Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 31-C Bài 101-150: Ông Da-kêu, chứng nhân của lòng thương xót ---------------------------------------------- Phúc Âm: Lc 19, 1-10: "Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Nói về sự sống đời sau, có lẽ không một người nào trên thế giới này mà không đặt dấu hỏi. Từ khi có ý thức, biết suy tư về cuộc đời, người ta đã bắt đầu suy tư về sự tồn tại của bản thân và thế giới. Câu hỏi sự sống đời sau là một trong những câu hỏi được nhân loại quan tâm hàng đầu. Sống đây nhưng con người vẫn ngay ngáy lo cho ngày mai. Mặc dầu không tin lắm vào sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa nhưng người ta cũng vẫn cứ muốn biết cái gì tiếp diễn ở đằng sau cuộc sống này, khi mà sự chết đến, biến đổi toàn bộ đời sống thế giới, nhân loại vẫn muốn biết còn gì nữa đằng sau cái chết.
Niềm tin Công Giáo dạy rằng: chết chính là cửa ngõ để bước sang một sự sống mới, sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Lúc này con người không còn chết nữa, nhưng là sống đời đời. Và sự sống mai hậu trên Thiên Quốc ấy, nơi chỉ còn tình yêu và hoan lạc, không có nước mắt, chẳng còn khổ đau. Và tất cả mọi người, sống như thiên thần, chẳng còn dựng vợ, cũng không có gả chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật họ không thể chết được nữa” ( Lc 20, 34 – 36 ).
Nói về cuộc sống trần gian, ai cũng cảm thấy sợ, thấy ngán ngẩm, người ta mơ về một lối sống chẳng còn đau khổ, chẳng có chia lìa. Thế nhưng, để đánh đổi cho có được cuộc sống ấy thì ai ai cũng muốn thối lui, bỏ cuộc. Nhân loại không muốn đánh mất những giá trị trần thế, cái mà họ cho là cùng đích, là cứu cánh. Mặc dầu biết rất rõ rằng, tất cả mọi thứ tồn tại trên trần gian này đều là phù vân, là hư vô, là giả trá, không có giá trị trường tồn, vĩnh cửu.
Người tin đã vậy, người không tin lại càng tệ hại. Tin có sự sống đời sau, nhưng khổ nỗi lòng còn mang nặng tham vọng trần thế, nên không dám đánh đổi để có được sự sống vĩnh cửu thuộc về Thiên Chúa. Kẻ không tin thì mặc kệ, buông thả bản thân, thỏa mãn mọi dục vọng thế trần. Làm thế nào đây, để thế giới hiểu được rằng có một sự sống khác đàng sau cuộc sống đầy khổ đau và nước mắt này. Tất cả những gì chúng ta đang gầy dựng cho cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ, phù du. Chính sự sống đằng sau sự bôn ba, lo toan vất vả ấy mới là cuộc sống thật, nơi được đong đo bằng lòng mến.
Cuộc sống thật ấy là gì ? Là hoàn toàn khác biệt với lối sống mà nhân loại đang thủ đắc. Nơi đó người lành được hưởng phúc Thiên Đàng, kẻ có tội phải chịu hình phạt thích đáng với hậu quả mình gây ra. Cuộc sống ấy chỉ còn niềm vui, không còn nước mắt vì thuộc về Thiên Chúa, là con cái của Ngài. Chỉ những ai biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa, người đó mới xứng đáng nhận phần phúc mà thôi. Lúc này đau khổ hay ngay cả sự chết cũng không làm gì được họ, họ đã được ngang hàng với các thiên thần, là con cái Thiên Chúa, con cái sự sống lại ( x. Lc 20, 36 ).
Lạy Chúa, con tin có một sự sống đằng sau cuộc sống này. Và cuộc sống ấy mới đích thực là sự sống mà con cần phải thủ đắc. Có được sự sống đời này, con thấy cũng quá đủ đau khổ lắm rồi. Bao phen trầy trụa, vào cay ra đắng, lăn lộn với những vòng xoáy cuộc đời, con mới có thể tồn tại đến ngày hôm nay. Khó khăn chật vật vậy đấy, nhưng tất cả chỉ là một lối sống tạm bợ, nay còn mai mất mà thôi, phù vân biết chừng nào.
Vậy có được sự sống vĩnh cửu hạnh phúc bất diệt, không bao giờ phải chết nữa, ắt hẳn con còn phải khổ công lao nhọc hơn biết là ngần nào. Đang sống đây, nhưng luôn ý thức rằng mình sẽ chết mai khiến tâm trí con nhiều khi chao đảo, rã rời. Niềm hạnh phúc bất diệt ngày sau mà Thiên Chúa hứa ban ấy dường như với sức lực bản thân, con chẳng sao vươn tới. Thôi thì, xin Chúa giúp con, sống sao thì sống, chỉ cần con sống một ngày hạnh phúc trong Tình Yêu Thiên Chúa, đời này hay đời sau cũng vậy. Cuộc đời đã ngắn ngủi vậy, nỗi đau khổ của đời sau lại kéo dài, thì còn bất hạnh nào hơn ?!?
Xin Chúa giúp con sống hôm nay như ngày sau đang sống, để không phải nối tiếc nếu có phải đổi thay. Amen.
Ðức Cha Fulton J. Sheen trong tác phẩm "Trên đỉnh cao Thập Giá" đã kể rằng: Sau khi bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Ðịa Ðàng và gánh chịu hình phạt lao dịch, Ađam đã phải vất vả khổ cực tìm kiếm của ăn. Một lần kia, trên đường ra nương rẫy, Ađam vấp phải thân xác bất động của Aben. Ađam nâng dậy vác con lên vai đưa về nhà đặt trong vòng tay Evà. Ông Bà lay gọi nhưng Aben không đáp trả. Trước đây Aben là đứa con ngoan, lanh lợi, không có trầm lặng như vậy. Ông Bà nâng tay Aben lên, bàn tay lại rơi xuống đất bất động, trước đây Aben không hề như thế. Ông Bà nhìn vào đôi mắt của con: lạnh lùng, trắng dã, vô tư một cách bí mật, trước đây đôi mắt của Aben có vô tình như vậy bao giờ đâu. Ông Bà kinh ngạc, nỗi kinh ngạc tăng dần lên. Thế rồi hai Ông Bà chợt nhớ lời Thiên Chúa: "Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ phải chết".
Cái chết của Aben là cái chết đầu tiên của nhân loại. Khi Nguyên Tổ phạm tội, Ðịa Ðàng đã đóng ngõ cài then. Ðau khổ và sự chết đã tràn vào thế giới và chảy dọc theo thời gian. Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Sống và chết là hai thái cực đối chọi nhau. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Thiên Chúa. Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết. Thế giới càng văn minh thì Tử Thần càng xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Có cái chết êm đềm thư thái, có cái chết đau đớn khốn khổ, muốn chết không được, muốn sống không yên. Càng chạy trốn Tử Thần, thì Tử Thần càng đến gần. Càng tránh đau đớn thì đau đớn càng nhiều.
Ở mọi thời đại, cái chết vẫn là một mầu nhiệm thách thức lý trí con người. Tại sao con người lại phải chết ? Chết là gì ? Ðó luôn luôn là những câu hỏi làm xao xuyến tâm não con người trong mọi không gian và thời gian. Sự chết là một đề tài suy niệm phong phú. Mỗi tôn giáo, mỗi con người nhìn và hiểu một cách tuỳ theo quan niệm của mình, tuỳ theo niềm tin, tuỳ theo chọn lựa và thái độ cuộc sống.
Ðối với Kitô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi ( Rm 5, 12; 6, 23 ). Nhưng Thiên Chúa "vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời" ( Ga 3, 16 ) và lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.
Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xađốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giêsu. Họ trích sách Ðệ Nhị Luật 25, 5 – 6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ?. Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng ? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng ? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe Honda, đốt nhà lầu… cho người cõi âm xài… Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền…
Chúa Giêsu trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.
Ðời sau khác đời này. Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Ðời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”.
Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Ðức Giêsu sẽ hoàn tất mạc khải này. Ðức Giêsu đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Kitô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết ( 1Cr 15, 14 ). Thánh Phêrô đã nói một cách sâu sắc: "Tội lỗi của chúng ta, chính Ðức Kitô đã mang vào thân thể, mà đưa lên thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính" ( 1Pr 2, 24 ).
Vì Ðức Giêsu đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Ðức Kitô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Ðức Kitô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Ðức Giêsu không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Kitô đã được Thần Khí hoá ( Rm 8, 11; 1Pr 3, 18 ), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa ( Rm 6, 10 ).
Niềm tin vào Ðức Giêsu, Ðấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Kitô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cửu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giêsu. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Ðại diện cho Giáo Hội là Linh Mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Ðất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: "Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Ðàng."
Sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Kitô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là "Ápba, Cha ơi !" ( Rm 8, 15 ).
Tin và sống trong ân tình của Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: "Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết" ( Ga 11, 26; 1Ga 3, 14 ). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa ( Thánh Augustinô ). Amen.
Có ngày sinh ắt có ngày chết. Đó là chân lý. Nếu ngày sinh, chúng ta cất tiếng khóc trong niềm vui mừng của mọi người, thì ngày chết, mọi người sẽ khóc cho kiếp người của ta đến đây kết thúc. Vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu ? Bên kia cái chết là gì ?
Những câu hỏi như thế, nhóm Xađốc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đã đặt ra cho Đức Giêsu. Nhân cơ hội, Đức Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về thắc mắc trên.
Tại sao nhóm Xađốc không tin sự sống lại
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào trong bối cảnh sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, và cũng là một trong những bài giáo huấn quan trọng của Ngài tại Giêrusalem. Đức Giêsu lên Giêrusalem lần này là để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Ngài sẽ chịu: "Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” ( Lc 18, 31 ). Vì thế, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài ở đây, nhóm Pharisêu ( còn gọi là Biệt Phái ) cùng với các Luật Sĩ, Kinh Sư, luôn tìm cách gài bẫy để bắt Đức Giêsu nhằm loại trừ Ngài và xóa bỏ Giáo Lý mà Ngài đang loan báo. Hôm nay, thêm một nhóm nữa cũng với ý đồ như hai nhóm trên, họ chính là nhóm Xađốc.
Nhóm này là một trong ba nhóm quyền lực nhất trong dân thời bấy giờ, đó là: Pharisêu, Luật Sĩ và Xađốc. Hai nhóm đầu họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Còn nhóm Xađốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc. Thái độ và cách thức khác nhau, nhưng họ đều là những người chống đối Đức Giêsu. Chủ trương của nhóm Xađốc này là không tin có sự sống lại. Họ hoàn toàn phủ nhận tất cả những gì không nằm trong bộ Ngũ Thư, bởi vì họ chỉ tin năm cuốn sách đầu của Cựu Ước, và họ bác bỏ hết tất cả các sách còn lại. Trong bộ Ngũ Thư của Môsê không có nói trực tiếp đến vấn đề sống lại. Có chăng chỉ là những hình ảnh. Vì thế, họ không tin. Mặt khác, giả thiết của nhóm này là: nếu có tin thì sự sống đời sau chẳng khác gì cuộc sống hiện tại trên trần gian và, quyền năng của Thiên Chúa không xa hơn khả năng của con người là bao.
Khởi đi từ quan điểm, lựa chọn trên của nhóm này, nên họ đã đặt ra cho Đức Giêsu một tình huống hết sức ly kỳ. Họ trưng ra một câu chuyện theo kiểu trào phúng: khi có hai người lấy nhau, người chồng chết mà không con, theo luật, người vợ đó sẽ được lấy tiếp người anh em còn sống để có con nối dõi, và lần lượt như thế tới 7 đời chồng mà vẫn không có con, vấn nạn đặt ra là sau khi sống lại, người đàn bà này sẽ là vợ của ai ? ( x. Lc 20, 27 – 38 )
Khi đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi như vậy, họ đã dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” một mũi tên bắn hai đích. Một phần họ muốn gài bẫy Đức Giêsu để kiếm cớ tố cáo Ngài; mặt khác, họ muốn so tài với nhóm Pharisêu và Luật Sĩ, vì hai nhóm này đã bị thất bại nhiều lần và chịu sự khiển trách nặng nề của Đức Giêsu công khai trước mặt toàn dân.
Khi nhóm Xađốc đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi về sự sống lại như thế, nhân cơ hội này, Ngài đã mạc khải cho họ về sự sống lại và cuộc sống của con người sau cái chết.
Mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại
Ngay sau khi nghe họ đặt câu hỏi, Đức Giêsu đã đi thẳng vào vấn đề: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần” ( Lc 20, 35 ).
Thật vậy, ở đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, bởi vì: Thiên Chúa vẫn là Đấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là một vị Thiên Chúa của kẻ chết.
Tuy nhiên, không phải ai cũng được vào dự phần vinh phúc đó, chỉ những người được chọn và gọi mà thôi: “những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết” ( Lc 20, 35 ) thì sẽ được dự phần phúc ấy. Họ là những con chiên được tuyển chọn và được tách ra khỏi dê, là lúa tốt được phân rẽ ra khỏi cỏ lồng vực, là cá tốt được lọc ra khỏi cá xấu... Họ là con cái Thiên Chúa, khi chết, họ trở về ngôi nhà vĩnh cửu của Cha mình để hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối: “Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được” ( 1Cr 2, 9 ).
Nhưng được hạnh phúc, được dự phần hay không, còn do thái độ của chính đương sự, chứ Chúa không ép buộc: "Đây Ta đưa ra cho các ngươi chọn: hoặc con đường đưa tới sự sống, hoặc con đường đưa tới sự chết” ( Gr 21, 8 ) hay: “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” ( Ga 5, 29 ). Quả thật, ân sủng của Chúa vẫn có đó, con người được ơn cứu độ hay không là tùy vào thái độ đón nhận hay không đón nhận.
Niềm tin vào sự sống lại của chúng ta
Như vậy, qua mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại, nên chúng ta tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” ( Ga 11, 25 – 26 ); “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" ( Ga 6, 51 ); "Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời" ( Ga 6, 59 ).
Niềm tin ấy đạt đến đỉnh cao khi chính Đức Giêsu, Đấng đã chết, được mai táng trong mồ ba ngày, và ngày thứ ba đã trỗi dậy từ cõi chết. Niềm tin này đã được các Tông Đồ loan báo và làm chứng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” ( Cv 3, 15; x. Cv 2, 32; 10, 41 ).
Thật vậy, “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” ( 1Cr 6, 14 ). Niềm tin này đã được Giáo Hội tuyên tín trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”.
Khi tin như thế, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa, là cánh cửa ta cần bước qua để tiến vào sự sống viên mãn, vĩnh cửu hơn mà thôi. Quả thật, nếu không có sự sống lại sau cõi chết, thì niềm tin của chúng ta trở nên mù quáng, điều này cũng đã được chính Thánh Phaolô diễn tả khi nói: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” ( x. Cr 15, 19 ).
Tuy nhiên, sống hay chết là một sự chọn lựa. Cuộc sống đời sau là có thật, nhưng để đạt được hạnh phúc hay không lại tùy vào thái độ và sự lựa chọn của mỗi chúng ta. Chọn lựa tốt thì sẽ được hạnh phúc, chọn lựa sai thì sẽ bị đau khổ.
Như vậy, muốn cho cuộc sống của mình được hạnh phúc trường sinh với Chúa thì: hãy sống như những người tỉnh thức để đợi chủ về. Hãy sống như các cô trinh nữ khôn ngoan. Và hãy sống như đây là giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, chính mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa là bảo chứng tuyệt đối của chúng con vào cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con ý thức rằng một ngày nào đó chúng con sẽ phải từ giã cuộc sống tạm bợ này để về với Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc thực sự. Vì thế, xin cho chúng con ngay từ giây phút này, biết chuẩn bị cho xứng đáng ngày trở về với Chúa. Amen.
Đó là cách nói của Thánh Phaolô: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” ( 2Tx 2, 7 ). Nhận định này có từ hai ngàn năm trước, và ngày nay lại càng ứng nghiệm hơn ! Đó là “tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xatan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ” ( 1Tx 2, 9 – 10 ).
CHUYỆN ĐỜI
Hàng ngày đọc báo, nghe đài, xem tivi, lướt web… mà thấy rợn cả người, không thể tưởng tượng được những hành động dã man đó lại đang xảy ra thật, với đủ mức kiểu, đủ mức độ và xảo quyệt rất tinh vi. Họ là hiện thân của ác quỷ !
1. Sau hơn 5 ngày xảy ra vụ án hồi tháng 10 năm 2013, người dân tỉnh Đăk Lăk vẫn chưa hết bàng hoàng, đau xót trước cái chết của hai cháu nhỏ xấu số Hà Cao Nguyên ( 10 tuổi ) và Hà Phú Quý ( 13 tuổi ), ở thôn 7C, xã Ea Hiao, huyện Ea H’leo. Hung thủ Vy Bế Ngoạt ( sinh năm 1975, trú cùng thôn ) là bác rể của các nạn nhân. Cháu Nguyên bị chém 7 nhát búa chim ( rìu ) vào đầu và gục trên bàn học, còn cháu Quý ( bị bệnh down ) bị chém 2 nhát vào đầu khi đang nằm trên giường. Ai thấy thi thể các cháu cũng phải rùng mình, đau xót.
2. Trung tuần tháng 10 năm 2013, chị Lê Thị Thanh Huyền là nạn nhân của “bác sĩ đồ tể” Nguyễn Mạnh Tường, thẩm mỹ viện Cát Tường ( Hà Nội ). “Đồ tể” Tường đã giải phẫu thẩm mỹ cho chị Huyền và khiến chị tử vong. Y liền toa rập với bảo vệ đem xác chị ném xuống sông để phi tang.
3. Từ những xích mích, mâu thuẫn lặt vặt giữa Tiềm và gia đình người anh vợ như: Quét bụi trong nhà vào chỗ vợ chồng hắn, rồ ga xe máy thật to khi đem vào nhà, sát đầu giường vợ chồng hắn ngủ… Chỉ với các mâu thuẫn rất đơn giản ấy, nhưng vì cứ tích tụ trong đầu óc của một kẻ “bệnh hoạn” và thâm độc như Tiềm ( 34 tuổi, xã Duy Tân, Kinh Môn, Hải Dương ) đã khiến hắn nảy sinh tội ác gây ra vụ nổ xe máy kinh hoàng khiến hai mẹ con chị Nguyễn Thị Quỳnh ( sinh năm 1982, xã Nam Sơn, Thành phố Bắc Ninh ) tử vong. Đau đớn hơn nữa là chị Quỳnh còn có một mầm sống khác mới ba tháng tuổi đang mang trong mình. Hai mẹ con mà ba mạng người ! 4. Chị M. ở Đồng Tháp, 32 tuổi, lấy chồng nhưng không hạnh phúc. Chị về ở với mẹ. Sau một thời gian, chị “mến” anh hàng xóm kém mình vài tuổi. Chị cho mẹ biết nhưng bị mẹ ngăn cấm. Chị quyết đến với người tình bằng mọi cách. Vào những ngày cuối tháng 10 năm 2013, chị nghĩ ra “độc chiêu” là thủ tiêu mẹ ruột rồi cột đá bỏ thi thể mẹ hiền xuống sông, làm vậy để “nữ quái” có thể tự do luyến ái với anh chàng hàng xóm “dễ thương” của thị.
Đó chỉ là vài trường hợp điển hình mới xảy ra trong thời gian gần đây, còn biết bao chuyện động trời khác nữa mà chẳng có thể biết hết. Điều đó cho thấy rằng sự gian ác vẫn xảy ra hằng ngày, cấp độ xem chừng gia tăng !
CHUYỆN ĐẠO
Ông bà Nguyên Tổ có hai cậu con trai là Cain và Aben. St 1, 1 – 16 cho biết: Hai anh em dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Ngài đoái nhận lễ vật của Aben, nhưng Ngài không đoái nhận lễ vật Cain. Cain giận lắm nên sa sầm nét mặt. Không phải là Thiên Chúa thiên tư, mà tại Cain có ý xấu và hành động không tốt. Rồi vì ghen tức, Cain đã nhẫn tâm giết em của mình. Chúa hỏi Cain về Aben, Cain đã chối phăng. Đã phạm tội ác còn che giấu, không dám thú nhận.
2Sm 11, 2 – 26 kể rằng: Vào một buổi chiều, vua Đavít đi dạo trên sân thượng thì chợt nhìn thấy một phụ nữ đạp đang tắm. Ông cho người điều tra thì được biết phụ nữ đó là Bát Seva, con gái ông Êliam, vợ ông Urigia người Khết. Ông mê phụ nữ này nên muốn chiếm đoạt. Ông cho mời Urigia đến và làm ra vẻ tốt bụng, nhưng thực ra là ông muốn đẩy Urigia ra chiến đấu ở tuyến đầu nguy hiểm. Đavít nham hiểm thật !
Và rồi điều gì đến đã đến. Urigia tử trận. Chủ tướng Giôáp cho lính về báo hung tin, vua Đavít vẫn thản nhiên và ra lệnh cho tên lính ra trận báo lại với Giôáp: “Đừng bực mình về chuyện ấy, vì việc binh đao là thế: khi thì người này, khi thì người kia bị chém. Hãy mạnh mẽ tấn công và phá huỷ thành. Ngươi hãy khích lệ ông ấy” ( 2Sm 11, 25 ). Đúng là tàn nhẫn quá !
Và hằng ngày, trong cuộc sống đời thường, từ gia đình tới xã hội, từ các Giáo Xứ tới các cộng đoàn tu trì, từ các nhóm Tông Đồ tới các hội đoàn với danh chính ngôn thuận theo kiểu “Công Giáo Tiến Hành”, chúng ta vẫn thấy đầy những mưu mô thâm độc. Người ta không giết nhau bằng gươm đao hoặc súng đạn, nhưng người ta giết nhau bằng những cách tinh vi hơn, kể cả những kiểu “thọc gậy bánh xe” hoặc “giật dây”. Thật vậy ư ?
Thật 100% là vậy. Đó là những ánh mắt lườm nguýt nhau sắc hơn dao cau, kết bè kết phe, tạo vây cánh để bảo vệ “quyền lực” của mình, cố thủ giữ “chiếc ghế” của mình, nói hành nói tỏi, gièm pha, trù dập, áp chế, độc đoán, lọc lừa,… Rất tinh vi với thiên hình vạn trạng, có là “chuyên gia” cũng khó có thể dễ xác định. Thật khủng khiếp !
Thế nhưng, khi tiếp xúc với họ, chúng ta thấy họ có “nét” rất đạo đức, khiêm nhu, nhu mì, hiền dịu, nhân từ, chân thật, từ tốn, bình đẳng, đại lượng… Coi chừng những gì chúng ta làm lại chỉ là “sáng danh con” chứ “chẳng hề sáng danh Chúa” chút xíu nào ráo trọi. Thế thì thật tồi tệ !
Những hành động dã man ở ngoài xã hội ngày nay hoặc thời Cựu Ước xem chừng quá đỗi ghê tởm, thế nhưng các động thái “ra vẻ” hiền như chiên của một số người mà chúng ta thấy hằng ngày cũng dã man chẳng kém đâu ! Như vậy thì có khác chi sát nhân ?
Không phải là đa nghi, nhưng cũng nên “cẩn tắc vô ưu”, phải cần thời gian dài mới khả dĩ biết đâu là vàng hay thau. E rằng không chừng lại chỉ là cát bụi hoặc phân tro, như Chúa Giêsu đã so sánh là “mồ mả tô vôi” ( Mt 23, 27 ), và Ngài “lật tẩy” mà không vị nể: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” ( Mt 15, 8; Mc 7, 6 ). Đáng “giật mình” và “tự sờ gáy” lắm !
Là chiến sĩ của Thánh tâm Chúa, là Tông Đồ của Lòng Chúa Thương Xót, là đạo binh của Đức Mẹ, là con cái của Đức Mẹ, là hội viên của đoàn này hoặc hội nọ, sinh hoạt trong nhóm này hoặc nhóm kia,… dù mục đích và tôn chỉ có chút khác nhau, nhưng chung quy thì cũng chỉ là để sống trọn vẹn Luật Yêu của Thiên Chúa và đem Chúa Giêsu đến với người khác. Vào hội này hoặc đoàn nọ mà chia rẽ thì chỉ là “ưa hình thức”, muốn phô trương cho người khác biết mình “nổi trội”, và như vậy thì có xứng đáng ? Liệu chúng ta có dám đối diện với thực tế và can đảm thú nhận để có thể đấm ngực ăn năn mà được hưởng ân xá của Thiên Chúa ? Thiên Chúa im lặng vì Ngài kiên trì, muốn kéo dài thời gian để chúng ta KỊP sám hối và có thể đón nhận Ơn Cứu Độ của Ngài.
"Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng ? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài" ( Tv 129, 3 – 4).
Tháng Mai Khôi vừa hết. Bà con Giáo Dân đọc kinh Mai Khôi và Kiệu Đức Mẹ đến từng nhà trong Giáo Họ. Thế là Đức Mẹ đã đến thăm và ở lại nhà con cái Mẹ ít là một đêm. Mỗi gia đình chăm chút từng cánh hoa dâng Mẹ. Ông bà, cha mẹ, con cháu sum họp bên Mẹ, kinh nguyện sốt sắng. Ông Trùm Họ tổng kết tháng Mai Khôi rành rành rằng: Xóm 1, 28 gia đình, trừ 2 nhà rối; Xóm 2, 24 gia đình, trừ 3 nhà rối, Xóm 3, 27 gia đình, trừ 2 nhà chống đối cha sở, 1 nhà rối; Xóm 4, 16 gia đình, trừ 3 nhà bỏ đạo, 2 nhà có con làm nghề tội lỗi, 2 nhà không đóng niên liễm 3 năm rồi !
Đêm 15 tháng 10, kiệu Đức Mẹ về đến nhà ông bà N, xóm 1. Chị H, bên cạnh nhà ông bà N, biết mình trong tình trạng “rối không gỡ được” đã 12 năm nay, và biết Đức Mẹ sẽ không được người ta cho phép đến nhà mình, chị đã sang nhà ông bà N, cầu khẩn: “Ông bà làm ơn cho con lén khiêng kiệu Đức Mẹ sang nhà con một tí, một tí thôi, rồi con đem trả lại ngay”. Ông N trả lời: “Nếu bên trùm họ mà biết thì chết tui !”
Như thế là Đức Mẹ bị… cấm vào nhà kẻ có tội. Tội nghiệp Đức Mẹ ghê ! Nhưng mà ai đã ban lệnh cấm nầy ? Thật đáng tiếc ! Cho đến hôm nay mà vẫn còn những lệnh cấm không phù hợp với Tin Mừng tí nào ! Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đả phá cái luật bất nhân này rồi, mà sao đến bây giờ, 2013, người ta vẫn cứ còn giữ ?
Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật việc Chúa Giêsu chủ động “vào nhà kẻ có tội”. Và chính ý hướng chủ động của Chúa đã làm cho con người tội lỗi ấy hoàn lương, nên công chính.
Dakêu, một người thu thuế và đứng đầu những người thu thuế trong vùng, bị xem là tội lỗi công khai và bị xã hội ruồng bỏ. Những tưởng ông ta cũng chẳng màng đến chuyện chấp nhận hay loại trừ tương quan xã hội, bởi vì ông có thiếu thốn điều chi trên đời này đâu. Đứng đầu những người thu thuế thì hẳn nhiên là ông có dư giả bạc tiền, tiện nghi, phương tiện, có tất cả, thì cần gì phải bận tâm đến chuyện chấp nhận hay ruồng bỏ ? ! ?
Nhưng không, ông vẫn cảm thấy thiếu thốn điều gì đó quan trọng hơn của cải, quyền thế của ông. Chính cái “cảm thấy thiếu” nơi ông đã thôi thúc ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Việc ông vượt qua cản trở về ngoại hình thấp bé bằng cách leo lên cây sung cho thấy quyết tâm của ông là phải nhìn xem cho bằng được. Điều đó đã nói lên việc gặp gỡ Đức Giêsu là cần thiết cách tuyệt đối nơi ông.
Có thể đám dân chúng theo Chúa Giêsu dự đoán là Chúa Giêsu sẽ chẳng màng tới ông Dakêu tội lỗi kia. Nhưng không, điều ngược lại đã xảy ra là: Chúa dừng lại, ngước nhìn lên ông đang đeo trên cành sung, và ân cần nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Thánh Luca thuật rằng ông Dakêu “vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người”. Hình ảnh rất sống động diễn tả trọn vẹn niềm vui, niềm hạnh phúc của người tội lỗi, người bị thiên hạ tuyệt giao, loại trừ, xua đuổi, nay được Con Thiên Chúa viếng thăm.
Thế là Chúa Giêsu đã “vào nhà người tội lỗi”. Lệnh “cấm vào nhà người tội lỗi” như một bản luật vẫn còn sắc nét trong tâm khảm của dân chúng, nên họ mới xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” Nhưng cách nào đó, Chúa Giêsu đã đả phá công khai, và viết nên một bản luật mới: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”.
Tình thương của Thiên Chúa có sức biến đổi con người từ chỗ bất chính nên công chính, từ chỗ chưa hoàn thiện đến chỗ toàn thiện. Cụ thể nhất là biến đổi con người Dakêu hôm nay: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Như thế, cuộc gặp gỡ trực tiếp rất ít lời trò chuyện mà quí hơn biết bao câu nói, biết bao lời nhắn gửi. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Đúng là gặp gỡ Đức Giêsu, biến đổi cuộc đời mình và đón nhận ơn tái sinh.
Rõ ràng là Chúa Giêsu không giữ luật “cấm vào nhà người tội lỗi”, mà còn, ngược lại, Chúa đến với người tội lỗi để người tội lỗi được cứu rỗi. Thiết tưởng, Tin Mừng hôm nay gửi đến chúng ta những thông điệp quí giá:
Thông điệp cho người tội lỗi: Hãy cảm thấy thiếu Chúa Giêsu, cảm thấy cần Chúa Giêsu, khát khao, tìm, và gặp Lời Thiên Chúa, gặp Đức Giêsu cho bằng được.
Thông điệp cho những người cho mình là công chính: Đừng khinh bỉ, loại trừ người tội lỗi. nhưng hãy cảm thông nỗi đau của họ, hãy mở lòng đón nhận họ, hãy tạo điều kiện tốt nhất để mở đường cho họ đến với Chúa Giêsu và để Chúa Giêsu đến với họ…
Thông điệp cho các mục tử: Thường xuyên đến thăm con chiên của mình, nhất là những con chiên đau yếu, bệnh tật, nguội lạnh, rối rắm, tội lỗi... Một lần thăm của các mục tử có giá trị biết bao đối với con chiên. Ước gì không có con chiên nào phàn nàn về việc mục tử ở với chiên vài ba năm rồi mà chưa hề thăm một nhà ai cả, huống chi nhà người tội lỗi !
Trở lại với câu chuyện của chị H trên đây, ước gì mọi người hiểu và cảm thông cho chị cũng như cho những người như chị. “Ông bà làm ơn cho con lén khiêng kiệu Đức Mẹ sang nhà con một tí, một tí thôi, rồi con đem trả lại ngay”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khao khát Chúa, biết cần có Chúa, biết tìm và gặp Chúa cho bằng được, để chúng con được ơn biến đổi và tái sinh. Xin cho chúng con biết cảm thông và xoa dịu nỗi đau của những người khát khao nên công chính. Amen.
"Ngài vận một chiếc áo trắng kiểu dân tộc cách điệu nhẹ nhàng, đi đôi dép “tổ ong” màu trắng, khuôn mặt ngài hồng hào, phúc hậu, đôi mắt sáng lấp lánh sau cặp kính lão, vầng trán cao cương quyết, uyên bác. Ngài mỉm cười trìu mến, nhìn chúng tôi mới leo lên tới nơi, còn đang thở hổn hển, mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt và lưng áo. Mặt ai cũng đỏ ửng vì không quen leo núi nhưng khi trông thấy Đức Tổng và nụ cười dễ mến của ngài, bao nhiêu mệt mỏi như tan biến hết, thay thế vào đó là những nụ cười đáp lại, những câu pha trò hài hước, ánh mắt ngưỡng mộ, yêu mến…
Đợi tất cả chúng tôi lên tới nơi và lấy lại nhịp thở bình thường, Đức Tổng bắt đầu nói chuyện, hỏi thăm tình hình học tập và sức khỏe cũng như những hoạt động của chúng tôi trong suốt quãng thời gian qua. Chúng tôi ngồi quây tròn thân mật xung quanh ngài, chăm chú lắng nghe từng lời chia sẻ của ngài. Giọng nói của ngài trầm ấm, nhẹ nhàng nhưng tất cả đều rất ý nghĩa và hấp dẫn. Ngài khuyên những sinh viên chúng tôi phải biết lựa chọn và đón lấy những điều tốt, đào thải ra khỏi tâm hồn những cái xấu, cái không tốt, để trở nên những con người toàn diện, can đảm làm chứng nhân cho Chúa. Ngài còn lấy ví dụ rất dễ hiểu để diễn giải cho chúng tôi: Cũng như cái cây biết hút vào mình khí CO2 – có ích cho sự sinh tồn của nó, và nhả ra khí O2 – có ích cho con người, cho môi trường sống, thì chúng ta cũng phải biết sáng suốt cân nhắc lựa chọn đâu là điều tốt cho mình, cái gì là tốt đẹp và hành động theo đó, tránh xa những cái xấu và dịp tội để làm đẹp cho tâm hồn mình, trở thành người có ích cho Giáo Hội, cho xã hội…
Riêng về tôi, tôi cảm nhận được những thay đổi trong suy nghĩ và tâm hồn mình, chính những thay đổi đó đã làm cho cuộc gặp gỡ với Đức Tổng hôm nay trở thành “cuộc gặp gỡ kì diệu” với tôi. Không phải là một cuộc gặp gỡ khách sáo trong phòng khách sang trọng nhiều nghi thức, không phải một cuộc nói chuyện xã giao về những vấn đề vĩ mô, to tát... mà là một cuộc gặp gỡ thân thiết, chân thành, hơn cả, đó là cuộc gặp gỡ của những tâm hồn, cuộc gặp gỡ Đức Tin". ( Thu Trang, Gặp gỡ kỳ diệu của sinh viên Công Giáo Hà Nội với Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, Vietcatholic ).
Hôm nay, trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca kể chuyện ông Dakêu khát vọng gặp Chúa. Cũng như các sinh viên Công Giáo Hà Nội diện kiến Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, ông Dakêu đã toại nguyện và biến đổi tức thời.
Khát vọng gặp Chúa
Tuy Dakêu giàu có, quyền cao chức trọng, nhưng không thể sống thanh thản, bình an, hạnh phúc, bởi vì bị dân chúng Giêricô khinh miệt, oán ghét, vì thu thuế nối giáo cho giặc, vì tham lam, lộng quyền, nhũng nhiễu dân đen. Cho nên, ông khao khát được gặp gỡ Chúa Giêsu. Đấng hằng gần gũi, thân thiện, an ủi, hòa giải, chăm sóc, chữa lành và cứu thoát biết bao kẻ tội lỗi, mại dâm, thuế quan, đầu trộm đuôi cướp, cũng như kẻ đui mù, què quặt, cùi hủi, quỷ ám.
Dakêu đã vượt qua trở ngại thể lý, là thiếu chiều cao, nhất là vượt qua trở ngại thể diện, danh giá, để can đảm trèo lên cây, hy vọng tìm gặp được Chúa đi qua. Mấy thuở nào có một vị Trưởng chi cục thuế dám thản nhiên đu đeo, vắt vẻo, trèo lên cây, để có thể nhìn thấy, gặp gỡ quý nhân, trước con mắt miệt thị, khinh ghét của cả hàng trăm, hàng ngàn bá tánh ? Nỗi khát khao cháy bỏng, niềm hy vọng vững chãi, đã chiến thắng mọi trở ngại, mọi thách đố, mọi sự dèm pha, chế giễu, mọi khích bác, hay mạ lỵ. Nếu trịch thượng, quan liêu, kiểu cách hay sĩ diện, Dakêu đã âm thầm sai bộ hạ đến mời Đức Giêsu, để gặp riêng kín đáo. Nếu ngại dư luận đàm tiếu, Dakêu đã lẳng lặng chờ đến tối khuya, thoải mái diện kiến và đàm đạo cùng Đức Giêsu.
