Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 32-C Bài 151-184 Thiên Chúa của kẻ sống
-----------------------------------------------------
Phúc Âm: Lc 20, 27-38: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ".
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa". - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------------------------
TN 32-C151: XÁC TÍN CÓ ĐỜI SAU.. 2
TN 32-C152: LẰN RANH.. 4
TN 32-C153: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 32 TN_C.. 9
TN 32-C154: BÊN KIA SỰ CHẾT.. 13
TN 32-C155: CÕI SỐNG.. 14
TN 32-C156: GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG.. 19
TN 32-C157: TIN ĐỂ SỐNG.. 22
TN 32-C158: HỌ LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA.. 25
TN 32-C159: NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG.. 26
TN 32-C160: TIN VÀO SỰ SỐNG ĐỜI SAU.. 27
TN 32-C161: ĐỜI NÀY VÀ ĐỜI SAU.. 30
TN 32-C162: TẤT CẢ ĐỀU ĐANG SỐNG.. 32
TN 32-C163: SỰ SỐNG ĐỜI SAU.. 33
TN 32-C164: TIN SỰ SỐNG LẠI 35
TN 32-C165: CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_C.. 36
TN 32-C166: TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI 39
TN 32-C167: Bên kia sự chết 40
TN 32-C168: Cuộc sống mai sau. 42
TN 32-C169: Kẻ chết sống lại và sự sống đời đời 44
TN 32-C170: Vấn đề kẻ chết sống lại 48
TN 32-C171: Tin vào sự sống đời sau. 50
TN 32-C172: Diễn từ về Giêrusalem đổ nát 53
TN 32-C173: Chú giải của Fiches Dominicales. 59
TN 32-C174: Suy niệm của Lm Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang. 63
TN 32-C175: Họ là con cái Thiên Chúa, con cái Sự Sống Lại 67
TN 32-C176: MỤC ĐÍCH CUỘC ĐỜI 69
TN 32-C177: TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI 71
TN 32-C178: VẤN ĐỀ HÓC BÚA.. 74
TN 32-C179: CHUẨN BỊ CHO ĐỜI SAU.. 79
TN 32-C180: TẤT CẢ ĐANG SỐNG. 81
TN 32-C181: XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI 84
TN 32-C182: VINH DANH NHÀ MACABÊ.. 87
TN 32-C183: “ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA, TẤT CẢ ĐỀU ĐANG SỐNG”. 93
TN 32-C184: CUỘC SỐNG SAU CÁI CHẾT.. 97
---------------------------------------
PM.Cao Huy Hoàng
Câu chuyện của người Mẹ và 7 bảy anh em trong sách 2 Macabe 7,1-2.9-14 đã gửi đến cho chúng TN 32-C151
Câu chuyện của người Mẹ và 7 bảy anh em trong sách 2 Macabe 7,1-2.9-14 đã gửi đến cho chúng ta những xác tín về sự sống lại, về đời sau. Niềm xác tín ấy được soi sáng bởi Thánh Linh và cũng chính niềm xác tín quan trọng ấy đã giữ họ trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa, qua truyền dạy của Moise: Không ăn thịt heo. Không phải họ không quí trọng thân xác, nhưng họ được linh hứng cho biết thân xác nầy được Chúa ban cho và dù có mất đi dưới tay người phàm họ cũng sẽ lấy lại được. Họ “sẵn sàng thà chết hơn là vi phạm luật của cha ông” (c.2). Họ xác tín “Vua Vũ Trụ sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (c.9). Đối với họ , sự sống và tất cả những gì thuộc về sự sống ở đời nầy đều là của Chúa ban, và dù có mất đi, họ vẫn đặt hy vọng nhờ Thiên Chúa họ sẽ lấy lại được (c.11). Họ thà chết trong khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại (c.14).
Điểm ưu việt của đoạn sách nầy là : niềm xác tín Phục sinh vào thời kỳ Tin Mừng và Tin Mừng Phục sinh chưa xuất hiện. Một cõi sống ở đời sau có thể nói là còn mơ hồ trong tâm tưởng loài người, thì bảy anh em đã tuyên tín về sự sống lại trước mặt vua chúa quan quyền thế gian. Dấu ấn mạc khải do Thánh Linh thật rõ nét và sống động đến nỗi người đời sau, những người đã tiếp nhận ánh sáng Tin mừng Chúa Giêsu và Tin Mừng Phục Sinh của Ngài, phải ngẫm nghĩ mà tự hổ thẹn về cách đón nhận và cách tuyên xưng niềm tin của mình.
Đức tin không lý luận
Không chỉ các người thuộc nhóm Sađốc, thời Chúa Giêsu, mà cả loài người, cả chúng ta nữa, cho đến hôm nay vẫn thích dùng cái lý trí nhỏ bé của mình mà suy luận về những mầu nhiệm cao siêu thuộc về Thiên Chúa, trong đó có Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô và sự sống lại của thân xác chúng ta. Từ cái suy luận duy lý trí nảy sinh những ảo tưởng về một thực tại thuộc phạm vi Đức Tin. “ Vậy, trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy anh em đều lấy nàng làm vợ”.(Lc 20,33). Một suy luận hoàn toàn con người thì còn gì là mầu nhiệm.
Câu tuyên tín “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại” bắt đầu bằng hai từ “Tôi tin”, cho thấy rằng lý trí của tôi không nhất thiết phải tham gia gì thêm nữa. Không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là sự hy sinh của lý trí một cách chính đáng, để niềm tin của tôi không bị chao đảo lung lay hay thay đổi, vì với lòng khiêm tốn, tôi biết lý trí của tôi không thể làm điều vượt qua khả năng của lý trí.
Cơn cám dỗ về đức tin là một cơn cám dỗ nguy hiểm nhất, do bởi thần kiêu ngạo dữ tợn nhất, luôn thúc bách lý trí ta lý luận không phải để chấp thuận, mà tìm mọi cách để từ chối, phản bác.
Nhóm Sađốc đã bị sập bẫy của Satan khi dùng những lý luận để bảo thủ cho mình cái chủ trương không có sự sống lại, không có đời sau. Những lý luận chỉ dựa trên những gì có thể thấy được, có thể sờ đụng, có thể trải nghiệm thực tiễn. Họ hiểu sự sống lại và đoàn viên trong Nước Thiên Chúa như là một thế giới khác với thế giới hôm nay, nhưng giống y như thế giới hôm nay về mọi sinh hoạt con người.
Chúa Giêsu nói: “Con cái đời nầy cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,34-36)
Tôi nghĩ lời giải thích của Chúa Giêsu là một định tín. Chỉ có Đức Tin mới thấu đạt được, chứ không dễ chấp nhận theo lý luận con người. Không thể lấy một thực tại hữu hình, mà so sánh mới một thực tại vô hình; không thể lấy một sự đã trải nghiệm thực tiến đem so sánh với sự chưa trải nghiệm, mà sự chưa trải nghiệm ấy lại thuộc về tương lai của mỗi người, của nhân loại.
Con đường dẫn đến cái chết để phục sinh
Người tín hữu hôm nay có một ưu thế hơn anh em nhà Macabê vì nền tảng niềm tin “xác loài người sẽ sống lại” được đặt vào “sự phục sinh của Chúa Giêsu”.
Chính vì tôi tin Chúa Giêsu Phục Sinh mà tôi cũng tin tôi sẽ được sống lại với người. Tôi không nhất thiết phải dùng lý trí con người, suy luận, tưởng tượng hay hình dung sự sống lại ấy thế nào, sinh hoạt như thế nào. Tôi chỉ cần biết một điều là để được Phục sinh với Chúa Giêsu, để sống lại như Ngài, tôi phải đi theo con đường của Ngài: “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”. Vì nếu không đi theo con đường của Ngài, tôi sẽ lao vào “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh”.
Vậy con đường của Chúa Giêsu là con đường khiêm hạ, con đường từ bỏ, con đường yêu thương phục vụ cho đến chết. Có thể tôi chưa thấy một người bằng xương bằng thịt phục sinh trở về để tôi hỏi người ấy về sinh hoạt của thế giới bên kia, nhưng tôi có thể thấy chung quanh tôi có những người sống trọn vẹn cho Thiên Chúa theo đường hướng của Chúa Giêsu khi họ từ bỏ tất cả cho vinh danh Chúa. Họ có thể chia sẻ cho tôi những cảm nghiệm về sự sống đời sau mà họ đang có ngay ở đời nầy. Vâng chính họ đang sống trước mầu nhiệm phục sinh ngay ở dương gian nầy khi họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và theo ý định của Ngài qua việc kết hiệp với Chúa Giêsu và đi theo con đường Chúa Giêsu đã vạch ra, “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.
Lời Chúa hôm nay cho tôi thêm một cơ hội xác tín điều tôi vẫn tuyên xưng: “tôi tin xác loài người sẽ sống lại”, “ tôi tin một cuộc sống đời đời” và còn là cơ hội nhắc nhớ tôi không những phải hy sinh cái lý trí nhỏ bé của mình mà còn phải biết tránh “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh” để đi vào con đường của Chúa Giêsu, con đường từ bỏ, hy sinh, yêu thương, phục vụ… “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.
Lạy Chúa, xin cho con yêu mến và tín thác hoàn toàn vào Chúa, xin cho con khát khao sống sự sống của Chúa, để không còn phải thắc mắc nào khác hơn là con luôn tự hỏi: “ Tôi có từ bỏ mọi sự để hoàn toàn thuộc về Chúa khi còn ở dương gian này hay chưa?”.
---------------------------------------
Trầm Thiên Thu
Lằn ranh là biên độ phân định giữa cái này và cái kia, nơi đây và nơi đó, không chỉ có nghĩa đen TN 32-C152
Lằn ranh là biên độ phân định giữa cái này và cái kia, nơi đây và nơi đó, không chỉ có nghĩa đen mà có cả nghĩa bóng, và có thể mang nghĩa tốt hoặc xấu. Giữa thiện và ác cũng có lằn ranh rõ ràng, đặc biệt nhất là lằn ranh giữa Thiên Đàng và Hỏa Ngục.
Người ta dùng thuật ngữ “Lằn Ranh Đỏ” để chỉ một giới hạn, một ranh giới vô hình được vạch ra, nhằm cảnh báo không được phép vượt qua vì có nguy cơ bị trừng phạt hoặc chịu hậu quả bất lợi. Cụm từ này có nguồn gốc từ tiếng Anh (Red Line), và bắt nguồn sâu xa từ tiếng Do Thái (קו אדום, Kav Adom). Danh từ này được đề cập trong một bài báo có tựa đề là “Lằn Ranh Đỏ Mong Manh”.
Một số quốc gia cũng đặt ra “lằn ranh đỏ” với các nước khác, đặc biệt là đối với các nước hiếu chiến, nguy hiểm. Ngày nay, hầu như các quốc gia trên thế giới đều đặt ra “lằn ranh đỏ” đối với Trung quốc, bởi vì người ta nhận thấy nước này như loại virus tiềm ẩn nhiều nguy cơ độc hại về nhiều lĩnh vực. Khi biết cái xấu mà cứ lao đầu vào thì chính mình là kẻ ngu xuẩn. Tiền nhân nói nhẹ mà thấm thía: “Chọn bạn mà chơi.”
Các tôn giáo cũng có những “lằn ranh” khác nhau. Công giáo khác hẳn với các tôn giáo khác là tin có sự sống lại và sự trường sinh bất tử. Đó không chỉ là niềm tin mà còn là sự thật minh nhiên, bằng chứng là Chúa Giêsu đã bị người ta giết chết, thế nhưng Ngài đã chiến thắng tử thần và phục sinh vinh hiển. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Hằng Sinh, đúng như Chúa Giêsu minh định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” (Ga 14:6) Có điều đặc biệt là những ai tin Ngài thì Ngài cũng cho sống lại trong ngày sau hết, nhưng đây KHÔNG là tình trạng mà người ta gọi là kiếp luân hồi – nghĩa là không có kiếp luân hồi.
Với người vô thần thì chết là hết, nhưng với người có niềm tin vào Đức Kitô thì chết là ngưỡng để vào cõi vĩnh hằng – là hóa kiếp, là biến đổi, sống chứ không chết. Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” CHẾT mà lại là SỐNG. Những người không có niềm tin không thể tin nổi, bởi vì thông thường thì ai cũng tham sanh và úy tử, thậm chí còn biến thành hèn nhát, chứ mấy ai dám liều mạng. Thế nhưng cái nghịch-lý-thuận “chết là sống” kia chỉ có trong niềm tin Kitô giáo, mà là thật chứ không mơ hồ hoặc ảo tưởng. Và điều này được minh chứng sống động qua các vị tử đạo, cả xưa và nay, thời nào cũng có.
Từ xa xưa, Kinh Thánh cho biết sự kiện về một người mẹ bị bắt cùng với bảy người con trai. Sau đó, vua An-ti-ô-khô truyền đánh họ bằng roi và gân bò để bắt họ ăn thịt heo – loại thịt cấm ăn theo luật Môsê. Nhưng một người lên tiếng thay mặt các anh em: “Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng THÀ CHẾT chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi.” (2 Mcb 7:1-2) Rất can đảm, ngoan cường. Thật xứng danh tín nhân!
Anh vẫn hiên ngang và dõng dạc nói trước khi chết: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.” (2 Mcb 7:9) Lại một lần nữa chứng tỏ chí khí nam nhi, minh chứng niềm tin kiên cường, không sợ thế lực trần gian. Rất đáng khâm phục. Đúng như Kinh Thánh xác định: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:9)
Người này chết, đến lượt người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu, anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được.” (2 Mcb 7:11) Quá đỗi kỳ lạ, đến nỗi nhà vua và quần thần đều phải sửng sốt vì lòng can đảm của một người trẻ mà dám coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. (2 Mcb 7:12)
Đến lượt người thứ tư cũng bị tra tấn như vậy. Khi sắp tắt thở, anh xác định: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu.” (2 Mcb 7:14) Và rồi tất cả bảy mẹ con đều có mẫu số chung: Can đảm chết vì đức tin. Chết là sự giải thoát và là mối lợi đối với họ. Cuối cùng, chính sự chết là “thù địch cuối cùng bị tiêu diệt.” (1 Cr 15:26) Đó là điều minh nhiên. Hại được người thì cười ha hả, rồi luật nhân quả sẽ tỏ tường.
