Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 32-C Bài 101-150 Thiên Chúa của kẻ sống ----------------------------------------------------- Luca 20,27-38: Kẻ chết sống lại
Khi ấy, 27 Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?”
34 Đức Giê-su đáp: ”Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”
Kimberly Clark Sharp với cuốn “Sau Ánh Sáng” ( After the Light ) và Betty Eadie với cuốn “Ðược Ánh Sáng Ấp Ủ” ( Embraced by the Light ) là hai trường hợp kể lại kinh nghiệm của chính mình đã thấy gì ở bên kia cửa tử. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính:
1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh.
2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài, như bà Betty Eadie kể lại trong cuốn “Ðược Ánh Sáng Ấp Ủ” ( trang 39 ). Ðây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới.
3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Ðức Maria như bà Betty Eadie: “Thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi” ( trang 191 ). “Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật. Không còn chỉ tin vào một lực vũ trụ, mà tin vào một Ðấng đàng sau sức mạnh đó. Tôi thấy Ðấng đầy yêu thương đã dựng nên vũ trụ và đặt mọi khôn ngoan vào đó. Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng, Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương...” ( trang 61 ). “Tôi cảm nhận tình yêu của Chúa vô điều kiện, vượt trên mọi tình yêu trần thế... Và tôi được ấp ủ trong cánh tay của ánh sáng vĩnh cửu này” ( trang 53 ).
Lúc đó hồn được soi sáng nhìn lại và thấy tất cả cuộc đời của mình hiện lên trong một nháy mắt. Ðạo Chúa vẫn gọi là phán xét. Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối, hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong “Ánh Sáng Muôn Năm” ( Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27 ).
4. Ðược biến đổi: “Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết” ( Ðược Ánh Sáng Biến Ðổi, trang 6 ). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa “Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới. ( trang 9-10 ). ( Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường, Vũ Khúc Thăng Ca ).
Hôm nay, nhân dịp phái Xađốc hỏi về chuyện đời sau, Đức Giêsu tiết lộ khá chi tiết về cuộc sống mới, một khi xác đất vật hèn này qua đi.
Sinh ký tử quy
"Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật" ( St 1, 7 ). Ađam và Eva sống sung sướng trong Vườn Địa Đàng. Thiên Chúa chỉ cấm không được ăn “trái của cây cho biết điều thiện điều ác. “Vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” ( St 2, 17 ). Nhưng qua chước cám dỗ của ma quỷ, Ađam và Eva đã bất tuân, phạm tội. Thiên Chúa đã luận phạt: “Ngươi sẽ phải đổ môi hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, sẽ trở về với bụi đất” ( St 3, 19 ). Vậy, cái chết là quy luật tất nhiên của con người, nhưng hình như ai cũng cố quên đi cái chết của mình.
Thánh Phaolô cũng không quên nhắn nhủ với tín hữu Corintô: “Chúng ta biết rằng, nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên Trời, không do tay người thế làm ra” ( 1Cr 5, 1 ).
Chắc chắn thân xác chỉ là nơi sống tạm, để khi chết đi phần hồn trở về nơi phát xuất. Chính là trở về với Đấng Tạo Hóa. Sách Giáo Lý Công Giáo đã công khai xác nhận chết đi là hồn lìa khỏi xác.
Vì cố quên đi, cố gắng chối bỏ cái chết, con người mới ra sức ham sống, tham sống, nỗ lực phấn đấu lo toan cho bản thân. Mới quá nuông chiều thân xác mình, thể diện, danh giá mình, mà cư xử thất nhân, thất đức với tha nhân. Mới khinh khi, rẻ rúng, chà đạp, ức hiếp kẻ khác. Mỗi khi chiều theo dục vọng, ý riêng, hay tự ái, kiêu ngạo là lúc tôi đang ngộ nhận rằng, mình sống mãi, trường sinh bất tử. Mỗi khi tôi tham lam vơ vét, gian lận, lừa đảo, tham quyền cố vị, tôi chỉ biết sống ích kỷ, hưởng thụ, cố tình quên đi, không cần biết rằng, cái chết đang âm thầm đến từng giây, từng phút, từng giờ và từng ngày.
“Biết trần gian là nơi tạm trú, sao con còn bo bo dành cho được sở này, chức kia, tiếc nuối chiếc bàn chiếc ghế...? Con sẽ mang nó theo vào Thiên Đàng “hưởng phúc” đời đời sao ? Phi lý và điên khùng.” ( Đường Hy Vọng, số 672 ).
Như vậy, thân xác này chỉ là cõi tạm. Nếu cứ mù quáng, ra sức o bế, vuốt ve nuông chiều, hưởng thụ, để rồi mai này chung cuộc tan rã trở về cát bụi, thì thật là phi lý và hoài công, vô ích. Càng lo toan phục vụ cho thân xác, tôi càng xa rời tha nhân, anh chị em chung quanh, càng xa lìa Thiên Chúa. Thánh Phaolô tha thiết nhắc nhủ:”Ở trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa… Điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” ( 2Cr 5, 6 – 7 ).
Cuộc sống mới
Đức Giêsu đã mặc khải về cuộc sống mới. Linh hồn được siêu thoát, trong sáng như thiên thần: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa”. Vì được ngang hàng với các thiên thần.”
Đức Giêsu đã an ủi Martha trước nấm mồ Ladarô: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống và ai sống mà tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ.” Qua cái chết, linh hồn mới thoát ra khỏi thân xác hư nát, bước vào cuộc sống mới. Không còn bị giới hạn trong không gian ba chiều, không còn chịu ảnh hưởng từ trường, hay trọng lực, không bị nhiễu loạn âm thanh, sóng điện, không còn trao đổi bằng ngôn ngữ hay ký hiệu, linh hồn tiếp cận một thế giới mới, siêu hình, thanh thoát và kỳ diệu, mà không ngôn từ nào có thể diễn tả chính xác.
Hiện tượng này được diễn tả phần nào qua “kinh nghiệm cận tử” ( NDE ) trong “Life After Life”, một cuốn sách được xuất bản năm 1975 của Raymond Moody. Ông là một bác sỹ y khoa và là tiến sĩ triết học và tâm lý học. Trong cuộc phỏng vấn với Thời báo Đại Kỷ Nguyên, Moody kể lại một bằng chứng thậm chí còn cụ thể hơn, đó là trường hợp của một Linh Mục và một nữ Tu Sĩ ở Nam Phi cùng bị tai nạn xe hơi. Tim của cả hai đã ngừng đập và sau đó là một trải nghiệm cận tử ( NDE ). Sau khi họ được cứu sống lại, cả hai đã kể lại trải nghiệm thoát ra khỏi cơ thể và cùng nhau đi vào ánh sáng, với các tình tiết giống hệt như nhau.
“Đối với người không biết đích, giờ chết là giờ thất vọng, vì mất tiền tài, mất khoái lạc, mất bằng hữu; trước mắt họ, toàn tối tăm, hư vô, sụp đổ. Đối với con, cuối con đường hy vọng tràn ngập ánh sáng.” ( Đường Hy Vọng, số 665 ).
Lạy Chúa,"Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ" ( Tv 16, 10 ). Xin thương xót linh hồn tội lỗi chúng con, được cứu độ khỏi án phạt muôn đời.
Lạy Mẹ Maria, xin biến đổi chúng con trở nên con cái Thiên Chúa thật sự. Nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, hy vọng chúng con xứng đáng là con cái sự sống lại. Amen.
Phái Saddu thuộc trào lưu văn hoá Hy Lạp, đề cao tiền của, thế lực và thể xác. Phái này tuy ít,: TN 32-C102
Phái Saddu thuộc trào lưu văn hoá Hy Lạp, đề cao tiền của, thế lực và thể xác. Phái này tuy ít, nhưng lại gồm những tay anh chị trong giới quý tộc hay tư tế cao cấp. Phái này thành lập vào thời Ba Tư thống trị Do Thái và chạy theo ngoại bang. Dưới thời đế quốc Lamã, họ có nhiều uy lực chính trị và tôn giáo. Dân chúng Do thái không có cảm tình với nhóm này vì nếp sống và quan điểm của họ. Sử gia Flaviô viết: Những người Saddu thường cứng cỏi ngay cả với anh em cùng phái và bất lịch sự trong cách giao tế với người đồng hương cũng như ngoại bang.
Về tôn giáo, phái này chỉ nhận có Ngũ Kinh của Maisen, khinh bỏ tập tục của nhóm biệt phái. Nếu họ có giữ tập tục nào thì chỉ để che mắt và để có thể liên hệ với dân Do Thái. Họ không tin Thiên Chúa quan phòng, không tin linh hồn bất tử. Linh hồn chết làm một với thân xác. Họ càng không tin kẻ chết sống lại, cho nên họ đưa luật Lêvi ra để chất vấn Chúa về vấn đề hôn nhân.
Họ bịa ra câu chuyện một thiếu phụ có 7 đời chồng cùng chết không con nối dõi. Rồi thiếu phụ đó cũng chết. Vậy thì ngày sống lại ai sẽ là chồng của thiếu phụ ấy. Đặt vấn đề như vậy họ cho là Chúa sẽ thất thế, hoặc phải chấp nhận chế độ đa phu hoặc sẽ có tranh chấp xô xát sau khi sống lại. Nhưng Chúa đã chỉ cho họ thấy quan điểm của họ lầm lạc. Ngày sống lại sẽ chấm dứt mọi liên hệ hôn nhân trần thế. Ngày ấy dòng giống nhân loại không cần phải đông thêm nữa và đời sống lúc ấy là linh thiêng như thiên thần. Để chứng minh điều đó, Chúa Giêsu đã dựa vào chính Ngũ Kinh của Maisen để lập luận: Thiên Chúa đã thề rằng Người là Chúa của Abraham, Isaac, Giacob cho đến đời đời. Người Do Thái tin rằng ba tổ phụ nay vẫn còn sống. Vậy Thiên Chúa là Chúa của người sống chứ không của kẻ chết.
Sau cái chết trần gian là đi vào cõi hằng sống. Suốt một đời thân xác và linh hồn cùng nhau phục vụ không lẽ đời sau bị tách rời để được thưởng hay bị phạt. Nếu không có sự sống lại thì sự sống trần gian còn có ý nghĩa gì? Chúng ta sống là để làm gì? Bao nhiêu đau khổ hằn ghi trên khuôn mặt như bệnh tật, tai nạn. Những bệnh nhân kinh niên như phong cùi, ung thư, mù, lao, què cụt, mà ga chủng tộc. Sống để làm gì, chịu đựng để làm gì nếu không trông mong vào sự sống lại của thân xác ngày mai. Bao nhiêu nam nữ thanh niên sống độc thân vì Nước Trời có còn dám sống và tiếp tục sống nếu bỏ đi tín điều sống lại? Bao nhiêu trẻ thơ, bao nhiêu cụ già gìn giữ sự sống từng giây phút trong một thân xác tàn phai cũng vì trông chờ vào giây phút sống lại.
Một hiện tượng ít khi chúng ta đặt vấn đề là ở đời này người ta thường đem sử dụng những gì cũ kỹ hư hỏng. Những giẻ rách vứt đi được người ta cho vào máy chế biến để trở thành những tờ bìa hay giấy báo. Những bao nylon vứt đi được người ta mua cả hàng tấn để nấu lại. Những vụn sắt, ô tô cũ, người Nhật mua về với giá rẻ mạt, họ đem nấu lại làm thành xe Toyota nổi tiếng trên thế giới. Những lon Coca, lon những bia vứt đi trở thành những đồ chơi xuất cảng. Những rác rưởi đốt bỏ nhưng sẽ trở thành phân bón. Các xương xẩu con vật đem nấu lại làm keo dán và nhiều hữu ích cho y khoa... Thật bẽ bàng cho người không tin vào sự sống lại vì như vậy thân xác họ còn kém xa những vật phế thải vì sau khi chết, người ta vội vã đem đi chôn chẳng dùng vào được việc gì cả.
Trong kinh Tin Kính chúng ta thường tuyên xưng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Thế nhưng chúng ta phải làm gì để ngày sống lại của chúng ta sẽ là một ngày vinh quang và hạnh phúc.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatio Trần Ngà)
Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (Cuộc Sống sau cõi đời nầy) vào năm 1975: TN 32-C103
Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (Cuộc Sống sau cõi đời nầy) vào năm 1975, công chúng phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (tạm gọi là trải nghiệm sự chết đi sống lại). Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được giới chuyên môn về y khoa xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó họ hồi sinh.
Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm nầy.
Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng nầy. Họ đã phỏng vấn 1,370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Có một cuộc sống khác ở "cõi bên kia" và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Điều đặc biệt là sau khi "chết đi sống lại", không ai còn sợ chết nữa, không còn ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. (Willie Hoffsuemmer).
Bác sĩ George Rodonaia, có học vị tiến sĩ trong ngành thần kinh học (về sau nầy cũng là một tiến sĩ tâm lý học tôn giáo) vốn là công dân Liên Xô, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Ông là chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow. Ông đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Ông được giới y khoa xác nhận là chết ngay lập tức sau một vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, được đưa vào nhà xác và được quàn tại đó trong ba ngày. Ông vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng như một phần của công tác khám nghiệm tử thi.
Ông thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia và xác quyết rằng chính biến cố nầy khiến ông đổi đời tận gốc rễ.
Trước khi trải qua kinh nghiệm cận tử, ông vừa là bác sĩ vừa là một nhà thần kinh học, và là người theo chủ nghĩa vô thần. Vậy mà sau lần chết đi sống lại đó, ông chú tâm học bộ môn tâm lý học tôn giáo, nhận bằng tiến sĩ tâm lý học tôn giáo. Sau đó ông trở thành tín đồ thuộc giáo hội Eastern Orthodox. Hiện nay, ông là mục sư tại nhà thờ the First united Methodist ở Nederland, bang Texas, Hoa Kỳ. (nguồn: Tổ Chức Nghiên Cứu Về kinh nghiệm cận tử (Near Death Experience Reseach Foundation. (http://www.nderf.org/Vietnamese/index.htm)
Có chăng một cuộc sống đầy hoan lạc ở 'cõi bên kia' như những người trải qua kinh nghiệm cận tử xác quyết?
Những người thuộc phái Xa-đốc không tin điều đó. Họ dựng lên một kịch bản một vợ bảy chồng để phi bác niềm tin vào sự sống đời sau.
Chúa Giêsu Dạy Cho Chúng Ta Biết Có Sự Sống Đời Sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giêsu về sự sống lại, Chúa Giêsu khẳng định có sự sống đời sau. Ngài dạy rằng có những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần (câu 36). Rồi Ngài cũng trích dẫn sách thánh, đoạn sách nói về Thiên Chúa hiện ra với Mô-sê trong bụi gai, để chứng tỏ rằng Abraham, Isaac và Gia-cóp dù đã từ trần từ lâu nhưng vẫn còn đang sống. Mà nếu các vị nầy còn sống, tức là có sự sống đời sau.
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì "phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời." (Mt 25,46) Như thế, Chúa Giêsu tỏ cho thấy không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài "muôn đời muôn kiếp."
Cuộc Đời Của Đức Giêsu Minh Chứng Cho Sự Sống Lại
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giêsu còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.
* Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, chỉ còn là bụi đất... thì Chúa Giêsu chịu khổ nạn để làm gì? Máu Chúa Giêsu đổ ra hoàn toàn vô ích.
Nhưng chính vì để cứu con người khỏi hư mất và đem lại cho họ sự sống hoan lạc đời sau nên Con Thiên Chúa đã xuống trần, chịu vô vàn đau thương khổ luỵ và chấp nhận trả bằng giá máu để chuộc lấy con người.
* Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa quyền năng, nhưng đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống như chúng ta, đã chết như chúng ta nhưng rồi Người đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển.
Sự kiện Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ cho chúng ta biết có sự sống đời sau và những ai gắn bó với Chúa Giêsu, trở nên chi thể trong Thân Mình Người thì cũng sẽ được sống lại như Người.
* * *
Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Ước gì niềm tin nầy thôi thúc chúng ta sống theo đường lối Chúa Giêsu để rồi chúng ta sẽ đạt đến nơi mà Người đã đến. Ước gì niềm hy vọng nầy cũng sẽ thúc đẩy chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
Khi nhìn về kiếp nhân sinh thật mong manh và vắn vỏi, nhạc sĩ Trinh Công sơn đã từng thốt lên: Con TN 32-C104
Khi nhìn về kiếp nhân sinh thật mong manh và vắn vỏi, nhạc sĩ Trinh Công sơn đã từng thốt lên:
Con chim ở đậu cành tre Con cá ở trọ trong khe nước nguồn. Tôi nay ở trọ trần gian Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
Dẫu biết rằng cuộc đời này chỉ là quán trọ nhưng quán trọ cuộc đời này thật hấp dẫn, hấp dẫn đến nỗi ai cũng muốn níu kéo thời gian nơi quán trọ. Thế nhưng cho dù có bám víu, có cố công vun trồng những tiện nghi thật đầy đủ cho quán trọ cuộc đời này, rồi cũng có ngày phải từ giả tất cả để ra đi.
Vâng, thưa anh chị em, là người ai trong chúng ta cũng phải chết. Sự chết đó là định luật tất yếu của đời người. Có người chết vì bệnh tật, vì thiên tai, vì tai nạn. Có người chết khi tuổi đời còn rất trẻ và cũng có người chết khi tuổi đời đã vượt quá "thất thập cổ lai hy". Sự chết dường như là mẫu số chung cho tất cả những con người đang sống trên mặt đất. Nhưng cái chết luôn luôn là bất ngờ, con người không bao giờ biết mình sẽ chết ngày nào và ở nơi nào?
Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa không cho mình biết trước ngày giờ mình sẽ ra đi để mình chuẩn bị đầy đủ hành trang về với Chúa? Để mình dẹp bỏ mọi công danh sự nghiệp, mọi danh lợi thú cho tâm hồn thanh thản bình an. Có lẽ Chúa không muốn điều đó. Vì Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào chủ sẽ về, và cũng không biết khi nào kẻ trộm đến. Chúa đòi chúng ta phải tỉnh thức, phải nỗ lực làm tròn bổn phận mà Chúa đã trao phó. Tựa như một trận đá banh, nếu biết trước tỷ số, trận bóng sẽ nhàm chán và các cầu thủ sẽ thiếu trách nhiệm với bổn phận của mình trên sân cỏ. Một trận bóng chỉ đẹp khi mà các cầu thủ đều phải tỉnh thức, phải nỗ lực làm tròn trách nhiệm và chu toàn tốt vị trị được trao. Cuộc đời con người cũng vậy. Không biết lúc nào mình sẽ phải ra khỏi sân cỏ cuộc đời, nhưng chúng ta phải sống đầy đủ trách nhiệm của mình thì cuộc đời đó mới đẹp, mới xứng đáng được lãnh thưởng ân phúc mà Chúa sẽ trao ban cho ai tín trung với ngài.
Thế nhưng, trong niềm tin kytô giáo, chúng ta tin rằng bên kia sự chết đó là ánh binh của sự phục sinh, của sự sống vĩnh cửu bên Chúa. Sự chết không phải là hết. Chết là chuyển đổi sự sống thêm sung mãn hơn. Đó là sự sống trong Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, Thiên Chúa tạo dựng con người không phải để chết mà là để sống đời đời. Cái chết thể xác chỉ là hậu quả của tội Adam. Nhưng Chúa Giêsu khi mang kiếp người Ngài đã phục sinh để kéo mọi người lên cùng Chúa. Ngài đi qua cái chết để vực dậy con người khỏi cái chết trầm luân bởi lạc xa tình Chúa nay được sống trong ân nghĩa Chúa.
Lời Chúa hôm nay khẳng định có sự sống đời sau. Sự sống đó không còn lệ thuộc bởi việc dựng vợ gả chồng vì con người đã tham dự vào sự sống bất diệt của Đấng hằng sống. Sự sống đó cũng không còn lệ thuộc bởi vật chất, hay bởi danh lợi thú vì con người không còn cảm thấy thiếu thốn mà đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa, nên con người cũng được thừa hưởng sự sống thần linh của Chúa. Đây chính là niềm vui, là sự khích lệ cho cuộc đời chúng ta. Đau khổ cuộc đời này sẽ qua. Những khốn khó trần gian sẽ qua đi. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Cuộc sống đó không còn những tranh chấp của danh lợi thú, không còn những khổ đau của thiếu thốn, không còn nước mắt của dòng đời bể khổ mà chỉ còn hạnh phúc viên mãn bên Chúa mà thôi.
Nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống luôn nâng đỡ phù trì chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và: TN 32-C105
Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt vời và trẻ mãi không già... như trong kinh Koran. Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).
Kinh Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest water) những con sông sữa tươi không bao giờ hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương 56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh đẹp tuyệt vời với những cặp mắt đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).
Thiên Chúa Allah đã phán rằng: "Ta đã tạo ra các cô trinh nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần thưởng cho những ai làm việc phải" (We created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for those on the right hand - Koran: surah 56).
Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều ước mơ sớm được lên thiên đàng lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo đảm nhất để họ đạt được mục đích này là sẵn sàng tử đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran hứa rằng: "Những ai bị giết vì Chúa đều được vào thiên đàng lạc thú" (As for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise of Delight). "Đừng bao giờ nghĩ rằng những người bị giết vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ của Ngài" (Never think that those who were slain in the cause of God are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to fear or to regret, rejoicing in God's grace. God will not deny the faithful their reward - Koran 3:169). (Internet)
Ở Trung Quốc, khi người ta khai quật những phần mộ cổ xưa, đặc biệt hạng người giàu có, và vua chúa, người ta khám phá nhiều thứ đồ mang theo để phục vụ cho “cuộc sống mai sau” được sung túc như cuộc sống trần gian họ từng được hưởng. Tần Thủy Hoàng là một thí dụ. Năm 1974, người ta bắt đầu khai quật và khám phá hàng ngàn tượng lính đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Theo tài liệu sử học Trung Quốc và những truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi, nó giống như một phần bản đồ thành phố với những bức tường, cung điện, nghĩa trang, tức là có thể phục vụ Tần Thủy Hoàng khi ông sang thế giới bên kia.
Ở Việt Nam, cũng có tục lệ đốt “hàng mã”. Hàng mã gồm đủ loại, từ nhà lầu, xe hơi, xe Honda, đến quần áo, tiền bạc, để người chết dùng khi về cõi âm phủ.
Hóa ra, hạnh phúc trên Thiên Đàng, trong cõi vĩnh hằng, cũng tầm thường, nhàm chán đến thế sao? Và chính cái tầm thường, nhàm chán, chóng qua ấy, lại chính là sự cản trở bước tiến con người, cản trở sự vươn cao, sự thăng hoa của con người. Hạnh phúc của cuộc sống sau khi chết cũng không khác gì cuộc sống trần thế, nên phải thụ hưởng những gì ta đang có trên cõi đời này, cần gì tin những hứa hẹn xa xôi về hạnh phúc mà mình sẽ có.
Những thứ hạnh phúc giới hạn phù phiếm kiểu trần gian ấy rồi cũng dẫn đến những giới hạn của cuộc sống, những ngang trái, u sầu, những khát vọng vô tận không thể đáp ứng được…
Tình huống người vợ có bảy đời chồng mà nhóm Xa-đốc đặt ra thật khó xử nếu con người sống lại và “cuộc sống trần gian” lập lại ở… bên kia thế giới! Khi đưa ra trường hợp này, phái Xa-đốc thật có lý khi nhìn thấy bao điều rắc rối của cuộc sống sau khi con người sống lại và nếu cuộc sống “kiếp sau” này giống hệt đời người đã đi qua. Và như thế, con người phải giải quyết những gì cuộc sống trần gian còn dang dở.
Thực tế, câu chuyện mà nhóm Xa-đốc đưa ra chỉ là một trong muôn thứ vấn đề rắc rối khó giải quyết khi con người từ cõi chết sống lại và tiếp tục sống như chưa từng chết. Hãy thử tưởng tượng còn biết bao nhiêu chuyện ngang trái, biết bao nhiêu nghịch cảnh, biết bao chuyện trắng đen, con người sẽ giải quyết ra sau khi con người sống lại.
Thật, nhóm Xa-đốc cũng có lý của họ khi dựa vào đó để bảo vệ lập trường của mình. Vì họ không tìm thấy câu giải đáp cho vấn đề.
Sở dĩ họ không thể tìm thấy câu giải đáp, vì họ quan niệm sự sống lại - cõi vĩnh hằng - hay vào Thiên Đàng - không khác gì cuộc đời trần thế. Con người sau khi sống lại, vẫn là con người của ngày nào khi còn sống ở trần gian! Thế thì, bản thân con người, sự sống lại đó có khác gì sự thức dậy từ một giấc ngủ? Và cuộc sống sau khi chết, có khác gì thay đổi một chỗ định cư?
Thiên đàng theo thánh ý Chúa.
Sự sống lại.
Cuộc hành trình của con người là một cuộc hành trình lột xác, không ngừng thay đổi và lớn lên trong Thánh Thần.
Con người phải nhận ra những tội lỗi thấp hèn của mình và sống trong tình yêu của Thiên Chúa. - Sống trong tình yêu Thiên Chúa, là sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô. “Khi còn nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chổ chết. Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc sự sống đời đời. Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô, Chúa chúng ta”. (Rm.6,20-23).
Chính nhờ sự sống trong Đức Kitô, con người được thanh sạch, trong trắng. Sự sống lại ấy làm con người trở nên như thiên thần. Cuộc sống của một con người mới trong một thế giới mới.
“Phép rửa nay đã cứu thoát anh em. Nhờ phép rửa này, không phải là anh em được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cầu xin Thiên Chúa ban cho mình một lương tâm trong trắng, nhờ Đức Kitô phục sinh, Đấng đã lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (1Pr.3,21-22).
Thế giới vĩnh hằng
Thiên Chúa ban sự sống cho mọi loài thụ tạo. Và sự sống bởi Ngài mà có. Ngài yêu thương sự sống mà Ngài tạo dựng ra.
Do đó, Ngài không bao giờ hủy diệt sự sống, điều mà Ngài đã tạo dựng và Ngài thấy tốt lành. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”(Lc.20,28).
Thế giới vĩnh hằng không phải là thế giới trần gian kéo dài để tiếp nhận con người từ cõi chết sống lại. Cõi Vĩnh Hằng là một thế giới hoàn toàn mới với hạnh phúc vô biên vượt qua thứ hạnh phúc dục vọng phàm phu của kiếp người trần thế. Thế giới ấy là “Trời mới Đất mới” mà những con người đã được thanh luyện và sống lại trong Đức Kitô mới hiểu được và vào được. “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm đến đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh. 21,1-4).
Những điều cũ đã biến mất, nên không có sự tồn tại của câu chuyện “người đàn bà có bảy đời chồng” hay những “chuyện cũ” tương tự. Tất cả đã trở nên tinh tuyền trong Đức Kitô. Và tất cả chỉ còn là niềm hạnh phúc vô tận trong Tình Yêu Thiên Chúa. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. (Kh.7,14).
Nếu con người vẫn còn mê ngủ trong những cuộc vui hưởng thụ trần thế, họ sẽ dừng lại hạnh phúc đời người ở giới hạn đó. Nếu con người không vươn cao lên, con người không thể nào hiểu được thế nào là sống lại và thế nào là hạnh phúc trong Đức Kitô. Không thể nào hiểu được thì không thể nào tin được con người sẽ sống lại, như những người thuộc nhóm Xa-đốc. Vì, mọi sự chỉ sáng tỏ trong ánh sáng Đức Kitô. Và Nước Trời chỉ thuộc về những ai Ngài tuyển chọn. “Kìa đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhàn lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. (Kh.7,9-10).
Thực tế, con người ngày nay với những bước tiến khoa học, đã vươn ra rất xa. Vươn xa đến tận cuối chân trời, vươn xa vào vũ trụ mênh mông, nhưng con người đã không vươn cao được, ngược lại con người còn tuột dốc. Những giá trị đạo đức của con người ngày nay thu hẹp lại, còn những điều phi nhân phi nghĩa thì phình to ra. Con người vươn rộng chiều ngang nhưng lại thu ngắn chiều cao. Tâm hồn của con người cạn dần sức sống thiêng liêng và những giá trị nhất thời thay thế dần những giá trị cao siêu bền vững.
Thật sự, sống lại, phải được hiểu là sự sống lại trọn vẹn xác hồn. Sống dồi dào. Sống hạnh phúc. Và như thế, không có sự sống lại và không có thiên đường trong những con tim không có tình yêu Thiên Chúa ngự trị.
Lạy Chúa, xin cho con từng ngày luôn tỉnh thức, từng ngày đổi mới, từng ngày sống lại, trong tình yêu Chúa. Amen.
"Mà Người không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết,
nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống,
vì đối với Người,
tất cả đều đang sống" (Lc 20,38)
Kính thưa anh chị em
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng Giáo hội muốn chúng ta hướng về đời sau, cụ thể là sự chết TN 32-C106
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng Giáo hội muốn chúng ta hướng về đời sau, cụ thể là sự chết và bên kia sự chết là cuộc sống đời sau. Có cuộc sống đời sau hay không? Đó không phải là một câu hỏi dễ trả lời.
I. Đặt Vấn Đề.
Trong Kinh Tin Kính của CĐ Nicêa mà chúng ta vẫn đọc: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy.Amen." Chúng ta vẫn đọc và có thể nói chúng ta vẫn tin như thế nhưng thử hỏi có phải tất cả mọi người đều tin như vậy hay không thì đó lại là một chuyện khác.
Trên thế giới ngày xưa cũng như hôm nay, có rất nhiều người không tin có thế giới mai sau và vì thế họ cũng không tin có sự sống lại. Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy những người phái Sađốc là những người như thế. Họ không tin có thế giới mai sau, không tin có thiên thần, không tin có linh hồn bất tử, không tin có thưởng phạt, do đó họ không tin có sự sống lại.
Chính vì không tin vào cuộc sống đời sau cho nên họ đến gặp Chúa Giêsu với ý định muốn hạ gục Chúa để làm mất mặt Chúa trước mặt mọi người. Theo luật Lêvi, nếu một người chết mà không có con nối dõi, thì em trai của người này phải kết hôn với chị dâu để sinh con nối dõi cho anh mình. Quả thực những người Sađốc này đã âm mưu đặt Chúa Giêsu vào một tình huống thật khó xử, khi bắt Chúa phải xác định xem ai sẽ là chồng của người vợ này trong cuộc sống đời sau nếu có, vì cả bảy anh em đều đã lấy người phụ nữ đó làm vợ. Vâng! Bằng cách tạo ra một tình huống thật éo le, những người phái Sađốc đã muốn chế giễu giáo lý về kẻ chết sống lại mà Chúa Giêsu đã từng dạy.
Đó là ngày xưa. Còn ngày hôm nay thì sao? Ngày nay cũng chẳng thiếu gì những người như thế. Đức Thánh Cha Phaolô VI có lần đã nói đến một hiện tượng đang có ở trong Giáo Hội. Đó là hiện tượng "Những người công giáo vô thần" Những người công giáo vô thần. Đó là những người đã được Rửa tội, thậm chí đã lãnh nhận Bí tích thêm sức nhưng cuộc sống của họ chẳng gì một cuộc sống không có Chúa. Họ sống như chẳng có đời sau.
Trong kho tàng văn thơ VN tôi thấy Ông Cao Bá Quát cũng có một quan điểm như thế.
"Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời Tiêu khiển một vài chung lếu láo."
Ông Cao Bá Quát nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu "tiêu khiển một vài chung lếu láo". Đó là cách thể hiện cuộc sống của những người không tin có đời sau, không tin có sự sống lại.
Nếu chúng ta không tin thì chúng ta cũng sẽ sống như thế và sống như thế thì chẳng khác gì những người công giáo vô thần mà Đức Phaolô VI nói tới.
II. Bây giờ đến lượt chúng ta. Chúng ta nghĩ như thế nào về cuộc sống ở thế giới mai sau và sự sống lại?
Chắc chắn chúng ta không phải là những người vô thần.
1. Căn cứ vào câu trả lời của Chúa dành cho những người thuộc phái Sa-đốc trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã thấy thật rõ ý của Chúa. Chúa khẳng định một cách rõ rệt về cuộc sống mai sau và về việc kẻ chết sống lại. Đối với Chúa thì cuộc sống mai hậu hay đời sau có một số đặc điểm khác với cuộc sống ở đời này. Trong cuộc sống đời sau: Người ta sẽ không lấy vợ gả chồng... bởi vì họ giống như các thiên thần và là con cái của Thiên Chúa, là con cái của sự sống lại. Chính Thánh Kinh cũng quả quyết điều đó: Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống; vì mọi người đều sống cho Thiên Chúa.
2. Đàng khác trong Tin Mừng với ba phép lạ Chúa làm cho người chết sống lại:
Em bé 12 tuổi con ông Giairô, chàng thanh niên con của bà góa thành Naim và cuối cùng là Lagiarô đã chết 4 ngày được sống lại, Chúa Giêsu đã không coi sự chết như một sự chấm dứt tất cả mà Ngài chỉ coi sự chết như một giấc ngủ.
Tất cả những ngôn từ Chúa sử dụng trong ba trường hợp này đều là những ngôn từ dành cho người đang sống:
Với em bé Chúa bảo: Em bé không chết. Nó đang ngủ và khi cầm tay em bé cho nó sống lại Chúa đã nói: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy".
Với người thanh niên Chúa cũng nói như thế: "Ta truyền cho anh hãy ngồi dậy". Với Lagiarô Chúa cũng nói như thế: "Lagiarô ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy và ra khỏi mồ"
Vâng Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống; vì mọi người đều sống cho Thiên Chúa.
3. Cuối cùng chúng ta không thể nào không nói đến chính sự phục sinh của Chúa Giêsu. Chính sự phục sinh từ cõi chết của Chúa là bằng chứng và cũng là nền tảng vững mạnh nhất cho niềm tin chúng ta về cuộc sống mai sau và cuộc sống đời đời.
III. Kết luận: Hãy sống như những người có niềm hy vọng.
Heidegger: "Nếu chết là hết thì đời ta sẽ phải luôn sống trong lo sợ. Bởi vì biết rằng mình sẽ chết và chết là sẽ trở về với hư vô...và như vậy là đã mang sẵn hư vô trong mình rồi. Vậy thì sống mà làm gì để ngày mai phải vào cõi hư vô."
cách đây không lâu, trường đại học California đã thực hiện một cuộc thí nghiệm về sức chịu đựng của loài chuột đồng Na Uy. Những con chuột này được thả vào trong chậu nước và bị buộc phải bơi cho đến khi chúng kiệt sức và chết chìm. Trong lần thí nghiệm thứ nhất, các nhà nghiên cứu khám phá rằng những con chuột Na Uy có khả năng bơi khoảng 7 tiếng đồng hồ trước khi buông xuôi.
lần thí nghiệm thứ hai được thực hiện cũng như lần trước, chỉ khác một điều. đó là khi các con chuột gần như kiệt sức, không thể bơi được nữa, các nhà nghiên cứu sẽ vớt nó ra ngoài, cho nó nằm nghỉ một lát rồi lại thả vào trong chậu nước. Những con chuột này lại có thể bơi gần 20 tiếng đồng hồ trước khi chìm xuống dưới!
Các nhà nghiên cứu kết luận, sở dĩ những con chuột trong nhóm thứ hai có thể bơi lâu hơn nhóm thứ nhất là bởi vì nó có hy vọng. Nó đã có kinh nghiệm được giải cứu một lần và những gì giúp nó tiếp tục bơi lội thêm gần 20 tiếng sau đó là niềm hy vọng sẽ được giải cứu lần nữa.
con người chúng ta cũng không khác gì mấy, nếu không có hy vọng thì cuộc sống này sẽ trở nên vô nghĩa. Đó là lý do tại sao nhiều người dù gặp phải những hoàn cảnh hết sức bi đát nhưng vẫn kiên trì và quyết tâm vươn lên. Họ có hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Đó là động lực khiến họ không bỏ cuộc và không ít người trong số đó đã trở thành những vĩ nhân của nhân loại. Trong số những vĩ nhân đó phải kể đến những vị thánh mà chúng ta mới mừng kính mấy ngày hôm nay.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và xin Người cho chúng ta can đảm.Amen.
‘Thiên Chúa không phải của kẻ chết,
là mà của kẻ sống’
(x. Lc 20,38)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (2 Mcb 7,1-2.9-14)
Câu truyện trong sách Maccabêô hôm nay thuật lại niềm tin kiên vững của bà mẹ và bảy người con TN 32-C107
Câu truyện trong sách Maccabêô hôm nay thuật lại niềm tin kiên vững của bà mẹ và bảy người con trước sự bắt bớ hành hạ của vua Antiôcô. Họ sẵn sàng chịu chết hơn là phạm tội vì họ tin rằng Thiên Chúa sẽ dủ thương tôi tớ Người, Người sẽ cho họ sống lại để được sống đời đời. Đây là một tư tưởng khá mới của sách Maccabêô so với các sách Cựu Ước trước đó. Cách chung, người Do thái nghĩ là chết là đi vào chốn tối tăm, bị quên lãng, không còn ai nhớ tới. Ở đó không có ánh sáng của Thiên Chúa, không còn kêu cầu Danh Chúa, như chúng ta đọc trong các Thánh vịnh.
Bài đọc hôm nay là những lời tuyên xưng rõ ràng về sự sống lại của thân xác con người. Các anh hùng trong sách Maccabêô còn tuyên bố rõ rằng: các chi thể bị hành hạ cắt xẻo bởi lý hình thì Thiên Chúa cũng sẽ ban lại cho họ. Niềm tin của họ ngược lại với tinh thần Hy lạp vốn coi thân xác là tù ngục níu kéo con người trong những đam mê nặng nề, và chỉ có tiêu diệt thân xác thì con người mới siêu thoát, mới vươn đến những giá trị tinh thần cao đẹp. Chính sự chết và phục sinh của Đức Giêsu đã khẳng định ý nghĩa của niềm tin về sự sống lại của kẻ chết.
2. Bài đọc 2 (2 Tx 2,16-3,5)
Thánh Phaolô, qua lời cầu nguyện, mong ước các tín hữu ở Thessalônica, những người đang bị bách hại và cảm thấy lung lay, không biết mình có thể sống như Thiên Chúa muốn không, hãy kiên vững trong thử thách và giữ vững truyền thống đã được khuyên dạy. Ngài khẳng định với họ về sự trợ giúp Thiên Chúa ban cho họ để giúp họ thắng vượt những khó khăn ở giữa dân ngoại.
Thánh nhân cũng xin họ cầu nguyện cho ngài, là người đang làm việc rao giảng lời Chúa. Ngài cũng gặp khó khăn do sự thiếu lòng tin của những đối phương, nhưng quan tâm của ngài là để Tin mừng được rao giảng rộng rãi chứ không vì sự an nguy của mình. Trong mọi lúc, thánh Phaolô cho thấy rõ niềm tin tưởng cậy trông vào lòng trung thành của Thiên Chúa và qua lời cầu nguyện của mình, ngài khuyên họ hướng lòng về tình yêu trung thành của Thiên Chúa và Đức Kitô, nguồn nâng đỡ vô tận của họ. Chính niềm tin tưởng vào sự trung thành của Thiên Chúa, vào sự hoàn thành các lời hứa của Người là sức mạnh giúp các tín hữu kiên vững trong mọi hoàn cảnh.