Nhưng không, Dakêu can đảm công khai bày tỏ nỗi niềm khao khát gặp Chúa, giữa thanh thiên bạch nhật, giữa đám đông thù hằn, ngay chốn phồn hoa đô hội. Leo lên cây, Dakêu đã khôn khéo biến thế yếu, sở đoản của mình thành thế mạnh, ưu thế. Dù vóc dáng Dakêu hạn chế, không cao nhưng ai cũng phải ngước nhìn !
Mặc cho thiên hạ chỉ chỏ chê cười, tiếng bấc tiếng chì, ông Dakêu đã mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin thật dứt khoát, sẵn sàng và nhiệt thành đáp lại lời mời gọi chân tình của Đức Giêsu: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.” ( Lc 11, 10 ). Ông đã hoàn toàn toại nguyện, khi Đức Giêsu quan tâm ngẩng đầu, nhìn lên, âu yếm gọi chính xác tên ông. "Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !"
Ông Dakêu đã sớm tỉnh ngộ, nhiệt tình cho đi của cải phù vân, để đổi lấy sự sống vĩnh cửu. Tôi lại trái lại, cứ vẫn mãi tham sân si, mù quáng, mê muội vơ vào, kiếm chác, tích lũy, làm sao được cứu rỗi ? Tôi còn đê hèn, nhát đảm, sợ dư luận đàm tiếu, sợ những kẻ ngoại đạo, kẻ vô thần chế giễu, sợ mất thể diện, sợ mất bổng lộc, chức tước. Tôi tránh né nói đến Chúa, tránh tuyên xưng Đức Tin, tránh xác nhận công khai mình là Kitô hữu, để dễ bề thỏa hiệp, để sẵn sàng hòa đồng, toa rập, đồng lõa, cùng hội cùng thuyền với kẻ chống Chúa, sỉ nhục Chúa, đóng đinh Chúa, hầu được ăn chia, hay chung hưởng cái bả danh lợi phù vân.
Hơn nữa, tôi còn lại tệ bạc, phản phé, bất trung, chạy trốn Chúa, chạy trốn những Đức Giêsu bị bỏ rơi, nhắm mắt làm ngơ trước bất công, trước đàn áp, trước cái xấu, cái ác đang ngang nhiên, nhởn nhơ, lộng hành ngay trước mặt. Tôi giả mù, giả điếc, giả câm trước nỗi thống khổ, nỗi đau khổ của tha nhân, của người bần cùng, của những kẻ đấu tranh cho công lý và sự thật.
Biến đổi cấp thời
Mặc cho thiên hạ dè bỉu, mặc lời ong tiếng ve khinh bỉ, châm chích, giễu cợt, mặc những tia nhìn chung quanh oán ghét, Dakêu vẫn cứ ngây ngất, hân hoan vui mừng quá đỗi. Bởi vì cái nhìn tha thứ, độ lượng của Lòng Thương Xót, vì lời nói dịu dàng thân thiết, yêu thương, vì nét mặt nhân hậu, chan chứa trìu mến của Đức Giêsu, đã quá đủ cho ông Dakêu cảm động và biến đổi tức thì.
Ông vội vàng tụt xuống khỏi cây, mừng rỡ đón tiếp Người. Bỏ ngoài tai những lời xầm xì bất bình của thiên hạ. Không dao động, cũng chẳng e ngại, xấu hổ, hay tự ái, buồn phiền trước lời mỉa mai, chế giễu của đám đông bất đồng, Dakêu chỉ cần gặp được Đức Giêsu mà thôi. Tức thời, Người giải thoát ông khỏi cái ác, khỏi ngục tù tội lỗi, đã giam giữ và xiềng xích ông lâu nay. Khát vọng đổi đời của ông được mãn nguyện ngay lập tức. Một sự biến đổi thần kỳ và tuyệt diệu, vô cùng bất ngờ và sáng lạn. "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn" ( Lc 19, 8 ).
Đức Giêsu không chỉ dạy ông Dakêu, phải làm thế nào hòa giải với tha nhân và với Thiên Chúa. Người không đặt điều kiện, cũng không ép buộc, hay đòi hỏi điều gì khó dễ ngoài khả năng. Khi gặp Người, ông Dakêu liền sốt sắng thi hành dễ dàng ngay những việc tưởng chừng như một… Mission Impossible ( tên một bộ phim ).
Còn tôi, hằng ngày dễ dàng được gặp Chúa qua Tin Mừng, hằng ngày diện kiến, hội ngộ Chúa qua Bí tích Thánh Thể nhiệm mầu, thế mà tôi lại cứng lòng, chai đá, lạnh lùng, vô cảm trước nghĩa vụ phục vụ tha nhân, trước nhu cầu cấp bách của những người hoạn nạn, đau khổ, túng bấn, cùng cực, những thân phận dật dờ sống bên lề xã hội.
Hãy sống bên Chúa và con sẽ nên thánh, thiên đàng không gì khác là Thiên Chúa hiện diện. ( Đường Hy Vọng, số 242 )
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin ban cho chúng con luôn mãi củng cố niềm khát vọng Chúa, tìm và gặp gỡ Chúa luôn mãi, để chúng con có thể thoát khỏi cám dỗ thế gian, khỏi đam mê của cải danh vọng, để biến đổi cuộc đời chúng con nên tốt lành, hòa giải với tha nhân và Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ nuôi dưỡng nung nấu trong tâm hồn chúng con niềm khát khao gặp gỡ Thiên Chúa, luôn ao ước kết hiệp với Chúa trong từng giây phút cuộc đời, để chúng con được tái sinh trong ân nghĩa Chúa mãi. Amen.
Xã hội thời nào cũng vậy, người ta dễ dàng xem thường, kết án và đôi khi còn loại trừ những người được gọi là “tội lỗi”. Điều đó thật ra cũng dễ hiểu, vì chẳng ai thích dung túng kẻ có tội cả. Thế nhưng, chỉ vì quá khắt khe cho những hành vi tội lỗi của người khác mà nhân loại dễ dàng quên đi sự thật bản thân mình, hay nói đúng hơn là sự thật của cả thế giới. Làm người ai lại chẳng bất toàn ? Nếu thế giới có được một người công chính, có lẽ con người đã không bất hạnh như hiện nay.
Lên án hành động tội lỗi, những việc làm xấu là điều phải lẽ, nhưng lên án thế nào và đối xử ra sao càng là vấn đề cần phải để tâm suy nghĩ. Giả ai cũng ý thức được rằng đã mang lấy kiếp con người, mình cũng đầy dẫy mọi bất toàn yếu đuối như tha nhân, dễ sa ngã, dễ phạm tội, để mà cảm thông, chia sẻ, nâng đỡ, nhất là không còn giữ khư khư nhãn quan khắt khe đối với đồng loại thì có phải bớt đau khổ hơn không.
Cần phải đặt mình vào vị trí của người thân cận để mà suy nghĩ, hành động. Rồi đến một lúc nào đó trong cuộc đời, nhất định người có tốt lành công chính đến bao nhiêu cũng nhận ra mình cần phải được tha thứ và bao dung.
Không chỉ trong xã hội Do Thái thời Đức Giêsu người ta mới có cái nhìn khắt khe với người thu thuế, được coi là người tội lỗi như trong dụ ngôn về ông Dakêu hôm nay, nhưng xã hội thời nào cũng vậy, ở đâu cũng thế, nhân loại thường khoan dung với mình nhưng lại khắt khe với đồng loại. Mỗi người có một cách sống, một lối phạm tội khác nhau, tùy thuộc vào sự nuông chiều bản thân theo những dục vọng xã hội. Nhưng để mà loại trừ ai đó, thành phần nào đó, con người nào đó ra khỏi một tổ chức, một đoàn thể hay một cộng đồng xã hội là điều cần thiết phải để tâm suy nghĩ lại.
Nếu cho rằng người bên cạnh tôi là kẻ tội lỗi, vậy tôi sẽ là ai đây nếu không biết sống tùy thuộc vào Thiên Chúa, chu toàn mọi giới luật của Ngài ? Nếu nói tha nhân tội lỗi, liệu tôi có phải là người hoàn toàn trong sạch thánh thiện hay không ? Việc phán xét phân xử ấy thực ra chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền, vì Ngài là Thẩm Phán chí công, là Đấng Thánh, Đấng vô tội. Nhân loại, ai cũng tội lỗi như ai, người tội nhiều, kẻ tội ít, chẳng ai xứng đáng là chuẩn mực để có thể phán xét người thân cận được.
Đức Giêsu không hề bác bỏ chuẩn mực của thế giới, thế nhưng Ngài kêu gọi mọi người hãy nhìn lại chính mình trước khi phán xét người thân cận, đồng thời phải có cái nhìn yêu thương, tha thứ, cảm thông, nâng đỡ đống loại nếu như có sai phạm. Không như con người, gặp kẻ ác là loại trừ tiêu diệt. Ngược lại, Thiên Chúa luôn yêu thương và cứu chuộc họ, phục hồi và làm cho họ trở nên tinh tuyền trước mặt Thiên Chúa nhờ ơn thánh sủng của Ngài.
Nếu tạo dựng nên thế giới để rồi hủy diệt, thì công trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài trở nên vô nghĩa. Tạo dựng thế giới trong tốt lành, chỉ vì con người lạm dụng tự do nên mọi trật tự xã hội đã bị đảo lộn. Thiên Chúa không hề hủy bỏ công trình của mình, nhưng Ngài đã hy sinh dùng cả tính mạng của mình mà cứu chuộc. Thế giới có tội lỗi đến đâu, thì máu cực thánh của Đức Giêsu cũng đã gội rửa họ nên tinh tuyền, chính tình yêu thương tha thứ của Ngài đã phục hồi nhân phẩm nhân loại.
Ước gì mọi người đều hiểu rằng: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” ( Lc 19, 10 ) Thì dù đồng loại có sai phạm đến đâu, nhân loại cũng sẽ bớt lên án gay gắt, cay nghiệt. Để dù người thân cận bên cạnh có xúc phạm điều gì, mọi người cũng dễ dàng tha thứ và bỏ qua. Thế giới đương đại, tội ác ngày càng nhiều, chỉ vì nhân loại thu hẹp lòng quảng đại, chỉ mở ra lòng đam mê tham vọng và hưởng thụ mà thôi.
Lạy Chúa, không dung túng tội lỗi nhưng giàu lòng xót thương và tha thứ là thuộc tính của Ngài. Nhân loại chẳng được như thế, người ta đánh giá con người theo nấc thang của tham vọng tiền tài. Kẻ này phê phán người kia tội lỗi, cuối cùng ai sẽ là người trong sạch, công chính ?
Xin giúp con đừng bao giờ nao núng trước những lời kết án, vu khống của đồng loại, một chỉ biết sống đẹp lòng Thiên Chúa, chu toàn thánh ý Ngài. Còn gì hạnh phúc hơn, nếu như con biết nao nức đón Chúa vào nhà mình mỗi ngày, như Dakêu hôm nay để được công chính hóa nhờ ơn cứu độ của Ngài. M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Dakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Dakêu” to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Dakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.
Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Dakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.
Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.
Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do Thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Palestina”. Người Rôma chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Dakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Dakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Dakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Dakêu và biến đổi cuộc đời ông.
Tình thương biến đổi
Dakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ ( Mt 9, 9 ). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.
Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Dakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người "đứng đầu những người thu thuế", một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.
Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Dakêu gặp nhau. Ánh mắt Dakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: "Hỡi Dakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông". Dakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia ( x. Lc 5, 29 ).
Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Dakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: "Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn". Ông Dakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này".
Trước đây Dakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Dakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: "Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn". Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Dakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
Tình thương hoán cải
Trong sách ( Lv 5, 20 – 26; Xh 21, 37; Ds 5, 6 ) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Dakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.
Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông ? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua ? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.
Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu ? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa ! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Dakêu tích cực đi tìm Chúa: "Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung".
Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: "Ông vội vàng tụt xuống". Ông còn "vui mừng đón rước Ngài về nhà". Ông nhìn nhận tội lỗi của mình. Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Dakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức ( nếu có ) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.
Dakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Dakêu, đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Dakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.
Tình thương cảm hóa
Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Dakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Dakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Dakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó. Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Dakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.
Dakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu. Dakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Dakêu.
Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.
Nhiều người trong chúng ta có một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa. Đối với họ Thiên Chúa thường là một ông cảnh sát đầy quyền năng, luôn đứng bên lề cuộc đời để biên phạt những hành động sai trái. Trong khi đó Đức Kitô đã tỏ lộ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người Cha nhân từ hằng yêu thương chăm sóc chúng ta, và đặc biệt Ngài sẵn sàng tha thứ những lầm lỗi của chúng ta. Ngài hằng mong ước cho chúng ta, những người con của Ngài được hạnh phúc.
Sách Khôn Ngoan đã viết: Chúa thương xót mọi người và Ngài nhắm mắt trước những tội lỗi của những kẻ thực lòng sám hối. Lòng nhân từ và thương xót ấy ngày hôm nay được biểu lộ một cách cụ thể qua câu chuyện về ông Giakêu. Ông ta là một người thu thuế giàu có tại Giêricô. Dưới mắt những người Do Thái, thì những kẻ làm nghề thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi, vì họ tiếp tay với đế quốc Lamã, bóc lột đồng bào của mình, để nuôi sống kẻ thù và làm giàu cho bản thân. Chính vì thế mà họ bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Từ lâu Giakêu hẳn thường nghe nói nhiều về Chúa Giêsu và ao ước được gặp gỡ với Người. Vì thế khi hay biết Người sắp đi qua nơi đó, Giakêu đã trèo lên một cây sung vì ông là một người thấp bé, và dân chúng thì lại đông đảo vây quanh Người. Thế rồi, Chúa Giêsu đã nhận ra ông, Ngài nói: Hỡi Giakêu hãy xuống mau vì hôm nay Ta muốn lưu lại tại nhà ngươi.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên trước một lời nói như thế. Ngài đã dành cho ông một vinh dự quá to lớn, phải chăng Ngài đã đảo lộn bậc thang giá trị? Phải chăng Ngài khích lệ những kẻ bóc lột, gian tham và độc ác? Chính Giakêu cũng ngạc nhiên không kém trước tình yêu Ngài dành cho ông. Trong khi mọi người thù ghét ông thì Ngài lại yêu thương ông. Chính tình yêu này đã chuyển hướng cuộc đời ông, đưa ông vào một khúc quanh mới, thắp lên trong tâm hồn ông một ngọn lửa nhiệt thành.
Từ thẳm sâu cõi lòng, ông cảm thấy chính mình cần phải uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm, đền bù những thiệt hại trong dĩ vãng để xứng đáng với tình thương yêu ấy. Lập tức ông đã quyết định: Thưa Thầy, con sẽ bố thí một nửa phần sản nghiệp của con. Và nếu như con đã làm thiệt hại ai thì con sẽ đền trả gấp bốn. Chúa Giêsu thấu suốt cõi lòng ông, Ngài đã cảm động khi nói với ông: Ngày hôm nay nhà này được ơn cứu độ vì cũng là con cháu Abraham. Chúa Giêsu đã chống lại những thiên kiến của người đời, Ngài đã xác quyết: Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư đi.
Dù cuộc đời chúng ta có chồng chất tội lỗi, chúng ta đừng vội thất vọng, hãy ngước nhìn Chúa, hãy tìm gặp Ngài với lòng yêu mến chân thành, bởi vì lúc nào Ngài cũng mở rộng vòng tay chờ đón để tha thứ cho chúng ta.
Ông Giakêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc. 19, 8b-10)
Ông Giakêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giêricô, những đoàn người buôn bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Giakêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Giakêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Israel về.
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34). Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Giakêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Giakêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.
Câu chuyện Giakêu quá quen thuộc, nhưng lại là một bức tranh sống động, phong phú, tinh tế và là lời chất vấn và mời gọi qua mọi thời đại. Trong hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi ngang qua Giê-ri-khô và xảy ra câu chuyện ông Giakêu với những nét tương phản hài hước và độc đáo. Nhân vật chính được giới thiệu qua bốn chi tiết: (1) Tên gọi: Giakêu, (2) Nghề nghiệp: Đứng đầu những người thu thuế, (3) Địa vị xã hội: Người giàu có, (4) Ngoại hình: thấp bé, ngôn ngữ bình dân gọi là lùn.
Trong câu chuyện, nhân vật Giakêu có những nét tương phản vừa theo quan điểm người đời, vừa theo quan điểm tâm linh. Theo người đời, Giakêu là người có địa vị, có quyền và có tiền, ba yếu tố này làm nên sức mạnh và uy thế của một con người. Ông ở cao hơn những người bình thường, nhưng ông lại thua kém họ về chiều cao, nên tầm nhìn bị thu hẹp và bị hạn chế. Ông muốn thấy Đức Giêsu, nhưng đám đông trở thành chướng ngại cho điều ông ước muốn. Tuy nhiên, con người không hơn nhau ở chiều cao mà hơn nhau ở cái đầu; Giakêu quyết định thực hiện ước muốn thấy Đức Giêsu bằng cách trèo lên cây sung. Quyết định này tạo nên tương phản giữa việc ông đạt được mục đích là thấy Đức Giêsu, nhưng phải hy sinh thể diện. Một người có quyền hành và địa vị như ông mà lại leo lên cây sung, mượn cây sung để cải thiện chiều cao của mình, thì chẳng gì đề cao cái sự thấp bé của ông trước mọi người.
Đáng chú ý hơn là tương phản theo quan điểm tâm linh. Ông Giakêu là người quyền thế trong xã hội, nhưng đám đông lại gọi ông là “người tội lỗi”, vì khi Đức Giêsu quyết định ở lại nhà ông, mọi người xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Câu kết của Đức Giêsu: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” đã xếp Giakêu vào loại những người đã mất, nhưng được Đức Giêsu cứu.
Tương phản trên bình diện tâm linh và cách xử sự của Giakêu để xem thấy Đức Giêsu đã được Người đánh giá cao. Việc ông dám trở trên trò cười cho thiên hạ để tiếp cận được Đức Giêsu cho thấy thiện chí của ông. Nhờ hành động này, ông trở thành nhân vật chính của câu chuyện với những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Khi Đức Giêsu nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (19,5) Bản văn chơi chữ khi viết Đức Giêsu nhìn lên và bảo ông xuống, nghĩa là trở về với chiều cao đích thực của mình, trở về với con người thực của mình, để không những thấy Đức Giêsu mà còn để đối thoại với Người, để quyết định bán nửa tài sản cho người nghèo và đền gấp bốn cho những ai mình đã làm họ bị thiệt.
Điều mới mẻ so với trình thuật người thu thuế Lê-vi ở chỗ Lê-vi đã bỏ nghề thu thuế và đi theo Đức Giêsu, còn ông Giakêu có bỏ nghề đứng đầu những người thu thuế hay không, bản văn không cho biết. Trình thuật chỉ nhấn mạnh tấm lòng của ông đối với người nghèo và việc ông chú trọng sự công bằng. Có thể hiểu Giakêu có thể tiếp tục đứng đầu những người thu thuế mà vẫn được cứu. Điều quan trọng là ước muốn gặp Đức Giêsu, thực hiện ước muốn này, và khi gặp thì mừng rỡ đón tiếp Người.
Trình thuật nói đến sự gặp gỡ tốt đẹp giữa hai con người với hai sự tìm kiếm. Giakêu tìm cách để thấy Đức Giêsu còn Đức Giêsu đang tìm và cứu những gì đã mất. Chính sự gặp gỡ giữa hai con người đang tìm kiếm này làm cho Giakêu trở thành người được cứu và làm tỏ lộ sứ vụ của Đức Giêsu.
Điểm độc đáo của bản văn ở ngay trong trong cách trình bày nhân vật Giakêu. Ông là người vừa thấp vừa cao. Cao về địa vị xã hội, nhưng thấp bé về chiều cao. Thấp bé thể lý nhưng cao quý trong thiện chí tìm gặp Đức Giêsu. Ông có quyền hành và giàu có trong xã hội nhưng bị coi là người tội lỗi, là người đã mất, cần được cứu. Nhân vật Giakêu trở thành điển hình cho hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Đức Giêsu là Người mang lại ơn cứu độ cho ông.
Đầu câu chuyện, Giakêu được giới thiệu như là người có mọi thứ: Chức vị, tiền bạc và quyền hành; nhưng ông đang thiếu và đang đi tìm cái mà tiền bạc và chức quyền không đem lại cho ông. Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, mục đích trước tiên là xem cho biết con người mà ông chưa biết.
Điểm độc đáo thứ hai là Đức Giêsu không dạy giáo lý cho Giakêu, Người không bày tỏ tư cách Con Thiên Chúa của Người. Ngược lại Người chỉ nói một câu tỏ bày sự thân thiện và ưu ái của Người dành cho ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Bài học cho chúng ta hôm nay là liệu sự ở lại của Đức Giêsu có khả năng làm cho chúng ta hoán cải, có khả năng làm cho chúng ta thuộc về Người, làm cho chúng ta biết chia sẻ với người nghèo và tôn trọng sự công bằng hay không. Câu chuyện Giakêu vẫn là lời chất vấn, lời mời gọi chúng ta trong cách chúng ta tìm gặp và đón tiếp Đức Giêsu, trong cách chúng ta sống niềm tin và thể hiện niềm tin của mình.
Cách đây không lâu, trên trang “Tuổi Biết Buồn”, tôi có đọc được đôi dòng tâm sự như sau: “Em năm nay 21 tuổi. Sang Mỹ được 3 năm. Năm đầu sống rất vui vẻ hồn nhiên, không buồn phiền gì về vấn đề tình cảm. Năm thứ hai thì con tim bắt đầu lúc lắc. Năm thứ ba em bắt đầu yêu thật. Em đã quen một anh tên A. Lúc đầu chỉ coi anh là anh trai, nhưng tình cảm len lỏi vào tim lúc nào không biết. Anh lo cho em từng li từng tí. Càng ngày em càng cảm thấy mến anh. Nhưng có điều anh hơn em đến cả 18 tuổi. Lấy anh thì cũng được, nhưng em lại sợ cái cảnh ‘cha già con mọn’. Thế rồi em lại quen một anh khác tên B. Anh này thương em, cũng lo lắng cho em. Hơn em chừng 7, 8 tuổi. Nhưng có điều cũng khó nghĩ vì B lại thấp hơn em, lại không có đạo nữa. Không trở lại, bố em không chấp nhận là cái chắc. Không lớn hơn vài 'inches' nữa thì tương lai của em sẽ không biết giầy, guốc cao gót là gì?”.
Đọc qua tâm sự đó, tôi chợt nhớ đến hình ảnh của một người rất thấp trong Phúc âm: Giakêu, một ty trưởng quan thuế tại thành phố Giêricô, nằm cách Giêrusalem 15 dặm về hướng đông bắc.
Giakêu không những được mô tả như một người thiếu thước tấc về thể xác, nhưng còn là kẻ quá thấp bé về tâm hồn, dưới cái nhìn của người Do thái. Không “thấp” lắm sao khi cấu kết với ngoại bang Rôma để vơ vét tài sản của dân tộc, đất nước! Không “bé” lắm sao khi đi làm giàu trên bao mồ hôi xương máu của những người lầm than khốn khổ!
Từ xưa đến nay, chẳng mấy ai ưa thích chuyện thuế má. Người Do thái lại càng chán ghét chế độ sưu thuế do chính sách đô hộ Rôma áp đặt. Số là tại các thuộc địa, để không phải trực tiếp bóc lột, chính quyền cai trị Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế tại từng khu vực. Tất nhiên chỉ có kẻ giàu mới có khả năng và mới có cơ may trúng thầu. Khi trúng, họ có quyền qui định mặt hàng cũng như giá thuế phải đóng. Lắm khi người trúng thầu phải ra giá thật cao để gỡ vốn. Và không ít khi cao thêm tí nữa để có lời. Thế nên, dân Do thái tự động xem hạng thu thuế là phường bán rẻ lương tâm, phá nước hại dân, làm giàu bất chính. Người ta tránh xa như gặp phải những con vật dơ nhớp, nguy hiểm. Thậm chí còn coi họ như quân ngoại đạo và tội lỗi.
Thành ra con người Giakêu hẳn là quá thấp bé trong tầm nhìn luân lý của những kẻ “đang bị bóc lột”. Đã vậy vóc dạng của ông cũng chẳng cao ráo sáng sủa gì. Lùn quá! Có nhón gót cũng chẳng thấy Đức Giêsu đâu. Đám đông che mất tầm nhìn của ông.
Mặt khác, danh xưng của ông còn khơi lên ý tưởng mỉa mai châm biếm khi nó tương phản với công luận. Giakêu là phiên âm từ chữ “Zakkay”, trong tiếng Do thái có nghĩa là “người công chính” hay “người thanh khiết”. Gọi một kẻ tội lỗi, nhơ uế là “công chính” và “thanh khiết”, nếu không phải là chế giễu và khinh bỉ thì là gì? Nhưng dù thân xác và tinh thần có bị bao quanh bằng những hàng rào của mặc cảm tự ti, hay sự khinh thường ghét bỏ của dân chúng, lòng khát mong gặp Đức Giêsu đã như tác động đầu tiên đưa đến biến đổi và thăng hoa con người.
Ước ao nhìn mặt Đức Giêsu, đó là sự tò mò tự nhiên hay lời mời gọi của tình thương? Cứ tưởng tượng Giakêu xắn chiếc áo rộng thùng thình của một bậc trưởng giả để leo lên cây sung như một đứa con nít cũng đủ thấy đó là một khát khao vượt tính tự nhiên rồi. Phải chăng khi bị mọi người tránh xa, khi nghe đồn Đức Giêsu hay đến làm bạn với những kẻ không được thương yêu, trong ông đã hình thành nỗi niềm đi tìm yêu thương vỗ về.
Lòng khát khao mãnh liệt làm cho lòng Giakêu “cao lên” so với bao người chen chúc trong đám đông hiếu kỳ. Oâng muốn nhìn Chúa, nhưng đúng hơn, Chúa lại muốn tìm ông. Khi vừa đến chỗ cây sung có Giakêu đang trèo trên đó, Đức Giêsu “nhìn lên và trông thấy ông”. Giả như không có ánh mắt nhìn lên đó thì chuyện gì sẽ sảy ra? Có lẽ Giakêu cũng tuột xuống ra về trong âm thầm. Cái nhìn của Chúa làm biến đổi cuộc đời.
Nhìn và thấy diễn tả một sự chú ý kiếm tìm. Nhìn vào bao con người chen chúc chung quanh, với đủ mọi thành phần, trình độ, sang hèn, tuổi tác, nhưng Đức Giêsu lại chỉ thấy có một tâm hồn mà Ngài đang muốn tìm về. Niềm vui rạng rỡ đã bật thành lời: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Ngài đã tìm thấy “con chiên lạc” đang vướng trên cành, và lòng Ngài ngập tràn hân hoan.
Một nhà chú giải suy niệm: “Ôi chao! Ngày hôm đó, chắc là Đức Giêsu phải sung sướng hạnh phúc lắm! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem. Còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được dâng hiến để cứu chuộc con người. Mọi nỗi đơn độc chơ vơ của thập giá, mọi hình khổ Ngài sẽ gánh chịu, mọi vết thương xé nát bàn tay và đôi chân đẫm máu sẽ mang lại ơn ích cho nhân loại. Ngài biết điều đó. Ngài đã cứu thế gian khi tiến lên Giêrusalem. Và Giakêu là hoa trái đầu mùa”. (Noel Quesson)
Con tim cháy lửa yêu thương đã tìm gặp được tâm hồn khao khát thương yêu. Và thương yêu đã biến đổi phận người! Đúng là “gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình; Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”. Tình huynh đệ nảy sinh khi Giakêu tự nguyện “bố thí nửa phần gia tài cho người khổ đau”. Tình đệ huynh lại được hàn gắn khi Giakêu can đảm “đền trả gấp bốn cho người bị ông làm thiệt hại”.
Không gặp được Đức Kitô chẳng ai có đủ sức đền bù, chia sẻ, hay trao ban. Không có tình thương sưởi ấm chắc chắn chẳng ai có thể đổi đời. Nhưng khi có tình Chúa chiếu soi, người ta sẽ “cao lên” trong tình người. Và như thế, không ai có quyền kỳ thị hay gạt bỏ, vì họ cũng là “con cái của Abraham”. Không ai được phép xem họ như người ngoại hay kẻ lầm lạc, vì họ cũng là môn đệ của Tình Yêu Thiên Chúa.
Trở lại với lời tâm sự ban đầu. Thiết tưởng cao to thân xác mà thấp bé cõi lòng thì ăn thua gì. Mang danh có đạo mà không bác ái hy sinh thì cũng thiếu xót lắm thay. Thế nên, việc cần thiết nhất không phải là cao lùn, mập ốm, rửa tội hay chưa, nhưng là có được tình yêu đúng nghĩa chiếm ngự tâm hồn hay không.
Tình yêu đúng nghĩa chỉ có khi được Đức Giêsu lưu lại trong đời. Và như Lệ Vũ, người phụ trách “Tuổi Biết Buồn” xác quyết: “Tìm được tình yêu và yêu thật lòng, ba cái chuyện cao gầy, lùn mập, miệng méo, mắt Sài gòn, mắt Chợ Lớn, sẽ không thành vấn đề quan trọng”.
Xin tình yêu của Đức Kitô gặp gỡ đời con và đời người.
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Giakêu.
Ngay cả Chúa Giêsu, dù Người chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giêsu, Người có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giêsu là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giêsu thừa biết Giakêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giêsu không nhìn Giakêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Giakêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giêsu đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: "Này ông Giakêu…”
Chúa Giêsu gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giêsu nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giêsu tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giêsu lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Giakêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giêsu lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Giakêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giêsu mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Giakêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Giakêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giêsu đối với Giakêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Giakêu đứng lên thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giêsu, trước người lầm lỗi, Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương; Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng; Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần… Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
Chúng ta đổi công việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông, còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông. Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông: Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy, chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này.
Phần thứ tư (phần cuối của hành trình lên Giêrusalem) được tác giả Luca trình bày trong phân đoạn 18,15–19,28: phần này tương ứng với bài tường thuật về hành trình của các Tin Mừng Nhất Lãm. Nhưng trong khối chất liệu này, ngài thêm vào câu truyện cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Dakêu, thủ lãnh người thu thế ở Giêrikhô. Ngài thấy khối người bị đẩy ra bên lề xã hội Paléttina này cũng là “cái đã mất” mà Đức Giêsu đến để cứu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành năm đơn vị:
1) Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (19,1);
2) Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu (19,2-4);
3) Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (19,5-7):
- Đề nghị của Đức Giêsu (cc. 5-6), - Phản ứng của dân chúng (phản đối Đức Giêsu) ( c. 7);
4) Dakêu chủ động hoán cải (19,8-9):
- Đề nghị của Dakêu (c. 8), - Phản ứng của Đức Giêsu (trả lời cho dân chúng) (c. 9);
5) Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (19,10).
3.- Vài điểm chú giải
- Giêrikhô (1): Giêrikhô là chặng cuối trước khi “lên” Giêrusalem. Thành này nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoăc các sĩ quan, binh lính Rôma.
- Dakêu (2): Tiếng Híp-ri là zakkai, có nghĩa là “trong sạch và vô tội” (x. Er 2,9; Nkm 7,14).
- người thu thuế (2): x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus (Ngày xưa, các cố Tây dịch là “người púp-li-ca-nô” do lấy từ chữ La-tinh publicanus (do chữ publicus có nghĩa là “tiền của công”); Pháp: collecteur d’impôts, Anh: tax collector. Nền hành chánh Rôma qui định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được người thu thuế áp dụng cách võ đoán, nên họ bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu thuế. Dakêu “đứng đầu những người thu thuế” (architelônês), tức là ông phụ trách cả vùng. Như thế, Dakêu càng ở bên lề cộng đồng Do Thái hơn nữa.
- tìm cách để xem cho biết... (3): Dakêu là người giàu có và có địa vị cao, nhưng trong lòng ông vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hai động từ “tìm” (HL: zêtein) và “xem” (HL: idein) cho dù không có tầm mức quan trọng như trong TM Gioan, vẫn cho thấy là Dakêu không chỉ tò mò muốn “xem cho biết” (như kiểu nói của chúng ta). Đây là một “cuộc điều tra mang tính Kitô học” của một người tội lỗi công khai đối lại với thái độ lãnh đạm và thù nghịch của giới lãnh đạo dân Chúa.
- cây sung (4), tiếng Hy Lạp là sykomorea. Đây là loại cây có thân thấp, các cành ngang cứng chắc.
- phải ở lại (5): Câu này dịch sát là “hôm nay điều cần thiết đối với tôi là ở lại nhà ông”. Động từ Hy Lạp dei diễn tả một điều nằm trong chương trình, ý muốn của Thiên Chúa, nằm trong sứ mạng của Đức Giêsu (x. 2,49; 4,43; 12,12; 13,33; 15,32; 22,37; 24,44).
- mừng rỡ (6): do động từ Hy Lạp chairein. Lc là Tin Mừng về niềm vui (Dacaria: 1,14; Đức Maria: 1,28; bà con Gioan Tẩy Giả: 1,58; Đức Giêsu chào đời: 2,10; Đức Giêsu: 10,20; đám đông: 13,17...). Đây là niềm vui do Đấng Mêsia mang đến.
- nhà người tội lỗi (7): Luật luân lý cấm vào nhà kẻ tội lỗi.
- phân nửa tài sản của tôi (8): Mức bồi thường này vượt qua mức Luật đòi hỏi (x. Xh 21,37; Ds 5,5-7; Lv 5,21-24: trả lại món tài sản đã lấy cộng với 1/5 giá trị món đó).
- Đức Giêsu nói về ông (9), có nghĩa là Đức Giêsu nói với những người khác. Tập tục Đông phương cho phép người ta tự do ra vào nhà một người và vây quanh bàn ăn của những khách được mời (x. 7,37).
- Hôm nay (9, cả c. 5; HL: sêmeron, x. 2,11; 4,21; 13,32.33; 23,43): Đây là từ ngữ quan trọng của TM Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (1)
Đến Giêrikhô, chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem đã đến chặng cuối cùng. Tại đây người ta bắt đầu chuyến đi lên: từ thung lũng sông Giođan, người ta băng qua sa mạc Giuđa để đến Giêrusalem. Toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu sau này được Phêrô mô tả: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Điều này đặc biệt đúng cho những điểm cuối cùng: mỗi chặng lại trở thành mộtchặng để trợ giúp và cứu chữa. Gặp anh mù ngồi bên vệ đường tin tưởng kêu cầu: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”, Đức Giêsu đã cho anh xem thấy, ban khả năng ca tụng Thiên Chúa và đi theo Người (18,38). Gặp Dakêu ngồi trên một cây sung bên lề đường để nhìn xem Người, Đức Giêsu cho ông cơ hội tiếp đón Người về nhà và hoán cải, tức nhận được ơn cứu độ. Dù hoàn cảnh hai người rất khác nhau, cả hai đã được Thiên Chúa trợ giúp nhờ trung gian Đức Giêsu.
* Giới thiệu Dakêu trong quan hệ vớiĐức Giêsu (2-4)
Dakêu là mộtngười giàu có. Nhưng trong tư cách là thủ lãnh của những người thu thuế, ông thuộc về hạng người bị xã hội Do Thái khinh bỉ. Do nghề nghiệp, vì họ phải thường xuyên liên hệ với mọi hạng người, kể cả ngoại giáo, họ bị nhiễm uế. Và bởi vì xã hội thường gán cho người thu thuế tính tham lam và những lối cư xử không công bình (x. 3,12t), Dakêu bị ghét bỏ và khinh bỉ. Một người Do Thái tuân giữ Lề Luật nghiêm túc thì không có gì phải liên hệ với người thu thuế cả. Do đó, Dakêu đứng ở bên lề cộng đồng. Ông là người giàu có và có địa vị cao, nhưng ông không được những người có thế giá trong xã hội trân trọng.
Ông hết sức ao ước được gặp Đức Giêsu. Ước muốn này có thể phần lớn được nhen lên do tính tò mò. Dù sao ước muốn này đã thúc đẩy ông tìm mọi cách để thấy được Đức Giêsu. Tuy nhiên, dân chúng đi theo Đức Giêsu thì quá đông mà vóc người ông thì thấp bé. Nhưng Dakêu có óc sáng tạo: ông chạy đi trước và leo lên mộtcây sung. Chạy và trèo lên cây là những chuyện chỉ hợp với các trẻ em, chứ không phù hợp với tư cách mộtngười giàu có; nhưng Dakêu chấp nhận trở thành lố bịch để được thấy Đức Giêsu, điều này cho thấy ông ao ước thấy Người đến đâu!
* Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (5-7)
Trong khi mọi người khác không màng tới Dakêu đang ở trong thế rất khôi hài, Đức Giêsu đã bày tỏ sự quan tâm đến ông bằng những cử chỉ và thái độ rất đơn giản, rất “người”: “đi tới chỗ ấy”, “nhìn lên”, “nói với ông”. Người còn cho hiểu đấy không chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao, mà là một cuộc gặp gỡ nằm trong ý muốn của Thiên Chúa (“hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”), nằm trong sứ mạng của Người. Cái “ngày hôm nay” mà Đức Giêsu nhắc tới không chỉ là một chi tiết chỉ thời gian, mà là một chặng trong hành trình ban ơn cứu độ mà Người đã khai mạc tại Nadarét (x. 4,18-22). Trong cuộc hành trình này, Người quan tâm ưu tiên tới những người nghèo, và cả những người tội lỗi.
Nỗi băn khoăn, căng thẳng của Dakêu biến thành niềm vui: không chỉ là sự thỏa mãn, sự thoải mái về thể lý, mà là việc tham dự vào hạnh phúc do Đấng Cứu thế mang đến. Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu, ông được giải thoát khỏi các lầm lỗi, hoang mang, và lòng được chan hòa bình an và niềm vui. Đi ngược lại mọi chỉ trích, và một cách rõ ràng, Đức Giêsu cho mọi người thấy rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ Người ban. Người cũng cho thấy Người từ chối mọi kiểu đánh giá tổng quát về một hạng người.
* Dakêu chủ động hoán cải (8-9)
Bữa tiệc tại nhà Dakêu là một cử hành thống hối, đưa tới một sự hiệp thông huynh đệ. Qua bữa tiệc, Dakêu hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Bởi vì Đức Giêsu đã chấp nhận con người thật của ông, bởi vì ông được mời gọi sống như thế, Dakêu chẳng phải tránh né gì nữa, trái lại ông vui mừng đón tiếp Người về nhà và bày tỏ quyết định đổi mới cuộc đời. Ông đã trả lời thắc mắc: “Thế thì ai có thể được cứu?” (18,26) khi Đức Giêsu nhận định: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao” (18,24). Dakêu giàu có đã nhận được ơn cứu độ nhờ trung gian Đức Giêsu (19,9), bởi vì ông không chỉ bằng lòng với việc trông thấy Đức Giêsu, mà còn hành động theo ý muốn của Người nữa. Trong ngày hôm ấy, Dakêu đã cảm nghiệm một sự biến đổi lạ thường. Đó chính là điều được Đức Giêsu diễn tả trong câu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu ông Abraham”. Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu đã bác bỏ nhận định của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Phán đoán của đám đông là một phê phán quá cứng rắn. Qua lối cư xử của Người, Đức Giêsu loại bỏ sự cứng rắn đó và cho thấy rằng thái độ của Thiên Chúa hoàn toàn khác với thái độ của đám đông.
* Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (10)
Những lời Đức Giêsu kết luận (c. 10) có thể khuyến khích mỗi người bởi vì “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Người không đến để kết án hoặc loại trừ. Lại chính những kẻ bị lạc, những kẻ sai lầm mà Người đã muốn tìm và cứu chữa; chính là những kẻ đang đi vào ngõ cụt mà Người muốn dẫn ra.
+ Kết luận
Bản văn với câu kết luận (c. 10) không những tóm tắt giai thoại về Dakêu, mà còn làm nổi rõ hơn nữa cứu-độ-học của toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như của TM Lc: trong tư cách là Con Người, Đức Giêsu đã đến để tìm và cứu những gì đã mất, và như thế là gợi ý tới câu Ed 34,16 trong đó Đức Chúa tự mô tả mình như là Người mục tử: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng”.
Khi đọc bản văn này, ta cũng nhận ra những ý nhắc lại các đoạn khác trong TM III: những yếu tố thuộc lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3,10-14); dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế (18,9-14); người thủ lãnh giàu có (18,18-23); anh mù (18,35-43). Dakêu được giới thiệu như là mộtngười giàu gương mẫu đã hiểu sứ điệp cũng như mối quan tâm của Đức Giêsu đối với người nghèo, nên đã biết lấy những quyết định tương xứng. Bản văn cũng cho thấy có những điểm gặp gỡ với giai thoại anh mù: Dakêu đã thực hiện những bước không thông thường để nhìn thấy Đức Giêsu khi Người đi ngang qua. Hai bản văn cuối cùng này trực tiếp đưa độc giả đi theo Đức Giêsu vào Giêrusalem trong tư cách là “Con vua Đavít” để thực hiện chương trình cứu lấy những gì đã mất.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Dakêu đã bị xã hội đẩy ra bên lề và khép lại với chính ông. Nhưng ông đã không chịu ở lại trong vòng tròn khép kín mà xã hội đã nhốt ông vào, đó là thế giới của tiền bạc và những quan hệ không lương thiện; ông tìm cách “thấy” Đức Giêsu, và thế là ông được cứu. Khép kín vào chính mình, con người không bao giờ thoát khỏi tội lỗi của mình; muốn được cứu, ta cần phải mở ra với Đức Giêsu. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta hiểu: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta đến với Người, nhưng Người cũng chờ đợi chúng ta sẵn sàng đón tiếp Người vào nhà.
2. Trong bất cứ cộng đoàn nào, bao giờ cũng có những người sợ đến gần những “người thu thuế”, những “kẻ tội lỗi”, những người không có danh thơm tiếng tốt... Bạn thử hình dung xem mình đang nghĩ về người khác thế nào? Đức Giêsu không làm như thế. Người đã nắm lấy bàn tay Dakêu đang rụt rè đưa ra về phía Người. Người lấy sáng kiến và đặt Dakêu trên mộtnẻo đường mới.
3. Tất cả những thái độ và lời nói rất “người” (sự quan tâm, cử chỉ thân ái, lời nói dịu dàng...) có thể đưa người khác đến những biến đổi rất “thánh”. Môn đệ Đức Giêsu phải sống thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên Chúa xuất hiện cho anh chị em mình. Hôm nay Đức Giêsu vẫn đang ban ơn cứu độ qua Lời Người, các bí tích, qua Giáo Hội. Nếu bạn là thừa tác viên Lời Chúa hoặc bí tích, bạn đã có ý thức về cung cách cử hành thế nào để Đức Giêsu đến được với anh chị em của bạn?
4. Tấm gương của người môn đệ chính là thầy Giêsu: Người đã không ngại bị đánh giá tiêu cực để khỏi phản bội sứ mạng cứu thế. Người môn đệ của Đức Giêsu sẽ có những lúc phải chọn lựa như thế. Tuy nhiên, ngay trong đời thường, qua các sinh hoạt nghề nghiệp, thăm viếng, có khi nào bạn nghĩ là bạn sinh hoạt, thăm viếng theo ý muốn của Thiên Chúa?
Giakêu là người thu thuế giàu có tại Giêricô. Và như chúng ta đã biết, dân chúng, nhất là những người đạo đức thường khinh bỉ những làm làm nghề thu thuế, nối giáo cho quân đội Rôma để bóc lột đồng bào của mình. Họ thường bị đồng hoá với những kẻ độc ác, bất công và tội lỗi, do đó bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Ông Giakêu hẳn đã từng được nghe nói nhiều về Chúa Giêsu. Và quả thực lúc này Chúa Giêsu đã trở thành một nhân vật được đông đảo quần chúng biết đến, vì những lời Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm, nhất là về lập trường và thái độ của Ngài. Phúc Âm kể lại: Rất đông người vây quanh Chúa Giêsu khiến cho ông Giakêu muốn được nhìn thấy Ngài nhưng không sao được, vì ông thấp bé. Nhưng ông không chịu thua. Ông chạy lên phía trước, đón đường Chúa và để chắc ăn, ông đã trèo lên một cây sung. Thái độ của Giakêu có thể là vì tò mò nhưng lại cũng là một điều thuận lợi để ông đi vào quan hệ với Chúa Giêsu.
Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn là người đi bước trước. Vừa thấy Giakêu, trước cả khi ông kịp nói lên một lời nào đó, Chúa Giêsu đã ngỏ lời với ông và trong lời ngỏ cùng Giakêu, Ngài đã dành cho ông một ân huệ lớn lao hơn cả điều ông có thể tưởng tượng ra. Ngài ngỏ ý muốn lưu lại tại nhà ông. Đó quả là điều ông không hề nghĩ tới. Ông phải là người hiểu rõ địa vị của ông hơn ai hết, vì ngay cả khi Ngài đến tại nhà ông, thì mọi người vẫn còn lẩm bẩm: Ông này lại đến trọ nhà một kẻ tội lỗi.
Nhưng điều bất ngờ lớn nhất đã xảy ra đó là cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã hoàn toàn biến đổi con người ông. Cuộc viếng thăm ấy đã đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời một người thu thuế. Trước cả khi Chúa Giêsu nói một lời nào về tội lỗi của ông, thì ông đã tự động đề ra biện pháp để sửa đổi những lầm lỗi ông đã phạm. Biện pháp đó gồm hai phần: Phần thứ nhất là bố thí cho kẻ khó, và ông bố thí tới nửa phần ba gia tài của ông. Ông làm việc bố thí này hoàn toàn vì lòng đại lượng. Phần thứ hai là đền bù cho những người ông đã gây thiệt hại. Ông sẵn sàng đền bù gấp bốn lần, nghĩa là vượt quá điều luật buộc của người Do Thái, nhưng lại phù hợp với hình phạt của luật Rôma dành cho tội ăn cắp tỏ tường. Ông Giakêu quả là đã có được một sự độ lượng.
Lời Chúa Giêsu kết thúc có một ý nghĩa đặc biệt. Trước hết đó là lời tuyên bố ơn cứu độ được ban cho nhà, nơi Chúa Giêsu lưu lại, dù đó là nhà của Giakêu, người thu thuế. Đồng thời đây cũng là lời đặt ông Giakêu vào lại vị trí của ông trong cộng đồng dân Chúa, trong dòng dõi Abraham. Và cuối cùng Ngài đã mạc khải cho chúng ta chân lý lạ lùng này, đó là Ngài đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư đi.
Giakêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã đổi mới cuộc đời ông. Trong sự đổi mới này, ông đã không chỉ trở lại với Chúa mà còn trở lại với anh em, với những người chung quanh, nhất là với những người ông đã làm thiệt hại. Liệu chúng ta đã thực sự gặp gỡ Chúa hay chưa, và nhất là chúng ta đã thực sự đổi mới cuộc đời chúng ta hay chưa.
Truyện kể: Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý. Một hôm, ông đi thị sát chiến thuyền Galère được chèo chống bởi một đội tù nhân đông đảo. Khi gặp các tù nhân, ai cũng kêu ca bào chữa rằng họ là những người vô tội. Chỉ có một tù nhân ngồi ở phía góc cúi đầu, chẳng nói chẳng rằng. Công tước bước đến và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi chịu xứng với tội tôi đã phạm. Công tước quay ra nói với mọi người: Anh này là phạm nhân, hắn không xứng đáng ngồi nơi đây chung đụng với những người vô tội. Ta ra lệnh trục xuất ngay hắn ra khỏi chỗ này. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành biết nhận lỗi. Người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ.
Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tốt lành vô cùng. Vì yêu thương, Chúa tạo dựng muôn loài và muôn vật để cùng chung hưởng hạnh phúc. Nhìn ngắm vũ trụ muôn loài thật quá vĩ đại nhưng tình thương của Chúa còn bao la vĩ đại tuyệt vời hơn. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: Trước nhan thánh, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất (Kn 11, 22). Thụ tao do Chúa dựng nên đều tùy thuộc vào sự an bài của Chúa. Sự hiện hữu của những mầm sống từ loài thực vật nhỏ li ti cho đến những loài vật khổng lồ đều sống dưới sự chở che quan phòng của Thiên Chúa. Mọi loài thọ tạo đều chia sẻ một nguồn sống từ Đấng Tạo Hóa: Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa (Kn 11, 26). Mỗi loài thụ tạo đều góp phần làm vinh danh Thiên Chúa từ đời này tới đời kia.
Luật Chúa như kim chỉ nam giúp cho chúng ta tìm ra con đường chính thật. Giống như luật lệ giao thông, trên mọi con đường lớn nhỏ đều có các bảng dẫn lối chỉ đường, vậy mà nhiều người cũng vẫn bị lạc hoặc phạm lỗi. Những ai có bằng lái xe đều phải học biết luật lệ, khi phạm luật thì bị phạt. Chúng ta không thể kêu ca trách móc ai cả. Đời sống đạo cũng thế, có luật Chúa và luật Giáo Hội, chúng ta cố gắng soi mình để sống tốt và sống cho phù hợp với luật dạy. Chúng ta được nhắc nhở canh thức và thức tỉnh lương tâm sống đạo. Sách Khôn Ngoan dậy rằng: Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa (Kn 12, 2). Đừng coi thường những huấn lệnh, giới răn và lời khuyên dạy. Có đôi khi chúng ta đang dìm mình trong vũng lầy mà không nhận ra. Sống trong u mê lầm lạc lại tưởng là đang sống trong hoan lạc.
Phúc âm kể câu truyện Chúa Giêsu đi ngang qua làng, thấy ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa. Chúa ngước nhìn lên, ông cúi xuống và hai ánh mắt chạm nhau. Trái tim Chúa xót thương và lòng người thổn thức. Chúa đề nghị ghé thăm nhà ông. Giakêu vui mừng đón tiếp Chúa và ông tự xưng thú tội lỗi mình trước mọi người. Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đay phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19, 8). Ánh mắt nhân từ của Chúa đã cải hóa được một tâm hồn tội lỗi. Với lòng chân thành hối lỗi đền bù, Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng lầy của gian tham tội lỗi.
Chúa Giêsu rong ruổi đi tìm những con chiên bị lạc. Có nhiều con chiên xa lạc chưa biết đường trở về. Chúa đã tìm và đi cứu: Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19, 10). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xin Chúa Cha ban thêm các thợ gặt tâm hồn. Cánh đồng lúa chín bao la nhưng thiếu thợ gặt. Còn biết bao nhiêu người đang bị mê lầm trong tội lỗi mà không nhận biết tin mừng cứu độ. Đôi khi chính chúng ta qúa quen với lối sống ấm êm hưởng thụ và cách sống dung túng trụy lạc, chúng ta không muốn từ bỏ con đường cũ và không muốn bước ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp. Buông bỏ tội lỗi thì tiếc xót, vì tội là một cái thú. Chúa thường gởi đến những nhân chứng để đánh động tâm hồn. Chúng ta rất may mắn được lắng nghe lời Chúa chỉ dậy và được Giáo Hội nhắc nhở luôn. Chúng ta cần cầu nguyện xin ơn can đảm để có thái độ dứt khoát với tội lỗi qúa khứ.
Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin rằng xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Mỗi ngày sống, chúng ta phải đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Cám dỗ về danh, lợi và thú. Có nghĩa là khi còn sống, thân xác luôn đòi hỏi những nhu cầu rất tự nhiên. Chúng ta luôn có cơ hội để chọn lựa thái độ sống tốt. Cái danh cái lợi, ai mà không thích. Tiền bạc và lạc thú, mấy ai từ chối. Những thói đời tham sân si kéo ghì con người chúng ta lại. Người ta thường nói tới cái ‘thú’ ở đời. Lạc thú dẫn chúng ta vào những si mê quay cuồng trong thú vui nhục dục, tham lam danh lợi, tiền bạc, gian lận bài bạc và buông thả cuộc sống.
Tội lỗi cứ bám sát cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta không dứt khoát khước từ và dũ bỏ, nó sẽ không buông tha chúng ta. Chúng ta cần tự xét, nhận lỗi và sửa lỗi mình mỗi ngày. Cũng giống như ngày hôm qua chúng ta đã ăn no, ngày hôm nay đói, lại muốn ăn. Hôm qua, chúng ta tắm rửa sạch sẽ mát mẻ, hôm nay lại thấy dơ, nên phải tắm. Sáng thức dậy ra khỏi nhà và đi làm việc. Chiều lại trở về xum họp gia đình. Ai ra đi cũng mong trở về. Kẻ đi lạc, mong tìm được lối ra. Người rơi vào đường lầm, nên tìm đường trở lại. Khi sa ngã phạm tội, cần phải sám hối ăn năn. Tội hôm qua khác tội hôm nay. Cần xưng thú và lãnh ơn tha tội và xin hứa quyết lòng chừa. Mỗi lần phạm tội đều là tội mới trong hoàn cảnh mới. Chúng ta cần tiếp tục sám hối và trở về. Sống mỗi ngày cho trọn vẹn. Mỗi người được mời gọi đổi thay để sống tốt, thánh thiện và hoàn hảo hơn mỗi ngày.
Chúng ta có trí khôn để nhận biết giá trị của không gian và thời gian. Thời gian thuộc về Chúa. Mỗi ngày là một ngày mới hoàn toàn. Những điều chúng ta xem như cũ, cứ lập đi lập lại, nhưng không phải thế. Lời khuyên cũ được nhắc lại trong hoàn cảnh mới và với tâm tình mới. Mười năm trước chúng ta đã nghe câu truyện đó, hôm nay chúng ta được nghe lại cùng câu truyện nhưng đã có nhiều đổi thay. Khi xưa, chúng ta còn trẻ, còn hăng say và còn nhiều vấp ngã. Hôm nay, chúng ta trưởng hơn một chút, chững chạc hơn một tí và có thể nhẫn nại hơn. Điều quan trọng là chúng ta có tốt lành thánh thiện hơn không, hay vẫn dậm chân tại chỗ và đôi khi còn bị thụt lùi. Cho nên lời khuyên răn mời gọi đổi đời, trở về và sửa sai vẫn là cần thiết.
Trong thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô vừa mời gọi và vừa cảnh báo rằng: Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư qủa quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ (2Thes 2, 2). Hãy sống thanh thản trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta không phải bồn chồn lo lắng truyện gì sẽ xảy đến. Đừng để lòng bận vướng những oán thù đã qua. Cố gắng sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ân tình với Chúa và với anh chị em.
Lạy Chúa, thân con mỏi mệt, tâm con yếu đuối, lòng con tội lỗi và hồn con lạc xa Chúa. Con xin thành tâm hối lỗi, xin Chúa thứ tha và đưa dắt con về nẻo chính đường ngay.
Đức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu ; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi - như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm vui
Đức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và "vội vàng tụt xuống". Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: "Nhà người tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ." Thật là xúc phạm, không thể nào chấp nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến chúng ta
Qua khát vọng của ông Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn ; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế nào để kính chào Chúa, phải chăng là dùng luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa, xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình, trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con. theo J. Halevy
Khi còn học giáo lý rước lễ ở họ đạo, tôi được cha sở dạy rất kỹ về những việc mà hối nhân phải làm trước khi xưng tội gồm có: thật lòng ăn năn, xưng tội và thành tâm đền tội. Nhưng trong 3 việc đó thì ăn năn tội là điều quan trọng nhất. Ví ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa. Tương tự như thế hình ảnh Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một bài học về “sám hối”. Đó chính là tấm lòng mà Thiên Chúa luôn cần nơi mỗi người và đặc biệt trong cuộc sống mỗi người phải biết sám hối vì “nhân vô thập toàn”.
Có câu chuyện kể rằng một cha sở nọ nằm mơ, thấy Đức Giêsu thăm giáo dân đang tụ họp trong nhà thờ. Khi Đức Giêsu ra về khuôn mặt Ngài rất vui và hớn hở. Cha mới chạy theo hỏi Đức Giêsu tại sao thế? Và Chúa đáp: vì có những người nói những lời hết sức đẹp ý Ta. Thưa Chúa đó là những lời nào vậy, những lời chúc tụng ngợi khen ư? Không phải. Vậy những lời ta ơn tri ân cảm tạ phải không? Chúa trả lời cũng không đúng nữa. Không chịu thua cha sở nọ lại hỏi tiếp: hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn no cho họ? Chúa Giêsu lắc đầu: con đoán sai cả rồi họ đã nói với ta: “Lạy Chúa xin hãy tha thứ tội lỗi chúng con”. Câu nói của Giakêu trong bài Tin mừng hôm nay, cũng có nội dung tương tự như thế và nó còn thể hiện việc sám hối bằng cả hành động nữa “thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Do đâu mà những người giáo dân trong câu chuyện lại mau mắn sám hối như vậy. Vì lí do gì mà Giakêu lại quyết tâm hoán cải nhanh đến như thế. Chúng ta thấy cả hai đều có điểm chung là đã gặp được Chúa. Vậy để có thể sám hối tôi thiết tưởng phải cần có những yếu tố sau:
1. Thiên Chúa mời gọi
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu đặt chúng ta vào trung tâm vấn đề cơ bản của lòng chúng ta, làm sao nối lại tình thân với Thiên Chúa sau khi tội lỗi đã làm ta xa cách Ngài? Làm sao nhìn thấy Chúa Giêsu khi giữa ta và Ngài còn một “khoảng đám đông” đang chen lấn, mà ta lại là người đang “nhỏ bé như Giakêu”. Chúng ta không nên quá lo lắng về điều đó, vì Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người, nhất là những người tội lỗi “vì con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Mt 19,10). Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Ngài, Ngài đi bước trước và đến với ta trước. Hầu hết các sách Tin Mừng không trình bày việc gì khác ngoài việc Thiên Chúa đến với loài người và gặp gỡ họ. Như trong Bài Tin Mừng không phải Giakêu đã nhận ra Đức Giêsu trước, nhưng chính Đức Giêsu đã nhân ra Giakêu trên cây. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu đã quan tâm đến chúng ta hơn là chính Người. Đức Giêsu chỉ đi ngang qua Giêrikhô một lần thôi, Ngài cũng chỉ gặp Giakêu ở đó một lần thôi, nhưng trong đời chúng ta Ngài sẽ đến mãi trong từng giây phút, nếu ta chưa tiếp xúc được với Ngài.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giêsu của Giakêu như bài học kêu gọi mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc sám hối như thế, và biết rằng sám hối là một đặc ân Chúa ban, chính Chuá là người đi bước trước và có sáng kiến chứ không phải nơi chúng ta, đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có bổn phận phải đáp lại.
2. Con người đáp trả
Thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi dựng nên con Chúa phải hỏi con”, nghĩa là Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác nơi con người, không những thế Thiên Chúa còn muốn con người cộng tác một cách chủ động và trưởng thành. Chúa không đòi ai cũng phải chờ đợi để leo lên cây sung, nhưng quan trọng là phải đi gặp Chúa trong chính hành động của mình. Giakêu luôn ao ước được gặp Chúa và chính lòng khao khát đó đã được Chúa cho thoã mãn. Nhưng để phá rào cản tội tội, rào cản mă#c cảm, và nhất là rào cản giữa con người với nhau thật sự không dễ chút nào. Chắc chắn Giakêu đã nghe Danh Đức Giêsu từ lâu và hằng ao ước đến chỉ để nhìn mặt thôi, nhưng kết quả thật không ngờ, ông được hưởng hơn những gì mà ông mong đợi và hơn thề nữa “ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Giakêu được như vậy không phải do ông này nỉ, van xin, cũng không do công trạng lập được, lại không phải là một người tốt đáng khen, nhưng điều quan trọng là ông biết “đáp trả” lời Chúa mời gọi, trong khi những người được cho là tốt thì lại không biết làm. Như Giakêu chúng ta cũng hãy biết đáp trả tình yêu Chúa băng cách sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời, vì tình yêu Thiên Chúa luôn bai la rộng mở, dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, cuộc đời chúng ta có xấu đến đâu cũng không sao. Chúa sẽ tẩy xoá hết để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thường trong bể tình thương bao la của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết ăn năn sám hối mỗi ngày, để con xứng đáng đáp trả tình yê mà Thiên Chúa đã ban cho con. Amen.
Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính... một ranh giới rất "thiêng liêng", mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới "siêu hình" này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi... để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có "hành vi sám hối".
"Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất"
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới "hôm nay", thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống con người.
"Hôm nay nhà này được cứu độ"
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta"
Điều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều "cần thiết" của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; "bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham", và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: "Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng". Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Không phải con đến với Chúa, nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay. Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con; những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống, xin Chúa rộng lòng ban cho con như Chúa đã ban cho ông Giakêu khi xưa.
Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: - Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); - Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); - Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).
Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.
Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: - Con người và ước muốn (cc. 2-3); - Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.
Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).
Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.
Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).
Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.
Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla do một người bị bất toại đã 20 năm gửi tặng. Ông ta bị toàn thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông sống trong cô đơn và chỉ có một người bạn duy nhất là điếu thuốc lá. Hôm ấy, Mẹ Têrêsa đến thăm, an ủi ông và ông đã nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con đã ngừng hút thuốc từ một tuần nay, và đây là số tiền con dành dụm được. Con xin biếu Mẹ để Mẹ mua cơm bánh cho những kẻ nghèo khó.
Thật quý hóa cho một tâm hồn cao thượng. Biết tích góp từ những đồng tiền ít ỏi của mình để trao tặng tha nhân. Người ta nói rằng: trên đời này, không ai nghèo đến nỗi không có gì để chia sẻ với người khác và cũng không ai giàu đến độ không thể nhận thêm được cái gì của người khác ! Với số tiền nhỏ bé 15 đôla kia, Mẹ Têrêsa đã mua cơm bánh cho người nghèo đói, và cả hai -người bất toại trong việc cho đi và người nghèo đói trong việc nhận lãnh- đều cảm nhận được một niềm vui sâu xa. Có lẽ nhiều lần chúng ta đã dễ dàng quên đi một sự thật căn bản này là: mỗi một dịp chia sẻ với người khác tức là một lần đón nhận niềm vui của một tâm hồn biết cho đi. Thế nhưng, chúng ta vẫn để cuộc đời trôi qua trong tẻ nhạt vì lạnh vắng tình người.
Thực ra, giá trị cuộc đời con người nằm ở chỗ có khả năng trao ban. Người càng trao ban nhiều thì càng có giá trị với cộng đoàn, với xã hội. Ai không biết trao ban sẽ trở thành vô ích với xã hội loài người. Cho dù họ có lắm tiền nhiều của hay chức vọng cao sang thì cũng vô giá trị với anh em nếu không biết sống trao ban. Trao ban còn cho ta niềm vui của cuộc sống khi nhận ra mình thật có ích với tha nhân. Chúng ta có thể trao ban cho tha nhân tiền tài, tình yêu, sự chia sẻ, lòng cảm thông. Chúng ta có thể trao ban lời nói và hành động ngay cả ánh mắt của sự đồng cảm yêu thương. Trao ban sẽ tạo cho ta mối giây liên hệ gắn kết với tha nhân, cộng đoàn. Trao ban sẽ tạo cho ta niềm vui vì thấy người khác vui nhờ sự chia sẻ của chúng ta.
Đây là niềm vui của Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ đón nhận, chỉ biết vun quén, có khi vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Thầy Giê-su là động lực để ông dám trao ban cả một khối gia tài mà trước đây ông vun quén, ông xây kho lẫm để chất cho đầy. Khi có Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.
Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao cơ hội để ta trao ban nhưng dường như chúng ta vẫn để cơ hội ấy lặng lẽ trôi qua. Chúng ta vẫn sợ cho đi mình sẽ thiệt thòi. Chúng ta vẫn ích kỷ không dám cho đi vì sợ người ta hơn mình. Chúng ta vẫn cố nắm giữ cho mình mà ít nghĩ tới việc trao ban. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn lặng lẽ trôi qua trong âm thầm tẻ nhạt.
Ước gì mỗi lần chúng ta đến với Chúa sẽ cho chúng ta cơ hội để trao ban. Có Chúa là gia nghiệp, là hạnh phúc vượt trội hơn mọi danh vọng, vật chất trần gian. Có Chúa là lẽ sống sẽ giúp chúng ta làm một điều gì đó cho Chúa vui lòng như Gia-kêu đã thành tâm sám hối chuộc lại lỗi lầm. Ông đã bố thí, đã trao ban nhờ đó ông ngập tràn niềm vui trong tâm hồn. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Amen.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II được coi là sứ giả của Thiên Chúa, và là con người của muôn người. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện trên 100 chuyến công du đến 129 quốc gia để gặp gỡ và chung sống với đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ mọi dân tộc trên khắp Năm Châu. Dù tuổi già sức yếu, hai lần té gãy xương, thậm chí cuộc ám sát năm 1981 đã khiến ngài từng ngã qụy vì viên đạn bắn gần vào tim, nhưng tất cả vẫn không làm chùn bước chân của người mục tử đi đến với đoàn chiên và tìm chiên lạc trở về.
Ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm lịch sử, một chuyến viếng thăm đã chinh phục được toàn thể luơng tâm nhân loại. Đó là khi Ngài dừng chân bên bức tường Than Khóc. Tại đây, ngài lập lại lời xin lỗi cho cả một quá khứ hiểu lầm đầy đau thương. Đây quả thực là một cuộc viếng thăm đã san bằng con đường gồ ghề gai góc và mở ra một chân trời mới.
Chân trời của sự tha thứ lẫn nhau. Chân trời của sự tin tưởng lẫn nhau Chân trời của những chân lý chung Chân trời của những trách nhiệm chung Và chân trời của sự cầu nguyện chung.
Đức thánh Cha Đức Bênêdicto 16 cũng ra đi, để đến với muôn dân. Đặc biệt trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11/2006, ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm đầy mạo hiểm theo cái nhìn người đời, nhưng là bước đi đầy lòng cậy trông và phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài đã đánh đổ mọi cái nhìn lệch lạc về ngài khi ôm chúc bình an với Đức Thượng phụ Bathôlômêô I, và khi ngài bước vào Đền Thờ Xanh trong sự kính trọng và đầy thiện cảm của anh em Hồi Giáo. Chính chuyến tông du có tính lịch sử này, giới truyền thông trên toàn thế giới cho rằng ngài đã đóng góp: “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý chung trong tình huynh đệ và đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết”.
Trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu luôn đi đến với mọi người. Mỗi bước đi của Ngài luôn để lại dấu ấn đầy yêu thương cho những ai được tiếp xúc với Ngài. Hôm nay, Giakêu đã được Chúa viếng thăm. Đây là một hồng phúc dành cho Giakêu. Gia Kêu không ngờ mình lại được Thiên Chúa viếng thăm. Những người Do Thái năm xưa càng không ngờ Thầy Giêsu, một vị Thầy đáng kính, một người thánh thiện lại ghé thăm kẻ tội lỗi. Nhưng đây lại là đường lối của Chúa. Chúa đã dùng cách này để mang tình yêu đổi lấy cuộc đời Gia Kêu. Chúa dùng tình yêu để cải hoá người tội lỗi. Chúa đến để tìm kiếm, để cứu chữa những gì đã mất. Chính trong chuyến viếng thăm lịch sử này, Chúa đã đổi đời Gia Kêu để từ đây ông không còn tham lam quyền bính hay tham lam tiền bạc. Gia Kêu đã sám hối và chuộc lại lỗi lầm. Ông đã cho đi những của phù vân. Ông đã biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Ông còn bỏ tiền để đền bù những việc lỗi công bằng bác ái mà ông đã gây ra. Ông đã tìm được sự bình an của tâm hồn sau một lần được Chúa viếng thăm.
Con đường đến với anh em phải là con đường của các môn đệ Thầy Giêsu. Hãy ra khỏi chính mình để đến với anh em. Hãy tìm đến các con chiên lạc mà đưa về ràn. Hãy hội nhập với đời để đem đạo vào đời. Chúa đã đi vào đời để gieo chân lý, niềm tin và hy vọng. Là môn đệ của Chúa cũng cần bước theo dấu chân của Thầy Giêsu. Dấu chân luôn rong ruổi khắp mọi nẻo đường. Dấu chân của người môn đệ đi đến đâu, sẽ để lại cho đời một màu xanh của yêu thương và hạnh phúc bình an. Ước mong mỗi người chúng ta hãy can đảm vượt qua những trở ngại từ bản thân, từ môi trường để dấn thân cho Tin mừng của Chúa được đến với muôn người. Hãy xoá mọi thành kiến xấu nơi anh em để có thể hoà hợp với anh em. Hãy xoá bỏ mọi ngăn cách giầu nghèo hay địa vị cao thấp mà sống hoà đồng với anh em. Hãy xoá bỏ mọi hiềm khích hận thù để sống bác ái yêu thương nhau ngõ hầu làm sáng danh Chúa qua những dấu chỉ của tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã viếng thăm Giakêu xin cũng lưu lại nơi cuộc đời chúng con để biến đổi chúng con thành những tín hữu biết sống công bình bác ái và dấn thân hết mình phục vụ tha nhân. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyên bố:”Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”.
Thành Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city”: thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét.
Giêricô có rừng chà là rất lớn. Giêricô lại còn có những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng. Từ đây người Rôma chở trái chà là và thuốc thơm đi bán khắp nơi trên thế giới, khiến Giêricô trở thành một trong những trung tâm lớn nhất trong xứ Palestine. Hơn nữa trong nước Palestine lại có nhiều lọai thuế và cách tính thuế của họ là một cơ hội thuận lợi cho những nhân viên thu thuế làm giầu một cách mau chóng. Ở đây Giakêu không phải chỉ là một nhân viên thu thuế bình thường, nhưng là người đứng đầu những người thu thế, cho nên chắc chắn Gia kêu phải giầu và rất giầu nữa là khác. Rồi một khi người ta giầu có thì đương nhiên có quyền lực ảnh hưởng trên các tầng lớp xã hội. Giakêu, một con người không thiếu gì cả, ấy thế mà lại mong muốn được gặp Chúa Giêsu.
Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu. “Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.
Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi:”Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi. Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân.
Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do Thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.
Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do Thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay thẳng và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chính ở nơi đây Giakêu mở lòng ra để chia sẻ: “Đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo và nếu tôi đã chiếm đọat của ai, tôi xin đền gấp bốn”(Lc 19,8).
Quả thật ông đã làm hơn cả luật dạy:
Phải đền 1+1/5 nếu là của vớ được hay ăn gian của kẻ khác. (Lv 5,22-24) Phải đền gấp đôi (1+1) khi ăn trộm chiên, bò cừu mà chưa giết hay chưa bán đi, hoặc ăn trộm của gì mà chưa tẩu tán (Xh 22,3-6) Phải đền gấp bốn (1+3) khi ăn trộm chiên cừu đã giết hay bán đi.(Xh 21,37). Phải đền gấp năm (1+4) khi ăn trộm trâu bò đã giết hoặc bán đi.
Dù chưa biết mình sai lỗi đức công bằng đích xác ở mức độ nào, nhưng ở đây và lúc này, Giakêu hứa với Chúa không những xin đền “gấp bốn và còn cộng thêm nửa tài sản của ông”. Một sự thay đổi tuyệt vời khi gặp gỡ Chúa Giêsu.
Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố:”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài:”Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Những gì hư mất ở đây, cụ thể chính là Giakêu. Amen.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 19: 1-10)
1 Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy.2 Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn.4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó.5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! "6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! "8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." SUY NIỆM
“Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình”, câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện hoán cải tận căn của một con người – một con người đã được đụng chạm tới tình yêu Giêsu.
Cũng như muôn ngàn định nghĩa về tình yêu thì “tình cho không biếu không” vẫn là định nghĩa triệt để nhất. Tình vốn dĩ là cho không biếu không - bất chấp cả dư luận, bất chấp của cải, bất chấp danh dự, bất chấp tội lỗi, bất chấp xấu xa, khiếm khuyết…bất chấp tất cả.
Câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện tình yêu tuyệt vời; người tung, kẻ hứng thật đồng điệu và đã mang lại kết quả tốt đẹp. Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ tuyệt vời giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu.
Trước mặt người Do Thái, Giakêu là một kẻ tội lỗi. Không tội lỗi như bọn phóng túng đâu; nhưng đây còn là một tội nhân nguy hiểm. Giakêu là ty trưởng quan thuế ở một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Và điều này có thể làm sống lại một số kinh nghiệm cũ của chúng ta. Những người thu thuế cho hạng ngoại bang làm sao không bị coi là những tên hại dân hại nước! Huống nữa Giakêu là ty trưởng quan thuế.
Hôm ấy Giakêu nghe tin Ðức Giêsu đi ngang qua Giêricô. Tò mò ông muốn thấy Người... nhưng ông lại nhỏ con chẳng sao nhìn được Người vì thiên hạ bu đầy xung quanh Người.