Đối với người đời, những người-tin-vào-Đức-Kitô là đối thủ, bị coi là “kẻ thù không đội trời chung.” Kể cũng lạ, sống tốt, làm thiện mà lại bị ghét. Tại sao? Vì đối lập với ma quỷ. Tuy nhiên, mặc dù bị bách hại đủ cách, cá nhân hoặc tập thể, các tín nhân vẫn không kiếp nhược, không chịu khuất phục, luôn kiên tâm tin tưởng cầu nguyện liên lỉ, một mực yêu mến Sự Thật và Công Lý của Thiên Chúa mà thôi: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.” (Tv 17:1) Tín nhân đích thực là thế, đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu.” (Rm 8:39)
Ác nhân càng ngày càng gia tăng bách hại các tín nhân khắp nơi, nhưng càng bị bách hại, các tín nhân vẫn tín trung với Thiên Chúa, vì họ chân nhận rằng chỉ có Ngài là cùng đích và cứu cánh: “Con dõi vết chân Ngài, con không vấp ngã. Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.” (Tv 17:5-6) Chúa chưa ra tay giải thoát ngay, không phải Ngài muốn thử lòng, mà Ngài thấy chưa thực sự cần thiết, và Ngài biết họ là những môn đệ chân chính của Ngài. Chắc chắn rồi Ngài sẽ ra tay cứu độ, Hỏa Ngục còn chưa làm gì được thì đáng gì những kẻ bách hại Giáo Hội của Ngài.
Vững lòng trung tín, các tín nhân tha thiết van xin Thiên Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở.” (Tv 17:8) Lời cầu nguyện đầy ắp niềm tín thác, ngay cả trong những lúc quẫn bách nhất. Họ biết mình thế nào nên không hề run sợ, không hề nhát đảm, chỉ muốn bảo vệ Chân Lý của Thiên Chúa Hằng Sinh: “Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc, được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.” (Tv 17:15) Ánh Đức Tin sáng ngời, thật tuyệt vời!
Thời Cựu Ước, khi vua Khít-ki-gia lâm trọng bệnh, ông chân thành xác tín và cầu xin: “Lạy Chúa, ngày tháng đời con là của Chúa, sự sống linh hồn con thuộc về Ngài. Xin chữa lành và cho con được sống.” (Is 38:16) Ông đã được Thiên Chúa nhậm lời, cho ông được bình an, tha tội cho ông và cứu ông khỏi hố diệt vong. (Is 38:17)
Ngày xưa, Thánh Phaolô cũng đã từng tha thiết cầu chúc các Kitô hữu: “Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.” (2 Tx 2:16-17) Làm và nói luôn phải đi đôi, không thể nói suông mà không làm, có thể không cần nói nhưng phải làm. Đó mới là người luôn đứng thẳng, nhìn thẳng, và trực ngôn với bất kỳ kẻ thù nào, dù địch thù rất nham hiểm và tàn ác. Cây ngay chẳng sợ chết đứng.
Điều mong ước của Thánh Phaolô rất thực tế: “Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô.” (2 Tx 3:5) Với tình yêu, người ta có thể vượt qua mọi trở ngại và đủ sức chịu đựng mọi thứ. Với lòng yêu thương chân thành, người ta cũng có thể làm bất cứ thứ gì. Tình yêu rất kỳ diệu, càng kỳ diệu hơn khi tình yêu đó dành cho Thiên Chúa.
Ở đâu cũng có những người mưu mô thâm độc, chẳng trừ ngõ ngách hoặc khe hở nào, họ là hiện thân của quỷ sứ. Đôi khi họ ảo tưởng hoặc ngộ nhận nên tỏ ra mình nhân đức và muốn chứng tỏ mình biết “thương người như thể thương thân,” năng nổ và nhiệt thành sinh hoạt các hội đoàn, nhưng lại ngấm ngầm gây chia rẽ giữa hội này với đoàn nọ, kỳ thì nhóm nọ với nhóm kia,… Loại “vẻ đạo đức” đó chỉ là tấm bình phong mà thôi. Thực sự hành động vì Chúa hay vì ai, hoặc vì cái gì?
Trình thuật Lc 20:27-40 cho biết rằng có mấy người thuộc nhóm Sa-đốc đến gặp Chúa Giêsu. Họ là những người chủ trương không có sự sống lại. Họ lải nhải hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” (Lc 20:28-33) Rất đểu, đểu thật! Ra cái vẻ lịch sự, nhưng họ chỉ ngọt cái miệng thế thôi, chứ bụng dạ trương phình và bốc mùi xú uế. Mức độ nham hiểm của họ rất tinh vi, đôi lúc lại “giả mù sa mưa” và mưu tính giăng bẫy khác.
Sa-đốc nói dóc, thèo lẻo lắm điều. Chúa Giêsu cũng làm “một lèo” luôn: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20:34-38) Mấy kinh sư vào hùa và nịnh: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” Và rồi họ im re!
Người ta nói: “Kẻ cướp gặp bà già.” Đừng tưởng bở. Bảy mươi còn phải học bảy mốt kia mà. Không nói thì thôi, họ càng nói ra thì càng lòi cái ngu, không phải ngu bình thường mà là dạng ngu bẩm sinh, ngu quốc tế, ngu tận số, ngu siêu đẳng, ngu trên từng cây số,… nói chung là “đại ngu”. Ngu mà chảnh, xấu mà đỏng đảnh.
Họ đành câm họng, im như thóc thối, bởi vì nghe Sư Phụ Giêsu phân tích rạch ròi, chí lý. Thôi thì bồ hòn có đắng mấy cũng ráng ngậm và ráng ra vẻ “ngọt như mía lùi” vậy. Cũng đáng đời lắm! Thế nhưng không như thế cũng không được, bởi vì có như vậy mới “xứng tầm” với những kẻ mặt người mà lòng ma dạ quỷ. Chẳng oan ức gì đối với những kẻ chuyên “ngậm máu phun người” như đám họ. Đúng như tiền nhân nói: “Thần khẩu hại xác phàm.” Chắc chắn họ phải lủi đi cho nhanh ngay sau đó, chứ còn mặt mũi nào nữa. Mặt họ có chai cỡ nào cũng không vênh váo được nữa rồi.
Chân phước Henry Suso (1295–1366) nói: “Người ta thường mua hỏa ngục bằng một cái giá quá đắt, vì họ chịu hy sinh bản thân để làm đẹp lòng thế gian.” Thật đáng quan ngại và đáng để chúng ta xem lại các động thái của chính mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban thêm ơn khôn ngoan, các đức đối thần và đối nhân, để chúng con luôn sống rạch ròi, nghiêm túc, thẳng thắn, mạnh mẽ, bất khuất, can đảm hành động theo sự thật của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
---------------------------------------
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm C thắp sáng một trong những vấn đề TN 32-C153
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm C thắp sáng một trong những vấn đề căn bản nhất của đức tin chúng ta: “Kẻ chết sống lại”.
2Mcb 7: 1-2, 9-14
Sách Ma-ca-bê quyển hai thuật lại cuộc tử đạo anh dũng của bà mẹ và bảy người con. Họ chấp nhận hy sinh sự sống đời này, vì họ tin chắc rằng Chúa sẽ cho họ được sống lại muôn đời.
2Tx 2: 16-3: 5
Thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ gặp thấy ở nơi Chúa Giê-su niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong những thử thách.
Lc 20: 27-38
Tin Mừng của thánh Lu-ca thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với nhóm Xa-đốc về vấn đề kẻ chết sống lại.
BÀI ĐỌC I (2Mcb 7: 1-2, 9-14)
Sách Ma-ca-bê quyển hai được viết bằng Hy-ngữ quãng năm 124 tCn. Sách này không kể những biến cố lịch sử tiếp theo sau sách Ma-ca-bê quyển một, nhưng đúng hơn trong lời tựa của mình, tác giả cho biết ông chỉ “thu gom lại” thành một cuốn duy nhất từ một tập sách gồm năm cuốn sách do công trình biên soạn của ông Gia-xon người Ky-rê-nê nào đó (x. 2: 23). Nhân vật này chúng ta không biết chút gì về ông ngoài việc ông là một kiều Do thái mộ đạo chịu ảnh hưởng Hy-lạp và có thể ông viết ở A-lê-xan-ri-a Ai-cập.
Sách Ma-ca-bê quyển hai đưa ra những cái nhìn rất sâu sắc về lòng tin của dân Ít-ra-en vào thời kỳ vua Hy-lạp là An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê chủ trương hy lạp hóa toàn thể đế quốc của ông bằng cách tiêu diệt niềm tin của dân Do thái. Đoạn trích hôm nay thuật lại một phần cuộc tử đạo anh dũng của người mẹ và bảy người con. Cuộc bách hại khủng khiếp này nêu bật niềm tin vào cuộc phục sinh thân xác của người công chính và cuộc tạo dựng từ hư không.
Cuộc phục sinh thân xác của người công chính
Sách Đa-ni-en đã khai mở rồi: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Đn 12: 2). Sách Ma-ca-bê quyển hai tái khẳng định cách mạnh mẽ cuộc sống sau khi chết liên quan đến những người bị bách hại và “phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong cuộc đời đạo hạnh” (2Mcb 12: 45). Câu chuyện về cuộc tử đạo của bảy anh em và bà mẹ của họ tỏa ánh hào quang rực rỡ của niềm hy vọng này (2Mcb 7: 9, 11, 14, 23, 29, 36). Đối với những kẻ bách hại và quân vô đạo, họ “sẽ không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa toàn năng, là Đấng thấu suốt mọi sự” (2Mcb 7: 35).
Cuộc tạo dựng từ hư không (ex nihilo)
Lời của bà mẹ khuyên đứa con út của mình trong cảnh bị tra tấn vì đạo: “Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy” (2Mcb 7: 28). Đây là lời khẳng định mạnh mẽ nhất và dứt khoát nhất về cuộc tạo dựng từ hư không.
BÀI ĐỌC II (2Tx 2: 16-3: 5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong đoạn trích hôm nay, thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ được gặp thấy ở nơi Chúa Giê-su niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách.
Niềm an ủi bất diệt (2: 16-17)
Thánh Phao-lô đã cố làm yên lòng các tín hữu Thê-xa-lô-nica bằng giáo huấn rõ ràng của mình. Tuy nhiên, thánh nhân nhận ra rằng giáo huấn vẫn chưa đủ. Thánh nhân cầu nguyện để họ gặp thấy niềm an ủi ở nơi Chúa Giê-su Ki-tô mà họ đã tín thác cuộc đời của họ vào Ngài, và ở nơi Thiên Chúa là Cha của họ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho họ niềm an ủi “bất diệt”, nghĩa là niềm an ủi không thuộc vào thế giới này nhưng vào vương quốc Thiên Chúa, vì thế, niềm an ủi này được chính Thiên Chúa bảo đảm.
Niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách (3: 1-5)
Ở đây chúng ta thoáng thấy tấm lòng của một nhà truyền giáo không biết mệt mõi, mong ước phổ biến Tin Mừng để mọi người thấy được tình yêu của Thiên Chúa tuyệt diệu đến mức độ nào. Buồn thay, không phải mọi người đều tin, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín. Thánh Phao-lô tin tưởng rằng Ngài sẽ làm cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca thêm vững mạnh trong những thử thách mà họ đang phải gánh chịu.
Khi “truyền lệnh” cho họ (3: 4), thánh Phao-lô nhấn mạnh giáo huấn của thánh nhân xuất phát từ Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã ủy quyền cho thánh nhân giảng dạy cho họ (x. 1Tx 2: 13; 4: 2, 11; cũng 2Tx 3: 6, 10, 12).
Kiểu nói: “biết yêu mến Thiên Chúa” (3: 5) bao gồm cả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, lẫn tình yêu họ dành cho Thiên Chúa, tương tự với kiểu nói: “biết chịu đựng như Đức Ki-tô”. Thánh nhân đang quy chiếu đến cả sự chịu đựng của Đức Giê-su giữa những đau khổ và thử thách, lẫn đến sự dự phần vào đức hạnh mà Đức Giê-su đã ban cho các môn đệ Ngài.
TIN MỪNG (Lc 20: 27-38)
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại (20: 27-38). Cuộc tranh luận này được đặt vào trong bối cảnh Chúa Giê-su thi hành sứ vụ sau cùng của Ngài tại Giê-ru-sa-lem theo đó những nhóm có thế lực trong dân Ít-ra-en, lần lượt đến gặp Đức Giê-su và luân phiên đặt ra cho Người những câu hỏi thâm hiểm để mong hãm hại Người (19: 47-21: 38).
Vấn nạn của nhóm Xa-đốc (20: 27-33)
Đối thủ của Đức Giê-su lần này là nhóm Xa-đốc. Nhóm Xa-đốc tuy không đông bằng nhóm Pha-ri-sêu nhưng rất giàu có và có thế lực. Về phương diện trần thế, họ là giai cấp thống trị cộng tác chặt chẽ với chính quyền Rô-ma chiếm đóng, vì muốn bảo vệ của cải và duy trì địa vị của mình
Về phương diện tôn giáo, nhóm Xa-đốc chỉ chấp nhận thẩm quyền của bộ Ngũ Thư mà thôi. Dựa trên lối giải thích Ngũ Thư của họ, họ không tin kẻ chết sống lại. Nhóm Xa-đốc này cũng như bao người Do thái chính thống đều tin chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng việc Thiên Chúa có cho con người được sống lại hay không thì thuộc về thẩm quyền của Ngài. Vì thế, nhóm này không tin vào sự sống lại mai sau, bởi vì không có bằng chứng nào về một niềm tin như thế được tìm thấy trong bộ Ngũ Thư. Hơn nữa, không có kinh sư nào, những ngươi thông luật, giải đáp cho vấn nạn mà họ nêu lên.
Căn cứ theo luật Lê-vi (x. Đnl 25: 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.
Câu trả lời của Chúa Giê-su (20: 34-38)
Chúa Giê-su quả quyết có sự sống lại, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự sống lại: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng”. Như thế, theo Chúa Giê-su, lập luận của nhóm Xa-đốc về sự sống lại như vậy thì thật là quá duy vật. Theo lập luận này, cuộc sống lại chỉ là tiếp tục cuộc sống trần thế, dù được nâng cao lên đến mức độ nào. Nếu hiểu cuộc sống lại như vậy là giới hạn quyền năng của Thiên Chúa và coi thường tình yêu của Ngài: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.