3. Bài Tin Mừng (Lc 20,27-40)
Nhóm Sadđucêô là một trong các đảng phái lãnh đạo trong Do thái giáo; phần lớn của nhóm này thuộc tầng lớp tư tế và quý tộc giàu có tư tế; họ bảo thủ về giáo lý và chỉ nhận bộ Ngũ Thư – năm sách được coi là của Môisen – là Sách Thánh. Do đó những gì không được nói đến trong bộ Ngũ Thư thì cũng không được họ công nhận. Họ không tìm thấy giáo lý về sự sống lại trong năm sách của bộ Ngũ Thư, do đó họ không tin vào sự sống lại của kẻ chết. Trái ngược với nhóm Sadđucêô, nhóm Pharisêu công nhận không chỉ bộ Ngũ Thư, các sách Ngôn sứ và các trước tác, mà còn công nhận những giáo điều được truyền thống ghi nhận từ Môisen, trong đó có giáo điều căn bản về sự sống lại của kẻ chết. Do đó vấn đề về sự sống lại của kẻ chết luôn là đề tài tranh luận của hai nhóm này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay nhóm Sadđucêô lại tranh luận về chủ đề kẻ chết sống lại, nhưng đối tượng của cuộc tranh luận là Chúa Giêsu. Họ chất vấn Đức Giêsu về vấn đề này bằng cách dùng luật hôn nhân để chứng minh là việc kẻ chết sống lại là một điều buồn cười. Nếu như theo luật, cả bảy anh em đều cưới một phụ nữ, thì khi sống lại, người phụ nữ này sẽ là vợ của ai? Đây quả là một câu hỏi khó và đầy cạm bẫy, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời cách rõ ràng cho họ dựa trên lý luận và trên Kinh Thánh.
Trước hết, điều kiện sống ở thế giới này không phải là bằng chứng rằng đời sau sống lại người ta cũng sống trong cùng điều kiện như thế. Nghĩa là đời này người ta cưới vợ lấy chồng, vì người ta sẽ chết nên muốn lưu danh người chết bằng cách làm cho họ có người nối dõi tông đường, kéo dài sự hiện diện của họ trên trần gian. Nhưng “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” nghĩa là họ đã trở nên con cái Thiên Chúa, họ như những thiên thần, họ sẽ không còn chết nữa, họ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, sự sống phục sinh khác xa với sự sống ở trần gian này. Những điều kiện hay vấn nạn của thế giới này không còn nghĩa lý gì đối với cuộc sống trên Nước Trời. Đây là sự sống mới nhờ sát nhập với Đức Kitô phục sinh qua việc cùng chịu đau khổ với Người.
Chúa Giêsu còn giải thích thêm cho họ bằng cách dùng lời Kinh Thánh trong sách Xuất hành (3,2) khi Thiên Chúa xưng mình ra với ông Môisen rằng Người là Thiên Chúa của các tổ phụ. Các tổ phụ đã chết từ lâu, nhưng Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của họ khi Người vẫn yêu thương, không bỏ rơi họ trong thế giới sự chết. Thiên Chúa là Thiên Chúa của các tổ phụ vì Người là Đấng cứu độ, che chở và giải thoát họ. Các tổ phụ vẫn “sống” vì Thiên Chúa vẫn quan tâm đến họ. Thế giới người chết không phải là nơi vĩnh viễn đóng kín con người ở đó, nhưng là nơi họ chờ đợi Thiên Chúa cứu thoát họ.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Có lẽ chúng ta không gặp những khó ngăn nguy hiểm đến tính mạng vì bảo vệ niềm tin như các anh hùng trong sách Maccabêô, nhưng trong đời sống hàng ngày, chúng ta có dám tuyên xưng mình là người Công giáo khi phải chọn lựa một điều hơn thua? Ví dụ mình có sống thành thật, không gian dối nơi trường học, công sở hay phố chợ?
2. Thánh Phaolô nói đến việc rao giảng Lời Chúa và cầu nguyện cho việc rao giảng Lời Chúa được lan rộng để đem Tin Mừng đến cho nhiều người. Chúng ta có thể làm gì để cộng tác vào việc rao giảng này?
3. Chúng ta có xác tín vào sự sống lại của chúng ta trong ngày Chúa quang lâm? Chúng ta làm gì để chuẩn bị cho mình vào số những người được Thiên Chúa tuyển chọn vào hưởng hạnh phúc dành cho con cái Người?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Cha toàn năng đã cho Đức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, chính Người cũng sẽ cho thân xác yếu hèn của chúng ta được phục sinh vinh hiển vào ngày sau hết. Với niềm xác tín “xác loài người ngày sau sống lại”, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. “Vua hoàn vũ sẽ cho chúng tôi được sống lại để hưởng sự sống vĩnh cửu.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, biết diễn tả và loan báo niềm tin vào sự sống đời sau bằng một đời sống gắn bó mật thiết với Chúa, siêng năng tham dự các cử hành Phụng vụ, và tích cực thực thi công bình bác ái.
2. Rất nhiều người trong xã hội hiện đại đang sống như thể không có đời sau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trên thế giới biết tin nhận Thiên Chúa là nguồn mạch và cùng đích của muôn vật muôn loài, luôn sống xứng đáng với phẩm giá và ân huệ Chúa ban, để được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Người.
3. “Thiên Chúa sẽ làm cho anh em được kiên vững và gìn giữ anh em khỏi mọi sự dữ.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai đang gặp khó khăn thử thách trong đời sống, biết cậy trông tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa, luôn trung thành với các giá trị Tin Mừng và chú tâm tích lũy cho mình kho tàng ở trên trời. 4. “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho thân bằng quyến thuộc của chúng ta đã qua đời sớm được vui hưởng vinh quang với Chúa, cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn ý thức sống ơn gọi của mình bằng một đời sống yêu thương, tha thứ và phục vụ.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ hằng quan tâm đến mọi nhu cầu của con cái, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ, để chúng con thêm tin tưởng mà tiến bước trong hy vọng trên hành trình về bên Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Con người sẽ sống lại, đó là một niềm tin đã có nơi phần đông người Do Thái. Thực vậy, anh em TN 32-C108 Lượng
Con người sẽ sống lại, đó là một niềm tin đã có nơi phần đông người Do Thái. Thực vậy, anh em Macabê đã thưa lên với vị vua đang tính giết hại họ như sau: Vua chỉ cất được mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi là những kẻ đã chết vì lề luật của Ngài, được sống lại trong cuộc sống đời đời. Vào thời Chúa Giêsu, người biệt phái cũng tin như vậy.
Tuy nhiên cũng có một số người thuộc phái Saducêô, gồm những nhà quý tộc hoặc tầng lớp cao trong hàng tư tế, lại không tin có sự thưởng phạt đời sau, không tin có sự sống lại. Đối với họ việc con người sống lại chỉ là chuyện khôi hài.
Đoạn Tin Mừng cho thấy họ đã tìm cách tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề này vì biết rằng Chúa Giêsu rao giảng sự sống lại. Để chống lại niềm tin tưởng ấy, họ đã đưa ra một thí dụ tiêu biểu từng được sử dụng trong các cuộc tranh cãi để học quê đối phương. Câu chuyện được đưa ra hẳn không phải là một sự thật cho bằng một giả thuyết: Một người phụ nữ có tới bảy đời chồng hợp pháp, và cuối cùng thì người phụ nữ ấy cũng chết. Nếu như có sự sống lại, thì người phụ nữ ấy sẽ là vợ của ai đây? Chúa Giêsu đã trả lời: Nếu Thiên Chúa đã làm bạn với các tổ phụ như Abraham, Isaac và Giacóp, thì không phải chỉ là làm bạn trong chốc lát mà là đời đời. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Thiên Chúa của kẻ sống.
Thực ra ở đây Chúa Giêsu không tả rõ sự sống lại như thế nào, điều Ngài muốn khẳng định đó là Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Và trong suốt cuộc đời, qua những lời giảng dạy nhất là qua thái độ cư xử, Ngài muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, là Đấng làm cho sống. Và ngay cả những kẻ tội lỗi, Ngài cũng không muốn họ phải hư đi, trái lại, Ngài muốn họ hối cải để được sống và sống một cách dồi dào. Những phép lạ chữa lành bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại có thể được coi là dấu chỉ về một Thiên Chúa yêu chuộng sự sống. Và khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết trên thập giá, thì cũng chính là lúc Ngài chiến thắng sự chết để cho sự sống được lên ngôi.
Là kẻ sống thực ra không phải là chuyện dễ. Bởi vì có những kẻ hiện còn đang thở, đang ăn, đang sống nhưng thực ra họ đã chết, bởi lẽ họ đã không thể có một phản ứng gì mới mẻ. Những kẻ sống rập theo chữ viết, rập theo những điều đã quy định từ ngàn xưa đến độ không còn thấy những gì xảy ra trước mắt. Như thầy Lêvi vì mải mê tuân giữ một nghi tiết của lề luật, nên đã làm như thể không có người bị cướp đánh trọng thương và vất bên lề đường, hay nói cách khác đã không có được một phản ứng thích hợp với hoàn cảnh hiện tại. Những kẻ ấy không còn là những người sống.
Còn chúng ta thì sao. Là những người còn đang sống, chúng ta có biết phản ứng và thích nghi với hoàn cảnh hay là chúng ta cũng chỉ là một thây ma đã chết từ lâu?
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc TN 32-C109
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống mai sau, cuộc sống mà chúng ta đang vươn hướng tới. Nghĩ về cái chết và cuộc sống mai hậu không phải là một thái độ mang vẻ bi quan, nhưng ngược lại, đây là cách thức để khơi dậy niềm hy vọng và giúp chúng ta sống cuộc sống hiện sinh cho thật ý nghĩa. Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin khi đọc kinh Tin kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Đó là niềm hy vọng cánh chung của mọi Kitô hữu, bởi vì chết không phải là hết. Cái chết không kết thúc cuộc sống chúng ta một cách vô nghĩa, nhưng nó chính là cửa ngõ đưa dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh hằng. Đây cũng là sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay gợi mở.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Saducêo. Nhóm này không tin có sự sống lại. Đối với họ, chết là một dấu chấm hết. Những người Saducêo đưa ra câu chuyện giả định và có tính ngụy tạo về một phụ nữ có 7 đời chồng để gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Chúa trả lời có sự sống lại, thì không thể giải quyết vấn đề ai là chồng chính thức của người phụ nữ ấy trong cuộc sống mai sau, còn nếu Chúa trả lời không, đương nhiên họ có thêm một đồng minh. Tình thế tiến thoái lưỡng nan. Câu trả lời của Chúa Giêsu là một khẳng định chắc chắn mang tính thần khải về sự sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên Ngài không nói rõ cuộc sống ấy sẽ như thế nào, vì tâm địa hẹp hòi của người Do thái lúc bấy giờchưa thể lãnh hội được chân lý của mầu nhiệm. Ngài chỉ cho họ biết rằng trong đời sống mới, con người sẽ sống như các thiên thần, không còn chuyện dựng vợ gả chồng như cuộc sống hôm nay. Chúa cũng từ từ vén mở cho chúng ta biết về thực tại cách chung. Trong cuộc sống mai hậu sẽ không còn khổ đau và chết chóc, bởi vì con người đi vào cuộc sống trường cửu.
Thời cựu ước, tư tưởng về cuộc sống mai sau rất mờ nhạt. Sách Macabê là quyển sách đầu tiên nói về sự sống lại. Bảy anh em nhà Macabê đã can đảm tiến nhật cái chết với niềm tin tưởng này. Trước khi lìa đời, họ đã nói với vua Antiôkhô: “Chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời(2Mac 7,a)” hoặc “ Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đời đời đâu”(c.14). Sau này, khi Guiđa thắng trận và thu gom các tử thi, ông đã gom tiền gửi về Giêsusalem để dâng lễ tạ tội cầu cho những người đã chết. Tác giả thư Macabê còn chú thích thêm: “Thật thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho kẻ đã chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn(2 Mac 12,44). Niềm tin về sự sống lại mai sau được Đức Giêsu dần dần khai sáng. Thánh Phaolô đã nhắc đi nhắc lại về niềm tin này, như trong Rm chương 8; Rm 6,8; 1 C 15,20-23; 2 C4, 14-15; Pl3, 20; 2Tm2,8-13 v.v..
Mọi người đều phải chết.
Để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, chúng ta phải đi qua cái chết. Đây là một thực tại mà không ai có thể trốn tránh. Ngày xưa vua Tần Thủy Hoàng đã sai phái cả ngàn y sĩ tài giỏi đi khắp nơi săn lùng những thang thuốc quý để ông được trường sinh bất tử, nhưng cuối cùng ông cũng phải chết giống như mọi người. Biết bao anh hùng hào kiệt đã lẫy lừng một thời, được mọi người ca tụng như những vĩ nhân ‘đời đời sống mãi’, nhưng tất cả cũng đều đã chết. Xác của họ có đặt trong những lăng tẩm nguy nga để mọi người đến kính viếng, cũng chỉ là một nắm xương khô mà thôi. Triết học kinh điển của Hy Lạpnổi tiếng với tam đoạn luận‘Mọi người đều phải chết, Socrate là người, nên(ergo) Socrate cũng phải chết’. Tam đoạn luận ấy cũng được ứng dụng cho mỗi người trong chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta chuẩn bị đón nhận cái chết như thế nào.
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn bé, ban đêm ông ngủbên mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng, có tiếng khóc não nuột vang lên. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi mẹ: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ”. Câu hỏi của đứa bé khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời làm sao. Bà bật dậy ngồi vào bàn và mở Kinh Thánh ra đọc. Trong Tin Mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn viết: “Trước lễ Vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng”(Ga 13,1). Gấp sách lại, bà trở về giường nói với đứa trẻ: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng”. Đây là khuôn mẫu từ cái chết của Chúa Giêsu để giúp chúng ta suy gẫm và chuẩn bị đón nhận cái chết nơi mình. Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã từng run sợ khi đối diện trước cái chết. Ngài sợ đến mức độ mồ hôi và máu toát ra.
Tác giả thơ Do Thái đã viết: “ Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ(Dt5,7). Mọi người chúng ta cũng vậy, theo bản năng tự nhiên, ai cũng sợ hãi khi tiếp cận cái chết. Nhưng với niềm tin và lòng yêu mến, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết’’(Rm 8, 39). Thánh nữ Têrêsatrên giường hấp hối đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắpchết, nhưng không phải em chết mà em đang tiến về cõi sống”.Mới đây người ta cho đăng hình một nữ tu rất xinh đẹp, lúc nào trên môi cũng nở nụ cười cho dầu đang phải chiến đấu chống lại những đau đớn do bệnh ung thư. Vị nữ tu này khi chết, trên gương mặt xinh xắn vẫn nở một nụ cười rất tươi. Người phụ nữ trẻ này đã an bình trở về với Chúa và kết thúc cuộc hành trình trần gian không một chút lưu luyến.
Kết luận:
Một linh mục nọ tổ chức tại giáo xứ một lễ an táng khá đặc biệt. Ngài báo trước từ lâu để đông đảo mọi người đến tham dự. Giữa nhà thờ ngài đặt một cỗ quan tài. Theo truyền thống, trước khi đưa thi hài ra phần mộ, quan tài được mở nắp để từng người đến tiễn biệt người quá cố lần cuối. Nhưng khi mọi người nhìn vào quan tài để xem người nằm trong đó là ai, họ không thấy gì, chỉ thấy một tấm gương lớn, phản chiếu chính khuôn mặt của họ. Vị linh mục chú thích:” Mỗi ngày anh chị em hãy tự mai táng chính mình”.
Thiên Chúa là tình yêu. Nếu chúng ta sống sung mãn trong tình yêu, chúng ta sẽ trở nên bất tử vì được thông dự vào bản tính củaThiên Chúa, là Đấng không bao giờ chết. Đây là phương cách giúp chúng ta thực hành để đạt đến sự bất tử trong cuộc sống vĩnh hằng mai sau.
Đã bước vào cuộc đời này ắt có ngày chết. Đó là chân lý, đó là định luật của đời sống con người. TN 32-C110
Đã bước vào cuộc đời này ắt có ngày chết. Đó là chân lý, đó là định luật của đời sống con người. Và như vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại.
Những câu hỏi như thế, nhóm Xa đốc trong trang Tin Mừng hôm nay đã đặt ra cho Chúac Giêsu. Nhân cơ hội, Chúa Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về vấn nạn về cuộc sống mai hậu.
Những người Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để điều tra về giáo huấn của Người. Họ đặt câu hỏi dựa trên luật thế huynh để xem Chúa Giêsu nghĩ gì về việc kẻ chết sống lại. Như trong giai thoại trước (Lc 20,20-26), Chúa Giêsu giải quyết vấn nạn kiểu giải nghi theo cách bất ngờ khiến các kinh sư cũng phải thán phục. Gọi là “giải nghi”, vì ở đây câu hỏi được đặt ra không nhắm đến bản thân Đức Giêsu hoặc quan hệ của Người với giới chức Giêrusalem. Câu hỏi mang tính lý thuyết, mà rất có thể thường được người Xađốc đặt ra cho người Pharisêu.
Họ đến gặp Chúa Giêsu và hỏi Ngài một câu hỏi xem ra không thể trả lời được. Căn cứ theo luật Lêvi ( Đnl 25, 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy người anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.
Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri và các sách khác nữa. Đó là những sách đã khởi sự với phong trào Đệ nhị luật, tức là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ tin lời sách Đaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.
Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?
Câu trả lời của Chúa Giêsu khẳng định rằng sẽ có sự phục sinh, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự phục sinh mà biện luận của bè Xađốc đơn giản là loại bỏ.
Căn cứ trên bộ Ngũ Thư, bè Xađốc bài bác niềm tin vào sự sống lại. Vì thế, Chúa Giêsu viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3, 2-6), một trong sách thuộc về bộ Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu sai lầm trầm trọng của bè Xađốc. Từ Xh 3, 2-6 trong đó Thiên Chúa tự bày tỏ mình cho ông Môsê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp”, Chúa Giêsu rút ra câu kết luận:“Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối quan hệ với Ápraham, Ixaác và Giacóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ cuộc phục sinh.
Chúa Giêsu vạch cho họ thấy sự sai lầm này, Người nói: Con cái đời này thì cưới vợ lấy chồng; còn những ai đáng hưởng đời sau và sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng... bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã bắt lẽ các người Xađốc ngay trong chính lý luận của họ, khiến họ phải đuối lý không thể nào trả lời được. Vì thế, không lạ gì mà các kinh sư khi chứng kiến cuộc tranh luận đã phải thốt lên lời khen ngợi: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm” (20, 39).
Bề ngoài, người Xa đốc và Đức Giêsu nói về cùng mộtvì Thiên Chúa. Trong thực tế, họ quan niệm Thiên Chúa là một Đấng Tạo hóa và Nhà lập pháp lạnh lùng, đã nói tiếng nói cuối cùng khi bố trí thế giới hiện tại và khi ban Luật Môsê. Đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa không kéo con người ra từ hư vô để rồi lại đẩy nó rơi vào hư vô. Ai đã được Thiên Chúa gọi đi tới sự sống, thì được Ngài nhắm cho đạt tới sự sống đời đời. Đối với chúng ta, mọi sự tùy thuộc Thiên Chúa. Số phận chúng ta tùy thuộc Ngài là ai, và là ai đối với loài người.
Đối với người Xađốc, Thiên Chúa là một vì Thiên Chúa của những quy định pháp lý và là một vì Thiên Chúa có quyền năng đã bị cạn kiệt khi tạo dựng thực tại trần gian như hiện có. Đấy là những tiền giả định mà Đức Giêsu không chấp nhận. Họ coi Thiên Chúa như là Đấng đã ban cho dân Israel một loạt những giới luật nhằm bảo đảm cho họ một cuộc sống tốt lành và trật tự trên mặt đất này. Ngược lại, đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa trước khi là Thiên Chúa của các quy định, là Thiên Chúa của lòng nhân lành luôn chiếu cố đến từng con người, hướng dẫn, săn sóc từng con người. Thiên Chúa không liên hệ với con người trước tiên bằng luật lệ, nhưng bằng lòng nhân ái tỏ ra với các tổ phụ. Thiên Chúa không chỉ săn sóc các ngài trong một thời gian ngắn để rồi sau đó bỏ mặc cái ngài trong cái chết. Đã được Thiên Chúa cúi mình xuống trên mình với lòng nhân ái, con người mãi mãi được nhắm cho sống, bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.
Chúa Giêsu phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25-26). Thiên Chúa làm chủ sự sống. Thiên Chúa là "Thiên Chúa của kẻ sống". Chúa là Thiên Chúa của tôi nếu tôi đang sống, nghĩa là nếu tôi còn đang ở trong tương quan mật thiết với Ngài. "Thiên Chúa của kẻ sống" có nghĩa là "đối với Người, tất cả đều đang sống". Vậy nếu tôi cắt đứt tương quan với Người tức là tôi đã chết và như thế Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa của tôi nữa.
Muốn được sống đời sống ấy trong ngày sau hết, mỗi kitô hữu cần phải đặt trọn niềm tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa. Sống tương quan mật thiết với Chúa, thực thi lời Chúa dạy, sống công bình bác ái và hãy loại bỏ những hành vi gian ác, lối sống sa hoa, những lời nói gian tà, những tình cảm bất chính, những đam mê trần tục, không chiều theo cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Thật vậy, Chúa là sự sống lại và là sự sống, xin Chúa cho ta biết đi trên đường lối của Chúa, biết tin tưởng phó thác nơi lòng thương xót của Chúa để ta cũng được sống lại ngày sau hết, được nên giống các thiên thần và là con cái của Thiên Chúa.
Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu TN 32-C111
Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu hỏi đưa đến một hướng đi cho cuộc đời. Tin vào sự sống đời sau chắc chắn con người sẽ có cách hành xử khác với những người vô thần từ chối sự sống thần linh.
Thử hỏi, nếu không có sự sống đời sau cuộc đời này sẽ ra sao? Có lẽ người ta sẽ thấy cuộc đời là một phi lý. Sinh ra trong cuộc đời. Vật lộn với cuộc sống. Tranh đấu để tồn tại. Sống ăn ngay ở lành. Làm việc lương thiện. Chết rồi hết! Quả là bất công, vì đang khi đó có biết bao người sống chìm đắm trong lạc thú, sống vô luân họ chết cũng là chấm hết, hóa ra cuộc đời họ quá sướng, trong khi kẻ ăn ngay ở lành lại thiệt thòi vì hy sinh vô ích. Thế nên, phải có đời sau để trả lại công bằng cho cuộc sống làm người hôm nay. Người Phật Giáo thì tin vào kiếp luân hồi. Người Công Giáo thì có Cánh Chung. Chung quy đều là câu trả lời cho lý do phải sống ăn ngay ở lành trong cuộc sống làm người hôm nay.
Quả thực, nếu cuộc đời là bể khổ và chết là hết thì thật là một tai họa cho kiếp người chúng ta, đúng như một ai đó đã ngao ngán bảo rằng:
“Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh Biết mình thế này thà đừng sinh ra”
Vâng, nếu cuộc đời này thiếu hạnh phúc như cây xanh thiếu lá thì niềm tin cho chúng ta sự hy vọng vào một thế giới ngày mai sẽ không còn đau khổ, và không còn sự chết. Con người sinh ra không phải để chết mà là để sống. Cái chết chỉ là sự chuyển đổi một cách sống khác hoàn hảo hơn cuộc sống hôm nay.
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã nghiên cứu đến hiện tượng gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-su chính là câu trả lời cho cuộc sống chúng ta. Ngài đã chết và sống lại. Sự sống Phục sinh của Ngài hoàn toàn khác lạ với cuộc sống nhân trần. Mặc dù Ngài vẫn mang thân xác con người nhưng các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự sống Phục sinh luôn thanh thoát nhẹ nhàng. Ngài đến và đi. Ngài hiện diện chỗ này. Ngài hiện diện chỗ khác. Không gian và thời gian như dừng lại với cuộc sống Phục sinh. Ngài nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.
Lời Chúa hôm nay cũng khẳng định cho chúng ta thấy có sự sống đời sau. Sự sống đời sau thì tròn đầy, viên mãn. Con người không còn phải lo dựng vợ gả chồng để lưu truyền nòi giống. Con người sống bất tử như các thiên thần. Vì Đấng Tạo dựng con người đã mạc khải chính mình là Thiên Chúa kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài tạo dựng chúng ta để được sống trường sinh như Ngài.
Nhưng để có một sự sống đời sau cũng đòi hỏi con người hôm nay biết sống tròn trách nhiệm làm người của mình. Chúa Giêsu luôn hoàn thành bổn phận Chúa Cha. Ngài đã tìm ý Chúa Cha để thực hiện. Ngài luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây cũng là con đường tiến vào sự phục sinh vinh quang với Chúa nếu chúng ta biết đi theo con đường của Chúa. Con đường của hy sinh, từ bỏ những đam mê tội lỗi. Con đường của vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, cho dẫu đường đời có lắm gian nguy. Con đường hẹp nhưng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Ước gì niềm tin vào sự phục sinh mai sau sẽ giúp chúng ta biết sống một cuộc đời đầy ý nghĩa hơn. Một cuộc đời sống tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Một cuộc đời lương thiện và vi tha. Xin đừng vì những quyến luyến của danh lợi thú khiến chúng ta đánh mất sự sống trường sinh. Amen.
Vì biết cuộc sống này chóng qua, nên nhà thơ Xuân Diệu đã nhắc nhở mình phải “vội vàng” kẻo TN 32-C112
Vì biết cuộc sống này chóng qua, nên nhà thơ Xuân Diệu đã nhắc nhở mình phải “vội vàng” kẻo không còn kịp nữa:
“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn: Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều. Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm,cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Tuy nhiên cũng có người thấy chán ngán cuộc đời, muốn bỏ cuộc đời này đi:
“Ta muốn bỏ đi bỏ cuộc đời Quay lưng nhìn lại chẳng mỉm cười Còn gì thương nhớ còn lưu luyến Cứ thế mà đi bỏ cuộc chơi Thế sự quay cuồng chẳng còn chi Có chăng mộng mị cõi hồn si Tâm tư trống rỗng ôi chán ngán Cười, khóc, buồn, vui...để làm gì? … Ta đã bỏ đi bỏ cuộc chơi Bỏ đi phiền muộn bỏ sầu rơi Mình ta lê bước mình ta bước Mỉm cười nhàn nhạt hỡi ta ơi...! (Thơ chán đời, Vô danh)
Từ hai khuynh hướng đó cho chúng ta thấy cuộc đời này sẽ qua đi. Có người cố bám víu, có người muốn thoát khỏi… nhưng chung quy vẫn là sự tạm bợ của cuộc sống trần gian; dù có níu kéo hoặc chối từ thì nó cũng sẽ qua đi.
Nhưng sau cuộc sống đời này là gì? Có người cho rằng: không là gì cả. Vì vậy bao lâu còn sống phải lo hưởng thụ kẻo không kịp như nhà thơ Cao Bá Quát: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, tiêu khiển một vài chung lếu láo”.
Còn đức tin dạy cho chúng ta như thế nào về sự sống đời sau? Phụng vụ lời Chúa hôm nay là một câu trả lời rõ ràng nhất.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: (2 Mcb 7, 1-2. 9-14)
Đoạn sách Macabê kể về câu chuyện bắt đạo thời vua Antiôkhô. Một người mẹ và bảy người con thà chịu chết chứ không chối bỏ niềm tin của mình. Đoạn này kể về cái chết anh dũng của bốn người con đầu. Nhà vua muốn dùng những cực hình khủng khiếp nhằm làm cho họ sợ mà bỏ Chúa, đồng thời cảnh cáo cho những người sau. Ví dụ người con thứ ba: “Vừa được yêu cầu, anh ta thè lưỡi, can đảm đưa tay ra và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó” (2Mcb, 7, 11). Tuy nhiên dù hình phạt, dù giết chết vẫn không làm họ sợ. Họ vẫn mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình. Đâu là lý do để họ mạnh mẽ như vậy? Thưa vì: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”(2Mcb, 7, 14). Nghĩa là họ tin tưởng vào hạnh phúc đời sau mà Thiên Chúa hứa ban cho họ, nên họ không sợ điều gì hết, kể cả cực hình và cái chết.
2. Tin Mừng: Lc 20, 27-38
Luca kể câu chuyện những người Sađốc không tin có sự sống đời sau, nên đến hỏi Chúa Giêsu về một điều luật của Môsê. Luật này thực ra đã bị bãi bỏ vào TK I, đó là luật nối dõi tông đường. Luật này cho phép người ta cưới chị dâu khi anh mình chết mà không có con, với mục đích để anh mình có người nối dõi. Vấn đề mà những người Sađốc đặt ra để bắt bẻ và cười nhạo Chúa Giêsu là có bảy anh em trai cùng cưới một người đàn bà, vì hễ người nào cưới xong cũng chết. Vậy thì nếu có sự sống đời sau, thì người đàn bà đó là vợ của ai? Quả thật một vấn đề hóc búa!
Qua câu hỏi này thể hiện được cái nhìn của một nhóm người, rằng không có sự sống đời sau. Và giả dụ có thì sự sống đời sau cũng tiếp nối sự sống đời này. Cũng cần sinh sản để lưu truyền nòi giống. Cũng có cưới vợ lấy chồng và mọi sinh hoạt giống như ở trần thế. Một câu hỏi khó đối với con người, nhưng với Đấng “là sự sống và là sự sống lại” thì không có gì là khó khăn.
Trước hết Chúa Giêsu khẳng định có sự sống lại, vì “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Lc 20, 37). Thiên Chúa đã ký kết giao ước với những tổ phụ đến muôn đời, chẳng lẽ lại chấm dứt vào lúc họ chết sao? Vì vậy cái chết chỉ là chấm dứt một giai đoạn thôi, chắc chắn sẽ có sự sống đời sau, sự sống mới. Vì chúng ta tin: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan hững hờ, thì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương”.
Điều thứ hai mà Chúa Giêsu tiết lộ là đời sau không như đời này: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ và cũng chẳng lấ chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36). Chính vì đời sau bất tận, chúng ta sẽ sống muôn đời nên không cần đến việc lưu truyền nòi giống nữa. Mà không cần lưu truyền nòi giống nên chẳng cần phải cưới vợ, lấy chồng nữa. Quá hợp lý!
Có người sẽ đặt vấn đề về hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Nếu không cưới vợ lấy chồng nữa thì làm sao hạnh phúc? Thưa khi đối diện với Thiên Chúa thì không còn hạnh phúc nào có thể sánh bì. Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng, chỉ Nước Trời, chỉ Đất Hứa, chỉ Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc đích thật, còn tất cả niềm vui, hạnh phúc từ tiền bạc, của cải, danh vọng, dục vọng chỉ có ngần có hạn và không phải là vĩnh cửu. Hay như lời Thánh vịnh đã nói: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình”, và “ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc, đâu là an vui”.
Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, qua tuyên tín của Giáo hội, chúng ta tuyên xưng lại: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Có sự sống đời sau, và hạnh phúc đích thật của sự sống đời sau là được ở bên Chúa.
II. SỐNG NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG LẠI
Chúng ta xác tin điều đó, thì chúng ta phải sống làm sao để khi chấm dứt cuộc sống này, mình được bước vào sự sống đời sau với niềm hạnh phúc bên Chúa. Muốn được hạnh phúc bên Chúa ở sự sống đời sau thì ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó với Chúa và gắn bó với con người, vì “ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.
1. Gắn bó với Chúa
Dân Do Thái trước khi vào vùng Đất Hứa phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm. Đó là thời gian để dân Do Thái biết rõ về tương quan của họ với Thiên Chúa, Đấng đã chọn và yêu thương họ, để coi họ có thực sự tin tưởng Người hay không. Chính trong sa mạc dân Do Thái đã gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn. Thánh Phaolô nói: "Hành trình trong sa mạc của dân Israel cũng là một biểu trưng cho hành trình của chúng ta đến với Thiên Chúa".
Vậy thì trong hành trình đức tin nơi trần thế, giống như dân Do Thái lang thang trong sa mạc, chúng ta cũng phải gắn bó với Thiên Chúa. Nghĩa là nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời ta và quy hướng mọi sự về Ngài. Những khi dân Do Thái chạy theo một thần minh nào khác là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa của mình. Những khi dân Do Thái nổi lên đòi làm theo ý riêng mình là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa. Và cụ thể nhất khi sụp lạy trước con bò vàng là họ đang chối từ Thiên Chúa. Khi đòi quay trở lại Ai Cập là họ đang bắt Thiên Chúa làm theo ý mình…
Sự gắn bó với Chúa trong đời sống của Kitô hữu được thể hiện qua việc họ có nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời họ không? và có sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa không?
a. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời, thì mọi ưu tiên trong cuộc sống họ phải dành cho Ngài. Những giờ phút cầu nguyện, những thánh lễ, nhất là ngày Chúa Nhật, việc học hỏi Giáo lý và suy niệm lời Chúa, những việc đạo đức như lần chuỗi, cầu lễ… phải luôn chiếm ưu tiên trong cuộc đời họ. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể thì phải sẵn sàng từ bỏ những thú vui, những lôi kéo khác như bài bạc, rượu chè, sắc dục…
Thánh Augustinô là tấm gương rõ ràng nhất về việc dành mọi ưu tiên cho Chúa. Tuy với quá khứ đầy dẫy những đam mê, những tội lỗi, nhưng từ khi biết Chúa, yêu Chúa thì Ngài đã sẵn sàng từ bỏ tất cả và đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.
Vì vậy giả dụ có những ai còn những đam mê khiến họ không thể dành ưu tiên cho Chúa được, thì hãy nhớ rằng không phải là không được, mà vì chúng ta chưa yêu Chúa đủ.
b. Nếu sẵn sàng làm theo thánh ý Thiên Chúa thì phải “vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Có những đau khổ, những buồn phiền, những bệnh tật, những trái ý xảy ra, chúng ta cứ van xin hoài mà không thấy theo ý mình. Hãy biết rằng, chúng ta chỉ thấy những cái trước mắt, còn Chúa thấy cả cuộc đời chúng ta. Nếu trong những hoàn cảnh như vậy mà chúng ta chán nản, thất vọng, thậm chí bỏ Chúa luôn thì rõ ràng chúng ta không chấp nhận vác thập giá theo Chúa. Mà nếu không có thập giá thì sẽ không có Phục Sinh.
2. Gắn bó với con người
Nếu gắn bó với Thiên Chúa là yêu mến Ngài “hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”, thì gắn bó với con người là “Yêu người như mình ta vậy”.
Yêu người như chính bản thân ta là muốn họ cũng được như ta, cũng hạnh phúc ở đời này và đời sau. Vì vậy vừa phải quan tâm đến họ trong cuộc sống này, nhưng nhất là phải quan tâm đến phần hồn phần rỗi của họ.
a. Quan tâm đến người khác trong cuộc sống này là tình người dành cho nhau. Thánh Phaolô đã nói: “Vui với người, khóc với người khóc”. Nghĩa là cùng chia sẻ với nhau mọi hoàn cảnh. Nhưng phải coi chừng đó là sự chia sẻ hay sự tò mò để thỏa mãn tính hiếu kỳ của chúng ta.
Trong thời gian qua, cả xã hội sôi sục với việc đi tìm thi thể chị Lê Thị Thanh Huyền, nạn nhân vụ phi tang xác của thẩm mỹ viện Cát Tường. Thi thể của chị Huyền thì vẫn chưa thấy đâu, tuy nhiên đã có 6 cái xác khác bị nghi là của chị. Cùng trên sông Hồng, cùng trong một địa bàn tìm kiếm, cùng là những người không may mắn, nhưng sự đối xử của xã hội với họ lại không như nhau. Có những người xung quanh vô cảm với những cái xác đó bởi vì không phải là điều mà họ đang mong đợi. Có vẻ mọi người cũng không chú ý đến những nhân vật phụ này lắm. Biết đâu trong số các thi thể trôi sông kia, ai đó cũng là nạn nhân của một vụ án dã man như chị Huyền? Nhiều người trong chúng ta đang quên đi nỗi đau của người khác mà chỉ chăm chăm đến mục đích của mình. Chúng ta đang lo lắng cho con người, lo lắng đến các giá trị của xã hội hay chúng ta chỉ đang thỏa mãn sự tò mò những câu chuyện giật gân thôi? Hãy quan tâm đến người khác, chứ đừng tìm thỏa mãn tính tò mò của bản thân mình.
b. Nhất là chúng ta phải quan tâm đến phần hồn, phần rỗi của người khác. Khi còn sống, phải nhắc nhở nhau để sống đạo tốt. Khi đã qua đời, hãy tha thứ những gì có thể tha thứ để anh chị em chúng ta giảm bớt thời gian thanh luyện.
Nói tóm lại, phụng vụ Lời Chúa hôm nay thật thích hợp khi chúng ta đang sống trong tháng 11, tháng cầu nguyện cho các Linh hồn. Chúng ta tin rằng có sự sống đời sau, để ngay từ bây giờ chúng ta lo gắn bó với Chúa và gắn bó với con người để có thể được hạnh phúc viên mãn ở sự sống đời sau, trong Nước Chúa.
Gần đây từ Miền Bắc đến Miền Nam, xuất hiện nhiều người tự xưng mình là những “nhà ngoại cảm” TN 32-C113
Gần đây từ Miền Bắc đến Miền Nam, xuất hiện nhiều người tự xưng mình là những “nhà ngoại cảm” có khả năng tiếp xúc với vong hồn, cõi âm, cũng từ đó rộ lên phong trào tìm hài cốt người thân. Không chỉ như thế, nhiều nhà ngoại cảm đã biến mình trở thành những thứ thày bói, thày thuốc, chữa bệnh và bói bệnh cho nhiều người, chữa bệnh bằng cách đào nhà để tìm cốt. Trong số này có cả một vài linh mục tu sĩ biến mình trở thành ông thày bà cốt. Có một thời gian Bộ Thương Binh Xã hội cũng cậy nhờ những người này để truy tìm hài cốt các liệt sĩ, tuy nhiên một vài tuần gần đây báo đài đồng loại đưa tin và lật tẩy cảc chiêu lừa của các nhà ngoại cảm này. Qua xét nghiệm ADN, thì đa số đều không chính xác, có khi là xương hoặc răng thú vật. Điều này đang khiến dân chúng hoang mang nửa tin nửa ngờ. Việc bốc cốt tìm cốt này nó không chỉ tác động trên đời sống người dân, mà nó còn tác động trên đời sống đức tin của nhiều tín hữu, và điều nguy hiểm hơn nữa là nó đang làm sai lệch giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về Bốn Sự Sau: Sự chết, Phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.
Cho đến hiện nay thì cả những người xưng mình là vô thần, cũng không thể phủ nhận được niềm tin linh hồn bất tử và sự hiện hữu của một cuộc sống sau khi chết. Trước đây, có một thời những người duy vật, vô thần cực đoan đã phủ nhận Thiên Chúa và tất cả các thực tại thiêng liêng, và họ cho rằng con người chỉ là vật chất, chết là hết. Thế nhưng ngày nay trong thực tế, chính những người này lại đang tin vào thế giới vô hình, thế giới của các linh hồn, và tin rằng thế giới ấy đang ảnh hưởng trên thế giới trên cuộc sống hiện tại và còn ảnh hưởng trên tương lai sự nghiệp của họ. Chính vì vậy mà họ cúng bái, tin kiêng, yểm bùa và không dám xúc phạm đến xác chết, đến mồ mả của người chết.
Quả thực nếu chết là hết theo quan niệm của những người chủ trương duy vật vô thần, thì con người không khác chi con vật. Nếu con người không có linh hồn, thì cái chết của con người cũng không khác chi cái chết của con chó, và người ta cũng không cần thắp nhang tôn kính người qua đời. Niềm tin tôn giáo chỉ cho chúng ta biết rằng, con người có xác có hồn. Đặc biệt đức tin Kitô Giáo còn cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng: Cái chết chỉ là một giai đoạn tạm thời, là giai đoạn chờ đợi, rồi tất cả chúng ta sẽ có ngày sống lại khi Đức Kitô trở lại.
