Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 32-C Bài 1-50 Thiên Chúa của kẻ sống
-----------------------------------------------------
Phúc Âm: Lc 20, 27-38: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ".
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa". - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------------------------
TN 32-C1. Thân xác sống lại 2
TN 32-C2. Cách Chữa Cháy Kỳ Diệu. 4
TN 32-C3. HRK/202- Sống lại 5
TN 32-C4. HRK/445- Sống lại 7
TN 32-C5. CSTM/254- Sống lại 9
TN 32-C6. NTGT/290- Sống lại 11
TN 32-C7. SCĐ/811- Sống lại 13
TN 32-C8. SCĐ/817- Hợp hoan. 15
TN 32-C9. SCĐ/821- Kinh nghiệm.. 17
TN 32-C10. PV/690- Sự sống. 18
TN 32-C11. PV/693- Can đảm.. 19
TN 32-C12. PV/696- Vĩnh cửu. 21
TN 32-C13. Con người sẽ sống lại 23
TN 32-C14. Một cơ hội mới 25
TN 32-C15. Đời này, đời sau. 26
TN 32-C16. SINH ĐÔI: Khiết Tâm – Đồng Công. 28
TN 32-C17. KẺ CHẾT SỐNG LẠI – JKN.. 30
TN 32-C18. Mọi sự đều có lúc. 33
TN 32-C19. CÒN GÌ NỮA KHÔNG.. 38
TN 32-C20. SỐNG CHO THIÊN CHÚA.. 40
TN 32-C21. HỌ LÀ CON CÁI CỦA SỰ SỐNG LẠI 41
TN 32-C22. SỰ SỐNG ĐỜI SAU: Lm Vũ Khắc Nghiêm.. 43
TN 32-C23. MẦU NHIỆM CÁNH CHUNG: XÁC PHỤC SINH.. 46
TN 32-C24. SỰ SỐNG ĐỜI SAU, 50
TN 32-C25. Tin vào sự sống lại – JKN.. 51
TN 32-C26. SỰ SỐNG VĨNH CỬU.. 54
TN 32-C27. LÀM CHỨNG CHO SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI 56
TN 32-C28. SỐNG LẠI 58
TN 32-C29. CUỘC SỐNG MAI HẬU- 00/177. 61
TN 32-C30. SỰ SỐNG - SNTMCN/172. 62
TN 32-C31. SỐNG LẠI - CS/152. 63
TN 32-C32. TRẦN TỤC - NMS/186. 65
TN 32-C33. KẺ SỐNG-ASTY/228. 66
TN 32-C34. KẺ SỐNG-MNMTV/96/113. 68
TN 32-C35. Có cuộc sống mai sau. 70
TN 32-C36. CUỘC SỐNG ĐỜI SAU.. 72
TN 32-C37. TÔI TRÔNG ĐỢI KẺ CHẾT SỐNG LẠI 82
TN 32-C38. SỰ SỐNG VÀ CÁI CHẾT.. 85
TN 32-C39. NIỀM TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI 87
TN 32-C40. CÙNG CHẾT VÀ SỐNG LẠI VỚI ĐỨC KI-TÔ.. 88
TN 32-C41. KẺ CHẾT SỐNG LẠI 91
TN 32-C42. Ai Được Xét Là Đáng Lãnh Phần Đời Sau. 97
TN 32-C43. Mầu nhiệm kẻ chết sống lại 99
TN 32-C44. THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG.. 106
TN 32-C45. Thiên Chúa của kẻ sống. 108
TN 32-C46. THIÊN CHÚA LÀ CHÚA KẺ SỐNG.. 111
TN 32-C47. CHẾT LÀ SỐNG LẠI 113
TN 32-C48. TIN VÀO SỰ SỐNG VĨNH CỬU.. 115
TN 32-C49. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại 117
TN 32-C50. Vấn đề chết chóc. 119
----------------------------------------------
Tất cả chúng ta đều phải chết, vì cái chết là một cái gì gắn liền với thân phận con người, là án: TN 32-C1
Tất cả chúng ta đều phải chết, vì cái chết là một cái gì gắn liền với thân phận con người, là án phạt của tội lỗi kể từ khi hai ông bà nguyên tổ vấp phạm. Thế nhưng, chúng ta lại chẳng biết gì về cái chết.
Thực vậy, bao lâu nữa tôi sẽ chết ? Tôi sẽ chết ở trong nhà hay ở ngoài ngõ ? Tôi sẽ chết mà có kịp lãnh nhận những bí tích cuối cùng hay không ? Tôi hoàn toàn không biết. Phải, tôi hoàn toàn không biết.
Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Chính vì thế, chúng ta phải luôn sẵn sàng. Cái chết không phân biệt tuổi tác. Nó ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ.
Tôi có thể chết giữa những vui thú của một ngày hội lớn. Tôi có thể chết trên một bãi chiến trường xa xôi và hẻo lánh. Tôi hoàn toàn không biết. Điều tôi có thể nắm chắc, đó là lời cảnh cáo của Chúa:
- Cái chết sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Nó như một kẻ trộm viếng thăm một cách âm thầm và kín đáo, không kèn không trống và cũng chẳng báo trước. Bởi vậy, phải sẵn sàng vì đó là giây phút thật quan trọng, ấn định số phận đời đời cho mỗi người chúng ta. Vậy chết là gì ?
Sách giáo lý đã trả lời:
- Chết là linh hồn lìa khỏi xác.
Có lẽ hơn một lần chúng ta được nhìn thấy những người đã chết. Mắt họ mở mà chẳng thấy được. Tai họ mở mà chẳng nghe được. Miệng họ mở mà chẳng nói được. Tay chân họ giang rộng mà chẳng hề động đậy. Một khoảng thời gian sau, thân xác ấy bắt đầu rữa thối, làm mồi cho dòi bọ, để rồi sẽ bị chôn cho chặt và vui cho sâu dưới lòng đất lạnh.
Thế nhưng, chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa Giêsu đã chịu chết để chuộc tội cho chúng ta. Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta một ngày kia được sống lại như Ngài và với Ngài.
Đúng thế, vào ngày cuối cùng, thân xác chúng ta sẽ sống lại, sẽ được kết hiệp với linh hồn cho cuộc sống vĩnh cửu. Đây là một chân lý đã được Kinh Thánh nói đến nhiều lần. Chúng ta hãy nghe lời than thở của ông Gióp, khi số phận bẽ bàng đổ xuống trên ông: con cái thì bị chết chóc, tài sản thì bị tiêu tan, thân xác thì bị ghẻ chốc. Ngồi trên đống phân, ông đã tâm sự như sau:
- Tôi biết rằng Đấng cứu độ tôi, Ngài hằng sống và trong ngày sau hết Ngài sẽ làm cho tôi từ bụi đất sống lại. Tôi sẽ mặc lại thân xác tôi và sẽ nhìn thấy Thiên Chúa trong thân xác của tôi.
Tiên tri Đanien cũng nói:
- Đám đông những người đã ngủ yên trong lòng đất sẽ trỗi dậy để được sống vĩnh cửu hay phải đau khổ muôn đời.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu cũng bảo:
- Khi thời gian đến, những người ở trong mồ sẽ nghe thấy tiếng Con Thiên Chúa. Những người đã làm lành sẽ sống lại để được sống đời đời, còn những kẻ đã làm dữ sẽ sống lại để chịu trừng phạt.
Và sau cùng, thánh Phaolô đã xác quyết:
- Tất cả chúng ta đã chết trong Adong thế nào, thì cũng sẽ được sống lại trong Đức Kitô như vậy.
Tất cả những lời Kinh thánh ấy đã đủ để trả lời cho những ai nói rằng chết là hết. Điều đó chỉ đúng với con vật, chứ không thể đúng với con người. Bởi vì cái chết sẽ là thời khắc ấn định số phận đời đời dựa trên những việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian.
Việc sống lại, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy đó là một việc vừa hợp tình lại vừa hợp lý: Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ bởi không, liệu Ngài lại chẳng thể làm cho thân xác chúng ta được sống lại hay sao ? Chúa Giêsu đã cho Lagiarô, cho con trai bà góa thành Naim, cũng như cho con gái ông Giairô sống lại, thì lẽ nào Ngài lại chẳng thể làm cho chúng ta được sống lại hay sao ?
Hơn thế nữa, trong cuộc sống trần gian thân xác đã tích cực cộng tác với linh hồn để làm điều tốt cũng như làm điều ác, cho nên nó cũng phải được sống lại để cùng với linh hồn hưởng hạnh phúc hay bị đau khổ.
Hãy làm chủ thân xác và bắt nó đi trên đường nẻo của Chúa, để trong ngày sau hết nó cũng sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với linh hồn.
--------------------------
Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi, cả đời chưa hề thấy ánh sáng văn minh. Ngày: TN 32-C2
Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi, cả đời chưa hề thấy ánh sáng văn minh. Ngày kia ông ta được đưa xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên, ông phải giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được những người xung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động thị dân về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố nào đó, người dân miền núi nhìn về ngọn lửa đang bốc cao ở một góc trời rồi trở lại giường ngủ tiếp. Khi trở về làng, ông ta báo cáo với các vị chức sắc trong bộ lạc: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống và ngọn lửa được giập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền hồ hởi sai người đi mua đủ loại trống về phát cho dân chúng trong bộ lạc. Chẳng bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng. Tin chắc sự hiệu nghiệm của những chiếc trống, tất cả mọi người dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi. Họ tin chắc rằng tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác, trước cái nhìn ngỡ ngàng và bất lực của mọi người. Tình cờ ghé thăm bộ lạc, nghe kể lại diễn tiến của cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng rằng: Các ngươi thật là ngây ngô. Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố người ta đánh trống là để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia vào cuộc chữa cháy, chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tự tắt đi đâu.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không ngừng gọi con người tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó, khoanh tay mà chờ đợi. Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực, đòi hỏi lao tác và đấu tranh. Tỉnh thức là thái độ cơ bản của con người tín hữu Kitô. Toàn bộ Kinh Thánh là một lời mời gọi tỉnh thức. Tỉnh thức, vì Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đang đến. Ngài đến trong từng phút giây của cuộc sống. Ngài đến qua từng biến cố. Ngài đến nơi mỗi con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài, và nhất là để đáp trả cách tích cực tiếng gọi của Ngài. Tiếng gọi ấy không chỉ vang lên trong những lúc cầu kinh ở nhà thờ, mà còn vọng lên giữa chợ đời, giữa những tiếng ồn ào của cuộc sống.. Mong sao cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là những tiếng trống khua inh ỏi trong bốn bức tường của nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp gỡ Thiên Chúa qua lòng tín thác Ngài và qua những hành động cụ thể của yêu thương đối với mọi người anh em.
--------------------------
Ai trong chúng ta hãy tự hỏi mình xem có can đảm để sống không ? Bởi vì phần đông trong: TN 32-C3
Ai trong chúng ta hãy tự hỏi mình xem có can đảm để sống không ? Bởi vì phần đông trong chúng ta ai cũng sợ chết và nhất là cái chết ấy lại đến một cách bất ngờ. Quả thực, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời. Chết là một hành động phản tự nhiên, nhất là ta phải trải qua trong cuộc sống. Chính vì thế về mặt luân lý người ta không ngừng đi tìm đủ mọi cách để tránh nghĩ về sự chết hay phủ nhận cái chết sẽ không đến với chúng ta.
Trong ngôn ngữ thông thường dường như chúng ta cũng tránh nói đến cái chết. Bởi đó, người chết được gọi là người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi trước chúng ta, nhưng muốn hay không cái chết vẫn là người bạn đồng hành mỗi ngày với chúng ta. Thật thế, trong cuộc sống chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt của chúng ta phải chết, đồng thời chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều cái chết qua các phương tiện truyền thông mỗi ngày. Đối với những người không có niềm tin, cái chết quả là một cái gì phi lý nhất trong cuộc sống. Nhưng đối với những ai có niềm tin thì chính cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, đó là thái độ mà mỗi Kitô hữu vẫn thể hiện khi đứng trước cái chết. Cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi chúng ta vẫn tin rằng, bên kia cái chết thì cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống trong cõi phúc trường sinh. Đây là niềm tin, niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi để nuôi dưỡng mỗi ngày.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta củng cố niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại, mà chính Ngài còn là sự sống lại. Sự Phục Sinh của Ngài là bảo chứng của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Chính sự Phục Sinh của Ngài mà niềm tin của chúng ta được xây dựng.
Quả thật, như lời thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta thật là hão huyền”. Niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta tìm được ơn can đảm để sống, mặc dù có trải qua bao nghịch cảnh thử thách, khổ đau. Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta vẫn tiếp tục tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, đó là cuộc sống hạnh phúc bất diệt trên Nước Trời. Cũng qua đoạn Tin Mừng trên, thánh sử Luca kể lại cho chúng ta nghe về việc chối từ của những người trí thức thuộc phe Saducê. Họ không tin có sự sống lại, họ đặt ra một vấn nạn về việc một người đàn bà có bảy đời chồng: “Nếu có sự sống lại thì người đàn bà này sẽ thuộc về ai trong số bảy người chồng đã chết ?”. Họ thách thức Chúa như vậy, nhưng họ thắc mắc và ngụy biện như vậy là vì họ có một quan niệm sai lầm về sự sống đời sau và về sự sống lại.
Sự sống sau cái chết không còn giống như sự sống ở hiện tại, và sự sống lại không phải là sự phục hồi để trở về đời sống trần tục bình thường mà là một sự sống đã được thăng hoa, đã được biến đổi, đã được nâng cao trong ân sủng Chúa, được thăng cấp như sự sống các thiên thần.
Không có kinh nghiệm trần tục nào, không có một ngôn ngữ con người nào có thể diễn tả một cách tích cực sự thật thiêng liêng này. Chúa Giêsu đã trả lời cho những kẻ chất vấn Ngài như sau: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng, song những ai được dự phần đời sau, được sống lại từ cõi chết thì sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Họ sẽ không chết nữa vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa và là con cái của sự sống lại”.
Sức mạnh cuối cùng về lý luận của Chúa Giêsu, đó là điều mà chính Con Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta. Vì không ai có thể nói cho chúng ta biết những chuyện trên trời nếu không phải là Đấng ngự trên trời xuống. Là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu có đầy đủ uy tín để quả quyết: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống”. “Con có tin không ?”, Chúa Giêsu đã nói với Martha và đã hỏi thánh nữ như vậy. Và ngày hôm nay, Ngài cũng hỏi mỗi người chúng ta: “Con có tin klhông ? Con có tin Ta, có tin vào sự sống, tin vào sự sống lại hay không ?”.
Tháng Mười Một chúng ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại người thân thương đã chết, chia ly cách biệt vẫn là nỗi đau nhất trong cuộc sống. Nhưng với niềm tin Phục sinh, chết như được dẹp bỏ, người chết như vẫn hiện diện gần gũi với chúng ta và đây chính là nguồn diễm phúc của những ai có niềm tin vào sự sống lại.
--------------------------
Các bài đọc trong Phụng Vụ hôm nay, đặc biệt là bài Tin Mừng theo thánh Luca, thánh: TN 32-C4
Các bài đọc trong Phụng Vụ hôm nay, đặc biệt là bài Tin Mừng theo thánh Luca, thánh sử muốn nêu bật cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người thuộc nhóm Sađốc, giúp chúng ta tin tưởng vào sự sống lại của thân xác đời sau và xác tín hơn vào tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta cần nắm rõ và tin vào sự sống lại không đồng nhất giữa các nhóm Do thái khác nhau. Hai trong những nhóm này là nhóm Pharisêu hay còn gọi là biệt phái và nhóm Sađốc. Nhóm biệt phái là những người đạo đức, tuân giữ nhiệm nhặt những luật lệ, họ sống trong giới bình dân, phần đông gồm các ký lục, họ ít quyền hành nhưng có nhiều ảnh hưởng trong dân chúng.
Nhóm biệt phái tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại của thân xác, vì thế nhóm này đồng tình với Chúa Giêsu về kẻ chết sống lại. Trái lại, nhóm Sađốc là những người quí tộc Do thái thời ấy, phần đông gồm các hàng tư tế giàu có, giữ những địa vị cao nhất trong đạo Do thái. Họ lấy Ngũ Thư của Môisen làm tiêu chuẩn độc nhất về đạo lý mà những sách này không nói rõ ràng về sự sống lại, nên đối với họ linh hồn và thể xác chết là hết. Họ không tin có sự sống lại và không tin có thiên thần.
Vì vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay những người thuộc nhóm Sađốc dựa vào luật của Môisen và tập tục của họ mà chất vấn Chúa Giêsu về sự sống lại đời sau. Họ làm như thế vừa để bắt bẻ Ngài, vừa để chống lại nhóm biệt phái, đồng thời cũng nói lên quan điểm hưởng thụ của họ. Nhưng Chúa Giêsu cũng dẫn chứng lỗi của Môisen mà cho họ thấy sự sai lầm của họ về đạo lý, đồng thời phá đổ thái độ hưởng thụ, ích kỷ của họ.
Đối với con người hiện nay, nói chung ai cũng tin vào một thế giới linh thiêng nào đó đằng sau thế giới đời này, mặc dầu có nhiều phong trào vô thần, nhưng đó chỉ là lý thuyết. Thực tế, những người tự xưng là vô thần nhưng họ vẫn hằng tưởng niệm hương hồn của những người quá cố. Thậm chí họ còn tưởng niệm và suy tôn những vị đã chết cả hằng bao thập kỷ. Nhưng cách riêng đối với Kitô hữu chúng ta, chúng ta càng xác tín hơn là sự bất tử của linh hồn và sự sống lại của thể xác.
Có câu chuyện kể rằng, một lần kia ông Vontain một triết gia vô thần đã gặp Pascal và nói rằng, ông tin linh hồn bất tử và có sự sống lại đời sau để rồi trong đời sống hiện tại ông sống khắc khổ và đạo hạnh, với mình sống nhịn nhục, chịu thua thiệt với người khác, nếu không có đời sau ông là kẻ dại dột.
Pascal đã trả lời: ông nói đúng. Ông không tin linh hồn bất tử cũng không tin có sự sống đời sau nếu sống hưởng thụ thác loạn, nhưng nếu có đời sau thì ông là kẻ dại dột và ngu xuẩn hơn tôi, vì tôi chỉ thiệt thòi tạm đời này, còn ông, ông mất cuộc sống đời đời.
Niềm tin vào sự sống lại đời sau vừa là một khát vọng, vừa là một điều khó khăn đối với con người. Khát vọng vì con người không cảm thấy bằng lòng với cuộc sống này, không thể chấp nhận những bất công còn đầy dẫy trong cuộc sống này. Đó là điều mà không bao giờ con người có thể giải quyết nổi, không bao giờ chịu đựng được sự phi lý vì những mất mát chia lìa mà cuộc sống này phải đón chịu. Khó khăn vì người ta cảm thấy chắc tâm khi đạt được những thành công, tìm thấy những bảo đảm cho cuộc sống này để mình sung sướng, mặc dù đó chỉ là tạm bợ hơn là thả mồi bắt bóng. Ở thế giới bên kia, Vontain và những người Sađốc là những người muốn an tâm với những sung sướng hiện tại rõ ràng như thế.
Bài đọc 1 trong sách Macabêô, Vatiôcô và quan thần của vua và tưởng ai cũng thế nên lấy những hình phạt thể xác đe dọa các tín hữu, bắt họ phải làm những điều trái với niềm tin của họ. Niềm tin của người Kitô hữu phải là khinh chê cuộc sống này, không phải là để thả mồi bắt bóng nhưng là qui chiếu đời sống này vào Thiên Chúa. Để hoàn thành chương trình cứu độ, khi đó Người trả lại những mất mát, Người hoàn thành những khát vọng, Người nối lại những chia lìa, Người đổi những giới hạn nên một trời mới đất mới.
Người Kitô hữu ước vọng hạnh phúc đời sau không phải là người chán đời bi quan, nhưng là người tràn đầy yêu thương, sống mãnh liệt niềm tin khát vọng, thực hiện đời mình cho tốt đẹp hơn, muốn đem lại hạnh phúc cho người khác trọn vẹn hơn.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Xác tín điều này giúp cho người Kitô hữu vượt qua lòng ích kỷ, thắng vượt được sự nhát đảm và cảm nhận được giá trị của niềm vui đích thực, niềm vui là con cái Thiên Chúa bởi cuộc sống lại. Ước gì mỗi người chúng ta luôn xác tín niềm tin đó, niềm tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
--------------------------
Gần hết năm phụng vụ, nên Giáo Hội đề cập đến những vấn đề trọng đại hơn. Chúa nhật này: TN 32-C5
Gần hết năm phụng vụ, nên Giáo Hội đề cập đến những vấn đề trọng đại hơn. Chúa nhật này Giáo Hội nhắc lại giáo lý về mầu nhiệm xác con người sống lại và sự sống đời sau. Chúa nhật sau sẽ đề cập tới việc Chúa Kitô lại đến, tức là Chúa Kitô tái giáng để phán xét chung nhân loại. Như vậy, đề tài chúng ta cần tìm hiểu hôm nay đã rõ ràng, đó là sự sống lại và sự sống đời sau.
Bài Tin Mừng thuật lại một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người phái Sađuxêô. Phái này chỉ nhận có Ngũ Kinh, tức là năm cuốn sách đầu của bộ Cựu ước, nên những gì không chép trong đó thì họ không tin. Họ không tin Thiên Chúa quan phòng, không tin có đời sau, không tin linh hồn bất tử. Họ cho rằng linh hồn chết luôn cùng với thân xác. Họ càng không tin kẻ chết sống lại, vì linh hồn là điều kiện cho sự sống lại thì họ đã chối rồi. Cho nên họ dựa vào một khoản luật về thừa kế ghi trong sách Đệ Nhị Luật để chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề sống lại.
Trước hết họ tóm tắt khoản luật: trong anh em một nhà, nếu người anh có vợ rồi chết mà chưa có con, thì người em phải cưới người vợ góa kia để sinh con nối dõi cho anh mình. Rồi họ phịa ra một câu chuyện giả tưởng để hỏi Chúa: có một phụ nữ khi sống ở trần gian đã lần lượt lấy cả bảy anh em làm chồng. Vậy thì khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai ?
Chúa Giêsu trả lời: “Khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa mà sẽ sống như các thiên thần trên trời”. Qua đó Chúa bảo cho mọi người biết một chân lý: chắc chắn kẻ chết sẽ sống lại; và đời sống mới ấy ở trên thiên đàng khác hẳn đời sống hiện tại nơi dương thế.
Tất cả những ai, dù là Công giáo hay không, nếu đã tin linh hồn bất tử, thì đều tin có một kiếp sống khác. Tuy nhiên, ngoài Công giáo ra, những người tin vào luân hồi thì cho rằng: sau khi chết, linh hồn còn phải phiêu lưu trong nhiều số kiếp nữa, có thể là súc vật, cây cỏ hay con người. Nhưng tư tưởng luân hồi chỉ để an ủi những kẻ tội lỗi, hy vọng làm lại cuộc đời, chứ thực ra là vô lý. Bởi vì trước khi đi vào bước đường luân hồi, linh hồn ở đâu mà ra ? Lại nữa, nếu có một số linh hồn nhất định, rồi khi chết đám thì xuống hỏa ngục, đám thì đầu thai kiếp khác, đám nữa thì được hoàn toàn giải thoát, được “tiêu diêu nơi miền cực lạc” rồi, thì tại sao dân số hoàn cầu mỗi ngày cứ gia tăng mau lẹ, thử hỏi những linh hồn mới này, chưa có luân hồi lần nào thì do đâu mà xuất hiện ?
Hơn nữa, có ai biết kiếp trước mình làm gì không ? Kiếp đang sống là phần thưởng hay là hình phạt ? Mà tại sao không ai hay biết ? Kinh Thánh và Chúa Giêsu dạy rằng: người ta chỉ có hai kiếp phải sống và được sống: một kiếp sống tạm bợ và một kiếp sống vĩnh cửu. Một kiếp sống hiện tại và một kiếp sống tương lai. Một kiếp sống hành hương và một kiếp sống ở quê thật. Một kiếp sống ở trần gian và một kiếp sống thiên đàng hay hỏa ngục. Có vậy thôi, từ kiếp sống này qua kiếp sống bên kia thế giới, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần. Vì sống ở trần gian có một lần, một kiếp, cho nên, con người cũng chỉ có một linh hồn và một thể xác, chứ linh hồn không di chuyển từ thể xác này qua thể xác nọ.
Những người chấp nhận thuyết luân hồi đều không tin rằng thể xác con người ta sẽ sống lại, vì linh hồn đã du nhập biết bao thể xác, không biết thể xác nào sẽ sống lại với linh hồn ? Trái lại, người Công giáo tin chỉ có một linh hồn với thể xác, và một ngày kia, thân xác sẽ sống lại để cùng với linh hồn hưởng hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân muôn kiếp. Do đó, sự sống, sự chết và sự sống lại đối với người Công giáo thực là quan trọng. Bởi vì đối với chúng ta: được là được tất cả muôn đời, mà mất thì cũng mất tất cả đến vô tận. Còn theo thuyết luân hồi, thì rủi có sa đọa kiếp này, vẫn còn có thể gỡ gạc ở kiếp khác nơi trần gian, nên không lo. Tuy nhiên, điều quan trọng là thực sự có kiếp khác ở trần gian để gỡ gạc hay không ? Nếu không thì sao ? Mà chắc chắn là không có rồi.
Vấn đề sống, chết và sống lại còn quan trọng hơn nữa khi biết rằng đời sống trần gian là giá mua đời sống mai sau. Nói cách khác, kiếp sống mai sau có được hạnh phúc hay phải bất hạnh là tùy ở kiếp sống hôm nay thánh thiện hay tội lỗi. Nếu muốn sống hạnh phúc muôn đời thì phải làm những điều lành, còn nếu muốn bị xét xử và luận phạt, thì cứ làm những điều ác, điều xấu, điều dữ. Dĩ nhiên là Thiên Chúa trợ giúp, nhưng sự quyết định cuối cùng là ở con người tự do. Chúa không ép buộc ai vào thiên đàng, và cũng không xô đẩy ai xuống hảo ngục bao giờ.
Tóm lại, chắc chắn thân xác sẽ sống lại. Đây là một chân lý chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Nghĩa là tới ngày Chúa quang lâm, ngày tận thế, ngày cánh chung, mọi người sẽ sống lại. Nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỉ dữ, sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu lại là chuyện khác. Bởi vì kẻ lành cũng sống lại và kẻ dữ cũng sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt. Đó là điều khác biệt. Thiên Chúa sẽ căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta để thưởng phạt chúng ta. Đời này quyết định số phận đời sau của chúng ta, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”. Đúng như một bài hát: “Thiên đàng hỏa ngục hai quê. Ai khôn thì về ai dại thì xa”. Chúng ta vào số những người khôn hay những người dại ? Hoàn toàn do chúng ta quyết định bằng chính đời sống chúng ta sống hôm nay.
--------------------------
Trên thế giới hiện nay người sống thọ nhất có thể được khoảng 130 tuổi. Như vậy cho dù sống: TN 32-C6
Trên thế giới hiện nay người sống thọ nhất có thể được khoảng 130 tuổi. Như vậy cho dù sống thọ nhất là hơn một thế kỷ, con người cũng đến lúc phải chết. Đó là qui luật của muôn loài, qui luật sinh tử. Thế nhưng, chết rồi người ta đi đâu ? Những người không có đạo Công giáo hoặc đạo khác thì nghĩ rằng chết là hết hoặc sau khi chết sẽ đầu thai vào một kiếp khác.
Còn chúng ta, những người Công giáo chúng ta không như vậy. Giáo Hội dạy chúng ta rằng chết không phải là hết. Chúng ta đã được học giáo lý và mỗi Chúa nhật, chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.
Chúng ta tin có một cuộc sống sau cuộc sống đời này. Thế cuộc sống đời sau như thế nào ? Loài người chúng ta thì chưa có ai có kinh nghiệm về cuộc sống đời đời khi còn đang sống cả. Nhưng chúng ta được chính Chúa Giêsu, Đấng đã từ trời xuống, chính Ngài đã sống, đã biết đời sống đó nói cho chúng ta biết, nhân dịp những người thuộc phái Sađốc là những người không tin linh hồn bất tử, không tin có sự sống đời sau đến hỏi Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người Sađốc đã hỏi Chúa Giêsu về chuyện gì ? Đúng rồi, chuyện về bảy anh em cùng cưới một người phụ nữ theo luật Do thái. Họ thắc mắc với Chúa Giêsu là nếu sống lại thì ai sẽ là chồng của cô ta ?
Rõ ràng, vì không tin nên họ nghĩ rằng nếu có cuộc sống đời sau thì cũng như ở đời này, mà như thế thì sẽ xảy ra nhiều điều phức tạp khi sống lại. Chúa Giêsu nói: người ta ở đời này mới cưới vợ gả chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng. Họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại.
Vậy Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết cuộc sống đời sau, cuộc sống đời đời thì khác hẳn cuộc sống ở đời này. Thân xác phục sinh không còn là vật chất nên không còn phải lo ăn uống, ngủ nghỉ, đi lại, làm việc. Lúc đó, không còn chết nữa nên không cần phải có người nối dõi tông đường và vì thế không ai phải lo lấy vợ gả chồng nữa. Tất cả đều sống cuộc sống thiêng liêng như các thiên thần.
Mọi người được sống lại sẽ như nhau vì đều là con cái Thiên Chúa và họ sẽ sống một đời sống mới. Tôi xin kể câu chuyện sau đây: Dưới đáy một hồ sâu, giữa vũng nước đục và bùn đen có mấy con ấu trùng bàn bạc với nhau. Chúng băn khoăn tự hỏi tại sao trong bọn chúng, tất cả những ai leo dọc thân cây sen lên trên mặt nước đều không bao giờ trở lại nữa, và tất cả chúng đều đồng ý với nhau là rồi đây ai trong bọn chúng trèo lên trên mặt nước trước, sẽ trở lại để kể cho những ai còn ở lại biết được trên mặt nước có gì.
Ít hôm sau, một con ấu trùng cảm thấy như có một động lực nào thúc đẩy từ bên trong và bị thu hút bởi hơi ấm từ phía trên, nó bắt đầu trèo lên cây sen với hy vọng cuộc mạo hiểm ly kỳ trên mặt nước. Nó nghĩ bụng phen này nó sẽ giữ lời hứa, là sẽ trở lại kể cho chúng bạn nghe những gì nó trông thấy, những gì sẽ xảy ra đến với nó trên mặt nước.
Vừa ló đầu khỏi mặt nước, mắt nó liền hoa lên vì những sự ngạc nhiên mới lạ, trước hết là ánh sáng của mặt trời và hơi ấm của làn khí, trong khi ở dưới bị chìm ngập trong cảnh đen tối thất vọng vì không bao giờ trông thấy ánh sáng. Chẳng mấy chốc, nó thấy có cái gì lạ đang chuyển vận trong cơ thể, hình như nó đang thay hình đổi dáng, và từ trên thân thể mềm nhũn của con ấu trùng, nó bắt đầu trở nên cứng cáp hơn. Chỉ một lúc sau, từ cái vỏ của con ấu trùng nó đã bay ra thành một con chuồn chuồn có đôi cánh màu sắc rực rỡ. Thật chưa bao giờ nó nghĩ nó sẽ trở thành con chuồn chuồn với bộ cánh màu đẹp như thế, nó cứ yên trí nghĩ rằng, suốt đời nó mãi mãi sẽ là con ấu trùng như tất cả những con ấu trùng khác. Kế đó nó bắt đầu vươn vai dang cánh với chuyến bay đầu tiên, nó bay qua lượn lại trong không gian với tất cả niềm ao ước sẽ trở xuống đáy hồ để kể cho chúng bạn nghe bao nhiêu điều kỳ lạ.
Từ trên mặt nước trong suốt, nó nhìn rõ dưới đáy hồ và trông thấy chúng bạn, nhưng chúng bạn lại không nhìn thấy nó. Một lúc sau nó hiểu ra rằng, tìm cách trở lại dưới đáy hồ là công dã tràng, vì cho dù nó có trở xuống, nhưng với đôi cánh của nó thì chúng bạn sẽ không thể nào nhận ra nó vì nó đã được hoàn toàn biến đổi, hoàn toàn thay hình đổi dạng, nó đã trở thành một tạo vật mới như chưa từng nghĩ ra trước đó.
Qua câu chuyện chúng ta thấy rằng cuộc sống đời sau giống như hình ảnh con chuồn chuồn, khi đã lên khỏi mặt nước, một cuộc sống hoàn toàn biến đổi, hoàn toàn khác biệt so với cuộc sống ở dưới nước của những con ấu trùng, mà chúng ta có thể so sánh với cuộc đời hiện tại của chúng ta.
Người Kitô hữu chúng ta may mắn là được Chúa Giêsu cho biết trước là có cuộc sống đời sau thật. Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết là không phải tất cả đều được hưởng, nhưng chỉ những ai được xét là xứng đáng thì mới được hưởng phúc đời sau. Chính vì thế mà Giáo Hội đã dành cả tháng 11 trong năm để cầu nguyện cho những người đã qua đời nhưng chưa được hưởng cuộc sống đó. Vậy những người được coi là xứng đáng là những người nào ? Đó là những người đạo đức, thánh thiện, công chính và luôn sống theo ý Chúa trong cuộc đời mình.
Phần chúng ta, chúng ta còn nhỏ, chúng ta sẽ có những việc làm cụ thể để đáng được hưởng cuộc sống đời đời với Chúa đó là:
. Kính mến Chúa qua việc học hỏi giáo lý, siêng năng tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích.
. Yêu thương cha mẹ, thầy cô, bạn bè, ngoan ngoãn, trung thực và đặc biệt tránh xa mọi dịp tội bằng cách trước mỗi việc làm ta hãy tự đặt câu hỏi: việc làm này có giúp ta đáng được hưởng cuộc sống đời đời không ?
--------------------------
Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông có mấy câu: TN 32-C7
Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông có mấy câu thơ như sau:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh phù du trông thấy những nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời
Tiêu khiển một vài chung lếu láo”.
Qua đó chúng ta thấy Cao Bá Quát chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình.
Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mải mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp… Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không ? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy !
Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào?
. Trước hết ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình.
. Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt:
Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống.
Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình.
Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội.
Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau.
Chúng ta phải nhớ nguyên tắc “Gieo gì thì gặt nấy”: nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi ; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc ; nếu ta không đầu tư thời giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc.
Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng ta suy nghĩ:
Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.
--------------------------
Trong kho tàng chuyện cổ Tây phương có câu chuyện công chúa Ngủ Trong Rừng, như sau: TN 32-C8
Trong kho tàng chuyện cổ Tây phương có câu chuyện công chúa Ngủ Trong Rừng, như sau:
Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh được một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.
Dù không được mời, mụ phù thủy ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: “Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết !” Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: “Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi”.
Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu đài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết !
Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở.
Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chổi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình.
Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.
Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Văn: “Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.
Phái Xađốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta “không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” vì con người “không thể chết nữa”, nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được “sống ngang hàng với các thiên thần” là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa, được dự phần vào dòng dõi của Người. Thánh Phaolô đã viết: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang ; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí.
Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỉ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người công chính. Lời than thở của thánh Augustinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con, hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”.
Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.
--------------------------
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh: TN 32-C9
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy mình rời khỏi thân xác của mình, đồng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi rời khỏi thân xác.
- Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó.
- Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn và bứt rứt khó chịu, đồng thời Đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ chịu và hạnh phúc, đồng thời Đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do động cơ không yêu thương.
- Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần Đấng sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng ấy bảo: “Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận phải làm ở trần gian. Vậy con phải về”. Và khi đó là lúc họ tỉnh lại.
- Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách sống: từ đó trở đi họ không sợ chết nữa ; họ không coi trọng việc tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với mọi người bằng tình thương.
--------------------------
Bằng những cách khác nhau, tất cả ba bài đọc của thánh lễ hôm nay đề cập đến đề tài sự sống: TN 32-C10
Bằng những cách khác nhau, tất cả ba bài đọc của thánh lễ hôm nay đề cập đến đề tài sự sống đời đời.
Một ông già ốm yếu sống trong một túp lều ở bìa rừng. Một buổi sáng mùa đông, ông thức dậy tìm được một chén cháo còn sót lại, lò sưởi trống không, và tuyết rơi đầy mặt đất. Ông cảm thấy muốn cầu xin Thiên Chúa đem ông đi ra khỏi cuộc đời này cho xong. Tuy nhiên, ông thu hết chút ít can đảm để đi vào rừng tìm củi.
Ông kiếm được một bó củi to, rồi ông lấy dây cột lại và làm thành một cái nút. Tuy nhiên, khi ông cố gắng nâng bó củi để đặt lên vai, ông mới thấy rằng ông không thể nào nâng nó lên nổi. Một nỗi thất vọng tràn ngập tâm hồn ông. Ông nhìn lên trời và nói: “Lạy Chúa, Chúa cất con đi cho rồi, con không còn gì để thiết sống nữa”.
Bỗng chốc, một thanh niên vạm vỡ xuất hiện bên cạnh ông tự giới thiệu mình là Tử Thần và nói: “Ông gọi tôi đến phải không. Nào, bây giờ tôi ở đây rồi, tôi có thể làm gì cho ông?” Nhanh như chớp, ông già đáp: “Này cậu, cậu giúp cho tôi một tay để nâng cái bó củi này lên”.
Khi chúng ta càng sống, chúng ta càng thấy cuộc đời phù du ngắn ngủi. Và việc chúng ta níu kéo nó quả là bấp bênh không chắc chắn. Mặc dù tư tưởng chúng ta quen dần với cái chết thì điều đó không có gì là tiêu cực và bệnh hoạn. Thật vậy, nó có thể là một điều tích cực. Suy nghĩ về sự chết có thể dẫn đến tình yêu chân thực về sự sống. Khi chúng ta quen thân với sự chết , chúng ta chấp nhận mỗi ngày sống như một ơn huệ. Và khi chúng ta chấp nhận đời sống tuần tự như thế, nó trở nên rất quí giá.
Khi đối diện với tính chất phải chết, chúng ta tiếp cận với một đời sống khác, đời sống vĩnh cửu mà hạt giống đã được gieo trồng trong lòng và trong linh hồn chúng ta. Cái chết là sự vượt qua một đời sống mới, đời sống này (Như Đức Giêsu nói trong Tin Mừng) hoàn toàn vượt quá đời sống mà chúng ta biết hiện nay. Điều này xem ra rất đẹp, nhưng để hiểu ý nghĩa của nó không phải là chuyện dễ.
Chúng ta vượt qua đời sống mới ấy bằng nhiều giai đoạn nhỏ hơn trước đó. Khi chúng ta mới sinh ra đời, chúng ta đã thực hiện cuộc vượt qua từ đời sống bên trong bụng mẹ đến đời sống bên ngoài bụng mẹ. Khi chúng ta đi học, chúng ta đã thực hiện cuộc vượt qua từ đời sống trong gia đình đến đời sống trong một cộng đồng lớn hơn. Những người đã lập gia đình vượt qua từ đời sống với nhiều chọn lựa đến đời sống gắn bó với một người. Những người đã về hưu vượt qua từ đời sống có công việc như thế. Mỗi một giai đoạn dẫn đến một thứ chết đi nhưng cũng đưa lại một đời sống mới. Khi chúng ta sống những giai đoạn này cho tốt, chúng ta chuẩn bị chính mình cho sự vượt qua sau cùng của chúng ta.
Điều tốt nhất giúp chúng ta đối đầu với thực tế của sự chết là đức tin Kitô giáo của chúng ta. Đức tin làm chúng ta có thể đương đầu cái chết với lòng can đảm và hy vọng bởi vì chúng ta biết chúng ta có thể vượt qua nó trong Đức Kitô. Nhưng lòng can đảm và đức tin của những người như người phụ nữ và bảy người con trai của bà (Bài đọc 1) cũng được dùng làm gương sáng mạnh mẽ cho chúng ta bước đi theo họ trong đức tin. Các vị tử đạo khi làm chứng cho Thần Khí, cho chúng ta thấy rằng đời sống ấy mạnh mẽ hơn những sức mạnh của sự chết.
“Những chứng cứ dựa trên tính bất tử của linh hồn không ích lợi lắm. Đối với người Kitô hữu, nền tảng thật sự của tính bất tử là tình bạn với Chúa Phục sinh và với Thiên Chúa hằng sống. Như thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp” (Bài đọc 2)
Thiên Chúa đã hứa với chúng ta trong Đức Kitô và những lời hứa ấy là chắc chắn, không thể sai sót, cả cái chết cũng không thể hủy bỏ. Niềm hy vọng sống lại của chúng ta nằm trong quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết không là một kẻ thù đặt một dấu chấm hết cho mọi chuyện nhưng là một người bạn nắm tay và đưa chúng ta vào vương quốc của tình yêu vĩnh cửu.
--------------------------
Có hai loại can đảm. Loại thứ nhất ồn ào, giận dữ và quyết đoán và liên kết với những nơi như: TN 32-C11
Có hai loại can đảm. Loại thứ nhất ồn ào, giận dữ và quyết đoán và liên kết với những nơi như bãi chiến trường. Loại thứ hai im lặng, trong sáng và không quyết đoán. Tuy nhiên, nó hoàn toàn không khuất phục và không để nghiêng ngả theo những lời mua chuộc nào cũng như những lời đe dọa khủng khiếp nhất.
Chúng ta thấy một gương sáng của loại can đảm thứ hai trong câu chuyện người mẹ và bảy người con trai. Nhưng có những ví dụ gần với thời đại của chúng ta. Biến cố sau đây đã xảy ra trong một khu Do thái ở Đông Âu trong thế chiến thứ hai.
Nhà cầm quyền Đức chỉ định một người có tên là Ephraim vào chức vụ chủ tịch Hội đồng Do thái. Một ngày kia, họ yêu cầu Ephraim ra đi và suy nghĩ về điều ấy. Cuối cùng, ông trở lại và trình một danh sách cho nhà cầm quyền Đức. Khi họ xem xét danh sách, thay vì thấy ba mươi tên người, họ thấy một tên người nhưng viết làm ba mươi lần. Đó chính là cái tên Ephraim.
Ephraim biết rằng khi làm điều đó, ông đã ký án tử hình cho mình. Tuy nhiên ông đã từ chối phản bội bất kỳ anh chị em nào của mình, trước sự can đảm như thế người ta cảm thấy nghèo nàn.
Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng sợ hãi và can đảm loại trừ nhau. Nhưng không phải thế. Lòng can đảm không phải là luôn luôn không sợ hãi. Nó sợ hãi và vượt qua sợ hãi, hoặc tiến hành bất chấp sợ hãi. Nelson Mandella nói: “Tôi học được ý nghĩa của lòng can đảm từ các bạn của tôi trong chiến đấu. Nhiều lần, tôi đã thấy những người đàn ông và đàn bà chứng tỏ một sức mạnh và sự hồi phục thách thức trí tưởng tượng. Tôi đã hiểu rằng lòng can đảm không phải là sự vắng mặt nỗi sợ hãi mà là chiến thắng nó. Người can đảm không phải là người không cảm thấy sợ hãi, nhưng là người thắng nỗi sợ hãi ấy”.
Xác tín mình đang làm điều phải sẽ cho chúng ta một sức mạnh to lớn. Chúng ta hành động vì điều thiện hảo sâu xa nhất ở trong chúng ta – vì hình ảnh của Thiên Chúa trong lòng chúng ta.
Như thế, lòng can đảm là một nhân đức quan trọng bởi vì không có nó, bạn không thể kiên trì thực hành một nhân đức nào khác. Tuy nhiên, thế giới không cần có quá nhiều điều này trong đời sống mỗi ngày của nhiều người khi chúng ta nghĩ đến những nỗi đau khổ mà họ chịu đựng và những nhọc nhằn mà họ gánh vác. Lòng can đảm không to tát như khi leo núi cho bằng khi chấp nhận thất bại mà không mất tinh thần.
Mỗi Chúa nhật, chúng ta kết thúc kinh tin kính với những lời: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Tin vào đời sau là một trong những niềm tin quan trọng nhất của Kitô chúng ta. Không có đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian này là một cuộc hành trình không dẫn đến một nơi nào cả. Với đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian là một cuộc hành trình đến miền đất hứa của đời sống vĩnh cửu.
Hy vọng là một phần quan trọng của đời sống. Nếu cơ thể cần có lương thực, thì tinh thần cần có hy vọng. Chúng ta dành phần lớn cuộc đời mình để chờ mong, hy vọng và khát khao một điều này hoặc điều khác. Nhưng chúng ta biết rằng thế gian này không bao giờ có thể làm đầy những hy vọng và khát khao sâu thẳm nhất của chúng ta. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được điều ấy.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chết mà để sống đời đời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Viễn cảnh rực rỡ của sự sống vĩnh cửu phải làm cho chúng ta có thể sống vui vẻ mầu nhiệm thân phận mỏng giòn của con người vì nó nằm lơ lửng giữa đất và trời, giữa thời gian và vĩnh cửu, giữa hư vô và vô tận.
--------------------------
Chúng ta có thể dùng lý trí để biện luận rằng có đời sau. Nhưng những người đã làm chứng không: TN 32-C12
Chúng ta có thể dùng lý trí để biện luận rằng có đời sau. Nhưng những người đã làm chứng không phải bằng lời mà bằng công nghiệp và một đôi khi bằng cuộc sống của họ là những luận cứ tốt nhất. Đó là những vị tử đạo, bằng việc làm cho Thần Khí các ngài đã chứng tỏ rằng sự sống mạnh mẽ hơn sức mạnh của cái chết. Chúng ta nghĩ đến bà mẹ và bảy con trai của bà (Bài đọc 1). Nhưng có những tấm gương gần với thời đại chúng ta hơn.
Vào tháng 5 năm 1992, báo Observer đăng lại câu chuyện sau đây. Ba mươi nữ tu của Giáo Hội chính thống Nga bị Stalin giam giữ năm 1929 trong một nơi trước kia là tu viện của đảo Solovetsky trên bờ biển bắc của nước Nga. Như mọi tù nhân của các trại giam, người ta buộc các nữ tu phải lao động. Nhưng các nữ tu ấy cương quyết từ chối làm lao động và giải thích rằng họ không thể đồng ý “lao động cho những nhân viên của tên chống Kitô” (Antichrist).
Ban quản lý trại giam đã phản ứng nghiêm khắc. Nếu người ta không được y tế xác nhận không có khả năng lao động thì người từ chối lao động sẽ bị đánh đập và bị đưa đến một hòn đảo trừng trị mà không một ai còn sống để trở về.
Tuy nhiên, thật lạ lùng chính quyền trại giam dường như không muốn áp dụng sự trừng phạt ấy cho các nữ tu. Người đứng đầu bệnh xá của trại giam bối rối trước thái độ của các nữ tu. Dưới mắt ông, họ là những “tù nhân khó khăn”. Tuy nhiên thái độ của họ không giống những “tù nhân khó khăn” mà ông vẫn gặp. Thay vì kêu gào, la hét, các nữ tu chỉ bày tỏ sự đơn sơ, khiêm tốn và nhân từ.
Cảm thấy tiếc xót cho các chị ông yêu cầu một bác sĩ xác nhận các nữ tu không có khả năng lao động. Bác sĩ cũng là một tù nhân rất cảm kích trước các nữ tu, các chị bình tĩnh và tự chủ, ăn mặc chỉnh tề sạch sẽ. Khuôn mặt các chị tỏa ra một sự thanh khiết của tinh thần khiến người ta ngạc nhiên và sinh ra lòng tôn trọng sâu xa.
Bác sĩ cố thuyết phục các chị lao động, ông kể ra những gương lao động của các Kitô hữu khác. Khi thấy các chị không bị lay chuyển, ông nói ông sẽ nghĩ ra một bệnh nào đó cho các chị và tuyên bố các chị không có khả năng lao động. “Chúng tôi xin lỗi,”một nữ tu ngắt lời, “điều đó không đúng, chúng tôi mạnh khỏe. Chúng tôi có thể lao động. Nhưng chúng tôi không muốn lao động cho kẻ chống Kitô “.
Bác sĩ đã giải thích rằng các chị sẽ bị tra tấn và giết chết. “Thiên Chúa cũng sẽ giúp đỡ chúng tôi chịu đựng sự tra tấn,” một chị nữ tu bình thản đáp lại. Nhiều năm về sau, người bác sĩ ấy viết: “Nước mắt tôi trào ra. Tôi cúi đầu nhượng bộ các chị trong sự im lặng. Tôi đã muốn hôn bàn chân các chị”.
Ít lâu sau, các chị đồng ý may mền bông cho bệnh xá vì người ta cho phép các chị hát thánh thi nho nhỏ trong lúc làm việc. Tuy nhiên, một linh mục đến trại và nói với các chị rằng làm bất cứ việc gì cho các “nhân viên của kẻ chống Chúa” là sai lầm. Vì thế các chị từ chối lao động. Người ta lôi vị linh mục ra ngoài và bắn chết. Không bao lâu sau, các nữ tu cũng chịu chung một số phận.
Các nữ tu tỏ ra không lưỡng lự hoặc hoài nghi hoặc dao động. Nhưng điều đó không có nghĩa việc các chị làm là dễ. Mọi người đều thích sống. Các chị cũng thích sống nhưng không có nghĩa là bám lấy nó bằng mọi giá. Đối với họ, sự sống thật là sự sống muôn đời. Đức tin vào sự sống vĩnh cửu làm cho họ có thể hy sinh đời sống trần gian vì Đức Kitô.
Các nữ tu ấy, tín thác vào Thiên Chúa. Bà mẹ và bảy người con trai cũng đã làm thế. Chúng ta không làm gì hơn là noi gương tín thác Thiên Chúa của họ. Phaolô nói rằng chúng ta có niềm hy vọng chắc chắn. Niềm hy vọng này không bởi chính chúng ta mà bởi Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta là con cái Người. Người tạo dựng chúng ta để sống ở đây và sau này. Viễn cảnh rực rỡ ấy làm chúng ta có thể trân trọng sự sống mà không bám lấy nó. Và nó khuyến khích chúng ta sống một đời sống ngay lành.
--------------------------
Sống lại, là điều rất khó dung hợp được với khoa học, và rất khó giải thích cho con người ngày: TN 32-C13
Sống lại, là điều rất khó dung hợp được với khoa học, và rất khó giải thích cho con người ngày nay. Tuy vậy, nhiều người tin có sự sống mai hậu.
Niềm tin có sự sống mai hậu
Bài đọc trong sách Maccabêô cho thấy niềm tin sống lại nơi bảy anh em và người mẹ tuyệt vời. Con người có thể cướp mạng sống “chóng qua” của nhau, nhưng không thể cướp được sự sống đời đời.
Có người mẹ nào mà không thương con? Có người mẹ nào mà không muốn con mình sống? Người mẹ của bảy người con này thật tuyệt vời. Bà thương con và nuôi dạy con rất tốt. Bằng chứng là những người con vâng lời và kính trọng bà. Bà không chỉ muốn con mình sống, nhưng bà còn muốn con mình sống hạnh phúc vĩnh cửu. Bà biết ông vua độc ác có thể cướp mạng sống quý giá của những người con yêu của bà, nhưng Thiên Chúa sẽ trả lại cho chúng đời sống vĩnh cửu. Và bà đã can đảm khuyên con mình trung thành với lề luật Chúa, để được sống đời đời. Niềm tin sống lại nơi bảy người con, và đặc biệt nơi người mẹ, thật tuyệt vời.
Qua thái độ sống của người mẹ và bảy người con này, người ta nhận ra sự sống mai hậu tồn tại. Nếu không có sự sống lại, làm sao những người công chính dám chết? Làm sao các vị tử đạo dám chấp nhận cái chết?
Con người sống lại vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống
Những người thuộc phái Sađốc là những người quý phái và học thức thời Đức Yêsu. Họ không tin con người sẽ sống lại sau khi chết. Không chỉ thế, họ còn tìm được lý chứng để cho thấy tin kẻ chết sống lại là phi lý, và không hợp với luật Môsê nữa. Trường hợp họ hỏi Đức Yêsu hôm nay cho thấy điều đó: nếu tin kẻ chết sống lại, thì người đàn bà đã ăn ở với bảy anh em trong một nhà đó, sẽ là vợ của người nào?! Điểm tới của câu hỏi không là người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy người, nhưng là “tin kẻ chết sống lại là phi lý”.
Đức Yêsu cho họ thấy họ không hiểu sự sống đời sau. Đời sau không dựng vợ gả chồng, nên không có sự “phi lý” như họ tưởng. Và như vậy, việc kẻ chết sống lại, không phải là chuyện phi lý. Hơn nữa, lý luận của Đức Yêsu cũng rõ ràng. “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ không phải là Thiên Chúa của kẻ chết”. Nếu người chết không sống lại, Thiên Chúa có hay không có, Ngài như thế nào con người đâu cần bận tâm vì đâu có ích lợi gì cho con người! Nếu con người tin có Thiên Chúa, và tin rằng Ngài yêu thương con người, hàm chứa con người sẽ sống lại.
Con người sống lại, vì Đức Yêsu đã sống lại
Có một số người thời thánh Phaolô cũng không tin có sự sống lại. Họ cũng lý luận: làm sao người chết sống lại được, với thân xác nào người chết sống lại? Và thánh Phaolô đã trả lời: “chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cor.15, 44).
Lý luận chính yếu của thánh Phaolô về việc người chết sống lại: “Đức Yêsu đã sống lại”. Với Phaolô, Đức Yêsu đã sống lại nên kẻ chết sẽ sống lại (1Cor.15, 12). Nếu người chết không sống lại, thì Đức Yêsu sống lại để làm gì? Nếu người chết không sống lại, thì ki-tô hữu là kẻ ngu dại nhất, vì không biết tận hưởng những lạc thú đời này.
Con người sống lại, là hậu quả của tình yêu và công bằng. Vì yêu, mà Thiên Chúa cho con người sống lại để chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Vì công bằng, mà những người sống công chính được bù đắp những gì họ đã hy sinh trong cuộc đời tại thế này. Thực sự, những người công chính đã được bình an và hạnh phúc ngay trong đời này, thậm chí cả những lúc như thể họ tuyệt vọng. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu còn vượt xa điều họ đã nhận được tại cuộc đời chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là điều lợi và điều hại khi tin con người sẽ sống lại?
2. Bạn có muốn: con người sẽ sống lại không? Tại sao?
3. Theo bạn, làm sao để giúp người khác tin vào sự sống đời đời?
--------------------------
Charles Raven, một nhà học giả Thánh Kinh nổi tiếng đã viết về điều xảy đến cho ông khi người: TN 32-C14
Charles Raven, một nhà học giả Thánh Kinh nổi tiếng đã viết về điều xảy đến cho ông khi người vợ yêu dấu của ông qua đời. Ông nói: "Tôi cho rằng giây phút tuyệt vời nhất xảy đến cho tôi đó là vào buổi sáng sau khi người vợ yêu quý của tôi mất đi. Tôi đã ở bên cạnh vợ tôi suốt đêm, và rồi một người bạn đã đến và dẫn tôi ra khỏi căn phòng chết chóc đó để bước vào một buổi mai của vàng kim và ngọc thạch trong một nơi dễ thương nhất mà tôi chưa từng thấy. Bất thình lình, như vần thơ mà Shelley gọi là "vòm kính muôn màu," thế giới thần tiên rực rỡ, dương quang, và biển cả này, nổ tung và tan biến. Và tôi biết rằng thế giới này với tất cả diệu kỳ của nó, những chim chóc và muôn hoa mà tôi yêu thích ngay từ bé, và vẻ đẹp, vẻ đẹp của những người đã hướng dẫn tôi cách đại lượng và bất vị kỷ đối với nhu cầu của tôi, tất cả bề mặt của thế giới này chỉ là trung gian và qua nó mà chúng ta là con cái Thiên Chúa nghiệm ra để tiếp xúc với thế giới vĩnh cửu, trao đổi với nhau về những cảm nghiệm thoáng qua về thế giới đó, và tiến vào một đời sống không ở trái đất này."
Charles Raven đã nhận ra Thiên Chúa đã ban cho ông một cuộc đời mới. Dĩ nhiên, ông ta mang theo tất cả tình yêu và mọi điều kỳ diệu trong quá khứ, nhưng nó đã được trở nên mới! Điều mà ông ta cho là mang đến cho ông sự hoạn nạn ở cuối đường hầm đen tối lại trở nên một sự mới mẻ bắt đầu cho ông, trong một ngày mai tươi mới. Thiên Chúa luôn luôn làm điều ấy. Và rất có thể một trong các bạn đây cần phải nên nghe biết điều này và cảm nghiệm nó. Trên phương diện khác, sự thay đổi hỗn độn trong lúc này đối với chúng ta rất là quan trọng để nhận ra rằng Thiên Chúa thật sự hiện diện trong mọi biến cố này. Thiên Chúa luôn luôn hiện diện bên cạnh những vết cắt của đời chúng ta, trong Giáo Hội cũng như trong xã hội. Đặc biệt quan trọng cho chúng ta khi nhận ra rằng ngay khi trong những sóng gió và căng thẳng đó, Thiên Chúa bằng cách nào đó Ngài đang mở ra cho chúng ta một ngày mai đổi mới. Cũng luôn quan trọng cho chúng ta khi nhận ra rằng, thường thường trong những sôi động nhất chúng ta đã được ban những cơ hội tốt nhất để bước những bước thật dài vào một tương lai mới.
Một ngày mai tươi đẹp đang chờ chúng ta vì Tình Yêu đã tìm thấy lối. Có nghĩa là đang bắt đầu, ngay lúc này, các bạn có thể bắt đầu tích cực ra sức làm việc trong sự phát triển cá nhân và thăng tiến, biết rằng nó thật xứng đáng, biết rằng các bạn đang thật sự cất bước tiến lên, hiểu rằng các bạn đang được ở trong những chương trình Thiên Chúa đời đời. Điều tuyệt vời là các bạn có thể mang theo sự tin tưởng vào một ngày mai tươi mới trong mọi mối liên hệ, với gia đình và tha nhân. Các bạn có thể tiến vào mọi ngóc ngách của đời sống hoan lạc cá nhân mình với sự tuyệt đối chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với bạn, sẵn sàng ban cho bạn một sự bắt đầu mới, một cơ hội mới, một đời sống mới, thắng vượt ngay cả chính cái chết! Hơn nữa, chúng ta trong Giáo Hội và cộng đồng này có thể làm những điều gì đó giúp ích cho những vấn đề trong cộng đồng và thế giới vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang thật sự làm việc trong những biến cố đó.
Thế giới ngoài kia đang bị đen tối. Có quá nhiều vô vọng trong thế giới. Nó đang giẫy chết. Các bạn có nghe thấy tiếng rên la quanh chúng ta không? Họ đang kêu cầu mọi ngày, "Có Tin Mừng gì từ Giáo Hội không? Có Tin Mừng gì từ Lời Chúa không? Có dấu hiệu hy vọng gì mà bạn có thể chỉ cho thấy không? Có mục đích gì đối với cuộc sống chúng ta không?" Thì chúng ta ở đây trả lời, "Có, trong mỗi tin buồn đều có tin mừng hiện diện. Đức Kitô đã sống lại." Đức Kitô mang đến cho chúng ta sự sống mới và một ngày mai mới. Chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa mãi mãi trong Đức Kitô. Hay như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Lời Chúa hôm nay, trong sự vĩnh cửu của Thiên Chúa không có sự phân biệt giữa những điều mà chúng ta gọi là kẻ đang sống và đã chết. "Vì đối với Ngài," Chúa Giêsu nói, "tất cả đều đang sống" (Lk 20:38).
Chúng ta đang sống trong một thế giới rất bấp bênh về tương lai. Nhưng chúng ta nguyện rằng, "Nước Cha trị đến," bởi vì chúng ta biết rằng Tình Yêu đã tìm thấy lối và sẽ có một ngày mai! "Thiên Chúa không phải là Chúa của kẻ chết; nhưng là của kẻ sống. Tất cả đều sống cho Ngài."
--------------------------
Suy Niệm
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết. Một triết gia Đức bảo con người sinh: TN 32-C15
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết. Một triết gia Đức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người, nhưng nói chung ai cũng muốn sống. Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi. Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này định đoạt số phận vĩnh cửu của ta. Không có một cơ hội thứ hai để làm lại. Chính vì thế phải sống hết mình cho dời này để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Đời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau. Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất, và sống như thể chỉ có đời này. Đời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ. Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng đời sau là sự kéo dài của đời này. Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Đức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau. Đời sau khác hẳn đời này. Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Đời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết. Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Đời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo, và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau để gặp Đấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa, và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về cái chết? Cái chết của một người bạn hay một người thân có khi nào gây âm vang trong lòng bạn không?
Có khi nào bạn hình dung thiên đàng trong trí bạn không? Thiên đàng có hấp dẫn bạn không? Phải chăng thiên đàng chỉ có ý nghĩa khi bạn đã nếm được hương vị của tình bạn đối với Thiên Chúa ngay từ đời này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi ra thăm nghĩa địa, khi vào viếng phòng hài cốt, con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao mới dám nghĩ một ngày nào đó những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.
Con người trở về bụi tro, nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người, vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trần gian này quá đẹp khiến con mải mê, quên mình là lữ khách. Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con. Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân, như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất. Xin khơi dậy nơi con niềm khát khao những điều cao cả. Xin đừng để con mãn nguyện với những cái tầm thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao, khi con quên mình để sống cho anh em trên mặt đất.
--------------------------
2 Mc 7: 1-2:9-14; 2 Thes 2:16-3:5; Lc 20:27-38
Có một bà mẹ kia mang thai đôi, một đứa là trai và đứa kia là gái. Ngày tháng trôi qua, các: TN 32-C16
Có một bà mẹ kia mang thai đôi, một đứa là trai và đứa kia là gái. Ngày tháng trôi qua, các con bà dần dần lớn lên. Trong bụng mẹ, chúng nhận thấy: “Cuộc sống thật là tuyệt vời!”
Chẳng mấy chốc chúng thay đổi nhanh chóng. Người con trai hỏi: “Thế này nghĩa là gì?” Người con gái trả lời: “Đó có nghĩa là cuộc sống trong bụng mẹ chúng ta sắp sửa hết hạn.” Người con trai tiếp, “Nhưng tôi không muốn rời khỏi đây”. Người con gái trả lời: “Chúng ta không có sự lựa chọn, nhưng có điều là sau ki chúng ta ra khỏi đây thì chúng ta sẽ được sống.”
Người con trai đáp lại: “Chuyện ấy xảy ra thế nào được? Đường dây sống của chúng ta sẽ bị cắt đứt thì làm sao chúng ta sống được? Hơn nữa, qua dấu tích, chúng ta biết rằng đã có người ở nơi này trước chúng ta, nhưng sau khi họ rời khỏi đây, họ đã không bao giờ trở lại đây để nói cho chúng ta biết sự gì đã xảy ra sau khi ra khỏi đây. Nếu cuộc sống này sẽ tận cùng thì mục đích của nó là gì?”
Ngày cuối cùng trong dạ mẹ đã đến và hai người con trong bụng mẹ đều lo sợ đợi chờ sự gì sẽ xảy ra cho chúng. Sau hết, giờ phút chào đời đã đến. Khi hai người con được sinh ra, chúng mở choàng cặp mắt và hân hoan trong niềm vui vì thế giới mà họ nhìn thấy thật là tuyệt vời hơn lòng họ có thể mơ ước.
Câu chuyện trên là một câu chuyện ngụ ngôn. Nó so sánh cuộc sống hiện tại với cuộc sống ở trong bụng mẹ. Như hai người con đã tự hỏi cuộc sống sau khi sinh ra sẽ ra sao, thì chúng ta cũng có lúc đã tự hỏi cuộc sống sau khi chúng ta chết sẽ ra sao. Câu chuyện ngụ ngôn ở trên rất phù hợp với các bài đọc hôm nay. Cả bài đọc thứ nhất và bài Phúc âm đều nói đến sự sống sau cái chết.
Nói đến vấn đề sự sống sau cái chết, chúng ta có thể sẽ tự hỏi một câu hỏi rất thực tế: Nếu một người lúc nào cũng bận rộn bôn ba với cuộc sống thì làm sao mà có thể đạt tới được cuộc sống vĩnh cữu đời sau?
Câu hỏi này được đặt ra trong cuộc phỏng vấn của Doris Lee McCoy và Peter Coors. Khi cô McCoy phỏng vấn Peter đâu là bí quyết để được thành công thì ông đã trả lời như sau: “Đối với tôi, sự thành công rất đơn giản. Thứ nhất, khi cuộc sống của tôi hoàn tất, đứng trước mặt Thiên Chúa tôi cảm thấy rằng cho dùn đã phạm một số lầm lỗi, tôi vẫn có Thiên Chúa là trung tâm điểm của cuộc sống. Thứ hai, thành công đối với tôi là có một cuộc sống hôn nhân và một gia đình hạnh phúc. Thứ ba, thành công đối với tôi là sau khi mãn nhiệm kỳ, tôi có thể nói được rằng tôi không chỉ giúp cho hãng này mà thôi, nhưng còn cho tất cả từng công nhân của tôi nữa.”
Như vậy, một người lúc nào cũng bận rộn với cuộc sống thì vẫn có thể đạt tới được cuộc sống vĩnh cữu đời sau. Thứ nhất, chúng ta phải sống làm sao để khi chúng ta đối diện trước mặt Chúa, chúng ta sẽ vững tin rằng Thiên Chúa luôn là trung tâm điểm trong cuộc sống dương thế của chúng ta. Thứ hai, chúng ta phải làm sao để gia đình mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta được luôn sống thuận hòa hạnh phúc. Sau hết, chúng ta phải sống sao để công việc của chúng ta luôn luôn là những sự đóng góp tích cực không chỉ trong phạm vi công việc của chúng ta nhưng đối với tất cả mọi người làm chung với chúng ta nữa.
Nếu chúng ta có thể làm như thế, thì chúng ta đã sống một cuộc sống mà nắm chắc như thánh Phaolô đã hứa: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Ngài.”
--------------------------
Câu hỏi gợi ý:
Bạn nghĩ gì về việc nhóm Xa-đốc dùng kinh nghiệm cuộc đời này để áp dụng cho đời sống: TN 32-C17
1. Bạn nghĩ gì về việc nhóm Xa-đốc dùng kinh nghiệm cuộc đời này để áp dụng cho đời sống vĩnh cửu? Cách hiện hữu và sinh hoạt trong đời sống vĩnh cửu có giống như cách hiện hữu và sinh hoạt trong đời sống hiện tại không?
2. Một bào thai trong bụng mẹ – giả như biết suy nghĩ – có thể tưởng tượng được gì về cuộc sống sau khi ra khỏi bụng mẹ không? Tương tự, ta có thể nghĩ hay tưởng tượng được gì về đời sống vĩnh cửu mai hậu không?
3. Đời sống mai hậu có thể là một đời sống im lìm, chỉ làm một việc duy nhất nào đó không? Hay là một đời sống hoạt động và làm việc như Thiên Chúa là Đấng luôn luôn làm việc?
Suy tư gợi ý:
Mọi Ki-tô hữu đều tin vào sự sống lại
Nói chung, hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều tin rằng con người còn có một đời sống khác ngoài cuộc sống ở đời này. Nói cách khác, sự hiện hữu của mỗi con người thì rất lâu dài, còn đời sống tại thế này chỉ là một giai đoạn hết sức ngắn ngủi của sự hiện hữu ấy. Và cách thức con người sống trong đời sống tại thế này là một yếu tố quan trọng quyết định tình trạng của đời sống hậu thế.
Ki-tô giáo cũng chủ trương như thế, nhưng niềm tin vào cuộc sống mai hậu còn có những nét đặc thù riêng. Người Ki-tô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Giê-su, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. «Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. Cv 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Ki-tô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là người Ki-tô hữu.
2. Đời sống mai hậu là một thực tại siêu nghiệm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhóm Xa-đốc đã đưa ra một vấn nạn về cuộc sống mai hậu dựa trên ý nghĩ cho rằng cuộc sống ấy cũng có vợ có chồng, và vợ chồng cũng sống chung với nhau như ở trần gian. Nếu như thế thì vấn nạn họ đặt ra thật khó giải quyết: «trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?». Nhưng câu trả lời của Đức Giê-su cho ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đối với cuộc sống mai hậu, con người không hề có một kinh nghiệm nào và cũng không có một từ ngữ nào tương xứng để diễn tả. Thánh Phao-lô có nói về sự siêu nghiệm ấy như sau: «Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được» (1 Cr 2,9).
Tương tự như một anh chàng bị mù từ bẩm sinh, chưa hề có một kinh nghiệm gì về màu sắc. Đối với anh, không thể có cách giải thích nào giúp anh hiểu được màu sắc như người sáng mắt cả. Nếu anh hỏi màu sắc có phải tương tự như một cái gì đấy mà anh đã từng kinh nghiệm không, thì ta phải trả lời rằng không. Vì kinh nghiệm về màu sắc là một kinh nghiệm độc đáo của thị giác, mà những giác quan khác dù có tinh nhuệ đến đâu cũng không thể nào có được. Dùng những kinh nghiệm của các giác quan khác để diễn tả về màu sắc thì cũng giống như việc lấy giấy để làm nhà, hay lấy thước để đo độ lớn sự khôn ngoan của một người vậy.
3. Những gì xảy ra trong cuộc đời này có thể có liên hệ và ảnh hưởng đến đời sống mai hậu
Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng: nó ảnh hưởng một cách quyết định đến cách thế hiện hữu của ta trong cuộc sống mai hậu. Một người sống đầy tình người, đầy yêu thương ở đời này chắc chắn tình trạng đời sau sẽ khác hẳn với người đời này sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình. Đời này là nhân, đời sau là quả: nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, «cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt như thư Rô-ma và sách Khải huyền viết: «Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm» (Rm 2,6; Kh 2,23).
Cuộc sống ở đời này có nhiều điều xảy đến hết sức phi lý đến nỗi không thể hiểu hay cắt nghĩa được. Nhưng nếu có đời sống mai hậu, thì ta có thể an tâm chấp nhận sự «không thể hiểu hay cắt nghĩa được» ấy. Cuộc sống này so với cuộc sống mai hậu cũng phần nào tương tự như cuộc sống của ta trong bụng mẹ so với cuộc sống của ta ở ngoài đời. Khi ở trong bụng mẹ, nếu ta biết suy nghĩ và lý sự như hiện nay, chắc chắn ta sẽ nhận ra nhiều điều thật phi lý hoặc không thể cắt nghĩa được. Lúc đó ta sẽ không thể nào hiểu được Trời sinh ra đôi tai, cặp mắt, đôi tay, đôi chân là để làm gì, vì chúng hoàn toàn vô dụng trong cuộc sống bào thai. Chỉ khi ra khỏi bào thai, sống cuộc đời trần thế, ta mới thấy được sự hết sức hợp lý và dễ hiểu của những điều ta cho là hết sức phi lý kia. Cũng vậy, nhiều điều mà ta không thể hiểu nổi hiện nay – những đau khổ, những bất công, những phi lý trong cuộc đời hiện tại – sẽ trở thành hết sức hợp lý và dễ hiểu khi chúng ta bước vào đời sống mai hậu.
4. Đời sống mai hậu sẽ ra sao?
Đời sống mai hậu hoàn toàn vượt khỏi khả năng tưởng tượng và suy đoán của con người. Dù biết như thế, nhưng vì Thiên Chúa ban cho con người khả năng tưởng tượng và suy đoán, nên tôi vẫn thử sử dụng khả năng ấy một chút để mình có một hướng suy nghĩ hay hành động cho mình trong cuộc đời này. Những suy nghĩ sau đây là của riêng tôi, hoàn toàn mang tính cá nhân, nhưng tôi cảm thấy nó có ích ít là cho riêng tôi.
Tôi cho rằng sau khi chết, con người sẽ có một đời sống vĩnh cửu khác hẳn với đời sống hiện tại. Con người sẽ làm gì trong cái vĩnh cửu ấy? Chắc hẳn con người sẽ không ngồi một chỗ để nhìn ngắm Thiên Chúa, để ca tụng ngợi khen Ngài mãi mãi. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn luôn làm việc: «Cho đến nay, Cha tôi vẫn luôn luôn làm việc, thì tôi cũng làm việc» (Ga 5,17), nên chắc chắn là dù có ở thiên đàng thì ta cũng vẫn làm việc. Thiên Chúa sẽ mời gọi chúng ta tiếp tục cộng tác vào công việc sáng tạo mới của Ngài, với những công trình hoàn toàn mới. Từ xưa đến nay, Ngài vẫn luôn luôn mời gọi mọi người cộng tác vào công việc của Ngài. Có điều khác là sự làm việc ở trên thiên đàng không phát sinh mệt nhọc và đau khổ như ở dưới thế, mà là nguồn phát sinh cảm hứng và hạnh phúc. Và chắc chắn không phải mọi người đều cùng làm một việc như nhau, nếu thế thì thiên đàng chán ngắt, mà trái lại công việc sẽ rất đa dạng.
Nhưng làm sao ta có thể làm được những công việc ấy nếu chúng ta không được huấn luyện trước hay không có một kinh nghiệm gì? Tôi có cảm tưởng rằng cuộc đời này chính là một trường đào tạo tay nghề cho những công việc của đời sống mai hậu. Chính vì thế, ở đời này, Thiên Chúa đã để cho biết bao việc xảy đến để chúng ta tập đối phó, để luyện những đức tính cần thiết, để rút kinh nghiệm, để rèn đúc sự khôn ngoan, v.v…
Rất có thể Thiên Chúa sẽ tạo lập những thế giới mới và cho chúng ta cai quản, như Đức Giê-su đã từng hé mở điều ấy qua dụ ngôn mười nén bạc (Lc 19,11-27). Nhà vua nói với người nhận một nén và đã làm lợi thành mười nén: «Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi ! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành». Ngài nói với người làm lợi được năm nén: «Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành». Còn với kẻ chôn cất nén bạc và không làm lợi gì, nhà vua nói: «Hãy lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén». So với người được cai trị năm thành, chắc chắn người được cai trị mười thành trước đó phải chịu khó nhọc vất vả hơn, nhờ đó học hỏi được nhiều kinh nghiệm hơn, và vì thế xứng đáng cai trị nhiều thành hơn.
Vì tưởng tượng và suy nghĩ như thế, nên tôi tin rằng tất cả mọi phi lý bất công xảy đến cho tôi trong cuộc đời này đều có ý nghĩa của nó. Tất cả đều do Thiên Chúa đầy khôn ngoan gửi đến cho tôi để tôi tập luyện bản lĩnh của mình, hầu trở nên một người cộng tác đắc lực với Ngài trong công trình sáng tạo mới của Ngài mai sau. Viễn cảnh tưởng tượng ấy cho dẫu không đúng, thì nó cũng giúp tôi rất nhiều trong việc làm cho cuộc đời tôi có ý nghĩa và có đích hướng tới, đồng thời giúp tôi có hướng giải thích nhiều chuyện xảy ra trong cuộc đời mà trí khôn bình thường cho là phi lý và không thể chấp nhận được.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con nhận thức được tầm quan trọng của cuộc sống này trong việc chuẩn bị và quyết định cho số phận vĩnh cửu đời sau. Xin cho hiểu và nhận ra được sự khôn ngoan quan phòng rất tuyệt vời của Cha trong tất cả mọi biến cố xảy đến cho con ở đời này nhằm chuẩn bị hạnh phúc cho con ở đời sau. Amen.
--------------------------
Lm Anrê Dũng Lạc Trần Cao Tường
Bước vào mùa thu, trời bỗng trở lạnh, lá úa vàng rơi lả tả, lòng người tự nhiên thấy bâng khuâng. Lá còn, lá mất. Cái gì còn, cái gì mất, khó mà phân biệt được. Mọi sự đang nhìn thấy đó mà cũng chẳng phải vậy. Có cái gì xa hơn, cao hơn cái đang thấy.
THỜI ĐIỂM CẶP VỊT QUẤN QUÍT
Nỗi bâng khuâng này được diễn tả qua câu truyện nổi tiếng "Trên Ao Vàng" (On Golden Pond) với Henry Fonda đoạt giải Oscar về tài tử diễn xuất. Truyện kể về một cặp vợ chồng về già có thói quen chiều chiều đi dạo ở công viên, rồi sau đó ngồi nghỉ trên ghế bên cạnh hồ nước. Hai người thường nhắc lại cho nhau nghe những kỷ niệm của những năm chung sống: những ngọt bùi, những đắng cay, những thể hiện ước mơ trong đời...
Đây là cảnh một buổi chiều thu thật đẹp. Trời thanh thanh mở lên cao vút. Gió lay nhẹ cũng đủ làm cho từng ngàn ngàn chiếc lá vàng rụng rơi đuổi nhau trên đường vắng. Nắng hoàng hôn rực rỡ lạ thường, phản chiếu long lanh óng vàng trên mặt hồ như kết thành triệu triệu viên kim cương quí báu nhất đang nhảy múa. Cụ ông như khẽ rung lên một bài ca thuở yêu thương ban đầu mà vẫn còn sức lay động con tim. Đúng ra thì mùa thu đang hát, đang muốn thỏ thẻ một điều gì. Vì thế mà cụ ông muốn gợi lên cho cụ bà một khoảng trống để lắng nghe như lời thơ Lưu Trọng Lư vang vọng:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Ở công viên này không có nai vàng ngơ ngác, nhưng có một cặp vịt vẫn tung tăng quấn quít trên hồ nước mỗi buổi chiều, cũng giống cảnh vợ chồng già đang thủ thỉ.
Chiều nay, sau khi đi dạo, vợ chồng già cũng ngồi nghỉ trên ghế bên hồ nhìn mặt trời lặn xuống sau hàng cây xa xa. Nhưng kìa, sao hôm nay cặp vịt vẫn tung tăng mọi khi chỉ còn lại một, lủi thủi bơi tới bơi lui, chơi vơi tội nghiệp. Thấy thế, cả hai người bỗng dưng im lặng, không nói với nhau một lời. Một hồi lâu thì cùng một lúc cả hai chợt ngước lên ngơ ngác nhìn nhau, giọt nước mắt đã chảy ra từ hồi nào không biết!
Thì ra có quấn quít yêu thương mấy trên cõi đời này, rồi cũng phải đến một lúc chia lìa, mỗi người sẽ phải đối diện với vận mạng của mình trong cuộc sống vĩnh cửu, phía bên kia mặt trời lặn. Lúc này vợ chồng mới cảm được thấm thía lời của St Exupéry:
Yêu nhau không phải là nhìn nhau
Mà cùng biết nhìn về một hướng.
Nhạc sĩ Phạm Duy chắc cũng đã từng cảm thấy giây phút bâng khuâng ấy khi sửa soạn giã từ "những nẻo đường trần" để "nghe vang tiếng gọi càn khôn... đi vào Ngàn Mai", với khúc hát "Nắng Chiều Rực Rỡ" trong Mười Bài Rong Ca Hát Cho Năm 2000:
Chớ buồn gì trong giây phút chia lìa
Khi chiều về lung lay trúc tre.
Chớ buồn gì khi tan nắng đêm về...
Từng vạt nắng ấm êm
Còn là bao ước nguyện...
Thế kỷ này đang trong nắng ban chiều
Cho lòng người bâng khuâng nhớ nhau.
Trước cửa vào trăm năm rất xa vời...
CHUYỆN KHÓ TIN MÀ CÓ THẬT
Hai tổng thống của nước Mỹ bị ám sát là Abraham Lincoln và John Kennedy có nhiều điểm liên hệ trùng hợp rất lạ.
Cả hai đều bị ám sát vào ngày thứ sáu, và bị bắn vào đầu.
John Wilkes Booth ám sát tổng thống Lincoln sinh năm 1839. Lee Harvey Oswald ám sát tổng thống Kennedy sinh năm 1939.
Cả hai thủ phạm được biết đến qua tên gọi, tên đệm, tên họ. Và tên của họ đều gồm 15 chữ.
Booth chạy từ rạp hát ra và bị bắt tại nhà kho. Oswald chạy từ nhà kho ra và bị bắt tại rạp hát.
Cả hai đều bị ám sát chết trước khi được đưa ra tòa xử án.
Nhìn lui về trước thì thấy ông Lincoln đắc cử vào thượng viện năm 1846. Ông Kennedy đắc cử vào thượng viện năm 1946.
Ông Lincoln đắc cử tổng thống năm 1860. Ông Kennedy đắc cử tổng thống năm 1960.
Tên họ của ông Lincoln và ông Kennedy đều gồm 7 chữ.
Tên họ của nữ thư ký của tổng thống Lincoln là Kennedy. Tên họ của nữ thư ký của tổng thống Kennedy là Lincoln.
Người kế vị hai tổng thống đều xuất thân từ miền Nam Hoa Kỳ, và đều có tên là Johnson: Andrew Johnson kế vị tổng thống Lincoln, sinh năm 1808; Lyndon Johnson kế vị tổng thống Kennedy, sinh năm 1908.
TIN VUI TỪ BỐN TIẾNG KHÓC (Tin Vui 32C)
Đúng là đời người có thời có nhịp. Nhiều trường hợp tương tự có những trùng hợp lạ lùng, với những đường nét theo nhịp theo hướng nào đó trong một trật tự lớn hơn. Như nhịp cây kia, nẩy sinh vào mùa xuân, phát triển vào mùa hạ, rụng lá vào mùa thu, và nằm ngủ suốt mùa đông. Kìa, điệu nhạc "Bốn Mùa" của Vivaldi đang diễn tả bốn nhịp dòng đời. Có những lúc hoa nở hân hoan thì cũng có lúc lá rụng trụi cành tàn tạ bâng khuâng.
Đời người là một điệu vũ gồm bốn nhịp qua bốn tiếng khóc, như bốn lời tạ từ mà thăng tiến. Tôi đã có dịp tham dự "Điệu Vũ Bốn Nhịp" này trong một lớp học về tâm lý thực hành của Trường Linh Hướng ở Pecos, New Mexico. Bà Paula diễn khúc vũ hôm ấy vốn là một vũ sư người Anh. Trước khi diễn, bà kể về những nhịp của đời bà: những lúc lên cao vời vợi, những lúc bị vất xuống bùn đen, những lúc vật vã ghì lại nhất là vào nhịp cuối xuân xanh, và những lúc tóc bạc lá vàng răng rụng... Bà ta diễn hay quá, diễn được những gì đang ray rứt trong tim mỗi người. Và nhiều người tham dự đã bật khóc.
Tiếng khóc đầu tiên khi vừa ra khỏi lòng mẹ, tạ từ nơi đầy ắp yêu thương mà sinh vào vào trần thế như đã từng được diễn tả trong Đoạn Trường Tân Thanh:
thảo nào khi mới chôn nhau,
đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
Tiếng khóc thứ hai khi đến tuổi phải rời mái ấm gia đình mà bước chân vào đời lập thân. Bao nhiêu lo lắng, bao nhiêu muộn phiền.
Tiếng khóc thứ ba được các nhà tâm lý thời mới gọi là tiếng khóc trung niên (mid-life), khi đã vượt qua đỉnh đồi "over the hill". Mái tóc đen nhánh thuở nào nay bỗng xuất hiện vài sợi bạc, rồi bắt đầu pha chút muối tiêu, và khóe mắt thấy điểm vài vết chân chim. Cũng chính là lúc giật mình thấy tuổi xuân xanh đang chớm qua đi trên đầu.
Tiếng khóc thứ tư là tiếng khóc lá vàng rơi, giống như cặp vợ chồng già trong câu truyện "Trên Ao Vàng", lúc mà con người thấy rõ sắp tạ từ những gì trông thấy để đi vào một thế giới khác chưa rõ nét. Đây là tiếng còi xe lửa tốc hành vượt bờ sinh tử mà đi về quê hương Hằng Thể, đúng như niềm tin "Sinh Ký,Tử Qui" của người mình: sống là tạm gửi, chết mới là đi về. Vì thế mà người Việt gọi giờ chết là sinh thì, là lúc bắt đầu sống.
Mỗi một cuộc ra đi đều mang theo một tiếng khóc. Có khi ngắn gọn, đứt quãng, có khi dài lê thê. Có khi phát ra thành tiếng giẫy giụa, có khi dội vào trong tim trăn trở.
Người nhìn ra và hòa được vào nhịp thì an nhiên tự tại. Người cố ghì lại thì la hét vật vã, và nhiều khi trở thành những hiện tượng lố bịch, tạo ra những nhịp rối loạn bất ổn.
Bảy anh em nhà Macabêô trong Kinh Thánh đã giữ vững niềm Tin vào cuộc sống vĩnh cửu, nên có đủ can đảm chấp nhận bất cứ cực hình nào. Trái lại, tiền thân của thuyết duy vật là phái Sa-đu-sêu thì không thấy được gì bên kia cửa tử, suốt ngày chỉ biết lẩn quẩn ba chuyện trông thấy trước mắt như giành giật miếng ăn, thèm khát dục tình và đấu tranh quyền lợi. Chả lẽ con người sinh ra đó, lớn lên đó, vật vã bon chen, rồi già đi và lăn ra chết là hết chuyện. Cuộc đời chỉ có thế thôi sao?
PHÚT BẮT LẠI ĐƯỢC NHỊP
Tháng Mười Một trong truyền thống Đạo Chúa là tháng dừng chân nhìn thấy trước được những gì bên kia cửa tử. Giọt nước mắt của cặp vợ chồng trong truyện "Trên Ao Vàng" cũng có thể là chính giọt nước mắt của nhiều người lúc này, khi nhìn xa hơn về cuộc đời mà thấy hụt nhịp. Giọt nước mắt này có thể mặn đắng với những trăn trở vật vã, mà cũng có thể ngọt bùi với niềm tin vào nhịp dòng đời và vào đích điểm đời sống khi gặp được chính Chúa của Nguồn Sống miên viễn như tâm tình thánh vịnh 23:
Mênh mông đồng cỏ xanh rì,
Tôi no búp mới, tràn trề lộc non.
Mát trong nước sạch suối nguồn,
Cho tôi nằm nghỉ tâm hồn thảnh thơi.
Và xin cùng được hòa với nhịp vũ được diễn trong Sách Giảng Viên (3:1-4) của Kinh Thánh:
Mọi sự đều có lúc, mọi sự đều có thời dưới bầu trời:
Thời sinh ra và thời để chết,
Thời để trồng và thời để nhổ cây,
Thời để giết chết và thời để chữa lành,
Thời để phá và thời để xây,
Thời để khóc và thời để cười,
Thời để than van và thời để nhảy múa.
--------------------------
- Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
Lc 20:27-38
“Chết là hết.” Thời nào cũng có những con người xác tín như thế. Không phải chỉ khi khoa học kỹ thuật tiến bộ làm lắm kẻ đánh mất niềm tin vào thượng đế và sự sống mai sau. Vào thời Đức Giêsu nhiều người đã cho rằng chết là đi vào cõi hư vô tận tuyệt. Tiêu biểu là bè phái Sađucêô. Song, điều kỳ quái là đa số thành viên của phái này lại gồm toàn những tư tế đạo Do Thái.
Sađucêô và Pharisiêu là hai nhóm người từng chống đối và bắt bẻ giáo lý Đức Giêsu cách quyết liệt, dù rằng niềm tin và đường lối của họ khác biệt nhau. Pharisiêu tin vào sự sống lại, thiên thần và thần linh; Sađucêô phủ nhận tất cả. Pharisiêu coi trọng Ngũ kinh, sách Luật và các Tiên tri; Sađucêô chỉ nhìn nhận Ngũ kinh và luật Môisen. Pharisiêu trông chờ Đấng cứu thế; Sađucêô cho là mơ mộng viễn vông.
Ngoài ra, Sađucêô còn được biết đến như những kẻ chuyên cầu thân với chính quyền, tìm kiếm một sự ổn định trong việc tế tự và địa vị lãnh đạo. Thế nên hàng ngũ Sađucêô cũng có nhiều người là quan chức cao cấp, thương gia sừng sỏ, hay địa chủ giàu có. Họ chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa Hy lạp, nơi không quen với tư tưởng sống lại của thân xác.
Khi thấy đạo lý của Đức Giêsu thiên về việc sống lại giống như nhóm Biệt phái, mấy người Sađucêô đã bày trò chế diễu bằng cách nhắc đến luật “Anh Em Chồng” của Môisen. Luật ấy nói rằng: “Khi anh em của người nào chết đi mà không có con, vợ của người chết sẽ không được thuộc về ai khác ngoài nhà. Một anh em của chồng sẽ nhập phòng với nó và lấy nó làm vợ và giữ nghĩa anh em chồng với nó. Con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết. Và như vậy tên nó sẽ không bị xóa khỏi Israel.” (Thứ Luật 25:5-7)
Vấn đề được đưa ra: Vậy khi sống lại, ai sẽ được chính thức làm chồng của người đàn bà kia, và ai sẽ phải cam chịu sống cảnh cô đơn đời đời?
Nhưng Đức Giêsu đã dùng chính vấn nạn đó để mạc khải một chân lý của sự sống mai sau. Chân lý đó không ai có thể tượng tưởng ra. Như thai nhi trong lòng mẹ không thể biết mình sẽ sống thế nào sau khi chào đời, thì một con người cũng sẽ không thể hiểu thấu thế giới bên kia cửa chết ra sao sau khi qua đời.
Song Đức Giêsu đã tiết lộ cho con người biết đôi điều căn bản. Thứ nhất: có hạnh phúc mai sau. Hạnh phúc đó không phải ai cũng có được. Người ta sẽ phải trải qua giai đoạn chịu xét xử, và “ai được xét là xứng đáng” thì mới được tặng ban (Lc 20:35).
Điều thứ hai: ai được thưởng cho sự sống lại sẽ không phải chết nữa. Ở đó “họ sống như các thiên thần” (Lc 20:36), tức là không còn chuyện cưới vợ, lấy chồng, sinh con. Như thế sự sống mai sau sẽ không diễn ra theo kiểu con người trần thế đang có. Người ta không thể chết nên không cần truyền sinh.
Điều thứ ba: “Họ nên con cái Thiên Chúa.” Có lẽ không gì tuyệt vời hơn, giá trị hơn, và hạnh phúc hơn khi hoàn toàn bước vào mối liên hệ thiết thân với Đấng Tạo Hóa. Được nối kết với Thiên Chúa Tình thường, chính là hạnh phúc đích thật mà “muôn loài thọ tạo ngong ngóng đợi chờ” (Rm 8:18).
Thương yêu là cội nguồn của hạnh phúc. Hạnh phúc nào cũng cần có yêu thương. Ngay những hạnh phúc chóng qua ở đời nầy lắm khi cũng không thể vắng bóng chữ “yêu”. Ví dụ: kẻ cảm thấy “hạnh phúc” nếu có tiền, thì đã là người “yêu tiền”; kẻ “sung sướng” vì được chức vị cao sang thì đã là người “yêu quyền”; kẻ “vui thú” vì thỏa mãn nhu cầu thân xác đã là người “yêu xác thịt”. Đối tượng tình yêu càng chóng qua, hạnh phúc tìm đến càng chóng tàn. Thế nên được liên kết với Yêu thương chân thật chính là hạnh phúc sâu xa mà Đức Giêsu muốn mạc khải cho con người. Không còn cách nào tuyệt diệu hơn để diển tả hạnh phúc của sự sống đời sau đó.
Nếu không có sự sống mai ngày, sự sống hôm nay quả đang đi vào ngõ bế tắt. Bởi sự chết sẽ thống trị tất cả. Rồi đây kẻ sang người hèn cũng như nhau. Bậc đạo đức tốt lành cũng không hơn gì kẻ gian ác mưu mô. Người dấn thân phục vụ cũng chẳng khác gì kẻ tàn phá giết hại sinh linh.
Nếu không có sự sống lại thì “ta ăn đi, uống đi, vì mai ngày ta sẽ phải chết” (Is 22:13)
Nếu không có sự sống lại thì “lời rao giảng của chúng tôi thật hư không... và việc anh em cũng hão huyền” (1 Cor 15:12-17)
Nhưng nhờ tin vào sự sống đời sau, với xét xử công bình và thưởng phạt phân minh, tôi vững vàng bước đi trong yêu thương, ngay chính, với hy vọng trở nên con cái của sự sống lại, để sống hạnh phúc và sung mãn muôn đời.
--------------------------
- Lm Louis Hữu Độ, CMC
Lc 20:27-38
Người ta liệt kê cuộc sống trung bình của một con vật như sau: Con cừu sống khoảng 15 năm, con sư tử chừng 25 năm, con ngựa chừng 30 năm, con đà điểu được 50 năm, con voi khoảng 60 năm, con quạ 70 năm, riêng con tuổi thọ trung bình là 64 năm. Người Nhật có số tuổi thọ cao nhất trên thế giới: Đàn bà sống thọ 82 năm, đàn ông thọ trung bình 76 năm.
Sự sống tự nó là một quà tặng quý giá Thiên Chúa ban cho con người và cho con vật. Tuy nhiên đối với con người giá trị cuộc sống không nằm ở chỗ sống lâu nhưng ở chỗ sống có ý nghĩa.
Bài đọc I và bài Phúc âm hôm nay dạy cho chúng ta biết muốn sống có ý nghĩa là phải sống cho Thiên Chúa. Bảy anh em trong sách Macabêô vì Thiên Chúa sẵn sàng chịu chết còn hơn phạm lề luật Chúa truyền. Họ đã khôn ngoan bỏ cái mạng sống mong manh, tạm thời ở đời này để chiếm lấy sự sống vĩnh cữu đời sau. Qua bài Phúc âm, Chúa Giêsu tuyên bố: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống” và Ngài kết luận “vì mọi người đều sống cho Chúa”.
Sống cho Thiên Chúa là sống làm sao? Chúng ta trở lại Phúc âm để tìm câu giải đáp này. Phúc âm kể: “Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Chúa Giêsu đứng trong đền thờ và lớn tiếng nói rằng: ‘Ai khát, hãy đến với Ta; Ai tin vào Ta, hãy đến mà uống’. Như Kinh thánh đã viết: “Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” (Ga 7:37-38)
Với thời điểm là tuần lễ Lều, với không gian là trong đền thờ, Chúa Giêsu đã chọn để tuyên bố một điều gì dĩ nhiên điều đó phải quan trọng, muốn cho người biết tới. Điều quan trọng đó chính là Sự Sống Đời Đời. Như vậy, sống cho Thiên Chúa là:
Thứ nhất: Chúng ta hãy đến với Thiên Chúa, coi Ngài là Lý Tưởng chúng ta phải theo đuổi, phải vươn lên. Cuộc đời không có Lý Tưởng là cuộc đời vô ý nghĩa; nhưng nếu Lý Tưởng đó không quy về Thiên Chúa thì sớm muộn cũng hão huyền, cũng phù vân.
Thứ hai: Sống cho Thiên Chúa là chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa là “Đấng Tuyệt Đối” đáng tin tưởng, là Hạnh Phúc vĩnh cửu chúng ta nhắm tới. Còn tất cả: người nào, biến cố nào, hạnh phúc nào, văn minh nào, lịch sử nào... cũng chỉ là tạm thời, thay đổi, bất toàn và bấp bênh.
Thứ ba: Sống cho Thiên Chúa là chúng ta hãy đến mà uống. Bởi Thiên Chúa là nguồn Thiện Hảo không bao giờ cạn. Ở nơi nguồn này, chúng ta tìm được sức mạnh để chiến đấu, để nhẫn nhục chịu đau khổ và để hăng say làm việc lành.
Bước vào trần gian này có những câu hỏi rất quan trọng chúng ta phải tự hỏi và phải tìm câu giải đáp. Một vài những câu hỏi lớn đó là: Tôi sống cho ai? Sống với mục đích gì? Và sau cuộc sống trần gian này tôi sẽ đi đâu? Hạnh phúc cho chúng ta nếu chúng ta biết sống cho Thiên Chúa.
--------------------------
Lm Stêphanô Bùi Thượng Lưu
2 Macb 7:1-2.9-14; 2 Tx 2:16-3:5; Lc 20-27-38
Theo những bảng thống kê về niềm tin của con người ở thời đại hôm nay vào cuộc sống trường sinh bất diệt mai sau, thì có tới quá phân nửa không tin gì ở cuộc sống mai hậu. Đối với họ, chết là hết. Họ cũng giống như những người thuộc phái Sađđucêô trong bài Phúc âm hôm nay, một giáo phái gồm những người được tuyển lựa trong hàng quý tộc của các thầy cả ở Giêrusalem, chỉ nhận 5 cuốn đầu của Cựu ước kinh là được mạc khải, phủ nhận sự sống lại, cuộc sống trường sinh, việc thưởng phạt kẻ lành người dữ và sự hiện hữu của các Thiên thần.
Nhân giả thuyết một bà có bảy đời chồng: tất cả 7 anh em đã cưới bà và đều đã chết, phái Sađđucêô đưa ra vấn nạn sau đây: “Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? Vì tất cả 7 người đều lấy người ấy làm vợ.” Thâm ý của họ khi đưa ra giả thuyết là muốn chứng minh sự phi lý của cuộc sống mai hậu để đi đến việc phủ nhận đời sống ấy. Chúng ta hãy lắng nghe câu trả lời của Chúa Giêsu:
“Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng, họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như Thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại.”
Câu trả lời trên của Chúa Giêsu đã làm đảo lộn những lý luận của phái Sađđucêô và mạc khải cho chúng ta những chân lý căn bản về cuộc sống trường sinh bất diệt, về bản tính của những “con cái của sự sống lại.”
Câu trả lời trên của Chúa Giêsu đã làm đảo lộn những lý luận của phái Sađđucêô và mạc khải cho chúng ta những chân lý căn bản về cuộc sống trường sinh bất diệt, về bản tính của những “con cái của sự sống lại.” Tất cả những chân lý ấy đều được đặt trên nền tảng chính yếu: Thiên Chúa hằng hữu, hằng sống và chân thật. Chúa Giêsu đã nói đến đức tin vào Thiên Chúa hằng sống của các tổ phụ dân Do thái: Môisen, Abraham, Isaac và Giacob: “Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môisem đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac và Thiên Chúa Giacob. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống.” Biến cố vĩ đại nhất của mạc khải và cũng là nền tảng kiên cố nhất của đức tin Kitô giáo, đức tin vào ơn Cứu độ của Thiên Chúa trao ban cho con người, đức tin Kitô vào cuộc sống trường bất diệt, chính là biến cố Phục sinh vinh quang của Đức Giêsu Kitô.
Hội thánh dành cả tháng 11 để tưởng niệm các linh hồn. Chúng ta quen gọi là tháng các linh hồn. Cả chu kỳ phụng vụ ấy, Hội thánh không những kêu mời tất cả tín hữu cầu nguyện, làm việc lành phúc đức, dâng lễ để xin Chúa nhân từ cứu vớt những linh hồn còn đang phải giam phạt trong luyện ngục. Đó là sự hiệp thông giữa Hội Thánh chiến đấu lữ hành với Hội thánh đang được thanh luyện nhờ công nghiệp cứu chuộc cực thánh của Chúa Giêsu.
Tháng các linh hồn còn là lời tuyên xưng đức tin về cuộc sống mai hậu của Hội thánh: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.” Niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau. Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống trường sinh bất diệt mà Thiên Chúa hứa ban cho tất cả những ai đặt tin tưởng nơi Ngài khiến 7 anh em trong sách Macabêô can đảm sẵn sàng chịu chết. Hồi ấy, vào khoảng năm 167 trước Chúa Giáng sinh, dân Do thái nổi lên chống vua Antiochus Epiphane. Vua này bắt dân thờ thần Zeus thay thế Thiên Chúa. Có rất nhiều người trung thành tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Giavê và bị hành hình. Bẩy anh em và bà mẹ bị bắt, bị vua cho đánh bằng roi da và roi gân bò, bị chịu thử thứ cực hình, nhưng tất cả đã mạnh bạo tuyên xưng đức tin “Chúng tôi sẵn sàng chịu chết hơn là phạm đến lề luật Thiên Chúa đã truyền dạy cho tổ phụ chúng tôi. Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời.”
Can đảm và hào hùng thay cái chết của những người đặt niềm tin vào Chúa và cuộc sống trường sinh bất diệt. Đức tin đòi mỗi người tín hữu một thái độ can đảm, dám sống ngược lại trào lưu hiện đại. Đức tin phải được chứng minh bằng việc làm. Niềm tin Phục sinh phải thực sự biến đổi nếp sống hiện tại của người Kitô hữu: chúng ta đã được chôn táng với Đức Kitô qua phép Rửa tội, chúng ta cũng sẽ được phục sinh vinh quang với Người. Niềm tin căn bản đó phải là kim chỉ nam cho tất cả cuộc đời tại thế: “Nếu anh em đã đựơc cùng sống lại với Đức Kitô, hãy tìm kiếm các sự trên trời: chíny nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Hãy trìu mến những việc trên trời, chớ xu hướng sự vật dưới đất.” (Colossê 3: 1-2)
--------------------------
2 Mcb 7:1-2. 9-14; 2 Tx 2: 16-3:5; Lc 20: 27-28
Hầu hết nhân loại đều tin con người qua khỏi đời này, sẽ có một cuộc sống khác: một cuộc sống đời sau, một cuộc sống lại, không phải chết là hết. Nhưng có một số người không tin có sự sống khác sau khi chết, nên họ đã đặt ra những vấn nạn vô lý.
Thời Đức Giêsu, phái Sa đốc (Sadducéen) không tin có sự sống lại. Họ đã tưởng tượng ra câu chuyện khá lố bịch để hỏi Đức Giêsu: “Nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Môsê, người em phải lấy chị góa để có con nối dòng, và cả bảy anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị góa đó là vợ ai?”
Nếu nhận có sự sống lại theo họ nghĩ thì thật căng, thật khó xử và gây rất nhiều rắc rối. Vậy phải chấp nhận không có sự sống lại là khỏe, là giải quyết êm đẹp mọi vấn đề rắc rối! Họ khoái trí với lý luận đó và nhiều lý luận quá vật chất như thế. Lý luận của những người dựa vào giả thuyết tiến hóa của Charles Robert Darwin (1809-1882) cũng thế. Giả thuyết này cho rằng: mọi sinh vật đều có chung một tổ tông. Những hình thức cao hơn của đời sống phát sinh từ những biến dạng của những hình thức đơn giản hơn (Funk & Wagnalls: Encyclopedia). Đó mới chỉ là giả thuyết (Hyphothesis) chưa được minh xác theo phương pháp khoa học. Nếu mọi sinh vật đều bởi một Ông Tổ vật chất nẩy sinh đột biến, thì chết đều trở về vật chất, không còn sự sống nữa.
Những người không tin có sự sống lại đó, họ vẫn xây những ngôi mộ thật đẹp, những lăng tẩm thật vững chắc. Họ kỷ niệm ngày chết tổ tiên, anh hùng long trọng. Chẳng lẽ họ lại tô điểm cho cái xác đã rữa thối? tôn vinh những ngôi mộ bằng đất đá? Như vậy, miệng thì chối không có sự sống lại: nhưng việc họ làm chứng tỏ lòng họ tiềm ẩn một niềm tin sống lại. Nếu chỉ vì ghi công và noi gương các bậc anh hùng, vĩ nhân thì cách tốt nhất là ghi lại trong sử xanh lưu danh muôn thuở. Mồ mả quá tốn phí, lại chóng đổ nát. Những người nhân danh khoa học để chối không có sống lại, không có Thiên Chúa, mà xây mồ mả như thế là phản khoa học.
May mắn thay số người như vậy qua ít, so với hầu hết nhân loại tin có sống lại, tin có Thiên Chúa. Ông Eymieu đã công bố bảng thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19, thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert, người Đức cho biết, trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở bốn thế kỷ vừa qua, có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng (VQ. Đi Về Đâu – tr. 39, René Courtois: Des Savants Nous Parlent De Dieu, p. 11).
Các tôn giáo vĩ đại như Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo đều tin có đời sau. Vạn thế sư biểu như Khổng Tử tin rằng chết là an nghỉ ngàn thu. Khi Tử Cống xin nghỉ học về thờ phụng cha mẹ cho khỏi mệt, Khổng Tử bảo việc nào trên đời này làm trọn bổn phận đều rất khó nhọc, nghỉ sao được! Tử Cống thất vọng kêu lên: Vậy con không có lúc nào được nghỉ ư? Khổng Tử đáp: Có chứ, lúc nào con thấy cái huyệt đào nhẫn nhụi, cái một được đắp chắn, người đưa con bỏ về; bấy giờ là lúc con được nghỉ. Cống reo lên: “Vậy chết hay thật: quân tử thì được nghỉ ngơi, tiểu nhân hết làm bậy (Giảm chi, Đại vương THTH, tr 54). Khổng Tử còn dạy hiếu đối với cha mẹ: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế.” (Luận Ngữ II,5). Người Việt Nam tin chết là thể phách, còn là tinh anh, sinh ký tử qui; sinh là ký gửi, chết là về cội nguồn tinh anh.
Hầu hết nhân loại tin có sự sống đời sau, nhưng chưa biết rõ thế nào. Bậc chí thành như Khổng Tử đã thú nhận rằng: “Vị tri sinh, yên tri tử” (Chưa biết rõ cái lẽ sống, thì cái lẽ chết cứ để yên đó). Chỉ mình Đức Giêsu là biết rõ cái lẽ chết đời sau, Người nói:
Thứ nhất: Đời này cưới lấy chồng vợ, đời sau thì không. Những ai được xét xứng đáng thì được hạnh phúc đời sau. Xét như một cuộc thi tuyển, chỉ tuyển những người sống xứng đáng ở đời này mới được hưởng hạnh phúc đời sau.
Thứ hai: Họ sống lại được giống như thiên thần. Đời sống Thiên thần hoàn vượt trên tầm hiểu biết của trí thức khoa học, và vượt mọi kinh nghiệm của loài người. Thiên thần là bậc thiêng liêng tinh thần, không có hình hài thể xác, cho nên không bị chết nữa, và các ngài đang được hưởng hạnh phúc quang Thiên Chúa. Chúng ta khi được sống lại cũng được sống như các ngài. Chúng ta có thể ví đời sau khác với đời này, như đứa trẻ khác với khi nó sống trong bào thai, như con bướm khác với lúc nó là con sâu, như cây xanh tốt khác với hạt mọc nên nó. Tuy vậy, có sự tiếp tực từ bào thai sang đứa trẻ, từ con sâu thành con bướm, từ hạt giống mọc lên cây.
Thứ ba: Họ sống lại được làm con Thiên Chúa, sống thân mật với Thiên Chúa là Cha mà họ suốt đời kính mến hết lòng. Không còn vinh phúc nào hơn nữa, nên thánh Phaolô hằng “cầu xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã lấy lòng nhân hậu mà ban cho chúng ta được niềm phấn khởi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp” (Bài đọc II)
Sau hết: Họ sống lại vì Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống chứ không phải của kẻ chết. Thiên Chúa đã dựng nên họ, đã cứu chuộc họ, đã chọn họ, yêu thương họ như các tổ phụ Abraham, Isaác, Giacóp để họ sống hạnh phúc trong gia đình đầy yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải để họ chết. Lời tung hô Allêluia đã reo vang lên: “Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại, Người vinh hiển quyền năng, vạn vạn tuế!”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người.
Lạy Chúa là Cha chúng con, đã dựng nên và cứu độ chúng con. Xin cho chúng con luôn sống theo luật yêu thương của Chúa, dù gặp gian nan khốn cực đến đâu, chúng con quyết noi gương bảy anh em Macabê để được sống lại vinh phúc đời đời.
--------------------------
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
Như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, theo tiến trình Phụng Niên, chúng ta đang cùng với Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô liên quan đến Mầu Nhiệm Cánh Chung. Theo Phụng Vụ Lời Chúa đã, đang và sẽ được công bố trong bốn tuần cuối cùng này, tuần trước chúng ta đã cảm nghiệm Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ơn Cứu Độ, tuần này chúng ta tiến đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Xác Phục Sinh, tuần tới chúng ta sẽ sang đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ngày Thế Mạt, và tuần sau đó, tuần cuối cùng của Phụng Niên, Lễ Chúa Kitô Vua, Mầu Nhiệm Cánh Chung được kết thúc ở việc Chúa Hiển Trị.
Đúng thế, bài Phúc Âm theo Thánh Luca của Chúa Nhật 32 Mùa Thường Niên Năm C hôm nay cho chúng ta thấy Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Xác Phục Sinh, khi thuật lại những gì Chúa Giêsu trả lời cho những người thuộc phái Sađucê, thành phần được Phúc Âm mở ngoặc đơn chú thích là “những người không tin có vấn đề sống lại”. Phúc Âm không cho chúng ta biết lý do tại sao những người Sađucê này không tin có vấn đề phục sinh, mà chỉ thuật lại khúc mắc họ đặt ra liên quan đến xác thịt, đó là vấn đề một người phụ nữ làm vợ của cả bảy anh em một nhà, đoạn Phúc Âm Giáo Hội để trong ngoặc đơn không buộc đọc. Thật vậy, nếu vấn đề phục sinh liên quan trực tiếp đến xác thể hơn là đến linh hồn con người, thì ở đây những người Sađucê có lý để không tin rằng xác thịt con người có thể phục sinh. Bằng không, như vấn nạn họ đặt ra để biện minh cho niềm tin của họ về vấn đề xác thể con người không sống lại là: “Vậy khi phục sinh thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai?”
Không phải chỉ có những người Sađucê trong dân Do Thái, dân tôn thờ Thiên Chúa chân thật duy nhất, mới không tin xác loài người sống lại. Trái lại, như lịch sử cho thấy, thế gian đã không thể tin được những gì Kitô hữu chúng ta tin, nhất là niềm tin Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người và niềm tin Xác Loài Người Ngày Sau Sống Lại. Về niềm tin Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhận định trong Sứ Điệp Chủ Đề Gửi Cho Giới Trẻ để sửa soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XV tại Rôma trong Năm Thánh 2000 ở số 2: “Cái làm cho đức tin Kitô giáo khác biệt với tất cả mọi tôn giáo khác là ở niềm tin vào con người Giêsu quê Nazarét là Con Thiên Chúa, Lời Nhập Thể, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến trong thế gian”. Về niềm tin Xác Loài Người Ngày Sau Sống Lại, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 996 cũng đã công nhận và đặt vấn dề như sau: “Từ ban đầu, niềm tin vào sự phục sinh của Kitô giáo đã gặp phải những hiểu lầm và chống đối (x. Acts 17:32; 1Cor 15:12-13). ‘Kitô giáo bị chống đối hơn hết ở niềm tin xác thể phục sinh’ (Th. Âu Quốc Tinh En. In Ps. 88, 5: PL 37, 1134). Vấn đề sự sống con người tiếp tục ở một hình thái thiêng liêng sau khi chết nói chung rất dễ được chấp nhận. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể tin rằng thân xác đầy những chết chóc rành rành như thế lại có thể phục sinh để được sống muôn đời?”. Bởi thế, để chẳng những giải đáp cho riêng những người Sađucê đã đặt vấn nạn hợp tình hợp lý này, mà còn để mạc khải cho chung con người biết về hình thái phục sinh của thân xác con người sau này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, Chúa Giêsu đã xác quyết thế này: “Con cái đời này xe duyên kết nghĩa vợ chồng, chứ những ai được xét thấy xứng hợp với đời sau và với cuộc phục sinh từ trong kẻ chết thì lại không có như vậy. Họ trở nên giống như các thần trời và không còn phải chết nữa”.
Như thế, qua những lời minh xác này, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết rằng, một khi thân thể của loài người phục sinh thì không còn ở trong thể thức hữu hình và không còn sinh hoạt theo xác thịt nữa, song được trở thành thiêng liêng vô hình “giống như các thần trời”, và vì thiêng liêng vô hình “giống như các thần trời” như thế mà thân xác của họ sẽ “không còn phải chết nữa”. Tuy nhiên, việc sống lại của thân xác con người này áp dụng cho chung loài người hay chỉ xẩy ra cho riêng thành phần chiên được rỗi, chứ không thể nào xẩy ra cho thành phần dê bị hư đi đời đời? Bởi vì, trong bài đọc một hôm nay, Sách Macabê quyển thứ hai đã thuật lại lời của người con trai thứ tư trong 7 anh em tử đạo tuyên bố trước khi bị tử quyết như sau: “Tôi tự chọn lấy cho mình cái chết nơi tay con người ta, với niềm hy vọng nơi Thiên Chúa là sẽ được Ngài cho phục sinh; còn quí vị sẽ không có vấn đề phục sinh để được sống đâu”. Về vấn đề xác thể phục sinh này, theo niềm tin Kitô giáo, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo xác tín ở số 998, thì: “Tất cả mọi kẻ chết sẽ sống lại, ‘những ai làm lành thì phục sinh để được sống, còn ai hành ác thì phục sinh để chịu luận phán’ (Jn 5:29; x Dan 12:2)”. Ở số 999, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo còn xác tín rõ hơn như thế này: “Chúa Kitô đã sống lại với thân xác của Người…
Thế nên, trong Người, ‘tất cả mọi kẻ chết sẽ sống lại nơi thân thể như họ đang có hiện nay’, song Chúa Kitô ‘sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người’, nên một ‘thân xác thiêng liêng’ (Công Đồng Chung Latêranô IV năm 1215: DS 801; Phil 3:21; 1Cor 15:44)”. Nếu tất cả mọi người, dù họ là người lành hay kẻ dữ, thân xác của họ đều được sống lại như thế, thì có phải thân xác của cả người lành lẫn người dữ đều được “Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người’ hay chăng?
Đến đây chúng ta nên để ý đến hai vấn đề liên quan đến chính sự sống hay đến thực tại sống. Vấn đề thứ nhất, sống không phải chỉ là tình trạng tồn tại suông, như trường hợp của đất đá và tinh tú trên trời, dù có tồn tại cho đến thiên niên vạn đại, song loài khoáng chất hay khoáng vật, khoáng thể này cũng không có sự sống hay không sống như nơi loài thực vật, động vật và nhân vật. Vấn đề thứ hai, ở lãnh vực tự nhiên, sống là biết tùy theo cấp độ bản tính của mình. Chẳng hạn, sống ở loài thực vật là biết nẩy nở và phát triển tầm vóc của nó, sống ở loài động vật là chẳng những biết nẩy nở và phát triển tầm vóc như loài thực vật mà còn biết phản ứng và sinh tồn nữa, và sống ở loài “nhân linh ư vạn vật” là chẳng những biết nẩy nở và phát triển tầm vóc như loài thực vật, cũng như biết phản ứng và sinh tồn như loài động vật, mà còn biết cả chính bản thân mình lẫn ngoại tại của mình, tức là biết cả đến nguồn gốc và cùng đích của mình nữa, để loài “nhân linh ư vạn vật” này có thể sống trọn ơn gọi làm người của mình về phương diện luân lý. Và yếu tố làm cho các loài sinh vật có thể biết nẩy nở và phát triển tầm vóc, biết phản ứng và sinh tồn, biết nguồn gốc và cùng đích của mình đây là gì, nếu không phải là cái hồn chuyên biệt ở nơi mỗi loài, chẳng hạn, sinh hồn nơi loại thực vật, giác hồn nơi loài động vật và linh hồn nơi loài “linh ư vạn vật”. Chính vì hồn là yếu tố làm cho các sinh vật biết như thế mà một khi hồn ra khỏi xác, không còn nơi một sinh vật nào đó, thì sinh vật ấy sẽ chết đi, sẽ hoàn toàn không còn biết gì nữa, tức sẽ hết sống.
Ap dụng hai nhận định trên đây vào tình trạng sống lại nơi loài người thì dù tất cả mọi người, cả người lành lẫn kẻ ác, có được sống lại về phần xác đi nữa, song chỉ có thân xác người lành mới được “biến đổi nên giống như thân xác hiển vinh” của Chúa Kitô mà thôi; còn thân xác của kẻ dữ có sống lại thì chỉ ở trong tình trạng tồn tại chứ không có sự sống, Sự Sống Thần Linh. Và nếu sống là biết và biết là do hồn nơi sinh vật, thì chỉ có thành phần được cứu rỗi, được sống đời đời mới có Hồn Sống này thôi, đó là có Thần Linh Thiên Chúa, “Đấng ban sự sống” (Kinh Tin Kính), một Trạng Thái Hiệp Thông được Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan diễn tả ở đoạn 4 từ câu 12 đến câu 15 thế này: “Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nên trọn hảo nơi chúng ta. Chúng ta biết chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta là ở chỗ Ngài đã ban Thần Linh của Ngài cho chúng ta. Chính chúng ta đã nhận biết và có thể chứng thực là Cha đã sai Con đến cứu thế. Ai nhận biết Giêsu là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở trong họ và họ ở trong Thiên Chúa”. Vâng, nói đến phục sinh phải nói đến sự sống chứ không phải sự chết, cũng như nói đến Thiên Chúa không phải chỉ nói đến một Hữu Thể Tối Cao, một Nguyên Lý Đệ Nhất theo triết lý thần học, mà là nói đến Đấng Hằng Sống theo mạc khải đức tin, tức nói đến Vị “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của người sống”, như lời Chúa Giêsu xác định trong bài Phúc Âm hôm nay.
Còn về số phần của thành phần hư đi, trong đó có cả Satan cùng ngụy thần của hắn và kẻ dữ, dù ở trong tình trạng tồn tại, tình trạng của “cái chết lần hai” (Rev 20:14), họ vẫn nhận biết “Thiên Chúa chân thật duy nhất và Giêsu Kitô Thiên Sai” (Jn 17:3), nhưng việc nhận biết này, bấy giờ, trong cõi đời đời, chỉ phát xuất từ “Thiên Chúa là ánh sáng” (1Jn 1:5), là Chân Lý Tối Thượng như mặt trời chiếu trên loài tạo vật tự do không còn có thể phủ nhận và chối cãi được nữa, chứ việc nhận biết này không phát xuất từ Hồn Sống là Thần Linh hay Tình Yêu Thiên Chúa ở trong họ, từ chính Sự Thật ở trong họ. Không phải hay sao, chính vì không có Tình Yêu Thiên Chúa ở trong mình mà thành phần dê, theo Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25 câu 41, sau cuộc chung thẩm đã bị đời đời trầm luân hay sao? Trường hợp Satan và ngụy thần của hắn cũng thế, cũng không ở trong tình trạng đời đời bị hư đi hay sao, chỉ vì “nơi hắn không có sự thật”, như Chúa Giêsu cho biết trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 8 câu 44? Như thế, vinh hiển phát ra từ thân xác phục sinh của người lành, một thân xác được biến đổi nên giống như thân xác Phục Sinh hiển vinh của Chúa Kitô, không phải là phản ánh của Sự Thật tỏa ra nơi họ, là hoa trái của Đấng ở trong họ đã làm cho thân xác của họ sống lại (xem Rm 8:11; 1Cor 15:20) hay sao?
Đến đây, chúng ta mới thấy lời của đứa con trai thứ tư nói trong bài đọc thứ nhất hôm nay về số phận của thành phần kẻ dữ đời đời bị hư đi là chí lý: “còn quí vị sẽ không có vấn đề phục sinh để được sống đâu”. Và đến đây chúng ta cũng mới thấy lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm nay là một thực tại, đó là: “Con cái của sự phục sinh họ là con cái của Thiên Chúa”. Tóm lại, vấn đề phục sinh đây là vấn đề xác loài người sống lại, và tình trạng phục sinh về xác thể đây được áp dụng và xẩy ra cho hết tất cả mọi người, lý do là vì Thiên Chúa “đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), đã trở thành một con người có xác thể như mọi người. Tuy nhiên, Thực Tại Phục Sinh là thực tại của Sự Sống Thần Linh, của thành phần được rỗi, của thành phần khi còn sống nhờ Thần Linh Chúa “đã nhận biết và có thể chứng thực là Cha sai Con đến cứu thế”, bởi vì, thân xác tử giá nơi nhân tính của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, đã thực sự phục sinh từ trong cõi chết, tức chẳng những đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, mà còn trở thành “thần linh ban sự sống” (1Cor 15:45) “cho những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28).
Vấn đề thực hành sống đạo: Đối với Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh xác loài người sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu thực sự thân xác phục sinh của người lành sau này sẽ được biến đổi nên giống như thân xác hiển vinh của Chúa Kitô, thì phải chăng ngay từ đời này thân xác của họ, nhờ Thần Linh ở trong họ, cũng đã được từ từ biến đổi một cách nhiệm mầu rồi. Bởi vì, Vị Thần Linh ở trong họ này đã làm cho sự sống của Chúa Kitô biểu lộ nơi thân xác của họ (xem 2Cor 4:10-11), một thân xác không còn là một thứ võ khí cho sự dữ mà là cho sự công chính (xem Rm 6:13)?
(Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org buổi phát thanh thứ sáu mươi mốt, Chúa Nhật 11/11/2001)
--------------------------
Lk 20: 27-38- Sr Marcina Chuẩn, MCR
Chúng ta mới được nghe bài Phúc âm 2 tuần trước đây đề cập đến một nhóm người đầy uy lực quyền thế torng xã hội được mệnh danh là nhóm Biệt Phái. Chúa Nhật hôm nay chúng ta nghe thêm một hạng người nữa cũng đeo trong người đầy những danh vọng quyền thế vinh sang được gọi là nhóm Xađuxê, nhóm này chủ trương không tin có sự sống đời sau. Họ chỉ tôn thờ vật chất, chức tước, danh vọng trong xã hội mà thôi, nên việc kẻ chết sống lại là chuyện mơ hồ hoàn toàn hoang đường.
Vì thế, họ đưa ra một vấn nạn không thực tế chút nào hết để trình bày với Chúa Giêsu trong câu chuyện: Người đàn bà không may mắn cưới 7 đời chồng nhưng đều chết hết... Cuối cùng họ hỏi Chúa “Vậy người đàn bà đó sẽ thuộc về ai sau khi chết?” Họ chất vấn Chúa như vậy có ý bắt ép Ngài để từ chối việc phục sinh. Chúa thừa hiểu lòng trí thiển cận của họ nên đã tránh né những điều nhạo báng của họ bằng cách đưa ra những giá trị vĩnh cửu của sự sống lại, chứ không phải là một lối sống tầm thường trong các sinh hoạt hằng ngày như họ lầm tưởng.
Ngày nay trong xã hội không thiếu gì những Xađuxê sống chung quanh ta. Họ len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội, tôn giáo, các tổ chức, thậm chí ngay cả trong các cộng đồng giáo xứ, hội đoàn... Họ tìm mọi phương cách để xô đẩy con người vào cái vòng xoáy của đam mê danh vọng, của lạc thú tiền bạc. Họ hô hào và quảng bá những tư tưởng nghe thật hấp dẫn và hợp lý nhưng chung qui chỉ có mục đích là che giấu lương tâm để được tự do hành động theo ý mình, mà không bị ràng buộc vào luật lệ hay giới răn nào cả. Chính vì thế ta thấh biết bao nhiêu người bỏ tiền của ra để mua lấy cái chức giám đốc, mua danh vọng ở đời như một bảo đảm của đời sống họ. Hay biết bao người trẻ ngày đêm dầm mình trong việc hút sái, mê dâm... và cứ như thế chạy theo đam mê. Mục đích chỉ là tôn thờ chính mình vì đã được thỏa mãn...
Bài Phúc âm hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy suy ngắm ý nghĩa của sự sống đời sau và mục đích của sự chết. Cái chết mà chúng ta bắt gặp nằm dưới hình thức: chậm, bất ưng, già, trẻ, sau một tai nạn, hay một cơn bệnh dài. Lối đi của cuộc đời dẫn đến nấm mồ. Đó là một cuộc hẹn mà chúng ta không thể bãi bỏ được. Không có một mối đau khổ nào có thể sánh ví cảm nghiệm được bằng đứng trước nấm mồ của người thân hay bạn hữu. Cái chết đã giầy xéo và hủy hoại mối quan hệ trên trần đời, là thời gian đau buồn của những giọt nước mắt đắng cay. Không có cuộc ra đi nào buồn cho bằng sự ra đi của người thân yêu. Nhưng Chúa Kitô đã đem lại cho chúng ta một ý nghĩa và nguồn hy vọng mới, nếu không thì những biến cố xảy ra trong cuộc sống chúng ta sẽ không thể nào chấp nhận nổi. Chúa Giêsu, đến trần gian đã đem đến một ý nghĩa mới cho tất cả những ai ra đi. Người tín hữu luôn tin rằng chết không phải là hết dưới nấm mồ; nhưng cái chết là con đường dẫn tới sự sống vỉnh cửu; là nhịp bước mà Chúa mời gọi ta vào hưởng sự sống sung mãn với Ngài.
Trong Thánh lễ chúng ta tuyên xưng đức tin: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.” Lời tuyên xưng ấy có phản ảnh gì trong đời sống hay chỉ trên môi miệng qua đi. Vậy chúng ta có quan niệm gì về sự chết? Sợ hãi hay tuyệt vọng? Có cảm nghiệm được đau khổ hòa trộn với niềm vui vì được thông phần với sự phục sinh vinh hiển sống lại của Chúa Kitô ? Tháng 11 Giáo Hội nhắc nhở mọi người hãy dừng lại suy nghĩ cái chết của mỗi người không phải để lo lắng sợ hãi nhưng là chuẩn bị cho bàn tiệc vĩnh cửu trên nước trời đang đợi chờ chúng ta.
--------------------------
Suy tư gợi ý:
1. Mọi Ki-tô hữu đều tin vào sự sống lại
Nói chung, hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều tin rằng con người còn có một đời sống khác: TN 32-C25
Nói chung, hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều tin rằng con người còn có một đời sống khác ngoài cuộc sống ở đời này. Nói cách khác, sự hiện hữu của mỗi con người thì rất lâu dài, còn đời sống tại thế này chỉ là một giai đoạn hết sức ngắn ngủi của sự hiện hữu ấy. Và cách thức con người sống trong đời sống tại thế này là một yếu tố quan trọng quyết định tình trạng của đời sống hậu thế.
Ki-tô giáo cũng chủ trương như thế, nhưng niềm tin vào cuộc sống mai hậu còn có những nét đặc thù riêng. Người Ki-tô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Giê-su, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. «Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. Cv 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Ki-tô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là người Ki-tô hữu.
2. Đời sống mai hậu là một thực tại siêu nghiệm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhóm Xa-đốc đã đưa ra một vấn nạn về cuộc sống mai hậu dựa trên ý nghĩ cho rằng cuộc sống ấy cũng có vợ có chồng, và vợ chồng cũng sống chung với nhau như ở trần gian. Nếu như thế thì vấn nạn họ đặt ra thật khó giải quyết: «trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?». Nhưng câu trả lời của Đức Giê-su cho ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đối với cuộc sống mai hậu, con người không hề có một kinh nghiệm nào và cũng không có một từ ngữ nào tương xứng để diễn tả. Thánh Phao-lô có nói về sự siêu nghiệm ấy như sau: «Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được» (1 Cr 2,9).
Tương tự như một anh chàng bị mù từ bẩm sinh, chưa hề có một kinh nghiệm gì về màu sắc. Đối với anh, không thể có cách giải thích nào giúp anh hiểu được màu sắc như người sáng mắt cả. Nếu anh hỏi màu sắc có phải tương tự như một cái gì đấy mà anh đã từng kinh nghiệm không, thì ta phải trả lời rằng không. Vì kinh nghiệm về màu sắc là một kinh nghiệm độc đáo của thị giác, mà những giác quan khác dù có tinh nhuệ đến đâu cũng không thể nào có được. Dùng những kinh nghiệm của các giác quan khác để diễn tả về màu sắc thì cũng giống như việc lấy giấy để làm nhà, hay lấy thước để đo độ lớn sự khôn ngoan của một người vậy.
3. Những gì xảy ra trong cuộc đời này có thể có liên hệ và ảnh hưởng đến đời sống mai hậu
Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng: nó ảnh hưởng một cách quyết định đến cách thế hiện hữu của ta trong cuộc sống mai hậu. Một người sống đầy tình người, đầy yêu thương ở đời này chắc chắn tình trạng đời sau sẽ khác hẳn với người đời này sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình. Đời này là nhân, đời sau là quả: nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, «cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt như thư Rô-ma và sách Khải huyền viết: «Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm» (Rm 2,6; Kh 2,23).
Cuộc sống ở đời này có nhiều điều xảy đến hết sức phi lý đến nỗi không thể hiểu hay cắt nghĩa được. Nhưng nếu có đời sống mai hậu, thì ta có thể an tâm chấp nhận sự «không thể hiểu hay cắt nghĩa được» ấy. Cuộc sống này so với cuộc sống mai hậu cũng phần nào tương tự như cuộc sống của ta trong bụng mẹ so với cuộc sống của ta ở ngoài đời. Khi ở trong bụng mẹ, nếu ta biết suy nghĩ và lý sự như hiện nay, chắc chắn ta sẽ nhận ra nhiều điều thật phi lý hoặc không thể cắt nghĩa được. Lúc đó ta sẽ không thể nào hiểu được Trời sinh ra đôi tai, cặp mắt, đôi tay, đôi chân là để làm gì, vì chúng hoàn toàn vô dụng trong cuộc sống bào thai. Chỉ khi ra khỏi bào thai, sống cuộc đời trần thế, ta mới thấy được sự hết sức hợp lý và dễ hiểu của những điều ta cho là hết sức phi lý kia. Cũng vậy, nhiều điều mà ta không thể hiểu nổi hiện nay – những đau khổ, những bất công, những phi lý trong cuộc đời hiện tại – sẽ trở thành hết sức hợp lý và dễ hiểu khi chúng ta bước vào đời sống mai hậu.
4. Đời sống mai hậu sẽ ra sao?
Đời sống mai hậu hoàn toàn vượt khỏi khả năng tưởng tượng và suy đoán của con người. Dù biết như thế, nhưng vì Thiên Chúa ban cho con người khả năng tưởng tượng và suy đoán, nên tôi vẫn thử sử dụng khả năng ấy một chút để mình có một hướng suy nghĩ hay hành động cho mình trong cuộc đời này. Những suy nghĩ sau đây là của riêng tôi, hoàn toàn mang tính cá nhân, nhưng tôi cảm thấy nó có ích ít là cho riêng tôi.
Tôi cho rằng sau khi chết, con người sẽ có một đời sống vĩnh cửu khác hẳn với đời sống hiện tại. Con người sẽ làm gì trong cái vĩnh cửu ấy? Chắc hẳn con người sẽ không ngồi một chỗ để nhìn ngắm Thiên Chúa, để ca tụng ngợi khen Ngài mãi mãi. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn luôn làm việc: «Cho đến nay, Cha tôi vẫn luôn luôn làm việc, thì tôi cũng làm việc» (Ga 5,17), nên chắc chắn là dù có ở thiên đàng thì ta cũng vẫn làm việc. Thiên Chúa sẽ mời gọi chúng ta tiếp tục cộng tác vào công việc sáng tạo mới của Ngài, với những công trình hoàn toàn mới. Từ xưa đến nay, Ngài vẫn luôn luôn mời gọi mọi người cộng tác vào công việc của Ngài. Có điều khác là sự làm việc ở trên thiên đàng không phát sinh mệt nhọc và đau khổ như ở dưới thế, mà là nguồn phát sinh cảm hứng và hạnh phúc. Và chắc chắn không phải mọi người đều cùng làm một việc như nhau, nếu thế thì thiên đàng chán ngắt, mà trái lại công việc sẽ rất đa dạng.
Nhưng làm sao ta có thể làm được những công việc ấy nếu chúng ta không được huấn luyện trước hay không có một kinh nghiệm gì? Tôi có cảm tưởng rằng cuộc đời này chính là một trường đào tạo tay nghề cho những công việc của đời sống mai hậu. Chính vì thế, ở đời này, Thiên Chúa đã để cho biết bao việc xảy đến để chúng ta tập đối phó, để luyện những đức tính cần thiết, để rút kinh nghiệm, để rèn đúc sự khôn ngoan, v.v…
Rất có thể Thiên Chúa sẽ tạo lập những thế giới mới và cho chúng ta cai quản, như Đức Giê-su đã từng hé mở điều ấy qua dụ ngôn mười nén bạc (Lc 19,11-27). Nhà vua nói với người nhận một nén và đã làm lợi thành mười nén: «Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi ! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành». Ngài nói với người làm lợi được năm nén: «Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành». Còn với kẻ chôn cất nén bạc và không làm lợi gì, nhà vua nói: «Hãy lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén». So với người được cai trị năm thành, chắc chắn người được cai trị mười thành trước đó phải chịu khó nhọc vất vả hơn, nhờ đó học hỏi được nhiều kinh nghiệm hơn, và vì thế xứng đáng cai trị nhiều thành hơn.
Vì tưởng tượng và suy nghĩ như thế, nên tôi tin rằng tất cả mọi phi lý bất công xảy đến cho tôi trong cuộc đời này đều có ý nghĩa của nó. Tất cả đều do Thiên Chúa đầy khôn ngoan gửi đến cho tôi để tôi tập luyện bản lĩnh của mình, hầu trở nên một người cộng tác đắc lực với Ngài trong công trình sáng tạo mới của Ngài mai sau. Viễn cảnh tưởng tượng ấy cho dẫu không đúng, thì nó cũng giúp tôi rất nhiều trong việc làm cho cuộc đời tôi có ý nghĩa và có đích hướng tới, đồng thời giúp tôi có hướng giải thích nhiều chuyện xảy ra trong cuộc đời mà trí khôn bình thường cho là phi lý và không thể chấp nhận được.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con nhận thức được tầm quan trọng của cuộc sống này trong việc chuẩn bị và quyết định cho số phận vĩnh cửu đời sau. Xin cho hiểu và nhận ra được sự khôn ngoan quan phòng rất tuyệt vời của Cha trong tất cả mọi biến cố xảy đến cho con ở đời này nhằm chuẩn bị hạnh phúc cho con ở đời sau. Amen.
--------------------------
Với những cách thức khác nhau, cả ba bài đọc của Thánh lễ hôm nay đều liên hệ tới chủ đề sự sống đời đời.
Có một ông cụ tật nguyền sống trong một túp lều nằm ở ven rừng. Một buổi sáng mùa đông nọ, ông thức dậy để chuẩn bị bữa cháo, nhưng lò sưởi tắt ngấm, tuyết rơi đầy mặt đất. Ông cảm thấy muốn được Chúa cất về trời ngay. Tuy nhiên, ông cố gắng dùng chút sức còn lại để vào rừng kiếm củi.
Ông gom được một bó củi. Sau đó, ông dùng dây cột lại. Tuy nhiên, khi cố gắng đưa lên vai để vác, ông thấy mình không thể vác nổi nữa. Nỗi thất vọng chán chường ập xuống trên ông. Ông ngước mắt lên trời và nói: "Lạy Chúa, xin hãy cất con đi, con không còn muốn sống nữa."
Một lát sau, một chàng trai trẻ vạm vỡ xuất hiện ngay bên cạnh ông. Người lạ mặt tự giới thiệu là Thần Chết và nói: "Ông cho gọi tôi đến, thì tôi đây, tôi có thể làm gì cho ông ? Nhanh như chớp, cụ già đáp: "Ôi may quá, cậu giúp tôi một tay mang bó củi này về."
Càng sống, chúng ta càng nhận ra cuộc sống này là phù du, tạm bợ và sự hiểu biết của chúng ta về cuộc sống này cũng không có gì là chắc chắn. Dù không muốn, chúng ta vẫn nghĩ đến sự chết. Nhưng, điều đó không phải là vô ích hoặc bệnh hoạn. Thật ra, đó có thể là điều tích cực. Nghĩ về sự chết có thể giúp chúng ta thực sự yêu mến cuộc sống. Khi năng nghĩ đến sự chết, chúng ta sẽ đón nhận cuộc sống mỗi ngày như một quà tặng. Và khi từng bước đón nhận cuộc sống như thế, cuộc sống sẽ trở nên quý giá.
Khi đối diện với sự chết, chúng ta tiếp cận với một cuộc sống khác, cuộc sống vĩnh cửu, mầm sống đã được mọc lên trong tâm hồn chúng ta. Sự chết là một cuộc vượt qua để đi tới sự sống mới, sự sống mà (như Đức Giêsu nói trong Tin Mừng) hoàn toàn vượt hẳn cuộc sống hiện tại của chúng ta. Điều này xem ra tốt đẹp, nhưng không dễ dàng chút nào.
Cuộc vượt qua của chúng ta ra khỏi thế giới này, đã được chuẩn bị bằng nhiều cuộc vượt qua nhỏ khác. Khi sinh ra, chúng ta đã làm một cuộc vượt qua từ lòng mẹ để bước vào thế giới. Khi đến trường, chúng ta làm một cuộc vượt qua từ gia đình để đi vào một cộng đoàn rộng lớn. Những người kết hôn làm một cuộc vượt qua từ một cuộc sống với nhiều chọn lựa để chấp nhận một cuộc sống dành riêng cho một người. Những người hưu trí làm một cuộc vượt qua từ một cuộc sống có công ăn việc làm rõ ràng để chấp nhận một cuộc sống với những công việc không tên. Nếu thực hiện tốt những cuộc vượt qua trên, chúng ta đang chuẩn bị cho mình cuộc vượt qua cuối cùng.
Điều tốt nhất giúp chúng ta đương đầu với thực tại của sự chết là niềm tin Kitô giáo. Niềm tin có thể giúp chúng ta đối diện với cái chết một cách can đảm và hy vọng, bởi biết rằng chúng ta có thể chiến thắng nó nhờ Đức Kitô. Nhưng, sự can đảm và lòng tin của con người, như lòng tin của bà mẹ và bảy người con (trong bài đọc thứ nhất), cũng là một mẫu gương anh hùng cho chúng ta, những người đang bước theo họ trong đức tin. Các thánh tử đạo, qua chứng tá về linh hồn, đã cho thấy sự sống mạnh hơn sức mạnh của sự chết.
Những chứng cứ dựa trên sự bất tử của linh hồn chưa đủ. Đối với Kitô giáo, nền tảng đích thực cho sự bất tử có liên hệ với Đức Giêsu Phục Sinh và với Thiên Chúa hằng sống. Như thánh Phaolô nói: "Thiên Chúa ban cho chúng ta tình yêu của Người, và nhờ ân sủng của Người, Thiên Chúa ban cho chúng ta niềm an ủi vô tận cũng như niềm cậy trông vững bền" (bài đọc 2).
Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã hứa cho chúng ta điều không bị quên lãng, không bị huỷ diệt. Niềm hy vọng được phục sinh của chúng ta nằm trong quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Sự chết không còn là kẻ thù huỷ diệt mọi sự, nhưng là người bạn cầm tay dẫn đưa chúng ta vào Vương quốc tình yêu vĩnh cửu.
--------------------------
Chúng ta có thể chứng minh có cuộc sống đời sau. Nhưng những nhân chứng đó, không phải bằng lời, mà bằng việc làm và đôi khi bằng cả mạng sống của họ. Đây mới là lý lẽ tốt nhất. Chính các Thánh tử đạo, qua việc làm chứng có linh hồn, đã cho thấy rằng, sự sống mạnh hơn sức mạnh của sự chết. Chúng ta nghĩ ngay tới người mẹ và bảy người con (bài đọc 1). Nhưng cũng có những tấm gương gần chúng ta hơn.
Vào tháng 5.1992, báo Oserver đã đăng câu chuyện sau: Ba mươi nữ tu người Nga bị Stalin bắt bỏ tù vào năm 1929 tại tu viện cổ Solovetsky Islands nằm ở vùng duyên hải phía Bắc của Nga. Giống như tất cả những người bạn khác trong trại, các nữ tu phải chờ để làm việc. Nhưng họ nhất mực từ chối làm như thế, khi họ không đồng ý làm việc cho những người chống lại niềm tin Kitô.
Chính quyền đã phản ứng nghiêm khắc. Trừ trường hợp có chứng nhận của y tế, những ai từ chối làm việc đều bị đánh đập tàn nhẫn rồi đày ra đảo, nơi mà không ai có thể sống sót trở về.
Tuy nhiên, nhà chức trách trại giam xem ra phải bất đắc dĩ ra hình phạt cho các nữ tu. Người đứng đầu bộ phận y tế của trại bị lúng túng bởi các nữ tu. Với cái nhìn của ông, họ là "những tù nhân khó", nhưng cách cư xử của họ lại không như những tù nhân khó tính khác. Bất chấp những tiếng hò hét la lối, các nữ tu chỉ biểu lộ sự đơn sơ, khiêm tốn và nhân hậu.
Thấy buồn cho họ, ông ta yêu cầu bác sĩ tuyên bố các nữ tu không có khả năng làm việc. Bác sĩ, một tù nhân, bị ấn tượng mạnh bởi các nữ tu, những con người bình an và tự chủ trong những tấm áo cũ kỹ nhưng sạch. Gương mặt của họ toát lên một tinh thần trong sáng lạ thường đáng kính trọng.
Bác sĩ cố gắng thuyết phục các nữ tu làm việc bằng cách đưa ra những mẫu gương tù nhân Kitô hữu khác. Khi các nữ tu ở lại không phải di chuyển đi nơi khác, ông ta đã nói với họ rằng chính ông đã tự ý nói họ bị đau và tuyên bố họ không thể lao động. Một nữ tu ngắt lời: "Xin lỗi, đó không phải là sự thật. Chúng tôi có thể làm việc được, nhưng chúng tôi sẽ không làm việc cho những người chống lại Kitô giáo."
Bác sĩ giải thích rằng, họ bị tra tấn hơn là bị giết. Một nữ tu bình tĩnh đáp lại: "Thiên Chúa giúp chúng tôi chịu đựng những đau đớn đó." Những năm sau, bác sĩ đã viết: "Mắt tôi đẫm lệ. Tôi bị họ khuất phục và tôi muốn quỳ xuống hôn chân họ."
Một thời gian sau, các nữ tu đồng ý may chăn mền cho các bệnh nhân. Ho được cho phép cùng nhau hát thánh vịnh trong khi làm việc. Tuy nhiên, một linh mục đã đến nói với họ rằng họ không được phép làm việc cho những người chống lại Kitô giáo. Bởi đó, họ không tiếp tục làm việc nữa. Vị linh mục đã bị bắt và bị xử bắn. Chẳng bao lâu, các nữ tu cũng chịu số phận như thế.
Các nữ tu dường như không hề tỏ ra do dự, hoặc nghi nan, dao động. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ đã đón nhận một cách dễ dàng. Ai cũng muốn sống. Họ cũng muốn sống, nhưng họ không bám lấy nó bằng bất cứ giá nào. Đối với họ, sự sống thật là sự sống vĩnh cửu. Niềm tin vào sự sống đời đời giúp họ có thể hy sinh cuộc sống trần gian vì Chúa Kitô.
Các nữ tu này đã đặt niềm tin nơi Thiên Chúa. Người mẹ và bảy người con cũng đã tin như thế. Chúng ta không thể tin vào Thiên Chúa hơn họ. Thánh Phaolô nói rằng, chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn. Niềm hy vọng này không đến từ chính chúng ta, nhưng đến từ Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa của sự sống. Chúng ta là con của Người. Người dựng nên chúng ta để sống, nơi trần gian và ở đời sau. Viễn tượng huy hoàng ấy có thể giúp chúng ta quý trọng sự sống nhưng không quá bám víu vào nó. Và điều đó sẽ thúc giục chúng ta sống một cách công chính.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Thiên Chúa đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết để chúng ta hy vọng chắc chắn nơi gia tài vĩnh cửu không hề mai một. Chúng ta là dân tộc sống trong hy vọng, cùng dâng lên Chúa lời cầu nguyện.
Xướng: Cầu nguyện cho các Kitô hữu: để niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu khắc sâu trong tâm hồn trong ngày lãnh bí tích rửa tội, được thực hiện viên mãn nơi vương quốc Nước Trời.
Xướng: Cầu nguyện cho gia đình nhân loại, để các thành viên đều đạt được mục tiêu mà Chúa đã dành sẵn cho họ.
Xướng: Cầu nguyện cho chính mỗi người chúng ta, để cuộc sống chúng ta trở nên chứng nhân cho niềm hy vọng mà chúng ta hằng ấp ủ trong tâm hồn.
Xướng: Cầu nguyện cho những người thân yêu và bạn bè, và cho tất cả những ai đã ra đi truớc chúng ta đang an nghỉ chờ đợi ngày sống lại.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa Tối Cao hằng sống, xin hằng nâng đỡ trong suốt ngày sống của chúng con, trước khi bóng tối kéo đến, bóng chiều phủ xuống, thế giới náo nhiệt lặng thinh, cuộc sống đầy lo âu qua đi, bổn phận của chúng con đã hoàn tất ; thì từ lòng nhân lành của Chúa, Chúa hằng thương ban cho chúng con nơi cư trú an toàn, một nơi an nghỉ thánh thiện, bình an và vĩnh cửu. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
--------------------------
Chúng ta sẽ sống lại. Đó là niềm tin tưởng đặc biệt của Kitô giáo.
Đúng thế, ngay trong Do thái giáo, điều này cũng chưa được rõ ràng, còn nơi các tôn giáo khác, mặc dù tin có cuộc sống mai sau, nhưng lại không nghe nói đến việc sống lại.
Thực vậy, hầu hết các tôn giáo đều nghĩ rằng:
- Chết không phải là hết, nhưng sẽ được đưa sang thế giới khác.
Vì vậy, mới có câu:
- Sống là thể phách, còn là tinh anh.
Người ta chỉ chết về phần xác, nhưng phần thiêng liêng thì sẽ còn mãi, hoặc để hưởng hạnh phúc nếu đã ăn ngay ở lành, hoặc phải chịu hình phạt nếu đã cư xử độc ác.
Chúng ta không cần phải đào sâu, nhưng chỉ cần biết rằng chẳng có một tôn giáo nào nói đến việc con người chết đi rồi sống lại như chúng ta vốn hằng tuyên xưng:
- Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.
Hay:
- Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy.
Ngay cả đạo Do thái cũng không dứt khoát về vấn đề này. Thực vậy, nhóm Sa đốc không những không tin tưởng mà còn chế nhạo những người cho rằng thân xác sẽ sống lại. Chẳng hạn qua đoạn Tin mừng hôm nay, họ đưa ra câu chuyện về bảy người anh em cùng có chung một người vợ để lố bịch hóa vấn đề.
Tuy nhiên, cứ chung mà nói:
- Người Do thái vẫn tin có đời sau, nhưng đời sau của họ là đêm tối. Chính đời này mới là ánh sáng ban ngày. Ít nữa là đối với đa số loài người.
Dù sao, người Do thái vẫn có lòng kính mến đối với các tổ phụ và các tiên tri. Ho không dám nói đến cuộc sống bên kia của các ngài. Họ thầm nghĩ rằng:
- Các ngài đang được hưởng hạnh phúc trong ánh sáng của Thiên Chúa.
Nhưng công khai thì họ tuyên bố:
- Đời sống bên kia thì buồn thảm và chẳng có chi hấp dẫn cả.
Sở dĩ như vậy vì đó là thế giới của sự chết, của âm phủ. Không những chẳng có ánh sáng của Thiên Chúa đã đành mà cũng chẳng còn ai kêu cầu danh thánh Chúa.
Thực ra quan niệm của họ về đời sau không thuần nhất và rõ ràng. Xét chung, người Do thái không nghĩ rằng:
- Sinh ký tử qui. Sống gửi thác về.
Họ không có những kim tự tháp như người Ai cập, hay những lăng tẩm như người Việt Nam. Họ không tin ở giá trị đời sau bao nhiêu.
Tuy nhiên, trên nền trời tăm tối ấy, tiên tri Egiêkien đã xuất hiện với một tia sáng chói chang. Ông nói tới cánh đồng đầy những xương khô, bỗng được thần khí thấm nhập và sống lại.
Đành rằng đó chỉ là một hình ảnh nói về cuộc phục hưng của xứ sở sau thời gian lưu đày. Nhưng nguyên nghĩ đến một hình ảnh như vậy mà thôi cũng đã đủ để nói lên rằng:
- Tiên tri có một ước vọng về sự phục sinh.
Nhưng bản văn của tiên tri Egiêkien vẫn không cụ thể bằng câu chuyện của bảy anh em tử đạo hôm nay.
Bấy giờ, người Hy lạp đang cai trị đất nước Do thái. Hoàng đế Epiphane IV tưởng mình đã có thể thống nhất quốc gia về mặt tôn giáo cũng như đã thống nhất về mặt văn hóa và chữ viết. Ông truyền lệnh bãi bỏ luật Mai sen và bắt dân Do thái phải làm những điều cấm kỵ.
Chính vì thế, ông đã bắt tám mẹ con nhà kia phải ăn thịt heo, nhưng tất cả đều cương quyết chối từ, thà chết chẳng thà vi phạm luật lệ của cha ông.
Ở đây phụng vụ chỉ lượm lặt những câu có liên quan tới việc thân xác sống lại. Đó là những lời tuyên xưng không còn mập mờ, bởi vì họ đã khẳng định:
- Vua vũ trụ sẽ cho chúng ta được phục sinh và trả lại cho chúng ta sự sống còn mãi đến muôn đời.
Người Do thái vốn có đầu óc cụ thể và quí trọng những gì hữu hình, niềm tin kia đáng lẽ phải khơi lên một sự phấn khởi, thế nhưng vì khác biệt với khuynh hướng tâm lý của họ, nên đã không trở thành một xác tín chắc chắn và phổ quát, chung cho hết mọi người.
Phải đợi cho đến khi Chúa Giêsu tuyên bố lập trường dứt khoát của mình và nhất là kể từ ngày Ngài phục sinh, niềm tin vào việc thân xác chúng ta sống lại mới dần dần được chấp nhận.
Trong kinh tin kính, hằng ngày chúng ta vốn tuyên xưng:
- Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Thế nhưng, tuyên xưng ngoài miệng mà thôi chưa đủ, đều quan trọng đó là chúng ta phải sống làm sao để niềm tin trở thành sự thật và ngày chúng ta được sống lại sẽ không phải là một ngày tủi hờn và cay đắng, nhưng sẽ là một ngày mừng rỡ và hân hoan.
--------------------------
Trong Giáo hội Côn giáo theo nghi lễ Đông phương, những người có gia đình có thể được thụ phong linh mục trong vài trường hợp ngoại lệ, Giáo hội hội công giáo La Mã cũng phong chức linh mục ho một vài người có gia đình. Thế nhưng, luật độc thân linh mục vẫn mãi mãi được Giáo hội La Mã duy trì. Luật này chẳng những khẳng định rằng đời sống gia đình không phù hợp với tác vụ của linh mục, mà còn nêu cao giá trị của bậc độc thân vì Nước Trời. Tất cả những ai tự nguyện sống độc thân vì Nước Trời đều muốn làm chứng cho cuộc sống mai hậu, trong đó con người không còn dựng vợ gả chồng nữa. Đây có thể là ý nghĩa câu trả lời của Chúa Giêsu cho nhóm Xađốc chất vấn Ngài, nhóm này vốn không tin ở sự sống lại.
Câu chuyện về một người đàn bà phải lần lượt làm vợ của bảy anh em trong một gia đình cho thấy rằng sống lại là chuyện phi lý. Trước vấn nạn ấy, Chúa Giêsu đã mời gọi các đối thủ của Ngài vượt ra khỏi cách nhìn và lối suy nghĩ thông thường của loài người, để đặt mình vào thực tại của cuộc sống mai hậu.
Với kiểu nói trong cuộc sống mai hậu, con người giống như thiên thần, Chúa Giêsu không có ý nói đến bản chất con người, hoàn toàn vượt thoát khỏi mọi hiểu biết của trí khôn con người. Trong cuộc sống mai hậu sẽ không còn dựng vợ gả chồng, cũng chẳng cần phải bận tâm xây dựng những tháp Babel để sống còn và để lại tên tuổi của mình nữa. Sống lại có ý nghĩa là đón nhận từ Thiên Chúa một sự sống và một tên tuổi, mà không một công trình nào của con người có thể mang lại. Thánh vịnh 148 đã diễn tả sự bất lực của những công trình nhân loại như sau: “Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho niềm này xứ nọ, nhưng ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp. Dù sống trong danh vọng, con người cũng không thể trường tồn, thật nó chẳng khắc chi con vật một ngày kia chất đi”.
Nếu cuộc sống và tất cả những công trình nhân loại đều kết thúc một cách vô vọng như thế, thì không gì hạnh bằng vào giây phút cuối đời chợt nhận ra chết là một tận cùng vĩnh viễn. Không gì bất hạnh bằng khi không còn gì để hy vọng, khi không có niềm vào cuộc sống mai hậu.
Nhờ cái chết và sự phục của Chúa Kitô, chúng ta biết được bến bờ của cuộc sống, và những gì đang chờ đợi chúng ta bên kia cuộc sống này. Ước gì niềm tin ấy luôn là ánh sáng chiếu rọi vào cuộc sống. Ước gì niềm tin ấy luôn là động lực thúc đẩy chúng ta tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời.
--------------------------
Mới đây, tuần báo “Y học” cho biết số người tự tử ở Việt Nam mỗi ngày mỗi gia tăng. Tại các nước Âu Châu, nhất là ở Pháp, số người tự tử càng đông hơn. Những người tự tử không muốn sống kiếp đời này, và càng không muốn sống kiếp đời sau.
Tại sao người ta lại tự tử ? – Người ta tự tử vì những lý do khác nhau: bất mãn với đời nên chán đời, nghèo đói quá, thất tình, sống đời sống bê bối rồi tuyệt vọng…
Kitô Hữu tự tử chẳng qua họ không có sức sống thần linh, không có ơn thánh sủng của Chúa.
- Một lý do nữa khiến người ta tự tử, có lẽ cũng như người Saducêô, họ không tin có đời sau, nên họ không hy vọng được thưởng trên thiên đàng, cũng không sợ bị phạt trong hỏa ngục.
Vấn đề đặt ra hôm nay cho chúng ta, trong Phúc Âm: có đời sau hay không ?
Chúa Giêsu dạy: “Người ta sẽ sống lại từ cõi chết”. Như thế sẽ có đời sau để: - kẻ lành sẽ sáng chói, và kẻ dữ phải quằn quại trong đau khổ, kẻ lành như Lazarô sẽ được thưởng trên thiên đàng, kẻ dữ như người phú hộ sẽ phải giam trong hỏa ngục.
Đọc kinh thánh cựu ước, chúng ta cũng thấy các tổ phu, các tiên tri như Abraham, Isaac, Jacob, Môisen…đều nói đến đời sống mai sau.
Riêng người tín hữu chúng ta, sự xác sống lại và đời sống đời sau là một tín điều chúng ta tin và tuyên xưng trong kinh tin kính: “…Tôi tin xác sống lại và sự sống đời sau”. Tín điều này trở thành niềm hy vọng cho cuộc sống của chúng ta hôm nay, để khi vui, khi buồn, khi gặp may mắn, cũng như lúc gặp trắc trở, chúng ta luôn được khích lệ bởi niềm hy vọng sống lại, và được Chúa thưởng công. Thánh Phaolô khuyên giáo dân đừng sống như những người không có niềm hy vọng. Trái lại, hãy hy vọng ở trời mới đất mới, và hy vọng Thiên Chúa sẽ biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân thể sáng láng của Người. Nhưng, hy vọng vào đời sống trường tồn mai sau, lại phụ thuộc vào đời sống ở đời này. Đời sau được thưởng, hay đời sau bị phạt còn tùy thuộc vào cách sống tốt xấu của mổi người ở đời này.
Nốt chấm này nối tiếp nốt chấm kia. Hàng vạn nốt chấm nối tiếp nhau thành một đường dài. – Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút nối liền thành một đời sống. Chấm mỗi cho đúng đường kẻ sẽ đẹp ; sống mỗi phút cho tốt đời sẽ thánh. Đường hy vọng do mỗi chấm và mỗi phút hy vọng.
Kitô Hữu hãy nói với chính mình rằng: Tôi là ánh sáng giữa đêm tối, là muối mặn giữa thối nát, là hy vọng giữa một thế giới thất vọng, là niềm tin giữa một thế giới thiếu niềm tin.
--------------------------
Niềm khao khát của con người mọi nơi mọi thời là được sống, sống mãi, sống hoài. Nhưng dù con người có nỗ lực đến đâu đi nữa để kéo dài tuổi thọ của mình thì con người vẫn không thoát được cái vòng oan nghiệt của sự chết. Hôm nay ta tiễn người thân ra nơi an nghỉ cuối cùng. Ngày mai sẽ lại có những người khác vùi lấp thân xác ta trong nấm mồ sâu.
Sự chết là một điều có thật mà không ai trong chúng ta có thể trốn tránh được. Nhưng chết rồi đời ta sẽ ra sao ? Ta sẽ đi về đâu sau khi nhắm mắt lìa đời ? Bên kia cầu sự chết có gì không hay chết là hết, là cùng tận vĩnh viễn của một đời người ? Nếu chết là hết, là cùng tận vĩnh viễn thì đời sống con người quả thật là quá bi thảm và không có gì vô nghĩa hơn. Nếu chết là hết thì những ai ăn ở ngay lành sẽ là những người dại dột và những gian ác mới là những người khôn ngoan. Mà nếu cuộc đời này chỉ toàn những kẻ gian ác thì ta sẽ không thể tưởng tượng được thế giới loài người sẽ ra sao.
Nhưng chết không phải là hết. Ở bên kia cuộc đời tạm gửi này sẽ là cuộc sống vĩnh hằng. Trong cuộc sống ấy, mọi nỗ lực, mọi hy sinh, mọi đau khổ, mọi vất vả lao nhọc của con người đã chịu vì Chúa khi còn sống trong trần gian sẽ trổ sinh hoa ngọt trái lành là hạnh phúc trọn vẹn, là niềm vui không cùng ở bên Thiên Chúa là Cha. Trong cuộc sống này, mọi điều gian ác, mọi lỗi phạm, mọi bất trung của con người đã làm trước đây cũng sẽ đơm bông kết trái, nhưng là những trái đắng của khổ đau bất tận.
Quả quyết những điều trên không phải là vô căn cứ và hàm hồ. Chính Chúa Giêsu đã dạy ta biết như thế. Người đã trả lời cho những người thuộc phái Sađoc rằng: “Người ta ở đời này mới cưới vợ gả chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng. Họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa bởi đã được sống lại”.
Không còn gì phải nghi ngờ nữa, cùng chẳng cần phải bàn cãi gì thêm. Lời Chúa là chân lý nên chúng ta cần đặt tất cả niềm tin tưởng vào Lời ấy. Không chỉ tin trong trí óc hay tuyên xưng ngoài miệng, niềm tin ấy còn phải trở thành một kim chỉ nam cho cuộc sống tại thế của chúng ta. Câu chuyện bà mẹ và 7 đứa con trong bài đọc thứ nhất đã cho chúng ta hiểu thế nào là tin vào sự sống lại. Họ chấp nhận chết phần xác để tôn trọng luật pháp và thánh ý của Thiên Chúa, hầu mai này được sống lại trong vinh quang Nước Chúa.
Cuộc đời tạm gửi mà chúng ta đang sống đây sẽ quyết định số phận đời đời của chúng ta mai ngày. Hoặc sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu, hoặc sẽ phải khổ đau muôn đời, tùy sự chọn lựa và tùy cách sống của chúng ta hôm nay.
--------------------------
Nhà bác học Darwin, người Anh cùng nhiều nhà bác học khác chuyên nghiên cứu về khoa tiến hóa của vũ trụ vật chất, đã đưa ra một giả thuyết “con người bởi khỉ mà ra”. Đó là vào hậu bán thế kỷ 19, không những trong giới tôn giáo mà ngay cả những nhà trí thức danh tiếng đã tung ra một làn sóng phản đối kịch liệt đến nỗi có người cho rằng nếu ông Darwin còn sống mà đi lang thang ngoài phố, chắc thế nào cũng bị ăn đòn hội chợ ngay.
Ở đây, không phải là lúc thích hợp để tìm hiểu, phế phán vấn đề tiến hóa đó đúng hay sai. Nhưng qua biến cố này, chúng ta khám phá ra một tình trạng vừa khôi hài vừa đáng ngặt nhiên khiến cho chúng ta không thể không đề cập tới: đó là khi có ai bảo con người bởi thú sinh ra thì chúng ta sẽ phản đối bằng cách này hay cách khác ngay, thế nhưng cuộc sống thực tế của chúng ta lại chứng tỏ chúng ta thích làm thú hơn bao giờ hết: nào là thú đi hoang, thú trộm cắp, thú độc ác sát nhân, thú cắn xé nhau vì danh lợi dục… Nói tắt, kiểu sống thú của con người còn mãnh liệ và siêu hơn cả thú vật thứ thiệt.
Tuy nhiên, khi gọi người là thú chẳng mấy ai ưa, còn bảo là thân thì ai cũng hãnh diện. Trái lại, sống theo kiểu thú mọi người đều yêu thích, còn bảo cố gắng làm thần thì ai cũng ngại ngùng từ chối. Đúng như lời một nhà hiền triết đã nói: “Con người vừa thần vừa thú”, nhưng phần đông lại muốn làm thú hơn làm thần. Do đó, người ta dễ dàng biến thần thiêng, biến những điều cao siêu thành những ước mơ trần tục hợp với dục vọng của mình để dễ bề chấp nhận và tuân theo. Ngay cả cuộc sống sau khi chết, nhiều người cũng cho rằng đó là sự tiếp nối của cuộc sống hiện tại nên những thứ như tình yêu, gia đình, thú vui…sẽ được tái diễn lại với chất lượng cao hơn. Nói khác đi, họ tưởng tượng một thiên đàng đầy hấp dẫn, phù hợp với các hoài vọng mơ ước do họ vẽ ra.
Đây cũng chính là lối suy luận của phái Xađốc để biện minh cho lập trường của họ là không chấp nhận việc kẻ chết sống lại, đồng nghĩa với việc không chấp nhận có thiên đàng đời sau. Đối với họ, thiên đàng chẳng qua chỉ là tiếp nối cuộc sống tại thế gian này. Chính vì thế, họ đã bịa ra chuyện dựng vợ gả chồng thật rắc rối để thử xem Chúa giải quyết như thế nào khi con người được sống lại đời sau.
Chúa đã trả lời thẳng thắn rằng việc dựng vợ gả chồng ở đời này là một điều hợp tình hợp lý, nhưng việc đó không còn thích hợp với những người ở thế giới bên kia vì ai được sống lại thì giống như Thiên Thần, nghĩa là không còn phải chết nữa. Qua câu đáp trả, Chúa muốn nhắc nhở phái Xađốc và chúng ta hai đặc điểm này:
Một là khi bàn về sự sống lại và đời sau, nếu ai cứ dựa vào những kinh nghiệm và những sự kiện ở trần gian để suy đoán, tưởng tượng là một sai lầm lớn vì hai thế giới đó khắc xa nhau nên không có chuyện so sánh, suy diễn.
Hai là sự sống đời sau không còn chết nữa, nghĩa là con người lúc bấy giờ thoát khỏi những định luật sinh vật học như không còn biến đổi, đào thải, lão hóa, bệnh tật… thoát khỏi những ràng buộc, liên hệ tình cảm giới hạn ở trần gian vì lúc đó họ đã trở thành con cái Chúa và nhờ tình yêu của Ngài làm cho họ được hạnh phúc hoàn toàn, đưa họ vào một cuộc sống mới cao cả hơn thay thế cho cuộc sống cũ.
Hơn nữa, khi dựa vào Kinh Thánh, Chúa còn khẳng định rằng chối bỏ sự sống lại, sự sống đời sau sẽ làm mất đi tầm vóc, mức độ và lòng yêu kính khi tin vào Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Nếu tin vào Thiên Chúa của kẻ sống, chúng ta cũng phải tín nhiệm và cậy trông hoàn toàn vào Ngài khi Ngài hứa đời sau sẽ được sống lại. Và nếu chúng ta chối bỏ hoặc trần tục hóa đời sau, tức là chúng ta coi Thiên Chúa ngang hàng với những mẫu tượng vô hồn, vô dụng.
Tóm lại, khi tin vào sự sống lại và đời sau, không thể dựa vào những lập luận hợp với sự hiểu biết hạn hữu của mình đề xác tín, nhưng là phó thác vào Thiên Chúa là Đấng không hề lừa dối và chỉ biết muốn mọi sự tốt đẹp cho con người mà thôi.
--------------------------
Khi Đức Gioan XXIII lâm bệnh, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn giấu sự nguy kịch của cơn bệnh, họ bảo Ngài chỉ bị chứng lở bao tử. Nhưng về phần Đức Thánh Cha thì Ngài biết rõ bệnh tình của mình hơn ai hết, vì thế Ngài nói: “Tôi đã dọn sẵn hành trang”.
Ông Jarco Menjou, một nhà điêu khắc nổi tiếng người Ý viết hồi ký về những giây phút sau hết của cuộc đời Đức Gioan XXIII như sau:
Vào ngày cuối cùng với những chuỗi đau đớn kéo dài, Linh mục Capovilar là thư ký riêng của Đức Thánh Cha Gioan XXIII đến bên giường bệnh, hôn tay Đức Thánh Cha và hỏi xem Ngài cảm thấy thế nào.
Đức Thánh Cha đã trả lời:
- Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và an bình như thể tôi đang ở trong Chúa, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơn lo.
Linh mục thư ký nói:
- Xin Đức Thánh Cha đừng lo, những người phải lo là chính chúng con, vì con đã nói chuyện với bác sĩ.
Đức Gioan XXIII ngắt lời và hỏi tiếp:
- Họ đã nói với cha những gì ?
Nghẹn ngào, Linh mục thư ký nói tiếp:
- Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với Đức Thánh Cha sự thật là hôm nay là ngày của Chúa, hôm nay Đức Thánh Cha sẽ về thiên đàng.
Nói xong, linh mục thư ký quỳ xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng ha cảm thấy một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng ôn tôn nói:
- “Hãy ngước mắt nhìn lên”. Bình thường thì người thư ký của tôi rất mãnh mẻ, can đảm nhưng bây giờ đã trở nên mền nhũn. Cha nói với người bề trên của Cha những lời hay đẹp nhất mà mọi người có thể nghe từ miệng của một linh mục “Cha sẽ được vào thiên đàng”.
Hôm nay, qua bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng nói cho chúng ta biết: “Con người có đời sống mai hậu và được sống lại”. Đây cũng chính là một lời hay đẹp nhất và một người cao cả nhất, không phải chỉ là con người mà là Con Thiên Chúa nói cho chúng ta.
-------------------
Chúng ta đang sống trong tháng mười một, đây là tháng Giáo hội dành riêng để tưởng nhớ người quá cố. Đây cũng là tháng chúng ta đặc biệt cầu cho ông bà tổ tiên, cha mẹ, anh chị em và bà con thân thuộc cũng như cho tất cả những ai đã qua đời. Chúng ta cầu nguyện cho người quá cố bằng kinh nguyện, nhất là bằng việc siêng năng tham dự Thánh lễ và sống Thánh lễ qua việc thực thi bác ái như Thánh lễ đòi hỏi.
Cũng qua đoạn Tin Mừng trên, thánh sử Luca kể lại cho chúng ta nghe về việc chối từ của những người trí thức thuộc phái Xađốc. Họ không tin có sự sống lại, họ đặt ra một vấn nạn về việc một người đàn bà có bảy đời chống: Nếu cò sự sống lại thì người đàn bà này sẽ là thuộc về ai trong số bảy người chồng đã chết ? Họ thách thức Chúa như vậy. Nhưng họ thắc mắc và ngụy biện như vậy là vì họ có một quan niệm sai lầm về sự sống đời sau và về sự sống lại.
Sự sống sau cái chết không còn giống như sự sống ở hiện tại, và sự sống lại không phải là sự phục hồi để trở về đời sống trần tục bình thường mà là một sự sống đã được thăng hoa, đã được biến đổi, đã được nâng cao trong ân sủng Chúa, được thăng cấp như sự sống các thiên thần.
Không có kinh nghiệm trần tục nào, không có một ngôn ngữ con người nào có thể diễn tả một cách tích cực sự thật thiêng liêng này. Chúa Giêsu đã trả lời cho những kẻ chất vấn Ngài như sau: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng, song những ai được dự phần đời sau, được sống lại từ cõi chết thì sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Họ sẽ không chết nữa vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa và họ là con cái của sự sống lại”.
Sức mạnh cuối cùng về lý luận của Chúa Giêsu, đó là điều mà chính Con Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta. Vì không ai có thể nói cho chúng ta biết những chuyện trên trời nếu không phải Đấng ngự trên trời xuống. Là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu có đầy đủ uy tín để quả quyết: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống. Con có tin không ?”. Chúa Giêsu đã nió với Matta và đã hỏi thánh nữ như vậy: “Con có tin không ?”. Và ngày hôm nay, Ngài cũng hỏi mỗi người chúng ta đang hiệp cùng nhau trong Thánh lễ này: “Con có tin không ? Con có tin Ta, có tin vào sự sống, tin vào sự sống lại hay không ?”.
--------------------------
Một người Do thái nọ qua đời. Sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó thực sự đã chết theo đúng ý nghĩa của khoa học và đã cấp giấy chứng nhận để chôn táng.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Khi mở nắp quan tài ra, mọi người đều rất đỗi kinh ngạc vì thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
“Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ thì quả thực ông là người đã chết rồi. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thứ an táng.
Thái độ cứng nhắc của vị giáo trưởng trên đây thật là phi nhân và tàn bạo. Chắc chắn không ai là người có lương trí mà lại không bất bình và nuối tiếc cho người chết vừa được hồi sinh. Tuy nhiên nỗi bất bình và sự nuối tiếc ấy sẽ dễ nguôi đi nhờ có niềm tin vào sự phục sinh của thân xác con người. Phục sinh không phải để rồi lại chết, nhưng là phục sinh vào một đời sống mới, khi thân xác con người biến đổi không còn có thể chất nữa. Khi ấy người sẽ sống các thiên thần của Chúa. Đó là điều mà Chúa loan báo cho chúng ta trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe.
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Xađốc về sự sống lại. Để chế nhạo sự sống lại, nhóm Xađốc bịa ra câu chuyện tưởng tượng là có 7 anh em trai, người thứ nhất kết bạn, nhưng chết mà không trối hậu, người thứ hai lấy người góa phụ đó, rồi cũng chết không con, người thứ ba cũng vậy. Cả 7 người lấy người góa phụ đó đều chết cả và đều không có con, thế thì ngày sống lại, người góa phụ đó sẽ là vợ của ai ?
Đáp lại, Chúa Giêsu đã mặc khải một chân lý tràn trề hy vọng: Sau cuộc sống trần chóng qua này con người sẽ được phục sinh, được biến đổi thành như các thiên thần và vẫn tiếp tục sống. Đó là nền tảng của giá trị con người. Giá trị ấy được Chúa Giêsu nêu bật khi nói: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.
Thiên Chúa muốn con người được sống và sống dồi dào, tức là được tham dự sự sống vĩnh cửu của Ngài. Sự sống ấy chính là lớp đáp cho những khắc khoải, khát vọng không ngừng của con người. Chính vì thế mà sự sống lại trong ngày sau hết phải là sức đẩy của đức tin và niềm y họng Kitô giáo.
Xin cho niềm hy vọng ấy chiếu ánh sáng vào toàn thể cuộc sống chúng ta, giúp chúng ta nhận ra giá trị của những gian lao thử thách mà chúng ta đang trải qua, cũng như nhận ra giá trị của mọi người và từng người mà chúng ta gặp gỡ.
--------------------------
Lm Trọng Hương
A. Hạt giống...
Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy: TN 32-C35
Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:
- Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.
- Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.
B. ... nẩy mầm.
1. Linh mục, Tu sĩ là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, một cuộc sống “như các thiên thần” không bận tâm chi đến việc vợ chồng, chỉ chuyên tâm phụng sự Chúa.
2. Trở nên chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa qua nếp sống vợ chồng (như cha mẹ chúng ta) không phải là chuyện dễ. Nhưng muốn là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, sống “như các thiên thần”, cũng rất khó khăn; rất cần ân huệ của Chúa. - Muốn đi đến nếp sống yêu thương với một con tim trọn vẹn không chia sẻ dành cho Chúa, ta cần được chuẩn bị để đạt được sự trưởng thành tâm cảm (maturité affective). Dần dần tập làm chủ được 4 trình độ của tâm cảm: - cảm xúc - tình cảm - tình yêu - đam mê.
3. Ta đọc lại lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
- Trong thông điệp Redemptor Hominis số 10: ‘ Con người không thể sống khi thiếu vắng tình yêu. Họ sẽ không thể hiểu họ là gì, và sẽ cảm thấy cuộc đời họ là vô nghĩa: nếu họ không đón nhận mặc khải tình yêu, không gặp gỡ tình yêu, không cảm nghiệm tình yêu, không đồng hoá với tình yêu, không mạnh dạn tham dự vào tình yêu.’
- Trong Tông Huấn Pastores Dabo vobis (Đào tạo Lm) số 44: “Tình yêu ở đây là tình yêu bao quát toàn diện cá vị con người với mọi chiều kích và mọi thành phần: vật lý, tâm lý và tinh thần ; một tình yêu được diễn đạt nơi “ý nghiã hôn nhân” của thân thể con người, nhờ đó mà con người tự hiến cho kẻ khác và đón nhận họ. Việc giáo dục giới tính đúng nghiã cần phải hướng đến nhận thức và thực hiện chân lý đó về tình yêu nơi con người.”
4. Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
5. “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài tất cả đều đang sống” (Lc 20,38)
Trong một lần trao đổi với chị bạn cùng lớp, chị cho rằng tuy không có đạo song cũng không hoàn toàn phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng có điều, nhìn vào cuộc chiến tàn khốc ở Ruanđa giữa bộ tộc Hutu và Tutsi, đều là những người công giáo với nhau mà giết nhau cách dễ dàng, hoặc như gia đình hàng xóm nhà chị, lễ lạy kinh hạt mỗi ngày nhưng hết “nội chiến” đến “ngoại chiến”. Chị không khỏi tự hỏi: niềm tin kitô giáo có còn khả năng thăng tiến con người như những gì giáo lý dạy không ?
Như thế, dẫu tôi tin có Thiên Chúa nhưng lại không sống yêu thương thì cũng có nghĩa là tôi đang “khai tử” cho Thiên Chúa rồi.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, xin ban cho con sự sống của Ngài, sống vì yêu và sống cho tình yêu. (Hosanna)
--------------------------
Lc 20,27-38
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Chuyện một bà mẹ và 7 đứa con tử đạo. Họ dám chết bởi vì họ tin tưởng vào cuộc sống mai sau.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu tranh luận với nhóm Sađóc về vấn đề kẻ chết sống lại.
Minh họa
- Mille images 139 D
- Kẻ chết sống lại (Lc 20,27-38)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay bảo đảm có một cuộc sống đời sau. Đây quả là một niềm hy vọng vui mừng: TN 32-C36
Lời Chúa hôm nay bảo đảm có một cuộc sống đời sau. Đây quả là một niềm hy vọng vui mừng, vì cuộc sống nơi dương thế của chúng ta sẽ không kết thúc bằng ngõ cụt, nhưng đó là một chặng của cuộc hành trình về cõi trường sinh.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta sống thế nào để sẽ mãi hạnh phúc trong cuộc sống đời sau.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta quá lo cho cuộc sống đời này mà ít lo cho cuộc sống đời sau.
- Nhiều khi chúng ta sống buông thả như không có đời sau.
- Cách sống của chúng ta chưa thuyết phục được người khác rằng chúng ta thực sự tin có đời sau.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2 Mcb 7,1-2.9-14)
Chuyện kẻ về thời vua Antiochus bắt đạo. Một bà mẹ và 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa.
Trích đoạn này chỉ ghi cái chết của 4 người con đầu. Lời họ nói với vua đều khẳng định Chúa sẽ cho họ hưởng sự sống đời đời.
2. Đáp ca (Tv 16)
Đây là lời cầu nguyện của những vị tử đạo: "Con đã sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài. Khi thức giấc, con sẽ được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh nhan"
3. Tin Mừng (Lc 20,27-38)
Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:
- Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.
- Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.
4. Bài đọc II (2 Tx 2,16--3,5) (Chủ đề phụ)
Như đã trình bày (Chúa nhựt 31), nhiều tín hữu ở giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp tận thế nên đâm ra lười biếng không làm việc và sống buông thả. Trong trích đoạn của Chúa nhựt trước, thánh Phaolô đã vạch ra sai lầm của suy nghĩ đó.
Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô nói thêm: dù không biết chắc khi nào tận thế và Chúa lại đến, nhưng các tín hữu phải sống trong niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt.
IV. Gợi ý giảng
1. Bàn về việc sống lại
Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt nam. Ông có mấy câu thơ như sau:
"Ba vạn sáu ngàn ngày lá mấy,
Cảnh phù du trông thấy những nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời
Tiêu khiển một vài chung lếu láo."
Ông Cao Bá Quát nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu "tiêu khiển một vài chung lếu láo". Những người không tin có đời sau, không tin có sống lại, thì cũng dễ rơi vào quan niệm sống buông trôi hưởng thụ như 4 câu thơ trên.
Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc cũng không tin có sống lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môisen để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai ? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao ?
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rất khôn khéo. Ngài vừa chứng minh rằng sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu tình trạng của kẻ sống lại như thế nào.
Trước hết, để chứng minh rằng sống lại là điều hợp lý, Chúa Giêsu lập luận rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chỉ có kẻ sống mới hưởng được tình thương của Chúa. Nếu chết mà là hết thì đâu còn hưởng được tình thương của Chúa. Do đó Chúa phải cho kẻ chết sống lại để họ có thể hưởng được tình thương Chúa mãi mãi. Lập luận này đối với chúng ta ngày nay thì hơi lạ tai, khó hiểu. Nhưng đối với người Do thái thời đó, vốn rất quen với quan niệm "Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống", thì họ đều dễ hiểu. Tóm lại là Chúa Giêsu khẳng định rằng kẻ chết sẽ được sống lại.
Rồi Chúa Giêsu còn giải thích tình trạng của kẻ sống lại như thế nào: đó là một cuộc sống khác hẳn cuộc sống bây giờ, không còn cưới vợ lấy chồng nữa ; cuộc sống ấy rất thánh thiện như "các thiên thần" cuộc sống ấy rất thân mật với Chúa, kẻ lành sống lại được coi là "Con của Chúa".
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại Vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải sống như thế nào ?
Hồi nảy chúng ta đã nghe lại mấy câu thơ của ông Cao bá Quát với chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình.
Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mãi mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp… Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không ? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy !
Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào ?
- Trước hết, ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình.
- Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt:
Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống.
Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình.
Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội.
Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau.
Chúng ta phải nhớ nguyên tắc "Gieo gì thì gặt nấy": nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi ; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc ; nếu ta không đầu tư thờ giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc.
Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng ta suy nghĩ:
Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới
Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế
Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.
2. Sống lại
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đề cập đến vấn đề kẻ chết sống lại. Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Chúa Giêsu lẫn ở thời nay.
Thời nay có nhiều người chỉ nghĩ đến vật chất: ngay cả Thiên Chúa, linh hồn và đời sau họ còn không tin, huống chi là tin chuyện xác loài người chết rồi mà một ngày kia còn sống lại được. Thời Chúa Giêsu 2000 năm trước đây cũng thế. Vấn đề kẻ chết sống lại là một tín điều không phải do trí óc con người lý luận ra, mà do Thiên Chúa mạc khải dần dần qua dòng thời gian. Ở thời xa xưa, khi mạc khải Chúa chưa tỏ hiện trọn vẹn, người Do thái cũng tin như những dân ngoại: Họ tin rằng sau khi chết, phần linh hồn của con người còn tồn tại, tồn tại trong cõi âm phủ tối tăm không ánh sáng vì thiếu hết mọi hạnh phúc, linh hồn kẻ lành người dữ sau khi chết đều phải rời vào cõi âm phủ buồn thảm đó. Còn phần xác thì tiêu tan ra, không hy vọng gì sống lại được. Mãi đến thời anh em nhà Macabê khởi đầu dành độc lập cho đất nước Do thái, nghĩa là khoảng 100 năm trước Chúa Giáng sinh, mạc khải mới cho biết xác loài người có ngày sẽ sống lại. Chính vì tin tưởng như thế nên vào thời này, như đoạn sách thánh lúc nãy thuật lại, có 7 anh em nhà bị bắt và được dụ dỗ bỏ đạo, 7 anh em sẵn sàng thà chết phần xác mà không bỏ đạo còn hơn là chết luôn phần hồn vì tội chối Chúa, vì họ tin chắc rằng xác thể họ sẽ không chết mãi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại vinh hiển. Tuy đã có mạc khải như thế, nhưng cho tới thời Chúa Giêsu, vẫn có người còn chưa tin theo.
Đại biểu của những kẻ không tin này là phái Sađóc. Vì không tin, nên khi nghe Chúa Giêsu giảng về kẻ chết sống lại, họ mỉa mai chế giễu và đến với Chúa đặt ra một câu hỏi lố bịch cốt ý chọc ghẹo Chúa. Họ lý luận: nếu như ông nói người ta sẽ sống lại, thì giả sử một nhà kia có 7 con trai, anh cả lấy vợ rồi chết. Và căn cứ theo luật Môisen thì em kế phải cưới người vợ góa để có con nối dõi tông đường, nhưng em kế cũng chết mà không con, rồi người thứ ba lấy, rồi cũng chết, cứ thế cho đến hết 7 anh em. Vậy khi sống lại thì người đàn bà kia là vợ của ai ? Khi hỏi như thế, nhóm Sađóc dĩ nhiên không cần Chúa trả lời rằng người đàn bà đó là vợ của ai cả, nhưng muốn Chúa bị bắt bí và phải thú nhận rằng giáo lý của Ngài về việc kẻ chết sống lại lại là bố bịch và do đó Ngài phải phủ nhận giáo lý đó để đi theo lập trường của họ. Nhưng trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Ngài chẳng những giải thích rõ hơn về việc kẻ chết sống lại, mà còn trả lời thẳng về việc ai là chồng của người đàn kia. Đại khái Ngài bảo: vấn đề kẻ chết sống lại là một điều chắc chắc có căn cứ trên sách thánh, bởi Thiên Chúa đã phán Ngài là Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, mà Thiên Chúa không là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, cho nên các tổ phụ đó tuy đã lìa đời nhưng vẫn là kẻ sống và xác thể họ sẽ sống lại. Ngài còn cho phái Sađóc biết thêm rằng: sau khi sống lại người ta không còn sống theo những điều kiện của đời này, nghĩa là không còn cưới vợ lấy chồng nữa.
Tất cả đều hướng về Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc thật và độc nhất, và là Đấng thoả mãn mọi nhu cầu của con người.
Chúng ta là con cái Chúa đang sống giữa con cái thế gian như một nhóm thiểu số, như hạt muối trong lòng đất, như nhúm men trong thúng bột. Nhiều người sống quanh ta không tin ở đời sau, và đa số không tin việc sống lại. Do chính cuộc sống chúng ta, chúng ta phải làm sao chứng minh cho mọi người về niềm tin của chúng ta:
- Tin rằng xác loài người ngày sau sống lại, chúng ta phải làm sao cho mọi người thấy rằng ngoài những giá trị thuần túy vật chất như tiền bạc, cơm áo, tài sản… còn có những giá trị tinh thần quý báu hơn như thà mất mát một vài tiện ích vật chất chứ không phạm tội để bảo tồn những giá trị thiêng liêng của linh hồn ; như không khư khư nhắm mắt chỉ lo cho đời sống vật chất đời này mà quên mất đời sau: như dám quảng đại hy sinh chia xẻ những của cải mình đang có cho những người anh chị em túng thiếu hơn mình…
Một niềm tin chắc chắn và được biểu lộ qua một cuộc sống cụ thể như thế mới làm cho những kẻ không tin không chế nhạo chúng ta và còn có sức lôi kéo họ đi theo niềm tin của chúng ta về việc kẻ chết sống lại.
3. Hợp hoan bên chúa
Trong kho tàng chuyện cổ Tây Phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau:
Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh dược một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.
Dù không được mời, mụ phù thuỷ ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: "Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết !" Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: "Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi".
Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu dài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết !
Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở.
Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra toà lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình.
***
Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của n người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Đức Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.
Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân: "Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay".
Phái Xa đốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Đức Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta "không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng" vì con người "không thể chết nữa", nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được "sống ngang hàng với các thiên thần" là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa (Lv 12,7), được dự phần vào dòng dõi của Người (1 Ga 3,2). Thánh Phao lô viết: "Việc kẻ chất sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang ; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15,42-44).
Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỷ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỷ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người Công chính. Lời than thở của thánh Augúttinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: "Lạy chúa Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa".
Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ "đời sau". Họ đang sống mà như đã chết.
****
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa đời đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", Năm C)
4. Nghĩ đến sự chết
Càng lớn tuổi, chúng ta càng ý thức rằng cuộc sống này ngắn ngủi chừng nào và mỏng dòn như thế nào. Và mặc dù không muốn, càng ngày chúng ta càng nghĩ nhiều về sự chết.
Việc suy nghĩ về sự chết không nên khiến chúng ta bi quan sợ hãi, trái lại nó phải đem đến cho chúng ta những giá trị tích cực: nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ yêu quý sự sống hơn ; nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ đón nhận từng ngày sống như một món quà ; và khi đón nhận cuộc sống như một món quà của Chúa, chúng ta sẽ sống mà yêu thương Chúa nhiều hơn.
Chết chỉ là một bước đi qua. Tuy nhiên, nhiều người nghe nói thế mà không muốn tin như thế. Thực ra, có gì khó tin lắm đâu ? Cuộc đời vốn gồm nhiều bước đi qua:
- Khi chúng ta sinh ra là chúng ta đi qua từ cuộc sống trong bụng mẹ sang cuộc sống bên ngoài.
- Khi chúng ta đến trường là chúng ta đi qua từ cuộc sống ở gia đình nhỏ bé sang cuộc sống ở một cộng đồng rộng lớn hơn.
- Khi lập gia đình là chúng ta đi qua từ cuộc sống một mình sang cuộc sống lứa đôi.
- Khi đến tuổi hưu dưỡng, chúng ta sẽ đi qua từ cuộc sống làm việc sang cuộc sống nghỉ ngơi.
Mỗi một bước đi qua đều dẫn đến một tình trạng vừa giống như chết nhưng đồng thời cũng là một cách sống mới.
Thì ngày chết cũng vậy: đó là một bước đi qua từ cuộc sống đời này sang cuộc sống đời sau.
5. Làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống đời sau
Bà mẹ và 7 người con trong bài đọc I là những người tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này.
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau thì chúng ta cũng phải làm chứng cho người khác thấy là chúng ta thực sự tin như thế. Người khác mà thấy chúng ta thực sự tin như thế thì có thể họ mới tin theo chúng ta.
Nhưng thế nào là chứng tỏ mình thực sự tin vào cuộc sống đời sau ?
- Là chúng ta dám từ bỏ những thứ mà cuộc sống đời này cần.
- Là chúng ta không quá sợ khổ và sợ chết.
- Là trong khi còn sống, chúng ta không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất để bảo đảm cho đời này, mà còn tìm kiếm cách hăng say hơn những giá trị tinh thần và đạo đức là bảo đảm cho cuộc sống đời sau.
6. Kinh nghiệm cận tử
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là "kinh nghiệm cận tử" (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy mình rời khỏi thân xác của mình, đòng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi rời khỏi thân xác.
- Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó.
- Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn và bứt rứt khó chịu, đồng thời đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ chịu và hạnh phúc, đồng thời đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do động cơ không yêu thương.
- Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần đấng sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng ấy bảo: "Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận phải làm ở trần gian. Vậy con phải về". Và khi đó là lúc họ tỉnh lại.
- Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách sống: từ đó trở đi họ không sợ chết nữa ; họ không coi trọng việc tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với một người bằng tình thương.
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Ngài dẫn dắt từng bước chân ta đi trên con đường dương thế này, và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Ngài. Với tất cả lòng tin yêu phó thác, chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài.
VI. Giải tán
Xin Thiên Chúa thắp lên trong lòng anh chị em niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau. Xin cho niềm hy vọng ấy là động cơ giúp anh chị em sống tốt trong từng giây phút của cuộc sống đời này. Lễ xong, chúc anh chị em luôn bình an.
--------------------------
Trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng, sau khi nghe Lời Chúa và nghe giảng, người tín hữu Ki-tô có thói quen lập lại lời tuyên xưng Đức Tin của mình. Lời tuyên xưng này được trình bày tóm tắt mà chúng ta gọi là Kinh Tin Kính. Trong Kinh Tin Kính, câu cuối cùng được ghi như sau: "Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen". Không có sự sống lại, thì sự chết sẽ là tiếng nói sau cùng. Không có sự sống lại, thì những hy sinh cố gắng để trung thành với đức tin sẽ thành vô nghĩa. Lẽ dĩ nhiên, sự sống lại là niềm tin của Giáo Hội, và đó cũng là niềm tin của mỗi người trong chúng ta; nhưng chúng ta phải hiểu sự sống lại như thế nào đây ? Chúng ta cùng tìm hiểu về điều này qua các bài Thánh Kinh hôm nay.
Bài Sách Thánh thứ nhất, trình thuật về cuộc tử đạo của bảy anh em nhà Mác-ca-bê, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong truyền thống Cựu Ước. Nó chứng tỏ niềm tin ngày càng gia tăng; rằng sau khi chết, mỗi người vẫn tiếp tục sống. Lần đầu tiên các vị tử đạo của thời Cựu Ước đã khẳng định xác kẻ lành sẽ sống lại. Sở dĩ các vị này chối từ sự sống trần thế vì họ tin chắc rằng Thiên Chúa đủ quyền năng để phục sinh họ vĩnh viễn.
Thánh Kinh và giáo huấn của Giáo Hội, dạy chúng ta rằng: chết không phải là chấm dứt cuộc sống, mà chẳng qua chỉ là thay đổi cuộc sống. Nó là sự khởi đầu của cuộc sống mới, cuộc sống tối hậu mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho con người ngay từ khi Ngài tạo dựng nên con người. Kinh Thánh tuyệt đối xác quyết sự kiện có cuộc sống bên kia cái chết, nhưng Kinh Thánh dường như không nói rõ cuộc sống đó ra sao; ngoại trừ bằng một số từ ngữ chung chung, như chúng ta thấy trong các bài đọc Thánh Kinh hôm nay. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su xác nhận có cuộc sống mai sau, nhưng Ngài không nói rõ cuộc sống đó ra sao. ở chỗ khác Chúa Giê-su cũng từng đề cập đến hai cảnh khác nhau xảy ra trong ngày sau hết: đó là Thiên Đàng và hỏa ngục. Chúng ta cùng tìm hiểu vắn tắt về hai cảnh trên:
Trước hết là Thiên Đàng hay còn gọi một cách bình dân là trời. Tin Mừng theo thánh Gio-an, Chúa Giê-su đề cập đến Nước Trời như là cuộc sống vĩnh cửu trong câu: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời" ( Ga 6, 51 ), và Chúa Giê-su còn quả quyết một cách mạnh mẽ hn rằng: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" ( Ga 6, 56 ).
Như thế Chúa Giê-su chỉ diễn tả về Nước Trời bằng những từ ngữ chung, hay chúng ta có thể hiểu cách cắt nghĩa theo sách bổn Giáo Lý cũ. Trời, hay Thiên Đàng, là nơi hưởng phúc thanh nhàn vui vẻ vô cùng và cái phúc lớn nhất trên Thiên Đàng chính là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên. Trời cũng là nơi chúng ta được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa mãi mãi, hay nói cách khác: "Chúng ta được sống trong sự sống của Thiên Chúa". Thánh Phao-lô diễn tả bằng những hình ảnh sau: "Điều mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nhận đã được Chúa dọn sẵn cho những kẻ yêu mến Ngài. Đây là điều Chúa dùng thần khí mặc khải cho chúng ta" ( 1 Cr 2, 9 – 10a ).
Bây giờ chúng ta bước sang cảnh thứ hai của ngày phán xét đó là hỏa ngục. Trong Phúc Âm, Chúa Giê-su đã đề cập đến điều này nhiều lần; một trong số nhiều chỗ được Chúa Giê-su đề cập đến đó là dụ ngôn "Chiên và dê" ( xem Mt 25, 32 – 33 ).
Dụ ngôn kể rằng ngày phán xét cuối cùng, người ta sẽ bị chia làm hai nhóm – Đức Vua sẽ đến nói nhóm bên phải rằng ( tức là nhóm chiên ): "Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến mà nhận lấy nước Thiên Đàng đã sắm cho anh em từ khi tạo thành trời đất. Vì Ta đói, anh em đã cho ăn; Ta khát, anh em đã cho uống; Ta không có chỗ trú, anh em đã cho trọ; Ta mình trần, anh em đã cho mặc... " ( Mt 25, 34 – 36 )
Đoạn, Đức Vua phán bảo với những người bên trái rằng ( tức là nhóm dê ): "Hỡi những kẻ khốn nạn ! Hãy xéo đi khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, đã sắm cho ma quỷ và các thần dữ. Vì Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta không chỗ trú, các ngươi không đón tiếp; Ta mình trần, các ngươi không cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi không thăm viếng... " ( Mt 25, 41 – 43 ).
Dụ ngôn trên cho ta thấy: hỏa ngục là sự xa cách vĩnh viễn Thiên Chúa, hay nói một cách khác, hỏa ngục là nơi không bao giờ ta còn được xem thấy Thiên Chúa nữa.
Như vậy, Thiên Chúa thưởng phạt rất công minh trong ngày sau hết, nhưng Ngài cũng rất từ bi nhân ái và bao dung, ngay còn ở trần gian này; Giáo Hội dạy cho chúng ta biết còn một nơi trung gian, đó là luyện ngục. Đây là nơi thanh luyện những người sau khi chết mà bản thân không quá tội lỗi, hay không trong sạch cho đủ để được nhận ngay vào Nước Trời. Điều này đã được công đồng Florencia và Trento xác nhận dựa vào một số bản văn Thánh Kinh và truyền thống của Giáo Hội.
Và giờ đây bổn phận của chúng ta, những người còn sống, là phải năng dâng lễ và cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, và nhất là trong tháng Mười Một này là tháng mà Giáo Hội dành riêng để tưởng nhớ người quá cố. Đây là tháng chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu ông bà, tổ tiên, cha mẹ, anh chị em. Đây là một việc làm đạo đức có nền tảng trong Thánh Kinh, sách Mác-ca-bê quyển thứ hai cho biết rằng: "Giu-đa thủ lãnh nhà Mác-ca-bê sau một trận chiến đã quyên và gửi tiền về Giê-ru-sa-lem để xin lễ và cầu nguyện cho những người đã tử trận" ( 2 Mcb 12, 43 ).
Trở lại với bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, từ những thắc mắc của nhóm Xa-đốc: đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do-thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo lẫn chính trị, từ trước thời Đức Ki-tô. Họ chỉ chấp nhận 5 sách của ông Mô-sê ( Ngũ Kinh ). Họ không tin có sự sống lại...
Từ những vấn nạn của nhóm Xa-đốc, Đức Giê-su đã xác quyết rõ Giáo Lý của Ngài: có đời sau, có sự sống lại, có thiên thần, ở đời sau không còn có chuyện dựng vợ gả chồng.
Do hậu quả của tội nguyên tổ và nhất là tội lỗi của chính mình, con người phải chịu những đau khổ nơi cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, với tình yêu vô biên, Thiên Chúa vẫn luôn phù trợ con người cách đặc biệt qua nhiều phương thế, vừa cụ thể vừa nhiệm màu: Giáo Hội – Bí Tích – Ân Sủng... Nhờ đó con người có thể chu toàn trách nhiệm mà Ngài đã trao ban cách này hay cách khác. Dù ở cưng vị và hoàn cảnh nào, với tình yêu cao cả của Ngài, chúng ta yên tâm và quyết tâm sống theo lời Ngài dạy. Chúng ta phải là người xây nhà trên đá ( Mt 7, 24 ), là hạt giống rơi vào đất tốt ( Mc 4, 8 ), là hạt giống chấp nhận thối mục đi ( 1 Cr 15, 42 ). Khi sống được như vậy thì ngay trong cuộc sống trần gian này chúng ta đã cảm nhận được bao tình thương mến, hay nói một cách khác, chúng ta được nếm trước cuộc sống vĩnh cửu. Và tất nhiên, chúng ta còn được kết hợp với Thiên Chúa trong cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
Lm. BÙI NGỌC TUẤN, Hà Nội.
--------------------------
Con người sinh ra để làm gì ? Con người có chết không ? Chết rồi đi về đâu ? Con người có sống lại không? Có sự sống đời đời không ? Đó là những vấn nạn được con người đặt ra từ muôn đời. Ngay từ thời cựu ước đã có người tin vào sự sống vĩnh cửu như trích đoạn sách Mác-ca-bê đọc sáng nay nói về bảy anh em kiên trì thà chịu chết chứ không ăn thịt heo vì sợ mất cõi phúc là chống lại vua vũ trụ. Thời Chúa Giê-su cũng có người tin vào sự sống lại, có hạng người không tin vào sự phục sinh sau khi chết. Nhóm Xa-đốc, một phái quá khích, đứng trước mặt Chúa Giê-su là Đấng Hằng Sống, nhưng họ vẫn không tin vào sự phục sinh, trái lại họ đã thử thách Chúa Giê-su xem Người quan niệm thế nào về sự sống lại vì họ biết rằng Người đang rao giảng về sự Phục Sinh.
Đối với người Ki-tô hữu: Sống là tạm bợ, Chết là trường sinh.
CON NGƯỜI AI CŨNG PHẢI CHẾT.
Chết là định luật tất yếu của con người. Sinh ký tử quy. Có sinh có tử. Ai cũng phải trải qua một lần được sinh ra và một lần phải từ giã cõi đời, bỏ lại tất cả. Con người từ cổ chí kim với đà tiến của văn minh, của tiến bộ khoa học kỹ thuật, của y khoa đã tìm hết phương thuốc này tới phương thuốc nọ hầu kéo dài thêm tuổi thọ. Họ cố tìm ra phương thuốc trường sinh để làm cho đời sống bất tử. Nhưng tất cả đều vô ích. Con người không tài nào làm được sự sống vì như thánh Phao-lô nói: ”...Tội lỗi gây nên sự chết;như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”. ( Rm 5, 12 ) hoặc “...Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết”. ( Rm 1, 23 ).
Chết là cái bi đát nhất của con người. Cái chết không dung tha cho bất cứ ai và cho bất cứ người nào.
Mãi mãi không tài nào con người có thể níu kéo được sự sống, không bao giờ con người có thể chế ra được loại thuốc trường sinh bất tử vì “nọc của sự chết là tội lỗi đã lan tràn nơi trần gian” ngay từ lúc ông bà nguyên tổ A-đam và E-và phạm tội phản nghịch, quay lưng lại với Thiên Chúa ( St 3, 16 – 17 ).
LỜI CHÚA SOI CHIẾU
Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải Thiên Chúa của kẻ chết vì như thánh Phao-lô nói: ”...Nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta“. ( Rm 5, 21 ). Lời Chúa trong trích đoạn Lc 20, 27 – 38 hôm nay nói về việc người Xa-đốc đưa ra một câu chuyện không có thật để thử Chúa Giê-su xem Chúa quan niệm thế nào về sự sống lại. Câu chuyện giả tưởng mập mờ nhằm che mắt Chúa Giê-su.
Nhưng Chúa Giê-su đã biết rõ tư tưởng, ý thâm sâu của tấm lòng độc địa của họ. Người không nói rõ sống lại thế nào, sống lại làm sao. Ở đây Chúa Giê-su có ý xác định rõ ràng Người là Chúa ban sự sống, Người là Đấng tác sinh khi Người mượn sách Ngũ Thư của Cựu Ước mà nói với nhóm Xa-đốc rằng mọi người Do-thái lúc đó và cũng chính ngay họ cũng đã chấp nhận. Nếu Thiên Chúa là bạn của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp không phải trong giây lát, phút giây, tạm bợ mà là bạn vĩnh viễn, đời đời. Chúa là Đấng làm cho sống: ”...cùng chết với Đức Ki-tô... cũng sẽ cùng sống với Người...” ( Rm 6, 8 ). Chính cái chết trên Thập Giá của Chúa Giê-su đã làm cho sự sống lên ngôi, thống trị: ”Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay, Người sống lại, là sống cho Thiên Chúa “ ( Rm 6, 10 ).
Như thế, Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa của sự sống: đó là niềm tin của mọi người Ki-tô hữu. Người Xa-đốc dựng nên một câu chuyện giả tưởng, mập mờ đánh lận con đen hầu gài bẫy Chúa Giê-su. Họ đang đứng trước Đấng tác sinh mà họ không nhận ra Người vì mắt họ đã ra mù tối như Phi-la-tô đứng trước Đấng là Sự Thật mà ông không bao giờ có thể nhận ra. Ông hỏi Chúa Giê-su một cách ngô nghê: ”Sự thật là gì ?” ( Ga 19, 38 )
Lạy Chúa Giê-su, bảy anh em trong sách Mác-ca-bê trích đọc trong thánh lễ sáng nay đã tuyên xưng lòng tin trước mặt vua Chúa quan quyền thế gian vì Vua Chúa trần gian chỉ có thể giết thân xác và không giết được linh hồn. Chính Thiên Chúa mới có quyền ban sự sống. Xin Chúa cho chúng con luôn cảm nghiệm rằng: ”Sống là tạm bợ”, “đời sống vĩnh cửu mai sau mới quan trọng” để chúng con luôn biết sống lành thánh, biết sống vâng phục ý Chúa hầu chúng con được hưởng hạnh phúc đời đời.
Xin Chúa ban cho chúng con luôn tin tưởng rằng: ”Nếu chúng con cùng chết với Chúa, chúng con cũng sẽ được sống lại với Người” ( Rm 6, 8 ). Xin cho chúng con luôn hiểu thấu Chúa muốn qui tụ tất cả mọi người, không phân biệt ai cả để ”mọi người được sống và sống dồi dào” ( Ga 10, 10 ). Và như thế đời sống chúng con sẽ thăng hoa tốt đẹp vì chính chúng con đã mặc lấy Đức Ki-tô, chứ không như nhiều người đang sống mà như đã chết vì họ ích kỷ, co cụm chỉ nghĩ tới mình, cuộc đời của họ quả thực đã chết ngay khi còng đang sống.
Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỢI, DCCT, Điểm Truyền Giáo Fyan, Đà Lạt
------------------------------------
1. Niềm tin vào sự sống lại của người xưa và của người hôm nay
Sách 2 Mác-ca-bê được biên soạn vào khoảng năm 124 trước Công nguyên, có một tầm quan trọng đáng chú ý vì sách này chứa đựng những khẳng định rõ ràng về sự phục sinh, về thưởng hạt đời sau, về việc cầu nguyện cho người chết, về công trạng của các vị tử đạo, sự chuyển cầu của các thánh. Bài đọc 1 là câu chuyện tử đạo của bẩy anh em của một gia đình đã chết dưới bàn tay vua An-ti-ô-khô vì họ nhất quyết tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa và xác tín rằng: sau khi chết, họ sẽ được Thiên Chúa cho sống lại. Đó là niềm tin vào sự sống lại của người xưa.
Ngày nay, cũng không thiếu gì người tin chắc chắn rằng chết không phải là hết, mà chết chỉ là một chuyển tiếp từ cuộc sống hiện tại sang cuộc sống vĩnh hằng, từ cuộc sống đời này sang cuộc sống đời sau. Đó là các tín đồ các tôn giáo trên thế giới. Nhưng không chỉ có những tín đồ các tôn giáo tin vào sự sống mai hậu mà còn có nhiều người khác ở ngoài các tôn giáo cũng tin vào điều ấy.
Nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng: bên cạnh những người tin vào sự sống lại, ngày nay cũng như ngày xưa có rất nhiều người không tin vào sự sống ấy. Tin hay không tin vào sự sống lại là quyền của mỗi người, nhưng để chứng minh lòng tin hay lòng không tin của mình là một vấn đề không đơn giản vì rất khó đưa ra những lý lẽ đủ sức thuyết phục, theo nhãn quan người trần.
2. Có nhiều cách thể hiện niềm tin vào sự sống lại ?
Nếu chúng ta quan sát cách sống của các tín đồ các tôn giáo, tức của những người tin vào sự sống lại, chúng ta dễ dàng nhận ra có nhiều cách thể hiện khác nhau:
Vì tin vào sự sống đời sau, nhiều người sống thụ động, cam chịu tất cả mọi khó khăn, thử thách, thiệt thòi của cuộc sống đời này. Nhưng cũng vì tin vào sự sống lại, nhiều người vượt qua được những khó khăn thử thách và chấp nhận những hy sinh từ bỏ một cách lạc quan, tích cực và tin tưởng chứ không chỉ thụ động và cam chịu. Vì tin vào sự sống đời sau và cho rằng đó mới là sự sống thật, nhiều người tìm cách xa lánh "thế gian" tức khinh rẻ và trốn tránh các thực tại trần thế như gia đình, nghề nghiệp, xã hội loài người… để đi tìm một đời sống ẩn dật, thanh thoát, càng tách ra khỏi cuộc đời bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhưng cũng vì tin vào sự sống đời sau và cho rằng đời sống ấy là tiếp nối và là kết quả của cuộc sống đời này nên nhiều người sống dấn thân vào các công việc của trần thế: gia đình, nghề nghiệp, xã hội…. để xây dựng thế giới này theo các giá trị của Tin Mừng.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, chúng con tin vào sự sống lại và xin hứa với Chúa là từ nay chúng con sẽ cố gắng hết sức mình để đem tinh thần của Chúa vào trong gia đình, khu xóm, xã hội của chúng con và thể hiện tinh thần ấy bằng các việc làm cụ thể như yêu thương, phục vụ, đoàn kết, xây dựng.
Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
------------------------------------
Đức Cha Fulton J. Sheen trong tác phẩm “Trên đỉnh caoThập Giá” đã kể rằng: Sau khi bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Địa Đàng và gánh chịu hình phạt lao dịch, A-đam đã phải vất vả khổ cực tìm kiếm của ăn.
Một lần kia, trên đường ra nương rẫy, A-đam vấp phải thân xác bất động của A-ben. A-đam nâng dậy vác con lên vai đưa về nhà đặt trong vòng tay E-và. Ông Bà lay gọi nhưng A-ben không đáp trả. Trước đây A-ben là đứa con ngoan, lanh lợi, không có trầm lặng như vậy. Ông Bà nâng tay A-ben lên, bàn tay lại rơi xuống đất bất động, trước đây A-ben không hề như thế. Ông Bà nhìn vào đôi mắt của con: lạnh lùng, trắng dã, vô tư một cách bí mật, trước đây đôi mắt của A-ben có vô tình như vậy bao giờ đâu. Ông Bà kinh ngạc, nỗi kinh ngạc tăng dần lên. Thế rồi hai Ông Bà chợt nhớ lời Thiên Chúa: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ phải chết”.
Cái chết của A-ben là cái chết đầu tiên của nhân loại. Khi Nguyên tổ phạm tội, Địa Đàng đã đóng ngõ cài then. Đau khổ và sự chết đã tràn vào thế giới và chảy dọc theo thời gian.
Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Sống và chết là hai thái cực đối chọi nhau. Sự sống và sự chết là một kỳ công của Thiên Chúa. Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào ngăn cản được sự chết. Thế giới càng văn minh thì Tử Thần càng xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Có cái chết êm đềm thư thái, có cái chết đau đớn khốn khổ, muốn chết không được, muốn sống không yên. Càng chạy trốn Tử Thần, thì Tử Thần càng đến gần. Càng tránh đau đớn thì đau đớn càng nhiều.
Ở mọi thời đại, cái chết vẫn là một mầu nhiệm thách thức lý trí con người. Tại sao con người lại phải chết ? chết là gì ? Đó luôn luôn là những câu hỏi làm xao xuyến tâm não con người trong mọi không gian và thời gian. Sự chết là một đề tài suy niệm phong phú. Mỗi tôn giáo, mỗi con người nhìn và hiểu một cách tuỳ theo quan niệm của mình, tuỳ theo niềm tin, tuỳ theo chọn lựa và thái độ cuộc sống.
Đối với Ki-tô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi ( Rm 5, 12; 6, 23 ). Nhưng Thiên Chúa, “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin. Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giê-su. Họ trích sách Đệ nhị luật 25, 5 – 6 để hỏi Người:Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ?
Những câu trả lởi của Đức Giê-su đã vén mở phần nào bức màn đời sau. Đời sau khác đời này. Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Đời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì Đức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống.
Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Đức Giê-su sẽ hoàn tất măc khải này. Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Đấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Ki-tô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết ( 1 Cr 15, 14 ). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Đức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” ( 1 Pr 2, 24 ).
Vì Đức Giê-su đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Đức Ki-tô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Đức Ki-tô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Đức Giê-su không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Ki-tô đã được Thần Khí hoá ( Rm 8, 11; 1 Pr 3, 18 ), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa ( Rm 6, 10 )
Niềm tin vào Đức Giê-su, Đấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Ki-tô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cữu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giê-su. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Ngài được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Đại diện cho Giáo Hội là Linh Mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Đất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: “Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Đàng.”
Sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo, bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người không những là nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được mà còn thiết lập một tương quan mới, đó là tương quan Cha – Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Ki-tô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi ( Rm 8, 15 ).
Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” ( Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14 ). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Amen
Lm. NGUYỄN HỮU AN ( Giáo Phận Phan Thiết
------------------------------------
Lc 20,27-38
Trong đoạn trước, CGS đã làm bẽ mặt người biệt phái cố ý giăng bẫy Ngài khi đề cập đến vấn: TN 32-C41
1. Trong đoạn trước, CGS đã làm bẽ mặt người biệt phái cố ý giăng bẫy Ngài khi đề cập đến vấn đề nộp thuế cho hoàng đế César. Sau những người biệt phái, là những người không dám chất vấn Ngài nữa, các nhân vật khác bắt đầu nhập cuộc. Họ thuộc về một trong ba phái Do thái đồng thời với CGS. Đó là những người Sađđuceô, nghĩa là “con cáo của Sađoc”, thuộc chi họ Lêvi (Ez 40,46). Họ thuộc giai cấp tư tế, nhưng từ lâu họ không còn giữ đạo Do thái cách thuần túy. Nếu trung thành làm các việc phụng tự bên ngoài, họ lại rất ít quan tâm đến các giáo điều nói về niềm tin tôn giáo: vì phụng vụ đã làm họ thỏa mãn. Hoài nghi kiên quan đến tín điều, họ quả quyết “không có sự sống lại, không có thiên thần” (Cvsđ 23,8), cũng như phủ nhận bất tử tính của linh hồn (theo Josèphe Ant.jud., XVIII,1,4). Điều sau này không đúng. Trong các điều họ phủ nhận, ở đây Lc chỉ nói điều phủ nhận về sự sống lại, bởi vì họ tranh luận với CGS về điểm này.
Sự sống lại là điểm giáo lý khiến họ ly khai với người biệt phái và khi phủ nhận điều đó, họ cho mình là người giữ lại niềm tin cổ truyền của Israel. Họ công nhận sau khi chết, linh hồn vẫn còn sống trong Shéol. Niềm tin vào sự sống lại xuất hiện vào thời các sách Macabêô hoặc vào thời đại trước đó, dưới ảnh hưởng của một đời sống sâu xa hơn, của ước muốn thông hiệp chặt chẽ hơn với TC trong một thế giới tốt đẹp hơn. Sự hiện diện của những hồn ma trong Shéol không thể lấp đầy những khát vọng đó. Chỉ có sự nối kết giữa linh hồn và thể xác bên cạnh TC mới có thể làm họ thỏa mãn. Niềm hy vọng về sự sống lại được củng cố trong suốt các cuộc chiến tranh tôn giáo. Thế nhưng đối với người Sâđđucêô, đó lại là một tín điều mới và họ phủ nhận điều đó, in tuồng họ đã đồng hóa với triết lý Hy lạp.
2. CGS chia sẻ niềm xác tín của người biệt phái và dẫn chứng: thực sự có việc người chết sống lại. Đó là lý do khiến một vài người Sâđđucêô tìm cách chế diễu Ngài.
Họ bắt đầu bằng cách nại đến thế giá của Môisen mà CGS không thể nhìn nhận. Trong sách Đnl (25,5tt), luật Môisen buộc người nào đó, có anh đã cưới vợ nhưng đã chết mà không có con, phải cưới bà góa đó và sinh con thừa tự cho anh mình; đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người đã quá cố, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong Israel. Luật này trở nên khe khắt trong trường hợp cả hai anh em cùng sống chung với nhau, những người Sâđđucêô bỏ qua chi tiết này. Vả lại, chi tiết này không nhập gì đến lập luận mà họ muốn dựa vào để bác bỏ sự sống lại.
Theo họ, việc áp dụng luật này nhất thiết chứng minh rằng: không thể có sự sống lại. Họ đưa ra trường hợp một người chết không con, sáu anh em của người này tuần tự lấy chị dâu mình rồi cũng chẳng ai có con, người thứ bảy cũng thế. Cho quá đáng trong con số 7 có mục đích cho ta thấy việc sống lại là chuyện không thể tin được.
Đến lượt người đàn bà cũng thế. Nếu có việc sống lại bà sẽ ra sao ? Ai trong 7 anh em sẽ là chồng bà ? Bởi vì không ai trong bảy người có con và tất cả đã chấp hành đúng luật Môisen, nên tất cả đều có quyền lợi đồng đều đối với bà. Quả vậy, tình cảnh thật đáng buồn cười khi người ta có một quan niệm vật chất về sự sống lại, có lẽ đó cũng là quan niệm của người biệt phái.
3. CGS bắt đầu cách bác bỏ chính ý kiến sai lầm về sự sống lại. Thật thế, người Do thái tin rằng khi sống lại người ta sẽ tiếp tục cuộc sống ở trần gian này. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng cuộc sống này xem ra có thể làm cho họ vui thích. Một tiến sĩ luật danh tiếng đã nói: “trong ngày đó (sau khi sống lại) người đàn bà sẽ sinh con trong mọi ngày”; càng nhiều con, niềm vui của kẻ có con càng lớn lao. Điều mà người Sâđđucêô minh chứng, nhắm đến chính kiểu tin tưởng này về sự sống lại. Thế nhưng CGS lại không tin vào sự sống lại theo kiểu này. kẻ sống lại từ cõi chết không dựng vợ gả chồng và không đính hôn. Đời sống của những người sống lại không phải là sự tiếp nối đơn thuần đời sống trên trần gian.
Người sống lại không thuộc về thế giới trần thế này nữa, nhưng thuộc về một thế giới mai hậu, một thế giới mới. Viễn ảnh lịch sử trong sấm ngữ Do thái nói đến hai thời kỳ, hai thế giới, hai thời đại của thế giới: thế giới này và thế giới khác. Tiếp theo sau thời kỳ hiện tại là thời kỳ của bất công, phiền não, chết chóc, bại hoại tội lỗi, sẽ đến thời kỳ mới vô cùng tận, mọi sự độc dữ sẽ bị tiêu diệt, sự bại hoại luân lý sẽ bị xua trừ, sự vô tín sẽ bị loại bỏ, nơi đó sự công chính sẽ được biểu dương và chân lý sẽ là điều duy nhất được mến chuộng. TƯ lấy lại hình ảnh này. Con cái của thời này, của thế giới này , phải tùng phục tội lỗi và cái chết; nhưng những người được TC tuyển chọn và ban ân sủng, thuộc về thời kỳ mới này sẽ lãnh nhận đời sống vĩnh cửu và được thông phần vào sự sống lại từ cõi chết (x.Mt 12,2; Lc 16,8; 20,34; “thời kỳ này”; Lc 20,35: “thời kỳ đó”; Mc 10,30; Lc 18,30: “thời sẽ đến”; Mt 12,32: “thời tương lai").
Hôn nhân được xử dụng trong thế giới hiện tại, bây giờ. Nhưng sẽ không cần thiết trong thời kỳ sẽ đến, vì thời đó người ta không còn phải chết nữa. Đó là sự tiếp tục truyền sinh nhân loại được hiểu ngầm như là ý nghĩa của hôn nhân (Stk 1,28). Khi đạt tới bất tử, con người không còn cần hôn nhân nữa. Người Sađđucêo đã chứng minh sai. Hôn nhân chỉ có trong một thời.
Những người của kỷ nguyên sẽ đến được bất tử vì họ giống như thiên thần. Họ hiện hữu với cách thế thiên thần. Họ được sống như vậy vì là con cái TC. Kinh thánh thường ám chỉ các thiên thần dưới danh hiệu “con TC” (x. chẳng hạn Giop 1,6; 2,1). Họ thông phần vào vinh quang của TC, vào sức mạnh và ánh sáng của Ngài (Cvsđ 12,7). Những người sống lại được dự phần vào dòng dõi TC (1Gio 3,2; Rm 8,21), vinh quang (Rm 8,18), một “thân xác thần thiêng” (1Cor 15,44). “Cũng vậy, về sự kiện kẻ chết sống lại: gieo xuống trong ô nhục, người ta sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, người ta sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại, sống lại là xác thần thiêng” (1Cor 15,44tt). Những người sống lại không còn phải chết nữa. Những người đạo hạnh của thế giới ngoại giáo, Hy lạp, đương thời ước ao được sống hạnh phúc trong một thứ tình trạng được thần linh hóa, một đời sống không còn bị cái chết đe dọa; họ hy vọng đạt được nhờ cử hành các bí nhiệm hoặc nhờ trực quan, “tri thức”. Nhưng họ không quan niệm được một cái gì thích thú trong sự sống lại thể lý, bởi vì thân xác được coi như là một gánh nặng, một nhà tù và như vậy là mồ chôn của linh hồn. Sự sống lại có giá trị nhiều hơn sự bất tử; người chết sẽ sống lại với tư cách là hữu thể không thể bị hủy diệt và “chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cor 15,52): không phải chỉ có linh hồn sẽ sống, chính con người toàn diện với cả xác lẫn hồn sẽ có đời sống vô cùng tận.
Người sống lại đã được xét là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến. Sự sống lại là một tặng phẩm của TC, một tặng phẩm hoàn toàn nhưng không, cũng như nước trời (2Th 1,5). Thế nhưng không phải chỉ có những người TC tuyển chọn và xét xứng đáng mới sống lại mà là tất cả mọi người, tội lỗi cũng như người công chính. Lc nhận biết niềm hy vọng này, rằng sẽ có một sự sống lại của những người công chính và bất chính (Cvsđ 24,15). Nhưng đối với những người công chính, sự sống mới là vinh quang (14,14). CGS ở đây nghĩ đến chính sự sống lại của người công chính khi Ngài nói với họ được xem như là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến.
Các câu 37-38 mang lại, nếu không phải là bằng chứng mới, ít nhất cũng một giai đoạn mới người lời minh chứng của CGS. Đó là câu CGS trích dẫn Kinh thánh dựa trên thế giới của Môisen, mà người Sađđucêô vừa viện dẫn. Trong bộ ngũ thư, trong đoạn nói về bụi cây đang cháy (Xac 3,1tt), TC tự xưng là TC của Abraham, của Isaac và của Giacop. Ngài không phải là TC của kẻ chết, nhưng của kẻ sống. Từ hai tiền đề đó, hình như phải kết luận về sự bất tử của linh hồn hơn là sự sống lại. Có một khó khăn về nghĩa từng chữ của sách Xac, trong đó TC tự xưng là TC mà tổ phụ dân Israel đã thờ lạy. Thật là thích đáng khi nghĩ TC đã cho đoạn này một nghĩa sâu xa hơn: TC vẫn còn là TC của những ai phụng sự Ngài và hằng tiếp tục sống cho Ngài. Vậy các tổ phụ vẫn còn sống. Để từ một sự bất tử của linh hồn đến sự sống lại mà CGS chắc chắn muốn dựa vào đoạn văn này để chứng minh. Phải nại đến lòng tin tưởng của người Do thái về đời sống ở thế giới bên kia. Người công chính đi vào Shéol, ở đó họ chưa được hạnh phúc đời sống họ vì thế chưa được hoàn toàn. Đời sống của họ, nhờ vâng theo thánh ý TC, đáng được thưởng công, linh hồn họ đáng được TC đưa ra khỏi Shéol để sống đời sống mới hoàn hảo hơn. Đời sống này sẽ được ban cho họ khi sống lại; và chỉ đời sống mới này mà họ sống lại từ cõi chết. Nếu đã chết đối với loài người, thì nay họ vẫn còn sống đối với TC. TC đã sáng tạo con người bất tử, chính vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đi vào thế gian (Kn 2,23-24). Ý định của TC không thể mãi mãi bị ngăn chận do sự can thiệp của ma quỉ: con người sẽ tìm lại được quyền bất tử của mình, được diễn tả cách đẹp đẽ trong sự sống lại.
4. Người Sâđđucêô ngượng ngùng vì lập luận của CGS. Ngài được các ký lục hiện diện ở đó hoan nghênh, dù họ là đối thủ của Ngài. Sự hoan nghênh đó vì hai lý do: họ thán phục cách CGS lập luận chống lại người Sađđucêô và minh chứng được niềm tin vào sự sống lại mà họ vẫn có; đàng khác sự thất bại mà họ vừa chịu (về vấn đề nộp thuế cho vua César) cho họ một bằng chứng mới về nguy hiểm họ gặp khi muốn bắt bẻ CGS; trong trường hợp đặc biệt này, họ muốn hoan nghênh Ngài hơn là liên minh vào một cuộc tranh luận mới sẽ làm họ bẽ mặt như những cuộc tranh luận trước.
KẾT LUẬN
Qua lời tuyên bố long trọng của CGS về sự sống lại, qua tất cả các đoạn phúc âm nói về vương quốc TC, một lần nữa tỏ ra cho ta thấy một thứ phúc âm của sự sống. Tuy nhiên, ai xác tín về sự bất tử dành cho những vị thánh sẽ được sống lại trong Chúa (Gio 11,25-26) cũng cảm thấy mình đang sở hữu trong chính mình cái bí mật của đời sống vĩnh cửu đó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người Sâđđucêô đến chất vấn CGS về việc người chết sống lại. Ít khi chúng ta gặp phải những người Sađđucêô này, chúng ta thường thấy các cuộc đối chất giữa CGS và những người biệt phái hơn. Thật ra nhóm Sađđucêô, môt chi tộc Do thái khác, ít hơn nhóm Biệt phái, họ kết thành giai cấp tư tế của đền thờ Giêrusalem và là một phe phái chính trị hơn là tôn giáo. Tuy nhiên họ đối lập với các người biệt phái, bởi lẽ với khuynh hướng rất bảo thủ về Israel, họ giới hạn mạc khải vào 5 cuốn sách đầu tiên trong toàn bộ Kinh thánh và phủ nhận sự sống lại của thân xác. Vậy họ đến hỏi CGS một vấn nạn liên quan đến mạc khải về sự sống lại để làm cho Ngài lúng túng.
2. Chính vì thế, họ phịa ra một câu chuyện khá kỳ lạ. Đi từ một lời khuyên luân lý hoàn toàn xác đáng của luật, đòi buộc bà góa không con phải được em chồng lấy làm vợ. Họ tưởng tượng ra một trường hợp một người đàn bà đã lần lượt lấy 7 anh em và sau đó thắc mắc làm sao sự sống lại có thể có được, vì người đàn bà này không có thể là vợ của 7 anh em trong một lượt, khi cả bảy anh em sẽ được sống trong cuộc sống sau khi chết này. Từ đó, họ kết luận sự sống lại sau khi chết là phi lý, vì như vậy, sự sống lại gây nên những tình cảm vô nghĩa.
3. Vấn nạn, hay đúng hơn thể thức của vấn nạn xem ra đáng buồn cười; thật ra không đang buồn cười lắm đâu, nó khiến chúng ta nghĩ đến vấn nạn mà hiện nay người ta có thể đặt ra. Bàn về cuộc sống sau khi chết, nhiều người hoặc sẽ phủ nhận hoặc sẽ chế giễu theo quan niệm của họ.
Đối với một số người, cuộc sống sau khi chết là chính cuộc sống hiện tại một khi được hoàn toàn thành công; và tùy theo hoàn cảnh và tính tình, cuộc sống đó đối với mỗi người sẽ là việc nối tiếp tình yêu hôn nhân sâu sắc, tiếp tục được một gia đình hạnh phúc, được hoan lạc bình an trong công bình và chính trực; đối với người khác, cuộc sống sau khi chết là một thế giới nhiệm mầu, đầy quyến rũ nhưng mù mờ, tương ứng với các hoài vọng về một thiên đàng trần thế.
Đối với một số người khác, thiên đàng trần thế không phải là cái gì xa vời nhưng đạt được ngay từ bây giờ, đó là chủ trương của người Mac-xít và tất cả những ai ngây thơ tin vào sự tiến bộ vô hạn định của nhân loại. Sự sống lại từ cõi chết có hay không và sẽ xảy đến thế nào ? Có nên tin điều đó không và làm cách nào để xác tín ? Đó là những vấn nạn chúng ta đang đặt ra cho Ngài.
4. Ngay lúc đó, CGS lấy lại một ví dụ của các người đối thoại với Ngài; họ nói về sự hôn nhân và sự vĩnh tồn của hôn nhân sau khi chết. CGS nói chỉ có người đời này mới dựng vợ gả chồng; đó là chuyện hợp tình hợp lý trên trái đất, nhưng không thích hợp với những người sống ở thế giới bên kia. Trong thế giới khác, khi sống lại từ cõi chết, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa.
Khi bàn về sự sống lại và đời sau, những người này đã dựa trên kinh nghiệm trần thế của họ. Đó là một sai lầm. Hai thế giới khác biệt nhau, không thể có chuyện so sánh. Để giải thích, CGS nói: “Họ giống như thiên thần”. Điều này không có nghĩa họ không còn là người, nhưng là người đã thoát khỏi điều kịn trần thế; và sự hiện hữu mới của họ cũng khác với sự hiện hữu lúc còn tại thế.
Sau đó Ngài minh xác hai trong số đặc điểm rõ ràng nhất của đời sống sau khi chết. Trước hết Ngài nói: “Họ không còn phải chết nữa”, họ thoát khỏi những định luật của sinh vật học, thoát khỏi luật phát triển được quan niệm bằng những hạn từ: biến đổi, đào thải, mỏng dòn và lão yếu. Và “họ là con cái của TC”; một cuộc sống mới đến thay thế cuộc sống cũ, một cuộc khai sinh mới đã được thực hiện.
5. Câu trả lời của CGS thật quan trọng, vì giải đáp những vấn nạn của người Sađđucêô và của chúng ta. Không thể dựa trên cuộc sống trần thế nàỵ để bàn về cuộc sống đời sau. Phải dựa trên chỗ khác. Nếu đi từ kinh nghiệm bản thân, anh chị em sẽ quan niệm sai lầm, đó là câu trả lời thứ nhất của CGS.
6. Trả lời như thế xem ra tiêu cực, nên Ngài tiếp tục (trả lời) để chứng minh cho người Sađđucêô, việc kẻ chết sống lại, Ngài nại đến Môisen và dùng luận chứng xác tín nhất của họ, vì đối với họ ngoài Môisen không còn vị đại diện tiên tri nào nữa. CGS nói với họ: “TC của Abraham, của Isaac và của Giacop, không phải là TC của kẻ chết nhưng là của kẻ sống; quả vậy mọi người đều sống với Ngài”. CGS khuyên đừng quan niệm về một TC chỉ có thể yêu thương cách bất toàn, tạm thời. Quan niệm như thế là lộng ngôn phạm thượng. Nếu yêu thương ai, Ngài yêu thương mãi mãi, không thể để họ chết mà không cho sống lại. Quả thật, CGS không chứng minh gì cả. Dựa vào kinh thánh, Ngài khẳng định rằng chối bỏ sự sống lại sẽ làm mất đi tầm vóc, mật độ và lòng kính yêu trong niềm tin vào TC hằng sống và chân thật. Nếu tin vào TC của kẻ sống, anh chị em phải tín nhiệm và tin cậy vào Ngài về một đời sau không thể không hiện hữu. Chối bỏ sự sống lại, chính là xếp TC hằng sống và chân thật ngang hàng với các ngẫu tượng câm nín và vô dụng.
7. Câu trả lời của CGS là lời mời gọi tín thác vào TC hằng sống, Đấng luôn yêu thương chúng ta và hết lòng ước ao một ngày nào đó chúng ta sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi này bằng một đời sống đầy tin tưởng và hy vọng vào đấng sẽ phục sinh chúng ta.
------------------------------------
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN. C
AI ĐƯỢC XÉT LÀ ĐÁNG DỰ PHẦN ĐỜI SAU?
Để không gây “sốc”, hay gương mù cho giáo dân, cha xứ không dâng lễ an táng cho một thanh niên: TN 32-C42
Để không gây “sốc”, hay gương mù cho giáo dân, cha xứ không dâng lễ an táng cho một thanh niên trong giáo xứ, thay vào đó, ngài cho phép tang quyến mời một linh mục giúp đỡ. Thế là tôi được đề nghị giúp đỡ gia đình của anh thanh niên.
Hỏi cho biết lý do vì sao cha xứ lại quyết định như thế, người cha của anh trả lời trong dòng lệ tiếc xót và oán trách con trai mình. Nỗi oán giận lớn lắm. Người thanh niên qua đời chỉ mới ngoài hai mươi tuổi. Anh ta chết do một sự thù ghét rồi bị giết hại. Mặc dù cái chết của anh, nhìn bề ngoài, đó là cái chết thương tâm, hiểu về mặt thể chất lẫn đức tin, nhưng sao tôi vẫn nhận thấy cha xứ đã không quyết định bất hợp lý, cũng chẳng sai sót…
Một đêm, lúc đó đã hơn chín giờ, sau khi uống rượu với bạn bè tại nhà, thấy vẫn chưa “đã”, cả bọn kéo nhau vào quán uống tiếp. Nhưng đấy lại là quán “ôm”. Tôi tạm gọi đây là nhóm A. Ỷ lại cả bọn đông người, nhóm A vào quán gây hấn giành giật các cô tiếp viên. Một nhóm thanh niên đã ở trong quán từ trước, tạm gọi là nhóm B, hình như “sợ” nên bỏ đi. Thế là cả bọn “làm chủ tình hình”. Xong việc của mình, đám thanh niên A đứng dậy ra về.
Được vài chục mét, bổng bị đám thanh niên B xuất hiện với mọi thứ vũ khí ghê gớm trên tay. Anh thanh niên Công giáo mà tôi vừa nói tới là thành phần của nhóm A (kẻ vừa gây hấn trong quán), bị một thanh niên của nhóm B cầm vỏ chai bia đâm vào ngực. Trên đường đi tới bệnh viện, anh ta đã tắt thở. Bác sĩ cho biết thanh niên Công giáo này chết vì đứt cuống tim. Có người độc mồm, độc miệng bảo: “Nó chết vì gái!”. Chẳng biết nói như thế có nên hay không, nhưng anh thanh niên Công giáo này bị nhiều người trách móc, thậm chí lên án, có lẽ cũng không là chuyện bất thường. Tiếng tăm không tốt nhanh chóng lan ra. Cha sở quyết định có một kỷ luật nhẹ như vừa nói trên…
Trong khi câu chuyện về người thanh niên bên trên vẫn còn ám ảnh, tôi lại suy niệm các bài Thánh Kinh hôm nay. Sáu người con quả cảm trước cái chết vì đức tin, cùng người mẹ quá đổi phi thường của họ, mà sách Macabê giới thiệu làm cho tôi cảm động đến run lòng. Không phải một lần đọc câu chuyện này, nhưng hôm nay đọc và suy niệm trong tâm tình cầu nguyện, đối chiếu với thực tế còn đang bị ám ảnh, tôi mới thấy thấm thía hơn bao giờ hết: Cùng là những cái chết, và đều là những người bị giết hại, nhưng sao cái chết của bảy mẹ con trong sách Macabê đẹp đến vậy, đáng yêu, đáng học đòi đến vậy và tha thiết, cao cả quá đổi. Chỉ một đoạn trích trong toàn bộ câu chuyện nhưng quá đủ để nói lên một lòng tin vững như đá, rắn như sắt, như đồng. Ta hãy nghe tâm sự của người con thứ hai: “Vua chỉ cất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời”. Và thái độ kiên cường của người con thứ ba khi bị lý hình cắt lưỡi: “Cậu le lưỡi, dõng dạc giang hai tay ra và nói một cách tin tưởng rằng: ‘Tôi được Trời ban cho các phần thân thể này, nhưng giờ đây, vì lề luật của Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng, Người sẽ ban cho tôi các phần thân thể ấy’”. Đức tin ngoan cường của bảy mẹ con đã phải làm cho vua quan, những kẻ hành hình họ, phải ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng: “Nhà vua và những kẻ tùy tùng của ông lấy làm bỡ ngỡ thấy lòng mạnh bạo của cậu trẻ coi các cực hình như không”.
Tôi lại tiếp tục suy niệm bài Tin Mừng: Những người Sađusêô thắc mắc: Một phụ nữ lấy bảy anh em làm chồng, nhưng những người chồng lần lượt qua đời. Vậy trong sự sống đời sau, người phụ nữ là vợ của ai? Những người Sađusêô, không tin có sự sống đời sau, chắc sung sướng lắm, vì tưởng đã có thể đưa Chúa vào thế bí. Còn Chúa Giêsu - dù phải đáp trả cho một câu chuyện bày đặt hết sức ngây ngô, ngớ ngẩn đến mức buồn cười - đã đưa người nghe đến chân lý về sự sống lại. Chân lý ấy cũng là huyền nhiệm thuộc về đức tin của người tín hữu: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại”.
Tất nhiên, trong mạch văn, những lời ấy trả lời cho vấn nạn về sự sống đời sau. Nhưng cách nói: “những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau” và “họ giống như thiên thần”, mặc nhiên cho thấy có người không đáng được dự phần đời sau. Vì nếu đã có “những ai” “xét” là được, chắc sẽ có “những ai” khác “xét” là không được. Và chỉ “những ai xét đáng được dự phần” mới “giống thiên thần”, chắc sẽ có những ai xét không đáng được dự phần, cũng sẽ chẳng giống thiên thần.
Dẫu biết, ta không được xét đoán ai. Và tình thương của Chúa thì có gì tốt lành lại không thể xảy ra. Người vẫn có thể rút ra sự lành từ sự dữ, sự xấu. Nhưng trong cái nhìn nhân loại làm sao ta dám quả quyết dễ dàng, nhanh chóng mà không cẩn thận, một kẻ chết tức khắc ngay sau khi bước ra từ quán bia ôm lại có thể “xét đáng được dự phần đời sau” và “giống như thiên thần”? Nhưng với cái chết cảm động, chết vì lề luật của Chúa, chết cho Thiên Chúa, chết để bày tỏ đức tin, chết khẳng khái giữa lúc tâm hồn đang hướng về Chúa hoàn toàn của bảy mẹ con, làm sao ta không buông lời ca tụng: họ là những thiên thần trần gian Chúa đưa về trời!
Người chết chỉ thực sự chết khi không còn sống trong lòng người khác. Bảy mẹ con chịu tử đạo thời Macabê, chẳng những vẫn sống trong lòng người khác thật diệu ngọt, đáng trân, đáng quý; nhưng một khi được Thánh Kinh nêu gương, họ sống đến muôn đời.
Chúng ta chọn cho mình cách sống nào? Sống để chiếm lấy vĩnh cửu hay chỉ là những kẻ chọn lấy đời này và đánh mất đời sau? Đời sau vẫn cứ là huyền nhiệm lớn không thể tả. Chẳng ai biết thiên đàng, hỏa ngục tròn hay méo. Người ta chụp được rất nhiều hình ảnh lạ mắt, nhưng chưa từng có ai lấy được hình ảnh của thiên đàng và hỏa ngục. Vì không thể tìm được chân dung, người tín hữu nói riêng và loài người nói chung, dễ bị cuốn hút vào những cái thấy được của cuộc đời này, bám chặt vào nó đến nổi có lúc đã trở nên tội lỗi và lún sâu vào tội lỗi. Bạn thân mến, sống là để chết. Ta biết mình đang đi về đời sau để gặp Đấng mà mình tin yêu suốt đời. Vì thế, cái chết không bi quan. Ngược lại, cái chết dạy ta biết cách sống. Ta hãy sống như sẽ chết, để khi chết, ta trở về với nguồn cội đích thật của mình là quê hương vĩnh cửu. Nơi đó Chúa đang chờ để ban hạnh phúc muôn đời cho kẻ đã “xét đáng được dự phần đời sau” là chính chúng ta.
Lm Vũ Xuân Hạnh
------------------------------------
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN
Lc 20,27-38
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
Bài Tin Mừng hôm nay về mầu nhiệm kẻ chết sống lại: Những người thuộc phái Xa-đốc không tin: TN 32-C43
1) Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay về mầu nhiệm kẻ chết sống lại: Những người thuộc phái Xa-đốc không tin xác loài người ngày sau sống lại như Đức Giêsu đã rao giảng. Họ đã kể ra một câu chuyện giả tưởng về một người đàn bà, theo luật “thế huynh” của Môsê, đã lần lượt lấy bảy anh em nhà kia làm chồng. Từ câu chuyện đó, họ đặt ra một câu hỏi với hy vọng sẽ có thể bắt bí được Đức Giêsu: Nếu Thầy cho rằng có sự sống lại thì sẽ phải giải quyết người đàn bà kia là vợ của ai, vì cả bảy người đều cưới chị ta làm vợ và đều chết mà không để lại một đứa con nối dòng cho mình. Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã trả lời cho họ biết về số phận của loài người sau khi sống lại. Họ sẽ không còn cưới vợ lấy chồng như khi còn sống ở trần gian. Họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa và sẽ giống như các thiên thần là không bao giờ phải chết nữa.
2) CHÚ THÍCH:
Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giêsu. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Mấy người ấy hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: “Nếu anh hay em người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng, để gây dựng một dòng giống cho anh hay em mình” (Lc 20,27-28):
+ Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc: Đây là một số người thuộc đẳng cấp lớn trong hàng tư tế phục vụ đền thờ. Họ không tin có đời sau, không tin có sự sống lại như đã được nói đến trong sách thánh vào hai thế kỷ trước đó như sau: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh…” (x, Đn 12,2-3). Ngược lại. Nhóm Pharisêu lại tin có sự sống lại (x. Cv 23,8). Đức Giêsu cũng rao giảng việc kẻ chết trỗi dậy, nên phe Xa-đốc đặt ra câu chuyện giả tưởng này nhằm chống lại chấn lý này.
+ Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này …: Nhằm để chế diễu giáo lý về sự sống lại, nhóm này đã trưng ra một khoản luật pháp của Môsê được gọi là luật “thế huynh”: Nếu người anh lấy vợ mà chết không con, thì buộc người em trai phải lấy chị ta làm vợ. Đứa con sinh ra đầu tiên sẽ được luật pháp công nhận là con của người đã chết, để dù chết nhưng anh ta vẫn có con nối dòng (x. Đnl 25,5).
Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thư ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ? (Lc 20,29-33).
+ Vậy nhà kia có bảy anh em trai…: Đây là câu chuyện về bảy anh em nhà kia lần lượt lấy cùng một bà vợ và đều chết không có con. Rồi họ đặt vấn đề: Nếu có sự sống lại thì làm sao giải quyết ổn thỏa được tình trạng ấy: Người đàn bà này sẽ là vợ của ai trong bảy anh em kia ?
+ Nhóm này đưa ra câu chuyện giả định chưa khi nào xảy ra, nhằm mục đích phản bác niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại. Sai lầm của nhóm Xa-đốc là đã quan niệm về việc kẻ chết sống lại một cách thế tục. Họ nghĩ đời sống trần gian như thế nào thì khi sống lại người ta cũng sẽ tiếp tục sống y như vậy: Khi còn sống đã là vợ chồng thì ở đời sau cũng vẫn chồng nào vợ nấy.
Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,34-36).
+ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng: “Con cái đời này” là một kiểu nói Sê-mít, ám chỉ những ai thuộc về thế gian này. Câu này có nghĩa là: Vì sự sống của con người ở trần gian có sinh có tử, nên người ta mới cần lấy vợ lấy chồng để sinh con cái nối dõi.
HỎI: Qua câu “Song những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết (Lc 20,35) và câu “Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc 14,14), phải chăng Luca đã theo chủ trương: chỉ những người lành thánh mới được sống lại, còn những kẻ tội lỗi thì không ?
ĐÁP: Thực ra không phải chỉ có những ai được Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới sống lại, nhưng là tất cả mọi người tội lỗi cũng như công chính đều được sống lại, như chính Luca đã ghi lại lời thánh Phaolô giảng dạy trong sách Công Vụ như sau: “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này là: người lành kẻ dữ sẽ sống lại” (x. Cv 24,15). Ngoài ra Tin Mừng Gioan cũng viết: “Giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó: Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống; Ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28-29). Và Tin Mừng Mátthêu cũng khẳng định về việc tất cả người lành kẻ dữ đều được sống lại để chịu phán xét chung. Kẻ lành sẽ được lên Thiên Đàng (x. Mt 25,34-40) và kẻ dữ sẽ bị phạt trong hỏa ngục (x. Mt 25,41-45). Tóm lại, hai câu trong Tin Mừng Luca 14,14 và 20,35 chỉ nhấn mạnh đến việc kẻ lành sống lại để được hưởng vinh quang, và không đề cập đến số phận của kẻ dữ. Trong toàn bộ Tin Mừng Luca, cũng không có câu nào khẳng định là kẻ dữ sẽ không được sống lại.
+ Thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng: Họ không dựng vợ gả chồng vì các lý do như sau: Một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và được ngang hàng với các thiên thần; Hai là vì họ trở nên con cái của Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa.
+ Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần: Khi sống đời đời, người ta sẽ không còn phải lo lắng việc đời nữa, ngoài việc phụng sự và ngợi khen Thiên Chúa, giống như nhiệm vụ của các thiên thần.
+ Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại: Kiểu nói của người Sê-mít này có nghĩa là một khi được Thiên Chúa nhận là con cái thì họ cũng được thừa hưởng thế giới mới và sự sống mới nhờ việc sống lại (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).
Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống (Lc 20,37-38):
+ Còn vấn đề kẻ chết trỗi dậy…: Ở đây Đức Giêsu dựa vào Thánh Kinh để chứng minh có sự sống lại. Người nêu ra một đoạn trong sách Xuất Hành mà nhóm Xa-đốc công nhận để chứng minh chân lý ấy: Khi hiện ra với Môsê trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Apraham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Giacóp (x. Xh 3,6).
+ Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các tổ phụ Apraham, I-xa-ác và Giacóp dù đã qua đời, nhưng câu nói của Thiên Chúa với Môsê có hàm ý là các vị ấy hiện vẫn đang sống. Vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống đang điều khiển lịch sử loài người. Người không thể là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà phải là của những kẻ sống. Con Người gồm cả hồn lẫn xác, nên không những linh hồn con người thiêng liêng không bao giờ chết được, mà cả thân xác con người, dù có hóa thành bụi đất, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống, cũng sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 11,23-26).
+ Vì đối với Người, tất cả đều đang sống: Nghĩa là: Tất cả đều sống nhờ Người, và mọi người sẽ lãnh nhận được sự sống lại từ nơi Thiên Chúa Hằng Sống ban cho.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20,38).
2) CÂU CHUYỆN:
a- HÔM NAY CHA SẼ ĐƯỢC VỀ THIÊN ĐÀNG:
Khi lâm trọng bệnh, các bác sĩ cỉ nói Đức Gioan 23 bị chứng loét dạ dày. Nhưng Ngài biết rõ bệnh tình của mình và đã nói với những người giúp đỡ mình rằng: “Cha đã dọn sẵn hành trang. Xin hãy cầu nguyện cho Cha sớm về với Chúa”. Vào ngày cuối cùng, có những cơn đau đớn kéo dài, linh mục thư ký riêng đến bên giường bệnh hôn tay Đức Thánh Cha và hỏi xem ngài cảm thấy trong người thế nào ? Ngài trả lời: Cha cảm thấy khỏe mạnh và an bình giống như Cha đang ở trong tay Chúa. Nhưng đồng thời cha cũng cảm thấy hơi lo”. Linh mục thư ký nói: “Xin Đức Thánh Cha đừng lo, người phải lo là chính con đây. Vì con vừa mới nói chuyện với bác sĩ xong”. Ngài hỏi tiếp: “Họ đã nói với cha thế nào ?” Bấy giờ linh mục thư ký nói trong nghẹn ngào: “Thưa Đức Thánh Cha, họ nói là hôm nay Đức Thánh Cha sẽ về thiên đàng”. Nói xong, linh mục thư ký quỳ xuống bên cạnh giường, đưa hai bàn tay lên bưng mặt khóc. Sau mấy phút trôi qua thật nặng nề, linh mục thư ký cảm thấy có một bàn tay âu yếm xoa lên đầu mình, và nghe thấy một giọng ôn tồn nói với mình rằng: Ngẩng đầu lên đi con ! Mọi ngày người thư ký của tôi mạnh mẽ lắm cơ mà, sao hôm nay lại trở nên mềm yếu thế này ! Con ơi, quả thật tai của cha vừa được nghe một câu nói đẹp đẽ làm sao: “Hôm nay Cha sẽ được về thiên đàng !” Đó chính là niềm mơ ước độc nhất của cuộc đời ta đó con ạ !”.
b- CHẾT LÀ Gì ?: ĐE-VÍT MA CÓT (David Marcus) là một sĩ quan quân đội đã bị chết trong một trận chiến vào tháng 6 năm 1948 tại Ítraen. Trong người của viên sĩ quan này, người ta đã tìm thấy một cuốn sổ nhật ký, trong đó ghi lại suy nghĩ của ông về cái chết thật là thơ mộng như sau:
“Tôi đang đứng trên một bến cảng ở bờ biển. Trước mặt tôi là một con tàu vừa trương bườm chuẩn bị ra khơi. Con tàu trông mới hùng vĩ và đẹp làm sao ! Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một vệt trắng ở đường chân trời. Lúc đó, có một người bạn đứng cạnh tôi nói lên rằng: “Xem kìa, con tàu đã biến mất rồi !”. Nhưng thực ra nó đâu có biến mất. Nó vẫn còn đó với chiếc bườm màu trắng và thân tàu to lớn đúng như khi tôi nhìn thấy nó đậu ở bến cảng. Hiện giờ nó đang đi đến một nơi đã định trước. Kích thước con tàu chỉ nhỏ dần đi trong mắt tôi và cuối cùng biến mất khỏi tầm nhìn hạn hẹp của tôi mà thôi. Rồi ít ngày sau, con tàu đó sẽ tới một địa điểm mới. Tại nơi nó sắp cặp bến lại vang lên tiếng nói đầy vui mừng của những người đang chờ đón nó: “Ồ con tàu đã đến nơi rồi kia kìa !”. Con tàu đó chính là hình ảnh cái chết của mỗi người chúng ta”.
3) SUY NIỆM:
- Ai trong chúng ta cũng đã từng nhìn thấy người chết và mọi người đều chấp nhận một sự thật này là: Mọi người dù ở địa vị nào cũng đều phải chết. Cái chết là số phận chung của con người. Tuy vậy, ai ai cũng đều tự nhiên có ước vọng được sống lâu và sống mãi. Không sống lâu được về thể xác thì ít là sống mãi bằng danh thơm tiếng tốt, bằng sự nghiệp để lại cho con cháu như người ta thường nói: “Trâu chết để da, người chết để tiếng”. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta về số phận của loài người chúng ta: Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống đã tạo dựng nên loài người để cho họ được tham phần vào sự sống hạnh phúc với Người. Tuy nhiên, do phạm tội mà nguyên tổ A-đam E-va phải chết, và kéo toàn thể nhân loại phải chết theo. Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến để ban ơn cứu độ loài người (x. Rm 5,12-17). Người là sự sống lại và là sự sống, sẽ ban sự sống cho loài người (x. Ga 11,25). Đến ngày tận thế, hết mọi người nhờ quyền năng Thiên Chúa sẽ được sống lại. Những ai đã sống một cuộc đời tin yêu noi gương Đức Giêsu sẽ được sống hạnh phúc vĩnh viễn trên thiên đàng. Còn những ai không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, thể hiện qua đời sống ích kỷ và thù ghét Thiên Chúa và tha nhân, thì sẽ bị phạt đời đời trong hỏa ngục (x. Mt 25,31-46).
- Đức Phật dạy rằng đời người có nhiều kiếp sống. Người sống hiền lành sẽ được hóa thân thành tiên thành phật trong niết bàn đầy hoan lạc. Còn người xấu xa gian ác khi chết sẽ bị trừng phạt trong chín tầng địa ngục. Còn đại đasố sẽ được đầu thai kiếp khác để làm người hay làm thú vật mà sám hối tội lỗi… Nhiều người khác lại không tin có đời sau như những người thuộc nhóm Xa-đốc trong bài Tin Mừng hôm nay. Theo họ, chỉ có một đời sống ở trần gian, và chết đi là hết. Còn Đức Giêsu thì dạy: Con người còn một đời sống khác sau khi chết. Khi chết thân xác con người sẽ bị vùi sâu trong lòng đất chờ ngày sống lại. Sau khi sống lại, người ta sẽ sống một cuộc sống mới khác với đời này. Họ sẽ sống vĩnh viễn không còn chết nữa, không còn đau khổ và nước mắt. Người ta cũng không còn cưới vợ lấy chồng vì không cần phải có con nối dõi. Họ sẽ sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa. Đời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết. Đến ngày tận thế Thiên Chúa sẽ ban cho thân xác con người được kết hiệp với linh hồn sống lại để chịu phán xét chung. Thân xác tuy đã biến thành tro bụi, nhưng nhờ quyền năng của Thiên Chúa, sẽ được biến đổi để được hưởng hạnh phúc thiên đàng hay bị trừng phạt trong hỏa ngục, tùy theo khi còn ở trần gian họ đã sống thế nào.
- Hằng năm, Giáo Hội dành riêng tháng Mười Một để khuyến khích con cái mình cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã qua đời. Đây cũng là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về bốn sự sau là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Chính sự chết dạy cho chúng ta biết phải sống như thế nào. Thiên đàng hay hỏa ngục đời sau sẽ kéo chúng ta ra khỏi những ham mê hạnh phúc giả tạo và động viên ta can đảm chịu đựng những đau khổ ở đời này để đền tội mình và kết hiệp với Chúa Giêsu xưa đã từng chịu chết trên cây thập giá để ban ơn cứu độ cho thế gian.
4) THẢO LUẬN: Ngày nay nhiều bạn trẻ chỉ biết đi tìm hạnh phúc bọt bèo chóng qua, trong những thú vui nhục dục và những đam mê bất chính. Bạn sẽ làm gì giúp họ nhận ra tình trạng sa đọa của bản thân và cấp thời ăn năn sám hối và bất đầu một cuộc sống mới đầy tình bác ái yêu thương ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU, Khi đọc kinh tin kính, tuy miệng con tuyên xưng mầu nhiệm kẻ chết sống lại và tin có sự sống đời sau, nhưng trong thực hành, con sẵn sàng lỗi đức công bình khi có cơ hội, gây ra bao thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho tha nhân, và không nghĩ đến việc sẽ phải đền trả trước tòa Chúa phán xét sau này. Dường như đức tin của con mới chỉ là thứ đức tin lý thuyết và không đủ mạnh để ngăn cản con khỏi sống ích kỷ tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa đã quả quyết rằng: Thân xác chúng con sau này sẽ sống lại. Khi ấy sẽ không còn cưới vợ lấy chồng, không còn bon chen vất vả kiếm sống như ở trần gian, nhưng mọi người sẽ trở nên giống như các thiên thần của Thiên Chúa và sẽ được sống trong vinh quang hạnh phúc đến muôn đời.
LẠY CHÚA, con muốn rằng: ngay từ bây giờ con sẽ thuộc trọn về Chúa. Xin dâng lên Chúa mọi tâm tư, cùng những niềm vui nỗi buồn và những ước vọng của con. Xin Chúa thương nhận và ban xuống dồi dào hồng ân cứu độ cho con. Xin cho con luôn phó thác cuộc sống của con trong tay Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi thử thách xảy đến, với niềm tin rằng chúng đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) LẠY MẸ MARIA. Mỗi lần viếng nghĩa trang hay vào thăm nhà chờ Phục Sinh, nơi chứa đựng tro than hài cốt của các người thân quá cố, con lại nghĩ đến ngày tận thế, ngày mà các xác sẽ phục sinh. Loài người chúng con được dựng nên từ tro bụi, và sẽ trở về với bụi tro. Số phận con người giống như hoa phù du sớm nở tối tàn ! Nhưng con tin rằng nhờ Đức Giêsu mà loài người chúng con sẽ được sống lại trong ngày tận thế. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng làm cho mọi xác phàm, dù đã thành bụi tro, cũng được sống lại trở nên con người mới để được thưởng hay bị phạt muôn đời.
LẠY MẸ, trần gian này đối với con thật là tốt đẹp, khiến con mải mê vui hưởng mà quên đi quê trời đời sau. Mỗi ngày từ sáng đến tối, con chỉ biết miệt mài tìm kiếm lợi lộc vật chất, mà quên mình đang là lữ khách. Giờ chết chính là lúc buộc con phải bỏ lại mọi thứ của cải, giã từ mọi thú vui trần gian. Xin Mẹ dạy con đừng bao giờ thỏa mãn với những thú vui tầm thường, nhưng luôn biết phục vụ Chúa bằng việc an ủi những người sầu khổ, thăm viếng các người cô đơn và các bệnh nhân liệt giường, chia sẻ cơm bánh cho những người nghèo đói… Đó chính là những hành trang thiêng liêng mà con có thể mang theo đến trước toà Chúa phán xét. Nhờ đó, con sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc mãi mãi trên thiên đàng.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Trích Hiệp sống Lời Chúa
Lm. Đan Vinh
------------------------------------
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN / 32nd Sunday in ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG
* God is the God of living *
Thà chết vào tay người đời đang khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng được Người cho sống lại: TN 32-C44
BÀI ĐỌC 1: 2 Macabê 7, 1-2; 9-14= Thà chết vào tay người đời đang khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng được Người cho sống lại./ It is my choice to die at the hands of men with the God-given hope restored to life by Him.
BÀI ĐỌC 2: 2 Tx 2,16-;3,5=Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh, để anh biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô./ May the Lord rule your hearts in the love of God and the constancy of Christ.
TIN MỪNG(Gospel): Luca 20, 27; 34-38= Đức Chúa không phải là Chúa của kẻ chết; nhưng là Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống./ God is not the God of the dead but of the living. All are alive for Him.
Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống ba bài đọc trên: (Some points of Reflection to live out and share)
1/ Những ai được sống lại: Chúa Giêsu nói rõ với nhóm Xa-đốc và tôi về sự sống đời sau rằng: “Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.” (Lc 20,35) Ý Chúa muốn cho tôi biết là họ sẽ không chết; nhưng còn được ngang hàng với các Thiên thần. Lúc đó người ta sẽ thấy những ai chịu thiệt thòi khinh chê vì Chúa là người khôn. Như vậy việc dựng vợ lấy chồng là phương thế Chúa cho con người để có sự sống đời đời. Tôi cần làm gì để xứng đáng sống laị?
2/ Tất cả đều đang sống: Thánh Têrêsa Hài đồng trước khi qua đời yên ủi chị em rằng: chị em đừng khóc như những kẻ không có niềm tin cậy, tôi không chết, tôi vào cõi sống. Chúa nói: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.” (Lc 20,38) Anh trộm lành đã nhận ra tội lỗi mình, đã thay đổi là đã sống lại và anh được Chúa cho lên Thiên đàng ngay! Anh thực đang sống. Khi bạn từ tỏ tội lỗi là bạn đang sống lại và Chúa làm chủ bạn. Chia sẻ những sự sống mới của bạn trong Gia đình?
3/ Chết là biến đổi: Đố với Chúa Kitô chết không phải là hết nhưng là biến đổi, là từ bỏ cõi trần để vào cõi sống thật. Sách Ma-ca-bê nói: “…chúng tôi chết vì luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.”(2 Mcb 7, 9) Thánh Phaolô cũng nói: chúng tôi sẵn sàng từ bỏ thân xác này để được trở về ở bên Chúa. Tôi sẽ không chết; nhưng tôi được biến đổi, mặt không che màn, ta phản chiếu hình ảnh vinh quang Chúa như một bức gương. Phản ứng của tôi khi bị khinh chê vì Tin Mừng?
4/ Chết không phải là mất mát: Sự sống của Chúa đang tang ẩn nơi bạn, chỉ có Ngài mới thấy ánh vinh quang ấy. Bởi thế trong bài đọc 2, thánh Phaolô xin cho tâm hồn bạn được sức mạnh để làm điều tốt đẹp: “Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh để anh biết yêu Chúa và chịu đựng như Đức Kitô.” (2Tx 3,5) Khi bạn cùng chết với Đức Kitô là từ bỏ của cải và xác thịt là bạn đã sống lại với ngài ngay từ bây giờ rồi. Vì thế người đời cho bạn là khổ, nhưng thật ra bạn đang vui mừng. Kể những tự do,vui mừng, bình an cuả bạn?
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
CHÚA KHÔNG PHẢI LÀ CHÚA CỦA KẺ CHẾT, NHƯNG LÀ THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG
God is not the God of the dead but of the living (Lc 20,38)
C- Ngay giờ tôi phải làm gì để được sống lại: (So what am I doing / For Action)
Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống.
D- Tôi dựa vào Lời Chúa để cầu nguyện và Sống điều mình xin: (I pray and practice / Pray in Action)
Lạy Cha, Đức Kitô đã nói: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết; nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống. Xin giúp con mau mắn từ bỏ đam mê của thể xác để có sự sống vĩnh cửu ngay từ hôm nay.
Lời hay ý đẹp: QUÀ CHÚA TẶNG CHO THẾ GIỚI CHẾT NÀY LÀ CHÚA CỨU THẾ BAN SỰ SỐNG
God’s gift to a dying world is the life-giving Savior
Phó tế JB. Định Nguyễn
-----------------------------------
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN - NĂM C
Bài đọc 1: 2 M 7, 1-2. 9-14
Bài đọc 2: 2 Tx 2, 15-3, 5
Tin mừng: Lc 20, 27-38
Thiên Chúa của kẻ sống
Có lần tôi tự nghĩ: nếu cuộc sống chỉ có đời này, và chết là hết, thì liệu những việc tôi đang làm đây: TN 32-C45
Có lần tôi tự nghĩ: nếu cuộc sống chỉ có đời này, và chết là hết, thì liệu những việc tôi đang làm đây có ý nghĩa gì không? Và nói như thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Corinthô: nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ (x. Cr 15, 19). Quả thực, nếu không có niềm tin vào sự sống lại, không có niềm tin vào sự phán xét công minh và yêu thương của Thiên Chúa sau khi chết, có lẽ không ai trong chúng ta ngu dại gì mà sống ngay thẳng, thành thật; và cũng chẳng có ai đủ kiên trì để chịu đựng những thử thách, bất công, hoặc cũng chẳng ai dại gì mà đi chia sẻ, giúp đỡ người khác nếu điều đó không có lợi cho mình.
Vâng, chỉ có niềm tin vào sự sống lại mới có thể giải thích tại sao có những nữ tu như Mẹ Têrêxa Calcutta vượt qua được sự ghê tởm để ôm lấy những con người hôi thối, ghẻ lở bên bờ cống rãnh đem về tắm rửa chăm sóc cho họ. Chỉ nhờ vào sự xác tín rằng sự sống đời này không phải là tất cả, nên mới có những người dám từ bỏ sự giàu sang, và cả gia đình để dấn thân trọn vẹn cho Thiên Chúa trong đời sống tu trì, dám dành cả cuộc đời mình cho những anh chị em bị phung cùi, bị SIDA … Và cũng chỉ có niềm tin rằng: Thiên Chúa mới thực là Đấng làm chủ sự sống, mới có những người dám hy sinh sự sống mình để làm chứng cho Ngài.
1. Thiên Chúa, Đấng làm chủ sự sống:Trở lại với bài đọc một được trích từ sách Macabê, kể lại câu chuyện tử đạo của bảy mẹ con người Do thái vào khoảng thế kỷ thứ hai tr. CN. Lúc bấy giờ, đất nước Do thái đang bị đế quốc Hy Lạp đô hộ, và bằng sức mạnh quân sự của mình, đế quốc Hy Lạp muốn bắt người Do thái từ bỏ niềm tin của mình để tôn thờ các thần minh của đế quốc. Họ đã dùng mọi thủ đoạn từ mua chuộc, dụ dỗ cho đến bắt bớ, giam cầm, kể cả việc tra tấn cho đến chết.
Trong bối cảnh đó, nhiều người trong dân Do Thái phần vì sợ hãi, phần vì không cưỡng nổi miếng bả phù hoa, danh vọng nên đã chối bỏ niềm tin của cha ông, chấp nhận thờ các thần của dân ngoại.
Thế nhưng, mặc cho sự dụ dỗ và tra tấn của nhà cầm quyền, vẫn còn nhiều người Do Thái can đảm, kiên trì sống trung thành với Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ khỏi tay Ai Cập khi xưa, và đưa họ trở lại Đất Hứa từ nơi lưu đày. Một trong những điển hình cho lớp người trung kiên này là bảy anh em cùng với bà mẹ mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một. Sau khi giết chết hai người anh, vì không thể làm gì để lay chuyển được lòng trung kiên của họ đối với Giavê Thiên Chúa. Những tên lý hình quay sang dụ dỗ người con thứ ba, hy vọng cậu đổi ý sau khi thấy những hình khổ hai anh đã chịu. Nhưng trái với suy nghĩ của tên lý hình, khi chúng “bảo cậu le lưỡi”, chẳng những cậu không sợ mà còn “dõng dạc giang hai tay ra và nói một cách tin tưởng rằng: “Tôi được Trời ban cho các phần thân thể nầy, nhưng giờ đây vì lề luật của Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng Người sẽ ban lại cho tôi các phần thân thể ấy”.
Còn người con thứ tư sau khi chứng kiến ba người anh đã lìa đời và bản thân mình cũng đã kề cận với cái chết, thì cậu vẫn mạnh dạn tuyên bố: “Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại thì hơn”. Qua những câu trả lời của mình, cùng với một thái độ kiên vững trước những cực hình phải chịu, tám mẹ con trong bài đọc một này đã chứng tỏ một niềm tin mãnh liệt của họ vào Thiên Chúa, Đấng đang và thực sự là chủ của sự sống. Đối với họ, sự sống trên trần gian này cho dù là của vua chúa hay thường dân, cho dù là sự sống của người quyền quý hay nghèo hèn, tất cả đều phát xuất bởi Thiên Chúa, và tuỳ thuộc vào Ngài.
Mặt khác, bằng chính lòng can đảm của mình, họ còn bày tỏ một niềm xác tín mãnh liệt rằng: sự sống đời này chỉ là tạm, còn sự sống đời sau mới thực sự là vĩnh cửu. Và Thiên Chúa chính là Đấng làm chủ sự sống đời này cả đời sau, như lời người con thứ tư nói với vua Antiocho IV, trước khi chết: “Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu”.
Niềm tin vào sự sống vĩnh cửu này trong Cựu Ước đã được chính Đức Giêsu củng cố, khi Ngài trả lời cho những chất vấn của những người thuộc phái Sađốc, một phái không tin có sự sống lại. Ngài nói với họ: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa”. Với câu trả lời của mình, Đức Giêsu không chỉ khẳng định về sự chắc chắn của việc sống lại, nhưng để hưởng được hạnh phúc trong cuộc sống vĩnh cửu, Ngài mời gọi mỗi người chúng ta ngay từ bây giờ hãy “sống cho Chúa”. Sự sống vĩnh cửu chính là phần thưởng Thiên Chúa dành cho những ai trung thành với Ngài.
2. Sự sống mới, phần thưởng của người trung thành:
Cả tám mẹ con đã dám can đảm đối mặt với cái chết với một thái độ anh hùng, không sợ hãi, bởi họ xác tín rằng: Chết chưa phải là hết, và những hình khổ và cả cái chết họ phải chịu ở đời này chẳng là gì so với hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những người trung thành. Để đáp lại những lời dụ dỗ và tra tấn của lý hình, người con thứ hai đã nói thẳng với nhà vua: “Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời”. Khi trả lời như thế, những người này đã minh nhiên bày tỏ một niềm tin mãnh liệt của mình vào Thiên Chúa, Đấng xét xử công minh. Ngài sẽ ban thưởng xứng đáng cho những ai trung thành.
Chính Đức Giêsu khi trả lời cho những người thuộc phái Sađốc cũng khẳng định: Sự sống đời đời chỉ dành cho “những ai xét đáng được dự phần đời sau”, nghĩa là sự sống đời đời chỉ dành cho những ai ngay khi còn sống ở đời này biết chuẩn bị sẵn sàng, và trung thành với Thiên Chúa cho đến cùng. Lúc đó “họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại”. Cùng chung tâm tình đó, thánh Phaolô trong bài đọc hai mời gọi chúng ta trong thời gian chờ đợi ngày Chúa trở lại hãy kiên vững trong lòng tin. Và thánh nhân còn kêu gọi chúng ta hãy bền vững thi hành giáo lý mà ngài đã dạy trong tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, trong bầu khí của những tuần lễ cuối cùng của Năm Phụng Vụ, mời gọi mỗi người chúng ta cùng nhìn lại cuộc sống của mình. Suốt thời gian qua, đã nhiều lần, tôi và quý OBACE quên mất rằng: quê hương đích thực chúng ta ở trên trời. Chúng ta cứ sống như là chỉ có cuộc sống hiện tại. Chúng ta vẫn sống bất công, hận thù với anh chị em, vẫn buông mình chiều theo các dục vọng của xác thịt, vẫn còn chè chén say sưa, đam mê cờ bạc. Chúng ta vẫn còn ngại ngần khi tham dự Thánh Lễ và xa rời bí tích Thánh Thể. Nói chung, cuộc sống của chúng ta cũng chẳng khác gì cuộc sống của những anh chị em không tin vào Thiên Chúa. Có lẽ chính vì thế công việc loan báo Tin mừng của chúng ta chưa thực sự đem lại một hiệu quả thiết thực.Giờ đây, chớ gì Lời Chúa hôm nay thực sự là một hồi chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta biết hoán cải đời sống của mình, thúc đẩy chúng ta thường xuyên đến với bí tích Thánh Thể để nhờ sự trợ lực của Thần Lương, mỗi người chúng ta không còn sống cho chính mình, nhưng là sống cho Chúa. Nhờ đó, chúng ta chắc chắn sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu làm phần gia nghiệp muôn đời. Amen.
Lm Trần Thanh Sơn
-----------------------------------
CHÚA NHẬT 32 TN - C (Lc.20,27-38)
THIÊN CHÚA LÀ CHÚA KẺ SỐNG
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 32 TN. Năm C hôm nay, Hội Thánh muốn dậy cho con cái mình: TN 32-C46
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 32 TN. Năm C hôm nay, Hội Thánh muốn dậy cho con cái mình biết Thiên Chúa là Thiên Chúa kẻ sống, nên ngay bài đọc I. Trích sách Macabêô tác giả đã cho thấy người đàn bà của bảy đứa con trước khi chết nói: “Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại thì hơn: Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu”(2 Mach 7,14).
Qua bài Tin Mừng Chúa Giêsu xác quyết: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”(Lc.20,37). Như thế, niềm tin vào sự sống lại là tất yếu. Vì như Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta thật hão huyền”( ICor.15,17)Bè Sadđucêo:Họ là con cái thuộc chi tộc Lêvi (x.Ez.40,46). Tuy họ thuộc hàng tư tế, nhưng họ không còn giữ được giáo lý chính thống của tôn giáo Israel. Bên ngòai, họ rất trung thành tuân giữ các điều luật thuộc các nghi thức, nhưng các vấn đề thuộc niềm tin, tôn giáo, họ ít để ý đến. Đối với họ phụng vụ là đủ rồi. Thế nên, họ qủa quyết: không có vấn đề kẻ chết sống lại, không có thiên thần, không có thần linh gì cả. Vấn đề kẻ chết sống lại là điểm phân cách họ và người Biệt Phái.
Họ phi bác vấn đề kẻ chết sống lại bằng cách dựa vào luật Moisen, bắt buộc người em của anh mình chết mà không có con, phải cưới người vợ góa đó để gây hâu duệ cho anh mình (x.Tl.25,5). Rõ ràng thí dụ họ đưa ra không thực tế, một người vợ góa lấy bảy anh em. Họ cố ý làm như thế để cho thấy vấn đề kẻ chết sống lại trở thành một quan điểm vô lý. Khi nghe, chúng ta cũng thấy đây là một câu hỏi hóc búa, nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra những luận chứng để trả lời cho họ đầy tính cách thuyết phục.
Chúa Giêsu: Để phi bác họ, Chúa Giêsu vạch cho họ thấy những sai lầm của họ về việc kẻ chết sống lại: “ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng vì họ không chết nữa” (Lc.20,34-35). Cuộc sống của người sống lại không phải thuần túy là tiếp nối cuộc sống trần gian. Thế giới của người sống lại thuộc vào thế giới tương lai, thế giới mới, chứ không thuộc thế giới trần gian này. Hôn nhân là qui chế nhằm cho thế giới hiện tại, nó không còn cần thiết cho thế giới tương lai nữa, vì ta sẽ được ban cho khả năng bất tử. Hôn nhân là để gây dựng nòi giống, giờ đây sống trong sự bất tử thì không cần đến hôn nhân.
Người của thế hệ tương lai sẽ bất tử, vì họ giống như các thiên thần. Họ có cách thế hiện hữu của các thiên thần. Sở dĩ được như thế vì họ là “con của Thiên Chúa” ( Thánh Kinh thường chỉ các thiên thần dưới tên gọi này). Những người sống lại sẽ được hạnh phúc làm con Thiên Chúa, được vinh quang và sẽ được một thân xác thần thiêng. Người sống lại được hưởng đặc ân không phải chết nữa. Chúa Giêsu đưa thêm luận chứng trong sách Xuất Hành của Moisen, như họ đã nại đến: Thiên Chúa phán Người là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacob. Thế nhưng, Người không phải là Thiên Chúa của người chết, mà là Thiên Chúa của người sống (x.Xh.3,1tt). Dù Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa được các tổ tiên người Do Thái thờ phượng, Người cũng vẫn tiếp tục là Chúa của những kẻ đã phụng sự Người, và họ tiếp tục là những người sống đối với Người. Vậy các tổ phụ vẫn còn sống.
Từ hai tiền đề trên, kết luận đưa đến là sự bất tử của linh hồn và người ta ao ước được một đời sống hòan hảo. Cuộc sống ấy sẽ được ban cho họ trong sự phục sinh của thân xác, và chính vì để được sống lại mà họ mới còn sống sau khi chết “gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (ICor.15,44).Thiên Chúa tạo dựng con người là để con người được sống mãi, nhưng con người chỉ đạt tới trạng thái ấy sau khi được sống lại.
Sứ điệp Tin Mừng:“Tôi tin kẻ chết sống lại…” đó là niềm tin của người Kitô hữu, niềm tin ấy phải là động cơ thôi thúc chúng ta thực hiện một cuộc sống đạo đức ở đời này, để được sống lại vinh quang của Thiên Chúa.Con người phải bất tử, vì tình yêu của Thiên Chúa không thể bị khiếm khuyết hay bất tòan nên Thiên Chúa thương yêu, Người sẽ yêu thương mãi mãi cho đến cùng, những kẻ được Ngài thương yêu cũng sẽ được sống mãi muôn đời.- Vậy con người sẽ được sống lại đồng nghĩa với: Thiên Chúa là tình yêu. Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta phải đáp trả bằng một cuộc sống đầy tin tưởng và hy vọng vào Đấng sẽ phục sinh chúng ta.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con ý thức rằng cuộc sống mai sau được bắt đầu ngay từ đời này, để chúng con quan tâm sống phục vụ, yêu thương - dấn thân và hướng dẫn mọi người nhận ra những giá trị vĩnh cửu của đời sau.
Sr Mai An Linh, OP
-----------------------------------
CHÚA NHẬT 32 THƯỞNG NIÊN C
2 Mcb 7:1-2, 9-14; 2 Tx 2:16-3:5; Lc 20:27-38
CHẾT LÀ SỐNG LẠI
Hầu như mọi tôn giáo đều có một cảm nghĩ: chết chưa hết. Và con người sau khi chết lại đi vào một kiếp: TN 32-C47
Hầu như mọi tôn giáo đều có một cảm nghĩ: chết chưa hết. Và con người sau khi chết lại đi vào một kiếp khác, lại hóa mình nên một giới khác, đầu thai vào một kiếp trầm luân nào khác trên thế giới này. Tuy nhiên, chưa một tôn giáo nào ngoài Kitô giáo tuyên xưng:” Tin kẻ chết sống lại và sự sống đời sau “. Vậy con người có chết không?
Chết rồi con người sẽ đi về đâu ?
CON NGƯỜI CÓ CHẾT KHÔNG ?
Theo giáo lý công giáo, nhân loại hiểu thế này:” Ngay tự bản tính, con người là loài hay chết, vì con người hợp thành bởi xác và hồn, mà theo lẽ thường hễ có hợp thì có tan. Tuy nhiên, ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên ông bà nguyên tổ trong tình trạng nguyên tuyền, trinh trong, Chúa đã ban cho tổ tông được đặc ân không phải chết và sau khi chết Ngài sẽ đưa cả hồn cả xác tổ tông về trời để hưởng hạnh phúc cùng với Chúa muôn đời. Đặc ân cao quí này đáng lẽ ra tổ tông sẽ lưu truyền cho con cháu là nhân loại, loài người. Nhưng đáng tiếc, ông bà nguyên tổ đã bất trung, ngoảnh mặt lại với Chúa, phản bội, ăn trái cấm, không vâng lời Chúa. Do đó, Chúa đã ra án phạt cho con người phải đau khổ và phải chết. Đây là lời Chúa tuyên phạt Ađam sau khi ông bà phạm tội:” Vì ngươi theo vợ mà ăn trái cây Ta đã truyền cho ngươi rằng ngươi không được ăn, thì đất đai hãy là đồ chúc dữ vì cớ ngươi, có đau khổ ngươi mới nhờ được nó mà có ăn mọi ngày đời của ngươi. Những gai cùng góc sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ bả ngoài đồng nội. Ngươi phải đổ mồ hôi đẫm mặt mới có bánh mà ăn, cho đến lúc ngươi trở về bụi đất vì ngươi đã được rút ra từ bụi đất. Bởi ngươi là bụi đất, ngươi sẽ trở về bụi đất”( Stk 3, 17-19 ). Như thế, con người có thể hiểu rõ rằng:” Chính do tội mà tổ tiên gây ra, mang theo sự chết” và cũng chính từ lúc con người đầu tiên bất tuân lệnh Chúa thì sự chết đã đột nhập trần gian này. Nên, mọi người đều phải chết như thánh phaolô tông đồ đã viết:” Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”( Rm 5, 12 ). Do đó, hữu sinh tất hữu tử.
CHẾT RỒI CON NGƯỜI CÓ PHỤC SINH KHÔNG ?
Đạo Do Thái thời Chúa Giêsu rất mù mờ về sự chết, người Do Thái cũng tin có đời sau, nhưng họ còn rất mơ hồ, nếu không nói được là vẫn còn sống trong đêm đen u tối. Sách Macabêô trích đọc trong bài thứ nhất Chúa nhật hôm nay, nói về cái chết của bảy anh em anh hùng tử đạo, đánh dấu một khúc quặt trong truyền thống Cựu Ước, theo đoạn sách này, con người vẫn tiếp sống sau khi chết và xác những người lành sẽ được sống lại. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca 20, 27-38 được phụng vụ gợi ra ngày hôm nay đề cập tới bè Sa-đốc là hàng tư tế Do Thái lúc đó không tin vào sự sống lại. Họ có cái nhìn khép kín, thiển cận, họ chỉ tin những điều Thiên Chúa đã mạc khải cho Môsê. Do đó, họ đem ra một giả thuyết hết sức vật chất, mơ hồ và không thể chấp nhận được. Họ gỉa định:” Một người phụ nữ có bảy đời chồng đều hợp pháp. Bảy người chồng ấy đều chết và đều sống lại. Người phụ nữ này cũng chết và sống lại, khi sống lại thì người phụ nữ này sẽ là vợ của ai ? Chúa Giêsu trả lời họ và cho họ biết thế giới đời sau khác với thế giới đời này, Chúa mượn lý chứng của Môsê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của các tổ phụ, Ngài không là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Thiên Chúa của kẻ sống. Chúa không cho nhân loại biết rõ sống lại thế nào. Kinh Thánh, Giáo huấn của Giáo Hội cũng không nói rõ về đời sau. Tuy nhiên, chúng ta tin xác mọi người sẽ hợp với linh hồn của mình mà sống lại trong ngày tận thế:” Bất thần trong nháy mắt, khi nghe tiếng loa cuối cùng, vì sẽ có thổi loa và người chết sẽ chỗi dậy bất hoại, và ta sẽ biến đổi. Vì chưng cái hư hoại này sẽ mặc lấy cái bất hoại, cái hư này sẽ mặc lấy cái trường sinh bất tử”( 1 Co 15, 52-53 )hoặc thánh Gioan trong sách khải huyền đã viết:” và tôi đã thấy một trời mới và một đất mới, vì trời cũ đã qua đi và đất cũ đã qua, biển cũng không còn nữa”( Kh 21, 1 )). Công đồng Vaticanô trong Hiến chế” vui mừng và hy vọng” số 39 có viết:”…Sự chết một khi bị đánh bại, các con cái Thiên Chúa sẽ sống lại trong Chúa Kitô và những gì gieo trong yếu đuối và trong hư nát, sẽ được mặc lấy một vinh quang không thể hưu nát, tình thương và công cuộc bác ái sẽ tồn tại, và mọi tạo vật mà Thiên chúa đã dựng nên cho con người cũng sẽ giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ của hư vô “.
Nhân loại ai cũng phải chết, Chúa Giêsu chết để phục sinh, Mẹ Maria chết để được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Các thánh có một số đã cảm nghiệm chết là hạnh phúc. Nhân loại đang trong cuộc lữ hành tiến về nhà Chúa: sự chết sẽ chẳng là gì khi con người có lòng tin đích thực và cảm nghiệm sâu xa:”…đời sống thay đổi chứ không mất đi và chết là phục sinh” vì Chúa đã nói:” Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ sống “.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con tin vào Chúa sống lại và tin vào sự sống đời sau của chúng con.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1 - Bạn có tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại ?
2 - Tại sao con người lại phải chết ?
3 - Chết rồi con người sẽ đi về đâu ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------------
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN C
2 Mcb 7:1-2, 9-14; 2 Tx 2:16-3:5; Lc 20:27-38
Nếu đời này là cùng đích và là cứu cánh của con người, thì nhiều sự việc xẩy ra ở trần thế là bất công: TN 32-C48
Nếu đời này là cùng đích và là cứu cánh của con người, thì nhiều sự việc xẩy ra ở trần thế là bất công khi người gian ác được giầu sang mạnh khoẻ, còn người hiền đức lại gặp cảnh nghèo kho, bệnh tật và tù đầy. Nếu không có đời sau thì người ta phải tận hưởng cho tới mức tối đa ở đời này, người ta phải tìm ăn ngon mặc đẹp và kiếm tìm những thú vui cho thoả mãn. Sự thật thì đa số nhân loại kể cả người không công giáo đều tin có đời sau. Người công giáo gọi cái việc trải qua từ đời này qua đời sau là việc sống lại.
Theo sách Macabêô hôm nay thì người Do thái từ thế kỷ thứ hai trước Chúa Giáng sinh đã tin có sự sống lại. Tuy vậy không phải hết mọi người Do thái thời đó đều tin có sự sống đời sau. Chẳng hạn nhóm Xađốc căn cứ vào sách Thứ luật không tin có sự sống đời sau, vì trong luật không dạy. Hôm nay lợi dụng cơ hội tốt, nhóm Xađốc lại đặt vấn đề về sự sống đời sau với Chúa Giêsu, và họ đặt câu hỏi rất là tài tình, nhưng lại mưu mô. Vấn đề họ đặt ra là một người đàn bà có bảy đời chồng là bảy anh em ruột. Người đàn bà cưới người anh cả, rồi người anh cả chết đi không con. Chị ta bèn lấy người em thứ nhì, rồi người này cũng chết không con. Và sự việc cứ xẩy ra như vậy cho tới người thứ bảy. Người chồng nào cũng chết mà không con. Sau cùng người đàn bà cũng chết. Vậy nếu bảo rằng có sự sống đời sau thì ai sẽ là chồng bà trong kiếp sống mai hậu. Nhóm người Pharisêu không trả lời được vấn đề này vì theo họ thì đời sau người ta cũng cưới vợ gả chồng như thường. Thực ra thì nhóm Xađốc không quan tâm ai sẽ là chồng bà trong cuộc sống đời sau. Vấn đề luật pháp về hôn nhân chỉ là cái cạm bẫy họ dùng để bắt bẻ Chúa Giêsu về sự sống đời sau. Đến đây thì Chúa giải thích cho nhóm người Xađốc hiểu rằng theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa thì kiếp sống đời sau khác hẳn cái thực tại của kiếp sống đời này. Trong kiếp sống đời sau thì cái liên hệ giữa người với người không còn cần thiết nữa. Cái liên hệ mật thiết nhất ở đời này là tình luyến ái trong đời sống hôn nhân cũng không còn cần thiết cho đời sau vì cái mục đích của hôn nhân là việc sinh con cái để tiếp nối dòng dõi nhân loại và để vợ chồng nương tựa nhau, đã được hoàn tất ở đời này. Trong cuộc sống đời sau trên thiên đàng, người ta được hưởng nhan thánh Chúa trực tiếp nên tình nghĩa vợ chồng không còn cần thiết nữa.
Để làm cho nhóm Xađốc xác tín về sự sống lại, Chúa còn trích dẫn đoạn kinh thánh trong sách Xuất hành về việc Môsê, khi được Chúa hiện ra đã tuyên xưng: Thiên Chúa là Chúa của Apraham, Ixaác và Giacóp. Vậy nếu Môsê gọi Chúa là Thiên Chúa của Apraham, Ixaác và Giacóp thì mặc nhiên ba tổ phụ này đã sống lại. Nhóm Xađốc biết nhiều về Thánh kinh nên họ đã chịu khuất phục trước lối cắt nghĩa của Chúa về việc sống lại. Và như thánh sử Luca ghi lại: họ không dám chất vấn Người điều gì nữa (Lc 20:39).
Giáo lý công giáo coi việc sống lại không phải như hình thức luân hồi. Sự sống lại theo Thánh kinh là cuộc chiến thắng của sự công chính và người công chính. Thiên Chúa là Chúa của người sống và tất cả những ai sống và yêu chuộng sự công chính sẽ không phải chết đời đời. Cái đức tin và lý trí của ta đòi hỏi phải có sự sống lại. Lý trí của ta đòi hỏi phải có sự sống lại là vì ta được tạo dựng gồm cả hồn và xác để phụng thờ Chúa. Đức tin của ta cũng tuyên xưng sự sống lại như trong kinh Tin Kính ta tuyên xưng: Tôi tin xác sống lại và sự sống đời sau. Nếu không có sự sống lại thì ta không cần cầu nguyện cho người quá cố, không cần xin lễ cầu nguyện cho linh hồn nọ, linh hồn kia. Thật vậy, nếu không có sự sống lại thì việc xin lễ cầu nguyện cho người quá cố là việc mất thời giờ và uổng công.
NS DÂN CHÚA MỸ CHÂU
Lm Trần Bình Trọng, USA
-----------------------------------
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại
Chúa nhật 32 thường niên CLc 20, 27-38
Trên bước đường truyền giáo, những lời rao giảng của Chúa Giêsu luôn vấp phải những gai nhọn từ TN 32-C49
Trên bước đường truyền giáo, những lời rao giảng của Chúa Giêsu luôn vấp phải những gai nhọn từ phía các nhà lãnh đạo Dothái. Có thể nói mọi hành động của Chúa Giêsu, nhất cử nhất động đều không qua những cặp mắt rình rập của các vị lãnh đạo này cũng như những tay chân của họ. Họ theo sát Chúa Giêsu không chỉ tìm ra những “sơ hở” trong giáo huấn của Người mà nhiều khi chính họ còn đặt ra những cạm bẫy hòng có chứng cớ tố cáo Người. Toàn bộ Tin mừng cho chúng ta biết điều này. Hết các kinh sư và thượng tế hỏi Chúa Giêsu lấy quyền bính nào để giảng dạy (x. Lc 20, 1-7); rồi những tay sai gài bẫy Người về chuyện nộp thuế cho hoàng đế Xêda hay không (x. 20, 20-26); nay lại đến mấy ông thuộc nhóm Xađốc cũng tham gia tấn công Chúa Giêsu bằng một câu chuyện hoang đường do họ bịa ra hòng gièm pha giáo huấn về sự sống lại mà Người hằng rao giảng.
Nói đến nhóm Xađốc, người ta thường nhớ đến đây là một trong bốn nhóm tôn giáo lớn gồm nhiều giáo sỹ cao cấp và các kỳ mục trong Dothái giáo, bên cạnh Pharisêu, Étxênô và Samari. Nhóm mấy ông kẹ này luôn bảo thủ về mặt tôn giáo, không chấp nhận những canh tân, nhưng về mặt chính trị, xem ra họ có vẻ thân với chính quyền Rôma để giữ vững “chiếc ghế” bổng lộc và địa vị của họ. Giáo thuyết của nhóm Xađốc chỉ dựa trên bộ Ngũ Thư trong Cựu ước mà thôi. Họ không công nhận hay đếm xỉa gì đến các sách Ngôn sứ cũng như các sách thánh sau đó. Chính vì thế, chúng ta hiểu vì sao mấy ông Xađốc này lại hăng say chống giáo huấn về sự phục sinh của Chúa Giêsu đến như vậy. Lý do thật đơn giản là vì trong bộ Ngũ thư, không hề có dấu vết nào nói đến sự sống lại cả. Vì thế họ bịa ra câu chuyện về một quả phụ hiếm muộn lần lượt lấy 6 người em chồng (theo đúng luật Lêvi, nhưng đã bị huỷ bỏ) nhưng đều không có con để nhạo báng giáo huấn của Chúa Giêsu và phần nào cũng cho thấy chủ trương về giáo thuyết của họ.
Có thể nói giáo thuyết về sự sống lại không chỉ có Chúa Giêsu rao giảng mà còn có một vài nhóm khác nữa như nhóm Pharisêu chẳng hạn. Thế nhưng chủ trương về sự phục sinh của nhóm Pharisêu quá ư duy vật. Họ cho rằng thân xác sau khi sống lại chẳng khác với nếp sống trước đây ở trần gian là mấy, nghĩa là cũng sinh con đẻ cái, làm nghề này việc nọ để kiếm kế sinh nhai, v.v… Chủ trương này không chỉ Chúa Giêsu lên án mà tất nhiên, có cả mấy ông Xađốc nữa. Giáo huấn về sự sống lại của Chúa Giêsu hoàn toàn không như thế, rất rõ ràng và minh bạch ngay từ trong lý luận.
Chúa Giêsu khẳng định đời sống mai sau hoàn toàn không giống như đời sống mà người Pharisêu chủ trương, bởi nó khác lạ và không giống như bất kỳ một kiểu mẫu nào trên thế gian này. Đó là đời sống hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, đời sống của những “con cái Thiên Chúa”, con cái của thế giới mới và sự sống mới. Đó là đời sống của những người công chính, được Thiên Chúa ban thưởng vinh quang để đời sống của họ tựa như những thiên thần, ngày đêm phụng sự và ngợi khen tôn vinh Thiên Chúa.
Còn về sự sống lại. Chúng ta biết, sự sống lại là công việc của Thiên Chúa hằng sống- Đấng có thể làm cho sống lại ngay cả khi con người đang ở bên thế giới của sự chết. Chính vì thế, trong bụi gai, Giavê Thiên Chúa không giới thiệu với Môsê mình là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Thiên Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa của các tổ phụ là Thiên Chúa hằng sống để điều khiển lịch sử của kẻ sống, tức lịch sử không phải của những tổ phụ đã chết mà mà lịch sử của tổ phụ đang sống, bởi “đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống”. Đây chính là chứng cớ hùng hồn nhất được trích dẫn từ trong Kinh thánh, nó cho thấy tuy các tổ phụ đã khuất nhưng vẫn là kẻ sống trước mặt Thiên Chúa và Người sẽ cho các ngài chỗi dậy.
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Lời kinh Tin kính được lưu truyền như bảo chứng cho niềm tin không hề phai nhạt của chúng ta. Quả thật nếu không có sự sống lại, nếu không có sự sống vĩnh cửu, những người Kytô hữu như chúng ta, mà đặc biệt là các giáo sỹ, tu sỹ nam nữ, những người tận hiến đời mình cho Thiên Chúa là “những kẻ dốt” nhất, và như thế, không chỉ nhóm Xađốc mà còn cả những kẻ khác chê cười nữa. Niềm tin của chúng ta không mù quáng, trái lại nó bắt nguồn từ Thiên Chúa hằng sống. Chính Chúa Giêsu -Đấng từ cõi chết sống lại, là niềm tin cụ thể và sống động nhất của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta khi sống trên đời này biết khao khát hạnh phúc mai sau để có thể thốt lên như thánh Augúttinô xưa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con, nên hồn con luôn khắc khoải khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.
Lm Jos.Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
-----------------------------------
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Điều gì đã xảy ra dưới hầm đạn?
Cuốn tiểu thuyết nhan đề Mặt Trận Phía Tây Hoàn Toàn Yên Tĩnh (All Quiet on the Western Front): TN 32-C50
Cuốn tiểu thuyết nhan đề Mặt Trận Phía Tây Hoàn Toàn Yên Tĩnh (All Quiet on the Western Front) mô tả một cảnh rất cảm động. Khi ấy chiến cuộc bùng nổ dữ dội giữa quân Pháp và Đức. Một chú lính Đức trẻ măng nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo của địch. Bất ngờ một người lính Pháp lạc bước cũng nhảy xuống cùng một hầm. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ địch dưới hầm, anh đã bị chú lính Đức đâm cho mấy nhát khiến anh ngã qụy. Anh nằm thoi thóp chưa chết ngay. Chú lính Đức chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp, chú thấy miệng người này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta liền động lòng thương nên rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Khi người ấy qua đời, chú lính trẻ người Đức cảm thấy ân hận thấm thía. Đây là người đầu tiên bị chú giết chết trong đời quân ngũ. Chú thắc mắc không rõ tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú liền kính cẩn rút ra xem. Chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một bé gái.
Chú lính Đức vô cùng cảm động. Bỗng dưng chú nhận thấy người lính đã chết kia không còn phải là kẻ thù nữa, nhưng là một người cha, người chồng - tức là một người biết yêu y hệt như chú vậy. Động lòng thương, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ của người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ người quá cố.
Thử hỏi điều gì đã xảy ra dưới hầm đạn nơi chú lính Đức đối diện với người mà chú mới giết chết? Phải chăng chú lính Đức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại nên chú tự bắt mình phải yêu thương người lính mới tắt thở?
Không phải như vậy đâu! Sự việc xảy ra là: chú lính Đức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới. Chính nhờ đó thái độ của chú đã thay đổi đối với con người ấy.
Đức Giêsu có mang lại ánh sáng?
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt chúng ta trước một số phận chết chóc của con người. Xem ra không gì có thể thay đổi số phận đó. Cả mối tương quan thâm sâu của họ với những người thân yêu nhất xem ra cũng bị cái chết chôn vùi một cách không cưỡng lại được. Giữa cái ảnh hưởng bi thảm của nghĩa địa ấy thử hỏi lời can thiệp của Đức Giêsu có mang lại ánh sáng thay đổi được tình hình chăng?
Vấn đề chết chóc ở đây được nêu lên do một số người thuộc phe Xa-đốc. Họ đặt vấn đề này với Đức Giêsu như một phần của những cuộc tấn công nhằm làm giảm uy tín đang lên của Người. Sau cuộc hành trình dài lên Giêrusalem (Lc 9,51-19,27), Đức Giêsu tiến vào thành với tư cách là vị cứu tinh Mê-xi-a được dân chúng hoan hô nhiệt liệt (Lc 19,28-40). Người bước vào Đền Thờ và đụng độ với uy quyền của giới lãnh đạo ở đây khiến họ đòi Người phải chứng minh: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?" (Lc 20,2). Họ bực bội vì Đức Giêsu đã cả dám đuổi những người đang buôn bán trong Đền Thờ và dám cho rằng bọn này đang biến nhà cầu nguyện thành sào huyệt của bọn cướp (Lc 19,46). Chỉ vì sợ dân, nên các kinh sư và thượng tế không dám tra tay bắt Đức Giêsu mà thôi (Lc 20,19). Vậy họ định sẽ gài bẫy Người. Nhóm kinh sư và thượng tế sai người giả bộ ngay lành đến hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho vua Xê-da không?" Mưu mô này thất bại vì Đức Giêsu đã khôn ngoan trả lời "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Lc20,25). Đó là lúc mot số người thuộc nhóm Xa-đốc đến thử chất vấn Người về tín ngưỡng, tức về sự sống lại như ta đọc trong bài Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu trước chuyện vô luân
Nhóm Xa-đốc này không tin có sự sống lại (Lc 20,27). Họ trích sách Đệ Nhị Luật 25,5-6, để đưa ra một trường hợp buộc Đức Giêsu phải nói bản thân Người có tin vào sự sống lại hay không. Nếu Người không tin có sự sống lại, nhóm Xađốc sẽ được lời vì có thêm người về phe với họ. Ngược lại, nếu Đức Giêsu tin có sự sống lại, Người sẽ phải đối phó với điều khó khăn là giải quyết vụ hôn nhân cho người vợ goá mà sách ĐNL nói trên đề cập. Theo họ, nếu sống lại, người vợ goá ấy sẽ phải nhận bảy người anh em ruột làm chồng mình! Đó là chuyện vô luân đối với người Do Thái.
Nguyên văn sách ĐNL mà nhóm Xađốc trích dẫn đọc như sau: "Khi anh em ở chung cùng nhau và một người của chúng chết đi mà không con, vợ của người chết sẽ không được thuộc về chồng khác ngoài nhà. Một anh em của chồng sẽ nhập phòng với nó và lấy nó làm vợ và giữ nghĩa anh em chồng với nó. Và con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết. Và như vậy tên nó sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en" (Đnl 25,5-6). Khi trích dẫn, nhóm Xađốc đã nhân số anh em ruột buộc phải lần lượt lấy người vợ goá đó, lên tới bảy người! Như vậy họ có ý bó buộc Đức Giêsu phải từ chối tin vào sự sống lại để tránh tình trạng vô luân một vợ bảy chồng!
Đụng tới chính mục đích của hành trình
Dĩ nhiên nhóm Xađốc đã vô tình đụng tới chính mục đích của hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Người lên Giêrusalem không phải chỉ để chết nhưng để được "rước lên trời" (Lc 9,51). Trong ba lần loan báo về cuộc thương khó, hai lần Đức Giêsu nói rất rõ Người sẽ bị giết nhưng ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy (Lc 9,22) và Người sẽ sống lại (Lc 18,33).
Luca cũng cho thấy đối diện với sự chết và sự sống lại được loan báo, các môn đệ không những không hiểu mà còn sợ không dám hỏi về lời đó (Lc 9,45) mặc dầu trong số môn đệ, ba ông đã được thấy Đức Giêsu hiển dung và nghe thấy tiếng Thiên Chúa nói từ đám mây rằng: "Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người" (Lc 9,35). Cả trường hợp sau khi chết ba ngày và Đức Giêsu đã hiện ra với các phụ nữ nhưng các môn đệ vẫn không tin. Một số môn đệ còn thất vọng bỏ Giêrusalem về quê (Lc 24,13-32). Chính Đức Giêsu phục sinh đã phải thân hành hiện đến ban cho các ông ơn để nhận biết Người đã phục sinh (Lc 24,31-32,34,36-43,44-49).
Thực ra phải chờ tới ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đức Giêsu Phục Sinh mới thực sự hoàn thành cuộc vượt qua của Người như xưa giao ước Xi-nai đã hoàn tất cuộc vượt qua của dân Ít-ra-en và làm cho dân ấy trở nên dân riêng của Thiên Chúa. Người hoàn thành cuộc Vượt Qua ấy nhờ Chúa Thánh Thần là Đấng quy tụ dân mới của Thiên Chúa và ban cho họ những đặc sủng để làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh là Đấng Cứu Độ mọi người.
Bật lên vài tia sáng khi chờ đợi
Quả thật nhóm Xađốc vô tình đã nêu vấn đề hết sức quan trọng đối với Đức Giêsu, đó là sự sống lại. Vấn đề ấy sẽ được Người trả lời đầy đủ bằng chính sự chết và sự sống lại của Người trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Trong khi chờ đợi, Đức Giêsu chỉ bật lên vài tia sáng giúp ta khỏi lạc đường mà thôi.
+ Một là lập trường của phe Xa-đốc đối với sự sống lại dựa trên cơ sở sai lầm. Họ cần loại bò ý nghĩ về sự sống lại như việc phục hồi điều kiện thể lý của người quá cố. Đúng hơn, họ phải quan niệm tình trạng của người được Chúa cho sống lại sẽ giống như các thiên thần (c.36) nên không còn cưới vợ lấy chồng nữa (c.35).
+ Hai là phải cẩn thận đọc lại Kinh Thánh. Đức Giêsu trích dẫn sách Xuất Hành 3,6 để nói rằng "Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của Tổ phụ I-xa-ác, Thiên Chúa của Tổ phụ Gia-cóp…" có nghĩa là Thiên Chúa của kẻ sống (c.38). Người Do Thái vẫn tin rằng thân xác cần cho sự sống và hạnh phúc của con người. Vậy nói tới sự sống mà các Tổ phụ Do Thái sở hữu sau khi các vị ấy qua đời và trước khi các vị ấy sống lại, thì hiểu rằng sự sống ấy là do sự kết hợp mật thiết của các vị ấy với Thiên Chúa toàn năng. Cho nên đối với Thiên Chúa, các vị ấy "đều đang sống" hay các vị ấy đều "sống nhờ Thiên Chúa" (c.38): Cả hai cách dịch đều quy về sự toàn năng của Thiên Chúa là cơ sở của sự sống của những người đã chết.
+ Cũng sự toàn năng đó của Thiên Chúa sẽ làm cho Đức Giêsu sống lại thì cũng sẽ làm cho những ai được Thần Khí của Đức Giêsu cư ngụ sống lại với Người (Rm 8,11; 1Co 6,14; 2Co 4,14).
Quả thật, còn phải chờ cho cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu đạt tới đích là "Người được rước lên trời" (Lc 9,51), toàn bộ mạc khải về sự sống lại của loài người mới được sáng tỏ nơi Đức Giêsu. Khi ấy tông đồ Phaolô mới có thể khẳng định như trên.
Trong khi chờ đợi, vấn đề kẻ chết sống lại do nhóm Xa-đốc nêu lên chưa được nêu đúng lúc. Ta hãy còn như ở dưới hầm nơi chú lính Đức mới giết người lính Pháp rồi chợt nhìn thấy người ấy dưới ánh sáng mới trong cuốn tiểu thuyết Mặt Trận Phía Tây Hoàn Toàn Yên Tĩnh. Chính Đức Giêsu phục sinh bước ra khỏi mồ chôn Người, mới cho ta thấy trọn vẹn sự thật về loài người được cứu.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về cách nhóm Xa-đốc nêu vấn đề về sự sống lại như bài Tin Mừng hôm nay cho biết: Cách ấy xem ra khó hiểu? Xem ra lỗi thời? Vẫn có thể gợi ý để bạn suy nghĩ về chính bản thân bạn sau khi chết? Bạn có ý kiến khác?
2. Bạn nghĩ gì về cách Đức Giêsu trả lời nhóm Xa-đốc liên quan tới sự sống lại:
+ "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Vì được ngang hàng với các thiên thần" (cc.34-35)?
+ "Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống" (c.38)?
Lm Augustine S.J
-----------------------------------