Để bác bỏ lập luận của nhóm Xa-đốc dựa trên bộ Ngũ Thư để phủ nhận niềm tin vào sự sống lại, Chúa Giê-su viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3: 2, 6), một trong năm quyển sách được gọi là Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu của nhóm Xa-đốc thật sự sai lầm trầm trọng. Dựa trên Xh 3: 2, 6 trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”, Chúa Giê-su kết luận: “Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối liên hệ với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ sự sống lại.
Barclay đã đưa ra một lời nhận xét rất xác đáng như sau: “Có thể chúng ta cảm thấy đoạn Kinh Thánh này thật khô khan. Nó đề cập đến những vấn đề có vẻ sôi bỏng trong thời Chúa Giê-su với những lý luận mà một kinh sư cho là rất mạnh, nhưng người thời nay lại không thấy thế. Nhưng từ chỗ khô khan đó, ta rút được một chân lý lớn lao cho những ai giảng dạy hoặc muốn làm chứng về Ki-tô giáo. Chúa Giê-su đã dùng những lý luận mà dân chúng đang nghe Người có thể hiểu được, Người nói với dân chúng theo ngôn ngữ riêng của họ, Người gặp gỡ họ trên chính mảnh đất của họ và chính đó là lý do tại sao giới bình dân đã nghe Người cách thích thú. Đôi lần, chúng ta đọc những sách đạo hoặc về thần học, ta thừa nhận rằng những gì được viết quả là đúng, nhưng không thể đem trình bày cho những đầu óc mới hiểu biết ít, và họ lại là đa số trên thế giới cũng như trong Hội Thánh. Chúa Giê-su đã dùng ngôn ngữ và lý luận mà dân chúng có thể và đã hiểu được, Người gặp gỡ họ trong ngữ vựng của họ. Chúng ta sẽ giảng đạo, làm chứng cho họ Chúa tốt hơn nhiều, khi học tập đường lối phổ biến Tin Mừng của chính Chúa Giê-su” (“Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 238-239).
---------------------------------------
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Số phận của con người sau khi chết vẫn là một vấn nạn bí ẩn đối với mọi thời đại. Ngay giữa những TN 32-C154
Số phận của con người sau khi chết vẫn là một vấn nạn bí ẩn đối với mọi thời đại. Ngay giữa những tín hữu của Do Thái giáo cũng có hai lập trường khác nhau về vấn đề này. Mặc dầu tin vào Thiên Chúa quyền năng, nhưng những người thuộc phái Xađốc vẫn cho rằng con người chết là hết. Họ chủ trương không có sự sống lại. Vấn nạn “bảy ông lấy một bà” được nhóm này đưa ra như một cái bẫy để “gài” Chúa Giêsu.
Ai trong chúng ta cũng đã trải qua kinh nghiệm đau đớn khi mất người thân. Sự chia lìa kẻ ở người đi là một nỗi mất mát không gì bù đắp nổi. Tình cảm vợ chồng, ơn nghĩa cha con, tình bạn bè lối xóm… tất cả đều bị cái chết làm cho gián đoạn. Nếu chủ trương “chết là hết”, thì cuộc sống trở nên vô nghĩa. Con người thật bất hạnh, vì người tốt kẻ xấu đều như nhau khi đều kết thúc cuộc đời bằng nấm mồ.
Kinh Thánh nói với chúng ta, sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Nấm mộ không phải là đích điểm của cuộc sống con người. Con người được tạo dựng để sống hạnh phúc mãi mãi với Chúa là Đấng tạo thành và cứu độ, chứ không phải để hòa tan vào hư vô như nhiều người lầm tưởng. Đích điểm của đời sống chúng ta là Quê trời. Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn truyền thống của Cựu Ước để mời gọi con người hãy mở lòng đón nhận Nước Trời. Người hứa phần thưởng Nước Trời cho những ai sống công chính, tức là mến Chúa và yêu người. Đối với những ai mến Chúa thì không sợ sự chết, vì thực ra, sự chết chỉ là một cuộc chuyển tiếp để đi từ cuộc sống đầy khổ đau tới hạnh phúc, từ cuộc sống tạm thời đến vĩnh cửu. Người mẹ can đảm được kể lại trong Sách Macabê (Bài I) đã tin vững vàng vào những giá trị đời sau. Bà là niềm tự hào của dân tộc Do Thái, đồng thời là mẫu gương về lòng trung thành với Lề Luật. Bà chứng kiến bảy người con chịu hành hình. Những người con này thà chết còn hơn phạm Luật Chúa. Vào giờ phút thử thách đau thương ấy, bà đã mạnh mẽ khuyên các con hãy kiên trì chấp nhận những cực hình, vì bà tin rằng, sau cái chết là phần thưởng vinh quang Chúa dành cho người trung thành. “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”, lời tuyên bố mạnh mẽ của một trong bảy anh em đã nói lên đức tin kiên cường và niềm hy vọng chắc chắn vào sự sống sau cái chết.
Trước cái bẫy của người Xađốc, Chúa Giêsu đã khẳng định: người công chính sau khi chết sẽ được hưởng vinh quang Thiên Chúa. Họ không còn lấy vợ lấy chồng nữa, nhưng họ sẽ giống như các thiên thần. Thực vậy, nếu trên thiên đàng mà người ta còn lấy vợ lấy chồng, thì có nghĩa là người ta sẽ còn già, còn chết, còn ly dị và còn đau khổ. Thiên đàng là nơi con người không phải chết nữa. Họ cũng không còn đau khổ, vì nơi đó không có mâu thuẫn, chỉ có tình yêu ngự trị. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện Ông Môisen được thấy Thiên Chúa qua bụi gai cháy bừng. Khi tỏ mình cho Ông Môisen, Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp. Khi xưng danh như thế, Thiên Chúa chứng tỏ Ngài là Chúa của lịch sử, trong dòng lịch sử ấy, có những con người được tạo dựng để tồn tại mãi mãi.
Trong tháng mười một dương lịch này, theo truyền thống của Giáo Hội, chúng ta thường đi viếng mộ người thân. Những nấm mộ không phải đống đất vô tri vô giác. Mỗi ngôi mộ đang bao bọc một cuộc đời, một con người đã từng thành công, thất bại, đau khổ hạnh phúc. Ngôi mộ chính là một “phòng chờ” của những người đã chết trước khi sống lại vinh quang vào ngày tận thế để hưởng thánh nhan Chúa. Khi thinh lặng suy tư bên nấm mộ của người thân, chắc chắn chúng ta sẽ được nghe Chúa nói với chúng ta về ý nghĩa cuộc đời. Chúng ta cũng có thể nghe thấy người thân dưới nấm mộ chia sẻ với chúng ta về kinh nghiệm sống trên cõi đời đầy thử thách này.
“Anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin..” (Bài đọc II). Hạnh phúc Nước Trời là kết quả của những phấn đấu không ngừng để sống theo Lời Chúa dạy. Chỉ những ai sống tình yêu mến đối với Chúa và đối với tha nhân mới có thể được hưởng sự sống đời đời. Những chức tước, danh dự, của cải và vinh hoa trần thế chỉ là nhất thời, sẽ biến tan khi sự chết đến gặp chúng ta. Chỉ có tình yêu mới tồn tại vĩnh cửu và sẽ giúp chúng ta lãnh phần thưởng đời đời. Mến Chúa yêu người, đó là điều Chúa mong đợi nơi mỗi người chúng ta.
---------------------------------------
Trầm Thiên Thu
Có Cõi Sống thì cũng có Cõi Chết. Chắc chắn ai cũng muốn vào Cõi Sống, không ai muốn vào TN 32-C155
Có Cõi Sống thì cũng có Cõi Chết. Chắc chắn ai cũng muốn vào Cõi Sống, không ai muốn vào Cõi Chết. Nhưng “chẳng ai tìm được đường về cõi sống” (Cn 2:19). Vậy phải làm sao đây?
Có câu danh ngôn thế này: “Life lives, life dies; life laughs, life cries; life gives up and life tries. But life looks different through everyone’s eyes – Đời sống, đời chết; đời cười, đời khóc; đời bỏ cuộc và đời thử. Nhưng đời nhìn khác nhau qua con mắt của mỗi người”. Có nhiều loại đời, thật chí lý! Vâng, cuộc đời như thế nào là tùy cách nhìn của mình.
Cuộc đời như tấm gương, chúng ta cười thì nó cũng cười, chúng ta khóc thì nó cũng khóc. Ai cũng chào đời bằng tiếng khóc, sống với nhiều điều phàn nàn, nhưng chết với niềm hy vọng hoặc với nỗi thất vọng là cách chúng ta tự chọn.
Søren Kierkegaard (1813-1855), triết gia, thần học gia, thi sĩ, nhà phê bình người Đan Mạch, nói: “Ngay khi bạn sinh ra trên thế giới này, bạn đã đủ già để chết”. Còn Hans Christian Andersen (1805-1875), nhà văn kiêm nhà soạn kịch người Đan Mạch, nói: “Cái chết đi nhanh hơn gió và không bao giờ trả lại thứ gì mình đã lấy đi”.
Nói đến cuộc đời là nói đến cuộc sống, nói chính xác là cách sống. Có người sống nhanh, sống vội vã; có người sống chậm, sống từ từ; có người sống xả láng, bất cần; có người sống cẩn thận, ý tứ; có người sống ác độc, có người sống nhân hậu; có người sống tham sanh, úy tử; có người sống cực khổ, dám hy sinh vì người khác. Cách sống có đủ kiểu và đủ mức!
Trình thuật 2 Mcb 7:1-2. 9-14 nói về “cuộc tử đạo của bảy anh em”, và có cả người mẹ nữa. Trình thuật này là một thước phim bi hùng của những con người yêu công lý và hòa bình, dám chết cho chính nghĩa. Từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, đâu đâu cũng có những kiểu bách hại tôn giáo, càng ngày người ta càng ranh ma và tinh vi hơn.
Kinh Thánh kể rằng, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. Thay mặt cho anh em mình, một người lên tiếng nói: “Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi”.
Vua tức giận, ra lệnh nung một cái chảo lớn, ra lệnh cắt lưỡi người vừa nói thay cho anh em, lột da đầu và chặt cụt chân tay của anh ngay trước mắt các anh em và bà mẹ. Chặt chân tay anh rồi, vua truyền lệnh đưa anh còn đang thở thoi thóp đến lò lửa mà nướng. Cảnh tượng thật hãi hùng!
Thế nhưng bà mẹ và các anh em vẫn khích lệ nhau chết cho anh dũng. Họ bảo nhau rằng Thiên Chúa thấy rõ và chắc chắn người dủ lòng thương chúng ta, như lời ông Mô-sê đã làm chứng cho mọi người rằng: “Đức Chúa sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ”.
Người thứ hai cũng phải chịu các cực hình y như người thứ nhất. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời”.
Đến người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được”. Nhà vua và quần thần phải sửng sốt vì lòng can đảm của người thanh niên đã dám coi thường đau khổ. Người thứ tư cũng bị tra tấn như vậy. Khi sắp tắt thở, anh nói: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu”.
Lần lượt bảy anh em đều bị lý hình hành hạ cho đến chết, nhưng ai cũng hiên ngang đối diện với Tử Thần. Cuối cùng, người mẹ cũng chết theo các con. Cả gia đình trở thành thánh tử vì đạo. Diễm phúc biết bao! Tuy nhiên, vấn đề là họ can đảm liều thân vì Chúa. Tử đạo bằng máu là bị giết chết liền, còn tử đạo liên lỉ là chết từ từ. Tử đạo kiểu nào cũng khó, không có ơn Chúa thì không thể vượt qua chính mình!
Cuộc sống luôn có nhiều lúc khó khăn, cả tinh thần và thể lý, hãy chân thành tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa” (Tv 17:1). Và cứ an tâm tín thác vào Ngài, như tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Dõi vết chân Ngài, con không vấp ngã. Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu” (Tv 17:5-6). Càng tránh né đau khổ hoặc tìm cách diệt đau khổ thì càng đau khổ, dám đối mặt với nó và đi xuyên qua nó là chiến thắng nó, chúng ta sẽ thanh thản cười vào những nỗi đau khổ. Đó là một dạng tự trào phúng. Khôi hài có khả năng biến đau khổ thành tiếng cười.
Cầu nguyện là sức mạnh của con người, khả dĩ khiến Thiên Chúa “mủi lòng” và thay đổi số phận của chúng ta. Cầu nguyện để được bình an và được Thiên Chúa xót thương: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở. Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc, được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 17:8 và 15).
Cầu nguyện là hơi thở, là lương thực của Kitô hữu để có thêm sức sống. Thật vậy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện, làm gì Ngài cũng cầu nguyện một mình nơi thanh vắng. Ngài muốn chúng ta noi gương Ngài nên Ngài khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36).
Cõi sống đời này đã quan trọng rồi, cõi sống đời sau càng quan trọng hơn gấp bội, không gì có thể so sánh. Vì cõi sống đời sau là cõi trường sinh, bất tử, vô hạn; còn cõi sống đời này hữu hạn, sẽ có lúc chấm dứt. Muốn sống thì phải sống khôn, sống khéo. Đó là điều tất yếu.
Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để LÀM và NÓI tất cả những gì tốt lành” (2 Tx 2:15-17). Ngôn hành phải song song, cân bằng hai vế như trong một phương trình, không thể chỉ có một vế.
Như đã nói, cầu nguyện là điều cần thiết, lời cầu nguyện còn có sức mạnh liên đới, khả dĩ tác động tới người khác. Cầu nguyện lẫn nhau như chất xúc tác giúp cân bằng tâm linh lẫn nhau, vì ba thù là loại virus cực độc. Ba thù là Ma Quỷ, Thế Gian và Xác Thịt. Ma Quỷ như những tên cướp đường, chúng có thể ập đến bất ngờ, không cảnh giác thì trở tay không kịp; Thế Gian ví như thời tiết thất thường, chúng ta có thể bị bệnh tật nếu không bảo vệ mình bằng các dưỡng chất hoặc thuốc men; Xác Thịt là các thói hư tật xấu, ví như sâu bọ đục khoét thân cây, không kịp chữa thì cây sẽ chết. Xác thịt là chính mình, loại nội gián vô cùng nguy hiểm, có thể nguy hiểm hơn hai kẻ thù kia!
Không ai dám nhận mình là trong sạch, vô tội, công chính. Thánh Phaolô cũng đã phải cậy nhờ người khác: “Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em. Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin” (2 Tx 3:1-2). Con người rất yếu đuối, sơ sảy một chút là sa ngã ngay, thậm chí chúng ta còn tự biện hộ và viện cớ với nhiều lý lẽ lắm. Cái tôi đúng là đáng ghét thật!