Niềm tin kẻ chết sống lại là một niềm tin đã có từ lâu nơi các dân tộc, đặc biệt nơi những người Do Thái. Họ tin rằng những ai trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Macabê cho thấy những người Do Thái đã kiên cường với đức tin của cha ông, chấp nhận mọi đau khổ cực hình, can đảm chấp nhận cái chết, vì tin tưởng và hy vọng, Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu chuyện sách Macabê thuật lại có bảy anh em cùng chịu chết một cách đau đớn nhưg họ không sợ hãi vì tất cả họ tin rằng sau một giây lát chịu cực hình họ sẽ được gặp lại Thiên Chúa, và vì thế họ thà chịu chết chứ không chịu lỗi luật của thiên Chúa.
Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xứng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Niềm tin vào sự sống lại đời sau vẫn là một thách thức đối với nhiều người, khiến họ không dễ gì chấp nhận. Thời Chúa Giêsu cũng có một nhóm người thuộc phải Xadốc không chấp nhận niềm tin này, nên họ mới đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Có một người cưới bảy anh em trai, mà cuối cùng chết đi không ai có con, thì sau này nếu như sống lại người ấy là vợ của ai trong số họ? Nhân cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu sửa lại lối suy nghĩ của họ về cuộc sống đời sau, vì họ nghĩ rằng cuộc sống đời sau hoàn toàn giống như cuộc sống tại thế, cũng dựng vợ gả chồng, cũng xây nhà cửa, cũng có của cải vật chất…, Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cuộc sống đời sau trổi vượt hơn hẳn cuộc sống đời này và hoàn toàn khác với cuộc sống đời này. Cuộc sống mai sau là cuộc sống không còn đau khổ chết chóc, không còn dựng vợ gả chồng, không còn tìm thú vui thể xác nữa, mà trái lại mọi người sống siêu thoát, sống hạnh phúc trong thế giới của Thiên Chúa giống như các thần linh, và họ hạnh phúc vì được ở cùng Thiên Chúa. Hạnh phúc ở đời sau mới là hạnh phúc đích thật của con người và là niềm khao khát của mọi người, khao khát được trở nên như thần linh, được gặp gỡ Thiên Chúa là cội nguồn cuộc đời của mình,
Cũng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa dựng nên con người vì yêu thương và Ngài muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc mãi mãi, và vì thế, Ngài đã “thổi hơi” thở thần linh của Ngài cho con người, hơi thở ấy chính là sức sống của Thiên Chúa được thông chia cho con người, ban tặng cho con người. Chính vì thế, những ai thuộc về Thiên Chúa, giữ gìn mối dây sự sống với Thiên Chúa thì sẽ không bị hủy diệt. Thiên Chúa mãi là Thiên Chúa của kẻ sống, và các tổ phụ như Apraham, Isaac, Giacop, hay tất cả mỗi chúng ta, là những người đón nhận sự sống từ Thiên Chúa họ vẫn đang sống, song vì sự hiện diện của họ khác chúng ta nên chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng họ vẫn đang nhìn thấy chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tin một cách chắc chắn rằng, chúng ta sẽ không bị hủy diệt vĩnh viễn, nhưng nhờ kiên trì theo Chúa ở thế gian này, chúng ta sẽ được sống mãi mãi bên Chúa, và ngày sau hết chúng ta sẽ từ bụi đất sống lại. Đồng thời xin cho chúng ta biết thể hiện niềm tin vào cuộc sống mai sau bằng cách ngay từ hôm nay sống tốt và sống đầy tràn tình yêu thương mỗi ngày, vì chúng ta chỉ có thể sống trong vương quốc của tình yêu thương khi hôm nay chúng ta biết yêu thương, và nhờ đời sống của mỗi tín hữu chúng ta làm chứng cho mọi người về niềm tin vào sự sống mai sau của chúng ta.
Thưa quý OBACE, chính vì muốn biết sự sống bên kia cái chết sẽ như thế nào nên con người từ cổ tới kim vẫn đang cố gắng để giải thích và diễn tả cuộc sống ấy, có điều là nhiều người đã không tin và không dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa, mà muốn tự mình hoặc là cho mình có khả năng để biết và tiếp xúc được với thế giới ấy. Những câu chuyện về ma quỷ là những câu chuyện hấp dẫn và được thêm bởi nhiều tình tiết cho ly kỳ và gợi lên sự tò mò cho nhiều người, đặc biệt gần đây những câu chuyện về vong hồn dường như đang có sức ảnh hưởng đến nhiều người.
Là kitô hữu, chúng ta tin rằng tất cả những ai trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống công chính thánh thiện, thì sau khi chết họ sẽ được vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa, sống hạnh phúc đời đời, còn nhưng ai chưa xứng đáng thì phải trải qua một thời gian thanh luyện để nên xứng đáng hơn. Còn những người khi sống đã quyết liệt từ chối Đức Kitô và ân sủng của Ngài thì sau khi chết họ sẽ không được gặp Đức Kitô, không được bước vào nhà của Ngài, mà phải rơi vào nơi đầy hận thù, thất vọng và chết chóc. Như thế, thì sẽ không thể có những linh hồn đi lang thang, và cũng không ai có thể nói chuyện được với vong hồn, vì hai thế giới hoàn toàn khác nhau.
Chúng ta đừng quên rằng, ma quỷ là tên luôn gieo sự nghi ngờ, ngay từ đầu, nó đã gieo nghi ngờ cho Adam - Eva, và đến nay nó tìm mọi cách quấy phá và làm lung lạc đức tin của chúng ta. Nó có thể mượn các hình thức của vong hồn, mượn miệng của người sống để nói về đủ điều, kể cả những điều tốt lành, hoặc những điều ghê sợ để gieo vào trong chúng ta sự nghi ngờ về sự hiện diện, và quyền năng của Thiên Chúa, và khuyến khích chúng ta tin vào quyền năng và sự ly kỳ của nó, cuối cùng là chạy theo nó.
Chúng ta cũng cần nhớ rằng, ma quỷ nó không cám dỗ chúng ta ngay một lúc, nhưng nó dùng các câu chuyện được thêu dệt và truyền miệng từ người này qua người khác để dần dần đánh gục đức tin của chúng ta, nó dùng các hình thức bói toán gọi hồn, để khiến chúng ta tin vào các ông thày bà thày mỗi khi gặp khó khăn hay bệnh tật, khiến cho người tin hữu đánh mất thói quen cầu nguyện, và sống phó thác, không còn muốn lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa nữa. Trong thư thánh Phêrô, đã có lần chia sẻ: Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự.
Dựa vào lời Thánh Phaolô hôm nay, để chúng ta cầu xin Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa Cha của Ngài luôn gìn giữ và bảo vệ chúng ta, xin Ngài làm cho tâm hồn chúng ta nên vững mạnh sống với niềm hy vọng phục sinh và xin đừng để chúng ta sa chứơc cám dỗ của ma quỷ. Amen.
Niềm tin vào sự sống đời sau vừa là một khát vọng, vừa là một điều khó khăn đối với con người. TN 32-C114
Niềm tin vào sự sống đời sau vừa là một khát vọng, vừa là một điều khó khăn đối với con người. Khát vọng vì con người không cảm thấy bằng lòng với cuộc sống này; không thể chấp nhận những bất công còn đầy dẫy mà cuộc sống này không bao giờ có thể giải quyết hoàn toàn; không thể chịu đựng được sự phi lý vì những mất mát, chia lìa của cuộc sống nhân loại phải đón nhận. Khó khăn vì người ta dễ cảm thấy chắc tâm khi đạt được những thành công, tìm thấy những bảo đảm cho cuộc sống này để mình được sung sướng; hơn là "thả mồi bắt bóng" ở thế giới nào khác.
Những người Sađốc là những người muốn an tâm với những sung sướng rõ ràng như thế; vua Antioco và quần thần của vua thì tưởng ai cũng như thế, nên lấy những hình phạt thể xác để đe dọa các tín hữu.
Niềm tin của người kitô hữu không phải là khinh chê cuộc sống này để "thả mồi bắt bóng", nhưng luôn qui chiếu đời sống của mình vào ngày Thiên Chúa hoàn thành chương trình cứu độ; khi đó Ngài "trả lại" những mất mát, Ngài hoàn thành những khát vọng, Ngài nối lại những chia lìa, Ngài biến đổi những giới hạn nên một "trời mới đất mới".
Người ước vọng hạnh phúc đời sau không phải là người chán đời, bi quan; nhưng là những người tràn đầy lòng yêu thương, sống mãnh liệt niềm khát vọng thực hiện cuộc đời mình cho tốt đẹp hơn, muốn mang lại hạnh phúc cho người khác trọn vẹn hơn.
Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, xác tín điều đó giúp cho người kitô hữu vượt qua lòng ích kỷ, thắng được sự nhát đảm và cảm nhận được giá trị của niềm vui đích thực, niềm vui "là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại".
Tâm tình hiệp lễ
Vầng đông dậy, ánh hồng gieo rắc Chốn thiên cung nhã nhạc vang hòa... Ấy Vua Cả oai phong lẫm liệt Cõi âm ty: hủy diệt tiêu tan. Chân người dẫm nát tử thần Tù nhân đau khổ ân cần đưa lên. Đã im bặt câu than tiếng khóc, Đã hết rồi cảnh ngục thê lương, Sứ thần áo trắng vui mừng Loan tin Chúa đã vui mừng phục sinh. Xin cho mọi lòng thành hoan hỉ Mãi muôn đời mừng lễ Vượt Qua Tái sinh ơn nghĩa chan hòa Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò. Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái Đấng lừng danh đánh bại tử thần. Ngàn đời hiển trị muôn dân Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh.
"Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa" hay "vì Chúa." (Lc 20, 37-38)
Augustine nói rất đúng: Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để từng phút giây "hướng về Ngài". TN 32-C115
Augustine nói rất đúng: Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để từng phút giây "hướng về Ngài". Quả thật, Thiên Chúa trao ban sự Thiện tốt hảo, kể cả chính mình cho con người để con người được sống.
Cái chết không là một phần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa: "Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu" (Kn 1, 13-14). Do tội, sự chết đã du nhập vào trong tạo dựng, Thánh Phaolô nói: "Nọc của sự chết là Tội, mãnh lực của Tội là Lề luật" (1Cr 15, 56), đúng là tội lỗi sinh ra sự chết vì sự chết cắt đứt mối liên hệ với Đấng Hằng Sống làm ra sự sống. Nhưng "Đội ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban toàn thắng cho ta nhờ Chúa chúng ta, Đức Yêsu Kitô!" (1 Cr 15, 57).
Vâng, vinh quang cho Đức Giêsu Chúa chúng ta, Đấng đã chiến thắng kẻ thù trên trần gian! Lời Hằng Sống đã kết thân với phận người, được đánh dấu bằng cái chết, để chiến thắng sự chết vào buổi sáng Phục Sinh. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa đã xuống đầy lòng chúng ta, những người chịu phép Rửa tội, ngõ hầu chiến thắng của Chúa Kitô Phục sinh hiện diện trong đời ta.
Đức Kitô đã phục sinh, sự chết không làm gì được Ngài nữa. Nên "nếu ta sống, chính cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết, ta vẫn thuộc về Chúa," (Rm 14, 8 ). Làm sao không ngạc nhiên cùng với Thánh Phaolô kêu lên: "Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?" ( 1Cr 15, 55 ) Đó là lý do tại sao "những người được coi là xứng đáng lãnh phần thưởng trong thế giới mai ngày và sự sống lại từ cõi chết, nghĩa là những người đã được rửa tội, không thể chết nữa: họ là con cái Thiên Chúa, thừa hưởng sự sống lại."
Tất nhiên, chúng ta không thể tưởng tượng được sự viên mãn ở đời sau sẽ ra sao, các thiên thần gợi ý cho thấy một cuộc sống hoàn toàn dành cho việc ngợi khen Chúa, trong sự hiệp thông hoàn hảo và tạ ơn muôn đời. Vì sự chết sẽ không làm gì được nữa, không cần thiết để đảm bảo sự sống còn của muôn loài: hôn nhân như một tổ chức để duy trì cuộc sống không có lý do để tồn tại nữa. Chúng ta sống trong một mối quan hệ tình yêu hoàn hảo với Thiên Chúa và với nhau, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần.
Như thế chúng ta sẽ hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Sađốc: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại". (Lc 20, 34-36)
Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy: Cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hẹp hòi. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Thánh Kinh: Thiên Chúa là Chúa các tổ phụ. Người là Thiên Chúa của kẻ sống (x. Lc 20, 37-38). Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu thì phải tin con người có cuộc sống vĩnh cửu. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại là vì họ không chịu tìm hiểu Kinh Thánh. Đó là điểm đáng trách của họ. Họ không biết vì không chịu tìm hiểu và xin Chúa soi sang.
Ước gì các cặp vợ chồng đừng có lo lắng: vì tình yêu đích thực của chúng ta trong cuộc sống hay chết này không chỉ bảo toàn nhưng biến đổi: vợ chồng nhận biết Thiên Chúa trong ánh sáng của tình yêu liên kết họ với nhau cách hoàn toàn trong một nụ hôn vĩnh cửu. Hôn nhân không kết thúc với cái chết, nhưng biến đổi. Chúa chúng ta làm mất đi tất cả những hạn chế đặc trưng của sự sống trên trái đất. Tương tự như thế, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa bạn bè với nhau sẽ không bị quên lãng. Nhưng nói rằng hôn nhân trần thế là một kinh nghiệm tiêu cực, hiểu lầm và đau khổ. Cái chết không cắt đứt các mối liên hệ có còn là lý do để sợ hãi nữa không? Không, bởi vượt qua thời gian vào cõi đời đời, cái xấu sẽ biến mất chỉ còn cái tốt. Tình yêu hiệp nhất họ với nhau, ngay cả khi nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thấy phát triển đầy đủ, trong khi các khuyết điểm, hiểu lầm, đau khổ mà họ đã gây ra cho nhau sẽ tan biến.
Nhiều cặp vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực giữa họ với tình yêu, niềm vui và sự viên mãn của hiệp thông mà họ đã không được biết đến trên trái đất cho đến khi họ được đoàn tụ "trong Thiên Chúa", vì Ngài sẽ hiểu tất cả, người ta sẽ bảo đảm tất cả, tha thứ tất cả.
Vậy, nói gì về những người đã lập gia đình cách hợp pháp với nhiều người như góa vợ và góa chồng rồi tái hôn? (Cụ thể trường hợp phái Sađốc giới thiệu về Chúa Giêsu, bảy anh em đã liên tục kết hôn với cùng một người phụ nữ). Đối với họ là bằng nhau, lặp đi lặp lại cùng một điều: đó là tình yêu đích thực và món quà mỗi cặp vợ chồng, khách quan tất cả đều tốt, Thiên Chúa sẽ không xóa nhòa nhưng hoàn tất nó ở trên trời. Trong Thiên Chúa sẽ không có sự cạnh tranh hay ghen tuông: những điều không thuộc về tình yêu đích thực, hay dưới ách thống trị do hậu quả của tội lỗi, sẽ không tồn tại ở trên trời.
Tóm lại có "một cuộc sống khác" đang chờ đợi chúng ta, như Đức Giêsu nói: "Họ là con cái Thiên Chúa". Đối với Chúa Giêsu chắc chắn rằng một vài lời nói lên tất cả, bởi vì đối với Ngài không có hạnh phúc lớn hơn: là con cái Thiên Chúa được chia sẻ trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa.
Sống, yêu, ca tụng, vui mừng... tất cả những động từ này sẽ đề cập đến thực tế duy nhất tồn tại ở nơi Thiên Chúa, những người cuối cùng sẽ là "tất cả trong mọi sự"; "Bởi lòng yêu mến Người đã tiền định cho ta được phúc làm con, nhờ Đức Yêsu Kitô, và vì Người, chiếu theo nhã ý của thánh chỉ Người,"(Ep 1, 5 ).
Lạy Chúa, "Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!" (Tv 16). Amen.
Mỗi lần tham dự lễ mừng ngân khánh, kim khánh kỷ niệm đám cưới đều là những dịp đặc biệt vui TN 32-C116
Mỗi lần tham dự lễ mừng ngân khánh, kim khánh kỷ niệm đám cưới đều là những dịp đặc biệt vui không phải riêng cho đôi hôn nhân mà còn cho con cháu và mọi người tham dự.
Mừng vui vì họ đã trải qua một chặng đường dài nhiều chông gai trong cuộc sống hôn nhân. Đời sống hôn nhân được ví như người đi biển hoặc như người đi trong đêm. Tựa như lênh đênh trên biển cả bởi họ không biết khi nào sóng to gió lớn ập đến. Có khi là mây đen che phủ, có khi là bão tố ầm ầm. Đời sống hôn nhân ví như người lữ hành trong đêm không biết bước kế tiếp là an hay nguy, đắt bằng hay bước bỗng, vấp té vì thế mỗi bước chân đều quan trọng. Mỗi bước chân dẫn họ đến gần ngày mừng. Họ có thể không là những vĩ nhân, bằng cấp cao, có vai vế trong xã hội. Họ là những người dân bình thường, sống âm thầm nhưng học được nghệ thuật sống, nắm được chân lí khôn ngoan cách sống. Đời sống hôn nhân của họ cũng đủ vị đắng cay, ngọt bùi nhưng họ vượt qua được những hương vị đắng chát đó. Vì thế họ đáng ca tụng, đáng chúc mừng trong ngày mừng kim khánh, ngân khánh. Hôn nhân chấm dứt khi một trong hai người qua đời nhưng tình yêu họ dành cho nhau sâu đậm nhiều năm sau đó. Tôi may mắn gặp nhiều người dù người phối ngẫu đã mất nhiều năm trước nhưng mỗi lần nhắc đến họ nhắc với tâm tình thương mến, kính trọng và nuối tiếc vì người kia ra đi quá sớm. Điều này cho thấy lời thề hôn phối ‘Những gì Thiên Chúa liên kết con người không được phân li’ trở thành huyền thoại cho một số nhưng trở thành hiện thực được cho những đôi hôn nhân biết mở rộng tâm hồn đón ơn Chúa, trung thành với lời hứa.
Nhóm Sađốc không tin có sự sống lại nhưng lại dùng điều này gày bẫy Đức Kitô. Họ hỏi Ngài về đời sống hôn nhân sau khi con người qua đời. Đức Kitô dùng dịp này để giải thích cho họ về đời sống thiên giới.
Thứ nhất có sự khác biệt về cuộc sống hiện tại và cuộc sống tương lai. Con cái đời này cưới vợ gả chồng để duy trì và nối tiếp cuộc sống trần thế nhưng điều này không cần thiết nơi cuộc sống thiên quốc. Vì sao? Vì họ sống như thiên thần. Không còn dựng vợ, gả chồng. Ngay cả đau khổ thân xác tinh thần cũng biết mất. Cuộc sống mới tràn đầy hạnh phúc và yêu thương. Vì tràn đầy hạnh phúc, yêu thương nên không cảm thấy thiếu và như thế không có những nhu cầu như cuộc sống trần thế. Mọi người sống trong thiên quốc yêu thương nhau như anh chị em cùng một đại gia đình Chúa.
Thứ hai người Sađốc hiểu sai lầm về đời sau. Vì sao? Vì họ thiếu hiểu biết về Kinh Thánh. Họ là thầy dậy muôn dân như họ tự hãnh diện nhưng lại thiếu kiến thức, hiểu biết về điều họ rao giảng. Họ dùng hiểu biết trần thế giải thích nước trời nên giải thích của họ dẫn vào ngõ cụt, không lối thoát. Đức Kitô rao giảng tình yêu Thiên Chúa là tình yêu vô vị lợi và vĩnh cửu. Kẻ tin thể hiện tình yêu này qua cử chí bác ái, yêu thương, tha thứ, công bình. Chính bác ái, yêu thương là hành trang đi với họ vào Thiên quốc.
Thứ ba, Đức Kitô xác nhận tổ phụ Abraham, Isaac, Giacob không phải đã chết như nhóm Sađốc tin mà họ còn sống bên Chúa. Họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên họ. Chính nhận thức này xác định họ sống, và sống trong hạnh phúc và yêu thương. Chỉ riêng điểm này đủ xác định họ còn sống vì nếu họ đã chết họ sẽ không thể nhận biết Thiên Chúa. Họ nhận biết Thiên Chúa bởi họ còn sống.
Nhóm Pharisiêu xem ra có vẻ cởi mở hơn nhóm Sađốc vì Pharisiêu tin vào thiên thần và tin vào sự sống lại còn nhóm Sađốc thì không.
Phải chăng là con người sinh ra để chết? Và phải chăng cái chết là điểm chấm dứt cho cuộc đời con TN 32-C117
Phải chăng là con người sinh ra để chết? Và phải chăng cái chết là điểm chấm dứt cho cuộc đời con người? Nói chung thì cái chết là số phận của mỗi người, nhưng ai ai cũng đều muốn sống chứ không vội chết. Mỗi người có một nhãn quan riêng. Mỗi người có một lối suy tư riêng. Mỗi người có cách cảm nhận riêng. Muôn người muôn vẻ, nhưng tất cả vẫn là suy tư về thân phận con người, nhất là cái chết, tại sao không ai tránh khỏi? Để rồi người ta phải thốt lên: “Đời người dài, ngắn, sang, hèn. Trăm năm gom đủ một lần đưa tang”. Và lại nữa, một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp. Nhưng Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống. Chính cuộc đời duy nhất này, sẽ định đoạt số phận vĩnh cửu của ta. Con người sinh ra là để sống mãi, và cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi sống đời sau. Đời sau mãi mãi là một mầu nhiệm vì chẳng ai chụp được hình ảnh của thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe hay vẽ ra cho ta thấy. Bởi thế, người ta không tin có đời sau. Người ta bị cuốn hút và sống như thể chỉ có đời này, còn đời sau là chuyện ở đâu đó. Nó hoàn toàn xa lạ. Và đó chính là lối sống không phải chỉ riêng người thời nay, mà những người thời Chúa Giêsu cũng đã như vậy.
Thật vậy, qua Lời Chúa hôm nay cho thấy một cuộc tranh luận, liệu rằng có sự sống đời sau hay không. Những người thuộc phái Xa-đốc tin rằng, sau cái chết thì linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ. Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống. Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng đời sau là sự kéo dài của đời này. Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc. Nhưng Chúa Giêsu đã vén mở bức màn đời sau rằng: đời sau khác hẳn đời này. Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa. Đời sau không còn bóng dáng của thần chết, không còn quy luật của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người được sống lại cả hồn và xác. Thân xác tuy đã mục nát theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn. Và đó mới chính là sự sống đích thật của con người. Đó chính là cái cõi mà con người phải đi về. Đó mới chính là niềm hy vọng mà con người luôn vươn tới.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, trong Chúa Nhật gần kết thúc năm phụng vụ, tất cả đều gợi lên trong ta những suy nghĩ và sự sống đích thật của đời ta. Sự sống đích thật ấy là chính sự sống vĩnh cửu đời sau. Đời người rồi ai cũng phải chết. Chính cái chết của đời người lại dạy cho ta biết cách sống. Chết để đựơc sống. Chính sự sống đời sau sẽ kéo ta ra khỏi những hạnh phúc giả tạo và những khổ đau do mê lầm. Chính có sự sống đời sau mà ta thấy cần phải bước đi vững vàng trong sự sống đời này. Không kéo lê. Không buông xuôi. Nhưng cũng có đôi khi để gục đầu ăn năn và nhìn lại những đoạn đưòng đã đi qua, như cố nhạc sĩ họ Trịnh đã suy tư trong bài hát: Im Lặng Thở Dài “Im lặng của đêm, tôi đã lắng nghe. Im lặng của ngày, tôi đã lắng nghe. Im lặng của đời, tôi đã lắng nghe. Tôi đã lắng nghe trái tim lạc loài, bao đêm đã qua, im lặng mặt người, tôi đã lắng nghe im lặng của tôi”. Chính khi im lặng lắng nghe tiếng đời, ta mới hy vọng và hăng say tiến tới sự sống đời sau. Và nơi ấy, ta sẽ gặp chính Đấng mà ta đã tin yêu và tôn thờ. Để chỉ biết chiêm ngắm, ca ngợi và phụng sự Chúa mà thôi. Amen.
Có ngày sinh ắt có ngày chết. Đó là chân lý. Nếu ngày sinh, chúng ta cất tiếng khóc trong niềm vui TN 32-C118
Có ngày sinh ắt có ngày chết. Đó là chân lý. Nếu ngày sinh, chúng ta cất tiếng khóc trong niềm vui mừng của mọi người, thì ngày chết, mọi người sẽ khóc cho kiếp người của ta đến đây kết thúc. Vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?
Những câu hỏi như thế, nhóm Sa đốc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đã đặt ra cho Đức Giêsu. Nhân cơ hội, Đức Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về thắc mắc trên.
1. Tại sao nhóm Sa đốc không tin sự sống lại
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào trong bối cảnh sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, và cũng là một trong những bài giáo huấn quan trọng của Ngài tại Giêrusalem. Đức Giêsu lên Giêrusalem lần này là để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Ngài sẽ chịu: "Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất" (Lc18,31). Vì thế, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài ở đây, nhóm Pharisêu và Biệt Phái luôn tìm cách gài bẫy để bắt Đức Giêsu nhằm loại trừ Ngài và xóa bỏ giáo lý mà Ngài đang loan báo. Hôm nay, thêm một nhóm nữa cũng với ý đồ như hai nhóm trên, họ chính là nhóm Sa đốc.
Nhóm này là một trong ba nhóm quyền lực nhất trong dân thời bấy giờ, đó là: Pharisêu, Biệt Phái và Sa đốc. Hai nhóm đầu họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Còn nhóm Sa đốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc. Thái độ và cách thức khác nhau, nhưng họ đều là những người chống đối Đức Giêsu. Chủ trương của nhóm Sa đốc này là không tin có sự sống lại. Họ hoàn toàn phủ nhận tất cả những gì không nằm trong bộ Ngũ Thư, bởi vì họ chỉ tin năm cuốn sách đầu của Cựu Ước, và họ bác bỏ hết tất cả các sách còn lại. Trong bộ Ngũ Thư của Mô sê không có nói trực tiếp đến vấn đề sống lại. Có chăng chỉ là những hình ảnh. Vì thế, họ không tin. Mặt khác, giả thiết của nhóm này là: nếu có tin thì sự sống đời sau chẳng khác gì cuộc sống hiện tại trên trần gian và, quyền năng của Thiên Chúa không xa hơn khả năng của con người là bao.
Khởi đi từ quan điểm, lựa chọn trên của nhóm này, nên họ đã đặt ra cho Đức Giêsu một tình huống hết sức ly kỳ. Họ trưng ra một câu chuyện theo kiểu trào phúng: khi có hai người lấy nhau, người chồng chết mà không con, theo luật, người vợ đó sẽ được lấy tiếp người anh em còn sống để có con nối dõi, và lần lượt như thế tới 7 đời chồng mà vẫn không có con, vấn nạn đặt ra là sau khi sống lại, người đàn bà này sẽ là vợ của ai? (x. Lc 20, 27-38)
Khi đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi như vậy, họ đã dùng biện pháp "nhất tiễn diệt song điêu" một mũi tên bắn hai đích. Một phần họ muốn gài bẫy Đức Giêsu để kiếm cớ tố cáo Ngài; mặt khác, họ muốn so tài với nhóm Biệt Phái và Pharisêu, vì hai nhóm này đã bị thất bại nhiều lần và chịu sự khiển trách nặng nề của Đức Giêsu công khai trước mặt toàn dân.
Khi nhóm Sa đốc đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi về sự sống lại như thế, nhân cơ hội này, Ngài đã mạc khải cho họ về sự sống lại và cuộc sống của con người sau cái chết.
2. Mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại
Ngay sau khi nghe họ đặt câu hỏi, Đức Giêsu đã đi thẳng vào vấn đề: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần" (Lc 20, 35).
Thật vậy, ở đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, bởi vì: Thiên Chúa vẫn là Đấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là một vị Thiên Chúa của kẻ chết.
Tuy nhiên, không phải ai cũng được vào dự phần vinh phúc đó, chỉ những người được chọn và gọi mà thôi: "những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết" (Lc 20, 35) thì sẽ được dự phần phúc ấy. Họ là những con chiên được tuyển chọn và được tách ra khỏi dê, là lúa tốt được phân rẽ ra khỏi cỏ lồng vực, là cá tốt được lọc ra khỏi cá xấu... Họ là con cái Thiên Chúa, khi chết, họ trở về ngôi nhà vĩnh cửu của Cha mình để hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối: "Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được" (1Cr 2,9).
Nhưng được hạnh phúc, được dự phần hay không, còn do thái độ của chính đương sự, chứ Chúa không ép buộc: "Đây Ta đưa ra cho các ngươi chọn: hoặc con đường đưa tới sự sống, hoặc con đường đưa tới sự chết" (Gr 21,8) hay: "Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án" (Ga 5,29). Quả thật, ân sủng của Chúa vẫn có đó, con người được ơn cứu độ hay không là tùy vào thái độ đón nhận hay không đón nhận.
3. Niềm tin vào sự sống lại của chúng ta
Như vậy, qua mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại, nên chúng ta tin: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25-26); "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51); "Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời" (Ga 6,59). Niềm tin ấy đạt đến đỉnh cao khi chính Đức Giêsu, Đấng đã chết, được mai táng trong mồ ba ngày, và ngày thứ ba đã trỗi dậy từ cõi chết. Niềm tin này đã được các tông đồ loan báo và làm chứng: "Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng" (Cv 3, 15; x. Cv 2,32; 10,41). Thật vậy: "Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại" (1 Cr 6,14). Niềm tin này đã được Giáo Hội tuyên tín trong kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại".
Khi tin như thế, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa, là cánh cửa ta cần bước qua để tiến vào sự sống viên mãn, vĩnh cửu hơn mà thôi. Quả thật, nếu không có sự sống lại sau cõi chết, thì niềm tin của chúng ta trở nên mù quáng, điều này cũng đã được chính thánh Phaolô diễn tả khi nói: "Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ" (x. Cr 15,19).
Tuy nhiên, sống hay chết là một sự chọn lựa. Cuộc sống đời sau là có thật, nhưng để đạt được hạnh phúc hay không lại tùy vào thái độ và sự lựa chọn của mỗi chúng ta. Chọn lựa tốt thì sẽ được hạnh phúc, chọn lựa sai thì sẽ bị đau khổ.
Như vậy, muốn cho cuộc sống của mình được hạnh phúc trường sinh với Chúa thì: hãy sống như những người tỉnh thức để đợi chủ về. Hãy sống như các cô trinh nữ khôn ngoan. Và, hãy sống như đây là giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, chính mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa là bảo chứng tuyệt đối của chúng con vào cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con ý thức rằng một ngày nào đó chúng con sẽ phải từ giã cuộc sống tạm bợ này để về với Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc thực sự. Vì thế, xin cho chúng con ngay từ giây phút này, biết chuẩn bị cho xứng đáng ngày trở về với Chúa. Amen.
Đứng trước cái chết, con người cảm thấy cuộc đời cá nhân của mình bị cắt ngang, họ tìm cách kéo dài TN 32-C119
Đứng trước cái chết, con người cảm thấy cuộc đời cá nhân của mình bị cắt ngang, họ tìm cách kéo dài sự hiện diện, sự tổn tại của mình qua các tác phẩm nghệ thuât, qua các công trình, qua con cái. Với những dấu vết đó, họ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng họ không hoàn toàn biến mất, không hoàn toàn tiêu tan vì vẫn có những người nhắc nhớ đến họ, vẫn lưu giữ những kỷ niệm, những dấu vết của họ. Theo chiều hướng này, luật Mô-sê đã đưa ra điều khoản về "thế huynh" (xem Đnl 27,5-6): một người đàn bà goá mà không có con, phải kết hôn với em chổng để duy trì dòng dõi cho người anh quá cố.
Luật Mô-sê dành ưu tiên cho người đàn ông, nên phụ nữ, trẻ con chỉ là phương tiện, và từ đó tạo nên cả một hệ thống về quyền lợi, dựa trên những mối liên hệ khác nhau của ý định muốn tổn tại lâu dài. Những người thuộc phái Xa-đốc đã bắt đầu từ những mối liên hệ, những quyền lợi của cuộc sống này để đặt câu hỏi với Đức Giêsu: "Người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?"
Theo một khía cạnh, câu hỏi đó có lý, vì nó khởi đi từ quan niệm về sự tổn tại, về quyền lợi, như đã được ghi lại trong luật Mô-sê, với mục đích duy trì dòng dõi của con người.
Thế nhưng, câu hỏi tự nó có tính cách phi lý và quá chi li: đây là một câu hỏi lắt léo nhằm để bắt bẻ hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Đức Giêsu biết điều đó và Người không quan tâm. Người làm bùng nỗ hệ thống tư tưởng của con người về cuộc sống mai sau. Với tư cách là Vị Ngôn Sứ, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời không theo lối suy nghĩ và những hoàn cảnh của cuộc sống trần gian. Người đến để loan báo, để thông ban sự sống mới, nhưng sự sống đó không phải là một sự tổn tại, không phải là trường thọ; trái lại, đó là một cuộc tái sinh, là sự đạt tới một thực tại khác, một mức độ mới.
Câu trả lời của Đức Giêsu không hề có ý nói rằng thực tại mới sẽ làm cho mọi người, mọi mối tương giao trở nên bằng nhau, như là một kiểu san bằng tất cả, nhưng chỉ có ý gạt bỏ khía cạnh xác thịt hay tình cảm của những mối tương giao: đó chỉ là những điểm khởi đầu có tính cách tự nhiên.
Khi người ta khen ngợi thân mẫu của Người, Đức Giêsu đã nói: "Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?", và Người đã khẳng định về một tương giao mới, về ý nghĩa của gia đình dựa trên mối tương giao với Lời Chúa. Những tương giao nhân bản vẫn có giá trị, nhưng sẽ phải nhường chôỵ cho một tương giao đích thực, trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.
Thực tại mới
Như thế, đời sau là một thực tại, một thực tại mới, khắc hẳn với trần thế này. Trong thực tại mới đó, tất cả đều biến đỗi: không thể lấy những tiêu chuẩn của trần gian để xét đoán, để mô tả đời sau. Thật là lầm lẫn khi đặt vấn đề: trong cuộc sống mai sau không có hôn nhân sao? hay tương tự như thế: ở đời sau có đá banh không? có ti-vi không? có... không? Những câu hỏi này vẫn chỉ dựa trên cái nhìn của trần thế để hiểu về đời sau.
Tuy vậy, vẫn có thể dựa trên mặc khải để hiểu về thực tại mới này như sau:
- Con người được nhìn thấy Thiên Chúa "nhãn tiền". Thiên Chúa như thế nào, con người được thấy như vậy: đó là hưởng kiến, đó là hạnh phúc, vì được nhìn thấy Thiên Chúa với tất cả vinh quang của Người. Trong Thiên Chúa, con người hiểu rõ những gì liên quan đến mình, kể cả mối tương giao với bạn bè, với người thân trên mặt đất.
- Trong thực tại mới này, con người chìm ngập trong vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa, không có gì cao đẹp hơn vinh quang đó, và con người chỉ có việc hưởng vinh quang, ca tụng vinh quang.
- Trong cuộc sống trần thế, con người vui hưởng tình yêu, cái đẹp, sự hiểu biết, quyền lực... những điều này chỉ có tính cách tương đối. Còn trong thực tại mới, Thiên Chúa là chính tình yêu, tình yêu trọn vẹn, là toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện.
Đàng khác, theo thánh Phao-lô: thân xác của con người trong thực tại mới này sẽ hoàn toàn khác hẳn với thân xác trên mặt đất, như một cây to lớn khác với hạt giống khởi đầu. Cái gieo xuống là thân xác tự nhiên, cái mọc lên là thân xác thiêng liêng.
Thân xác vinh hiển không cần phải ăn uống hay những liên hệ của trần thế này. Khi ấy, con người được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa: họ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.
Tin vào Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu được giải thích như sau: Với cái chết, nhân loại được biến đỗi từ tình trạng thể lý, và được giải thoát khỏi những ràng buộc của trần thế. Chính Đức Ki-tô, Đấng sẽ chịu chết và phục sinh, loan báo sự thay đỗi này. Không chỉ có số phận của thân xác được thay đỗi, nhưng cả các tương giao xã hội: cơ chế và luật pháp sẽ chẳng còn giá trị, bởi vì chúng chỉ là thực tại tạm thời và vô ích, được sử dụng cho cuộc sống trần gian. Còn trong thực tại mới, tất cả phải biến mất, vì đó là cuộc sống vinh quang, là thời gian viên mãn, là "thời của Đức Ki-tô".
Trong trình thuật này, Đức Giêsu nối kết hai ý niệm "con Thiên Chúa" và "được sống lại". Điều này có nghĩa là con Thiên Chúa là những người được sinh ra trong đời sống vĩnh cửu, đời sống của chính Thiên Chúa.
Những người được hưởng ơn phục sinh có hai nét đặc trưng:
- Một là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Theo thánh Phao-lô: những người con của Thiên Chúa không còn phải chịu nô lệ dưới ách lề luật, nhưng là những người hưởng tự do trong ân sủng.
- Hai là họ được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Nhờ sự vâng phục Thánh Thần - không hề đi ngược với tự do - họ trở nên những người sống giữa trần gian với nét độc đáo riêng của mình.
Nói thế, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống: Người đã tạo tác sự sống và không để sự sống phải tiêu vong; trái lại, Người duy trì sự sống qua việc làm cho kẻ chết sống lại và ban phát sự sống trường cửu. Đức Giêsu sẽ chịu chết và Người sẽ sống lại để tất cả mọi người đều được phục sinh, được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa của tỗ phụ Áp-ra-ham, của tỗ phụ I-xa-ác, của tỗ phụ Gia-cóp", Người không chỉ gợi lại các biến cố của thời quá khứ và các nhân vật đã qua, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng Bất Tử, là Đấng Bảo Tổn. Tất cả những ai đã chân thành, đã tin Thiên Chúa đều được sống với Người, sống vĩnh cửu. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa cũng gắn liền với niềm tin vào sự sống vĩnh cửu.
Qua cuộc đối thoại giữa Vị Ngôn Sứ của sự sống vĩnh cửu và những người không tin vào sự sống này, chúng ta được nhìn thấy những viễn tượng mới, rất rộng lớn.
Con người được mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương và hằng mong ước cho họ được sống với Người mãi mãi. Sự sống, tình thương nơi Thiên Chúa không phải là điều bất toàn, có tính cách tạm thời; trái lại đó là sự sống, là tình thương trọn vẹn, vĩnh cửu. Bởi vì Người là Đấng Hằng Sống và là Tình Yêu. Không nhận điều đó tức là không tin Người là Đấng Toàn Năng, và coi Thiên Chúa như bất cứ ngẫu tượng nào khác.
Ngoài ra, con người được kêu gọi vượt qua những giới hạn của tình trạng gia đình, nghề nghiệp, xã hội; đổng thời họ được kêu gọi vượt qua những biên giới của tình yêu trần thế, để ngay từ cuộc sống nơi trần thế, họ đã khởi đầu cho những tương giao mới, đạt tới tầm mức của con cái Thiên Chúa sẽ được hoàn tất trong cuộc sống mai sau.
Như vậy, với Đức Giêsu, cái chết không còn là một kết thúc, nhưng là khởi đầu cho cuộc sống mới, cuộc sống đích thực, cuộc sống vĩnh cửu.
Hạnh phúc cho những ai, trong những mối tương giao nhân loại, đã bắt đầu kiến tạo thực tại vĩnh cửu này. Bởi vì ngay từ bây giờ, họ đã khám phá ra sự thật của mối tương giao mới, mối tương giao do chính Thiên Chúa làm nảy sinh.
