nước Trời là cuộc sống Chứng Nhân Chúa Kitô cách cụ thể qua đời sống công chính, đời sống mới của Tin Mừng. Không nhất thiết phải phóng loa la lên ầm ỉ để những người gian ác nghe được, nhưng là thể hiện khuôn mặt và tính cách của Đức Kitô mà họ phải nhìn thấy, nếu họ chưa muốn “leo lên cây sung của Gia kêu với thành ý kiếm tìm”.
Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi tội nhân, trong đó trước tiên là tôi, là bạn, hãy khoan nghĩ đến ai khác. Và khi chính chúng ta, đổi đời thành những “Gia kêu mới”, thì cách sống của chúng ta sẽ thu ngắn thời gian chờ đợi, tìm kiếm của Thiên Chúa trong công cuộc cứu chữa những gì đã hư mất. Nhạc Sĩ Phạm Duy cũng đã ngộ ra: “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là vô lương….”. Hãy giết kẻ thù ta trong chính con người ta trước đã, và mặc lấy sự công chính của Chúa Kitô, làm cánh tay, làm chứng nhân nối dài cho ơn cứu rỗi của Thiên Chúa. Tác động qua lại của việc làm chứng cho Thiên Chúa tương tự xảy ra giữa Chúa Giêsu và Giakêu sẽ xảy ra với chúng ta, như Thánh Phaolô quả quyết: “ Danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (2Th. 1,12).
Lạy Chúa, Chúa luôn kiên nhẫn đợi chờ người tội lỗi trở về, và ban ơn canh tân trong lòng họ. Xin cho chúng con biết mình tội lỗi, biết tìm về với Chúa, và được Chúa biến đổi thành con người mới, chứng nhân cho công trình cứu rỗi của Thiên Chúa, qua Chúa Kitô. Amen.
Con xin Chúa ngự đến, chiếm lấy trái tim con, như đã đến nhà ông Dakêu và chiếm trọn trái tim TN 31-C167
TMĐP- Con xin Chúa ngự đến, chiếm lấy trái tim con, như đã đến nhà ông Dakêu và chiếm trọn trái tim khao khát biết Chúa của ông để con không phải chết đời đời, vì Chúa là “Đấng yêu sự sống và xử khoan dung với hết mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa “(Kn 11,26).
Câu chuyện Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêrikhô bất ngờ nhìn lên và thấy một người có dáng nhỏ thó ngồi trên cây sung chăm chú nhìn mình, Ngài tự ý ngỏ lời: “‘Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!’ Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người”(Lc 19,5-6).
Kết quả của cuộc gặp gỡ kỳ lạ này là ông trưởn ban thu thuế khét tiếng tham nhũng, hối lộ quyết định “phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đọat của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”(Lc 19, 8). Phần Đức Giêsu, Ngài nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”(Lc 19, 9-10).
Thực ra, cốt lõi của cuộc găp gỡ giữa Đức Giêsu và Dakêu chính là gặp gỡ giữa một một con người khao khát muốn biết Đức Giêsu là ai và Đức Giêsu, Thiên Chúa cứu độ tìm đến với con người đang khao khát đi tìm Ngài.
Trước hết, nền tảng của cuộc gặp gỡ là Dakêu muốn biết Đức Giêsu: “Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn”(Lc 19,3), nên mới phải “chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu”(Lc 19,4).
Khát khao được biết Đức Giêsu và trèo lên cây sung để được xem thấy Ngài là khởi điểm của lòng tin vừa nhen nhúm trong ông. Ông muốn biết Ngài là ai, và tìm mọi cách để nhìn thấy Ngài. Đây là khởi điểm quan trọng và nền tảng của mọi gặp gỡ giữa Đức Giêsu và bất cứ môn đệ nào của Ngài, vì không muốn biết Ngài là ai, và không cố gắng tìm gặp Ngài, không ai có thể đi vào tương quan với Ngài.
Chúa Giêsu và ông Gia-kêu – Giáo xứ Tân Định
Trước khao khát biết Ngài và nỗ lực đươc xem thấy Ngài, Đức Giêsu không phụ lòng người có lòng tin vừa nhen nhúm, nhưng tự mình đến với người ấy ngay nơi người ấy ở, giữa hoàn cảnh người ấy đang sống, và trong tình trạng trăm phần trăm thật, không giấu diếm, che đậy của họ, như Ngài đã tự ý đứng lại ngước lên nhìn Dakêu đang háo hức nhìn Ngài trên cây sung, và xin ông cho Ngài về nhà một cách dứt khoát, quả quyết: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Lời này không còn là một đề nghị, mà là lệnh truyền, vì chính Ngài cũng đang nôn nao muốn gặp người khao khát biết Ngài; muốn ban lại ơn nghĩa tử của Thiên Chúa, và vinh dự làm con cháu tổ phụ Ápraham cho người đã làm mất muốn tìm lại; muốn ban ơn cứu độ tràn trề không chỉ cho cá nhân họ mà còn cho cả gia đình, gia quyến họ, vì Ngài là Thiên Chúa nôn nóng đi tìm và cứu những gì đã mất.
Vì thế, chỉ cần con người khao khát được biết Ngài và thể hiện khao khát ấy bằng lên đường đi tìm xem Ngài, như Dakêu đã muốn bết Ngài là ai và trèo lên cây sung để được xem thấy Ngài, thì Ngài lập tức ngước nhìn, lên tiếng, đưa tay mời gọi chúng ta găp gỡ, đi vào tương quan nghiã thiết với Ngài.
Bài đọc một là những lời vô cùng an ủi dành cho chúng ta, những con người yếu đuối luôn cần lòng thương xót của Thiên Chúa, như Dakêu biết mình tội lỗi đã hớn hở vui mừng đón tiếp Chúa vào nhà mình để được tình thương Ngài canh tân, đổi mới: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì gỉa như Chúa ghét loài nào, thì Ngài đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? (Kn 11, 24-25).
Vâng, lạy Chúa, “vì Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự, vì Chúa làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi của ai để họ còn ăn năn hối cải”, (Kn 11,23) nên con dám xin Chúa ngự đến nhà con hôm nay, chiếm lấy trái tim con ngay lúc này như đã đến nhà ông Dakêu và chiếm trọn trái tim khao khát biết Chúa của ông để con không phải chết đời đời, vì Chúa là “Đấng yêu sự sống và xử khoan dung với hết mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa “(Kn 11,26).
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 31 Thường Niên Năm C nhấn mạnh tấm lòng yêu thương hay tha TN 31-C168
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 31 Thường Niên Năm C nhấn mạnh tấm lòng yêu thương hay tha thứ của Thiên Chúa, Ngài không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống, vì như lời dạy của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Kn 11: 23-12: 2
Thiên Chúa đối xử rất khoan hồng đối với những người tội để họ ăn năn sám hối mà được sống.
2Tx 1: 11-2: 2
Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống xứng đáng với ơn gọi của mình và đừng để cho lời loan báo thất thiệt về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su sắp đến làm cho tinh thần dao động và sợ hãi.
Lc 19: 1-10
Tin Mừng kể cho chúng ta câu chuyện đổi đời ngoạn mục của một viên quan thu thuế tên là ông Da-kêu, vì ông cảm kích trước tình yêu hay tha thứ của Đức Giê-su dành cho ông.
BÀI ĐỌC I (Kn 11: 23-12: 2)
Sách Khôn Ngoan thuộc truyền thống minh triết Cựu Ước. Trước tiên, tác giả cảnh giác các kiều bào Do thái của mình đang sống tại A-lê-xan-ri-a về mối hiểm họa của nền văn hóa Hy lạp và những nguy hiểm của cuộc bách hại. Để củng cố lòng can đảm và dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, ông đối lập số phận vinh quang đang chờ đợi người công chính và sự trừng phạt không chút xót thương mà Thiên Chúa dành cho bọn ác nhân. Để bảo vệ những đồng bào của mình khỏi sức hấp dẫn của những văn minh dân ngoại, ông cho thấy rằng những người Do thái khờ dại tìm kiếm sự khôn ngoan ở nơi khác, trong khi Thiên Chúa ban cho dân Ngài sự khôn ngoan của Ngài, tức là Lề Luật, cách dồi dào. Cuối cùng, ông nhắc nhở họ đặc quyền của dân Chúa chọn là có sứ mạng truyền đạt cho toàn thế giới “ánh sáng không hề tắt của lề luật” (18: 4).
Nhưng ông cũng nhiều lần nói lên sự bận lòng của mình đối dân ngoại. Đây là một trong những nét độc đáo của sách này. Tác giả ra sức chứng minh rằng Thiên Chúa thương yêu hết mọi người không hề phân biệt, và Ngài đòi hỏi con cái của Ngài hãy tỏ mình là “bạn hữu của con người”. Nếu dân ngoại ngoan ngoãn vâng theo ánh sáng của lý trí, cuối cùng họ cũng sẽ nhận ra Đấng Hóa Công duy nhất của hoàn vũ. Họ sẽ đón nhận Đức Khôn Ngoan tinh tuyền và đích thật, bên cạnh Ngài, sự khôn ngoan của dân ngoại chỉ là trẻ con.
Trong đoạn trích hôm nay, khi nhìn lại lịch sử, tác giả khám phá ra đường lối hành xử của Thiên Chúa: Vì yêu thương hết mọi người mà Ngài đã dựng nên, Thiên Chúa không muốn ai phải chết, nhưng được sống. Vì thế, đối với những người tội lỗi, Thiên Chúa “nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi của loài người để họ còn ăn năn sám hối”, đối với “những ai sa ngã, Ngài sửa dạy từ từ… để họ bỏ điều ác mà tin vào Ngài”.
BÀI ĐỌC II (2Tx 1: 11-2: 2)
Thánh Phao-lô viết thư thứ hai gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có lẽ từ Cô-rin-tô. Cuộc bách hại mà thánh Phao-lô đề cập đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn tiếp diễn. Mối quan tâm của tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca về ngày Quang Lâm của Chúa cũng vậy. Tuy nhiên, trong thời gian này, hoàn cảnh còn nghiêm trọng hơn nhiều. Sự hỗn loạn xuất phát từ “bên trong” cộng đoàn tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Vài người loan báo ngày của Chúa sắp đến, và còn quả quyết những lời tuyên bố của mình được Thánh Thần linh hứng.
Trong đoạn trích thư này, thánh Phao-lô nói cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca biết rằng dù xa mặt nhưng không cách lòng, thánh nhân vẫn hằng cầu nguyện cho họ để họ sống xứng đáng với ơn gọi, hoàn thành mọi thiện chí và mọi công việc họ làm vì lòng tin, nhờ đó Đức Giê-su được tôn vinh ở nơi họ và họ được tôn vinh nơi Ngài (2Tx 1: 11-12). Thánh nhân còn căn dặn các tín hữu phải coi chừng đừng để cho mình bị lừa dối bởi những tin đồn thất thiệt về ngày Chúa Quang Lâm: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa đã gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2Tx 2: 1-2).
TIN MỪNG (Lc 9: 1-10)
Đối với Da-kêu, đây là một ngày đáng nhớ, một kỷ niệm không thể nào quên đi được, một cuộc gặp gở để đời, bởi vì chính cuộc gặp gở với Đức Giê-su vào ngày hôm đó mà ông hiểu thế nào là cái thênh thang rộng mở của tấm lòng Thiên Chúa và thế nào là sức bật tức khắc và triệt để của một cuộc đổi đời. Câu chuyện này được dàn dựng theo hình thức “đối xứng xen kẻ”:
A- Ông Da-kêu mong ước được gặp Chúa Giê-su (19: 1-4)
1-2. Tất cả bắt đầu từ cái tình cờ, Chúa Giê-su tình cờ đi qua thành Giê-ri-cô nơi ông đang sinh sống. Đối với Da-kêu, cái tình cờ này không thể nào bỏ qua, bởi vì đây là một dịp may hiếm có để “xem cho biết” Đấng mà người ta ca ngợi Người là một vị ngôn sứ.
3. “Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn”: Việc “xem cho biết” một vị ngôn sứ đi ngang qua quê mình đối với dân chúng là một chuyện bình thường, nhưng đối với Da-kêu chẳng bình thường chút nào, bởi vì ông là một viên quan thu thuế được xem như một tội nhân công khai, một kẻ bị nguyền rủa, một kẻ bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn cứu độ. Vì thế, ông không thể hoà mình vào đám đông, cùng chung niềm vui với muôn người để đón mừng vị ngôn sứ. Hơn nữa, ông e ngại cái nhìn nghiêm khắc và sợ những lời kết án cứng rắn của vị ngôn sứ, vì ông biết ông là một tội nhân.
4. “Ông liền chạy tới trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó”: Tuy nhiên, tính tò mò muốn “xem cho biết” thúc bách ông và nẩy sinh một sáng kiến, một sáng kiến thật ngộ nghĩnh: ông chạy đến trước, leo lên một cây sung, ẩn mình trong cành lá chỉ để xem cho biết Đức Giê-su. Cây sung gần giống như một cây sồi, trồng bên đường, rất dễ trèo vì thân đầy khối u, các nhành tỏa ra tứ phía. Một Da-kêu thường ngày uy nghi đường bệ của viên quan thu thuế, nay lại trở thành một trẻ con, thơ ngây, hồn nhiên đong đưa trên cành cây sung để xem cho biết Đức Giê-su. Khi tìm kiếm Thiên Chúa, đừng để cho sự hổ ngươi cũng như sợ bị coi là lố bịch ngăn cản, phải biết tận dụng những nguồn sẵn có giúp chúng ta gặp được Chúa Giê-su.
B- Chúa Giê-su mong ước được lưu lại nhà ông Da-kêu (19: 5-7)
5. “Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông”: Nhưng ông không ngờ sáng kiến ngộ nghĩnh của ông lại được Đức Giê-su để ý đến và Người cũng không thể bỏ qua đi được. Một sáng kiến ngộ nghĩnh của ông Da-kêu được đáp trả bằng sáng kiến ngộ nghĩnh không kém của Đức Giê-su, bởi vì nó không hợp với cái lô-gích theo nếp gấp suy nghĩ của ông. Người đến nơi cây sung, tận nơi sáng kiến ngộ nghĩnh của ông và nói với ông những lời thân thiết đến mức giản dị và tự nhiên như thử hai người bạn thân xa cách từ lâu nay gặp lại nhau: “Này Da-kêu ơi! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Thật lạ lùng, Da-kêu chỉ muốn xem cho biết, ông đâu nghĩ gì xa xôi, ấy vậy Người đã dẫn đưa ông đi xa đến độ như “đã quen biết nhau từ thuở nào rồi”. Cái bất ngờ đến lạ lùng này của Chúa Giê-su vào ngày hôm đó đã khai mở cho ông Da-kêu một cái nhìn mới mẽ về Thiên Chúa không như ông nghĩ hay như người ta đã nói với ông trước đây.
Cách hành xử của Đức Giê-su cũng lạ thường đối với nếp gấp suy nghĩ của đám đông. Rồi, trước đây, truyền thống minh triết đã đặt vấn đề về giáo huấn truyền thống “thưởng phạt chí công của Thiên Chúa”. Nếu Thiên Chúa thưởng phạt chí công tại sao Ngài lại “ngoảnh mặt làm ngơ” trước thái độ huyên hoang tự đắc của bọn ác nhân và những đau khổ mà những người công chính phải chịu vì bất công? Câu trả lời của Thiên Chúa được gặp thấy trong Bài Đọc I: “Chúa nhắm mắt làm ngơ không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11: 23), được hiện thực nơi câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ngoảnh mặt làm ngơ trước một Da kêu, viên quan thu thế, miệt mài làm giàu bằng những đồng tiền phi nhân phi nghĩa, nhưng Người không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ trước một Da kêu biến mình thành trẻ thơ đong đưa trên cành với một ước mơ giản dị “xem cho biết Đức Giê-su là ai”. Trong cõi thâm sâu của một viên quan thu thuế, một kẻ hư hỏng không còn gì để nói, vẫn còn đó một mảnh trời xanh hồn nhiên trong sáng. Đối với Chúa Giê-su, một mảnh trời xanh nhỏ bé này hứa hẹn một ngày mới ngập tràn ánh nắng nếu biết nắm lấy cơ hội mà ân tình của Người mở ra.
6. “Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”: Hóa ra trong khi con người chờ đợi Thiên Chúa đến với “cái rành mạch phân minh đâu ra đó của lý lẽ”, thì Thiên Chúa lại thích đến với “cái thênh thang rộng mở không ngờ của một tấm lòng”. Chính cái thênh thang rộng mở của tấm lòng đó mà ngày hôm ấy, Da-kêu hiểu hơn ai hết câu nói này: “Các bạn hãy nếm thử và nhìn xem cho biết Thiên Chúa chúng ta thiện hảo là dường nào”.
7. “Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau”: Nhưng cũng chính cái thênh thang rộng mở của của tấm lòng này lại gây công phẩn nơi công chúng: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”.
A’- Ông Da-kêu đáp trả (19: 8)
8. “Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng”: Cảm kích trước tấm lòng rộng mở của Chúa, ông Da-kêu đáp trả ngay tức khắc, bằng cách xin được đền gấp bốn cho những ai mà ông đã cưỡng đoạt tài sản của họ, như vậy trong việc đền bù ông còn nhất định làm nhiều hơn điều luật đòi buộc: Nếu chỉ trộm cắp thông thường và nguyên vật không thể hoàn trả thì phải tính giá gấp đôi mà đền (Xh 22: 4, 7). Nếu bị can tự thú và tự nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm (Lv 6: 5; Ds 5: 7). Chỉ khi nào trộm cắp là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới buộc phải đền gấp bốn (Xh 22: 1).
Ngoài ra, ông còn quảng đại dâng phân nửa tài sản của ông cho người nghèo. Thánh Am-rô-xi-ô giải thích: “Người giàu hãy học rằng điều xấu không cốt có nhiều của cải, nhưng không sử dụng chúng cho điều tốt; vì trong khi sự giàu có là một trở ngại đối với những người xấu, thì nó cũng là một phương tiện đức hạnh đối với những người tốt” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
B’- Chúa Giê-su đáp trả (19: 9-10)
9. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”: Vì Đức Giê-su tự nguyện lưu lại nhà ông Da-kêu và vì ông Da-kêu bằng lòng đón tiếp Người, nên ơn Cứu Độ đến trên toàn thể gia đình của ông: “Sự hiện diện của Đức Giê-su làm cho những gì không thể được, đối với con người, trở thành có thể: một người giàu chui qua lỗ kim được, nhưng không phải là không đòi hỏi một số thay đổi tận gốc” (Pilgrim trong “Good News to The Poor”).
10. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”: Đám đông đã kêu trách Chúa Giê-su vì Người giao du với một người mà họ cho là kẻ tội lỗi (19: 7). Chúa Giê-su biện minh cho cách hành xử của Người khi giải thích rằng lý do Người đến chính là để đi tìm những người tội lỗi. Người đang hiện thực vai trò người mục tử trèo non lặn suối tìm cho bằng được một con chiên lạc (x. Lc 15: 4-7) mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã loan báo rồi: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật; Ta sẽ làm cho mạnh” (Ed 34: 16). Vì Chúa Giê-su mong ước tìm và cứu những người tội lỗi, chúng ta cũng hy vọng mình có thể đạt được ơn cứu độ đời đời. Thánh Am-rô-xi-ô giải thích “Người chọn một thủ lãnh thu thuế, ai có thể thất vọng được chứ khi một con người như thế đạt được ân sủng?” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
Còn sáng kiến nào thân tình hơn Bàn Tiệc Thánh Thể nhỉ, ở đó Đức Giê-su đã dẫn đưa các môn đệ của Người cho đến tận cùng cái thênh thang rộng mở của tấm lòng Người, như thánh Gioan ghi nhận: “Trước lễ Vượt qua, Chúa Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà đến với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13: 1). Tại sao sống trong ân tình đến như thế, chúng ta lại không cảm thấy niềm hưng phấn đổi đời như ông Da-kêu nhỉ? Bởi vì chúng ta thích thấy mình nơi đám đông hơn nơi Da-kêu, một tội nhân, nên chúng ta thiếu cái sức bật ngay tức khắc và triệt để của một tấm lòng rộn rã muốn được đổi đời như ông Da-kêu. “Ngay tức khắc” vì không thể nào trì hoản được nữa, không thể khất lần thêm được nữa,“Thôi để dịp khác rồi sẽ hay” vì ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay như lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II: “Futur begins today, not tomorrow” (“Tương lai bắt đầu từ ngày hôm nay, chứ không ngày mai”), và “triệt để” vì dám chấp nhận những hậu quả khôn lường của cái giá đổi đời này: từ một Da-kêu mãi miết chắc chiu từng đồng bạc bất nhân bất nghĩa đến một Da-kêu dám chia tài sản của mình cho những người nghèo túng và đền gấp bốn cho những thiệt hại mà mình đã gây nên.
Giê-ri-cô là một miền đất giàu có và quan trọng nằm trong thung lũng sông Gio-đan. Giê-ri-cô TN 31-C169
Giê-ri-cô là một miền đất giàu có và quan trọng nằm trong thung lũng sông Gio-đan. Giê-ri-cô có cả một rừng Chà-là rộng lớn cung cấp trái ngon cho nhiều nơi, có nhiều vườn cây dầu thơm tỏa hương khắp vùng, cùng với những vườn hoa hồng nổi tiếng nên được gọi là “vùng đất thần tiên [1]”. Chà-là và dầu thơm ở đây được người Rô-ma vận chuyển đi bán khắp nơi đã khiến Giê-ri-cô trở thành trung tâm quan thuế lớn nhất Palestine thời ấy. [2]
Được đứng đầu ngành thuế trong một trung tâm buôn bán sầm uất nên Da-kêu có nhiều cơ hội kiếm chác cách bất công và trở nên giàu có.
Tiền bạc thường dìm người ta đắm chìm trong đam mê và lạc thú, vậy mà chẳng hiểu do động cơ nào, Da-kêu lại hăm hở tìm đến với một con người thuyết giảng đạo đức như Chúa Giê-su khi Ngài đi qua Giê-ri-cô. Thế rồi, ông được vinh dự đón Chúa Giê-su vào nhà, được nghe Ngài giáo huấn và nhờ đó, ông đã hoán cải sâu xa, hoán cải tận gốc rễ và đi đến một quyết định không ai ngờ và rất đáng nể phục. Ông thưa với Chúa Giê-su rằng:
“Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi hiến cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8).
Đem nửa gia tài kếch sù của mình để hiến cho người nghèo và đền bù gấp bốn những thiệt hại đã gây ra cho người khác quả là một quyết định rất quảng đại, dũng cảm và anh hùng.
Giờ đây, chúng ta thử đặt mình vào địa vị Da-kêu và hãy tự hỏi mình: Nếu ở địa vị của Da-kêu, tôi sẽ hành động thế nào?
1- Có quan tâm tìm đến với Chúa Giê-su không?
Khi tôi đang hồi thịnh vượng, đang có cơ hội hái ra tiền như Da-kêu... thì tôi phải tranh thủ kiếm chác thêm, lo tìm mọi cách để thu vén nhiều hơn… hoặc tiêu xài mua sắm, nhậu nhẹt ăn chơi, vui hưởng lạc thú ở đời…
Còn ông Giê-su, một người thường rao giảng về công bình, bác ái… thì có mang lại lợi nhuận gì cho tôi đâu? Chẳng những không mang lại lợi ích, ông ta còn là người cản mũi kỳ đà, cản trở tôi làm điều tôi muốn là vơ vét thật nhiều… Vậy thì để ý đến ông ta làm gì.
Nếu nghĩ như thế thì tôi sẽ không thể cải thiện được cuộc đời. Tôi cứ như ngựa theo đường cũ, cứ đắm chìm trong tiền bạc và lạc thú, không thể đổi đời ngoạn mục như Da-kêu.
Điểm son của Da-kêu là biết quý trọng điều khôn ngoan, là muốn tiếp cận với những nhà hiền triết. Yếu tố này đã khiến ông tạm gác lợi nhuận sang bên, gác bỏ rượu chè nhậu nhẹt… và háo hức tìm đến với Chúa Giê-su. Có như thế, Da-kêu mới cải thiện cuộc sống thật tuyệt vời! Mấy ai sống trong hoàn cảnh của Da-kêu mà làm được như thế?
2- Có đón nhận và thực hành lời Chúa không?
Rất nhiều lần, Thiên Chúa kêu mời chúng ta đón nhận lời Chúa. Trước hết, chính Chúa Cha lên tiếng mời gọi chúng ta hãy nghe lời Chúa Giê-su:
“Đây là Con yêu dấu của Ta… Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài” (Mt 17, 5).
Chúa Giê-su cũng tha thiết mời gọi:
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi… Tôi ban cho chúng sự sống đời đời…” (Ga 10, 27).
“Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn sống bằng Lời Chúa nữa” (Mt 4,4).
“Tôi bảo các ông: Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24).
Chúng ta cũng biết thánh Phê-rô cũng tuyên xưng rằng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy có những Lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,67).
Chúa đã mời gọi tôi cả trăm lần, tôi không mấy lưu tâm. Sách Tin mừng sẵn có bên cạnh tôi, nhưng mấy khi tôi đọc và suy gẫm? Lời Chúa không thu hút được tôi, không kéo tôi ra khỏi những lo toan tìm kiếm tiền bạc để dành thời giờ đọc lời Chúa… Lời Chúa không thể kéo tôi ra khỏi những đam mê xác thịt để gẫm suy... vì tôi quá yêu chuộng những quyến rủ đời này.
Thế mà Da-kêu lại hăm hở đón nghe lời Chúa, lại còn rước Chúa vào nhà mình, đón tiếp Chúa cách nhiệt tình và sau khi nghe lời Chúa Giê-su giáo huấn, ông có một quyết định quảng đại và rất anh hùng: “Tôi xin đem nửa phần gia sản tôi bố thí cho người nghèo khó và nếu tôi đã làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Thế là nhờ đón nhận và thực hành lời Chúa, Da-kêu đã cải thiện được cuộc đời, từ một con người bần tiện chuyên lo thu vén trở thành người chính trực và bác ái.
Lạy Chúa Giêsu,
Từ một người đáng khinh, Da-kêu đã chuyển mình trở nên một con người rất đáng khâm phục vì ông đã đón nhận, lắng nghe và để cho lời Chúa hoán cải cuộc đời.
Xin cho chúng con biết quý trọng lời Chúa hơn lạc thú thế gian, biết lắng nghe lời Chúa hơn là những chuyện phù phiếm vô bổ và quyết tâm thực hành những điều Chúa dạy, nhờ đó, cuộc sống chúng con được cải thiện và trở nên người có phẩm chất cao đẹp xứng đáng là con của Cha trên trời. ¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬_______________¬______________ [1] Theo sử gia Josephus [2] Theo William Barclay
Phụng vụ Lời Chúa tuần này lại vang lên như tiếng chuông nhắc bảo chúng ta về tình yêu và TN 31-C170
Phụng vụ Lời Chúa tuần này lại vang lên như tiếng chuông nhắc bảo chúng ta về tình yêu và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, đồng thời mời gọi ta thực thi lòng thương xót.