Không có Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15:5), thở cũng chẳng nổi. Vì thế mà đừng cậy sức mình, ngay cả trên đường hoàn thiện chính mình. Nhưng có Chúa thì OK ngay, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Thánh Phaolô cho biết: “Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần. Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng vào anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng tôi truyền. Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô” (2 Tx 3:3-5).
Trình thuật Lc 20:27-38 nói về Sự Sống Lại (tương đương Mt 22:23-33 và Mc 12:18-27). Chính sự sống lại này xác định giá trị của niềm tin Kitô giáo: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15:17).
Kinh Thánh cho chúng ta biết có hai nhóm chuyên phá bĩnh: Pha-ri-sêu và Xa-đốc. Nhóm Pha-ri-sêu tin có sự sống lại nhưng lại ưa thói giả hình, còn nhóm Xa-đốc không tin có sự sống lại.
Một hôm, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giêsu, và hỏi Ngài một lèo: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?”.
Đúng là những kẻ chuyên tìm cách hại người khác, bề ngoài làm ra vẻ nghiêm chỉnh nhưng đầu óc và lòng dạ họ đầy cặn bã, những thứ ô uế nhất. Cái miệng hại cái thân, vì phát ngôn bất cẩn. Kinh Thánh Cựu Ước cho biết: “Con người phải chịu hậu quả lời mình nói và được hưởng những gì môi miệng họ thốt ra. Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó, sẽ lãnh nhận hậu quả” (Cn 18:20-21). Còn Tân Ước xác định: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Ga 1:26). Chớ khinh suất mà nói càn! Tự rước họa vào thân chỉ vì KHÔNG uốn lưỡi bảy lần trước khi nói.
Nhóm Xa-đốc cho rằng đó là vấn đề hóc búa, chỉ từ lết đến chết mà thôi. Nhưng họ lầm to! Chúa Giêsu thản nhiên chứng minh: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”.
Ui da, nghe mà lùng bùng lỗ tai. Sao Anh Chàng Giêsu này thông minh và khôn ngoan thế nhỉ? Con Bác Thợ Mộc Giuse và Cô Maria ở xóm nghèo Na-da-rét mà hay dữ vậy ta? Tất nhiên bọn Xa-đốc phải câm họng, đành ngậm bồ hòn làm ngọt, lủi thủi kéo nhau đi chứ đứng lại đây thì có nước độn thổ mà thôi!
Không có Ánh Sáng của Thiên Chúa thì không ai biết đười về Cõi Sống, có Ánh Sáng của Ngài chiếu soi thì chúng ta tin tưởng sẽ đến đích, an tâm và vui sống: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11).
Nhưng ai khả dĩ được vào Cõi Sống, Miền Trường Sinh? Tác giả Thánh Vịnh cho biết rạch ròi: “Người thực thi công chính được đi vào cõi sống, kẻ theo đuổi gian tà phải đến chốn tử vong” (Cn 11:19). Đó là sự công bình và công lý của Thiên Chúa vậy! Sống công chính là làm đúng những điều Thiên Chúa truyền dạy, như ông Nô-ê đã thi hành ngày xưa vậy (St 6:22 và 7:5).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết không ngừng tìm kiếm Thánh Nhan Ngài, xin giúp con luôn sống đúng theo Thánh Ý Ngài – dù khi vui hay buồn, lúc sướng hay khổ. Ngài ở đâu thì xin cho con cũng được ở đó. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
---------------------------------------
JM. Lam Thy.
Ba nhóm quyền lực nhất trong dân Do-thái thời bấy giờ, đó là: Nhóm Pha-ri-sêu (còn gọi là TN 32-C156
Ba nhóm quyền lực nhất trong dân Do-thái thời bấy giờ, đó là: Nhóm Pha-ri-sêu (còn gọi là nhóm Biệt Phái), nhóm Ét-sê-ni và nhóm Xa-đốc. Nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Ét-sê-ni gồm các kinh sư, các tiến sĩ Luật và cả tư tế nữa. Họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ Luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Họ tổ chức thành hội, nhằm giúp nhau giữ đạo của cha ông và trung thành với Luật Mô-sê. Họ tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại của thân xác. Nhóm Xa-đốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc, còn vấn đề tôn giáo thì họ chỉ dựa trên Luật thành văn là bộ sách Ngũ Thư, nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết sống lại (Mt 22, 23). Tuy thái độ và cách sống đạo khác nhau, nhưng cả 3 nhóm này đều là những người chống đối Đức Giê-su. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXII/TN-C – Lc 20, 27.34-38) trình thuật câu chuyện nhóm Xa-đốc lại kiếm chuyện gài bẫy Đức Giê-su.
Theo Thánh sử Lu-ca thì “Nhóm Xa-đốc chủ trương không có sự sống lại” (Lc 20, 27). Đó chính là nhóm thuộc phe bảo thủ trong giới lãnh đạo tôn giáo của Do-thái, các tư tế Do-thái thường xuất thân từ nhóm này. Nhóm này chỉ công nhận 5 cuốn sách (Ngũ Thư) do ngôn sứ Mô-sê viết (Sáng Thế Ký, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số, Đệ Nhị Luật) là Thánh Kinh mà thôi. Trong những sách này, Mô-sê không đề cập đến việc sống lại, nên nhóm Xa-đốc chủ trương không có sự sống lại. Việc sống lại để sống vĩnh cửu chỉ được đề cập đến trong những sách Cựu Ước khác, chẳng hạn trong quyển Ma-ca-bê 2 (xc bài đọc 1 CN XXXII/TN-C – 2Mcb 7, 1-2.9-14 và xem thêm 2Mcb 12, 43-44), sách ngôn sứ I-sai-a (Is 26, 19). Ngược lại với nhóm Xa-đốc, nhóm Pha-ri-sêu không chỉ công nhận giá trị mạc khải của 5 cuốn sách do Mô-sê viết, mà còn công nhận những sách khác nữa, nên họ chủ trương có sự sống lại. Do đó, hai nhóm luôn tranh luận và bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề này.
Tuy có bất đồng ý kiến với nhau về quan điểm tôn giáo, nhưng họ lại chung một tâm trạng ghen tức, tị hiềm với Đức Giê-su. Vì thế, sau thất bại thê thảm của nhóm Pha-ri-sêu và Ét-sê-ni gài bẫy Đức Giê-su về vấn đề “ném đá người đàn bà ngoại tình” (Ga 8, 2-11), rồi vấn đề “có nên nộp thuế cho vua Xê-da hay không?” (Lc 20, 20-25), giờ đến lượt nhóm Xa-đốc thử thách Người. Họ lợi dụng cơ hội Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Người sẽ phải chịu: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất.” (Lc 18, 31). Họ dựng lên một câu chuỵên không tưởng để dồn Đức Giê-su vào thế bí. Đó là chuỵên một người đàn bà lần lượt kết hôn với bảy anh em ruột, từ người anh cả trở xuống (chiếu theo Luật Mô-sê, nếu người anh chết mà chưa có con thì người em kế cận phải tiếp nối hôn nhân ấy). Chẳng người nào có con cái và tất cả 7 người đều chết. Thực tế, dù cho Luật Mô-sê có cho phép, cũng không thể có trường hợp cả 7 anh em ruột đều lần lượt ăn ở với chỉ một người phụ nữ, đều không có con và chết hết. Dụng ý của nhóm Xa-đốc chỉ là đặt câu hỏi: “Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?” và tin rằng Đức Giê-su sẽ bí, không trả lời được.
Thật vậy, nếu Đức Giê-su trả lời là sau khi sống lại, cả bảy người sẽ cùng sống chung với duy nhất một bà vợ, thì quả là thậm vô lý và phạm luật của Thiên Chúa “một vợ một chồng, một xương một thịt”. Còn nếu trả lời là cả 7 người đàn ông và người phụ nữ đã chết là hết tất cả, làm gì có chuyện là vợ của ai, thì vô hình chung, Đức Giê-su cũng coi như không có đời sau. Không có đời sau thì làm gì có sự sống lại. Trả lời cách nào cũng kẹt, và vì thế càng thấy sự nham hiểm của nhóm người Xa-đôc (kể cả nhóm Pha-ri-sêu), đó là họ cố tình gài bẫy để có chứng cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59). Thánh Gio-an Tẩy Già đã quá đúng khi gọi họ là “nòi rắn độc” (“Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” – Mt 3, 7). Chỉ có rắn độc có nọc độc mới có thể mau chóng giết chết những sinh vật bị chúng cắn phải.
Nhóm Xa-đốc đã tưởng với cách gài độ thâm hiểm của họ sẽ làm cho con mồi là Đức Giê-su sập bẫy. Nhưng thật không ngờ Đức Giê-su đã dùng chính “gậy ông đập lưng ông”. Họ dựa vào luật Mô-sê – mà họ công nhận có giá trị mạc khải – để tấn công Đức Giê-su, thì Người cũng dùng chính lời của Mô-sê để hoá giải, khiến họ phải câm miệng. Nếu họ dựa vào Mô-sê để nói rằng không có sự sống lại chỉ vì ông không minh nhiên đề cập đến sự sống lại, thì Người cũng dựa vào chính Mô-sê để minh chứng ngược lại: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20, 37-38). Rõ ràng là các tổ phụ vẫn sống trước nhan Thiên Chúa (mặc dù thân xác các ngài đã chết và đang chờ ngày sống lại), nên ông Mô-sê mới gọi là “Thiên Chúa của các tổ phụ”. Cuối cùng thì không nhũng Đức Giê-su làm cho đám Xa-đốc tịt ngòi, mà còn khiến nhóm Pha-ri-sêu cũng phải bái phục (“Mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm!” – Lc 20, 39).
Cả ba lần 2 nhóm người Pha-ri-sêu và Xa-đốc gài bẫy Đức Giê-su đều nhắm vào Lề Luật. Họ chỉ mong Đức Giê-su sập bẫy để họ kết án là Người đã chống lại Luật Thiên Chúa (Luật Mô-sê vốn được coi là Luật Thiên Chúa). Nhưng họ đã thất bại bởi chính cái bẫy họ giương lên. Đối với Lề luật, cũng đã nhiều lần Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 18); hoặc lên án bọn kinh sư giả hình (“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” – Mt 23, 23). Điều đó cho thấy, Đức Giê-su không hề chống lại, mà rất tôn trọng Lề Luật. Duy chỉ có điều Người muốn mọi người – nhất là đám Pha-ri-sêu và Xa-đốc – hiểu rằng “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”. Áp dụng Luật mà thiếu một trong ba điều đó, thì chưa thể coi là hiểu biết và tôn trọng Luật.
Rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa chứng minh rằng, cuộc sống siêu nhiên ở đời sau không giống với những suy nghĩ của con người căn cứ trên thực tại trần thế (“Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” – 1Sm 16, 7). Điều đó cũng cảnh báo cho con người hiểu rằng: đừng suy tính cuộc sống mai hậu như kiểu tính toán trong cuộc sống hiện tai ở trần gian, đừng lo rằng nơi cõi phúc có được lấy vợ lấy chồng hay không. Điều đáng quan tâm lo lắng nhất là hãy tìm cho ra con đường sự thật (đường chân lý), chuẩn bị sẵn sàng và kỹ lưỡng tất cả hành trang và dũng cảm nhập cuộc trên hành trình tiến về quê Trời. Và trên tất cả, hãy cầu cho được một nguồn động lực thúc đẩy như người mẹ đối với 7 người con trong bài đọc 1 (2Mcb 7, 1-2.9-14). Nguồn động lực đó tất yếu là Đức Giê-su Thiên Chúa cùng với Mẹ Maria Vô Nhiễm, hãy đến với Người bằng tất cả niềm cậy trông bất diệt (“Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.” – 2Tx 2,16-17).
Ôi! Lạy Chúa! Con hiểu rằng thân xác này của con sẽ sống lại vào ngày sau hết để bước sang cuộc sống vĩnh cửu, đó là một trong những niềm tin căn bản nhất của Ki-tô giáo. Con tin chắc rằng những gì đang xảy ra với con trong cuộc sống ngắn ngủi này đều nằm trong sự quan phòng của Chúa, đều do Chúa cho phép xảy ra để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu của con sau này. Vì thế, con sẵn sàng chấp nhận tất cả với lòng tin tưởng vào tình yêu vô biên của Chúa dành cho con. Cúi xin Chúa ban Thánh Linh củng cố niềm tin nơi con, để ngày chung thẩm con được vinh dự đứng ở bên phải Chúa như lời Chúa đã phán năm xưa (Mt 25, 31-46). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con, Amen.
Lm. Jos. DĐH.
Đổi đời hay lên đời là điều nhiều người đã nghĩ tới: nghèo đói mong được no đủ, đau khổ cần TN 32-C157
Đổi đời hay lên đời là điều nhiều người đã nghĩ tới: nghèo đói mong được no đủ, đau khổ cần có lối thoát, đang bế tắc mâu thuẫn, mong tìm được lời giải, mơ ước như vậy có chính đáng không ? Hy vọng dù có mong manh, bao giờ cũng là động lực dẫn đưa kẻ sầu muộn kiên nhẫn nhìn về phía tương lai. Sống và sống hạnh phúc hơn, hẳn luôn là mối bận tâm của người đang có danh phận, thầm ước xây dựng được thành trì vững chắc cho mình. Theo qui luật, người điên khùng sẽ không biết buồn, người say bí tỉ mấy ai biết nhớ biết thương, người lạc quan thường dễ tìm thấy niềm vui nơi cuộc sống.
Ưu tư của người lập gia đình là vợ chồng biết yêu thương nhau, sinh con, trước là để nối dõi dòng tộc, sau là các thành viên gia đình cùng giúp nhau đạt tới niềm vui hạnh phúc, chỉ thế là đủ. Tâm tình đó, những người không tin có sự sống lại họ cũng mơ ước như thế, vô lý ở chỗ không tin có linh hồn bất tử, vậy mà họ còn đặt vấn đề về sự sống lại, nhất là đưa ra sự kiện bảy anh em lấy một người phụ nữ. Quan niệm hạnh phúc không phải chỉ giới hạn nơi chuyện vợ chồng, đúng hơn nên hỏi con đường dẫn đến niềm vui và bình an thật ở đâu, niềm vui hiện tại và tương lai có gì khác biệt ?