* * *
Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo tâm hổn, Chúa là Đấng cho mọi loài được sống, xin ban hạnh phúc cho chúng con. Chúng con sống không nhờ sức lực của chúng con nhưng nhờ sự sống của Chúa đang thấm nhuần cả vũ trụ. Không phải tự sức chúng con hoàn thành các công việc, nhưng chính quyền năng cao cả của Chúa, đang sống trong chúng con.
Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Harry Houghton, 68 tuổi, vào bệnh viện Boston vì chứng TN 32-C120 Ephata
Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Harry Houghton, 68 tuổi, vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám va xác nhận bà lão đã hồi sinh. Nhớ lại những diễn tiến sau khi chết bà kể lại:
"Tôi đang ngồi nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tôi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn. Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bổng lên được. Lúc đó ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy một chùm chìa khóa màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc.
Tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận bóng rổ trên tivi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics và một người y tá đánh cuộc thua… Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Hai đứa con đang bàn việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ...
Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Hình như tôi đã sống một cách ích kỷ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết.. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng nhiều điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống nầy. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa.
Tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện. Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thiên Chúa hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được âm thanh quen thuộc. Tôi thấy minh đang nằm trên giường bệnh viện... Tôi đã tỉnh lại." Lời khai của bà Houghton đều được bác sĩ Elizabeth Kubler Ros và những người liên quan, xác nhận hoàn toàn đúng. ( Betty Eadie, Embraced By The Light ).
Lời tường thuật của bà bà Harry Houghton thêm khẳng định linh hồn luôn hiện hữu trong mỗi người. Trong Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu giải đáp con người đi về đâu sau cái chết cho đám người theo phái Xađốc, vốn không tin có đời sau.
Linh hồn hiện hữu
Nhân câu hỏi nếu người phụ nữ phải lấy bảy anh em ruột làm chồng rồi tất cả đều chết, thì khi sống lại sẽ là vợ của ai, Đức Giêsu thẳng thắn trả lời về đời sau: “Ai được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng.” Đức Giêsu đã gián tiếp xác nhận linh hồn hiện hữu trong thân xác, khi an ủi các môn đệ đừng sợ hãi những kẻ dữ hãm hại. "Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” ( Mt 10, 28 ).
Sinh ký tử quy
Sống gửi thác về, sống là ở gửi tạm, chết trở về cội nguồn, Đấng Tạo Hoá. Chính vì thế, khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát, ngàn dân tung hô, tôi thật vinh phúc.” ( Lm. Kim Long, Ngày Về 1 ). Hội Thánh cũng dạy rằng, linh hồn bất tử, ( Công Đồng Latran 1513 ) không hư mất khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp trở lại với thân xác trong ngày phục sinh cánh chung. ( GLHTCG, số 366 ).
Linh hồn tuy không hình hài, nhưng vẫn nhận biết mọi sự qua tư tưởng, trở nên siêu nhiên như các thiên thần. “Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần.” Ngày cánh chung
“Những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết.” Thánh Luca gọi đó là “Ngày Của Chúa,”ngày phán xét chung, Đức Giêsu còn hoa mỹ gọi là “mùa gặt” trong dụ ngôn cỏ lùng, tất cả các linh hồn được xét xử công minh để thưởng phạt.
“Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy… Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” ( Mt 13, 39-43).
Hoặc như trong dụ ngôn tiêc cưới, chiếc áo cưới mà những người được mời phải mặc vào khi dự tiệc, là những tâm tình hãm mình, xả kỷ vị tha, yêu thương, chia sẻ, bác ái, hiến dâng, cho đi, thì mới được vào tham dự Nước Trời. Nếu không, kẻ cố chấp bất tuân sẽ bị trừng phạt. "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo: ”Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít" ( Mt 22, 12-14 ).
“Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, con hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: "Và Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng" ( Đường Hy Vọng, số 679 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con. Xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. ( Lời nguyện của Đức Mẹ Fatima dạy ba trẻ ).
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con luôn cố gắng sống trung thành với Chúa luôn. Xin giúp chúng con mau hồi tâm, ăn năn sám hối, ngay mỗi khi sa chước cám dỗ. Amen.
Blaise Pascal ( 1623-1662 ), nhà toán học cũng là triết gia thời danh đã nói đến người khôn ngoan TN 32-C121
Blaise Pascal ( 1623-1662 ), nhà toán học cũng là triết gia thời danh đã nói đến người khôn ngoan luôn có niềm tin đời sau.
Có hai người tạm đặt tên là anh “A” và anh “B”. Anh “A” tin có Thiên Chúa, tin có đời sau. Anh “A” luôn cố gắng giữ và sống những điều Chúa dạy: Tôn thờ Thiên Chúa, anh dự lễ ngày Chúa nhật và yêu mến anh em hết lòng; hay giúp đỡ những người nghèo khó. Anh sống công bằng và bác ái. Khi lỗi phạm anh tìm cách thống hối ăn năn. Nhờ thế, gia đình anh hạnh phúc, anh được bà con trân trọng, quý mến. Và đặc biệt anh được bình an trong tâm hồn.
Anh “B” không tin có Thiên Chúa, không tin có đời sau. Anh “B” thường sống buông thả, giả hình. Anh vi phạm lỗi công bằng. Anh cố che đậy những điều sai quấy, miễn sao pháp luật không biết là được, vì anh chỉ sợ pháp luật. Kết quả gia đình mất hạnh phúc; dân làng chê bai; mọi người chỉ sợ anh chứ không trọng anh ! Anh không có sự bình an thực sự trong tâm hồn.
Pascal đưa ra hai giả thuyết về Thiên Chúa và đời sau.
Giả thuyết thứ nhất: Không có Thiên Chúa và cũng không có đời sau. Nếu không có Thiên Chúa và đời sau thì ngay ở đời này anh “A” đã hơn anh “B” là gia đình hạnh phúc, mọi người quí mến. Anh “A” được bình an trong tâm hồn. Còn anh “B” gia đình mất hạnh phúc, dân làng chê cười. Anh không có bình an trong tâm hồn. Còn sau khi chết cả anh “A” và “B” huề nhau.
Giả thuyết thứ hai: Có Thiên Chúa và có đời sau. Có Thiên Chúa và có đời sau thì anh “A” được hưởng trọn ven; trong lúc anh “B” mất trắng không được gì.
Pascal kết luận: Khi ta tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau ta được cả đời nay lẫn đời sau, chỉ chịu thiệt đôi chút về chức quyền, danh vọng. Nếu ta không tin vào Thiên Chúa ta mất cả đời này lẫn đời sau. Như thế, người tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau là người khôn ngoan; người không tin vào Thiên Chúa là những người vô cùng dại dột.
Từ rất xa xưa, người ta không coi chết là hết: người chết vẫn có một nơi để đến, để sống tiếp một cách nào đó, “một cõi đi về”. Với Trung Quốc, nơi ấy được gọi là Cửu Tuyền, Hoàng Tuyền. Với Do Thái, thì đây là Sheol... Vì thế ngôn ngữ mọi thời đã gọi cái chết bằng những ngôn từ nhẹ nhàng hơn như “khuất núi”, “ra đi”, “mất”, “về nơi chín suối”, “quy tiên”, “chầu trời”, “qua đời”… Từ “qua đời” thật ý nghĩa, người đã chết bước từ đời tạm này để đi đến một đời sống mới, đời sống vĩnh hằng bên Thiên Chúa.
Ðối với Kitô giáo, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi ( Rm 5, 12; 6, 23 ). Nhưng Thiên Chúa "vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời" ( Ga 3, 16 ) và lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.
Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xađốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giêsu. Họ trích sách Ðệ Nhị Luật 25, 5-6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Môsê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ? Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng ? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên Thiên Đàng ? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla giấy, đốt xe honda, đốt nhà lầu… cho người cõi âm xài… Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền…
Chúa Giêsu trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.
1. Ðời sau khác đời này
Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Ðời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”.
Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Ðức Giêsu sẽ hoàn tất mạc khải này. Ðức Giêsu đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Kitô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết ( 1Cr 15, 14 ). Thánh Phêrô đã nói một cách sâu sắc: "Tội lỗi của chúng ta, chính Ðức Kitô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính" ( 1Pr 2, 24 ).
Vì Ðức Giêsu đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Ðức Kitô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Ðức Kitô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Ðức Giêsu không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Kitô đã được Thần Khí hoá ( Rm 8, 11; 1Pr 3, 18 ), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa ( Rm 6, 10 ).
Theo Thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi thọ tạo nhắm tới: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” ( Rm 8, 19-23 ). Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải. Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau. Đời sống này là thời kỳ thai nghén. Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau.
Đời sau bắt đầu từ đời này
Sự sống đời sau viên mãn, nhưng không phải ai cũng vào được. Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này. Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu. Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương. Đời sau, người ta sẽ giống như thiên thần. Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất. Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Mỗi người trở thành con Thiên Chúa, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bài đọc 1 kể chuyện: Bà mẹ và bảy người con tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này. Chúng ta tin có sự sống đời sau, nên trong đời sống thường ngày mỗi người không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất cho cuộc sống, mà còn tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức để bảo đảm cho cuộc sống đời sau. Đó là hết lòng kính mến Chúa qua việc học hỏi Lời Chúa, siêng năng tham dự Thánh lễ và lãnh nhận các Bí Tích. Đó còn là hết lòng sống công bằng, bác ái yêu thương mọi người, và nỗ lực xa lánh mọi tội lỗi làm mất lòng Chúa.
Tin và sống trong ân tình của Chúa Kitô
Niềm tin vào Ðức Giêsu, Ðấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Kitô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cữu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giêsu. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả thi hài người chết. Ðại diện cho Giáo Hội là Linh Mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Ðất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: "Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Ðàng".
Sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Kitô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Ápba, Cha ơi ! ( Rm 8, 15 ).
Tin và sống trong ân tình của Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: "Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết" ( Ga 11, 26; 1Ga 3, 14 ). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.
Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về Quê Trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Amen. ( Thánh Augustinô ).
Cho đến đây, chúng ta chưa hề nghe nói đến người Xađốc trong Tin Mừng Luca. Nay những người này TN 32-C122 Dalat
Cho đến đây, chúng ta chưa hề nghe nói đến người Xađốc trong Tin Mừng Luca. Nay những người này đến gặp Đức Giêsu để điều tra về giáo huấn của Người. Họ đặt câu hỏi dựa trên luật thế huynh để xem Đức Giêsu nghĩ gì về việc kẻ chết sống lại. Như trong giai thoại trước (Lc 20,20-26), Đức Giêsu giải quyết vấn nạn kiểu giải nghi theo cách bất ngờ khiến các kinh sư cũng phải thán phục. Gọi là “giải nghi”, vì ở đây câu hỏi được đặt ra không nhắm đến bản thân Đức Giêsu hoặc quan hệ của Người với giới chức Giêrusalem. Câu hỏi mang tính lý thuyết, mà rất có thể thường được người Xađốc đặt ra cho người Pharisêu.
Tác giả Lc lấy bản văn này (đặc biệt các câu 27-43a.37.38a) chủ yếu từ Mc 12,18-27, nhưng thỉnh thoảng chỉnh lại bằng hy-ngữ trau chuốt hơn. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu (20,27); 2) Vấn nạn của nhóm Xađốc (20,28-33); 3) Câu trả lời của Đức Giêsu (20,34-38):
a) Lập luận của chính Đức Giêsu (cc. 34-36), b) Nền tảng Kinh Thánh của sự sống lại (cc. 37-38). 3.- Vài điểm chú giải
- Xađốc (27): Tên Hy Lạp Saddoukaioi (Saddouk trong Bản LXX) nói lên liên hệ với tên riêng Hípri Sadôq (2 Sm 8,17; Ed 40,46; 43,19). Con cháu của ông Sadôq được đặc ân là phục vụ Đền Thờ trong tư cách tư tế sau khi hồi hương từ đất lưu đày Babylon. Họ làm thành một đảng chính trị–tôn giáo trong Do Thái giáo kể từ thế kỷ ii tCN đến khi Giêrusalem thất thủ vào năm 70 sau CN. Đa số thuộc về giới quý tộc tư tế ở Giêrusalem. Đối lại với người Pharisêu, họ có một cách giữ Luật tự do hơn; họ thích ứng dễ hơn với phong trào hy-hóa của dòng họ Sêlêukhô; họ cũng dễ thỏa hiệp với người Rôma hơn. Tuy nhiên, họ vẫn thuộc về giới lãnh đạo Do Thái giáo. Họ chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là bản văn mô phạm. Họ chuộng cách giải thích sát mặt chữ; cũng vì thế, họ có khuynh hướng bảo thủ về phụng vụ (không chấp nhận những quy định mới mà người Pharisêu đưa vào, chẳng hạn các nghi thức ngày Lễ Xá tội) cũng như về mặt giáo thuyết (họ thiên về duy vật, không chấp nhận có các thiên thần, phủ nhận sự sống lại).
- phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình (28): Loại hôn nhân này được gọi là “thế huynh” (Anh: levirate) do từ La-tinh levir, có nghĩa là “anh/em của chồng, anh/em rể”. Một hôn nhân như thế không bị coi là vi phạm Lv 18,16; 20,21, vì người anh/em đã chết.
- ngang hàng với các thiên thần (36): Từ ngữ isangelos do hai từ Hy Lạp isos [“ngang hàng; giống như”] + angelos [“thiên thần”] ghép lại với nhau. 4.- Ý nghĩa của đoạn văn
* Mở đầu (27)
Hết nhóm này đến nhóm khác, những nhóm có thế lực nhất, đến gặp Đức Giêsu để đặt ra cho Người những câu hỏi. Những người Xađốc cũng đến. Cho đến nay, Tin Mừng III chưa hề nói đến phái này. Họ là những người giàu theo một tôn giáo truyền thống. Họ cộng tác với chính quyền, nên dân chúng không ưa họ. Các thượng tế đều thuộc phái này. Tác giả Lc xác định ngay rằng họ không tin vào sự sống lại. Quả thật, họ thường tranh cãi với người Pharisêu về sự sống lại của kẻ chết. Người Pharisêu tin vững vào sự sống lại, còn người Xađốc thì cực lực phủ nhận (là những người giàu, họ có thể thụ hưởng thiên đàng ngay tại trần gian này). Trên cái “phông” này, độc giả hiểu câu truyện họ kể cho Đức Giêsu. * Vấn nạn của nhóm Xađốc (28-33)
Từ những gì Đức Giêsu nói, người Xađốc nhận ra rằng Người đồng ý với phái Pharisêu: Người tin vào cuộc sống vĩnh cửu. Thế là họ ngỏ lời với Đức Giêsu như với một vị thầy để Người dạy cho biết cách giải thích một quy định của Luật Môsê. Họ đã tổng hợp Đnl 25,5 và St 38,8, để gợi lại quy định về những cuộc hôn nhân thế huynh. Tập tục các cuộc hôn nhân này (một người anh/em rể phải sinh con nhờ kết hôn với người vợ goá của em/anh mình, hầu có con nối dõi cho người quá cố) rất phổ biến bên Cận Đông thời cổ (với người Átsua, Híttít, Canaan chẳng hạn. Có thể xem R 4,1-12). Dưới ánh sáng của quy định này, người Xađốc tạo ra một nố và hỏi Đức Giêsu để xem Người sẽ đưa ra câu trả lời nào, hoặc một câu trả lời hài hòa với việc họ phủ nhận sự sống lại của kẻ chết hoặc một câu trả lời hài hòa với niềm tin phổ biến hơn nơi dân gian về sự sống lại (theo người Pharisêu và có thể người Êxêni). Nố đó như sau: Một người phụ nữ đã kết hôn với cả bảy người đàn ông, không chỉ về pháp lý, nhưng còn sống đúng theo Luật Môsê. Vậy cứ cho đi là có việc kẻ chết sống lại, người Xađốc rất muốn biết là người phụ nữ ấy thuộc về ai. Bà không thể cùng một lúc thuộc về cả bảy ông; nhưng ta cũng không thể thấy ai trong số bảy ông có quyền trên bà hơn. Vấn đề dường như bế tắc, không có giải pháp. Câu truyện có ý nhắm cho thấy rằng sự sống lại của kẻ chết sẽ tạo ra những tình huống phi lý, lố bịch nữa, nên không thể tin là có sống lại được. * Câu trả lời của Đức Giêsu (34-38)
Phần đầu của câu trả lời (cc. 34-36) của Đức Giêsu là để đánh đổ tiền đề của người Xađốc cho rằng cuộc sống của thời sẽ đến là cuộc sống này nối dài. Người nhấn mạnh rằng hôn nhân là một định chế của “đời này”: bởi vì người ta sẽ chết, nên hôn nhân được thiết lập hầu nhân loại tồn tại được. Nhưng trong “đời kia”, khi người ta không chết nữa, họ “giống các thiên thần”, họ trở thành “con cái Thiên Chúa” và “đạt được sự sống lại”, thì không còn chuyện cưới vợ lấy chồng nữa. Như thế, câu hỏi của người Xađốc cho thấy họ hiểu lầm. Qua các câu 34-36, Đức Giêsu không giải thích Kinh Thánh, nhưng nhắm điều chỉnh ý tưởng sai lạc người Xađốc đã có về đời sau, Người cũng không giải thích giáo huấn của phái Pharisêu về sự sống lại. Nhóm Xađốc đã hiểu lầm rằng cuộc sống tương lai chỉ là một nối tiếp cuộc sống trần thế; nhưng hoàn toàn không phải thế! Sự sống lại không phải chỉ là thức dậy từ ngôi mộ và lấy lại cuộc sống trước kia. Cuộc sống của chúng ta với Thiên Chúa hoàn toàn khác với cuộc sống hiện nay. Cuộc sống với Thiên Chúa sẽ như thế nào, chúng ta không biết. Điều này giống như một đứa bé còn đang ở trong lòng mẹ, nó không có một ý niệm nào về cuộc sống đang đến, thì chúng ta cũng chẳng thể hình dung ra cuộc sống sau này sẽ như thế nào.
Phần thứ hai của câu trả lời (cc. 37-38) là một khẳng định về sự thật của sự sống lại. Đức Giêsu thêm một luận cứ lấy từ Ngũ Thư: Người nại đến bản văn Xh 3,2.6, trong đó Đức Chúa (Yhwh) hiện ra với Môsê tại núi Khôrép, và tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ đã chết từ lâu. Bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa hẳn là đã giữ cho các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp được sống bằng cách cho các ngài sống lại. Thêm vào luận cứ nói về sự sống lại, tác giả nêu một luận cứ về sự bất tử ở c. 38b: “đối với Người, tất cả đều đang sống” (rất giống với công thức ở 4 Mcb 7,19). Thiên Chúa đã thông giao với loài người trước tiên không phải là nhờ các luật lệ, theo cách chung chung, không riêng tư với ai, nhưng Ngài đã ngỏ lời với tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp theo cách riêng tư và gắn kết. Lòng nhân lành của Ngài không chỉ tạm thời, nhưng vĩnh viễn; không quy phục sự chết, bởi vì là lòng nhân lành của Thiên Chúa toàn năng và tự nó có nghĩa là sự sống. Nếu không phải như thế, hẳn là Môsê, và sau ngài là mọi người Do Thái khác, đã gọi Ngài là Thiên Chúa của kẻ chết!
Thật ra lập luận đến đây cũng đã đủ. Nhưng để có những đoạn văn minh nhiên nói về sự sống lại, chúng ta phải đi xa hơn, đến với sách Đanien và sách Khôn ngoan, trong đó có bàn đến niềm tin của người Do Thái vào cuộc sống bên kia cõi chết. Những người công chính đi vào trong sheôl, họ không hề hạnh phúc, cuộc sống của họ vẫn mang tính bất toàn. Xưa nay họ đã sống theo thánh ý Thiên Chúa, nên đời sống của họ kêu nài một phần thưởng, mong Thiên Chúa đến kéo linh hồn họ ra khỏi sheôl, để ban cho họ một đời sống mới hoàn hảo hơn. Đời sống này được ban cho họ vào ngày sống lại, họ có tồn tại ở bên kia cái chết là để sống lại. Thiên Chúa đã tạo thành con người để cho con người được sống đời đời. Chính do ma quỷ ghen tị mà cái chết đã đột nhập vào thế gian (x. Kn 2,23-24). Tuy nhiên, hẳn là ý định của Thiên Chúa không thể nào lại bị triệt tiêu mãi mãi do sự can thiệp của ma quỷ. Vạy con người lại có quyền bất tử; và cách biểu lộ sự bất tử ra tốt đẹp nhất, là sự sống lại (x. Đn 12,2). + Kết luận
Để biến giáo huấn của Đức Giêsu thành trò cười, người Xađốc đã tạo ra một câu truyện khiến chúng ta phải kinh ngạc, nhưng truyện rất có cơ sở vì phát xuất từ một giáo huấn luân lý hoàn toàn chính xác của Lề Luật. Tuy nhiên, câu truyện này chẳng những đã không làm cho Đức Giêsu phải lúng túng, mà còn cho Người cơ hội tuyên bố về sự sống lại, và như thế, Tin Mừng về Nước Thiên Chúa lại càng trở nên sáng tỏ. Chúng ta có thể tưởng tượng ra chăng Thiên Chúa tạo ra người nam người nữ, ký kết giao ước với họ, hứa cho họ nhiều điều, bảo vệ họ khỏi kẻ thù hãm hại, trở thành bạn của họ, rồi bỗng dưng lại bỏ rơi họ và biến mất? Nếu Ngài làm như thế, Ngài chỉ đáng khinh mà thôi. Nhưng Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là một Thiên Chúa của người sống. Mọi người nhận được sự sống từ nơi Ngài.
Một lần nữa, Tin Mừng này lại tỏ ra là Tin Mừng về sự sống. Nhưng Đấng nói vừa nhẹ nhàng vừa chắc chắn về sự bất tử dành cho các thánh sẽ sống lại trong Chúa (x. Ga 11,25-26) cũng chứng tỏ rằng Người đang có nơi mình bí quyết của sự sống vĩnh cửu ấy. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Đối với người Xađốc, Thiên Chúa là một vì Thiên Chúa của những quy định pháp lý và là một vì Thiên Chúa có quyền năng đã bị cạn kiệt khi tạo dựng thực tại trần gian như hiện có. Đấy là những tiền giả định mà Đức Giêsu không chấp nhận. Họ coi Thiên Chúa như là Đấng đã ban cho dân Israel một loạt những giới luật nhằm bảo đảm cho họ một cuộc sống tốt lành và trật tự trên mặt đất này. Ngược lại, đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa trước khi là Thiên Chúa của các quy định, là Thiên Chúa của lòng nhân lành luôn chiếu cố đến từng con người, hướng dẫn, săn sóc từng con người. Thiên Chúa không liên hệ với con người trước tiên bằng luật lệ, nhưng bằng lòng nhân ái tỏ ra với các tổ phụ. Thiên Chúa không chỉ săn sóc các ngài trong một thời gian ngắn để rồi sau đó bỏ mặc cái ngài trong cái chết. Đã được Thiên Chúa cúi mình xuống trên mình với lòng nhân ái, con người mãi mãi được nhắm cho sống, bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.
2. Đức Giêsu không mô tả cuộc sống tương lai; Người chỉ nói rằng trong cuộc sống tương lai, người ta không cưới vợ lấy chồng nữa, người ta sống như các thiên thần. Đức Giêsu không hạ cái màn xuống, không cho bất cứ cặp mắt phàm nhân nào được nhìn sang thế giới bên kia. Người không thỏa mãn óc tò mò của con người khi cho biết các chi tiết của đời sống tương lai, Người chỉ giúp con người chú ý tới nền tảng của đời sống ấy: về phía Thiên Chúa, đó là lòng nhân ái của Ngài đối với từng con người, tình yêu của Ngài đối với loài người và quyền năng của Ngài; về phía loài người, đó là quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa, đức tin đặt nơi tình yêu và quyền năng của Ngài. Như vậy, cái nhìn của chúng ta không được nhắm tìm ra một phương diện nào đó của cuộc sống tương lai, nhưng là hướng đến Đấng ban tặng và đảm bảo cho đời sống này.
3. Bề ngoài, người Xađốc và Đức Giêsu nói về cùng một vì Thiên Chúa. Trong thực tế, họ quan niệm Thiên Chúa là một Đấng Tạo hóa và Nhà lập pháp lạnh lùng, đã nói tiếng nói cuối cùng khi bố trí thế giới hiện tại và khi ban Luật Môsê. Đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa không kéo con người ra từ hư vô để rồi lại đẩy nó rơi vào hư vô. Ai đã được Thiên Chúa gọi đi tới sự sống, thì được Ngài nhắm cho đạt tới sự sống đời đời. Đối với chúng ta, mọi sự tùy thuộc Thiên Chúa. Số phận chúng ta tùy thuộc Ngài là ai, và là ai đối với loài người.
4. Ngày hôm nay, niềm tin vào sự phục sinh dường như vẫn đang bị coi là chuyện lố bịch, nhưng các luận điểm đưa ra để phi bác thì khác, chẳng hạn: Tìm ra đâu chỗ cho vô số người như thế? Rồi họ sẽ làm gì?… Rốt cuộc các luận cứ đều tương tự vấn nạn của người Xađốc: người ta lấy điểm tựa là trí tưởng tượng của con người, chứ không quan tâm đến quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Nếu mỗi người hiểu và tin chắc rằng, “đối với tôi, Ngài là Thiên Chúa của đời sống bất tử của tôi”, hẳn thế giới sẽ có một chứng từ trong sáng về Thiên Chúa.
5. Cầu nguyện cho người qua đời là việc chính đang, nhưng phải được hiểu đúng đắn, tức là hiểu phù hợp với niềm tin của chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu và vào sự hiệp thông các thánh. Các lời chúng ta cầu nguyện cho người quá cố được đặt nền tảng trên sự chắc chắn là sự sống lại của Đức Kitô đã gỡ hết mọi rào cản ngăn cách người sống với kẻ chết; bây giờ chỉ còn một gia đình duy nhất. Là những người còn đang sống, chúng ta giống như các em bé đang còn ở trong lòng mẹ chờ được sinh ra, còn những người qua đời thì đã vào trong cuộc sống mới của họ rồi, nhưng chúng ta được liên kết với họ. Điều này, chúng ta sống trong mỗi thánh lễ.
Chết là định luật tất yếu của con người. Ai sinh ra rồi cũng phải chết. Sự chết luôn là nỗi sợ của con TN 32-C123
Chết là định luật tất yếu của con người. Ai sinh ra rồi cũng phải chết. Sự chết luôn là nỗi sợ của con người. Do đó, đã có những vị vua đi tìm thuốc để kéo dài sự sống. Các nhà bác học, các bác sĩ, các nhà nghiên cứu y khoa đã miệt mài để may ra có tìm được vị thuốc nào, giúp con người sống nhiều hơn, sống thọ hơn chăng. Từ ngàn xưa đã có biết bao nhiêu người đi tìm thuốc trường sinh, đi tìm sự sống trần gian này. Tuy nhiên, con người chết vẫn phải chết. Chúa Giêsu cũng đã phải kinh qua cái chết, nhưng Ngài chết để sống lại. Mẹ Maria cũng phải chết, nhưng chết để được Thiên Chúa đưa cả hồn lẫn xác Mẹ về Trời. Chúa Giêsu đã quả quyết :” Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống lại “ ( Ga 11, 26 ). Chết đối với người Công giáo là cửa đi vào Nước Thiên Chúa, là đi vào cõi trường sinh.
Trong những năm giảng đạo và loan truyền Nước Trời, Chúa Giêsu đã bị những người Pharisêu, Biệt phái và Tư tế chống đối. Hôm nay, những người trong nhóm Xa-đốc là những người thuộc hàng lãnh đạo cấp cao trong hàng Tư tế, không tin có sự sống lại. Họ phái người trong nhóm đến gặp Chúa Giêsu, đặt ra một câu chuyện giả tưởng, buồn cười để chứng minh sự sống lại là phi lý theo sự suy nghĩ của họ. Họ giả thuyết có bảy anh em trai lấy một người vợ, rồi hết thảy cả bảy người ấy đều chết thì khi sống lại người đàn bà đó sẽ là vợ của ai ?...Trong suy nghĩ của họ : họ cứ tưởng cuộc sống của những người sống lại sẽ giống như cuộc sống của những người đã chết khi còn sống. Thực tế, họ đã lầm vì cuộc sống của những người sống lại sẽ hoàn toàn khác với cuộc sống trần thế khi con người chưa chết ! Chúa Giêsu
đã cho họ biết rõ ; có một sự khác biệt tận gốc, tận căn giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Còn sống ở gian trần này, lớn lên hầu hết đều kết hôn để có con nối dõi tông đường. Tuy nhiên, cuộc sống mai sau, con người sẽ khác, họ không cần kết hôn nữa vì họ đã có sự sống đời đời, con người đã được thần thánh hóa, không còn phải lệ thuộc vào cuộc sống trần gian nữa.Sau đó, Ngài trích Sách Xuất Hành để minh chứng có sự sống đời sau, có sự sống lại bởi vì Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chứ không phải Chúa của kẻ chết. Chính vì thế, tất cả những kẻ chết đều đang sống, họ đang sống nhờ Thiên Chúa và Thiên Chúa là Chúa của họ, Ngài là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa vĩnh cửu…
Những người thuộc nhóm Xa-đốc tưởng rằng khi đưa ra câu chuyện buồn cười ấy, có thể làm Chúa Giêsu lúng túng, không thể giải đáp, nhưng ngang qua câu chuyện này, Chúa Giêsu lại có cơ hội để nói cho họ về sự sống lại, do đó, Tin Mừng về Nước Trời càng trở nên sáng tỏ hơn. Chúa Giêsu quả quyết Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng về sự sống lại. Chúa sẽ làm cho con người sống lại nếu họ tin vào Ngài :” Đây là ý của Cha Ta, là hễ ai tin vào Chúa Con, thì được sống đời đời, và ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại “ (Ga 6, 40 ) hoặc “ Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết
đời đời( Ga 11, 25a.26 ).
Đối với nhóm Xa-đốc, cuộc sống trần gian này là vĩnh viễn, họ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ bỏ mặc con người, và để con người chết, rồi chết luôn…Họ không hiểu Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu…Thiên Chúa luôn muốn con người được sống vĩnh viễn với Ngài vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Chúa Giêsu cho hay cuộc sống sau này sẽ không dựng vợ gả chồng vì con người sống như các thiên thần.Thiên Chúa luôn yêu thương con người và muốn con người luôn được hạnh phúc khi họ tin nhận Ngài…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con xác tín mạnh mẽ như thánh Phaolô :” Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng cứu chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta “ ( Philip 3, 20 ). Amen. GỢI Ý ĐỂ SUY NIỆM ?
1.Nhóm Xa-đốc quan niệm thế nào về sự sống lại ? 2.Chúa Giêsu đã trả lời cho nhóm Xa-đốc làm sao ? 3.Thiên Chúa theo Sách Xuất Hành là Thiên Chúa của ai ? 4.ÔBACE có tin sự sống lại không ? Tại sao ?
Một trong những đề tài của Lời Chúa vào cuối năm Phụng vụ là sự sống lại và sự sống đời đời. TN 32-C124
Một trong những đề tài của Lời Chúa vào cuối năm Phụng vụ là sự sống lại và sự sống đời đời. Mở đầu phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là câu chuyện tử đạo của bảy anh em tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Đấng “sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời”. Với dân Ít-ra-en, giáo lý về sự sống lại được xây dựng trên nền móng vững chắc là niềm tin vào Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Còn với Chúa Giê-su, Người đã đến không những để khẳng định lại giáo lý ấy, mà còn qua việc Người sống lại từ kẻ chết đã minh chứng điều Người đã phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Gio-an 11:25).
Bên cạnh hầu hết dân Do-thái tin vào sự sống lại và sự sống đời đời, lại có một nhóm người chịu ảnh hưởng của nền triết học duy vật Hy-lạp và Rô-ma nên không tin vào sự sống đời đời. Đó là nhóm Xa-đốc. Họ chủ trương sự sống đời đời là do việc nối dõi trong gia đình họ hàng, nên họ lấy sách Luật Mô-sê quy định về hôn nhân thế huynh để bênh vực cho chủ trương của họ. Hôn nhân thế huynh nghĩa là nếu người anh kết hôn mà chết không có con nối dõi, thì người em phải kết hôn với người chị dâu để người anh mình có con nối dòng. Đưa ra câu chuyện bảy anh em lần lượt kết hôn với cùng một người đàn bà mà tất cả đều chết và không có con, nhóm Xa-đốc đặt câu hỏi cho Chúa Giê-su: sau khi mọi người được sống lại, người đàn bà kia là vợ của ai? Hỏi như vậy, họ muốn lý luận rằng: nếu thực sự có việc sống lại, thì người đàn bà kia không thể một lúc là vợ chính thức của cả bảy anh em được; do đó kết luận là không có sự sống lại. Để trả lời vấn nạn, Chúa Giê-su phân biệt hai vấn đề: lấy vợ lấy chồng là chuyện của con cái đời này, còn việc sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời là chuyện của con cái Thiên Chúa. Chúa Giê-su nhấn mạnh: “Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng”. Tại sao? Bởi “những người này là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”. Như thế, không thể lấy chuyện đời này làm lý do để chối bỏ chuyện đời sau, tức là chối bỏ sự sống lại và sự sống đời đời! Sau ngày phán xét chung, vì những người lành là con cái Thiên Chúa, Đấng là “Thiên Chúa của kẻ sống”, nên Thiên Chúa không để họ phải chết đời đời. Cũng sau ngày phán xét chung, tất cả chuyện lấy vợ gả chồng của đời này chấm dứt vì đời này không còn nữa.
Tuy nhiên cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng hôm nay phải hướng về Chúa Giê-su “là sự sống lại và là sự sống”. Người không chỉ giảng dạy về sự sống lại và sự sống đời đời, mà Người còn minh chứng bằng phép lạ nữa. Người đã cho con trai bà góa thành Na-in và anh La-da-rô sống lại từ cõi chết. Nhưng phép lạ vĩ đại nhất, đó là chính Người đã được Thánh Thần cho trỗi dậy từ kẻ chết. Thánh Phao-lô đã nói lên tầm quan trọng vô cùng của việc Chúa sống lại. Một trong những yếu tố căn bản của chức vụ Tông đồ là các ngài đã được thấy Chúa Phục Sinh nên các ngài phải làm chứng rằng Chúa đã sống lại. Ngoài ra, sự Phục Sinh là tâm điểm của giáo lý Hội Thánh, đến nỗi thánh Phao-lô quả quyết rằng “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cô-rin-tô 15:14, 20). Điều này đã trở thành niềm hy vọng cho chúng ta, bởi “mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (15:22).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Khi tín hữu giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca gặp cơn khủng hoảng đức tin về sự sống lại và sự sống đời đời, thánh Phao-lô đã cầu nguyện cho họ: “Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta… an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành” (2 Thê-xa-lô-ni-ca 2:17). Hôm nay, cơn khủng hoảng ấy vẫn đến với tất cả chúng ta. Sống trong thế giới đang bị chủ trị do những học thuyết nguy hiểm như thực nghiệm, duy vật, tương đối, hồ nghi…, ngay cả Ki-tô hữu cũng có thể nghi ngờ sự sống lại và sự sống đời đời nữa. Khủng hoảng này có thể đưa chúng ta tới tình trạng buông thả và hưởng thụ. Nào, ta hãy cùng thánh Mác-ta thưa Chúa: “Lạy Thầy, con tin…”
(27) Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giêsu. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. (28) Mấy người ấy hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: “Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng, để gây dựng một dòng giống cho anh hay em mình”. (29) Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. (30) Người thứ hai, (31) rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. (32) Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. (33) Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ? (34) Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, (35) chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. (36) Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. (37) Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. (38) Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.
2. Ý CHÍNH:
Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại sau này, nên khi nghe Đức Giêsu giảng TN 32-C125
Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại sau này, nên khi nghe Đức Giêsu giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại, họ đã tìm cách phi bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng về bảy anh em nhà kia theo luật Thế Huynh của Môsê đã tiếp nối nhau lấy cùng một người đàn bà và đều chết mà không có con. Từ đó họ đặt vấn đề: Nếu có chuyện kẻ chết sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em ? Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc sống ấy như thế nào.
3. CHÚ THÍCH:
- C 27-28:
+ Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc: Đây là một số người thuộc hàng tư tế phục vụ Đền thờ, là những người không tin có sự sống lại cũng như không tin có đời sau, đang khi người Pharisêu thì tin kẻ chết sẽ sống lai (x. Cv 23,8), dựa vào lời sấm của ngôn sứ Đa-ni-en như sau: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ. Những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.” (x. Đn 12,2-3). Còn Đức Giêsu luôn khẳng định giáo lý về mầu nhiệm kẻ chết sống lại đối lập với phái Xa-đốc, nên phái này đã đến nêu thắc mắc nhằm phi bác giáo lý kẻ chết sống lại của Đức Giêsu và các người Biệt phái.
+ Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều Luật này...: Nhằm chế diễu giáo lý về sự sống lại, nhóm Xa-đốc đã trưng ra điều luật “Thế huynh” của Môsê nội dung như sau: Nếu người anh lấy vợ mà chết không con, thì em trai của anh ta phải lấy bà chị dâu làm vợ. Đứa con sinh ra đầu tiên sẽ được Luật pháp công nhận là con của người anh đã chết, để cho người anh có con cái nối dòng (x. Đnl 25,5).
- C 29-33:
+ Vậy nhà kia có bảy anh em trai...: Nhóm này đưa ra câu chuyện giả định chưa từng xảy ra. Sai lầm của nhóm Xa-đốc là đã quan niệm rằng khi sống lại thì người ta cũng sẽ sống y như khi còn sống ở trần gian. Nghĩa là hai người đã là vợ chồng thì khi sống lại sẽ vẫn sống đời vợ chồng với nhau.
- C 34-36:
+ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng: “Con cái đời này” là những người thuộc về trần gian. Câu này có nghĩa là: Vì sự sống của con người ở trần gian có sinh có tử, nên người ta cần phải lấy vợ lấy chồng để sinh con cái nối dòng.
+ “Nhưng những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết”: Câu này chỉ nhấn mạnh đến việc kẻ lành sống lại để được hưởng vinh quang, và không đề cập đến số phận của kẻ dữ. Thực ra không chỉ những người được Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới được sống lại, nhưng là tất cả mọi người: tội lỗi cũng như công chính, đều được sống lại, như thánh Phaolô đã đề cập trong sách Công Vụ như sau: “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này là: người lành kẻ dữ sẽ sống lại” (Cv 24,15; x Ga 5,28-29; Mt 25,34-45).
+ Thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng: Họ không dựng vợ gả chồng, một là vì thân xác sẽ được siêu hóa không bao giờ chết và nên giống như các thiên thần; Hai là vì họ trở nên con cái của Thiên Chúa, hay con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và được sự sống mới từ nơi Thiên Chúa (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).
- C 37-38:
+ Còn vấn đề kẻ chết trỗi dậy...: Đức Giêsu đã dựa vào Thánh kinh để chứng minh có sự sống lại của những kẻ đã chết. Người nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành: Khi hiện ra với Môsê trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp (x. Xh 3,6).
+ Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các Tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp dù đã chết, nhưng qua câu nói với Môsê, Thiên Chúa cho biết các vị ấy hiện vẫn đang sống với Chúa.
ĐÊ-VÍT MA-CỚT (David Marcus) là một viên sĩ quan của quân đội Ítraen đã chết trận vào tháng 6 năm 1948. Người ta đã tìm thấy một cuốn nhật ký, trong đó ông đã ghi lại cảm nghĩ của ông về cái chết có thể xảy ra với ông như sau:
“Tôi đang đứng trên một bến cảng ở bờ biển. Trước mặt tôi là một con tàu vừa trương buồm chuẩn bị ra khơi. Con tàu trông mới hùng vĩ và đẹp làm sao ! Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một vệt trắng ở đường chân trời. Lúc đó, có một người bạn đứng cạnh tôi nói to lên rằng: “Xem kìa, con tàu đã biến mất rồi !”. Nhưng thực ra nó đâu có biến mất. Nó vẫn còn ở đó với chiếc buồm màu trắng và thân tàu to lớn đúng như kích thước khi tôi nhìn thấy nó đậu ở bến cảng. Hiện giờ nó đang trên đường đi đến một nơi đã định trước. Kích thước con tàu chỉ nhỏ dần đi trong mắt của tôi và cuối cùng đã biến mất khỏi tầm nhìn hạn hẹp của tôi mà thôi. Rồi ít ngày sau, con tàu đó sẽ tới một bến cảng mới. Tại nơi nó sắp cập bến lại vang lên tiếng nói đầy vui mừng của những người đang chờ đón người thân: “Ồ con tàu chúng ta chờ đợi đã đến rồi kìa !”. Con tàu đó chính là hình ảnh cái chết của mỗi người chúng ta”.
2) CẢM NGHIỆM VỀ THẾ GIỚI MAI SAU:
Từ sau khi quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Na-ga-sa-ki của Nhật Bản, bác sĩ TA-KA-SHI NA-GAI (1908-1951) đã trở thành một nhân vật nổi tiếng nhờ sự tận tâm và tấm lòng hy sinh cao cả phục vụ các nạn nhân bị nhiễm phóng xạ nguyên tử của ông. Sau khi ông chết, người ta đã tìm thấy mấy dòng tâm sự ông để lại, cho biết lý do tại sao từ một người vô thần ông đã trở thành một người tín hữu có đức tin mạnh vào Thiên Chúa như sau:
“Trong kỳ nghỉ Xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường của mẹ tôi khi ấy chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng mở mắt nhìn tôi thở hắt ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương yêu tôi đến cùng. Cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ ràng: Sau khi chết, bà vẫn luôn ở bên tôi là Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn vào trong cặp mắt đó. Tôi, một con người vốn không tin có linh hồn, tự nhiên đã cảm thấy linh hồn mẹ tôi đang có đó; linh hồn mẹ tôi khi chết đã lìa khỏi thân xác nhưng vẫn tồn tại mãi mãi”. Rồi Na-gai viết thêm : ”Từ đó, con người của tôi đã thay đổi hẳn: Dù tôi đã cố gắng hết sức nhưng cũng không thể khiến tôi tin rằng con người mẹ tôi đã hoàn toàn bị tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên đã mở ra và nhìn thấy thế giới siêu hình”.
3) CẬN TỬ - KINH NGHIỆM HỒI SINH SAU CÁI CHẾT LÂM SÀNG:
Ngày nay người phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử: Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được bác sĩ xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó một thời gian họ đã được hồi sinh.
Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm nầy. Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng nầy. Họ đã phỏng vấn 1 370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều các người này thuật lại, có mấy điểm chung như sau:
- Có một cuộc sống khác ở "cõi bên kia" và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống đời này.
- Điều đặc biệt là sau khi "chết đi sống lại", không ai trong họ còn sợ chết nữa. Họ cũng không còn ham kiếm tìm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.
Bác sĩ George Rodonaia, tiến sĩ ngành thần kinh học, cũng đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đã được ghi nhận. Vào năm 1976, ông bị tai nạn ô tô. Khi được đưa đến bệnh viện thì các bác sĩ nơi đây xác nhận ông đã chết. Sau đó ông được đưa vào nhà xác trong ba ngày chờ khám nghiệm. khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng, ông đã tự nhiên hồi sinh và đã thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia. Ông cho biết chính biến cố nầy khiến ông đổi đời.
Trước khi trải qua kinh nghiệm cận tử, ông vừa là bác sĩ vừa là một nhà thần kinh học vô thần. Vậy mà sau lần chết đi sống lại đó, ông đã theo học môn tâm lý học tôn giáo và được nhận bằng tiến sĩ tâm lý học tôn giáo. Sau đó ông trở thành tín đồ Kitô thuộc Giáo Hội Chính Thống Đông Phương. Hiện nay, ông làm mục sư phục vụ tại một nhà thờ bang Texas Hoa Kỳ.
4) NGƯỜI SẼ NẰM TRONG QUAN TÀI NÀY LÀ BẠN:
Một linh mục nọ tổ chức tại giáo xứ một lễ an táng khá đặc biệt. Ngài báo trước từ lâu để đông đảo mọi người đến tham dự. Giữa nhà thờ ngài đặt một cỗ quan tài. Theo truyền thống của giáo xứ, trước khi tiễn đưa thi hài người chết ra phần mộ, quan tài được mở nắp để từng người đến tiễn biệt người quá cố lần cuối cùng. Nhưng lần này khi mọi người lần lượt đến nhìn vào quan tài để xem người chết nằm trong đó là ai, nhưng họ không nhìn thấy gì, ngoài một tấm gương lớn trong quan tài, phản chiếu chính khuôn mặt của họ, kèm theo dòng chữ: ”Mai ngày người sẽ nằm trong quan tài này chính là bạn”.
5) NẾU THỰC SỰ KHÔNG CÓ CUỘC SỐNG MAI HẬU THÌ AI SẼ BỊ THIỆT?
Một lần kia một triết gia vô thần tên là Voltaire đã gặp triết gia có đức tin Pascal và nói rằng : “Ông bạn tin linh hồn bất tử và có sự sống lại đời sau để rồi trong cuộc sống hiện tại, ông bạn phải sống khắc khổ và đạo hạnh, bản thân phải chịu thua thiệt, mà với người khác phải chịu thua thiệt... Vậy nếu thực sự không có đời sau thì ông bạn sẽ là kẻ thật ngu dại !”
Triết gia Pascal liền trả lời: “Ông bạn nói rất đúng. Do không tin linh hồn bất tử và không tin có cuộc sống đời sau, nên ông sẽ hưởng thụ cuộc sống sa đọa đời này! Nhưng nếu thực sự có cuộc sống đời sau thì sao? Ông là kẻ dại dột và ngu xuẩn nhất! Vì tôi cùng lắm cũng chỉ bị thiệt thòi tạm thời mấy chục năm đời này. Còn ông, ông sẽ bị mất cuộc sống hạnh phúc muôn đời”.
3. SUY NIỆM:
Thực tế cho thấy con người ta ai cũng đều phải chết ! Chết là giai đoạn cuối cùng trong bốn giai đoạn cuộc sống của mỗi người chúng ta là: Sinh- lão- bệnh- tử. Nhưng chết là gì và sau khi chết chúng ta sẽ đi đâu ? Ta phải làm gì để được sống lại trong hạnh phúc vĩnh hằng đời sau ?
1) Chết là gì và chết rồi con người sẽ đi đâu ?:
- Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Hầu hết nhân loại đều tin: chết không phải là đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là trải qua một cuộc biến đổi từ cuộc sống vật chất trần gian sang cuộc sống vĩnh cửu đời sau, được diễn tả qua câu: ”Sinh ký tử qui” - sống chỉ là ở tạm, chết mới là đi về. Nhưng đi về đâu ? Thưa là đi về với cội nguồn, về cõi vĩnh hằng với Đấng tạo thành nên mình.
- Riêng đối với các tín hữu là những người tin vào Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và đi theo con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người thì chết là trải qua cuộc biến đổi với Đức Giêsu như lời thánh Phaolô dạy: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11). Thánh Au-gút-ti-nô cũng nói lên niềm khát mong được nghỉ yên trong Chúa ở đời sau qua lời cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con vẫn luôn khắc khoải mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Còn thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu lúc sắp chết cũng đã nói với các chị em đứng chung quanh về niềm tin của mình vào một cuộc sống vĩnh hằng như sau: ”Em không chết đâu, em sắp đi vào cõi sống”.
2) Hai lập trường đối lập về mầu nhiệm kẻ chết sống lại:
- Trong thời Đức Giêsu, các người Biệt phái (Pharisêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời này còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau. Còn phái Xa-đốc gồm các tư tế Đền thờ đã không tin có cuộc sống ở đời sau như vậy. Do đó khi nghe Đức Giêsu giảng về sự kẻ chết sống lại, họ đã phi bác bằng việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng như sau: Nhà kia có bảy anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con. Theo luật “Thế huynh” của Môsê, người thứ hai phải lấy người vợ góa đó, nhưng rồi người này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư, năm, sáu, bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không để lại một người con nào. Vậy nếu có sự sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Mục đích của phái Xa-đốc khi đưa ra câu chuyện này là để chứng minh niềm tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có một cuộc sống ở đời sau như vậy thì chẳng lẽ người đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em nhà đó hay sao ?
- Để trả lời, trước hết Đức Giêsu cho biết tình trạng người ta sau khi sống lại sẽ không cưới vợ lấy chồng. Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết như "các thiên thần". Họ sẽ trở thành "con cái của Thiên Chúa" (Lc 20,34-36). Tiếp đến Đức Giêsu xác nhận sự kẻ chết sống lại là điều chắc chắn vì dựa trên Lời Chúa trong Thánh Kinh: Khi hiện ra với ông Môsê trong bụi gai cháy mãi không tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau: “Ta là Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp” (Xh 3,6). Câu này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều khiển thế giới người sống. Các tổ phụ dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn đang sống bên Đức Chúa.
3) Niềm tin của người tín hữu về cuộc sống đời sau:
Khi đọc kinh Tin kính, các tín hữu tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm này như sau: ”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Thánh Phaolô cũng đã khẳng định về một cuộc sống mới trong Đức Kitô: ”Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi , thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,19-20). Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian là cuộc hành trình về quê trời. Cuộc sống ấy sẽ ra sao tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta trên trần gian theo nguyên tắc: “gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy”. 4) Thể hiện đức tin vào mầu nhiệm này thế nào?:
- Một là không nên sợ chết: Những người không có đức tin sẽ rất sợ chết vì cho rằng chết đi là hết. Nếu người tín hữu sợ chết là tự mâu thuẫn với niềm tin của mình về một cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại về cái chết anh dũng của Phó tế Tê-pha-nô tử đạo như sau: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,55-56).
- Hai là phải chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu: Nếu một người chỉ lo kiếm tiền rồi khi có tiền lại tìm cách hưởng thụ các nhu cầu vật chất thể xác do nó mang lại thì sẽ chỉ gặt hái được thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Muốn đạt được hạnh phúc lâu dài cần phải có đức tin và sống phù hợp với đức tin ấy như câu ngạn ngữ tây phương sau đây:
“Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một ngày, hãy mua cho mình một một bộ quần áo mới.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một tuần, hãy giết thịt một con heo. Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một năm, hãy kết hôn với người mình yêu. Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một đời, hãy sống một cuộc sống lương thiện.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc muôn đời, hãy sống như một tín hữu tốt lành”.
Người tín hữu tốt sẽ luôn sống giới răn mến Chúa yêu người theo lời Chúa dạy trong “Tám Mối Phúc Thật” (x. Mt 5,3-12). Thánh Phaolô cũng cho biết có sự thưởng phạt người lành kẻ dữ trong ngày tận thế: ”Ngày đó Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ đã làm” (Rm 2,6).
- Ba là năng cầu nguyện cho các người thân qua đời: Hằng năm, Hội thánh dành riêng tháng Mười Một để khuyến khích các tín hữu cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã qua đời. Đây cũng là cơ hội tốt giúp chúng ta suy nghĩ về bốn sự sau là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Chính sự chết dạy cho chúng ta biết phải sống thế nào. Niềm tin vào Thiên đàng hay hỏa ngục sẽ giúp chúng ta tránh những đam mê thứ hạnh phúc giả tạo đời này và động viên chúng ta can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải để đền tội và đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” để về quê trời đời sau. Trong tháng này, khi làm các việc lành cầu nguyện cho các linh hồn là chúng ta thể hiện niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại và cuộc sống vĩnh hằng đời sau.
4. THẢO LUẬN: Ngày nay nhiều người chỉ biết đi tìm thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua trong những thú vui nhục dục và những đam mê bất chính. Bạn sẽ làm gì giúp bạn bè và người thân nhận ra tình trạng sa đọa của họ để mau hồi tâm sám hối và bắt đầu một cuộc sống bác ái yêu thương và khiêm nhường phục vụ, để tuyên xưng đức tin cụ thể vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊSU. Khi đọc kinh Tin kính, tuy miệng con tuyên xưng mầu nhiệm kẻ chết sống lại và tin có sự sống đời sau, nhưng trong thực hành, con lại thường lỗi đức công bình khi có cơ hội, gây ra bao thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho tha nhân, mà không nghĩ đến việc con sẽ phải đền trả khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này. Dường như đức tin của con mới chỉ là thứ đức tin lý thuyết và không đủ mạnh để ngăn cản con khỏi sống ích kỷ và tội lỗi. Trong Tin mừng hôm nay, Chính Chúa đã khẳng định rằng: Thân xác lòai người sau này sẽ sống lại. Khi ấy người ta sẽ không còn cưới vợ lấy chồng, không còn bon chen kiếm sống như khi sống ở trần gian, nhưng mọi người sẽ trở nên giống như các thiên thần của Thiên Chúa và sẽ được sống trong hạnh phúc muôn đời.
- LẠY CHÚA, con muốn rằng: ngay từ bây giờ con sẽ thuộc trọn về Chúa. Con xin dâng lên Chúa tất cả tâm tư, cùng những niềm vui nỗi buồn và những ước vọng của con. Xin Chúa thương nhận và ban xuống dồi dào hồng ân cứu độ cho con. Xin cho con luôn phó thác cuộc sống trong tay Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, với niềm tin rằng chúng đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của con. X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Giáo lý của Chúa Giêsu dạy có sự sống lại. Tuy nhiên vào thời của Ngài, hai nhóm: nhóm Pharisêu TN 32-C126
Giáo lý của Chúa Giêsu dạy có sự sống lại. Tuy nhiên vào thời của Ngài, hai nhóm: nhóm Pharisêu và nhóm Sađucêô luôn đối nghịch nhau về quan điểm, lập trường. Nhóm Pharisêu là nhóm bảo thử, nhóm Sađucêô là nhóm cấp tiến không tin vào sự sống lại. Như thế họ đối nghịch với Chúa Giêsu và giáo lý của Ngài dạy. Nhóm Sađucêô hầu hết là giới giáo sĩ, giới lãnh đạo về mặt tôn giáo. Họ liên hệ với Chính quyền để hưởng lợi cá nhân.
Nhóm Sađucêô cho rằng chết là hết, ở đời phải tự do hưởng thụ. Sống cứ buông thả, cứ chơi bời và không cần gì phải lập công tích đức. Do đó, để đánh lừa dư luận, để gây khó dễ cho Chúa và để gây hỏa mù, gây niềm tin cho quần chúng, họ đã tự bầy ra một câu chuyện để gây thắc mắc, xin Chúa giải quyết cho họ. Họ dựa vào một điều luật của Môsê gọi là luật Lévirat để phịa ra một câu chuyện giả tưởng, buồn cười nhưng làm cho người khác có thể hiểu lầm. Theo luật Lévirát khi trong gia đình có một người anh em chết tuyệt tự, thì người em phải lấy chị dâu hoặc em dâu làm vợ, để nối dõi tông đường. Và họ hỏi Chúa như thế nếu có bảy anh em chết thì khi sống lại “ người đàn bà góa bụa ấy là vợ của ai ? “. Câu chuyện giả tưởng, không có thật này lại là dịp, là cơ hội để Chúa Giêsu giải thích cho mọi người về sự sống lại.
Ở đây, chúng ta quan tâm đến hai điểm giáo lý căn bản. Điểm thứ nhất: cuộc sống mai sau là cuộc sống của Thiên Chúa. Con người được sống trước Thánh Nhan Chúa, ca tụng Chúa như các thiên thần. Điểm thứ hai, cuộc sống sau này, cuộc sống mai sau là một cuộc sống hoàn toàn linh thiêng, cuộc sống Phục sinh nghĩa là cuộc sống hoàn toàn được đổi mới, cuộc sống linh thiêng như các thiên thần, cuộc sống như Chúa Phục sinh. Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại vì chính Ngài đã Phục sinh như lời Ngài đã nói trước. Chúa Giêsu xác quyết người sống lại sẽ giống như các thiên thần. Người sống lại ở Thiên Đàng không còn lấy vợ lấy chồng vì họ không còn sống thân xác như trước khi chết. Để trả lời cho các tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã viết như sau :” cũng vậy về sự kiện kẻ chết sống lại : gieo xuống trong hư hoại, sống lại trong bất hoại; gieo xuống trong ô nhục, sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại là xác thần thiêng “ ( 1 Co 15, 42 ).
Để giải thích cho một số người đặt Môsê như một vị ngôn sứ cao cả, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề và hỏi họ . Thánh Kinh đã cho thấy gì ? Khi Thiên Chúa hiện ra với Ông Môsê trong bụi gai bốc cháy nhưng không tiêu hao, Ngài đã phán :” Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp “. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ Ta đâu có phải Thiên Chúa của kẻ chết. Nhóm đó và nhiều người đã im lặng không nói được gì.
Các bài đọc, đặc biệt là bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hay rằng :” Kẻ chết sẽ sống lại “.Chết không phải là hết.Cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm bợ. Chết là đi vào cõi trường sinh, đi vào một cuộc sống mới. Như Chúa chết là để sống lại. Vậy, chúng ta là Kitô hữu, chúng ta chết là để sống lại. Chúng ta tin Ông bà Cha mẹ, những người thân yêu hay chính chúng ta chết là để sống lại. Đây là niềm tin, là niềm cậy trông, niềm hy vọng vì chết là bước vào cõi sống.
Xin mượn lời của Luc Fritz để kết luận bài chia sẻ này :” …Bước vào thế giới của Thiên Chúa là đi vào một chiều kích khác.Chiều kích ấy đã thay đổi các điểm mốc : cái chết không còn nữa.Trong đó, thế giới của con người không bị phủ nhận, nhưng nó mang một chiều sâu, một sức sống mới.Sự Phục sinh của Đức kitô củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào sự phục sinh của chính ta. Sự Phục sinh là sự sống viên mãn. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Nhóm Pharisêu là nhóm nào ? 2.Bè Sađucêô có tin sự sống lại ? 3.Chúa Giêsu đã trả lời thế nào với các nhóm ? 4.Chúng ta phải làm gì để củng cố niềm tin vào sự Phục sinh ? 5.Sự sống mai sau sẽ thế nào ?
Lc 20, 27-38: 27 Những người thuộc bè Sađóc, những kẻ chối là không có sống lại, tiến đến hỏi Ngài 28 rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết dạy chúng tôi: Anh em với nhau, nếu một người chết đã có vợ mà lại vô hậu, thì người kia hãy lấy vợ nó, mà truyền hậu cho anh em mình. 29 Vậy có bảy anh em. Anh cả lấy vợ rồi chết, nhưng vô hậu. 30 Người thứ hai, 31 rồi người thứ ba cưới người đàn bà kia. Và cũng vậy cả bảy người, họ chết mà không để lại con cái. 32 Sau cùng người đàn bà kia cũng chết. 33 Vậy trong thế giới phục sinh, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong họ? Vì bảy người đều đã lấy người ấy làm vợ".
34 Và Ðức Yêsu nói với họ: "Con cái đời này thì cưới vợ lấy chồng. 35 Còn những ai đã được xét là đáng hưởng đời sau, cùng sự sống lại từ cỏi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng! 36 Vì chưng họ không thể chết nữa, bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa, một khi đã là con cái của sự sống lại. 37 Còn người chết mà sống lại, thì Môse cũng đã mặc thị trong đoạn Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Yacob. 38 Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống; vì hết thảy đều sống cho Người".
Nằm trong văn mạch của một loạt tranh luận giữa Chúa Giêsu và các thủ lãnh tôn giáo tại Giêrusalem: TN 32-C127
Nằm trong văn mạch của một loạt tranh luận giữa Chúa Giêsu và các thủ lãnh tôn giáo tại Giêrusalem: vấn đề về quyền bính (20:1-8); nộp thuế cho Cêsar (20:20-26); Con của vua Đavít (20:41-44), đoạn tin mừng nầy bàn đến vấn đề kẻ chết sống lại (20:27-38). Chúa Giêsu đã đến Giêrusalem (19:28-40), dạy dỗ trong đền thờ (19:47-21:38; 20:1.5.37.38). Có thể phân chia đoạn thành hai phần: - Đặt vấn đề và một câu chuyện dẫn chứng (20:27-33); - Giáo huấn của Chúa Giêsu về sự sống lại (20: 34-38). Những từ ngữ quan trọng của đoạn: “sống lại” (cc. 27.33.35.36) đóng khung đoạn; “con cái của Thiên Chúa” (c. 36); “Thiên Chúa của sự sống” (c. 38); “chết” (cc. 28.30.31.32.36); “kẻ chết” (cc. 35.37.38).
Người thuộc phái Sađucêô đặt vấn đề kẻ chết sống lại với Chúa Giêsu (c. 27). Họ xuất hiện lần duy nhất ở đây trong tin mừng Luca, và vài lần trong sách Tông đồ Cộng vụ (4:1; 5:17; 23:6-8). Nhóm Sađucêô là những con cháu của Zadok (x. 2 Sam 8:17; Ezk 40:46; 43:19). Họ là những tư tế trong đền thờ Giêrusalem. Đối với họ, chỉ có Torah bằng văn tự mới có giá trị. Giáo huấn về sự sống lại không tìm thấy trong Sách Luật của Môsê, mà chỉ thấy ở những sách khác, và không được dạy rõ ràng (x. Gióp 19:26; Tv 16:9.11; Is. 26:19; Tv 6:5; 88:10.11; 115:17; Hc 9:4–10; Is. 38:18, 19). Do đó, họ thấy không nhất thiết phải tin vào điều nầy; trong khi đó, người Pharisêô lại tin có sự sống lại (Cv 23:8). Từ “sự sống lại”, anastasis, Luca dùng trong tin mừng để bàn về vấn đề sống lại của kẻ chết (x. 14:14; 20:27.33.35.36). chỉ trong sách Công vụ tông đồ, từ nầy mới được dùng để chỉ sự sống lại của Chúa Giêsu (Cv 1:22; 2:31; 4:2.33; 17:18; 26:23). Luca dùng động từ “chỗi dậy” (24:6.34) thay vào đó.
Người Sađucêô đưa ra lý chứng từ luật Môsê về việc lấy chị dâu để có con cho anh mình (20:28; Đnl 25:5; Kn 38:8). Luật nầy quy định là nếu người anh lấy vợ, chết đi mà không có con nối dòng, người em kế tiếp phải lấy chị dâu ấy. Người con sinh ra đầu tiên được kể là con của anh mình. Câu chuyện người Sađucêô đưa ra là có tới bảy anh em. Ai cũng như nhau là lấy người phụ nữ ấy và không có con trước khi chết. Hậu quả “không có con” nầy làm cho việc sống lại trở nên phi lý, vì người phụ nữ nầy sẽ là vợ của ai lúc ấy (20: 29-33).
Trong phần hai, Chúa Giêsu trả lời cho vấn đề sống lại (cc. 34-38): - Một số đặc tính trong cuộc sống của những người sống lại (cc. 34-36); - Trích dẫn sách của Môsê để minh chứng Thiên Chúa của sự sống lại (cc. 37-38).
Trong phân đoạn 20:34-36, Luca phân biệt “con cái của đời nầy” (c. 34) và “con cái của Thiên Chúa” hay “con cái của sự sống lại” (c. 36); cũng như phân biệt giữa “con cái sự sáng” và “con cái đời nầy” (16:8). Giữa hai thế giới nầy có những khác biệt của chúng. Việc “cưới vợ gả chồng” (c. 34) là cần thiết để lưu tồn sự sống con người trên trần gian nầy (cả hai động từ “cưới” “gả” đều ở thì hiện tại). Trong cuộc sống của những người sống lại từ cõi chết, sẽ không có việc cưới gả nữa (c. 35). Động từ “xét xứng đáng” đi với động từ “đạt đến” chỉ Thiên Chúa phán xét trước khi cho ai vào sự sống lại (c. 35). Câu 36, “gar”, “vì”, đưa ra giải thích: “Không thể chết nữa”; nên việc cưới gả không còn tồn tại nữa. Như thế, cưới gả, trong đó bao hàm việc sinh con, là để khỏi phải chết. Khi không chết nữa, con người nên ngang hàng với thiên thần; họ cũng là “con cái của Thiên Chúa”. Từ “isangelos”, có nghĩa là “bằng thiên thần” (x. Mc 12:25). “Bằng thiên thần” có nghĩa họ là “con cái của Thiên Chúa”, như thiên thần được gọi là “thiên thần của Thiên Chúa” (2:9). Họ được sống trong vinh quang của Thiên Chúa (9:26), và hiện diện trước mặt Người (x. 12:8-9; 15:10). Như các thiên thần con người sẽ luôn sống trong thông hiệp với Thiên Chúa là Đấng không bao giờ chết trong cuộc sống mới (c. 38). Họ là con cái của Người, của sự sống lại, nên họ không thể chết (c. 36a). Vậy, việc cưới gả chỉ cho cuộc đời nầy, không ở đời sau.
Trong phân đoạn thứ hai 20:37-38, Luca đưa ra một dẫn chứng về việc Thiên Chúa làm cho “chỗi dậy từ những kẻ chết” (c. 37a). Và sau khi chứng minh, Luca đi đến kết luận là “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là kẻ sống” (c. 38b). Dẫn chứng lấy từ Sách Luật của Môsê, vì người Sađucêô chỉ tin vào đó. Khi trích dẫn, Luca đã không trích dẫn trực tiếp câu “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp” (Xh 3:6. 15-16), mà đặt lời nầy vào miệng ông Môsê. Luca làm Môsê trở thành người nói lại lời nầy để chứng minh có việc kẻ chết sống lại (c. 37): “Về việc kẻ chết được làm cho chỗi dậy từ kẻ chết, Môsê cho biết trong chuyện bụi gai, khi ông nói…”. Động từ “nói”, ở thì hiện tại, chỉ ông vẫn đang nói. Khi hiện ra với Môsê, Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của cha ông; đồng thời cũng là Thiên Chúa của ba đời tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp. Chỉ một Thiên Chúa ấy thôi. Môsê xác nhận là “Chúa”, kurios, mà mọi người đang tôn thờ chính là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp”. Các tổ phụ đã qua đi, Chúa nầy vẫn còn tồn tại.
Kết luận (c. 38): Theos, Thiên Chúa, đặt ở vị trí nhấn mạnh. Luca muốn khẳng định quyền năng của Thiên Chúa. Người không bất lực trước sự chết như người Sađucêô tưởng nghĩ; sự chết được nhắc đến nhiều lần trong đoạn nầy. Trái lại, là Thiên Chúa Hằng Sống (Cv 14:15), Người đã làm cho các tổ phụ sống lại. Họ đang sống. “Zaōn” chỉ những người đang sống sau khi đã chết (24:5; Cv 10:42). Thiên Chúa nầy của các tổ phụ (Cv 5:30) cũng làm cho Chúa Giêsu “chỗi dậy” (24:6.34; Cv 3:15; 4:10; 5:30). Đó là bằng chứng hiển nhiên nhất của sự sống lại. Luca còn thêm: “Vậy tất cả đang sống trong Người” (c. 38b). Có nhiều cách hiểu khác nhau về câu ngắn nầy, tùy theo định nghĩa từ “tất cả” ám chỉ ai, và thể datif của “autō”, “cho Người” hay “trong Người”? Văn mạch có thể giúp xác định những điều nầy. Phân từ hiện tại “zōvtōv”, được dùng như một danh từ chỉ “những người đang sống”; đó là các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp vừa được đề cập ở câu trước (c. 37). “Tất cả” là các tổ phụ. Họ là những người đang sống, và sống “trong Thiên Chúa”, bởi vì sự sống của họ tùy thuộc vào Thiên Chúa. Vậy, Thiên Chúa là Đấng làm cho kẻ chết sống lại, nên tất cả đều phải sống trong Người.
Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự sống, nên con cái của Người cũng là con cái của sự sống lại. Hãy sống như người có sự sống của Thiên Chúa trong chính mình và có niềm tin vào sự sống lại đời sau.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 20:27-38)
Bảy anh em trai phải lần lượt kết hôn với một phụ nữ, vì theo luật Mô-sê, “nếu anh hay em của TN 32-C128
Bảy anh em trai phải lần lượt kết hôn với một phụ nữ, vì theo luật Mô-sê, “nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình”. Dù là một câu chuyện giả tưởng, nhưng được nhóm Xa-đốc dựng lên và sử dụng như câu chuyện có thật, để dồn Chúa Giê-su đi tới việc chối bỏ sự sống lại. Tuy nhiên Chúa Giê-su lại nắm lấy cơ hội này để đem những lời của ông Mô-sê làm chứng cho sự sống lại và dạy chúng ta biết sống như con cái Thiên Chúa.
Điều nực cười là khi nhóm Xa-đốc dựa vào điều ông Mô-sê đã viết thành luật để dựng thành câu chuyện gài bẫy Chúa Giê-su, thì Người cũng dùng chính những lời ông Mô-sê đã nói để phản bác và chứng minh có sự sống lại. Trong đoạn văn nói về bụi gai, khi gọi Đức Chúa là “Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp”, ông Mô-sê đã xác định là có vấn đề kẻ chết trỗi dậy, tức là có sự sống lại. Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, cho nên nếu các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp đều là những người chết và không khi nào được sống lại, thì ông Mô-sê không thể gọi Thiên Chúa là Thiên Chúa của các tổ phụ như vậy được! Đối với Thiên Chúa, các vị tổ phụ kia đều đang sống, mặc dù vẫn chờ ngày được sống lại.
Thực ra Chúa Giê-su không chỉ trả lời cho nhóm Xa-đốc về sự sống lại, mà Người còn dạy họ một chân lý sâu xa hơn, đó là: “Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết… Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”. Nếu Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, thì chúng ta phải làm sao để được gọi là con cái Thiên Chúa? Chân lý vừa nêu trên trả lời: chúng ta phải sống ở đời này làm sao để “được xét là đáng hưởng phúc đời sau và đáng được sống lại từ cõi chết”. Như vậy Chúa Giê-su muốn gửi tới hết thảy chúng ta một sứ điệp vô cùng quan trọng: việc sống lại trong ngày sau hết là một sự thật, nhưng chúng ta muốn được sống lại hay không là tùy thuộc lối sống của chúng ta hiện giờ. Phán xét chúng ta xứng đáng hay không xứng đáng là công việc của Thiên Chúa trong ngày tận thế. Còn công việc của chúng ta ở đời này là cố gắng sống như con cái Chúa ngay từ lúc này cho đến chết. Chết như con cái Chúa, giống như các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp đã chết và ra đi trước chúng ta, chúng ta sẽ được cùng các ngài gia nhập hàng ngũ con cái Thiên Chúa vĩnh cửu.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Tuy mang danh là con cái Chúa, nhưng có lẽ ít khi chúng ta ý thức điều Chúa Giê-su khẳng định về Thiên Chúa: Đức Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống! Khẳng định ấy về Thiên Chúa đòi chúng ta phải nghiêm túc xét lại căn tính của mình. Nếu quả thực chúng ta đang chết phần linh hồn do tội lỗi, thì chúng ta chẳng khác gì cái xác chết biết đi, đâu có thể nhận Thiên Chúa là “của chúng ta” được. Chúa cho chúng ta chia sẻ sự sống của Người qua Chúa Giê-su và Người mong chúng ta làm cho sự sống ấy mỗi ngày một phát triển trong linh hồn chúng ta. Người muốn sự sống Thiên Chúa ấy biến đổi con người chúng ta trở nên giống như Con Một Người là “Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rô-ma 8:29), hoặc là “Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Cô-lô-xê 1:18).
Có lẽ qua những điều này, thánh Phao-lô muốn đề nghị với chúng ta một lối sống mới, tức là sống như những người em bước theo vết chân của người Anh Cả Giê-su trong cùng một chức phận làm con Thiên Chúa.
Vậy đang lúc chúng ta còn là con cái Chúa ở đời này, chúng ta sẽ làm gì khi bước theo Chúa Giê-su? “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mọi sự, vác thập giá mình hằng ngày… Hãy đến với tôi, tôi sẽ bổ sức cho. Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Tôi là bánh hằng sống; ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Ai nghe lời tôi mà đem ra thực hành thì giống như người xây nhà trên nền bằng đá…” Nói tóm lại, chúng ta nghe Chúa Giê-su rất nhiều lần mời gọi chúng ta bước theo Người, làm môn đệ Người. Còn chúng ta, chúng ta đáp lại lời Người mời gọi hay không là tùy chúng ta! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn thấy đối tượng đáng quan tâm nhất luôn tìm cách bắt TN 32-C129
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn thấy đối tượng đáng quan tâm nhất luôn tìm cách bắt lỗi và gày bẫy Chúa Giêsu là những người Pharisêu, những Kinh sư và Thượng Tế…Để gày bẫy Chúa, họ đưa ra một thí dụ vô lý về một người đàn bà lấy tới bảy đời chồng. Người đàn bà chết và bảy người đàn ông cũng chết, vậy bà sẽ là vợ của ai ? Khi đưa ra thí dụ này, câu hỏi này thì phái Xa-đốc chẳng tin có đời sau, chẳng tin có sự sống lại…Họ cố ý đánh bẫy Ngài.Chúa Giêsu đã vén mở cho mọi người thấy sự sống bây giờ khác với sự sống khi phục sinh…
Ở đây, không phải là người Pharisêu không tin vào sự sống lại, nhưng họ đã tự mãn vì họ nghĩ rằng họ đã đánh bẫy được chúa Giêsu khi đưa ra câu hỏi vô lý này bởi vì làm gì có vấn đề phục sinh mà lại sống như đời này con người đang sống. Những người Pharisêu, đặc biệt là phái Xa-đốc đã hiểu sai về sự sống lại. Họ tưởng lầm hay nói đúng hơn họ thật sai lầm khi nghĩ rằng sống lại vẫn lấy vợ, lấy chồng, vẫn sống theo xác thịt như trước khi họ chết. Họ cứ tưởng sự sống sau khi phục sinh cũng chỉ là sự sống trước khi con người chết và như thế câu hỏi họ đặt ra cho chúa Giêsu sẽ làm cho Ngài bị bí vì Ngài tuyên bố có sự sống lại. Trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 20, 27-38 đã cho chúng ta hiểu về sự sống mai sau. Phục sinh tức sống lại sẽ khác đời sống bây giờ. Khi sống lại, người ta không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng vì lúc sống lại, con người sẽ không chết nữa, nên cũng không cần phải có con để nối dõi tông đường, có con để nối giòng vv…nhưng họ được sống ngang hàng với các thiên thần. Trước khi chết, con người nhỏ bé hơn thiên thần, nhưng khi chết, con người bằng thiên thần. Con người ngay từ trần gian đã luôn được tăng trưởng nhờ Bí Tích Thánh Thể. Vì khi lãnh nhận Mình và Máu của Chúa Giêsu, con người được liên kết với Đấng đã chết và sống lại. Ngài nuôi dưỡng con người, nuôi dưỡng chúng ta bằng sự sống thần linh của Ngài. Khi lãnh nhận Mình Máu Đức Kitô, chúng ta được củng cố bằng Lời của Chúa :” Ai ăn Thịt và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ cho chúng sống lại vào ngày sau hết “. Đây là Lời Chúa hứa ban và là niềm tin của mỗi Kitô hữu. Niềm tin của sự sống lại đã đem lại niềm hạnh phúc, niềm vui , đức tin và sự can đảm cho tất cả những môn đệ của Chúa. Bài đọc thứ nhất sách Maccabêô đã cho thấy sự vững tin, lòng can đảm cũa bảy anh em, đã theo lời của mẹ dạy nhất quyết không ăn thịt heo, thà chết để không phản nghịch với Đấng đã tác sinh ra mình. Họ đã tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau.
Thánh Phaolô đã xác tín về sự phục sinh và đã nhắn nhủ mọi Kitô hữu thế này:” Việc kẻ chết sống lại cũng vậy : Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí “
( 1 Co 15, 42-44 ). Câu chuyện Ađam và Evà, hai Ông bà nguyên tổ đã phản nghịch lại Chúa, do đó tội lỗi và sự chết tràn vào trần gian. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã không muốn loài người, con người phải hư đi, nhưng chính Ngài đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu đến thế gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi và ban ơn cứu độ, ban sự sống vĩnh cửu cho những người công chính. Chúa đã phán :” Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống lại “ và “ Phục sinh chính là Ta “.
Chúa dựng nên con người để ban cho con người hạnh phúc…Hạnh phúc Chúa ban là hạnh phúc vĩnh cửu, không phải là hạnh phúc tạm bợ, mau qua…Cho nên, cuộc đời của con người là một cuộc hành trình tiến về quê trời, một cuộc hành trình đức tin đòi hỏi con người phấn đấu, hy sinh, vượt thắng để về với Đấng đã sinh ra mình và mãi mãi yêu thương mình. Người có đức tin phải ý thức mình sống là sống cho Chúa như thánh Phaolô đã nói :” Tôi sống không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Do đó, đừng mải mê với những thú vui trần thế, với những của cải mau qua. Đừng tưởng rằng mình không bao giờ chết mà hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Hãy có thái độ và cách làm như nămcô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà đem theo dầu. Hãy như những người khôn xây nhà trên đá. Hãy như những đầy tớ khôn ngoan đợi chủ về vv…Bởi vì, có những người tưởng rằng mình sẽ không bao giờ chết, nên họ cứ ung dung hưởng thụ vật chất, thú vui mà quên rằng kẻ trộm đang đào ngạch, khoét vách vv…
Chúa Giêsu đứng trước các thính giả Do Thái đã nại ra lời của Ông Môsê vì Ngài hiểu rằng chỉ lời của Môsê mới đánh động được họ. Nhưng Chúa Giêsu cũng muốn nói với mỗi người chúng ta “ Đừng tìm ý tưởng về sự sống lại nơi tư tưởng của các triết gia hay nơi những người giầu tưởng tượng, mà phải tìm trong mạc khải, trong Kinh Thánh và dưới sự soi sáng, tác động của Chúa Thánh Thần.
Chúa nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta về một tín điều quan trọng là sự sống lại. Mạc Khải, Kinh Thánh với Giáo lý Công giáo dạy người Kitô hữu rằng ” Con người chỉ có hai kiếp sống “ :
-Một kiếp sống mau qua, tạm bợ, một kiếp sống đời đời, vĩnh cửu -Một kiếp sống hiện tại và một kiếp sống tương lai -Một kiếp sống ở gian trần và một kiếp sống đời sau. -Một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục.
Và từ kiếp sống này qua kiếp sống khác, con người phải kinh qua cái chết. Sự sống đời này hoàn toàn khác với sự sống đời sau bởi vì sự sống lại của con người tiềm ẩn trong mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Con người sẽ được sống lại trong sự phục sinh của Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ rằng mọi người muốn được sống lại đều phải trải qua sự chết. Xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Amen,
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống".
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ".
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa". Suy Niệm:
(2 Maccabê 7,1-2.9-14; 2 Thessalonica 2,16-3,5; Tin Mừng Luca 20,27-38)
Các Chúa nhật cuối năm Phụng vụ muốn hướng suy nghĩ của chúng ta về tận thế và đời sau... Hôm TN 32-C130
Các Chúa nhật cuối năm Phụng vụ muốn hướng suy nghĩ của chúng ta về tận thế và đời sau... Hôm nay Lời Chúa - nhất là trong bài sách Maccabê và bài Tin Mừng - nói với chúng ta về việc sống lại sau này. Còn bài thư Phaolô khuyên bảo chúng ta một vài công việc cụ thể phải làm trong khi chờ đợi ngày Ðức Giêsu Kitô trở lại. 1. Chúng Ta Sẽ Sống Lại
Ðây là niềm tin đặc biệt của đạo ta. Ngay trong Do Thái giáo, điều này cũng không được rõ ràng. Còn nơi những tôn giáo khác, người ta sẵn sàng tin có sự sống đời sau, nhưng không hề nghe nói sẽ có sự sống lại.