Tình yêu luôn có sáng kiến và đi bước trước: Trong trình thuật Tin mừng, chúng ta thấy lòng mộ mến một Rabbi Giêsu lý tưởng đã khiến Ông Giakêu, một quan chức đứng đầu thuế vụ, giàu có, chạy lên trước đám đông và trèo lên cây sung để được thấy Người. Ông trèo lên cây, nấp trong đám lá, không biết ông đang đắc ý về diệu kế cho vóc người thấp bé của ông hay đang hồi hộp sợ có ai phát hiện, nhưng có lẽ là cả hai. Chỉ còn một cách: Phải tìm chỗ đứng trên cao nhìn xuống... Chẳng có nhà lầu nào ở gần. Hơn nữa, trèo lên một thân cây có lẽ đỡ phiền phức hơn. Giakêu đã làm như thế. Nhưng này Chúa đã gọi ông: " Giakêu, xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi".
Ông ngồi trên cao và nhìn xuống. Về hình thức, tưởng chừng như Ông là người đi bước trước, nhưng nội dung câu chuyện đã cho thấy người đi bước trước là Đức Giêsu - Người đã biết Giakêu từ trước. Người đã biết những mặc cảm cũng như những khát khao trong lòng Giakêu.
Tình yêu và lòng thương xót đã khiến Đức Giêsu ngước lên nhìn Ông đang trốn mình trong tán lá – Hai thái độ - hai nội dung trái ngược: Giakêu tìm Chúa: thay vì ngước mắt lên trời, Ông lại ở ‘vị trí của mình trên cao’ nhìn xuống. Đức Giêsu tìm Giakêu: Ngài ở dưới ngước nhìn lên; Thực ra, tình yêu và lòng thương xót của Người đã cúi xuống, chiếu cố đến Giakêu – con người thấp bé về hình vóc, nghèo nàn về phẩm hạnh trong mắt người Dothái.
Tuy nhiên, xuyên suốt qua cái gì là bề ngoài giới hạn ấy, Đức Giêsu đã nhìn thấy giá trị đích thực với những phẩm chất cao quí của con người – một con người mang hình ảnh của Đấng Tạo hóa. Đức Giêsu đã đi bước trước trong việc cởi bỏ những mặc cảm tự tôn, tự ti trong lòng Giakêu để Ông mở rộng lòng mình đón nhận Chúa trong tình yêu chân chất. Ngài gọi Ông xuống, trở lại vị trị để sẵn sàng làm một cuộc hoán cải.
Ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.
Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Ðó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Ðối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Ðối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Ðấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Tình yêu kết trái: Giakêu khát khao được nhìn thấy Đức Giêsu có lẽ vì những tiếng tăm tốt lành của Người khiến lòng Ông mộ mến và mong đợi một điều gì đó(?) Đức Giêsu tìm Giakêu như “người chăn chiên đi tìm một con chiên lạc” (x. Mt 18,12 - 14), như người đàn bà đi tìm đồng bạc đã mất” (x. Lc 15, 8 -10), như “người cha nhân hậu chờ đợi người con đi hoang trở về” (x. Lc 15, 11 - 32).
Tuy đã được nghe nhiều về Đức Giêsu, nhưng Gia kêu không ngờ ông lại được vinh dự và yêu thương như vậy. Và từ trái tim đã đụng chạm đến trái tim. Tình yêu được đáp đền bằng tình yêu đã nảy sinh hoa trái tốt đẹp: “Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Thật là niềm vui tràn vỡ vì “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” Cũng như Phaolô, ông Giakêu đã cảm nghiệm được món lời hậu hĩ vì được biết Đức Giêsu (x. Pl 3, 8 - 9).
Vì thế, của cải đối với ông bây giờ không còn quan trọng nữa. Trước đây ông ra tay bóc lột, tích góp bao nhiêu, thì bây giờ ông sẵn sàng cho đi tất cả. Thật là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời! Một bước hoán cải tuyệt diệu!
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Chúa Giêsu đã đến để tìm cứu kẻ có tội: Người là ơn cứu độ Thiên Chúa gửi đến cho loài người. Người thực hiện những điều mà sách Khôn Ngoan đã viết. Tác giả sách này chỉ biết rằng: Thiên Chúa vì toàn năng và nhân ái sẽ làm cho tội nhân trở lại. Nhưng thế nào và nhờ ai, thì chúng ta phải chờ đến khi thấy Ðức Giêsu xuất hiện và cương quyết đi lên Giêrusalem để làm công việc cứu thế... Hôm nay Người đã làm cho Giakêu trở lại đang khi Người lên Giêrusalem để chúng ta thấy trước mục đích của việc Người sẽ chịu nạn và sống lại.
Và rồi ước chi trang Tin Mừng hôm nay giúp ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
Hết thảy chúng ta đã từng nghe những tin đồn về ngày tận thế diễn ra trong lịch sử. Và có rất nhiều người cảm thấy hoang mang, sợ hãi. Họ lo chuẩn bị mọi thứ để có thể đối phó. Có người che chắn nhà cửa để tránh phải khí độc, có người vội vàng xin thôi việc, bán tài sản, có người lại tuyên truyền tận dụng thời giờ để tận hưởng những giây phút còn lại. Mới đây nhất là tin đồn về ngày 21/12/2012, ngày diệt vong của nhân loại dựa theo sự kết thúc lịch của người Maya. Tin đồn này khiến nhiều người trên thế giới lo sợ. Họ đã tích cực mua nến, tích đồ lương thực, xây dựng hầm trú ấn… Họ chuẩn bị trong sợ hãi và vô vọng.
Cộng đoàn thân mến,
Hành trình của đời sống Kitô hữu là chuẩn bị đón chờ ngày Chúa đến. Trong niềm hy vọng, người Kitô hữu không phải lo sợ ngày này như những người vô thần. Ngày Chúa đến không phải để kết thúc nhưng là sự bắt đầu. Đó không phải là thời khắc của trừng phạt nhưng là thời khắc của lòng xót thương và ơn cứu độ. Và thật hạnh phúc hơn nữa là Chúa vẫn đang đến với con người trong từng giây phút sống hiện tại.
Chúa đã đến với con người từ thuở khai thiên lập địa qua công trình tạo dựng. Thiên chúa sáng tạo để đem lại cho nhân loại được hạnh phúc. Một cuộc sáng tạo vì lòng xót thương, muốn cho muôn loài muôn vật được chia sẻ vinh quang, hạnh phúc với Ngài. Chúa yêu thương, Chúa mới tạo dựng, như trong bài đọc thứ I, trích từ sách Khôn Ngoan, chúng ta vừa nghe.
Chúa dựng nên muôn loài không phải để bỏ mặc theo kiểu đem con bỏ chợ nhưng luôn quan phòng hết tất cả. Chúa vẫn đến và tiếp tục cuộc sáng tạo của Ngài qua việc sửa dạy từ từ, nhắc nhở, cảnh báo để những ai phạm tội, những người sa ngã trở về với Ngài.
Điều này để thể hiện rõ trong bài Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh của ông Giakêu. Ông là người đứng đầu những người thu thuế, cũng đồng nghĩa với hạng nhất về phương diện tội lỗi trước mặt mọi người. Ông chỉ ước mong một lần được gặp con người nổi danh lúc bấy giờ, dù chỉ tò mò, và như thế là ông mãn nguyện lắm. Nhưng ông đâu có biết rằng Con Người đó bấy lâu nay vẫn tìm kiếm những người như ông. Thiện chí của Giakêu đã được đền đáp khi Chúa gọi đúng tên ông và muốn ngụ lại nhà ông. Một biến cố không thể ngờ được đối với ông lùn này. Chúa đã tìm đến với Giakêu hơn là Giakêu tìm Chúa. Thiên Chúa viếng thăm nhà ông, đem lại cho ông một niềm vui khôn tả, một niềm hạnh phúc vô biên.
Và càng hạnh phúc hơn nữa đối với Chúa và đối với mọi người khi một người tội lỗi ăn năn sám hối. Với đôi mắt nhân từ, cử chỉ đầy yêu thương của Chúa, lúc đó ông không chỉ muốn gặp Chúa vì tò mò, mà muốn gặp Chúa trong tâm hồn, một cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đúng nghĩa là biến đổi tận căn con người của ông. Chúa đến không phải để giáng phạt vì những hành vi sai trái của Giakêu nhưng để đưa ông trở về. Đó là một cuộc sáng tạo mới. Chúa đến để đem lại cho ông được sự bình an, và cả nhà ông được ơn cứu độ. Chúa đến để mang lại một sự bắt đầu, một cuộc sống mới. Chúa đến không phải để tiêu diệt nhưng “để tìm và cứu những gì đã mất”.
Anh chị em thân mến,
Nói không sai rằng, ai trong chúng ta cũng đã từng mất. Nếu chúng ta không mất tiền, mất bạc, mất danh dự, mất địa vị thì cũng mất chính con người của mình bởi tội lỗi gây nên. Sống đạo là theo một con đường, con đường đó mang tên Giêsu Kitô. Nơi mỗi người ai cũng có dư những thiện chí, vẫn luôn khao khát để sống tốt hơn. Đừng tưởng rằng như thế là chúng ta đã tìm Chúa, mà kỳ thực Chúa đang và luôn tìm đến với chúng ta. Chừng nào chúng ta chưa đáp lại, chưa đón tiếp Chúa thì thiện chí ấy chỉ là thiện chí suông, khao khát ấy vẫn là một giấc mơ hão huyền. Con đường mang tên Giêsu ấy vẫn chỉ ở trước mặt, chứ chúng ta chưa hề bước lên một bước.
Vẫn biết rằng, chúa không bỏ mặc ai, trái lại, Người tìm đến để cứu từng người chúng ta. Nhưng đã biết bao lần Chúa đến trong cuộc đời mỗi người. Chúa đến qua những biến cố trong cuộc sống, kể cả những thất bại ê chề, những nỗi buồn tê tái, những đau khổ triền miên. Chúa đến qua tha nhân, những người nghèo, ngay cả những người làm chúng ta buồn bực, đau khổ. Chúa đến qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Nhưng thử hỏi liệu chúng ta đã đón tiếp Chúa như thế nào. Cứ nhìn vào thái độ, nhìn vào cách hành xử của mình, chúng ta có thể lượng giá được rằng mình đã gặp Chúa chưa?
Một khi tôi có thái độ như Giakêu, chắc chắn tôi sẽ không thất vọng, không đánh mất niềm tin, không buồn bực, giận dữ. Nếu tôi được như Giakêu, chắc chắc tôi không lơ là với các Bí tích, không để Chúa phải cô đơn, lãnh lẽo với những băng ghế trống không trong nhà thờ, với tòa giải tội bị phủ đầy mạng nhện, được gán là nơi yên tĩnh nhất cho loài chuột trú ngụ. Coi ra chúng ta còn thua Giakêu xa lắm vì vẫn cứ ù lì, không sửa đổi, canh tân đời sống.
Cũng như Giakêu, Chúa viếng thăm là đem lại ơn cứu độ, chứ không phải đem lại những điều theo ý mình muốn. Chính Người, trước khi chịu khổ nạn cũng cầu nguyện rằng: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Chừng nào chúng ta vẫn còn muốn làm theo ý mình, chúng ta vẫn lẩn tránh Chúa, chạy trốn Thiên Chúa, vẫn còn chìm trong bóng đêm tội lỗi. Khi đó ơn cứu độ còn xa tầm với của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa vẫn đến, gõ cửa và kiên nhẫn đợi. Hãy mở cửa và đón tiếp Người! “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi chúng ta ý thức lại ơn gọi của mình. Ơn gọi làm người, ơn gọi làm Con Chúa. Mỗi người đáng trọng, đáng quí trước mặt Chúa. Chúa luôn đến với chúng ta, làm cho chúng ta đổi mới. Hãy mau đón tiếp Người. Hãy chuẩn bị vì không biết giờ nào, ngày nào Con Người đến. Amen.
Có lẽ đây là đoạn Kinh Thánh sống động nhất, mô tả cuộc gặp gỡ giữa ông Da-kêu, “một người tội lỗi và giàu có” với Chúa Giê-su khi Người vào thành Giê-ri-khô. Tính cách sống động ấy thể hiện qua những câu đối thoại và hành vi của Chúa và ông trưởng ban thu thuế. Mục đích thánh Lu-ca kể lại câu truyện là cho chúng ta thấy “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Vậy Chúa Giê-su đã đến Giê-ri-khô để tìm và cứu những gì?
Từ Ga-li-lê đi lên Giê-ru-sa-lem có hai con đường, hoặc đường ven biển hay con đường thung lũng dọc theo sông Gio-đan. Chúa Giê-su đi theo con đường thứ hai và qua Giê-ri-khô trước khi vào địa hạt Giê-ru-sa-lem. Người và các môn đệ vào Giê-ri-khô, không những để nghỉ chân, nhưng nhất là để gặp một người, đó là ông Da-kêu. Thực ra ông ta không đáng cho Chúa gặp, vì ông là một người phản quốc, làm việc cho người Rô-ma và bị dân chúng khinh miệt. Hơn nữa ông ta còn gian tham, tội lỗi. Nhưng đối với Chúa Giê-su, nơi ông Da-kêu còn một điều nữa mà người ta không nhận ra, hoặc không muốn nhận biết: ông là người con “đã mất” của Thiên Chúa mà Đấng Cứu độ hôm nay đến để tìm và cứu. Đáp lại ý muốn cứu độ của Thiên Chúa, ông Da-kêu đã hăng hái tìm gặp Chúa Giê-su và xây dựng mối tương quan với Người.
Trước hết, ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai”. “Cứ đến mà xem” (Gio-an 1:46) là lời mời gọi chúng ta đến làm môn đệ Chúa. Vì vóc dáng thấp bé, Da-kêu tìm đủ mọi cách, cho dù cách đó có làm cho ông mất thể diện trước người khác, miễn là đạt mục đích “xem cho biết”. Ông leo lên cây sung bên vệ đường, mặc cho tiếng cười nhạo của dân chúng. Khi Chúa tới gần cây sung, Người nhìn lên. Ông Da-kêu cảm nghiệm được cái nhìn của Chúa, cái nhìn của trái tim cứu độ. Ông đọc được trong cái nhìn ấy khung trời tình yêu bao la của Thiên Chúa. Một điều nữa hết sức cảm động là sự vội vàng, mau lẹ của tình yêu. Chúa bảo ông: Xuống mau đi. Còn ông thì vội vàng tụt xuống. Ai cũng muốn thời gian phải qua nhanh để được đến với nhau!
Tiếp theo là cuộc biến đổi tâm hồn. Trước đây ông Da-kêu có trái tim nhỏ bé, bây giờ trái tim ấy phát trỉển. Trước đây ông hẹp hòi, áp bức và bóc lột người khác trong nghề nghiệp, bây giờ ông quảng đại, mở lòng cho tha nhân và ý thức công bình xã hội. Vóc dáng thấp bé của ông vẫn vậy, nhưng vóc dáng nội tâm của ông giờ đã vươn cao nhờ tình yêu cứu độ của Chúa.
Kết thúc câu chuyện là lời Chúa Giê-su khẳng định: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Thời điểm hôm nay là khởi đầu mới không những cho cá nhân ông Da-kêu mà còn cho mọi người trong nhà ông nữa. Như thế, ơn cứu độ của chúng ta không biệt lập, nhưng liên kết với thân phận của những người khác! Quả thực là một sứ điệp vô cùng an ủi câu truyện Tin Mừng hôm nay đã đem đến cho chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lời kêu gọi cứu độ Chúa Giê-su nói với ông Da-kêu cũng là lời Chúa mời gọi chúng ta mỗi ngày. Chúa yêu thương nhìn chúng ta. Chúa gọi chúng ta mau đến với Người. Chúa tìm và cứu chúng ta. Cuối cùng, Chúa bảo đảm ơn cứu độ cho chúng ta khi Người nói rằng Người đã đến cho chúng ta và gia đình chúng ta. Chúng ta không phải mong đợi một tương lai nữa, nhưng hôm nay, ngay bây giờ và ở trong hoàn cảnh sống hiện tại của chúng ta, Chúa cứu độ chúng ta. Vậy theo gương ông Da-kêu, chúng ta hãy mau mắn đáp lại lời gọi của Chúa, đưa Chúa về “ở lại” trong nhà chúng ta, để chúng ta được sống thân mật với Người trong mọi sự.
Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn Ngoan: “Chúa xót thương mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”.
Giakêu là một người đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng: Đức Giêsu hứa sẽ đến nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”!
Được Chúa thương vào nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa: lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền gấp bốn.
Đức Giêsu đã chấp nhận lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố: “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời tuyên bố này phù hợp với lời Ngài đã phán: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những đã được giải hòa cùng Thiên Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xanh vỏ đỏ lòng.
I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI ÔNG GIAKÊU.
Bài Tin mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyên bố: “Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”.
1. Hoàn cảnh
Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city”: thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem.
Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu.
“Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.
2. Con người ông Giakêu.
Ông là người Do thái, tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu? Ông không thanh khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành?
Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.
Giakêu là trưởng ty thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề bị người Do thái khinh chê, ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế. Giakêu, một con người bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ta thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu, đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng? Phải nói rằng đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận mắt, chứ không chỉ nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì quả là một người có thiện chí và lòng ngay.
3. Đức Giêsu gọi tên ông.
Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi. Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân.
Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.
Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa: Con cái Abraham không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ.
II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI.
1. Tiếng gọi của Thiên Chúa.
Người ta nói: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ Lời Đức Kitô: “Đèn của thân thể là con mắt…” (Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ). Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai? Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp cho những người từng bị điêu đứng vì Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn…
Cái nhìn của Đức Giêsu là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầu tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra nếu Đức Giêsu không ngước mắt nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong khi mà chính Ngài tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời.
2. Sự đáp trả của con người.
Được đón nhận lòng nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm.
Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5; Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải.
Giakêu đã tỏ ra là con người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11).
Tiên tri Đaniel viết theo: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24).
Nơi khác lại khen: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4).
Đức Giêsu hứa: “Hãy bố thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41).
Khi ở thành Rages về, sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia: “Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên Chúa” (Tb 12,12-13).
3. Khả năng đổi mới của con người.
Sách Tam tự kinh có viết: “Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương: “Nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao?
Chúng ta phải khẳng định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với mình, ông nhận ra con người thật của ông: một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy câu tục ngữ Việt nam mà khen ông:
Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)
Câu tục ngữ này có ý nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta.
Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột:
Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên (câu đố).
Đây là một câu đố bình dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái gì? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy.
Nếu chúng ta có gặp được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn:
Thân em như quả ấu gai, Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen. Ai ơi, nếm thử mà xem, Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi. (Ca dao)
Truyện: Harold Hughes trở lại.
Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả.
Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau:
“Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”.
Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn Văn Thái).
4. Thái độ với kẻ tội lỗi.
Vấn đề chính của con người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát biểu: “Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là phần chúng ta thật sự đã đóng góp”.
Như vậy, gần gũi và biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm. Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao !
Truyện: Thiền sư Sengai và đệ tử.
Nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy.
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
5. Công cuộc đổi mới của mỗi người.
Như ở trên chúng ta đã nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ nhưng không thể tránh được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta: “Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”.
“Sai phạm là bản tính của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng ta có thể nói: sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa. Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải.
Truyện: Leonard da Vinci vẽ hình.
Danh họa Leonard de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên thần.
Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự chủ: “Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói: “Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.
Nếu chẳng may chúng ta đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động ngay.
Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như: bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước lễ…
Phụng vụ Chúa nhật hôm nay cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng 19, 1-10 của thánh Luca nói về ông Da-kêu. Đây là một câu chuyện hết sức dí dỏm và cảm động. Bởi vì, ông Da-kêu là người thấp bé, nên không thể chen lấn với đám đông để gặp Chúa Giêsu mà đã từ lâu ông nghe tiếng và hết sức kính nể…Thấp bé có nghĩa là lùn, Da-kêu lại là người giầu có, và là trưởng nhóm người thâu thuế. Mường tượng dáng dấp ông Da-kêu, chúng ta sẽ cười vì ông này bé quá, nhỏ quá. Tuy nhiên, chúng ta sẽ hết sức cảm động vì lòng nhiệt thành, thiện chí của ông Da-kêu, muốn thấy cho bằng được Chúa Giêsu…
Da-kêu thật sự muốn gặp gỡ Chúa. Ông quyết định chạy trước đám đông và trèo lên một cây sung để khi Chúa đi ngang qua đó, ông sẽ có thể nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhìn điệu bộ, cử chỉ, dáng dấp của ông Da-kêu, chắc chắn tất cả mọi người đều buồn cười nhưng lại hết sức cảm động. Tin Mừng cho hay nghe danh Chúa Giêsu, ông Da-kêu đem lòng kính phục, nhưng ông không thể nào gặp được Chúa vì đám đông đi theo Chúa, thân hình của ông lại thấp lùn, nên chỉ còn phương cách là leo lên cây mới có hy vọng nhìn thấy Chúa đi ngang qua. Thực tế, đây là một thiện chí hết sức chân thành của Da-kêu, chúng ta hoàn toàn trân trọng và cảm thông với Da-kêu. Chúa Giêsu khi đi ngang qua qua chỗ ấy, Tin Mừng viết, Người nhìn lên và nói với ông:” Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông “.Chúa nói như vậy vì Ngài nhìn thấy thiện chí, và lòng ước muốn của ông. Cái trớ trêu là những người đi theo Chúa Giêsu thấy vậy thì xầm xì, xoi mói, phê phán sao Chúa lại vào nhà người tội lỗi, người mà những người Do Thái thời đó coi như kẻ tội lỗi, thông đồng với ngoại bang để đè đầu bóp cổ người đồng hương, thờ ngẫu tượng và bóc lột đồng bào. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đây là sứ mạng của Người vì Người đến để cứu vớt, để cứu sống chứ không phải để giết chết. Người đến kêu gọi những kẻ tội lỗi, chứ không để kêu gọi những người công chính. Người nói:” Người đau ốm mới cần đến thầy thuốc…”.Người đến để kêu gọi, cứu vớt những người tội lỗi biết ăn năn, hối cải. Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, chúng ta nhận ra lòng thương xót của Chúa. Trong khi đám đông, và nhiều người không màng gì tới sự có mặt của Da-kêu. Họ coi như Da-kêu không là gì, không có ở đó.Chúa Giêsu đã tỏ ra rất người, rất chân tình, Chúa đi qua chỗ ấy, nhìn lên, nói với ông. Đây là những cử chỉ và thái độ rất đơn giản của Chúa Giêsu. Chúa cho chúng ta hiểu đây không phải là cuộc viếng thăm xã giao của Chúa, nhưng câu nói:” Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông “, nhằm nói lên sứ mạng cứu rỗi của Người. Sứ mạng này, Chúa Giêsu đã bắt đầu tại Nadarét và qua việc Người khai mạc sứ vụ công khai của Người bên dòng sông Giorđanô.Sứ mạng của Người là cứu vớt, làm cho sống, Người quan tâm ưu tiên đến những người nghèo và những kẻ tội lỗi.Vâng, chính cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Da-kêu đã biến đổi hoàn toàn cuộc đời của ông, Qua ông cả gia đình của ông và nhiều người cũng được biến đổi. Đây là cuộc gặp gỡ ân sủng. Từ một con người bị coi là tội lỗi đầy mình, một kẻ phản quốc vì thông đồng với Đế quốc Roma để bóc lột đồng bào, Da-kêu đã trở nên người như lòng Chúa mong muốn. Ông đã trở nên người có trách nhiệm, xin đền gấp bốn cho những ai ông đã bóc lột, thu vén, trở nên người biết chia sẻ, sống bác ái khi chia phần nửa gia tài ông có cho người nghèo; và rồi, ông trở nên người công chính nhờ lời hứa ban ơn cứu độ của Chúa Giêsu:” Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này “.
Ơn cứu độ được trải rộng đến cho mọi người.Chúa không muốn bất cứ ai bị hư đi…Ơn cứu độ là sự đáp trả thành tâm của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Ông Da-kêu đã được thay đổi, được biến đổi thật sự nhờ cuộc gỡ với Chúa Giêsu. Nhờ cuộc gặp gỡ yêu thương, đầy ân sủng này, Da-kêu đã trở nên quảng đại, bác ái và yêu thương. Chúng ta cũng được Chúa mời gọi đến gặp gỡ Người. Liệu chúng ta có nhiệt thành, quảng đại và mau mắn đi tìm gặp Chúa hay không ? Chúng ta có thái độ và cử chỉ như Da-kêu khi gặp gỡ Chúa Giêsu hay không ? Chúng ta phải sốt sắng đi tham dự, hiệp dâng thánh lễ, năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt bí tích hòa giải, bí tích Mình Máu Chúa…cầu nguyện, suy niệm lời Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ được biến đổi và nhận lãnh ơn cứu độ.Chúng ta có mau mắn đi gặp Chúa để Chúa biến đổi chúng ta chưa ? Chúng ta có sống quảng đại, làm việc thiện hay ham mê của cải, sống tham lam ích kỷ ?.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi đời sống chúng con. Xin sai Thánh Thần Chúa đến để cứu giúp chúng con hầu chúng con luôn biết sống đạo đức, thánh thiện và xa lánh tội lỗi. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ông Giakêu là ai ? 2.Tại sao Chúa Giêsu lại ghé nhà ông Giakêu ? 3.Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với ông Giakêu đã đem lại gì cho ông ?
Vào lúc Giáo hội đang chuẩn bị đóng Cửa Thánh bế mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót, phụng vụ Lời Chúa lại vang lên như tiếng chuông nhắc bảo chúng ta chiêm ngắm Lòng Thương Xót và thực thi lòng thương xót.
Chúa thương xót mọi loài, và yêu thương mọi tạo vật (x.Kn 11,21-26). Thương xót đến đô “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người …không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa tác thành” (Kn 11, 23). Lòng thương xót ấy được cụ thể hóa nơi hành động của Chúa Giêsu đối với tội nhân và những người cùng khổ, Ðấng đã khẳng định rằng Người đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi (x. Lc 5,32). Trình thuật về cuộc hoán cải của ông Giakêu trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là một bằng chứng (x. Lc 19, 1-10).
Giakêu, người thấp bé. Đây không phải là một chuyện nhỏ, nhưng là một nỗi đau đối với ông. Trong trí ông luôn mang trong mình sự ảm ảnh mình bị chế giễu và loại trừ, ông là người đau khổ. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trả miếng: thậm chí trở thành người thu thuế cho ngoại bang. Đây là nghề không lành mạnh, dễ bị loại ra khỏi đời sống tôn giáo và xã hội, vì thông đồng với người Rôma, kẻ chiếm đóng và bóc lột đồng bào. Nhưng điều đó không quan trọng đối với ông, ông biết, ông có thói quen bị loại trừ. Trở thành một viên thu thuế quyền thế giàu có. Giakêu, như những người khác, đã thu về một khoản tiền lớn từ bàn thu thuế, nhưng sự yêu mến tiền bạc không phải là động lực chính của ông, ông muốn có được sức mạnh trên những kẻ coi thường ông. Vì thế, ông xa cách họ, tránh xa các cuộc tấn công của họ, và ở trên họ.
Nhưng điều trên không làm cho Giakêu chìm vào bóng tối. Con người biết tính độc ác đích thực của mình. Trong sâu thẳm của coi lòng, có cái gì đó lợi hơn: khát khao Thiên Chúa. Giakêu là người con của lời hứa và Thiên Chúa đã không quên ông. Thế là, Chúa Giêsu rảo khắp các ngả đường, giảng dạy trong hội đường. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu thấu đến tai Giakêu như cá gặp nước, củi khô gặp lửa. Người đã nhóm lên trong lòng Giakêu ngọn lửa không hề bị dập tắt từ Thiên Chúa. Giakêu, kẻ thu thuế đã nghe nói về các phép lạ của Đấng Tiên Tri, và rằng Chúa Giêsu không bao giờ từ chối những người tội lỗi. Ông chộp lấy cớ hội, quyết định tiến lại gần Chúa Giêsu.
Để đến được với Chúa Giêsu không phải là dễ, ông gặp phải sự cản trở của bản thân vì thấp bé, của đám đông. Họ sẽ nhận ra và lại chế giễu ông thấp bé, quyền lực, giàu có, bóc lột đồng bào. Họ sẽ khinh thường ông, làm cho ông xấu hổ, báo thù khơi dậy báo thù. Nhưng Giakêu không bỏ lỡ cơ hội, ông sẽ thấy Chúa Giêsu đang đến gần, không gì có thể cản trở ông được.
Vì thế, ông trèo lên cây, ẩn mình trong những tán lá để xem Chúa Giêsu mà không bị ai nhìn thấy, ông tìm cách tiếp cận, với hy vọng những tán lá sẽ bảo vệ ông khỏi đám đông. Nhưng Chúa Giêsu đi ngang qua. Người tiến lại gần, ngước mắt nhìn ông và gọi “Giakêu”. Giakêu có nghĩa là “Chúa nhớ lại”. Thiên Chúa nhớ đến kẻ yếu người nghèo, với lòng thương xót “Giakêu, hãy xuống mau” (Lc 19,5).
Cố gắng của con người xem ra vô dụng, khi dùng cả sức mạnh của mình để vươn lên tới Chúa, tới Trời: “các ngươi sẽ nên như các thần” con rắn cám dỗ Ađam như thế. Giakêu khi ở trên cao, ông khám phá ra rằng để có được điều ông tìm kiếm, ông phải đi xuống. Thiên Chúa đã hạ mình xuống với con người. Thiên Chúa đã trở nên thấp và nhỏ bé, ở dưới gốc cây. Giakêu vui sướng thấy Chúa.
Chúa Giêsu đã giao hòa Giakêu với Thiên Chúa, và với mọi người. Tiếng gọi của Chúa Giêsu đặt Giakêu vào giữa cộng đoàn, khiến ông quên đi sự báo thù, mở lòng ra để đón nhận ơn tha thứ, niềm vui này Giakêu chia sẻ với anh em. Chúng ta đừng có nhầm: Giakêu không vứt bỏ tiền vì đã gặp được Chúa, ông không còn thích nữa. Chính sự dâng cúng này, Giakêu cho thấy ông không còn cần quyền lực để bảo vệ mình giữa mọi người nữa. Cuối cùng, ông đã nhận ra họ là anh em. Trước kia ông sống trong cô đơn, nay ông khám phá ra niềm vui của một tình yêu sâu thẳm vô điều kiện ở nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, hạnh phúc của ông là đáp lại anh em mình, bằng cách chia sẻ tài sản của ông, mở ra một mối quan hệ mới với họ, dựa trên công lý.
Trong một văn bản khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định rằng, người giầu rất khó vào Nước Trời (x. Mt 19,23). Trong trường hợp của ông Giakêu, điều xem ra không thể, lại được thực hiện: thánh Girolamo giải thích rằng “ông Giakêu đã cho đi sự giầu có của ông và lập tức thay thế nó bằng sự giầu có của nước trời” (Bài giảng 83,3). Và thánh Massimo thành Torino nói thêm: “Ðối với những người dại dột, của cải giầu sang dưỡng nuôi sự bất chính, trái lại đối với những người khôn ngoan chúng trợ giúp nhân đức; cơ may cứu rỗi được cống hiến cho những người khôn ngoan, còn đối với những người dại dột sự vấp ngã khiến cho họ hư mất” (Bài giảng, 95).
Chúa Giêsu kết thúc: “Con người đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10), “điều đã hư mất” chứ không phải là “kẻ bị mất”. Đây không phải là Giakêu đã mất. Khi cô lập với anh em mình, ông đã mất niềm hy vọng tìm thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang lại cho ông niềm hy vọng khi nói với ông: “Giakêu, hãy xuống mau!”.
Thiên Chúa không loại trừ ai hết, người nghèo cũng như người giầu. Thiên Chúa thấy nơi mỗi người một linh hồn cần cứu vớt. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta: hãy noi gương Chúa và thực thi lòng thương xót như Cha trên trên! Hôm nay ơn cứu độ của Chúa đến với chúng ta ; “Hôm nay, Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Mỗi ngày, hãy đến với Chúa Giêsu, là chủ nhà của tâm hồn chúng ta và là Thầy của đời ta. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
-------------------------------------
TN 31-C131: Hành trình đức tin của ông Da-kêu, kẻ tội lỗi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 19:1-10)
Sách Tin Mừng kể lại nhiều câu chuyện về hành trình đức tin của những người được Chúa gọi làm môn đệ cũng như của những người tội lỗi tìm về với Chúa. Một trong những câu chuyện thích thú nhất phải là câu chuyện ông Da-kêu, câu chuyện một người thu thuế tội lỗi đi tìm lòng thương xót của Thiên Chúa. Thích thú và sinh động, vì hành trình này không chỉ đơn phương về phía ông Da-kêu, mà còn là việc đáp lại của Thiên Chúa giàu lòng thương xót qua sự tiếp đón nhân từ của Chúa Giê-su nữa.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố giàu có và đông dân ở gần Biển chết về phía tây. Dân càng đông thì tiền đóng thuế càng nhiều, nên ông Da-kêu là người đứng đầu những người thu thuế chắc phải giàu có lắm. Đời nào chẳng vậy, quan nhỏ thường trực tiếp bóc lột dân, rồi “đóng thuế” cho quan lớn. Mà ông Da-kêu là quan lớn thì nhất định có nhiều cơ hội để làm giàu thêm. Ông giàu có, nhưng chưa đến nỗi mất lương tâm hoàn toàn. Có lẽ ông sống trong day dứt hối hận, mà không biết phải làm thế nào để được bình an tâm hồn. Ai cũng xa lánh, nhìn ông bằng con mắt thiếu thiện cảm, nếu không nói là căm phẫn, khiến ông thấy mình thật cô đơn. Ông tự hỏi: Ai sẽ cứu tôi? Biết đâu tâm trạng ông lại chẳng giống như người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện trong dụ ngôn Chúa Giê-su đã kể? Lòng thương xót của Thiên Chúa đã hiểu tâm trạng muốn sám hối của Da-kêu. Chúa Giê-su, lòng thương xót nhập thể, sẽ đi ngang qua Giê-ri-khô để gặp ông và kêu gọi ông. Thế là ông vượt qua được một trở ngại trên hành trình đức tin của ông.
Ông đã nghe nói về Chúa Giê-su và ông muốn nhìn thấy tận mắt con người bằng da bằng thịt biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa. Tuy nhiên ông lại gặp trở ngại lớn, đó là vóc dáng “lùn” của ông. Chẳng lẽ chịu thua! Ông đã quen tính toán chuyện làm ăn, thì tính chuyện thắng trở ngại vóc dáng đâu có gì là khó: trèo lên một cây cao bên cạnh con đường Chúa sẽ đi ngang qua. Thật là thượng kế. Nhưng làm sao che mắt thiên hạ đây? Làm sao tránh được tiếng chê cười nhạo báng? Mặc kệ. Lòng ước ao bừng bừng muốn “thấy” Chúa Giê-su đã giúp ông can đảm chấp nhận tất cả, miễn là được “thấy” Người. Ông chỉ ước ao thấy Chúa thôi. Nhưng Chúa Giê-su không chỉ để ông được thấy Người, mà Người còn muốn “gặp gỡ” ông nữa. Ở đây, chúng ta nhận thấy lòng Chúa thương xót hoạt động thật lạ kỳ. Khi tới nơi, Lòng Thương Xót “gọi” ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Những lời này nghe sao mà thân tình thế! Chúa không chờ ông mời Người, nhưng chính Người đã đi trước, ngỏ ý xin ở lại với ông ngay tại nhà ông. Hành động của lòng Chúa thương xót như thế đấy! Sau đó là tiệc mừng, không phải là tiệc người cha nhân hậu mở ra để mừng đứa con hoang đàng trở về, mà là tiệc do “kẻ tội lỗi Da-kêu” đã mở để mừng vì được Lòng Thương Xót đến nhà.