Tục ngữ có câu : cọp chết để da, người chết để tiếng. Lời khuyên thực tế đó ngụ ý nói có sinh ắt có tử, con người hữu hạn, nếu biết sống tốt, tự hậu thế sẽ chứng minh hình ảnh bất tử của ta. Trong gia đình, con cái tin tưởng cha mẹ, anh em yêu thương nhau, đúng là ý tưởng và hành động đang phản ánh sự trường sinh : cha là núi mẹ là sông, anh em hiếu thuận, nhớ công sinh thành. Nhờ thao thức một chân lý sống, những người Sađucêô mới dám đặt vấn nạn chuyện vợ chồng sau khi chết là gì ? Đâu là điều kiện để trí lòng người ta cảm nhận được triết lý sống ở hiện tại và tương lai ?
Nhờ Đức Giêsu, một tình yêu sống động đang hiện diện, người không tin vào sự sống lại, cả những người hiểu mập mờ về linh hồn bất tử cũng được sáng hơn.“Con cái đời này lấy vợ cưới chồng, song những ai sẽ xét được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng ; họ sẽ không chết nữa, vì họ giống thiên thần, họ là con cái của sự sống lại”. Người xưa có để lại câu nói đáng để ta suy nghĩ : kẻ đặt câu hỏi ngốc nghếch, chỉ ngu dại năm phút, người không dám đặt câu hỏi ngu ngốc, sẽ ngu dại cả đời người. Kinh nghiệm đó cho thấy kẻ lạc quan là biết tin tưởng vào tình người, tình đời ; người lạc quan trong Đức Giêsu là biết cậy nhờ vào tình yêu Thiên Chúa để sống.
Kitô giáo chúng ta không ai thắc mắc khi lìa trần linh hồn đi đâu, cũng chẳng nghi ngờ : cuộc sống có Đức Giêsu có đúng là có bình an, là có sự sống trọn vẹn ? Vì thế, tin để sống, tin để minh chứng tình yêu bằng hành động, ắt sẽ gặp được sự sống trường sinh. Trải qua những tương quan nơi cuộc sống, ta từng đối đầu với cả thành công lẫn thất bại nơi gia đình, điều quan trọng không phải là nghi ngờ thắc mắc, là tại sao ? Chúng ta không thể im lặng ngồi đó nguyền rủa bóng tối, mà mỗi người được mời gọi sống xứng hợp với điều kiện ta đang có : cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây.
Mấy người Sađucêô không tin có sự sống lại, khi gặp và nghe Đức Giêsu nói đến một thực tại của sự sống, ít nhiều đó cũng là cơ hội để họ thể hiện mơ ước sống, hầu cảm nhận thế nào là bất tử. Ca dao có câu : nhà nghèo yêu kẻ thật thà, nhà quan yêu kẻ giầu ra nịnh thần. Chúng ta đây không giầu, cũng không là quan chức, vì thế Đức Giêsu vẫn đang chờ đợi chúng ta trước là thực hành bài học yêu thương, sau là trung thực trong các tương quan với Chúa và anh chị em. Không tin có sự sống lại, nói chuẩn hơn là do chưa có người sống đúng chân lý đức tin nhằm giúp họ hiểu và chỉnh sửa, thay đổi lại quan niệm về sự sống hiện tại.
Cầu nguyện và thưa chuyện với Đức Giêsu để hiểu mình, hiểu bạn, để rồi chia sẻ và sống yêu thương thì nên lắm, hết sức cần. Có Chúa trong hiện tại mới chỉ là khởi đầu dẫn ta tiến tới cửa ngõ hạnh phúc, do đó, ai cũng cần duy trì phát triển tình liên đới, tình yêu thương giữa Chúa và tha nhân. Hạnh phúc không thể vắng bóng tình yêu, trường đời luôn có bài học lý thuyết gởi gắm đến các học trò áp dụng vào thực tế. Sự sống thật chắc chắn phải được thể hiện bằng việc làm của đức tin, linh hồn bất tử chỉ được lý giải khi có Đức Giêsu trong hành trình đời người. Niềm tin chỉ trừu tượng khi không có thực hành, tình yêu nâng cao giá trị tinh thần gợi lên một khao khát sống, và sống hạnh phúc.
Người xưa nói rằng : sống kể ngày, chết kể năm, đại loại là độ ngắn dài, sống chết, ở mỗi người khác nhau. Tình yêu, niềm tin, sẽ không có ngày tháng năm, nhưng lại được cân đo đong đếm bằng việc làm cụ thể, đó chính là cánh cửa minh chứng tính bất tử của sự sống. Tham sống sợ chết, ăn cây táo rào cây sung, xã hội vẫn coi họ là anh hùng rơm, là kẻ tiểu nhân, chỉ biết hiện tại, thật đang tiếc.
Công thành danh toại ở trần gian không phải điềm xấu, nhắc nhớ đến thân phận con người giới hạn có sinh có tử, không bao giờ thừa, tin để sống, và sống thật để gặp được trường sinh, vẫn luôn thiết thực hơn cả. Quan niệm chết và sống lại, không chỉ dừng lại ở chân lý đức tin, do Chúa Giêsu đã gợi mở Ngài chính là Thiên Chúa của kẻ sống. Chết đi và sống lại vừa là qui luật tự nhiên, vừa là trách nhiệm mỗi người hãy ý thức sử dụng nén bạc Chúa trao cách tốt nhất. Amen.
---------------------------------------
Lm Phan Kế Sự
Bận tâm của con người qua mọi thời đại vẫn lẩn quẩn kiếm tìm trong các lạc thú : danh,lợi,dục TN 32-C158
Bận tâm của con người qua mọi thời đại vẫn lẩn quẩn kiếm tìm trong các lạc thú : danh,lợi,dục, để hưởng thụ và cũng để tồn tại.Người ta chỉ biết tìm kiếm và thu góp những lợi nhuận thuộc về trần thế mà không hề lo lắng đến sự sống đời đời của mình như nhóm Xa-đốc ngày xưa. Chính khi mải mê với những đam mê và hưởng thụ những giá trị trần thế,chúng ta đành mất tất cả. Kết thúc cho một đời chạy theo những đam mê là hủy diệt và sự chết.Thiên Chúa là của kẻ sống và Ngài muốn tất cả chúng ta hãy biết sống cho sự tồn vong của mình; nhưng có một sự thật là Ngài lại không sống thay cho chúng ta.
Ước muốn sâu xa nhất của con người là muốn được tồn tại,tồn tại lâu dài,tồn tại mãi mãi.Nhóm Sa-đốc đến gặp Chúa cũng chỉ mong có một lời khuyên dành cho việc hưởng thụ đời này,ngoại trừ việc sống còn đời sau. Xem ra họ chỉ muốn thụ hưởng ,muốn kéo dài sự sống mình bằng sự hiện diện của con cái, dựng vợ gả chồng cho dòng máu của mình, nhưng chẳng hề muốn có sự thưởng phạt, không hề chịu trách nhiệm về những gì mình làm ở đời sau !
“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”Có những giá trị ở đời tưởng chừng như bất tử : tiền bạc,danh vọng,thú vui xác thịt Nhưng tất cả đều có giới hạn, nay còn mai mất và chẳng tồn tại lâu dài. Sách Giảng Viên có câu “ Phù hoa nối tiếp phù hoa,ở đời tất cả chỉ là phù hoa”.Chỉ có Chúa mới là sự sống thật và chỉ ai thuộc về Ngài,mới được vinh dự trường tồn vĩnh cửu.
Sẽ chẳng có câu trả lời cho hạng người,giống như phái Sađốc, và cũng chẳng có niềm hy vọng nào đáp ứng lại khát vọng cho con người,khi mà tất cả chúng ta đều phải đối diện với cái giới hạn cuối cùng là sự chết,là sự hủy diệt. Câu trả lời của Chúa chính là giải đáp cho sự sống còn đời sau,mà ai nấy đều phải nỗ lực để chiếm lấy,hầu có thể tồn tại vĩnh cửu.Nếu chỉ là hưởng thụ,chỉ là những giá trị thực tại,thì sinh mạng con người có khác gì những con vật và thật đáng xấu hổ.
Lạy Chúa,con người chúng con vẫn mong ước một cuộc sống trường tồn, nhưng nhiều khi chúng con lại chỉ biết chạy theo và kiếm tìm những cái hư vong.Chúa dựng nên chúng con là để chúng con thuộc về Chúa. Xin giúp chúng con biết sống cho mình,dám sẵm sàng đánh đổi mọi giá trị trần thế, để được thuộc về Chúa. Amen.
---------------------------------------
Fx. Đỗ Công Minh
Chết là hết ! Câu nói cửa miệng của những người tự xưng là vô tín. Vậy điều đó có đúng? Bài Tin TN 32-C159
Chết là hết ! Câu nói cửa miệng của những người tự xưng là vô tín. Vậy điều đó có đúng? Bài Tin Mừng hôm nay Đức Kitô đã cho chúng con biết được một điều : Chết là bước vào một đời sống mới. Cuộc sống ở thế giới sau cái chết nối tiếp cuộc sống hôm nay. Đối với” những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết”, họ sẽ bước vào một cuộc sống không còn như cuộc sống tại thế, ở đó không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng. Không còn gì là ràng buộc với nhau. Họ sống trong ân sủng của Thiên Chúa, như các Thiên Thần, họ không bao giờ chết nữa vì” họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại “. Thế nhưng có phải tất cả mọi người đều được như thế? Chúa Giêsu đã nhiều lần nói trong Tin Mừng về những người được cứu, đó là ” những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ trở nên Con Thiên Chúa” (Ga. 1,12 ).
Lạy Chúa,
Để được sống lại trong nước Thiên Chúa, ngay từ cuộc sống nơi trần gian này con phải chuẩn bị mỗi ngày, từng ngày. Chuẩn bị cho ngày Chúa đến với con trong vinh quang. Nếu chỉ chăm bẳm lo cho cuộc sống hôm nay, lo có sức lực, tiền tài, địa vị, lo thụ hưởng mọi thú vui, thỏa mãn mọi nhu cầu về ăn uống, về lạc thú, về quyền lực như một bài hát đã diễn tả:”. . .ngày qua ngay đời nhiều vấn nghi, lạc lòai niềm tin, sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai. . . Rồi cuộc vui tàn mọi người bước đi, một mình tôi về, nhiều lần ướt mi. . .” thì sao có thể bước vào một cuộc sống mới? May thay, “ Và con tim đã vui trở lại, tình yêu đến cho tôi ngày mai, tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, tôi hy vọng được Ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại, và niềm tin đã dâng về Người, trọn tâm hồn nguyện yêu mãi riêng Người mà thôi!(Và con tim đã vui trở lại- NS Đức Huy ). “ Người” ở đây chính là Đức Giêsu như Thánh Gioan đã diễn tả” Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con Một( là Đức Giêsu), để những ai tin vào Con của người sẽ khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Xin cho con luôn ý thức rằng rồi con sẽ chết, nhưng không phải là tuyệt vọng, vô vọng, sống không ngày mai. Con dù bất xứng, nhiều lỗi lầm, nhưng nếu con biết nhận mình thiếu sót, tội lỗi, con hồi tâm trở về xin ơn tha thứ, Chúa sẽ cho con sống mãi bên Chúa. Con tin rằng Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người tất cả đều đang sống.
Nhân tháng cầu nguyện cho các đẳng Linh hồn, xin cho con biết nhớ đến các Linh hồn ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Những người đã ra đi trước, đã để lại cho con một niềm tin “Tôi tin xác lòai người ngày sau sống lại, tôi tin một cuộc sống muôn đời “, con luôn nhớ cầu nguyện cho các Ngài. Cái chết sẽ đến, xin Chúa giúp con biết sống sao, để khi từ bỏ cuộc sống này, con sẽ được tiếp tục sống lại cùng Chúa trên nước trời . AMEN.
---------------------------------------
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một bạn trẻ hỏi rằng: Tại sao những người cộng sản họ không thích người Công Giáo, họ có TN 32-C160
Có một bạn trẻ hỏi rằng: Tại sao những người cộng sản họ không thích người Công Giáo, họ có thành kiến với người Công Giáo, coi những người Công Giáo như những đứa con lai trong xã hội ? Sự khác biệt dẫn đến nghi kị nơi những người cộng sản đối với người Công giáo, đó là trong việc chọn lựa niềm tin và đức tin. Những người vô thần tuyên bố rằng, họ không tin sự hiện hữu của thần linh. Những người vô thần chọn theo thuyết duy vật, họ cho rằng, con người và mọi vật chỉ là do vật chất kết tụ lại, chết là hết, không có linh hồn cũng không có đời sau. Trong thực tế, có những người xưng là vô thần nhưng vẫn tin vào thần thánh, vẫn cúng bái, kể cả lập bàn thờ lén lút trên lầu hoặc trong phòng. Ví dụ, ông Hồ Chí Minh là một người Cộng sản vô thần, nhưng trong di chúc, ông viết rằng: sau khi chết tôi sẽ phải đi gặp Cac Mac, Lenin và các đồng chí của tôi. Nếu ông viết như thế, có nghĩa là chết chưa phải là hết, hồn ông còn đi lang thang đây đó được.
Người Công Giáo tin rằng, thân xác con người được Thiên Chúa tạo dựng từ vật chất, linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng nên và linh hồn thiêng liêng, bất tử. Hơn nữa, người Công Giáo còn tin sau khi bước qua cánh cửa sự chết, con người sẽ bước vào sự sống đời sau; đến ngày tận thế, thân xác con người sẽ sống lại, hồn trở về với xác. Đây là niềm tin hết sức đặc biệt của người Công Giáo khiến họ khác với các tôn giáo khác. Vì niềm tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau và coi nhẹ sự sống đời này, khiến người vô thần không thích người Công Giáo.
Nếu như có những người tuyên bố mình vô thần, nhưng vẫn cúng bái, vẫn tin vào sự sống sau khi chết, thì cũng có những người tuyên bố mình là người có đạo nhưng lại sống như người vô thần, vô đạo sống như khống có đời sau. Những người có đạo nhưng không tin, không chỉ là những người ngày nay, mà từ thời Chúa Giêsu đã có những người như thế.