Thật vậy, hầu hết các tôn giáo đều nghĩ rằng chết chưa phải là hết. Con người sau khi chết được đưa sang một thế giới khác hoặc được dẫn đến một chỗ khác để tiếp tục sống. Thế nên mới có câu thác là thể phách, còn là tinh anh. Tức là người ta chỉ chết về phần thể xác; nhưng phần linh thiêng nơi con người sẽ còn mãi và sống mãi, hoặc để hưởng hạnh phúc nếu khi còn sống người ta đã ăn ngay ở lành, hoặc để chịu phạt, nếu ngược lại người ta đã ăn ở độc ác.
Chúng ta không cần đi sâu vào những quan niệm này. Chúng ta chỉ cần biết chẳng có tôn giáo nào nói đến việc con người chết đi rồi sẽ sống lại như đạo chúng ta dạy.
Ngay cả đạo Do Thái cũng không dứt khoát về điểm này. Cứ xem bài Tin Mừng hôm nay thì rõ. Phái Sađốc không những không tin mà còn chế nhạo những ai tin việc xác thịt con người sau này sẽ sống lại. Ðiều đáng để ý là phái Sađốc này gồm hầu hết hàng tư tế Do Thái... Vậy thì các sách Cựu Ước không dạy niềm tin này sao?
Chúng ta không thể trả lời đơn sơ được, cứ chung mà nói người Do Thái vẫn tin có đời sau. Nhưng đời sau đối với họ là đêm tối. Chính đời này mới là ánh sáng ban ngày. Ít nhất đối với đa số loài người. Vì dù sao người Do Thái cũng có lòng kính mến các tổ phụ và tiên tri. Họ không dám nói đến cuộc sống bên kia của các ngài. Họ âm thầm nghĩ rằng các ngài đang được hạnh phúc trong ánh sáng của Thiên Chúa. Nhưng công khai thì họ tuyên bố: đời sống ở bên kia thế giới của những người khác, tức là của hầu hết mọi người, buồn thảm lắm và không có gì hấp dẫn cả. Lý do vì đó là thế giới của sự chết. Của âm phủ. Không những không có ánh sáng của Chúa ở những nơi đó mà tại đây cũng chẳng còn ai kêu cầu danh Chúa. Thực ra quan niệm của các sách Cựu Ước về đời sau không đơn nhất và rõ rệt. Chung chung người Do Thái không nghĩ rằng: Sinh ký tử quy, sống gửi thác về. Và họ không có những kim tự tháp như người Ai Cập, hoặc các lăng mộ như người Việt Nam. Họ không tin ở giá trị của đời sau bao nhiêu.
Tuy nhiên, trên nền trời tư tưởng chung chung mờ tối đó, đã có những tia sáng thật chói. Một Ezekiel đã có thể nói đến một cánh đồng xương khô bỗng được thần khí nhập vào và sống lại. Ðành rằng đó chỉ là hình ảnh về cuộc phục hưng xứ sở sau thời gian lưu đày tan nát. Nhưng nguyên việc nghĩ đến một hình ảnh như thế cũng nói lên tác giả có một ước vọng về phục sinh. Dù sao, bản văn của Ezekiel vẫn không cụ thể bằng câu truyện bảy anh em tử đạo hôm nay về vấn đề này.
Bấy giờ là thời Hy Lạp đô hộ Do Thái. Hoàng đế Epiphane IV tưởng đã có thể thống nhất đế quốc của ông về mặt tôn giáo như đã thống nhất về mặt văn hóa và chữ viết. Ông cho lệnh dẹp tôn giáo Do Thái, bãi bỏ lề luật Môsê... và truyền dân phải làm những điều cấm kỵ trong Luật. Chính vì vậy ông đã bắt tám mẹ con một gia đình đạo đức phải ăn thịt lợn. Nhưng cả tám mẹ con đều cương quyết thà chết chẳng thà vi phạm Luật pháp của tổ tiên. Và hết thảy họ đã chết vì đạo sau khi chịu những tra tấn hành hạ thật dã man.
Ở đây Phụng vụ chỉ nhặt lại những câu mà những người thánh ấy đã nói trước khi chết, có hệ đến việc xác thịt con người sau này sẽ sống lại. Ðó là những lời tuyên xưng niềm tin không mập mờ. Họ khẳng định: "Vua cả vũ trụ sẽ cho chúng ta sống lại; Người sẽ hoàn lại cho ta sự sống còn mãi đời đời. Người sẽ trả lại cho chúng ta sinh khí với sự sống, một khi chúng ta đã không màng đến chính mình để bênh vực các Luật của Người...". Và lúc phải đưa các chi thể ra cho lý hình làm khổ và cắt xẻo họ đã khẳng khái tuyên bố: "Nhờ Trời ban mà chúng tôi đã có chúng, vì các Luật của Người mà tôi khinh màng chúng, nhưng tôi trông cậy sẽ lấy lại do Người ban lại".
Những lời này chắc chắn đã làm cho mọi người kinh ngạc. Và nhất là người Hy Lạp đang tra tấn các thánh. Làm sao họ có thể tin được những lời ấy vì người Hy Lạp vốn coi thân thể là tù ngục, phải diệt đi, bỏ đi cho tinh thần được vươn lên. Ðối với người Do Thái vốn có óc cụ thể và quý trọng những gì hữu hình, niềm tin kia lẽ ra phải khơi lên phấn khởi. Nhưng vì khác với khuynh hướng tâm lý của họ quá, nó đã không trở thành một niềm tin phổ cập và nhất là chắc chắn. Phải đợi đến khi Ðức Giêsu tuyên bố lập trường của Người và nhất là kể từ ngày chính Người đã phục sinh, niềm tin xác thịt chúng ta sẽ sống lại mới dần dần được chấp nhận.
Trước khi đi đến ngày nó trở thành một tín điều trong bản kinh, chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu dạy dỗ chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. 2. Sống Lại Rồi Sẽ Ðược Như Các Thiên Thần
Thánh Luca đặt câu chuyện những người phái Sađốc đến chất vấn Ðức Giêsu vào những ngày cuối cùng trước khi Người bị nộp. Vì thế nó có ý nghĩa bắt bẻ, gây hấn. Nhưng dùng những ngày cuối đời của Người để xin Ðức Giêsu nói về đời sau, tác giả Luca lại thấy đó là điều hợp tình hợp lý.
Vậy có mấy người thuộc phái Sađốc đến. Họ phủ nhận việc sống lại mặc dầu đã có bài sách Maccabê như chúng ta đã thấy trên. Hơn nữa Ðaniel cũng đã khẳng định: "Nhiều người sẽ thức dậy, kẻ thì dành cho sự hằng sống; kẻ sẽ chuốc lấy ô nhục". Nhưng phái Sađốc không tin những loại sách này. Họ gồm phần lớn các người ở trong hàng tư tế. Họ bám lấy Ngũ thư là năm quyển đầu tiên trong bộ Kinh Thánh, đó là luật pháp Môsê, nền tảng của đạo giáo, cơ sở của hàng tư tế. Những sách khác đối với họ không có nhiều uy tín. Họ không giống như biệt phái.
Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri và các sách khác nữa. Ðó là những sách đã khởi sự với phong trào Ðệ nhị luật, tức là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ tin lời sách Ðaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.
Ðang khi ấy, phái Sađốc chú trọng đến tế tự và địa vị lãnh đạo của mình. Ngoài việc dâng lễ ra, họ chỉ quan tâm đến đời sống chính trị. Họ sợ biến động làm rối các cuộc lễ. Và vì thế họ không ngần ngại đi với chính quyền và sẵn sàng chế nhạo những việc khác.
Biết Ðức Giêsu thiên về giảng dạy đạo lý và chủ trương như biệt phái về việc phục sinh sau này, mấy người phái Sađốc đến hỏi để giễu cợt nếu có sự sống lại thì sau này một người đàn bà đã lần lượt lấy bảy anh em làm chồng theo luật pháp, sẽ là vợ của ai? Theo luật Do Thái thì người ấy là vợ của bảy người; nhưng điều này có thể ở thế gian vì lần lượt xảy ra; chứ ở đời sau thì làm thế nào được vì tất cả đều sống cùng một lúc? Rõ ràng chỉ có óc tư tế thiên về luận lý mới đề nghị ra những "nố" luật như vậy, để gây lúng túng cho các thần học gia.
Nhưng Ðức Giêsu không phải là nhà thần học. Người là chân lý. Và chân lý bao trùm mọi lĩnh vực. Người hiểu rõ vì sao có điều luật kia trong sách Môsê. Nó đáp lại nguyện vọng của con người muốn sống trong trường cửu nhưng lại không hiểu rõ về những gì sẽ xảy ra sau khi chết. Người ta muốn nối dài đời sống con người bằng một quyết định pháp luật, bắt người có anh em vừa chết phải lấy vợ của người chết để lại mà truyền hậu cho anh em mình; tức là khi làm cho người chết có con nối dõi tông đường, người ta nghĩ rằng có thể kéo dài sự sống của người chết ra mãi mãi.
Nhưng tên tuổi của người này có thể được tiếp nối ở đời này; còn sự sống của chính người ấy thì sao? Có thế giới bên kia cho người ấy ở không? Nếu quan niệm đời sống ở đó chỉ leo lét như ngọn đèn mù, tức là yếu ớt và thê thảm, thì chẳng cần nói làm gì. Nhưng nếu tin rằng đời sống ở bên kia thế giới rất tích cực và phong phú, thì làm sao giải thích được một vấn nạn như mấy người phái Sađốc nêu lên hôm nay? Phái này không tin có sự phục sinh kẻ chết, vì họ thấy không có cách nào giải quyết được các vấn nạn kia. Tức là họ không tin có đời sau vì họ không thấy đời sau giải quyết được những vấn đề của đời này đặt ra. Họ coi đời sau như nối dài y nguyên sự sống ở đời này. Và đó là sai lầm của họ.
Ðức Giêsu vạch cho họ thấy sự sai lầm này, Người nói: Con cái đời này thì cưới vợ lấy chồng; còn những ai đáng hưởng đời sau và sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng... bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa.
Chúng ta vừa nghe lời Chúa liền nghĩ ngay đến tính cách thiêng liêng của đời sau, ở đó không còn phong tục của đời này nữa. Nhưng phái Sađốc và người Do Thái lại không nghĩ ngay như vậy. Nghe nhắc đến thiên thần, họ nghĩ ngay đến những bậc mà lẽ sống là thờ lạy, chúc tụng và vâng lời Thiên Chúa. Họ nghĩ đến sinh hoạt hơn là có ý tưởng về bản chất của các bậc ấy. Và họ hiểu rằng: Ở đời sau con người sẽ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.
Hơn nữa, họ sẽ là con cái Người. Và theo quan niệm Do Thái, sự sống của Thiên Chúa và con cái Người thì khác; còn sự sống của loài người và con cái thế gian thì khác. Một đàng vĩnh cửu nên không cần truyền sinh, đàng kia vắn vỏi nên cần cưới vợ lấy chồng.
Nghĩ như vậy có lẽ phái Sađốc đã yên tâm. Chứ họ chưa hiểu sâu sắc như tác giả Luca đâu. Ðối với thánh Luca khi nghe nói người ta sẽ nên con cái Thiên Chúa, một khi đã là con cái của sự sống lại, thì lập tức ngài đã nghĩ đến chính Ðức Giêsu nhờ việc sống lại đã được tuyên dương là Con Thiên Chúa. Và ngài biết rằng người ta chỉ nên con cái Thiên Chúa khi sát nhập vào cơ thể Chúa Kitô, tức là tham dự mầu nhiệm chết và sống lại của Người. Không thể so sánh sự sống phục sinh này với sự sống ở trần gian. Các vấn nạn của đời sống thế gian chẳng còn nghĩa lý gì đối với sự sống ở trên Nước Trời.
Hóa giải được vấn nạn của mấy người phái Sađốc rồi, lẽ ra Ðức Giêsu không cần phải nói thêm gì nữa. Nhưng Người là Ðấng luôn thương yêu cho đến cùng và đến cứu người ta ra khỏi tối tăm lầm lạc. Người muốn cho phái Sađốc hiểu rằng họ sai khi không tin có sự sống lại. Và cho được như vậy, Người đi từ suy nghĩ của họ.
Họ đã nói đến Môsê thì Người nhắc đến cho họ nhớ hôm Môsê được ơn gọi, tức là lúc ông thấy bụi gai cháy. Thiên Chúa đã nói với ông rằng: "Ta là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacob". Lời này không có ý nói Người là Ðấng các tổ phụ đã tôn thờ cho bằng muốn nhấn mạnh Người là Ðấng đã bảo vệ, phù trợ các ông. Nếu các ông này đã chết mà không sống lại, thì việc Thiên Chúa bảo trợ họ có nghĩa lý gì? Thiên Chúa bất lực đối với sự chết ư? Người không toàn năng nữa! Vì thế không tin các tổ phụ sống lại là "hạ nhục" Thiên Chúa và "vô hiệu hóa" chính Người. Người còn đáng tôn thờ nữa hay không? Các lễ tế của phái Sađốc dùng làm gì? Do đó, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của kẻ sống. Ý Người muốn bảo các tổ phụ là những người đang sống, đang có sự sống lại, để Thiên Chúa mới còn là Thiên Chúa và còn mới đáng tôn thờ... Các tổ phụ "đã sống cho" Người vì tin tưởng Người. Người là Ðấng toàn năng và trung thành; Người là Thiên Chúa hằng sống. Người bảo hộ kẻ Người thương; nên họ không chết, nhưng đang sống và đang sống cho Người để chính Người luôn luôn là lẽ sống và sự sống của họ. Không tin họ đang sống là không tin quyền năng và sự trung thành của Thiên Chúa, là phủ nhận chính Thiên Chúa. Nghĩ được như vậy, phái Sađốc còn biết nói gì? Mấy người ký lục (chắc là thuộc Biệt phái) đứng nghe đã thấy như vậy, nên đã thưa: "Thầy nói rất chí lý". Chúng ta cũng phải thưa như vậy... Nhưng phải làm gì để chứng tỏ niềm tin ấy? 3. Chúng Ta Hãy Phấn Khởi Và Kiên Vững
Bài thư Thessalonica có nhiều lời khuyên. Ở đây chúng ta giữ lại mấy điều quan trọng. Một đàng, được Chúa ban cho niềm an ủi và mối hy vọng tốt lành như vậy về đời sau, chúng ta hãy phấn khởi và kiên vững trong đức tin. Chúng ta tiếp tục thi hành Lời Chúa truyền dạy để sinh hoạt của chúng ta gồm toàn "việc lành và lời lành". Ðàng khác chúng ta phải cầu nguyện cho "Lời Chúa được xuôi chảy và rạng vinh" tức là cho có thêm nhiều người đón nhận Tin Mừng cứu độ. Và cuối cùng chúng ta "phải hướng lòng vào đức mến của Thiên Chúa và sự kiên nhẫn của Ðức Giêsu Kitô" vì đó là phương thế duy nhất để phấn khởi và kiên vững trong niềm tin.
Không phải chúng ta hay gặp thử thách như gia đình tám mẹ con trong sách Maccabê... Có thể thỉnh thoảng chúng ta gặp những lời như của phái Sađốc... Ðiều quan trọng là chúng ta phải hiểu Lời Chúa. Người đã "luận lý" cho chúng ta thấy Người là Thiên Chúa hằng sống để chúng ta tin vào sự sống phục sinh; và để tin rồi chúng ta có đời sống tốt lành. Bây giờ chúng ta tuyên xưng niềm tin ấy, cử hành mầu nhiệm Chúa chết và sống lại, chúng ta quyết tâm sẽ sống với "nhiều việc lành và lời lành" để chứng tỏ thật sự chúng ta đã là con cái của sự sống lại.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trong ngôn ngữ Việt Nam khi nói về sự chết luôn hàm ý là một sự chuyển tiếp chứ không kết thúc TN 32-C131
Trong ngôn ngữ Việt Nam khi nói về sự chết luôn hàm ý là một sự chuyển tiếp chứ không kết thúc. Sự chết luôn là một khởi hành cho một chuyến đi mới ở một thế giới khác với chốn dương gian. Có lẽ chúng ta đã từng nghe và cũng từng nói những từ ngữ như: Từ trần, Qua đời, Băng hà, Đi rồi,… khi nói về một người chết. Những từ này theo từ điển Việt Nam được giải thích như sau:
+ Từ trần nghĩa là từ giã cõi này để đi đâu đó. Vậy là chết rồi vẫn còn đi tiếp. + Qua đời nghĩa là qua đời này đến một đời khác. Vậy là còn một đời nữa. + Băng hà nghĩa là đi qua một dòng sông, hàm ý qua sông để đến một chỗ mới.
Nhiều người còn lý luận rằng phải có sự sống sau khi chết mới có thể trả lại công bằng cho sự sống trần gian. Nếu không thì cuộc đời này là một phi lý khi người sống thiện lại bị thiệt thòi còn kẻ gian ác lại sống sung sướng hưởng lạc. Thế nên, sự sống đời sau sẽ là phần thưởng cho những ai sống tốt lành và ngược lại là hình phạt cho ai ăn ở ác nhân ác đức.
Đây cũng là lẽ công bằng vì nếu chết là hết thì người ta đâu cần sống tốt như bài thơ của ai đó đã viết:
Nếu chết là hết thì Sống tốt để làm gì Học hành có nghĩa chi Phấn đấu làm việc cũng vậy thôi Giàu có sung sướng rồi gì nữa Văn minh lịch sự để làm gì Danh tiếng này kia có ích chi
Lời Chúa còn dạy rằng: "Con người đã được định là phải chết một lần rồi sau đó chịu phán xét." Chết một lần rồi sau đó chịu phán xét, đó là quy luật của Thiên Chúa đã định cho loài người. Chết một lần rồi chịu phán xét nghĩa là chết rồi không phải là hết mà còn có đời sau. Theo Kinh Thánh thì con người là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, nhưng đó chỉ là phần thân xác. Con người chúng ta không những chỉ có thân xác mà còn có linh hồn. Linh hồn thì giống hình ảnh Thiên Chúa nên sẽ bất tử, vĩnh hằng, dầu cho cái chết thể xác có trở về với bụi tro thì linh hồn vẫn sống trường sinh bất tử.
Lời Chúa hôm nay khẳng định có sự sống đời sau. Sự sống đó không còn lệ thuộc bởi việc dựng vợ gả chồng vì con người đã tham dự vào sự sống bất diệt của Đấng hằng sống. Sự sống đó cũng không còn lệ thuộc bởi vật chất, hay bởi danh lợi thú vì con người không còn cảm thấy thiếu thốn mà đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa, nên con người cũng được thừa hưởng sự sống thần linh của Chúa. Đây chính là niềm vui, là sự khích lệ cho cuộc đời chúng ta. Đau khổ cuộc đời này sẽ qua. Những khốn khó trần gian sẽ qua đi. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Cuộc sống đó không còn những tranh chấp của danh lợi thú, không còn những khổ đau của thiếu thốn, không còn nước mắt của dòng đời bể khổ mà chỉ còn hạnh phúc viên mãn bên Chúa mà thôi.
Nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống luôn nâng đỡ phù trì chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
Cách đây ít lâu, trong giờ giáo lý về đề tài “Tứ chung, những sự cuối cùng,” dành cho các anh TN 32-C132
Cách đây ít lâu, trong giờ giáo lý về đề tài “Tứ chung, những sự cuối cùng,” dành cho các anh chị sắp theo Đạo… Tôi giật mình khi có một chị giơ tay phát biểu: “Em không tin.” Chả là hôm đó đang nói về đề tài: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”… nên phát biểu “Em không tin” tức là “Em không tin có sự sống lại”.
Không phải chỉ có cô học viên đó mà cả tỉ người hiện nay cũng chẳng tin. Mà không chỉ thời nay, thời đại khoa học kỹ thuật, mà thời xưa, thời Đức Giêsu, cũng đã có không ít người chẳng tin, trong đó có phái Sađốc mà hôm nay Luca ghi lại cho chúng ta hay. Tin xác loài người ngày sau sống lại là một niềm tin khó nuốt nhất của Kitô giáo, của Đạo chúng ta.
Bởi vì nếu tin xác loài người sẽ sống lại, thì cả nghìn câu hỏi sẽ đặt ra mà không giải đáp: Sống lại tất cả chỗ đâu mà ở? Lấy gì mà sống? Lấy xác nào mà sống lại: xác ông già nếu mình chết lúc già, xác trẻ thơ nếu mình chết khi còn măng sữa, xác xồn xồn nếu mình tắt thở tuổi trung niên, hay là xác nào? Hoặc xác không còn một tí gì nữa: hoả thiêu rồi, trở thành bụi mùn theo thiên niên kỷ, hoặc vung vãi tứ tung không thu được thì lấy xác nào mà sống lại? Và khi sống lại rồi như vậy chuyện vợ chồng xưa sẽ ra làm sao? Đúng là cả trăm câu hỏi. Chỉ xin dừng lại ở câu hỏi cuối phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay: khi sống lại chuyện cưới vợ gả chồng sẽ thế nào – nếu như người Sađốc đặt vấn nạn cho Chúa: một bà kia lần lượt lấy 7 anh em ruột. Khi sống lại, bà là vợ của ai, vợ anh cả hay vợ của em út?
Cũng phải cám ơn phái Sadoc vì nhờ một hạch hỏi có vẻ không tưởng của họ: 7 anh em ruột phải lấy một vợ, mà ta có được câu trả lời là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu về sự sống lại sẽ thế nào.
Một vài lần Đức Giêsu có nói về sống lại: Ta là sự Sống lại. Nhưng sống lại sẽ thế nào, thì đây là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu trả lời cho bè Sadoc: khi sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa.
Câu trả lời đầy đủ của Chúa Giêsu là: Con cái đời này mới cưới vợ lấy chồng, chứ những ai xét là xứng đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ lấy chồng nữa, vì họ giống như các thiên thần. Họ là con cái của sự sống lại.
Từ câu trả lời của Chúa, ta thử đặt thành 2 vế:
1. Tại sao khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa? Chúa Giêsu đưa ra 2 lý do:
a) Vì họ không chết nữa. Tai sao không chết lại liên quan tới chuyện hôn nhân? Vì hôn nhân là nhằm sinh con đẻ cái, một hành động kéo dài cuộc sống của mình. Khi mình chết đi thì sự sống của mình sẽ nằm nơi con cái. Nói cách khác, sinh con đẻ cái, cha truyền con nối là muốn mình được sống mãi trong con cái. Bố họ Nguyễn con họ Nguyễn cháu nội họ Nguyễn chắt nội họ Nguyễn, Bố là Ken-nơ-đy, con là Kennedy, cháu cũng Kennedy…. Có con cái thì chết mà vẫn sống.
Vậy khi sống lại, không còn chết nữa thì chẳng cần gì phải kéo dài sự sống nơi con cái, do đó chẳng có chuyện hôn nhân nữa. Nhưng lý lẽ này ít thuyết phục được ai, nên Chúa Giêsu đưa thêm một lý lẽ nữa, đó là:
b) Khi sống lại người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, vì người ta sống như các thiên thần. Chúng ta giải thích thêm: Chúa nói: khi sống lại, người ta sống tựa như các thiên thần.
Chữ “như” ở đây không phải là giống hệt đâu. Bởi vì thiên thần là loài thiêng liêng – và chỉ thiêng liêng mà thôi. Còn con người là thiêng liêng và cả xác thể nữa, dù cho xác đó là xác phục sinh. Con người sống lại vẫn khác thiên thần. Vì thế chữ NHƯ mà Chúa Giêsu nói nhằm đến công việc: như các thiên thần, nghĩa là chẳng còn mải lo chuyện gì khác ngoài việc phụng sự tán dương yêu mến Chúa. Do đó cũng chẳng còn lo chi đến chuyện cưới gả chồng con vợ cái. Để hoá giải những thắc mắc mà trong phần đầu chúng ta đề ra: nào là chỗ đâu mà ở, lấy gì mà sống, hồn nhập xác nào đây, xác Mỹ hay xác Việt, xác già hay trẻ, xác gãy chân cụt tay hay xác lành lặn tươi tốt hay đã tiêu tán ra ma, lấy gì mà nhập lại, thì chữ “như” các thiên thần trong câu trả lời của Chúa giúp ta thảnh thơi.
“Như” có nghĩa là tựa tựa, hao hao. Thiên thần là loài thiêng liêng, sáng láng. Ta sống lại cũng hao hao sáng láng như vậy. Đến đây ta nghe các nhà khoa học – mà là khoa học cao cấp: khoa học nguyên tử lên tiếng về xác sống lại: Họ nói: chuyện xác sống lại không phải là chuyện khó tin vì vật chất và ánh sang có họ gần với nhau.
Khi đạt đến một điều kiện nào đó thì vật chất biến thành ánh sáng (đây là khởi điểm của bom nguyên tử và ánh sáng kết tinh lại là vật chất).
Vậy tại sao chúng ta lại ngạc nhiên, lại khó tin khi theo chương trình của Tạo Hoá: thân xác vật chất của chúng ta sẽ biến thành ánh sáng. Nếu uranium, plutonium huỷ đi, phải vỡ nguyên tử nó ra thì mới biến thành sức nóng năng lượng ánh sáng chói loà được, thì thân xác của chúng ta cũng phải chết đi, huỷ ra, tan ra, mới trở thành thân xác sáng láng vinh quang được. Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã lấy hình ảnh hạt lúa để so sánh với sự sống lại. Hạt lúa có chết đi có huỷ tan mới nảy sinh cây lúa.
Vậy chẳng có gì khó tin khi đến một ngày nào đó thân xác tan rã của chúng ta biến thành thân xác sáng láng tựa như thiên thần.
Ta đã bước vào tín điều khó nuốt nhất: xác loài người sống lại. Nếu xác sống lại cũng giống như xác bây giờ, cũng ăn cũng ngủ cũng lập gia đình… thì quả khó tin; nhưng nếu là xác sáng láng thì lại được, khả tín, có thể tin.
2. Vế thứ hai là vế ngược lại. Từ câu trả lời của Chúa ta mở ra một góc cạnh khác. Nếu khi sống lại trên thiên quốc, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, thì khi đang sống tại trần gian, những người không lấy vợ lấy chồng, họ là ai? Thưa họ là những người sống trước, những người tiên báo cuộc sống phục sinh mai sau. Đó chính là các tu sĩ với lời khấn khiết tịnh, các linh mục với lời hứa độc thân. Cuộc sống của họ minh chứng và tiên báo cho sự sống lại mai sau. Nhưng ngoài họ ra, tất cả những ai đang sống độc thân, tự nguyện hay do cảnh ngộ, những người không lấy ai, hay chẳng ai lấy, những người ở vậy nuôi con và những người không đi bước nữa, họ cũng cách này cách khác sống trước mầu nhiệm phục sinh. Tất cả đều có thể là dấu chỉ cho sự phục sinh mai sau. Vì khi thân xác sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa. Amen.
“Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần” (Lc 20,34-36).
Sự sống lại được nhắc đến nhiều lần trong các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước. Bài đọc một trích TN 32-C133
Sự sống lại được nhắc đến nhiều lần trong các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước. Bài đọc một trích sách Ma-ca-bê kể về người mẹ và bảy người con bị bắt, bị vua tra tấn dã man, sau cùng là giết chết cách thảm thiết. Thế nhưng, họ đã lớn tiếng tuyên xưng về sự sống lại: “Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời” (2Mcb 7,9). Đây không phải là một ước vọng suông của con người, vì các lời hứa tiên tri minh chứng rõ ràng điều đó sẽ xảy ra đúng như vậy. Tiên tri Ê-dê-ki-en loan báo Thiên Chúa sẽ cho dân Ngài sống lại như người ta hồi sinh các hài cốt đã khô (x.Ez 37,1-14); tiên tri I-sai-a cũng khẳng định Ngài sẽ làm cho kẻ chết sống lại, làm cho xác chết đứng lên và đánh thức người bị vùi trong cát bụi (x.Is 26,19).
Tin Mừng hôm nay thuật lại chính lời Đức Giêsu khẳng định về sự sống lại: “những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần” (Lc 20,34-36). Chúa Giêsu không chỉ loan báo về sự sống lại mà Người còn cho biết sự sống lại sẽ được khai mào bởi Người. Chúa Giêsu minh chứng điều đó bằng những lời nói và việc làm quyền năng khi cho một số người chết được sống lại: con gái ông Gia-ia (x.Mc 5,21-42), con trai góa phụ thành Na-in (x.Lc 7,11-17), La-za-rô bạn của Người (x.Ga 11). Cùng với những điều đó, Chúa Giêsu còn tiên báo rõ ràng về sự sống lại của Ngài: Con Người phải chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại (x.Mc 8,31). Tuy nhiên, lời loan báo về sự sống lại từ trong kẻ chết vẫn còn khó hiểu đối với chính các môn đệ thân cận của Đức Giêsu. Bằng chứng là sau khi xem thấy Chúa biến hình đầy vinh quang trên núi cùng với ông Ê-li-a và Mô-sê, các môn đệ vẫn bàn hỏi với nhau từ cõi chết sống lại nghĩa là gì (x.Mc 9,10). Nhưng sau đó, qua hàng loạt những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh, các môn đệ đã kinh nghiệm về sự Phục sinh vinh hiển của Chúa và hăng say ra đi làm chứng về sự sống lại.
Giáo lý Công Giáo dựa trên Lời của Chúa Giêsu và đức tin ngàn đời của Giáo Hội đã xác tín: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Nhưng Kitô hữu có để cho niềm tin về sự sống lại ảnh hưởng trên cuộc đời, suy nghĩ, hành động không, hay chỉ là một niềm tin xuông mà thôi? Thiết nghĩ niềm tin về sự sống đời sau phải là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta về cuộc sống đời này, bởi chưng Thiên Chúa sẽ xét xử mỗi người tùy thuộc vào những việc họ đã thực hiện nơi dương thế. Vì vậy, chúng ta hãy yêu thương nhiều hơn, tha thứ nhiều hơn, sống theo tinh thần bác ái Tin Mừng, để vào ngày sau hết chúng ta được Thiên Chúa xét là “đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết” (Lc 20,34).
Xin Chúa cho chúng con xác tín hơn nữa vào sự sống lại đời sau, hầu chúng con biết hoán cải cuộc sống theo tinh thần bác ái của Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn sáng suốt phân định những lợi lộc ở đời này để chọn lấy gíá trị vĩnh cửu ở đời sau.
Theo quy luật của kiếp nhân sinh, con người được sinh ra, lớn lên, già yếu, bệnh tật và chết đi TN 32-C134
Theo quy luật của kiếp nhân sinh, con người được sinh ra, lớn lên, già yếu, bệnh tật và chết đi. Không ai có thể thoát khỏi quy luật này. Tuy nhiên, người ta vẫn đặt câu hỏi. Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?
Trong trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghe câu trả lời của Chúa Giê-su về sự sống lại từ cõi chết. Khi nhóm Xa-đốc đến gặp Chúa Giêsu, nhóm này chủ chương không tin có sự sống lại, và họ đặt câu hỏi cho Chúa Giê-su: "Có bảy người anh em lấy một phụ nữ. Sau đó, tất cả điều phải chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết đi. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?" Câu hỏi này không chỉ nhóm Xa-đốc đặt ra cho Chúa Giêsu về sự sống lại mà ngay cả thời đại này, con người vẫn đang đi tìm câu giải đáp sự sống đời sau.
Tất cả các tôn giáo đều tin có sự sống đời sau. Thuyết luân hồi của đạo Phật, người ta tin vong hồn sẽ đầu thai vào một thân xác nào đó, và trở thành một kiếp khác theo quy luật nhân quả quy định. Giáo lý nhà Phật gọi là vòng luân hồi. Nó cứ mãi chuyển xoay đến khi nào linh hồn rũ sạch hết bụi trần. Giáo thuyết nhấn mạnh đến cái nghiệp quả của người kiếp trước. Vì vậy, họ tin rằng, cái nghiệp đó sẽ được diệt sạch bằng việc tu tâm và lòng từ bi thì sẽ được siêu thoát.
Dưới ánh sáng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu giải đáp rõ về sự sống đời sau: Khi con người sống lại, những ai được xét và hưởng phúc đời sau, họ sẽ được sống lại từ cõi chết, thì họ không còn cưới vợ gã chồng nữa và không thể chết nữa vì họ được ngang hàng với các thiên thần. Tất cả là con cái của Thiên Chúa và được hưởng viễn mãn trên thiên đàng. Tất nhiên, người phụ nữa đó cũng chẳng thuộc về ai.
Với cái nhìn của con người, chúng ta thường bị giới hạn bởi không gian và thời gian, hay lệ thuộc về một người nào đó, khi chúng ta sở hữu những thứ chúng ta có. Chẳng hạn, cái nhà chiếc xe, hay ngay cả chuyện vợ chồng. Chết rồi còn hỏi Chúa cô ta thì thuộc về ai. Con nguời luôn tự ràng buộc mình vào những thứ thuộc về thế gian, nên họ cố bám víu vào nó như là thước đo cho những giá trị hạnh phúc ở đời. Nhóm người Xa-đốc, họ vẫn còn mang nặng mùi theo kiểu trần tục trong việc vợ chồng, rồi họ đặt ra vấn đề cô ta sẽ thuộc về ai.?
Ngẫm nghĩ sự đời, người ta vẫn thường nói: "Chết rồi cũng không buông tha". Đời người thật mong manh, chóng qua.
Dựa trên các quan niệm về đời sau, chúng ta có thể nhận thấy rằng, con người luôn khao khát tìm kiếm chân lý, để làm cứu cánh và định hướng đi cho cuộc đời. Lòng khát khao đó giúp cho con người sống mỗi ngày để hoàn thiện bản thân mình, thì Thiên Chúa là con đường cho ta bước theo, là ánh sáng dẫn bước chúng ta. Ngài là ánh, là chân lý vĩnh cửu và trường tồn. Ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô thắp lên niềm tin và hy vọng cho tất cả nhân loại nhân, để nhận biết sự sống chiết suất từ Thiên Chúa. "Ai tin vào Ta sẽ được sống đời đời." Giáo hội mời gọi chúng ta hãy luôn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn trong tháng 11 này.
Chúa cho Lazarô sống lại thì Ngài cũng cho kẻ chết sống lại. Niềm tin và hy vọng của chúng ta là nơi Chúa Phục Sinh, Ngài sẽ chúng ta cũng được sống lại trong ngày sau hết, để hưởng phúc trên thiên đàng. Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi. Với niềm xác tín vào sự sống đời đời, chúng ta sẽ biết chọn cho mình cách sống và hướng đi thích hợp ở đời này và cho đời sau. Đó là cách chọn lựa của mỗi người khi chúng ta sống trên trần gian này. Chúa Giê-su phán: "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được gì?."
Lạy Chúa: - Con vẫn nghe Lời Chúa dặn, con người sẽ được sống lại, nhưng tâm hồn con vẫn còn xa lìa Chúa.
- Con biết một ngày nào đó, con sẽ từ giã cõi đời này, nhưng nơi cõi lòng con vẫn còn tham lam của cải, danh vọng và lạc thú.
- Con vẫn biết trần gian là quán trọ để dừng chân, nhưng chân con vẫn chạy theo những thứ vui giả trá để giết chết thể xác và linh hồn.
- Con biết sự dữ và tội ác đang vây bủa thân con bởi kiêu ngạo, hận thù và gian ác nhưng con vẫn làm ngơ trước sự cám dỗ của ma quỷ.
Xin Ngài thương xót và cứu chữa linh hồn con cả đời này và đời sau. Amen.
Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào TN 32-C135
Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào. Chúa đã trả lời làm hai bước: Trước hết, Chúa nói về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại, sau đó, Chúa đưa ra một lập luận dựa trên một kiểu nói cơ bản nhất trong bộ Ngũ Kinh là những sách mà những người Xa-đốc công nhận là Sách Thánh.
Trước hết, về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại. Chúa cho biết nó không phải là một sự lặp lại cuộc sống trần gian, hai yếu tố của cuộc sống trần gian mà những người Xa-đốc nêu lên là chuyện cưới vợ lấy chồng và cái chết thì sẽ không còn nữa, những người đã sống lại thì được ngang hàng với các thiên thần nên không thể chết được nữa. Sự sống sau khi sống lại là sự tham dự trọn vẹn vào cuộc sống của Thiên Chúa, lúc đó người ta mới thể hiện đầy đủ bản chất là con Thiên Chúa, vì người ta được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Con của loài vật thì có sự sống của loài vật, con của loài người thì có sự sống của loài người, con của Thiên Chúa thì có sự sống của Thiên Chúa. Người ta được ngang hàng với các thiên thần, giống như các thiên thần, không còn bận tâm nào khác ngoài việc chiêm ngắm và ngợi khen Thiên Chúa. Vậy thì lập luận của những người Xa-đốc không đứng vững, bởi vì chính quan niệm của họ về cuộc sống sau khi sống lại không đúng.
Tiếp theo, Chúa Giêsu dựa vào một kiểu nói cơ bản rút ra từ một đoạn văn then chốt trong Cựu Ước và đối với lịch sử Do Thái, đó là đoạn văn kể việc Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê dưới hình ngọn lửa cháy trong bụi gai (Xuất Ai Cập 3,6). Chúa nhấn mạnh vào ông Mô-sê, vì phái Xa-đốc nhìn nhận uy quyền của ông. Trong sách thì đây là lời Thiên Chúa tự xưng với ông Mô-sê, nhưng vì truyền thống Do Thái coi đây là sách do ông Mô-sê viết, nên Chúa Giêsu dựa vào đó mà lập luận. Ông Mô-sê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Phái Xa-đốc không tin có đời sau, chết là hết, bởi vậy Chúa Giêsu lập luận: nếu chết là hết, thì các vị tổ phụ kia đã chết rồi, mắc mớ chi mà gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ đâu phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Bởi vì đã gọi Ngài là Thiên Chúa của ai tức là người đó đang sống, tuy đối chúng ta thì người đó chết rồi. Ông Mô-sê không khẳng định có sự sống lại, nhưng trong kiểu nói này ông Mô-sê cho thấy rằng có cuộc sống đời sau, con người không chỉ có cuộc sống trên trần gian này thôi, chết không phải là hết, nhưng là đi vào một cuộc sống mới, sống trước mặt Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa.
Chúng ta thấy lối lập luận của Chúa Giêsu thật độc đáo, nên những người tranh luận với Chúa đã chịu lý và không thể cãi lại. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Thực vậy, chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng là bắt đầu sống thực sự, như chúng ta vẫn hát trong thánh lễ an táng: “Lạy Chúa, đối với tín hữu Chúa, đời sống thay đổi chứ không bị tiêu diệt”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trên giường hấp hối, cũng đã nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Quả thực, sự chết vẫn hiện hữu, nhưng chết chỉ là chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi: từ tạm thời sang vĩnh cửu, từ hữu hạn sang vô hạn, chết là bắt đầu một đời sống mới, một cuộc đời vĩnh cửu.
Tóm lại, chết là một sự kiện hiển nhiên không cần phải chứng minh, đã là con người thì sẽ phải chết. Và đối với đức tin của chúng ta, thì thân xác chúng ta chắc chắn sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỷ dữ lại là chuyện khác. Chắc chắn thân xác chúng ta sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu là vấn đề chúng ta phải hết sức quan tâm, bởi vì kẻ lành, kẻ sống tốt lành thánh thiện cũng sống lại, và kẻ dữ, kẻ sống xấu xa tội lỗi cũng sống lại, nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, đó là điều khác biệt. Căn cứ vào đâu để Thiên Chúa thưởng hay phạt chúng ta? Căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta, đời này quyết định số phận đời sau, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”, “gieo thứ gì gặt thứ ấy”.