Chúa thương xót mọi loài, và yêu thương mọi tạo vật (x.Kn 11,21-26). Thương xót đến đô “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người …không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa tác thành” (Kn 11, 23). Lòng thương xót ấy được cụ thể hóa nơi hành động của Chúa Giêsu đối với tội nhân và những người cùng khổ, Ðấng đã khẳng định rằng Người đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi (x. Lc 5,32). Trình thuật về cuộc hoán cải của ông Giakêu trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là một bằng chứng (x. Lc 19, 1-10).
Giakêu, người thấp bé. Đây không phải là một chuyện nhỏ, nhưng là một nỗi đau đối với ông. Trong trí ông luôn mang trong mình sự ảm ảnh mình bị chế giễu và loại trừ, ông là người đau khổ. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trả miếng : thậm chí trở thành người thu thuế cho ngoại bang. Đây là nghề không lành mạnh, dễ bị loại ra khỏi đời sống tôn giáo và xã hội, vì thông đồng với người Rôma, kẻ chiếm đóng và bóc lột đồng bào. Nhưng điều đó không quan trọng đối với ông, ông biết, ông có thói quen bị loại trừ. Trở thành một viên thu thuế quyền thế giàu có. Giakêu, như những người khác, đã thu về một khoản tiền lớn từ bàn thu thuế, nhưng sự yêu mến tiền bạc không phải là động lực chính của ông, ông muốn có được sức mạnh trên những kẻ coi thường ông. Vì thế, ông xa cách họ, tránh xa các cuộc tấn công của họ, và ở trên họ.
Nhưng điều trên không làm cho Giakêu chìm vào bóng tối. Con người biết tính độc ác đích thực của mình. Trong sâu thẳm của coi lòng, có cái gì đó lợi hơn : khát khao Thiên Chúa. Giakêu là người con của lời hứa và Thiên Chúa đã không quên ông. Thế là, Chúa Giêsu rảo khắp các ngả đường, giảng dạy trong hội đường. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu thấu đến tai Giakêu như cá gặp nước, củi khô gặp lửa. Người đã nhóm lên trong lòng Giakêu ngọn lửa không hề bị dập tắt từ Thiên Chúa. Giakêu, kẻ thu thuế đã nghe nói về các phép lạ của Đấng Tiên Tri, và rằng Chúa Giêsu không bao giờ từ chối những người tội lỗi. Ông chộp lấy cớ hội, quyết định tiến lại gần Chúa Giêsu.
Để đến được với Chúa Giêsu không phải là dễ, ông gặp phải sự cản trở của bản thân vì thấp bé, của đám đông. Họ sẽ nhận ra và lại chế giễu ông thấp bé, quyền lực, giàu có, bóc lột đồng bào. Họ sẽ khinh thường ông, làm cho ông xấu hổ, báo thù khơi dậy báo thù. Nhưng Giakêu không bỏ lỡ cơ hội, ông sẽ thấy Chúa Giêsu đang đến gần, không gì có thể cản trở ông được.
Vì thế, ông trèo lên cây, ẩn mình trong những tán lá để xem Chúa Giêsu mà không bị ai nhìn thấy, ông tìm cách tiếp cận, với hy vọng những tán lá sẽ bảo vệ ông khỏi đám đông. Nhưng Chúa Giêsu đi ngang qua. Người tiến lại gần, ngước mắt nhìn ông và gọi “Giakêu”. Giakêu có nghĩa là “Chúa nhớ lại”. Thiên Chúa nhớ đến kẻ yếu người nghèo, với lòng thương xót “Giakêu, hãy xuống mau” (Lc 19,5).
Cố gắng của con người xem ra vô dụng, khi dùng cả sức mạnh của mình để vươn lên tới Chúa, tới Trời : “các ngươi sẽ nên như các thần” con rắn cám dỗ Ađam như thế. Giakêu khi ở trên cao, ông khám phá ra rằng để có được điều ông tìm kiếm, ông phải đi xuống. Thiên Chúa đã hạ mình xuống với con người. Thiên Chúa đã trở nên thấp và nhỏ bé, ở dưới gốc cây. Giakêu vui sướng thấy Chúa.
Chúa Giêsu đã giao hòa Giakêu với Thiên Chúa, và với mọi người. Tiếng gọi của Chúa Giêsu đặt Giakêu vào giữa cộng đoàn, khiến ông quên đi sự báo thù, mở lòng ra để đón nhận ơn tha thứ, niềm vui này Giakêu chia sẻ với anh em. Chúng ta đừng có nhầm : Giakêu không vứt bỏ tiền vì đã gặp được Chúa, ông không còn thích nữa. Chính sự dâng cúng này, Giakêu cho thấy ông không còn cần quyền lực để bảo vệ mình giữa mọi người nữa. Cuối cùng, ông đã nhận ra họ là anh em. Trước kia ông sống trong cô đơn, nay ông khám phá ra niềm vui của một tình yêu sâu thẳm vô điều kiện ở nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, hạnh phúc của ông là đáp lại anh em mình, bằng cách chia sẻ tài sản của ông, mở ra một mối quan hệ mới với họ, dựa trên công lý.
Trong một văn bản khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định rằng, người giầu rất khó vào Nước Trời (x. Mt 19,23). Trong trường hợp của ông Giakêu, điều xem ra không thể, lại được thực hiện: thánh Girolamo giải thích rằng “ông Giakêu đã cho đi sự giầu có của ông và lập tức thay thế nó bằng sự giầu có của nước trời” (Bài giảng 83,3). Và thánh Massimo thành Torino nói thêm: “Ðối với những người dại dột, của cải giầu sang dưỡng nuôi sự bất chính, trái lại đối với những người khôn ngoan chúng trợ giúp nhân đức; cơ may cứu rỗi được cống hiến cho những người khôn ngoan, còn đối với những người dại dột sự vấp ngã khiến cho họ hư mất” (Bài giảng, 95).
Chúa Giêsu kết thúc: “Con người đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10), “điều đã hư mất” chứ không phải là “kẻ bị mất”. Đây không phải là Giakêu đã mất. Khi cô lập với anh em mình, ông đã mất niềm hy vọng tìm thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang lại cho ông niềm hy vọng khi nói với ông : “Giakêu, hãy xuống mau!”.
Thiên Chúa không loại trừ ai hết, người nghèo cũng như người giầu. Thiên Chúa thấy nơi mỗi người một linh hồn cần cứu vớt. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta : hãy noi gương Chúa và thực thi lòng thương xót như Cha trên trên! Hôm nay ơn cứu độ của Chúa đến với chúng ta ; “Hôm nay, Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Mỗi ngày, hãy đến với Chúa Giêsu, là chủ nhà của tâm hồn chúng ta và là Thầy của đời ta. Amen.
Chúa Giêsu gây ngỡ ngàng. Ngài không hành động như mọi người. Ngài luôn vượt biên giới của TN 31-C171
Chúa Giêsu gây ngỡ ngàng. Ngài không hành động như mọi người. Ngài luôn vượt biên giới của dư luận.
Hôm nay, câu chuyện ông Da-kêu là một hành động gây ngỡ ngàng của Chúa Giêsu.
Ngài vào thành Giê-ri-khô, một thành phố lớn thứ ba sau Giê-ru-sa-lem và Ca-phac-na-um. Đám đông đang chen nhau theo Ngài. Trong đám đông đó, một người vì “thấp bé” “nhỏ con”, hay mập mà lùn? không thể thấy Ngài, ông Da-kêu, trưởng phòng thuế của thành phố, ông ước mong xem thấy Chúa Giê-su như thế nào. Ước muốn mãnh liệt đến độ ông dùng tất cả mọi phương tiện có thể để đạt ý muốn. Ông trèo lên một cây bên vệ đường, và hy vọng sẽ thấy được Chúa Giêsu vì Ngài đang đi về hướng đó. Một ông trưởng phòng thuế của thành phố mà trèo trên một nhánh cây! Chuyện lạ! Người ta sẽ cười ngạo ông, nhưng bất kể mọi người đang ngạc nhiên nhìn ông, ông vẫn trèo… Ngồi trên nhánh cây, chờ đợi…
Và ngạc nhiên biết bao! Ông Giêsu đi đến gốc cây, dừng lại, ngước mắt lên nhìn ông Da-kêu… Da-kêu mãn nguyện vì ông đã nhìn thấy được người ông đang mong nhìn thấy. Nhưng lạ thay! Ông Giêsu dừng lại, ngước mắt lên nhìn ông và bảo: “Anh Da-kêu, xuống mau, hôm nay tôi phải đến ở lại nhà ông”. Thánh Luca chỉ nói đơn sơ: ông Da-kêu mừng rỡ đón rước Người.
Ai có thể diễn tả được niềm vui và niềm hãnh diện của Da-kêu!
Hành động của Chúa Giêsu gây ngỡ ngàng… và nhiều người lẩm bẩm: ông ấy đến trú ngụ tại nhà một người tội lỗi!
Tại sao Chúa Giêsu lại “xin” trọ tại nhà ông Da-kêu? Một mầu nhiệm! nhưng chúng ta thấy rằng có lẽ Chúa Giêsu đã biết rõ tâm hồn ông ấy.
Biết bao nhiêu người đã mong tìm Chúa Giêsu, như vua Hê-rô-đê, ông “đã từ lâu muốn gặp được Người bởi đã từng nghe nói về Người, cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ…” (Lc 23,8).
Chúa Giêsu hỏi toán quân đến bắt Người: “Các ngươi tìm ai?” Họ đáp: “Tìm ông Giêsu Nadaret.” (Ga 18,4-5).
Ông Da-kêu cũng tìm Chúa… Chúng ta cũng tìm Chúa… Sự khác biệt như thế nào?
Vào trọ nhà một người như ông Da-kêu, là một điều cấm kỵ đối với người Do Thái. Ông là một người thu thuế, và là trưởng phòng thu thuế, tức là một người tội lỗi công khai, làm việc cho ngoại bang, liên hệ thường xuyên với người ngoại (là Rôma). Người thu thuế cũng là một tay bóc lột đồng bào mình, làm giàu trên xương máu của đồng bào mình, vì họ có quyền thu thuế tùy theo ý muốn miễn là nộp đủ số tiền đã ấn định cho người Rôma.
Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu không đặt vấn đề gì cả. Đối với Ngài, “Ngài đến để tìm và cứu vớt những gì đã hư mất” (Lc19,10). Ngài vượt ranh giới của những điều cấm kỵ… Hơn nữa, ông Da-kêu là một “đại gia”, Chúa Giêsu có thể bị mang tiếng là lui tới với bọn nhà giàu. Ngài vẫn hiểu điều đó, nhưng đó không phải là một điều gì đáng ngại.
Ông Da-kêu đã không ngại bị người ta chê cười. Chúa Giê-su cũng không ngại dư luận. Hành động của Chúa Giêsu đã đáp lại sự mong mỏi của Da-kêu.
Chúng ta làm sao hiểu được niềm vui của Da-kêu! Ông chỉ mong nhìn thấy Chúa Giêsu mà thôi, nhưng giờ đây Ngài là thượng khách của gia đình ông! Niềm vui của Da-kêu là được đón tiếp người mà ông mong mỏi nhìn thấy. Niềm vui này sẽ được tiếp nối bằng một niềm vui sâu đậm hơn, sung mãn hơn khi ông chấp nhận từ bỏ tất cả để sống một nếp sống mới.
Niềm vui đón tiếp sẽ trở thành niềm vui cứu độ.
Trong bữa tiệc khoản đãi vị thượng khách, tại sao ông lại thưa với Ngài rằng là sẽ đền trả gấp 4 lần cho những người ông đã bóc lột và sẽ cho kẻ nghèo phân nửa gia tài của ông? Tại sao?
Da-kêu là một người giàu có, một “đại gia”. Tiền bạc tràn trề, tiện nghi dư đầy, đời sống nhàn hạ… Thế mà ông dám tuyên bố công khai: “Tôi sẽ từ bỏ tất cả”… “Đồng tiền nối liền khúc ruột” thế mà trong một giây phút, ông đã dám quyết định buông bỏ mọi sự. Một hành động can đảm như thế, không mấy người dám làm! Đứng trước quyết định của Da-kêu chúng ta phải hỗ thẹn thôi.
Chúng ta vẫn chưa trả lời câu hỏi: tại sao?
Chúng ta nhớ câu chuyện của người đàn bà bị bệnh loan huyết, đã lén lút chạm tới tua áo Chúa Giêsu (Lc 8,46). Chúa Giêsu nói: “…Thầy biết có một năng lực tự nơi Thầy phát ra…” Đây phải chăng là lúc Da-kêu đã chạm vào “năng lực thần linh” đó? Ông Giêsu này không phải như những người ông đã quen biết. Trước mặt Chúa Giêsu, Da-kêu cảm thấy như bị cuốn hút vào trong một miền đất khác, nơi đó không còn tham lam bóc lột, tham nhũng, không còn hưởng thụ ích kỷ nữa…
Chạm đến “năng lực thần linh” đó, ông cảm thấy hoàn toàn đổi mới. Từ lâu nay, sống trong nhung lụa, ông vẫn không an tâm, vẫn khắc khoải như vẫn thiếu một cái gì đó trong tận tâm hồn u tối tội lỗi của ông. Hôm nay, ông đã gặp được một luồng ánh sáng đưa ông vào một vũ trụ mới, tươi sáng và bình an.
Phải, Da-kêu đã tìm được điều mà lâu nay ông vẫn khao khát mà không thể hiểu. Hôm nay, qua sự hiện diện của Chúa Giêsu, ánh sáng lan tỏa chan hòa trong tâm hồn ông. Giờ phút ấy, không do dự, ông đã đi vào ánh sáng. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến trong nhà này, bởi người này cũng là con cháu của Abraham…”
Hôm nay, chúng ta cũng được vinh dự như Da-kêu là đón tiếp Chúa Giêsu vào tâm hồn chúng ta. Vinh dự cho chúng ta biết bao! Chúng ta có biết “hồng ân của Thiên Chúa” không?
Hãy để cho ánh sáng tình yêu của Chúa tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta dám đứng lên đi trong ánh sáng…
Chúng ta thường muốn sửa lỗi người khác hoặc muốn giúp người khác hoán cải, nhưng lại thấy TN 31-C172
Chúng ta thường muốn sửa lỗi người khác hoặc muốn giúp người khác hoán cải, nhưng lại thấy khó khăn và lắm lúc thấy thất bại. Chúa Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay, đã hoán cải được Giakêu, một người được coi là kẻ tội lỗi; một người khó có thể hoán cải. Thế mà tại sao Chúa Giêsu lại hoán cải được ông ta một cách dễ dàng như vậy? Chúng ta hãy học hỏi cách hoán cải người khác nơi Chúa Giêsu.
Khi Chúa Giêsu đến với ông Giakêu thì dân chúng lầm bẩm rằng: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” (Lc 19,6). Trong dân chúng chắc có lẽ nhiều người tưởng rằng Đức Giêsu sẽ lên án tố cáo Giakêu, vạch trần tội ác của ông, và đe dọa rằng, nếu ông không hoán cải ông sẽ bị tiêu diệt.
Thế nhưng Đức Giêsu đã không làm như vậy. Đức Giêsu đã tỏ ta rất tôn trọng Giakêu. Ngài nói: “Gia kêu này, hãy xuống mau đi, vì hôm nay Ta phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5).
Chỉ có một lời nói của Chúa Giêsu cũng đủ làm cho Giakêu đáp trả lại ngay với lòng hoán cải. Ông đã không đợi vào nhà để bàn luận để hỏi thăm này kia, nhưng đứng ngay tại chỗ Giakêu đã thưa lại rằng: “Thưa Ngài, tôi xin lấy nữa phần gia sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8).
Thật là khó có ai có một sự đáp trả lại một cách nhanh chóng như vậy, chỉ trong vòng một phút, đã sẵn lòng cho đi một nữa gia sản. Thử hỏi, một vị đại gia Việt Nam, giả sử như có 100 tỷ, lại trong không đầy một phút lại sẵn lòng cho đi 50 tỷ, lại còn bồi thường gấp bốn lần cho những ai ông làm thiệt hại, có thể xảy ra hay chăng?
Một điểm lạ lùng khác nữa: Chúa Giêsu đâu có thuyết phục hay yêu cầu ông ta làm những điều đó hay điều gì khác. Ngài chỉ nói một câu, và dĩ nhiên cùng với thái độ tử tế của Ngài. Tại sao chỉ một câu nói mà mang lại hiệu quả lớn lao như vậy?
Chúa Giêsu nói: “Gia kêu này, hãy xuống mau đi, vì hôm nay Ta phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5).
Câu này, được hiểu là Chúa Giêsu xin được ở trọ nhà ông Giakêu; chỉ xin được ở trọ nhà Giakêu chứ không đòi ông ta phỉa làm gì. Tuy đơn sơ như vậy, lời xin của Chúa Giêsu lại mang nhiều ý nghĩa quan trọng:
Trước tiên, Chúa Giêsu tỏ ra cần sự giúp đở của Giakêu. Điều này có nghĩa là: Tuy Giakêu là người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn thấy nơi ông một con người hữu dụng, có giá trị, ngược lại với chúng ta, cho rằng những người tội lỗi chỉ là đồ ăn hại, gây đau thương cho xã hội, cho người khác. Chúa Giêsu đã thấy ông là người tội lỗi nặng nề, nhưng đồng thời Ngài vẫn thấy ông có thể có lòng tốt để cho người khác, để yêu thương, để ban phát. Vì nếu không, Ngài xin trọ nhà ông để làm chi?
Thứ hai, việc xin này cũng có nghĩa là Chúa Giêsu đã đưa tay nâng ông ta lên, trả ông về với một nhân phẩm bình thường, trong khi người Do Thái khinh miệt ông ta, cho là quân thu thuế tội lỗi, gian tham bóc lột người nghèo.
Và hơn thế nữa, Đức Giêsu đâu phải là người bình thường, mà là một là một vị Thầy, được mọi người tôn kính như là một vị tiên tri được Thiên Chúa sai đến, hay như là Đấng Cứu Thế. Một vị quá cao sang như thế, mà ở lại nhà ông, thì Ngài không chỉ trả cho ông về cái nhân phẩm của người bình thường, mà còn cho ông một vinh dự quá lớn lao.
Thứ ba, Giakêu chắc cũng phải rất nể phục khi Đức Giêsu hy sinh cả tiếng tăm của mình để đến với ông. Vì ngay lúc đó, mọi người đều xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” (Lc 19,6). Sự xầm xì này đã làm hạ thấp phẩm giá của Đức Giêsu, một vị mà nhiều người đang tôn kính. Thế mà Đức Giêsu bất kể điều đó! Giakêu không những nể phục mà còn quá kinh ngạc với tấm lòng cao cả của Đức Giêsu. Từ cảm xúc quá kinh ngạc, Giakêu chuyển nhanh qua sự cảm động. Tâm lòng của ông bổng chuyển đổi nhanh chóng.
Trái tim ông, trước đây, bị xơ cứng, vì tiền bạc, danh vọng, quyền lực; nay, thì mềm ra. Tiền bạc, danh vọng, quyền lực, bổng chốc không còn là cái quan trọng đối với ông. Ông thể hiện sự thay đổi hay hoán cải của ông một cách nhanh chóng và cụ thể: “Thưa Ngài, tôi xin lấy nữa phần gia sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Nhìn thấy cái tốt đẹp, cái nhân phẩm, cái hữu dụng, cái cống hiến của người khác, bỏ qua những cái xấu xa tội lỗi, để đến với tha nhân, là điều Chúa Giêsu đã làm. Kết quả là Giakêu đã hoán cải cách mau chóng, bất ngờ và trở nên mẫu gương cho chúng ta, những người muốn hoán cải.
Theo bài học của Chúa Giêsu, một người quản lý nhà tù đã chia sẻ kinh nghiệm rằng, chỉ có một cách duy nhất có thể hoán cải tù nhân, đó là tạo được một mối liên lạc với họ. Sẽ không bao giờ cải tiến được một người bằng cách chối bỏ hay xa tránh họ. Một sự lạnh lùng, khinh chê, lên án sẽ không có hiệu quả gì.
Nếu bạn hất hủi một người bạn sẽ làm cho trái tim người ấy trở nên khô cằn chai đá. Bởi thế, bạn cần tìm ra cách phương cách để làm trái tim ấy mềm ra. Điều cần nhớ là, tất cả mọi người cho dù có vẻ chai lì, tội lỗi nặng đến đâu chăng nữa thì vẫn còn cái tốt. Họ vẫn muốn được tốt, được hoàn thiện. Bạn đừng thất vọng về con người.
Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ thất vọng về người anh chị em, cũng như thất vọng về chính mình, để rồi lên án anh chị em hay lên án chính mình. Xin Chúa cho chúng ta biết tin tưởng vào tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng luôn muốn cứu giúp, đưa chúng ta về phẩm giá cao cả ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Ở đời có người tốt có kẻ xấu. Ai cũng chỉ muốn xung quanh mình toàn người tốt. Chẳng ai muốn TN 31-C173
Ở đời có người tốt có kẻ xấu. Ai cũng chỉ muốn xung quanh mình toàn người tốt. Chẳng ai muốn chung sống với người xấu làm gì cho nặng mình. Tâm lý chung của con người là mong cho mọi người tốt được sống và tất cả những kẻ xấu bị tiêu diệt. Thế nhưng sự phá bỏ chỉ là phương thế cuối cùng khi mà người ta không còn cách nào khắc phục. Trong 36 kế thì kế lược cuối cùng mới là bỏ chạy, sau khi đã tìm mọi cách để khắc phục.
Đối với Thiên Chúa, Ngài không muốn loại trừ, không muốn đánh mất một con người nào, cho dù đó là người tội lỗi, độc ác. Bởi Thiên Chúa luôn kỳ vọng và mong muốn con người ăn năn trở lại, phục hồi lại bản chất con người thánh thiện của mình để trở nên mỗi ngày một hoàn thiện hơn.
Bài đọc sách Khôn ngoan (Kn 11, 23 – 12, 2) đã lý giải lý do tại sao mà Thiên Chúa lại lặng im trước kẻ dữ. Thiên Chúa vì yêu thương đã tạo dựng nên con người. Và con người được tạo dựng là thánh thiện và tốt đẹp. Thiên Chúa chậm chễ không giáng phạt kẻ dữ là để mong họ có ngày nhận ra Thiên Chúa mà trở về với Ngài để được trở nên thánh thiện tốt lành.
Trong bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 19, 1-10), tác giả trình bày một hình ảnh tuyệt vời về lòng bao dung và tình nghĩa của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi.
Ông Giakêu là người thu thuế. Là người thu thuế, ông bị mọi người lên án vì ông thu thuế của dân mà nộp cho đế quốc, vì ông được hưởng lợi hoa hồng từ chính những đồng tiền mồ hôi của dân. Dẫu sao ông cũng đã có địa vị trong xã hội, có dư đầy của cải, dù của cải ấy là bất chính. Danh vọng và của cải ông không thiếu. Nhưng dường như Giakêu vẫn thiếu một cái gì đó. Chính thao thức ấy đã khiến ông tìm mọi cách để được nhìn xem Giêsu.
Thái độ ông cố gắng để được nhìn xem Chúa Giêsu thật đẹp. Là một người như ông, nhưng ông đã bất chấp những lời đàm tiếu của dư luận để đạt được mục đích là nhìn thấy Giêsu. Dù cho đó có thể chỉ là chút tò mò, hiếu kỳ.
Thái độ đi tìm Giêsu và sẵn sàng vượt qua mọi rào cản của ông Giakêu đã là cơ hội tuyệt vời để Thiên Chúa kéo ông ra khỏi nơi tăm tối của tội lỗi.
Giakêu núp ở trên cây, tưởng không ai trông thấy. Nào ngờ Ðức Giêsu dừng lại, nhìn lên và gọi tên ông. Ngài thấy ông trước khi ông thấy Ngài. Giê-su đã nói với ông “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 9,5). Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống, nhưng lời của Ngài lại làm ông sung sướng, ngỡ ngàng. Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất. Ðường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không rõ, nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui. Thiên Chúa muốn cứu mọi người. Nhưng con người được tự do đón nhận.
Thái độ của Chúa Giêsu: Ngài đã gọi đúng tên ông có nghĩa Ngài đã biết ông từ trước; Ngài giục ông “hãy xuống mau” bởi Ngài đang chờ đợi ông, hồ hởi muốn gặp ông; Một lời gợi ý chẳng khác nào một mệnh lệnh “hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” đã nói lên lòng Ngài khao khát được ở lại với ông.
Đứng trước tình cảm mà Giê-su dành cho mình, ông Giakêu đã thực sự bày tỏ niềm vui mừng. Niềm vui của ông được bộc lộ cách cụ thể qua việc ông chia ½ gia tài của mình cho người nghèo và đền gấp 4 lần những gì ông đã chiếm đoạt của người khác.
Khung cảnh nơi nhà ông Giakêu trở nên rộn ràng tươi trẻ, đậm đà tình yêu giữa người với Chúa, giữa người với người, và ngay chính con người vui với lòng mình được biến đổi. Niềm vui rạng ngời bừng lên, như muốn lan đi đến cùng trời cuối đất.
Chỉ có sự gặp gỡ Chúa thực sự, chỉ có ánh mắt nhân từ yêu thương của Chúa mới có thể biến đổi con người như vậy. Chỉ có cách cư xử của tình yêu mới đem lại kết quả kỳ diệu như thế.
Ông Giakêu đã gặp Chúa, đã được tình yêu Chúa biến đổi. Trái tim ông đã được tình yêu Chúa chiếm đoạt. Đến lượt ông, ông cũng đã cư xử với những người xung quanh ông bằng trái tim yêu thương ấy của Chúa.
Lạy Chúa, Xin dạy con biết cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi. Ước gì đôi mắt con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người, và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của tha nhân. Trong yêu thương thế giới này sẽ được biến đổi cho tương lai rực rỡ huy hoàng.
Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ giữa người với nhau và nhìn thấy vạn vật TN 31-C174
Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ giữa người với nhau và nhìn thấy vạn vật hoặc các biến cố sự kiện. Nhưng trong những lần gặp và thấy đó, chúng ta có bao giờ suy nghĩ hay có cái nhìn thâm sâu để rồi sau đó mình sống sao cho tốt hơn ở bên ngoài cuộc sống chúng ta chưa? Chẳng hạn, có những lần chúng ta gặp gỡ người mình yêu, mình mến mộ, hay gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu nay đã thành đạt, chúng ta có tự hỏi lòng mình, tại sao họ thành công như thế còn mình thì như thế này? Mình phải phấn đấu cho bằng được thôi! Hay là có những lần ta gặp người khó ưa, người tội lỗi, ích kỷ, ta có đặt câu hỏi tại sao họ lại như vậy, ta phải làm gì bây giờ, phải sống sao với họ đây? Rồi có những lần ta gặp những người nghèo hèn, các bệnh nhân mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, lòng ta có đau thắc, động lòng thương xót hay thủ thầm rằng ta phải làm gì để giúp họ đây, có nên ra tay giúp họ không? Đó là những lần gặp những con người mắt thấy tai nghe, còn gặp những sự kiện những biến cố xẩy ra quanh ta thì sao? Chẳng hạn, như nhìn thấy biến cố 39 người Việt nam đi xuất khẩu lao động bị chết ngạt trong thùng Contenner tại nước Anh ngày 23-10 vừa qua, chúng ta có cúi đầu cầu nguyện cho họ không? Chúng ta chợt nghĩ rằng mình phải sống sao đây vì đời người sao nhanh quá? Và hôm nay, chúng ta đang ở trong tháng cầu cho những đã qua đời, chúng ta có đến gặp các bậc tiền nhân ông bà tổ tiên cha mẹ cô chú bác hay mọi người đã qua đời tại các nhà Mồ hay các nghĩa trang không, và khi đến thắp hương cho họ, cầu nguyện cho họ là dĩ nhiên nhưng lòng chúng ta nghĩ gì? Có bao giờ nghĩ rằng mình sẽ cố gắng sống đạo đức thánh thiện hơn, cố gắng hoán cải thay đổi để hôm nay được thánh thiện mai sau được lên Thiên Đàng? Nếu làm được như vậy, những cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở việc gặp mặt, gặp gỡ xã giao, nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn và dẫn đến một hướng sống tốt cho ta ở tương lai.
Trang Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Giakêu. Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị mọi người xa lánh. Qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội lụy; còn Giakêu không chỉ chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng Ông và cả gia đình còn đón nhận được hồng ân cứu độ. Ông được như vậy là nhờ đâu? Nhờ Ông nghe thấy tiếng tăm và Lời Chúa từ xa, ông suy nghĩ và muốn sống như Ngài và Lời Ngài dạy, nên ông tìm gặp cho bằng được? Vì trước đó ông cũng leo lên được nấc thang xã hội, đã đạt được vị trí ước mong, đã thu tích được một gia tài. Có được gia tài này, một phần là nhờ trí tuệ, sự miệt mài làm việc, một phần cũng là nhờ bòn mót và kiếm chác của người khác, bởi lẽ ông đứng đầu những người thu thuế. Cho nên, người ta khinh bỉ ông, cho ông là kẻ tội lỗi. Và hôm nay, khi nghe nói Đức Giêsu đi qua đó, và Ngài là bạn của những kẻ không được ai yêu thương, nên ông đã leo lên một cây sung bên đường để xem cho biết mặt Đấng ấy và gặp cho được Ngài.
Bề ngoài cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu thôi, nhưng bên trong muốn hoán cải. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu như Đức Giêsu đã không ngước mắt nhìn ông trên cây sung. Chúa Giêsu đã “nhìn lên” Giakêu. Người không xem thường ông, nhưng nhận ra nơi ông một con người sẵn sàng đón nhận và hoán cải. Anh mắt, thái độ và lời nói của Người là biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời xì sầm, bàn tán hay dị nghị của đám đông nên đã hạ mình xuống làm bạn với một người tội lỗi, quả như Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Khôn Ngoan khẳng định: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa. Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa”.
Qua cuộc gặp gỡ chân tình của Chúa Giêsu, ông Giakêu thay đổi tức khắc từ ác đổi thành thiện, từ ích kỷ hà tiện thành rộng rãi, từ trí tuệ đến tâm linh, từ trái tim chai đá đến trái tim biết yêu thương, nên ông sẵn sàng cho đi tất cả để chuộc lại những lỗi lầm mình đã gây ra cho tha nhân hầu tương lai tương ông được sáng hơn, thanh thản hơn, bình an và hạnh phúc hơn, thánh thiện hơn. Cho nên Lời tuyên bố của Đức Giêsu cho thấy phép lạ thật sự đã xảy ra ngay trong cuộc gặp gỡ giữa Người và Giakêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giờ đây, Giakêu không còn mang danh hiệu kẻ tội lỗi nữa, nhưng ông mang tên thật của mình là “người thanh khiết”.
Hôm nay, Đức Giêsu hằng mong muốn gặp gỡ mỗi người chúng ta, vì trước mặt Thiên Chúa chúng ta cũng là những kẻ tội lỗi đáng thương như Giakêu, cũng cần đến sự hoán cải và ơn tha thứ. Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Người. Người luôn đi bước trước đến với ta, và Người vẫn còn đến và tiếp xúc chúng ta qua các Bí Tích nhất là Thánh Lễ. Thế nên chúng ta phải năng đến gặp Thiên Chúa để Ngài dìu dắt, đồng hành, sẻ chia bảo ban dạy dỗ hầu ta nên thánh và thiện nhờ chúng ta biết hoán cải hằng ngày để từ một tấm lòng kín trở nên rộng mở bao dung, từ một quả tim chai đá, bất công trở thành mềm mại và ngời sáng qua việc sống công bằng, bác ái và sẻ chia, cầu nguyện cho người còn sống hay đã qua đời.
Tháng 11 là tháng cơ hội để chúng ta đi viếng mộ gặp các người đã khuất và cầu nguyện cho những người đã chết trong thân xác bụi trần và đang cần được thanh luyện để được vào thiên đàng vĩnh phúc, vì “ai nên khôn mà không dại một lần”. Ai cũng cần được thanh luyện trong tình thương của Chúa. Vì thế, qua những thánh lễ chúng ta dâng để gặp Chúa và cầu nguyện cùng Chúa cho các Đẳng linh hồn, qua những hy sinh bác ái để lập công đền tội cho các Đẳng linh hồn qua việc thăm viếng mộ, lời kinh cầu hằng đêm ngày và qua những việc lành phúc đức chúng ta làm để dâng cho các Đẳng linh hồn vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân. Với niềm tin đó, chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin…
Tại Giáo phận Đà nẵng có một Hội rất đặc biệt đó là Hội Tông Đồ khuyết tật, tức là gồm những người TN 31-C175
Tại Giáo phận Đà nẵng có một Hội rất đặc biệt đó là Hội Tông Đồ khuyết tật, tức là gồm những người khuyết tật. Hội này do Cha Phêrô Trần Đức Cường lập ra Hội nhằm qui tụ những người khuyết tật trong cũng như ngoài Giáo phận không phân biệt tôn giáo. Ngày Chúa nhật họ qui tụ lại Hội trường Tòa giám mục Đà nẵng để gặp gỡ, chia sẻ vui buồn trong cuộc sống, học giáo lý và dâng Thánh lễ. Nhờ thế mà rất nhiều người đã được Chúa thương xót biến đổi từ một người mặc cảm, tự ti, buồn tủi, khép kín nay đã lột xác thành một người bình thương, họ cảm thấy bình an vui sống hòa nhập vào xã hội như mọi người. Cũng có rất nhiều người chưa biết Chúa nhưng nhờ sự can đảm đến với Chúa qua việc tham gia sinh hoạt của Hội này, họ được lòng thương Chúa biến đổi thành con Chúa giúp ích cho xã hội và Giáo Hội. Và rồi cũng có nhiều người trước đây khuyết tật cả thể xác lẫn tâm linh nhưng nhờ đến với Chúa và lòng thương xót Ngài qua việc tham gia Hội, họ được Chúa biến đổi cho lành bệnh thể xác lẫn tâm linh.
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ông Da-kêu là người khuyết tật tâm hồn nên ông cố tìm gặp cho được Chúa Giêsu để được Chúa thương biển đổi đời ông từ con người tội lỗi thành thánh và thiện. Và quả vậy, khi Chúa đến và ở lại nhà ông, ông được Chúa ban ơn cứu độ. Khi ông được Chúa thanh tẩy, ông đã thay đổi cách sống, chuộc lại những lỗi lầm và đền bù những bất công đã gây ra trong quá khứ. “Tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã lường gạt ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Điều đáng chú ý ở đây là cái gì làm cho ông đổi đời? Có phải là thiên đàng? Hay ông sợ phạt, sợ xuống hỏa ngục? Không phải? Vì lòng thương thương xót Chúa, Chúa Giêsu biến đổi một con người tội lỗi trở thành người công chính, một thánh sống, từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruồng bỏ, ông được Chúa Giêsu cho hội nhập vào cộng đoàn con cháu tổ phụ Abraham.
Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta về tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu thương xót ấy mạnh đến nỗi sẵn sàng tha thứ và thứ tha tất cả dù con người phản bội, miễn là người ấy biết chạy đến với Chúa và lòng thương xót của Ngài. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Khôn Ngoan nói: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải. Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên” (Kn 11,23-24). Rồi, nhìn lại đời sống trần thế của Chúa Giêsu, dung nhan lòng thương xót của Chúa Cha, chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu thương xót hết mọi người: dân ngoại, những người nghèo, tội lỗi, những phụ nữ, trẻ em, những người bệnh tật, bị quỷ ám, người thu thuế như Giakêu hôm nay. Chính những hạng người đó lại là đối tượng của lòng thương xót Chúa. Vì, như Chúa Giêsu đã nói: “Những người khoẻ mạnh không cần gì đến thầy thuốc, nhưng là những người đau yếu. Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi" (Mc 2,17). Vì vậy, chúng ta cần phải đến và gặp Chúa, tín thác vào lòng thương xót Chúa vì chưng chỉ có Chúa, Đấng là giàu lòng thương xót mới biến đổi cuộc đời chúng ta: từ bệnh nhân thành người khỏe mạnh bình thường, từ một người tội lỗi thành thánh thiện, từ người chưa biết Chúa trở thành con Chúa và từ người đã chết Chúa cho sống lại.
Cụ thể, Thánh Kinh kể ông Gióp là người đạo đức, công chính và kính sợ Chúa nhưng đùng một cái ông bị bệnh ung nhọt hành hạ khủng khiếp, tan gia bại sản, bà con, bạn bè hàng xóm và thậm chí vợ con bỏ rơi ông. Ấy vậy, ông vẫn kiên trì chạy đến Chúa, gặp Chúa trong cầu nguyện liên lỉ và cuối cùng lòng thương xót Chúa biến đổi đời ông: ông được Chúa chúc phúc ban ơn cho ông lành sạch bệnh tật, con cái đề huề và của cải sung túc. Rồi, vua Đavít, vị vua chân chính và đạo đức nhưng đã trót phạm tội dâm dục và giết người. Ông được Ngôn sứ cảnh tỉnh và ông đã nhận biết mình đã phạm tội xúc phạm đến Chúa và tha nhân, vua Đavít hối hận và chạy đến lòng thương xót Chúa để xin lỗi Chúa cả đời ông. Chúa biến đổi đời ông bằng cách tha tội cho vua mà còn làm cho ông trở thành vị vua đầy thánh thiện của dân Ít-ra-en.
Trong đời sống thường ngày của chúng ta, Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm từng người chúng ta, chỉ có điều chúng ta có ao ước đến gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua sự biếng nhác, những mặc cảm, nhưng bon chen của sự đời để đến gặp Chúa qua việc kinh nguyện, tín thác vào Chúa và tham dự cử hành các Bí tích để lòng thương xót Ngài biến đổi đời ta hay không? Nếu chúng ta mạnh dạn sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống như ông Da-kêu, chắc chúng ta sẽ được ơn cứu độ. Chẳng hạn, Thánh Augustinô, hay một số anh chị em tông đồ khuyết tật của Giáo phận Đà Nẵng và mới đây rõ ràng nhất là chàng trai khuyết tật cử tạ Lê Văn Công đã dành được huy chương vàng thế giới Paralympic tại Rio 2016 vừa qua nhờ anh đã dám làm dấu thánh giá để tuyên xưng Chúa là Chúa mọi sức mạnh và xin sức mạnh Thiên Chúa phù trợ anh và Thiên Chúa đã đáp lời. Và hơn đâu hết, chính mỗi người chúng ta được lòng thương xót Chúa biến đổi luôn khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải.
Chính nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự ở giữa và ở trong lòng chúng ta và Ngài mong ước mỗi người chúng ta hôm nay bắt chước ông Da-kêu chạy đến với lòng Chúa thương xót đồng thời mở rộng cõi lòng ta ra để đón nhận Ngài và Lời Chúa vào trong cuộc sống để Ngài biến đổi đời ta. Khi gặp gỡ Chúa cách chân thành như thế thì chính Chúa sẽ ban ơn hoán cải cho ta và biến đổi ta thành những con người mới: lành sạch, thánh thiện, bình an, hạnh phúc và từ bi thương xót như lòng Chúa và lòng ta mong muốn. Ước gì, qua lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta biết năng chạy đến gặp Chúa qua việc tham dự cử hành các Bí Tích, siêng năng đọc kinh sáng tối, suy niệm Lời Chúa và sống Lời Chúa vì chỉ có Lời Chúa mới đem lại hạnh phúc trường sinh cho chúng ta. Amen.
Harold Hughes là một chàng trai con nhà giầu có sang trọng. Vì được cha mẹ nuông chiều, muốn TN 31-C176
Harold Hughes là một chàng trai con nhà giầu có sang trọng. Vì được cha mẹ nuông chiều, muốn gì được nấy, nên năm 28 tuổi chàng đã nhiễm đủ mọi tật xấu: nghiện rượu, gian dối, tứ đổ tường và lừa gạt hết mọi người, mọi cấp bậc trong xã hội. Cuộc đời chàng ngày càng xuống dốc.
Một buổi tối nọ, sau khi đã choáng váng với men say, chàng vào buồng tắm, cởi hết áo quần, đứng trước gương soi, hai tay chàng cầm hai khẩu súng lục, chĩa mũi đúng vào trong miệng, Hughes định bóp cò để kết liễu cuộc đời đen bạc, thì chợt nhìn thấy tấm gương phản chiếu hình ảnh bức tranh Thánh Tâm Chúa Giêsu nhân lành hiện ra trước mắt với lời than trách: “Sao con lại hủy hoại thân thể mình, tội chết!” Ngay lúc đó, tay chàng vội rụt lại và tâm trí chàng như cảm thấy hối hận. Thiên Chúa như đang đi vào cuộc đời và chạm đến chàng. Chính giây phút linh thiêng cảm động đó, chàng đã biến đổi tâm hồn. Mười năm về sau, ông đã trở thành Nghị Sĩ của Hoa Kỳ và trở thành người đi biến đổi người khác.
Câu chuyện về ông Harold Hughes cũng giống như câu chuyện về ông Gia Kêu đã thuật lại trong Phúc Âm Chúa hôm nay. Chúa Giêsu đã biến đổi ông Gia Kêu. Ông Hughes cũng từ một cuộc đời biển lận biến thành người phục vụ, một người biết mở rộng cửa lòng để đón nhận Thiên Chúa và được tràn trề niềm vui, niềm hạnh phúc mà ông không bao giờ nghĩ tới. Ông Hughes bệ rạc nhìn thấy tấm hình Chúa chiên lành. Ông Gia Kêu nhỏ bé tò mò trèo lên cây cao để được thấy Chúa, để được nhìn thấy một kẻ kỳ lạ mà bao người đã nói đến tên. Chúa đã nhìn đến lòng ngay thật, không kiêu kỳ của ông mà đáp lại lòng ông.
Thánh Augustinô đã nói: "Khi tôi mới nhận ra Chúa, mặc dù tôi không đáng, nhưng Chúa đã nâng tôi lên, để tôi được nhìn thấy điều tôi đáng nhìn". Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời của chúng ta và biến đổi chúng ta trở nên tốt hơn như Ngài đã làm cho ông Harold Hughes, cho ông Gia Kêu khi bước vào cuộc sống của riêng mình và biến đổi họ thành người tuyệt hảo. Khi bước vào cuộc đời chúng ta, Ngài sẽ làm cho chúng ta tất cả mọi điều Ngài đã từng làm cho người khác.
Có ba điều làm cho chúng ta biết Chúa bước vào cuộc đời. Thứ nhất, khi chúng ta trở nên nghèo nàn, tội lỗi, trơ trọi nhất (một trong 8 mổi phúc thật) trong cuộc đời, nghĩ mình nên kẻ khốn nạn nhất không ai có thể giúp chúng ta được. Thứ hai, lúc chúng ta nhận ra Chúa Giêsu (Thánh Thể) “là Đấng lấy Thịt và Máu Mình làm của nuôi dưỡng chúng ta” (Gio 6:56), bổ sức cho chúng ta. Sau hết, khi Chúa Giêsu cho mình nhận ra những người nghèo khó, cùng quẫn là người cần đến lòng thương xót của ta “Ai làm cho một trong những người bé mọn này là làm cho chính Ta” (Mt.25:40).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhìn ra sự yếu đuối, bất lực của mình, nhìn ra Chúa là sức mạnh vô song nuôi sống và bổ dưỡng cho chúng con, để chúng con thông truyền sứ điệp ấy cho mọi người nghèo khổ, cho mọi kẻ bé mọn, đáng thương của Chúa.
Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Giê-ri-khô, một địa danh bất thường TN 31-C177
Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy.
Giê-ri-khô, một địa danh bất thường trong môn địa lý của hành tinh này: thành phố thấp nhất của trái đất; thấp hơn mặt nước biển 250 mét! Khi những người sống ở mức thấp đó; ngay khi họ quyết định đi từ nới họ ở, họ chỉ có thể đi lên cao; Giakêu sẽ khởi hành ở chỗ rất là thấp.
Giê-ri-khô, một biểu tượng cho nhân loại già nua: nó là một trong những thành phố cổ nhất trái đất; có những di tích mà số tuổi lên đến tám ngàn năm trước Đức Giêsu Kitô. Khi Abraham dẫn đàn súc vật đi ngang qua thì nơi đó đã là một thành phố có số tuổi hơn sáu ngàn năm; Giakêu sẽ rất giống với nhân loại từ muôn thuở.
Giêrikhô thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem. Đối với Đức Giêsu ngày hôm đó là một ngày leo dốc mệt nhọc! Đồi cái Sọ (tiếng Do Thái là Golgotha) ở đàng kia, gần cổng Épraim, cách đó hai mươi kilô mét, ở đầu một con dốc dài bất tận và ở đó cao hơn một ngàn mét so với ốc đảo Giêrikhô.
“Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” Giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình cuối cùng.
Đức Giêsu hoàn toàn sáng suốt về điều đang chờ đợi Người trên kia, ở Giêrusalem. Hôm qua có lẽ hoặc hôm kia, Người đã gọi riêng các bạn hữu. Người đã loan báo cho họ điều sắp xảy đến: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 18, 31.34). Nhưng thánh Luca nói với chúng ta, mười hai Tông Đồ của Đức Giêsu không hiểu gì cả. Chỉ mình Đức Giêsu sáng suốt, lòng tràn ngập những mối suy tư.
Ở đó có một người tên là Giakêu
Phải chăng là sự hài hước? hoặc là sự chế giễu? Cái tên “Zakkay” này trong tiếng Do Thái có nghĩa “Người Thanh Khiết, Người Công Chính”. Con người tội lỗi công khai ấy lại có tên “thanh khiết, trong sạch” làm chúng ta nghĩ tới một kẻ lừa bịp ác tâm mà người ta đặt cho biệt danh là “người vô tội, dịu dàng”!
Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.
Ai mà biết được ông ta sẽ không mang tên thật của mình… vào lúc cuối.
Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.
Giakêu, người tội lỗi bởi nghề nghiệp, trong lúc này đúng ra đáng có cái tên “kẻ bị tuyệt thông”. Một con người ghê tởm, bị mọi người ghét bỏ. Phục vụ cho đoàn quân chiếm đóng La Mã. Thỏa hiệp với ngẫu tượng, Hoàng Đế Bóc Lột! Kẻ bóc lột những người nghèo! Một Thủ trưởng vô liêm sỉ của những người thu thuế, đã thu những món lại to lớn khi bỏ đói dân nghèo và phô trương sự giàu sang, xa hoa trong ngôi biệt thự sang trọng nhất thành phố. Cách đó ít lâu Đức Giêsu đã nói về điều đó: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Lc 18,25).
Giakêu, một con người bị tránh xa như bệnh dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với hạng người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó.
Một chuỗi những “biểu tượng: A! ông ta lùn quá lùn nên không nhìn thấy Đức Kitô; đám đông thù nghịch; cả một dư luận phải vượt qua, để xem Đức Kitô; leo lên một cây (cây nào lạ lùng bằng cây thập giá!) để xem Đức Giêsu. Những sự giải thích tượng trưng không làm mất đi sử tính của các chi tiết cụ thể: người ta phải nhớ lại ở Giêrikhô, vào thời của Luca đã xảy ra một biến cố khó tin là sự hoán cải của ‘kẻ đứng đầu những Người thu thuế’. Vả lại mọi chi tiết hoàn toàn tự nhiên. Lúc mới vào thành phố, Đức Giêsu đã chữa lành một người mù (Lc 18, 35.42). Tiếng vang của việc chữa lành này lan ra nhanh chóng như vệt thuốc súng. Người ta biết rằng Giakêu đã có ước muốn “xem” Đức Giêsu đó, leo lên một cây sung dưới ánh mắt châm biếm của đám đông; mà không còn quan tâm đến phẩm giá của một thủ trưởng nhân sự Tổng Kho Bạc của Đế quốc!
Tôi thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu, bất chấp sự chế giễu đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do Thái và có lẽ cái áo choàng La Mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường? Vì tính tò mò chăng? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng? ông ta đã sống để đếm tiền và khuấy động thành phố của ông. Mọi người tránh xa ông; ông biết rõ tại sao: nhân danh pháp luật, ông bức bách họ. Nhưng rồi khi người ta nói Đức 'Giêsu đi qua đó và Người là bạn của những người không được ai yêu thương. Lúc đó, ông giữ cửa kho bạc đã leo lên một cây đang trổ hoa để xem Đức Chúa.
Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông
Người ta có thể gọi chỗ ấy là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu như Đức Chúa đã không ngước mắt nhìn lên người ở trọ lạ lùng, trên cây sung. Tôi ở yên một lúc để tưởng tượng, để chiêm niệm hai ánh mắt gặp nhau đó. Đức Giêsu và ông Giakêu đang nhìn nhau!
Chúng ta tiếng rằng chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, trong khi mà chính Người “tìm kiếm” chúng ta trước, tự muôn đời! ôi chào! Ngày hôm đó, Đức Giêsu đã phải sung sướng hạnh phúc! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem, còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được hiến dâng để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc cao đẹp nhất của Người sẽ thành công? Mọi nỗi chơi vơi cô quạnh của thập giá mọi hình phạt mà Người sẽ gánh trên lưng, mọi vết thương xé ra ở tay chân đẫm máu của người. Người biết, biết chắc chắn là điều đó có ích. Người đã cứu thế gian, khi tiến lên ‘Giêrusalem’. Giakêu là hoa trái đầu mùa. Hỡi hạn, là người tội lỗi, bạn đã được Thiên Chúa tạo dựng chỉ để ‘xem’ khuôn mặt của Người. Hỡi bạn, là người tội lỗi, hay nhận ra mình được tha thứ khi ánh mắt bạn gặp ánh mắt của Đấng yêu thương bạn.
“Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
Qua những lời ấy, chúng ta đoán ra rang chính Đức Giêsu đã tìm kiếm Giakêu. Mọi sụ diễn ra như thể Đức Giêsu đã dự kiến hành động của Người: Đức Giêsu được mời đến nhà ông và ông được ưu tiên chọn lựa đối với mọi người khác ở Giêrikhô. Người đã chọn lựa kẻ thấp hèn nhất, kẻ bị khinh bỉ nhất.
Đó là cách mà Đức Giêsu dùng để yêu cầu một người nào đó phục vụ Người để rồi Người ban cho họ một ân sủng của bậc đế vướng: hoàng tử trở thành người ăn xin để ban cho mà không làm thương tổn.
Đức Giêsu dường như chỉ là một người giảng thuyết lưu động tìm một bữa ăn và một 'cái giường để nghỉ qua đêm. Và thân mật biết bao trong sự vội vàng ấy! “Này ông Giakêu xuống mau đi!” như thể Đức Giêsu muốn nói: Này ông Giakêu, tôi rất đói, mau lên nào! Cũng thế, Đức Giêsu đã xin nước uống của một phụ nữ Samari bị bỏ rơi, bên bờ giảng. Cũng thế Người đã chấp nhận việc xức dầu thơm của người đàn bà tội lỗi nhân ông Simon, một người Pharisêu.
Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.
Sự vội vàng khi ông từ cây nhào bổ xuống tương ứng với sự vội vàng của Đức Giêsu.
Niềm vui là dấu chỉ sự gặp gỡ với Đức Giêsu. Một khoảnh khắc vui mừng và hân hoan ngắn ngủ, kể từ Bài ca Ngợi khen (Magnificat) của Đức Maria qua niềm vui của hai môn đệ trở về Emmau.
Còn bạn, là người tội lỗi, bạn có những lúc vui mừng không?
Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”
Đức Giêsu đã từng đòi hỏi không được gây ra những cớ làm cho người ta vấp ngã (Lc 17,1.3) nhưng chính Người đôi lúc không ngần ngại gây ra bởi những thái độ không phù hớp với dư luận của thời đại Người; đặc biệt vì lòng nhân từ khác thường của Người đối với những tội lỗi! Đức Giêsu là “Cứu Chúa” đến độ làm người ta vì thế mà khó chịu. Người tha thứ đến độ gây cớ vấp ngã cho những người công chính.
Ông Giakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Thánh Ambrosiô trong bài thuyết giảng của ngài ở Milan đã nói “Không có lỗi khi mình giàu, nhưng khi mình không biết sử dụng tài sản của mình... “ Và toàn bộ Tin Mừng của Thánh Luca dường như muốn nói rằng cách duy nhất sử dụng hợp lý tài sản của thế gian này là chi dùng nó, đem cho nó đi! “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” (Lc 12,33). “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn hữu (Lc 16,9).
Giakêu đã bị đảo lộn bởi lòng quảng đại của Đức Giêsu đối với ông. Ông muốn đem lại cũng niềm vui ấy cho những Người khác.
Giakêu khốn khổ với tất cả vàng bạc của mình. Giakêu hoàn toàn sung sướng khi chia sẻ niềm vui.
Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Đức Giêsu đã qua những giờ nói chuyện trực diện với Giakêu. Họ đã nói với nhau điều gì? Họ đã ăn uống cùng bàn... mặt giáp mặt. Trong mọi tôn giáo kể cả tôn giáo ở Israel, Thiên Chúa là Đấng đáng sợ mà Đền thờ khuyến khích sự kính sợ linh thiêng đó.
Trong Đức Giêsu, chính Thiên Chúa di chuyển và đến ở nhà kẻ tội lỗi; vậy từ ngày đó, các nhà thờ, kể cả những đại thánh đường chỉ là ngôi nhà khiêm tốn của Giakêu; nơi mà những lũ tội nhân và các thánh tìm gặp nhau với Thiên Chúa trong tình huynh đệ. Giáo Hội chuộc “những gì đã mất”.
Giờ đây, Giakêu có thể mang tên thật của mình: “Người thanh khiết”, người được thanh khiết hóa.
Giêrikhô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao TN 31-C178
Giêrikhô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan. Giêrikhô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêrikhô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới. Tất cả những hoa lợi đó hợp lại khiến nó trở nên một trong những trung tâm quan thuế lớn nhất trong cả xứ Palettin. Giêrikhô cũng là thành phố nổi tiếng về đức tin cũng như về không tin “Bởi đức tin tường thành Giêrikhô đổ xuống”, cũng bởi không tin đến mù quáng những tường thành đã được xây dựng lại để hình phạt đã giáng xuống trên người ương ngạnh. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành này, Ngài cũng phải chứng kiến cả đức tin lẫn không tin: sự không tin của dân chúng và đức tin của một người tên là Giakêu. Trong nước Palettin có nhiều loại thuế, và cách đánh thuế của họ là cơ hội thuận tiện cho những nhân viên thâu thuế làm giàu mau chóng. Tên Giakêu có nghĩa là “thanh khiết” nhưng dùng nó để chỉ con người người này thật không đáng chút nào. Những ai biết rõ ông sẽ gọi ông là tên ác ôn và có lẽ họ gọi đúng. Ông đứng đầu những người thâu thuế. Có thể có nhân viên thâu thuế lương thiện, nhưng như vậy ông ta sẽ phải nghèo. Các người thâu thuế thường làm giàu bằng tống tiền và tham ô. Giakêu là một người đã tiến tới mức cao nhất trong nghề nghiệp nhưng cũng là người bị khinh ghét nhất trong vùng.
1. Giakêu giàu có nhưng không vui thỏa.
Dĩ nhiên ông cô đơn trơ trọi vị đã chọn con đường làm cho mình thành một con người bị xã hội xa lánh. Ông đã nghe nói về Đức Giêsu hay tiếp nhận các người thâu thuế và những tội nhân và ông cũng muốn thử xem thái độ của Ngài đối với ông. Bị mọi người khinh chê ghét bỏ, ông tìm đến với tình yêu Chúa.
2. Giakêu quyết định nhìn xem Chúa Giêsu và không muốn để bất cứ điều gì cản trở mình.
Đối với Giakêu, trà trộn với đám dân chúng là một việc đòi hỏi nhiều can đảm, bởi nhiều người sẽ lợi dụng cơ hội đó để tặng anh chàng thâu thuế lùn tịt này một cái đá, một cái đấm, một cái xô đẩy… Đây là một dịp may mà họ không bỏ qua đâu! Ngày đó Giakêu có thể bị chen lấn, xây xát, ông sẽ không thể nhìn thấy Chúa Giêsu và đám dân chúng lấy làm khoái chí khi làm cho Giakêu không thể thấy. Vì thế ông đã chạy trước trèo lên cây sung, đó là thứ cây thường mọc bên đường, có nhiều lá cho bóng mát rất dễ trèo vì thân ngắn và nhiều cành tỏa ra tứ phía. Mọi sự đều khó khăn cho Giakêu, nhưng con người thấp hèn này có can đảm của con người tuyệt vọng.
Thiện chí của ông được đền đáp bất ngờ, vì khi Chúa Giêsu tới chỗ ấy, Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Đây là lần duy nhất Chúa Giêsu tự mời Ngài làm khách, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài luôn sẵn sàng trú ngụ trong những tấm lòng mở rộng để tiếp đón Ngài. Có người bảo rằng Giakêu đã “theo đạo” trước khi ông xuống tới đất. Chắc chắn đã có một sự thay đổi lớn lao trong lòng ông khi ông biết rằng Chúa Giêsu đã biết ông tường tận, và ông đoán được Chúa sẽ làm gì cho mình.
3. Giakêu đã nhân cơ hội để tỏ cho xã hội của ông biết rằng ông đã được thay đổi.
Khi Chúa Giêsu nói với ông rằng hôm nay Ngài sẽ đến nhà ông, và khi ông đã khám phá ra rằng mình đã gặp được một người bạn mới rất tuyệt diệu, lập tức ông có một quyết định. Ông đã quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm. Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới buộc phải đền gấp bốn (x, Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5. Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải. Giáo sĩ Boreham có kể một chuyện đáng sợ. Trong một buổi họp kia, khi vài bà đứng lên làm chứng ơn phước đã được ban, có một bà ngồi câm lặng buồn rầu. Người ta mời bà làm chứng đứng lên thì bà từ chối. Khi hỏi lý do, bà trả lời: “Trong số những bà vừa đứng lên làm đó có bốn bà nợ tiền tôi mà tôi và gia đình tôi đang đói lắm vì không có tiền mua thức ăn”. Lời chứng sẽ hoàn toàn vô giá trị nếu không được bảo đảm bằng hành động thực tế xác chứng cho sự thành thực của lời nói. Chúa Giêsu không đòi sự thay đổi trong lời nói, nhưng Ngài đòi hỏi sự thay đổi trong đời sống.
4. Câu chuyện chấm dứt bằng lời câu bố long trọng: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
Chúng ta phải luôn cẩn thận để hiểu ý nghĩa của chữ “mất” này. Trong Tân ước, chữ mất không có nghĩa là bị đoán phạt hay kết án, mà chỉ có nghĩa “ở sai chỗ”. Một cái gì mất là khi nó ra khỏi chỗ riêng của nó, ở vào chỗ không đúng của nó. Một người lạc mất là khi người đó lìa khỏi Thiên Chúa, và người đó được tìm thấy khi người đó bước vào chỗ thích hợp của mình như một người con vâng phục trong nhà và gia đình của cha mình. Bởi tin vào Chúa Giêsu, người thâu thuế thành Giêrikhô đã chứng tỏ mình là con cháu của Ápraham “Cha của mọi kẻ tin”. Lòng tin cậy nơi Chúa Giêsu đem lại ơn cứu rỗi dành cho tất cả mọi người, cả cho những kẻ thấp hèn, tuyệt vọng và khinh miệt nhất.
Một đại đức ở tỉnh Vĩnh Phúc, sư Thích Thanh Toàn, sau khi được Giáo hội Phật giáo chấp thuận TN 31-C179
Một đại đức ở tỉnh Vĩnh Phúc, sư Thích Thanh Toàn, sau khi được Giáo hội Phật giáo chấp thuận cho xả giới hoàn tục vì bị cáo buộc ‘gạ tình’, đã công khai với báo chí ông có khối tài sản khoảng 200 đến 300 tỷ đồng bao gồm tiền, vàng, xe, nhà đất, trang trại… Đại Đức Thích Thanh Toàn còn vui mừng bày tỏ ông sẽ lập gia đình và ăn chơi xả láng. . . Nhưng điều đó đã không thành, vì Giáo hội Phật giáo quy định kẻ đi tu thì không có quyền trên tài sản được công đức cho Chùa … ông phải ra về tay trắng trong ê chề.
Thành thực mà nói nhiều người đã không nhìn thấy người đi tu dám sống từ bỏ. Ngược lại, đôi khi lại thấy người đi lại luôn miệng cần tiền và tìm mọi cách vun quén của cải từ dân chúng. Người ta thấy người đi tu tích luỹ nhiều hơn ban phát. Người đi tu vẫn còn đầy tham sân si mà dường như chưa bỏ được bụi trần.
Ở đời chỉ những ai dám từ bỏ lòng tham và từ bỏ của cải thì mới thấy tâm hồn họ thanh thoát bình an. Chính tinh thần từ bỏ mới giúp họ sống không vì lợi ích bản thân và dám sống vì lợi ích mọi người.
Chúa Giê-su hôm nay khen ngợi Gia -kêu. Ông có quá khứ tham tiền. Ông có quá khứ sống ích kỷ và hưởng thụ bất chính trên đồng tiền không do mồ hôi của ông. Nhưng điều mừng là ông sám hối và từ bỏ. Qua Chúa Giê-su ông công khai sám hối và sẵn lòng đền bù cách tương xứng những thiệt hại do mình gây ra. Ông còn dám từ bỏ địa vị mình để từ nay ông sống thanh thoát khỏi danh lợi thú trần gian. Ông còn hứa sẽ sống một cuộc đời đầy ý nghĩa là cho đi tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo và bất hạnh.
Đây là niềm vui của Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ tích góp, chỉ biết vun quén, và vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Khi gặp Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.
Cuộc sống đôi khi cũng làm cho chúng ta có đôi chút tham lam. Có những khi trong tâm trí chúng ta trỗi dậy lòng ham muốn của cải người khác. Cũng có những khi chúng ta đã sử dụng của cải một cách bất chính. Cũng có những khi chúng ta đã biến của chung thành của riêng. . .
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi ai cũng có, điều quan trọng là có dám như Gia-kêu để làm lại từ đầu. Để sám hối, để đền bù thiệt hại và để từ bỏ những cái không thuộc về mình cho xã hội hay Giáo hội hay không?
Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Và xin cho chúng ta biết can đảm sửa lại lỗi lầm khi dám công khai nhìn nhận tội và dám đền bù thiệt hại mà mình đã gây nên. Amen
Trong tác phẩm nổi tiếng Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables), văn hào Victor Hugo miêu tả TN 31-C180
Trong tác phẩm nổi tiếng Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables), văn hào Victor Hugo miêu tả câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi khinh dể vì bị mọi người xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; vào nhà trọ, thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; đi qua lũ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức Giám mục Myriê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao, rồi chuồn mất. Nhìn thấy bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và họ nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời.” Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ từ một tên tội phạm trở thành một người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục Myriê.
Câu chuyện trên đây có điều gì đó rất giống với câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca trình thuật lại biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Ở đó có một người tên là Dakêu. Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Khi Chúa Giêsu đi qua, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu. Thấy thế, Chúa Giêsu bảo ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Sau khi đón tiếp Chúa, ông tuyên bố rằng: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (x. Lc 19,1-10).
Qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Luca muốn minh chứng cho chúng ta thấy những yếu tố làm nên cuộc hoán cải kỳ diệu của Dakêu.
1- Lòng thương xót của Thiên Chúa
Yếu tố thứ nhất phải nói đến đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện qua những hành vi cứu độ và rất nhân bản của Chúa Giêsu đối với ông Dakêu . Bất chấp lý lịch ‘không mấy trong sáng’ của ông, Chúa Giêsu không nhìn ông với cái nhìn loại trừ và khinh bỉ như những người Do Thái; Người đã chủ động gặp ông, gọi tên ông và đến nhà ông dùng bữa. Luca muốn diễn tả sự hiện diện của Chúa Giêsu tại nhà ông chính là sự hiện diện của một Thiên Chúa cứu độ. Người là hiện thân của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ. Người đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất (Lc 19,10). Quả thế, Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa say mê con người, khát khao cứu độ con người; bởi đó, Người đã đi bước trước trong việc tìm kiếm, gặp gỡ và cứu độ con người. Chính lòng thương xót đó đã đụng chạm con tim của Dakêu và biến đổi ông. Đây là yếu tố quyết định làm nên cuộc hoán cải lạ lùng nơi Dakêu cũng như nơi biết bao tội nhân trong lịch sử của Giáo Hội.
Quả vậy, Thiên Chúa luôn mong muốn các tội nhân hoán cải. Người đi bước trước để giúp họ trở về. Cũng như vị giám mục trong câu chuyện trên đã hành xử theo lòng tốt, nhờ đó đã hoán cải tên cướp Văn Giang. Thiên Chúa không hành xử với tội nhân theo luật công bình, nhưng là theo lòng thương xót để tạo cơ hội giúp họ hoán cải. Đây là yếu tố của lòng thương xót, yếu tố của ân sủng.
2- Sự đáp trả của con người
Yếu tố thứ hai là sự thiện chí của Dakêu hay nói đúng hơn chính là sự cộng tác của ông. Dẫu là một người lùn, lại bị liệt vào hàng tội lỗi vì nghề thu thuế, bị loại trừ và khinh bỉ, nhưng Dakêu đã biết tìm mọi cách để vượt lên những giới hạn đó để được thấy Chúa. Những hành động của ông minh chứng ông là một người rất có thiện chí: “Trèo lên cây sung,” “tụt xuống để đón Chúa vào nhà,” “tiếp đãi Chúa” và nhất là “lấy tài sản bố thí và đền bù gấp bốn cho những ai thiệt hại.” Luca cho thấy những hành vi này diễn tả sự khát khao, sự đón nhận và cộng tác của ông với ơn Chúa. Sự thiện chí này là điều kiện cần thiết để cho ơn Chúa sinh hoa kết quả. Từ một “người tội lỗi,” bây giờ ông Dakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Ápbraham.”
Như thế, ân sủng kết hợp với sự cộng tác của con người tạo nên một cuộc đổi đời, một sự hoán cải kỳ diệu nơi Dakêu. Đó là hai yếu tố cần thiết cho mọi sự hoán cải. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu chuộc con, cần phải có con.”
3- Hoa trái của hoán cải
Hoa trái của hoán cải là trở về với Thiên Chúa và hướng tới một đời sống công bình, huynh đệ và bác ái đối với tha nhân như trường hợp Dakêu. Sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu tại nhà mình, ông quyết định lấy phân nửa tài sản của ông mà cho người nghèo và xin đền gấp bốn cho những người ông đã chiếm đoạt của cải của họ (x. Lc 19,8). Về điểm này, luật Môsê buộc phải đền trả những gì đã chiếm đoạt của người khác hơn một phần năm. Trong khi đó, luật Rôma buộc phải đền gấp bốn. Dakêu thực hiện theo luật này. Ngoài ra, ông còn sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo. Quả thế, sự biến đổi từ bên trong con người phải được thể hiện ra bên ngoài, như là hoa quả của việc hoán cải. Rõ ràng ông có một sự hoán cải tận căn, thay đổi não trạng, cách nghĩ khi không coi tiền bạc là trên hết, ông thay đổi con tim khi không còn bám víu và nô lệ tiền bạc và địa vị, ông thay đổi đời sống ích kỷ khi hướng tới tha nhân bằng đời sống công bình và bác ái.
Qua câu chuyện hoán cải của Dakêu, một đàng, chúng ta được mời gọi hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa; đàng khác, noi gương Dakêu, chúng ta hãy cố gắng hết mình, làm hết sức để cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải bản thân cũng như tha nhân. Như một tác giả tu đức nói rằng: để được cứu độ, chúng ta hãy để cho Chúa làm nơi chúng ta 100% do ân sủng Chúa và đồng thời chúng ta phải làm hết sức mình 100% do nỗ lực cá nhân mỗi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến viếng thăm ngôi nhà mỗi người và mang ơn cứu độ cho chúng ta để mỗi người cũng trở thành những Dakêu mới cho cuộc sống hôm nay. Amen!
Cuộc sống bộn bề với trăm công nghìn việc làm cho con người quên đi cùng đích của đời mình TN 31-C181
Cuộc sống bộn bề với trăm công nghìn việc làm cho con người quên đi cùng đích của đời mình là gì. Con người ngày hôm nay chỉ thích tìm kiếm những gì nhằm thỏa mãn bản thân, nhưng cuối cùng mọi thứ đều không thể làm cho họ thỏa mãn ước mơ cuộc đời, cho dù họ kiếm được nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, công thành danh toại… Và thử hỏi trong số những người đi tìm sự khao khát ấy, có bao nhiêu người đã tìm được hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình.
Hình ảnh Gia-kêu trong đoạn Tin mừng của thánh Luca 19, 1 – 10 là một bằng chứng cụ thể cho cuộc sống của con người ngày hôm nay. Cuộc sống của ông có vẻ làm cho những ai khao khát sự thành công ở trần gian đều mơ ước. Nhưng đổi lại ông được gì? Sự khinh bỉ, sỉ nhục, ganh ghét của đồng bào mình. Điều này có làm cho ông thật sự hạnh phúc? Tâm hồn ông có thật sự bình an khi hằng ngày phải đối diện với chính lương tâm của ông? Chắc chắn một điều rằng, ngày nào đó ông cũng mong thoát khỏi sự khốn khổ bất hạnh này. Và ngày đó đã đến với chính cuộc đời ông, ngày mà Giêsu xuất hiện. Ở giữa đám đông, chẳng có ai thèm để ý đến ông thì ông lại là người được Giêsu để ý đến. Không ai nhìn thấy ông nhưng chính Chúa lại thấy ông. Ngày hạnh phúc đã đến với ông. Đối với ông chẳng còn niềm hạnh phúc nào có thể sánh ví được. Vì thế, ngày hôm ấy, ông đã sẵn sàng cho người nghèo phân nửa tài sản của ông, và sẽ đền gấp bốn nếu ông đã chiếm đoạt của ai cái gì (x.Lc 19, 8).
Điều gì đã làm thay đổi cuộc đời ông cách mạnh mẽ như vậy? Từ một con người đã bị dân chúng xầm xì là người tội lỗi (x.Lc 19, 7) thì nay ông đã được Chúa ở lại nhà (x.Lc 19, 5). Phải chăng đó là sự gặp gỡ mà ông hằng khao khát và tiềm kiếm bấy lâu nay. Chỉ có thể là sự gặp gỡ với Chúa thật sự, mới có thể làm thỏa mãn tâm hồn ông. Sư hiện diện của Chúa đã phá vỡ rào cản giữa ánh sáng của lòng bác ái và bóng tối của sự thù hận. Ông đã trả lại cho Chúa và tha nhân những gì không thuộc về ông. Đối với ông bây giờ Chúa đã là đủ rồi.
Hình ảnh Giakêu đâu đó cũng ẩn hiện nơi mỗi người chúng ta, những người đang sống trong ơn gọi Kitô hữu. Chúng ta nhiều khi tôi cũng loay hoay tìm kiếm những gì thuộc về thế gian mà quên mất cùng đích của đời mình là gì? Hằng ngày, chúng ta vẫn đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, rước Chúa đều đặn nhưng phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thật sự bình an. Và cho dù chúng ta đã làm nhiều việc mang danh Chúa, nhưng chúng ta vẫn không cảm thấy thỏa mãn là bởi vì chúng ta vẫn còn tìm kiếm điều gì đó cho bản thân mà quên mất rằng mọi sự thế gian này chóng qua như hoa sớm nở chiều tàn. Chúng ta quên mất rằng chỉ có Chúa mới là cùng đích và là niềm hi vọng của đời ta. Đã bao lần chúng ta đã không tìm kiếm Chúa nơi những công việc ta đang thi hành. Chúng ta đã không nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Những việc ta làm có thể chỉ là thói quen, chưa phải là hành động của đức ái. Chúng ta hãy mở rộng lòng để cho Chúa đến và hướng dẫn ta như Chúa đã làm cho Giakêu khi xưa, nhưng với điều kiện là chúng ta phải luôn khao khát tìm kiếm Người với tất cả tấm lòng thành.
Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con như Chúa đã làm cho Giakêu được trở nên bạn nghĩa thiết của Ngài. Chỉ khi nào chúng con cảm nghiệm được Chúa thật sự là nguồn hạnh phúc của đời chúng con thì chúng con chẳng còn tìm kiếm gì nữa ngoài Chúa. Xin hãy ở lại với chúng con và hướng dẫn chúng con trong mỗi giây giây phút sống, để những gì chúng con làm đều là để sống theo thánh ý Chúa, để cuộc đời chúng con sẽ ngày càng hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Amen.
Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu vào thành Giêrikhô, ta choáng ngợp trước một “rừng người” đang TN 31-C182
Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu vào thành Giêrikhô, ta choáng ngợp trước một “rừng người” đang chen lấn nhau để nghe Thầy giảng. Ai cũng muốn được đến thật gần Thầy Giêsu. Cùng đi theo Thầy đó nhưng có mấy ai diễm phúc được đón
Người vào nhà như ông Dakêu hôm nay.
Ông Dakêu là một người đứng đầu những người thu thuế và rất giàu có. Ông nghe danh tiếng Thầy và muốn được nhìn thấy Thầy. Lòng khao khát của ông rất chân thành. Chen lấn mãi mà vẫn không lại gần Thầy được, ông bèn chạy lên trước đám đông, trèo lên cây sung để nhìn Thầy và ở đó chờ cho đến khi Thầy đến. Ông đã nhìn ngắm vị Thầy mình ngưỡng mộ trong âm thầm như thế. Đám đông chẳng hề biết có một người giàu sang đang ngồi trên cây sung. Thế nhưng, Thầy Giêsu biết ai là người thành tâm tìm gặp mình và Người biết rõ tấm lòng của họ. Người đã dành cho ông Dakêu một món quà rất bất ngờ, vượt quá điều mà ông mong ước. Dừng lại dưới gốc cây sung, Thầy ngước nhìn ông và gọi: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông đã vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Người ta biết ông là tên thu thuế tội lỗi nên xì xào bàn tán: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc 19, 7). Lời ấy vừa nhắm thẳng để trách móc Thầy Giêsu nhưng cũng vừa để khinh dể ông Dakêu. Hơn ai hết, ông biết thân phận tội lỗi khốn cùng của mình. Ông không ngần ngại trước lời dèm pha chỉ trích của đám đông đang ganh tị với mình, bởi ông nhận thấy Thầy Giêsu đã thương xót đến mình. Tình thương của Thầy cho ông một niềm tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng lớn lao để có thể đổi đời.
Trước đám đông, ông thưa cùng Thầy: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Lòng sám hối phải được diễn tả rõ ràng qua hành động quyết liệt như thế. Chỉ khi cảm nhận mình được Chúa đón nhận, ta mới có thể hoán cải. Cũng như ông Dakêu, ta không ngờ rằng chính khi ta cố gắng để tìm gặp Chúa, chính Ngài đã tìm gặp ta trước. Ngài gọi chính tên ta và nói lên ý định đầy yêu thương của mình: “Hôm nay Ta phải lưu lại nhà con”. Nhiều người đã nhìn ta với cái nhìn khinh bỉ vì họ biết những yếu đuối của ta. Nhiều lần, ta đã cảm thấy bất lực khi phải vượt qua những rào cản từ phía “đám đông” và rào cản từ chính mặc cảm tội lỗi của mình. Nhiều lần, ta đã chỉ nghe tiếng Chúa nói qua trung gian, ta mong được gặp thấy Chúa. Món quà bất ngờ mà Chúa đã dành ông Dakêu hôm nay khiến ta cũng háo hức biết mấy. Để rồi, trong cuộc sống, dù nhiều lần vấp ngã, ta cũng sẽ can đảm tìm gặp Chúa, để nhìn về Thiên Chúa thiết tha nguyện xin, ơn thiêng của Chúa sẽ đỡ nâng ta. Chính khi tình yêu tìm gặp Đấng là Tình Yêu, tâm hồn ta sẽ được đổi mới.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ lòng con khao khát Chúa. Chính Chúa đã tìm gặp con trước vì Chúa yêu con. Xin cho con mỗi ngày biết hướng lòng về Chúa để kiên trì vượt qua chính mình mà gặp Chúa. Con tin, Chúa sẽ vui lòng sống trong con và biến đổi con. Amen.
Theo lẽ tự nhiên, người giàu có thường tìm cách để giàu có hơn. Người nghèo thì lo làm sao mình TN 31-C183
Theo lẽ tự nhiên, người giàu có thường tìm cách để giàu có hơn. Người nghèo thì lo làm sao mình bớt nghèo đi. Người trẻ thì tìm kiếm những cuộc vui chơi mới lạ theo sở thích, người Già thì tìm sự an nhàn sau một đời lao nhọc. Còn tôi, tôi tìm gì, tôi có bao giờ đi tìm Chúa không?
Chúa Giêsu không bao giờ ngưng tìm kiếm con người. Còn con người ngày nay, mấy ai đi tìm gặp Chúa như ông Dakêu. Ông Dakêu là người đứng đầu những người thu thuế giàu có. Thời Chúa Giêsu, những người làm nghề thu thuế được khép vào hạng những người tội lỗi. Bởi đó, ông không thể tránh khỏi ánh mắt khinh bỉ của dân chúng. Dầu vậy, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, ông vội tìm cách để biết Chúa Giêsu là ai. Với lòng háo hức và lòng khao khát muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã quên đi thân phận giàu có, quên đi mặc cảm tội lỗi. Với thân hình nhỏ bé, ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu được vì dân chúng rất đông. Ông liền chạy tới phía trước, vượt qua đám dân chúng đang chen lấn và cố gắng leo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giêsu.
Lòng khao khát tìm cách để thấy Chúa Giêsu nơi ông đã chạm tới chính tấm lòng của Chúa Giêsu, vì chính Người cũng đang “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (x. Lc 19,10). Thật bất ngờ, điều ông nhận được còn vượt xa những gì ông mong đợi. Chúa Giêsu đã đứng dưới cây sung mà nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người, mặc cho dân chúng xầm xì. Chúa đã vào nhà ông, nói đúng hơn Người đã đi vào tâm hồn của ông và làm nó biến đổi. Sự biến đổi bên trong của ông biểu lộ ra lời nói và hành động bên ngoài. Ông nói: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Đó không phải là lời hứa lúc ông cao hứng nhưng là lời thốt ra từ trái tim. Ông Dakêu đón Chúa vào nhà một ngày, nhưng ông đã đổi một cuộc đời đó là đời ông đã hoàn toàn đổi mới, hoàn toàn sống như Chúa Giêsu mong đợi. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa Giêsu vào lòng không biết bao nhiều lần, đời chúng ta đã nên giống Chúa Giêsu chút nào chưa? Người luôn luôn tìm kiếm và muốn ở trong lòng chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Khi rước Chúa Giêsu là chúng ta cũng rước Chúa Cha và Chúa Thánh Thần vào trong lòng mình. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Ngoài ra, Chúa Giêsu vẫn đến và ở lại với mỗi người qua những người thấp bé, tội lỗi và bị bỏ rơi. Ngài nói: “Ai đón tiếp em nhỏ này vì danh Thầy là đón tiếp chính Thầy” (Lc 9, 48). Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải chết nhưng được ăn năn và được sống. Nhìn lại chính mình, chúng ta có muốn rước Ngài vào trong tâm hồn của mình không? Chúng ta có tìm gặp Ngài dù chỉ một lần trong ngày không hay chúng ta chỉ thích lui tới những quán cà phê, thích tới những khu vui chơi giải trí? Còn Chúa Giêsu, Ngài vẫn đang chờ đợi chúng ta rước Ngài vào nhà mỗi ngày.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn tìm kiếm và hằng muốn ở lại trong chúng con. Xin Chúa ban ơn cho chúng con vững tin và rước Chúa ngự vào nhà. Xin cho chúng con được đổi mới như lòng Chúa mong muốn. Amen.
Nhân từ là một đức tính cần thiết cho mỗi người trong chúng ta. Bao dung, tha thứ cho người khác TN 31-C184
Nhân từ là một đức tính cần thiết cho mỗi người trong chúng ta. Bao dung, tha thứ cho người khác khiến ta có được sự bình yên đáng có, được đáp trả lại bằng tình thương của mọi người. Chúa Giê-su là người Cha đầy lòng từ bi nhân hậu. Người luôn tha thứ cho mọi tội khiên của chúng ta khi chúng ta thật lòng ăn năn sám hối.
“Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” ”. (Lc 19, 5)
Da-kêu là một người thu thuế giàu có trong vùng Giê-ri-khô, là người mà trong thành khinh chê, là người mà định kiến thời đó cho là tội lỗi, là người không đáng được Chúa viếng thăm và ghé vào nghỉ chân nơi nhà ông. Nhưng không Chúa lại chọn nhà của người tội lỗi đó, của Da-kêu, Người không quan tâm đến người khác nói gì, cũng chẳng cần biết họ nghĩ như thế nào? Liệu có lý do nào để giải thích hành động của Đức Giê-su? Nếu là một kẻ trong đám đông hôm ấy, liệu có chắc tôi và các bạn nghĩ và nói gì?
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta không biết tha thứ cho người khác cũng như cho chính bản thân mình. Có những khi người khác gây ra cho chúng ta một sự tổn thương dù nhỏ bé đến đâu trong lòng con không thật sự tha thứ cho họ trong khi môi miệng đã nói lời tha thứ. Và ngay cả khi chúng ta gây ra sự tổn thương cho người khác, dù cho họ đã tha thứ chúng ta và sự tha thứ làm cho lòng họ cảm thấy bình an nhưng chính bản thân ta cũng không tha thứ được cho chính mình vì những gì mình đã gây ra. Sự tha thứ cho người khác sẽ làm cho người tha thứ cảm thấy bình an và vui vẻ hơn trong cuộc sống và trong các mối quan hệ với tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ngự vào nhà của ông Da-kêu, nhà của một người tội lỗi vì lòng nhân từ và Người đã giúp ông trở về, về với con người thánh thiện. Lạy Chúa xin Chúa cũng ngự vào nhà con, ngự vào tâm hồn con cách thiêng liêng để con cũng được như ông Da-kêu, được biến đổi, được quay trở về vì con là người tội lỗi luôn cần đến tình thương và lòng vị tha của Người. Amen.
Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
Suy niệm:
Tâm hồn mỗi người chúng ta luôn khao khát tìm kiếm Chúa để được ơn cứu độ và có sự bình TN 31-C185
Tâm hồn mỗi người chúng ta luôn khao khát tìm kiếm Chúa để được ơn cứu độ và có sự bình an trong một ngày sống. Nếu chúng ta muốn gặp gỡ Ngài, Ngài có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, sớm hay muộn gì Ngài sẽ gặp chúng ta như đã gặp Người phụ nữ Samari và Dakêu. Nhưng gặp gỡ này chỉ có thể thay đổi được, nếu chúng ta khao khát đợi chờ Ngài. Chính vì Dakêu khao khát Ngài đã trở nên Đấng cứu độ cho ông.
Chúa Giêsu đã đến loan báo Tin Mừng ngay tại nhà ông Dakêu: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham” (Lc19,9). Giakêu, một nhân vật có đủ: sự giàu sang, chỗ đứng, quyền thế trước mặt người đời nhưng trước Nhan Thánh Chúa và dân tộc mình thì Dakêu vẫn cảm thấy mình là một tội nhân, thiếu tình thương và sự sống của Chúa. Nhân loại ngày nay có đầy đủ tất cả vật chất, của cải cần thiết cho cuộc sống con người. Chúng ta hay đi tìm chỗ ở cho mình thật cao sang, nhưng chỗ gần nhất thì không biết tìm đến là ngay chính trong tâm hồn của mình. Một chân lý nữa lại diễn ra: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc19,10). Cho thấy, Thiên Chúa luôn đi tìm và cứu những con người tội lỗi. Trong cuộc sống của thời đại này, con người bị cuốn vào guồng sống vội, sống nhanh, sống bon chen, vội vã. Và hệ lụy đôi khi là một lối sống buông thả, đánh mất ý nghĩa về giá trị đích thực của đời người. Có nhiều người không dám, và không đủ nghị lực, niềm tin để đứng dậy và trở về “với Cha”. Nhiều bạn trẻ vì thú vui bên ngoài, đánh mất ơn nghĩa mật thiết với Chúa, thờ ơ, không nhìn ra tội mình đã phạm làm Chúa phải buồn. Mặc dù, Chúa vẫn hằng giang tay chờ đón những con người tội lỗi biết ăn năn trở về. Điều đó nói lên rằng, những ai khiêm nhường nhận mình là tội nhân thì đều được Chúa ban ơn cứu độ. Hãy chấp nhận ra đi tìm kiếm Ngài, khám phá tình yêu vô bờ bến của Ngài theo gương Dakêu mau chóng trở về. Để trong đời sống mau mắn khiêm nhường hoán cải những lầm lỗi phạm đến Chúa và mọi người. .
Ước gì chúng ta nhìn tha nhân bằng bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên thần linh hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống một con người công chính, ngay thẳng ở trước mặt Chúa. Khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari, Chúa cần đến nhà ông Gia kêu để nghỉ chân ban nhiều hồng phúc cho chúng con. Xin cho chúng con biết đền đáp những ơn lành Chúa hằng ban cho.Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, khám phá ra đốm lửa của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi, biết gặp gỡ Chúa mỗi ngày để chúng con trở về và thay đổi cuộc sống tội lỗi. Như Thánh Giáo Hoàng Gio an Phaolô II nói: “ Hỡi các bạn trẻ hãy để Thiên Chúa là ơn cứu độ và là nguồn hạnh phúc của các bạn”.
Tại Giê-ri-khô, ông Da-kêu được xếp vào loại người giàu có, nhờ cái nghề thu thuế. Ở trong vùng TN 31-C186
Tại Giê-ri-khô, ông Da-kêu được xếp vào loại người giàu có, nhờ cái nghề thu thuế. Ở trong vùng này, ai cũng đã biết rõ con người tham lam này. Và Da-kêu cũng thừa biết thiên hạ chẳng ưa thích gì ông ta, bởi vì ông đã làm những điều bất chính, thu gom của cải người dân để trục lợi cho bản thân với cái nghề cho vay nặng lãi. Dưới mắt bàn dân thiên hạ, ông ta là kẻ đáng bị quyền rủa và bị trừng phạt bởi việc làm gian tham của ông. Nhưng điều làm cho đám đông phải kinh ngạc bởi cách xử sự của Chúa Giê-su dành cho Da-Kêu, đã làm cho nhiều người xầm xì, bàn luận về việc của Chúa Giê-su ở lại nhà Da-kêu. Từ nguyên nhân này dẫn đến cuộc tranh luận không chỉ cho những người đi theo Chúa lúc bấy giờ mà còn là cho mọi người chúng ta suy gẫm về cách hành xử của Chúa Giê-su trước con người tội lỗi qua đoạn Tin Mừng của thánh Luca thuật lại hôm nay.
Chúng ta đi vào trang Tin Mừng thuật lại câu chuyện. Khi nghe tin Chúa Giê-su đi ngang qua, Da-kêu muốn biết Chúa Giê-su là ai? Vì ông đã được nghe danh tiếng của Chúa Giê-su lan truyền khắp nơi. Da-Kêu muốn được tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su. Ông đã chen vào đám đông. Nhưng vì quá lùn, ông phải trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giê-su. Thay vì, ông ta muốn gặp Chúa Giê-su, thì chính Chúa lại đi tìm ông ta trước. Chúa Giê-su ngước nhìn lên cây sung và bảo cho Da-kêu: ” Này anh Da-Kêu xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh.” Ông mừng rỡ tụt xuống và rước Ngài về nhà. Mọi người thấy vậy sửng sốt và xầm xì với nhau: ” Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Một câu nói mỉa mai, đánh tiếng và chê bai của đám đông khi Chúa ghé nhà Da-kêu.
Thật sự, những thắc mắc và nghi ngờ của đám đông là có lý do, bởi vì họ đã biết rõ Da-kêu là người xấu. Một người thánh thiện, tốt lành không có thể đi chung với con như tội lỗi như Da-kêu. Người đời thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Còn Chúa Giê-su thì làm ngược lại cách nghĩ của đám đông đang vây quanh Ngài. Con người vốn mang xã hội tính: kẻ thù thì phải trừng trị, loại trừ, kẻ gian ác thì phỉa diệt vong và phải phân biệt tốt xấu rõ ràng. Cho nên, những người Pha-ri-siêu thường tách biệt những người thu thuế và tội lỗi ra khỏi cộng đồng của họ. Cụ thể, câu chuyện người Pha-ri-siêu và người thu thế vào đền thờ cầu nguyện trong tuần qua. Người Pha-ri-siêu luôn tự đắc mình là người thánh thiện, công chính để rồi kết án người khác, giữ đạo theo kiểu hình thức bên ngoài, khoát trên mình chiếc áo thụng chũm chọe để được người ta khen ngợi và tán thưởng, chúng giống như mồ mả tô vôi, chỉ đẹp bên ngoài nhưng lòng dạ thì xấu xa.
Tội của Da-kêu, ai cũng biết, ông ta không dám rước Chúa vào nhà ông vì ông không xứng đáng. Nhưng Chúa Giê-su đã nhận ra con người của ông, Chúa cần được đến với ông, vì Da-kêu cần chữa lành những vết thương tội lỗi của ông, cần được tắm rửa tội lỗi trong dòng suối mát tình yêu Thiên Chúa. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương cho những con người tội lỗi. Và chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể làm biến đổi ông ta thành con người mới. Cha mẹ không thể ghét bỏ đứa con mình, cho dù nó có bất hiếu và ngược đãi với mình, cha mẹ vẫn yêu thương nó, tha thứ cho nó, kêu nó trở về nhà. Cha mẹ thế gian còn biết cho con mình những điều quý giá, thì tại sao chúng ta lại không nhận ra Thiên Chúa là tình yêu vô biên dành cho hết tất cả mọi người chúng ta. Khi ta nhận ra được lòng thương xót của Thiên Chúa là lúc chúng ta sống trong tình yêu đó với tha nhân. Chúng ta sẽ nhìn cuộc đời tốt đẹp hơn và bớt đi tính ích kỷ hẹp hòi với tha nhân.
Tình yêu Thiên Chúa thì không giới hạn bởi rào cản, bởi thành kiến, cách nhìn và cách đánh giá của người khác qua dáng vẻ bên ngoài, nhưng là tận nơi cõi lòng. Hành trình cuộc đời của thánh Matheu, ngài cũng là một người thu thuế và được Chúa gọi đi theo Ngài, để rồi từ bỏ nghề thu thuế để đi làm môn đệ của Chúa. Chúa luôn tìm kiếm con người và tạo điều kiện để có cơ hội trở về. Trái lại, những người Pha-ri-siêu thì loại trừ không chỉ là những người thu thế mà cả những người phong cùi ra khỏi cộng đồng. Họ tin vào Thiên Chúa, nhưng lại không sống yêu thương và tha thứ, đã nhiều lần bị Chúa Giê-su lên án: “đạo đức giả”.
Phải chăng lý do nhiều người xầm xì bảo Chúa Giê-su không được đến ăn uống với người tội lỗi cũng từ quan niệm và cách nhìn của con người loại trừ. Với lối sống và quan niệm vị kỷ như thế, thì việc Chúa Giê-su làm không thể tránh khỏi bởi dư luận bởi những người giữ luật quá khắc khe và tỉ mỷ, chính thế họ đã bóp chết lòng từ bi và khoan dung với tha nhân. Tôi thiết nghĩ câu chuyện ông Da-kêu hôm nay, Chúa Giê-su đã làm một cuộc cách mạng để làm thay đổi quan niệm, cách nhìn và thành kiến đối với những người làm nghề thu thuế mà hay đúng hơn là những người tội lỗi. Chính sự quan tâm đặc biệt của Chúa dành cho Da-kêu lại là cái cớ làm cho tính ganh tỵ của con người. Họ ganh tỵ vì không được Chúa viếng thăm nhà mình nên họ không bác ái đủ với ông ta. Nhưng với Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài luôn tìm kiếm những con chiên lạc, ốm đau bệnh tật để đưa chúng trở về đàn chiên. Ngài nói: “Bệnh nhân mới cần thầy thuốc”.
Hình ảnh Da-kêu có thể làm đại diện cho hàng triệu người trên thế giới hôm nay, họ cũng đang phải chịu bởi sức ép với cái nhìn thành kiến của con người của một xã hội đã cài đặt lên con người, để rồi chỉ biết kết án và thiếu lòng bác ái với những con người bị sa ngã. Họ cần có một ai đó đón nhận và cho họ có cơ hội để nhận ra giá trị tình yêu đích thực xuất phát từ tình yêu giàu lòng xót thương của Thiên Chúa. Họ cũng cần được chữa lành và cần tìm ra ánh sáng chân lý trong cuộc đời này, như Da-kêu đã được Chúa chữa lành và được cứu độ. Một vĩ nhân đã nói ” Muốn thay đổi một người, thì bạn hãy đến với người đó. Nếu bạn xa lánh và tránh né họ, thì bạn chẳng bao giờ biến đổi được ai”.
Thật vậy, khi Da-kêu gặp được Chúa Giê-su, ông đã từ bỏ lối sống củ, bỏ đi lòng tham của cải bất chính, biết cải thiện đời sống. Thay vào đó, ông đem nửa gia tài của mình để phân phát cho người nghèo, nếu ông làm thiệt hại và chiếm đoạt của cải ai, ông ta đền gấp bốn. Hành động của Da-kêu đáng khen ngợi và cho chúng suy ngẫm. Tôi đã làm thiệt hại ai không? Tôi có tham lam lấy tiền tiền bạc của cải người và làm điều bất chính không?
Tóm lại, Da-kêu được Chúa biết đổi bởi vì được Chúa yêu thương, tha thứ và đồng cảm được ước muốn được cải thiện đời sống, ông ta đã mạnh dạn đến với Chúa, và Chúa ở lại nhà Da-kêu, nhờ đó tâm hồn của ông ta được thay đổi. Vì Thiên Chúa luôn là Người Cha tốt lành, Ngài biết được nhu cầu của con cái Ngài. Chúa Giêsu dùng tình yêu để hoán cải Da-kêu.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Xin Chúa biến đổi tâm hồn con như Da-kêu. Khi con được biến đổi, thì đời sẽ thay đổi. Amen.
Trên hành trình rao giảng Tin mừng, một hôm Đức Giêsu tới thành Giêricô, Ngài nhìn thấy Giakêu TN 31-C187
Trên hành trình rao giảng Tin mừng, một hôm Đức Giêsu tới thành Giêricô, Ngài nhìn thấy Giakêu ở trên cây sung, và Giakêu bắt gặp ánh nhìn của Chúa, đời ông và gia đình được ơn biến đổi từ đây. Biến cố này làm nổi bậc lên dung mạo Thiên Chúa đầy lòng xót thương chủ động đi tìm con người. Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng. Thật vậy, để tìm được con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tính mạng.
Cũng vậy, để đi tìm con người, được Giêsu phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp. Phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa nhập thể làm người. Phải từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi khắp mọi miền đất nước. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.
Ngài đi tìm một Lêvi đang ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông về sau này trở thành tông đồ thánh sử. Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông sau này trở thành tông đồ dân ngoại.
Hôm nay, Chúa đến thành Giêricô, một thành phố lớn, tấp nập kẻ buôn người bán, lại có đám đông cùng đi theo. Trong thành phố này có người tên là Giakêu, ông khao khát được nhìn thấy Chúa, nhưng vì ông khiêm nhường chiều cao, nên vội vàng trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa. Thế nhưng, khi Chúa đi gần đến nơi thì nhìn thấy Giakêu trước, lại còn gọi rõ tên ông.
Chính lòng thương xót mà Đức Giêsu đi tìm Giakêu. Lòng thương xót của Đấng quyền năng đi tìm phàm nhân thấp bé. Lòng thương xót của Đấng Tạo hoá đi tìm thụ tạo thấp hèn. Và lòng thương xót của Đấng Cứu độ trần gian đi tìm tội nhân cùng khốn. Qua sự tìm kiếm này, Giakêu cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đã thay đổi đời ông.
Chúng ta ghi nhận rằng: Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người tội lỗi đến đâu đi nữa, thì tình thương của Ngài cao vời khôn ví phủ lấp muôn vàn tội lỗi. Tình thương Chúa luôn đi bước trước.
Thật vậy, Giakêu chưa nhìn thấy Chúa, thì Chúa đã nhìn thấy ông. Giakêu chưa lên tiếng, thì Chúa đã gọi đích danh ông: Giakêu hãy xuống mau. Giakêu chưa kịp mời, thì Chúa đã ngỏ lời đến thăm nhà ông “Hôm nay, Ta sẽ lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Giakêu chưa mở lời thú tội, thì Chúa đã nói lời tha thứ cho ông trước rồi “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19, 9).
Vì lòng thương xót mà Đức Giêsu nhìn tới Giakêu. Vì lòng thương xót mà Chúa đến thăm nhà Giakêu. Vì lòng thương xót nên Chúa tha thứ cho Giakêu. Chúa như người cha nhân hậu đầy lòng xót thương mong tìm đứa con trở về. Chúa như người mẹ hiền luôn bao dung tha thứ cho con mình, cho dù nó ngàn lần lầm lỗi.
Từ ánh nhìn quan tâm yêu thương của Chúa, đã làm trái tim ông Giakêu bừng lên ngọn lửa sám hối. Vì thế, ông đứng thẳng lên thưa cùng Chúa như một hành vi thú tội công khai: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần gia tài tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”(Lc 19, 8). Quả thật, ánh nhìn của Chúa có một năng lực cứu độ, có sức biến đổi lòng người.
Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh, là giá máu cứu chuộc của Chúa. Thật vậy, vì lòng thương xót nhân loại lỗi lầm, mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian, để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn thế nữa kìa. Là sau khi tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành, thì Thiên Chúa còn vui mừng biết bao. Hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc (Lc 15,6);; hãy mở tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải (Lc 15,10).
Anh chị em thân mến,
Giakêu nhận biết mình tội lỗi, nên ông tìm đến Chúa, thế nhưng, Chúa đã tìm thấy ông trước. Nhờ cuộc gặp gỡ này, mà đời ông và gia đình ông được ơn cứu độ.
Ước gì, qua biến cố Đức Giêsu gặp gỡ ông Giakêu hôm nay, xin cho mỗi chúng ta ngày càng cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa thương xót. Nếu chúng ta khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân bất xứng mọi bề, thì hãy noi gương ông Giakêu, là siêng năng tìm đến với Chúa mỗi ngày nơi nhà thờ này, để gặp gỡ Chúa qua Lời của Ngài; siêng năng gặp gỡ Chúa trong bí tích Thánh Thể và làm mới tâm hồn trong bí tích Hòa Giải. Từ nơi thánh thiêng này, mong sao chúng ta sẽ gặp được tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Hi vọng tâm hồn chúng ta được ơn đổi mới, hầu trở nên xứng đáng là con cái Chúa hơn. Amen.
Kinh Thánh Cựu Ước cho biết: “Từ nguyên thủy đã sinh ra những kẻ khổng lồ tiếng tăm lừng TN 31-C188
Kinh Thánh Cựu Ước cho biết: “Từ nguyên thủy đã sinh ra những kẻ khổng lồ tiếng tăm lừng lẫy, vóc dáng to cao, thạo nghề chinh chiến. Nhưng những người này, Thiên Chúa không chọn, cũng chẳng dạy cho con đường hiểu biết.” (Br 3:26-27) Thế nhưng Thiên Chúa lại chọn Israel.
Người ta luôn chú ý vóc dáng, nhất là phụ nữ, và người ta có câu: “Nhất dáng, nhì da.” Cái vóc dáng quan trọng vì là cái “đập vào mắt” người khác, ít khi người ta chú ý vẻ đẹp tâm hồn – và phải cần có thời gian mới có thể biết được. Thật chí lý khi tục ngữ nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Chắc chắn rằng cái gì TỐT thì ĐẸP, nhưng cái gì ĐẸP thì chưa chắc TỐT. Ngày nay, có lẽ vì quá chú trọng “bề ngoài” (đẹp, giàu, xài sang, nhà cao, xe xịn,…) nên người ta vẫn thường nói đùa mà thật: “Cái đẹp đè bẹp cái nết”. Có lẽ đó là nỗi đau của thời đại vì quá coi trọng vật chất – mặc dù chưa đến mức duy vật.
Mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa, với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, đồng thời có ba thiên chức (vương giả, tư tế và tiên tri). Thế nhưng người ta vẫn “kỳ thị” nhau đủ kiểu, vẫn “bên trọng, bên khinh,” kỳ thị rõ ràng chứ không “thoang thoảng” đâu. Trí tuệ hạn hẹp của phàm nhân thật nhỏ bé, nông cạn, vì thế mà càng dễ ảo tưởng và tự tôn.
Từ xa xưa, Kinh Thánh đã xác định: “Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất.” (Kn 11:22) Các chi tiết rõ ràng, rạch ròi. Cả vũ trụ còn chẳng là gì huống chi “hạt bụi phàm nhân” là mỗi chúng ta! Nhưng có vấn đề đáng lưu ý: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11:23) Đó chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh GH Gioan Phaolô II có “bài toán thần học” thế này: Sự đau Khổ + Lòng Thương Xót = Sứ Vụ. Lãnh nhận sứ vụ để phục vụ chứ không để thống trị hoặc hưởng tư lợi. Phục vụ là thương yêu, thương xót. Vì thế, đừng lạm dụng cụm từ “lòng thương xót” hoặc suy diễn theo ý riêng mình.
Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không thể không chạnh lòng thương xót. Sách Khôn Ngoan xác định: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì?” (Kn 11:24-25) Ba giả thuyết thật tuyệt vời. Chúng ta là tội nhân khốn nạn mà Ngài không ghê tởm, còn chết để cứu chuộc chúng ta. Vì thế, chúng ta không thể viện bất cứ lý do gì để mà tránh né yêu thương người khác.
Kinh Thánh là Lời Chúa, mọi điều trong đó đều được Thiên Chúa linh hứng. (2 Tm 3:16) Do đó, Lời Chúa luôn chính xác và rõ ràng: “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa.” (Kn 11:26) Gió, lửa và nước rất hiền và rất mềm, nhưng khi chúng “nổi điên” thì không ai có thể chống lại, dù là các phương tiện khoa học tân tiến nhất. Thật ngu xuẩn khi người ta huênh hoang nói rằng chống lũ lụt, thay trời làm mưa, hoặc vắt đất ra nước. Nói hay, nổ to, xạo giỏi, nhưng nào có làm được gì. Đúng là điếc không sợ súng!
Thực sự phải công nhận rằng tín nhân chúng ta thật may mắn khi có thể nhận biết Thiên Chúa, được Ngài ở với và ở trong chúng ta, đồng thời lại kiên nhẫn và vô cùng xót thương, mặc dù chúng ta chẳng ra gì, luôn muốn nổi loạn: “Quả vậy, lạy Đức Chúa, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kn 12:1-2) Chúa dễ thương hết sức, dễ thương tới mức chúng ta cảm thấy khó tin, đôi khi có vẻ như “không chịu nổi.” Nhưng tình trạng “không chịu nổi” có hai dạng: Một là không-thể-không-yêu-mến (dạng tốt), hai là phát tức vì ganh tỵ – kiểu như “nổi loạn” vậy (dạng xấu).
Từ xưa tới nay, không hề thấy một vị lập quốc nào hoặc vị lập đạo nào mà dám tuyên bố mình là Chúa, không chỉ Chúa mà Thiên Chúa, nhưng chỉ có Chúa Giêsu dám nói, dù bị tra khảo và bị giết chết cũng không thay đổi “lời khai” tại dinh Philatô và Caipha. Chỉ đơn giản thế thôi cũng đủ biết Chúa nào là Chúa thật. Còn những kẻ tuyên bố là “thiên tử” chỉ là những kẻ đại bịp bợm. Vì thế, chúng ta phải biết tạ ơn và mau mắn tôn vinh Thiên Chúa như Thánh Vịnh gia đã xưng tụng: “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.” (Tv 145:1-2) Chỉ có Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, vì Ngài là sự thật, và cho chúng ta biết thế nào là chân lý, đồng thời còn cho chúng ta biết “bí quyết” để được sống đời đời. Vì ghen tức mà người ta hèn hạ, hèn hạ vì hèn nhát, càng hèn nhát càng thủ đoạn, tìm đủ cách để bách hại những ai tin theo Chúa Giêsu Kitô.
Nghiên cứu cho biết rằng cứ 7 Kitô hữu thì có 1 người bị bách hại vì đức tin của mình, có gần 300 triệu Kitô hữu sống tại các miền đất bị bách hại. Sự gia tăng bách hại mạnh mẽ tại 20 quốc gia: Arập Sauđi, Burkina Faso, Camerun, Trung Quốc, Bắc Hàn, Ai Cập, Eritrea, Philippines, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Iraq, Myanmar, Niger, Nigeria, Pakistan, Cộng Hòa Trung Phi, Siria, Sri Lanka và Sudan. Thật đáng quan ngại về sự vi phạm nhân quyền mà các Kitô hữu phải chịu. Đó là cuộc tử đạo liên lỉ của Giáo Hội, xin Thiên Chúa che chở họ!
Đức Mẹ xác định: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:50) Như vậy, ngay từ thuở tạo thiên lập địa đã có Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, chứ không chỉ có từ khi Chúa Giêsu mặc khải lòng thương xót cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (1905-1938). Đó chỉ là thời điểm cần phải “nhấn mạnh” vì người ta khinh suất hoặc lơ đãng, mặc dù trước đó Chúa Giêsu đã mặc khải Tình Yêu Thiên Chúa cho Thánh nữ Magarita Maria Alacoque (1647-1690) ở dạng khác: Thánh Tâm – với vòng gai và ngọn lửa. Như vậy, Thánh Tâm và Lòng Thương Xót không hề khác nhau – với Lòng Thương Xót là hai tia sáng, với Thánh Tâm là Lửa Tình Yêu. Chỉ MỘT tình yêu của Thiên Chúa, nhưng được diễn tả bằng các cách khác nhau mà thôi.
Thật vậy, Thiên Chúa là tình yêu, cũng là lòng thương xót, lòng trắc ẩn, sự chạnh lòng, đúng như Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Thật là “may mắn” cho chúng ta, thế nên phải biết chân nhận và lên tiếng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.” (Tv 145:12)
Thiên Chúa luôn thành tín trong mọi lời Ngài phán, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm, đặc biệt là quan tâm những người thấp cổ bé miệng, vừa yếu đuối vừa yếu thế: “Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.” (Tv 145:14) Ngài là Thiên Chúa của mọi chân lý nên Ngài cương quyết bảo vệ công lý. Ai muốn làm đệ tử của Ngài thì cũng phải hành động như Ngài. Chắc chắn như vậy. Hành động bảo vệ Chân Lý và Công Lý là thực hiện thiên chức Tiên Tri (Ngôn Sứ) mà Thiên Chúa đã trao ban. Đó là trách nhiệm – trách nhiệm thì không thể không thi hành. Từ xưa, Thiên Chúa đã truyền lệnh: “HÃY giải thoát người bị áp bức khỏi tay phường áp bức, ĐỪNG hèn nhát khi con phải xét xử.” (Hc 4:9) Một câu mà hai mệnh lệnh – một xác định, một phủ định.
Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa, bởi vì “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thánh Phaolô vừa tâm sự vừa khuyên nhủ: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô.” (2 Tx 1:11-12) Sự cầu nguyện luôn cần thiết và có tính liên đới kỳ lạ.
Người ta càng sống lâu thì càng có thể nhận ra rằng cuộc sống rất nhiêu khê, cả tinh thần và đời thường, luôn có những thứ có thể khiến chúng ta dao động – đặc biệt là về sự kiện tận thế. Rất cần phải tự tin, tự tin cả đời thường và tâm linh, nếu không thì chúng ta sẽ bị chao đảo, ảnh hưởng cả thể lý và tinh thần. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.” (2 Tx 2:2) Đó là động thái “cứ là chính mình”, không bị chi phối bởi bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Không nghiêng ngả vì vật chất, không mặc cảm vì kém cỏi, không sợ hãi người có quyền, không khúm núm với người thích dùng mệnh lệnh, không bợ đỡ người có chức vị,… như thế mới thực sự là người sống đủ bản lĩnh, không khuất phục những thứ vớ vẩn.
Thánh sử Luca kể: Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Dakêu (Zacchaeus, Ζακχαῖος hoặc Zakchaios – nghĩa là người Trong Sạch và Công Chính). Ông có quyền thế vì là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông có uy tín chứ chẳng bình thường, nhưng ông thấy nể trọng Đức Giêsu, thế nên ông mới tìm cách để xem cho biết Ngài là ai. Nhưng ông không thể thấy được Ngài, vì ông lùn tịt giữa đám đông dân chúng. Ông phải dùng mưu: chạy tới phía trước và leo lên một cây sung để nhìn cho tỏ tường dung nhan Ông Giêsu, vì Ngài sắp đi qua đó. Ông Dakêu “nhanh trí” ghê đi!
Ông là người có quyền, có của, nhưng kém ngoại hình, vóc dáng ông thuộc dạng “thiếu thước tấc”. Được cái nọ thì mất cái kia, đó là chuyện thường tình, và cũng là lẽ công bằng. Tuy nhiên, tại sao một người có thế giá như ông, có thể “chơi ngông” kiểu Công tử Bạc Liêu, vậy mà lại muốn được diện kiến để gặp gỡ Ông Giêsu? Gặp trực tiếp thì sẽ trò chuyện, đối thoại, hai năm rõ mười. Có lẽ đó mới là điều ông thực sự mong muốn. Ôi, như thế thì thật tuyệt vời!
Chắc chắn Chúa Giêsu biết có người muốn nhìn thấy mình nên khi tới chỗ ấy, Ngài nhìn lên cây và nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19:5) Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Ngài biết mọi sự. Chưa gặp bao giờ mà Ngài biết “ông thu thuế leo cây” tên là Dakêu, cũng có lần Ngài biết Philípphê từ lúc ông ở dưới cây vả trước khi gặp mặt. (Ga 1:48) Có lẽ ông Dakêu cũng chẳng dám mong được Ông Giêsu ưu ái đến như vậy, ông chỉ cần thấy bóng dáng Ngài thì ông cũng mãn nguyện lắm rồi. Vừa nghe Chúa Giêsu bảo xuống và sẽ ở lại nhà mình, ông Dakêu khoái chí lắm, vội vàng tụt xuống ngay, và mừng rỡ đón rước Ngài tới nhà mình.
Đám đông thấy vậy nên xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” (Lc 19:7) Miệng thế gian thì khỏi nói! Vừa xuống khỏi cây, chưa biết ất giáp thế nào, ông Dakêu không chần chừ, không so đo, không tính toán, mà vui mừng nói ngay: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19:8) Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Chắc hẳn lúc này Đức Giêsu vừa cười vừa gật gù vì thấy ông lùn này thế mà hay đáo để, chịu “đền tội” ngay ở thế gian này. Rồi Ngài nói rõ về ông cho mọi người cùng biết: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham.” (Lc 19:9) Đám đông thấy vậy chắc hẳn cũng cảm thấy “nóng gáy” lắm. Ông Dakêu là cán bộ thu thuế, dưới tay ông có nhiều tay sai, thế mà ông lại dám tìm gặp Đức Kitô, đúng là ông can đảm thật. Theo cách nhìn của người đời thì ông là người xấu, nhưng thật ra ông lại là người tốt – tốt thật.
Câu nói này của Chúa Giêsu rất đặc biệt, đáng lưu ý: “Con Người ĐẾN để TÌM và CỨU những gì đã mất.” (Lc 19:10) Ba động từ tạo thành Tam-Giác-Đều của Lòng Chúa Thương Xót. Chẳng cần bàn gì thêm, vì điều đó đã nói lên tất cả. Thật vậy, Thánh Phaolô xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5:20) Còn ĐGH Phanxicô nói: “Những người tội lỗi là những người ở gần Thánh Tâm Chúa Giêsu nhất.” Chúa Giêsu đền thế gian vì muốn cứu những gì đã mất, đó là các tội nhân. Mà các tội nhân là ai? Là tất cả chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa?
Thật lạ lùng, kỳ diệu, và thú vị: Ông Dakêu thấp thể lý, kém chiều cao, mà người lùn thì thường mập, vóc dáng không “bắt mắt” người khác, nhưng ông có vóc dáng tinh thần cao ráo và linh hồn rất xinh đẹp. Người ông không đẹp, nhưng nết ông đẹp. Cái nết có thể “đánh chết” cái đẹp. Và chắc rằng Chúa cũng chỉ mong như thế mà thôi. Kinh Thánh nói: “Vẻ đẹp và duyên dáng làm người ta thích nhìn, nhưng cánh đồng xanh mướt còn đáng nhìn hơn.” (Hc 40:22) Thế nào là vẻ đẹp? Đó là khiếu thẩm mỹ mà không phải ai cũng có được. Người đẹp chưa chắc thực sự đẹp, bởi vì có thể với người này là đẹp nhưng với người khác thì không. Hầu như mọi lĩnh vực đều có khái niệm như vậy.
Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi loài và tác giả của muôn vẻ đẹp (Kn 13:3), xin giúp chúng con biết thực hiện đúng mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền dạy, biết xác định “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” mà không coi trọng hình thức. Xin giúp chúng con biết nghiêm túc giữ trọn Luật Yêu Thương, can đảm bảo vệ Chân Lý và Công Lý bằng mọi giá. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Bài Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe câu truyện Chúa Giê-su đi ngang qua thành phố Giê TN 31-C189
Bài Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe câu truyện Chúa Giê-su đi ngang qua thành phố Giê-ri-cô và gặp ông Gia-kêu. Trong cuộc hành hương Đất Thánh năm trước, tôi đã đến thành phố Giêricô để thăm “Cây sung Giakêu” đã được sách Tin mừng thánh Luca đề cập đến, và thưởng thức những trái chà là ngon nổi tiếng ở vùng đó. Khi đến thành phố, tất cả linh mục trong đoàn hành hương đều hớn hở muốn đến ngay nơi có cây sung để chiêm ngắm. Cây sung Gia-kêu nằm ngay ngã tư đường trong thành phố, thân cây to hơn hai người ôm và có nhiều cành to lớn xun xê. Cây sung này không phải cây sung nguyên thủy, nhưng đã được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Dĩ nhiên bên cạnh lề đường có những người bán rong những đồ lưu niệm hình cây sung này.
Thành phố Giêricô nổi tiếng qua câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua trên đường tiến về Giêrusalem với đám đông dân chúng, chuẩn bị bước vào khổ nạn trong bài Tin mừng hôm nay. Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Có lẽ ông đã nghe biết Chúa Giêsu chọn ông Lêvi, là Mát-thêu, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ. Vì thế, ông rất mong muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này. Khi biết Chúa sắp đi ngang làng, Giakêu đã ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông phải leo lên một cây sung để nhìn cho rõ
Khi đến nơi, Chúa đã ngước mắt lên cây sung và nhìn thấy Gia-kêu. Ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc lộ tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế tội lỗi, bị mọi người khinh bỉ, thù ghét, một con chiên lạc đang tìm lối về, vì thế trong tâm hồn ông có một niềm khát khao muốn gặp Chúa. Và Chúa cũng đã nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương, Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông.” Giakêu cảm thấy sung sướng, vội vả nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Để đáp lại tình yêu thương và nhân từ của Chúa, ông đã quảng đại chia sẻ chân thành cho tha nhân, và đền bù lại cho những ai đã bị thiệt hại do ông gây nên. Việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này.” Niềm mong ước gặp Chúa của Gia-kêu và tình thương của Chúa đã cảm hóa và biến đổi cuộc đời của ông.
Chúng ta tử hỏi: “Ðộng lực chính nào đã thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu?” Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động muốn hoán cải. Hoán cải là từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông chia sẻ, và nhóm bị thiệt thòi được nhận lại hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người. Chúng ta ý thức giá trị của một người không căn cứ vào việc làm hình thức bề ngoài, nhưng căn cứ vào nơi tâm hồn. Cũng như gía trị của một việc làm, một hành động là ở nơi lòng yêu mến và sự khiêm nhường chân thật. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu đã trở nên người có giá trị và cao quí nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người.
Có câu truyện về ông Harold Hughes, cựu thống đốc tiểu bang Iowa và Thượng nghị sĩ liên bang Hoa kỳ. Khi còn ở tuổi thanh niên, ông là một người nghiện rượu, sử dụng ma túy và gian dối. Đã có một lúc, ông nghĩ rằng ông đã hủy hoại và đánh mất tất cả mọi sự trong cuộc sống. Một đêm, ông vào buồng tắm và sửa soạn để kết liễu đời mình. Nhưng ngay lúc đó, ông nghĩ tới một câu Kinh thánh nói hủy hoại cuộc sống là điều tội lỗi, vì thế ông muốn nói cho Chúa biết lý do tại sao ông làm việc ghê gớm đó.
Ông bước ra ngoài buồng tắm, quì xuống nền xi măng lạnh ngắt, gục đầu vào tường và nói với Chúa lý do trong sự thổn thức. Sau đó, ông cảm thấy được một sự lạ lùng xảy ra: một luồng cảm giác ấm áp lắng đọng trong tâm hồn. Ông cảm thấy nhẹ nhõm, hình như tất cả sự nặng nề của tội lỗi đã cất xuống khỏi vai ông, và ông cảm thấy tâm hồn bình an. Ông cảm thấy hình như Chúa đã giơ tay xuống và cứu lấy ông. Quì trên nền xi măng ngày hôm đó, ông đã phó thác cuộc sống mình cho Chúa và thành thật thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm điều gì, con sẽ thi hành.”
Cảm nghiệm đặc biệt này đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của ông, và bắt đầu cho một cuộc đời mới. Mười năm sau, ông Hughes được bầu làm thống đốc tiểu bang Iowa, và mười bảy năm sau đó, trở thành thượng nghĩ sĩ liên bang Hoa kỳ. Năm 1975 ông về hưu, và dồn mọi ảnh hưởng, tài năng và nỗ lực còn lại để giúp cho chương trình cai nghiện rượu và ma túy.
Câu chuyện của ông Hughes trên đây mang những sự tương đồng với câu chuyện của ông Gia-kêu trong bài Tin mừng. Câu chuyện của những người có cuộc sống tội lỗi được biến đổi, và trở thành hữu ích cho tha nhân. Câu chuyện của những người biết mở rộng tâm hồn cho Chúa, và được Chúa đổ tràn đầy ơn bằng an và sự vui mừng vượt qua lòng mong ước.
Qua những câu truyện trên đây, hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa Giêsu, Người đã làm bao nhiều điều kỳ diệu và lạ lùng nhìn chúng ta bằng ánh mắt nhân từ và yêu thương của Chúa, để chúng ta cảm nghiệm được lòng nhân từ và yêu thương Người biết tìm đến và ăn năn sám hối. Cũng như biến đổi cuộc sống của chúng ta trở thành sứ giả đem tình yêu và lòng thương xót của Chúa đến cho mọi người chung quanh, bằng tình yêu thương, hy sinh và quảng đại nhờ đó Danh Chúa được cả sáng.
Thánh Luca là tác giả duy nhất thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Giakêu là TN 31-C190
Thánh Luca là tác giả duy nhất thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Giakêu là ai? Tác giả cho biết, ông là người thu thuế và là người giàu có. Thông thường, người thu thuế thời Chúa Giêsu đều là người giàu có, vì của cải họ kiếm được thường là do gian lận. Họ bị người dân căm ghét, vì tiền thu thuế phải nộp cho ngoại bang là đế quốc Rôma. Rất nhiều trường hợp trong Tin Mừng cho thấy sự khinh bỉ của người dân đối với những người hành nghề thu thuế. Những người này cũng được đồng hoá với các tội nhân, như lời xầm xì của dân chúng: “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Thánh Luca không nói rõ Chúa Giêsu lưu lại ở nhà ông Giakêu bao lâu, nhưng vào thời đi lại khó khăn, chắc hẳn thời gian Chúa viếng thăm không chỉ trong chốc lát. Ông Giakêu, một người thấp bé về vóc dáng, nhưng lại thông minh về trí tuệ. Ông muốn gặp Chúa. Vì vóc dáng khiêm tốn của mình, ông đã trèo lên một cây sung để nhìn Chúa cho rõ.
Một chi tiết rất đặc biệt được Thánh Luca nhấn mạnh: Đức Giêsu là Thiên Chúa đã “nhìn lên” để gặp gỡ ông Giakêu. Thiên Chúa đã hạ mình xuống để đi tìm kiếm con người. Ánh mắt của Chúa Giêsu và ánh mắt của ông Giakêu đã gặp nhau. Ánh mắt ấy đã thuyết phục ông. Đáp lại, ông “vội vàng tụt xuống” và mừng rỡ đón rước Người. Chúng ta tưởng tượng thấy một Giakêu rất vui vì được Chúa chủ động đề nghị đến thăm nhà ông. Ông vốn mặc cảm trước ánh mắt của người đời, chỉ mong lén nhìn thấy Chúa, thì nay, ánh mắt của Thiên Chúa lại tìm kiếm ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa đã xoá đi mọi khoảng cách. Đối với Chúa Giêsu, trước mặt Người không còn là thu thuế hay biệt phái, không còn là người giàu hay nghèo, mà là con cháu tổ phụ Abraham. Con cháu Abraham tức là dòng dõi những kẻ tin. Nhờ lòng tin mà ông được cứu rỗi.
Cuộc gặp gỡ và đón tiếp Chúa Giêsu đã làm cho cuộc đời ông Giakêu sang trang. Trước những dị nghị của đám người đang ghen tức và bình phẩm, ông quả quyết tuyên bố sẽ canh tân bản thân. Ông nhận ra những lỗi lầm do việc gian lận, và nay ông hứa, ông sẽ đền gấp bốn. Ông cũng sẵn sàng chia sẻ phần nửa tài sản cho người nghèo. Cuộc đời của ông Giakêu đã hoàn toàn đổi mới. Ông tìm thấy niềm vui và bình an khi sám hối và chia sẻ.
Nhân vật ông Giakêu vừa diễn tả thiện chí tìm kiếm Chúa của con người, vừa chứng minh lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Nếu trước mặt những người đương thời, ông Giakêu bị coi là tội lỗi và bị quần chúng xa lánh, thì đối với Chúa Giêsu, tâm hồn ông vẫn luôn là mảnh đất thuận tiện để Lời Chúa gieo vào và sinh hoa kết trái. Tác giả sách Khôn ngoan (Bài đọc I) như một lời cầu nguyện và lời chúc tụng lòng nhân hậu của Thiên Chúa. “Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải”. Trước mặt Chúa không có gì là “đổ bỏ đi”, dù phàm hèn và bất xứng đến đâu chăng nữa.
Nếu Thiên Chúa muốn cứu mọi người và muốn cho mọi người được sống, thì những con người – là chúng ta – lại muốn điều ngược lại. Những thành kiến, ghen tương là nguyên nhân làm thương tổn danh dự và phẩm giá của người khác. Ngày nay, mạng lưới thông tin trên Internet như một vũ khí nguy hiểm. Người ta dễ dàng bình luận, phê phán và kết án người khác mà không cần kiểm chứng những thông tin. Phương tiện thông tin, tưởng như đơn giản, lại trở thành một thứ độc dược giết người. Khá nhiều nạn nhân đã bị dồn đến chân tường, do áp lực của hệ thống thông tin trên mạng. Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong Thư Chung gửi Cộng đồng Dân Chúa năm 2022, đã cảnh báo những nguy hiểm từ những thông tin nguỵ tạo thất thiệt, gây chia rẽ và nhằm mưu đồ loại trừ người khác.
Đối với Kitô hữu, mối ưu tư đầu tiên là nên giống Chúa Giêsu. Thánh Phaolô (Bài đọc II), khuyên chúng ta nên kiên vững trước những lời đồn thổi và trước những trào lưu mệnh danh là “mạc khải”. Lời của vị thánh Tông đồ vẫn mang tính thời sự đối với chúng ta hôm nay. Xuất phát từ những quan điểm lệch lạc hoặc do bất mãn, một số người đã nhân danh Thiên Chúa, nhân danh mạc khải để tuyên truyền những điều trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội, trong đó có một số giáo sĩ và tu sĩ. Họ tự cho mình được Chúa soi sáng, sẵn sàng ly khai khỏi Giáo Hội và lôi kéo người khác theo mình, ngấm ngầm chống lại các vị Bản quyền. Thực sự những hiện tượng này không phải là mới mẻ. Trong lịch sử, thời nào cũng có những kẻ giả danh. Những gì không đến từ Thiên Chúa, tự nó sẽ tan rã, như lời ông Gamalien khẳng định trong Thượng Hội đồng Do Thái (x. Cv 5,34-39).
Mỗi lần cử hành Thánh Thể là chúng ta được gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúng ta được đón Chúa vào trong tâm hồn qua nghi thức rước Thánh Thể. Hãy như ông Giakêu, thiện chí biến đổi cuộc đời, để trở nên con người mới, nên giống Chúa Giêsu ngay trong cuộc đời này. Hãy có ánh mắt như ánh mắt của Chúa Giêsu, để nhận ra những người xung quanh mình đều là anh chị em. Amen!
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc biến đổi của ông Da-kêu, trưởng ban thu thuế. Câu chuyện TN 31-C191
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc biến đổi của ông Da-kêu, trưởng ban thu thuế. Câu chuyện này nối tiếp với bài Phúc âm tuần trước. Trong đó, thánh sử đã trình bầy về cử chỉ và hành động của hai người, Pha-ri-siêu và thu thuế, trong đền thờ; còn hôm nay là cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su và ông Da-kêu, trưởng ban thu thuế.
Trong xã hội Do Thái dưới thời Đức Giê-su thì những người thu thuế được coi là những nhận vật nguy hiểm và bị dân chúng thù ghét. Họ là những người cộng tác với đế quốc Rô-ma, một thể chế đang thống trị và đàn áp dân Do Thái lúc bấy giờ. Họ có một đội ngũ tay sai, điềm chỉ viên, chuyên săn tin và báo cáo cho họ biết ai đã thu hoạch được một vụ mùa bội thu hay ai đã kiếm được một khoản lợi nhuận qua việc trao đổi và buôn bán trên thị trường. Sau đó, những người thu thuế sẽ xuất hiện để đòi chia lợi nhuận dựa trên tỷ lệ phần trăm.
Thậm chí, chính quyền Rô-ma còn cho phép họ đánh thuế bằng hiện vật từ những người nghèo, không có tiền đóng thuế. Có nghĩa là, họ có quyền bắt giữ con cái của các gia đình thiếu thuế làm nô lệ cho họ.
Với phương thức như thế, những người thu thuế dù liêm khiết và thành thật đến mức độ nào cũng trở nên giàu có và bị dân chúng thù ghét. Cụm từ địa chủ hay cường hào ác bá, sống trên xương máu của nhân dân cũng chưa đủ nghĩa để nói lên công việc của những người thu thuế.
Những người Do Thái không chỉ thù ghét họ mà còn tránh né và không bao giờ tiếp xúc nói chi đến việc đưa ra lời mời gợi ý giúp họ thay đổi. Và cũng chỉ vì bị cô lập và bị đối xử tách biệt như thế cho nên những người thu thuế chỉ biết dùng đủ mọi cách thức để tiếp tục làm giầu và vui thích với ý nghĩ của những kẻ có quyền lực bằng sự giầu có mà họ đã tích lũy được.
Trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, chúng ta khám phá rằng không chỉ một lần mà rất nhiều lần các nhân viên thu thuế đã xuất hiện để nghe Thánh Gioan tiền hô và Đức Giê-su rao giảng. Và trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận ra bản chất và sức mạnh của Đức Giê-su mang đến. Người cảm nhận và kinh nghiệm rằng tình yêu của Thiên Chúa không loại trừ một ai và được thể hiện tại bất cứ nơi nào.
Người lại một lần nữa hoán đổi ngôi vị, từ khách ra chủ. Da-kêu có thể vì tò mò nên ông đã chủ động trong việc tìm kiếm để xem Đức Giê-su mà người ta đang bàn tán là ai. Nhưng khi nhìn thấy ông đang ngồi ở trên cây thì Đức Giê-su đã đi bước trước, không bộc lộ một cử chỉ nào để đáp lại Da-kêu, mà Người đã chủ động tự mời mình đến lưu ngụ tại nhà Da-kêu và Da- kêu đã được biến đổi sau khi nhận lời mời của Người.
Cuộc biến đổi trước tiên đã được mô tả thật rõ ràng qua cử chỉ và việc làm của ông. Ông vội vàng tụt xuống, vui mừng đón tiếp Chúa đến nhà ông. Trong khi đó, đám đông lại bị sốc vì hành động của Đức Giê-su. Người không đứng về phía nhân dân nữa mà lại làm bạn với bọn hút máu mủ của dân chúng. Nhưng điều mà Đức Giê-su quan tâm hôm nay là Da-kêu, một con người bị ruồng bỏ hơn là việc luật lệ hay truyền thống bị xúc phạm. Công việc thu thuế của Da-kêu tuy xấu thật; nhưng con người của Da-kêu, cũng như mọi người chưa hẳn là xấu. Sự thiện hảo và lòng tốt vẫn còn trong ông, nó chưa hẳn bị tê liệt hoàn toàn, cần được hâm nóng và làm cho chỗi dậy.
Khi bước chân vào nhà Da-kêu, Đức Giê-su đã trả lại cho ông phẩm giá của một con người có thể bị đánh mất vì chức nghiệp. Người phục hồi hình ảnh tốt trong ông, Người kéo ông ra khỏi môi trường đã giam cầm ông. Nguyên tắc căn bản mà Đức Giê-su thường xuyên áp dụng, đặc biệt cho hoàn cảnh của Da-kêu hôm nay là giúp ông nhận ra sự quảng đại của Thiên Chúa, Đấng hòa hợp với lòng tốt đang tiềm ẩn trong ông. Da-kêu sẽ không thể thay đổi nếu ông không nhận ra bản tính lương thiện vẫn hiện diện trong ông. Ông đã được hâm nóng và đốt cháy bởi ngọn lửa yêu thương, lòng nhiệt thành và tâm hồn quảng đại của Đức Giê-su.
Có một điểm quan trọng mà chúng ta cần lưu ý ở đây mà áp dụng, đó là phải chú ý đến cách mà Đức Giê-su đã làm. Người không đưa ra yêu cầu hay một việc đền tội nào cho Da-kêu cả. Người tạo cơ hội và không gian để Da-kêu tự do chọn lựa cách thức mà ông muốn chuyển hướng cuộc sống của ông.
Thật không may, phản ứng của chúng ta lại giống như đám đông cùng thời với Đức Giê-su. Chúng ta có thói quen chôn và giam giữ người khác chung với những sai lầm trong quá khứ của họ. Chúng ta lại thường xuyên học theo lối lên án và kết tội người khác hơn là tạo cơ hội giúp cho họ khẳng định các mặt tích cực trong cuộc sống của họ. Tầm nhìn của Đức Giê-su thì rộng và xa hơn những gì mà chúng ta có thể nhìn thấy. Người không nhìn Da-kêu là kẻ tội lỗi, mà luôn coi ông là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, cũng được thừa hưởng một nguồn ơn cứu thoát.
Như vậy, qua cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su với ông Da-kêu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta nhận ra một chân lý lạ lùng này, đó là Người đến để mời gọi con người đặt lại đúng chỗ những gì đã bị mất hay đã hư đi. Da-kêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã đổi mới cuộc đời ông. Trong hành trình đổi mới này, Da-kêu trước tiên đã công khai sửa chữa những việc làm sai trái của ông. Thay vì chạy theo tiền bạc, danh vọng, chức vụ rồi chỉ lo đến mình… bây giờ ông theo Chúa và lo cho người khác, nhất là người nghèo rồi đền bù các thiệt hại do ông gây ra.
Liệu chúng ta đã thực sự gặp Chúa để được đổi mới hay chưa?
Dù cuộc đời chúng ta vẫn gắn liền với sự mỏng dòn, yếu đuối của thân phận làm người và thuờng xuyên phạm tội; nhưng đó cũng chỉ là điều để chúng ta biết rằng chúng ta vẫn là con người, vẫn đang đi trên đuờng, nhắm đích mà tiến buớc. Chúng ta chưa hoàn hảo. Nhưng đừng thất vọng. Chúa vẫn đang ngước mắt tìm và nhìn thấu ta. Còn ta thì hãy buớc ra khỏi chính mình (leo lên cây) để nhìn sự thiện hảo của Thiên Chúa nơi mình; hành động với lòng yêu mến chân thành mà Chúa đã đặt trong mình; rồi mở rộng vòng tay ôm ấp và chào đón nhau trong Chúa. Amen!
Ông Dakêu là một nhân vật đặc biệt, ông không chỉ là trưởng trạm thuế vụ mà còn được đón Chúa Giêsu vào nhà ông. Điều đó được Thánh Luca kể trong Lc 19:1-10. Ông là người có dáng dấp thấp bé, lùn tịt, nhưng đức tin của ông lại cao vòi vọi. Ông thực sự là người thông minh, can đảm, dứt khoát, có quyết định mau mắn, chính xác, đặc biệt là ông tự biết mình.
Thánh Luca cho biết rằng hôm đó Chúa Giêsu vào thành Giêrikhô. Ở đó có một trưởng trạm thuế vụ giàu có tên là Dakêu. Nghe người ta nói về Chúa Giêsu, ông tìm cách được tận mắt thấy Ngài, nhưng ông không thể nhìn thấy Ngài vì ông lùn quá, trong khi dân chúng chen chúc đông như kiến. Vốn thông minh và nhanh trí, ông chạy tới phía trước và leo lên một cây sung, vì Chúa Giêsu sắp đi qua đó.
Chúa Giêsu đi tới chỗ cây sung, nhìn lên và nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Lạ thật, chưa gặp mà Ngài đã biết tên ông ta là Dakêu. Có lẽ cũng vì thế mà ông Dakêu càng tâm phục khẩu phục. Nghe Chúa Giêsu gọi đích danh và nói ghé vào nhà, ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Đúng là ghen ăn, tức ở, bụng dạ thật xấu xa.
Trong chúng ta cũng vẫn có những người nhỏ nhen và hèn hạ như thế, có vẻ biết rõ người khác nhưng lại mù lòa về chính mình. Chúa Giêsu biết người ta bàn ra tán vào, nhưng Ngài không nói gì vì chưa cần thiết, chưa đến lúc. Cũng có thể chính ông Dakêu cũng biết người ta ghét và nói xấu mình, nhưng ông cứ mặc kệ, việc mình thì mình làm, cứ là chính mình, ai nói sao thì nói. Có lần Chúa Giêsu đã nói: “Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm trong đời bạn thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình.”
Đó là kiểu ông Biệt Phái tự tôn, chê trách ông thu thuế ngay khi đang cầu nguyện. (x. Lc 18:9-14) Có những kẻ chuyên gièm pha, ưa thọc gậy bánh xe, khoái ngậm máu phun người, thấy mình không ăn được thì phá cho hôi,... Họ là dạng “siêu nhân” mà văn sĩ Dale Carnegie, tác giả cuốn “Đắc Nhân Tâm,” đã đề cập: “Bất cứ kẻ ngu nào cũng có thể chỉ trích, chê trách và phàn nàn – và phần lớn những kẻ ngu xuẩn đều làm như vậy.”
Ngay lúc đó, ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Ông này nhanh trí nên quyết tâm được ngay, nhanh mà chính xác chứ không liều lĩnh hoặc bốc đồng. Và rồi Chúa Giêsu nói về ông Dakêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để TÌM và CỨU những gì ĐÃ MẤT.” Nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn những kẻ lẻo mép kia phải câm họng. Biết mắc cỡ mà sám hối thì tốt, nhưng nếu cố chấp, không phục thiện, thì khốn thay!
Biết người là sáng, biết mình là khôn. Biết mình và biết người có thể quyết tâm đúng đắn. Kẻ thù lớn nhất là chính mình, chiến thắng chính mình mới thực sự là dũng cảm. Không mặc kệ lời người ta nói về mình, nhưng đừng sợ vì người ta ghét mình, cần xét xem mình có sai như họ nói hay không để tự chấn chỉnh. Đa số chưa chắc hơn thiểu số. Một người nào đó nói: “Nếu có bất cứ ai làm bạn tổn thương, hãy coi họ như TỜ GIẤY NHÁM. Giấy nhám CHÀ XÁT và làm bạn ĐAU ĐỚN, nhưng bạn sẽ trở nên SÁNG BÓNG, còn họ thành miếng giấy VÔ DỤNG, chỉ BỎ ĐI thôi.” Một nhận định rất tuyệt vời!
Trong cuốn “Tự Thuật” (Confessions III, 6, 11), Thánh Augustinô chia sẻ kinh nghiệm tâm linh: “Chúa còn thân mật với tôi hơn chính tôi thân mật với tôi.” Cuối cùng chỉ có Chúa, chính Ngài mới là người mà chúng ta phải sợ, vì Ngài là Đấng “thấu suốt mọi sự” (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) và có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong Hỏa Ngục. (Mt 10:28)
Khi người ta quyết tâm đúng thì phát ngôn đúng và hành động đúng, nếu quyết tâm sai thì phát ngôn sai và hành động sai. Đó hệ lụy tất yếu và có tính liên đới.
Thật khó khăn khi phải quyết định và dứt khoát, nhưng có vậy thì mới có thể bắt đầu hành động đúng, phần còn lại còn tùy vào sự kiên trì. Cần phải mạnh mẽ và dứt khoát để có thể quyết tâm mau chóng, nhưng cần phải nhận thức tinh tế mới khả dĩ quyết tâm đúng đắn. Không hề đơn giản, nhưng đó chính là bản lĩnh của mình.
Thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và chính khách Edward Bulwer-Lytton, người Anh, đã nhận xét: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững vàng sẽ tự nhiên dần trở thành bậc anh tài.” Còn nhà giáo dục William Arthur Ward, người Mỹ, nhận định: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến những nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Những mục đích của ngày hôm nay có thể biến những thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai.”
Lời Chúa không chỉ soi sáng mà còn xoáy sâu vào tâm hồn càng lúc càng rõ ràng hơn, thẳng thắn hơn, mạnh mẽ hơn, và đặc biệt là cũng gay gắt hơn. Cuối năm là thời điểm cần thiết để xem lại chính mình, luôn có nhiều điều cần quyết tâm hoặc tái quyết tâm – cả về đời thường và tâm linh.
Là phàm nhân, ai cũng luôn phải cố gắng quyết tâm và tái quyết tâm nhiều thứ, nhất là những điều quan trọng, đặc biệt là vấn đề tâm linh, liên quan sự sống đời đời. Phàm nhân yếu đuối như vẫn thực sự hạnh phúc vì chúng ta có Thiên Chúa vô cùng nhân từ và kiên nhẫn: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11:23) Chắc chắn không có thần linh nào như Thiên Chúa của chúng ta. Trình thuật St 18:20-32 cho biết rằng Tổ phụ Abraham đối diện Thiên Chúa với mối quan ngại về điều sẽ xảy ra cho thành Sôđôm. Vì thương họ, Tổ phụ đã dám “mặc cả” với Thiên Chúa, lạ thay là Ngài sẵn sàng tha thứ cho Sôđôm nếu thành này có được 10 người công chính. Nhưng cả thành cũng không có được 10 người công chính nên đã bị hủy diệt. Tiếc thay!
Thiên Chúa là ĐẤNG HẰNG SINH (Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 & 45; 1 Sm 17:26 & 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 & 21; 1 Sm 25:26 & 34; 1 Sm 26:10 & 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25) và là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ, (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) nhưng Ngài lại luôn GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT và RẤT MỰC YÊU MẾN chúng ta. (Ep 2:4) Thật vậy, Kinh Thánh xác định: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa.” (Kn 11:24-26)
Sinh khí Ngài bất diệt và ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, “những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ; Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kn 12:1-2) Nếu Thiên Chúa không đại lượng như vậy thì chúng ta chết từ lâu rồi. Chỉ riêng một điều là chúng ta còn hít thở không khí ngày hôm nay cũng đủ cả đời để cảm tạ Ngài – dù chúng ta còn khỏe hay sức tàn hơi yếu. Tất cả là hồng ân!
Chúng ta không chỉ có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, mà còn có bổn phận chúc tụng và tôn vinh Ngài, vì chúng ta là thụ tạo của Ngài. Bức tượng không có quyền đòi hỏi gì ở nhà điêu khắc. Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, Thánh Vịnh gia nêu gương cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.” (Tv 145:1-2) Thánh Vịnh gia cũng xin nhưng “xin chúc tụng Chúa” chứ không xin gì cho mình. Đấng mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu, của lòng trắc ẩn, của lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.” (Tv 145:8-11)
Thiên Chúa không thể nhìn các thụ tạo của Ngài chịu đau khổ, bởi vì bản chất của Ngài là tình yêu. Ngài sẽ ra tay kịp thời để bảo vệ chúng ta: “Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.” (Tv 145:13cd-14) Mặc dù giờ của Ngài chưa đến, nhưng lời cầu nguyện chân thành của chúng ta có thể thay đổi số phận, càng hiệu quả hơn nếu chúng ta biết cầu viện Đức Maria. Sự việc đã xảy ra ở tiệc cưới Cana là ví dụ cụ thể. (x. Ga 2:1-12) Vả lại, Thánh Piô Năm Dấu cho biết: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và hãy lần chuỗi Mân Côi, vì chuỗi Mân Côi là vũ khí chống lại sự dữ trong thế giới ngày nay. Mọi ân sủng đều được Thiên Chúa trao ban qua Đức Mẹ.”
Lời cầu chân thành hiệu quả đối với người khác và cả chính mình, bởi vì “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.” (Thánh Phanxicô Assisi) Thánh Phaolô đã áp dụng cách cầu nguyện “hai chiều” đó: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô.” (2 Tx 1:11)
Có chuỗi liên kết kỳ lạ: Đức tin sinh ra đức mến – yêu thương, yêu thương sinh ra hành động, và hành động vì đức tin. Đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền, mà rất chính xác: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại.” (Kinh Tin Kính) Vả lại, chính Chúa Giêsu đã phục sinh, điều này giúp chúng ta xác tín và chắc chắn hơn.
Tận thế có thật. Ngày Chúa quang lâm sẽ xảy ra, nhưng không ai biết lúc nào. Đừng tin những kẻ lợi dụng thời cơ để gây náo động. Tin phải có cơ sở đúng đắn, cần có lý trí lành mạnh. Tin để sống tốt hơn chứ không theo kiểu “phong trào.” Quyết tâm canh tân đời sống luôn là điều cấp bách. Thánh Phaolô nói: “Về ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.” (2 Tx 2:1-2)
Chắc chắn không ai biết thời điểm tận thế, cũng không biết chúng ta có được chứng kiến “ngày ấy” hay không, nhưng chắc chắn ai cũng chứng kiến ngày tận thế của cuộc đời mình: Chết. Vì thế mà luôn phải sẵn sàng, quyết tâm thay đổi và dứt khoát, càng sớm càng tốt. Đó là điều vô cùng cần thiết!
Đã hơn một thế kỷ qua, nhưng vấn đề Đức Mẹ đặt ra tại Fátima vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng: “Nếu loài người biết vĩnh cửu là gì thì họ sẽ làm mọi thứ để thay đổi cuộc đời.”
Lạy Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi sự, xin soi sáng để chúng con nhận thức đúng đắn, biết mình và biết người, nhất là nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Xin gia ân để chúng con hành động theo Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen!
Thiên Chúa là Đấng nhân hậu từ bi, Ngài là Tình Yêu, Ngài đã tạo dựng vũ trụ muôn loài muôn TN 31-C193
Thiên Chúa là Đấng nhân hậu từ bi, Ngài là Tình Yêu, Ngài đã tạo dựng vũ trụ muôn loài muôn vật trong tình yêu, đặc biệt là con người. Ngài đã sáng tạo giống hình ảnh mình, truyền khí sống khi hà hơi của chính mình cho con người được sống. Nhưng rồi con người sa vòng tội lỗi, Thiên Chúa không đành để mặc con người. Ngài không vui gì khi con phải bị diệt vong. Ngài đã cứu chuộc con người bằng một tình yêu vấn vương tạo dựng. Ngài không loại trừ ai hết, người nghèo cũng như người giầu. Thiên Chúa thấy nơi mỗi người một linh hồn cần cứu vớt.
Thiên Chúa yêu thương hết mọi loài
Những lời của tác giả sách khôn Ngoan sau đây đã minh chứng điều trên khi viết: “Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó.
Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được? Hoặc vật gì Chúa không kêu gọi, thì làm sao nó duy trì được? Nhưng Chúa dung thứ hết mọi loài: vì chúng thuộc về Chúa” (Kn 11, 23 – 12, 2 (Hl 11, 22 – 12, 1).
Con cái Isael vui khi thấy Môisen giết một người Ai Cập, nhưng lại sốt ruột trước sự trầm trễ trừng phạt vua Pharaô và người Ai Cập của Thiên Chúa. Họ hỏi nhau: Sao Thiên Chúa chậm chạp như vậy chứ? Tại sao không dùng các biện pháp mạnh và quyết liệt đối với Pharaô mà còn nương tay với dân Ai Cập? Chúa của Môsê dường như không dứt khoát đủ? Sao Người không cho quyền Môsê làm những dấu lạ điềm thiêng mau lẹ đi?
Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài dựng lên mọi sự vì yêu mến. Chính tình thương của Ngài ban cho mọi loài được hiện hữu và bảo tồn mọi loài trong hiện hữu… Không gì xuất hiện và tồn tại được nếu Ngài không muốn và không thương. Thế nên, kẻ dữ còn đó là vì tình thương của Thiên Chúa. Ngài không muốn ghét bỏ những gì Ngài đã tạo ra. Ngài yêu sự sống chứ không thích sự chết. Làm cho mọi vật sống là bản tính tự nhiên của Thiên Chúa. Còn tiêu diệt vật nào là việc Ngài chẳng muốn. Bởi vậy, thái độ của Ngài có vẻ thong thả. Ngài muốn sửa dạy mọi kẻ sa ngã để chúng trở lại mà được sống. Không phải Thiên Chúa yếu thế. Nhưng chính vì toàn năng phép tắc mà Thiên Chúa yêu thương hết mọi loài.
Vì yêu thương nên đến tìm kiếm điều đã mất
Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu và hay tha thứ, muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người là ơn cứu độ Thiên Chúa gửi đến cho loài người. Người thực hiện những điều mà sách Khôn Ngoan đã viết. Tác giả sách này chỉ biết rằng: Thiên Chúa vì toàn năng và nhân ái sẽ làm cho tội nhân trở lại. Nhưng thế nào và nhờ ai, thì chúng ta phải chờ đến khi thấy Ðức Giêsu xuất hiện. “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất” (Lc 19, 9-10).
Chúa Giêsu “Đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10), chứ không phải là “kẻ bị mất”. Đây không phải là Giakêu đã mất. Khi cô lập với anh em mình, ông đã mất niềm hy vọng tìm thấy Thiên Chúa. Giakêu có nghĩa là “Chúa nhớ lại”. Thiên Chúa nhớ đến kẻ yếu người nghèo, với lòng thương xót. Chúa Giêsu mang lại cho ông niềm hy vọng khi nói với ông: “Giakêu, hãy xuống mau” (Lc 19,5).
Chúa thương xót mọi loài, và yêu thương mọi tạo vật (x.Kn 11,21-26). Thương xót đến độ “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người …không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa tác thành” (Kn 11, 23). Lòng thương xót ấy được cụ thể hóa nơi hành động của Chúa Giêsu đối với tội nhân và những người cùng khổ, Ðấng đã khẳng định rằng Người đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi (x. Lc 5,32). Trình thuật về cuộc hoán cải của ông Giakêu trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là một bằng chứng (x. Lc 19, 1-10).
Ðã đành, Giakêu cũng có công… ông đã muốn xem thấy Chúa và đã trèo lên cây cao, và nhất là ông đã thành tâm trở lại. Nhưng nếu Chúa đã không nhìn và gọi ông, nếu Người không đoái ngụ lại nhà ông, thì đã chẳng có câu chuyện hôm nay. Tất cả đều do Chúa, nhờ lòng thương của Người và bởi sáng kiến của Người. Ðó mới thật là ý nghĩa.
Nhìn nhau với cặp mắt của Thiên Chúa
Thiên Chúa nhìn con người với cái nhìn tình yêu, phủ lấp muôn vàn tội lỗi và thành kiến. Ngài nhìn con người không dừng lại sự ác đã qua, nhưng nhìn thấy điều thiện tương lai; Thiên Chúa không dừng lại ở những gì bên ngoài, nhưng nhìn thấu tận con tim. Thiên Chúa không bị chặn đứng vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài vượt thắng tội lỗi nhờ tình thương và làm cho chúng ta tưởng nhớ điều thiện. Thiên Chúa là Cha đang làm như vậy, và cả Chúa Giêsu cũng thế. Không có người nào không có điều gì là tốt, Ðó là điều mà Thiên Chúa ngắm nhìn.
Xin Ðức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta nhìn thấy điều tốt nơi những người chúng ta gặp mỗi ngày, để tất cả chúng ta được khích lệ làm trổi lên hình ảnh mà Thiên Chúa đã in vào tâm hồn họ. Như thế chúng ta có thể vui mừng vì những điều lạ lùng của Thiên Chúa là Chúa chúng ta. Amen!
Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc mình... Lời đầu tiên trong bài hát GẶP GỠ ĐỨC KITÔ của linh TN 31-C194
“Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh!” Lời đầu tiên trong bài hát GẶP GỠ ĐỨC KITÔ của linh mục nhạc sĩ Tiến Lộc, đã phản ảnh rất trung thực về sự thay đổi của ông Da-kêu, trưởng ty Thuế Vụ Thành Giê-ri-khô mà thánh Luca tường thuật trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 31 hôm nay.
Thật vậy, cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông Da-kêu và Chúa Giê-su ở dưới gốc cây sung, đã làm cho cuộc đời của ông thay đổi hoàn toàn. Khi diện đối diện với Chúa Giêsu, và sau khi ông nghe Ngài nói với ông rằng: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Thì ông đã cảm nghiệm ngay được tình yêu, lòng thương xót của Chúa dành cho ông. Chúa đến nhà ông, và hơn nữa lại còn ở lại nhà của ông nữa, thì chứng tỏ Ngài không xa lánh, không có thành kiến và không ghét bỏ ông như những người đồng hương khác, bởi vì ông là người tội lỗi, là người làm nghề thu thuế, vì ông làm tay sai cho Đế Quốc Rôma…
Để đáp lại tình yêu thương và sự ưu ái của Chúa Giê-su dành cho riêng ông, ông đã can đảm làm một sự thay đổi có thể nói là tận gốc rễ. “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Bạn có thấy những gì ông Da-kêu đã thay đổi sau khi gặp Chúa không?
• Trước khi gặp gỡ Chúa, ông là người ích kỷ, keo kiệt, chỉ biết thu tích chứ không cho đi, nhưng sau khi gặp được Chúa, thì ông đã dám rộng rãi và quảng đại chia sẻ cho người nghèo phân nửa tài sản của ông.
• Trước khi gặp gỡ Chúa, ông là người gian lận, bớt xén, bất công…nhưng sau khi gặp gỡ Chúa, ông đã dám sửa sai, đền bù thiệt hại, không phải gấp hai, hay gấp ba lần, nhưng là gấp bốn lần cho các nạn nhân!
Bạn thân mến, giống như, và còn hơn ông Da-kêu khi xưa, ngày hôm nay, bạn và tôi thường xuyên được gặp gỡ Chúa qua những giờ kinh nguyện, qua việc đọc những trang Kinh Thánh; ngày nào (hay ít nhất một tuần một lần!) chúng mình cũng được Chúa ngự vào nhà của chúng mình qua việc đón rước Mình Máu Thánh của Ngài. Thì ước gì bạn và tôi cũng sẽ noi gương bắt chước ông Da-kêu để làm được hai việc này:
Thứ nhất, dám sống rộng rãi và quảng đại chia sẻ, cho đi.
• Rộng rãi và quảng đại trong việc chia sẻ, khi cho đi tiền bạc, tài năng và thời giờ, khi giúp đỡ cho việc giáo dục, bảo trì, xây dựng và phát triển giáo xứ của bạn. “Hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9:6-7).
• Rộng tay và vui vẻ khi cộng tác với Giáo Hội và các dòng tu trong việc truyền giáo, cho việc huấn luyện, đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giúp đỡ cho các nạn nhân của thiên tai bão lụt, động đất, cho trẻ mồ côi, tàn tật, trợ giúp những người kém may mắn… “Khi bố thí, mắt con đừng có so đo. Đối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ, để rồi đối với con, Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ. Tuỳ con có bao nhiêu, hãy cho bấy nhiêu; có nhiều thì cho nhiều, có ít thì đừng ngại cho ít” (Tb 4:7-8).
Thứ hai, dám đền bù cho tha nhân những thiệt hại mà mình đã gây ra cho họ.
• Nếu đã lỡ lỗi đức công bằng về mặt vật chất, ví dụ như gian lận trong việc buôn bán, ăn cắp, ăn trộm hay tham lam của ai đó về tiền bạc, về tài sản đất đai…thì xin hãy mau mau kiếm cách để đền trả cho họ. Hãy làm việc đền trả, hãy trả lại lẽ công bằng cho người ta ngay khi ta còn sống, đừng chần chờ kẻo không kịp đâu. “Khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng" (Lc 12:58-59).
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng mình biết noi gương bắt chước ông Da-kêu, nỗ lực vượt qua những khó khăn thử thách để đi gặp được Chúa, và, khi gặp được Ngài rồi, bạn và tôi dám thay đổi, dám sửa chữa những lỗi lầm, để nhờ vậy, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự bình an trong tâm hồn, khi ta sống công bằng, không nợ nần và không đối xử bất công với tha nhân. Xin Chúa gìn giữ, ban bình an và chúc lành cho bạn cũng như cho những người thân yêu của bạn trong tuần lễ mới này. Amen!
Hãy tưởng tượng nếu bạn là một nhân viên thu thuế và tham dự một bữa tiệc vào một ngày cuối TN 31-C195
Hãy tưởng tượng nếu bạn là một nhân viên thu thuế và tham dự một bữa tiệc vào một ngày cuối tuần. Khi có ai hỏi, “Vậy bạn kiếm sống bằng nghề gì?” thì ngay sau khi bạn cho biết cái nghề của bạn, cuộc trò chuyện có thể sẽ rơi vào một khoảng lặng lâu mau nào đó.
Một người thu thuế vàothời của Chúa Giêsu còn hơn vậy. Họ bị những người đồng hương khinh rẻ, thậm chí bị xếp vào loại tội lỗi công khai, ngang hàng với gái điếm! Nhưng sự thực thì thế nào, nhất là theo cách nhìn của Chúa Giêsu?
Ở Giuđêa thời Chúa Giêsu, có nhiều loại thuế: thuế đền thờ của người Do Thái và thuế của người Rôma. Đối với những người Do Thái ngoan đạo, có một khoản thuế đền thờ được Môsê ra lệnh trả cho các của lễ như để “chuộc mạng sống mình”. Số tiền là một nửa shekel nghĩa là khoảng hai chỉ bạc: “Đây là những gì mà bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số phải nộp : hai chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; hai chỉ bạc đó sẽ là phần dâng cúng Chúa. Bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số, từ hai mươi tuổi trở lên, sẽ phải nộp phần dâng cúng Chúa. Người giàu sẽ không nộp hơn hai chỉ bạc, và người nghèo sẽ không nộp ít hơn, để dâng cúng Chúa mà chuộc mạng mình” (Xh 30: 13). Hai chỉ bạc ấy trị giá khoảng hai denarius tiền Rôma bấy giờ, tương đương với hai ngày lương công nhật. Tất cả đàn ông Do Thái, ngoại trừ các thầy tư tế, đều phải nộp thuế này, nhưng chủ yếu chỉ có những người Pharisêu mới làm như vậy. Chúng ta thấy Phêrô được hỏi liệu Chúa Giêsu có trả thuế này không: “Khi thầy trò tới Caphácnaum, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông Phêrô: "Thầy các ông không nộp thuế sao? " Ông đáp: "Có chứ! " Ông về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Anh Simôn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài? " Ông Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài ." Chúa Giêsu liền bảo: "Vậy thì con cái được miễn” (Mt 17: 24-26). Chúa Giêsu đã yêu cầu Phêrô trả thuế cho cả hai người bằng một đồng shekel tìm thấy trong miệng một con cá: “Nhưng để chúng ta không xúc phạm họ, anh hãy đi ra biển, thả một lưỡi câu, và lấy con cá đầu tiên bắt lên. Mở miệng ra và anh sẽ thấy một đồng tiền có giá trị gấp đôi tiền thuế đền thờ. Hãy trao đồng tiền đó cho họ cho Thầy và cho anh” ( Mt 17: 27) [1]
Còn thuế của người Rôma thì thế nào? Giuđêa thời Chúa Giêsu là một tỉnh thuộc Rôma. Nhà cầm quyền Rôma cũng áp đặt thuế. Ngoài các loại thuế gián thâu đánh trên mọi công dân của đế quốc (thuế thông lưu, thuế thương chính, thuế kế sản và thuế mại vật), các tỉnh còn phải nộp cống thuế (tributum) cho nhà vua; cùng với việc kiểm tra, cống thuế này là dấu chỉ rõ ràng nhất của việc lệ thuộc; người Do thái rất ghét thứ thuế đó và đảng Nhiệt thành coi việc từ chối nộp thứ thuế đó là một bổn phận tôn giáo. Tại Giuđêa, thuế đó đã được giòng tộc Séleucos thiết lập từ lâu và được người Rôma duy trì dưới hai hình thức là thuế điền thổ (tributum soli) và thuế thân (tributum capitis) mà nhiều nhân viên có nhiệm vụ thu dưới sự kiểm soát của các quan chức chuyên môn là các tổng trấn, được đặt đứng đầu mỗi khu vực tài chính. [2]
Về mặt kỹ thuật, các tổng trấn cùng các quan chức của ông lập ra cái giống như “công ty cổ phần”, mua một số vùng của người Do Thái trong thời gian 5 năm. Những doanh nhân La Mã của công ty cổ phần này sẽ cho những người đàn ông Do Thái tại địa phương đấu thầu thu thuế tại những vùng lãnh thổ này. Người thầu nào trả giá cao nhất sẽ giành được quyền thu thuế tại lãnh thổ đó. Những người thu thuế sau đó sẽ đánh thuế nhập khẩu, xuất khẩu, phí cầu đường, tiền đường bộ, phí thành phố, và nhiều loại khác nữa mà họ có thể nghĩ ra. Do đó, những người thu thuế Do Thái tại địa phương tìm mọi cách để thu thuế vượt càng nhiều càng tốt số tiền họ đã đấu thầu. Và với danh sách các loại thuế khác nhau như ở trên, làm thế nào một người dân bình thường có thể theo dõi những gì họ thực sự phải đóng? Chúng ta có thể gọi đó là “lợi dụng tống tiền”. Đây là lý do tại sao Gioan Tẩy Giả khuyên những người thu thuế ăn năn đến với ông rằng: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3,13).
Tuy nhiên, hầu như mọi lúc, những gì thực sự xảy ra là “lạm thu tối đa”. Những người thu thuế địa phương gốc Do thái này thu thuế tùy thích. Những kiểu bắt nạt này, cùng với thực tế là nhiều “người Do Thái ngoan đạo” thời đó tin rằng việc nộp thuế cho người Rôma là một tội lỗi, thậm chí các giáo sĩ Do Thái còn coi là hợp pháp bất cứ cách nói dối nào có thể nghĩ ra được để tránh trả tiền cho những người thu thuế (Nedarim 27, 28a). [3] Nên những người thu thuế bị coi là tội lỗi và thậm chí còn bị vạ tuyệt thông, không được tham dự các buổi quy tụ trong các hội đường. Ngay cả Chúa Giêsu cũng ghi nhận tai tiếng của họ khi Ngài giảng dạy về một tội nhân không ăn năn: “Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18:17).
Sự kết hợp của nhiều loại thuế cùng kiểu “tính thuế” như “tống tiền” tùy lòng tham của những người thu thuế địa phương dẫn đến sự không hài lòng của dân chúng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu, ngay cả khi công nhận sự mất lòng dân của những người thu thuế, Ngài vẫn không tẩy chay họ, không phân biệt họ. Chúng ta thấy điều này khi những người Pharisêu tố cáo Chúa Giêsu: “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” (Lc 5: 30).
Lời “lẩm bẩm trách cứ” này xẩy ra sau khi Chúa Giêsu gọi một người thu thuế, tên là Lêvi, làm tông đồ. Các học giả Kinh thánh tin rằng Lêvi, còn gọi là Mátthêu, một người thu thuế tại Caphácnaum: “Khi đó, Chúa Giêsu đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lêvi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Ngài bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Ngài” (Lc 5: 27-28). Điều này gây tai tiếng đến mức Celsus, một người Do Thái đầy nghi kỵ, đã thực sự sử dụng điều này làm “bằng chứng” chống lại Chúa Giêsu, bởi vì Chúa Giêsu đã chọn một thứ cặn bã như Mátthêu làm môn đệ. [4]
Một người thu thuế khác mà chúng ta biết tên là Giakêu, được mô tả trong Luca là người “đứng đầu những người thu thuế và là một người giàu có” (Lc 19: 2) sống và làm việc ở Giêricô. Và Giêricô là một nơi thu thuế rất béo bở, vì nó được mô tả là “Thành phố các cây cọ dầu”, có nhiều suối nước dồi dào ở trong và chung quanh, là trung tâm sản xuất dầu cọ phát đạt. Giakêu, với tư cách là một người đứng đầu những người thu thuế, có những người thu thuế bậc thường, giống như Mátthêu, làm việc dưới quyền ông; Giakêu giống như một người quản lý cấp huyện. Điều đó cũng có nghĩa là ông ấy đã “ăn chặn từ trên xuống” của tất cả những người làm việc cho ông ấy. Chính Giakêu thừa nhận điều này khi nói với Chúa Giêsu: “Nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19: 8).
Tuy nhiên, Chúa Giêsu quyết định đến nhà Giakêu và dùng bữa với ông. Trên thực tế, đó là sáng kiến của Chúa Giêsu, không phải của Giakêu. Tại sao? Trước tiên, phải thừa nhận rằng mỗi người đều có giá trị đối với Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu đã nói: “người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham” (Lc 19: 9). Thứ hai, Chúa Giêsu muốn “công bố ơn cứu độ” cho mọi người, kể cả những người tội lỗi, mà tiêu biểu nhất ở đây là Giakêu. Lời Cứu Độ của Chúa Giêsu có quyền năng hoán cải cõi lòng của mọi người. Giakêu là một minh chứng rõ ràng, ông đã thay đổi ngay lập tức - ngay cả trước khi Chúa Giêsu ngồi xuống bàn ăn: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19: 8)
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về Giakêu trong một bài huấn từ:
“Sự khinh miệt và khép kín đối với tội nhân chỉ cô lập anh ta và làm anh ta cứng lòng trước những điều xấu xa mà anh ta làm chống lại chính mình và chống lại cộng đồng. Thiên Chúa lên án tội lỗi, nhưng Ngài cố gắng cứu tội nhân, Ngài đến gặp tội nhân để đưa anh ta trở lại con đường ngay thẳng. Chúa Giêsu tìm gặp Giakêu và đề nghị đến thăm nhà ông. Một sự “thay đổi tâm thế” liền diễn ra trong đầu của người đứng đầu những người thu thuế, ông nhận ra rằng “cuộc sống bị tiền bạc chi phối là một cuộc sống tầm thường.”
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Có Chúa Giêsu trong nhà, khiến ông ta nhìn mọi thứ bằng con mắt khác, và thậm chí với một chút dịu dàng mà Chúa Giêsu nhìn ông đã khiến Giakêu quyết định chia sẻ cho người nghèo. Chúa Giêsu bộc lộ cho ông thấy rằng có thể yêu thương một cách vô điều kiện: từ trước đến nay ông ta keo kiệt, nay ông ta trở nên quảng đại. Nói cách khác, bằng cách gặp gỡ Tình yêu, bằng cách khám phá ra rằng mình được yêu thương bất chấp tội lỗi của mình, ông đã trở nên có khả năng yêu thương người khác, coi tiền bạc là dấu hiệu của sự đoàn kết và hiệp thông.” [5]
Nhìn Giakêu lùn ngồi vắt vẻo chờ đợi trong lùm cây, dân chúng Do thái ngày xưa và cả chúng ta ngày nay đều thấy thật lố bịch, nhưng Chúa Giêsu nhìn thấy nơi hành động đó một sự tìm kiếm hướng thiện, điều kiện tiên quyết để được cứu độ. Chúa Giêsu hôm nay cũng muốn thấy và khơi lên nơi chúng ta lòng khát khao âm thầm nhưng thánh thiêng ấy: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19:10).
Tuần trước, thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu nói về một người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện và ông ta được chính Chúa Giêsu công bố: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi” (Lc 18: 14) dù ông ta chỉ biết thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18: 13). Có lẽ đôi khi chúng ta tự hỏi: làm nhiều việc “đạo đức tốt lành” để được gì, nếu một kẻ thu thuế tội lỗi, chẳng làm gì ngoài một lời cầu nguyện, lại có thể được tuyên bố là công chính? Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu hôm nay cho chúng ta câu trả lời: nhận ra và xưng thú tội lỗi mình là điều cần thiết, nhưng nếu chỉ dừng lại đó thì lại giống như một bệnh nhân biết mình mắc bệnh nhưng không chịu đi tìm thầy thuốc để chữa trị và thay đổi cách sinh hoạt để không mắc bệnh trở lại! Chúng ta đều là tội nhân, điều quan trọng không chỉ là “nhận ra tội lỗi” của mình mà còn cần phải “cải tà quy chánh”, hoán cải và thay đổi: “anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Êphêsô 4: 22-23).
Để được như vậy, một khi đã hoán cải, chúng ta cần phải: “sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Chúa Kitô vì Ngài là Đầu… Ngài làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Êphêsô 4:15-16).
Phêrô Phạm Văn Trung ----------------------- [1] theo bản Kinh Thánh NABRE, New American Bible Revised Edition. [2] Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt, https://www.tonggiaophanhanoi.org/nop-thue-cho-hoang-de-chua-nhat-xxix-thuong-nien-nam-a/ [3] https://www.evidenceunseen.com/theology/historical-theology/tax-collectors/ [4] Origen, Contra Celsum 1.62; 2.46, Đã dẫn trên. [5] Bài huấn từ trong buổi đọc kinh Truyền tin ngày 3/11/2019.
Có người hỏi một học giả Á đông đã tin nhận Chúa rằng: “Tại sao ông là người học sâu hiểu rộng TN 31-C196
Có người hỏi một học giả Á đông đã tin nhận Chúa rằng: “Tại sao ông là người học sâu hiểu rộng, đã biết đến nơi đến chốn các tôn giáo, các triết lý cao siêu của Á đông, mà lại tiếp nhận Tin Mừng như vậy?” Vị học giả trả lời: “Tôi vốn như một người chìm tàu giữa đại dương, sóng cả dập vùi, sức người có hạn. Các vị giáo chủ khác đã dạy tôi: con phải bơi lội theo phương pháp này, tập dưỡng sức theo phương pháp kia, định hướng tìm bờ theo phương pháp nọ. Chỉ có Chúa Giê-su Cứu Thế là đã nhảy xuống biển và liều chết để cứu vớt tôi, vì thế tôi tin nhận Người”.
Hôm nay cũng có một kẻ bị vùi dập giữa đại dương tội lỗi thất vọng và đang đảo mắt kêu cứu. May thay, một người khác thấy được và đã nhảy xuống cứu ông, bất chấp sóng cả dư luận. Hai nhân vật đó là ông Da-kêu và Đức Giê-su.
Cái Nhìn Xót Thương Của Thiên Chúa “Khi ấy, Đức Giê-su vào Giê-ri-khô, đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó, có một người tên là Da-kêu”. Phải chăng Lu-ca muốn khôi hài hay chế diễu? “Zakkay”, trong tiếng Hip-ri, có nghĩa “kẻ trong sạch, người công chính”. Tội nhân công khai mang danh “kẻ trong sạch” như thế khiến ta nghĩ tớn một tên bợm tai quái có biệt hiệu “vô tội hiền lành”! Nhưng hãy chờ kết thúc câu chuyện. Biết đâu ông ta sẽ thật sự xứng danh... vào đoạn cuối. Là một tội nhân do nghề nghiệp, Da-kêu lúc này lẽ ra phải gọi là “kẻ bị trục xuất”. Một tên bỉ ổi bị mọi người khinh ghét, vì phục vụ quân xâm lược Rô-ma, thỏa hiệp với ngẫu thần Hoàng đế, bóc lột thẳng tay người nghèo! Một tay “sếp thu thuế” đểu cáng đã làm giàu trên xương máu nhân dân, đang phô trương của cải và sự xa xỉ trong biệt thự sang trọng nhất của thành phố. Một con người phải chạy trốn như bệnh dịch, một tội nhân hư hỏng hoàn toàn, bại hoại tận căn, cấm lân la gần gũi. Thiên hạ khạc nhổ xuống đất và quay mặt đi khi ngang qua con đường của hắn.
“Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai...”. Cả một loạt “biểu tượng”: Da-kêu nhỏ bé, quá nhỏ bé để thấy được Đấng Ki-tô... đám đông thù nghịch, cả một dư luận phải thắng vượt, để thấy được Đấng Ki-tô... trèo lên cây, cây nào cao lớn bằng cây thập giá, để thấy được Đấng Ki-tô... Nhưng lối giải thích biểu tượng chẳng làm mất đi lịch sử tính của các chi tiết cụ thể: thời Lu-ca, người ta hẳn còn nhớ biến cố khó tin này là tại Giê-ri-cô, một tay “thầu thuế”[1] đã trở lại. Ngoài ra, mọi chi tiết đều hết sức tự nhiên. Ở cổng thành, Đức Giê-su đã cho một người mù sáng mắt (Lc 18,35-42). Tiếng đồn phép lạ lan nhanh như thuốc nổ. Nên ta hiểu Da-kêu đã có ước vọng được thấy Người. Và rồi, vì quá lùn tịt lại bị khinh bỉ chẳng ai nhường chỗ cho, ông đã leo lên cây dưới những cái nhìn mỉa mai của quần chúng, chẳng bận tâm đến tư cách “trưởng ty thuế vụ” của chính quyền!
Cái gì đã thúc đẩy Da-kêu bất chấp lố lăng, xắn cao chiếc áo choàng trưởng giả, để leo lên cây như một đứa trẻ tầm thường? Vì tò mò ham biết? Vì một lôi kéo mầu nhiệm? Vì bất ổn tâm hồn và chán ngán kiếp phù sinh? Ông đã trải qua cuộc đời để đếm những đồng xu và khiến cả thành ngao ngán. Thiên hạ tránh xa ông vì ông nhân danh luật pháp truy nã họ. Nhưng này thiên hạ bảo rằng Đức Giê-su đang đi ngang qua, và Người là bạn của những kẻ bị căm ghét. Bấy giờ, để thấy được Chúa, tay tài chủ đã leo lên cây vả. Và hai cái nhìn đã gặp gỡ nhau tại đấy. Bề ngoài, chính Da-kêu nhìn trước hết, cháy bỏng khát khao thấy được Đức Giê-su. Nhưng có lẽ đã không gì xảy ra nếu Chúa chẳng ngước mắt trông lên cư dân lạ lùng của cây vả. Chúng ta tưởng mình kiếm tìm Thiên Chúa, trong lúc chính Người tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời. Đức Giê-su hẳn rất hạnh phúc ngày hôm ấy! Chỉ vài cây số cách Giê-ru-sa-lem, chỉ vài hôm cách cuộc Khổ nạn cứu rỗi nhân loại, Người đã lập được thành tích đẹp nhất của mình! Tất cả sự chơ vơ cô quạnh của thập giá, tất cả nỗi khổ sắp gánh lấy trên lưng, tất cả sự xâu xé tay chân thân thể... Người biết rõ, Người chắc chắn là có ích. Người cứu rỗi thế giới, khi “lên Giê-ru-sa-lem”. Da-kêu là hoa trái đầu tiên của công trình này.
Và Đức Giê-su đưa ra sáng kiến: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Tất cả xảy ra như thể Đức Giê-su đã liệu trước ngón đòn của mình: Người biết ông, gọi đích danh ông, tự mời mình đến nhà ông, chuộng ông hơn mọi cư dân khác trong thành. Người đã chọn kẻ thấp hèn nhất, bị khinh bỉ nhất. Cách của Người là thế: xin ai đó giúp một việc để ban cho đương sự ơn huệ huy hoàng của mình, tựa ông vua biến thành hành khất để cho lại sau đó mà không xúc phạm. Người có vẻ chỉ là nhà thuyết giáo lưu động xin một bát cơm và một chỗ ngủ qua đêm. Và thân mật biết bao trong sự vội vàng này. Chúa như thể muốn bảo: “Ông Da-kêu ơi, tôi đói lắm rồi, xin ông lẹ cho!” Người cũng từng xin một phụ nữ Sa-ma-ri bị khai trừ cho mình uống nước bên bờ giếng như thế, từng để một phụ nữ tội lỗi xức dầu thơm cho mình tại nhà Si-môn biệt phái như vậy.
Cái Nhìn Thống Hối Của Tội Nhân
Và “Da-kêu vội vàng tụt xuống”. Sự vội vàng này tương ứng với sự vội vàng của Đức Giê-su. Niềm vui là dấu chỉ đã gặp được Người. Một tràng pháo hoan hỉ chạy dài từ kinh Magnificat của Đức Trinh Nữ, qua nỗi vui mừng của các mục tử Bê-lem, kéo đến tận niềm hân hoan của hai lữ khách quán trọ. Nhưng trong cảnh nhộn nhịp hân hoan đó, bỗng có một cú hãm tàn bạo, một thanh âm chói tai, một gáo nước lạnh dội vào: “Mọi người xầm xì với nhau: Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Lại cũng một cái nhìn, lối nhìn thông thường. Không hẳn là ác độc, nhưng nông cạn. Một đám đông chẳng có thấy tâm hồn Da-kêu lẫn tâm hồn Đức Giê-su, song chỉ biết thiết lập danh mục : Da-kêu bóc lột - Giê-su nhà ngôn sứ: những thái cực không thể pha trộn vào nhau! Nhưng các thái cực đã nhìn nhau, bằng một cái nhìn làm vỡ tung các vẻ bề ngoài. Phải chăng tôi cũng biết đánh thức trong mình khát vọng thoát khỏi những xầm xì của đám đông: của phát thanh, truyền hình, báo chí, trang mạng, môi trường giáo xứ, môi trường gia đình, môi trường nghề nghiệp...? Phải chăng tôi cũng biết bắt chước Đức Giê-su là người từng đòi hỏi chớ làm cớ vấp phạm (Lc 17, 1-3), song chẳng ngần ngại tạo vấp phạm đôi khi, qua những phong thái không phù hợp với dư luận đương thời... đặc biệt là qua lòng tốt lạ lùng đối với những kẻ tội lỗi? Người cứu thoát đến độ gây chướng kỳ. Người tha thứ tới mức khiến công phẫn.
Nhưng chính cách cư xử lạ lùng đó đã tạo nên hiệu quả: tay phú hộ đáng ghét đã làm một cuộc đổi đời ngoạn mục: “lấy phân nửa tài sản mà cho người nghèo; và nếu đã chiếm đoạt của ai, xin đền gấp bốn”. Thánh Ambrôsiô, trong bài giảng ở Milanô, đã từng dạy: “Lỗi không phải ở chỗ giàu có, nhưng ở chỗ chẳng biết sử dụng nên của cải của mình...” Và toàn bộ Tin Mừng của thánh Lu-ca xem ra bảo rằng chỉ có một lối dùng nên của cải là thoát ly nó, là trao tặng nó! (x. Lc 12,23; 16,9). Thảng thốt trước lòng quảng đại của Đức Giê-su đối với mình, Da-kêu đã muốn chứng tỏ cũng lòng quảng đại ấy với những kẻ khác. Từng bất hạnh với tất cả vàng bạc của mình, nay Da-kêu hết sức vui mừng phân phát mừng vui.
Trong mọi tôn giáo, kể cả tại Ít-ra-en, Thiên Chúa là Hữu Thể đáng sợ và Đền Thờ của Người gây nên khiếp hãi linh thánh. Nhưng Đức Giê-su lại chính là Thiên Chúa di chuyển và đến trọ “nhà tội nhân”, để ban ơn cứu rỗi, vì tội nhân cũng là con cái của Người. Và từ ngày đó, các nhà thờ, thậm chí các nhà thờ chánh tòa vĩ đại nhất, đều cũng chỉ là ngôi nhà khiêm tốn của Da-kêu, nơi các tội nhân và thánh nhân gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Giờ đây, nhân vật của chúng ta mới có thể mang tên thật của mình: “người thanh sạch”, người đã được nên thanh sạch, “người công chính”, người đã được nên công chính. mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi -------------- [*] Thầu thuế: người nộp trước tổng số tiền thuế cho chính quyền rồi mới thu của nhân dân sau (trong đế quốc Rô-ma). Dĩ nhiên là thu trội.
Câu truyện Phúc Âm hôm nay làm tôi nhớ lại cuộc hành hương đất thánh trước đây. Chúng tôi rời TN 31-C197
Câu truyện Phúc Âm hôm nay làm tôi nhớ lại cuộc hành hương đất thánh trước đây. Chúng tôi rời Jerusal7em gió lạnh và ẩm thấp đi Jericho để vừa hưởng khí hậu dịu mát vừa viếng thăm xứ với những biến cố đặc biệt ghi trong kinh thánh, đồng thới có dịp thưởng thức những hoa trái tươi mát như soài, tranh, dừa và những trái cây đặc biệt nổi danh khác được bày bán lan tràn ở những chợ lộ thiên. Trong Cựu Ước, Jericho còn được gọi là Thị Trấn Dừa. Đây là một vùng đất phì nhiêu xanh tươi nằm chơi vơi giữa sa mạc.
Dân địa phương còn chỉ cho chúng tôi vị trí ngôi nhà của bà Rahab [*], một gái làng chơi đã được sách Joshua nói tới và Mátthêu nhắc lại khi nói về gia phả của Chúa Giêsu (Mt 1:1-5). Họ cũng rất thích thú chỉ cho chúng tôi những bức tường thành bị tàn phá bởi Joshua trong một trận chiến ghê gớm nói trong Cựu Ước mà có lẽ đã chẳng xẩy ra bao giờ cả. Họ cũng chỉ cho chúng tôi ngôi nhà của Zacchaeus và cả cây vả nổi tiếng nhất trong số 39 cây ở đó mà ông đã từng leo lên để được nhìn Chúa Giêsu khi Người đi qua.
TẠI SAO ZACCHAEUS MUỐN NHÌN MẶT CHÚA GIÊSU?
Luca diễn tả Zacchaeus rất sống động. Zacchaeus là giám đốc thuế vụ tỉnh và là một tay giàu có trong vùng (Lc 19:1-10). Ông khác hẳn người thanh niên giàu có mà Luca nói tới đã không thể từ bỏ của cải của mình để theo Chúa Giêsu (Lc18: 18-23). Zacchaeus xứng đáng làm gương mẫu cho những ai giàu có. Ông hứa với Chúa Giêsu là sẽ chia nửa gia tài cho người nghèo.
Là tay giàu có trong vùng, Zacchaeus vẫn tỏ ra rất khiêm tốn và muốn đi tìm sự thật. Ông không xấu hổ vì thân lùn của ông. Ông leo lên cây cao để được nhìn thấy mặt Chúa. Tại sao Zacchaeus lại hăm hở muốn nhìn mặt Chúa Giêsu? Có thể vì Chúa Giêsu có những điều không giống ông hay những gì mà ông không hề có. Chúa được quá nhiều người ngưỡng mộ, yêu mến, tín nhiệm, tìm kiếm và đi theo. Có cô đơn, bị bạn bè, láng giềng, mọi người xa lánh mới thấm thía nỗi buồn khổ và tưởng tượng ra cái sung sướng, hạnh phúc của người được mọi người ngưỡng mộ, thương yêu. Zacchaeus ở trong trường hợp này.
ZACCHAEUS! HÃY XUỐNG ĐÂY. KẺ TỘI LỖI ĐÃ ĐƯỢC CỨU RỖI
“Zacchaeus! Hãy mau mau xuống đây, vì hôm nay ta cần ở lại nhà ngươi” (Lc.19:5). “Zacchaeus”, cái tên ghê tởm bị mọi người oán ghét. “Hôm nay”, chính lúc này là lúc ơn cứu độ đổ xuống cho ngươi. “Ta phải”, tại sao lại ‘phải’? Vì Cha ta, Đấng giầu lòng thương xót, muốn Ta “tìm kiếm và cứu giúp kẻ đã mất” (Lc 19:10).
Zacchaeus đã chứng tỏ sự thống hối của mình bằng quyết tâm sửa đổi những lỗi lầm trong quá khứ và chứng tỏ mình thực sự là con cháu của Abraham, kẻ thừa kế lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước. Zacchaeus được Luca diễn tả như là con cháu Abraham, tổ phụ dân Do Thái, có nghĩa là ông nhận biết trọng điểm của chương trình cứu độ là Israel.
Khi được yêu cầu như vậy thì những người giống như ông thường từ chối, nhưng Zacchaeus lại vui mừng chấp nhận. Những bức tường Jericho thực sự rung chuyển và xụp đổ! Có lẽ đây là lần đầu tiên Zacchaeus được chấp nhận vô điều kiện. Ông rất vui mừng, không còn xấu hổ như trước nữa. Theo như Luca diễn tả thì đó là cuộc ăn mừng lễ hội! Và đây, lại một lần nữa, tiếng xì xào, đồn đại là ông Giêsu đã vào nhà và ngồi cùng bàn ăn uống với Zacchaeus là một tên thu thuế khét tiếng gian ác tội lỗi trong vùng. Khi ngồi cùng bàn với những tay quyền chức cao cấp trong xã hội, Chúa Giêsu quan sát Zacchaeus bước khỏi đống bùn lầy dơ dáy, nấm mồ hôi thối, không còn mặc cảm tội lỗi do chính ông đã gây ra. Kẻ tội lỗi đã được cứu rỗi.
ƠN CỨU ĐỘ ĐÃ ĐẾN NHÀ NÀY
Chúa Giêsu đã công khai tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến nhà này.” Chúa nói vậy với ông giám đốc thuế vụ Jericho thì Chúa cũng có thể nói như thế với mỗi người chúng ta; “Zacchaeus, đừng leo quá cao trên cây của các ngươi…và đừng trốn chạy ta, đừng tốn công sức để ý đến những mặc cảm tội lỗi của ngươi nữa. Ta cần bàn hỏi với ngươi xem ngươi giấu kín cái “tôi gian ác” của ngươi ở đâu, rồi chúng ta cùng nhau tìm cách lướt thắng những chống chế của ngươi hầu thoát ra khỏi cơn mê tội lỗi này. Hãy coi đây, cây đang đâm trồi nảy lộc…Ta đến để cứu ngươi!”
CÂU CHUYỆN LUÂN LÝ
Qua câu chuyện này, chúng ta có thể rút ra được bài học luân lý. Khi nhận ra mình đã lạc đường và mất hết chẳng còn gì, chúng ta mới tự hỏi chúng ta đang ở đâu. Chúng ta cần đặt tên cho cái mặt nạ chúng ta đang đeo trước khi vất bỏ nó cùng với những lớp phấn ta đã thoa lên mặt chúng ta, thì chúng ta mới có thể nhìn rõ được bản mặt thật của chúng ta. Chúng ta phải cảm nghiệm về chính cái chết của chúng ta, trong tâm chúng ta với tất cả những súc động, bồi hồi, lo lắng, suy nghĩ về mình, về người, về những kẻ bị đàn áp bất công, về dân oan, về những người bị cướp mất cuộc sống do môi trường ô hiễm, bị hủy hoại, về những người thân yêu, những người mình thâm thù oán ghét cũng như những kẻ oán hận chúng ta…để rồi bắt đầu cuộc hành trình đi về Jerusalem, thị trấn của tử nạn và phục sinh. Hãy bỏ đi những cảm nghĩ tự an ủi mình, không chống chế biện hộ cho mình nữa, nhảy ra khỏi lùm cây âm u mình đang lẩn trốn, lấy nửa tài sản đem cho người nghèo, xả thân giúp đỡ kẻ hoạn nạn nghèo khó, đền trả những ai mà mình đã ăn gian, ăn cướp, đã vì vô cảm để dân lành, dân oan, những người anh em huynh đệ bị khốn khổ. Khi mà ơn cứu chuộc đã đến trong xã hội chúng ta, cộng đồng chúng ta, nhà chúng ta và tâm chúng ta thì không một ai có thể cướp đi được tặng vật quí giá ấy.
ĐÔI LỜI KẾT: HÃY CẢI ĐỔI.
Để kết thúc bài suy niệm, xin trich ít dòng của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết cho các Linh mục dịp Thứ Năm Tuần Thánh 2002 (No 5-6) liên quan đến câu truyện Phúc Âm lý thú hôm nay:
“Tất cả mọi chuyện xảy ra cho ông ta (Zacchaeus) đều lạ lùng. Nếu giả thử chẳng may Chúa Kitô không ngẩng mặt lên nhìn ông ta, thì có lẽ ông ta cũng chỉ là một quan sát viên thầm lặng nhìn Chúa đi qua đường phố Jericho và, Chúa Giêsu đã đi qua mà không đi vào đời ông. Zacchaeus đã không ngờ rằng sự tò mò của ông đã thúc dục ông làm chuyện bất thường ấy, lại chính là hoa trái của lòng Chúa thương xót đã có trước ông, đã thôi thúc ông, khiến ông thay đổi sâu đậm tận đáy lòng. (…)
“Câu chuyện của Luca đặc biệt cả về văn điệu lẫn ngôn từ: Tất cả mọi sự đều đặc thù, khéo léo và dễ thương! Bản văn không chỉ tràn đầy tình người mà còn như nài nỉ, hối thúc qua lời Chúa nói là một hiến tặng mặc khải của lòng Chúa thương xót. Chúa nói: ‘Ta phải ở lại nhà ngươi’ hay dịch sát nghĩa hơn là: ‘Ta cần ở lại nhà ngươi’(c.5). Theo đúng lộ trình huyền diệu mà Thiên Chúa Cha đã trao đặt nơi Chúa Giêsu, trên đường đi Chúa đã đến với Zacchaeus. Người dừng chân bên ông như thể cuộc gặp gỡ đã được sắp đặt từ khởi đầu. Bất chấp lời xì xào đồn đại của miệng lưỡi loài người, căn nhà của kẻ tội lỗi sắp sửa trở thành một địa danh mạc khải, khung cảnh phép lạ của lòng Chúa thương xót. Thực vậy, việc này sẽ chẳng xẩy ra nếu Zacchaeus không để cho lòng mình thoát khỏi những trói buộc của ích kỷ, bất chính và những gian trá của ông. Nhưng lòng Chúa thương xót đã đến với ông như là tặng vật tràn đầy và nhưng không. Lòng thương xót đã có trước ông! (…)
“Đây chính là trường hợp xảy ra cho Zacchaeus. Biết rằng mình được đối sử như một người con, nên ông bắt đầu suy nghĩ và hành động như một người con, và ông sẽ biểu lộ cho những người anh chị em cùng một cách thức như vậy. Dưới cái nhìn trìu mến của Chúa Kitô, tim Zacchaeus bừng cháy tình yêu thương đối với những người láng giềng. Từ chỗ có cảm nghĩ mình bị cô lập, ông không cần để ý và biết đến cái cảnh đau khổ của người khác, bây giờ ông chuyển đổi thành thái độ chia sẻ: ‘Phân chia một nửa tài sản cho người nghèo’ (c.8). Bất công mà ông làm cho người ta bằng gian dối, ông sẽ đền bù: ‘Nếu tôi cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi sẽ đền gấp bốn’(c.8). Ở điểm này thì chỉ có tình yêu Chúa mới có thể làm được như vậy, và ơn cứu độ đã hoàn thành: ‘Hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này’ (c.9).”