Thời Chúa Giêsu, tất cả những người Do Thái đều tin vào Thiên Chúa duy nhất là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, nhưng không phải tất cả đều tin như nhau. Cụ thể, những người thuộc phái Xa đốc, tức là thuộc hàng tư tế trong đền thờ, họ không tin vào sự sống lại và sự sống đời sau. Vì thế, khi thấy Chúa Giêsu rao giảng về Nước Trời và sự sống đời sau, những người thuộc nhóm Xađốc này đưa ra một ví dụ để bắt bẻ Chúa Giêsu. Họ nói: Mose đã ra luật nối dõi cho anh hoặc em mình: Khi một người cưới vợ không có con, anh ta chết, người em phải cưới người chị dâu đó để nối dõi cho anh mình. Vậy, có bảy anh em trai cùng cưới một người vợ nhưng ai chưa có con thì đã chết, sau này khi sống lại, người phụ nữ đó sẽ là vợ của ai? Những người này tưởng rằng với lý luận và ví dụ như thế, Chúa Giêsu không thể giải thích nổi.
Nhưng Chúa Giêsu đã chỉ cho họ thấy cái sai của họ khi họ lấy những quan điểm, tập tục của trần gian, của đời này để áp dụng cho đời sau. Nhiều người Việt cũng có suy nghĩ “cõi dương làm sao cõi âm làm vậy”, họ lấy suy nghĩ của con người để áp đặt cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói với họ: Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, những kẻ sống lại từ cõi chết sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Họ không chết nữa, họ được ngang hàng với các thiên thần.
Câu trả lời của Chúa Giêsu không những chỉnh lại suy nghĩ của những người Xa đốc, mà còn mạc khải cho chúng ta biết về cuộc sống đời sau. Người ở cõi trần vì phải chết, nên họ có bổn phận và nhu cầu phải duy trì nòi giống cho mai sau. Khi đã bước vào đời sau, con người sẽ bước vào thế giới của thần linh, của bất tử. Vì thế, con người sẽ không có nhu cầu và cũng không cần phải có con nối dõi nữa. Cuộc sống của họ được sánh ngang hàng với các thiên thần, tức là họ được sống hạnh phúc đầy tràn sung mãn vì có Chúa là nguồn hạnh phúc của họ. Vì thế, họ không còn khao khát hoặc tìm kiếm bất cứ thứ hạnh phúc nào nữa.
Chúa Giêsu cũng dùng Kinh Thánh trích từ Sách Ngũ Kinh để minh chứng rằng, ngay từ ngày xưa, các tổ phụ như Apbraham, Isaac và Giacóp đã có một niềm tin sâu xa vào sự sống đời sau. Sở dĩ trích đọan sách Ngũ Kinh này, vì đây là năm cuốn sách đầu tiên và quan trọng nhất của người Do Thái, mà những người Xa đốc chỉ tin nhận năm cuốn sách này mà thôi. Đoạn sách cho thấy, Môse đã tin Thiên Chúa và tin Ngài là Đấng có quyền năng làm cho các tổ phụ trở thành những con người bất tử. Ông tin rằng, các tổ phụ Apbraham, Isaac, Giacop đang được xum họp cùng nhau trong vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, ông đã gọi Thiên Chúa là Chúa của Apbraham, Isaac, Giacop.
Niềm tin vào sự bất tử của linh hồn và sự sống đời sau là một niềm tin đã ăn sâu nơi người Do thái. Chính vì niềm tin này, bao nhiêu thế hệ các tín hữa đã dám liều thân chịu chết, mất mạng sống đời này để được sự sống đời sau. Câu chuyện sách Macabe cho thấy điều đó, khi kể câu chuyện bảy anh em cùng chịu chết với người mẹ, vì trung thành với lề luật Do thái và vì tin sự sống đời sau. Câu trả lời của bảy anh em thể hiện một đức tin vững chắc vào sự sống đời đời. Người anh trả lời các quan: Chúng tôi chết vì luật pháp của Vua vũ trụ, thì Ngài sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời. Người anh kế trả lời các quan: Tôi được Chúa ban cho các phần chi thể, vì lề luật của Chúa, tôi coi thường các thứ đó, vì tôi hy vọng, nhờ Chúa, tôi sẽ lấy lại các phần chi thể mà các ông lấy của tôi. Tất cả những lời tuyên xưng của bảy anh em này, đều nhắm đến một mục đích chung đó là sự sống lại đời sau mà Thiên Chúa sẽ ban cho những người trung thành với lề luật của Chúa.
Thực tế cho thấy, ngày nay có những người có đạo nhưng đang rơi vào tình trạng vô thần. Những người này có rửa tội, nhận mình là người Công giáo, nhưng trong đời sống, họ sống không khác gì những người vô thần. Niềm tin của họ vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau rất mờ nhạt, vì thế mục tiêu cuộc đời của họ không phải là tìm kiếm hạnh phúc đời sau, mà chỉ là tìm kiếm vật chất ở đời này.
Lý do dẫn đến tình trạng vô thần trong thực tế này, là do không đào sâu học hỏi về giáo lý đức tin của mình, để mình trở nên ấu trĩ trong đời sống đạo. Những người này chú tâm phát triển về kiến thức, nhưng lại mất cân bằng trong việc phát triển đức tin, khiến cho cuộc sống bị lệch lac. Lý do tiếp theo là do lối sống đạo hời hợt cảm tình bên ngoài, thiếu sự cầu nguyện và suy gẫm, thiếu gắn bó với Chúa Giêsu và Tin Mừng, khiến trở nên mù mờ trong đời sống đạo. Lý do khác nữa là, do lối sống thực dụng, chạy theo thỏa mãn vật chất, khiến cho nhiều người bỏ quên mục đích chung cuộc của đời mình, là tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời, để lao vào tìm kiếm vật chất.
Niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau sẽ phải là niềm tin thúc đẩy chúng ta sống thật tốt và tròn đầy cuộc sống hôm nay. Chúng ta hướng về cuộc sống đời sau nhưng không bê trễ bổn phận của cuộc sống này; trái lại, vì cuộc sống mai sau, mà chúng ta phải sống tốt ngay từ hôm nay. Chúng ta phải bắt đầu từ trong gia đình, làm cho gia đình mình mỗi ngày thật ấm cúng thuận hòa, trở thành thiên đàng ngay trong gia đình mình.
Niềm tin vào sự sống đời sau sẽ phải phải chi phối mọi hoạt động, lời nói việc làm của từng tín hữu chúng ta. Vì niềm tin ấy, chúng ta sống trong niềm vui và hy vọng và trở thành người đem niềm vui và hy vọng cho người khác. Vì niềm tin này, chúng ta cũng được mời gọi sống thanh thoát khỏi nhưng lôi kéo lệ thuộc của vật chất, danh vọng để sống thanh thoát cao thượng hơn.
Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và lên trời để mở đường cho chúng ta về trời, xin cho chúng ta luôn biết yêu mến Nước trời là quên hương đích thực và là cùng đích của mỗi người chúng ta. Amen.
---------------------------------------
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có người cho rằng: Chết là hết, không có sự sống đời sau, không còn gì hết. Nếu quả thật như TN 32-C161
Có người cho rằng: Chết là hết, không có sự sống đời sau, không còn gì hết.
Nếu quả thật như thế thì cuộc sống của con người thật là bi đát, bởi vì, một khi cái chết đến nó sẽ cướp đi tất cả. Tiền rừng, bạc biển, công danh sự nghiệp lẫy lừng cũng chẳng đem lại lợi lộc gì cho kẻ đã chết.
Theo Giáo Huấn của Hội Thánh Công Giáo: Chết không phải là chấm dứt nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới.
Đời nầy và đời sau là hai giai đoạn của một cuộc sống
Hôm nay, con lăng quăng ngo ngoe trong vũng nước, nhưng mai đây nó sẽ hoá thành muỗi, giã từ vũng nước và bay sang môi trường khác.
Hôm nay, con sâu còn nằm yên trong tổ kén; mai đây, nó hoá bướm bay lượn đó đây.
Hôm nay, hạt lúa bị chôn vùi trong bùn đất, tưởng sẽ mục nát đi, ai ngờ mấy tháng sau nó hoá thành bụi lúa sum suê mang nhiều bông hạt…
Con lăng quăng mạt hạng kia, con sâu tí ti hèn hạ kia hay hạt lúa bé nhỏ kia… còn có đời này và đời sau, không lẽ con người là tác phẩm tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại chỉ có đời này mà chẳng có đời sau?
Thực ra, hôm nay, con người “ở trọ” trên mặt đất, nhưng mai đây sẽ từ giã nhà trọ trần gian để bước sang một thế giới khác.
Như thế, chết không phải là bị tiêu diệt, nhưng là biến đổi. Thánh Phaolô viết:“Chúng ta sẽ không chết, nhưng hết thảy chúng ta sẽ được biến đổi… vì chưng cái hư hoại nầy sẽ mặc lấy bất hoại, đồ chết dở nầy sẽ mặc lấy trường sinh bất tử. (I Cor 15, 51. 53).
Chúa Giê-su dạy có sự sống đời sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giê-su về cuộc sống đời sau, Chúa Giê-su khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giê-su cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời.” (Mt 25,46) Như thế, Chúa Giê-su khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giê-su còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.
Sự kiện Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết chứng tỏ có sự sống đời sau
Dù là Thiên Chúa quyền năng, Chúa Giê-su đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống kiếp phàm trần như chúng ta, đã chết như chúng ta và qua ngày thứ ba, Ngài đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển. Điều nầy chứng tỏ loài người có sự sống đời sau.
Công trình cứu chuộc của Chúa Giê-su chứng tỏ có sự sống đời sau
Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su là hoàn toàn vô ích; cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?
Để mang lại cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau cho muôn người, Chúa Giê-su đã không ngại trao hiến thân mình. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho niềm tin vào cuộc sống đời sau trở thành một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng con sống tốt lành thánh thiện để mai đây được hưởng phúc đời đời.
Xin cho niềm hy vọng nầy cũng thúc đẩy chúng con hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng con được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
---------------------------------------
P. Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị rất thân mến !
Suy niệm Lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay, chúng ta thấy, sự chết dường như là một sự “đe TN 32-C162
Suy niệm Lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay, chúng ta thấy, sự chết dường như là một sự “đe dọa” của kẻ “bất lương”, kẻ thống trị bằng cường lực, cường quyền, nói chung là kẻ thủ ác. Vậy, kẻ thủ ác đầu têu là ai, hay nói cách khác kẻ thủ ác số một là ai? Há, không phải là “THẦN CHẾT” hay sao ?! vậy , thần chết đồng nghĩa với sự bại trận, bởi vì ĐỨC KITÔ đã đánh bại tử thần, mở đường cho tất cả những ai đã an giấc ngàn thu.
Vâng , chúng ta thấy Thiên Chúa chính là Tình Yêu là điều hiển nhiên. Nếu , ai biết tháp nhập vào Đức Kitô thì không bao giờ chết, dẫu thân xác thấp hèn chúng ta tạm nghĩ ngơi, sau khi linh hồn chúng ta lìa khỏi xác, dù được mai táng cách nào, cũng trở về bụi tro. Nhưng, linh hồn bất diệt, bởi vì linh hồn là hình bóng bởi Thiên Chúa, hay nói cách khác là Sinh Khí Thần Linh không bao giờ chết được. Nhưng, vì như thánh Phaolo nói : “… bởi vì không phải ai cũng có đức tin .”(2Tx 3, 2b)
Vậy, đức tin của người Công giáo là : “Tin xác loài người ngày sau sống lại .. tin hằng sống vậy…”. Vâng, đức tin Công giáo hoàn toàn có cơ sở. bởi vì, Đức Kitô là “ĐẦU”, Đầu sống vĩnh hằng, thì Thân Mình không thể chết được. Đây là điều chắc chắn, mà các thánh đã đi qua , đã cảm nghiệm và đã minh chứng cách trung kiên. Tuyên xưng đức tin bằng máu đào, không phải có từ thời Đức Kitô rao giảng công khai và cứu chuộc, nhưng, đã có từ thời Cựu Ứơc, sách II Mcb đã cho thấy điều đó. Bảy anh hùng tử đạo cùng với mẫu thân kiên cường anh dũng mà Bài đọc I hôm nay nhắc đến (2 Mcb 7, 1-2 ; 9 -14 ), là một tấm gương anh dũng muôn đời cho đức tin và sự sống muôn đời nơi những linh hồn thánh thiện bất tử. Vâng, sự bất tử của các thánh, theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là một minh chứng xác tín về sự sống vĩnh hằng.
Vâng, chính vì điều ấy, Thiên Chúa đã tự xác tín cho loài người qua cuộc Khổ Hình sinh ơn Cứu Độ của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu- Kitô.
Tin Mừng hôn nay ( Lc 20, 27 -38), qua thánh Luca, Chúa Giêsu xác tín sự sống lại của loài người có đức tin và trên hết Người xác tín rằng : “… tất cả đều đang sống .” ( Lc 20, 38b)
Vâng, Đấng Hằng Sống xác tín điều hằng sống, mà chúng ta không tin, thì chúng ta là những kẻ mù quáng đến cực độ. Một sự mù quáng tin theo thần chết thì chúng ta làm sao cùng sống với Đức Kitô.
Sự sống vĩnh hằng không thể diễn tả bằng con mắt thể lý, nhưng được bày tỏ theo nhãn quan đức tin. Vì, Thiên Chúa hằng sống vô biên, không thể theo sự hữu hình mau tan biến .
Chúng ta tin vào Đức Kitô, vì trong Thiên Chúa không có sự chết, kẻ chết, vì vậy, “TẤT CẢ ĐỀU ĐANG SỐNG “, đó là LỜI HẰNG SỐNG từ Đức Giêsu- Kitô, Đấng đã PHỤC SINH.
Lạy Chúa Giêsu , Ngôi Lời Hằng Sống, xin thương ban cho chúng con biết bước theo Người, để đáng nhận được sự sống muôn đời bởi Chúa mà ra./. Amen.
---------------------------------------
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Chết là hết hay chết là đi về một thế giới khác? Các nhà bác học, triết học cũng chưa ai giải TN 32-C163
Chết là hết hay chết là đi về một thế giới khác? Các nhà bác học, triết học cũng chưa ai giải đáp thỏa đáng được nỗi băn khoăn của con người. Dù cho quan niệm vô thần bảo rằng chết là hết thì vẫn không làm an tâm người đang sống hưởng thụ. Hầu hết các tôn giáo đều quan niệm rằng chết chưa phải là hết, nhưng chết là được đưa sang một thế giới khác hoặc được đưa đến một chỗ nào đó để tiếp tục sống.