Có nhiều điều chúng ta học được từ cuộc hành trình đức tin của ông Da-kêu. Ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa mà Chúa Giê-su muốn tỏ ra cho ông và đón nhận ông, chúng ta còn ý thức được một vài nét chính của hành trình ấy. Trước hết đó là hành trình khởi đi từ ước ao được nên công chính. Ông Da-kêu vì lùn nên không thể thấy Chúa bằng con mắt thể xác, nhưng ước ao nồng cháy giúp ông thấy Chúa bằng con mắt đức tin. Ông Da-kêu chỉ mong được thấy Chúa thôi, nhưng Chúa còn muốn ông được nên công chính và được cứu độ nữa. Khi ông đã được nên công chính nhờ gặp gỡ Chúa Giê-su, ông được biến đổi, quảng đại và tự nguyện làm tất cả những đền bù để trả lại sự công bằng cho những người ông làm tổn thương. Thế là con người ông tuy lùn thể xác, nhưng bây giờ tâm hồn ông lại cao hơn bao người khác, không những được thấy Chúa trên đường phố Giê-ri-khô, mà còn gặp gỡ Người ngay trong tâm hồn ông nữa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Còn rất nhiều chi tiết giúp chúng ta suy nghĩ về câu chuyện ông Da-kêu. Nhưng một điều chúng ta đừng quên, đó là nhìn lại hành trình đức tin của mỗi người chúng ta để nhận ra Lòng Thương Xót của Chúa đã dẫn dắt chúng ta như thế nào. “Hôm nay”, chúng ta sẽ làm gì khi Chúa là Ơn Cứu Độ “ở lại” trong nhà chúng ta?
Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và ban cho con người được ơn cứu độ. Đây chính là bản chất của Thiên Chúa. Bởi vì: “ Thiên Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó” (Kn 11, 23-24).
Bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó khi Đức Giêsu chủ động gọi Giakêu và vào nhà ông cũng như dùng bữa mặc cho người ta sầm xì bàn tán: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi" (Lc 19,7). Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của con người, nhưng Ngài để ý đến giây phút hiện tại, sự thiện chí và ngay lành của họ để ban ơn cứu độ.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, đây là chặng cuối cùng trên đường lên Giêrusalem để thực thi sứ vụ cứu chuộc của Ngài bằng cái chết trên thập giá. Trên lộ trình ấy, có dân chúng theo sau Ngài khá đông. Tuy nhiên, trong đám người đó có Giakêu, ông là: “thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có” (Lc 19, 2). Như vậy, ông là một vị quan chức cấp cao. Nhưng chớ trêu thay, ông lại lùn, mà đám người thì lại quá đông, nên ông ta phải trèo lên cây sung để mong được nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua, người mà ông đã mong ngóng đợi trông từ lâu.
Nói đến Gia Kêu là người thu thuế, người Do Thái thường có những dị nghị về hạng người như ông và họ xếp ông chung với hạng đĩ điếm, trộm cắp, là những người làm tay sai cho đế quốc La Mã, vì thế họ là những người phản quốc, hại dân. Khi gặp họ, người Do Thái tránh xa như tránh dịch. Không ai được phép giao du với những con người như thế. Bởi vì đây là người tội lỗi tầy trời, đồ thối tha dơ bẩn. Khi đi ngang qua người ấy, người ta sẵn sàng nhổ nước miếng tỏ lòng khinh bỉ...
Tuy bị người ta khinh thị như thế, nhưng ông nhất quyết không chịu khuất phục trước đám đông cũng như vượt lên trên dư luận, và nhất là vượt lên trên mặc cảm tự ty của mình để trèo lên cây sung với hy vọng được tận mắt nhìn thấy Đấng Kitô, Ngài là Cứu Chúa của mình và toàn dân. Để được thấy Chúa, ông phải dùng đến một cách thế xem ra hơi lố bịch với người có địa vị như ông. Thật thế, sự quyết tâm của ông rất mãnh liệt. Sở dĩ ông vượt qua được dư luận như vậy là vì ông đang có một nỗi đam mê lớn lao. Đam mê ấy của ông chính là Giêsu, con người mà ông đang mong đợi. Sự kiên quyết của ông không chỉ đơn thuần là sự tò mò, mà đây còn là khởi điểm của hành trình đức tin nơi ông.
Đức Giêsu đã không để cho ông thất vọng khi gọi chính tên ông: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi" (Lc 19, 5). Theo lối hiểu của Kinh Thánh, gọi tên ai là biểu hiện của việc biết rõ về người ấy và có một mối tương quan thân tình với người được gọi. Hôm nay, Chúa gọi ông, vậy Chúa biết rất rõ lòng ông và muốn ông trở về với con người lương thiện, công chính của ông, bởi vì tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”, hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn trở thành người nhà của ông khi nói: “hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Như vậy, nếu hiểu qua, Giakêu hôm nay đi tìm Chúa, nhưng thực ra Chúa đã đi tìm ông trước.
Thật vậy, người đời thường nói: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn” Đức Giêsu cũng nói: “Đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6,22t; x. Lc 11,34t). Hôm nay, Đức Giêsu nhìn Giakêu, nhưng cái nhìn của Chúa là một cái nhìn mang tính chinh phục, cảm hóa tâm hồn, cái nhìn nhân từ, thương xót, cái nhìn cứu độ. Chính cái nhìn này đã đi lọt vào trong tâm hồn của Giakêu và như một lời cật vấn lương tâm của ông. Và cũng chính cái nhìn nhiệm mầu này đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Nếu ánh mắt của Đức Giêsu là ánh mắt nhân từ, yêu thương, thì ánh mắt của Giakêu là ánh mắt sám hối, tin tưởng. Chúa Giê su chủ động tìm ông vì Ngài không muốn ông sống mãi trong tình trạng tội lỗi như hiện thời nữa. Đây cũng chính là sứ vụ cứu chuộc của đức Giê su. (x. Lc 19,10). Tội của ông rất lớn, vì ông không phải là một người thu thuế thường, mà lại là một thủ lãnh những người thu thuế. Nhưng: “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản chất của Thiên Chúa” (A.Pope).
"Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi" (Lc 19, 5). Câu nói này của Đức Giêsu làm cho ông không tưởng! Làm sao mình lại được diễm phúc như vậy? Làm sao Chúa lại vào nhà ông, một người tội lỗi tầy trời như thế? Chưa hết bàng hoàng, vì Chúa gọi đúng tên ông, nhưng ông đã mau mắn tụt xuống khỏi cây sung và sẵn sàng mở rộng tấm lòng để đón tiếp Đức Giêsu vào nhà ông. Hành động tụt xuống của ông cho ta thấy, từ đây ông dốc quyết quay lưng lại với con đường tội lỗi, không kiêu ngạo, không bóc lột, không hà hiếp và không làm những điều sai quấy chống lại nhân dân nữa... và, ông đã biểu hiện tấm lòng sám hối chân thành ấy bằng việc thực thi đức công bằng và sống đức bác ái: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19, 8).
Không vui và thay đổi sao được khi cả một xã hội khinh miệt và coi thường ông, thì một Đức Giêsu; một Cứu Chúa lại sẵn sàng vào nhà mình. Giờ đây, với ông, cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ của tình yêu. Tình yêu đi bước trước là Đức Giêsu, và ông thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho ông, nên tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đã biến đổi ông, tình yêu đã gợi lại cho ông lòng bác ái và lẽ công bằng, và tình yêu đã hướng dẫn ông và dẫn ông đến hành động là đức ái. Tại sao ông lại can đảm để cho lương tâm lên tiếng? Tại sao ông lại có được lòng quảng đại như vậy? Thưa chỉ một lẽ rất đơn giản là vì ông đã được tha thứ và được yêu nhiều. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã là một lời minh chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho ông: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất" (Lc 19, 9).
Thật vậy, Gia kêu hôm nay đã chuộc tội của mình bằng việc bác ái, và ông đáng được hưởng ơn cứu độ: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Trong sách Tiên tri Đaniel có viết: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24). Và sách công vụ Tông đồ cũng có câu: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4). Gia kêu đáng cứu độ, vì lòng đơn sơ của ông xuất phát từ sự khiêm nhường, và khiêm nhường lại là linh hồn của đức đơn sơ.
2. Sứ Điệp Lời Chúa Hôm Nay
Đã là con người, ai cũng có những thiếu xót bất toàn. Điều quan trọng là chúng ta có dám tụt xuống khỏi cây sung để gặp được Chúa như Gia Kêu hay không?
Khi Gia kêu trèo lên cây sung, ông nghĩ sẽ nhìn thấy Chúa rõ ràng hơn, nhưng Chúa lại không để ông ở trên đó, có lẽ vì Chúa muốn ông phải trở về cuộc sống đời thường, phải sống thật sự chân thành, khiêm nhường thì mới gặp được Chúa. Bản chất của con người là: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuy nhiên với năm tháng và môi trường nghề nghiệp, nhiều khi con người dễ bị tha hóa.... Nhưng không phải vì con người tha hóa do môi trường, nghề nghiệp mà không thể hoán cải được. Không! Con người vẫn có thể trở nên tốt nếu họ có cơ hội. Cơ hội đó có thể đến từ chính họ, và đôi khi cũng phải đến từ phía chúng ta...Ông Giakêu hôm nay ông đã gặp được Chúa, nên cuộc đổi đời của ông thành công, còn nếu ông mà gặp người Biệt Phái thì có lẽ ông đã xấu lại còn xấu thêm...
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa, chẳng có ai là người trong sạch hoàn toàn. Vấn đề đặt ra đó là thái độ của chúng ta có quyết tâm quay lại với Chúa hay không thôi. Bên giáo lý nhà Phật có câu: “Quay đầu là bờ”, tức là đừng đi theo con đường tỗi lỗi nữa, mà hãy quay lại nẻo chính đường ngay thì mới được giác ngộ. Chúng ta đừng kiêu ngạo và tự cho mình là tốt lành thánh thiện trước mắt Chúa. Chúng ta cũng đừng coi thường hay khinh bỉ người khác như người Do thái khi xưa: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Coi chừng, chính chúng ta đang có nguy cơ xa dần và đánh mất ơn cứu độ ngay trong khi nhân danh sự tốt lành, thánh thiện kiểu mồ mả. Khi nói về sự giả tạo, Đức Giê su đã lấy hình ảnh nấm mồ để vạch trần sự gian trá của những người tự coi mình là đạo đức và coi khinh người khác: “Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác” (Mt 23,27-28;x. Lc 11,44). Thánh Phaolô cảnh giác chúng ta: “Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã” (1 Cr 10, 12).
Lời Chúa hôm nay cũng muốn cho chúng ta thấy: cần phải có sự cảm thông, xóa bỏ mặc cảm để đến với người tội lỗi với lòng bao dung, tha thứ như Thiên Chúa. Đây cũng chính là liều thuốc bình an mà Đức Giêsu đã dùng cho những người mà Ngài gặp gỡ... Một Đức Giêsu không hề coi thường những người tội lỗi, nào là: đĩ điếm, thu thuế... Ngài không coi thường không có nghĩa là ủng hộ, cổ súy cho những hành vi sai trái của họ, không! Ngài muốn cải hóa họ bằng tình yêu, chỉ có tình yêu mới có thể đem lại cho người ta một sự hoán cải sâu xa mà thôi. Có thể nói: sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường; hay các thánh là ai? Thưa các Ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần cuối cùng thì đứng dạy luôn (x. Đương Hy Vọng).
Ngày hôm nay, biết bao người đang xa dần Thiên Chúa. Họ rời xa Thiên Chúa và Giáo hội đôi khi chỉ vì những miếng cơm manh áo. Và đôi khi tìm mọi cách để chỉ vì no cái bụng, ấm cái thân mà quên đi công lý, tình thương. Họ sẵn sàng buôn gian bán lậu; chà đạp người khác để mình sống; tham nhũng, bóc lột, nói chung, bất chấp tất cả miễn sao có tiền. Vụ bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường và nhân viên trong tiệm thẩm mỹ viện Cát Tường làm chết người, ném xác xuống sông để phi tang là một điển hình cho những người chỉ vì tiền mà không hề có lương tâm...
Mong thay, trong xã hội ngày nay, nhiều người nhận ra và dám sống theo lương tâm; đồng thời bạn và tôi, chúng ta hãy ý thức một điều căn bản là: có một lúc nào đó tiền bạc không đem lại cho ta niềm hạnh phúc thật. Chức quyền không đảm bảo được cuộc sống mai sau. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an, niềm vui và hạnh phúc thật, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn biến đổi như Giakêu khi xưa. Xin cũng ban cho chúng con biết yêu thương mọi người và sẵn sàng thực thi bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Được như thế, chúng con tin tưởng và hy vọng sẽ được ơn cứu độ của Chúa như khi xưa Chúa đã chúc phúc và trao ban cho Giakêu. Amen. -------------------------------------
Chủ đề của Chúa Nhật XXXI thường niên, năm C cho chúng ta thấy lòng nhân từ của Chúa qua việc Đức Giêsu ghé nhà ông Giakêu, một người lùn tịt làm nghề thu thuế nhưng lại rất dễ thương. Tin Mừng nhấn mạnh đến cuộc hoán cải đẹp của Giakêu mà chỉ mình thánh Luca đã thuật lại.
Tin Mừng của thánh Luca chương 19, 1-10 là câu chuyện đẹp, có hậu ngoài sức tưởng tượng của mọi người vì rằng mở đầu chương 19, thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem và cuộc khải hoàn vinh quang của Chúa Giêsu, và các việc Chúa Giêsu làm ở Giêrusalem, là cuộc trở lại, biến đổi rất đẹp của Giakêu. Việc thân hình Giakêu thấp chủn, lùn tịt xấu bên ngoài và đối với xã hội Do Thái lúc đó Giakêu lại là người tội lỗi bởi vì ông làm thủ lãnh thu thuế ở ngay cửa ngõ vào Giêrusalem, một nghề hái ra tiền, một nghề mà người Do Thái thời Chúa Giêsu cho rằng đó là tội tầy đình, không thể tha thứ. Giakêu thấp bé đến nỗi nghe tin Chúa Giêsu sẽ đi ngang qua đó, ông liền leo lên cây sung trước để mong sẽ được thấy Chúa Giêsu. Giakêu đã bị kết án là tội lỗi. Tuy nhiên, Chúa có đường của Chúa vì như thánh Phaolô viết cho tín hữu Roma:” Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa ! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không kế dõi theo ! Vì nào ai biết được tâm tư của Chúa, hay có ai đã làm cố vấn cho Người ? Hay có ai đã cho Người trước, để hòng được Người tạ lại ! Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người, và vì Người ! Vinh quang cho Người, cho đến muôn đời. Amen ! “ ( Rm 11, 33-36 ) .
Chúa đã quyết định ghé nhà ông Giakêu khi ông chưa kịp ngỏ ý với Chúa Giêsu. Quả thực, Chúa đã làm một cuộc lội ngược dòng thật ngoạn mục. Chúa Giêsu đã bất chấp mọi sự vì tấm lòng đầy yêu thương của Ngài đối với tội nhân. Chúa Giêsu đã bất chấp tất cả để chỉ mong cứu được một linh hồn. Câu chuyện kết thức thật đẹp, một sự hòa hợp đất trời, giữa một kẻ bị gán là tội lỗi với một Đấng cứu độ đầy nhân từ, yêu thương, Ngài tới để tìm người hư mất và được ông ta đón nhận với tất cả lòng thiện chí của mình. Hôm nay, chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã đưa Giakêu đến một khúc ngoặt thật bất ngờ. Chúa đã biến đổi hoàn toàn đời ông và cả gia đình vợ con của ông Giakêu. Vâng, Chúa đã đụng tới chỗ nhạy cảm nhất của Giakêu đó là tiền bạc, tài sản của ông. Của cải, tiền bạc đã đánh mất giá trị đời ông và ông đã bị ghép vào hạng tội lỗi. Tuy nhiên, hôm nay và giờ này trước mặt Chúa: Giakêu đã trả lại cho những người ông cho là bị ông làm thiệt hại. Ông đã phân phát tiền bạc cho những kẻ khó nghèo. Nhờ cho đi, ông đã tự cứu thoát ông. Giakêu đã nhận ra tất cả, ông cảm thấy niềm vui và ông được giải thoát, được cứu độ.
Việc hoán cải của Giakêu đã làm cho ông được nhẹ nhõm vui mừng. Thiên Chúa là Cha tình thương luôn đi tìm những gì đã hư mất. Ngài như nguồi Cha đi tìm con chiên lạc, như người cha nhân hiền giang tay rộng đón đứa con hoang trở về. Chúa luôn luôn chờ đón con người trở về với Người. Cuộc hoán cải của Giakêu giúp chúng ta hiểu rõ hình bóng của Giakêu cũng là hình bóng của mỗi người chúng ta khi chúng ta biết trở về, biết thống hối ăn năn, biết bám chặt lấy Chúa và luôn biết tin vào tình thương vô biên của Chúa.
Chính vì thế, chúng ta luôn tin tưởng rằng mỗi lần chúng ta phạm tội mà biết ăn năn sám hối chắc chắn Chúa sẽ nhận lời chúng ta và tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Chúa là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Chúa xét xử con người theo lẽ công minh. Thiên Chúa là Cha nhân từ chứ không không phải là Vị Thẩm phán khó tính và khắt khe. Chúng ta hãy gặp gỡ Đức Kitô,. Sự hiện diện của Ngài là một hồng ân lớn lao cho chúng ta. Mỗi lần gặp gỡ Chúa là chúng ta đều nhận được niềm vui.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra lòng từ bi nhân hậu của Chúa. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ông Giakêu là ai ? 2.Tại sao ông lại phải leo lên cây sung ? 3.Sự hiện diện của Chúa đã làm cho đời ông ra thế nào ? 4.Hình bóng của Giakêu hoán cải là hình bóng của ai ? 5.Thiên Chúa được ví như ai ? -------------------------------------
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.
Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi".
Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất". Suy Niệm:
Sắp hết năm Phụng vụ, chúng ta đọc thư Thessalonica để bắt đầu suy nghĩ về thế mạt. Ðừng tưởng làm như vậy sẽ cản trở sinh hoạt hiện nay. Ngược lại suy nghĩ về thế mạt theo Kitô giáo có thể giúp chúng ta đổi mới được các sinh hoạt hiện tại, làm cho đời sống thêm tích cực và phấn khởi hơn. Bởi vì thế mạt theo Kitô giáo không phải là làm cho thế giới này tan biến đi và đi đến chỗ mạt vận; nhưng là thế giới này sẽ chuyển biến và thay đổi hoàn toàn để giũ bỏ hết mọi hư ảo và mặc lấy các đặc tính trường sinh.
Thế mạt như vậy cũng có nghĩa là đổi đời. Và quan niệm này luôn luôn là một cám dỗ. Con người không bằng lòng với hiện tại và muốn đổi khác. Tựu trung chúng ta muốn đổi những gì để được hạnh phúc hơn? Ðiều quan trọng nhất, há chẳng phải là chúng ta không muốn thấy sự dữ và kẻ dữ ở đời này nữa sao? Nhưng làm thế nào? Chúng ta hãy nghe câu trả lời của các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. 1. Thiên Chúa Yêu Thương Mọi Loài
Bài sách Khôn Ngoan lập tức như muốn đi ngược lại khuynh hướng và suy nghĩ tự nhiên của loài người chúng ta. Luôn luôn chúng ta nghĩ rằng thế giới này xấu vì có những kẻ dữ. Làm cho bọn này biến đi, chúng ta được hạnh phúc. Âm thầm chúng ta đã tự đặt mình sang phía những kẻ lành, và ước ao phía kẻ dữ không còn bóng dáng một tên nào nữa... và chúng ta thường ấm ức vì không hiểu sao Thiên Chúa cứ để bọn này sống ngang nhiên như vậy?
Tác giả Khôn Ngoan đọc thấy cái tâm lý này trong suy nghĩ của con cái Israel ở bên Ai Cập. Họ ghét cay ghét đắng những người cai thầu và đốc công, tay sai của Pharaon. Họ sung sướng khi thấy một chàng thanh niên có tên là Môsê thẳng tay hạ sát một tên Ai Cập để bênh vực một người Do Thái. Câu chuyện đó đã xảy ra lâu rồi... nhưng đột nhiên bây giờ Môsê lại xuất hiện. Ông nói với con cái Israel hãy chuẩn bị ra khỏi xứ nô lệ này. Và ông đi đi lại lại đến với vua Pharaon để thương lượng việc giải phóng dân ông, vừa phấn khởi nhưng cũng vừa ấm ức... Tại sao chậm chạp như vậy? Tại sao không dùng các biện pháp mạnh và quyết liệt? Chúa của Môsê dường như không dứt khoát đủ? Sao Người không cho quyền Môsê làm những dấu lạ điềm thiêng mau lẹ đi? Sao Người còn nương tay với Pharaon và bè lũ?
Con cái Israel đã nóng ruột. Chúng ta thường cũng nóng ruột, chỉ muốn đổi đời tức khắc, chỉ muốn kẻ dữ phải chết tươi, ăn năn tội chẳng kịp. Nhưng Chúa thì lại khác. Tác giả sách Khôn Ngoan hôm nay mạc khải cho chúng ta thấy tâm tư của Người. Không phải Người yếu đâu, vì toàn thể vũ trụ trước mặt Người như hạt sương rơi trên đất. Nào ai cự được cánh tay của Người. Nhưng chính vì toàn năng phép tắc mà Người lại thương xót người ta vô cùng. Chỉ có người yếu mới sốt ruột thủ tiêu người mình không ưa, không thích. Còn người có khả năng thì dễ dàng làm lơ chờ đợi chúng hối cải.
Tuy nhiên đó chỉ là một lý. Còn một lẽ nữa, có thể quan trọng hơn. Thiên Chúa là tạo hóa, Người dựng lên mọi sự vì yêu mến. Chính tình thương của Người ban cho mọi loài được hiện hữu và bảo tồn mọi loài trong hiện hữu... Không gì xuất hiện và tồn tại được nếu Người không muốn và không thương. Thế nên kẻ dữ còn đó là vì tình thương của Thiên Chúa. Người không muốn ghét bỏ những gì Người đã nắn ra. Người yêu sự sống chứ không thích sự chết. Làm cho mọi vật sống là bản tính tự nhiên của Người. Còn tiêu diệt vật nào là việc Người chẳng thích. Bởi vậy, thái độ của Người có vẻ thong thả. Dần dà Người muốn sửa dạy mọi kẻ sa ngã để chúng trở lại mà được sống.
Tác giả sách Khôn Ngoan không những đã lý luận như thế. Ông còn chấp nhận luận lý ấy đến nỗi muốn chia sẻ tâm tư của Thiên Chúa. Ông đã không lý luận như chúng ta vừa làm; nhưng đã cầu nguyện để hiểu ý Chúa và muốn như Người... Tức là ông cũng muốn chúng ta, thay vì nhìn vào kẻ dữ như những cái gai trước mắt và như nguyên nhân cản trở hạnh phúc của chúng ta, hãy nhìn vào Thiên Chúa và thờ lạy cầu xin Người. Chúng ta sẽ hiểu Người hơn và chia sẻ tâm tư của Người. Người toàn năng nên không coi thái độ của kẻ dữ là quan trọng. Ưu vị của Người làm ngơ đi trước tội của họ, chờ đợi họ trở lại. Nhất là Người đầy tình thương. Người đã dựng nên vạn vật vì yêu mến. Người không nỡ ghét bỏ loài người đã tác thành. Hơn nữa, thần trí của Người đang làm việc nơi vạn vật. Hãy để cho sức mạnh thánh hóa của thần trí sửa dạy kẻ sa ngã và đưa họ về đường ngay...
Tác giả sách Khôn Ngoan không thể nói rõ hơn vì ông chưa được thấy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tỏ hiện. Nhưng tâm tư của ông đã vượt xa cảm nghĩ của nhiều người đã nhìn thấy ơn cứu độ. Ðiều này thật đáng suy nghĩ. Và vì thế chúng ta cần tìm hiểu hơn về cách Chúa cứu độ để sửa sai nhiều thái độ hiện nay của mình. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe có khả năng giúp đỡ chúng ta làm việc này. 2. Thiên Chúa Cứu Ðộ Tội Nhân
Câu chuyện ông Zakkhê, ai mà không biết. Tác giả Luca đặt câu chuyện này vào ngay sau lúc Ðức Giêsu nói với các môn đệ: "Này chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho con người mọi điều các tiên tri đã viết". Như vậy câu chuyện muốn nói lên mục đích của cuộc hành trình, tức cũng là việc Ðức Giêsu lên Giêrusalem để chịu chết. Người đi chịu nạn để chuộc tội cứu thế. Câu chuyện ông Zakkhê làm chứng điều này.
Quả vậy, trước mặt người Do Thái, Zakkhê là một kẻ tội lỗi. Không tội lỗi như bọn phóng túng đâu; nhưng đây còn là một tội nhân nguy hiểm. Zakkhê là ty trưởng quan thuế ở một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Và điều này có thể làm sống lại một số kinh nghiệm cũ của chúng ta. Những người thu thuế cho hạng ngoại bang làm sao không bị coi là những tên hại dân hại nước! Huống nữa Zakkhê là ty trưởng quan thuế.
Và chế độ thuế má ở Giêricô bấy giờ mới thật đáng ghét! Ðể thu được nhiều tiền, nhà cầm quyền Rôma cho đấu thầu việc thu thuế. Và dĩ nhiên những kẻ giàu có mới có khả năng đấu thầu. Và đấu thầu được, họ tha hồ bắt dân phải chịu sưu cao thuế nặng. Có như vậy họ mới gỡ được vốn và mới có thể làm giàu thêm. Dân không thể nào không coi những ông bao thầu này bất nhân được. Nhất là ở Israel; làm tay sai cho ngoại bang không những là hại dân hại nước, mà còn là hại đạo nữa. Kẻ bất nhân trong việc thu thuế vừa bán nước vừa là giáo gian. Ðó là tội nhân công khai, trắng trợn và nguy hiểm.
Zakkhê có thật sự như vậy không? Ðiều đó không cần biết. Chỉ có điều chắc chắn là người Do Thái nào cũng coi ông như vậy. Hay ít ra trước mặt công luận, ông bị coi như thế.
Hôm ấy Zakkhê nghe tin Ðức Giêsu đi ngang qua Giêricô. Tò mò ông muốn thấy Người... nhưng ông lại nhỏ con chẳng sao nhìn được Người vì thiên hạ bu đầy xung quanh Người. Chỉ còn một cách: Phải tìm chỗ đứng trên cao nhìn xuống... Chẳng có nhà lầu nào ở gần. Hơn nữa, trèo lên một thân cây có lẽ đỡ phiền phức hơn. Zakkhê đã làm như thế. Nhưng này Chúa đã gọi ông: "Zakkhê, xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi".
Làm sao có thể xảy ra như thế? Người mà lại vào ngụ nhờ nhà một người tội lỗi sao? Thiên hạ thì kinh ngạc; còn Zakkhê thì chỉ biết vui mừng. Ông về dọn nhà, dọn bàn... và nhất là dọn những câu nói chân thật nhất để diễn tả lòng cảm mến đối với một ơn bất ngờ như vậy: "Này, ông nói, nửa phần của cải, thưa Ngài, tôi xin bố thí cho kẻ khó và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn".
Ðó là phản ứng của một con người quyết tâm đổi đời. Trước đây ông muốn vơ vén nhiều của, bây giờ ông muốn tung ra; trước đây ông có gian lận, thì bây giờ ông xin đền bù quá mức pháp luật đòi hỏi. Quả thật ông đã nhận được ơn cứu độ. Và Ðức Giêsu chỉ còn cần phải tuyên bố: "người này cũng là con cái của Abraham". Nghĩa là không ai còn được kỳ thị, gạt bỏ một con người như thế nữa. Không còn được coi người ấy như lương dân hay như tay sai của ngoại bang nữa. Người ấy không còn là tội nhân, nhưng đã trở thành con cái của Abraham, con cái của Lời Hứa, con cái của Nước Trời. Và sở dĩ như vậy vì Con Người đến để tìm cứu sự đã hư đi.
Ðã đành, Zakkhê cũng có công... ông đã muốn xem thấy Chúa và đã trèo lên cây cao, và nhất là ông đã thành tâm trở lại. Nhưng nếu Chúa đã không nhìn và gọi ông, nếu Người không đoái ngụ lại nhà ông, thì đã chẳng có câu chuyện hôm nay. Tất cả đều do Chúa, nhờ lòng thương của Người và bởi sáng kiến của Người. Ðó mới thật là ý tưởng mà tác giả Luca muốn trình bày với chúng ta.
Ðức Giêsu đã đến để tìm cứu kẻ có tội: Người là ơn cứu độ Thiên Chúa gửi đến cho loài người. Người thực hiện những điều mà sách Khôn Ngoan đã viết. Tác giả sách này chỉ biết rằng: Thiên Chúa vì toàn năng và nhân ái sẽ làm cho tội nhân trở lại. Nhưng thế nào và nhờ ai, thì chúng ta phải chờ đến khi thấy Ðức Giêsu xuất hiện và cương quyết đi lên Giêrusalem để làm công việc cứu thế... Hôm nay Người đã làm cho Zakkhê trở lại đang khi Người lên Giêrusalem để chúng ta thấy trước mục đích của việc Người sẽ chịu nạn và sống lại.
Chúng ta ngày nay đã có đức tin và tuyên xưng Ðức Giêsu là cứu thế. Chúng ta phải làm gì để ơn cứu độ của Người có ảnh hưởng đổi đời một cách sâu rộng? Vì như đã nói trên, muốn đổi đời không phải là muốn tiêu diệt kẻ dữ, nhưng phải mong họ trở lại ngay chính nhờ lòng thương của Thiên Chúa và hành động của Ðức Giêsu Kitô. Bài thư Thessalonica hôm nay có thể giúp chúng ta nhiều ánh sáng quý báu. 3. Ðức Giêsu Phải Ðược Hiển Vinh Nơi Chúng Ta
Xét theo một khía cạnh, giáo đoàn Thessalonia thời bấy giờ đã cảm nghĩ như chúng ta ngày nay trong nhiều lúc. Họ thấy đời không đáng sống bao nhiêu. Quá nhiều buồn chán. Và nhất là quá nhiều bất công. Họ ước ao ngày của Chúa đến để phân biệt lành dữ phải trái. Nhiều người đã lợi dụng cái tâm lý ấy... Họ tuyên truyền và làm cho người ta tưởng: ngày của Chúa đã đến!
Phaolô phải viết thư để tín hữu của Người khỏi bị phỉnh gạt. Những lời cuối cùng trong đoạn trích hôm nay gạt bỏ ý tưởng cho rằng ngày của Chúa đã đến. Ðôi khi chúng ta cũng nên đọc kỹ lại những lời này để khỏi bị giao động vì những tin có mạc khải ở chỗ này, có lời sấm ở chỗ kia về ngày tận thế. Ngày ấy đến lúc nào, đến Con Người cũng không biết, thì đừng ai phỏng đoán làm gì.
Nhưng có một điều chắc chắn, chúng ta phải cố gắng để được hạnh phúc trong ngày ấy. Và cho được như vậy, thánh Phaolô bảo phải cầu nguyện, xin Thiên Chúa khấng làm cho chúng ta được xứng đáng với ơn Thiên triệu... Chỉ có Người mới cứu độ được chúng ta, nhờ Ðức Giêsu Kitô như hai bài Kinh Thánh trên đây đã làm chứng. Nhưng về phía mình, ít ra chúng ta cũng phải có những nỗ lực nào đó như Zakkhê. Và ở đây thánh Phaolô nói, chúng ta phải làm cho Danh Ðức Giêsu được hiển vinh nơi chúng ta và chúng ta ở nơi Người.
Chúng ta hãy mượn lại câu chuyện Zakkhê để làm sáng tỏ lời khuyên của thánh Tông đồ. Nhờ việc Ðức Giêsu đến ngụ nhờ nhà ông, mà ông đã đổi đời. Ông đã nhiệt tình tiếp rước Người, nên ông đã lấy lại được danh tiếng. Ông được vinh hiển ở nơi Người vì ông đã muốn Người vinh hiển nơi nhà ông. Nhà ông đón nhận ơn cứu độ, nên ông đã trở thành con cái của Abraham.
Như vậy chúng ta phải tôn vinh Ðức Giêsu ở nơi chúng ta để chúng ta được tôn vinh ở nơi Người. Và muốn thế, thánh Phaolô nói chúng ta phải nhờ ơn Chúa làm cho viên thành ý chí ngay lành và công việc của lòng tin. Chúng ta phải cầu xin quyền năng của Thiên Chúa giúp mình thi hành các tư tưởng tốt và làm tốt các việc của đời sống đức tin. Khi ấy đời sống chúng ta sẽ xứng đáng là đời sống của người Kitô hữu. Ðức Kitô được hiển vinh nơi chúng ta, thì đồng thời và lập tức chúng ta được hiển vinh ở nơi Người. Người ta sẽ thấy chúng ta là môn đệ Người. Và khi ấy dù giờ vinh hiển cánh chung chưa đến, nhưng chúng ta cũng đã mang trong mình đời sống vinh hiển của Thiên Chúa rồi.
Và nếu chúng ta không những coi mình như con chiên của Chúa mà còn ý thức tất cả chúng ta là dân riêng của Người để chúng ta cố gắng làm cho Người được vinh hiển nơi cộng đoàn giáo xứ và Giáo hội chúng ta, thì xã hội loài người sẽ nhận thấy Hội Thánh qua thật là thành trì của Thiên Chúa và là hạnh phúc bình an của các dân tộc.
Chúng ta có tất cả những yếu tố đó trong thánh lễ này. Ðức Giêsu sẽ đến và mang ơn cứu độ đến cho nhà này là giáo đoàn chúng ta và linh hồn mỗi người. Chúng ta hãy đón nhận Người như ông Zakkhê. Chúng ta hãy bắt chước ông quyết tâm đổi đời làm vinh danh Chúa ở nơi chúng ta. Không những Chúa sẽ tuyên bố chúng ta là con cái của Abraham và là dân thánh của Người; nhưng chính xã hội cũng sẽ nhận ra đời sống mới nơi chúng ta để ca tụng Thiên Chúa và tin vào ơn cứu độ của Người.
Xin cho chúng ta và cộng đoàn chúng ta hôm nay được những ơn như thế. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Luca 19, 1-10 trong Chúa Nhật 31 thường niên, năm C, chúng ta hết sức bỡ ngỡ và ngạc nhiên. Bởi vì, Giakêu leo lên một cây sung để có thể nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua nơi đó; Chúa Giêsu còn đang ở xa đã ngước mắt nhìn lên Giakêu. Đám đông hiện diện hôm đó đang hết xức xôn xao, xì xào vì những điều đang xẩy ra…Câu chuyện ông Giakêu cho chúng ta hiểu gì ?
Ông Giakêu là một người bị khinh dể ở Giêrichô vì Ông làm nghề thu thuế, và hơn nữa Ông còn làm trưởng của những người thu thuế. Giakêu bị khinh thường vì Ông lợi dụng nghề thu thuế để thu những khoản thuế bất chính, lạm thu. Do đó, Ông Giakêu bị liệt kê vào hạng tội lỗi nặng, bị loại trừ và không được xã hội chấp nhận, bị khinh khi, miệt thị. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại nhìn khác, Ngài nhìn với con tim nhân hậu, với cái nhìn khoan dung, độ lượng. Ngài hiểu cõi lòng thâm sâu của Ông Giakêu. Giakêu chạy trước, leo lên một cây sung, Chúa Giêsu nói với Ông:” Hãy xuống mau “ ( Lc19, 5 ). Ông Giakêu vội vàng leo xuống trong tư thế ngạc nhiên, hơi bối rối, Ông vẫn còn mệt, còn thở vì leo lên cây sung mà. Nhưng Ông đã bất thình lình thưa với Chúa Giêsu:” Thưa Ngài, nầy đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn “ ( Lc 19, 8 ).
Chúa Giêsu đã nói:” Hôm nay ơn cứu rỗi đã đến cho nhà này, bởi chưng người này cũng là con cái của Abraham “ ( Lc 19, 9 ). Ngày hôm nay của Chúa đã đến với một người, một gia đình mà người ta cho là tội lỗi. Nhưng Chúa lại rất khác:” …Con Người đã đến để tìm cứu sự đã hư đi “ ( Lc 19, 10 ).
Chúng ta vẫn cảm thấy như có một cái gì thật chua xót, thật lạc điệu, một cái gì đó khựng lại . Đám đông thấy vậy thì lẩm bẩm, xầm xì “ Ông này trọ tại nhà một người tội lỗi “. Đó là sự chua xót của thế gian vì người đời chỉ nhìn bề ngoài nhưng không nhìn thấu suốt tâm hồn con người. Đám đông chỉ nhìn hời hợt bên ngoài. Đám đông không thể thấy con tim của Ông Giakêu, cũng như họ không thấy được con tim nhân hậu của Chúa Giêsu. Một đám đông dân chúng đang xếp hạng Giakêu là người tội lỗi, còn Chúa Giêsu chỉ là một vị ngôn sứ…Họ chưa nhìn ra cõi lòng nhân hiền của Chúa Giêsu. Ông Giakêu trong thâm tâm chỉ dám ước ao nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu lại cho Ông một đặc ân hết sức lớn lao, một hồng ân vô biên, bất ngờ là cho Ông và cả gia đình của Ông được ơn cứu độ. Ông Giakêu đã một lần được nghe nói Chúa đã chữa lành, làm sáng đôi mắt cho anh mù Bactimê, nên Ông Giakêu muốn được thấy Chúa, nhưng không ngờ Chúa lại chữa lành đôi mắt tâm hồn của Ông Giakêu.
Ông Giakêu đã bừng sáng, Ông đã nhìn thấy Chúa Giêsu không chỉ là một con người bình thường Ông muốn thấy, nhưng Ông đã thấy chính Đấng cứu độ, đã ban ơn giải thoát tội khiên cho Ông và cả gia đình: vợ, con của Ông. Ông Giakêu đã nhìn thấy Đấng đầy lòng thương xót, Đấng hiền lành, khiêm nhường. Ông đã không chỉ nhìn thấy và ham mê của cải tiền bạc, nhưng Ông đã hiểu được thế nào là chia sẻ, thế nào là trao ban, thế nào là sống tinh thần khó nghèo vì thế Ông đã hứa phân chia gia tài và đền thiệt hại cho những kẻ Ông đã làm họ thiệt hại như Ông đã thưa với Chúa Giêsu…
Sau khi đã toại nguyện với những cam kết của mình với Đấng Cứu Thế Giêsu, Ông Giakêu đã vui mừng, hân hoan ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu và các môn đệ của Chúa. Ông Giakêu chắc chắn không còn giầu có như xưa, nhưng Ông sẽ hạnh phúc gấp bội. Ông Giakêu chắc chắn không cao thêm được một gang tấc nào, nhưng tâm hồn Ông trở nên cao thương hơn xưa…Chúa đã thương xót Giakêu, Ông đã hoán cải. Giakêu đã bỏ nếp sống cũ, nếp sống tội lỗi để mặc lấy Chúa Kitô, và bước đi trên con đường lương thiện.
Câu chuyện của Ông Giakêu đã nói lên một thực tại của lòng tin: để đón nhận ơn cao cả của Chúa, người ta phải khao khát thực lòng và muốn đón nhận với lòng biết ơn và sau đó, đích thân đến tìm gặp Chúa với lòng tin thâm sâu.
Một điều chúng ta cảm nghiệm sâu xa và xác tín thâm sâu là dù chúng ta ở đâu, dù chúng ta thế nào đi nữa, Chúa vẫn thương yêu chúng ta, Chúa vẫn tìm kiếm chúng ta, vẫn chờ đợi chúng ta và muốn sống gắn bó thân mật với chúng ta và muốn ban ơn cứu độ cho chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta luôn phải mau mắn, chóng vánh đón tiếp Chúa với tất cả lòng tin của chúng ta và sống sao cho xứng với Tin Mừng và ơn huệ Thiên Chúa trao ban.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết mau mắn quay trở về để qua Bí tích hòa giải chúng con được Chúa tha thứ . Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-------------------------------------
TN 31-C136: Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim – RC.
Ông Giakêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc. 19, 8b-10)
Ông Giakêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giêricô, những đoàn người buôn bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Giakêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Giakêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Israel về.
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34).
Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Giakêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Giakêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.
Cố nhạc sĩ Xuân Hồng đã gởi gắm tâm tình của mình về cặp mắt qua bài hát “Đôi mắt”:
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời Để nhìn đời và để làm duyên Đời cho em đôi mắt màu đen để thương để nhớ, để ghen, để hờn
Đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn Là bài thơ hay nhất Là lời ca không dứt Là tuyệt tác của thiên thu …
Quả thật! Đôi mắt thật tuyệt vời và là tuyệt tác của Thiên Chúa – Đấng tạo dựng nên con người.
Đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn. Chính đôi mắt đã để cho tâm hồn của con người có thể đến với nhau, ở lại với nhau và ở lại trong nhau.
Ngày hôm nay, chúng ta bắt gặp hai đôi mắt dễ thương vô cùng đó là đôi mắt của Chúa Giêsu và người thu thuế mang tên Giakêu.
Giakêu là một con người khá đặc biệt. Đặc biệt vì ông ta có vóc dáng quá khiêm tốn, vừa nhỏ vừa lùn. Đặc biệt vì ông ta là một người giàu có ai cũng biết, nhưng sự giàu có của ông là do nghề nghiệp thu thuế, một nghề mà đối với người Do thái bấy giờ là nghề tội lỗi. Dưới cái nhìn của xã hội Do Thái thời bấy giờ, người thu thuế là người ô uế và tội lỗi. Tội lỗi với dân tộc vì làm tay sai cho ngoại bang, cho đế quốc đàn áp và bóc lột đồng bào. Tội lỗi với Gia vê Thiên Chúa và với lề luật, vì đã tham nhũng và thủ lận tiền chung bỏ vào túi riêng. Người tội lỗi dĩ nhiên thường bị người khác khinh thường và chà đạp.
Đã từ lâu Giakêu hẳn nhiên thường nghe nhiều người nói này nói nọ về Chúa Giêsu. Khi nghe như vậy, dĩ nhiên ông muốn và ao ước được gặp gỡ Ngài. Hôm nay, khi hay biết Ngài sắp đi qua nơi đó, Giakêu đã phải trèo lên một cây sung vì ông là một người thấp bé, và dân chúng thì lại đông đảo vây quanh Người. Và rồi, giây phút tuyệt diệu đã đến, Chúa Giêsu đã nhận ra ông và ngỏ lời: Hỡi Giakêu hãy xuống mau vì hôm nay Ta muốn lưu lại tại nhà ngươi.
Một người như ông mà lại tò mò đến nỗi phải leo lên cây sung, vì ao ước chỉ được xem thấy Chúa Giêsu và cuối cùng không những được xem thấy mà còn đối diện với Ngài, tiếp đón Ngài vào nhà. Cuộc tiếp xúc này dẫn ông đến việc tự nộp mình vào cuộc đánh tư sản mại bản của chính bản thân ông: “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ phân phát cho người nghèo và nếu tôi có gian lận của ai, tôi sẽ đền gấp bốn”.
Giakêu chân thành hối cải, một thái độ của người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Ông không phải muốn mua chuộc Chúa Giêsu hay chạy tội của một kẻ quan chức tham ô thủ đoạn. Với ánh mắt chan chứa tình người của Chúa Giêsu dành cho Giakêu đã làm biến đổi cả cuộc đời của ông. Qua ánh mắt này, cái nhìn này của Chúa đã cho ta thấy căn tính, thấy dung mạo đích thực của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian đã đến và đã hiện diện giữa nhân loại.
Hết sức nhẹ nhàng: “Giakêu hôm nay tôi lưu lại nhà ông và hôm nay ơn được cứu độ đã đến cho nhà này.Vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất”. Chúa Giêsu không những đã vượt qua và còn phá đổ những giới hạn và những gía trị của tập tục Do thái và những quan niệm của những người biệt phái. Ngài la cà tiếp xúc với những người tội lỗi, Ngài vào nhà và ăn cơm với những người thu thuế. Ngài để cho người đàn bà tội lỗi quấn quít rồi để cho bà lấy tóc lau chân Ngài. Ngài đã cứu chữa những người bệnh tật trong ngày Sabbat.
Hình ảnh của Chúa Giêsu cho thấy hình ảnh, tâm tình của một Thiên Chúa qua bài đọc sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt uếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Chúa Giêsu đã quan tâm, khiêm hạ, tha thứ, tin tưởng, yêu thương Giakêu. Thái độ, tâm tình ấy của Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu một cách đặc biệt và khó hiểu. Giữa đám đông ấy, chỉ có hai ánh mắt nhìn nhau và chạm nhau. Ngày hôm ấy, Giêsu đã chạm đến Giakêu và Giakêu đã chạm đến Giêsu. Và, đặc biệt, ánh mắt yêu thương, tin tưởng, quan tâm, tha thứ của Chúa Giêsu không dừng lại ở Giakêu hay dừng lại ngày hôm đó mà ánh mắt ấy vẫn dõi theo con người nhất là những con người tội lỗi và yếu đuối.
Và như vậy, chuyện quan trọng là chúng ta có chạy đến, có trèo lên cây sung để tìm Chúa và nhìn Chúa như Giakêu để đón nhận ơn tha thứ, ơn cứu độ từ Thiên Chúa hay không mà thôi. Chúa sẵn sàng yêu thương tha thứ nhưng chúng ta có cảm nhận, có đáp lời hay không mà thôi?
Và, khi chúng ta đón nhận được tình yêu thương, ơn tha thứ từ Chúa đó chúng ta có yêu thương tha thứ cho anh chị em đồng lại của chúng ta hay không? Nói anh chị em đồng loại cũng là nói một cách chung chung, gần nhất đó chính là chồng, là cha, là mẹ, là ông, là bà, là con, là cháu … đang sống chung trong mái nhà của ta đó. Liệu rằng ta có cảm thông, yêu thương và tha thứ cho những người đó khi họ phạm lỗi hay không? Ta có dành cho họ ánh mắt yêu thương và tha thứ hay không?
Trong lắng đọng của cuộc đời, hãy nhìn lên Thánh Tâm Chúa Giêsu, một ánh mắt yêu thương trào tràn từ cung lòng của Chúa Giêsu luôn dõi nhìn cuộc đời của ta. Xin cho ta cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa dành cho ta và ta cũng yêu thương tha thứ cho anh chị em đồng loại như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho ta.
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Nhật Bản đã trực tiếp truyền hình cho khán giả trên cả nước được xem toàn bộ ban quản trị của một công ty dược phẩm cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi-rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh Si-đa. Sau khi ông chủ tịch công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn: “Hãy quì gối xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn: “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và năm người trong ban quản trị công ty đã quì gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn nhà trong 10 phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối.
Sám hối về những sai lỗi là điều bình thường, không có gì là hèn hạ và nhục nhã. Đạo của chúng ta xem việc sám hối ăn năn là một trong những đòi hỏi tiên quyết của niềm tin. Vì thế, sám hối là một đề tài mà không một ngôn sứ nào, không một tông đồ nào, không một nhà giảng thuyết nào không đề cập tới, chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả khi bắt đầu giảng dạy, ngài kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối để đón Chúa đến”. Chúa Giêsu cũng vậy, bắt đầu cuộc đời công khai, lời truyền giảng đầu tiên của Ngài là kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Sám hối là chân thành nhìn nhận những lỗi lầm, những thiếu sót của mình và quyết tâm đổi mới đời sống. Do đó, sám hối không phải chỉ là hối tiếc những hành vi quá khứ, lại càng chẳng phải là thực thi cho đủ một nghi thức bên ngoài theo luật định, nhưng là thay lòng đổi dạ, đổi mới đời sống và cách sống của mình. Hiểu như vậy thì sám hối là việc bình thường nhưng cần thiết đối với tất cả mọi người.
Tin Mừng kể lại nhiều mẫu gương sám hối, một gương mẫu điển hình là ông Da-kêu. Ông là một người tội lỗi nhưng đầy thiện chí. Ông ước muốn được nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng dân chúng đông quá, ông lại lùn, nên ông trèo lên một cây sung ở bên đường mà không sợ mọi người chế diễu. Quả thực, ông đã có thiện chí, bấy nhiêu thôi đã đủ để Chúa thưởng cho tấm lòng chân thành của ông, không những cho ông thấy mà Chúa còn đến nhà ông. Trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn, sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo, không những thế, ông còn thực hiện sự công bình, làm thiệt hại ai ông sẽ đền gấp bốn.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của ông Da-kêu là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta cũng hãy thực hiện một cuộc gặp gỡ Chúa như thế. Thực vậy, ông Da-kêu là gương mẫu người sám hối như Chúa Giêsu mong muốn, nhìn vào ông chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là sám hối. Vậy điều quan trọng chúng ta hãy nhớ: việc sám hối là một đặc ân của Thiên Chúa, chứ không phải là sáng kiến của chúng ta. Đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có nhiệm vụ đáp lại. Ông Da-kêu vì tò mò muốn xem Chúa, nên trèo lên cây mà nhìn, nhưng tâm hồn ông chỉ thay đổi hẳn khi Chúa nhìn ông, kêu tên ông và vào nhà ông. Những chi tiết đó nói lên cho chúng ta biết một cách hùng hồn vai trò của ơn Chúa, của tình thương Chúa trong việc sám hối: ơn Chúa đi trước, kêu gọi và mời đón. Tuy nhiên, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, đáp lại sự trông đợi của Chúa thì công việc mới hoàn thành.
Chúng ta cần đến gặp Chúa Giêsu và sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời. Chúa Giêsu là tình thương, là đại dương tình thương, nên dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong tình trạng nào, dù cuộc đời chúng ta có xấu xa, bê bối thế nào, thậm chí tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề đến đâu, vẫn không sao, Chúa sẽ tẩy xóa hết, Chúa sẽ tha thứ hết, để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thương trong đại dương yêu thương bao la của Chúa. Nhưng với điều kiện chúng ta phải đến với Chúa, phải gặp gỡ Chúa và thành thật nhìn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình.
Biết một chút về bối cảnh của bài đọc Khôn ngoan giúp chúng ta khai triển lời rao giảng dễ hơn. Sách Khôn ngoan của vua Salomon được viết khoảng năm 50 trước Thiên Chúa Giáng Sinh, không phải bởi vua Salomon, nhưng bởi cộng đồng Do Thái lưu lạc ở Ai Cập (Có lẽ tại Alexandria). Như vậy, bối cảnh gợi ý rằng dân tộc Do Thái đang sống giữa lòng một quốc gia hùng mạnh, tiến bộ về trí tuệ và kiến thức khoa học. Đó là một môi trường có tính chất hết sức dụ dỗ. Những thành tựu của người Ai Cập được thể hiện chẳng hạn như trong các Kim tự tháp và các kỹ thuật công nghiệp, máy móc khác. Cộng đồng Do Thái phải chiến đấu nhiều lắm mới có thể trung thành với đức tin truyền thống của mình. Liệu họ có mặc cảm tự ty với người Ai Cập tiến bộ không? Liệu họ có phải ngỡ ngàng rằng các thần thánh Ai Cập có sức mạnh vượt hơn Thiên Chúa Giavê của dân tộc Do Thái không? Thật rất khó khăn để trung thành với Thiên Chúa mà không cảm thấy bị đe dọa bởi cái gọi là thành tựu của các dân tộc vô đạo chung quanh! Lại còn khó khăn hơn nữa khi nhìn về tương lai, liệu họ có giữ được con cái khỏi lìa bỏ đức tin và truyền thống của cha ông mà lây nhiễm nền văn hóa ngoại lai? Những lo lắng trên thật giống lo lắng của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng bị bao vây bởi các nguồn khôn ngoan vô đạo. Nó lôi kéo chúng ta, không phải bằng tử đạo (khi bài này đang được in thì 200 tín hữu bị giết ở Phi Châu, 18 ở Pakistan) nhưng bằng làm xói mòn đức tin của chúng ta ngày này qua ngày khác. Con em chúng ta là những nạn nhân nhạy cảm nhất.
Nội dung của sách khôn ngoan không phải là những lời dạy bảo mới mẻ cho người Do Thái, mà là sự tổng hợp những khôn ngoan, gia sản của dân Chúa, thấm đượm trong toàn bộ Kinh thánh Do Thái. Sách Khôn ngoan, nhất là trích đoạn cho bài đọc hôm nay phản ánh đức khôn ngoan của các nhà quân tử Do Thái thời Cổ, khi nó nhấn mạnh đến sự thánh thiêng của đời sống con người. Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi sự tốt lành (ám chỉ rõ rệt về sách Sáng thế) và Ngài yêu mến hết mọi sự Ngài đã làm nên. Hơn nữa, tất cả các tạo vật Chúa đã tạo thành được chia sẻ tinh thần bất tử của Đấng Cực Thánh. Bài đọc cũng nhấn mạnh lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót đặt nền tảng không phải trên sự nghiệp tốt lành của chúng ta, mà là trên tình thương yêu của Thiên Chúa đối với tất cả những gì Ngài đã tạo thành. Trong khi chúng ta cần đến lòng thương xót của Ngài, chúng ta không thể chỉ ra một công nghiệp nào để đáng được hưởng sự thương xót đó. Tuy nhiên, lòng thương xót của Ngài luôn luôn sẵn sàng hiện diện trong mọi sự, bởi vì Thiên Chúa yêu thương mọi loài Ngài đã làm ra và từ tình yêu đó Ngài thương xót chúng ta.
Suy nghĩ này dẫn đến trách nhiệm của loài người và từng người trong thế giới môi trường chung quanh mình. Chúng ta đã được chia sẻ cách đặc biệt tinh thần bất tử của Thiên Chúa. Chúng ta phải phản ánh tinh thần ấy trong việc quản trị thiên nhiên. Chúng ta chỉ có thể là hình ảnh của Đấng tạo thành khi chúng ta chăm lo, như Chúa chăm lo, cho tất cả những gì Chúa đã dựng nên. Chúng ta xây dựng đường sá, cầu cống, xí nghiệp, nhà ở, nhưng cũng phải nghĩ đến môi trường sống cho các thú vật, cây cối. Con kiến, con rắn, bọ cạp dù nhỏ bé thế nào đi nữa cũng cần có nơi để sống, để sinh sôi nảy nở và chúng ta cũng phải dự trù cho chúng. Cây xanh, rừng núi cũng là các tạo vật của Chúa và cần thiết cho môi trường trái đất, chúng ta không thể tàn phá vô trách nhiệm. Thực ra mọi sự, mọi vật trong vũ trụ được Chúa ấn định cho một thứ “quyền”. Xúc phạm đến quyền đó, thiên nhiên sẽ có cách trả thù, lúc ấy tai họa thật ghê gớm. Cho nên, Khôn ngoan dạy chúng ta phản ánh tình yêu của Thiên Chúa trên mọi sự sống, nhất là những sự sống nhỏ bé nhất. Phá thai hẳn là một trọng tội đối với thiên nhiên, giết người là trọng tội khác. Bởi vì “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, và không ghê tởm một loài nào Ngài đã làm ra”.
Viễn vọng kính Hubble ngoài không gian đã khám phá ra nhiều chùm sao Thiên Hà mới. Càng nhìn ra xa vũ trụ, nhân loại càng thấy được bàn tay Thiên Chúa. Những dòng chữ mở đầu bài đọc một đã nhấn mạnh về thế giới được tạo dựng và về sự vô biên của Thiên Chúa. Liệu vị Thiên Chúa mà trước mặt toàn thể vũ trụ chỉ là hạt cát trên cán cân, hạt sương mai rơi xuống đất… có chăm lo đến những chi tiết nhỏ nhặt cuộc sống hằng ngày của bạn? Sách khôn ngoan dạy: “Ngài thương xót hết mọi loài.” Thiên Chúa vĩ đại của vũ trụ chăm lo cho chúng ta từng chi tiết và tha thứ tội lỗi chúng ta do bởi tình yêu Ngài. Chúa Giêsu đã xác thịt hóa tình yêu này khi Ngài mời gọi chúng ta đến ăn uống tại nhà người thu thuế Giakêu. “Hôm nay, nhà này được cứu độ”.
Chúa Giêsu đã biến sự chăm lo của Đức Chúa Trời trên mọi sự, ngay cả trên những người bị khinh rẻ nhất, thành hành động và lời giảng dạy. Thiên Chúa, Đấng yêu thương mọi loài, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã cất công đi kiếm tìm. Ông Giakêu leo lên cây sung tưởng mình tìm kiếm Chúa Giêsu, nhưng sự thực, kết quả của câu chuyện cho thấy rõ, Chúa Giêsu đã kiếm tìm ông. Chính ông là con chiên đi lạc. Ông đâu có thuộc về đám đông theo sau Chúa Giêsu, những người tò mò rỗi rãi. Cũng như ngày nay, đám đông vây quanh các siêu sao điện ảnh, thể thao, chính trị, v.v… Nhưng như thánh Luca cho biết, ông Giakêu hôm ấy có mặt tại quãng đường Chúa Giêsu đi qua với lý do khác hẳn: “Ông tìm xem Chúa Giêsu là ai? ông là mẫu gương của những kẻ kiên trì tìm kiếm, ông đã đi tìm Chúa Giêsu, nhưng té ra Chúa Giêsu đang đi kiếm tìm những chi đã mất. Giakêu là kẻ bị thất lạc.
Một thực tại đáng buồn, ông ta giàu có những đồng tiền bất chính, bị cộng đoàn Do Thái khinh bỉ vì nghề thu thuế, phục vụ đế quốc Rôma, ông cũng chẳng được người La mã hoàn toàn chấp nhận. Như thế về mặt tôn giáo ông không thể được liệt vào hàng kính sợ Chúa hoặc được Chúa ưu ái. Dựa trên những gì ông làm, ông không phải là con người đáng yêu. Chúa yêu ông ta không phải vì công nghiệp của ông ta, nhưng hoàn toàn vì Ngài là tình thương. Bản chất của Ngài là yêu mến. Cho nên Ngài đã gửi Chúa Giêsu xuống để tìm kiếm ông ta. Chân tướng của Giakêu là như vậy. Của chúng ta cũng như thế thôi. Nếu chúng ta cảm thấy mình đáng yêu, đáng công nghiệp trước mặt Chúa. Phúc âm hôm nay không đề cập tới. Ông Giakêu đã nhận ra rằng, mặc dầu ông không xứng đáng, Chúa Giêsu đã kiếm ông và muốn đồng bàn với ông. Thiên Chúa cũng muốn dọn bàn tiệc cho chúng ta hôm nay, bàn tiệc bánh và rượu Thánh thể. Tại đó, chúng ta được lắng nghe lời khôn ngoan của Ngài, nhận ra mình được yêu mến và dưỡng nuôi, bởi chính Đấng đã tìm kiếm chúng ta!
Phân đoạn Phúc âm hôm nay tiếp liền phân đoạn 18, 35 nói về câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người mù thành Jericho, tức nói về sứ vụ của Ngài nơi những kẻ bất hạnh, bị xã hội ruồng bỏ. Giakêu là một người giàu có, là thu thuế trưởng, thật khó mà ra khỏi hoàn cảnh của mình, mặc dù nghề nghiệp đáng khinh bỉ. Ông ta chẳng thể tự cứu nổi mình, lối sống đã thành thói quen. Não trạng đã bị giam hãm trong một thế giới hạn hẹp, ông không thể ra khỏi đấy, trừ phi có người dẫn dắt ra, cho ông khả năng để trỗi dậy, người đến từ thế giới rộng lớn hơn.
Chúa Giêsu đã vào nhà ông, mang đến cho ông nhãn quan rộng lớn đó. Cả hai người, ông Giakêu và người mù thành Jericho, đã nhận được ánh sáng từ Chúa Giêsu. Mắt họ mở ra và nhìn thấy thế giới huy hoàng đẹp đẽ của tình thương. Ông hứa sẽ trả lại cho những người ông đã bóc lột gấp bốn. Người nghèo thì được nửa phần gia tài của ông. Ý định đó không mang lại cho ông ơn cứu độ. Nó là kết quả của việc ông lắng nghe sứ điệp của Chúa Giêsu. Sứ điệp mở tai mở mắt cho ông.
Tác giả Andrew Greely nói rằng có hai nguồn ảnh hưởng lớn trong đời sống tôn giáo của chúng ta. Một là thái độ sống đạo của người phối ngẫu. Hai là nghe giảng ngày Chúa Nhật. Những ảnh hưởng khác không mấy quan trọng. Như vậy ơn cứu độ đã tới nhà ông Giakêu và ông đã ăn năn trở lại. Chúng ta là nguồn ảnh hưởng lớn cho những ai cùng sống với chúng ta. Trong thánh lễ hôm nay, xin Chúa cho chúng ta trở nên nguồn ảnh hưởng tốt lành. Nhờ chứng kiến nếp sống của chúng ta, gia đình chúng ta, Giáo hội của chúng ta mà Chúa Giêsu đến mang ơn cứu độ cho mọi người trong ngôi thánh đường này.
Bài Tin Mừng cũng nói rất nhiều với chúng ta về bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo là tiếp rước những kẻ tội lỗi, ăn uống với họ. Điều mà Ngài dự tính thực hiện ở Jericho, Ngài cũng dự định làm hôm nay. Ngài thu thập các tội nhân xung quanh bàn ăn. Ngài đã kiếm tìm họ, tha thứ cho họ. Việc chúng ta rước Chúa vào lòng nhắc nhớ, chúng ta đang ở trước mặt Đấng đã biến đổi cuộc đời chúng ta cực kỳ sâu thẳm. Biến đổi cả cộng đoàn giáo xứ và nhân loại. Ngài đã tìm ra chúng ta, chúng ta cũng phải ra đi tìm kiếm người khác để đồng bàn với họ. Yếu tố chính yếu của Tin Mừng hôm nay là sự tha thứ. Chúng ta phải tìm kiếm người khác bằng sự tha thứ của mình, cảm thấy thân ái với họ. Thánh thể kêu gọi chúng ta tha thứ. Ước chi ơn cứu độ hôm nay đến trong nhà thờ này bởi lẽ mọi người đều đã được thứ tha. Amen.
-------------------------------------
TN 31-C140: Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất
“Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Kitô, vì Người sắp qua đó”. Dakêu là một người giàu có, vì ông là trưởng phòng thuế của thị trấn quan trọng như Giêricô. Các lời đồn đại về Chúa Giêsu đã cuốn hút Dakêu, ông đã tìm cách xem Chúa Giêsu là người thế nào? Nghe tin Đức Giêsu sắp đi ngang qua nhà, Dakêu tìm mọi cách để gặp Đức Giêsu, cho dù phải chen lấn, thậm chí phải leo lên cây để được xem thấy Đức Giêsu, Đấng ông hằng ước ao. Sự khao khát đó đã được Đức Giêsu cho thoả mãn khi Ngài nói:” Này ông Dakêu, xuống mau đi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời ông nên tốt, trở nên con người mới và ban cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu thánh thể, Ngài là Đấng mà ai gặp gỡ cũng tìm được hướng sống mới, tốt đẹp và hữu ích cho đời. Nơi Ngài đã toả lan một sức sống kỳ diệu. Sự lôi cuốn này không khước từ một ai, từ Maria Mađalena, một cô gái điếm, đến Phaolô, một người chuyên bách hại các Kitô hữu. Điều quan trọng hơn, Ngài đã biến đổi cuộc đời họ. Ngài biến đổi đời họ với một cái nhìn bao dung và đầy yêu thương. Chúa ơi, đã biết bao lần chúng con chối bỏ Ngài. Ngọn lửa mến Chúa yêu người trong tâm hồn chúng con đã tắt lịm hoặc chỉ leo lét. Những lo lắng vật chất hàng ngày đè nặng trên tâm trí, khiến chúng con chỉ biết lao vào vòng xoáy tiền tài danh vọng mà quên rằng xung quanh chúng con còn biết bao người cần giúp đỡ, cần sự sẻ chia. Xin đốt lên trong tâm hồn chúng con sự khao khát tìm gặp Chúa, biết sẻ chia với anh em. Chúa hãy biến đổi con người chúng con. Con người hẹp hòi, ích kỷ trở nên bao dung, biến đổi hận thù ghen ghét thành yêu thương.
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã từ bỏ ngôi vị cao sang trên Thiên quốc, vâng lời Thiên Chúa xuống thế làm người để tìm và cứu loài người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Kể từ lúc ông bà nguyên tổ phạm tội, cuộc sống con người mất hẳn ý nghĩa. Nhưng Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người, Ngài đã sai Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế để tìm kiếm những tâm hồn lầm lạc, đến những người bị xã hội khinh khi,.. Ngài đã đến nhà ông Dakêu và biến đổi con người của ông. Thiên Chúa không muốn để mất một ai. Ngài luôn mở rộng vòng tay yêu thương để chờ đón chúng ta. Chúa Giêsu đã từ bỏ địa vị cao sang, xuống thế làm người để cứu chữa những tâm hồn tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Vì yêu thương và không muốn con người bị hư mất, Ngài đã xuống thế làm người mang lấy tội lỗi của loài người và chết nhục nhã trên cây thập giá. Ngài đã đến để tìm những con chiên lạc. Ngài là cầu nối yêu thương để chung chuyển tình yêu của Chúa Cha xuống cho loài người. Phần chúng con, đã biết bao lần chúng con sống xa cách khinh miệt những người nghèo, những người thương tật, những kẻ bị ruồng bỏ. Thậm chí không ít lần đã góp phần chối bỏ nhân vị. Đó là những lúc chúng con làm ngơ trước những vấn nạn của xã hội, chạy theo những lối sống không phù hợp với đạo lý Tin Mừng.
Xin ban cho chúng con biết quý trọng những người anh em xung quanh. Biết tôn trọng dù họ là người tội lỗi trước con mắt thế gian. Xin giúp chúng con mở rộng vòng tay đón nhận những người anh em mình, những người đau yếu bệnh tật. Xin dạy chúng con tìm đến với tha nhân để cùng sẻ chia những gánh nặng của cuộc đời. Sau hết xin lấy khỏi lòng chúng con quả tim chai đá và ban tặng quả tim biết yêu thương. Amen.
-------------------------------------
TN 31-C141: ĐỨC GIÊSU LUÔN THẤY KẺ TÌM KIẾM NGƯỜI VÀ NGƯỜI ĐI BƯỚC TRƯỚC
Điều gì đã khiến chúng ta khựng lại? Gần đây ở Raleigh, nơi tôi sống, một đại lý xe hơi bắt đầu bán loại xe Maserati. Giá khởi điểm cho mỗi xe là 100.000 Mỹ kim – hoặc hơn nếu như quý vị muốn thêm những phụ kiện. Tờ báo địa phương có đăng tải bức ảnh của một trong những chiếc xe hơi đắt tiền, bóng bảy màu đỏ này. Giả như một chiếc Maserati chạy xuống đường phố của quý vị, liệu hình ảnh đó có khiến cho những khách bộ hành khựng lại dòng suy nghĩ của mình hay không. Có phải nó bắt mắt không? Gần đây, tôi đi cùng với chị tôi ngang qua một cửa hàng. Tôi thấy một cậu bé hai tuổi đang bám lấy áo khoác của mẹ. Thấy thế, chị tôi dừng lại, reo lên “Ôi, dễ thương quá đi thôi!”Rồi chị khen bà mẹ đó. Ngay cả lúc chúng ta đang vội vã thì một vài thứ cũng tóm lấy chúng ta và khiến chúng ta khựng lại.
Bài Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng đức Giêsu “cố ý” đi ngang qua Giêricô. Nhưng Ngài dừng lại. Không phải vì một cỗ sa mã nhanh nhất và hiện đại nhất chạy ngang qua. Cũng chẳng phải vì một cậu bé hai tuổi cực kỳ dễ thương đã gọi Ngài – dù có Ngài dừng lại vì điều đó. Nhưng là một vị trí ngớ ngẩn của một người trưởng thành, một người lớn giàu có, đang ở trên một cây sung – tất cả chỉ có thế! Những người khác cũng bận tâm đến hình ảnh của Giakêu ở trên cây. Có lẽ họ đã nhìn lên ông đầy khinh bỉ. Dân chúng trong vùng chắc là chẳng ưa gì ông – ông “đứng đầu những người thu thuế”.
Những người thu thuế là người Dothái nhưng lại đi thu thuế cho người Rôma. Họ biết rõ hoàn cảnh địa phương nên biết cánh đồng nào thu hoạch được nhiều, và dân chúng có bao nhiêu chiên, dê. Họ biết làm thế nào để tận thu từng đồng Seken (tiền của người Dothái) – tất cả để phục vụ cho quân đội, cho sự đàn áp của Rôma và để tiế tục đô hộ những người láng giềng Dothái của họ. Thế nên, người dân trong vùng đã chẳng thích Giakêu một tí nào, và người ta có thể không ngần ngại chỉ vào Giakêu ở Hội đường và nói toặc ra với nhau rằng “Hãy nhìn tên thu thuế này, và tất cả tiền bạc của hắn ta, và hắn đang hành xử như một tên ngốc”.
Nhưng khi đức Giêsu nhìn thấy Giakêu, Ngài đã dừng lại. Ngài có lẽ đã nhìn thấy người đàn ông giàu có ăn mặc đẹp. Ngài có thể nhìn thấy một kẻ phản bội dân tộc của Ngài. Dĩ nhiên, Ngài nhìn thấy những gì láng giềng của ông ta nhìn thấy – người đàn ông đó đang cử xử như một tên ngốc. Tại sao Giakêu lại làm hành vi ngờ nghệch như vậy nơi công cộng? Kinh thánh nói ông đang: “tìm cách để xem Đức Giêsu là ai.” Đó là điều khiến Đức Giêsu dừng lại. Giakêu là một người tìm kiếm; ông bước ra ngoài để tìm gặp Đức Giêsu.
Có lẽ Giakêu muốn thấy liệu Đức Giêsu có thứ mà ông đang tìm kiếm hay không. Đó có thể là gì? Có phải ông đã chán ngấy lối sống của ông? Có phải ông chán dù có nhiều tiền của và tất cả mọi thứ đều được cung cấp nhưng vì khi ông có mọi thứ ông muốn thì ông lại không thể có thứ ông cần – một cuộc sống chân thật. Ông cũng không được bà con láng giềng tôn trọng. Phải chăng gia đình ông cũng bị tẩy chay? – “Có vợ và các con của người thu thuế không tốt đó.” Ông ta biết mình làm giàu trên công sức của những người láng giềng. Ông ta cũng biết mình đã quay lưng lại với Đức Chúa, vì ông đã giúp đỡ ủng hộ người ngoại bang. Ông “đứng đầu những người thu thuế” như thánh Luca cho chúng ta biết. Ông có rất nhiều vàng bạc trong túi nhưng lại chẳng có một tẹo Thánh Thần. Vì thế, chúng ta thấy ông chạy ra ngoài để cố gắng gặp đức Giêsu.
Ý định của Giakêu có thể không hoàn hảo. Chúng ta cũng không nhất định phải hoàn hảo để được Thiên Chúa chú ý hay quan tâm. Có phải chính cuộc sống bất tiện của ông đã đưa ông ra bên ngoài ngày hôm ấy? Có lẽ đức Giêsu đã thấy sự bất mãn hay khốn khổ trên gương mặt Giakêu. Có phải có cả sự tò mò trong đó nữa? Và Đức Giêsu có lẽ cũng thấy sự căm thù và khinh bỉ trên nét mặt của những người hàng xóm của Giakêu. Trong khi ông ta không phải là mẫu người cần được tha thứ (vì Ngài chẳng gọi ông ta ra để nhận sự tha thứ), tuy nhiên Đức Giêsu đã dừng lại và tác động đến ông ta, Ngài tự mình vào nhà kẻ tội lỗi.
Điều gì khiến cho dân chúng thấy buồn vì Đức Giêsu vào trong nhà của Giakêu? Bởi vì trong thế giới Trung Đông của Đức Giêsu, bước vào nhà một người, “bẻ bánh” cùng với họ, là bước vào một không gian linh thánh và riêng tư. Ngay cả nhà của một kẻ nghèo cũng là nơi thánh. Kẻ thù không được phép vào. Bước vào trong nhà, như Đức Giêsu làm, là trở nên thành viên của gia đình đó. Nếu kẻ thù được mời vào trong nhà để bẻ bánh, dùng bữa, thì đó được xem như hành động hòa giải. Nghĩa là, quá khứ được bỏ qua, và tương quan mới được dựng nên.
Thánh Thể đến từ truyền thống Trung Đông, nơi đó khi kẻ thù ăn uống cùng nhau thì được hòa giải. Đó là điều mà chúng ta cần nghĩ đến trong mỗi thánh lễ chúng ta tham dự. Ai là người chia sẻ cùng một bữa tiệc với chúng ta? Nhìn xung quanh, đón nhận, và hành động trong sự hòa giải với những gì đang xảy ra.
Đức Giêsu nhìn thấy kẻ tìm kiếm và đã đi bước trước. Ngài chẳng quan tâm xem Giakêu đã tự chuẩn bị nhiều như thế nào. Ngài cũng chẳng cần ông phải công khai bày tỏ đức tin, hay “ăn năn cách trọn”. Đức Giêsu lấp đầy chỗ trống và chỗ thiếu và bước vào nhà ông Giakêu cũng như chính cuộc đời của ông. Đức Giêsu bảo Giakêu: “hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này”. Tất cả mọi người trong gia đình đều được hưởng ơn phúc khi mà chỉ mình người này mời Đức Giêsu vào cuộc đời ông. Chúng ta biết đến kinh nghiệm như thế khi mà một người có đức tin trong gia đình có ảnh hưởng đến tất cả những người khác xung quanh họ…khi mà một người tin thì phúc lành đổ xuống cho tất cả mọi người sống dưới cùng một mái nhà đó.
Giakêu không hoàn hảo, ông ta cũng bất tất, linh tinh và chưa đâu vào đâu. Thế mà Thần Khí của Đức Chúa đã đánh động ông để hôm ấy ông rời nhà mình và trở thành kẻ tìm kiếm. Ông ta nghĩ mình sẽ nhìn Đức Giêsu bằng cặp mắt thể lý của mình. Nhưng việc xảy ra cho ông còn nhiều hơn thế: khi Đức Giêsu nhìn thấy Giakêu, Ngài khựng lại và đón nhận ông như chính ông, rồi bước vào cuộc đời của ông và cuộc sống của gia đình ông.
Giống như Giakêu, tất cả chúng ta cũng được Thánh Thần thúc đẩy. Thực ra, sự thúc đẩy này bắt đầu ngay từ khi chúng ta được rửa tội, khi chúng ta được thanh tẩy để bước vào cuộc sống thần linh. Và chúng ta được tác động luôn mãi. Được tác động khi chúng ta gặp một người cần chúng ta giúp, hay cần chúng ta chia sẻ, lắng nghe. Được thúc đầy khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng mùa đông và vẫn cố gắng đến nhà thờ. Được thúc đẩy khi chúng ta đứng lên bảo vệ cho những người áp bức hay bị bỏ rơi. Được Thánh Thần thúc đẩy khi chúng ta tình nguyện đến nhà thờ để “giúp một chút xíu” và điều đó biến thành rất nhiều – và chúng ta thích làm thế! Được thúc đẩy khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua những thử thách và đau khổ. Được thúc đẩy để phá vỡ những thói quen mà dường như chúng ta cảm thấy không thể thay đổi, và chúng ta đã làm được.
Còn những cách khác mà chúng ta kinh nghiệm được sự thúc đẩy của Thánh Thần. Chúng ta nhận ra rằng tinh thần của chúng ta đang đói và chúng ta bắt đầu tìm kiếm thức ăn. Có lẽ chúng ta tham dự tĩnh tâm cuối tuần; đọc sách thiêng liêng do một người bạn đề nghị; nói đến linh hướng, đặt mua báo về đời sống thiêng liêng; tìm kiếm trên Internet những chủ đề về cầu nguyện, … Khi chúng ta đáp lại những thúc đẩy như thế, chúng ta giống như Giakêu, người đã trèo lên trên cây. Chúng ta trở thành kẻ tìm kiếm và nóng lòng muốn lấp đầy cơn đói khát bên trong chúng ta. Chúng ta nhận ra mình đang ở khúc ngoặt của cuộc đời mình và muốn nhìn thấy Đức Giêsu.
Nhưng lại giống như Giakêu, khi chúng ta còn đang tìm kiếm Đức Giêsu thì Ngài đã dừng lại vì chúng ta rồi. Ngài luôn nhìn thấy chúng ta, dù chúng ta còn lâu mới hoàn hảo và còn bất toàn, linh tinh, điên cuồng hay tội lỗi. Ngài biết chúng ta đang tìm kiếm và Ngài đáp lại chúng ta, với chính con người của chúng ta. Ngài muốn vào nhà chúng ta, như vào nhà ông Giakêu, theo cách đầy ngạc nhiên và mới mẻ. Và chúng ta cũng muốn những gì xảy ra cho Giakêu thì cũng xảy đến cho chúng ta: là cả gia đình chúng ta đều được chúc phúc: bỏ qua một bên quá khứ đau buồn, mọi thành viên trong nhà được hòa giải và trái tim bao dung hơn với nhau.
Có một khoảnh khắc trong câu chuyện của Giakêu khi quý vị chứng kiến việc trao đổi ánh mắt giữa ông Giakêu với Đức Giêsu. Cái nhìn trao đổi đó cũng xảy mỗi khoảnh khắc trong mọi ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì khi cảm nghiệm ánh mắt của Ngài nhìn chúng ta. Chúng ta có đang tìm kiếm Ngài không? Tại sao chúng ta lại không nói với Đức Giêsu như cách chúng ta mời khách vào nhà chúng ta… “Xin mời vào. Hãy cứ tự nhiên như ở nhà. Rất vui được gặp anh / chị”.
Nền giáo dục Việt Nam đang gặp khủng hoảng lớn. Giữa một xã hội đầy bạo động, lừa dối, tham nhũng, thối nát, nhà giáo làm được gì để cải tiến con người cho tương lai dân tộc? Làm sao thoát được ma lực của đồng tiền để có thể hướng dẫn bạn trẻ hôm nay?
Muốn tìm được lối thoát cho nền giáo dục hôm nay, thiết tưởng nên tìm đến Tin Mừng để thấy được nơi Đức Giêsu con đường giáo dục đầy sáng suốt, khoan dung và thực tế. Lịch sử cứu độ cũng chỉ là đường lối giáo dục đầy khôn ngoan, kiên nhẫn của Chúa dành cho dân Người mà thôi.
ĐỨNG TRƯỚC ĐÁM ĐÔNG
Trên đường về thành Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn tập trung cao độ vào mục đích sứ mạng cứu thế giới. Người biết mình sắp phải hy sinh mạng sống. Trước giờ phút khắc nghiệt ấy, dĩ nhiên Chúa chẳng quan tâm tới của cải vật chất. Nhưng khi những biến cố tử nạn và cái chết sắp đến, Người cấp bách kêu gọi những ai muốn theo Người phải từ bỏ của cải. Đối với Chúa, của cải là một trở ngại, vì nó cột chặt con người vào những trách nhiệm và làm cho họ quá bận tâm.
Chúa Giêsu muốn chúng ta tập trung vào những điều cốt yếu, những điều quan trọng thực sự. Người nói chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Người truyền chúng ta phải thi hành công lý, yêu người nghèo khổ, hy sinh để chiếm lấy vinh quang cuối cùng. Quá nặng nề với của cải vật chất, không thể chu toàn bổn phận đó.
Quần chúng chỉ biết có tiền. Chẳng hạn trước chương Lc 19 ít câu, thái độ người thanh niên giàu có cho thấy anh không thể vượt trên lối sống và nếp nghĩ quần chúng. Xung quang vấn đề ông Giakêu hôm nay cũng chỉ là tiền. Quần chúng uất hận, vì nếu không có bọn người tay sai như Giakêu, họ không bao giờ bị bóc lột tận xương tủy như vậy! Bởi đó, dứt khoát họ không thể đội trời chung với Giakêu. Dĩ nhiên Chúa chia sẻ quan điểm này với quần chúng. Chúa thông cảm, nhưng không thể đánh giá con người phiến diện như họ. Đồng tiền có thể làm cho con người hư hỏng. Nhưng thần tài làm sao mạnh hơn Thiên Chúa?
Một đàng Chúa kêu gọi môn đệ phải dứt khoát từ bỏ của cải. Đàng khác, Chúa cho ta thấy của cải cũng không thể phá hủy con người hoàn toàn. Nơi sâu thẳm vẫn còn tiếng lương tâm, tiếng nói của Thiên Chúa. Trừ phi cố chấp buông theo đam mê vật chất, con người luôn là đối tượng cứu độ. Đó là chỗ khác biệt giữa Chúa và quần chúng. Quần chúng không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại ghé nhà Giakêu, một người “đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.” (Lc 19:2) Phải chăng Chúa muốn chơi với người giàu có và quyền lực? Phải chăng Chúa cấu kết với bọn đế quốc? Thực ra, Chúa đến với ông để cho mọi người thấy Tin Mừng cứu độ không có một biên giới nào. Chúa không trục lợi hay tìm một chỗ ẩn núp nơi ông. Bằng chứng, ông chẳng hứa cho cá nhân Chúa điều gì.
Ông quá giàu tiền của, nhưng thật nghèo nàn về tình cảm. Không ai chơi với ông. Mọi người đều lánh xa. Mặc dù đầy quyền lực và giàu có, nhưng ông bị nỗi cô đơn gậm nhấm theo thời gian. Đó là cái giá ông phải trả cho những việc ông đã làm tổn thương nhiều nguyên tắc đạo đức và lòng ái quốc, cũng như đã cộng tác với quân Roma để được vinh thân phì da. Nhưng của cải không đủ lấp đầy con tim. Ông mơ ước ai đó sẽ đem lại cho mình môt ý nghĩa cuộc sống. Bởi đó, sau bao ngày thầm phục trước con người đã tạo thời cuộc là Đức Giêsu, giờ đây ông làm mọi cách để có thể đối diện với Người. Ông tin gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, vì Người sẽ ban cho mình sư sống và lẽ sống. Hơn nữa, hiện hữu trên đời để làm gì, nếu không phải là để sống đời đời? Ông tin Chúa sẽ chỉ cho ông con đường ngắn nhất đi đến cuộc sống đích thực.
Trong nỗi cô đơn chất ngất, ông cảm thấy thèm khát được gặp một người lừng danh như Chúa. Hêrôđê cũng đã từng muốn gặp Chúa như vậy. Nhưng khác Hêrôđê, ông liều mình ra tận ngoài đường, chen chúc với đám đông và leo lên tận cây cao để dễ phóng tầm nhìn đến Chúa. Ra ngoài gặp đám đông quả là một cực hình, vì mọi người đều biết ông đã từng lừa đảo và ức hiếp. Đám đông ồn ào chen lấn và ngăn cản ông. Kích thước khiêm tốn đã là một cản trở. Bây giờ cơn giận quần chúng càng làm ông mất thế trước Chúa nữa. Quần chúng muốn Chúa phải dừng lại để nói với họ đôi điều.
Giữa lúc mọi người đều tẩy chay như thế, ông lại được Chúa đoái thương. Thật là một điều kinh ngạc đối với ông. Ông quá vui mừng, vì nhận thấy Chúa khác hẳn và vượt xa quần chúng, mặc dù ông chưa thấy Chúa làm phép lạ nào. Khi được Chúa gọi đích danh, ông giật mình và nhận ra tất cả sự thật và hạnh phúc lớn lao đang đến với mình.
Có bị mọi người xa lánh và khinh bỉ, mới cảm thấy sâu xa cử chỉ yêu thương và lời ngỏ đầy thân ái của Chúa hôm nay có nghĩa gì. Giakêu đã chìm sâu trong biển lặng cô đơn và tủi nhục giữa đồng bào mình. Họ chỉ muốn không những xa lánh mà còn đòi công lý trừng phạt con người tội lỗi ấy. Nhưng thay vì giáng phạt, Chúa đã cứu vớt ông lên. Đòi hỏi của quần chúng hoàn toàn không hoàn toàn nghịch công lý. Nhưng công lý không có tình yêu sẽ đem lại hậu quả khốc hại. Phải bắt nguồn và đặt nền tảng sâu xa trong tình yêu, công lý mới đem lại hạnh phúc đích thực cho mọi người.
Phép lạ lớn nhất hôm nay là tình yêu đã mở mắt và biến cải con người Giakêu hoàn toàn. Quá xúc động trước tình thương trời bể, Giakêu đã rũ bỏ hoàn toàn tất cả. Từ một người bóc lột dân nghèo, ông trở thành vị đại ân nhân của họ (x. Lc 19:8). Chỉ tình yêu mới có sức mạnh biến đổi lớn lao như vậy! Nhưng đó chưa phải là kết quả lớn nhất của tình yêu. Kết quả lớn nhất chính là “hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này.” (Lc 19:9) Chúa đã vận dụng mọi cách để cứu con người, dù họ có bị mọi người bỏ rơi và khinh bỉ. Dưới mắt Chúa, không một ai cô đơn.
Mọi người chỉ đánh giá theo hình dáng bên ngoài, nên không thể thấy những biến chuyển bên trong tâm hồn Giakêu. Đây mới là điều đáng kể đối với Chúa. Thực vậy, Giakêu đã trải qua một cuộc sám hối. Điều Chúa Giêsu yêu cầu đã có một tầm ảnh hưởng quá sức lớn đối với ông. Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, muốn hiện diện để chúc lành cho ông. Đáp lại, ông muốn từ bỏ những lợi lộc bất chính và cho đi tất cả. Làm sao quần chúng có thể nghe được những điều ông hứa với Chúa? Những đầu óc hẹp hòi và tầm thường làm sao thấy cuộc biến đổi sâu xa trong cuộc đời ông mà cảm tạ Thiên Chúa? Có chăng chỉ còn những ghen tương và oán hận. Tâm hồn họ không thể rộng mở để đón làn gió canh tân và không hiểu nổi tình trạng tội lỗi của chính mình. Có nhìn vào chính mình, mới thấy mình cũng cần Thiên Chúa xót thương không kém. Nếu giàu có như ông, chắc họ cũng xử sự như ông mà thôi. Họ không thấy một phép lạ nào. Nhưng đối với Giakêu, còn có một cái gì giá trị và mãnh liệt hơn phép lạ, đó là tình yêu.
TÌNH YÊU LÀ TẤT CẢ
Ngay cả phép lạ cũng phải phát xuất từ tình yêu và được nhận ra trong tình yêu. Không tin vào tình yêu Thiên Chúa, dù có chứng kiến cả ngàn phép lạ, con người cũng không nhìn thấy gì. Tình yêu là tất cả. Khi gặp Giakêu, Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người thấy “tình yêu bao hàm và vượt trên công lý. Công lý được hoàn bị trong tình yêu.” (1) Chúng ta có thể thấy rõ điều đó nơi hình ảnh Chúa đang vượt đám đông để đến với Giakêu và gọi đích danh ông. Đó là tiếng gọi tình yêu, khác hẳn với tiếng quần chúng gào thét đòi hỏi công lý.
Càng thét gào đòi hỏi công lý, quần chúng càng làm Giakêu xa rời Thiên Chúa, cộng đoàn và bản thân. Thực vậy, “tình yêu và chỉ tình yêu (gồm cả lòng thương xót) mới có khả năng làm cho con người trở về với chính mình. (2) Quần chúng quá tin vào một thứ công lý nghiêm khắc. Bởi thế, họ mới có lý mà xầm xì với nhau khi Chúa xin trọ tại nhà một người tội lỗi (x. Lc 19:7) Họ không biết rằng “tương quan nhân loại không thể chỉ bị tiêu chuẩn công lý chi phối. Có thể nói, trong mọi lãnh vực tương quan liên vị, công lý phải được tình yêu ‘điều chỉnh’ tới một mức độ đáng kể. Như thánh Phaolô nói, tình yêu đầy ‘kiên nhẫn và khoan dung,’ hay nói khác, những đặc tính của lòng thương xót là yếu tính của Tin Mừng và Kitô giáo.” (3)
Với những đặc tính đó, Chúa đã kéo ông Giakêu từ tình trạng tội lỗi vì bất công sang tình trạng đầy ân sủng và biết chia sẻ với những nạn nhân. Nói khác, lòng thương xót đã giúp ông sửa lại những lỗi lầm quá khứ. Đó là kết quả rất tốt đẹp do công cuộc hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân khi Chúa đến thăm viếng. Hơn nữa, ông còn đươc giải thoát khỏi vòng nô lệ ma lực thần tài để bay bổng trong bầu trời tư do và hưởng ơn cứu độ. Ông tìm lại được sự bình an đã mất từ lâu do những tham vọng ngông cuồng về quyền lực và của cải, vì ông đã gặp gỡ tình yêu Thiên Chúa ngay trong tâm hồn và gia đình mình. Ông đã bước vào cảnh “trời mới đất mới.” (Kh 21:1)
Không gì đứng ngoài hồng ân cứu độ này. Đó là dấu chứng tỏ Chúa đã hoàn thành sứ mạng cách vẻ vang, vì Chúa đã hòa giải con người và thế giơi với Thiên Chúa. (4) Dưới ánh sáng chân lý là chính Đức Kitô, ông đã tự tạo được một phán đoán, làm chủ các hành vi với một ý thức trách nhiệm và cố gắng đạt tới chân lý và công lý khi tình nguyện hợp tác với mọi người. Ông đã tự nguyện đền bù cho các nạn nhân và quảng đại hứa giúp đỡ người nghèo.
Có đi sâu vào lòng người bằng chính tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu mới có thể vượt trên mọi người và đưa con người Giakêu về nẻo chính đường ngay. Trái lại, nếu nhất quyết đòi công lý cách quyết liệt, quần chúng sẽ mất luôn Giakêu. Trước mắt là không có những món tiền và của cải lớn lao ông Giakêu tình nguyện cúng cho người nghèo. Nhất là, Nước Thiên Chúa sẽ mất đi một người “con tổ phụ Abraham” (Lc 19:9)! ————————- (1) Gioan Phaolô II, Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, 10:AAS, 96 (2004), 120, trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206. (2) Gioan Phaolô II, Tông Thư “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót,” 14, AAS 72 (1980), 1223. trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206. (3) ibid. 1224, trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206. (4) x. ibid, 455.
-------------------------------------
TN 31-C143: CHÚNG TA ĐÃ THỰC HIỆN NHỮNG GÌ ĐỂ NHẬN LÃNH LỜI CHÚA?
Bài Phúc Âm Luca đoạn 19, câu 1 đến câu 10 dùng dụ ngôn ông Gia Kêu vì thân người bé nhỏ đành leo lên cây sung để có thể chiêm ngưỡng Chúa Giê su và được Ngài ghé qua dự tiệc nơi nhà ông. Bài Phúc Âm kết luận với câu nói, “Người nầy cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất” (Lc. 19: 10).
Thử xét vị thế của ông Gia Kêu nơi xã hội Do Thái thời hai ngàn năm trước. Ông là người mang nhiệm vụ thâu thuế cho chính quyền La Mã nên bị coi là kẻ hợp tác với ngoại bang đàn áp dân chúng nên bị coi là kẻ tội lỗi theo quan niệm thời bấy giờ. Tất nhiên, so với dân Do Thái, dẫu bị coi là kẻ tội lỗi nhưng có quyền hành, và dĩ nhiên thời nào chẳng thế, quyền lực, tiền tài luôn luôn sánh đôi nơi bất cứ triều đại nào nhất là trong một xã hội bị trị.
Tuy nhiên, bởi nghe nói về Chúa Giê su, ông muốn nhận biết con người của Ngài ra sao nhưng vì thân xác thấp bé nên đành chấp nhận trèo lên cây để được nhìn thấy cho rõ ràng. Có thể nói, chính vì lòng thực sự hay chân thành hiếu kỳ nên đã được Chúa Giê su ghé qua nhà. Giả sử ông Gia Kêu dù háo hức muốn nhận biết Chúa Giê su nhưng vì cảm thấy với thân xác bé nhỏ không thể chen lấn hoặc nhìn thấy Ngài khi đứng cách xa nơi Ngài đi qua thì đâu có cơ hội được diện kiến Ngài.
Mỗi người chúng ta được sinh ra với lòng khát khao nhận biết Thiên Chúa. Nói cách khác, ai cũng mang nỗi khắc khoải muốn nhận biết về thực thể chính mình, tự đâu mình được sinh ra dưới thân phận kiếp người; mục đích cuộc đời của mình là gì; và sau khi thân xác qua đi, cuộc đời mình sẽ ra sao. Thử dành đôi phút chân thành đối diện với lòng, mình đã thực hiện, đã làm gì để thoả mãn lòng khát vọng bẩm sinh đã bao năm thao thức.
Chúng ta tin, tuyên xưng Lời Chúa là lời hằng sống. Chúng ta tin, không những thế, chân thành chấp nhận Chúa Giê su là đường, là sự thật, và là sự sống. Thử hỏi, chúng ta đã có thái độ nào đối với đường lối Chúa Giê su đã chỉ dẫn. Chúng ta đã làm gì với sự thật Chúa Giê su đem đến cho chúng ta. Sự sống Chúa Giê su rao giảng là gì, có ảnh hưởng hoặc liên hệ gì đến cuộc sống nhân sinh trong những ngày hiện diện nơi trần thế này.
Điều hiển nhiên ai cũng kinh nghiệm, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho bất cứ ai thì tất nhiên cũng không ai có thể suy nghĩ, nghiệm chứng, thực chứng dùm cho bất cứ ai. Hơn nữa, có những điều, sự vật, môi trường tốt, may mắn cho người này nhiều khi trở thành tai hại hay bất hạnh cho người khác. Như vậy, không ai có thể nghiệm chứng, suy tư Lời Chúa, Phúc Âm dùm cho bất cứ ai.
Thế nên, chúng ta cần tự hỏi đã được bao nhiêu phút trong một ngày mình thực sự suy tư, đặt vấn đề để tìm hiểu lời giảng dạy của Chúa Giê su, hay chỉ có thói quen chờ người khác suy nghĩ và giải thích. Sự thật hiển nhiên, trong khi đói, dẫu nghe ai đó giải thích về giá trị của thực phẩm nào đó dẫu tuyệt vời đến mấy, đói vẫn hoàn đói. Chúng ta phải ăn. Sự giải thích về Lời Chúa thuộc về kiến thức chẳng khác chi giải thích món ăn. Suy nghiệm, nghiệm chứng và áp dụng nơi cuộc đời mình mới bổ ích cho hành trình đức tin, hành trình tâm linh.
Phúc Âm có câu, “Trong có tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (Gn. 6:45). Nghe và học nơi Cha có nghĩa suy nghiệm, suy tư, nghiệm chứng về thực thể hiện hữu của mình. Mình là gì; mình là ai; những sự việc đã xảy đến nơi cuộc đời tự đâu phát sinh và có ảnh hưởng cũng như mình đã học được bài học nào.
Ông Gia Kêu vì thân hình bé nhỏ thực hiện việc leo lên cây để được nhìn thấy Chúa Giê su. Chúng ta đã dành được mấy phút trong một ngày để suy nghiệm về lời giảng dạy của Chúa Giê su qua Phúc Âm hay chỉ đợi người khác giải thích, nghiệm dùm, ăn dùm.
“Lạy Chúa trước thánh nhan Ngài, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai trên đất. Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kng 11,22-23)
Đó là thông điệp tác giả sách Khôn Ngoan gửi đến cho con cái Israel ở Ai Cập khi họ sinh lòng thù ghét những tay sai của đế quốc thống trị, đến nỗi họ muốn Thiên Chúa trừng phạt, tru diệt bọn chúng ngay tức khắc.
Vâng, Thiên Chúa không xử trí với con người tội lỗi theo cách của con người, đúng như thông điệp sách Khôn ngoan đã dạy. Không chỉ trong thời Dân Thiên Chúa lưu đày, mà ngay hôm nay, người gian ác, kẻ tội lỗi, người hô to đã đảo Thiên Chúa, cấm cách bức bách đạo Chúa…. vẫn sống nghênh ngang, vẫn thói vênh vang, vẫn tự do trên đường “thênh thang ta bước” ngông cuồng đi về phía phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận cả công trình tình thương của Ngài. Có người nói: “Sống chung với lũ”, còn dễ sống hơn “sống chung với lũ”. Lòng thù của con người thời nào cũng thế, có thể nói đến mức quá độ, khi nỗi áp bức của “lũ tay sai cho giai cấp thống trị”, “cho satan”, hoành hành ngang ngược. Nhưng, đối với “Thiên Chúa đầy lòng yêu thương, thì Ngài vẫn yêu thương mọi loài hiện hữu. Vì giả như Chúa ghét loài nào, thì Ngài đã chẳng dựng nên” (Kng 11,24). “Chúa sửa dạy từ từ. Ngài cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kng 12, 2).
Khác với con người, Thiên Chúa không có lòng thù. Thiên Chúa chỉ có lòng thương. Đức Giêsu Kitô đã đến và mặc khải tình thương bao la ấy. Trang Tin Mừng hôm nay chứng minh cho điểm nầy. Dưới con mắt thế gian, thì Giakêu, tên trưởng ty thuế vụ, cũng chẳng khác gì mấy tên tay sai cho ngoại bang, cho giai cấp thống trị thời Ai cập. Giàu có mua được chức trưởng ty, rồi thu quén của dân bù khoản chi ấy. Cuối cùng, nhân dân là người gánh chịu. Bị một tên vừa lùn vừa bé, vừa đè đầu cưỡi cổ, vừa móc túi lấy tiền, làm sao mà người dân không hậm hực tức tối. Cách sống đó không chỉ là tội lỗi mà còn là tội ác. Thế mà, “Chúa nhắm mắt làm ngơ”, “Chúa đã sửa dạy từ từ” cách nào đó. Chúa đã “cảnh cáo” cách nào đó” để cho ông ta biết ông ta “đã phạm tội gì” để rồi hôm nay “ông đã bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (xem Kng 11,24).
Quả vậy, khi nghe tin Đức Giêsu đi ngang qua Giêricô, ông tìm cách để xem cho biết Ngài là ai. Sự khao khát tìm gặp Đức Giêsu, đã phát sinh trong ông cái sáng kiến “leo lên cây sung” cho dễ nhìn. Ông đã bất ngờ, vì khi chưa kịp lên tiếng gì, thì Chúa Giêsu đã ngước nhìn lên và bảo “Giakêu, ông xuống đi, vì hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông”. Chúa Giêsu cũng đã có một sáng kiến bất ngờ: “hôm nay tôi sẽ ở lại nhà ông”, một sáng kiến ngoài kế hoạch trên đường về Giêrusalem- một sáng kiến đảo lộn cái ý nghĩ thấp bé của loài người: “Nhà người này tội lỗi, mà ông ấy cũng ghé thăm” (Lc, 19,7). Hai sáng kiến của lòng khao khát nơi “con người bị cho là tội ác tày trời”, và của tình thương “Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi”đã gặp nhau, và trổ sinh một cuộc đổi đời kỳ diệu. Sự biến đổi thâm sâu trong cõi lòng “tên Gia kêu gian ác”, đã khiến ông thốt lên lời quyết tâm: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Cuộc sống mới mở ra, trước tiên là lấp lại cho đầy cái hố sâu bất công, tham nhũng, cùng với việc biết bỏ đi cái lòng ích kỷ nhỏ nhoi để nghĩ đến những người nghèo do chính tội tham nhũng của mình gây nên.
Thiết nghĩ, trước đó, ông Giakêu đại diện cho những con người chưa nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, ánh sáng của Tin mừng. Ông đã sống và làm việc theo cách suy nghĩ rất con người tự nhiên trong cuộc chạy đua của danh vọng và sinh tồn. Sự gian ác của ông như là một quy luật tất yếu trong cuộc vật lộn với cuộc sống “mạnh được yếu thua”. Suy nghĩ ông chỉ có thế, thấp bé và ngắn ngủn như vóc dáng ông lùn tịt. Nhưng khi gặp được Đức Kitô, ông bỗng thay đổi thành một con người mới, con người của Tin Mừng, con người được ơn cứu độ. Chúa Giêsu nói: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy, bởi người nầy cũng là con cháu của tổ phụ A-bra-ham” (Lc 19 9). Câu nói nầy minh chứng cho Lời Thiên Chúa trong sách Khôn ngoan: “ Chúa không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra” (Kng 11,24), và Ngài đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu “đến để tìm và cứu những gì đã hư mất” (Lc 19,10).. Chúa Giêsu đã tái lập cho ông một tương quan với Thiên Chúa và ông đã thể hiện sự công bằng theo lề luật Chúa- điều kiện ắt có và đủ để ông bắt đầu một cuộc làm chứng về Thiên Chúa và vào được Nước của Ngài
Vẫn còn trong tôi, trong bạn, trong thế giới loài người chúng ta, những suy nghĩ ngắn ngủn thấp bé và cách sống của con người cũ, con người gian ác tự nhiên trong cuộc sinh tồn như Gia kêu. Và luôn còn một Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ con người tiếp nhận ánh sáng của cuộc sống mới nơi Đức Giêsu Kitô, nơi Tin mừng. Tiếc là đã có người nhìn thấy ánh sáng, nghe biết Tin Mừng, nhưng không tiếp nhận vì không muốn chia tay với chủ thuyết không Thiên Chúa, chưa khao khát một lối tìm về, lại muốn giữ cách sống cũ của con người cũ để được những lợi lộc của trần gian. Thiên Chúa yêu thương đã kiên trì cảnh cáo, giáo dục bằng nhiều cách. Đã có người bỗng dưng thuộc lòng tiểu sử các Thánh Tử đạo Việt Nam dịp phong thánh 19-6-1988, có cơ hội tiếp cận với Thiên Chúa, với những chứng nhân Đức Kitô, nhưng rồi sức cuốn hút của đồng tiền, quyền lực và sự thoải mái thế gian mà Satan ban tặng vẫn làm mờ mắt họ, và họ chưa tiếp nhận ánh sáng. Đã không ít cơ hội dành cho họ, đã không ít nỗ lực của những chứng nhân Chúa Kitô trong một bối cảnh chấp nhận cách kiên trì, nhưng vẫn chưa thấy nhiều tín hiệu của “Gia kêu mới”. Vì thế, cơn giận loài người của con cái Chúa đôi lúc không kiềm hãm nỗi, có khi còn buồn trách Chúa sao cứ để cho sự dữ hoành hành, cho người gian ác vẫn vênh váo trong khi vẫn phạm hết tội ác nầy đến tội ác khác trầm trọng hơn…
Bài học của Tin mừng hôm nay không cho phép tôi tiếp tục dòng suy tư theo kiểu loài người cũ rích như thế. Ý hướng của Thiên Chúa về cuộc đấu tranh cho Nước Trời là cuộc sống Chứng Nhân Chúa Kitô cách cụ thể qua đời sống công chính, đời sống mới của Tin Mừng. Không nhất thiết phải phóng loa la lên ầm ỉ để những người gian ác nghe được, nhưng là thể hiện khuôn mặt và tính cách của Đức Kitô mà họ phải nhìn thấy, nếu họ chưa muốn “leo lên cây sung của Gia kêu với thành ý kiếm tìm”.
Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi tội nhân, trong đó trước tiên là tôi, là bạn, hãy khoan nghĩ đến ai khác. Và khi chính chúng ta, đổi đời thành những “Gia kêu mới”, thì cách sống của chúng ta sẽ thu ngắn thời gian chờ đợi, tìm kiếm của Thiên Chúa trong công cuộc cứu chữa những gì đã hư mất. Nhạc Sĩ Phạm Duy cũng đã ngộ ra: “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là vô lương….”. Hãy giết kẻ thù ta trong chính con người ta trước đã, và mặc lấy sự công chính của Chúa Kitô, làm cánh tay, làm chứng nhân nối dài cho ơn cứu rỗi của Thiên Chúa. Tác động qua lại của việc làm chứng cho Thiên Chúa tương tự xảy ra giữa Chúa Giêsu và Giakêu sẽ xảy ra với chúng ta, như Thánh Phaolô quả quyết: “ Danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (2Th. 1,12).
Lạy Chúa, Chúa luôn kiên nhẫn đợi chờ người tội lỗi trở về, và ban ơn canh tân trong lòng họ. Xin cho chúng con biết mình tội lỗi, biết tìm về với Chúa, và được Chúa biến đổi thành con người mới, chứng nhân cho công trình cứu rỗi của Thiên Chúa, qua Chúa Kitô. Amen.
Mỗi khi người bán địa ốc muốn quảng cáo để bán nhà, họ thường chú trọng 3 điều này: địa điểm, vị trí và hướng tốt. Ông Dakêu là một người giàu có nhà cửa. Thánh Luca nói rằng ông ta là người chỉ huy những người thu thuế ở thành phố Jericho.Thành phố đó tọa lạc tại địa điểm của một nơi buôn bán sầm uất nên rất giầu có. Do vậy ở đó có thể thu rất nhiều thuế cho đế quốc La Mã, và là nơi có nhiều người thu thuế sinh sống. Thành phố đó cũng là nơi người giầu có thường đến nghỉ mát. Vua Hérod cũng có một dinh thự xây dựng ở đó. Dinh thự có nhiều vườn hoa và một rạp hát. Ở đất Palestine là nơi nhiều sa mạc, không có cây cối. Nhưng Jericho là một thành phố có nhiều cây cối và hoa quả. Nhiều người giàu có sinh sống ở đó, và ông Dakêu là một trong số những người giầu ở đó. Dân Do Thái không ưa những người thu thuế cho người La Mã. “địa điểm, vị trí và hướng tốt” Jericho là địa điểm giúp Dakêu làm ra nhiều tiền.
Hôm nay chúng ta gần đến cuối năm phụng vụ, và phúc âm thánh Luca đã được đọc trong những chúa nhật năm C. Những bài phúc âm chúng ta đã nghe Chúa đã chỉ trích người giàu, và Chúa đã cho họ biết họ sẽ gặp khó khăn để vào nước trời.. Ngay trong đoạn trước bài phúc âm Chúa khuyên người giầu: “Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”(18:24-25).
Ông Dakêu chọn một địa điểm tốt để được thấy Chúa và để được Ngài thấy ông, ông ta tìm một vị trí tốt là trèo lên cây sung. Chúng ta đã nghe chuyện này nhiều lần rồi. Nhưng hôm nay chúng ta không nên bỏ qua những điểm đặc biệt trong chuyện vì Chúa trong trường hợp này không theo lẽ thường mà phúc âm được trình bày. Sau khi được nghe Chúa chê bai chỉ trích những người giầu có, chúng ta nghỉ nếu Chúa thấy ông Dakêu chắc Chúa không ngần ngại chỉ trích ông ta và dùng ông ta làm thí dụ điển hình người tội lỗi cần phải ăn năn. Đáng lý ông Dakêu phải được báo trước là Chúa chẳng ưa thích gì ông ta đâu.
Chúa có lẽ cũng sẽ giảng dạy về những bất công của người giàu bóc lột người nghèo. Đây là điều có lẽ chúng ta nghỉ như vậy. Và có lẽ đám đông quần chúng theo Chúa cũng nghỉ như vậy, vì phần đông họ là những nạn nhân của ông Dakêu. Nhưng Chúa lại không làm như chúng ta nghĩ. Chúa đã không theo lẽ thường, và Ngài đã cho thấy Ngài nghỉ như thế nào. Chúa chào đón ông ta và ban ơn Ngài cho ông ta như Chúa đang ban ơn Ngài cho chúng ta hôm nay.
Ngày hôm đó trên đường Chúa đi chắc có nhiều người nhận được ơn Chúa ban. Có lẽ chúng ta cũng thuộc về những người ấy. Đó là những người tốt, làm ăn trung thực và thiếu thốn, họ muốn tìm một chổ để trông thấy một thầy rao giảng nỗi tiếng mà biết bao nhiêu người hy vọng được nhận diện. Tại sao Chúa lại không chọn một trong những người ấy để đến nhà một người đạo đức được kính nễ trong dân chúng? Sao lại đến nhà ông Dakêu? Nếu hôm đó chúng ta có ở đó và khi nghe Chúa nói với Dakêu, chắc chúng ta cũng không khỏi phiền trách. Ông Dakêu đã làm gì? có chăng chỉ là việc tìm một địa điểm tốt để trông thấy Chúa, để được Chúa nhận ra ông và tự nghỉ Chúa sẽ đến nhà ông? Chúng ta nên nhớ đây là một chuyện về ơn Chúa, và chúng ta không đáng được ơn Chúa. Chúa ban ơn Ngài cho chúng ta sau khi chúng ta trông mong được bám vào ơn Chúa và vui mừng đón nhận ơn Chúa như ông Dakêu đã làm.
Một trong những đề tài chính của phúc âm thánh Luca là sự hoan hỉ vui mừng. Chúng ta đang sửa soạn kết thúc năm phụng vụ sau khi đã đọc hết phúc âm thánh Luca, và sự hoan hỉ đã được ban cho chúng ta ngay từ đầu phúc âm thánh Luca. Ơn Chúa đến là khi Chúa ban cho ai điều gì và người đó cảm nhận đón chào ơn sũng trong đời họ bằng một thái độ vui mừng. Chúng ta còn nhớ sự vui mừng của các mục đồng khi nghe thiên thần báo tin Chúa sinh ra (2:10), hay khi Chúa nói với những người đang lắng nghe Chúa “các con hãy nghe và đón nhận những lời ta dạy”(8:13). Sau nầy khi Chúa sống lại, Ngài hiện ra với 11 tông đồ, thánh Luca viết:”… vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng”(24:41). Sự vui mừng hoan hỷ xảy đến mỗi khi chúng ta nghe lời Chúa. Đó chính là sự vui mừng của ông Dakêu ngay khi nghe Chúa muốn đến nhà ông ta để dùng bữa. Đó là sự vui mừng của những người được ân sũng mà cảm thấy bất xứng.
Chúa đang mời chúng ta đến đón nhận tình thương yêu của Chúa. Có lẽ ông Dakêu dã phạm nhiều lỗi và không đáng được những người đi theo Chúa ngày hôm đó chú ý đến để cho ông ta được trông thấy Chúa. Dụ ngôn trước nói về Chúa chữa người mù. Người đó đã thưa với Chúa:”Lay Ngài xin cho tôi được thấy.”(18:35-43). Chúa chữa ông ta ngay ở ngoại thành Jericho. Bây giờ Ngài đã vào trong thành phố. Ông Dakêu được thấy một cảnh khác là thấy Chúa có vẽ như muốn tìm thấy ông ta, vì ông không biết Chúa đang đi ở đâu. Chúa cho biết Ngài ban ơn cho một người bất xứng:”Vì Con Người đến để tìm và cứu những kẻ đã hư mất.”(19:10)
Đoàn người theo Chúa ngạc nhiên không phải vì cử chỉ của ông Dakêu, vì ông đã leo lên cây, Thật ra họ bàng hoàng vì Chúa. Họ nghĩ đáng lẽ Chúa phải biết rõ ông đó là ai chứ. Sao một người giảng đạo tốt lành như vậy lại đến ở nhà một người tội lỗi? Câu chuyện này dường như nhắc lại chuyện người Phariseu cầu nguyện trong đền thờ trong bài phúc âm chúa nhật tuần trước. Người này không nghỉ mình là người tội lỗi, và bởi thế nghỉ rằng mình không cần gặp đấng đang đi tìm kiếm những người đã bỊi hư mất.
Nhưng ông Dakêu hiểu điều đó và đón nhận ơn Chúa. ông ta sẽ dọn bữa ăn ở nhà ông để đón Chúa. Và ơn đó đã làm cho ông thay đổi. Chúa không đòi hỏi ông phải làm điều gì. Nhưng ông ta tự dêng một nữa của cải của mình cho người nghèo và đền lại cho những ai mà ông đã cưỡng doạt, “ trả đến gấp bốn lần …” Ơn Chúa đã thay đổi đời sống ông ta. Bây giờ ông đã thấy nhưng đoàn người theo Chúa vẫn không thấy, họ vẫn còn mù, họ không thấy ơn Thiên Chúa ban cho họ qua Chúa Giêsu. Đời sống của ông Da-keu là một đời sóng an nhàn, nhiều tiện nghi. Nhưng ông ta cũng là một người bị giam cầm, ông ta cần được giải phóng, và lời Chúa đã giải phóng ông ta. Từ nay ông ta không còn sống như trước và bắt đầu một đời sống mới. Bây giờ ông ta có Chúa đến nhà và không những đến với ông ta, mà còn đến với tất cả gia đình ông. Chúng ta không buộc ai vào nhà chúng ta được. Chúng ta ai cũng có thể thay đổi đời sống vì Chúa luôn mời gọi chúng ta thay đổi. Chúa luôn tìm kiếm chúng ta, kêu gọi mỗi người trong chúng ta và luôn mong muốn đến ngủ trong nhà chúng ta.
Trong câu chuyện hôm nay, thánh Luca dùng hình ảnh Da Kiêu để giúp chúng ta hiểu về mình. Ông Dakêu là người lùn. Có lẽ đối với mọi người có phần thấp bé, không đạt tiêu chuẩn bình thường. Có lẽ chúng ta cũng thế: không mấy rộng rải; chúng ta không có lòng bao dung thông cảm, không giàu lòng tha thứ. Hôm nay chúng ta đến nhà thờ như chúng ta leo lên cây sung, hy vọng sẽ nhìn thấy được Chúa như ông Dakêu. Nghe lời Chúa giúp chúng ta nhìn thấy mình rõ hơn và nghe được ước vọng của Chúa là muốn đến ở với chúng ta và làm chúng ta thay đổi và trở nên hoan hỉ vì chúng ta đã nghe và đón nhận được tin mừng.
Nói cách khác,là chúng ta hy vọng, không những chỉ để nhìn thấy Chúa Giêsu, mà còn trông mong chú mục vào Ngài. Điều chúng ta hy vọng sẽ xãy ra tại nhà thờ ngày hôm nay. Đây là cây cao mà chúng ta đến để leo lên, và Chúa sẽ nhìn thấy chúng ta, gọi tên chúng ta và nói là Ngài muốn đến ngự trong lòng chúng ta. Đó là điều mà ông Da-keu và gia đình đã được Chúa ban tặng một cách nhưng không khi Chúa ngồi vào bàn ăn với họ.
Trở nên một Kitô hữu không hẵn là một chuyện cá nhân. Chúng ta không thể cứ ngồi trên cây cao để nghe lời Chúa, và nhìn đoàn người đi với Ngài. Chúng ta không thể dấu được đức tin của chúng ta. Nhà thờ là nơi chúng ta gặp Chúa. Ông Dakêu đưa Chúa về nhà với gia đình, ở đó cả gia đình ông ta được hưởng ơn Chúa vì họ được gặp Chúa Giêsu. Ông Dakêu không phải được gọi để trở thành một tu sĩ ẩn mình trên cây cao. Ông có gia đình như một thường dân, ông sống với xã hội với lời mời gọi của Chúa là ông sẽ giử lời đã hứa với Chúa:”Thưa Ngài này đây phân nữa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Người bán địa ốc nói đúng “ địa điểm, vị trí và hướng tốt.”. Chuyện ông Dakêu cho biết địa điểm quan trọng nhất cho ngôi nhà chúng ta là gặp được Chúa Kitô. Rồi Chúa sẽ nói riêng với chúng ta và ban ơn Ngài cho chúng ta.Nhờ thế chúng ta sẽ đáp lại Chúa bằng sự thay đổi đời sống chúng ta. Nhưng chúng ta không cứ ngồi ở địa điểm đó. Chúng ta sẽ đi đến những địa điẻm khác, vì chúng ta đã được ơn thánh Chúa thay đổi. Và với lòng đầy hoan hỉ và quyết chí thay đổi đời sống chúng ta ở bất kỳ địa điểm nào: tại nhà, nơi làm việc, ở trường học và lẽ cố nhiên là trong xã hội toàn cầu.
Cha Tiến Lộc có một bài hát mà cha rất thích và cha nghĩ cũng có rất nhiều người thích: Đó là bài hát "Gặp gỡ Đức Kitô", Chúng con biết không?
- Thưa cha, chúng con biết. Vậy chúng ta cùng hát nào: Gặp gỡ Đức Kitô. Biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh, Gặp gỡ Đức Kitô. Chân thành mình gặp mình, Gặp gỡ Đức Kitô Nảy sinh tình đệ huynh. Chúng con hát rất hay cha khen chúng con.
1. Gặp gỡ Chúa, biến đổi cuộc đời mình.
Ông Giakêu là người như thế nào thì Tin Mừng đã cho chúng ta biết. Ông là người thu thuế và là một người thu thuế rất giầu có. Ông bị mọi người ghét bỏ. Lý do tại sao thì có lẽ nhiều người cũng biết. Nhưng sau khi được gặp Chúa, ông đã trở nên một con người hoàn toàn. Ông đã được biến đổi trở nên một con người mới.
Ernest Gordon cô viết cuốn sách nhan đề "Ngang qua thung lũng sông Wai", trong đó ông mô tả chuyện thật xảy ra tại trại tù binh Nhật dọc bờ sông Wai trong thế chiến thứ hai. Tại đây 12 ngàn tù binh chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn nhẫn trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa. Họ làm việc cực nhọc dưới nắng nóng gần 50 độ, đầu trần, chân đất, quần áo tả tơi!...
Nhưng điều đau khổ nhất không phải do lao động mà do họ cư xử xấu với nhau. Họ chỉ điểm nhau, trộm cắp của nhau, đánh đập chửi, mắng nhiếc nhau như cơm bữa!....
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ tổ chức học hỏi Kinh Thánh với các tù nhân khác. Nhờ đó họ khám phá Chúa Giêsu đang sống giữa họ, thông cảm với họ, vì Người đã từng chịu đói khát, phản bội, đòn vọt đến chết và chết treo trên khổ giá. Từ đó họ không còn chỉ điểm nhau, thù ghét nhau. Họ hoán cải rõ rệt và bắt đầu cầu nguyện cho nhau. Cả trại biến đổi lạ thường. Không còn tiếng than van oán trách mà chỉ còn lời ca tiếng hát vui vẻ, mặc dầu vẫn phải lao lực cực khổ hằng ngày. Một sự khác biệt giống như cái chết biến hình cuộc sống vậy.
2. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh.
Sau khi được gặp Chúa, thấy được tình thương của Chúa đối với mìnnh, Giakêu đã được thay đổi hoàn toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định điều đó: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham."(Lc 19,10)
Sở dĩ Giakêu được Chúa thương như thế là vì Giakêu đã thấy được quá khứ những lỗi lầm của mình và quyết tâm sửa lại. Từ nay ông đã biết đối sử tốt với mọi người. Lòng tốt của ông làm Chúa cảm động.
Mátcô đi học về. Chợt cậu thấy trước mặt một học sinh cũng trạc tuổi cậu vấp phải một hòn đá, ngã xấp mặt xuống đất, làm tập sách và dụng cụ rơi tung tóe trên đường. Mátcô vội vàng chạy đến giúp và được biết người đó tên là Bin cũng từ trường về. Từ đó hai anh em bắt đầu quen nhau và trò chuyện với nhau thật vui vẻ. Bill tới nhà trước, nên mời Mátcô vào uống nước và tiếp tục câu chuyện. Hai người trở thành bạn thân. Bốn năm sau, trước ngày ra trương Bill mới tâm sự với Mátcô:
- Anh còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không? Hôm đó trên đường về, anh thấy tôi ôm nhiều sách vở và dụng cụ học. Anh có biết tại sao không? Vì hôm đó tôi đã quyết định đem hết sách vỡ vật dụng về nhà, rồi tôi uống thuốc tự tử. Nhưng thấy cử chỉ anh tận tình của anh. Anh đã giúp đỡ và đối xử với tôi thật tử tế, nên tôi đã bỏ ý định đó. Tôi được sống đến ngày nay và học thành tài là nhờ công ơn anh. Anh đã cứu sống tôi, giúp tôi tìm lại được ý nghĩa cuộc đời và niềm vui sống. Tôi chân thành cám ơn anh. Hai người trở nên như ruột thịt với nhau suốt đời.
3. Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh.
Từ lúc gặp Đức Giêsu, Giakêu thấy mình phải thay đổi cách sống. Ông đã chuộc lại những lỗi lầm, đền bù những bất công đã gây ra trong quá khứ. “Tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã lường gạt ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Nếu tôi cố tìm trong ký ức của tôi những kỷ niệm nào làm cho tôi không thể quên được, nếu tôi lần tính lại trong đời tôi, những giây phút nào đáng kể nhất, tôi chỉ nhớ lại những kỷ niệm, những giây phút không do tiền bạc tạo nên cho tôi. Có tiền nào mua được tình bạn của một người bạn đường mà những giờ gai góc sống chung nhau đã buộc chặc với ta mãi mãi.
Nhà văn Pháp St EXUPEY trong Terre des hommes đã viết rất hay: "Chúng ta sống thật là khi nào chúng ta được cột chặt lại với anh em trong một mục đích chung, không riêng cho người nào cả, và kinh nghiệm cho thấy rằng: yêu thương không phải là nhìn nhau, nhưng là cùng nhìn về một hướng. Chỉ là bạn khi nào mình đã cùng sống với nhau trong một toán, nối với nhau theo một đoạn dây, cùng leo chung lên một đỉnh núi, và khi lên đến đó chúng ta lại gặp nhau".
Thi hào LAMARTINE người Pháp cũng để lại một câu chuyện rất hay:
Ngày xưa, tại một vùng nông thôn giáp kinh đô Giê-ru-sa-lem nước Do-Thái, có hai anh em trai cùng làm ruộng chung trên một thửa đất nhỏ. Người anh về sau đã lập gia đình và con cái ngày một đông, trong khi đó người em vẫn sống độc thân. Thế nhưng cả hi vẫn giữ đúng lời di chúc của cha mẹ, đó là luôn sống bên nhau, cùng ra sức cày cấy trên mảnh ruộng nhà. Tới vụ mùa, họ thu gặt rồi bó những bó lúa thành hai đống bằng nhau, rồi cứ thế để nguyên trên bờ ruộng...
Một năm, gặp cơn mất mùa đói kém, lúa thu về giảm hẳn đi nhưng cả hai vẫn chia đều nhau một cách vô tư. Đến đêm, người em trằn trọc mãi không ngủ được, cậu nghĩ:
- Tội nghiệp ông anh mình phải vất vả. Một tay phải nuôi vợ nuôi con năm sáu miệng ăn, nếu phần thóc lúa thu hoạch của mình mà cũng bằng ngang với phần của anh ấy thì không công bằng chút nào. Vậy mình hãy bí mật ra đồng lấy chục bó lúa trong đống của mình mà bỏ thêm sang cho đống của anh ấy. Anh ấy có lẽ không để ý và không nhận ra đâu!”
Đoạn anh trở dậy, thực hiện ngay ý định dễ thương này..
Cũng đêm hôm ấy, ở gian nhà bên cạnh, người anh cũng trăn trở mãi không ngủ được, anh đánh thức vợ dậy để bàn bạc:
- Mình xem, em trai tôi, chú ấy còn trẻ, lại cứ sống cô độc không có ai giúp đỡ trong công việc nặng nhọc hoặc an ủi chăm sóc chú ấy những khi trái gió trở trời. Cùng làm chung thửa ruộng với chú ấy, mà chúng mình lại cũng nhận số lúa bằng với chú ấy thì coi không được chút nào! Mình nghĩ sao? Hay là tiện dịp đêm nay tối trời không có trăng, để tôi lén ra ruộng, chia thêm độ chục bó lúa phần chúng mình sang cho đống của chú ấy...” Người vợ nhân hậu đồng ý và người anh thực hiện ngay như dự tính...
Ngày hôm sau, cả hai anh em cùng ra đồng thì đều ngạc nhiên thấy hai đống lúa của họ sao lại vẫn cứ bằng nhau y như trước, không thay đổi suy suyển gì như dụng ý của họ. Trong thâm tâm cả hai đều thầm nhủ: đúng là do mình đã quá dè xẻn ích kỷ, chuyển số lúa ít quá, chẳng đáng bao nhiêu!
Thế là đến khuya, người em lại trở dậy, bí mật ra ruộng bỏ số bó lúa nhiều gấp đôi hôm trước sang cho anh. Đến rạng sáng thì người anh cũng nhẹ bước rời nhà ra đồng bỏ số lúa nhiều gấp đôi sang cho em...
Sáng hôm sau, một lần nữa, cả hai lại kinh ngạc vì hai đống lúa vẫn cứ y nguyên như cũ. Họ tự giận mình mà làm đi làm lại như thế mấy đêm liền, nhưng vì người này mang bỏ vào đống của người kia số bó lúa xấp xỉ như nhau, nên hai đống lúa vẫn cứ bằng nhau!
Cuối cùng, một đêm nọ, hai anh em cùng chạm mặt nhau trên bờ ruộng, bắt gặp người này đang lấy lúa mình mà bỏ thêm cho người kia. Họ chưng hửng và chợt hiểu ra tất cả. Họ xúc động ôm chầm lấy nhau, nghẹn ngào trong nước mắt. Từ đó, hai anh em quyết định nhập chung số lúa lại để dùng chung cho cả hai nhà trong thuận hòa hạnh phúc còn hơn cả những ngày trước đó...
Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho chúng ta được ba điều: tìm kiếm người tội lỗi, tìm kiếm Đấng Cứu Rỗi, và tìm kiếm sự cứu rỗi. Tìm kiếm Người Tội Lỗi: Trong khi Gia Kiêu, trưởng nhóm người thâu thuế nên rất giàu có và thành công theo tiêu chuẩn đại gia, Nhưng anh ta cảm thấy có một sự thiếu thốn. Ngay cả những người trong thế giới ngày hôm nay, nếu họ trung thực, thì dần dà cuối cùng thì họ sẽ thừa nhận rằng có nhiều thứ còn có ý nghĩa cho cuộc sống hơn là việc chỉ biết cố gắng và chăm chỉ đi kiếm tiền và làm giàu để.; Gia kiêu không những chỉ muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng ông cũng muốn được biết thêm: Chúa Giêsu là ai, là người như thế nào?. Gia-kiêu có thể không hiểu nổi những gì đang diễn xảy ra trong tâm hồn của anh, nhưng anh ta có một nhu câp bách khẩn trương là gặp được Chúa Giêsu.
Gia-kiêu đã có ít nhất hai vấn đề trở ngại trong ngày hôm đó. Việc đầu tiên: anh ta là một người lùn, và thứ hai là tội lỗi đã ràng buộc anh ta và làm cho anh ta cách xa Chúa Giêsu.
Gia Kiêu lùn ngắn về tính toàn vẹn những lại cao đầy tội lỗi. Nhưng Gia Kiêu đã không để bất cứ điều gì có thể ngăn cản anh ta đến với Chúa. Nhất định không phải là đám đông hay tại cái bàn thân thấp lùn của anh, đứng giữa anh và mong muốn được thấy Chúa Giêsu. Còn về phần chúng ta? Chúng ta có thật sự quan tâm đầy đủ về tâm trạng tâm hồn của chúng ta phải trả ,bất cứ giá là cần thiết để được với Đức Chúa Trời? Bạn có sẵn sàng để chuyển từ tội lỗi đứa con cưng? Bạn đã sẵn sàng để chạy đến với Ngài?
Tìm kiếm Đấng Cứu Rỗi: Chúa Giêsu biết trạng thái tâm, linh thần của Gia-kiêu, và anh ta cũng đã được lấp đầy với lòng từ bi và nhân hậu của Chúa. Đây là cách đã thường luôn xảy ra. Đó là việc Chúa Giêsu đã đưa bàn tay của ngài ra để tiếp đón những người có tội trước tiên và ban cho họ chính cuộc sống Ngài.
Chúng ta sẽ không bao giờ có thể đến với Chúa Jêsus trừ khi Ngài đến với chúng ta trước. Đây là một trường hợp duy nhất trong bốn sách Tin Mừng của Chúa Giêsu mà chúng ta đã đọc đó là chính Chúa Giêsu đã tự mời chính mình tới nhà ai đó để dự trong bàn tiệc Chúa Giêsu phải ở lại bởi vì nó hình ảnh những gì sứ vụ của mình là tất cả về. Ông đến để cứu những người tội lỗi từ tội lỗi của họ.
Đấng Cứu Rỗi Tìm: Chúa Giêsu biết trạng thái tinh thần của Xa-chê, và ông đã được lấp đầy với lòng từ bi về phía anh. Đây là cách nó luôn luôn xảy ra. Chúa Giêsu làm cho di chuyển đầu tiên đến người có tội và cung cấp cho cuộc sống thông qua chính mình. Chúng tôi sẽ không bao giờ có thể đến với Chúa Jêsus trừ khi anh ta đến với chúng tôi đầu tiên. Đây là trường hợp duy nhất trong bốn sách Tin Mừng mà chúng ta đọc của Chúa Giêsu mời mình tới nhà ai đó cho một bữa ăn. Chúa Giêsu phải ở lại nhà của mình bởi vì nó hình ảnh những gì sứ vụ của mình là tất cả về. Ông đến để cứu những người tội lỗi từ tội lỗi củ.
-------------------------------------
TN 31-C148: Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này »
Cuối bài Tin Mừng theo thánh Luca trong Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su nói về ông Gia-kêu rằng:
Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này.
(c. 9)
Cùng một lúc và thật là quảng đại, Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà ông Gia-kêu. Đây chính là một tin vui, và tin vui này đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng ta và đem lại cho chúng ta niềm hi vọng trong tháng cầu cho các linh hồn. Mỗi người chúng ta hãy khát khao và xin Chúa ban cho gia đình chúng ta ơn huệ lớn lao này, đó là xin Chúa cũng công bố rằng: « Ơn cứu độ đã đến cho nhà của chúng ta ». Bởi vì ơn cứu độ là ơn được giải thoát khỏi sự chết, để sống sự sống mới và sống sự sống mới này mãi mãi với Chúa và với nhau, nhất là với những người thân yêu của chúng ta, còn sống cũng như đã qua đời.
Tuy nhiên, trong lời công bố ơn cứu độ, ban cho nhà ông Gia-kêu, có một từ ngữ phải làm cho chúng ta ngạc nhiên, đó là từ « hôm nay ». Thực vậy, Chúa nói: « Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này ». Như thế, ơn cứu độ mà Đức Giê-su ban cho chúng ta không chỉ là ơn giải thoát khỏi sự chết ở đời sau, nhưng còn là ơn giải thoát khỏi tất cả những gì gây ra bầu khí chết chóc trong gia đình của chúng ta ngay ở đời này và ngay hôm nay. Như mỗi người chúng ta đã nghe nói hay đích thân có kinh nghiệm, những điều thuộc về Sự Dữ, gây ra bầu khí chết chóc, đó là vô ơn, ích kỉ, áp đặt, ghen tương, nghi ngờ, dò xét, xét đoán, cố chấp, bạo lực, tham lam, chiều theo lòng ham muốn và dục vọng. Nhưng điều này không làm cho chết ngay, nhưng tạo ra bầu khí tang thương không kém. Ơn cứu độ mà Chúa muốn ban cho gia đình chúng ta không chỉ giải thoát chúng ta khỏi sự chết đời đời, nhưng còn giải thoát chúng ta ngay hôm nay khỏi những khuynh hướng xấu gây ra bầu khí chết chóc, nghĩa là làm cho sự chết hiện diện ngay trong lòng sự sống !
Chúa thương người này nhờ vào lòng tin của người kia
Nhưng câu chuyện về gia đình của ông Gia-kêu còn mang lại cho chúng ta một tin vui khác nữa, đó là ơn cứu độ được ban cho cả nhà, nhờ vào hành trình hoán cải của một mình ông Gia-kêu. Thật vậy, một mình ông đã có lòng ước ao xem cho biết Đức Giê-su là ai, bằng cách leo lên cây ; và Đức Giê-su đã không chỉ dừng lại dưới gốc cây cho ông xem thấy, nhưng còn muốn ở lại nhà của ông:
Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! (c. 5)
Đó là điều vượt quá những gì mà ông đã mong ước. Và như chúng ta thấy, ông không chỉ vui mừng đón rước Đức Giê-su, nhưng còn thay đổi đời sống của mình một cách cụ thể và tận căn, qua việc bố thí và đền bù.
Như thế, Chúa cũng thương những người chúng ta thương mến. Chân lí này được kể lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Đó là trường hợp bà góa thành Na-in có đứa con nhỏ chết sớm: vì thương người Mẹ đau khổ, mà Chúa đã cứu người con ; đó là trường hợp những người kiêng kẻ bại liệt từ trên mái nhà thả xuống trước mặt Chúa: nhìn thấy lòng tin của họ, Ngài đã cứu chữa người bệnh ; và còn nhiều trường hợp khác nữa, như người cha có đứa con gái nhỏ bị bệnh nặng sắp chết, như người chủ có anh đầy tớ bệnh liệt giường.
Vậy, chúng ta hãy bắt đầu hành trình hoán cải từ chính bản thân chúng ta, để qua chúng ta Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà chúng ta, cả cộng đoàn chúng ta ngay hôm nay. Nhưng chúng ta phải bắt đầu từ đâu ?
Xem cho biết Đức Giê-su
Chúng ta hãy trở lại một lần nữa với hành trình hoán cải của ông Gia-kêu, để tìm ra ánh sáng cho hành trình hoán cải của chính chúng ta. Như chúng ta đã có thể nhận ra, tất cả hành trình hoán cải của ông Gia-kêu đã bắt đầu từ lòng ước ao biết Đức Giê-su là ai.
Có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai. (c. 2-3)
Chúng ta cũng vậy, chúng ta hãy có lòng ước lòng ước ao hiểu biết Đức Giêsu sâu xa hơn, và nếu chúng ta chưa có lòng ước ao này, thì chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta. Bởi vì sự biết Đức Ki-tô rất quí báu và rất ngọt ngào, như kinh nghiệm của ông Gia-kêu, kinh nghiệm của các tông đồ, và như thánh Phao-lô đã kinh nghiệm và đã nói: « Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi » (Phil 3, 8). Và để gặp gỡ và hiểu biết Đức Ki-tô, chúng ta được mời gọi đến với Thánh Lễ và các bí tích. Và ngoài Thánh Lễ và các bí tích ra, chúng ta không còn cách nào khác để hiểu biết Chúa ; vì ở đó Lời Chúa được công bố và giải thích, và ở đó Mình Máu Thánh của Chúa, ơn tha thứ và những ơn huệ khác được trao ban cho chúng ta.
Và trong trường hợp của ông Gia-kêu, để thực hiện lòng ước ao biết Đức Giê-su là ai, ông đã phải vượt qua nhiều trở ngại: ông đã phải leo lên cây chờ cho Đức Giê-su đi ngang qua, bởi vì người thì đông, còn ông thì không được cao. Nhưng đó chỉ là khó khăn về thể lí ; cũng là quan trọng, nhưng không quan trọng bằng một khó khăn khác, đó là dư luận ; bởi vì ông bị mọi người khinh chê, xa lánh và bị coi là quân tội lỗi, như bài Tin Mừng thuật lại cho chúng ta: « Nhà người tội lỗi mà ông ấy (tức là Đức Giê-su) cũng vào trọ ». Cũng như Gia-kêu, chính chúng ta cũng phải vượt qua nhiều trở ngại của bản thân và của dư luận nữa để đến với Chúa. Xin Chúa thêm sức, lôi cuốn chúng ta và ban cho chúng ta lòng mến Chúa.
Vì vậy, chúng ta hãy quan sát thật kĩ hành trình tìm cách xem thấy Đức Giê-su của ông Gia-kêu ; hành trình gồm 3 bước:
Trèo lên cây. Đoán biết đường đi của Đức Giê-su, ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung !
Đức Giê-su dừng lại và ngước nhìn lên cây. Người đi tới chỗ đó, dừng lại, ngước mắt nhìn lên và nói với ông: « Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón tiếp Người.
Ông Gia-kêu chạy tới phía trước, chỉ để xem Đức Giê-su , nhưng chính Đức Giê-su ngỏ lời trước. Chúng ta hãy dừng lại để đo lường sự khác biệt: một đàng là xem từ trên cao, nghĩa là từ xa, đàng khác là sự ngỏ lời để thiết lập tương quan, bất chấp sự bất xứng. Ông Gia-kêu chỉ muốn xem thấy Đức Giê-su thôi, và ông đã chọn một chỗ thích hợp: ở trên cao và kín đáo, không ai thấy. Nhưng Ngài đã gọi ông ra khỏi chỗ ông ẩn nấp. Đức Giê-su chọn ở lại với ông một cách nhưng không, khi ông còn đầy bất toàn, khi ông vẫn còn là chính ông, chưa được biến đổi. Đức Giê-su đặt lòng tin trọn vẹn nơi ông.
Chúng ta dường như cũng có nhiều chỗ ẩn nấp, những khu vực an toàn, những phần giữ lại để lỡ ra còn đường mà rút lui…Vậy, tôi có nghe được lời này của Chúa nói với tôi không: « Này con, xuống mau đi (chú ý chữ « mau »), vì hôm nay Thầy phải ở lại nhà con » ?
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
-------------------------------------
TN 31-C149: DA-KÊU: CHỨNG NHÂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Cách đây vài tuần, cơn lũ lụt lịch sử đã để lại những hậu quả nghiêm trọng nơi các tỉnh miền Trung. Người dân nơi đây vốn quanh năm nghèo khó, nay lại thêm phần khốn đốn, cơ hàn. Những hậu quả nghiêm trọng còn kéo dài, phải nhiều thời gian mới khắc phục. Có dịp tham gia phái đoàn cứu trợ miền Trung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, tôi được chứng kiến rất nhiều chuyến xe chở hàng đến những vùng thiệt hại do thiên tai. Thế mới thấy, người Việt mình đậm đà tình nghĩa. Có nhiều nhóm thiện nguyện không mang một danh nghĩa cơ quan đoàn thể nào. Họ chỉ nhân danh tình người, đến với đồng bào trong cơn hoạn nạn. Tại huyện Hương Khê, chúng tôi chứng kiến những nhóm thiện nguyện dừng xe chở hành cứu trợ ở đầu xóm, thông báo cho bà con, rồi trực tiếp phát quà cho họ, sau đó họ tiếp tục lên đường. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, thật cảm phục những tấm lòng hảo tâm và những nghĩa cử nhân hậu.
Năm Thánh Lòng Thương Xót đang dần dần khép lại. Tuy vậy, nếu không còn những buổi cử hành long trọng trong khuôn khổ của Năm Thánh, thì việc thực thi lòng thương xót vẫn luôn là lời mời gọi được gửi đến mỗi người tín hữu chúng ta, vì lòng thương xót là cốt lõi của Ki-tô giáo, là trọng tâm của Tin Mừng. Lòng thương xót cũng làm cho chứng từ của Giáo Hội trở nên khả tín đối với con người của thời đại hôm nay. Trước những hậu quả nghiêm trọng của thiên tai (hoặc nhân tai), người Việt chúng ta, không phân biệt lương hay giáo, đã thể hiện tình liên đới sâu đậm. Đối với các tín hữu Công giáo, giúp đỡ tha nhân cũng là dịp để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, họ còn nhận ra Đức Giêsu đang hiện diện nơi những người đau khổ bần hàn.
Ca ngợi lòng thương xót của Thiên Chúa, đó cũng là nội dung của Lời Chúa hôm nay. Tác giả sách Khôn Ngoan đã suy tư về thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi cao cả của Thiên Chúa (Bài I). Trước nhan Chúa, mọi người đều là tội nhân và rất cần đến sự che chở của Thiên Chúa. Nhờ lòng thương xót của Chúa mà con người có thể tồn tại. Ngài kiên nhẫn thứ tha mọi lầm lỗi, làm ngơ trước tội ác của họ. Ngài không bỏ rơi những ai thành tâm đến với Ngài để bày tỏ lòng sám hối và cậy trông.
Một trường hợp cụ thể được nêu như chứng nhân của lòng thương xót Chúa, đó là ông Da-kêu. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã làm ông thay đổi cuộc đời. Không tự ti mình là người thu thuế, bị mọi người xa lánh ghê tởm; chẳng mặc cảm mình vóc dáng thấp lùn trông khó coi, ông mạnh dạn trèo lên cây sung tìm cách gặp Chúa. Từ một người thu thuế hay gian lận tham lam, ông trở thành người quảng đại, sửa lỗi bằng cách sẽ đền bù cho người bị thiệt: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp ông vượt lên mọi thành kiến xã hội, lấy lại tự tin và niềm hy vọng.
Ông Da-kêu đại diện cho vô vàn vô số những người nam nữ già trẻ trong mọi thời đại đang tìm kiếm Chúa. Họ tìm kiếm Chúa như hoa hướng dương tìm về mặt trời, như suối tìm về nguồn và như chim tìm về tổ. Con người không ngừng tìm kiếm Chúa mặc dầu họ chưa biết rõ về Ngài. Có thể hình ảnh hay quan niệm về Thiên Chúa của họ còn mờ nhạt, mông lung, nhưng họ chắc một điều, Ngài là Chủ muôn loài. Ban đầu ông chỉ ước ao “nhìn thấy Chúa đi ngang qua”. Không những ông chỉ nhìn thấy Chúa, mà Chúa chủ động đến nhà ông. Việc Chúa đến thăm nhà giúp ông xua tan mọi mặc cảm về nghề nghiệp cũng như thân phận của mình. Những gì ông thưa với Chúa cho thấy một sự đổi đời tận gốc rễ. Ông Da-kêu, một người thu thuế đã thực sự trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một người con đích thực của Abraham, người công chính.
Khởi đi từ nhân vật ông Da-kêu, mỗi chúng ta hãy nhìn lại mình để nhận ra lòng thương xót vô bờ của Chúa, để rồi, đến lượt mình, chúng ta trở nên những chứng nhân của lòng thương xót. Chúa đã thương chúng ta, như Chúa đã thương ông Da-kêu, có lẽ nào chúng ta không giãi bày tình thương của Ngài nơi cuộc đời chúng ta và qua những nghĩa cử đối với anh chị em mình?
Xã hội hôm nay sao kiếm được con người tử tế thật khó! Người tử tế biết nhận cái sai để sửa, biết nhận lỗi lầm mình mà ăn năn hầu sống đẹp hơn. Trái lại, người không tử tế dầu biết sai nhưng vẫn cố chấp, vẫn tìm cách bào chữa bản thân và không bao giờ nhận tội về mình.
Có một câu chuyện vui về Người Tử Tế như sau:
“Ði mua bao thuốc lá 20k đưa chủ tiệm 50k, được thối lại 40k, đút túi bỏ về. Anh chủ tiệm chạy theo kêu:
– Chú em, chú để quên không lấy bao thuốc lá nè.
Trên thế gian vẫn còn nhiều người tử tế, tôi nghĩ mình thật tồi tệ. Xúc động rút tờ 10k ra đưa lại cho anh:
– Lúc nãy anh trả dư em 10k này!
Anh chủ tiệm cũng cảm động:
– Thôi, chú đưa lại anh bao thuốc lá, anh đổi cho bao thuốc lá thật.
Hành động của anh lại làm tôi mủi lòng. Trên thế gian sao lại có người cũng thật thà như mình. Tôi tỏ vẻ hận:
– Anh đưa tờ 50k hồi nãy cho em, em đổi cho anh đồng tiền thật.
Cầm tờ giấy bạc, anh chủ tiệm rơm rớm nước mắt:
– Thôi chú đưa anh tờ 10 ngàn lúc nãy, anh đổi cho tờ thật.
Híc! Người ta tốt thế mà mình tồi tệ quá… Tôi rụt rè móc cái điện thoại ra:
– Cái này của anh, lúc nãy em lỡ tay… xin trả lại.
Anh chủ tiệm cảm động, tay run run… Anh rút ra một cái ví:
– Cái này của em, anh cũng xin trả lại em.
Dầu là người xấu nhưng thấy sai dám nhận, dám sửa vẫn đáng kính trọng biết bao. Xét cho cùng “nhân vô thập toàn” ai mà chẳng có lúc sai nhưng chỉ đáng xấu hổ là không dám nhận cái sai mà sửa, đôi khi còn “vừa ăn cướp vừa la làng” hay “cả vú lấp miệng em” để che lấp tội lỗi của mình.
Hôm nay tin mừng cho ta thấy hình ảnh thật đẹp của Gia-kêu. Ông đã từng lún sâu trong tiền bạc. Ông đã từng tham lam vô độ đến nỗi chỉ lo vun quén cho bản thân và lỗi công bình với tha nhân. Nét đẹp của ông là khi gặp được Chúa ông đã thay đổi cái nhìn về cuộc sống. Ông không coi của cải là lẽ sống. Ông không tìm thỏa mãn nơi tiền tài. Ông dám nhìn nhận cái sai mà sửa. Ông nhìn nhận mình đã tham lam nên dùng nửa số tiền để đền bù. Ông đền bù cả lãi lẫn lời lên tới gấp 4 lần. Ông còn tiến tới đức ái hoàn hảo là làm việc phúc đức cho người nghèo với mong phần nào đền bù tội lỗi quá khứ của mình.
Xem ra người tử tế phải là người thấy sai là sửa. Người tử tế không cố chấp ở lì trong tội. Người tử tế dám nhận lỗi, dám chuộc lỗi và làm lại cuộc đời. Thực ra, không có cuộc trở về nào là quá muộn, chỉ cần quay trở về thì chúng ta đã bước ra ánh sáng và khuôn mặt chúng ta sẽ đẹp trước mặt Chúa và tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ăn năn sám hối lỗi lầm của mình, biết can đảm chuộc lại lỗi lầm bằng sự đền bù, bằng sự dấn thân sống có ích cho cộng đoàn và xã hội. Xin đừng vì cố chấp mà đánh mất đi cơ hội làm lại cuộc đời, nhưng luôn trỗi dạy sau những lần vấp ngã để kiện toàn con người mình mỗi ngày một tốt hơn. Amen.