Lạy Chúa, cuộc sống này có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Xin cho chúng con luôn nhớ mình sẽ phải chết để sống tốt, sống lành hầu xứng đáng đón nhận phần thưởng vĩnh phúc.
Chúng ta đang ở trong tháng 11. Tháng 11 là tháng chúng ta đặc biệt nhớ đến sự chết. Nhớ đến TN 32-C136
Chúng ta đang ở trong tháng 11. Tháng 11 là tháng chúng ta đặc biệt nhớ đến sự chết. Nhớ đến sự chết là chúng ta nhớ đến các thánh đã chiến thắng về trời mà chúng ta đã mừng kính mấy hôm nay; và nhớ đến sự chết là chúng ta nhớ đến các linh hồn trong luyện ngục mà chúng ta có bổn phải cầu nguyện cho các ngài đặc biệt trong tháng này. Một cách đặc biệt khi tưởng nhớ tới các ngài là Giáo Hội muốn chúng ta nhớ đến mỗi người chúng ta.
1. Cha hỏi chúng con Giáo Hội muốn chúng ta nhớ đến cái gì?
Thưa nhớ đến một ngày nào đó chúng ta sẽ phải chết như các ngài.
Hãy nhớ rằng cuộc sống này là cuộc sống có cùng có tận. Và đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tiếp tục.
Bằng một câu chuyện rất đễ hiểu trong Tin Mừng của thánh Luca, câu chuyện về người phú hộ giầu có và Lagiarô khó nghèo, Chúa đã muốn bảo cho chúng ta rằng đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tồn tại. Sự tồn tại này chúng ta gọi là cuộc sống mai sau, cuộc sống đời đời.
Đây là cuộc sống có thật, thế nhưng nhiều người không tin.
Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay Cha không có nhiều thời gian để cắt nghĩa dài dòng. Cha chỉ xin nói thật vắn tắt. Người Saduceo thuộc dòng tộc Sadoc là những người có chức vị cao trong hàng tư tế. Nhưng kỳ lạ là họ không tin có thiên thần, không tin có linh hồn bất tử, không tin có trừng phạt và vì thế mà họ không tin có sự sống lại, không tin có đời sau. Họ muốn tỏ ra cho mọi người biết là niềm tin của họ như vậy là có bằng chứng, có lý nên một hôm họ "phịa" tức là bày ra một câu truyện để thử Chúa. Câu chuyện của họ thế này:
Có 7 anh em trai. Anh cả cưới vợ - rồi chết. Theo luật người thứ hai phải lầy người chị dâu goá của mình để nỗi giõi tông đường.
Người thứ 2 lấy chị dâu góa đó. Rồi người thứ 2 cũng chết. Người thứ 3 phải lấy bà chị góa góa của hai anh mình. Người thứ 3 chết. Người thứ 4 phải lấy người chị góa góa góa của 3 anh mình . Người thứ 4 chết. Người thứ 5 phải lấy bà chị góa góa góa góa của 4 anh mình. Cứ như thế...
Đây là một trường hợp khó có thể tìm thấy được trong hoàn cảnh thực tế của cuộc sống, thế nhưng về lý thì hoàn toàn có thể xảy ra.
Chúa Giải Quyết Cách Nào?
a Trước hết Chúa xác định: "Con cái ở đời này thì cưới vợ lấy chồng - Còn ai đáng huởng đời sau và sự sống lại từ cõi chết thì sẽ không cưới vợ lấy chồng bởi họ sẽ trở nên giống như các thiên thần và nên con cái của Thiên Chúa"
b. Và Chúa còn nói
- Sự sống mai sau là linh thiêng: Giống như các thiên thần. - Sự sống đời này vắn vỏi nên cần sự truyền sinh. Còn cuộc sống mai sau là vĩnh cửu cho nên không cần sự truyền sinh nữa. - Thiên Chúa là Chúa của người sống chứ không phải là Thiên Chúa của người chết.
c. Sách Thánh cũng chứng minh đều đó. Moise đã gọi Chúa là Thiên Chúa của các tổ phụ và việc không tin có đời sau là xỉ nhục các ngài và việc tế lễ của họ sẽ là thừa.
2. Đâu là thái độ của chúng ta?
- Có nhiều người bi quan, bi quan đến mức độ muốn đầu hàng cái chết. Từ thái độ đó người ta bị dẫn đến một thái độ khác đó là người ta cho cuộc đời này là phi lý. Dù có sống như thế nào đi nữa rồi cũng kết cùng rồi cũng phải chết. Cuộc sống trở thành một thực tại phi lý hơn bất cứ một thực tại nào khác ở cõi đời này. Kết quả là một cuộc sống buông thả, muốn ra sao thì ra.
Đây quả là một thái độ nguy hiểm. Và chắc chắn đó không phải là thái độ của những người tin. Sống cuộc đời buông thả không những không thể đạt đến hạnh phúc đời đời như lời thánh Phaolô cảnh cáo mà ngay tại đời này cuộc sống như thế cũng đáng bị lên án một cách nặng lời.
b. Có người lại có thái độ khác. Họ dửng dưng trước sự chết. Họ không muốn nhìn vào sự chết như là một sự thật. Họ thản nhiên để cho cuộc đời của họ chìm sâu vào sự tận hưởng những giây phút của hiện tại mà không cần biết đến tương lai.
Đây cũng không phải là thái độ của những người tin như chúng ta.
Trên mộ của một người giầu có người ta đọc thấy một câu như thế này: "Đây là mộ của một người dại dột đã sống mà không biết tại sao mình sống"
Một trong những câu chuyện hay người ta thường kể để răn dạy người đời là câu chuyện ông vua giầu có với chú hề. Truyện như thế này: "Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như là không hề biết đến tương lai. Ông cũng chẳng màng đến thế giới mai sau. Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho ông mỗi khi ông cần tới. Theo nhà vua thì tên hề này là một người biết đem lại niềm vui cho những người khác nhưng lại là một người rất ngu đần. Một ngày kia không hiểu vì tức giận với anh ta truyện gì mà nhà vua cho gọi anh hề tới rồi trao cho anh ta một cây gậy gọi là thanh trượng quyền của nhà vua và nói với anh ta: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một người ngu hơn ngươi - trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi." Chú hề nhận cây gậy và cố gắng đi tìm nhưng tìm mãi cũng không ra.
Thời gian qua đi. Tuổi già đến lúc nào nhà vua cũng không biết. Đến khi lực đã cạn, sức đã kiệt ông cảm thấy ngày ông gần đất xa trời không còn bao xa, ông cho gọi chú hề đến và tâm sự với anh ta:
* Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật xa. - Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu cơ ạ.
* Ta cũng không biết nữa. - Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua trở về?
* Không bao giờ , không bao giờ con ạ.
Anh hề là một người ngu nhưng trong trường hợp này anh lại có một phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy mà trước kia nhà vua đã trao cho anh vào ngay bàn tay Đức Vua rồi thinh lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng và vui sướng vì đã tìm thấy được một người còn ngu hơn mình mà người đó lại là chính ông vua trước kia đã tự hào là mình thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần anh ta.
c. Vậy thì dâu là thái độ của chúng ta. Đây là thái độ mà chính Chúa Giêsu đã dậy: Hãy tỉnh thức.
Chúng ta không đầu hàng sự chết. Chúng ta không lẩn trốn sự chết, coi nó như không có trong cuộc đời, nhưng chúng ta can đảm đối diện với nó bằng tất cả lòng tin yêu và phó thác của chúng ta nơi Tình yêu của Thiên Chúa để cố gắng sống một cuộc đời xứng đáng như lòng Chúa mong ước để mao sua khi kết thúc cuộc đòi chúng ta được đời đời với Chúa trong nước Trời.
Một ông cụ già đã sống đến 82 tuổi, đến khi thấy mình không còn sống thêm được bao lâu nữa, cụ dặn các con cháu hãy khắc vào tấm bia trên ngôi mộ mình một hàng chữ:
NƠI ĐÂY AN NGHỈ MỘT CỤ GIÀ VỪA TRÒN 80 CỘNG VỚI 2 TUỔI ĐỜI THẬT SỰ!
Ai cũng thắc mắc vì sao lại ghi lạ lùng như thế, cụ mới thuật lại rằng:
- Tôi đã trải qua cả một cuộc đời dài suốt 80 nằm hoàn toàn xa rời, thậm chí ngược hắn với nếp sống Tin Mùng mà Thiên Chúa đã mời gọi.
Bây giờ thì tuổi già đã tràn đến như sóng thủy triều, tôi đã sức tàn lực kiệt, phải ngồi một chỗ, cũng may mà đầu ốc tôi còn khá minh mẫn để đơn độc một mình hồi tương về dĩ vãng. Và vào một hôm cách đây hơn 2 năm, tôi đã có cơ may trở về với chính mình và nghiêm túc tự hỏi: Mình đã từ đâu mà đến trong cuộc đời trần gian này? Rồi mai đây mình sẽ đi về đâu? Những điều tôi đã làm được trong cả đời sẽ còn lại gì khi tôi nhắm mắt xuôi tay?
Và thế là từng ngày lặng lẽ trôi qua, đời sống của tôi như khúc phim chiếu chậm đã từ từ hiện ra trang trí nhớ già nua bằng tất cả sự thật của nó.
Tôi nhận ra rằng tôi đã phí phạm cả đời mình. Nó chỉ còn để lại cho tôi những lỗi lầm với Thiên Chúa và với vợ con, với mọi người chung quanh. Chính những suy nghĩ này đã đánh động lòng tôi và giúp tôi kịp thời quay về với nếp sống gần gũi với Tin Mừng, một nếp sống chọn lấy niềm Tin, Cậy, Mến đối với Thiên Chúa làm kim chỉ nam và tình yêu thương chân thành đối với tha nhân làm hơi thở.
Và với tâm tình như thế tôi đã sống đến hôm nay được hơn 2 năm. Tôi vui mừng thật sự bời vì 2 năm ấy chính là 2 năm tôi đã sống trọn vẹn cho Nước Trời. Amen
Sau khi đã chọn những điều kiện tốt nhất, định tâm, nhận diện ra Chúa đang ở trước mặt mình, giờ TN 32-C137
Sau khi đã chọn những điều kiện tốt nhất, định tâm, nhận diện ra Chúa đang ở trước mặt mình, giờ đây, mời bạn cầu xin Chúa Thánh Thần giúp bạn biết cầu nguyện trong giờ cầu nguyện này, và xin Ngài ban cho bạn ơn xin sau:
Xin Chúa cho con xác tín mạnh mẽ về sự sống vĩnh cửu mai sau mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những người công chính. Để ngay từ bây giờ, con cần biết phải sống thế nào để được Chúa ân thưởng cuộc sống vĩnh cửu mai sau trong tình yêu Thiên Chúa.
II. SUY CHIÊM
Đọc Tin Mừng Lc 20, 27-38 Sau đó suy theo từng điểm sau
(Mỗi điểm chúng ta đi theo ba bước:
Đọc kỹ- Suy sâu- Cầu xin). Các điểm suy chiêm:
1. “ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng được hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” ( c.34)
a. Đọc kỹ ( 3 lần),
b. Suy sâu theo các câu hỏi gợi ý:
- Trước lập luận không tin có sự sống lại của những người thuộc phái Xa-đốc, Chúa Giê-su muốn nói gì với họ?
- Chúa Giê-su cho thấy khi sống lại, những người được hưởng đời sau sẽ không cần đến những chuyện gì? Tại sao? Nếu người ta coi hôn nhân với mục đích lưu truyền dòng dõi, thì khi sống lại từ cõi chết, họ có cần đến nó nữa không?
- “ Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau” Có phải là ai cũng được hưởng phúc đời sau hay không? Những người được xét hưởng hạnh phúc đời sau là người nào? Họ được tuyển chọn theo những tiêu chuẩn nào? Có phải dựa trên Tám mối phúc, giới răn yêu thương hay không?
- Nhìn lại mình, tôi thấy mình có đáng được hưởng hạnh phúc đời sau hay không? Tại sao? Nếu chưa xứng đáng, Chúa muốn tôi phải thay đổi cuộc sống của tôi ra sao để có được phúc đời sau?
c. Cầu xin:
Tâm sự với Chúa tâm tình bạn đang có.
2. “ Họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” ( c. 36 )
a. Đọc kỹ ( 3 lần),
b. Suy sâu theo các câu hỏi gợi ý sau:
- Chúa Giê-su nhấn mạnh đến điều gì ở câu này? Có phải Ngài nhấn mạnh đến sự bất tử của những người được sống lại từ cõi chết hay không?
- “ ngang hàng với các thiên thần”, Chúa Giêsu có ý muốn chúng ta tưởng tượng sự sống đời sau này hay không? Nếu Ngài không muốn người nghe tưởng tượng đời sau đó, vậy Chúa Giê-su muốn gì? Có phải khi Ngài đặt sự so sánh đó là muốn nói với chúng ta rằng : đời sống đó nằm ngoài tầm hiểu của khoa học và tri thức, không theo kiểu mẫu của chúng ta? Và những người sống đời sống mai sau đó sẽ sống như các thiên thần?
- Họ, những người được sống lại đó, là con cái của ai? Con cái Thiên Chúa: có phải là do được tham dự vào sự sống thần linh của Đấng Siêu Việt, nên đó là hạnh phúc tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa đã ban cho con người hay không? Đó có phải là hạnh phúc tuyệt vời nhất mà tất cả chúng ta đều chờ đợi và trông mong hay không? Tại sao?
- Tôi có xác tín để tin vào điều này hay không? Và tôi có ao ước để được Chúa ân thưởng cho tôi một sự sống đời sau: là con cái Thiên Chúa, vì là con cái của sự sống lại hay không? Nếu tôi khao khát để được là con cái của sự sống lại, Chúa muốn tôi phải làm gì?
c. Cầu xin:
Tâm sự với Chúa tâm tình mình đang có.
3. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” ( c. 38)
a. Đọc kỹ ( 3 lần),
b. Suy sâu theo các câu hỏi gợi ý sau:
- Chúa Giê-su cho những người phái Xa-đốc nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa thế nào? Một Thiên Chúa của kẻ sống hay kẻ chết?
- Tại sao là Thiên Chúa của kẻ sống mà không phải là Thiên Chúa của kẻ chết?
- Phải chăng, với Thiên Chúa, Ngài không bỏ rơi các tổ phụ, để các ngài đi vào hư vô cõi chết, nhưng là đã cúi xuống để con người được sống, nên Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống?
- Thiên Chúa có tạo dựng nên con người, rồi bỏ mặc con người trong đau khổ, trong cái chết, trong sự vô vọng hay không? Hay nói cách khác, Thiên Chúa có tạo dựng con người từ hư vô rồi sau đó đẩy con người vào lại chốn hư vô hay không? Nếu Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng vẫn cúi xuống và nâng con người lên từ cõi chết, để con người được sống, thì Ngài phải là Thiên Chúa của kẻ sống?
- Chúa Giê-su muốn con người hướng đến điều gì? Phải chăng Ngài muốn con người chú ý, hướng tới nền tảng của đời sống ấy: là lòng nhân ái và sự toàn năng của Thiên Chúa khi thưởng ban cho con người và từng người một đời sống vĩnh cửu?
- Nếu con người tin như thế, có phải là con người tin vào chính Thiên Chúa hay không?
- Nhìn lại mình, tôi đã tin vào Thiên Chúa ra sao? Một Thiên Chúa của kẻ sống, một Thiên Chúa với tình yêu bao la nhân hậu luôn sẵn sang ban phát cho con người sự sống? Hay tôi vào một Thiên Chúa nào khác?
- Cách sống của tôi phải chăng sẽ nói lên niềm tin của tôi: Một Thiên Chúa của kẻ chết hay một Thiên Chúa của kẻ sống?
- Nếu Thiên Chúa là bất tử, hẳn tôi đã có một cách sống khác, sẽ là chứng từ trong sáng về Thiên Chúa cho thế giới hôm nay?
- Nếu tôi còn “ lơ mơ” trong đức tin, trong cách sống, Chúa muốn tôi phải chỉnh sửa điều gì để tôi sẽ nói cho thế giới, cho mọi người xung quanh tôi về Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống ?
c. Cầu xin
Hãy thinh lặng, cố gắng lắng nghe tiếng Chúa nói với mình, rồi thưa chuyện cùng Chúa.
III. KẾT NGUYỆN
− Tâm sự cùng Chúa Giêsu. − Đọc lại đoạn Lời Chúa Lc 20,27-38 hoặc hát bài thích hợp để kết thúc.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm. Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã TN 32-C138
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm. Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau. Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất, và sống như thể chỉ có đời này. Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Thánh Luca đặt câu chuyện những người phái Sađốc đến chất vấn Chúa Giêsu vào những ngày cuối cùng trước khi Người bị nộp. Vì thế nó có ý nghĩa bắt bẻ, gây hấn. Nhưng dùng những ngày cuối đời của Người để xin Chúa Giêsu nói về đời sau, tác giả Luca lại thấy đó là điều hợp tình hợp lý.
Thời Chúa Giêsu, các người Biệt phái (Pharisêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời này còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau. Còn phái Sađốc gồm các tư tế Đền thờ đã không tin có cuộc sống ở đời sau như vậy.
Ta thấy: nhóm Sađốc hiểu sai về việc sống lại, cũng như về cuộc sống mai sau. Với họ sống lại là phục hồi những điều kiện vật chất của người quá cố. Trong khi đó Chúa Giêsu lại bảo: Người sống lại sẽ giống như các thiên thần, nên không còn dựng vợ gả chồng nữa. Đối với chúng ta, vấn đề chỉ được thực sự giải quyết qua cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, để rồi chúng ta luôn tuyên xưng: Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.
Do đó khi nghe Chúa Giêsu giảng về sự kẻ chết sống lại, họ đã phi bác bằng việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng như sau: Nhà kia có bảy anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con. Theo luật “Thế huynh” của Môsê, người thứ hai phải lấy người vợ góa đó, nhưng rồi người này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư, năm, sáu, bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không để lại một người con nào. Vậy nếu có sự sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Mục đích của phái Sađốc khi đưa ra câu chuyện này là để chứng minh niềm tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có một cuộc sống ở đời sau như vậy thì chẳng lẽ người đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em nhà đó hay sao ?
Để trả lời, trước hết Chúa Giêsu cho biết tình trạng người ta sau khi sống lại sẽ không cưới vợ lấy chồng. Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết như "các thiên thần". Họ sẽ trở thành "con cái của Thiên Chúa" (Lc 20, 34-36). Tiếp đến Chúa Giêsu xác nhận sự kẻ chết sống lại là điều chắc chắn vì dựa trên Lời Chúa trong Thánh Kinh: Khi hiện ra với ông Môsê trong bụi gai cháy mãi không tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau: “Ta là Chúa của tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp” (Xh 3, 6). Câu này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều khiển thế giới người sống. Các tổ phụ dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn đang sống bên Đức Chúa.
Những người phái Sađốc không tin có sự sống lại sau này, nên khi nghe Đức Giêsu giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại, họ đã tìm cách phi bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng về bảy anh em nhà kia theo luật Thế Huynh của Môsê đã tiếp nối nhau lấy cùng một người đàn bà và đều chết mà không có con. Từ đó họ đặt vấn đề: Nếu có chuyện kẻ chết sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em ? Chúa Giêsu đã dùng Kinh Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc sống ấy như thế nào.
Có mấy người thuộc phái Sađốc đến. Họ phủ nhận việc sống lại mặc dầu đã có bài sách Maccabê như chúng ta đã thấy trên. Hơn nữa Ðaniel cũng đã khẳng định: "Nhiều người sẽ thức dậy, kẻ thì dành cho sự hằng sống; kẻ sẽ chuốc lấy ô nhục". Nhưng phái Sađốc không tin những loại sách này. Họ gồm phần lớn các người ở trong hàng tư tế. Họ bám lấy Ngũ thư là năm quyển đầu tiên trong bộ Kinh Thánh, đó là luật pháp Môsê, nền tảng của đạo giáo, cơ sở của hàng tư tế. Những sách khác đối với họ không có nhiều uy tín. Họ không giống như biệt phái.
Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri và các sách khác nữa. Ðó là những sách đã khởi sự với phong trào Ðệ nhị luật, tức là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ tin lời sách Ðaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.
Ðang khi ấy, phái Sađốc chú trọng đến tế tự và địa vị lãnh đạo của mình. Ngoài việc dâng lễ ra, họ chỉ quan tâm đến đời sống chính trị. Họ sợ biến động làm rối các cuộc lễ. Và vì thế họ không ngần ngại đi với chính quyền và sẵn sàng chế nhạo những việc khác.
Chúa Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau. Ðời sau khác hẳn đời này. Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết. Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, ta nghĩ đến cái chết và đời sau. Cái chết dạy ta biết cách sống. Ðời sau kéo ta ra khỏi những hạnh phúc giả tạo, và những nỗi khổ đau do mê lầm. Ta đang đi về đời sau để gặp Ðấng mà ta đã tin yêu suốt đời. Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội. Ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa, và ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật 32 Thường Niên, Năm C, của LM Giuse Đỗ Văn Thụy
(Lc 20,27.34.38)
Chối bỏ việc kẻ chết sống lại
Trong thời Đức Giêsu, ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống xã hội cũng như tôn giáo Do TN 32-C139
Trong thời Đức Giêsu, ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống xã hội cũng như tôn giáo Do Thái. Ba nhóm ấy là Luật Sĩ, Biệt Phái và Sađucêu.
Nhóm Luật Sĩ và Biệt Phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh Kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy nhiên chính họ lại là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ.
Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do Thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do Thái từ trước thời Đức Giêsu.
Họ chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, và chỉ coi Môsê là vị tiên tri vĩ đại nhất. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm Biệt Phái) vì hai lý do: một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh Kinh (đối với họ chỉ có luật Môsê thôi), hai là họ nghĩ rằng: quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người.
Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Môsê mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23,5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại.
Theo luật Môsê, luật mà Thánh Kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu góa để gây dòng họ cho anh em mình. Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại. Họ hỏi Đức Giêsu: nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại bà là vợ ai?
Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xảy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại là một việc không thể tin được.
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách bác bỏ quan niệm sai lầm về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng: “con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi. Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa. (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).[1]
Khoa học chứng minh có “sự sống đời sau”
Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (cuộc sống sau cõi đời này) vào năm 1975, công chúng Phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (tạm gọi là trải nghiệm sự chết đi sống lại). Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được giới chuyên môn về y khoa xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó họ hồi sinh.
Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm này.
Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng này. Họ đã phỏng vấn 1.370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
– Có một cuộc sống khác ở “cõi bên kia” và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
– Điều đặc biệt là sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không còn ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. (Willie Hoffsuemmer).
Bác sĩ George Rodonaia, có học vị tiến sĩ trong ngành thần kinh học (về sau nầy cũng là một tiến sĩ tâm lý học tôn giáo) vốn là công dân Liên Xô, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Ông là chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow. Ông đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Ông được giới y khoa xác nhận là chết ngay lập tức sau một vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, được đưa vào nhà xác và được quàn tại đó trong ba ngày. Ông vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng như một phần của công tác khám nghiệm tử thi. Ông thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia và xác quyết rằng chính biến cố nầy khiến ông đổi đời tận gốc rễ.[2]
Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng.[3]
Niềm Tin Kitô hữu
Mỗi khi đọc kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng, chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay.
Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”(Cv 2,32; 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu.
Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Một lần nữa chúng ta lập lại lời tuyên xưng trong kinh tin kính: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.” Amen
Sau cơn mưa, trời sáng ; sau đêm đen, bình minh ló dạng, đó là quy trình vạn vật vũ trụ phát đi TN 32-C140
Sau cơn mưa, trời sáng ; sau đêm đen, bình minh ló dạng, đó là quy trình vạn vật vũ trụ phát đi tín hiệu ấm áp tình, lan toả khắp muôn phương. Nhờ tai mắt tinh thông, người ta nghe, nhìn, và có khả năng đoán biết được nhiều “hoạ-phúc” đang xảy đến. Phải chăng, suy bụng ta ra bụng người, có quan sát điềm trời để biết người biết ta, hầu rút kinh nghiệm cho tương quan tha nhân tốt đẹp, cuộc sống ý nghĩa hơn, đó là một nghệ thuật mỗi người cần trang bị ? Triết lý ở đời cho rằng: trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên. Muốn có một gia đình hạnh phúc người ta phải đầu tư, muốn có một tâm hồn thanh thản, người ta phải “gieo điều lành”. Muốn nghe nhìn và gặt hái quả ngọt trái thơm ở tương lai, ai cũng phải ý thức chung tay xây dựng một gia đình hiện tại ngay lúc này chan hoà tình yêu thương.
Được sinh ra làm người là vinh dự, một khởi đầu xuôi thuận rồi, tiếp đến: tự do, chọn lựa, ý chí quyết định, của mỗi người sẽ hình thành và góp phần làm nên một xã hội có tâm, có tầm hạnh phúc. Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học ; đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Thắc mắc mong được giải thích, được hiểu, khác với thắc mắc để bảo vệ cho lập trường sai lạc của mình: chết là hết ! Không hiểu đằng sau sự chết là gì, không biết sau khi từ giã cõi đời này, mỗi người sẽ ra sao, vẫn mãi là điều bí mật nơi vũ trụ vạn vật này. Quan trọng là người ta tin như thế nào về vấn đề chết và sống ? Đức Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho đám đông, cho chúng ta: “con cái đời này cưới vợ lấy chồng, nhưng những ai xét đáng được phúc là sống lại đời sau thì không lấy vợ lấy chồng nữa. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ sẽ ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, là con cái sự sống”.
Ngày hôm nay, không phải chỉ có người kitô hữu chúng ta chủ trương: ở hiền gặp lành, đại đa số các đấng bậc sinh thành đều ý thức phải sống lời răn dạy của tiền nhân: cha mẹ hiền lành để đức cho con. Ngày hôm nay, quan niệm: sống lành chết lành, bảo bệ môi trường, bảo vệ sự sống, bác ái từ thiện, các phần cơm miễn phí, tất cả mọi người giầu nghèo không phân biệt lương giáo, đang cùng chung tay xây dựng tình người theo lẽ sống: công bằng yêu thương. Cũng vì tình yêu, vì kinh nghiệm, và vì muốn chia sẻ để con cháu sống ý nghĩa ở hiện tại và hướng đến điều tốt đẹp trong tương lai. Các hiền nhân nói rằng: miệng ít nói tự nhiên ít hoạ, bụng dạ ít ăn, tự nhiên ít bệnh, trong lòng ít muốn, tự nhiên ít lo, thân mình ít sự, tự nhiên ít khổ. (Khổng Minh). Chắc không phải tự nhiên mà phái Xa-đốc tranh luận với Đức Giêsu về sự sống lại, cũng không phải do tình cờ mà Đức Giêsu trưng dẫn đoạn thánh kinh khi ông Môi-sê gọi “Thiên Chúa là Chúa của các tổ phụ: Abraham, Isa-ác, Gia-cóp, và Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.
Đức Giêsu không lý sự dài dòng với những ai tự mãn kiêu căng, Ngài vẫn muốn vắn gọn với tất cả những ai tin và theo Ngài: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”. Chính vì đang sống, nên hiện tại Thiên Chúa cho mỗi người được tự do để trở thành người tốt, tự do để học biết suy nghĩ đúng và hành động đẹp, tự do để đủ cảm nhận đằng sau sự chết ở trần gian không phải là chấm hết. Một cuộc sống an vui hạnh phúc, luôn khởi đi từ gia đình, một tâm hồn bình an là một tâm hồn được nuôi dạy, được học hỏi và ý thức sống quảng đại yêu thương. Muốn có tương lai tốt đẹp, thì hiện tại phải đầu tư, muốn: con hơn cha, nhà có phúc, là sự thực, bậc cha mẹ phải hy sinh, phải chịu vất vả, quan tâm giáo dục con cháu. Kinh nghiệm của tiền nhân để lại: người ta không gieo trồng tri thức khi còn trẻ, nó sẽ không cho ta bóng râm khi về già.
Một tương lai đẹp, một cuộc đời an vui hạnh phúc, cũng là một hiền tài đức độ đang góp phần sống động cho hiện tại và thế giới muôn phương. Vì tinh thần dân tộc, vì ơn gọi sống mãi trong tình yêu Thiên Chúa, người theo Đức Kitô không phải chỉ lưu danh hậu thế, cũng không chú trọng dưỡng nuôi linh hồn, loại bỏ thân xác hư hèn. Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa đến trần gian cứu độ vạn vật vũ trụ, cứu cả người tội lỗi thánh thiện, cứu cả thân xác hay chết của mỗi người. Một tâm hồn tốt lành thánh đức, phải là một một tâm hồn được thao luyện, phải là một tâm hồn được Đức Kitô biến đổi mỗi ngày một nên toàn vẹn xứng hợp tình yêu Chúa. Để có một tương lai tốt đẹp, để thấy quê hương sống động trong tình yêu thương, trong Nước Trời hạnh phúc, Thiên Chúa qua các bậc sinh thành vẫn đang nhắc nhớ con cháu: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Xin tình yêu Đức Kitô giúp mỗi người chúng con biết tự tin, vì chúng con chính là những phần tử sống động của Thiên Chúa, là Chúa sự sống hôm nay và mai sau. Amen.
Con người sinh ra để sống chứ không phải để chết! Thế nhưng, con người đang sống lại đang TN 32-C141
Con người sinh ra để sống chứ không phải để chết! Thế nhưng, con người đang sống lại đang tìm về cái chết, do chính ích kỷ, tư lợi. Sống mà không tin rằng sẽ sống đời đời, đó là cái sống phung phá chính mình và thiên nhiên. Sống cần biết rằng sự sống tiếp tục luôn mãi mới quý trọng sự sống đang có.
Chúa Giêsu mạc khải về sự sống muôn đời bất diệt là để mời gọi con người vào tham dự vào vinh phúc của Thiên Chúa.
Mở rộng tâm hồn để sống.
Con người được dựng nên với người khác, cho người khác và vì người khác, như vẫn thường nói: “Không ai là một ốc đảo”. Cũng thế, con người không chỉ sống cô độc giữa sa mạc mênh mông, con người được sống với thiên nhiên, với rừng xanh, với những thác nguồn, sông suối, thảo mộc và động vật các loại. Khi sáng tạo ban đầu Chúa đã đặt con người vào giữa thiên nhiên ấy để sống phong phú, dồi dào sinh lực.
Khi con người chiếm hữu, bắt đầu con người tự kết thúc đời mình bằng những ghen ghét, ăn thua, thù oán, giàu nghèo cách biệt xa thêm mãi. Với thiên nhiên, con người tham lam vơ vét tài nguyên, thoả mãn cá nhân. Càng thu vén cá nhân càng dẫn vào diệt vong, thiên nhiên cũng chết ngạt trong sự tham lam của con người. Con người vơ vét cho cá nhân, càng cảm thấy cuộc sống dường như vô nghĩa, cuộc sống khốn nạn nhiều hơn hạnh phúc, và từ ấy ru ngủ mình bằng những thú vui hoang dã, lấp đầy cuộc sống bằng những vật chất. Khi đánh mất linh hồn con người chỉ còn thể xác chết thối.
Con người tham lam chiếm hữu cũng đánh mất một niềm vui sống với người khác và với thiên nhiên. Đông Phương luôn ý thức hạnh phúc mỗi người gắn liền với hạnh phúc của toàn thể: Con người với nhau và với thiên nhiên. Khi con người cắt đứt với toàn thể, con người tự nhốt mình trong sự giam hãm của nhà tù ích kỷ, giết chết căn rễ sâu xa của con người xuất phát từ thần linh. Có thể thấy những triết thuyết đề cao vật chất đã giết chết tinh thần và tâm linh.
Sự Sống đời đời con người tìm kiếm
“Tôi sẽ luôn luôn đuổi xua khỏi tâm hồn mọi ác ý sâu xa và vun trồng cho tình yêu trong mình bừng nở, vì hiểu người đã ngự trị từ lâu trong sâu thẳm tim tôi.” (Lời Dâng, bài số 4, R. Tagore). Niềm vui cuộc sống chỉ tồn tại khi con người nhận ra sức sống thần linh đang cuốn hút con người đi tới. Một thế giới bất diệt không có trong thế giới vật chất này! Thế nên, khi đi tìm sự bất diệt trong cõi tạm này, con người thấy hụt hẫng: “Cộng niên tuế ước chừng bảy chục, khỏe lắm chăng cũng được bát tuần. Hầu trọn kiếp chỉ là lao đao khốn khó, vì năm tháng sầm sập qua đi và chúng tôi vụt mất!” (Tv 90 10).
Ngay cả trước cái chết, niềm vui sống vĩnh cửu xoá tan mọi lo âu, sợ hãi, hân hoan vui bước vào nơi an nghỉ. Trong tâm hồn người tình cuộc đời, thi sỹ của tình yêu đã thấy khung trời rộng mở: “Kính lạy người lần cuối, xin cho giác quan tôi trải rộng, tiếp xúc thế giới dưới chân người” (Lời Dâng, bài 103, R. Tagore)
Có lẽ thướng thấy hơn, khi con người tập chết đi trong cái tôi mỗi ngày, để sống yêu thương hơn, gắn bó hơn với cuộc sống. Niềm vui dấn thân đi tới, sống với anh chị em, sống cho anh chị em và vì anh chị em. Tính năng động của sự sống càng gia tăng, nghịch lại với cái tôi ích kỷ đang chết dần đi. “Thượng Đế, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó hay cúi đầu khuất phục ngạo mạn, đầy quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý người muốn.” (Lời Dâng, bài số 36, R. Tagore)
Xin Chúa Thánh Thần đốt cháy đi những cản trở của niềm vui sống trong Chúa, nơi cuộc đời chúng con!
Niềm vui bất tận ấy là tiếng gọi của thần linh, của Thiên Chúa: “Lòng nhiệt thành nhà Chúa thiêu đốt cuộc đời tôi” (Ga 2, 17). Vươn tới và vui sống mỗi ngày vì không chỉ sống cho mình mà còn cho anh chị em mình. Không chỉ sống thực tại trần thế mà còn sống vì thực tại Nước Trời. Không chỉ sống với Thiên Chúa mà còn được sống trong Thiên Chúa.
Thiên Chúa của sự sống chứ không phải là sự chết, trong lời loan báo đó, con người được mời gọi: “Tất cả mọi người đều đang sống” (Lc 20, 38).
Sống trong niềm vui và hân hoan trong Chúa Thánh Thần!
Gần cuối năm phụng vụ, chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu là sự sống lại, hướng TN 32-C142
Gần cuối năm phụng vụ, chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu là sự sống lại, hướng chúng ta tới cuộc sống mai sau. Đây là chủ đề được con người mọi thời quan tâm, cả những người Do Thái vào thời Chúa Giêsu và cả chúng ta hôm nay. Trong bài Tin Mừng, khi trả lời câu hỏi mà những người Xađốc đặt ra để gài bẫy Chúa Giêsu về người đàn bà có bảy người chồng. Trước hết Chúa Giêsu tái khẳng định rằng có sự sống lại ở đời sau, đồng thời Người điều chỉnh quan niệm méo mó duy vật và thực dụng của phái Xađốc về sự sống lại mai hậu.
Quả thế, hạnh phúc đời sau không phải là sự gia tăng niềm vui trần thế hay là kéo dài sự sống trần thế. Đời sống mai hậu là một đời sống hoàn toàn khác, có một phẩm chất khác như Chúa Giêsu quả quyết: “Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,35-36).
Ở cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giải thích lý do tại sao có sự sống lại sau khi chết khi nói rằng: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy Thiên Chúa của tổ phụ Ápbraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,37-38). Vậy đâu là nền tảng của sự sống lại? Nếu Thiên Chúa được định nghĩa là Thiên Chúa của Ápbraham, Ixaác và Giacóp và là Thiên Chúa của sự sống, chứ không phải của sự chết, thì điều này có nghĩa là các tổ phụ Ápbraham, Ixaác và Giacóp vẫn còn sống ở bên Thiên Chúa, dầu họ đã chết hàng thế kỷ rồi so với lúc mà Thiên Chúa nói với Môsê. Như thế, Thiên Chúa của sự sống là nền tảng cho niềm tin vào sự sống lại của con người. Người là Đấng hằng sống và Người không muốn con người phải chết, nhưng được sống mãi. Việc Thiên Chúa đã sai Con Một làm người, chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển để giải thoát con người khỏi chết và cho họ được sống mãi trong Thiên Chúa là bằng chứng hùng hồn cho sự sống lại mai sau.
2- Vấn nạn về hôn nhân sau khi chết
Một số người giải thích cách sai lầm câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Xađốc, nên đã quả quyết rằng: hôn nhân gia đình sẽ không còn tiếp tục ở trên thiên đàng. Nhưng trong câu trả lời này, Chúa Giêsu bác bỏ quan niệm méo mó mà những người Xađốc trình bày về đời sau, một quan niệm cho rằng thiên đàng đơn thuần là một sự tiếp tục tương quan vợ chồng ở trần gian. Đồng thời Chúa Giêsu mời gọi các đôi vợ chồng phải tái khám phá trong Thiên Chúa sợi dây đã liên kết họ khi ở trần gian.
Chúng ta thử đặt ra vài câu hỏi: phải chăng khi ở trần gian các đôi vợ chồng đã sống với nhau và suốt đời kính sợ Thiên Chúa, nhưng khi chết, những gì thuộc về hôn nhân của họ như tương quan vợ chồng, tình yêu và dây hôn phối… sẽ bị quên lãng hay biến mất để chỉ dành cho tình yêu Thiên Chúa mà thôi? Phải chăng có điều gì đó trái ngược với điều mà Chúa Giêsu đã nói rằng: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì loài người không được phân ly?” (Mt 19,6). Nếu Thiên Chúa đã liên kết họ ở trần gian, tại sao Người lại phân ly họ trên thiên đàng? Phải chăng toàn bộ cuộc sống hôn nhân này không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống của họ ở thiên đàng sao?
3- Định mệnh của sự vĩnh cửu
Chúng ta tìm thấy câu trả lời từ chính mạc khải Kinh Thánh về niềm hy vọng này. Đó cũng chính là ước vọng tự nhiên của các đôi vợ chồng. Kinh Thánh quả quyết rằng hôn nhân là “một bí tích,” bởi vì hôn nhân biểu tượng sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (Ep 5,32). Theo cái nhìn này, làm sao có thể hiểu được nếu hôn nhân sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn ở trên thiên đàng. Hôn nhân không hoàn toàn kết thúc với cái chết, tương quan và sợi dây hôn phối vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng nó được biến đổi, được “thần hóa” nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó, nó xóa bỏ những giới hạn, bất toàn của đời sống hôn nhân ở trần gian.
Một cách tương tự, mối tương quan giữa cha mẹ và con cái hoặc tương quan bạn bè cũng vẫn tiếp tục tồn tại mà không bị quên lãng. Trong lời Kinh Tiền Tụng của thánh lễ cầu hồn, phụng vụ nói rằng: “Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi.” Chúng ta có thể nói một cách tương tự như thế về hôn nhân, là một phần của đời sống, nó chỉ thay đổi, chứ không mất đi ở đời sau.
Đó là trường hợp của các cặp vợ chồng sống yêu thương và chung thủy với nhau trọn đời. Nhưng đối với trường hợp những người đã phải trải qua những kinh nghiệm bất đồng và đau khổ trong hôn nhân ở trần gian thì sao? Số phận của họ như thế nào? Phải chăng sợi dây hôn phối vẫn còn sẽ là một sự an ủi hay là lý do gây sợ hãi cho họ? Dựa vào giáo lý của Giáo Hội, chúng ta có thể trả lời rằng: trong thế giới của Thiên Chúa, sự dữ sẽ không còn tồn tại; những khiếm khuyết, sự thiếu thấu hiểu, cả những đau khổ đã làm họ tổn thương sẽ biến mất. Chỉ còn lại tình yêu và những gì tốt lành giữa họ tồn tại.
Các đôi vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực khi họ được tái kết hợp trong Thiên Chúa và nhờ đó, họ có niềm hạnh phúc và sự viên mãn của sự kết hợp mà họ đã có khi ở trần gian. Nhà thơ Goethe diễn tả điều này trong câu chuyện tình yêu giữa Faust và Margeret: “Chỉ trên thiên đàng, sự kết hợp và niềm hạnh phúc viên mãn giữa hai thụ tạo yêu nhau mới trở thành hiện thực. Đó là điều không thể tìm thấy ở trần gian.” Trong Thiên Chúa, tất cả sẽ hiểu nhau, sẽ được hòa giải và mọi người sẽ tha thứ cho nhau.
Còn đối với trường hợp những người đã kết hôn một cách hợp luật nhiều lần thì sao? Tương quan giữa họ thế nào? Đây chính là trường hợp mà nhóm Xađốc hỏi Chúa Giêsu về bảy anh em lấy cùng một người vợ khi sống (x. Mc 12,18-27). Khi chết ai là chồng của người đàn bà này? Ngay cả trường hợp này, chúng ta phải nhắc lại một điều tương tự: đó là tình yêu đích thực và sự hiến dâng giữa vợ chồng là một điều tốt lành đến từ Thiên Chúa, chúng sẽ không bị biến mất. Nhưng trên thiên đàng không có sự tranh dành, tranh đua và ghen tuông trong tình yêu vợ chồng. Chúng là những giới hạn thuộc bản năng của thụ tạo khi ở trần gian, chúng sẽ biến mất khi ở trên thiên đàng, sẽ được hoàn toàn biến đổi. Họ sống như các thiên thần, được kết hợp nên một với Thiên Chúa và với nhau. Họ sống tình yêu đích thực của Thiên Chúa, nên họ vẫn yêu thương và tôn trọng nhau trong “trời mới đất mới.”
Như thế, cuộc sống hôn nhân ở trần gian là sự chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Trong thế giới đó, ơn gọi và đời sống gia đình sẽ được viên mãn nhờ quyền năng và ân sủng Thiên Chúa. Vì thế, các đôi vợ chồng được mời gọi hãy sống yêu thương và trung tín với nhau khi ở trần gian, để cùng nhau hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Đó là lời hứa và phần thưởng cho những ai sống đời sống gia đình. Amen!
Trong cuộc sống, con người chúng ta ai cũng mong muốn cho mình có một điều gì đó mới mẻ TN 32-C143
Trong cuộc sống, con người chúng ta ai cũng mong muốn cho mình có một điều gì đó mới mẻ, giá trị và tồn tại mãi. Vì vậy mà có người cho rằng, tôi sẽ sống mãi, không bao giờ chết vì tôi có nhiều tiền, tôi có thể mua cả bệnh viện tốt nhất khi tôi bệnh, nhưng họ đâu biết rằng tiền của không mua được sức khỏe. Điều đó cho ta biết một sự thật, sự sống thể xác không hệ tại do quyết định của chính chúng ta, nhưng là nơi bàn tay uy quyền của Đấng tác tạo nên ta. Điều quan trọng là mỗi người đã và đang chuẩn bị gì cho sự sống mới trong tương lai của chúng ta, giống như trong lời bài hát “Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay” (N.S Hoàng Vân).
Tin mừng cho ta thấy rằng, sự sống đời này và đời sau không giống nhau “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng” (Lc 20, 34) còn “con cái đời sau giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa vì họ là con cái của sự sống lại” (Lc 20,36 ). Để được sự sống đời này hay để có sự sống đời sau là chính mỗi người chúng ta tự do quyết định và chọn lựa. Và để thực hiện những quyết định đó, chúng ta cần có ơn Chúa trợ giúp bởi vì chúng ta sinh ra đã là những con người yếu đuối mang thân phận tội lỗi. Có những lúc chúng ta nghĩ rằng ta có thể làm được việc này chuyện kia một cách tốt đẹp không cần ơn phù trợ. Và cũng có khi ta cho rằng mình đủ mạnh mẽ để vượt thắng những cạm bẫy thế gian, nhưng cuối cùng ta cũng bị bại trận vì “Ai tưởng mình đứng vững, coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12). Nhưng cho dù ta có yếu đuối vấp ngã thế nào, Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn và cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời, bằng chứng là Ngài đã cho con của Ngài xuống trần gian để “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19, 10).
hiên Chúa đã ban cho ta sự sống vĩnh cửu qua việc trao hiến thân mình Ngài cho ta, về phần chúng ta, ta cũng cần có chút gì đó để đền đáp ân tình mà Ngài đã tặng ban cho ta. Chúa không cần ta đáp lễ cho Ngài cách trọn vẹn, Ngài muốn thấy nơi ta lòng khao khát được sống trong Ngài bởi khi “Ngài tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta” (St. Augustine). Hơn nữa, vì Ngài là Đấng yêu thương, Ngài yêu thương hết mọi loài hiện hữu, không ghét bỏ bất cứ loài nào, vì nếu ghét loài nào thì Ngài đã chẳng dựng nên (x. Kn 11,24). Ngài muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc với Ngài. Để được sống hạnh phúc với Chúa, ta cũng hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Bởi thế, đã là Kitô hữu, là đã mang trong mình sứ mạng cao cả là sống, làm chứng cho tình yêu và sự sống của Thiên Chúa đang tồn tại nơi trần gian này, ta cần luôn cố gắng biểu lộ sự sống ấy nơi chính cuộc sống thường ngày của ta qua việc sống chứng tá Tin mừng, bởi ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy. Trách nhiệm của chúng ta phải là người sống Tin mừng trước hết, bởi qua chính cuộc sống của ta mọi người sẽ nhận ra tình yêu và sự sống của Chúa đang hiện hữu nơi trần gian này vì Nước Trời không “Ở đây này! hay “Ở kia kìa!, nhưng Nước Trời đang ở giữa các con” (x.Lc 17, 20 – 21). Và “Nước Trời cũng chẳng phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14, 17). Bởi chính những điều tốt đẹp ấy, mọi người sẽ tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện nơi trần gian này.
Lạy Chúa, con khao khát được sống và sống mãi trong tình yêu Chúa hứa ban. Tuy nhiên, có những lúc con cảm thấy mình yếu hèn và bất xứng để có thể lãnh nhận ơn trọng đại này. Xin Chúa giúp con luôn biết tận dụng những hoàn cảnh thuận lợi cũng như bất thuận lợi để huấn luyện bản thân mỗi ngày sống trọn vẹn hơn cho tình yêu Chúa, và mai sau con cũng xứng đáng hưởng hạnh phúc cùng Chúa. Amen.
Có những lúc, ta tưởng mình sẽ sống mãi trên mặt đất nến cứ mải mê với những gì chóng qua. Ta TN 32-C144
Có những lúc, ta tưởng mình sẽ sống mãi trên mặt đất nến cứ mải mê với những gì chóng qua. Ta quên mất rằng, kiếp sống này, ta chỉ là thân lữ khách. Quê hương của ta ở trên Trời, nơi có Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta. Người không ngừng mời gọi ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ giải thoát ta khỏi mọi thứ ràng buộc của tội lỗi và đưa ta vào hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.
Khi suy nghĩ về sự sống đời sau, ta cảm thấy thật băn khoăn. Lắng nghe Lời Chúa, lòng ta như được tháo cởi và tìm thấy niềm hy vọng và ánh sáng để bước đi. Hôm nay, khi nhóm Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để hỏi về việc bảy anh em lấy cùng một người vợ, vì cả bảy người đều đã chết đi mà không có con nối dõi, Người đã hé mở cho ta về sự sống đời sau. Đời này, người ta cưới vợ lấy chồng để truyền sinh, để cùng nhau xây dựng gia đình và xã hội. Đó là lẽ thường tình và là điều rất tốt đẹp. Những tương quan huyết thống ở đời này giúp con người gắn bó với nhau, cùng nhau sống hạnh phúc trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”. (Lc 20, 34-36). Cuộc sống đời này sẽ chuẩn bị cho ta bước vào cuộc sống đời sau. Ở đời này nếu ta sống theo thánh ý Thiên Chúa, ngày sau ta sẽ được Người cho hưởng sự sống muôn đời.
“Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống” (Lc 20, 38). Ta có thật sự đang sống không? Theo con người tự nhiên, ta vẫn đang sống từng ngày như bao người khác nhưng để sống thật sự thì ta phải sống sự sống mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta. Đó là luôn biết lắng nghe và sống Lời Chúa Giêsu đã dạy, và đây cũng chính là niềm tin sống động của ta. Khi chiêm ngắm gương sống của chính Chúa Giêsu, ta sẽ tìm ra con đường đi đến với Chúa Cha, vì chính Người đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Chính khi hết lòng sống theo gương Chúa Giêsu, ta sẽ được hưởng nếm hạnh phúc quê Trời ngay ở đời này,vì hạnh phúc mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta chính là được sống trong tình yêu với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Cuộc sống này luôn muốn lôi cuốn chúng con rời xa Chúa bằng những vẻ đẹp rực rỡ của nó. Có nhiều lúc, con bị phù hoa của đời này lôi cuốn, khi niềm vui chóng qua chẳng còn, con rơi vào nỗi buồn chán, cô đơn và thất vọng. Trong thảm trạng đó, xin Chúa chạm vào lòng con, nâng con lên và ban cho con niềm hy vọng. Xin cho con mỗi ngày luôn biết dành một khoảng lặng trong tâm hồn để tìm về với lòng mình, để gặp gỡ Chúa và nhận biết con được Chúa yêu thương, để con thật sự sống và sống dồi dào trong Chúa. Amen.
Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ đời sau thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Đó là TN 32-C145
Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ đời sau thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Đó là sự thật mà Chúa Giêsu đã khẳng định.
Cuộc sống ở thế gian, việc dựng vợ gả chồng là để duy trì dòng giống gia tộc. Đó cũng là một trong những ơn gọi Thiên Chúa muốn dành cho con người. Bí tích Hôn phối là dây liên kết giữa người nam và người nữ, giúp họ chu toàn trong tình yêu của mình. Từ tình yêu ấy làm nên mối liên hệ trong gia đình. Mối liên hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái và anh chị em với nhau là mối quan hệ thật chính đáng và quý giá nơi cuộc sống thế gian. Nhưng mối liên hệ này sẽ không còn nữa khi con người bước vào cuộc sống đời sau. Đúng hơn, là sau khi mỗi người chúng ta chết và sống lại thì sẽ không còn mối dây liên hệ theo máu huyết nữa. Có nhiều người đã không tin có sự sống đời sau và họ chỉ sống trong sự thỏa mãn ở đời này.
Trong Tin Mừng Luca, những người thuộc nhóm Xa Đốc chủ trương không có sự sống lại, họ đến hỏi Đức Giêsu về câu chuyện bảy anh em lấy chung một vợ nhưng không có con nối dõi và rồi người đàn bà ấy cũng chết. “Trong ngày kẻ chết sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?” (x. Lc 20, 29-33). Đức Giêsu biết rõ sự sống đời sau vì chính Ngài đã đến từ đó. Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn cưới vợ hay lấy chồng. Mọi người sẽ được sống ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, sống thân mật với Ngài.
Như vậy, việc cưới vợ gả chồng là việc ở đời này, nó chỉ tạm thời và sẽ chấm dứt sau khi chết. Mỗi người chúng ta được mời gọi để không bám víu hay dính chặt vào các mối liên hệ ở đời này mà phải vượt qua để đạt tới mối liên hệ siêu nhiên ngay từ đời này. Thật khó để chúng ta có thể thực hiện điều này vì chúng ta vẫn là con người yếu đuối, cần có chỗ cậy dựa. Chỗ dựa tuyệt vời mà chúng ta cần bám vào đó chính là Đức Giêsu. Chúng ta đừng quá phụ thuộc vào những mối liên hệ ở thế gian này, nhất là những mối liên hệ trái với ý Thiên Chúa, vì ý Thiên Chúa là muốn cho người vợ người chồng luôn sống chung thủy với nhau. Thật là có phúc cho những ai không thấy mà tin vào Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu! Chúng con dâng lên Chúa những mối liên hệ ở trần gian này. Xin cho chúng con sống đúng với ý Chúa và chu toàn sứ mạng Chúa trao, nhờ đó chúng con xứng đáng hơn trong ngày xét xử mà hưởng hạnh phúc đời sau.
LỜI CHÚA: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không lấy vợ cũng chẳng lấy chồng”. (Lc 20,34-35)
Giữa cuộc sống trần gian, khi đến tuổi trưởng thành thì người ta lấy vợ cưới chồng như một tất TN 32-C146
Giữa cuộc sống trần gian, khi đến tuổi trưởng thành thì người ta lấy vợ cưới chồng như một tất yếu. Đời sống hôn nhân được Thiên Chúa chúc lành và giữ gìn. Quy luật này nhằm mục đích phát triển sự sống, con cái. Những mối liên hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em là những mối liên hệ chính đáng trong cuộc sống trần gian. Nhưng vẫn có những trường hợp là ngoại lệ. Có những người vì những lí do khác nhau mà chọn cuộc sống độc thân. Đối với công giáo đặc biệt là Kitô Giáo, thì những vị linh mục, tu sĩ nam nữ, vì những lí tưởng của đời sống siêu nhiên mà chọn kết hiệp mật thiết với Chúa hơn là đời sống vợ chồng. Nhưng dù sống cuộc sống hôn nhân hay là ơn gọi tu trì thì tất cả mọi người đều hướng về Thiên Chúa là cùng đích. Thiên Chúa mới là điều quan trọng chứ không phải quà tặng hay con đường đến với Chúa quan trọng.
Vì những ai đáng hưởng sự sống đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn giữ những mối liên hệ ở trần gian nữa. Mà giờ đây mối liên hệ duy nhất của họ chính là Thiên Chúa – một mối liên hệ siêu nhiên, không phai nhạt hay biến đi mà được củng cố mỗi ngày để thắm thiết hơn, bền vững hơn. Mọi Kitô hữu được mời gọi để hướng tới mối liên hệ siêu nhiên ở đời sau, mà không bám víu hay dính chặt vào những mối liên hệ của trần gian ngay từ đời này. Vậy chúng ta phải luôn tỉnh thức và thay đổi cái nhìn cho phù hợp với niềm tin Kitô giáo. Can đảm từ bỏ tội lỗi và mọi điều xấu xa để bớt bất xứng với ơn cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa.
“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Thiên Chúa tất cả đều đang sống”. (Lc 20,38)
Thiên Chúa của tổ phụ Ap-ra-ham, I-xa-ac, Gia-cop vì các Ngài đã cùng sống với Thiên Chúa qua những điềm thiêng, sự tỏ mình của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho con người sự sống tự nhiên và sự sống siêu nhiên. Sự sống tự nhiên biến mất để nhường chỗ cho sự sống siêu nhiên khi con người chết đi và sống lại ở đời sau. Tuy nhiên, con người lại ham muốn sự sống tự nhiên hơn, bám dính vào cuộc sống ở đời này, làm những việc tội lỗi mà không chuẩn bị gì cho đời sau. Để cho con người cũng được sống như các Thiên Thần, Thiên Chúa chấp nhận sống trong xác phàm như con người và đã chịu chết để làm cho thân xác Đức Kitô sống lại và trở thành nguồn sống mới cho các tín hữu sống ở đời này. Như đã có lời khẳng định: “Tôi đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10)
Ý thức được sự lệ thuộc vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô, Thánh Phaolô đã nhắc nhở mọi Kitô hữu: “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5,15). Vì vậy, chúng ta phải sống và hướng về Thiên Chúa là sự sống đích thực và đời đời.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết tránh xa tội lỗi, những gì thuộc về thế gian để trở nên kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô là nguồn sống vĩnh hằng.
Không tin sự sống đời sau, Mắt nhìn thiển cận, nỗi đau quấy rầy. Tâm tư thắc mắc điều này, Vợ TN 32-C147
Không tin sự sống đời sau, Mắt nhìn thiển cận, nỗi đau quấy rầy. Tâm tư thắc mắc điều này, Vợ chồng kết hợp, tình say mặn nồng. Kết hôn gắn bó tương đồng, Thủy chung son sắt, đèo bồng xứng đôi. Sao mà chia cách đơn côi, Ngày sau sống lại, kết tôi với mình. Người anh cưới vợ gái trinh, Chẳng may bệnh chết, mối tình dở dang. Không con nối dõi gia cang, Người em kế tiếp, cưới nàng lập hôn. Tiếp theo năm chú đồng môn, Bảy người đều chết, mồ chôn mả dài. Không ai thừa tự quản cai, Ngày sau vợ chết, nhận ai là chồng. Chúa rằng sống lại đợi trông, Không còn cưới gả, vợ chồng lứa đôi. Đời sau sống mãi tinh khôi, Nhẹ nhàng thánh thoát, xứng ngôi thiên thần.
Qua hai ngàn năm, đã có hằng tỷ người cùng tuyên xưng một đức tin: Xác loài người ngày sau sẽ sống lại. Bài Phúc âm hôm nay mở lối cho chúng ta về sự sống ngày sau. Những người Sađucêô không tin có sự sống lại. Họ mượn cớ một câu truyện về một gia đình bảy anh em lần lượt cưới cùng một người vợ, sau cùng mọi người chết, vậy ai sẽ là chồng của cô ta. Họ dựa vào lý luận và cuộc sống trần thế để giải đáp về cuộc sống mai hậu. Chúa Giêsu cho chúng ta một câu trả lời xác đáng: Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng, họ sẽ không chết nữa, vì họ giống như thiên thần.
Trong lịch sử các tôn giáo trên thế giới, tôn giáo nào cũng cố gắng tìm giải đáp cho ước vọng sâu xa của con người về cuộc sống ngày sau. Có hai quan điểm chính từ Ấn Độ, Phật Giáo quan niệm cuộc sống như vòng tròn, xoay vần, như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và đi hết vòng này sang vòng khác. Vì thế họ tin vào thuyết luân hồi. Sống kiếp này chưa tốt, đầu thai vào kiếp khác, cho tới khi hoàn hảo sẽ được hưởng lạc trên Niết Bàn. Theo quan điểm Kitô Giáo là quan niệm cuộc đời theo đường thẳng. Mỗi người có khởi đầu và có chấm dứt. Sau khi mãn cuộc đời này sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Khi chết hồn và xác tách biệt. Xác tan rã và hồn bất tử chịu sự phán xét về việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn ở trần thế. Hồn xác sẽ sống lại vào ngày quang lâm.
Hồn và xác kết hợp làm nên một chủ thể. Phật giáo tin thuyết nhân qủa, gieo gió thì gặt bão, cây nào sinh trái đó và cây tốt sinh trái tốt. Nhìn qủa biết cây và làm tốt sẽ được thưởng. Đạo Công Giáo cũng một niềm tin, nếu chúng ta sống tốt thì sẽ được hưởng hạnh phúc. Làm dữ sẽ bị đoán phạt. Nên cuộc đời trần thế là một chặng đường chuẩn bị cho hạnh phúc mai sau.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, đó là hoa qủa đầu mùa của những kẻ đã yên giấc. Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, chúng ta là chi thể, đầu đi tới đâu thì thân thể cũng sẽ đi tới đó. Chúa Giêsu nói Ngài về cùng Chúa Cha và dọn chỗ cho chúng ta. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta tiến bước trong hy vọng.
Nhìn cảnh vật chung quanh, mùa Thu lá đổi mầu và rụng xuống, để cây trơ trụi, trải qua mùa Đông dài và mùa Xuân tới, cây cối sẽ lại trổ mầm sinh tươi. Chúng ta cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết mới đạt tới sự sống lại. Như hạt giống gieo xuống đất phải chịu mục nát mới có thể trổ sinh hoa trái. Chúa Giêsu đã nằm xuống qua cái chết, Chúa đã sống lại. Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian.
Lạy Chúa chúng con tin Chúa là sự sống và là sự sống lại. Chúng ta cùng tuyên xưng trong kinh tin kính: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Khả năng con người quá hạn hẹp khi phải khám phá sức sống của vật thể hữu hình. Nguồn sống vô TN 32-C148
Khả năng con người quá hạn hẹp khi phải khám phá sức sống của vật thể hữu hình. Nguồn sống vô tận này cung cấp sự sống cho con người, thanh tẩy bầu quí quyển, làm sạch nước đại dương và là nguồn cảm hứng của học hỏi, phỏng theo sáng chế dụng cụ cho con người. Càng ngày càng có nhiều khám phá mới về cuộc sống của vũ trụ. Nhân loại dường như không bao giờ khai thác, học hỏi, hiểu biết cặn kẽ về vật thể hữu hình quanh ta. Chỉ riêng những vấn đề như làm thế nào sống vui hơn, mạnh hơn, giảm bệnh tật và thọ hơn cũng đủ điên đầu các khoa học gia. Vấn đề đời sống hiện tại đã thế, nói đến vấn đề tâm linh, siêu hình còn phức tạp hơn gấp bội. Mọi tranh biện có hay không có sự sống sau cuộc sống này đều là những võ đoán, lí luận riêng của cá nhân. Khối óc con người vất vả phấn đấu đêm ngày mới hiểu được phần nào cách cấu kết, sinh hoạt về cuộc sống hữu hình đời này. Nói về cuộc sống vô hình, cuộc sống đời sau mọi kết luận có hay không có sự sống đời sau chắc chắn là vượt quá giới hạn của khối óc. Đây không phải là vấn đề mới mẻ. Vấn đề cuộc sống trường sinh dường như đồng hành với cuộc sống của nhân loại, còn nhân loại trên mặt đất vấn đề còn được đặt ra, bởi sống và suy luận luôn đồng hành. Con người muốn sống bất tử nhưng khi bàn về bất tử kẻ chấp nhận, người chối bỏ. Cái mâu thuẫn này không có kết thúc chung. Mỗi cá nhân tự chọn niềm tin riêng cho mình. Mọi cố gắng áp đặt niềm tin trên tập thể chỉ là tin cách giả tạo, bởi ai đo được niềm tin tiềm ẩn, sâu kín trong lòng. Dù tin hay không cũng không thể chối bỏ được cuộc sống tâm linh, thần bí trong trong đời. Lãnh tụ các thời đại ước mơ có những người con tài trí, nhưng ước mơ và hiện thực không song hành. Như thế con người đầu hàng trước thế giới thần linh.
Hai nhóm Pharisiêu và Biệt Phái dù bất đồng nhưng họ cấu kết với nhau triệt hạ Đức Kitô. Cả hai đều trọng Luật của Môisen nhưng vì chiến tranh, di dân, ảnh hưởng bởi văn hoá ngoại bang và chức tước bổng lộc nên mỗi nhóm đi theo một đường và cuối cùng chê trách nhau. Nhóm Pharisiêu tự hào về quyền dịch sách Ngũ Thư và tôn trọng truyền thống; nhóm Biệt Phái không chấp nhận truyền thống và chú trọng vào việc lãnh đạo Đền Thờ. Họ kết hợp với nhau vì Đức Kitô chỉ trích họ trong việc phụng thờ và coi luật lệ trọng hơn sự sống. Họ đến hỏi Ngài về sự sống lại. Nhóm Pharisiêu tin có sự sống lại, nhóm Biệt Phái tin chết là hết. Họ không hỏi để tìm hiểu mà hỏi tìm cớ giết Ngài. Đức Kitô vạch cho họ biết cái sai của họ.
Thứ nhất Ngài xác định rõ những ai sống theo đường lối Chúa sẽ được hưởng sự sống đời sau. Sự sống vĩnh cửu trong nước Chúa. Sẽ không còn chết, không còn đau khổ, tang thương.
Thứ hai, nhu cầu vật chất cần thiết cho sự sống của thân xác đời này và nhu cầu cuộc sống tâm linh hoàn toàn khác biệt.
Thứ ba, niềm vui của thân xác đến từ vật chất trần thế; niềm vui tâm linh đến từ tình yêu Chúa. Vì thế cuộc sống trần thế lập gia đình để hỗ trợ nhau, thoả mãn nhu cầu cuộc sống; cuộc sống tâm linh sống bằng tình yêu Chúa và họ không còn thiếu, thèm khát bất cứ điều chi nên không còn nhu cầu đòi hỏi. Tình yêu Chúa ban cho họ cuộc sống vui thoả, không còn thiếu thốn chi.
Thứ tư, Đức Kitô cũng cho họ biết họ sai lầm khi giảng giải Ngũ Thư. Câu chuyện Môisen trông thấy bụi gai cháy và có sự hiện diện của các Tổ Phụ: Abraham, Isaac và Jacob cho biết các Ngài đang sống hạnh phúc trong nước Chúa. Đối với thế giới họ đã chết, đã ra khỏi thế giới nhiều năm trước. Chuyện bụi gai cho biết họ không chết mà chính là từ bỏ thế giới vật chất để vào sống hạnh phúc trong thế giới siêu hình.
Tranh biện về cuộc sống trường sinh không có kết thúc. Còn con người còn có lí luận khác nhau và còn tranh biện. Đức Kitô là Đấng sống lại từ cõi chết. Ngài là Đấng duy nhất có tiếng nói chính đáng nhất trong vấn đề này. Từ chối lắng nghe tiếng của Ngài sẽ không còn tiếng nói nào chính xác hơn, đáng tin hơn bởi tất cả đều là sản phẩm của suy tưởng, lí luận. Thắng hay thua trong việc tranh biện đều không quan trọng. Điều quan trọng là tin vào món quà sự sống trường sinh Đức Kitô hứa ban. Quà này ban cho những ai yêu mến và tin vào Ngài. Nhìn vào giá trị món quà để định giá là cách trẻ em thực hiện. Chúng reo vui khi thích quà tặng, buồn ra mặt khi không thích. Người lớn không nhìn vào giá trị món quà mà nhìn vào tình yêu người tặng quà dành cho. Quà chỉ là biểu tượng của tình yêu. Kitô hữu đón nhận sự sống trường sinh với tất cả lòng yêu mến vì chúng ta không đáng hưởng tình yêu chan chứa của Thiên Chúa nhưng Ngài ban cho vì thế chúng ta đón nhận với tâm tình cảm tạ, khiêm nhường.
Rất có thể cuộc sống trường sinh, hạnh phúc, nhiều ít thế nào ra sao trong tương lai được đo lường bằng niềm tin hiện tại. Tin mãnh liệt sẽ sống tích cực, yêu mến Thiên Chúa và thương tha nhân sẽ hưởng tình yêu Chúa cách nồng nàn. Tin ít hơn, hời hợt hơn sẽ sống đời sống chứng nhân hời hợt hơn và cuộc sống trường sinh cũng nhạt màu. Tin rất ít sẽ đáp trả lại tình yêu Chúa cách lạnh nhạt vì thế sẽ không thể nào hưởng trọn tình yêu Chúa trong cuộc sống mới. Đời sống hiện tại chính là khung sườn, ảnh hưởng đến cuộc sống trường sinh bởi cuộc sống trường sinh là cuộc sống yêu thương. Thiếu yêu thương nơi trần thế sẽ chẳng thể nào hội nhập vào yêu thương cao cả trong nước Chúa.
Vào thời Đức Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Những người thuộc TN 32-C149
Vào thời Đức Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Những người thuộc nhóm Biệt phái tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại đời sau. Một số khác tin rằng: cuộc sống sau khi chết cũng ăn uống, dựng vợ gã chồng, buôn bán, vui chơi bình thường như cuộc sống dương gian. Còn riêng nhóm Sađốc là những người quí tộc Do Thái, phần đông gồm các tư tế giàu có, giữ những chức vụ cao nhất trong đạo Do thái. Họ lấy Ngũ Thư tức 5 cuốn sách đầu của bộ Cựu ước (St, Lv, Ds, Xh, Đnl) làm tiêu chuẩn độc nhất về đạo lý, mà những sách này không nói rõ ràng về sự sống lại, cho nên đối với họ, linh hồn và thể xác chết là hết, và như vậy họ không tin có sự sống lại ở đời sau.
Chính vì thế, họ đặt vấn nạn với Đức Giêsu qua câu chuyện: người em phải lấy chị dâu để có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp có 7 anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà. Vậy sau khi sống lại người đàn bà ấy là vợ của ai?(Lc 20, 33).
Dựa vào nền tảng Thánh kinh, chúng ta chứng minh tin có sự sống lại ở đời sau.
Thứ nhất, chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa. Trong Tin mừng, Đức Giêsu nhiều lần đề cập đến việc tuyển chọn này. Chẳng hạn như dụ ngôn nói về ngày phán xét, Chúa tách chiên ra khỏi dê. Chiên tượng trưng cho người sống ăn ngay ở lành, còn dê tượng trưng cho những người làm điều gian ác (Mt 25, 31-46).
Dụ ngôn cỏ lùng, cỏ lùng bị gom lại bó thành bó và đem đốt đi, còn lúa thì thu lại đem vào kho lẫm (Mt 13, 24-30). Dụ ngôn chiếc lưới, cá tốt thì giữ lại, cá xấu thì bỏ đi (Mt 13, 47-50).
Dụ ngôn người phú hộ và người hành khất Lazarô. Người phú hộ rơi xuống biển lửa, còn Lazarô thì được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Abraham (Lc 16, 19-31).
Thứ hai, thánh Phaolô nói rằng: “Tất cả chúng ta sẽ không chết, nhưng sẽ được biến đổi trong giây lát, trong nháy mắt….vì chưng, cái thân xác hay hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự trường sinh bất tử” (1 Cor 15, 51-53).
Như vậy, chết không phải là hết, nhưng là bước vào đời sống mới. Lúc bấy giờ con người sẽ sống giống như các thiên thần, nên không còn ăn uống. Vì người ta không chết nữa, cũng không còn cưới vợ lấy chồng, chẳng còn sinh sản con cái để nối dõi tông đường.
Cuối cùng, ngày lãnh Bí tích rửa tội, chúng ta được tái sinh làm con Chúa, được gọi Chúa là Cha, sau này được đồng thừa tự với Đức Kitô, được tham dự vào sự sống của Chúa Ba ngôi. Nếu ngay ở đời này, chúng ta ăn ngay ở lành, lập công tích đức, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, thì sau khi chết sẽ được Chúa ân thưởng vào Nước trời. Vì Đức Giêsu đã hứa: “Những người làm điều thiện sẽ phục sinh để được sống, còn những người làm điều ác sẽ sống lại để chịu án phạt” (Ga. 5,19).
Anh chị em thân mến,
Việc Đức Kitô phục sinh là b ằng chứng hiển nhiên có sự sống lại đời sau, và đó cũng là nền tảng đức tin Kitô giáo.
Vì như lời thánh Phaolô khẳng định:
“Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hảo huyền, và lời rao giảng của chúng tôi cũng trở nên vô ích…(1Cor 15,14”.
Thật vậy, nếu không có sự sống lại đời sau, thì các thánh tử đạo không điên dại gì mà phải đổ máu mình ra. Nếu không có sự sống lại đời sau, thì các nhà truyền giáo không điên cuồng gì mà phải từ bỏ quê hương xứ sở để ra đi loan báo Tin mừng. Nếu không tin có sự thưởng phạt ở đời sau, thì chúng ta chẳng cần phải nỗ lực sống đạo hay lập công tích đức để làm gì.
Hơn nữa, chỉ vì tin có sự sống lại ở đời sau mà Giáo hội mời gọi các tín hữu sống mầu nhiệm các thánh cùng thông công, là cầu khấn cùng các thánh trên trời, cầu hồn xin lễ cho các linh hồn trong luyện tội. Một lần nữa, để xác tín niềm tin có sự sống lại ở đời sau, kính mời tất cả cộng đoàn cùng đứng lên tuyên xưng đức tin. Amen.
Niềm tin vào sự Phục sinh thân xác là điều mới mẻ và được lần hồi tin tưởng và khẳng định trong TN 32-C150
Niềm tin vào sự Phục sinh thân xác là điều mới mẻ và được lần hồi tin tưởng và khẳng định trong lịch sử dân Israel, nhất là vào giai đoạn muộn thời của thế kỷ II vào những năm 165 trước Chúa giáng sinh, trong cuộc chiến của anh em nhà Macabê chống lại những cuộc xâm lăng của nhà vua Hy lạp Antiôkhô Êpiphane. Bận tâm của những người do thái là Đền thờ và Lề luật, họ luôn nhắc nhở mọi người trung thành với Đền thờ và Lề luật là những yếu tố cốt lõi của đời sống tôn giáo của dân tộc của họ. Cuộc chiến đấu của anh em nhà Macabê là một cuộc chiến tranh dành độc lập cho dân tộc chống lại những người Hy lạp đến làm ô uế đền thờ và thay đổi phong tục thiêng liêng của người do thái. Họ quan niệm rằng cuộc chiến của họ vì đức tin và vì lề luật sẽ là hoàn cảnh giúp cho dân Chúa được ý thức nhiều hơn về lòng trung tín của mình đối với Thiên Chúa là Đấng trung tín, luôn có sự sống sung mãn sẽ ban tặng lại sự sống đời đời cho những ai tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa qua việc trung tín với lề luật và dám hy sinh mạng sống mình. Câu chuyện trích đoạn hôm nay nhắc lại cái chết tử đạo cao cả đẩm máu của người mẹ và bảy con trai của bà. Tất cả họ đều can đảm tuyên xưng niềm tin và lòng trung tín đối với lề luật chống lại quân vô đạo, bắt ép họ bỏ lề luật cha ông bằng cái chết của mình. Họ thà chết chứ không chấp nhận vâng theo lệnh vua mà từ bỏ lề luật. Họ đều tuyên xưng rằng dù có chết, nhưng Thiên Chúa là Đấng hằng sống sẽ ban lại cho họ sự sống đời sau bất diệt cao quí hơn nhiều sự sống đời này.
Vào thời Chúa Giêsu, những người thuộc phái Sađuxê là những người rất bảo thủ. Họ luôn bám vào sách Ngũ thư, vẫn được gọi là sách Luật, để từ chối niềm tin vào sự sống lại đã được hình thành lần hồi qua trào lưu các tiên tri, nhất là vào thời cuộc chiến tranh của nhà Macabê vào khoảng những năm 165 trước Chúa giáng sinh. Những người Sađuxê biết rằng Chúa Giêsu, những người Pharisiêu và phần đông dân chúng tin vào sự phục sinh nên họ đặt ra một tình huống nan giải để chứng minh không thể có sự phục sinh. Có bảy anh em lần lượt cùng cưới một người đàn bà làm vợ, vậy nếu có sự sống lại thì bà sẽ là vợ của ai. Theo luật levirat vốn đã lỗi thời lúc đó, cho phép người em có thể cưới chị dâu khi người anh ruột qua đời mà không có con. Người con đầu lòng mà người chị dâu này sinh ra sẽ mang tên người anh đã quá cố và sẽ được xem như là con của người anh theo luật pháp. Theo quan niệm bình dân lúc bấy giờ, người ta vốn tin rằng những người chết sẽ sống lại vài giai đoạn trước thời kỳ của Đấng cứu thế, diễn ra trước phán xét chung. Những người chết sống lại sẽ sống một cuộc đời tiếp nối cuộc đời trần thế này, và họ sẽ tham dự vào cuộc phán xét chung.
Chúa Giêsu giải thích chống lại những lối hiểu chật hẹp này, người điều chỉnh lại quan niệm này. Sự sống lại không phải chỉ là tiếp nối sự sống trần thế. Đây sẽ là sự sống giống như của các thiên thần, người ta sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Đây sẽ là một sự tạo dựng mới, một sự biến đổi tận căn triệt để, được tham dự vào ánh sáng mới huy hoàng của Thiên Chúa, được tham dự vào vinh quang chói lòa, được gọi là con Thiên Chúa, và sự sống này chỉ dành cho những người công chính là những người được xét xứng đáng tham dự vào vinh quang đời đời, trong khi đó những người tội lỗi thì không được tham dự vào sự sống này, nhưng họ sẽ phải bị chết tủi nhục muôn đời. Chúa Giêsu nhắc lại câu chuyện hiện ra với Môisen trong bụi gai bốc cháy: Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp. Tương quan mà người ta có được với Thiên Chúa là một tương quan bền vững, không hề bị gián đoạn và Thiên Chúa luôn là Đấng thành tín với giao ước mà người đã thiết lập. Sự chết không làm đổ vỡ giao ước của Thiên Chúa với những người mà Thiên Chúa yêu thương và hằng đặt lòng tin tưởng cậy trông vào người.
Mầu nhiệm phục sinh thân xác là điều mới mẻ mà Chúa Giêsu chỉ mới hé lộ phần nào. Người ta dễ có quan niệm hoặc là phủ nhận như người Sađuxêô, hoặc quan niệm đó sẽ là một sự tiếp nối của đời sống trần gian, với đời sống phái tính, vợ chồng và sinh con đẻ cái. Thật ra, khi khẳng định có sự sống lại, Chúa Giêsu không bảo đảm rằng những gì mà chúng ta đã xây dựng, đã có trên trần gian này sẽ được bảo đảm mãi mãi ở đời sống mai sau. Rồi thì chúng ta sẽ quay trở lại cuộc sống xinh đẹp khoẻ mạnh giống như chúng ta đang sống, gặp gỡ lại những người thân quen đầy đủ không thiếu một ai và sự sống lại chỉ đơn giản là hành động của Thiên Chúa bảo đảm cho mọi sự lại tiếp nối và những gì mà chúng ta đã biết như hiện nay vẫn cứ tiếp tục mãi như thế. Điều Chúa Giêsu hé mở phần nào cho chúng ta, đó là sự sống lại là một thế giới mới, hoàn toàn khác với những gì chúng ta hình dung.
Chúng ta không cần phải có con cái để tiếp tục duy trì nòi giống, nhưng chúng ta sẽ cảm nghiệm sự sống chân thật vĩnh cửu đầy vinh quang của Thiên Chúa, khi đó những tương quan giữa con người không còn chỉ là những tương quan thân xác như chúng ta vốn có trong đời sống con người mà sẽ là những tương quan tinh thần như là tương quan giữa các thiên thần. Nói chung, chúng ta được mời gọi chuẩn bị cho một thế giới mới, hoàn toàn khác với thế giới chúng ta đang sống. Sâu xa hơn nữa, chúng ta được mời gọi đón nhận và trải nghiệm điều này, đó là sự sống mới này bắt đầu từ bây giờ, trong đời sống hiện tại từ khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội là đã bắt đầu đi vào tương quan với Chúa Giêsu, được đón nhận sự sống mới thần linh, và được không ngừng nuôi dưỡng trong đời sống này ngay từ cuộc đời hiện tại như chút men người đàn bà đã trộn vào đấu bột, như hạt cải bé nhỏ không ngừng lớn lên để trở thành một cây lớn mà chim trời đến đậu.
Khẳng định mầu nhiệm Phục sinh dẫn chúng ta đến việc suy nghĩ về việc Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai. Việc Chúa trở lại không phải để làm cho chúng ta lo sợ mà để chuẩn bị chúng ta. Người đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết, sự phán xét này sẽ xác định xem chúng ta có được phúc tham dự sự sống đời đời hay phải chịu tủi nhục muôn đời. Phúc cho chúng ta đó là được nhắc nhở để rồi biết chuẩn bị xứng đáng và những chọn lựa trong đời sống hằng ngày mà chúng ta bắt đầu thực hiện sẽ quyết định cho sự phán xét sau này khi Chúa trở lại.