Người Xađốc không tin có sự sống lại, người Do thái thì tin. Để tranh luận với Chúa Giêsu về việc kẻ chết sống lại, họ đã dựa vào luật Môsê: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng, để gầy dựng một dòng giống cho anh em mình.” từ đó, họ nêu lên một trường hợp: nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Cứ thế sáu anh em còn lại tiếp tục lấy cô vợ góa ấy; nhưng bảy anh em đều chết mà không ai để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết: “Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy là vợ của ai, vì cả bảy đều lấy nàng làm vợ?”
Để trả lời, Chúa đưa ra hai sự sống khác biệt giữa hai thế giới khác nhau: “ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.” Chúa Giêsu phủ nhận quan điểm cho rằng đời sau chỉ là tiếp nối đời này, và không thể so sánh giữa đời này với đời sau sau khi sống lại; đồng thời, Ngài dùng bằng chứng về các tổ phụ như Ápraham, Ixaác và Giacóp đang sống để khẳng định về niềm tin kẻ chết sống lại.
Người ta chỉ đối diện với thực trạng cái chết cho cuộc sống hôm nay về thân xác mà chưa ai biết được phần linh thiêng sẽ tồn tại và sống thế nào trong cõi mai sau. Nhưng cuộc sống đời sau ở một thế giới nào đó lại là kết quả của cuộc sống hôm nay: khi còn sống, ăn ngay ở lành thì sẽ được sống hạnh phúc, nhưng sống độc ác sẽ chịu hình phạt. Đó là luật nhân quả. Nhưng có một điều không tôn giáo nào, không triết thuyết nào quan niệm rằng con người chết đi rồi sẽ sống lại và sống vĩnh cửu không bao giờ chết nữa như Kitô giáo dạy. Đây là một niềm hy vọng tuyệt vời. Đời sống con người không phải là một cuộc hành trình dẫn đến nơi mơ hồ nào đó, nhưng là đến một miền đất hứa của đời sống vĩnh cửu. Niềm hy vọng ấy không dựa trên bất cứ điều gì của con người, nhưng trên quyền năng và lời của Thiên Chúa. Ngài liên kết chúng ta lại thành một dân mới đang hành trình trong hy vọng về miền đất hứa của sự sống đời đời. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta không phải để chết nhưng để sống đời đời: “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”(Ga 3:16)
Sau cái chết của thân xác, con người sẽ phải trải qua một cuộc phân loại như thợ gặt phân loại lúa tốt và cỏ lùng. Vào ngày phán xét chung, khi các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước Con Người: “ Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên và dê.” Chiên và lúa tốt là những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết. Họ sẽ sống theo một trật tự khác. Họ không thể chết nữa và họ được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái của Thiên Chúa, con cái của sự sống lại.
Cái chết là sự vượt qua để bước vào cuộc sống mới. Điều tốt nhất giúp chúng ta đối diện với thực tế của cái chết là đức tin. Đức tin giúp chúng ta can đảm và hy vọng vào tình yêu của Thiên Chúa. Niềm hy vọng sống lại của người Kitô hữu dựa vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Mọi người ai cũng chết, nhưng không phải ai cũng sống. Thảm kịch của cuộc đời là đến khi cuộc đời chấm dứt chúng ta mới nhận ra chúng ta chưa từng sống thực được bao giờ cả!
---------------------------------------
Lm. Giacobe Tạ Chúc
Mỗi một tôn giáo đều có những quan niệm về cuộc sống sau khi chết. Vì suy cho cùng, nếu lý TN 32-C164
Mỗi một tôn giáo đều có những quan niệm về cuộc sống sau khi chết. Vì suy cho cùng, nếu lý giải chết là hết xem ra không ổn chút nào. Con người “linh ư vạn vật”, “thác là thể phách hồn còn tinh anh”. Phật Gíao có Niết bàn, Hồi Giáo có miền thiên đàng cực lạc. Ki-tô Giáo đó là cuộc sống hạnh phúc trong Nước Trời. Dưới rất nhiều nhãn quan, người ta không thể chối bỏ một cuộc sống sau khi đã chết. Nếu vậy ý nghĩa của đời người thật phi lý, thật buồn nôn, như nhận định của triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre.
Những người Sa-đốc chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp. Theo quan niệm của ông Pla-ton thì thân xác con người là ngục tù giam hãm linh hồn. Con người từ thượng giới đã bị vong thân, nên giải thoát là ra khọi ngục tù thân xác. Vì vậy, khi nghe Đức Giê-su nói về sự sống lại thì họ không thể chấp nhận. Đã mong cứu cánh đời mình là ra khỏi nó để bay vào thế giới ý tưởng, hay là thượng giới. Thật không thể hiểu nổi khi phải sống lại trong thân xác, mà trường phái Pla-ton rất xem thường. Để biện hộ cho lập trường của mình, những người Sa-đốc bèn đưa ra một câu chuyện phù hợp với luật Mô-sê dạy, nhưng rất khó xảy ra không đời sống thường ngày, nếu không dám nói là nó không có thật. Một phụ nữ kết hôn trong một gia đình với bảy anh em trai. Vì theo luật, khi người anh chết đi mà người vợ chưa có con, thì buộc người em kế tiếp sẽ cưới chị dâu đó làm vợ mình. Bảy anh em cùng chung một số phận, đều là chồng của người vợ này và hết thảy đều chết. Vấn nạn trở nên vô cùng éo le, khi vào ngày sống lại, làm sao để giải quyết các trường hợp này. Đức Giê-su chẳng đưa ra một phán quyết hay lời giải thích nào. Ngài chỉ khẳng định: “ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là hưởng phúc đời sau, và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng” (Lc 20, 34-35). Như vậy, Đức Giê-su qua lời giải đáp đã bật mí cho con người biết sự khác nhau giữa đời này và đời sau. Vì Thiên Chúa là Chúa của những kẻ sống, chứ đâu phải của những người đã chết.
Trong những tuần gần hết năm phụng vụ, các bài đọc lời Chúa như được trưng bày qua lăng kính cánh chung. Cuộc sống sau này và số phận mỗi người, sẽ được định đoạt tùy theo những việc mình làm. Thiện ác sẽ được giải quyết một cách dứt khoát. Và Thiên Chúa của tổ phụ Aqp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ac, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Ngài cũng chính là Chúa của mọi con người trên khắp cõi trần gian. Nguyện xin Ngài đưa dẫn tất cả anh chị em vào cõi sống, phúc vinh muôn đời. Amen.
---------------------------------------
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến.
Chúng ta đang ở trong tháng 11, và trong tháng này Giáo hội kêu gọi chúng ta hy sinh thời giờ TN 32-C165
Chúng ta đang ở trong tháng 11, và trong tháng này Giáo hội kêu gọi chúng ta hy sinh thời giờ cầu nguyện cho những người đã chết, ông bà, cha mẹ, thân thuộc và những người đã sống trong cộng đoàn giáo xứ đã qua đời. Và cũng trong tháng này, chúng ta được kêu mời suy niệm về sự chết và cuộc sống đời sau, qua giáo lý của Giáo hội, và qua những bài Kinh thánh trong những tuần cuối cùng của năm Phụng vụ.
Quả thực, như chúng ta biết, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời, chính vì thế mà mọi người chúng ta cố gắng tìm đủ mọi cách tránh nói, tránh đề cập đến hay nghĩ về sự chết. Và có nhiều người phủ nhận cái chết sẽ không đến với họ.
Trong ngôn ngữ Việt hay Mỹ, mọi người đều tránh nói đến hay đề cập đến sự chết. Tiếng Việt, người chết được gọi là người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi trước chúng ta. Tiếng Mỹ, người chết được gọi là passed away, deceased, deparded. Nhưng muốn hay không, cái chết là một sự thật, là một định luật của tạo hóa, có sinh thì phải có tử. Sự chết đến bằng nhiều cách: bệnh, già, tai nạn và thiên tai. Chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt chết, và chúng ta chứng kiến cái chết qua các qua những phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí mỗi ngày.
Thật vậy, đối với những người không có niềm tin, sự chết quả là một sự tuyệt vọng và phi lý nhất trong cuộc sống, nhưng đối với những người có niềm tin, thì chính sự chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, và đó là thái độ mà mỗi Kitô hữu chúng ta khi đứng trước phần mộ của người đã chết. Cái chết mang lại ý nghĩa và hy vọng cho chúng ta, bởi vì chúng ta xác tín rằng bên kia cái chết, cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Đây là niềm tin, là niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi sống mỗi ngày, và cũng là lý do tại sao chúng ta cầu nguyện cho người thân yêu đã chết.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vững tin và hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại mà chính Ngài là sự sống lại. Sự phục sinh của Chúa Giê-su là bảo chứng cho sứ vụ cứu độ, cho của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Thật vậy, đức tin của chúng ta được xây dựng trên sự phục sinh của Chúa Giê-su, như lời thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta thật là hão huyền.” Trong Kinh Tin Kính chúng ta vẫn thường đọc: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.” Chúng ta đọc và chúng ta vẫn tin như thế, nhưng không phải tất cả mọi người đều tin như vậy.
Trong bài Tin mừng hôm nay, những người Sa-đốc, không tin có sự sống vĩnh cửu đời sau, không tin có thiên thần, không tin có linh hồn bất tử, không tin có thưởng phạt, cho nên họ không tin có sự sống lại. Chính vì vậy, họ đến gặp Chúa Giê-su với ý định muốn gài bẫy để làm nhục Ngài trước mặt mọi người. Họ đưa ra câu chuyện bảy anh em đều cưới một phụ nữ, và chất vấn Chúa, khi sống lại, người phụ nữ này sẽ là vợ của ai? Đây quả là một câu hỏi khó và là cạm bẫy, nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu đã trả lời cách rõ ràng cho họ dựa trên lý luận và trên Kinh Thánh. Chúa cho họ biết những ai được Chúa xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng, nghĩa là họ đã trở nên con cái Thiên Chúa, họ như những thiên thần, họ sẽ không còn chết nữa, họ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, sự sống phục sinh khác xa với sự sống ở trần gian này.
Ông bà anh chị em thân mến. Đức tin vào sự phục sinh sống lại của Chúa Giê-su mang lại ý nghĩa, niềm phấn khởi và hy vọng cho cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta hôm nay. Mặc dù phải đối diện hay phải trải qua nghịch cảnh, phải qua sự khó khăn, nhục nhằn và khổ đau, mặc dù phải hy sinh hay chịu thiệt thòi, với niềm xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, chúng ta tìm được can đảm để sống Lời Chúa và trung thành làm chứng cho Chúa. Sự phục sinh của Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta hy sinh phục vụ tha nhân, cũng như bác ái và quảng đại để xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa. Và với niềm xác tín vào sự phục sinh của Chúa, chúng ta tìm được bình an và vui mừng ở đời này, và nhất là hạnh phúc vĩnh cửu trong cuộc sống đời sau, như lời Chúa quả quyết với chúng ta: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa.”
Vì là những người có đức tin vào sự phục sinh và lời của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta biết về sự sống lại và thưởng phạt vĩnh cửu trong đời sống ngày sau, cho nên ngày hôm nay chúng ta hãy sống như những người con của Thiên Chúa, và như những người quản lý khôn ngoan và tốt lành của Ngài, có lòng hy sinh phục vụ, giúp đỡ, chia sẻ với người nghèo khổ, và có lòng quảng đại, bác ái đóng góp xây dựng Nước Chúa và làm sang danh Chúa nơi trần gian.
Một câu chuyện dụ ngôn kể về một người giàu có kia, khi gần chết lòng trí vẫn chỉ nghĩ đến tiền của, là động lực đã thúc đẩy ông khổ cực suốt cả cuộc đời. Dùng chút sức tàn, ông cố lấy chiếc chìa khóa dấu ở gầm giường và trao cho người con thương yêu của ông. Ông nhà giàu ra dấu chỉ chiếc rương nằm trong góc nhà, và bảo người con lấy những túi vàng và đô la ở trong đó bỏ vào quan tài. Sau khi chết, ông gặp thánh Phê-rô, và được thánh Phê-rô chở vào khu ông sẽ cư ngụ. Khi đi ngang qua khu nhà khang trang đẹp đẽ như ngôi nhà ông ở dưới trần thế, ông liền nói với thánh Phê-rô ông muốn ở đây, nhưng thánh Phê-rô nói với ông khu này đã có người ở và đặt cọc rồi. Thánh Phê-rô tiếp tục chở ông đến khu nhà lụp xụp, và dẫn ông đến một ngôi nhà tại đó. Ông nhà giàu bất bình phản đối và nói: “Thưa ngài, tôi không thể sống nơi đây và trong ngôi nhà này được. Tôi xin xây một ngôi nhà khác với số vàng và đô la tôi mang theo đây.” Thánh Phê-rô mỉm cười và nói với ông: “Thưa ông, đô la và vàng không có giá trị ở trên đây. Chúng tôi chỉ dùng tiền và những vật liệu mà trong cuộc sống trước đây, ông đã gởi lên để xây nhà cho ông mà thôi. Nếu ông không muốn ở khu này, thì dưới kia còn nhiều chỗ lắm.” Chúa hứa sẽ chuẩn bị một chỗ cho chúng ta, nhưng chúng ta phải gởi tiền và vật liệu để xây khi chúng ta còn ở dưới trần thế này.
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải và khẳng định cho chúng ta tín điều về sự sống lại và đời sống đời sau. Chúng ta tự hỏi phải sống như thế nào, và thể hiện niềm tin ấy bằng cách nào trong đời sống hôm nay để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời ngày sau. Xin Chúa ban ơn lành và sự khôn ngoan cho chúng ta.
-----------------------------------
Chỉ với niềm tin vào màu nhiệm sống lại, chúng ta mới sẵn sàng vác Thánh Giá và chết với Đức TN 32-C166
TMĐP- Chỉ với niềm tin vào màu nhiệm sống lại, chúng ta mới sẵn sàng vác Thánh Giá và chết với Đức Giêsu để được sống lại với Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa.
Bất cứ ai vào đời làm người đều sợ chết, vì chết là chấm dứt sự sống đời này, mà phía sau của dấu chấm hết của sự sống ấy, không người nào biết ở đấy có gì, vì không ai đã bước vào và có kinh nghiệm. Thế nên người ta sợ nói về sự chết, tránh nghĩ đến giờ chết, tìm cách quên đi mình sẽ phải chết và tự lừa dối mình bất tử.
Sở dĩ con người sợ hãi, tránh né, tìm cách quên đi và tự lừa dối mình bất tử trước sự chết, vì không ai nói cho con người biết chết là gì, và những gì tiếp liền sau sự chết.
Đặt câu hỏi về sự sống lại với Đức Giêsu, những người thuộc nhóm Xađốc với chủ trương không tin vào sự sống lại đã muốn biết đích xác có sư sống lại thật hay không, và nếu có, con người sống lại từ cõi chết sẽ như thế nào ?
Những người này đưa ra vấn nạn với Đức Giêsu, vì ít nhiều họ cũng tin Ngài là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, qua những lời Ngài dạy và những phép lạ Ngài làm.
Khi trả lời câu hỏi: có người đàn bà kia khi sống đã lần lượt làm vợ của cả bảy anh em trong một nhà, vì không người chồng nào đã sống lâu với bà, vậy trong ngày sau cùng, khi tất cả được sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai? Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta những gì ở phía sau sự chết, khi chúng ta được sống lại.
Ngài dứt khoát khẳng định có sự sống lại, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của người chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38), bởi khi Đức Chúa nhận mình là “Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp” Ngài đã kết nối với các vị, cũng như với những ai tin vào Ngài một tương quan mật thiết không bao giờ tàn lụi, nhưng đời đời bất tử. Ngài quả quyết những người sống lại từ cõi chết không cưới vơ lấy chồng như con cái đời này, nhưng “ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20,36).
Như thế, Đức Giêsu không chỉ mặc khải mà còn bảo đảm với chúng ta đời sau là đời sống hạnh phúc, vì những người được sống lại là con cái Thiên Chúa; là những người đã chấp nhận bị khai trừ khỏi cuộc đời hiện tại, chấp nhận chết vì tin rằng Vua vũ trụ mà họ tôn thờ, phụng sự sẽ cho họ sống lại để hưởng sự sống đời đời như anh em nhà Macabê, anh hùng tử đạo của Ítraen (x. 2 Mcb 7, 9), và như đoàn lũ đông đúc không sao đếm nổi trải qua từ đời nọ đến đời kia đã sống tinh thần Bát Phúc của Đức Giêsu (x. Mt 5,1-12).
Quả thực, trong một xã hội ngày càng không tin vào màu nhiệm phục sinh, không tin vào đời sau, không tin vào Đức Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết để những ai “cùng chết với Người sẽ được cùng sống với Người” (2 Tm 2,11), nhưng chủ trương cuộc đời sẽ kết thúc, mọi người sẽ chết và tất cả trở về hư vô, người Kitô hữu chúng ta cần xác tín niềm hy vọng, niềm vui và hạnh phúc đích thực của chúng ta là triều thiên dành cho con cái Thiên Chúa trước nhan Ngài trong ngày sống lại.
Vâng, chỉ với niềm tin vào màu nhiệm sống lại, chúng ta mới sẵn sàng vác Thánh Giá và chết với Đức Giêsu để được sống lại với Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa.
Jorathe Nắng Tím
----------------------------------------
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Bên kia sự chết là cái gì? Đó là câu hỏi luôn làm lương tâm con người mọi thời đại day dứt. Nhìn TN 32-C167
Bên kia sự chết là cái gì? Đó là câu hỏi luôn làm lương tâm con người mọi thời đại day dứt. Nhìn chung, các tôn giáo thường có mục đích nghiên cứu và tìm cách đưa ra câu trả lời cho vấn nạn này. Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ. Người Do Thái suy tư về ý nghĩa cuộc đời và về sự sống sau khi chết. Sách Macabê thuộc loại văn chương ảnh hưởng văn hoá Hy Lạp, được viết vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Tác giả khẳng định: bên kia sự chết là sự sống. Đó là hạnh phúc dành cho những ai trung thành với Chúa. Thiên Chúa là quan toà xét xử con người và sẽ ban thưởng cho những ai sống đạo đức, mến Chúa yêu người. Câu chuyện về người phụ nữ và bảy người con lần lượt bị giết trước mặt người mẹ được viết lại như một tấm gương khích lệ cho các thế hệ mai sau, đồng thời diễn tả niềm tin vào đời sau của Do Thái giáo. Bà là người can đảm, khuyên các con đừng nhụt chí trước đao phủ và kẻ quyền thế. Bởi lẽ quan quyền thế gian chỉ giết được thể xác mà không thể giết được tâm hồn. Chúng ta thấy bà là người mẹ phi thường. Nếu bà có chí khí kiên cường như vậy, là vì bà tin vào sự sống đời sau và tin vào quyền năng của Thiên Chúa tối cao.
Kitô giáo cũng cùng chung niềm tin với người Do Thái về hạnh phúc đời sau, tuy có những khác biệt. Cũng lại là con số “bảy”, nhưng lần này là bảy người cùng lấy một người phụ nữ làm vợ. Câu hỏi do phái Sađốc đặt ra, nhằm chế giễu và gài bẫy Chúa Giêsu, vì phái này không tin vào sự sống lại. Quả vậy, nếu có sự sống đời sau thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng Người khẳng định có sự sống đời sau. Khi đó, con người sẽ trở nên thần thiêng, giống như các thiên thần. Họ không còn cưới vợ lấy chồng, vì là con cái của sự sống lại. Chúng ta tưởng tượng, nếu đời sau con người lại lấy vợ lấy chồng, thì đương nhiên lại có sinh sản và chắc chắc sẽ lại có …ly dị. Như vậy, đâu còn là hạnh phúc thiên đàng, nơi được trình bày như hạnh phúc hoàn hảo vì được chiêm ngắm Chúa và được sống trong tình yêu trọn vẹn.
Cũng liên quan đến sự chết, có biết bao vấn nạn khác thường được đặt ra: Người ta chết chôn trong mồ, trở thành cát bụi, làm sao sống lại? Những người mất một phần chi thể, khi sống lại sẽ ra sao? Trước khi chết, người ta già nua, bệnh tật xấu xí, khi sống lại sẽ ở tình trạng nào? Không ai có thể đưa ra một câu trả lời chính xác, vì họ không phải là Thiên Chúa và vì họ chưa bao giờ từng trải những kinh nghiệm và những trường hợp nêu trên. Những trả lời, nếu có, chỉ là suy luận của lý trí con người. Tuy vậy, đối với Chúa, “không có gì mà Ngài không làm được”. Từ ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình con người và thở sinh khí làm cho con người có sức sống – theo cách trình bày của tác giả sách Sáng thế. Cũng vậy, vào ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ làm cho bụi đất trở thành con người. Nói đúng hơn là Thiên Chúa tái tạo con người từ bụi đất, là thành phần còn lại sau khi được an táng trong lòng đất. Vì vậy, khi suy tư về vận mệnh tương lai của thân phận con người, chúng ta tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa, với niềm xác tín Ngài luôn muốn những điều tốt cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta vững lòng trông cậy nơi Ngài, như Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn tín hữu Thêxalonica (Bài đọc II).
Trong tháng 11 dương lịch, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã qua đời. Việc cầu nguyện cho người đã qua đời cũng là khẳng định họ vẫn tồn tại sau khi chết. Các linh hồn nơi luyện ngục đang chờ đợi được thanh tẩy để xứng đáng ra trình diện trước nhan Chúa. Việc cầu nguyện và những việc lành phúc đức của chúng ta sẽ rút ngắn thời gian tinh luyện của các linh hồn nơi luyện ngục, cho họ sớm được hưởng Thánh Nhan Chúa trên quê hằng sống. Việc cầu nguyện cho người đã qua đời cũng mời gọi chúng ta suy tư về sự chết và về sự sống đời sau. Nghĩ đến sự chết sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, đồng thời hối thúc chúng ta làm những việc lành, vì những việc tốt chúng ta làm đều được Chúa ghi nhận và thưởng công.
Hạnh phúc thiên đàng không phải là ngẫu nhiên và cho hết mọi người, nhưng là kết quả cuộc một cuộc đời sống tốt lành, mến Chúa yêu người và nhiệt thành làm việc thiện. Vào lúc tạm biệt trần thế, chúng ta đâu có mang theo được của cải bạc tiền, nhưng là ân nghĩa và phúc đức chúng ta đã thực hiện khi sống trên trần gian. Một tác giả đã viết rất sâu sắc: “Khi ta sinh ra, ta khóc, mọi người cười. Hãy sống sao để khi rời cõi thế, mọi người khóc mà ta cưỡi mãn nguyện”. Cái “cười” của người ra đi, đó chính là sự thanh thản, không ân hận, nhưng hài lòng vì mình đã sống đẹp trên trần gian, lúc ra đi để lại thương nhớ và những kỷ niệm đẹp nơi mọi người, để rồi hình ảnh đẹp của họ sẽ lắng đọng nơi người thân mãi mãi.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Niềm tin vào cuộc sống mai sau đã bén rễ sâu vào tâm trí nhân loại từ rất xa xưa. Khi mai táng TN 32-C168
Niềm tin vào cuộc sống mai sau đã bén rễ sâu vào tâm trí nhân loại từ rất xa xưa.
Khi mai táng người chết, các bộ tộc thời thượng cổ chôn cả những dụng cụ săn bắn chung với người qua đời vì tin rằng người quá cố sẽ tiếp tục sử dụng chúng khi bước qua thế giới khác.
Các vua chúa Trung quốc thời xưa thì cho chôn luôn cả hoàng hậu, phi tần, quân hầu… theo mình để những người này tiếp tục hầu hạ, phục dịch nhà vua trong thế giới bên kia.
Người Bana, Jarai cùng một số các dân tộc khác đang sinh sống ở Tây Nguyên tin rằng khi qua đời, người chết lại bắt đầu một cuộc sống mới, tiếp tục lao động, sản xuất, sinh sống như ở cõi trần. Vì thế, người ta chôn theo người chết nhiều vật dụng từ các loại nông cụ đơn giản như liềm để cắt lúa; rìu và xà gạt để chặt cây, phát rừng làm rẫy; xà bách để làm cỏ... đến các thứ chén bát, xoong, nồi, vàng bạc… để khi về thế giới bên kia, người chết có của mà dùng.
Tại Việt Nam, mỗi năm vào chiều ngày 30 tết, nhiều gia đình có nghi lễ đón rước ông bà cha mẹ đã qua đời về ăn tết với con cháu, trình báo lên ông bà tổ tiên những sinh hoạt quan trọng trong năm, rồi có lễ đưa tiễn ông bà vào chiều mồng 3 tết.
Những hình thức tín ngưỡng này biểu lộ niềm tin vào linh hồn, vào sự sống đời sau.
Tuy nhiên, thời xưa cũng như hiện nay, vẫn còn nhiều người không chấp nhận sự sống đời sau, trong số đó, có những người thuộc phái Xa-đốc thời Chúa Giêsu, được thuật lại trong Tin mừng thánh Lu-ca trích đọc hôm nay.
Chúa Giêsu dạy có sự sống đời sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giêsu về cuộc sống đời sau, Chúa Giêsu khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).
Đặc biệt là qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Như thế, Chúa Giêsu khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở... Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giêsu còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.
Sự kiện Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết chứng tỏ có sự sống đời sau
Dù là Thiên Chúa quyền năng, Chúa Giêsu đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống kiếp phàm trần như chúng ta, đã chết như chúng ta và qua ngày thứ ba, Ngài đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển. Điều nầy chứng tỏ loài người có sự sống đời sau.
Công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu chứng tỏ có sự sống đời sau
Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì Chúa Giêsu chịu khổ nạn cách đau đớn và chịu chết tức tưởi, ô nhục trên thập giá để làm gì? Cái chết đau thương của Chúa Giêsu trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Cuộc khổ nạn đó hoàn toàn vô ích. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?
Chính vì muốn cứu loài người khỏi phải án phạt đời đời trong hỏa ngục và để cho họ được tiến vào thiên đàng hưởng phúc đời sau nên Chúa Giêsu đã không ngại trao hiến thân mình chịu chết đau thương như thế. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho niềm tin vào cuộc sống đời sau trở thành một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng con sống tốt lành thánh thiện để mai đây được hưởng phúc đời đời.
Xin cho niềm hy vọng nầy cũng thúc đẩy chúng con hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng con được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Lc 20: 27. 34-38: Một trong những chân lý nền tảng của đức tin Công giáo đó là sự phục sinh kẻ chết. Chân lý này được tuyên xưng trong Kinh Tin kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Niềm tin này dựa trên nền tảng chắc chắn là Mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Một trong những chân lý nền tảng của đức tin Công giáo đó là sự phục sinh kẻ chết. Chân lý này TN 32-C169
Một trong những chân lý nền tảng của đức tin Công giáo đó là sự phục sinh kẻ chết. Chân lý này được tuyên xưng trong Kinh Tin kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Niềm tin này dựa trên nền tảng chắc chắn là Mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Đó là niềm hy vọng, là động lực để mỗi Kitô hữu sống cách tốt đẹp, thánh đức hành trình dương thế của mình.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Lc 20,27-38
Thiên Chúa của người sống
Tin mừng ghi lại câu trả lời của Chúa Giêsu về vấn nạn của những người Sadducêô, một trong những nhóm người Do thái quan trọng thời bấy giờ. Nhóm này nghi ngờ và chối bỏ niềm tin kẻ chết sống lại. Chúa Giêsu khẳng định sự phục sinh của kẻ chết.
a. Những người Sadducêô (nghĩa là con cháu của Sadoc), thuộc chi họ Lêvi (Ed 40,46), là giai cấp tư tế. Từ lâu họ không còn giữ đạo cách thuần túy nữa. Họ chỉ chú trọng đến việc phượng tự bên ngoài và ít quan tâm đến các giáo điều tôn giáo. Họ thoả mãn với những việc phụng tự của mình. Họ phủ nhận sự sống lại mặc dầu có tin linh hồn bất tử, nhưng khi chết linh hồn ở trong Shéol. Với họ, niềm tin vào sự sống lại là chuyện do con người tạo ra chứ trong Kinh thánh (Ngũ Thư) không có xác quyết.
b. Niềm tin vào sự sống lại xuất hiện trước thời Chúa Giêsu khoảng hai thế kỷ với Đaniel (Đn 12,2-3). Chúa Giêsu không dựa vào Đaniel để trả lời vấn nạn vì những người Sadducéens không chấp nhận. Chúa Giêsu đặt nền tảng trên lề luật: Thiên Chúa là Thiên Chúa của các Tổ phụ, mà Thiên Chúa thì hằng sống, Thiên Chúa của kẻ sống. Vậy các Tổ phụ là những người nghