Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 351-400 Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ --------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Xin kể hầu quý độc giả một chuyện vui thiếu nhi nhân ngày Lễ trọng kính Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ. Chắc là một câu chuyện hư cấu dành cho thiếu nhi Giáo Lý ở Hà Nội. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ lại thấy, dưới góc nhìn trẻ thơ hồn nhiên, Đức Giêsu Kitô quyền năng phi phàm, trổi vượt hơn mọi thứ vua chúa trần gian, nhưng hình như Người lại gần gũi lắm, thân tình lắm, sẵn sàng chiều lòng các em...
Bé Quang năm nay mới được 6 tuổi, gia đình khá giả, rất hiếu động và nghịch ngợm, đang còn học lớp Giáo Lý Khai Tâm. Một buổi chiều đi dạo với mẹ ở bờ Hồ Tây, Hà Nội, bé thấy một cậu bé trạc tuổi mình đang thích thú đạp chiếc xe đạp nhỏ xíu, đàng sau có gắn thêm hai chiếc bánh con con để giữ thăng bằng. Bé Quang vội níu lấy tay mẹ và nũng nịu xin: “Mẹ, mẹ ơi, mẹ mua cho con một chiếc xe đạp y như thế đi mẹ !”
Bà mẹ chỉ muốn trả lời cho con cho xong chuyện nên bảo: “Con à, nếu con muốn quà gì, một tháng nữa là Lễ Noen, sao bây giờ con không viết thư xin với Ông Già Noen, thế nào Ông Già Noen cũng cho con.” Bé Quang tỏ ý không chịu: “Nhưng coi vậy chứ cũng còn lâu lâu nữa mới đến Lễ Giáng Sinh, con thì muốn có ngay chiếc xe đạp để chơi cơ !” Bà mẹ một lần nữa muốn khất lần vì lo con chơi xe đạp có thể bị ngã, nguy hiểm... Chị sực nhớ có lần nghe giảng trong Lễ Thiếu Nhi kính Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ, cha xứ có khuyến khích các cháu viết thư cho Chúa Giêsu, chị liền bảo con: “À này, sao con không thử viết thư xin Chúa Giêsu nhỉ ?”
Bé Quang không nài nỉ gì thêm nữa. Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ, Quang loay hoay lấy giấy bút ra để viết thư cho Chúa Giêsu. Bé viết thật ngắn gọn như thế này: “Chúa Giêsu Vua kính yêu, con là một đứa bé ngoan và con muốn Chúa thưởng cho con một chiếc xe đạp Chúa nhé. Con cưng của Chúa, Bé Quang”.
Viết xong, bé Quang đọc đi đọc lại lá thư, gãi gãi đầu ngẫm nghĩ rồi quyết định xé đi, rồi bậm môi viết lá thư khác: “Chúa Giêsu Vua kính yêu, thỉnh thoảng đôi lúc con là một đứa bé ngoan, con muốn xin Chúa khích lệ con bằng cách tặng cho con một chiếc xe đạp...” Chưa kịp ký tên thì không biết nghĩ ngợi thế nào, bé Quang lại xé lá thư và vít một lá thư khác nữa: “Chúa Giêsu Vua kính yêu, thú thật với Chúa là con cũng chưa ngoan lắm đâu, con chỉ hứa là sẽ ngoan hơn, Chúa có chịu tặng cho con một chiếc xe đạp, được không ạ ?”
Lần này bé Quang cũng vẫn thấy chưa ổn. Bé không biết phải viết làm sao để thuyết phục được Chúa ban cho mình món quà hấp dẫn ấy. Đang băn khoăn do dự thì bất giác, bé nhìn lên bàn thờ Chúa có đặt một pho tượng Đức Mẹ La Vang nho nhỏ. Bé mừng rỡ kê ghế trèo lên, đỡ lấy pho tượng Đức Mẹ, hôn cung kính rồi đem xuống, chạy về giường, giấu luôn Đức Mẹ dưới chiếc gối của mình.
Một lần nữa, bé Quang hăm hở lấy một tờ giấy mới, nắn nót viết lá thư: “Chúa Giêsu Vua kính yêu, nếu Chúa còn muốn trông thấy Mẹ, xin Chúa gửi ngay cho con một chiếc xe đạp để chuộc lại Mẹ. Đứa con nghịch ngợm của Chúa, Ký tên, Bé Quang !”
Cuộc thế giới đại chiến lần thứ I (1914-1918) đã tàn phá thế giới, nhất là châu Âu ở một mức độ kinh khủng. Mọi người đều hy vọng rằng với những vết thương còn loang lỗ vì chiến tranh, loài người sẽ sợ hãi và sẽ không bao giờ tạo ra chiến tranh nữa. Tuy nhiên thực tế lại khác hẳn, tàn tích của cuộc chiến còn đó nhưng con người lại bắt đầu bước vào một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm thứ hai. Chính trong bối cảnh đau thương sau thế chiến lần thứ nhất này, mà Giáo Hội kêu gọi tình thương gợi lên nghĩa huynh đệ, cùng là con một Cha, là công dân cùng một nước, bởi vì Thiên Chúa sẽ quy tụ tất cả lại trong Ngài. Cũng chính trong tinh thần đó, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay vào năm 1925. Thế nhưng Đức Kitô là Vua theo nghĩa nào?
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, người ta muốn suy tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã từ chối một cách quyết liệt. Hình như Ngài đã xua đuổi và giải tán tất cả những kẻ muốn phong vương cho Ngài. Ngược lại ngay lúc thập tử nhất sinh, lúc mà mỗi lời nói đều có thể đem đến bản án tử hình cho Ngài thì Ngài lại công khai tuyên bố: Quan nói đúng, tôi là Vua, tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng cho sự thật. Ai thuộc về sự thật thì nghe tôi. Chúa Giêsu là Vua, nhưng trong tước hiệu Vua của Ngài có cái gì không ổn, có cái gì ngược đời, có cái gì khác thường như bản án Philatô ghi trên cây thập tự: Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái.
Quan niệm bình thường của con người là gắn liền ông vua với ngai vàng, với quyền lực, với thống trị. Người ta phải dùng tới bạo lực để đạt được ngôi vua, để rồi bắt mọi người phải quy phục mình và ngày đăng quang sẽ là một ngày chiến thắng. Thế nhưng ngày đăng quang của Đức Kitô lại là một ngày thê thảm nhất. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá đáng phỉ nhổ, vương miện của Ngài chỉ là một vòng gai làm trò cười cho thiên hạ. Thế nhưng chính lúc ấy: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ biết Ta là ai và Đấng đã sai Ta ở với Ta. Cái yếu tố thúc đẩy Ngài lên ngôi vua không phải chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng chính vì Ngài là tình yêu: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Thập giá là dấu chứng của tình yêu, của phục vụ.
Từ nay, làm Thiên Chúa không còn có nghĩa là bắt con người phải phục dịch mình, nhưng là vác trên vai các con chiên và chăm sóc cho đến độ hy sinh cả mạng sống của mình. Nếu có Thiên Chúa thì chỉ có một Thiên Chúa của tình yêu, của tha thứ, của phục vụ: Các ngươi biết thủ lãnh thế gian thì làm chúa trên họ và những kẻ làm lớn thì bắt họ phục quyền mình. Nơi các ngươi thì không được như thế, ai muốn làm lớn thì hãy hầu hạ các ngươi và ai muốn cầm đầu thì hãy làm tôi tớ cho các ngươi. Cũng như Con Người đến không để được hầu hạ nhưng là hiến mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người.
Trong vương quốc ấy, Ngài đã không cai trị bằng luật rừng, bằng bạo lực nhưng bằng luật yêu thương: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Hãy thực thi giới luật yêu thương để chúng ta xứng đáng là con dân của Nước Trời, là con dân của Đức Kitô Vua.
Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy các thánh sử đã ghi lại những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu như sau: Ngài vác thập giá, đi đến một nơi gọi là Golgotha, và tại đó, bị đóng đinh vào thập giá cùng với hai người trộm, mỗi người một bên. Thế nhưng thánh Gioan đã dừng lại ở một số chi tiết đáng cho chúng ta suy nghĩ về vương quyền của Đức Kitô. Trước tiên là tấm bảng mà Philatô đã cho viết và được treo trên thập giá: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái. Ngài nhấn mạnh đến tính cách phổ biến của tấm bảng ấy, vì được viết bằng tiếng Do Thái, Latinh và Hy Lạp, mà nhiều người có thể đọc được vì nơi đó gần thành. Danh hiệu này đã được lặp đi lặp lại như một chủ đề trong suốt cuộc xử án. Philatô hỏi Chúa Giêsu: Ông có phải là vua dân Do Thái hay không? Vậy ông là vua sao? Các người có muốn ta thả vua dân Do Thái cho các người không? Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao? Sự nhấn mạnh của Philatô như thể diễn tả sự châm biếm hay tố giác sự lo âu của ông? Nhưng chính vì danh hiệu này, mà cuối cùng người Do Thái đạt được bản án: Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda.
Một nghịch lý lạ lùng. Đó là một người ngoại giáo đại diện của quyền bính Xêda, lại ban cho Đức Kitô cái danh hiệu mà các thủ lãnh của dân Ngài thì lại khước từ. Những người dân thấp cổ bé miệng lại cũng đã tung hô Ngài là vua Israel, khi Ngài long trọng tiến vào Giêrusalem. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ bánh hoá nhiều. Vương quyền của Đức Kitô không phải là một vương quyền thuộc thế gian này. Vì thế, Ngài đã trốn lên núi để tránh đi sự hiểu lầm ấy. Bây giờ, Ngài không ngại gì nữa. Bị lính tráng đánh đòn, Ngài là một vị vua khiêm nhường và nghèo nàn, theo lời tiên tri Giacaria: Hỡi thiếu nữ Sion, đừng sợ, này vua ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con. Đây là một vị vua đội mương miện là một vòng gai, mặc một cẩm bào là chiếc áo đỏ để rồi bị chế giễu. Philatô có lý: Đây là vua các ngươi. Điều ông viết là được viết cho muôn đời.
Với chúng ta thì lại khác, bằng cái chết tủi hổ trên thập giá, Ngài đã trở nên một vị mục tử nhân lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên của mình. Ngài đã khai mạc vương quốc mới của tình yêu, một tình yêu tự hiến: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Cho đến tận cùng thời gian, các môn đệ của Ngài sẽ làm chứng về vương quyền mới mẻ ấy. Họ không được phép mơ tưởng, dù đôi khi bị cám dỗ, về một Giáo Hội quyền lực. Họ chỉ bày tỏ Đức Kitô ra cho thế giới bằng thứ vũ khí của lòng khoan dung, nhân hậu, tha thứ và yêu thương.
Chế độ quân chủ ở Việt nam đã chấm dứt năm 1945 với chiếu thoái vị của vua Bảo Đại. Từ đó đến nay, người ta không ngừng phê phán chế độ quân chủ, coi các vua như là những kẻ chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, và ca ngợi chế độ mới, mà không công tâm để đánh giá lại những đóng góp to lớn của các vua Nhà Nguyễn ở nước ta. Cũng vì thế khiến cho nhiều thế hệ mang một hình ảnh không tốt đẹp về các vị vua. Thế nhưng từ ban đầu các vua không phải là những con người xấu xa trụy lạc, mà là những thủ lãnh hết mình vì dân, mở rộng bờ cõi, xây dựng hòa bình, bảo vệ dân, chăm lo cho dân như cha mẹ lo cho con cái. Ngược lại, dân chúng cũng tỏ ra yêu mến kính trọng và hết sức tùng phục nhà vua của họ. Chúng ta có thể nhìn điều đó nơi thái đô cung kính và lòng yêu mến mà dân Thái Lan dành cho Đức Vua của họ, hoặc dân Anh dành sự tôn kính cho Nữ Hoàng.
Hôm nay, bước vào tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, cũng là ngày bế mạc Năm Đức Tin, Giáo Hội tôn xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, để mời gọi chúng ta yêu mến, biết ơn, tôn vinh và đặt Ngài làm vua hướng dẫn và làm chủ cuộc đời của mình.
Tôn vinh Chúa Giêsu làm vua, Giáo hội muốn lấy lại hình ảnh đẹp nguyên thủy về một vị minh quân để diễn tả về quyền năng và tình yêu thương của Đức Giêsu đối với chúng ta. Đồng thời tôn vinh Ngài là Vua là Chúa, Đấng làm chủ của vũ trụ, mọi vật mọi loài trên trời và dưới đất. Ngài là Vua vì chính Ngài là vị Thiên Chúa quyền năng tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật muôn loài, và Ngài vẫn tiếp tục quan phòng, truyền hơi thổi sức sống cho vũ trụ để vũ trụ này chuyển vần theo một trật tự tốt đẹp. Ngài là vua, là chủ, vì Ngài đã tạo dựng nên con người và còn cho con người được cộng tác với Ngài trong việc duy trì và làm cho vũ trụ và cuộc sống con nguời mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Khác với nhiều vị vua trần thế tìm kiếm quyền lực và vinh quang cho bản thân và dòng dõi, thì Đức vua Giêsu là Đức Vua yêu thương dân Ngài như người cha yêu thương con cái, như mục tử yêu thương đàn chiên. Kinh Thánh đã dùng hình ảnh của Vua Đavít để báo trước về sứ mạng và vai trò của vua Giêsu, vì Đavít được gọi là một vi vua thánh. Ông là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành người dẫn dắt dân Chúa. Chính ông đã đem lại cho dân Chúa một thời kỳ thái bình thịnh vượng nhất trong lịch sử. Bài đọc sách Samuel hôm nay thuật lại giai đoàn đầu triều đại nhà vua, khi ông lên ngôi làm vua các chi tộc phía Nam đất Giuda, tiếng tăm về lòng đạo đức cũng như sự tài khéo, lòng yêu thương của ông đã khiến cho các chi tộc miền Bắc thuộc đất Israel kéo đến để xin ông cũng làm vua của họ, hường dẫn họ và bảo vệ họ: Chúng tôi cũng là cốt nhục của Ngài, xin Ngài cũng hãy làm vua chúng tôi. Chính Đức Chúa cũng đã nói với Ngài rằng: Chính Người sẽ chăn dắt Israel dân ta.
Chúa Giêsu là vị vua phục vụ. Khác với các vua chúa trần gian ngồi trên ngai vàng để được nguời khác phục vụ, thì Vua Giêsu đã không chỉ bước xuống khỏi địa vị Thiên Chúa của mình, mà Ngài còn bước đến với con người, và cúi xuống để phục vụ con người. Ngài phục vụ bằng cách tìm kiếm con người nhất là những con người lầm lạc để đưa họ về với con đường của Thiên Chúa, Ngài đã đem Tin Mừng tình thương cứu độ đến cho mọi người, Ngài nâng dậy những ai gục ngã, an ủi kẻ đau khổ, chữa lành kẻ bệnh tật. Ngài đã biến mình thành người phục vụ như một người tôi tớ, Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, và cuối cùng Ngài đã trao tặng cả máu thịt mình để phục vụ cho sự sống của con người.
Đức Giêsu là vị vua bảo vệ chúng ta. Giống như vị vua phải xông pha trận mạc để bảo vệ dân mình, thì Đức Giêsu, như người mục tử đã hết mình bảo vệ chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi sự tấn cống của sói dữ là ma quỷ, và khỏi những nguy hiểm của tội lỗi, chấp nhận mang lấy thương tích vào mình. Trong trận chiến quyết liệt cuối cùng trên thập giá, Ngài đã chấp nhận cả cái chết để thế mạng cho chúng ta và cứu chúng ta khỏi chết. Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Colose: Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha đã làm cho anh em xứng đáng chung hưởng phần gia nghệp…Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi uyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái. Trong Thánh Tử, ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.
Tuy nhiên để nhận ra Đức Giêsu là vua và tôn vinh Ngài, cần phải có một cái nhìn chính xác về Ngài đó là cái nhìn trong đức tin và đón nhận vương quyền của Ngài. Nếu nhìn theo con mắt bên ngoài, thì cuộc chiến của Chúa Giêsu trên thập giá là một cuộc thất bại nặng nề. Tiêu biểu cho cái nhìn sai lạc và kiêu ngạo này là cái nhìn của các thủ lãnh Do Thái và của tên trộm dữ. Những thủ lãnh Do Thái khi đã treo được Người lên thập giá, họ thỏa mãn với sự căm thù, lòng ghen tương ích kỷ của mình, họ tưởng rằng họ đã trả thù được ông Giêsu, và họ còn nhạo cưới thách thức: Hắn đã cứu được người khác thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thực sự hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa! Để thỏa mãn cho sự cao ngạo của mình và gây nhục nhã cho Chúa Giêsu, họ đã dâng cho Ngài giấm chua để uống, và còn đóng phía trên thập giá bản án viết rằng: Đây là vua người Do Thái. Bản án ấy vô tình lại trở thành lời giới thiệu và xác nhận vị thế của Chúa Giêsu là vua. Không khác gì những nhà lãnh đạo do Thái, tên trộm bị đóng đinh cùng Đức Giêsu cũng dựa vào cái nhìn bên ngoài để thách thức Chúa: Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu mình và cứu cả tôi nữa!
Ngược lại, với cái nhìn của lòng tin và sự khiêm nhường, người trộm lành đã đứng ra bênh vực Chúa Giêsu, anh ta tin rằng Ông Giêsu này là một người công chính và là Thiên Chúa và cái chết của Ngài chắc chắn khác với cái chết của anh, và anh nói cho tên trộm dữ kia biết rằng: mày cùng chịu đồng một án, mà mày không kính sợ Thiên Chúa sao? Chúng ta chịu như thế này là đích đáng với việc chúng ta đã làm, còn ông này ông có làm gì xấu đâu? Vì tin, anh đã xin được gia nhập vào vương quốc của Đức Giêsu và làm thần dân của Ngài và anh ta khiêm tốn thưa với Chúa Giêsu: Lạy Ngài khi nào về Nước của Ngài xin nhớ đến tôi! Chúa Giêsu đã đón nhận anh khi tuyên bố: Ngay hôm nay ngươi sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.
Thưa quý OBACE, sau một năm cử hành Năm Đức Tin, chúng ta cùng với cả Giáo Hội có dịp nhìn lại và làm mới đời sống đức tin của mình, đồng thời mỗi người sẽ trở thành người bảo vệ và giới thiệu đức tin cho mọi người chung quanh. Tin Đức Giêsu là vua, có nghĩa là đón nhận và mời Ngài vào làm chủ cuộc đời của mình, của gia đình, như xưa những người Israel đã đến mời Đavit làm vua của họ, để Ngài điều khiền, hướng dẫn và bảo vệ bản thân và gia đình khỏi sự tấn công của ma qủy và những cám dỗ ngày nay. Tin và tuyên xưng Chúa là vua là dám sống phó thác cho sự chăm sóc quan phòng yêu thương của Ngài.
Với các bậc làm ông bà cha mẹ, hãy để Đức Giêsu làm vua trong tâm hồn của mình, để Ngài điều khiển hướng dẫn nếp sống của bản thân và gia đình, biết dành ưu tiên cuộc đời và thời giờ cho Chúa. Tôn vinh Ngài làm vua còn là biết mở rộng tâm hồn đón rước Ngài bước tâm hồn vào qua Bí Tích Giải tội và Thánh Thể. Vì qua Bí tich Giải tội, Ngài thực sự là một vị vua nhân từ xét xử khoan dung và tha thứ, đồng thời chăm sóc chữa lành cho tâm hồn chúng ta. Qua Bí tích Thánh Thể, Vua Giêsu đã phục vụ chúng ta cho đến cùng, đã trao ban mình máu Người làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và cuộc sống chúng ta. Hãy tôn vinh Ngài là vua của gia đình, để hết mọi thành viên trong gia đình từ ông bà, cha mẹ, con cái luôn thấy Ngài hiện diện và bảo vệ cho hạnh phúc gia đình của mình.
Ngày nay giới trẻ cũng đang tìm và tôn cho mình những vị vua như vua bóng đá, vua nhạc rock, và các thứ vua khác như là thần tượng của mình, mà họ lại quên rằng vua Giêsu mới thực sự là lý tưởng là cùng đích cho cuộc đời của mỗi người. Chỉ có Ngài mới là Đấng có thể giải thoát và cứu độ chúng ta, chỉ có Ngài mới có thể giải gỡ được những băn khoăn trắc trở trong cuộc đời và chỉ có Ngài mới dẫn chúng ta tới hạnh phúc đich thực mà thôi. Vì thế đừng sợ trở thành thần dân của vua Giêsu, đừng sợ suy tôn Ngài và để Ngài dẫn dắt mình, vì Ngài không bao giờ lừa dối chúng ta trái lại, Ngài luôn yêu thương phục vụ và bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của các trào lưu xấu của xã hội hôm nay. Amen. ---------------------------------
Bài tin mừng hôm nay (Lc 23,35-43) trích trong trình thuật thương khó theo Thánh Luca, kể lại những giây phút cuối cùng trước khi Đức Giêsu chết trên thập giá. Nhưng chính trong khung cảnh bi thương đó, dung mạo và tư cách quân vương của Ngài đã được mạc khải một cách rõ nét.
1. “Nếu hắn là Vua Kitô” (cc.35-39)
Mở đầu bài tin mừng là ba cảnh nhạo báng Đức Giêsu, do các thủ lãnh của dân, do lính tráng và do một tên gian phi cùng chịu đóng đinh vời Đức Giêsu, thực hiện. Dân (laos) thì đứng nhìn, trong một thái độ chăm chú mang tính tôn giáo (chứ không chỉ là tò mò).
Trước tiên là sự cười nhạo của các vị thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: "Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!"” (c. 35). Lời của các vị thủ lãnh ở đây có hai giá trị. Trước hết, do chỗ Đức Giêsu được trình bày như một người có tài làm phép lạ (“cứu được người khác”), nên lời thách thức “cứu lấy mình đi” trong thực tế là một lời nhạo báng tương tự như trong 4,23 “thầy lang ơi hãy chữa lấy mình”. Thứ hai, đặt trong sự nghi ngờ về tư cách Mêsia của Đức Giêsu, lời yêu cầu “hãy cứu lấy mình đi” đồng nghĩa với lời yêu cầu một dấu lạ chứng thực tư cách Mêsia.
Sau lời nhạo báng của các thủ lãnh là sự chế giễu của bọn lính tráng. Đây chắc chắn phải là những người lính Rôma (x. 23,47). “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (cc.36-37). Lời chế giễu của bọn lính Rôma cũng tương tự như lời chế giễu của mấy ông lãnh đạo Do Thái, nhưng tập trung trên khía cạnh chính trị, và như thế, làm nên đợt sóng thứ hai trong cuộc cười nhạo Đức Giêsu bị đóng đinh. Tiếp nối ngay vào lời chế giễu này, tấm bảng ghi bản án đặt phía trên đầu Đức Giêsu cũng là một thành phần của lời chế giễu về phương diện “chính trị”: “Phía trên đầu Người, cũng có bản án viết: "Đây là vua dân Do Thái” (c.38).
Lời nhạo báng thứ ba tiếp ngay sau đó, là của một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. (Chúng ta không có cơ sở nào để khẳng định chắc chắn anh này là một người Do Thái hay một người dân ngoại). “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!" (c.39). Lần thứ ba xuất hiện ngữ đoạn “hãy tự cứu mình đi”, sau đó là một yếu tố được thêm vào cho phù hợp với hoàn cảnh của tên gian phi: “và cứu cả chúng tôi nữa”. Nhưng chính Đức Giêsu, trong thực tế, lại chỉ chờ đợi ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, đúng theo lôgích của lời Ngài đã nói trong 9,24: “Ai đành mất mạng sống mình… thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Nội dung sự cười nhạo của ba hạng người trong bài tin mừng hôm nay đối với Chúa Giêsu, cho chúng ta hiểu thế nào là niềm mong chờ phàm trần mà người ta đặt nơi vương quyền của Đức Giêsu.
Là Vua Mêsia, Đức Giêsu sẽ đem đến cho con người ơn giải thoát của Thiên Chúa? Câu hỏi trở nên vô cùng gay cấn khi người ta phải đối diện với Đức Giêsu đang quằn quại đau đớn trong những giờ phút cuối cùng trước khi chết thê thảm trên thập giá. Kẻ không thể cứu nổi chính mình khỏi thảm cảnh thập giá, sẽ có thể cứu cả nhân loại này không? Vua Mêsia đấy ư? Đặt vào trong một nhãn quan mang tính chính trị, câu hỏi xem ra càng thêm gay cấn. Những kẻ đặt hy vọng vào Ngài sẽ không phải tuyệt vọng và buồn tủi hay sao, khi đối diện với tình cảnh của Ngài trên thập giá?
Mỗi năm chúng ta đều mừng lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ. Nhiều lần chúng ta tuyên xưng vương quyền của Ngài. Chúng ta vẫn trông chờ Ngài sẽ tỏ vương quyền của Ngài trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn và trong xã hội mà chúng ta đang sống, nhưng hình như Ngài có vẻ yếu thế (vì Ngài vẫn là Đấng chịu đóng đinh). Thực ra, chúng ta chờ đợi gì nơi Ngài? Một vị vua sẽ phô trương quyền lực trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội? Nếu Ngài không phô trương quyền lực trong các lãnh vực đó cho chúng ta hưởng thụ và vinh vang, chúng ta sẽ nhìn lên Ngài với cặp mắt nào? Có lẽ sẽ không phải là nhạo báng, nhưng chắc sẽ là oán trách và than thở…
Hóa ra Đức Giêsu vẫn có thể đang bị nhạo cười theo một nghĩa nào đó bởi chính chúng ta, những đồ đệ của Ngài.
2. “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (cc.40-43)
Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ ở phần thứ nhất của bài tin mừng là một cảnh tượng hết sức ý nghĩa, bắt đầu bằng một phản ứng của người còn lại trong hai kẻ cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đối với thái độ nhục mạ vừa diễn ra: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái" (cc.40-41). Người trộm lành thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!" (c.42). Người trộm lành trực tiếp thưa chuyện với Đức Giêsu sau khi đã phê bình tên gian phi đồng bọn. Anh gọi: “Giêsu!”. Đây là lần duy nhất trong Tân Ước Đức Giêsu được gọi tên riêng một cách gần gũi như thế này. Trong một số trường hợp (không nhiều), Đức Giêsu được gọi bằng tên riêng nhưng luôn luôn kèm theo một sự xác định như: “Lạy Thầy Giêsu…” hay “Giêsu Nadaret”… Người trộm lành đã sám hối bây giờ không hướng về Thiên Chúa, mà hướng về Đức Giêsu và công nhận tư cách và vai trò Mêsia của Ngài. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Đức Giêsu, đối với anh trộm lành, là Đấng Mêsia Phục Sinh mà anh có thể có tương quan thiết thân với Ngài. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu.
“Và Người nói với anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (c.43). Trong lời xin của mình, người trộm lành mong ước một ơn cứu độ tương lai sẽ được thực hiện vào lúc cùng tận, khi vương quốc Mêsia được thực hiện theo cách hiểu của niềm mong đợi Israel. Nhưng Đức Giêsu lại bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.
Đức Giêsu chịu đóng đinh đã cho thấy Ngài không phải là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của ngài không liên quan trước hết đến những thực tại trần gian, mà là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa. Ngài hứa với người trộm lành một sự hiệp thông trọn vẹn trong sự sống viên mãn trên Thiên Đàng. Ngài phá bỏ những rào cản không cho con người hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong hạnh phúc miên viễn, cho dù con người ở đây là tên gian phi đang bị kết án tử hình.
Lời tuyên bố long trọng của Đức Giêsu dành cho người trộm lành cho thấy một nội dung quan trọng của lòng tin Kitô giáo. Tương lai của nhân loại, cá nhân cũng như tập thể, là chính Đức Kitô. Thiên Đàng được trình bày ở đây không phải trong nhãn quan khải huyền, mà là trong những hạn từ diễn tả sự ở với Đức Kitô. Đàng khác, ơn cứu độ là thực tại của “hôm nay” và của cá nhân, chứ không phải chỉ là thực tại của tương lai và mang tính tập thể. Đức Kitô thực hiện vương quyền của Người ngay hôm nay và cho từng người cũng như cho mọi người.
Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự.
Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực. Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục. Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua.
Chúa nhật 34 thường niên hôm nay cũng là kết thúc năm Phụng Vụ, Giáo Hội tôn kính vương quyền của Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của Phụng Vụ, là làm cho loài người được tôn vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Đức Kitô vua Tình Yêu. Đây là dịp để chúng ta tìm hiểu Vị Vua Giêsu mà chúng ta tôn thờ, Ngài đã cai trị vương quốc của Ngài bằng cách nào, để rồi Ngài thông chia vương quyền ấy cho chúng ta?
Trước hết, Thánh Kinh đã hé mở cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là vua. Có ít nhất 3 ngày Giáo Hội đã long trọng nhắc đến tước hiệu “Vua” của Đức Kitô, tuy không rõ ràng tôn vinh tước hiệu ấy: lần thứ nhất, trong ngày lễ hiển linh: “Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Belem, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem, và hỏi Đức vua dân Do thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”(Mt 2,1-2). Lần thứ hai trong Tuần Thánh, với việc Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành thánh Giêrusalem. Rồi trước toà án Philatô, ông cho Chúa Giêsu ngồi ở Gabata, ghế dành riêng cho quan toà. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là vua. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là vua (Ga 18,37). Và Philatô đã truyền cho người ta viết tấm bảng gắn trên đầu thập giá với hàng chữ: “Giêsu Nazareth Vua dân Do thái” (Ga 19,19). Và rồi lần thứ ba, trong ngày Chúa Giêsu lên trời, Hội Thánh tôn vinh vua oai phong đi vào trong vinh quang và đợi chờ ngày Người lại đến (Mc 16,19) để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày cánh chung.
Và trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy nhiều người vô tình hay hữu ý đã ghi nhận Chúa Giêsu là vua: “Nếu ông là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn, hãy tự cứu mình đi” (Lc 23, 37); Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hylap, Latinh và Dothái như sau “Người này là vua dân Do Thái” (Lc 23,38); và rồi với lời van xin của tên trộm lành “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (lc 23,42).
Như thế, qua Thánh Kinh đã mạc khải cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là Vua. Và vị Vua Giêsu mà chúng hằng tôn thờ đó đã cai trị vương quốc của mình như thế nào?
Trước hết, Chúa Giêsu không phủ nhận mình là Vua hay vương quyền của mình, vì trước toà án Philatô, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi là Vua” (Ga 18,37). Thế nhưng, Ngài không phải là một vị vua đi tranh giành ngôi với hoàng đế Xê-sa-rê hay Hê-rô-đê mà hội đồng công toạ tố cáo (Lc 23,3). Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, không có màu sắc chính trị phàm trần, xâm chiếm lãnh thổ. Ngài không xuất hiện như các ông vua khải hoàn, ngựa xe ngợp trời, tù binh cả đám. Nhưng Ngài ngồi trên con lừa khiêm tốn, hiền hoà theo lời sấm ngôn của Dacaria (Dcr 9,9; Mt 21,5), Ngài đến để đem sự bình an và ơn công chính đến cho mọi người chứ không phải mang gươm giáo, súng đạn. Ngài đến để cứu kẻ khác chứ không phải để cứu mình (Lc 23,35), bởi vì Ngài là Đấng Kitô đến để thực hiện chương trình của Chúa Cha, mà chương trình này là “phải qua đau khổ mới bước vào vinh quang”. Ngài là Vua nhưng không phải là vua bóc lột, mà là Vua “hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11). Ngài là Vua “đem công lý, hoà bình, hạnh phúc” cho toàn dân. Nhưng việc này chỉ có thể thực hiện khi Ngài hoàn tất số phận của mình, một “người tôi tớ Đức Chúa”. Trên thập giá Ngài đã đánh bại Xatan, triệt tiêu tử thần, đã đem lại sự công chính hoá cho toàn dân và mở ra thời kỳ ân phúc cho nhân loại (Lc 22,29).
Điều này cho chúng ta hiểu được rằng vương quyền của Ngài không nhằm phục vụ tư lợi cá nhân. Việc Ngài thống trị toàn vũ trụ không phải để tự mãn nhưng là cho con người được sống và sống dồi dào. Chúa Giêsu Vua không cai trị Vương quốc bằng sức mạnh của vũ lực, nhưng bằng phục vụ, yêu thương. Con người xem ra mạnh hơn Chúa Kitô trong việc áp đảo và bắt bớ. Nhưng điều đó không làm cho Chúa Giêsu bận tâm. Hơn nữa, chính việc Chúa Giêsu chấp nhận bị gây thương tích và chết đi nhằm mạc khải cách tuyệt vời bản chất đích thực của Vương quốc Ngài là một Vương quốc của tình yêu thương, yêu cho đến cùng: chết vì người mình yêu.
Nói tóm lại, Vương quyền của Vua Giêsu là hoà giải trời với đất, giải thoát con người khỏi nô lệ của ma quỷ, dẹp tan tội ác, thiết lập một vương quốc “chân lý, ánh sang, bình an, sự sống, công bình và tình thương vĩnh cửu”, trong đó mọi người đều hạnh phúc, không còn cảnh người bóc lột người, không còn cảnh khổ đau (Rm 14,17; Ga 18, 38).
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Qua lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ hôm nay, mỗi người chúng ta cần phải tự hỏi mình có chấp nhận vương quyền của Ngài hay không? Ta có để cho Chúa làm chủ, làm vua tâm hồn và đời sống của mình hay chưa? Ta đã tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa thế nào trong đời sống của chúng ta? Chúng ta nhận Chúa là vua vũ trụ xem ra là một việc dễ dàng, còn việc để Chúa làm vua tâm hồn và đời sống của mình không phải là một việc dễ dàng tí nào, vì chúng ta còn quá nhiều lệ thuộc cho tự do ích kỷ của chúng ta, chúng ta còn nô lệ cho quá nhiều những cám dỗ đầy ngon ngọt của vương quốc ma quỉ.
Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa Cha phong làm vua vũ trụ và dĩ nhiên cũng là vua tâm hồn và cõi lòng chúng ta. Chúng ta chỉ có hai thủ lãnh để theo: một là Chúa Giêsu, hai là ma qủi. Chúng ta phải chọn một trong hai, hoặc là vị này hoặc là vị kia, là Chúa hay là ma qủi. Trong vấn đề này chúng ta không thể trung lập để “bắt cá hai tay”, bởi vì người ta thường nói:
Một nhà hai chủ không hòa,
Hai vua một nước, ắt là không yên.
Vậy chúng ta phải theo vị thủ lãnh nào? Chắc chắn chúng ta chọn Chúa Giêsu là vua bởi vì tất cả chúng ta đã được chịu phép rửa tội. Và qua phép Rửa tội, mỗi người chúng ta được thông phần vào cái chết và sự sống của Chúa Giêsu, được tham dự vào chức năng làm vua của Chúa Kitô. Vậy chúng ta đã làm cho vương quốc của Chúa Kitô cũng là vương quốc của chúng ta phát triển và lan toả hay chưa? Hay nói cách khác đời sống của chúng ta có nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến hay chưa?
Ước gì qua thánh lễ hôm nay, xin Chúa Kitô là Vua vũ trụ và là Vua của lòng trí chúng ta đổ tràn đầy tình yêu Chúa xuống trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cho chúng ta bừng cháy lửa tình yêu Chúa để chúng ta biết đón nhận Chúa trong anh em, để từ đó ngọn lửa tình yêu Chúa lan toả ra những anh chị em sống bên cạnh chúng ta, và nhờ đó mọi người nhận ra Nước Cha đang trị đến. Amen.
Cách đây hai ngàn năm, một tội nhân bị đưa ra trước công đường của một vị quan tổng trấn. Hai người gặp nhau lần đầu, mặc dù đã nghe nói về nhau. Philatô, người tượng trưng cho quyền lực trần thế, Đức Giêsu, người đại diện cho quyền lực trên cao. Cuộc gặp gỡ này vừa là một vụ án, vừa là một vở kịch. Người sát hạch cũng là người bị hỏi, bên bị cáo cũng là người thẩm vấn. Quả thật là một sự đổi vai giữa hai nhân vật này.
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Một câu hỏi kỳ lạ, thậm chí vô duyên. Có lẽ nào người hiện diện trước mặt ông là một vị vua mà lại không được ông, một vị tổng trấn uy quyền, biết đến? Điều đó cho thấy Đức Giêsu không phải là một vị vua theo quan niệm thế gian. Vương quốc của Người không phải ở thế gian này.
Hai ngàn năm đã qua sau vụ án, hôm nay vẫn có những người đang đặt câu hỏi mang tính thách thức như Philatô về vương quốc của Chúa. Vẫn có biết bao người đang kiếm tìm vương quốc ấy, và cũng có vô số tín hữu sẵn sàng đổ máu đào vì vương quốc kỳ diệu này.
“Vậy ông là vua sao?” Lại một lần nữa, Philatô buông một câu hỏi vô nghĩa. Trước câu hỏi này, Đức Giêsu cũng không đưa ra một câu trả lời trực tiếp. Người nói: “Chính ngài nói rằng tôi là vua”. Tiếp đó, Người minh định rõ ràng chức năng vương hoàng của Người, đó là chức năng làm chứng cho sự thật. Vậy là đã rõ, vương quốc của Chúa là vương quốc của sự thật, mà sự thật thì không bị xiềng xích. Sự thật cũng như trái tim, không bị chi phối bởi sắc tộc, ngôn ngữ hay thế mạnh quân sự. Sự thật đã và đang đem lại chiến thắng cho con người.
“Nước tôi không thuộc chốn này”. Đức Giêsu nhấn mạnh hai lần điều này. Người không muốn để cho Philatô hiểu về chức vương hoàng của Người theo kiểu thế gian. Không chỉ Philatô, mà suốt bề dầy của lịch sử, những ai muốn quan niệm hoặc trình bày tước vị “Vua” của Đức Giêsu theo kiểu trần thế đều bị thất bại. Đã có thời trong, khá nhiều người, kể cả một số vị lãnh đạo, mang quan niệm sai lầm về sức mạnh của Giáo Hội, khi họ cho rằng Giáo Hội mạnh mẽ nhờ thế lực trần gian hoặc do sức mạnh của đồng tiền. Quan điểm ấy đã chuốc lấy những bài học chua cay. Đức Giêsu tuyên bố chức năng vương hoàng của Người vào lúc Người bị điệu ra trước pháp đình. Qua đó, người muốn khẳng định rõ: Người làm vua để phục vụ và trao gửi yêu thương. Sau bao thế kỷ, Giáo Hội cũng đã ngộ ra rằng sức mạnh của Giáo Hội không đến từ quyền lực trần thế, mà là đến từ Đấng chịu đóng đinh. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi, mặc dù phải đối diện với biết bao khó khăn do thù nghịch đến từ phía người Do Thái và nhà cầm quyền La-mã, nhưng vẫn tăng trưởng, vì họ tìm được sức mạnh nơi Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá, đã chịu chết và đã Phục Sinh.
Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Phụng vụ muốn nhắc cho chúng ta về khái niệm “vương quyền” của Đức Giêsu. Vương quốc của Người đã được khởi đầu ở trần gian này rồi, như lời rao giảng của Chúa khi khởi sự công cuộc loan báo Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Tuy thế, vương quốc của Chúa vẫn chưa được thực hiện, mà đang trong thời kỳ đạt tới thành toàn, vào thời điểm Chúa muốn. Sự thành toàn của vương quốc Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong tương lai, lúc ấy, Con Người sẽ từ mây trời ngự đến, thống trị vinh quang mãi mãi (Bài đọc I).
Năm phụng vụ chấm dứt với chúa nhật hôm nay. Chúng ta cũng được mời gọi suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Là con dân của Nước Chúa, người tín hữu phải nỗ lực thực thi tình bác ái và xây đắp an bình, vì Nước Chúa là nước của bình an, nhân ái, chan hòa tình Chúa tình người. Khi cố gắng thực thi lời Chúa dạy là chúng ta làm cho vương quốc của Chúa mau trị đến.
Tuyên xưng Chúa là Vua, chúng ta cũng muốn thuộc trọn về Người. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ về lòng trung thành của chúng ta với Chúa. Tấm “hộ chiếu” của vương quốc vĩnh cửu chính là đức tin vững vàng, đức cậy trung tín và đức mến thiết tha. Chúa sẽ nhận ra chúng ta, qua việc thiện chí sống và thực thi những nhân đức này.
Suy Niệm:
Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong Ngài muôn loài được tạo thành. Nhờ Ngài vạn vật được cứu độ. Vì thế Ngài là chủ tể là vua vũ trụ. Nước của Ngài không hạn hẹp một quốc gia nào, một dân tộc nào. Nhưng bao trùm toàn thể chúng sinh. Vinh quang uy quyền của ngai báu Ngài không tỏ hiện bằng vũ lực, bằng cao sang thế trần, nhưng êm đềm trong yêu thương, trong tình thân ái để đem hạnh phúc đích thực cho mọi tâm hồn.
Cầu Nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cải tạo mọi sự trong Con yêu dấu Chúa, là vua vũ trụ: Xin đoái thương cho mọi loài thọ tạo đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ, biết phụng thờ uy linh Chúa, và biết luôn luôn ngợi khen Chúa. Chúng con Cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen. ---------------------------------
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất chấm dứt, cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Balan cũng không tránh khỏi thảm hoạ. Đất nước bị quân Đức và Nga thay nhau cày xéo. Bao thanh niên ngã gục trên chiến trường. Nhiều làng mạc, thành phố bị bom đạn thiêu rụi.
Trước tình hình đó, Toà thánh muốn tìm một giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò đặc sứ tại quốc gia này. Linh mục Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển chọn. Ngay sau đó, cha Ambrose lên đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng nề.
Thế nhưng công việc của cha Ambrose tại Balan đã tiến triển tốt đẹp. Toà thánh nhận ra điều đó. Rồi chẳng bao lâu sau, ngài được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng y coi sóc tổng giáo phận Milan. Đến năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời, Hồng y Ambrose Ratti được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.
Về sau, khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như một vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua Dân Do thái”. Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái”(Lc 23: 41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài”(Lc 23: 42).
Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi”.
“Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta”(Lc 23: 43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng”.
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hoà bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
Chúng ta hân hoan chia sẻ cái rạng ngời vì chúng ta được Chúa Giêsu là Vua của chúng ta; quyền lực của tình yêu Người biến đổi tội lỗi thành ân sủng, chết chóc thành phục sinh, sợ hãi thành tin tưởng...
Tuy nhiên nó sẽ chẳng có ý nghĩa mấy nếu chúng ta tin Chúa Giêsu là Vua vũ trụ
mà lại không để cho Người làm Chúa của cuộc đời chúng ta...
"Cho dù Cửa Thánh có đóng thì cửa ngõ đích thực của lòng thương xót là trái tim của Chúa Kitô bao giờ cũng vẫn rộng mở cho chúng ta. Từ cạnh sườn bị rạch toạc ra của Đấng Phục Sinh cho đến tận cùng thời gian tuôn ra lòng thương xót, ơn an ủi và niềm hy vọng".
Lễ trọng Chúa Giêsu Kitô của chúng ta, Vua Vũ Trụ, là tột đỉnh của phụng niên cũng như của Năm Thánh Thương Xót. Thật vậy, bài Phúc Âm cho thấy vai trò làm vua của Chúa Giêsu như là tột đỉnh công cuộc cứu độ của Người, và Phúc Âm cho thấy như thế một cách lạ lùng. "Đức Kitô của Thiên Chúa, Đấng được Tuyển Chọn, Đức Vua" (Luca 23:35,37) hiện lên như môt kẻ chẳng có quyền lực hay vinh quang gì hết:
Người ở trên cây thập tự giá, Người dường như là một tên bị chiến bại hơn là một tay chiến thắng. Vai trò làm vua của Người là những gì ngược ngạo: ngai tòa của Người là cây thập tự giá; triều thiên của Người là mạo gai; Người không có vương trượng mà chỉ là một cành nứa bị dúi cầm trong bàn tay; Người chẳng có y phục sang trọng mà bị lột cả áo khoác; Người chẳng đeo nhẫn óng ánh trên ngón tay nhưng bàn tay Người bị đinh đâm thủng; Người chẳng có báu vật mà bị bán với giá 30 đồng bạc.
Triều đại của Chúa Giêsu quả thực không thuộc về thế gian này (xem Gioan 18:36); nhưng chính vì lý do này mà Thánh Phaolô đã nói với chúng ta trong Bài Đọc Thứ Hai, chúng ta được ơn cứu chuộc và tha thứ (xem Colose 1:13-14). Vì cái uy nghi cao cả của vương quốc Người không phải là quyền lực theo quan niệm trần gian này mà tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể gặp gỡ và chữa lành tất cả mọi sự. Chúa Kitô vì yêu thương đã hạ mình xuống với chúng ta, Người đã sống tình trạng khốn khổ của nhân loại chúng ta,
Người đã trải qua đến tận cùng thân phận của con người chúng ta: bất công, bị phản bội, bị bỏ rơi; Người đã nếm được cái chết, mồ chôn, âm phủ.
Nhờ thế mà vị Vua của chúng ta đã đi đến tận cùng của vũ trụ để gồm tóm và cứu độ hết mọi sinh linh. Người đã không lên án chúng ta, không khống chế chúng ta, và Người không bao giờ coi thường tự do của chúng ta, song Người mở lối cho chúng ta bằng một tình yêu khiêm hạ tha thứ tất cả mọi sự, hy vọng tất cả mọi sự, bảo trì tất cả mọi sự (xem 1Corinto 13:7).
Chỉ có tình yêu duy nhất này đã có thể thắng vượt và tiếp tục thắng vượt các thứ kẻ thù tàn khốc nhất của chúng ta là tội lỗi, chết chóc và sợ hãi.
Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta loan báo cuộc chiến thắng đặc biệt này, một chiến thắng nhờ đó Chúa Giêsu đã trở thành Đức Vua của mọi thời đại, thành Chúa của lịch sử: chỉ bằng quyền lực của tình yêu là bản tính của Thiên Chúa, là chính sự sống của Ngài và là tình yêu vô cùng bất tận (xem 1Corinto 13:8).
Chúng ta hân hoan chia sẻ cái rạng ngời vì chúng ta được Chúa Giêsu là Vua của chúng ta;
quyền lực của tình yêu Người biến đổi tội lỗi thành ân sủng,
chết chóc thành phục sinh, sợ hãi thành tin tưởng.
Tuy nhiên, nó sẽ chẳng có ý nghĩa mấy
nếu chúng ta tin Chúa Giêsu là Vua vũ trụ
mà lại không để cho Người làm Chúa của cuộc đời chúng ta:
tất cả những điều ấy chẳng là gì nếu bản thân chúng ta không chấp nhận Chúa Giêsu và nếu chúng ta cũng không chấp nhận đường lối làm vua của Người. Tuy nhiên, có những con người được bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy có thể giúp chúng ta trong vấn đề này. Ngoài Chúa Giêsu ra thì còn 3 loại nhân vật nữa:
thành phần dân chúng đang nhìn lên, những người ở gần cây thập tự giá, và tên tử tội bị đóng đanh cạnh Chúa Giêsu.
Trước hết là dân chúng:
Bài Phúc Âm nói rằng "dân chúng dừng chân nhìn xem" (Luca 23:35):
không ai nói một lời, không ai đến gần hơn. Dân chúng giữ một khoảng cách, chỉ muốn nhìn xem những gì đang xẩy ra thôi.
Họ cũng là những con người đã chen lấn nhau đến gần Chúa Giêsu khi họ cần một cái gì đó,
giờ đây là những con người tách xa khỏi Người.
Đối với các hoàn cảnh của đời sống chúng ta, cùng với những niềm trông đợi khôn nguôi của chúng ta, chúng ta cũng có thể bị cám dỗ giữ mình tách xa khỏi vai trò làm vua của Chúa Giêsu, không hoàn toàn chấp nhận cái nhục nhã nơi thứ tình yêu khiêm hạ của Người là những gì khiến chúng ta cảm thấy không ổn và bị xáo trộn.
Chúng ta thích ở tại cửa sổ, đứng tách ra, hơn là đến gần và ở với Người. Thế nhưng một dân thánh đức, nhận Chúa Giêsu là Vua của mình, được kêu gọi để theo đường lối yêu thương khả hữu của Người; họ được kêu gọi để tự vấn, mỗi người và từng ngày xem:
"Tình yêu muốn tôi làm gì, nó thôi thúc tôi đi đâu đây? Tôi đang cống hiến câu trả lời bằng đời sống của tôi cho Chúa như thế nào?" Còn một nhóm thứ hai, bao gồm những cá nhân khác nhau: các vị lãnh đạo dân chúng, những binh lính và một tử tội. Tất cả họ đều nhạo cười Chúa Giêsu. Họ khiêu khích Người cùng một cách thức: "Ngươi hãy cứu lấy bản thân ngươi đi!" (Luca 23:35,37,39).
Cái khuynh hướng này còn tệ hơn cả cái khuynh hướng của dân chúng nữa. Họ thách đố Chúa Giêsu, như ma quỉ đã làm ở đầu Phúc Âm (xem Luca 4:1-13), để Người bỏ đi việc cai trị như Thiên Chúa muốn, mà hãy cai trị theo kiểu cách của thế gian, đó là hãy xuống khỏi thập giá và hủy diệt các kẻ thù của Người!
Nếu Người là Thiên Chúa thì hãy tỏ quyền năng của Người cùng cái ưu việt của Người ra! Chước cám dỗ này là một thứ tấn công tình yêu: "hãy cứu lấy bản thân mình" (các câu 37,39); không phải cứu kẻ khác mà là chính bản thân mình.
Hãy chiếm lấy cái khải hoàn cho bản thân ngươi do bởi quyền năng của ngươi, bởi vinh quang của ngươi, bởi vinh thắng của ngươi.
Đó là một chước cám dỗ khủng khiếp nhất, chước cám dỗ đầu và cám dỗ cuối trong Phúc Âm.
Khi đối đầu với cuộc tấn công này ở chính đường lối hiện hữu của mình, Chúa Giêsu đã không nói năng gì, đã chẳng phản ứng chi. Người không tự vệ, Người không cố gắng thuyết phục họ, Người không tỏ ra bênh vực vai trò làm vua của Người. Trái lại, Người tiếp tục yêu thương; Người tha thứ, Người sống giây phút thử thách này theo ý muốn của Cha Người, tin rằng tình yêu sẽ sinh hoa kết trái.
Để chấp nhận vai trò làm vua này của Chúa Giêsu, chúng ta được kêu gọi chiến đấu chống lại chước cám dỗ này, được kêu gọi để gắn ánh mắt của chúng ta vào Đấng Tử Giá, tỏ ra trung thành với Ngài hơn bao giờ hết.
Biết bao nhiêu lần, ngay cả trong số chúng ta, chúng ta tìm kiếm những gì thoải mái và vững chắc do thế gian cống hiến. Biết bao nhiêu lần chúng ta bị cám dỗ xuống khỏi Thánh giá.
Cái lọc lừa của quyền lực và thành công dường như là một đường lối dễ dàng nhanh chóng trong việc lan truyền Phúc Âm; chúng ta sớm quên đi cách thức thể hiện của Vương Quốc Thiên Chúa.
Năm Thánh Thương Xót này mời gọi chúng ta hãy tái nhận thức cái cốt lõi, hãy trở về với những gì là thiết yếu.
Thời điểm của lòng thương xót này kêu gọi chúng ta hãy nhìn lên dung nhan đích thực của vua chúng ta, Đấng rạng chiếu ở cuộc Phục Sinh, cũng như hãy tái khám phá ra dung nhan trẻ trung mỹ lệ của Giáo Hội lữ hành, một dung nhan rạng ngời khi nó tỏ ra đón nhận, tự do, trung thành,
nghèo nàn về phương tiện nhưng giầu có về yêu thương.
Lòng Thương Xót, những gì dẫn chúng ta đến tâm điểm của Phúc Âm, thôi thúc chúng ta hãy bỏ đi những thói quen và những thực hành có thể gây ngãng trở cho việc phụng sự Vương Quốc của Thiên Chúa;
lòng thương xót thôi thúc chúng ta chỉ tập trung vào vai trò làm vua muôn thuở và khiêm hạ của Chúa Giêsu, đừng chiều theo những thứ quyền chức trôi nổi và các thứ quyền năng thay đổi của hết mọi thời đại.
Trong Phúc Âm còn một người nữa, gần Chúa Giêsu hơn, đó là kẻ trộm van xin Người rằng:
"Hỡi Giêsu, xin hãy nhớ đến tôi khi ngài vào vương quốc của ngài" (câu 42).
Con người này, chỉ nhìn vào Chúa Giêsu, tin tưởng vào vương quốc của Người. Anh ta không khép kín bản thân mình, trái lại - với các thứ lầm lạc của mình, các thứ tội lỗi của mình, cùng các thứ rắc rối trục trặc của mình - anh ta đã hướng về Chúa Giêsu.
Anh ta đã xin được nhớ đến, và anh ta đã cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa: "Hôm nay anh sẽ được ở cùng Tôi trên thiên đàng" (câu 43).
Vừa khi chúng ta cống hiến cho Thiên Chúa cơ hội thì Ngài nhớ đến chúng ta.
Ngài sẵn sàng xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn tội lỗi của chúng ta, vì ký ức của Ngài - không như của chúng ta - không ghi nhận sự dữ đã gây ra hay tính điểm các thứ bất công trải qua.
Thiên Chúa không có trí nhớ về tội lỗi mà chỉ nhớ đến chúng ta, nhớ từng người chúng ta, thành phần chúng ta là con cái yêu dấu của Người.
Và Ngài tin rằng bao giờ cũng có thể bắt đầu lại, để nâng bản thân chúng ta lên.
Chúng ta cũng xin được ơn có một trí nhớ cởi mở và sống động ấy. Chúng ta hãy xin ơn không bao giờ đóng cửa hòa giải và tha thứ, nhưng biết làm sao vượt trên sự dữ và những khác biệt, mở ra mọi ngõ lối khả dĩ cho niềm hy vọng.
Như Thiên Chúa tìn tưởng nơi chúng ta, một cách vô cùng ngoài bất cứ công trạng nào của chúng ta, chúng ta cũng được kêu gọi để làm thẩm thấu niềm hy vọng và cống hiến cơ hội cho người khác.
Vì, cho dù Cửa Thánh có đóng thì cửa ngõ đích thực của lòng thương xót là trái tim của Chúa Kitô bao giờ cũng vẫn rộng mở cho chúng ta. Từ cạnh sườn bị rạch toạc ra của Đấng Phục Sinh cho đến tận cùng thời gian tuôn ra lòng thương xót, ơn an ủi và niềm hy vọng.
Rất nhiều người hành hương đã băng ngang qua ngưỡng Cửa Thánh, và xa khỏi cái náo nhiệt của tin tức hằng ngày, họ đã nếm được sự thiện hảo cao cả của Chúa. Chúng ta dâng lời tạ ơn về điều ấy, khi chúng ta nhớ lại chúng ta đã lãnh nhận lòng thương xót ra sao để thương xót, để cả chúng ta nữa trở thành những dụng cụ của lòng thương xót. Chúng ta hãy cùng nhau tiến lên theo đường lối này.
Xin Đức Mẹ Diễm Phúc hỗ trợ chúng ta, Mẹ là vị cũng đứng gần Thánh giá, Mẹ là vị đã hạ sinh chúng ta ở đó như người Mẹ dịu dàng của Giáo Hội, một người Mẹ mong muốn qui tụ tất cả mọi người ở dưới áo choàng của Mẹ. Dước cây Thánh giá, Mẹ đã thấy người trộm lành được ơn tha thứ, và Mẹ đã nhận người môn đệ của Chúa Giêsu làm con Mẹ. Mẹ là Mẹ của Lòng Thương Xót, Đấng chúng ta ký thác bản thân của chúng ta: trong hết mọi hoàn cảnh chúng ta sống, với hết mọi lời cầu chúng ta nguyện, khi được nâng lên cho đôi mắt xót thương của Người đều được đáp ứng.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý
Vào lúc kết thúc buổi Nguyện Kinh Truyền Tin trưa ngày Chúa Nhật bế mạc Năm Thánh Thương Xót hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô chẳng những ngỏ lời cám ơn tất cả những ai đã góp phần vào thành quả thiêng liêng của Năm Thánh Thương Xót, cách riêng "nhiêu bệnh nhân và thành phần lão niên đã không ngừng cầu nguyện, dâng hiến khổ đau của mình cho Năm Thánh. Đặc biệt cám ơn các nữ tu dòng kín", mà còn ký ban hành Tông Thư Misericordia et Misera, một Tông Thư ngỏ cùng toàn thể Giáo Hội, kêu gọi Giáo Hội tiếp tục cảm nghiệm lòng thương xót bằng cường độ như trong Năm Thánh Thương Xóty, sẽ được ra mắt và phổ biến tại Văn phòng Báo chí của Tòa Thánh vào ngày mai, Thứ Hai 21/11/2016, Lễ Đức Mẹ Dâng Mình.
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội cử hành lễ trọng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Đức Kitô là Chúa, là Vua chúng ta. Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Trong năm phụng vụ chúng ta đã thấy xuất hiện các sự kiện tiên tri như sự tôn kính của các nhà đạo sĩ, xức dầu tại Bêthania, hoặc qua các dụ ngôn... xác định Đức Kitô như là "Vua", theo ý nghĩa "Thiên Sai", nghĩa là "kẻ thừa tự ngai vua Đavid, thể theo những lời hứa của các tiên tri, thừa hưởng vương quốc không bao giờ cùng tận (x. Lc 1,32-33).
Hôm nay, chúng ta cử hành với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Đức Giêsu là Vua. Câu hỏi được đặt ra: Vậy Ngài là Vua những gì? Câu trả lời: Đức Giêsu không là vua của những gì hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Ngài là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì con người muốn biến Đức Giêsu trở nên trò cười khi mặc cho Ngài áo tím và đội mão gãi.
Các bản văn phụng vụ trình bày vương quốc của Đức Giêsu như một bức tranh đầy ấn tượng. Mỗi lần đọc nhấn mạnh vai trò trung tâm của Chúa Kitô. Ngài là Chúa Cứu Thế, Người đã được xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), Ngài là Thiên Chúa duy nhất của vũ hoàn, trong đó chúng ta là anh em, Ngài là Vua khiêm nhường, luôn nhớ kẻ có tội mà phải chịu đau khổ.
Thánh giá thẳng đứng trong vinh quang. Ngai vàng, gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Đức Giêsu bị hỏi: "Nếu ông là Đấng Kitô" (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Ngài đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Ngài. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi: "Nếu ông là Đấng Mê-si" (Lc 23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La Mã, thách thức Ngài: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi"(Lc 23, 38). Một tên trôm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái chết: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa" ( Lc 23, 40). Địa vị của họ khác nhau, nhưng họ lại giống nhau ở điểm thách thức Chúa: "Ông hãy tự cứu mình đi!" Như thể thách Đức
Giêsu xuống khỏi thập giá để chứng minh vương quốc của mình! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa Kitô đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh của Ngài cho ta thấy, Ngài đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội, nhất là trao ban cho chúng ta chính tình yêu. Khi chịu treo thên thập giá Đức Giêsu đã mạc khải vinh quang của Ngài, Ngài là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Giữa những lời nhạo báng và thách thức, có một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa. Anh thì thầm: " Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi" (Lc 23, 42). Một tên trộm bị đóng đinh công nhận Đức Giêsu là Vua, thế là Ngài cho anh vào vương quốc của Ngài như anh xin: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta"(Lc 23, 42).
Vương quốc của Vua Giêsu không hão huyền, trừu tượng, vương quốc ấy có mặt ngay hôm nay, nơi Chúa Kitô hiện diện. Như vậy, bản cáo trạng chống lại Đức Giêsu viết, "Đây là Vua dân Do Thái " là thật trớ trêu, bởi từ trên thập giá vương quốc của Đức Kitô tỏa sáng vinh quang. Điều mà theo ý các kẻ thù của Người có thể là sự biện minh cho bản án của Ngài, thì trong con mắt của Cha trên trời, đó là sự công bố quyền cai trị phổ quát của Vua Giêsu. Cái chết của Ngài trên thập giá là hành động đẹp nhất chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
"Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp... trong cõi đầy ánh sáng". Cùng với Thánh Phaolô, chúng ta vui mừng hân hoan và biết ơn vì chúng ta được kêu gọi trở nên thành phần của Vương quốc Vua Kitô: "Người giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi" ( Cl 1, 12-20). Nhờ sự chết của Ngài, Vua Giêsu đã hòa giải tất cả mọi sinh linh; "nhờ máu Người đổ ra trên thập giá" Ngài đã đóng ấn một giao ước muôn đời. Khi phục sinh, Thiên Chúa Cha tôn phong Ngài làm Vua và là "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại", "Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu Hội Thánh." Bài thánh ca được hát bởi Thánh Phaolô, kỷ niệm sự vĩ đại vô song của Chúa Kitô, và đưa chúng ta đến chiêm ngắm Thánh giá, nơi vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ hiện.
Ai sẽ loan báo cho thế giới vương quốc của Đức Giêsu, nếu không phải là những chi thể của Thân Thể Người? Một vị vua không được thiết lập chỉ để ngưỡng mộ và tôn thờ, sứ mạng của vị vua sẽ vô hiệu, nếu đối tượng của mình không phục vụ. Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi không? Ai hiển trị trong tôi, ai đặt những mục tiêu và thiết lập những ưu tiên: Chúa Kitô hay ai khác? Theo Thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống: "hoặc cho mình hay cho Chúa" (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính mình hay sống cho Chúa?
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Giêsu, Vua Tình Yêu. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen. ---------------------------------
Hôm nay Lễ Kitô Vua. Nhưng bài Tin Mừng năm C lại cho ta một cung vua khác lạ. Năm A, hoàng cung là nơi Vua phán xét: “Khi Con Người ngự đến trên mây trời…” Năm B, hoàng cung là mượn tạm dinh Philatô: “Phải tôi là Vua.” Còn năm nay, cung điện của Vua Kitô lại chỉ là 2 thanh gỗ kết hình khổ giá với hai thần dân đạo tặc hai bên.
Ta sẽ nói về một trong hai thần dân này, y là tên trộm, mà là tên trộm biết ăn năn, thậm chí ở nhiều nước đạo gốc có nơi còn thờ y như một vị thánh.
Anh ta được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Việt phiên âm là Đích Ma. Có người kể hắn là một thứ Robin Hood của Do-thái, chuyên ăn cướp của người giàu để phân phát cho người nghèo. Nhưng chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giê-su còn nhỏ được gia đình đem sang Ai-cập trốn Herôđê, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giê-su dễ thương quá nên không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói: "Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé!" Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giê-su khi còn nhỏ, nay lại gặp Ngài trên thập giá tại đồi Gôn-gô-tha. Lần này thì Chúa Giê-su đã cứu lại anh ta.
Câu chuyện thực hư thế nào không ai được rõ nhưng điều rõ rệt ấy là quang cảnh đóng đinh này đã ứng nghiệm điều mà trước đó cả bảy trăm năm tiên tri I-sai-a đã tuyên sấm: "Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân" (53,12). Mà chẳng những trong hàng phạm nhân mà thôi, nhưng theo vị trí xếp đặt, Ngài được coi là phạm nhân thượng hạng, là xếp sòng trong bọn đầu trộm đuôi cướp nữa, nếu hai tử tội đứng bên cạnh Ngài đúng là những tên trộm cướp.
Không biết ai đã bày ra cái trò này, xếp đặt thập giá của Ngài ở giữa hai tên cướp.
- Nếu là Phi-la-tô thì quả ông quan xâm lược này muốn làm tăng vẻ khôi hài của bản án mà ông treo trên đầu "Vua Do-thái".
- Cũng có thể do các đầu mục Do-thái, theo dõi kẻ thù đến đỉnh núi Sọ, mua chuộc bọn lính sắp đặt để tăng sỉ nhục cho nạn nhân, “cho biết mặt!”
- Hay có lẽ là chính bọn lính sắp đặt như vậy vì hiển nhiên Ngài là tử tội đáng chú ý hơn cả trong bọn.
Nhưng… nếu đây là một cái gì hiểm độc về phía loài người, thì điều ti tiện trước mặt người đời, lại cao sang trước mặt Thiên Chúa. Điều mà lòng độc ác của loài người bêu xấu Ngài, thì lại tôn vinh Ngài trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, vị trí của Ngài giữa hai tên trộm cướp đúng là địa vị của Ngài.
Bởi, từ lâu Ngài được gán cho danh hiệu "bạn của người thâu thuế và phường tội lỗi" (Mt 11,19). Giờ đây, qua hành động đóng đinh Ngài giữa hai người trộm cướp, ý tưởng ấy được thực hiện cách rõ rệt nhất. Chúa Giê-su đã đến thế gian để tự hòa mình vào đám tội nhân, Ngài đã chịu chung số phận của họ, Ngài đã sống giữa họ, và thật là thích hợp Ngài chết giữa họ. Cho đến lúc này, Ngài đang ở giữa họ. Và thái độ kỳ lạ của hai người đã bị treo hai bên Ngài, là một ứng nghiệm và và là một báo hiệu.
Ứng nghiệm điều cụ Simêon nói về Hài Nhi Giê-su trong Đền Thờ: "Con trẻ này có mệnh làm cho nhiều người trong dân vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu." (Lc 2,34) Và báo hiệu điều sẽ xảy ra luôn luôn sau này, một số người tin nhận Ngài và được cứu, trong lúc một số khác không tin. Lịch sử loài người luôn luôn như thế, Tin Mừng sẽ đem lại sự sống cho nhiều người, và cũng đem lại án phạt cho nhiều người. Tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng, Ngài sẽ ở giữa họ, kẻ ăn năn đứng một bên, bên phải, và bên trái Ngài là những kẻ không ăn năn. Mát-thêu và Lu-ca đều ghi lại: “Cả những kẻ bị đóng đinh với Ngài cũng xỉ nhục Ngài,” Lu-ca ghi rõ hơn: Kẻ bên trái mắng nhiếc, kẻ bên phải ăn năn.
Ăn năn cách nào? -Lên tiếng Bênh vực. Giữa lúc những kẻ trước đây cuồng nhiệt tung hô nay lại phản đối Ngài, giữa lúc đám môn đệ thề quyết trung tín bỏ trốn hết, thì một mình tên trộm lên tiếng bênh vực Ngài.
Nếu chàng thanh niên con của góa phụ thành Na-im, được cải tử hoàn sinh, lên tiếng tin vào quyền năng của Đấng xem ra mất hết quyền đế vương; nếu Phê-rô đã từng chứng kiến Chúa biến hình trên núi, tuyên xưng Đấng “coi vậy chứ không phải vậy”; nếu anh mù thành Giê-ri-khô đứng lên công nhận thần tính nơi Ngài …, chúng ta không ngạc nhiên. Phải, nếu một trong những người trước đây đã hưởng ân huệ của Chúa lên tiếng, có lẽ các môn đệ nhát sợ lấy lại can đảm, đám dân vô tâm sẽ tỉnh ngộ, bọn ký lục và biệt phái sẽ tin theo … Nhưng giữa lúc cái chết gần kề, giữa lúc Chúa Cứu Thế như hoàn toàn thất bại trước mặt người trần, chỉ có một người lên tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh:
Anh thấy cây thập giá nhưng tôn thờ như ngai Vua Cả. Anh thấy người bị đóng đinh nhưng kêu cầu như Chúa Tể. Anh thấy sự sống trong cõi chết, anh thấy vinh quang trong nhục nhã … "Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi."
Có thể đây là lần đầu tiên tên trộm cầu nguyện và có lẽ cũng là lần cuối cùng, dầu vậy Đấng đã được tiên báo "Ngài không bẻ đứt cây sậy dập gẫy, không tắt hẳn tim đèn còn khói" (Mt 12,20), lại không đáp ứng lại một niềm tin như vậy sao? Và đấng tuyên bố: "Người nào đến với Ta, chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi" (Ga 6,37) lại đuổi xua sao? Chúa Giê-su đã giữ lời và còn giữ hơn cả điều người ta trông đợi.
Trong khi nhà cầm quyền Giê-ru-sa-lem không thể làm Ngài rời khỏi thập giá; trong lúc mọi tố cáo bất công không thắng được sự yên lặng của Ngài; trong lúc những lời gào thét "nó đã cứu được người khác, mà không cứu nổi mình" không làm Ngài hé môi …, thì Ngài nghiêng đầu về người yếu đuối cạnh Ngài, Ngài nói và cứu một tên trộm: "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta."
Trước đây không một ai được hứa như thế, dầu người đó là Áp-ra-ham, quốc mẫu tổ phụ của Giêsu; dẫu người đó là Mô-sê, đại ngôn sứ, thủ lãnh Dân Riêng; hay Gio-an, kẻ Giêsu yêu. Ngay cả Ma-da-lê-na hay chính Đức Ma-ri-a, Mẹ Ngài cũng vậy, vậy mà, Ngài lại hứa với tên trộm, thần dân đầu tiên của Ngài trên Nước Trời.
Augustino đã tinh ý khi sánh ví: khen thay cho tên trộm này, cả một đời trộm cắp mà đến giờ chót khi ra trước toà còn trổ nghề ăn trộm được cả Nước Trời. (Không biết vào Nước Trời rồi, có ăn trộm chìa khoá của Phêrô để mở cửa thiên đàng cho đồng nghiệp bên trái nhiếc mắng Chúa hay không? Biết đâu!
Có một người ăn xin nọ ngày kia gặp một hiền sĩ ở dọc đường, ông ta đã chạy lại van xin hiền sĩ bố thí cho mình. Nhà hiền sĩ đã từ chối và cứ đi tiếp con đường ông đang đi. Người ăn xin vẫn tiếp tục đuổi theo, miệng không ngớt xin bố thí. Ông ta đã theo nhà hiền triết ra đến tận đầu phố, cuối cùng nhà hiền triết tuyệt vọng, dừng lại và nói:
- Được rồi, ta sẽ cho ngươi tiền, nhưng với điều kiện: trong hai con mắt của ta có một con mắt thủy tinh, ngươi hãy nói nó là mắt nào. Nếu nói đúng ngươi sẽ có tất cả những gì ta có.
Người ăn xin nhìn ông chăm chú, cuối cùng nghiêm giọng nói:
- Thưa thầy, con mắt trái là thủy tinh ạ.
Hiền sĩ kinh ngạc kêu lên:
- Hãy nói làm sao ngươi biết được điều đó. Con mắt đó do một người thợ giỏi nhất thế gian này làm ra, không thể nào phân biệt được mắt nào của ta là mắt thật, mắt nào là mắt thủy tinh?
- Thưa thầy, vì -người ăn xin chậm rãi đáp- mắt phải của thầy ánh lên lòng thương xót.
Vâng có lẽ người ăn trộm bên phải cây Thánh giá của Chúa Giêsu cũng có được con mắt phải “ánh lên lòng thương xót.” Chàng thương xót cho tử tội vô tội Giêsu, nên đã gặp được cặp mắt giàu lòng thương xót của Vua Giêsu bị xét là tử tội.
Tin giờ chót tôi mới nhận được qua email từ Giêsu.net, là trong vương quốc của Vua Giêsu, chỉ có những người có cặp mắt ánh lên lòng thương xót mới vào được.
Đây là đoạn văn trích từ bài tường thuật của tác giả Luca về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu. Trong bản văn này, Đức Giêsu đã đến điểm chung kết số phận Người; cuộc "xuất hành" của Người (9,31) đi từ cuộc đời này đã đưa Người đến chặng cuối này. Người đã bị đóng đinh tại nơi gọi là "Cái Sọ" giữa hai tên gian phi (23,33). "Quyền lực tối tăm" (22,53) đã khép lại trên Người. Bây giờ, đến lúc các thủ lãnh và lính Rôma sỉ vả Người. Nhưng cũng trong tình cảnh này, Người được chính thức gọi là "vua dân Do Thái".
Tiếp nối cảnh tang thương này, là một bản văn chỉ có trong TM III: một tên gian phi nhục mạ Người, nhưng tên kia đã mắng lại vì nhận biết sự vô tội của Đức Giêsu và xin Người nhớ đến anh. Đức Giêsu đã ban một lời hứa thật đẹp.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (23,35-38); 2) Hai tên gian phi đối với Đức Giêsu (23,39-43). 3.- Vài điểm chú giải
- Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (35): Theo thói quen của ngài, tác giả Lc không trích nguyên văn bản văn Kinh Thánh, nhưng bản văn thánh vẫn bàng bạc trong bài tường thuật. Ở c. 35 này, chúng ta có thể nhận ra Tv 22,8 LXX ("Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai" [Bd CGKPV]): "Hễ thấy (theôrountes) tôi là họ nhạo cười (exemyktêrisan), họ trề môi, họ lắc đầu" (NTT), vì Lc 23,35 dùng lại hai động từ này: "Dân chúng đứng nhìn (theôrôn), còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (exemyktêrizon)". Bằng cách này, tác giả cho thấy là quang cảnh này lại hoàn tất Kinh Thánh cách bí nhiệm.
- Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Chúa tuyển chọn (35): "Đấng Kitô của Thiên Chúa" là danh hiệu vương giả; "người được Chúa tuyển chọn" là danh hiệu của Đấng Mêsia.
- đưa giấm cho Người uống (36): Oxos (do tính từ oxys, "cay") được dùng trong vùng đông Địa Trung Hải thời cổ. Đây là một thứ rượu chua, hoặc cay, khác với oinos là rượu ngọt. Ta không rõ vì sao người ta lại cho Đức Giêsu uống thứ rượu này, chỉ biết là Lc đã bỏ đi thứ "rượu pha mộc dược" nhằm giảm đau (esmyrnismenon oinon) trong Mt 15,23.
- Nếu ông là vua dân Do Thái (37): Câu này gợi ý tới lời quan Philatô hỏi Đức Giêsu (23,3) cũng như tới tấm biển ghi bản án trên thập giá (23,38).
- Chúng ta chịu như thế này là đích đáng (41): Tên gian phi thứ hai nhìn nhận tội mình, và như thế là mặc nhiên diễn tả tâm tình metanoia (hoán cải) trước nhan Thiên Chúa.
- hôm nay, anh sẽ được ở với tôi (43): "Hôm nay" đây không phải là "ngày đóng đinh theo lịch", nhưng là ngày "ơn cứu độ thiên sai được ban", đặc biệt nhờ cái chết của Đức Giêsu.
- thiên đàng (43): Danh từ Hy Lạp paradeisos lấy từ tiếng Ba Tư cổ (pairidaêza) được dùng ba lần trong Kinh Thánh với nghĩa là một khu vườn có cây cối (Dc 4,13; Nkm 2,8; Gv 2,5). Bản LXX đã dịch "khu vườn" ở Êđen là paradeisos (St 2,8.9.210.15.16; 3,1…). Người Do Thái diễn tả thế giới bên kia bằng những công thức liên hệ đến không gian: "sheol" hoặc nơi cư ngụ của tất cả những người đã chết, "lòng Abraham" hoặc "thiên đàng", là nơi mà những người công chính quây quần quanh các tổ phụ mà chờ đợi được nhận vinh quang trọn vẹn vào lúc tận thế.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, thần sứ Chúa đã loan báo: "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa" (Lc 2,11). Như thế, ngay từ khi mới xuất hiện, Đức Giêsu đã có một nhiệm vụ lớn lao. Ngay từ đầu, câu hỏi này đã được nêu ra: Đức Giêsu sẽ thực hiện nhiệm vụ này như thế nào? Người có ở ngang tầm với mọi tình cảnh bần khốn của con người chăng? Phải chăng Người là Đức Kitô, là Đức Vua vĩnh viễn được Thiên Chúa sai phái đến, để đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn?
Câu hỏi này được đặt ra hết sức trầm trọng sau khi Đức Giêsu bị đóng đinh, không phải là đặt ra trên bàn giấy, trong cuộc tranh luận, nhưng được ném ra cho Đức Giêsu đang ở trên thập giá, giữa hai tên gian phi. Toàn bản văn được đặt dưới dấu chỉ là "đức vua", có khi là đối tượng cho người ta mỉa mai (cc. 35-39), có khi là đối tượng cho người ta tin tưởng để rồi được ban thưởng (cc. 40-43).
* Dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (35-38)
Trước tiên, có đoàn dân chúng. Họ có vẻ không hiểu những gì đang xảy ra. Rất có thể họ đang tự hỏi làm thế nào mà con người đã không kháng cư lại cái chết lại có thể là đức vua bao đời mong đợi và nếu Người là vị vua ấy, tại sao Thiên Chúa không cứu Người? Chúng ta biết tác giả Lc vẫn có thiện cảm với những người nghèo nhất, những người cùng rốt. Ngài cho thấy dân chúng đứng lặng thinh và cho biết rằng họ không chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Một vài câu sau, ngài sẽ nhận xét: "Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về" (c. 48). Những con người này có thể đại diện cho tất cả những người có thiện chí đang muốn hiểu được chương trình của Thiên Chúa, nhưng không thể được, vì những người có thể soi sáng cho họ đều mù quáng và không ý thức về điều dữ họ đang làm.
Dưới chân thập giá, cũng có các nhà lãnh đạo, các đối thủ của Đức Giêsu, những người chịu trách nhiệm về cái chết của Người. Bây giờ họ chỉ còn có thể chế nhạo Người về biết bao tự phụ và điên rồ mà Người đã chứng tỏ trước đây thôi. Một kẻ đã bị buộc phải đi đến thập giá và bị người ta làm cho mình tất cả những gì mình không muốn, có thể nào lại là Đức Vua Cứu thế được Thiên Chúa gửi đến? Đáng giá gì một Đức Kitô mà đến việc cứu chính mình khỏi chết cũng không làm nổi? Nếu ý đồ của hắn ta là thật, hắn chỉ việc chứng minh ngay bây giờ đi!
Câu nói chế nhạo sau đây trở đi trở lại như một điệp khúc: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi"; "Nếu ông là Đấng Kitô thì hãy chứng tỏ sức mạnh của mình đi!". Các lời này, các thủ lãnh nói ra để sỉ vả Người. Thật ra, khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã bị Satan cám dỗ như thế (4,3), rồi tại Nadarét, Người cũng đã bị yêu cầu như vậy (4,23); nay là tại chặng chót của hành trình trần thế.
Còn một nhóm thứ ba có mặt là toán lính. Họ cũng là những người nghèo, nên vì một ít tiền bạc, có thể dùng vũ lực để áp đảo những người có lối ăn nói, thói tục và tôn giáo khác họ. Họ có tội, nhưng họ cũng là nạn nhân của sự điên rồ của các sĩ quan của họ; họ phải vâng lệnh. Họ đóng kịch như dâng rượu lên đức vua, để chế nhạo Người. Ngay cả tấm biển ghi bản án, "Đây là vua dân Do Thái", thật ra là một cái nhãn hiệu đầy mỉa mai do quan Philatô tạo ra (x. Ga 19,15.19.22). Tên gian phi thứ nhất cũng yêu cầu được cứu với giọng cay độc. Thập giá đặt một dấu chấm hỏi to lớn trên tất cả công trình trước đây của Đức Giêsu. Thập giá dường như đã bác bỏ cao vọng của Người. Một con người đã bị đóng cứng trên thập giá và sắp chết thì còn có thể giúp đỡ ai? Trong bầu khí đen tối này, chi tiết: "Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về" (c. 48), là chi tiết đầy an ủi và hy vọng.
Trước tất cả những lời sỉ nhục và thách thức đó, Đức Giêsu không trả lời một tiếng nào.
* Hai tên gian phi đối với Đức Giêsu (39-43)
Một tên gian phi cũng cùng với tập thể kia hòa lời mỉa mai sỉ nhục Đức Giêsu. Thế nhưng tên gian phi thứ hai lại trách bạn mình. Anh nhìn nhận tội lỗi mình và nhìn nhận cái chết thập giá dành cho mình là xứng đáng, nhưng anh tuyên bố Đức Giêsu vô tội. Chẳng những thế, anh còn công nhận rằng con người bị đóng đinh và bị chế giễu này, con người không xuống khỏi thập giá dù bị thách thức, chính là Đức Vua Cứu thế. Anh đã diễn tả lòng tin vào Đức Giêsu như Đấng Mêsia vương giả bằng lời thỉnh cầu: "Khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi"; lòng tin này được bày tỏ với một tình yêu đặc biệt qua lời kêu cầu rất thân thương: "Giêsu ơi!". Anh ta không xin Đức Giêsu cứu cho khỏi chết, vì anh chấp nhận cái chết như là hình phạt đích đáng. Nhưng anh xác tín rằng Đức Giêsu không chấm dứt cuộc đời với cái chết, mà qua cái chết, Người sẽ đi vào trong vương quốc Người. Anh tin rằng Đức Giêsu cứu người ta không phải chỉ là khỏi cái chết, nhưng là đưa sang bên kia cái chết. Như thế, câu viết trên bản án đầy vẻ bôi bác, "Đây là vua dân Do Thái", lại đạt được nội dung đích thực: Đức Giêsu đúng là Vua Cứu thế; Người đi vào vương quốc của Người và đưa vào đó tất cả những ai tín thác nơi Người.
Với anh gian phi này, Đức Giêsu trả lời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng". Qua câu nói này, Người cho hiểu rằng, với cái chết, Người sẽ đi vào trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa; nhưng cũng cho hiểu rằng chính Người quyết định ai sẽ vào đó với Người: chính Người bố trí để đưa người ta đi vào hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tất cả những điều xảy ra trên Núi Sọ hôm ấy có thể được nhìn theo theo nhiều quan điểm: đối với các thủ lãnh, đây là một thành công vì họ đã trừ khử được một kẻ lâu nay cứ ngáng đường họ. Đối với dân chúng, dường như họ còn chờ đợi để hiểu rõ biến cố này hơn. Nhưng đối với tác giả Lc khi suy gẫm về câu chuyện này, thì đây là chương trình của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh nay đã hoàn tất.
Ngoài ra, tư cách "Vua" của Đức Giêsu, điều mà các thủ lãnh và lính tráng đưa ra làm trò cười bởi vì họ chỉ đầy ứ sự căm hờn và mỉa mai, lại đã được khẳng định tích cực khi người gian phi thứ hai lấy đức tin nhìn nhận Người và được Người hứa cho vào thiên đàng, "Nước của Ngài". Cho đến chết, Người vẫn là Đấng cứu độ những người tội lỗi.
Chúng ta ghi nhận trong mỗi phân đoạn có một cảnh đối lập:
- Trong phân đoạn 1: Trong khi dân chúng đứng nhìn (rồi họ sẽ hoán cải: c. 38), các thủ lãnh và lính tráng lại chế giễu Đức Giêsu;
- Trong phân đoạn 2: Trong khi tên gian phi thứ nhất nhục mạ Người, tên gian phi thứ hai lại tin tưởng trao phó cuộc đời cho Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ra sức làm một hành vi vĩ đại, thì đã chứng tỏ mình đáng được nể trọng. Nhưng im lặng thản nhiên, khi bị người ta khinh bỉ, sỉ nhục, bôi nhọ, thì càng chứng tỏ mình có tâm hồn cao thượng và đáng nể trọng hơn. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế, nhất là khi Người lại là chính Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, và các kẻ đang nhao nhao sỉ nhục Người chỉ là những thọ tạo của Người. Đấy là bài học cho các Kitô hữu mỗi khi cảm thấy mình không được tôn trọng đủ.
2. Bản văn nói lên sự mỉa mai của loài người trước Đức Giêsu bị đóng đinh, nhưng cũng cho thấy có sự mỉa mai của Thiên Chúa đối với sự "khôn ngoan ranh mãnh" của người đời: Chính khi họ tưởng họ thắng được Thiên Chúa thì họ lại thua vĩnh viễn; chính khi công trình cứu độ có vẻ thất bại, thì lại thành công mỹ mãn.
3. TM Luca ghi lại biết bao người đã tin tưởng đến với Đức Giêsu và đã trải nghiệm sự giúp đỡ và ơn cứu độ của Người. Người thường bảo họ: "Đức tin của con đã cứu con" (7,50; 8,48; 17,19; 18,42). Cũng như người phụ nữ tội lỗi và như Dakêu, có những người đã đến với Người từ tình trạng bị đẩy ra bên lề và đã được Người ban ơn hoán cải và ơn cứu độ. Anh gian phi hoán cải là kết tinh của công trình cứu chữa này. Anh ở trong tình trạng bị loại trừ tuyệt đối, anh nhìn nhận mình đáng phải chết đóng đinh, nhưng anh cũng xứng đáng được Đức Giêsu áp dụng câu nói: "Đức tin của anh đã cứu anh". Anh đã tin vào Đức Giêsu, một con người bị đóng đinh như anh. Do đó, anh đã được ban cho ơn cứu độ toàn vẹn.
4. Đức Giêsu chịu đóng đinh là để cho thấy rằng Người không phải là một Đức Vua Cứu thế sẽ đảm bảo cho họ có sự sung túc trần thế. Người đã không cứu chính mình khỏi chết, thì Người cũng không gìn giữ chúng ta khỏi bệnh tật và cái chết. Quyền lực của Người không nhắm đến đời sống thoải mái trần tục của chúng ta, nhưng nhắm đến đời sống của chúng ta với Thiên Chúa. Ai tìm sự hiệp thông với Thiên Chúa, và biết nhờ Đức Giêsu, Đức Giêsu sẽ cứu độ người ấy, cho dù người ấy đến với Người như một tên gian phi. ---------------------------------
Năm phụng vụ kết thúc với lễ Đức Kitô Vua vũ trụ. Nhưng Chúa Kitô làm vua như thế nào? Vương quốc Người ở đâu?
Trong suốt cuộc đời của Người, Chúa Giêsu chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Người không hề làm vua một quốc gia hay một mảnh đất nào, dù là như một ông vua lưu vong. Có một lần đám đông dân chúng phấn khởi vì Người đã làm phép lạ cho họ ăn uống no nê, đã muốn tôn Người làm vua nhưng Người đã trốn khỏi họ. Cũng có lần người ta gọi Người là vua dân Do Thái nhưng là để nhạo báng Người. Lúc đó Người chỉ là một tên tử tội. Bọn quân lính đặt Người ngồi lên ghế, khoác cho Người chiếc cẩm bào là tấm áo choàng đỏ, đặt lên đầu Người một vòng gai như vương miện và bắt cầm cây sậy làm phủ việt, rồi họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: "Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!" (x. Mt 27, 27-29) Trước lời vặn hỏi của quan tổng trấn Philatô, Đức Giêsu đã nhận mình là vua, nhưng để tránh mọi ngộ nhận, Người tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. " (Ga 18, 36). Nhưng trong sách Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Maccô, tước hiệu "vua dân Do Thái" chính là một lý do người ta trưng ra để kết án Chúa Giêsu.
Cuộc đời trần thế của Đức Giêsu đã chấm dứt trên thập giá. Bài Tin Mừng Lc 23, 35-43 trong ngày lễ năm C giới thiệu Chúa Kitô Vua của chúng ta đang bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Các đối thủ của Người muốn nói gì qua cách hành xử này thì đã quá rõ. "Hắn ta xưng mình là vua, nhưng vua cái nỗi gì, chỉ là một tên bịp bợm không hơn không kém, chỉ đáng chết như một tên gian phi mà thôi. "
Chọn đoạn Tin Mừng này mà đọc trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, thật cũng lạ thường. Nhưng chính cái lạ thường đó lại giúp ta hiểu đúng, hiểu rõ hơn Chúa Giêsu làm vua như thế nào và Nước của Người là gì?
Trên thập giá, chính Chúa đã phong thánh cho một trong hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người. Anh ta đã làm gì mà được phong thánh mau lẹ vậy? Anh thật lòng nhận mình đã lầm đường lạc lối và nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Chúa cứu chuộc. Anh tin vào ơn cứu rỗi do Người mang đến. Anh phó mình cho Đức Kitô Vua Tình Thương: "Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!" Và Đức Giêsu đã nhận lời cầu xin của anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. " Làm thánh đơn giản thật! Tên cướp sám hối đã tuyên xưng Đức Giêsu có một Nước, một Vương Quốc. Đức Giêsu xác nhận điều đó là đúng và tuyên bố Người có quyền đưa anh ta vào vương quốc của mình.
Vậy Vương Quốc của Chúa Giêsu là vương quốc tình yêu, quyền hành của Người cũng là quyền hành của tình yêu, dùng để cứu độ con người.
Làm vua tình yêu như thế, tất nhiên Chúa Giêsu đã không ngồi trên ngai vàng, đã không có dinh thự lâu đài, không có ngân hàng hay kho báu, không có quân đội chinh nam dẹp bắc..., Người không tìm kiếm thế lực, không thống trị ai, cũng như không có tôi tớ ra vào phục dịch... nhưng trái lại đã hạ mình làm tôi tớ phục vụ mọi người và hy sinh tính mạng vì hạnh phúc nọi người.
Chúa Giêsu làm vua và thống trị bằng một cuộc đời hy sinh từ bỏ, và bằng cái chết đẫm máu trên thập giá. Chính từ cái chết đó đã phát sinh sự sống. Người đã thực hiện điều Người không ngừng dạy bảo: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15, 13). Và Người cũng đòi hỏi các môn đệ mình: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy" (Mt16, 25)
Phục sinh sẽ là tột đỉnh cuộc đời Chúa Giêsu và là sự thành tựu của công trình cứu thế Người thực hiện. Tuy nhiên đường dẫn tới phục sinh không phải là một đại lộ thênh thang mà là con đường thập giá cam go. Người tiến tới vinh quang theo con đường tự hiến, liều mấy mạng sống mình vì tình yêu. Phục sinh là cùng đích, còn thập giá là con đường dẫn tới đích. Nhưng linh hồn của thập giá là tình yêu. Thiếu tình yêu, thập giá (tức là đau khổ, hy sinh và cái chết) sẽ trở nên không những là nặng nề mà còn vô nghĩavà vô lý. Chúa Giêsu đã thiết lập vương quốc của mình bằng một cái chết-vì-tình-yêu. Sống chính là chết vì tình yêu, và thống trị là hạ mình phục vụ cho đến chết vì sự sống của kẻ khác.
Phải chăng lý tưởng sống đó hoàn toàn đi ngược với nền văn minh hiện đại?
Vương quyền của Chúa Kitô là một dữ kiện của Tin Mừng, nhưng không dễ gì thấy được điều mà vương quyền này mang lại cho cuộc sống chúng ta ngày nay. Chúa Giêsu có thể là vua của chúng ta theo nghĩa nào?
Chúng ta hãy khởi đi từ khái niện vương quyền: vương quyền này được làm cho rõ nét bằng mối liên quan của nó với thực tại chính trị, nghĩa là với một quyền lực trên cuộc sống tập thể. Một ông vua tạo ra hạnh phúc hoặc bất hạnh cho thần dân do nền chính trị tốt hay xấu của ông. Chúa Giêsu vua có một nền chính trị hay không? Một số người nghĩ rằng người ta có thể tìm thấy tất cả các yếu tố đó trong Tin mừng. Trong khi áp dụng các yếu tố đó thì người ta sẽ thấy Chúa Giêsu là một vị vua.
Trong thực tế, điều này đã không diễn ra xuôi chảy. Vào thời Trung Cổ chẳng hạn, Giáo hội đã nghĩ rằng Chúa Kitô có thể thực thi quyền bính qua Giáo Hội. Điều này đã làm cho Giáo Hội dấn sâu vào các hoạt động trấn áp và đàn áp. Đàn áp nhân danh Chúa Kitô, loại trừ nhân danh Chúa Kitô, đây là những điều ngày nay có vẻ không thể tưởng tượng được. Sau đó, Giáo Hội gắn bó khá chặt chẽ với các chế độ bảo thủ. Hiện nay, một số Kitô hữu muốn liên kết Chúa Giêsu và Tin mừng với những ý thức hệ tả khuynh.
Nhưng, đối với phần lớn các Kitô hữu, Tin mừng không liên quan gì đến chính trị cả. Chúa Giêsu là vua chăng? Không có vấn đề gì cả! Chỉ có vấn đề các “con tìm”, quan hệ rất cá nhân và rất riêng tư với Chúa Giêsu mà thôi. Chúng ta hãy để cái chính trị xấu xa, do bẩn cho “những người khác”. Mặc kệ nếu những cơ cấu tập thể làm cho nhiều người trong các anh em của chúng ta bất hạnh, còn chúng ta, chúng ta hát những bài thánh ca và cùng nhau đọc những bài kinh đẹp đẽ.
Trong khi giản lược hóa đến cùng cực, chúng ta thấy hai khuynh hướng trái ngược nhau: gán Chúa Giêsu vào một nền chính trị nào đó, hoặc tách Ngài ra khỏi mọi nền chính trị. Chúng ta có thể thoát ra khỏi thế phải chọn giữa đôi ngả này hay không? Tôi nghĩ là có thể được trong mức độ chúng ta thấm nhuần Bát Phúc, hiến chương “chính trị” của Chúa Giêsu: “Khó nghèo còn hơn là giàu có mà ích kỷ và bóc lột những người nghèo.”
-Các chính trị gia sẽ nhạo cười.
-Nhưng chúng ta cũng thế khi các chính trị gia này muốn thuyết phục chúng ta rằng học có thể làm cho nhiều người sống chung với nhau một cách công bằng và hạnh phúc (đay là định nghĩa của chính trị) mà không làm thay đổi các con tim.
Chúa Giêsu sẽ thực sự là vị vua của chúng ta như sau, Ngài không chỉ ngự trị trên các con tim mà còn trên các con tim đã được biến đổi. Các Kitô hữu phải ý thức hơn về tầm quan trọng của các cộng đồng, và do đó ý thức về chính trị, vì hạnh phúc của nhiều người, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ bé miệng.
Thế là Tin mừng tỏ ra sức mạnh xã hội cua mình. Tin mừng không cung cấp cho một nền chính trị lý tưởng, mà là không ngừng phê bình tất cả các chế độ cụ thể. Tin mừng rèn luyện những con người có khả năng hình dung ra những chế độ tốt nhất là có khả năng dấn thân.
Khi con người vượt lên trên những vấn đề cá nhân để cố gắng xây dựng theo Bát Phúc một thế giới huynh đệ hơn thì ở đó Chúa Kitô ngự trị.
Nói đến vua thì không thể không liên tường đến những ông vua phong kiến, đó là những ông vua thường để lại những ấn tượng không được đẹp (nào cung tần mỹ nữ nhung nhúc, nào cung đình sơn son thếp vàng choáng lộn, nào ngai vàng ỷ ngọc chói lọi; rồi thì hét ra lửa, mửa ra khói, chỉ một cái phất tay khó chịu là ít ra cũng một sinh mạng đi tong, mà gầm lên một tiếng thì … ôi chao, không dám kể nữa!). Dám viết ra những lời lẽ này, có lẽ cũng là nhờ đang sống trong thế kỷ XXI, chớ cứ giả thử như đang sống vào “hồi xửa hồi xưa” thì coi chừng cái chỗ đội nón không còn. Vâng, quả thực thời đại phong kiến thì một ông vua là một cái gì không nên nhắc tới, nói tới, kẻo mắc tội “khi quân, phạm thượng” là toi đời.
Thực tình thì kẻ viết bài này đang muốn nói tới một ông vua sống trong thời đại phong kiến và cũng rất trẻ – một ông vua lạ lùng – lạ lùng đến không thể tưởng tượng nổi. Đó chính là ông vua Giê-su. Vua Giê-su đến thế gian đã được tiên báo từ hơn 5 thế kỷ trước Công nguyên (thời kỳ Israel bị lưu đầy: 587-538), qua ngôn sứ Isaia: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7, 14); “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.” (Is 9, 5). Đến khi Người chào đời tại Bê-lem, thì có 3 nhà đạo sĩ chiêm tinh gia ở phương Đông, đã nương theo vì sao dẫn lối tìm đến Giê-ru-sa-lem hỏi thăm: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 1-2). Đức Vua giáng trần trong một đêm đông giá lạnh không phải tại nơi cung điện nguy nga, mà tại một hang bò lừa ở một vùng quê hẻo lánh, nghèo nàn; không bạc vàng, không nhung lụa, không lò sưởi, mà được đặt trên máng cỏ, và sưởi ấm bằng hơi thở bò, lừa. Thế đó!
Khi Đức Vua trưởng thành, Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng” đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Cũng chính trong khi Người thu nhận môn đệ thì những người được thu nhận đã nhận ra đó chính là Đức Vua mà họ hằng mong đợi (Ông Na-tha-na-en hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi?" Đức Giê-su trả lời: "Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi." Ông Na-tha-na-en nói: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!" Đức Giê-su đáp: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa." Người lại nói : "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người." – Ga 1, 48-51).
Ngay đến cả Tổng trấn Phi-la-tô khi xét hỏi, cũng gọi Người là vua (“Ông Phi-la-tô cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" Đức Giê-su trả lời : "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này." Ông Phi-la-tô liền hỏi : "Vậy ông là vua sao?" Đức Giê-su đáp : "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi." – Ga 18, 33-37). Và rồi cái bản án tử treo trên đầu Người ("Người này là Giê-su, vua dân Do-thái" – Mt 27, 37) được viết ra với ý mỉa mai, nhưng không ai ngờ rằng đó cũng lại là một “sấm ngôn” (“Bản đề án tử vừa mỉa mai nhưng cũng vừa là một lời sấm” – xc “Kinh Thánh Trọn Bộ”, trang 2404 – phần chú thich Ga 19, số 19). Rõ ràng người Do-thái đã đóng đinh chính vị vua của họ – vị vua mà đến Tổng trấn Phi-la-tô (quan xử án) cũng không tìm ra được một lỗi lầm nhỏ nào!
Lạ lắm! Kẻ viết bài này chưa hề được đọc (chớ đừng nói là được thấy) một ông vua lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23, 34).
Không bút mục nào có thể ghi lại cho hết được những điều mà Đức Vua Giê-su đã nói, đã dạy và đã làm, thật đúng như lời Gio-an Thánh sử: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Đúng là một ông vua lạ lùng, quá lạ lùng, mở ra một trang sử “không tiền khoáng hậu”: Chỉ cần 3 ngày là xây xong một đền thờ Giê-ru-sa-lem mà dân Do-thái phải làm trong 46 năm. Và quả thật không sai, sau khi tử nạn, chỉ mới đến ngày thứ ba, Người đã khánh thành một Giê-ru-sa-lem mới trên Vương quốc Thiên đình. Từ Vương quốc đó, Người đã kéo mọi người lên sống một cuộc sống chan hoà Tình Yêu. Trong Vương quốc ấy, không còn chỗ cho thờ ơ lãnh đạm, đố kỵ bon chen, nhỏ nhen ích kỷ, chia rẽ hận thù. Lãnh đạo Vương quốc ấy là một vị Vương giả rất đỗi lạ lùng, lạ lùng đến không thể tưởng tượng nổi, và đó chính là Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô.
Quả là một ông vua lạ đời, nếu không muốn nói là ngược đời! Không cần nói đến những lời tiên tri của các ngôn sứ, kể cả 3 vua phương Đông đến bái lạy (khi Đức Giê-su mới sinh tại Bê-lem) cũng xưng tụng Người là vua; mà chỉ cần nói tới thời gian Người đã trưởng thành cũng đủ thấy Đức Giê-su quả lả ngược đời: Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Người làm vua thì Người không muốn. Người phản đối bằng cách lánh mặt (“Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.” – Ga 6, 15). Cũng như hôm vinh quang vào thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất cao đón chào (“Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” – Lc 19, 38). Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi, vậy mà Người lại phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt.
Nhưng khi là phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thì Người lại hiên ngang nhận mình là vua (Khi nghe Phi-la-tô hỏi “Vậy ông là vua sao? Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này." – Ga 18, 35-36). Sau đó, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã hứa với cac môn đệ: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en." (Lc 22, 28-30). Nói đến vương quốc thì người đứng đầu vương quốc ấy tất nhiên là vua rồi. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý khi đối diện với quyền lực, đối diện với sự hận thù và đối diện với cái chết, Đức Vua Giê-su muốn tỏ mình ra (xưng vương) trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật. Quả thật Đức Ki-tô “là Thiên Chúa thật và là người thật”, đã “làm chứng cho sự thật” bằng chính sinh mạng của mình để cứu độ nhân loại; vậy nên Người chính là “Vua Sự Thật – Vua Chân Lý”.
Cũng bởi vì “Khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ.” (Pl 2, 10), nên vào ngày 11/12/1925, Đức Giáo hoàng Pi-ô XI đã chính thức thiết lập Lễ mừng kính “CHÚA KI-TÔ VUA”. Sau đó, tại Công Đồng Va-ti-ca-nô II, khi canh tân Phụng vụ, Giáo Hội đưa thêm vào một ý nghĩa mới: “ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VUA VŨ TRỤ” (Giáo Hội thừa nhận đặc tính vũ trụ và cánh chung được thể hiện cụ thể và đầy đủ nhất nơi mầu nhiệm Giê-su Ki-tô, vì thế nên Lễ này được đặt vào đúng vị trí của nó: Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ, thay vì như trước đó, Đức Pi-ô XI để vào CN trước ngày Lễ Các Thánh 1/11).
Tóm lại, khi xác tín Đức Giê-su Thiên Chúa là “Vua Sự Thật” chính là đã nói đến một “chân lý” bất biến: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2, 6-9). Danh hiệu đó chính là VUA CHÂN LÝ vậy. Ấy cũng bởi vì theo từ nguyên, “Chân lý là một sự thật của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian, giúp con người thoát khổ và bất tử khi áp dụng thực hành nó. Chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới của con người.” Các tôn giáo (cách riêng Ki-tô giáo) đã đưa ra khái niệm siêu hình về “Chân lý tối thượng” (hay chân lý tối cao, chân lý toàn thể, chân lý của mọi chân lý), là muốn nói đến chân lý thần thánh và thiêng liêng, thuộc tính cao quý của Đấng tối cao toàn năng, Đấng thực hiện mọi phán xét thiêng liêng, toàn thể về sự sống và cái chết.
Ôi! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Vua Chân Lý – Vua Vũ Trụ! Xin ban Thánh Linh soi sáng cho chúng con để chúng con không đui mù trước những thảm cảnh nơi trần thế, khỏi câm điếc trước những bất công đày đoạ con người, và nhất là xin cho chúng con được mở rộng trái tim hèn yếu của chúng con, hằng ngày kín múc Tình Yêu chan chứa nơi Ngài, để chúng con biết đến với anh em của chúng con bằng cách san sẻ nguồn Tình Yêu vô tận đó. Ôi! Lạy Đức Vua Tình Yêu! Xin cho chúng con luôn được sống trong cuộc sống “vui với người vui và khóc với kẻ u sầu”. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Vua Bhumibol Adulyadej ( 1927 – 2016 ) còn được gọi là Vua Rama IX, là vua Thái Lan trị vì 70 năm, từ năm 1946 cho đến khi mất ngày 13.10.2016 vừa qua. Vua Bhumibol Aduladej được xem là một trong số những vị quân vương trị vì lâu nhất thế giới và là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Thái Lan. Trong suốt triều đại của ông, Thái Lan đã trải qua 30 đời thủ tướng. Ông xử dụng tài sản to lớn của mình, theo Forbes là khoảng 30 tỷ USD, để cung cấp tài chính cho nhiều đề án phát triển, đặc biệt là ở nông thôn.
Vua Bhumibol tham gia tích cực vào đời sống kinh tế và xã hội của đất nước, chủ yếu là qua một loạt các đề án phát triển kinh tế mà ông đề xuất, tổ chức và tài trợ. Có hơn 3.000 đề án do quốc vương khởi xướng, được thực hiện trên toàn quốc, nhằm cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan, như giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, với mục tiêu phát triển bền vững.
Sau năm 2006, sức khỏe vua Bhumibol bị suy giảm, ông đã phải trải qua thời gian dài điều trị tại Bệnh Viện Siriraj. Ông được người dân Thái Lan hết sức tôn kính. Đối với nhiều người dân Thái, nhà vua được sùng bái gần như một thần linh. ( Wikipedia ).
Vua Bhumibol được dân Thái Lan vô cùng kính trọng, quý mến vì là bậc minh quân, yêu nước, thương nòi, đã tận tuỵ giúp dân giàu nước mạnh, thật xứng đáng là tấm gương phụ mẫu thiên hạ. Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng Đức Giêsu, Vua Cứu Thế, còn vĩ đại hơn, cao cả hơn tột bậc, dù cai quản cả hoàn vũ, nhưng Người không thuộc cõi thế, như Người đã phán: “Nước tôi không thuộc trần gian này” ( Ga 18, 36 ). Người là Đức Vua vô cùng chí hiếu, rất mực khiêm nhu, cực kỳ chí ái và tận tâm phục vụ nhân loại.
Đức Vua chí hiếu
Nhập thể với thân phận thanh bần, nghèo nàn, khốn khó, Đức Vua Giêsu vẫn luôn trung thành, vâng theo Thánh Ý Chúa Cha, từ thuở thơ ấu cho đến khi chịu tử nạn. "Sao cha mẹ tìm Con ? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư ?" ( Lc 2, 49 ). Sự hiếu thảo, vâng lời tuyệt đối chính là lẽ sống của Người: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” ( Ga 4, 34 ).
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn kinh hoàng, Người sợ hãi đến vã mồ hôi máu, nhưng vẫn kiên trung, thảo kính khấn nguyện: “Xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” ( Mc 14, 36 ). Đức Vua Giêsu chính là hiện thân Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê ( x. Is 42, 1-4 ).
Người yêu mến và hết lòng vâng phục Cha, đến nỗi chịu chết để cứu độ nhân loại, hầu biểu lộ công khai cho nhân loại thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa khoan dung biết dường nào.
Đức Vua khiêm nhu
"Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn." Trước những lời khiếm nhã, khiêu khích ấy, Đức Vua Giêsu vẫn một mực khiêm nhu, nhẫn nhục, im lặng, cam chịu những lời phỉ báng, hỗn xược, thách thức, của loài thọ tạo, qua miệng những thủ lãnh, lính tráng và người gian phi bên tả. Y như Người đã từng khéo léo tránh được được ma quỷ cám dỗ về quyền lực trong hoang mạc ( x. Lc 4, 5-12 ).
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" ( Mt 11, 9 ). Người từng mời gọi mọi người hãy noi gương khiêm nhu. Người chẳng tỏ ra bực dọc, hận thù, oán thán những xúc phạm thô bạo, bởi vì “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" ( Pl 2, 7 ).
Đức Vua chí ái
Trước những tiếng nhạo báng cay độc, hằn học, chế giễu của những kẻ ganh ghét, căm thù, Người vẫn bình thản, không chấp nhất, cũng chẳng đáp lại nửa lời. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót, độ lượng, tha thứ, còn nài xin Cha thứ tha.“Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” ( Lc 23, 34 ).
Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Người vẫn luôn nhân từ, khoan dung, quên mình, để yêu thương người trộm bên hữu, biết tin cậy vào Người và ăn năn, hối cải: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta.” Lời của Đức Giêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và bình an. Với tình thương, Người đã hành động chính xác như lời Người đã loan báo về sứ vụ của Người. “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" ( Mc 2, 17 ).
Lề luật chính yếu của Đức Vua chí ái ban cho thần dân là tình yêu: "Đây là giới răn của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” ( Ga 15, 12 ). Đỉnh điểm tình yêu là cuộc khổ nạn, Đức Vua chí ái hiến mạng sống cứu độ nhân loại.
Đức Vua phục vụ
“Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” ( Mc 9, 35 ). Người là Vua vũ trụ, là Vua cả nhân loại, nhưng Người không đến cai trị, áp bức thần dân như thói đời, mà thi hành vương quyền bằng cách yêu thương, hăng say phục vụ nhân loại, đến nỗi sẵn sàng chết cho con người, dù thế gian từ chối Người, chế giễu, thậm chí thách thức Người. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” ( 2Cr 5, 21 ).
Trước bữa Ăn Cuối Cùng ( The Last Super ), Đức Vua Cứu Thế còn quỳ xuống, rửa chân cho từng môn đệ, nêu gương cho các ông biết tận tâm phục vụ. “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” ( Ga 13, 14 ).
Phục vụ tha nhân là thể hiện một cách cụ thể đức ái. Nhất là phục vụ những người bé nhỏ, đau khổ, nghèo khó, bị bỏ rơi, chính là phục vụ Đức Vua Giêsu, trên hết các vua, các chúa trần gian.“Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống…" ( Mt 25, 35 ).
“Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu nghĩa dấn thân sâu hơn: Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công” ( Đường Hy Vọng, số 605 ).
Lạy Đức Vua Cứu Thế, xin cho chúng con noi theo gương tốt lành của Người, mà vâng theo Thánh Ý, sống khiêm nhu, luôn tha thiết yêu thương và tận tình phục vụ tha nhân, để có thể trở nên chứng nhân như Lòng Chúa hằng mong đợi.
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu cho chúng con luôn trông cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Vua Cứu Thế, để sớm thức tỉnh sám hối, ăn năn trở về với Chúa luôn. Amen.
Dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio Brazil 2016, tôi đi hành hương lên ngọn núi Corcovado cao 704m, kính viếng bức tượng Cristo Redentor – Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế Vua dang tay đứng trên đỉnh núi cao.
Có loại xe lửa nhỏ khoảng 30 chỗ ngồi đưa du khách lên núi theo đường ray. Cũng có một đường xe hơi chạy lên núi theo hình xoắn ốc, đây cũng là đường bộ cho những ai thích leo núi. Năm 1985, Francisco Passos và Tegesra Suris xây dựng tuyến đường sắt thông đến núi Corcovado.
Lên đến trạm cuối, chúng tôi đi thang máy lên chỉ cách đỉnh núi khoảng 100m và tiếp tục đi bộ khoảng 120 bậc thang nữa là đến chân tượng Chúa Giêsu.
Từ đỉnh cao phóng tầm mắt nhìn thành phố Rio de Janeiro tuyệt đẹp. Tôi dành nhiều thời giờ để ngắm trời mây cảnh vật và chụp hình lưu niệm; đặc biệt chiêm ngắm tượng Chúa Cứu Thế là một trong 7 kỳ quan mới của thế giới. Bức tượng màu trắng hướng nhìn về phía ngọn núi Zuckerhut – Sugarload.
Bức tượng Chúa Giêsu Vua là một đài kỷ niệm trên đỉnh ngọn núi Corcovado ở phía Nam thành phố. Bức tượng được dự định xây dựng để kỷ niệm 100 năm độc lập của nước Brazil do kỹ sư kiến thiết Heitor da Silva Costa người Brazil phác họa vẽ mẫu. Bức tượng được khởi công thi hành năm 1922, nhưng gặp trở ngại vấn đề tài chánh. Nên việc thi hành kéo dài hằng 10 năm. Sau khi Tổng Giáo phận Rio de Janeiro, Tòa Thánh Vatican và nước Pháp cùng trợ giúp cho dự án, công trình được hoàn thành, và khánh thành ngày 12.10.1931.
Bức tượng Chúa Giêsu cao 30m, chân đế cao 8m, đủ chỗ chứa cho 150 người vào trú ẩn trong tượng. Hai cánh tay Chúa Giêsu dang ra rộng 28m. Bức tượng nặng 1.145 tấn. Đầu và hai tay Chúa Giêsu do nhà điêu khắc người Pháp Paul Landowski làm ở Paris. Bức tượng làm bằng vật liệu bêtông cốt sắt theo từng phần ráp nối lại, và được kết bên ngoài bằng những viên đá dát theo kiểu Mosaic.
Năm 2006 dịp mừng kỷ niệm bức tượng được 75 năm, Giáo Hội đã chính thức nâng nơi đây thành nơi hành hương kính viếng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế.
Đứng nơi đây, tôi nhớ đến Tượng Kitô Vua ( Tao Phùng ) ở Vũng tàu. Với chiều dài 500m đi lên khoảng 1.000 bậc thang. Tượng được xây dựng năm 1974, do điêu khắc gia Văn Nhân và 50 thợ lành nghề thực hiện. Tượng có chiều cao 32m, chiều dài hai cánh tay là 18,4m; được đặt trên bệ khối chạm hình Tiệc Ly. Bên trong tượng là cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc, chạy từ bệ lên cổ tượng. Trong lòng tượng có thể chứa 100 người cùng một lúc.
So với tượng Kitô Vua ở Rio de Janeiro ở Brazil thì tượng ở Vũng Tàu cao hơn 2m. Tượng Chúa ở Brazil đứng trên đỉnh núi Corcovado cao hơn 704m so với mực nước biển, còn tượng Chúa ở Vũng Tàu đứng trên độ cao hơn 170m của núi Nhỏ. Bệ tượng ở Brazil cao 8m, còn bệ tượng ở Vũng Tàu chỉ cao 4m.
Để diễn tả vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng Vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt:
Năm A với bài Tin Mừng theo Thánh Matthêu ( 25, 31-46 ), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm Phán xét xử muôn loài.
Năm B với bài Tin Mừng theo Thánh Gioan ( 18, 33-37 ), một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa Nhập Thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến.
Năm C với bài Tin Mừng theo Thánh Luca ( 23, 35-43 ) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai. Vua Giêsu tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Ngài không là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát con người khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của Ngài là Ơn Cứu Độ và Sự Sống trong Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” ( Rm 14, 17 ). Ngài đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Núi Bát Phúc, nơi Chúa Giêsu công bố Hiến Chương Nước Trời. Núi Tabor, nơi Chúa Giêsu biến hình và nhận sự tấn phong của Chúa Cha: "Đây là Con Ta. Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người". Núi Sọ, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, đây là đỉnh điểm của Ơn Cứu Độ.
Núi Corcovado hay núi Tao Phùng, nơi Chúa Giêsu giang đôi tay ôm trọn nhân loại trong tình thương cứu rỗi. Trái tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người. Đức Thánh Cha Phanxiô mời gọi bạn trẻ: “Chính các con là con tim và đôi tay của Đức Giêsu ! Hãy ra đi và làm chứng cho tình yêu của Ngài. Hãy trở thành một thế hệ loan báo Tin Mừng mới, được thúc đẩy bởi tình yêu và rộng mở với tất cả. Hãy theo gương mẫu những nhà loan báo Tin Mừng vĩ đại của Giáo Hội như Thánh Phanxicô Xaviê và bao nhiêu vị khác”.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá. Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài. Tin Mừng (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
Trang Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá. Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. "Đây là vua người Do thái", tấm bảng ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bằng cái chết tủi hổ trên thập giá, Ngài đã trở nên một vị mục tử nhân lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên của mình. Ngài đã khai mạc vương quốc mới của tình yêu, một tình yêu tự hiến: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: "Đây là Vua dân Do Thái". Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua. Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.
Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động. Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Bị treo trên thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu. "Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình”. “Hãy xuống khỏi thập giá" (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Chẳng có đau khổ nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình nhục mạ Chúa: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứ mình đi, và cứu cả chúng tối với!” (Lc 23,39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu vẫn im lặng. Dân chúng khi thì a dua (Lc 23,17-25), lúc lại bàng quang: “Dân chúng thì đứng nhìn.” (Lc 23,35) Thái độ bất động của dân chúng rất phức tạp. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng như bọn binh lính hay người gian phi thiếu hiểu biết. Thật vậy, “dân chúng theo Người đông lắm.” (Lc 23,26)
Mặc dầu Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Ngài đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Pl 2, 7), do đó, "Ngài đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta..." (Dt 4, 15). Dựa vào đó, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giêsu đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
Vua Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế qua cái chết đang đến gần Chúa Giêsu thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên Chúa sắp sửa toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Đức Giêsu chịu đóng đinh là để cho thấy rằng Người không phải là một Đức Vua Cứu thế sẽ đảm bảo cho họ có sự sung túc trần thế. Người đã không cứu chính mình khỏi chết, thì Người cũng không gìn giữ chúng ta khỏi bệnh tật và cái chết. Quyền lực của Người không nhắm đến đời sống thoải mái trần tục của chúng ta, nhưng nhắm đến đời sống của chúng ta với Thiên Chúa. Ai tìm sự hiệp thông với Thiên Chúa, và biết nhờ Đức Giêsu, Đức Giêsu sẽ cứu độ người ấy, cho dù người ấy đến với Người như một tên gian phi.
Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.
Tình yêu trên thập giá biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Nó giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở đời này, như tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng là sự sống đời đời. Anh khẩn cầu Chúa: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
Tình yêu trên thập giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết Chúa Giêsu là ai và mình là ai. Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, qua lời đối đáp tên gian phi kia: “Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm!” Anh còn nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng nào nữa. Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn là “ông Giêsu”. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi đích danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được nghĩa thực của thánh danh Người. “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Người là Vua của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Tập san Catholic Digest có mục thường xuyên được gọi là "The Open Door" (Cửa Rộng Mở). Trong mục này thường có hai hay ba câu chuyện do độc giả gởi đến. Những câu chuyện này kể lại sự hoán cải trở lại đạo Công Giáo của độc giả.
Có một câu chuyện thật cảm động về chàng thành niên lớn lên trong một gia đình Công Giáo, từng tích cực hoạt động trong Giáo Hội, và sau đó gia nhập chủng viện.
Rồi đến những năm đầy xáo trộn thời chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian này, ba sinh viên ở một đại học Ohio bị giết trong lúc biểu tình phản đối chiến tranh. Những cuộc dấy loạn về sắc tộc như xé nát nhiều thành phố trong nước. Các nhà lãnh đạo quốc gia bị ám sát. Mọi sự bỗng dưng trở nên rời rạc.
Chàng thanh niên này rời chủng viện, tham gia phong trào chống chiến tranh, từ bỏ Giáo Hội, và chế nhạo đức tin mà trước đây anh từng ấp ủ.
Gia đình anh bàng hoàng vì sự thay đổi này. Và khi thái độ của anh ngày càng thù nghịch với tôn giáo, họ đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Sau đó là Tuần Thánh và trong Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1970, chàng thành niên, lúc ấy 22 tuổi, lái xe ngang qua một nhà thờ Công Giáo. Anh nhận ra tên của cha xứ trên tấm bảng trước nhà thờ. Đó là vị linh mục anh rất kính trọng. Điều gì đó đã thúc đẩy anh dừng xe và đi vào nhà thờ.
Khi bước vào cửa, nghi thức Tôn Kính Thánh Giá bắt đầu. Anh ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh theo dõi dân chúng xếp hàng lên hôn thánh giá, trong khi ca đoàn hát bài "Were You There When They Crucified My Lord?" (Bạn có ở đó khi họ đóng đinh Chúa không?)
Và rồi điều gì đó thật lạ lùng đã xảy ra. Anh viết:
"Trong con người tôi, điều gì đó đột ngột xảy ra và tôi bắt đầu khóc. Sau khi dằn được xúc động, tôi nhớ lại sự bình an mà từ lâu tôi đã bỏ lại nơi nhà thờ. Đức tin đơn sơ mà giờ đây tôi đang chứng kiến thì dường như có ý nghĩa hơn là điều tôi tuyên xưng. Tôi bước ra khỏi ghế và quỳ xuống hôn Thánh Giá. Vị linh mục nhận ra tôi, ngài đến ôm lấy tôi."
"Từ ngày đó trở đi," anh cho biết, "tôi trở nên một người Công Giáo tái sinh."
Anh kết thúc với nhận xét sau: "Tại sao tôi dừng xe ở nhà thờ đó vào ngày hôm ấy, cho đến giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi biết rằng tôi thật sung sướng với các kết quả."
Tôi thích câu chuyện này vì nó thích hợp với các bài đọc trong ngày lễ Chúa Giêsu là Vua hôm nay.
Vì bài Phúc Âm diễn tả một thanh niên vô tôn giáo, đầy giận dữ đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên cách đây hai ngàn năm.
Và điều thay đổi cuộc đời của người thanh niên này cũng chính là điều thay đổi anh chủng sinh trong câu chuyện. Đó chính là việc đóng đinh Đức Kitô. Đó là việc đóng đinh Đức Kitô Vua.
Và điều mà Đức Kitô trên thập giá đã nói với người trộm thì Người cũng nói với anh chủng sinh:
"Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng."
Thật khó có bài đọc nào thích hợp hơn để kết thúc năm phụng vụ. Nó tóm lược lý do tại sao Chúa Giêsu đến trong thế gian. Chính là để tha thứ cho tội nhân, như tên trộm-và như anh chủng sinh.
Và điều này đưa chúng ta đến việc áp dụng tất cả những điều này vào thực tế đời sống chúng ta. Đó là:
Điều Chúa Giêsu đã làm cho người trộm lành và anh chủng sinh, Người cũng muốn làm cho chúng ta.
Người muốn tha thứ tội lỗi chúng ta, bất kể có to lớn đến đâu và lâu đời đến đâu. Người muốn nói với chúng ta điều mà Người đã nói với tên trộm và anh chủng sinh:
"Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng."
Đây là tin mừng khiến chúng ta quy tụ nơi đây để mừng lễ Kitô Vua.
Đó là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thi hành cho chúng ta điều mà Người đã làm cho tên trộm và anh chủng sinh.
Thánh Phaolô diễn tả tin mừng đó trong bài đọc hai hôm nay:
[Thiên Chúa] đã cứu chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa chúng ta một cách bình an đến vương quốc của Con yêu dấu của Người, mà nhờ Người chúng ta được tự do, đó là, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi."
Chế độ quân chủ tại Việt Nam với một ông vua cai trị đất nước kéo dài hàng chục thế kỷ đã TN 34-ABC370
Chế độ quân chủ tại Việt Nam với một ông vua cai trị đất nước kéo dài hàng chục thế kỷ đã thực sự cáo chung vào năm 1945, sau khi vị vua cuối cùng là Bảo Đại bị truất phế. Ngày nay, ý niệm về một thể chế quân chủ đã hoàn toàn trở nên xa lạ đối với tâm thức con người sống trong các nước văn minh. Trên thế giới chỉ còn vài quốc gia như Anh quốc, Thái Lan, Nhật Bản… vẫn duy trì chiếc ghế của nữ hoàng hay hoàng thân, nhưng chỉ là sắc nét văn hóa theo truyền thống, còn thực quyền thì không có. Thể chế dân chủ được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Con người ngày càng văn minh càng thích sống bình đẳng, không ai muốn người khác đè đầu đè cổ mình. Cũng chẳng ai thích sống trong một chế độ mà quyền hành chỉ tập trung nơi một cá nhân, thậm chí vị lãnh đạo ấy nắm trong tay cả quyền sinh sát giống như các vua chúa ngày xưa.
Như vậy mừng lễ Chúa Kitô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi con người thời đại ngày hôm nay hay không, đặc biệt nơi giới trẻ? Đức Giêsu có thực sự là Vua hay đây chỉ là một lối nói cường điệu hóa giống như chúng ta suy tôn lãnh tụ một cách hình thức? Còn nếu Ngài đích thực là Vua, Ngài có bóp nghẹt tự do và nhân quyền của chúng ta hay không?
Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay sẽ gợi mở cho chúng ta câu trả lời.
Ông có phải là vua không?
Hai ngàn năm trước, Philatô đã nêu ra câu hỏi này khi Đức Giêsu bị điệu đến trước mặt ông như một tên tội phạm. Sách Tin mừng thứ tư thuật lại mẩu đối thoại này. Philatô dồn dập đặt ra nhiều nghi vấn, khi ông đối diện trước một con người đã từng được dân chúng tung hô là ‘Con Vua Đavit’, đã từng được mọi người nể phục như một ngôn sứ vì đã làm nhiều điều lạ lùng không giải thích được. Philatô càng ngạc nhiên hơn bởi lẽ, một ông vua phải có dáng vẻ oai phong và hiển hách, nhưng trước mặt ông chỉ là một con người rất bình thường, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ, không có một chú lính quèn để hộ tống. Ông mở to con mắt nhìn vào Đức Giêsu với sự kinh ngạc. Nếu ở vào vị trí của Philatô chắc hẳn chúng ta cũng sẽ đặt nghi vấn giống như vậy. Tuy nhiên khi đối diện với Philatô, Đức Giêsu đã không cần che dấu căn tính của mình. Ngài trả lời: “ Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là Vua, và Ngài đến trong trần gian để khai mở Vương quốc của sự thật. Những thần dân của Ngài sẽ nghe tiếng Ngài vì họ là những công dân của Vương quốc ấy. Philatô không hiểu và hỏi lại: “ Sự thật là gì?” Ông chắc chắn không hiểu nổi vì ông đâu có phải là thần dân của vương quốc mà Đức Giêsu đã khai sáng (Ga 18, 33-38).
Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng nói khá nhiều về ‘sự thật’. Ngài mặc khải tiệm tiến về Vương quốc mà chính Ngài sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã vén mở một nền phụng tự mới trong Vương quốc ấy: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn sinh, Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Đức Giêsu sẽ ra đi, tiến nhận cái chết và khai lập vương quốc của chân lý. Đồng thời Ngài cũng chính là sự thật, là con đường dẫn đưa chúng ta đi vào vương quốc vĩnh cửu để chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10). Đối diện trước Philatô, Chúa đã khẳng quyết căn tính của mình, nhưng chắc chắn Philatô không hiểu nổi vì ông ta không ở trong quỹ đạo Nước Trời. “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Philatô đã cho treo một tấm bảng đóng trên Thập giá với hàng chữ:‘Đây là vua người Do thái’. Có lẽ đây không phải là một sự tình cờ, song Thiên Chúa đã định liệu và sử dụng một ông quan ngoại giáo để công bố cho cả thế giới biết Đức Giêsu chính là Vua đích thật. Tuy nhiên chúng ta cần suy tư sâu xa hơn để tìm hiểu xem, trong vương quốc sự thật ấy, Chúa đã hành xử vương quyền như thế nào?
Đức Giêsu quả là một vị Vua rất khác người, chẳng giống ai. Vương miện của Ngài là một vòng gai thấm máu đầy nhục nhã. Cẩm bào Ngài khoác chỉ là một tấm thân trần trụi bị treo thân vào khổ giá như một tên tử tội. Ngai vàng cao sang của Ngài là chỗ chuyên để hành quyết những tên cướp đáng sợ. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người, bị đầy đọa, bị chửi rủa, bị khinh miệt và cuối cùng bị giết chết. Vương quốc Nước Trời mà Ngài nói tới là một Vương quốc đảo lộn mọi bậc thang giá trị mà con người vẫn thường đặt định. Sống trong Vương quốc đó, ‘ai làm lớn nhất phải trở nên người bé nhất’. Chính Ngài là một vị Vua cai trị theo một cung cách khác thường, đó là “Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
Philatô không hiểu là phải, bởi vì ông chưa làm ‘thẻ chứng minh nhân dân’ để trở thành công dân của một vương quốc xem ra có vẻ quái chiêu và nghịch thường đến như vậy. Nói tắt một lời, Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập chính là Vương quốc của tình yêu. Đó không phải là một quốc gia hùng mạnh về quân sự, về dầu hỏa, về đôla hay về khí tài. Vương quốc của Đức Giêsu đích thực là Vương quốc tình yêu. Chỉ sống trong tình yêu chúng ta mới có được thẻ ID, thẻ căn cước để vào Nước Trời, nước của Ngài.
Vương quốc của tình yêu
Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các học trò. Ngài nói với họ: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Việc rửa chân cho khách đến nhà là công việc của những tôi tớ, thường là những tên nô lệ được ông chủ mua về. Người nô lệ không có một quyền hành nào cả và họ phải làm mọi công việc theo ý chủ. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Vua Chúa hay là bậc Tôn sư của các môn đệ. Nhưng Ngài đã khiêm tốn hạ mình xuống để phục vụ như một tôi tớ hèn mọn. Vì thế trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói đi nói lại cho các học trò về khuôn mẫu của tình yêu. “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu chính là ‘bộ luật dân sự’, là hiến pháp căn bản của Vương quốc Nước Trời. Tình yêu cũng chính là tên gọi của Thiên Chúa, hay nói cách khác tình yêu là chính Vương hiệu của Đức Kitô. Trên Thánh giá, Đức Giêsu cũng hành xử vương quyền Ngài để phong thánh cho một tên trộm khét tiếng. Nếu không đi vào quỹ đạo tình yêu và lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ không thể hiểu động thái khác thường này.
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Piô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ thai nhi để bảo toàn tính mạng cho người mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Cô đã cầu nguyện trong nhiều ngày và kiên quyết từ chối lời đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con của tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mà cô ta hết lòng thương mến. Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được truyền thụ lại từ chính người mẹ của mình. Đó là người phụ nữ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con bà được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tôn phong Chân phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu theo dấu chân của Đức Giêsu.
Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Đức Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) để chứng minh mình là công dân Nước Trời.
Kết luận
Một nhà tâm lý học đã nói: “Trong tình yêu, con người rất dễ trở thành người điên.” Điều đó rất đúng nếu chúng ta ngắm nhìn Thập giá Đức Giêsu và Vương quốc của Ngài. Hêrôđê đã mặc cho Chúa chiếc áo đỏ để chế diễu Ngài như một ông vua nửa điên nửa khùng. Khi chịu đóng đanh trên Thập giá, chiếc áo đỏ của Chúa đã bị lột ra, nhưng sự điên rồ vẫn còn rất đậm nét. Cũng trên Thập giá điên rồ ấy, Đức Giêsu khai mở Vương quốc sự thật, đó là Vương quốc của tình yêu. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng trở nên thần dân của Vương quốc cao cả này. Lúc bấy giờ “Ai nấy sẽ thấy Người, kể cả những kẻ đã đâm người. Kìa Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1, 7).
Hạnh phúc nào cũng có nước mắt – dù ít hay nhiều. Nước mắt thì mặn chát. Tình yêu càng nhiều đau khổ thì niềm hạnh phúc càng chan chứa. Cuộc sống cũng tương tự. Hầu như đó là “nguyên lý” của cuộc đời. Người ta ví von rằng “hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ, loại nào ít phức tạp thì ít hư hỏng, loại nào càng đơn giản thì càng bền.
Vinh quang và đau khổ là hai lĩnh vực trái ngược nhau nhưng lại liên quan lẫn nhau. Cũng vậy sự sống và sự chết liên quan lẫn nhau. Sống mà cứ coi như mình sắp chết để có thể tránh nhiều thứ phiền toái, và thật kỳ lạ, chính cái chết lại là ngưỡng bước vào sự sống. Quá đỗi kỳ diệu!
Đức Kitô là Sự Sống (Ga 14:6), tức là Nguồn Sống, bất cứ ai muốn đến với Chúa Cha đều phải đi qua “con đường của sự sống” ấy, không thể không “đi qua” chính Đức Kitô Giêsu. Ngài là sự sống mà lại bị người ta giết chết, nhưng rồi Ngài đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh vinh hiển, và mãi mãi Tử Thần phải thần phục Ngài. Ngài là Vua của muôn loài, và Ngài được Chúa Cha trao quyền xét xử muôn loài, ngay cả Satan cũng phải xuất đầu lộ diện mà trình diện Ngài: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (G 2:1).
Trình thuật ngắn gọn 2 Sm 5:1-3 cho biết: Toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel”. Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel”. Toàn thể kỳ mục Israel đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Israel.
Quốc Vương thời Cựu Ước là hình bóng tiên báo về Vị Thiên Vương Tối Cao thời Tân Ước là Đức Giêsu Kitô. Điều tiên báo từ ngàn xưa đã ứng nghiệm từ hai ngàn năm qua, đó là Đức Kitô đã đến thế gian, và chính Ngài đã xác định: “Ai NGHE lời tôi và TIN vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5:24).
Vua chúa trần gian có thể hét ra lửa, xử sao nên vậy, nhưng chỉ là cho sống hoặc bắt chết về phần xác mà thôi, còn Thiên Chúa là Chúa của các chúa, Vua của các vua, đặc biệt là Ngài “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Tử Thần còn khuất phục thì ai có thể làm gì trái lệnh Ngài chứ?
Thật là hạnh phúc khi chúng ta được là thần dân của Thiên Vương Giêsu, Thánh Vương Kitô. Không thể có niềm hạnh phúc nào khác khả dĩ so sánh được với niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng.
Khi vui mừng, chắc chắn người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng ấy được. Tác giả Thánh Vịnh cũng vậy, cũng người trần mắt thịt, thế nên không thể không bày tỏ niềm hạnh phúc: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân” (Tv 122:1-2).
Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện, luôn có điều gì đó linh thiêng, khó diễn tả bằng phàm ngôn. Giêrusalem là hình bóng của Thánh Đô Thiên Quốc. Dù là Đền Thờ nơi trần gian nhưng vẫn được xây dựng một cách đặc biệt. Tác giả Thánh Vịnh mô tả: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Israel. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít” (Tv 122:3-5).
Đức Giêsu Kitô là Vua cả vũ trụ, cả càn khôn, cách riêng Ngài là Vua của cuộc đời mỗi chúng ta. Hôm nay và mãi mãi, hãy không ngừng tôn vinh Ngài: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11:10). Với diễm phúc này, chúng ta có dành cả đời để dâng lời cảm tạ cũng không đủ. Mong ước chúng ta được tiếp tục là thần dân của Ngài nơi Thiên Quốc Hằng Sinh để đời đời chúc tụng Ngài!
Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, hạnh phúc tăng theo cấp số nhân. Niềm vui quá lớn, hạnh phúc dạt dào. Thật khó tả! Với kinh nghiệm từng trải và bằng cảm nghiệm tâm linh sâu sắc, Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta ĐƯỢC ơn cứu chuộc, ĐƯỢC thứ tha tội lỗi” (Cl 1:12-14).
Quả thật, những tội nhân như chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế nhưng không phải mơ mà là sự thật. Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng NHỜ Người và CHO Người” (Cl 1:15-16). Được làm thụ tạo là hạnh phúc lắm rồi, nhưng chúng ta không chỉ là thụ tạo mà còn được làm người, hơn hẳn các loài thực vật, sinh vật và động vật, đặc biệt còn được làm con cái của Thiên Chúa. Điều đó được chứng mình qua hằng ngày, chúng ta hãnh diện được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ: “Lạy Cha (của) chúng con, Đấng ngự ở trên trời,…”. Thật là trên cả sự tuyệt vời!
Còn nữa, chứ chưa dừng lại ở mức đó. Thánh Phaolô nói: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:17-20). Chúa Giêsu là Huynh Trưởng, còn tất cả chúng ta là những tiểu đệ và tiểu muội của Ngài. Chúa Giêsu là Vua, vậy thì chúng ta là em của Vua, cũng có nghĩa là chúng ta thuộc dòng dõi Hoàng Tộc. Đặc biệt hơn là chúng ta còn được hòa tan vào Thiên Chúa, nên một với Ngài mỗi khi tiếp rước Thánh Thể. Ôi, thật là kỳ diệu quá chừng!
Huynh Trưởng Giêsu là Vua, nhưng Ngài không đăng quang, không ngai vàng, không vương trượng, không lòng bào,… như các vua chúa trần gian. Ngài là Vua-đa-không, không được tiền hô hậu ủng.
Trình thuật Lc 23:35-43 cho biết giây phút “đăng quang” đặc biệt của Vua Giêsu: Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”. Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Vua Giêsu bị sỉ nhục đến tột cùng, nhưng Ngài vẫn im lặng. Sự im lặng của Ngài khiến những kẻ thủ ác hả hê và ngạo nghễ, tưởng mình đã chiến thắng. Sự kiêu ngạo thật tồi tệ!
Không chỉ có thế, chính một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. Đúng là kẻ hợm hĩnh già mồm. Chết đến nơi mà còn hống hách với người khác. Có lẽ nghe “ngứa tai” nên tên kia lên tiếng mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. Xấu thì xấu, dữ thì dữ, ác thì ác, nhưng tâm hồn của anh ta không như dáng bặm trợn bề ngoài.
Và rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Và Chúa Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Có thể nói rằng diễm phúc nhất là tướng cướp này, có tên cúng cơm là Dismas.
Vua Giêsu quá nhân hiền và đại lượng. Tội tày trời, cả đời không hề tỏ ra chút xót thương bất cứ ai, coi trời bằng vung, mấy ai dám “chơi ngông” như Dismas. Thế mà chỉ một lời sám hối chân thành, mọi tội lỗi của anh ta được Vua Giêsu xí xóa hết, hoàn toàn trắng án, không phải vô Luyện Hình, mà được cùng Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay đêm hôm đó.
Điều này nhắc nhở chúng ta đừng tuyệt vọng, dẫu có đôi khi cảm thấy thất vọng theo bản tính phàm nhân, hãy vững tin vào Lòng Thương Xót vô bờ bến của Thiên Chúa. Thất vọng về tình trạng tội lỗi của mình là một dạng kiêu ngạo, vì như vậy là không tin vào lòng đại lượng ta thứ của Thiên Chúa. Hạy vững tin, vì chính Chúa Giêsu đã xác định với Thánh Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Và Ngài cũng đã hứa: “Không một linh hồn nào kêu gọi Lòng Thương Xót của Ta mà phải thất vọng bao giờ” (Nhật Ký, số 1541). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được áp dụng với bất cứ tội nhân nào chân thành sám hối.
Với những người có chức, có quyền, lễ Chúa Kitô Vua nhắc nhở họ điều rất quan trọng qua lời Chúa Giêsu xác định với tổng trấn Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11). Đừng tưởng có “quyền” rồi thì mặc sức “hành” người khác. Tất cả mọi người đều là tôi tớ, và Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12:47-48).
Thiên Chúa là ai? Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa của anh em là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, xử công minh cho cô nhi quả phụ, yêu thương ngoại kiều, và cho họ bánh ăn, áo mặc” (Đnl 10:17-18). Thiên Chúa là Vua Hòa Bình, Vua Công Lý, Vua Lòng Thương Xót, và mọi quyền hành đều phát xuất từ Ngài. Đặc biệt là Ngài chí công, nghiêm minh khi thưởng công và trừng phạt.
Vua Giêsu là Thiên Chúa, thế mà Ngài đã đi trọn con đường đau khổ mới có thể đạt tới Vương Quốc vinh quang, vĩnh hằng, chắc chắn chúng ta không thể đi bất cứ một con đường khác!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết Ngài và biết con, xin thêm sức mạnh cho con để can đảm thú nhận tội lỗi và xin tha thứ mọi tội lỗi của con đã xúc phạm đến Ngài và đến tha nhân. Cúi xin Vua Giêsu cai trị và hướng dẫn cuộc đời con đi đúng định hướng của Chúa Cha. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Trên thập giá, ngay trước khi tắt thở, Đức Giêsu đã hé mở cho thấy một điều vĩ đại vượt quá sức hiểu biết của tất cả mọi người: thiên đàng là vương quốc không chỉ dành riêng cho các kẻ đạo đức thánh thiện, mà trước hết là gia nghiệp biếu không cho tất cả các tội nhân cầu mong được xót thương tha thứ; điều này có thể làm nhiều người chúng ta ngạc nhiên, ngạc nhiên tới độ cảm thấy bị sốc, bị xúc phạm. Ta vẫn thường nghĩ: công dân thiên đàng phải là các bậc đạo đức thánh thiện, nếu không xuất chúng trổi vượt như các bậc đại thánh được tuyên phong thì chí ít cũng phải là lương thiện tốt lành tới một mức độ nào đó. Ấy vậy mà công dân đầu tiên và tiêu biểu của vương quốc Vua Kitô, công dân được chính Vua Kitô long trọng kết nạp ngay trên thập giá, lại là một tên đại gian đại ác tới độ xã hội loài người phải tìm cách loại bỏ bằng cách lên án tử.
Ngay cả Giêsu đang bị bị đóng đinh trên thập giá cũng bị thiên hạ bên dưới bêu rếu nhạo cười: nhạo cười vì chính tước hiệu ‘Vua’ mà ông đã tự gán cho mình; ‘Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Do Thái lúc đó đồng nghĩa với một dân tộc nhược tiểu, bị trị… và quan tổng chấn Phi-la-tô, khi cho viết, đã hàm ý đó; thậm chí cả các người Do Thái cũng cảm thấy bị nhục mạ vì cách nhạo cười bêu rếu này…, nên họ đã cực lực phản đối. Thế nhưng, người duy nhất đã nghiêm túc xác nhận lời bêu rếu trên là chính đáng, lại là chính người đang bị nhạo cười; ‘Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?” Người trả lời: “Chính ngài nói đó!”
Thế thì quả thật Đức Giêsu đã khảng định cách công khải: Người là Vua, và cùng với lời tuyên bố đó, một Vương Quốc mới đã bắt đầu lộ diện, một Dân Riêng mới, một Do Thái mới. Tuy nhiên vấn nạn được đặt ra là: vương quốc đó thực tế là gì, và sẽ dành cho những ai? ai mới xứng đáng được gia nhập vương quốc của vị Vua bị đóng đinh này? Chắc chắn đó là những câu hỏi cần tìm được lời giải đáp! Trong vương quốc Do Thái của Cựu Ước, công dân là những người như tổ phụ Áp-ra-ham, đặt trọn niềm tin vào lời hứa của Đức Chúa; và họ cụ thể hóa niềm tin đó bằng việc nắm giữ trọn vẹn các lề luật do Mô-sê để lại. Vậy thì, nếu công dân vương quốc cũ đã phải là như thế thì công dân của vương quốc Do Thái Mới sẽ phải làm gì đây, đồng thời họ phải hội đủ các điều kiện nào để được gia nhập? để giải đáp vấn nạn này ta chỉ cần nhìn vào người công dân đầu tiên và tiêu biểu của Vương Quốc ấy là đã hiểu ra ngay, cả về bản chất lẫn điều kiện để được gia nhập.
Trong trình thuật thương khó của Phúc Âm Lu-ca, diện mạo người công dân đó đã được phác họa cách rõ nét: Lu-ca mô tả tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá là công dân đầu tiên của vương quốc mới thiết lập. Sẽ không ai gọi hắn là ‘lành’ vì cả đời tên này đã sống gian hùng và từng phạm nhiều trọng tội tới độ xã hội phải tuyên án tử. Một tên đại gian đại ác như thế mà lại được chính Đức Giêsu trực tiếp công bố rằng: anh được kể như người thứ nhất được nhận vào Vương Quốc mình thiết lập: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Ta thắc mắc: tại sao lại như thế, hắn đã làm được gì? – thưa, điều duy nhất mà tên gian phi này đã may mắn làm được trước khi chết là kêu nài tới lòng xót thương của Tân Vương: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi!” Đơn giản chỉ có thế, và thế là anh ta đã được nhận vào Vương Quốc, được trở thành công dân đầu tiên của Nước Trời!
Tín hữu của mọi tôn giáo đều có chung một tư duy: ‘thiên đàng hay thiên cung’ là nơi chỉ dành cho những con người tốt lành thánh thiện. Riêng Tin Mừng của Đức Giêsu mới cho thấy điều ngược lại: trên thiên đàng của Cha Người xuất hiện một hạng người ‘lành thánh mới’, phù hợp hơn với Vương Quốc được Thập Giá tình yêu cứu độ thiết lập. Nếu ‘lành thánh cổ điển’ là tu thân tích đức, là đạo đức khôn ngoan…, chí ít cũng phải ăn ngay ở lành, thì ‘lành thánh mới’ chỉ đơn giản là đón lấy lòng thương xót vô biên mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho mọi người trong Đức Kitô Giêsu. Nếu tên trộm trở nên ‘lành’, hay tên tướng cướp trở nên ‘thánh’ thì cũng chỉ vì hắn đã nại tới lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa.
Quan trọng hơn nữa: chúng ta không được coi người công dân đầu tiên này chỉ như một biệt lệ, một luật trừ hiếm hoi. Đúng hơn: anh ta phải được nhìn nhận như một nguyên mẫu (prototype) của mọi công dân trong Vương Quốc mới của Vua Kitô. Điều này đã được chứng minh qua thị kiến tông đồ Gio-an ghi lại trong sách Khải Huyền: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?” “Họ là những người… giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên… Và Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:13-14. 17). Thiên đàng mới hầu như gồm toàn những con người như thế cả, nói cách khác: mọi công dân Nước Trời đều phải là như thế. Vương quốc của Vua Kitô không phải là một thiêng đàng đầy khoái lạc được dùng để ân thưởng cho những thần dân trung tín tốt lành; Vương Quốc của Vua Kitô Giêsu Thập Giá chan hòa tình yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa.
Vương quốc này sẽ đón nhận hết thảy mọi người, kể cả những kẻ gian hùng tội lỗi nhất, miễn là họ biết khiêm tốn đưa tay ra lãnh lấy tấm thẻ công dân được lòng thương xót Chúa ban tặng cho cách nhưng không. Đúng hơn, càng những ai nhận biết thân phận bất xứng tội lỗi của mình, thì lại càng dễ dàng mau mắn đưa tay ra đón nhận hơn. Như thế công việc và điều kiện duy nhất cần chu toàn để gia nhập Vương Quốc của Vua Kitô chỉ có thể là: khiêm tốn đón lấy ơn cứu độ đầy xót thương mà Thiên Chúa không ngừng trao ban!
Chúng ta được Hội Thánh nói cho biết: trong Vương Quốc ấy có một công dân rất tiêu biểu và uy tín: công dân Maria, người nữ đã từng khiêm tốn thốt lên tự đáy lòng mình: “Thiên Chúa đấng cứu độ tôi, đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn này!” (Lc 1:48) Chính vì khiêm tốn tột độ chân nhận Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của mình, mà Ma-ri-a mới thật sự xứng đáng trở thành Nữ Hoàng trong Vương Quốc của Vua Giêsu Kitô nhân ái.
Ngay cả một linh mục như tôi cũng không có cách nào khác để trở thành công dân Nước Trời! hơn nữa, nếu muốn trở thành công dân cao cấp hơn trong Vương Quốc đó, tôi sẽ phải nỗ lực trong diện nào hơn hết? Nếu trả lời được các vấn nạn trên, thời con đường ‘thánh thiện – công chính’ của tôi sẽ rộng mở hơn bao giờ hết; và rồi thì công tác mục vụ tôi đảm trách sẽ minh bạch và trực diện hơn nhiều!
Lạy Vua Kitô của vương quốc tình yêu cứu độ, xin hãy tiếp nhận con vào vương quốc của Người; xin cũng hãy nói với con như Chúa đã từng công bố với tên gian phi: “ngay hôm nay con sẽ ở với Cha trong vương quốc”. Xin hãy ban cho con ơn trọng đại nhất: là khi giờ chết đến, con biết ném mình vào lòng nhân hậu vô biên của Chúa. Xin cho con sở đắc vĩnh viễn được cái cảm giác tuyệt vời mà đã một lần con được nếm cảm trong giờ chết lâm sàng…, là được tan biến trong vòng tay nhân ái thứ tha, và được vòng tay này ôm ấp đến muôn đời. Amen.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.
Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là "Lời nói gỗ - Langue de bois", có nghĩa là không thực và chỉ là những "xảo ngôn", hứa cho qua.
Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu "Vua vũ trụ". Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người "mọi quyền năng trên trời dưới đất" (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). "Mang lấy ách" là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng". Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).
Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: "Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho" (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì "Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được" (Kinh Trông cậy).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.
Đó là lời của nhạc sĩ Văn Cao trong một cuộc gặp gỡ riêng tư năm 1990. Cụ đã sung sướng khoe với mọi người như thế, và thẳng thắn nhìn nhận: "Chúng tôi đã được đào tạo, nhờ đức tin và âm nhạc kitô giáo."
"Chúng tôi" ở đây muốn ám chỉ giới trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ.
Đức tin đã thấm vào con người tài hoa ấy, và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ.
"Nếu tôi không hiểu Halêluia là gì, thì đã chẳng có bài "Làng tôi", cụ bảo vậy. Chẳng ai ngờ Văn Cao lại là con người say mê Giêsu, mà là Giêsu trên thánh giá. Từ năm 1954, cụ vẫn treo một thánh giá trước mặt.
Giêsu trần trụi, Giêsu không còn gì. Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn Giêsu? Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá. Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. "Đây là vua người Do thái", tấm bảng ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bị treo trên thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu. "Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình”. “Hãy xuống khỏi thập giá" (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng. "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được ơn cứu độ nhờ cái chết thập giá của Đức Giêsu.
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để Ngài làm vua của vũ trụ lòng mình. Chúng ta muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực cuộc sống: văn chương, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội... Cần có đức tin mạnh mẽ mới thấy Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Ngài bằng trăm ngàn nẻo đường bất ngờ, trong đó có nẻo đường của cụ Văn Cao và anh trộm lành.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người cho rằng: "Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng có nhiều tiện nghi vật chất, thì lòng đạo đức càng sa sút. Nước Chúa như bị thu hẹp lại." Bạn có đồng ý với nhận xét trên không? Làm sao để tiện nghi vật chất không làm người ta xa Chúa?
Bạn đã làm gì để Nước Chúa đến với tập thể bạn đang sống như gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, trường học, nơi làm việc? Bạn có gặp những khó khăn khi xây dựng Nước Chúa trong môi trường sống của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới này sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu, có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người Công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Ngay từ thủa khai sinh nhân loại, Nguyên Tổ loài người là A-đam và E-va đã bị Sa-tan cám dỗ từ bỏ đường lối Thiên Chúa để theo đường lối Sa-tan. Hai ông bà đã nghe theo lời ma quỷ xúi giục, không vâng phục Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Thế là một khi “Đầu Tàu” đã đi trật đường rầy thì sẽ lôi kéo các “toa tàu”, tức là vô vàn con cháu về sau đi vào ngõ cụt, lao vào cõi đau khổ trầm luân.
Để cứu nhân loại thoát cảnh lầm than do Nguyên Tổ A-đam E-và gây ra, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế đầu thai làm người, trở thành Nguyên Tổ mới, tác sinh ra một nhân loại mới, đồng thời trở nên như là “Đầu Tàu” thứ hai dẫn đưa nhân loại vào chốn hồng phúc. Sa-tan đã hạ đo ván Nguyên Tổ A-đam E-va ngay từ thử thách đầu tiên, nay lại thừa thắng xông lên với quyết tâm lôi kéo “Đầu Tàu” thứ hai là Đức Giê-su Ki-tô đi trệch đường lối Thiên Chúa, nhằm nhận chìm nhân loại vào trong cõi trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Mặc dầu Chúa Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philipphê 2, 7), do đó, “Người đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta” (Do thái 4, 15). Chính vì thế, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giê-su đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
***
Lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giê-su từng bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời sống công khai. Chúa Giê-su anh dũng chống lại và đã chiến thắng. Ma quỷ đành rút lui để chờ dịp khác.
Trong thời gian rao giảng, Chúa Giê-su từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, cơn cám dỗ hết sức khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa Giê-su bị giằng co giữa hai chọn lựa quyết liệt: uống chén đắng hay khước từ chén đắng? Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục đau thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong nội tâm đã khiến Chúa Giê-su phải toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng Đức Giê-su đã chiến thắng: “Xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha”. (Lc 22, 42). Người cương quyết vâng theo ý Chúa Cha bước vào cuộc khổ nạn đau thương để cứu độ muôn người.
Thế nên lần nầy, Sa-tan ra sức đánh trận cuối cùng, may ra giành được chiến thắng vào phút chót. Chiến lược của Sa-tan là tìm cách cám dỗ Chúa Giê-su xuống khỏi thập giá nhằm phá vỡ hoàn toàn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Trước hết, qua miệng các thủ lãnh, Sa-tan khiêu khích: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!"
Phải rồi, khi tự mình xuống khỏi thập giá, muôn người sẽ tin nhận Đức Giê-su thật sự là Đấng Ki-tô… như thế sẽ có lợi cho biết bao tâm hồn.
Tiếp theo, Sa-tan dùng lời binh lính để dụ dỗ Chúa Giê-su: “Hãy xuống khỏi thập giá đi.” Lý do được đưa ra là: “Ông là vua dân Do-Thái”. Đúng vậy, là vua thì phải xuống khỏi thập giá để lãnh đạo toàn dân thần phục Thiên Chúa, hẵn sẽ có lợi hơn nhiều.
Ngay cả tên tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-su cũng được Sa-tan sử dụng để cám dỗ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Phải rồi, là Đấng Ki-tô thì có dư quyền năng để tự cứu mình và cứu luôn hai nạn nhân đang cùng chịu khổ nạn đau thương với mình. Thực là điều chính đáng! Nhưng Chúa Giê-su đã không chịu lùi bước trước bất kỳ cám dỗ nào. Người quyết vâng phục Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng. Người đã chiến đấu kiên cường và đã hoàn toàn chiến thắng.
Lời thánh Phao-lô trong thư Philipphê (chương 2, 6-11) sau đây như khúc khải hoàn ca tán dương Chúa Giê-su đã vẻ vang chiến thắng:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.”
Ngợi ca Vua Giê-su Ki-tô toàn thắng vinh hiển muôn đời. Amen.
Nói đến Vua là nói đến quyền lực, sức mạnh, sự giàu sang phú quý. Nhưng với vị vua Giêsu thì điều hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh nơi Ngài là tình yêu, quyền lực của Ngài là sự khiêm hạ, và giàu sang của Ngài là phục vụ. Giáo Hội suy tôn Ngài là Vua vũ trụ, bởi chính Ngài là khởi thủy, và cùng tận.
Vua tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu. Định nghĩa của Gioan rất đơn giản nhưng chứa đựng cả một bể khơi nguồn tình yêu. Đức Giêsu đã tế hiến cuộc đời của mình cho tình yêu nhân loại. Ngài là vua của tình yêu. Vương quốc của Ngài không xây dựng trên bạo lực, bạo quyền, mà được xây dựng trên tình yêu thương. Khí giới Ngài dùng là đỉnh cao Thập Giá. Phía trên đầu Ngài là tấm bảng được ghi: “Đây là vua người Do Thái” (Lc 23, 38).
Vua khiêm hạ
Thông thường các vị vua chúa trần gian hay kiêu căng, ác độc. Hê-rô-đê bạo chúa đã gây biết bao tội ác và đưa đến cái chết cho Gioan Tẩy Giả. Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành đã nhuộm đỏ máu xương của biết bao người. Kiêu ngạo và độc ác đã gây nên biết bao là oan khiên. Còn Đức Giêsu, vị vua không biên cương lãnh thổ, không triều đình không quân lính. Vị vua cỡi trên lưng lừa trong ngày vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc đời mình, với cái chết cô đơn trên Thập Giá, giữa những người gian phi.
Vua phục vụ
Ngài đến trần gian là để hầu hạ và phục vụ con người. Bao năm rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã tận tụy phục vụ một cách nhưng không cho con người. Ngài rong ruổi khắp nơi, để tìm kiếm và cứu chữa con người. Những người đau ốm, những kẻ bị quỷ ám, những người đơn côi, những kẻ tội lội đều được Ngài tận tình chăm sóc cả hồn lẫn xác. Cử chỉ phục vụ của Ngài được thể hiện cô đọng lại trong đêm bị trao nộp. Ngài đã cúi xuống và rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ của một người tôi tớ phục vụ cho các ông chủ của mình. Ta đến không phải để phục vụ mà là phục vụ muôn người: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, thì hãy nên như người phục vụ” (Lc 22, 25-26).
Lạy Đức Vua Giêsu, xin cho chúng con là những kẻ tôi tá Ngài biết sống yêu thương, khiêm nhường và phục vụ anh chị em mình. Xin cho chúng con chỉ biết phụng sự, và tôn thờ một mình Ngài là Vua của chúng con. Amen.
Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Thật nghịch lý, để mừng lễ Đức Kitô Vua, Giáo hội đưa ra cảnh tượng Đức Giêsu mạc khải triều đại Người: ngai vàng là thập giá, vương miện là một vòng gai, lễ phong vương là một danh hiệu của việc kết án tử đóng đinh bên trên đầu Người, nam tước là hai tên gian phi. Nghịch lý cao cả của Tin mừng! Vua? Phải! Nhưng chắc chắn không hiểu theo nghĩa của những người đứng về phía Người, cũng không theo nghĩa của những đối thủ lên án Người, nhưng theo cách của Thiên Chúa.
Luca viết: "Khi đến nơi gọi là Núi Sọ, họ đóng đinh Người vào thập giá". Thực ra đây chỉ là quả đồi nằm ở cổng thành Giêrusalem, cổng Ephraim, một nơi khai thác đá cũ, nhưng thợ khai thác còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5m. Vì hình dạng của tảng đá giống như cái sọ, nên gọi là núi Sọ, tiếng Dothái là Gôlgôtha tiếng Hylạp là Kranion, tiếng Latinh là Calvario. Theo truyền thuyết đó là cái sọ của Ađam được chôn cất mãi mãi ở đó. Bởi là một nơi gần đường, nên người ta hay đóng đinh các tội nhân ở đó để mọi người qua lại xỉ nhục hoặc để làm gương cho người khác.
Cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu có hai tên gian phi. Để chứng minh Đức Giêsu không phải là gian phi, Luca đặt nơi môi miệng Người một lời nguyện: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Họ đây là ai? Đó là các vị thân hào. Luca thường ghi nhận, đối với Đức Giêsu thì "dân chúng" khác với các thân hào (Lc 20,1-20.45, 21.38). Trước biến cố Đức Giêsu chịu đóng đinh, dân chúng chán ngán, yên lặng đứng nhìn. Sự yên lặng của dân chúng thật ấn tượng và đáng trân trọng. Dân chúng Israel hiền lành không hiểu gì cả. Họ chờ đợi Đức Giêsu như¬ Đấng Messia, như một vua Đavít mới.
Trong lịch sử dân tộc họ, không thiếu vua, nhưng tầm cỡ vua Đavít và Salomon thì không có, đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Messia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù, làm vị thẩm phán của Thiên Chúa, họ ngờ rằng Đức Giêsu đến để phục hưng vương quyền của Israel. Họ đã thử tôn Người làm vua, Người lại tránh né. Giờ đây, Người kia kìa, Người bị kết án tử hình, Người đang bị treo trên thập giá.
Khác với những người dân đen đang đứng nhìn ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh buông lời cười nhạo, thách đố Người: "Nếu ngươi là cứu Chúa, trước tiên cứu mình đi". Đó là tiếng vang của ma quỷ trong sa mạc (Lc 4,3), của người đồng hương Nadarét (Lc 4,23). Trong thế giới ngày nay, những kẻ chế nhạo Thiên Chúa cũng cùng giọng điệu như thế: "Nếu Thiên Chúa có, hãy hiện diện đi, để mọi người thấy".
Câu trả lời của Thiên Chúa vẫn là câu trả lời của Đức Giêsu: "Người im lặng". Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực, là không hiện hữu. Đức Giêsu cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ, hành động vì mình, sử dụng quyền năng của mình chỉ vì chính mình.
Còn lính tráng? Lính tráng cũng chế giễu Người: "Nếu ông là vua dân Dothái thì cứu mình đi". Thế nhưng, những binh lính này vẫn còn chút lương tri, họ đã lấy một chút giấm đưa cho Ngài uống. Giấm đây là thứ rượu chua thời ấy binh lính Lamã quen dùng, nếu pha thêm một chút mộc dược, sẽ thành một thứ thuốc gây mê, các bà Dothái thường cho các nạn nhân uống như thế để giảm đau. ở đây, Luca không cho biết Chúa có uống hay không, nhưng Mátthêu nói rõ, Chúa chỉ nếm một chút để tỏ lòng biết ơn người đã có thiện chí giúp đỡ mình (Mt 27,34).
Khi phong vương, theo tục lệ Dothái, ông vua được phong ngồi trên ngai, một thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua danh hiệu như thường thấy trong Thánh vịnh 109: "Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con". Ở đây, ngai vàng của Đức Giêsu là thập giá, bản văn phong vương Người chính là bản án của Philatô ghi trên đầu Người: "Đây là vua người Dothái ".
Dĩ nhiên Đức Giêsu là vua không theo cách thức thế gian, Nước Người không thuộc về thế gian này (Ga 18,36). Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế, nhưng không cạnh tranh với các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế. Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của Vua Israel, của chủ nghĩa Messia.
Bi kịch thập giá của Đức Giêsu, được Luca xây dựng theo kiểu căng thẳng tịnh tiến: dân chúng đứng nhìn, các thủ lãnh cười nhạo, lính tráng chế giễu, và tên gian phi nhục mạ. Đúng thế, một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Cứu mình? Đó là thách thức ghê tởm nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi mà các thủ lãnh, lính tráng cũng như tên gian phi đã đưa ra. Phải nghĩ đến mình trước rồi mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu "Mục tử tốt thí mạng vì đàn chiên" còn có ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: "Ai tìm sự sống thì sẽ mất" bây giờ ở đâu?
Vậy, ta có thể kết luận Đức Giêsu là Vua, Người làm Vua trên thập giá, trong hành vi trở thành của lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình theo Người thì không được cứu độ. Còn ai kính sợ Thiên Chúa, tin Người được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các lời ngôn sứ về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế; quá sự chờ mong của mọi người vì trên thập giá, không những Người là vua mục tử hơn Đavít mà còn là người tôi tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.
Để diễn tả quyền năng tột đỉnh của Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ, Giáo Hội đã chọn bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh khác nhau. Năm A với bài Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25, 31-46), tôn vinh Đức Vua Giêsu như một vị Thẩm phán tối cao ngự trên ngai toà vinh hiển xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (Ga 18, 33-37) dùng chính miệng Phi-la-tô tuyên xưng Đức Giêsu là Vua, nhưng là Vua của một “nước không thuộc thế gian”. Từ đó, đưa ra một cái nhìn thần học về uy quyền của Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể và nhập thế để làm chứng cho Sự Thật: Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một xuống thế chịu khổ hình và chịu chết để cứu độ nhân loại. Năm C với bài Tin Mừng Lu-ca (Lc 23, 35-43) trình thuật Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để tiêu diệt tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người.
Ngoài ra, đọc cả 4 sách Tin Mừng sẽ thấy các môn đệ cũng như nhiều người khác đều tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Vua It-ra-en. Đó là những chứng tích minh hoạ cho ngôi vị Vương Giả của Đức Giêsu. Thánh danh Giêsu có nghĩa là “Đấng Cứu Độ” (Mt 1, 21; Lc 2, 11) – Đấng Cứu Độ là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – mà Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, vậy chẳng phải Người chính là Vua Vũ Trụ đó sao? Một cách cụ thể thì có thể khẳng định ngôi vị Vua Vũ Trụ đã được tiền định từ trước vô cùng, nên trong Cựu Ước đã tiên báo (“Con Người đang ngự giá mây trời mà đến… Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” – Đn 7, 13-14; xc thêm Is 9, 1-6; 52, 7-10).
Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi thời, vẫn sùng bái tôn thờ một vị Giáo chủ một triều đại cách đây 2000 năm gọi là Vua Giêsu, thậm chí còn coi vị Giáo chủ ấy là Vua cả vũ trụ. Cái chế độ quân chủ ấy vẫn được tiếp nối đến tận ngày nay và gọi những vị Giáo chủ là Giáo hoàng (hoàng: vua), gọi nơi làm việc của Giáo hoàng là thủ đô (Giáo đô La Mã) và gọi bộ máy hoạt động là triều đình (Giáo triều Rô-ma). Trong khi đó thế giới đã hầu như không còn chế độ quân chủ, mà hầu hết đều theo chế độ dân chủ. Cứ kể xét về mặt từ ngữ, về tên gọi, thì nhận định trên không sai. Nó cũng không khác bao nhiêu với những quan điểm nhận định đánh giá con người qua cái áo, qua bộ cánh (sang trọng hay thấp hèn) và như thế là đã quên mất cái cốt lõi của vấn đề, bởi “cái áo không làm nên thầy tu”.
Danh hiệu vua thực chất chỉ là một cách gọi những người đứng đầu trị vì một quốc gia thời phong kiến, mà về sau được gọi bằng danh xưng khác như: tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng, chủ tịch nước v.v… Với Đức Giêsu thì vì Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật (điều này không phải chỉ do Người tự xưng – đến nỗi đã bị nhóm Pha-ri-sêu cho là phạm thượng – mà còn được chính Thiên Chúa Cha phán bảo khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan, khi Người biến hình trên núi Ta-bo, đồng thời Chúa Thánh Thần còn linh hứng, mạc khải cho các Thánh sử, các vị tiên tri, ngôn sứ nữa).
Còn một điều mấu chốt là Đức Giêsu tuy được tôn xưng là Vua Vũ Trụ, nhưng Người không hề sống như kiểu các ông vua phong kiến hay các ông trị vì quốc gia hiện đại (hét ra lửa, mửa ra khói). Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng”, mà đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Một ông vua mà lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23, 34). Đức Vua Giêsu là như vậy đó.
Rõ ràng Đức Giêsu Ki-tô chính là “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình” (Cl 1, 15-16). Người là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài; như vậy Người là chủ muôn loài, chủ vũ trụ (Vua vũ trụ) cũng là lẽ đương nhiên. Đó là xét về mặt danh nghĩa, nhưng còn mặt thực chất của vấn đề, và cũng là điều quan trong nhất, ấy là Người đã vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Không cần nói đến những phép lạ, những linh hứng, mạc khải, mà chỉ cần suy niệm vào chính cuộc đời trần thế của Người (từ cách sống, cách giảng dạy, cách chữa trị bệnh nhân, đến chính việc hy sinh cả tính mạng mình vì yêu thương loài người tội lỗi), cũng đủ để xác tín Người chính là Vua – VUA TÌNH YÊU. Và chính điều này một lần nữa khẳng định Đức Giêsu Ki-tô thật sự là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là VUA VŨ TRỤ vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Từ xưa đến nay, chúng con vẫn luôn xưng tụng Đức Giêsu là Vua của loài người, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Tuy nhiên, hành động của chúng con, cách cư xử và đời sống của chúng con dường như lại đi ngượic với những lời chúng con tuyên xưng. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con đủ can đảm sống đúng những điều chúng con tuyên xưng. Ôi! Lạy Chúa! Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con xin tuyên xưng từ ngay trong bản thân, trong gia đình chúng con, qua chính cách sống và hành động của chúng con: Đức Giêsu Ki-tô là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là Vua Vũ Trụ, Vua của mỗi người, mỗi gia đình chúng con.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ).
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể và tôn thờ một Vị Vua, một Vị Vua đích thực, Người là Vua Sự Thật, Vua Tình Yêu, Vua Sự Sống. Vâng, Vị Vua ấy là” Giêsu Nzaret”, một Vị Vua mà trong bối cảnh Tin Mừng hôm nay (Lc 23,35-43) cho chúng ta thấy về “Người Tôi Tớ của Giavê”. Có nghĩa là: Vị Vua mà chúng ta tôn thờ không phải ở trên ngai vàng, mà là ở trên một “cái ngai cao hơn ngai vàng”, vâng, cái ngai ấy chính là “Thập giá”. Thập giá là một hình phạt cao nhất dành cho tội nhân của người Dothai, nhưng Vua Giêsu đã chọn lấy, dù Người vô tội, đó là một bản án bất công nhất, vì một án phạt nặng nhất lại dành cho một “Con Người “vô tội. Nhưng đối với Vua Giêsu là một bản án “vì tình”, bởi vì Người là” Vua Tình Yêu”.
Đoạn Tin Mừng (Lc 23,35-43) hôm nay là đoạn Tin Mừng diễn tả một mầu nhiệm chóp đỉnh của sự đau khổ. Mầu nhiệm ấy gọi là mầu nhiệm Thập giá, bởi vì từ cổ chí kim và mãi mãi, duy nhất trong lịch sử loài người, không có một cảnh tưởng nào hãi hùng, khinh khiếp bằng cảnh tượng Thập giá. Vì nơi đó, đã thỏa mãn cơn điên loạn, sự độc ác, sự căm thù, sự ích kỷ, sự nhỏ nhen thâm độc nhất của loài người, tất cả cũng chỉ vì muốn thỏa mãn tính người, tính ngạo mạn của satan, phủ nhận chân lý, muốn xóa mờ tình yêu của Thiên Chúa, muốn khỏa lấp Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với người công chính. Vì thế, thảm cảnh Thập giá đã xảy ra, nhưng tình yêu đã chiến thắng. Vì Thiên Chúa là tình yêu.
Lời lẽ sỉ nhục Đức Kitô, là lời lẽ thách thức Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa không theo bất cứ thế lực nào, bất cứ lời lẽ nào, vì Ngài là Thiên Chúa. Một ý nghĩa chân lý là nếu Thiên Chúa theo tư tưởng của loài người thì không có mầu nhiệm ơn Cứu Độ. Vì: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của loài người bấy nhiêu” (Isaia 55,9). Nên Đấng Cứu Thế Kitô phải chịu khổ hình và treo lên, vì chương trình cứu độ của Thiên Chúa chính là Thập giá Đức Kitô. Khi nhân tính biểu lộ trọn vẹn sự hữu hình trong mầu nhiệm tử nạn, đồng thời cũng là lúc Thiên Tính biểu lộ trọn vẹn quyền phép cao cả của Thiên Chúa, và giá trị siêu nhiên cùng với ơn Cứu Độ được hình thành nơi Đức Kitô- Giêsu.
Vinh quang Thiên Chúa không dừng lại nơi Thập giá, mà là vinh quang của Thiên Chúa chính là sự Phục Sinh của Đức Kitô. Thập giá, nơi biểu lộ tình yêu, chứ không phải nơi biểu lộ quyền năng, Thập giá, nơi biểu lộ án phạt mà nhân loại phải chịu. Nhưng, kẻ có tội, thì mất quyền tha thứ, mất quyền tự do, không thể cứu người khác được. Nên chi, theo lẽ tự nhiên là thế, Thiên Chúa phải dùng lẽ tự nhiên bởi một Người vô tội, là Đấng Cứu Thế, có nghĩa là Kitô. Đấng vô tội chịu mức án của kẻ có tội, như vậy mới có giá trị “cứu” kẻ có tội. Xét theo lẽ tự nhiên, đó là sự bất công, nhưng theo lẽ siêu nhiên, thì đây là Hy Lễ Cứu Chuộc. Như vậy, Thập giá là Hy Lễ Cứu Chuộc. Mà Hy Lễ ấy được một Con Người vô tội thực hiện, thì có giá trị vô song. Nhưng mầu nhiệm Cứu Chuộc không dừng lại nơi Thập giá, mà là bước qua Thập giá (không phải theo nghĩa đen là “quá khóa”), mới đến Vinh Quang của Thiên Chúa
Đức Kitô là Vị Vua không tự tìm vinh quang cho mình, mà là “Vị Vua” tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Nơi trần gian, con người tìm gì? Chắn chắn là tìm vinh quang trần thế. Vinh quang trần thế chắc chắn không phải là vinh quang Nước Trời. Vì vậy, con người trần thế muốn tìm vinh quang thế trần, thì họ phải tôn thờ những thứ “vua” của trần thế. Còn thần dân của Nước Trời, thì phải tôn thờ “Vua Giêsu”, là Vua trên các Vua, Chúa của các chúa. Đó là hợp lẽ.
Theo trần gian, người nào tài giỏi về một điều gì đó, thì người ta gọi là vua, như vua dầu lửa, vua xe ơi, vua caphê, vua bóng đá v.v.... Nhưng tất cả những vị vua đó chỉ tìm vinh quang cho họ, chứ không tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Ai tìm vinh quang cho Thiên Chúa là thần dân trong Nước Của Vua Giêsu, Vị Vua của chân lý, tình yêu và sự thật.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian không tìm vinh quang của trần thế, mà là đã chọn Thập giá là vinh quang cho Hy lễ Cứu Chuộc. Xin thương cho chúng con biết tôn thờ sự thật ấy, là vinh quang vĩnh cửu cho chúng con, vì Chúa là Vua mà chúng con tôn thờ. Amen.
Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Vương miện là mão gai, ngai vàng là thập giá. Trên Thập giá, Chúa Giêsu lên ngôi Vua. Khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Ngài.Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết: "Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: “Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng”.
Vị Vua lên ngôi trên thập giá bị nhạo báng. Các vị thủ lãnh cười nhạo: "Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!". Bọn lính tráng chế giễu: “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!". “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh, như thế tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ là phản ứng của người trộm lành: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái". Anh ta thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!". Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu. “Và Người nói với anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng". Đức Giêsu bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ.
Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực.Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục.Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua. (Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện).
Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Ngài là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã gọi Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Vương quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Thánh Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? “Xin nhớ đến con”, chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống của mình.
Mừng lễ Chúa Giêsu - Vua Vũ Trụ - Vua Sự Thật, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
Lễ Chúa Giêsu Vua được đặt vào cuối năm phụng vụ mang nặng ý nghĩa thần học. Người là điểm đến của thời gian và cùng đích của mọi người, cùng đích của lịch sử nhân loại. Rồi thì mọi người sẽ phải đón nhận vương quyền của Chúa Giêsu Vua vì mọi cuộc đời đều phải chịu phán xét và dựa vào tiêu chuẩn có chọn lựa Chúa Giêsu trong cuộc đời của mình không. Những bài đọc của Chúa nhật tuần này giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của vương quyền của Người trong cuộc đời chúng ta. Bài đọc I trích từ sách 2 Samuel 5, 1-5 tường thuật việc các chi tộc Israel phía Bắc hợp nhất với vương triều của Đavít. Họ không thể đứng chơ vơ một mình giữa những liên minh thù địch khác mạnh hơn, nhất là sự đe dọa của quân Philitinh. Vào khoảng những năm 1010, sau khi Saolê mất và vương quốc sụp đổ, nền thống nhất quốc gia bị lâm nguy. Lúc đó, vương triều Đavít được thiết lập ở Hêbron do bởi chi tộc Giuđa trong khi đó các chi tộc phương Bắc lại chọn Ishbaal là hậu duệ của Saolê. Nhưng sau đó Ishbaal bị ám sát, và các chi tộc phương Bắc hiểu rằng liên minh với nhà Đavít sẽ đem lại cho họ một tương lai ổn định và thống nhất và những dân tộc khác không thể coi thường và quấy phá họ được bởi vì nhà vua trẻ Đavít là một minh quân và được Thiên Chúa ủng hộ. Thánh kinh nhìn nhận Đavít được Thiên Chúa ưu ái bởi vì ông là người biết kính thờ và trung tín với Thiên Chúa cũng như biết nhìn nhận mình là tội nhân trước mặt người và đã biết chọn lựa Thiên Chúa hơn là những điều khác.
Tường thuật Tin mừng được chọn cho ngày lễ là lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, giữa bao lời sỉ nhục của dân chúng, và giữa hai tên trộm cướp. Việc chọn lựa bài Tin mừng này mang nhiều ý nghĩa thần học quan trọng quyết định về vương quyền của Chúa Giêsu. Thập giá là nơi diễn ra cuộc giao tranh quyết định của Vương quyền Chúa Giêsu, vương quốc Thiên Chúa mà người thiết lập và ma quỉ đang cố gắng để phá hoại mọi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Do bởi chọn lựa và hành động của Người mà vương quốc này được thiết lập hay thất bại. Tin mừng theo Luca tường thuật là người bị treo giữa hai tên trộm cướp và bị liệt vào số quân gian ác và hạng người không lề luật. Tin mừng muốn nhấn mạnh, dù bên ngoài trước mắt người đời là như thế, nhưng người chính là người tôi tớ đau khổ mà sách Isaia (Is 53,7) cũng như Thánh vịnh (22,19) đã nói tới. Người tôi tớ đau khổ này thực hiện đường lối cứu thế của Thiên Chúa, như đã được các tiên tri loan báo. Trong những hoàn cảnh đau khổ tột cùng giữa bao sỉ nhục, người vẫn một lòng tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha và xác tín vào chiến thắng của Nước Thiên Chúa. Người hứa cho kẻ trộm cướp có lòng ăn năn được hưởng hạnh phúc trong Nước vinh quang của người. Trong khi đó dân chúng và thủ lãnh người do thái cũng như quân lính, vì không hiểu biết nên diễu cợt, khinh thường lời rao giảng và sứ điệp cứu độ của người, cho rằng đó là những lời nói vô nghĩa và nhất là việc người bị kết án và treo thập giá như một tên gian phi là bằng chứng hùng hồn. Những lý luận của họ ngạo mạn đồng thời cũng là những lý luận thiếu hiểu biết, thách thức vương quyền của Đức Giêsu, lặp lại những cám dỗ của ma quỉ lúc khởi đầu công trình rao giảng: “Nếu ông là Đức Kitô, thì ông hãy tự cứu mình và cứu chúng tôi; nếu ông là vua dân do thái, ông hãy tự cứu mình đi”. Nhưng trước tất cả những lời thách thức ngạo mạn, Chúa Giêsu vẫn giữ thinh lặng, người cầu nguyện với Chúa Cha và lắng nghe lời cầu chân thành của người trộm có lòng ăn năn.
Cách thức Chúa Giêsu thiết lập vương quyền của người không giống những cách thức vua chúa trần gian mà người ta tưởng tượng. Vương quyền của người là vương quyền của tình yêu tha thứ và hy sinh cho đến chết trên thập giá. Người không dùng sức mạnh của mình để chế ngự người khác, để biểu dương quyền lực trên mọi người hay dùng quyền lực để tự cứu lấy chính mình. Nhưng vương quyền của người biểu lộ trong sự yếu đuối thấp hèn trước mắt người đời, khi mà ai cũng nghĩ rằng người là kẻ tội lỗi đáng phải chết, khi mọi người cho rằng người là kẻ ngông cuồng ảo tưởng và lừa gạt. Thế nhưng vương quyền của Người là vương quyền của tình yêu tha thứ, làm cho mọi người phải sững sờ kinh ngạc. Không ai trong những người chứng kiến cái chết của người trên thập giá đã hiểu, duy có người trộm lành có lòng ăn năn đã hiểu điều này, vì ảnh cảm nghiệm thân phận tội lỗi của mình. Anh chân thành nhìn nhận anh đáng phải chết vì tội lỗi của mình, nhưng Đức Giêsu không có tội gì cả, Người là người công chính, người vô tội bị kết án bất công. Người trộm lành là hình ảnh của thế hệ những người tín hữu bước theo Chúa Giêsu, trước hết là các tông đồ, các môn đệ và các tín hữu đầu tiên. Họ đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa của vương quyền Chúa Giêsu. Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, người vô tội nhưng đã chết cho chúng ta là tội nhân.
Bức thư của thánh Phaolô tồng đồ gửi tín hữu Côlôsê là bài ca tuyên xưng vương quyền của Chúa Giêsu, làm vang vọng lại những thánh thi mà các kitô hữu đã tuyên xưng trong phụng vụ của Giáo hội, diễn tả sự hiểu biết sâu sắc của các tông đồ về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Nhờ Vương quyền của Người mà chúng ta được xứng đáng lãnh phần gia nghiệp của các thánh, cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết. Đây là ơn cứu độ đẫm máu mà Chúa Giêsu đã đánh đổi bằng cái chết của người trên thập giá. Bài thánh thi ca ngợi này đạt đến cao điểm khi tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu: “Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi loài thụ tạo, vì trong người mọi vật được tạo thành trên trời và dưới đất”. Thời gian, lịch sử và cuộc đời mỗi người có điểm đến và điểm qui chiếu nơi Chúa Giêsu là Vua vũ trụ. Tuyên xưng vương quyền của người không phải chỉ để chúng ta ca ngợi một vương quyền đầy tràn vinh quang và sức mạnh theo hình ảnh những triều đình vua chúa thời trung cổ, nhưng tuyên xưng vương quyền này để mỗi người hiểu rằng mình được mời gọi tham dự vào vương quyền này bằng cách đón nhận mầu nhiệm thập giá trong cuộc sống hằng ngày, yêu thương tha thứ cho anh chị em của mình. Như Chúa Giêsu đã không bước xuống khỏi thập giá, thì người tín hữu cũng vững vàng trong cuộc sống hằng ngày qua những thăng trầm thử thách. Như Chúa Giêsu không ngự trên ngai vàng nhung lụa mà ngự trên thập giá đẩm máu để cứu chữa mọi anh chị em mình, người hy sinh chính mạng sống mình để cứu chuộc muôn người thì người tín hữu cũng được mời gọi bước theo bằng cách hy sinh chính mình cho anh em.
Ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI thiết lập đại lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Điều Ngài muốn nói khi thiết lập là nhắc nhở cho nhân loại nhớ rằng Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ nhân loại bằng cái chết trên thập giá và phục sinh để thiết lập vương quốc tình yêu công lý và sự thật.
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, kết thúc năm phụng vụ. Năm Phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, phục sinh để rồi kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Ngài là nơi hội tụ của muôn vật, là thủ lãnh của muôn loài trong thời gian đã được thành toàn tiến vào nơi không còn bị lệ thuộc vào thời gian và không gian là thiên quốc vĩnh cửu. Tất cả đều nói lên Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích – là Anpha và Ômêga – của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Cho nên thật thích hợp khi kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Đức Kitô, Vua Vũ Trụ. Chỉ một mình Đức Kitô mới là vua đích thực, chỉ một mình Ngài mới là Đấng để con người mến phục và tôn thờ.
Tuy nhiên để có thể sống niềm tin của người Kitô hữu một cách sống động nhân ngày lễ Chúa Kitô vua hôm nay, chúng ta cần lắng nghe lời Chúa để hiểu biết giáo huấn của Chúa về tước hiệu Vua Kitô và việc tuyên xưng Đức Kitô là Vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu.
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất trích sách Samuel quyển thứ hai hôm nay dẫn đưa chúng ta vào việc phong vương cho Đavit. Chung quanh ông mọi chi tộc và kỳ mục Itrael đồng thanh nhất trí tôn ông là vua Itrael. Triều đại ông khai mở một kỷ nguyên sáng chói nhất trong lịch sử Dân Chúa. Cũng như Đavit đã hiệp nhất dân Itrael thế nào thì Đức Kitô cũng sẽ qui tụ toàn thể nhân loại trong một dân duy nhất, dân của Chúa bởi máu của Người đã đổ ra trên thập giá. Bản văn này cho phép chúng ta nhận ra vai trò đích thực của Giáo Hội. Giáo Hội đích thực là Dân Chúa. Chính trong Giáo Hội, nhờ Giáo Hội, nhân loại được hiệp nhất nên một để thiết lập Nước Chúa.
Trong thư gửi tín hữu Côlôsê, Thánh Phaolô Tông đồ đã khẳng định uy quyền tối thượng của Đức Kitô: Quyền tối thượng trong công trình sáng tạo, tất cả được tạo dựng nhờ Người và trong Người; quyền tối thượng trong công trình cứu độ, nhờ máu Người đổ ra trên thập giá mà nhân loại được giao hoà với Chúa Cha, hoà bình và công lý được thực thi trên trái đất.
Còn bản văn Tin Mừng được trích từ trình thuật thương khó theo thánh Luca cho chúng ta biết rằng: Vương quyền của Đức Kitô là vương quyền của tình yêu. Thập giá là biểu tượng sống động của vương quyền Đức Kitô.
II. Dung mạo Vua Trần Thế và vua Thiên Sai
Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới toàn năng và công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường nói: Vua là Thiên Tử.
Bên Đông Phương, Khổng Tử đã thấy rõ vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ Vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các Ngài thật lý tưởng.
Dân Do Thái khi chưa có vua, họ đòi tiên tri Samuel: “Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi” (1Sm 8,19). Và ai được chọn làm vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với ngôn sứ Nathanaen: “Hãy nói với Đavit: ‘Ta là Cha nó, nó sẽ là con Ta’” (2Sm 7,5.14 và Tv 2,7). Nếu vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ vua khỏi tay quân thù (Tv 20,21 và 45,4-8). Nhưng ngay cả Đavit được gọi là Thánh Vương và Salomon được khôn ngoan không ai bằng, vẫn bất xứng bất trung. Vì thế, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến cứu độ nhân loại. Chỉ có người Con duy nhất đó mới là vua thật của nhân loại cho đến muôn đời: Đó là Đức Giêsu Kitô.
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay trình bày cho chúng ta một dung mạo Vua Kitô khác hẳn với hình ảnh vua trần thế. Ngài chính là con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, mang lấy thân phận con người, trải qua những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá thể hiện tình yêu cao độ của Thiên Chúa để cứu độ nhân loại. Cung cách hành xử của Vua Kitô là khiêm hạ, hiền hậu, khoan dung, quảng đại, trắc ẩn, gánh tội, tha thứ, và đón nhận vào nước Thiên Chúa. Tình yêu ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng nhưng đã trở nên hữu hình, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu.
Thật vậy, Chúa Giêsu chính là tình yêu của Thiên Chúa giữa trần gian, có nghĩa là, vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con của Ngài để thực hiện ý định yêu thương của Ngài, như thánh Gioan đã viết: “Cứ dấu này chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đã sai Con Một xuống trần gian để cứu chuộc chúng ta”.
Như thế, Đức Giêsu vua vũ trụ đã tự hiến bản thân để thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Trước hết, Ngài là vua như mục tử nhân lành. Ngài tụ họp các con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăm sóc đàn chiên theo đường công chính. Như Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là mục tử nhân lành, tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi” (Ga 10,10.11-14), “Tôi đến để chiên tôi được sống và sống dồi dào”.
Ngài còn là vua như tôi trung đau khổ: Ngài hạ mình khiêm tốn, nhường nhịn, dịu hiền khả ái: “Ngài không đành bẻ gãy cây lau đã bị dập, chẳng nỡ dập tắt tim đèn còn khói”. Ngài đặc biệt quan tâm đến những kẻ yếu kém hoặc lầm lạc. Ngài cũng bận tâm mang lại hoà bình và công lý cho nhân loại. Cuối cùng Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá: thập giá chính là đỉnh cao cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu”.
Vì thế, thập giá chính là biểu tượng sống động của vương quyền Đức Kitô. Đứng dưới chân thập giá, một đàng các kỳ mục, quân lính và dân chúng chế nhạo: “Nếu ông là Vua dân Do Thái, ông hãy tự cứu mình đi”, đàng khác, ngược lại, anh trộm lành thống hối ăn năn, bênh vực sự vô tội của Chúa Giêsu, và đặc biệt là anh đã thực sự tin vào Chúa Giêsu như là vị vua thiên sai: “Lạy Ngài khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Đáp lại lòng tin và lời khẩn cầu của anh, Chúa Giêsu đã hứa ban thiên đàng ngay cho anh, ở nơi đó anh chung hưởng vinh quang hạnh phúc với Người mà anh đã chia sẻ một khổ hình thập giá.
III. Kitô hữu là sứ giả của Vua Kitô
Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương chính là bản tính của Ngài, đạo của Ngài hẳn là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương, và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như Ngài quả quyết: “Tôi bảo thật, những gì anh em làm cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đã làm cho chính tôi”. Như vậy, mỗi Kitô hữu là sứ giả của Vua Kitô được mời gọi để phân phát tình yêu thương, lòng tha thứ, khoan dung, những tin vui đến cho mọi người, nhất là những người cùng khổ bất hạnh. Trong cuốn sách “One heart full of love: Con tim tràn đầy yêu thương”, Mẹ Têrêsa Calcutta đã cảnh giác: Đức Giêsu đã lấy sự trao ban trọn vẹn toàn thân mình làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét chúng ta trên những gì đã làm cho người nghèo khổ, trên thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng ta: “Ta đói, nhưng các ngươi đã không cho ăn. Ta đói bánh, đói sự công bằng, đói nhân phẩm con người, nhưng các ngươi đã bỏ mặc ta!”.
Bởi vì Chúa Giêsu cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ; Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương; Ngài cần đến đôi chân của chúng ta để đến với mọi người. Đó là tiêu chuẩn, là điều kiện để được vào vương quốc Nước Trời. Bởi vì như cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Ngài không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta nhớ lại rằng thế giới này rồi sẽ qua đi, và chúng ta phải trình diện trước mặt Đấng vừa là vua, vừa là thẩm phán. Chúng ta tôn vinh Đức Kitô là vua khi chúng ta tưởng niệm công cuộc cứu chuộc của Ngài. Chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn, mến phục, tin tưởng và hy vọng ngày hồng phúc chúng ta được vào vương quốc yêu thương, vương quốc công lý và sự thật của Ngài. Amen
Ở thời nào con người cũng đề cao tình yêu, nhưng tìm được một tình yêu tinh ròng không lợi dụng, không ích kỷ mà chỉ biết yêu và hy sinh cho người mình yêu là điều rất khó. Đây chính là tình yêu cao thượng. Không giống như tình yêu lãng mạn, tình yêu cao thượng có nghĩa là cho người yêu của mình những gì mà người yêu cần mà không kỳ vọng nhận được bất cứ một điều gì đáp lại. Tình yêu cao thượng cũng hiện hữu trong các mối quan hệ khác của con người, không phải chỉ có trong tình yêu đôi lứa.
Nhưng liệu trong đời này còn có tình yêu dám chấp nhận thiệt thòi và sẵn sàng tha thứ? Hi sinh vì người khác mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì? Dường như trong cuộc sống ngày nay, rất khó để chúng ta tìm thấy một người sống dám sống mình vì mọi người. Hình như cách sống cao thượng quá khó với con người ngày nay?
Cách đây hơn 2000 năm người tử tội bên hữu Chúa đã nhận ra một tình yêu tinh ròng ấy. Chúng ta hãy hình dung khung cảnh đồi sọ vào giờ tử nạn của Chúa Giêsu quả thực u ám. Đám đông dân chúng từng được Chúa ban ân huệ ăn bánh của Người, thế mà hôm nay, đang hùa theo các thủ lãnh và quân lính cười nhạo và chế giễu Chúa: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.” Bên cạnh thập giá Chúa cũng có hai người trộm cướp bị đóng đinh. Một trong hai kẻ tử tội sỉ nhục Chúa rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô hãy tự cứu Ông và cứu chúng tôi nữa.”
Nhưng chính vào giây phút tăm tối ấy, một ánh sáng vừa lóe lên. Một người tử tội bên phải thưa với Chúa: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi, ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với ta.”
Qua đây, Chúa Giêsu đã mạc khải cho người trộm lành, cho toàn thể dân chúng, quân lính, các thủ lãnh và toàn dân Isarel đang đứng dưới thập giá: Người là vua nhân hiền, đầy tình thương xót và tha thứ. Nước Người là Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Thần dân của Ngài là tất cả những tâm hồn thành tâm thiện chí, biết mở rộng lòng đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Cờ hiệu của Ngài là thập giá đưa đến vinh quang. Hiến pháp của nước Thiên Chúa là giới luật yêu thương: yêu Thiên Chúa hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn và yêu thương và anh em đồng loại như chính mình.
Tai sao giữa lúc tối tăm đó, người trộm lành lại can đảm thốt lên điều đó? Giữa lúc mà mọi người đã bỏ Chúa, giữa lúc mà mọi người đang nhục mạ Chúa, mà người trộm lành lên tôn vinh Chúa? Vâng, anh đã tôn vinh Chúa không phải vì Chúa đã thành công theo lối nhìn ở đời mà quan yếu là anh đã cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho nhân thế.
Ngay trên khổ giá của mình, anh thấy trong bao lời trách mắng về Ngài với những câu như : “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá”. Nhưng những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc 33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc 23:42).
Vâng, chính Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Một vị vua không đăng quang trên ngai vàng mà trên cây thập giá. Một biểu tượng cho tình yêu tự hiến chết cho người mình yêu. Một biểu tượng cho tình yêu bao dung dành tình yêu cho cả kẻ làm hại mình.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế. Hành trình nào cũng có khó khăn, đôi khi cả vấp ngã, nhưng hãy tin tưởng và cầu xin Vua tình yêu nhớ đến chúng ta ngay bây giờ và trong vương quốc của Ngài.
Xin Vua Tình yêu thống lĩnh gia đình và từng người chúng con trong vương quốc của Ngài để nhờ đó chúng con luôn được che chở bình an trong sự quan phòng đầy tình yêu của Chúa. Amen
Giêsu yêu thích tước hiệu Mục tử, Tôi tớ, Con Người, và đôi lúc, tước hiệu Thầy hoặc Messia hơn tước hiệu Vua. Thế mà để chế diễu vương quyền của Ngài thì đây là những thứ mà người ta dâng cho Ngài: Một triều thiên bằng gai nhọn, một chiếc áo choàng đỏ để nhạo báng Ngài, một bảng hiệu Nhà Vua đóng trên thập giá. Quả thật, như chính Ngài nói, Nước của Ngài không thuộc trần gian nầy.
Sách 2 Samuen 5,1-3: Vương quyền của vua Đa vít cho phép ông thực hiện sự hiệp nhất tất cả các chi tộc Israel và khai mào thời đại lẫy lừng nhất trong lịch sử Dân Thiên Chúa. Đó là biểu tượng cho cuộc chiến thắng cuối cùng mà mọi người trông đợi theo Lời Hứa. Tuy nhiên cần phải có một cuộc biến chuyển thiêng liêng để từ cái nhìn còn rất phàm tục về cuộc chiến thắng ấy đi tới chiến thắng của Vương quyền Đức Ki tô.
Thánh vịnh 121: Trên đường phố Giêrusalem, tín hữu Do thái hành hương hân hoan ca hát vì đã được đến gần Thành Thánh, thủ đô được Đa vít thiết lập, và chờ đợi ngày trở thành trung tâm thế giới. Đối với người Ki tô hữu, Giêrusalem đích thực chính là Hội Thánh.
Thư Côlôsê 1,12-20 Đối với Phao lô, sức mạnh chiến thắng của Tình yêu Thiên Chúa, được biểu hiện hoàn toàn trong Chúa Giê su là điều đã tiềm tàng sẵn trong Tạo Thành ngay từ nguồn gốc. Đức Ki tô, hình ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa vô hình đã hoạt động trong suốt dòng Lịch sử, trước khi tỏ hiện hoàn toàn nơi Chúa Giê su.
Tin mừng Lc 23, 35-43
NGỮ CẢNH
Đọan văn nầy nằm trong phần trình thuật cuộc Khổ nạn của Chúa Giê su (Lc 22-23). Phần cuối của chương 23 cho chúng thấy điểm đến con đường thập giá mà Chúa Giê su khởi sự từ cuộc xuất hành đi về Giê ru sa lem (9,31). Sau khi được ông Simon, người Ky rê nê vác đỡ thập giá (23,26), và an ủi những kẻ khóc thương Ngài (27-31), Chúa Giê su bị đóng đinh giữa hai tên gian phi (32). Bây giờ là thời điểm của quyền lực tối tăm: các thủ lãnh dân chúng và quân lính đứng dưới chân thập giá cười nhạo Chúa Giê su (35-38), nhưng đó chính là lúc Tình thương xót cứu độ lên ngôi: Chúa Giê su hứa ban Nước Trời cho người kẻ trộm sám hối.
TÌM HIỂU
Theo ý họ: Lc không muốn nói rằng chính người Do thái đã đóng đinh Chúa Giê su trên thập giá, nhưng nhấn mạnh rằng trong cái chết của Chúa Giê su trách nhiệm thuộc về dân chúng, các thủ lãnh của họ cũng như Phi la tô.
Theo sau: vác thập giá theo sau Chúa Giê su là một kiểu nói đặc biệt chỉ cách sống của người môn đệ theo Thầy mình: “Nếu ai muôn theo sau ta, hãy vác thập giá mình mỗi ngày và đi sau ta” (9,23; x. 14,27). Ông Si môn Ki rê nê trở thành mẫu mực cho người môn đệ.
Dân chúng: sau khi đã cho độc giả hiểu rằng chính đám đông dân chúng đã dự phần vào cuộc kết án Chúa Giê su (23,13), Lc giờ đây mô tả họ đi theo Chúa Giê su đến Can va ri ô. Đám đông đi sau Ngài như người môn đệ. Nhiều phụ nữ: chỉ có Lc trong cảnh nầy cho thấy phản ứng duy nhất tỏ lòng thương xót đối với Chúa Giê su. Trong sách tin mừng, ông không kể lại việc xức dầu ở Bê ta nia (Ga 12,3-8). X. c 49. Lại một lần nữa, Lc nhấn mạnh đến sự hiện diện của các phụ nữ gần Chúa Giê su.
Quay lại: ngay cả trên đường thập giá, Chúa Giê su cũng giảng dạy. Lời cảnh giác của Ngài nhắm đến độc giả chỉ biết than khóc, nhưng không được hiệu quả nào cả: sự khóc than mà Chúa Giê su chờ đợi là hoa trái của lòng thống hối chân thật (3,8), cho phép thoát khỏi án phạt dành cho “cây khô héo”.
Sẽ tới những ngày: tất cả các đoạn diễn từ ngắn nầy thuộc về loại văn khải huyền, được dùng để đưa ra giáo huấn về ngày tận cùng (c.21).
Phúc thay: mối phúc bất ngờ nầy, đã được diễn đạt theo hình thức phủ định ở câu 21,23 đối chọi với mối phúc của người phụ nữ cho con bú (11,27). Sẽ đến những ngày khủng khiếp đến nỗi những người phụ nữ không con được gọi là có phúc; họ có thể chạy thoát khỏi cảnh tàn phá; họ không than khóc vì không có con cái bị thử thách hăm doạ.
Cây: người ta gom cành khô lại, bỏ vào lửa và đốt đi (x. Ga 15,6).
Hai tên gian phi: Ở câu 22,37, ông đã nhắc lại lời sấm của Isaia 53,12: “Người bị liệt vào hàng phạm pháp”. Rõ ràng có nhiều ám chỉ đến CƯ trong trình thuật Khổ nạn theo Lc.
Lạy Cha: cả hai lời cầu nguyện của Chúa Giê su trên thập giá (x.c.46) cho thấy Ngài trong tương quan với Thiên Chúa được trình bày như là Cha Ngài.
Xin tha cho họ: x. Is 53,12. Ở đây lặp lại và là đỉnh cao của chủ đề về tha thứ, như thường được nhấn mạnh trong Lc (đứa con hoang đàng, người phụ nữ tội lỗi, tha thứ cho thù địch..). Trên thập giá tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giê su cũng được nhấn mạnh. Tha thứ cho cả những kẻ Ngài đến để cứu thoát nhưng đã từ khước Ngài. Công thức không nói rõ, cho phép áp dụng cho tất cả mọi người từ khước Chúa Giê su (x. 1Pr 2,22-24).
Qua câu nói nầy, Chúa Giê su được giới thiệu như là gương mẫu cho người ki tô hữu (x. 6,36-37). Tê pha nô sẽ là người đầu tiên bắt chước Thầy mình (Cv 7,60).
Họ không biết: lời khẳng định nhằm mục đích không buộc tội những người đã đóng đinh Chúa Giê su: họ từ khước Người vì họ không biết Người. “Không một ai trong các thủ lãnh thế gian nầy đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá” (1Cr 2,8). X. Cv 3,17.
Áo của Người: ám chỉ đến câu Tv 22,19. Có nhiều ám chỉ đến khác đến Tv nầy (như 22.8-9) cho thấy, cuộc khổ nạn của Chúa Giê su không phải là một tai ương bất ngờ mà là một điều đã được dự định trước trong thánh ý Thiên Chúa Cha.
Đứng: Lc muốn đối chọi thái độ đau buồn và lòng trung tín của dân với thái độ ngạo mạn và nhạo báng của các thủ lãnh và quân lính.
Cười nhạo: x. Tv 22,8-9.
Người được tuyển chọn: kiểu nói nầy lặp lại tước hiệu mà Chúa Giê su đã nhận lãnh trong cuộc Biến hình (9,35). Người ta thấy các tước hiệu vương đế xuất hiên nhiều trong các câu nầy (23,35.37.38.39.42). Lc còn cho các người chứng kiến lặp lại ba lần: “Hãy cứu lấy chính mình đi!”. Có lẽ đó là phần đầu của lời chào tập thể: “Hãy cứu lấy mình và cả chúng ta nữa”. Điều nầy sẽ được thực hiện trong sự Phục sinh.
Giấm: x. Tv 69,22.
Tên kia: chỉ có Lc lưu ý đến cách hành xử khác biệt của hai tên gian phi nầy. “Tên trộm lành”, tự nhận mình là kẻ có tội, làm chứng cho sự vô tội của Chúa Giê su. Nhưng điều quan trọng là nó đã cho thấy mình là một người tín hữu gương mẫu: trong giây phút khó khăn cùng cực của mình và của Chúa Giê su, anh ta đã xác định đức tin của mình vào tương lai của Chúa Giê su. Do đó, Lc trình bày ông ta như mẫu mực cho các ki tô hữu bắt chước.
Tôi bảo thật: Lc tác giả duy nhất dùng kiểu nói nầy đến sáu lần nhằm nhấn mạnh đến sự trang trọng của lời tuyên bố.
Hôm nay: từ đặc biệt của Lc. Ông sử dụng từ nầy cho các thiên sứ ở Bết lê hem (2,11), trong phép rửa của Chúa Giê su, theo một vài bản thảo (3,22), trong hội đường Nagiarét (4,21), trong việc chữa lành người tê bại (5,26), trên đường đi lên Giê ru sa lem (13,32-33), trong nhà ông Gia kêu (19,9). Ở đây, kiểu nói nầy tóm kết toàn bộ nội dung trong thời khắc mà Chúa Giê su trên thập giá hứa rằng “hôm nay” ơn cứu độ sẽ đến cho người nầy”.
SỨ ĐIỆP
Chủ nhật cuối cùng của năm Phụng vụ dành để mừng lễ Đức Ki tô Vua vũ trụ. Nhân dịp nầy, Tin mừng giới thiệu diện mạo gây ngạc nhiên của Chúa Giê su trên thập giá giữa hai tên trộm trong vòng vây các thù địch ra sức chế nhạo, còn các môn đệ bỏ Ngài chạy trốn. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn bên kia dáng vẻ bề ngòai: thánh Luca không trình bày cuộc Khổ nạn Chúa Giê su như một thất bại, nhưng như một chiến thắng của sự Sống. Như thế, Đức Ki tô là Vua bởi vì Ngài đã là người đầu tiên đi vào sự Sống với nhân tính của Ngài. Vương quyền của Ngài là vương quyền của một vị mục tử đi trước đàn chiên để dẫn đưa về ràn. Đó không phải là một uy quyền tìm cách chế ngự, mà là để cứu thoát. Quyền bính ấy không nhằm đàn áp, nhưng thu hút mọi người đến với Ngài và mở đường cho chúng ta Con đường sự Sống.
Mừng lễ Đức Ki tô Vua vũ trụ là một cách mừng lễ Phục sinh một lần nữa. Sau khi chết trên thánh giá, Chúa Giê su đã sống lại. Ngài đi vào Sự sống và mở lối cho mọi người cùng vào với Ngài. Người mà chúng ta gọi là “người trộm lành” đã là người đầu tiên được hưởng lời hứa nầy: “Ngày hôm nay, anh sẽ lên thiêng đàng với ta”. Và có nhiều người khác đã theo anh. Ngay cả những người tội nhân nổi tiếng nhất cũng có thể hướng về phía thập giá Đức Ki tô và nghe tin mừng ấy. Ngay giữa lòng đau khổ, đã lóe lên niềm hi vọng. Sự Sống đã có tiếng nói sau cùng. Trên thánh giá, Chúa Giê su khai mạc một đời sống mới. Hơi thở cuối cùng của Ngài là một hơi thở sáng tạo.
Trong thư Côlôsê, thánh Phao lô viết rằng Thiên Chúa “đã muốn hòa giải với tất cả mọi người qua Chúa Giê su và nhờ Ngài, trên trời và dưới đất”. Thập giá của Chúa là một giao lộ. Đó là giao lộ giữa Thiên Chúa giao ước và con người được giải thoát khỏi sự dữ và tội lỗi. Đó cũng là giao lộ của con người được hòa giải và biến đổi bởi tình yêu diệu kì đã mang lấy Đức Ki tô. Thánh giá Đức Ki tô là dấu chỉ sự hòa giải, và là lời mời gọi loại bỏ bạo lực ra khỏi cuộc đời và thế giới. Chúng ta hãy nhớ lại Đa vít, cậu bé chăn chiên ở Bết lê hem. Khi đã lên ngôi, ông đã qui tụ các Vương quốc phía Bắc và phía Nam. Hình ảnh ấy là lời loan báo công trình qui tụ của Đức Ki tô đã hòa giải mọi dân tộc trên trái đất nhờ máu Ngài. Đó cũng là lời mời gọi chúng ta, những môn đệ Chúa Giê su, nỗ lực trong việc hòa giải ấy mọi nơi cần thiết.
Ngày chủ nhật hôm nay, chúng ta dành thời giờ hướng về Đức Ki tô trên thánh giá. Ngài đã chịu nhiều bất công, chế nhạo và nguyền rủa. Nhưng Ngài không đáp trả. Trái lại Ngài vẫn tỏ lòng thương xót và tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Thông thường, để đánh dấu ngày nhậm chức, các vua và tổng thống thường có thói quen xử dụng quyền ban ân xá của mình cho các tội phạm. Các tù nhân được miễn án. Đức Ki tô lên ngôi trên thập giá cũng tha thứ cho người trộm lành sám hối. Ngài đưa anh ta vào con đường phục sinh. Người tử tội ấy lợi dụng giây phút cuối cùng để tuyên xưng đức tin và nhờ vậy mà được cứu thoát. Anh nhận ra nơi Chúa Giê su đấng khai mạc một Vương quốc mời gọi tất cả những người tội lỗi. Người môn đệ vào những giây cuối cùng nầy là người tháp tùng bất ngờ với đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết. Tin mừng ấy cũng là tin mừng cho mỗi người trong chúng ta. Đức Ki tô sống lại muốn nối kết tất cả vào trong chiến thắng của Ngài và đưa chúng ta vào Vương quốc của Ngài.
Khi hướng về thập giá Đức Ki tô, chúng ta sắp hàng dưới bóng cờ của vị vua đầy lòng thương xót và tha thứ ấy. Trước nhan Ngài, chúng ta nhận rằng mình là người có tội và xin Ngài thương xót: “Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con”. Xin hãy nhớ đến chúng con đã làm nhiều điều xấu xa cần được tha thứ và làm hòa khi chúng con bị thương tổn vì những lời nói hay bài viết của những người mà chúng con tưởng rằng bạn bè. Xin hãy nhớ đến chúng con đã muốn mắt đến mắt, răng đền răng đối với những ngừơi đã làm điều sai quấy đối với chúng con. Xin hãy nhớ đến thế giới chúng con, thường là nạn nhân của sự thù hằn và leo thang bạo lực và trả thù. Chính trong thế gian nầy mà Ngài đã sai chúng con đến. Xin hãy giúp chúng con trở thành những người kiến tạo hòa bình, công chính và huynh đệ.
Đó là Vương quốc Đức Ki tô mà chúng ta hướng về trong ngày chủ nhật hôm nay. Nó không thuộc về thế gian nầy, nhưng được du nhập vào trong thế gian qua các hành vi tha thứ và bình an của chúng ta trong cuộc sống. Vương quốc nầy được mở ra cho tất cả mọi người không trừ ai, đặc biệt những người nghèo và bé nhỏ nhất. Khi hướng về thập giá Đức Ki tô, chúng ta nhớ đến sự khốn khổ của hằng triệu người, phụ nữ và trẻ em hôm nay. Nhiều người đau khổ vì nghèo đói. Một số khác mất tất cả vì chiến tranh hay thiên tai. Và chúng ta cũng không quên tất cả những nỗi đau khổ thầm lặng có thể rất gần với chúng ta. Chính nơi những người ấy mà Đức Ki tô đang chờ đợi chúng ta. Họ có vị trí ưu tiên nơi trái tim Ngài. Hơn nữa, chính Ngài hiện thân nơi mỗi người trong họ.
Vương quyền ấy của Đức Ki tô mà chúng ta mừng hôm nay đặt nền tảng trên tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Ngài tin tưởng nơi mỗi người chúng ta để chúng ta cùng với Ngài đến gần những người đang đau khổ. Khi cử hành Thánh lễ, chúng ta dâng lên lời kinh tha thiết: “Lạy Chúa, xin hãy nhớ đến chúng con trong Nước của Chúa. Xin hãy nhớ đến những người đang sống không hi vọng, không tình yêu!” Và chúng ta xác tín rằng một ngày nọ, Ngài sẽ trả lời chúng con: “Hôm nay, con sẽ ở với Ta trên thiêng đàng”.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Thành Hê-bron ở đâu?
THƯA: Hê-bron là thành phố miền núi Giu đê, nằm trên độ cao 1000 mét, cách Giê-ru-sa-lem 40 ki lô mét về phía Nam. Hê-bron là thành phố quan trọng đối với ba tôn giáo lớn, vì đó là nơi A-bra-ham mua một ngôi mộ chôn cất bà Sa-ra, trong hang Mak-pe-la. Đó cũng là nơi an nghỉ của nhiều tổ phụ: A-bra-ham và Sa-ra, I-sa-ac và Rê-béc-ca, Gia-cóp và Lê-a, và sau cùng là Giu se được đưa từ Ai cập trở về. 2. HỎI: Bối cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA: Vào thời xa xưa, ở vùng Trung đông, nhà vua thường được gọi là đấng được Xức dầu, đấng Messia. Sở dĩ như thế vì các Vua được trao quyền bính trong một nghi thức xức dầu một cách long trọng. Sau khi vua Sa-un băng hà, không có người kế vị, nên toàn thể các chi tộc đồng ý tấn phong Đa- vít làm vua Ít-ra-ên.
3. HỎI: Tại sao Đa-vít đã là Vua mà các kì mục Ít ra ên lại còn đến tìm ông ở Hêbron để xin ông làm vua họ?
THƯA: Đúng là Đa vít đã được công nhận là Vua nhưng chỉ trên một phần dân thôi. Vì thế ngày hôm đó, ở Hê-bron ngài chính thức trở thành Vua của 12 chi tộc Ít ra ên.
4. HỎI: Tại sao lại có tình trạng như thế?
THƯA: Như chúng ta đã biết, con cái Ít ra ên đi vào đất hứa vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, sau khi ông Mô sê qua đời. Trong khoảng hơn một thế kỉ sau đó, mười hai chi tộc sống độc lập với nhau, tuy vẫn giữ một mối dây liên kết là có một lịch sử chung, và nhất là đức tin vào một Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự. Đứng đầu chi tộc là một Thủ lãnh vừa lãnh đạo, vừa làm tiên tri. Về sau dân muốn có một Vua như các dân tộc chung quanh. Sau nhiều do dự, Samuên xức dầu phong Sao lê làm vua. Khi Xa-un qua đời, tình hình thêm phức tạp. Đa vít được xức dầu làm vua, nhưng chỉ trên chi tộc Giu đa ở phía Nam. Còn ở phía Bắc thì lại do một người con của Xa-un làm vua trong một thời gian. Sau khi ông nầy bị ám sát, các chi tộc phía bắc mới quay về Vua Đa vít. Và bắt đầu câu chuyện của bài đọc một.
5. HỎI: Tại sao gọi Vua là Đấng chăn dắt Ít ra ên?
THƯA: Để được làm Vua, phải được xức dầu, dầu ấy là dấu chỉ Thiên Chúa đã chọn lựa và ban Thần khí ở với Ngài. Và chính Thiên Chúa xác định cho ngài nhiệm vụ làm người chăn dắt, người mục tử cho dân Người.
6. HỎI: Bài tin mừng hôm nay có chủ đề nào?
THƯA: Bài tin mừng có chủ đề Vua: vừa là đối tượng của những lời nhạo báng (cc. 35-39); vừa là đối tượng của niềm tin phó thác và được tưởng thưởng (cc.40-43).
7. HỎI: Việc dân chúng nhìn Chúa Giê su nhắc lại điều gì?
THƯA: Việc dân chúng đứng dưới chân thập giá nhìn Chúa Giê su hoàn thành điều mà Thánh vịnh 22 đã nói đến ở câu 8: “Tất cả những kẻ nhìn con đều nhạo báng con..”.
8. HỎI: Các lãnh đạo tôn giáo nhạo báng Chúa Giê su như thế nào?
THƯA: Các lãnh đạo tôn giáo nhạo báng bằng cách nại đến việc Chúa Giê su tự xưng là vua Thiên Sai. Nếu Ngài là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa tuyển chọn, là Đấng Cứu thế, như Ngài nói thì hãy tự cứu mình đi.
9. HỎI: Lời nhạo báng ấy nhắc lại điều gì?
THƯA: Lời nhạo báng ấy nhắc lại các cơn cám dỗ mà Chúa Giê đã trải qua: khi bắt đầu sứ vụ (4,3). Ở Na gia rét, quê hương của Ngài (4,23), trong sa mạc (4,1-13).
10. HỎI: Quân dữ nhạo báng và khiêu khích Chúa Giê su những gì?
THƯA: Mỗi người tùy theo địa vị của mình mà khiêu khích Chúa Giê su về quyền năng cứu độ của Ngài: Các thủ lãnh do thái giáo thì thách thức: “Nếu mày là đấng Messia..”. Còn quân Rôma thì: “Nếu mầy là Vua dân Do thái”. Còn tên trộm bên trái thì gọi: “Nếu mày là Đấng cứu độ.”
11. HỎI: Chúa Giê su có trả lời không?
THƯA: Trên Thánh Giá Chúa Giê su không trả lời, Ngài hoàn toàn im lặng không đáp lại những lời khiêu khích của quân dữ. Vì Ngài biết rằng chỉ có Thiên Chúa mới cứu thoát, Ngài chờ đợi ơn cứu độ từ Thiên Chúa mà thôi. Ngài chờ đợi trong lòng tín thác vì biết rằng Thiên Chúa không bỏ rơi Ngài trong sự chết. Và nhờ đó, Ngài đã chiến thằng các cơn cám dỗ và trung thành với sứ mạng cho đến cùng và cũng không trốn tránh những hậu quả theo sau.
12. HỎI: Chúa Giê su đã đáp trả lời khiêu khích của người trộm dữ như thế nào?
THƯA: Người trộm dữ thách thức Chúa Giê su hãy tự cứu để sau đó cứu anh ta khỏi chết, Nhưng Ngài đã không chấp nhận lời thách thức ấy. Ngài đã không tìm cách né tránh cái chết nhưng biến nó thành lối đưa đến sự sống đời đời.
13. HỎI: Người trộm lành có thái độ như thế nào?
THƯA: Anh thống hối vì quá khứ tội lỗi của mình, và nói lên sự vô tội của Chúa Giê su. Đặc biệt hơn hết anh tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giê su là Đấng Messia và là Vua.
14. HỎI: “Ngày hôm nay” có nghĩa gì?
THƯA: Ơn cứu độ được thực hiện ngay tức khắc, chứ không ở tương lai, như sau khi Chúa Giê su sống lại hay vào ngày thế mạt.
15. HỎI: “Với tôi” diễn tả hạnh phúc như thế nào?
THƯA: Hạnh phúc hứa ban cho người trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Chúa Ki tô mà anh đã chia sẻ số phận của Ngài trên thập giá.
16. HỎI: Thiên Đàng là nơi nào?
THƯA: Thiêng đàng là từ được dùng ba lần trong Kinh Thánh chỉ một khu vườn có trồng cây (Dtc 4,13; Nk 2,8; Qo 2,5). Trong bản 70 từ Thiên đàng (= paraeisos) có nghĩa là vườn địa đàng (St 2,8.9.10.15.16). Đó là vườn tuyệt diệu, hạnh phúc. Ở trên thiêng đàng là cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời mà người Ki tô nào nhắm tới: “Ở với đức Ki tô là hạnh phúc; nơi nào có Ngài nơi đó có sự sống và có vương quốc”.
17. HỎI: Vương quyền của Đức Ki tô được diễn tả như thế nào?
THƯA: Bài tin mừng cho thấy Đức Ki tô thi hành vương quyền một cách rất thần linh, không phải bằng vũ khí khuất phục, nhưng bằng tình yêu chinh phục. Ngài không xuống khỏi thập giá để đè bẹp đối phương, nhưng bằng cách kéo mọi người lên với Ngài. Bằng cách bình tĩnh chấp nhận đau khổ, ngay trên thập giá, Ngài đã bắt đầu cuộc chinh phục mọi người. Bắt đầu là tên trộm lành (23,43), sau đó viên sĩ quan ngoại giáo (23,47), rồi đến đám đông (23,48), và sau cùng tất cả những ai tin vào Ngài.
Chúng ta đã sống qua cái thời quân chủ rồi, không ai còn thấy cái hình ảnh nhà vua nữa! Có chăng thì thấy nhà vua qua phim ảnh, qua sách báo thôi. Nhưng mà đúng là làm vua kinh khủng quá!
Người ta nói rằng làm quan thì cả họ được nhờ, còn làm vua thì không biết làm sao nữa! Làm vua thì có quyền ghê lắm!
Và chúng ta thấy nhà vua thì dân chúng không ai được gặp mặt, không ai được nhìn thấy mặt. Chúng ta xem phim mà mỗi lần mà ta thấy, nhà vua đi vi hành thì thôi chứ. Người ta nói rằng: “Hoàng thượng giá lâm” là coi như xong rồi đó! Người ta phải rạp mặt xuống dưới đất, người ta không dám nhìn lên, chẳng may mà người nào liều mạng mà nhìn vua, thì coi như bị chu di tam tộc.
Quyền lực của ông vua ghê lắm, trong một đất nước mà đứng đầu mà! quân chủ, coi như ông vua cầm quyền sinh tử dân của mình.
Ông ta có quyền “năm thê bảy thiếp”, ông ta đủ thứ quyền trong tay ông ta cả: - Ông ta muốn người này sống, là người này sống. Ông ta muốn người kia chết, là người kia chết. Ra cái quyền lực của ông vua nó cay nghiệt, và đó là hình ảnh của vị vua trần gian .
Ngày hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng, không phải mừng Vua của trần gian mà là Vua của Vũ trụ. Vị Vua này mang tên là Giêsu.
Vương quốc của Ngài vượt ra khỏi cái trần gian này, qua khỏi cái không gian và thời gian, bởi vì Ngài hằng có và Ngài đời đời! Vương quốc của Vua Giêsu là như thế!
Và cái câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy rất là vui! Có một nhà chú giải cho cái câu chuyện này là: “dụ ngôn về những nỗi ngạc nhiên”.
Chứ mà tiêu chuẩn người ta đánh giá là quần thần của nhà vua là những người phải làm lợi cho nhà vua, những người mang lại những điều lợi lộc cho nhà vua.
Thế nhưng mà, đặc biệt về vị Vua Giêsu ở đây, chúng ta thấy tiêu chuẩn mà đánh giá về “quần thần của Ngài, hay là những người trong Vương Quốc” của Ngài là gì?
“Là những gì mà ngươi làm cho chính anh em đồng loại, và đặc biệt làm cho những người bé mọn.”
Và Chúng ta không thấy một vị vua nào như Vua Giêsu:
Đã từ trời cao xuống, đã xuống đồng hoá với con người; đã sống với con người, ngoại trừ tội lỗi.
Chỉ vì tình yêu và với tình yêu, Vua Giêsu đã đến trong cuộc đời này và Ngài ôm chầm tất cả con người tội lỗi, con người nghèo, những con người bệnh tật.
Ngài đến không phải để tìm hạnh phúc cho gia đình mình, cho bản thân mình, cho triều đại của mình. Nhưng ngài đã tìm hạnh phúc, đã mang lại hạnh phúc cho những con người nghèo, những con người đau khổ.
Tiêu chuẩn đánh giá của Vua Kitô là như thế đó!
Và điều ngỡ ngàn thứ hai là trong vương quốc của Ngài, không phải là vương quốc bị giới hạn bởi bởi vật chất, bởi biên giới, của địa lý.
Và đặc biệt rằng triều đại của Ngài không phải như triều đại của các vua trần gian.
Các vua trần gian thì có triều đại , có vương quốc, có vương quyền đó! Nhưng mà đến lúc nào đó nằm xuống xuôi tay, tất cả đều để lại con số 0.
Còn Vua Giêsu là Vua vĩnh viễn, và Vua mãi mãi , Vua muôn đời. Và điều mà Vua hỏi mỗi người chúng ta rằng:
- Ngày xưa Ta đói, các ngươi có cho ăn hay không?
Và những người đạo đức thì nói ngay:
- Lạy Chúa, có bao giờ con thấy Chúa đói đâu, mà cho ăn! Thấy Chúa khát đâu, mà cho uống! Có bao giờ con thấy Chúa tù đày đâu, mà đi thăm! Có bao giờ con thấy Chúa trần truồng đâu, mà cho Chúa mặc!
Biên giới của Vua Giêsu đó là biên giới của tình yêu, ta khám phá ra khuôn mặt của CHÚA Giêsu Kitô làm vua.
Và ta nhìn lại cuộc đời của mỗi người Kitô hữu là những người sống trong Vương Quốc của Chúa Giêsu đó. Nó cũng có một cái gì đó nó phảng phất hình ảnh của vị vua .
Ngày xưa, khi mà chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta được mặc áo trắng, trao nến sáng, được Xức dầu . Và khi trở thành người Kitô Hữu, chúng ta được chia sẻ chức năng làm tư tế, làm tiên tri, làm vương đế, làm vua. Và mọi người đều được làm vua: làm vua của tình yêu, vua của vị tha.
Và mỗi người chúng ta được mời gọi, chúng ta họa lại hình ảnh của vua trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, trong khuôn mặt của chúng ta, trong cung cách sống của chúng ta.
Linh mục phải sống trong cái chức năng là người phục vụ, phục vụ cộng đoàn, phục vụ con chiên, phục vụ những người tín hữu mà Chúa trao phó.
Còn anh chị em trong đời sống hôn nhân gia đình. Anh chị em được mời gọi phục vụ chính gia đình của mình.
Và khi đặt vấn đề này mọi người nói:
À chuyện nhỏ, gia đình con thì đâu có gì vất vả, đâu có gì khó khăn đâu? Con vẫn lo cho vợ con, cho gia đình con đó chứ!
Nhưng mà ngày hôm nay, một cái thực tế đau lòng: Chúng ta nhìn lại nhiều gia đình đổ vỡ. Dẫu rằng giàu có lắm!
Có một cái câu chuyện: Thằng bé nó hỏi: Bố ơi bố, bố đi làm một tiếng được bao nhiêu tiền?
Bố mới nói rằng là bố đi làm một tiếng được 100.000 đ.
Cái thằng bé nó mới đưa ra 50.000đ.
Bố ơi con để dành được 50.000 đ. Bố cho con nữa giờ bố ở cạnh con.
Khi đó người bố mới sáng mắt ra rằng: Chỉ vì ham đi kiếm tiền thôi! Cắm đầu, cắm cổ mà không có thời gian dành cho gia đình đặc biệt dành cho con của mình! nên đứa trẻ nó phải nói lên như vậy.
Ngày hôm nay nhiều gia đình đổ vỡ. Bởi vì người ta không còn quan tâm đến nhau nữa! Người ta không còn yêu thương nhau nữa!
Những lời hứa hẹn ngày đám cưới , những lời hứa hẹn khi người ta tỏ tình đó đã trở thành mây khói rồi!
Người ta không cần lo lắng cho nhau người ta không còn tìm nhau nữa! Và người ta không còn tôn trọng cha mẹ người ta! người ta không có tôn trọng cái Bữa Cơm Gia Đình.
Có những người chỉ biết đi kiếm tiền về quăng cho con cái và con cái sử dụng những đồng tiền đó một cách vô tội: Cờ bạc, rượu chè, trai gái . Và khi chợt giật mình ra thì thấy rằng gia đình mình đã đổ vỡ rồi.
Và rồi, học để làm gì? Bố mẹ quăng tiền là đi mua được bằng Cấp! Học để làm gì? Ra trường vẫn thất nghiệp.
Và trong một cái xã hội giằng co như thế! Chúng ta lại là những người Kitô Hữu chúng ta được mời gọi sống lo lắng cho gia đình chúng ta. Chúng ta lo lắng cho những người con của chúng ta.
Ngày hôm nay, báo chí phản ánh một cái phần nào xã hội. Khi chúng ta nhìn thấy nhiều gia đình có tiền người ta tưởng rằng, người ta đi tìm tiền và người ta giao cho con người ta thế là người ta xong bổn phận. Nhưng đáng tiếc thay, khi có tiền rồi, thì quay lại: nhà tan, cửa nát.
Và khi chúng ta nhìn lại điều đó và chúng ta duyệt lại cái đời sống Kitô hữu của chúng ta . Chúng ta sống cái chức năng vua trong gia đình của chúng ta không đơn giản.
Đặc biệt Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2, Ngài chọn đúng cái bài Tin Mừng ngày hôm nay để mà mời gọi người ta, sống cái đời sống gia đình . Ngài lấy cái dụ ngôn ngày hôm nay, để ngài chất vấn về đời sống gia đình.
Khi mà ngày Cánh Chung , Chúa sẽ hỏi chúng ta rằng:
- Ngày xưa, là một người vợ: Ta không còn nhan sắc nữa ngươi có còn yêu thương Ta hay không?
- Ngày xưa, Ta là một thai nhi trong dạ mẹ , ngươi cố gắng giữ lại dù khi mà cuộc sống của ngươi lầm than!
- Ngày xưa, Ta vất vả trong gia đình, mà ngươi có cố gắng thương yêu ta hay không?
Đó là điều quan trọng mà Chúa mời gọi, Chúa hỏi chúng ta. Chứ Chúa không hỏi chúng ta là:
Xây bao nhiêu cái nhà lầu? Xây bao nhiêu cái biệt thự? Làm được cái điều này điều kia?
Học được bao nhiêu cái bằng cấp? Đỗ đạt trường này, trường kia. Làm ông này, bà nọ.
Chúa không hỏi chúng ta đâu!
Chúa hỏi chúng ta là lòng mến, lòng yêu thương, lòng bác ái và sự phục vụ và nhất là phục vụ những người nghèo.
Và những người nghèo đó ở đâu?
Ở ngay trong chính gia đình chúng ta. Nơi những người thân của chúng ta. Nơi người mẹ già đang lớn tuổi, cho ăn rồi mà bảo chưa được ăn. Ở nơi người bố già tính lẩm cà, lẩm cẩm một tí xíu bởi vì quên trước quên sau. Nơi những cái con người khuyết tật, nơi những con người kém may mắn hơn chúng ta, ngay trong gia đình chúng ta.
Nhiều khi chúng ta lo đi đâu đâu làm việc bác ái ở đâu đâu đó! mà ngay trong gia đình chúng ta những người nghèo đầy đó! Nhưng mà chúng ta không quan tâm, chúng ta không để ý! Và chúng ta chết, chúng ta sẽ được Chúa chất vấn!
Chúng ta được ở bên trái, hoặc ở bên phải đó là cách trả lời, cách sống của mỗi người chúng ta: “ Khi xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta mình trần, các ngươi cho mặc hay không?
Vị Vua Giêsu là Vua Tình Yêu không tìm gì cho chính mình cả, mà mang lợi ích cho người khác, hy sinh chính mình, mạng sống mình, hy sinh cả cuộc đời của mình. Để mang niềm vui, mang sự sống cho người khác.
Chúng ta là những người mang tên Giêsu, mang tên người Kitô hữu trong cuộc đời chúng ta, nhưng liệu rằng chúng ta có sống giống như Giêsu đã sống! Chúng ta có sống đúng với con đường yêu thương, phục vụ mà Giêsu đã sống hay không.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để dẫu rằng cuộc đời chúng ta vẫn còn đó những thăng trầm, những vất vả, những yếu đuối.
Xin Chúa thêm ơn để chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu , một vị Vua Tình Yêu. Để chúng ta: ngày mỗi ngày, chấm mỗi chấm cái tình yêu đó.
Để khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, chúng ta có một chỗ trong lòng của vương quốc Tình Yêu mang tên Giêsu. Và nơi đó chúng ta sẽ gặp lại anh chị em đồng loại chúng ta. Amen.
Chúa nhật 34 là Chúa nhật lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, đồng thời cũng là Chúa nhật cuối cùng của TN 34-ABC387
Chúa nhật 34 là Chúa nhật lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, đồng thời cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo hội hướng chúng ta về ngày chung cuộc của con người và toàn thể vũ trụ. Đó chính là ngày Tận thế. Trong ngày đó, mỗi người sẽ phải đối diện với cuộc phán xét chung do chính Vua Giêsu làm Thẩm Phán.
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Mathêu cho chúng ta thấy quang cảnh của ngày phán xét chung đó. Đức Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang và chung quanh Người có các Thiên thần hậu cận. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái: chiên là những người lành thì được thưởng trên Thiên đàng, còn dê là kẻ dữ sẽ bị phạt xuống Hỏa ngục (x. Mt 25,31).
Để đón chờ ngày Tận thế, ngày vị Thẩm Phán Giêsu ngự đến, chúng ta cần phải xác tín và thực hành những điều sau đây:
Thứ nhất, chúng ta luôn phải xác tín rằng có ngày Tận thế: Vấn đề này chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đức Giêsu cũng nói về ngày Tận thế rằng: “Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong ngày của Con Người cũng sẽ xảy ra như vậy.” (Lc 17,26). Người cũng nói với các Tông đồ: Thầy đi để dọn chỗ cho anh em và Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy (x. Ga 14, 2-3). Tin mừng Thánh Mathêu hôm nay cũng cho biết: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.”(Mt 25,31). Như vậy, có ngày Tận Thế, nhưng ngày đó đến lúc nào thì chúng ta không biết được. Chúng ta cần phải xác tín như vậy.
Thứ hai, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử toàn thể nhân loại: Thánh Phaolô khẳng định: “Tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:10). Về vấn đề này, Đức Giêsu cũng đã nói rõ ràng qua dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Qua dụ ngôn này, ông chủ chính là Đức Giêsu. Cuộc hành trình ông chủ đi xa chỉ việc Người về với Chúa Cha. Các đầy tớ là những người tin vào Đức Giêsu. Những nén bạc được trao cho các đầy tớ là những khả năng Chúa ban. Những nén bạc được các đầy tớ sinh lãi là những việc tốt chúng ta đã làm khi tận dụng các khả năng của mình. Sự trở về của ông chủ là việc Đức Giê-su trở lại trong ngày Tận thế. Khi đó, ông chủ tức là Đức Giêsu sẽ phán xét con người tùy theo công nghiệp của họ. Đầy tớ thứ nhất và thứ hai là hiện thân của những người được thưởng. Còn đầy tớ thứ ba là hiện thân của những người bị phạt. Như vậy, mỗi người chúng ta luôn phải nhớ rằng, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”: Có công thì được thưởng, có tội thì bị phạt. Nhờ đó, chúng ta luôn cố gắng làm lành lánh dữ.
Thứ ba, tiêu chuẩn để được thưởng và lý do bị phạt là luật bác ái: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đồng hòa Người với những kẻ bé mọn. Nên những ai giúp đỡ những kẻ bé mọn là giúp đỡ chính Người. Vì thế, Người nói với những kẻ lành rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25,34-36.40). Ngược lại, Người nói với những kẻ dữ rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!… Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25,41-43.45). Tóm lại, tiêu chuẩn để Đức Giêsu phán xét là luật bác ái yêu thương.
Thứ tư, chúng ta phải làm gì để đón chờ ngày Tận thế? Có ngày Tận Thế và ngày đó đến một cách bất ngờ như kẻ trộm (x. 2 Pr 3,10). Vì thế, chúng ta phải siêng năng làm việc để sinh lãi những vốn liếng Chúa trao như người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Chúng ta phải có thái độ như người đầy tớ tỉnh thức đợi chủ đi ăn cưới về hay như chủ nhà tỉnh thức để canh chừng kẻ trộm (x. Lc 12, 35-40). Chúng ta phải chuẩn bị dầu đèn đầy đủ như năm cô trinh nữ khôn ngoan (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt, mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực thi bác ái yêu thương, vì đó là tiêu chuẩn để chúng ta được vào Thiên đàng. Trong bài giảng “ngày quốc tế người nghèo lần thứ nhất” tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng định rằng: “Người nghèo là thông hành vào cửa Thiên đàng của chúng ta.” Và Ngài nhắn nhủ mọi người: “Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mưu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất.”
Lạy Chúa Giêsu là Vua Tình Thương, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống đức ái trong cuộc sống hằng ngày để mai sau chúng con có được giấy thông hành vào nước Thiên đàng với Chúa. Amen.
Tuần lễ cấp cao APEC 2017 diễn ra tại Đà Nẵng từ ngày 6 đến 11/11/2017, có các nhà lãnh đạo cấp cao của 21 nền kinh tế thành viên, trong đó có tổng thống Mỹ, Nga, chủ tịch Trung Quốc… và các quan chức khác trong và ngoài nước đến tham dự. Vì thế, để đảm bảo an ninh cho sự kiện quan trọng này, hơn 500 lính cứu hỏa, 800 cảnh sát giao thông và 1.500 cảnh sát cơ động, đặc nhiệm làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh tại Đà Nẵng. Học sinh, sinh viên nhiều trường ở Đà Nẵng cũng được nghỉ hai ngày 10 và 11/11 nhằm đảm bảo an ninh cho các nguyên thủ quốc gia đến. Ngoài ra, khi các nguyên thủ các nước đến, họ đem theo rất nhiều kẻ hầu người hạ, lính đặc nhiệm, lính mật vụ, chó nghiệp vụ, chuyên cơ, các loại vũ khí tối tân, các siêu xe dàn “khủng”, hạng siêu sang với những chức năng đặc biệt, chống đạn, chốn vũ khí sinh học, chống ám sát... hầu bảo vệ tuyết đối an toàn cho “các vua, chúa” trần gian của họ.
Hôm nay, Tuần lễ cuối cùng của Năm Phụng vụ, cùng với Giáo Hội Mẹ, chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ. Nhưng các Bài Lời Chúa mô tả vị Vua Giêsu mà chúng ta tôn thờ không phải như các vị vua, chúa, Tổng thống, chủ tịch một nước có nhiều lính tráng, vũ khí tối tân, các phương tiện chống đạn hiện đại hay sang trọng bậc nhất nhằm phục vụ và bảo vệ an toàn cho Vua Giêsu, nhưng quanh Ngài chỉ là các Tông đồ chài lưới và dân nghèo. Ngài đơn sơ, hiền lành, yêu thương phục vụ và sẵn sàng hiến mạng đề cứu độ tất cả mọi thần dân của Ngài. Cho nên, Ngài cai quản, chăm sóc và gìn giữ thần dân của mình không bằng binh hùng, tướng mạnh, không bằng vũ lực hay bạo lực mà bằng một Trái Tim Nhân Ái, bằng sự hiến thân, phục vụ và cho đi. Thần dân của Vua Giêsu Kitô bao gồm tất cả nhân loại, không phân biệt tuổi tác, giới tính, ngôn ngữ, màu da, chủng tộc.
Vương Quốc của Ngài không biên giới. Tình Yêu của Vua Giêsu dành cho thần dân qua việc Ngài hiến giá máu của Ngài để nên của lễ đền tội, Ngài hiến chính thịt máu của Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác chúng ta mọi ngày và mọi thời. Vì vậy, đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Vì chưng, chỉ có Chúa Giêsu là Đấng trung gian duy nhất giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền Tin Mừng cứu độ và là Đấng cứu độ duy nhất. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc trong Nước Chúa.
Thử hỏi Nước Chúa là nước nào, ở đâu? Thưa, Sách Tin Mừng kể rằng khi Đức Giêsu bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô, Ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" Ông đã làm gì?" Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Ga 18,33.36). Chúa Giêsu nói Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với Nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu. Cho nên, muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải ở trong Chúa và dõi theo đường lối của Ngài. Đường lối của Chúa là đường lối yêu thương phục vụ mọi người. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Êdêkien nói ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng sẽ chăm sóc chiên của Chúa. Chúa sẽ kéo chúng khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Con nào bị mất, Chúa sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Chúa sẽ đưa về; con nào bị thương, Chúa sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Chúa sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Chúa sẽ canh chừng. Thế rồi, khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, là Vua Giêsu, Ngài đã chăm sóc thần dân của Ngài như Chúa Cha bằng việc sinh ra ngoài đồng, ăn đon đả, ở ngoài đường và chết ngoài đồi vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Qủa thế, Vua Giêsu đến trần gian, Ngài không ở trong cung điện hay toà nhà nguy nga lộng lẫy có kể hầu người hạ, có các phương tiện tối tân bảo vệ, nhưng Ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, Ngài đến với dân chúng để rao giảng Tin Mừng cứu độ, Ngài đến với người nghèo khổ để an ủi họ, cho kẻ đói ăn, chữa lành các bệnh tật, đến với những người tội lỗi kêu gọi họ ăn năn, chăm sóc cô nhi quả phụ, tha tội cho tội nhân, cho kẻ chết sống lại và chính Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại để cho muôn người được sống và sống dồi dào. Cho nên, Chúa Giêsu trong Tin Mừng, Ngài khẳng định rằng con đường yêu thương là con đường tuyệt hảo dẫn vào Nước Trời. Chiên và dê, thiên đàng và hỏa ngục là hình ảnh tượng trưng người tốt kẻ xấu. Và tiêu chí duy nhất để Chúa phán xét và thưởng phạt đó là những việc làm bác ái với tha nhân, nhất là những người nghèo của Chúa. Cho nên, trong bài giảng thánh lễ Ngày quốc tế người nghèo lần thứ nhất, cử hành này Chúa Nhật 19-21 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, nhưng họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào thiên đàng của chúng ta…. Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mứu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất”.
Mừng lễ Chúa Ki-tô Vua hôm nay, trước tiên chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi và cho ta trở thành thần dân của Vua Giêsu Kitô, chúng ta cũng cảm tạ Thiên Chúa đã tuôn đổ muôn phúc lành xuống trên chúng ta, trên gia đình, cộng đoàn và Giáo Hội trong suốt một năm phụng vụ; đồng thời, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những thiếu xót trong bổn phận của một công dân trong Vương Quốc của Ngài; đặc biệt là những bổn phận của mình đối với gia đình, đối với giáo xứ, Giáo hội và xã hội bằng những việc hy sinh bác ái, bằng những đóng góp tài năng –công sức của mình. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết sống xứng đáng là thần dân của Chúa như lòng Chúa ước mong bằng việc nỗ lực từng ngày để nên trọn lành nhờ làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong Đức Kitô bằng việc: yêu thương thay cho ghen ghét, tha thứ thay cho hận thù, hy sinh thay cho ích kỷ, hiệp nhất thay cho chia rẽ…Đồng thời hãy luôn biết rộng mở trái tim và đôi tay yêu thương nhân ái bằng việc đến thăm viếng, an ủi, sẻ chia tinh thần cũng như vật chất để đỡ nâng những người nghèo khổ đang ở bên ta ngõ hầu trong ngày sau hết, Vua Giêsu cũng sẽ nói với chúng ta rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han". Với niềm tin ấy, chúng ta cùng nhau tuyên xưng Đức Tin.
Nhà danh họa Michel Ange có vẽ bức tranh "Ngày phán xét" trên trần nhà nguyện Sixtine. Bức tranh mô tả cảnh thiên đàng và hỏa ngục hai bên, Chúa Giêsu là vị thẩm phán. Bên trái Chúa là những kẻ dữ, thân hình tiều tụy, mặt mũi ủ dột. Bên phải Chúa là những người lành, thân thể rạng rỡ, gương mặt vui tươi...
Thiên Đàng thuộc về những người ở bên phải Chúa Giêsu là Vua thẩm phán, được Chúa mời gọi: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã viếng thăm. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù mà viếng thăm đâu? Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: Ta bảo thật các người: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính ta vậy."
Và hỏa ngục thuộc những kẻ đứng bên trái Chúa là Vua thẩm xét. Người quở trách họ: " Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã không thăm nom. Bấy giờ, những người ấy cũng sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hoặc ngồi tù mà không phục vụ Chúa đâu? Bấy giờ, Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy." (Mt. 25,34-46)
Không cần phải đợi đến ngày chung thẩm mới có thiên đàng hỏa ngục. Thiên đàng và hỏa ngục đang xảy ra giữa chúng ta ở đây, trong lúc này: có thiên đàng khi chúng ta biết chia sẻ với đồng loại; có hỏa ngục khi chúng ta đóng cửa lòng mình trước đau khổ của tha nhân.
Như thế, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mở rộng cửa lòng, mở rộng bàn tay ra thương giúp anh chị em chúng ta, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh, để được Chúa là Vua thẩm xét chúng ta khen thưởng chúng ta. (Theo "Công Giáo và dân tộc", số đặc biệt Giáng Sinh năm 1998-1999).
2. Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói?
Năm 1980 ở thành phố Paris (nước Pháp), có một linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa một nhà cha sở xin được trọ qua đêm. Cha sở tiếp khách rất thờ ơ, rồi chỉ cho linh mục đó lên gác xếp nhà xứ... Linh mục đó tên là Gioan Bosco, từ Turin, nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bậc hiển thánh. Khi nghe tin đó, cha sở đó nói:
- Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Gioan Bosco, tôi đâu có để ngài ở trên gác xếp ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài.
Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy. Chúng ta thương giúp họ là thương giúp chính Chúa, và chúng ta sẽ được Chúa trọng thưởng.
"Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi, không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh" (Trích "Sợi chỉ đỏ").
3. Là Vua tình yêu
"Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", quân lính đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải một tên bên trái... Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn". Lính tráng cũng chế diễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy cứu lấy mình đi." Phía trên đầu Người có bản án viết: "Đây là vua dân Do Thái" (Lc. 23,33-38).
Chúa Giêsu là Vua không những vì Người đã sinh ra làm người thuộc dòng dõi vua Đavít, mà vì Người là Con Thiên Chúa. Người không thiết lập Vương Quốc của Người như một vương quốc trần gian bằng sức mạnh bạo lực, mà bằng cái chết của Người trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người.
Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc trên thập giá Chúa Giêsu dòng chữ: "Đây là Vua dân Do Thái". Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu đó để nhắc nhở con người. Chúa Giêsu Kitô là Vua tình yêu, vì Người đã thực hiện một việc cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương nhân loại và để cứu rỗi con người.
Chúa Giêsu là Vua tình yêu. Người đã chứng tỏ tình yêu tuyệt đỉnh của Người bằng cái chết trên thập giá. Người là Vua tình thương nêu gương cho chúng ta sống yêu thương như Người. Đó là sứ điệp cao trọng hơn mọi sứ điệp mà Người mời gọi chúng ta thực hiện qua Tin Mừng hôm nay. Ai thực hiện sứ điệp yêu thương của Người, Người sẽ khen thưởng. Trái lại kẻ nào ích kỷ chỉ sống cho mình mà không biết yêu thương giúp đỡ người khác, nhất là những người nghèo đói đau khổ thì bị "Người đuổi đi khuất mắt Người mà vào lửa đời đời" (Mt. 25,41)
Như thế Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ: vào ngày chung thẩm mỗi người chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua thế nào, qua "những em bé nhỏ nhất", nghèo khổ, bất hạnh nhất. Không phải đợi đến ngày tận thế, mà ngay hôm nay chúng ta phải làm thế nào để được Vua Giêsu phán bảo chúng ta: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi" (Mt. 25,34). (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập II).
4. Vua phục vụ
Vua Bađa mời quan đại thần vào và bảo:
- Nay trẫm đã già yếu sắp chết rồi, khanh hãy giúp trẫm tìm người kế vị, vì trẫm không có con trai như khanh đã biết.
Quan đại thần đề nghị:
- Xin vua hãy chọn một trong hai quan hầu cận vua làm người nối nghiệp.
Vua bằng lòng cho gọi hai quan cạnh thần đến nhưng vua không biết chọn người nào. Ông muốn thử xem trong hai quan đó xứng đáng kế vị mình, nên hỏi người bên phải:
- Này quan Kaisô, nếu được làm vua thì quan sẽ cai trị dân như thế nào?
- Thưởng phạt công minh, buộc dân phải nghe theo tôi.
Quay sang quan cạnh thần bên trái, vua hỏi:
- Tâu bệ hạ, nếu tôi được làm vua, tôi sẽ cai trị bằng mệnh lệnh rõ ràng, - Phần quan Cassô, nếu được làm vua, quan sẽ làm thế nào?
- Tâu bệ hạ, hạ thần vẫn tiếp tục làm như hạ thần đã làm, là làm người hầu hạ giúp đỡ mọi người.
Vua hỏi tiếp:
- Như thế nghĩa là gì? - Tâu bệ hạ, chỉ có một sự khác biệt giữa vua và dân là chiếc ngai vàng, Vua đích thực phải là người phục vụ.
Thế là quan Cassô được chọn làm vua kế nghiệp vua Bađa.
"Vua đích thực phải là kẻ phục vụ". Như thế chỉ có một người xứng đáng nhất để chúng ta tuyên vương là Chúa Giêsu Kitô. Người đã tuyên bố: "Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc mọi người".
Người con dạy các môn đệ: "Vua chúa và thủ lãnh thế gian thì bắt kẻ khác hầu hạ và phục vụ mình. Phần các con không phải thế. Ai trong các con muốn làm lớn, phải làm đầy tớ hầu hạ mọi người".
Chúa Giêsu không bao giờ nói mà không làm. Trong bữa ăn cuối cùng với các tông đồ, Người đã hành động như người tôi tớ khi rửa chân cho các ông. Qua cử chỉ đó, Người cũng báo trước cái chết của Người trên thập giá. Cái chết đó thể hiện đến tột cùng tinh thần phục vụ vì yêu thương nhân loại của Người. Và cũng trong cái chết đó, Người thể hiện trọn vẹn Vương Quyền của Người. Mão gai mà các lý hình đội lên đầu Người vô tình đã nói lên tất cả ý nghĩa vương tính của Người. Chúa Giêsu là vua phục vụ và phục vụ cho đến chết vì thương loài người và để cứu rỗi con người.
Mỗi Kitô hữu được mời gọi tuyên xưng vương quyền của Chúa Giêsu bằng cuộc sống phục vụ, yêu thương và quên mình đối với đồng bào đồng loại, và yêu thương phục vụ đồng loại là yêu thương phục vụ chính Người, vì Người đồng hóa với con người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu thuật lại quang cảnh ngày phán xét chung. Khi Vua Giêsu tái giáng, Người phân xử và thưởng phạt mọi người theo những gì chúng ta đã hy sinh phục vụ anh chị em chúng ta. Người đồng hóa với tất cả những ai đang sống giữa chúng ta. Khi chúng ta chia cơm sẻ áo cho người anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng ta là chúng ta làm cho chính Vua Giêsu của chúng ta. Trái lại, khi chúng ta chối từ và quay lưng lại trước nỗi khổ đau bất hạnh tinh thần hay thể xác của đồng bào đồng loại chúng ta là chúng ta khước từ Chúa Giêsu, Vua vũ trụ.
Mừng kính Chúa Giêsu là vua hôm nay, chúng ta khấn xin Người đổ tràn đầy tình yêu xuống tâm hồn chúng ta, cho chúng ta bừng cháy lửa yêu mến và phục vụ theo gương Người hằng ngày, cho đến ngày Người trở lại thẩm xét chúng ta, để ngày đó Người sẽ nói với chúng ta: "Này những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi" (Mt. 25,34). (Theo "Lẽ Sống").
5. Cha đến với con ba lần
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Hội Thánh long trọng mừng kính Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ, là Vua muôn loài; đặc biệt loài người chúng ta. Lời Chúa trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua hôm nay nói gì với chúng ta?
Bài đọc thứ nhất và thứ hai mô tả dung mạo của Vua vũ trụ là Đấng chăm sóc chúng ta như mục tử chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên và từng con chiên. Người hy sinh chính mình Người trên thập giá để cứu rỗi chúng ta, cho chúng ta sống lại hưởng vinh quang với Người. Người quy tụ chúng ta trong vương quốc của Người.
Bài Tin Mừng hôm nay nhìn lại thái độ của chúng ta trong vương quốc là Hội Thánh của Người. Chỉ có một thái độ xứng đáng làm công dân trong Nước Người là yêu thương phục vụ như Người; và yêu thương phục vụ nhau là yêu thương phục vụ Người.
"Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em nhỏ bé nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính ta" (Mt. 25,40)
Có thể nhiều lần chúng ta đã bỏ qua những dịp may để chúng ta yêu thương phục vụ Vua Giêsu của chúng ta, như câu chuyện của cô Maria sau đây:
Cô được Chúa hứa đến thăm trong ngày. Cô vui mừng chuẩn bị và náo nức ngồi chờ. Bỗng có tiếng gõ cửa, cô vội chạy ra mở: nhưng đó là một người ăn mày. Cô đóng cửa lại ngồi chờ. Đến trưa lại có tiếng gõ cửa, cô chạy nhanh ra mở, thì lại là một cụ già ăn mặc rách rưới!... Mãi đến chiều tối mới có tiếng gõ cửa. Cô tin chắc lần này Chúa đến thật, nên càng chạy nhanh ra mở cửa, nhưng cũng không phải Chúa mà là một bà lão đói khát, xin cơm ăn nước uống. Cô nổi giận đuổi bà đi...
Cô buồn phiền mệt mỏi quá nên thiếp ngủ... Trong giấc mơ, cô thấy Chúa đến. Cô liền trách:
- Sao Chúa không đến như đã hứa với con?
- Cha đã đến với con ba lần, nhưng đều bị con đuổi đi.
Ước gì chúng ta không bỏ mất những dịp may như cô Maria trên đây. Chúng ta còn có rất nhiều dịp may như thế trong đời sống chúng ta, từ nay cho đến ngày Vua Giêsu trở lại phán xét chúng ta.
(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập III).
Ông Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!
- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?
- Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
da, để ở trên đầu trên cổ mọi nguời. Nói là phục vụ cho dân, thương dân như con đỏ, tất cả chỉ là những từ hoa mỹ, rổng tuếch, cùng lắm chỉ theo nghĩa tương đối mà thôi… Nhìn các ông vua trong chính quyền VN hôm nay, ta cũng đủ biết, họ chỉ lo cho cái ghế của họ, lo tham nhũng móc ngoặc, để lợi cho mình và gia đình trước đã. Còn dân chúng hả, may nhờ rủi chịu, lỡ nghèo ăn cắp ăn trộm con gà con vịt, phải tù rục xương, ráng chịu lấy!!!
Có một vị Vua kinh thánh nói đến, khác lạ hơn các loại vua nêu trên: Vua hòa bình – vua Tình Thương – Vua công lý – Vua của những người nghèo. Các danh xưng đó không phải chỉ là sáo ngữ, mà là sự thật. Chính vị Vua đó đã nói: “Ta đến là để phục vụ, không phải để được phục vụ, và làm giá cứu chuộc cho nhiều người. - Ai yêu sự thật sẽ đến cùng Ta.” Bao thế kỷ qua, có bao nhiêu người theo chân vị Vua đó... Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ; Hội thánh dành để kính Chúa Giêsu là Vua, có ý dâng lên Người tất cả công trình cứu chuộc và tuyên xưng Người là đầu và cũng là cuối cùng của thời gian. Bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, vừa nặng phần dụ ngôn, nên không thể nào hiểu được nó chỉ là một bài luân lý suông, mà còn là còn những qui tắc sống con người phải tuân theo để được hạnh phúc…. Đây là khung cảnh ngày cuối cùng của vũ trụ, nơi đây người ta phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa mọi việc mình đã làm cho tha nhân, lại được coi là làm cho Thiên Chúa…
Như trên đã nói, bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, cảnh ngày phán xét cuối cùng của vũ trụ, vừa là một dụ ngôn. Chúa Giêsu, Vua cao cả ngự trên ngai vinh hiển có các thiên sứ hầu cận, Người tách biệt kẻ lành người dữ, như tách biệt chiên với dê. Lúc đó người chúc phúc cho người lành vì họ đã làm mọi điều tốt lành cho Thiên Chúa. Khi đó, người lành nói: có khi nào con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống.v.v.. Vua Giêsu mới trả lời:Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta. Rồi Đức Vua quay sang kẻ dử … cũng nói như thế…
b/. Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa nói: “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Vua Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, đã chúc phúc cho những người lành, và đã mời họ vào Nước Trời, vì khi còn sống, họ quan tâm giúp đỡ kẻ nghèo khó, cơ nhỡ. Hóa ra Chúa quan tâm đến kẻ nghèo, người thấp bé, và Chúa nói: ai giúp đỡ họ, yêu thương họ chính là giúp đỡ, yêu thương chính Chúa.
Xã hội càng văn minh, càng có nhiều người nghèo đói. Chúng ta thử nhìn ngay xã hội VN chúng ta hiện nay. Hàng ngày báo đài ra rả nói, nào đất nước đang phát triển, vùn vụt đi lên, nào hàng năm bước phát triển kinh tế là bao nhiêu phần trăm đó, thu nhập bình quân đầu người là 700 USD = 14.500.000 $VN. Ta thử nhìn coi: VN hiện nay có trên 80 triệu dân; nhưng nông dân đã chiếm ít nữa là 80%. 10% là nông dân giàu, có của ăn của để, còn lại gần 70% nông dân nghèo ở nông thôn, có cơm ăn hàng ngày, dù chưa đói, nhưng… ta có dám nói họ là giàu không? Cần phải xây nhà để ở, hoặc mua chiếc xe Honda để đi, hoặc cưới vợ cho con, đó là cả chuyện nan giải, nhiều lúc phải đi vay nóng vay lạnh…Vậy mà nói dân giàu, đang phát triển? Vậy mà nói vua quan thương con như trứng mỏng…
Chúa Giêsu, Vua của tình thương; Nước của Người là Nước của tình thương, vì thế mọi việc đều xét định dưới ánh sáng của tình thương. Chúa nói: mọi việc bác ái chúng ta làm cho bất cứ ai, cũng là làm cho Chúa. Chỉ có một mình Vua Giêsu mới đồng hóa mình với thần dân Người, chỉ một mình Người mới hết mình lo cho nhân loại, Người sẵn sàng chết cho họ nữa…vì “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Đáng khâm phục thay…Vua Giêsu!!!
Câu chuyện: Đức Cha Gioan Cassaigne, làm TGM Saigòn từ 1940 đến 1955. Khi còn là linh mục, ngài rất quan tâm lo cho anh em Thượng K’Hor bị cùi, tại trại cùi Di Linh nhiều năm. Sau khi làm GM Saigon 15 năm, ngài đã về sống chung cùng anh em cùi Di Linh, và ngài đã ở đó 18 năm. Chính Đức Cha vì yêu thương chăm sóc anh em cùi K’Hor, mà ngài mắc phải bệnh cùi như họ và qua đời. Ngài được chôn cất tại đây giữa những người cùi, mà ngài gọi họ là anh em. Một tấm gương cao cả của lòng yêu thương như Chúa Giêsu nói: Điều gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta vậy. Gương của Cha Damien (và nhiều nguời khác), sống giữa những người cùi, rồi cùng chết với họ, đã là những tấm gương sáng ngời sẵn sàng thực hành Lời Chúa nói hôm nay…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Đón nhận Chúa và phục vụ Chúa không khó, nhưng giúp đở người khác vì danh Chúa, nhất là giúp người mà ta không thích, thật là chuyện vô vàn khó khăn. Bài TM hôm nay Chúa nói:“Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Ta có sẵn sàng thực hiện lời Chúa không?
Ngày lễ Kitô Vua, ta tưởng sẽ bắt gặp những đoạn sách thánh với đầy ắp những thuật ngữ của cung đình như Bệ Hạ, Bề tôi, Hạ thần, Triều thiên, Vương miện, thần dân, lãnh thổ, Vương Quốc … (bởi lẽ thời Cựu ước đầy dẫy các vị vua như Saule, Đavít, Salomon…). Nhưng Giáo Hội lại cho đọc trong bài I, Cựu Ước: một vị vua mục tử, tức vị vua đi chăn chiên. Trong bài đọc II, trích thư 1Cr, 15, có bóng dáng từ chiến thắng, vương quốc, nhưng lại là thắng xác chết (kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết) và Vương quốc trao cho Chúa Cha thì mắt trần chẳng thấy đường biên lãnh thổ. Còn trong bài Phúc Âm, Giáo Hội cho xuất hiện một vị vua thẩm phán xét xử, nhưng lại xét xử dựa trên những chuyện nhỏ mọn bình thường, ba cái lặt vặt, chứ chẳng động gì đến những chuyện lớn lao như hằng trăm ngàn tỉ (cỡ Vinashin), hoặc buôn lậu trốn thuế vỡ nợ, bể hụi vv ; và một vị vua thẩm phán xét xử nhưng lại đồng hoá chính mình với kẻ ăn xin.
Câu hỏi mà chúng ta sẽ phải trả lời là: Bài Phúc Âm của Mt 25 nói về ngày phán xét chung, phân biệt 2 hạng người bên tả bên hữu, dê với chiên, đó là dụ ngôn nói bóng nói gió hay là mô tả trước ngày phán xét chung sẽ diễn ra như vậy.
Có 3 trả lời cho câu hỏi trên. Trả lời nào cũng có tên tuổi của các nhà chú giải Kinh thánh nổi tiếng cả.
1. Không phải là Dụ ngôn, nhưng là mô tả tiên tri, báo trước ngày chung thẩm: Đức Kitô Vua sẽ xét xử thần dân của muôn thiên hạ dựa trên những việc bác ái yêu thương mà họ làm cho nhau. Bởi vì cái cốt lõi của Kitô giáo, giới răn mới của Đức Kitô là Yêu thương. Mười điều răn cũng tóm về “hai này mà chớ”, trước mến Chúa, sau yêu người. Mà theo Tin Mừng Gioan, ai nói mến Chúa mà không yêu người là nói dối, vì thế Vua Kitô sẽ xét xử theo luật. Luật Tình yêu trong những việc cụ thể: cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống…
Những chi tiết này rất khớp với “thương người có 14 mối: Thương xác 7 mối”: thứ nhất cho kẻ đói ăn, (2) khát uống, (3) rách rưới ăn mặc, (4) viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, (5) cho khách đỗ nhà, (6) chuộc kẻ làm tôi, (7) chôn xác kẻ chết…
2. Chỉ là dụ ngôn
Nhưng lối giải đáp trên cũng gặp vài khó khăn lớn: Bởi nếu số phận đời đời của mình chỉ tuỳ thuộc vào những hành vi bác ái làm cho người khác mà mình làm cũng chẳng cần biết là làm cho chính Chúa, vẫn được vào hưởng Nước Trời, thì địa vị của Đức Tin nằm ở đâu. Trong khi Tin là một điểm Chúa Giêsu rất nhấn mạnh: Ai tin thì sẽ được cứu rỗi – Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta.
Nếu phán xét chỉ nhắm vào các việc bác ái, thì ta cứ hùng hục giúp người đói khát đi. Chẳng cần vào Đạo làm chi, chẳng cần đến nhà thờ làm gì, vì Chúa Kitô Vua đâu có hỏi trong ngày phán xét: người đi nhà thờ tuần mấy lần. Một năm xưng tội mấy keo?Ăn chay mỗi năm mấy bận?
Lại còn những câu nói khác cũng của Vua Kitô thẩm phán. Ai tha thứ sẽ được thứ tha (tha thứ chứ đâu phải là cho ăn cho mặc). Anh em đừng xét đoán thì sẽ không bị xét xử (không xét đoán đâu phải là cho uống cho ăn), mà vẫn được trắng án, cho qua, không xét xử.
Lại còn những tội trong tư tưởng không bị Vua Kitô Đấng thấu suốt mọi tư tưởng trong tâm hồn, không xét xử các tội đó hay sao? (Ngài nói: nhìn người nữ mà ước ao phạm tội là đã phạm tội rồi) … Tức là nếu ta cứ vung tiền ra cho kẻ đói ăn, khát uống, mà trong lòng ta chẳng thương người chút nào, thì có được xếp vào bên hữu không?
Vì thế, người ta lại coi đoạn Tin Mừng này cũng chỉ là Dụ ngôn, nhằm nói lên một khía cạnh của Nước Trời như 3 dụ ngôn mà Matthêu kể liền trước đó: Chủ nhà và quản gia tỉnh thức, 10 trinh nữ, các nén bạc.
Dụ ngôn 1 là chủ nhà và quản gia tỉnh thức, vì chủ không biết giờ nào kẻ trộm đến, còn quản gia không biết giờ chủ trở về. Phải tỉnh thức kẻo chủ sẽ ném vào nơi khóc lóc nghiến răng.
Dụ ngôn 2 là Nước Trời giống 10 Trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. 5 cô được gọi là khôn ngoan đâu có phải vì tỉnh thức, cũng ngủ cả, nhưng khôn vì có đem theo dầu. Dầu, chàng rể, đèn đều là những ẩn ý của dụ ngôn, chứ Nước Trời thật mà như vậy thì hãng dầu nhớt Castrol sẽ không còn dầu để bán, bới ai trước khi chết cũng sắm cho bằng được một can dầu lửa đốt đèn “Hoa Kỳ”!
Đến dụ ngôn 3: những nén bạc: Khi vua trở lại sẽ tính sổ: cho coi 10 thành, 5 thành, hay phải vào nơi khóc lóc. Nén bạc, 5 thành, 10 thành … đều là những ẩn ý của dụ ngôn. Câu cuối của dụ ngôn này (25, 30) khi vua nói với đầy tớ chôn nén bạc không sinh lợi: Hãy tống nó vào nơi tối tăm, ở đó chỉ toàn khóc lóc nghiến răng (câu 30). Thì câu 31 là khởi đầu bài Tin Mừng mà anh chị em nghe hôm nay: Khi Con người hiện đến trong vinh quang có thiên thần hầu cận để xét xử. Chính vì có một loạt các dụ ngôn liên tiếp nhau như vậy, mà một số các nhà chú giải coi đây cũng là một dụ ngôn chứ không phải miêu tả sự thật.
3. Dụ ngôn nghĩa rộng.
Nếu chỉ xem đoạn tả trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một dụ ngôn thuần tuý, tức là một ví dụ cho dễ hiểu thì sẽ có nguy cơ xem thường các hành động yêu thương là cốt lõi của đạo Bác ái. Vì thế lời giải thứ ba cho câu hỏi: “Bài Tin Mừng này là dụ ngôn hay mô tả thật” sẽ là: Đây là Dụ ngôn theo nghĩa rộng.
- Bởi dụ ngôn có thể là lời tuyên phán long trọng: Những gì từ ngoài vào không làm cho người ta ra nhơ uế. Nhưng chính cái từ trong con người phát ra mới làm cho nhơ nhớp.
- Dụ ngôn cũng có thể là lời khuyên về cách xử thế: khi đi dự tiệc anh em đừng ngồi vào chỗ nhất.
- Dụ ngôn cũng có thể ám chỉ một hạng người nào đó. Có 2 người lên đền thờ cầu nguyện: Biệt Phái và người Thu Thuế.
- Dụ ngôn cũng có thể chỉ là một câu tục ngữ: Thầy thuốc hãy chữa lấy mình.
- Hay dụ ngôn thường là những so sánh, ví dụ, ví dầu cầu tre lắt lẻo. Nước Trời như hạt cải, như nắm men, mẻ lưới…
Vì thế dụ ngôn theo nghĩa rộng vừa là hình bóng ví von vừa là sự thật được mô tả.
Như dụ ngôn hôm nay: phân biệt Chiên và Dê là hình bóng. Xét xử về bác ái là sự thật. Nhưng cũng vì là dụ ngôn nên cũng chỉ nói lên một phần nào đó của Nước Trời của thời Cánh chung của ngày Phán xét, tức là Bác ái yêu thương cũng chỉ là một trong nhiều khía cạnh mà Vua Kitô sẽ dựa vào mà xét xử. Và có lẽ là để xét xử “muôn dân,” những người chưa biết Chúa: “Lạy Chúa có bao giờ con thấy Chúa…” Còn người Kitô hữu chúng ta, có nhiều con đường khác nữa để chúng ta có thể lọt vào của Nước Trời như can đảm tuyên xưng Ngài (10,30), thi hành ý Cha trên trời (7,21); sẵn sàng tha thứ (6,14), không đoán xét ai (7,1) v.v…
Một nét sự thật nữa trong dụ ngôn này là Vua Kitô đồng hoá mình với người mọn hèn nhất.
Mỗi lần anh em làm như thế cho kẻ bé nhỏ nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta. Brewer Mattocks đã có một bài thơ đại ý như sau: Một cha xứ nọ muốn trèo lên tận ngọn tháp nhà thờ để gần với mây trời thì gặp được Chúa dễ hơn vì Ngài sẽ ngự đến trong mây trời. Cha xứ hi vọng giơ tay với được Lời Ngài để đem về cho Dân Chúa. Thế rồi một ngày từ tháp cao linh mục nghe tiếng Chúa. Cha xứ vội kêu lên “Lạy Chúa, Chúa ở đâu – Lạy Chúa, Chúa ở đâu” và cha xứ nghe vọng lại tiếng Chúa: “Ta ở ngay dưới kia, trong từng người Dân Ta”.
Một linh mục trông coi xứ nọ muốn trèo lên ngọn tháp Nhà Thờ để, càng cao dễ gặp Chúa Trời đem Lời Người xuống cho Dân mong chờ Một hôm nọ cha nghe tiếng Chúa, cha vui mừng hỏi Chúa ở đâu Lời Ngài vọng lại từ cao: Con ơi Ta ở nơi từng người Dân Ta.
Xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch Nước. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo hoàng.
Quan nhất thời, dân vạn đại. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5). Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11).
Trong Hán tự, chữ 王 [wáng] là vương (vua). Ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Hán tự thâm thúy quá!
Vua trần gian còn như vậy, huống chi Vua Kitô. Vâng, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, Vua các vua và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Thật lạ, vì Ngài là Vua-đa-không, hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần gian: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,... Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Chính Chúa Giêsu đã xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22, 26-27).
VUA NHÂN LÀNH
Vua chúa trần gian là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, có quyền sinh sát trong tay: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu lại là Vua Nhân Lành, là Mục Tử Nhân Hậu, là Người Cha từ tâm, là Quan Tòa nhân ái.
Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed 34:11-12). Khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!
Thiên Chúa đã nói rất rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, người nào càng bất hạnh càng được Ngài thương xót nhiều. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm cho được MỘT con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).
Trong số các vua chúa trần gian, có mấy người đích thân vi hành để biết dân tình ra sao? Mấy ai được như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”.
Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm!
Thật ấn tượng với Đức cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!
Biết nhiều, khổ nhiều; thấy nhiều, chán nhiều, nghe nhiều, “nóng gáy” nhiều. Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Đức tin phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.
VUA HẰNG SINH
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác?
Chúa Giêsu là Vua của người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).
Chúa Giêsu đã đau khổ tột cùng nên Ngài có toàn quyền. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).
Thời quân chủ, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh. Cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, cứ thưa thẳng: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.
Chúa Giêsu là Vua nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15). Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!
Suốt những năm hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài nói: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Lòng Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này!
VUA CÔNG BÌNH
Phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua năm A dùng trình thuật Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử nhân loại. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là người lành, dê là kẻ dữ.
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).
Họ ngạc nhiên họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?
Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”.
Lòng thương xót cũng chính là tình yêu thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy! Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn chúng con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Chúa, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, các dân tộc thuộc vùng núi Cô-ca-dơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói: " Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các người đã chảy ra để đền bù cho tội ác này". Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng hay hối lộ nữa.
Hình ảnh của ông vua trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm nhập thể cứu độ. Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hóa thân làm người đề cứu độ con người. Cũng như ông vua Hồi giáo trên đã chịu đòn thay cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước, Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ con người.
Nói rõ hơn, Thiên Chúa yêu thương con người. Tình yêu ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng nhưng đã trở nên hữu hình, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là chính tình yêu của Thiên Chúa giữa người trần, có nghĩa là vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con Ngài để thực hiện ý định yêu thương của Ngài, như thánh Gioan đã viết: " Cứ dấu này chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đã sai con một xuống trần để cứu chuộc chúng ta". Chúa Giêsu đã đến, Ngài đã giảng dạy, và cuối cùng, Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá. Thập giá là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu và cũng là đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa, như Chúa đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu".
Nếu Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay đã thuật lại. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin Mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết: " Tôi bảo thật, những gì anh em làm cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đã làm cho chính tôi". Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi chính mỗi người Kitô hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
TMĐP- Mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Giá, biểu hiệu của Vương Quyền Thương Xót và thờ lạy Đấng là Thiên Chúa Tình Yêu chịu treo trên đó.
Nguyên nhân chính đưa đến cuộc tử nạn của Đức Giêsu được các chức sắc trong dân Ítraen biên sọan và đạo diễn chính là sự thất vọng của họ về vương quyền của Đức Giêsu, bởi Ngài không đáp ứng những gì họ trông đợi ở Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài; không phù hợp với những gì họ mơ ước ở vị Cứu Tinh, Đấng có sứ mạng giải phóng Ítraen khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, và tái lập triều đại hưng thịnh của vua Đavít (x. 2 Sm 5, 1.2)
Vì thất vọng với vương quyền của Đức Giêsu, vương quyền không như họ lập trình, người Do Thái đã tìm cách giết Ngài bằng chính điều họ thất vọng, khi tố cáo Ngài với quan tổng trấn Philatô, đại diện chính quyền Rôma: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xêda, lại còn xưng mình là Mêsia, là Vua nữa” (Lc 23,2).
Về phần Đức Giêsu, không chỉ một lần, nhưng nhiều lần, “vì biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,15), như sau những lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho đám đông nhiều ngàn người ăn no nê. Mãi cho đến lúc phải minh định vương quyền của mình, Ngài mới trả lời quan Philatô: “Đúng như quan nói: Tôi là vua”, nhưng “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18. 36.37), khi ông này hỏi Ngài: “Vậy ông là vua sao?” (Ga 18,35). Đây chính là lý do “Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó ghi: “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” (Ga 19,19), cùng với lý do các thượng tế và kỳ mục đã tố cáo Ngài tự xưng là Vua.
Không thuộc về thế gian này, vì Vua của vương quốc Ngài không “dùng uy mà thống trị dân, không lấy quyền mà cai trị” (Mt 20,25), nhưng là “Đức Vua nhân hậu ngồi trên lưng lừa con” (Mt 21,5), bởi “cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi” (Is 42,3).
Ngài là Vua “không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm gía chuộc muôn người” (Mt 20,28).
Là Vua Tình yêu, Vua sự sống; Ngài còn là Vua sự thật, vì Ngài đến để làm chứng sự thật “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8), Đấng đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Vì thế, lãnh thổ của vương quốc Ngài không là đất đai, núi đồi, sông biển, nhưng là tâm hồn mỗi người; hiến pháp của Nước Trời không là bộ luật được bảo vệ bởi toà án, nhà tù, nhưng là “giới luật mới” yêu thương, tha thứ; và dân tộc của Vương Quốc là dân thánh được cứu chuộc bởi máu của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ bao dung, giầu lòng thương xót.
Quả thực, Vương Quốc của Đức Giêsu không như các Nước thế gian, vì Vương Quyền của Ngài không để thống trị, nhưng cứu chữa; không trấn áp, luận phạt nhưng thương xót, thứ tha, và Thánh Giá chính là Vương Quốc, và Vương Quyền của Đức Giêsu, Vua Tình Yêu cứu độ.
Tin Mừng Luca tường thuật chi tiết cảnh tượng Đức Giêsu trên Thánh Giá: từ các thủ lãnh, lính tráng, dân chúng đến người gian phi cùng bị đóng đinh bên trái Ngài, tất cả đều cười nhạo, chế giễu, nhục mạ, thách thức Ngài: “Nếu ông thật là người Thiên Chúa chọn …, nếu ông thật là Vua dân Do Thái…, nếu ông thật là Đấng Kitô” (x. Ga 23,35.37.39). Những người này không ai bảo ai đã dùng cùng một danh hiệu Vua và luận điệu thách thức “cứu lấy mình đi” (x. Ga 23,35.37.39) để khích bác Đức Giêsu. Riêng anh gian phi bên trái Đức Giêsu thì thòng thêm câu: “và cứu cả chúng tôi với!” (Ga 23,39).
Trước những nguyền rủa, lăng nhục, Vua Giêsu nhân hậu và khiêm hạ đã không nói một lời, vì với Ngài đây mới là giờ trọng đại, ở đó Vương Quyền thương xót của Vua Giêsu được hoàn thành mỹ mãn, khi Ngài thì thầm cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Ga 23,34), và âu yếm ngước nhìn người gian phi bên phải và thều thào: “Tôi bảo thật anh, ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”, khi anh xin với Ngài: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Ga 23 42-43).
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Giá, biểu hiệu của Vương Quyền Thương Xót và thờ lạy Đấng là Thiên Chúa Tình Yêu chịu treo trên đó. Ngài là Của Lễ đền tội, xóa tội nhân loại, để chúng ta được đón nhận vào Vương Quốc Bình An của Ngài, như Ngài đã đón nhận anh gian phi và các tội nhân dám suy tôn Ngài là Vua.
Vua là người đứng đầu một vương quốc, là người có quyền lực trong mọi lãnh vực và được người ta tôn sùng. Tuy vậy, lịch sử cũng chứng kiến có những vị vua bị lật đổ vì nhiều lý do. Có thể do chính bản thân vị vua thiếu tài thiếu đức, nhưng cũng có thể do thay đổi chế độ, những người “chiến thắng” muốn phế bỏ một hệ thống chính trị mà họ coi như lỗi thời.
Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, cũng không giống một vị vua được phong vương sau khi đã chiễm lĩnh một vùng lãnh thổ. Chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Khi nghe nói đến Đức Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”, nhiều người trong chúng ta cũng liên tưởng ngay đến những vị vua mặc hoàng bào, ngồi trên ngai, có triều thần hầu cận với biết bao cung nữ cung phụng. Trong khi đó, Phụng vụ lại giới thiệu cho chúng ta một vị vua hoàn toàn khác: bị đánh bầm dập đến nỗi người thân không nhận ra, trần trụi không một mảnh vải che thân và bị hành hình treo trên thập giá. Thập giá là một hình khổ làm cho người bị xử vừa đau đớn vừa nhục nhã. Vị vua Giêsu không có lễ phong vương huy hoàng. Vị vua ấy đã tự nguyện hy sinh, bị hạ xuống tận cùng cùng nhuốc nhơ đau khổ. Chính trong hoàn cảnh này, Người được tôn làm người đứng đầu một vương quốc, mà người tôn vinh ấy là một người trộm cũng bị kết án tử hình và bị thi hành án cùng với Người:
“Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Qua lời cầu xin này, người kẻ trộm nhận ra vương quyền và vương quốc của Chúa. Xuyên qua một con người bị hành hình, anh ta nhận ra Người là Vua, là chủ một vương quốc và có quyền năng đón nhận những công dân mới vào vương quốc đó. Trong khi các thủ lãnh và một số người Do Thái muốn phế bỏ Đức Giêsu, vì họ coi Người như một tên phản loạn nhìn theo khía cạnh tôn giáo cũng như xã hội, thì một người trộm cùng hoàn cảnh với Người lại nhận ra Người là Vua. Cũng thế, trải dài suốt bề dày của lịch sử, có những người khôn ngoan uyên bác phủ nhận giáo huấn và vương quyền của Chúa Giêsu, thì có tầng tầng lớp lớp những người bé mọn và khiêm nhường lại tôn nhận Người là Vua và là lý tưởng của cuộc đời, và nhờ đó họ tìm thấy sự bình an hạnh phúc. Hãy nhìn hai người trộm cùng bị hành hình với Chúa Giêsu: một người tôn nhận vương quyền của Chúa; người kia lại phủ nhận quyền năng của Người. Nói như thế không có nghĩa là trong số những người tôn nhận Vương quyền của Đức Giêsu chỉ những người bình dân thất học. Không phải vậy, có rất nhiều nhà khoa học, những học giả trong nhiều lãnh vực khác nhau đã “nhìn thấy Thiên Chúa” qua những công trình nghiên cứu, và họ đã trở nên những tín hữu đạo đức, thánh thiện.
Vị Vua Giêsu hạ mình sâu thẳm đến mức “hủy mình ra không” để cứu vớt những con người đắm chìm trong tội lỗi. Người chuốc lấy đau khổ của nhân loại để nhân loại được hạnh phúc. Người mang lấy tội lỗi nhân gian để nhân gian được tha thứ. Đó chính là nét đặc thù làm cho vị Vua Giêsu hoàn toàn khác với các vua chúa trần gian. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tuyên bố điều ấy. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu khẳng định Người là Thiên Chúa cao cả và quyền năng. Mặc dù có bị đánh bầm dập, trần trụi, đau khổ, Người vẫn là Thiên Chúa và vẫn có quyền chấp nhận một người, dù nhiều tội lỗi, trở thành công dân của vương quốc vĩnh cửu.
Thiên Chúa là Đấng vô hình. Con người không thể thấy Ngài. Tuy vậy, qua Đức Giêsu, con người có thể nhận ra khuôn mặt bao dung và đầy lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô khẳng định với chúng ta: “Thánh Tử (Đức Giêsu) là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”. Qua Đức Giêsu, con người có thể “chạm tới” tình thương Thiên Chúa và nhận ra Ngài đang hiện diện.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Chúa Giêsu không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Tạ ơn Chúa cho chúng ta trở nên công dân của Vương quốc vĩnh cửu, qua Bí tích Thanh tẩy. Xin cho chúng ta biết trân trọng danh hiệu cao quý ấy, đồng thời cố gắng rập khuôn đời mình theo gương Vua Giêsu, để cùng chung hưởng vinh quang với Người, như lời Người đã hứa với người trộm lành năm xưa.
Hôm nay, đại lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ, chúng ta nhận ra rằng số phận của thế giới không nằm trong tay con người, nhưng trong tình yêu của Thiên Chúa. Các bài đọc Kinh Thánh vừa được công bố có cùng một chủ đề là vị thế trung tâm của Chúa Kitô. Người là trung tâm của tạo dựng, trung tâm của dân Chúa và trung tâm của lịch sử, là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, là vị Vua từ bi, thứ tha và hay thương xót.
Hướng nhìn lên đồi Calvariô nơi treo Chúa Giêsu Kitô trên cây Thánh Giá, chúng ta khám phá ra Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng vì đàn chiên, thương xót, tha thứ và cứu vớt tội nhân. Tấm bảng trên đầu có ghi: "Người này là vua dân Do thái" (Lc 23,38). Điều Philatô đã viết là đã viết. Hình khổ Vua chịu thật là khủng khiếp, mặt mày biến dạng. Thế mà Người lại là vua ư? Sao có thể thế được? Người là Vua những gì?
Câu trả lời: Chúa Giêsu không là vua của những gì hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Người là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì người ta muốn biến Chúa Giêsu trở nên trò cười khi mặc cho Người áo đỏ và đội mão gai.
Các bản văn phụng vụ trình bày vương quốc của Chúa Giêsu như một bức tranh đầy ấn tượng. Người là Chúa Cứu Thế đã được xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), là Vua duy nhất của vũ hoàn, Vua khiêm nhường, Vua quyền năng. Nhưng Vương quốc của Vua Giêsu không lại thuộc về thế gian này. Vương quốc của sự thật và sự sống, Vương quốc thánh thiện và tràn đầy ân sủng, Vương quốc yêu thương, công lý và an bình. Một vương quốc được sinh ra từ Máu và nước từ cạnh sườn đâm thủng của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Giá thẳng đứng trong vinh quang. Ngai vàng, gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Chúa Giêsu bị hỏi: "Nếu ông là Đấng Kitô" (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Người đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Người. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi: "Nếu ông là Đấng Kitô "(Lc 23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La-mã thách thức Người:"Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi"(Lc 23, 38). Một tên trộm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái chết: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa" (Lc 23, 40). Họ khác nhau về địa vị, nhưng lại giống nhau ở điểm thách thức Chúa: "Ông hãy tự cứu mình đi!" Như thể thách Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá để chứng minh vương quốc của mình! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh cho ta thấy. Người đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội, nhất là trao ban cho chúng ta tình yêu và lòng thương xót. Lòng thương xót không phải là yếu đuối hay đầu hàng, nhưng là ánh quan mạnh mẽ, hào hùng của tình yêu toàn năng của Chúa Cha, Đấng chữa lành những yếu đuối của chúng ta, nâng chúng ta dậy từ chõ vấp ngã và kêu gọi chúng ta làm điều thiện. Khi chịu treo thên thập giá Chúa Giêsu đã mạc khải vinh quang của Người, Người là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Giữa những lời nhạo báng và thách thức, có một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa. Tên trộm lành, một trong hai kẻ chịu cùng bị đóng đanh với Chúa Giêsu, đã hiểu được Vua Giêsu là thế nào, nên anh thưa với Chúa bằng giọng điệu van xin: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi" (Lc 23,42). Câu trả lời bảo đảm và đầy an ủi của Chúa Giêsu đối với anh: "Ta bảo thật người: ngay hôm nay, người sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 23,43). Chúa Giêsu là Vua, một vị Vua chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án.
Vương quốc của Vua Giêsu không hão huyền, trừu tượng, vương quốc ấy có mặt ngay hôm nay, nơi Chúa Kitô hiện diện. Như vậy, bản cáo trạng chống lại Chúa Giêsu viết, "Đây là Vua dân Do Thái" là thật trớ trêu, bởi từ trên thập giá vương quốc của Chúa Giêsu Kitô tỏa sáng vinh quang. Cái chết của Người trên thập giá là hành động đẹp nhất chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
Cùng với thánh Phaolô "chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp…trong cõi đầy ánh sáng". Và bày tỏ lòng biết ơn vì: "Người giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi" (Cl 1, 12-20). Nhờ sự chết của mình, Vua Giêsu đã hòa giải tất cả mọi sinh linh; "Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá", Người đã đóng ấn một giao ước muôn đời. Khi phục sinh, Chúa Cha đã tôn phong Người làm Vua và là "Trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại", "Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu Hội Thánh."
Ai sẽ loan báo cho thế giới vương quốc của Chúa Giêsu, nếu không phải là những chi thể của Thân Thể Người? Một vị vua được thiết lập chỉ để ngưỡng mộ và tôn thờ, sứ mạng của vị vua ấy sẽ vô hiệu.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi không? Ai hiển trị trong tôi, Chúa Kitô hay ai khác? Theo thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống: "hoặc cho mình hay cho Chúa" (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính mình hay sống cho Chúa?
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Tình Yêu. Xin thương xót chúng con, xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
Không có công lý thì không có tự do, không có tự do thì không có bình an – hòa bình, nghĩa là bất ổn, xã hội bất ổn thì hỗn loạn, sinh ra tội lỗi. Thế nên Chúa Giêsu đã đến thế gian để bảo vệ công lý và giải thoát những con người bị áp bức, bị bóc lột. Thánh Vịnh gia xác định: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.” (Tv 72:7)
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ duy nhất. Kinh Thánh xác định: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4:12). Mặc dù “Người là Đấng Toàn Năng, ta chẳng sao vươn tới, Người cao cả, vì Người hùng mạnh và công minh. Người quyền năng, vì Người chính trực, nhưng CHẲNG ÁP BỨC AI.” (G 37:23)
Xã hội luôn cần có công lý để loại bỏ bất công, cần có luật để duy trì an sinh xã hội. Nhưng “luật bất công không phải là luật” (Thánh Augustinô, 354-430). Theo xã hội loài người, công lý là một khái niệm đúng đắn về luân lý, dựa trên nền tảng đạo đức, tính hợp lý, luật pháp, quy luật tự nhiên (hệ thống luật được xác định bởi tự nhiên, mang tính phổ quát), tôn giáo, công bằng, cũng như việc quản lý của pháp luật, có tính đến quyền sống bất khả nhượng của mọi người và mọi công dân, quyền chung của mọi người và cá nhân để bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật của các quyền dân sự của họ, không phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc, giới tính, dân tộc, màu da, tôn giáo, tuổi tác, hoặc các đặc tính khác, và được coi là bao gồm các luật về công bằng xã hội.
Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, bởi vì “không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13:1) Thế nhưng người ta không tin nhận Ngài, đến nỗi đã lập mưu ác sát hại Ngài. Trên đầu Thập Giá, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, có ghi bảng bằng tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp: INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái. Thế nhưng các thượng tế của người Do Thái nói với ông Philatô: “Xin ngài đừng viết: Vua dân Do Thái, nhưng viết: Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do Thái.” Tuy nhiên, ông Philatô trả lời: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22) Vô tình mà chính họ lại tôn vinh tử tội Giêsu là Vua. Thế mới độc đáo, kỳ lạ và mầu nhiệm. Bảng chữ đa ngữ đó đã nói lên tất cả.
Ngày xưa theo quan niệm phong kiến, người ta có một câu như mệnh lệnh bất di bất dịch: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Thời quân chủ, vua mệnh danh là Thiên Tử, mọi quyền hành nắm gọn trong tay, cho sống thì được sống, bắt chết cũng phải chết. Vua đi đâu cũng có tiền hô, hậu ủng. Mọi sự sang trọng, quyền thế, ưu tiên,… đều phải dành cho vua. Ai muốn tâu với vua điều gì cũng không được nhìn “long nhan”, cũng không được tâu trực tiếp, mà chỉ được tâu cái bệ rồng vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ.” Nhà vua độc quyền màu vàng, và cái gì của vua cũng đệm chữ “long” – rồng: Long nhan, long thể, long bào, long sàn, long xa, long đình,… Dù sướng từ trong trứng nước, nhưng rồi chính nhà vua cũng không tránh khỏi “long đanh” và “long đong” như bao thần dân khác. Thế mà vẫn chảnh lắm!
Thế mà Chúa Giêsu, Vua muôn vua và Chúa các chúa, Hoàng đế của các hoàng đế, Thủ lãnh của các thủ lãnh, lại “được” người ta đội cho triều thiên là vòng gai nhọn và khoác cho chiếc áo choàng đỏ, và họ mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!” (Ga 19:3), thậm chí họ còn vả vào mặt Ngài. Kẻ ác càng hèn càng nhát, càng nhát càng ác. Thật đáng ghê tởm!
Ngày xưa, toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến trình báo vua Đa-vít tại Khép-rôn: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với ngài: Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.” (2 Sm 5:1-2) Sau đó, toàn thể kỳ mục Ít-ra-en cũng đến gặp vua tại đó. Rồi Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Họ đã xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en. (2 Sm 5:3) Xức dầu là dấu chỉ “công nhận” một người nào đó với chức vụ và trách nhiệm nào đó, cụ thể là phong vương. Ngày nay, Công giáo cũng vẫn theo truyền thống đó khi cử hành các bí tích theo nghi thức phụng vụ, đặc biệt là nghi lễ truyền chức.
Chắc hẳn xưa nay ít người được vào nội cung triều đình của vua chúa trần gian hoặc dinh tổng thống, người ta chỉ đứng xa mà ngắm nhìn cũng là “có phước” lắm rồi, thậm chí có mơ cũng chẳng thấy, huống chi đối với Thánh Cung của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Vịnh gia sung sướng thốt lên: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân.” (Tv 122:1-2) Hạnh phúc biết bao, ngỡ chỉ là giấc mơ mà lại là sự thật, thật ngay trong đời thường. Hạnh phúc gấp bội, gia tăng theo cấp số nhân. Ôi, thế thì còn gì bằng!
Như một kỹ sư xây dựng, Thánh Vịnh gia mô tả chi tiết: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít.” (Tv 122:3-5) Đền Thờ đó là Nhà Chúa trên trần gian, nhưng vẫn thật hạnh phúc cho ai được đặt chân vào: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày. Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11) Ngày nay, cuộc sống khá hơn, nhiều người muốn đã đến hoặc muốn được đến Ít-ra-en để đặt chân lên vùng đất mà Chúa Giêsu đã một thời sinh sống và thi hành sứ vụ: Thánh địa Giêrusalem. Tuy nhiên, đối với người nghèo thì chẳng khác chuyện lên cung trăng. Không thể đến được, mặc dù rất muốn!
Những ai được vào Nhà Chúa thì cùng được làm con cái Ngài. Thánh Phaolô động viên: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:12-14) Một loạt những cái “được” quý giá lắm. Thật vậy, các tội nhân chúng ta đang từ hố bùn lầy tội lỗi mà được Thiên Chúa kéo lên, được tẩy rửa và đặc biệt là được nhận làm con. Niềm hạnh phúc quá lớn lao!
Đấng cứu vớt chúng ta không là VIP bình thường theo khái niệm thế tục, mà Đấng đó là Chúa của các chúa, Vua của các vua, vô thủy vô chung. Đấng đó chính là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.” (Cl 1:15-18) Vua Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, không có Ơn Cứu Độ ngoài Ngài, và Ngài là Độc Đạo dẫn về Trời.
Với cách nói ngắn gọn mà súc tích, Thánh Phaolô giải thích: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:19-20) Đức Kitô là Vua, nhưng không thị uy hoặc độc đoán như vua chúa trần gian. Vua Giêsu đã không quản ngại thí mạng sống vì thần dân, Giá Máu của Ngài đã minh chứng tất cả. Chắc chắn rằng, cả quá khứ và tương lai, không có một vị vua nào dám chết vì dân tộc của mình, có tốt lành thì cố gắng làm lợi cho đất nước và nhân dân, không thì chèn ép và “hút máu” dân để mình sống ung dung, được vinh thân phì da.
Chúa Giêsu là Đệ Nhất Hàn Vương, Vua Nghèo vì không ngai vàng, không sở hữu bất cứ thứ gì, xả thân quên mình vì dân, chẳng có ai có thể nghèo như Ngài, đến cả “chỗ tựa đầu” cũng không có. (Mt 8:20; Lc 9:58) Vua chúa hoặc tổng thống nào cũng có lễ đăng quang, kể cả Giáo hoàng, nhưng Vua Giêsu không hề có lễ đăng quang, cứ cho là có “lễ đăng quang” thì lại chẳng giống ai: Bị treo trên Thập Giá. Tiều tụy, te tua, tơi tả, thiệt thòi, thảm thương,… Rất nhiều các mẫu tự T “ghép” thành Thập Tự.
Người ta đứng nhìn ngơ ngác, kẻ sợ người lo, kẻ ho người cười, không biết có được mấy người mủi lòng! Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” (Lc 23:35) Ngay cả bọn lính tráng cũng chế giễu Ngài, chúng lại gần đưa giấm cho Ngài uống, và chúng thách thức: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (Lc 23:37) Nhưng Ngài vẫn im lặng và bất động. Trước mặt phàm nhân, Vua Giêsu thua trắng, chiến bại hoàn toàn. Thế nhưng không phải như vậy, họ hoàn toàn ngộ nhận vì thiển cận. Thánh Phaolô nói: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18)
Điều lạ lùng vô cùng là có một tử tội chung số phận với Chúa Giêsu lại có động thái khác thường. Đó là “người gian phi sám hối”, chúng ta quen gọi là “người trộm lành” nhưng thật ra anh ta là tướng cướp khét tiếng, đại ca thứ thiệt, dân “anh chị” chính hiệu chứ không phải loại cướp cạn “tép riu”, vì thế mới đáng tử hình, chứ nếu chỉ là tên trộm thì đâu đến nỗi chịu án tử như vậy.
Thế nhưng một tên tử tù đồng bọn với anh ta cũng bị treo trên thập giá chiều hôm đó, chính hắn cũng nhục mạ Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39) Chết tới nơi mà còn ngông cuồng, ngang ngược, thách thức và cố chấp, không chịu “mở mắt” mà nhận biết cái sai của mình. Tội này mới đúng là “tội tày trời” – tính cố chấp, chắc chắn không ai có thể cứu hắn. Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay!
Có thể là một số người trong chúng ta cũng có “tầm nhìn” như tên-cướp-ác-ôn này. Đó là những người thiển cận, không chịu rán sức “mở to” mắt ra để nhìn vấn đề cho thấu đáo, mà vẫn lì lợm, thủ cựu, không chịu nhìn rộng hơn “cái bóng” của mình, hoặc không đủ “tầm” để nhìn xa trông rộng, thế nên nhận xét của họ cũng phiếm diện. Thiển cận sinh độc đoán, độc đoán sinh ích kỷ, ích kỷ sinh tự tôn – lúc nào cũng cho mình là “number one” (số dzách, số một). Họ “mù” mà cứ tưởng mình “sáng mắt”. Tên-trộm-ác là thế, không chịu nhận mình có trọng tội mà còn “gân cổ” thách thức và nguyền rủa Đức Kitô. Có lẽ Ngài thấy tên này “dở hơi”, “trẻ ranh” vắt mũi chưa sạch nên Ngài không thèm nói gì. Nói với hạng người cố chấp thì cứ nói với đầu gối còn hơn!
Thế nhưng Ngài lại nói với tên-cướp-tốt-bụng. Tại sao? Hắn có tên “cúng cơm” là Dismas (hoặc Dimas), hắn lên tiếng phản đối: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:40-41) Như thế mới là “mắt sáng”, là anh hùng, can đảm, nói thẳng nói thật chứ không hèn nhát mà che đậy hoặc giấu giếm sự thật. Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Tên cướp này thực sự có “trình độ”, xứng danh là một “tay anh chị” lắm. Anh ta đã “nhìn” rõ Tử Tội Giêsu thực sự là VIP rất đặc biệt nên mới xin như vậy. Giỏi lắm. Nhanh trí lắm. Anh ta phải giỏi mới đủ trình độ nhận biết Chúa Giêsu là “siêu nhân” thực sự. Tên tử tội ác ôn kia ngu muội nên không có tầm hiểu như Dismas.
Nghe anh ta cầu xin chân thành, Vua Giêsu nhẹ nhàng nói với thần dân Dismas ngay: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43) Có lẽ không ai may mắn và sung sướng hơn tướng cướp “hiền lành” Dismas, vì dù tội lỗi tày trời, nhưng anh biết thú nhận và ăn năn nên Chúa Giêsu tha thứ, và còn cho anh hơn những gì anh muốn. Lòng Chúa Thương Xót chỉ cần thế thôi, còn tội to hay nhỏ không là vấn đề. Tên-cướp-tốt-bụng Dismas có điều rất “độc đáo” này: Cả đời anh ta chuyên đi ăn cướp, giờ lại “cướp” được cả Thiên Đàng. Khôn và khéo quá chừng luôn. Thật tuyệt!
Chúa Giêsu luôn khuyến khích các tín nhân chịu đau khổ – vác thập giá. (Mt 10:38; Mt 16:24) Khó thì Khổ, thế nhưng lại là Khéo và Khôn. No Cross, No Crown – Không có Thập Giá thì không có Triều Thiên, không có Đau Khổ thì không có Vinh Quang. Hạnh phúc tỷ lệ thuận với gian nan, vất vả, hy sinh – tức là đau khổ. Thập Giá hình chữ T, Chúa Giêsu dang tay hình chữ Y. Theo Việt ngữ, TY là Tình Yêu.
Lạy Vua Giêsu Kitô – Vua Công Lý, Vua Cứu Thế, Vua Thương Xót, xin chữa lành con-mắt-tâm-linh để chúng con thật lòng tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Vương đích thực muôn đời, là Vua Cứu Độ duy nhất, và xin giúp chúng con sống kiên cường với đức tin mà chúng con đã lãnh nhận. Kính lạy Thánh Tử Giêsu cai trị linh hồn chúng con và cho chúng con về sum vầy tại Vương Quốc Trường Sinh, Ngài là là Đấng Hằng Sống, đồng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đời đời kiếp kiếp. Amen.
Hôm nay chúng ta hãy tôn vinh thờ lạy Chúa Giêsu, là Vua vũ trụ. Tôn vinh và thờ lạy Ngài vì Ngài nắm quyền tuyệt đối trên chúng ta.
Đức Thánh Cha Pi-ô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ vào thời điểm các chế độ quân chủ mất dần thế giá và dần dần biến đi trên thế giới, dù một vài vị vua được toàn dân thương mến như vua Baudoin,vương quốc Bỉ.
Một số người Công giáo cho rằng, thời nay mà nói về vương quyền là không hợp thời. Giáo hội có thoái hóa chăng? Thưa rằng không. Vì chúng ta còn mang nặng trong đầu óc chúng ta hình ảnh của các vua trần thế và gán cho Chúa quyền tước và vinh quang của các vua trần thế. Vua chúa trần gian không có được mấy vị được tôn vinh, vì sự độc tài tàn ác của họ.
Vua Giêsu không là một vua trần thế: “Nước tôi không ở trần gian này”. Chúa Giêsu đã khẳng định như thế trước mặt quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, vì Ngài ở trong trần gian mà không thuộc về trần gian và hơn thế nữa, Ngài là Chủ Tể trần gian. Chính Ngài đã tạo nên vũ trụ này: “Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3).
Chúng ta tôn vinh Ngài là Vua vũ trụ là điều hiển nhiên, mặc cho ai không đồng ý.
Chúng ta hãy nhìn nhận và suy tôn Chúa chúng ta, vì “chúng ta là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 94)
Đứng trước một thế giới chối bỏ mọi quyền bính, chối bỏ cả Thiên Chúa, tôn vinh Chúa là khôn ngoan. Giữa những người không tin và chúng ta là những người tin khác nhau ở điểm này: chúng ta có cội nguồn và họ lại không. Điều này rất quan trọng vì nó định đoạt ý nghĩa của cuộc sống chúng ta và tương lai của chúng ta.
Hãy hân hoan và hãnh diện vì Vua Giêsu của chúng ta! Ngài là Chúa, là Vua vũ trụ. Tất cả đều ở trong tay Ngài.
Nói đến Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Giáo hội bảo chúng ta nhìn lên thập giá, nhìn người Tử Tội Thần Linh. Ngài chính là Vua chúng ta.
Vua Giêsu của chúng ta không ngồi trên ngai vàng, giữa những người hầu hạ… mà là một tử tội tả tơi trên thập giá. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá. Ngài mang tên Giêsu, nghĩa là Cứu thế.
Khi dang tay trên thập giá, Ngài mới thật sự là vua, không chỉ là vua một nước mà là Vua vũ trụ. Đó là điều thế gian không thể hiểu. Ngài tạo nên vũ trụ, giờ đây, Ngài là một tử tội trần truồng đau thương. Vương quyền của Ngài được tỏ bày giữa trời và đất vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu của Ngài là “chết cho bạn hữu”. Chúng ta hiểu được điều đó không?
Đấng chịu đóng đinh trên thập giá, chính là Vua chúng ta, Vua Tình Yêu: “Ngài đã yêu tôi và đã liều mạng cho tôi”. Vương quyền của Ngài là Tình Yêu. Vương Quốc của Ngài cũng là Tình Yêu. Tất cả được gói trọn trong một quả tim, quả tim của Thiên Chúa.
Hãy nhìn Ngài trên thập giá, chúng ta mới hiểu phần nào vương quyền của Ngài.
Trình thuật của thánh Luca cho thấy bốn hạng người chung quanh cây thập giá: thứ nhất là dân chúng. Trước mặt thánh Luca, dân chúng chỉ là khán giả, đứng nhìn và chứng kiến cuộc hành hình mà thôi. Hạng người thứ hai là những thủ lãnh Do Thái. Chính những người này là những kẻ thù không đội trời chung của Chúa Giêsu. Họ thỏa mãn vì đã diệt được kẻ thù độc hại nhất của họ. Họ mỉa mai nhạo cười không hết lời, và khiêu khích: “Hãy tự cứu mình đi!”“Nếu hắn thật là Đức Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
Hạng người thứ ba là lính Rôma, đội thi hành án. Họ cũng chế diễu Người: “Nếu ông là Vua Do Thái!”
Hạng thứ bốn là hai tên tội phạm. Một tên nhục mạ Người: “Ông Giêsu ơi! Ông không phải là Đức Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi với!”
Họ không tin là điều dễ hiểu vì ai có thể tin vào một người chịu đóng đinh thê thảm như thế?
Nhưng một tên tội phạm lại tin. Anh nhìn nhận tội lỗi của mình và sự vô tội của Chúa Giêsu. Anh tuyên xưng một cách gián tiếp vương quyền siêu vượt của Chúa: “Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”
Và Chúa Giêsu lại khẳng định một cách uy nghi: “Ngay hôm nay, anh sẽ đượcở cùng Ta trên thiên đàng”. Có vị vua nào công bố vương quyền của mình trên cây thập tự như thế không? Đó là một lời công bố uy nghi và long trọng, giữa trời và đất, trong đau khổ tuyệt đỉnh.
Chúng ta dám tin như anh tội phạm đó không?
Đúng thế! Chúa Giêsu thực sự là Vua vũ trụ khi tất cả những gì là sang trọng quyền uy của thế gian đều biến dạng thay thế vào đó là đau thương tuyệt đỉnh. Vương miện được thay thế bằng mão gai, cẩm bào là tấm thân trần trụi, giập nát, ngai vàng là cây thập giá, vương quyền được thay bằng án tử hình nhục nhã. “Nước tôi không ở trần gian này.” Nước tôi chính là tình yêu hi sinh đến giọt máu cuối cùng, là chết cho tình yêu, vương quyền của tôi là tình yêu trọn vẹn…
Chúng ta hãy nhìn thật lâu Tử tội thần linh của chúng ta, hãy nhìn với tất cả lòng biết ơn sâu xa, với tất cả tình yêu…
Chúng ta là thần dân của một Vị Vua Thần Linh, Vị Vua Tình Yêu! Hãy hân hoan, hãy tạ ơn lâu dài!…
Chúng ta là thần dân của Vương Quốc Tình Yêu, chúng ta hãy sống “yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta.”
Chúng ta là thần dân của một Vương Quốc Tự Do, vì Vương Quốc Tình Yêu mới thực sự là Vương Quốc tự do. Chúa tạo nên chúng ta tự do và Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Chúng ta có thể từ chối Ngài hay yêu thương Ngài, Ngài vẫn để chúng ta chọn lựa: Vua Giêsu hay thế gian. Ngài không cần sự bái lạy của một đám nô lệ.
Chúng ta làm gì cho Vua chúng ta? Chúng ta tưởng rằng chúng ta chẳng làm được gì sao?
Hãy sống yêu thương, chúng ta là sứ giả của Vua Tình Yêu. Hãy mở rộng vương quốc tình yêu của Ngài bằng đời sống đầy ắp tình yêu của chúng ta.
Vua chúng ta hôm nay vẫn đến với chúng ta qua một tấm bánh… Hãy nhìn Ngài dưới hình thức nhỏ bé và khiêm tốn ấy. Đó là Tình Yêu nguyên vẹn đấy! Hãy đến với Ngài, đem Ngài vào trong chúng ta để không còn có gì ở trần gian này có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ngài.
Tin mừng Lc 23: 35-43: Chúa kitô là vua, nhưng là một vị vua hoàn toàn khác với các vị vua trần thế. Nhìn vào lịch sử nhân loại chúng ta thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân.
Một triết gia thời xưa đã nói: "Homo hominis lupus": Người với người như lang với sói. Lang sói là một loài thú dữ, bản tính hay tấn công, cắn xé. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn muốn tấn công nhau, cấu xé và chém giết nhau. Lịch sử loài người là một chuỗi dài những cuộc chiến tranh liên tiếp. Gần đây nhất là hai cuộc thế chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, trong hai cuộc thế chiến đã giết chết cả hàng mấy chục triệu người.
Chính vì vậy, một câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, mà lại cư xử với nhau như vậy?
Thưa là vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Cho nên trong bối cảnh giữa hai cuộc thế chiến, ngày 11/12/1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua.
Ý nghĩa của Lễ Chúa Kitô Vua
Chúa kitô là vua, nhưng là một vị vua hoàn toàn khác với các vị vua trần thế. Nhìn vào lịch sử nhân loại chúng ta thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân, một Tần Thủy Hoàng bạo ngược đến độ đốt sách, giết các nhà trí thức, học trò giỏi trên 2.000 mạng để dễ bề cai trị; một Néron hung tàn vì thỏa mãn lòng kiêu căng đã đốt sạch đế đô La Mã để có cớ xây lại huy hoàng hơn; một Napoléon tham vọng đã đẩy hàng triệu người vào cái chết và gần đây một Hitler hiếu chiến hiếu sát đã lôi kéo cả thế giới vào một cơn lốc chém giết, tàn phá nhau. Và biết bao vua chúa quan quyền khác đã cai trị thần dân bằng cách bắt họ lụy phục mình hơn là phục vụ họ.
Vương quyền dầu lớn lao, tuyệt đối, nhưng Đức Giêsu trước sau chỉ có một đường duy nhất là yêu thương. Yêu thương ngay cả những con người tội lỗi cùng chịu đónh đinh với mình. Chính vì yêu thương, Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá, giữa hai kẻ trộm. Thậm chí chấp nhận để cho tên “trộm dữ” lăng mạ mình và đồng thời lại ban cho người trộm lành một đặc ân lớn lao là “hôm nay anh được ở trên thiên đàng với Ta.”
Tập San Catholic Digest có mục thường xuyên gọi là “The Open Door” (Cửa Rộng Mở), có một câu chuyện thật cảm động về chàng thanh niên lớn lên trong một gia đình Công Giáo, từng tích cực hoạt động trong Giáo Hội và sau đó gia nhập chủng viện.
Rồi đến những năm đầy xáo trộn thời chiến tranh Việt Nam, chàng thanh niên này rời khỏi chủng viện, tham gia phong trào chống chiến tranh, từ bỏ Giáo Hội. Gia đình anh bàng hoàng vì sự thay đổi này. Và khi thái độ của anh ngày càng thù nghịch với tôn giáo, họ đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Sau đó vào ngày thứ sáu tuần thánh năm 1970, chàng thanh niên lúc ấy 22 tuổi, lái xe ngang qua một nhà thờ Công Giáo. Anh nhận ra tên của cha xứ trên tấm bảng trước nhà thờ. Đó là một vị linh mục mà anh rất kính trọng và yêu mến.
Điều gì đó đã thúc đẩy anh dừng xe và bước vào nhà thờ?
Khi bước vào nhà thờ, nghi thức Tôn Kính Thánh Giá bắt đầu. Anh ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh theo dõi dân chúng xếp hàng lên hôn Thánh Giá, trong khi ca đoàn hát bài “Were You There They Crucified My Lord” (bạn có đứng ở đó khi họ đóng đinh Chúa không?) Và rồi một điều gì đó thật lạ lùng đã xảy ra, anh viết: “trong con người tôi một điều gì đó đột ngột xảy ra và tôi bắt đầu khóc. Sau khi dằn được cơn xúc động, tôi nhớ lại sự bình an mà từ lâu tôi đã bỏ lại nơi nhà thờ. Đức tin đơn sơ mà giờ đây tôi đang chứng kiến thì dường như có ý nghĩa hơn là điều tôi tuyên xưng. Tôi bước ra khỏi ghế và quì xuống hôn Thánh Giá. Vị linh mục nhận ra tôi, ngài đến ôm lấy tôi”
Từ ngày đó trở đi, tôi trở nên một người Công Giáo được tái sinh. Anh kết thúc với một cảm nghiệm như sau: “tại sao tôi dừng xe ở nhà thờ đó vào ngày hôm ấy, cho đến giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi biết rằng tôi thật sung sướng và hạnh phúc”. Điều Chúa Giêsu đã làm cho người trộm lành và anh chủng sinh, Người cũng muốn làm cho mỗi người chúng ta. Người muốn tha thứ cho chúng ta. Người muốn nói với chúng ta điều mà Người đã nói với anh trộm lành “hôm nay anh được ở trên thiên đàng với Ta”.
Đây chính là một Tin Mừng khiến chúng ta qui tụ nơi đây để mừng lễ Chúa Kitô Vua. Amen.
Ngày hôm ấy, toàn thể nhân loại được tập họp lại trước ngai tòa của hai vị vua đầy quyền thế: Một bên là vua Tiền, còn được gọi là thần Tài, đang chễm chệ trên ngai cao nạm ngọc dát vàng hết sức lộng lẫy; còn bên kia là vua Giê-su, cũng được gọi là vua Tình Yêu, đang bị treo thân trên thập giá, trên đầu Ngài có tấm biển ghi rõ danh hiệu của Ngài, đó là dòng chữ INRI, nghĩa là Giê-su Nadaret Vua Israel.
Mọi ánh mắt ngưỡng mộ đều đổ dồn về vua Tiền, tức thần Tài đang uy nghi trên ngai vàng lộng lẫy mà ít ai hướng nhìn về vua Giê-su đang bị treo trên thập giá.
Thế rồi, thời khắc chọn lựa bắt đầu. Mọi người chuẩn bị. Vua Giê-su lên tiếng mời gọi trước:
“Ta là vua Tình Yêu. Ai theo Ta thì hãy yêu thương người khác như chính mình và hãy hy sinh phục vụ mọi người như Ta đã nêu gương. Người đó sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.”
Tất cả chìm vào trong yên lặng nặng nề, không ai nhúc nhích. Sau chừng 10 phút chờ đợi, có một ít người rời khỏi đám đông tiến về thập giá để theo vua Giê-su.
Đến lượt vua Tiền, ông ta huênh hoang mời gọi, dõng dạc và đầy tự tin:
“Ta là vua Tiền, là thần Tài đây! Ai theo ta thì ngay ở đời này, sẽ được giàu sang phú quý và được vui hưởng lạc thú trần gian!”
Tiếng vua Tiền vừa dứt, cả đám đông xôn xao náo động, hối hả đua nhau chạy đến với ông ta.
Thế là trong cuộc tranh đua mời gọi thần dân về với mình, vua Tiền thắng lớn, còn vua Giê-su xem ra thất bại nặng nề.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn xem chính sách, đường lối của hai vị vua này ra sao.
Vua Tiền hô hào, thúc giục thần dân làm gì?
Đây là bản tuyên ngôn của ông ta:
- Mọi người phải tôn vua Tiền lên ngôi cao, phải xem “tiền là tiên, là phật”, xem tiền là thần, là thánh, là thần tượng số một của đời mình.
- Mọi người phải cậy dựa vào sức mạnh vạn năng của vua Tiền.
Người có lắm tiền trong tay có thể mua đủ mọi thứ trên đời, thậm chí có thể mua chức mua quyền, mua lạc thú, có thể mua được cả hoa hậu, hoa khôi, người mẫu làm vợ, có thể bẻ cong cán cân công lý cách dễ dàng…
- Mọi người hãy để cho vua Tiền thống trị và sai khiến.
Vua Tiền xô đẩy người ta phạm đủ thứ tội ác: Vì tiền mà tham ô, vì tiền mà cướp của giết người, thậm chí giết luôn cả ông bà cha mẹ để chiếm đoạt tài sản… xô đẩy các nhà cầm quyền châm ngòi nổ chiến tranh để xâm chiếm tài nguyên, lãnh thổ của các nước khác…
Còn vua Giê-su kêu gọi thần dân làm gì?
Vua Giê-su là vua Tình Yêu. Ngài chủ trương lấy tình yêu xóa bỏ hận thù. Ngài truyền cho thần dân hãy tuân giữ điều răn mới: “Thầy truyền cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13, 34).
Tuyên ngôn của vua Giê-su là yêu thương. “Người ta căn cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, đó là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Mục tiêu của vua Giê-su là xây dựng thế giới này thành trời mới đất mới, nơi công lý, hòa bình và yêu thương ngự trị.
Chọn theo ai?
Nếu hôm nay, vua Tiền và vua Giê-su tập trung chúng ta lại như đoàn dân trong câu chuyện trên đây và cất lời kêu gọi, chúng ta quyết định thế nào?
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình và trả lời cho thật: Tôi sẽ bước theo ai? Thật là khó khăn khi phải từ giã vua Tiền và những lôi cuốn hấp dẫn của ông ta để theo vua Giê-su.
Theo vua Tiền thì được hạnh phúc chóng qua đời này nhưng phải trầm luân đau khổ đời đời mai sau. Theo vua Giê-su thì được hạnh phúc hoan lạc vĩnh cửu đời sau nhưng phải chấp nhận thiệt thòi, mất mát ở đời này. Cần phải biết chọn lựa thế nào cho khôn ngoan sáng suốt.
Sự khôn ngoan cho ta biết rằng: Thế giới chỉ được hòa bình, nhân loại chỉ được hạnh phúc, ghen ghét hận thù chỉ bị đẩy lùi… khi mọi người biết tôn Chúa Giê-su làm vua của mình và lấy luật yêu thương của Ngài làm kim chỉ nam cho cuộc sống.
Lạy Chúa Giê-su, Từ bỏ vua Tiền để theo Vua Giê-su là điều rất khó. Chỉ có những ai khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, có nhiều bản lãnh và dồi dào ơn Chúa thì mới có thể lìa bỏ vua Tiền để theo Chúa mà thôi.
Xin ban ơn phù trợ để chúng con đủ sức theo Chúa, thờ Chúa và sống theo luật yêu thương Chúa truyền dạy, nhờ đó, chúng con sẽ được hưởng phúc muôn đời với Chúa. Amen.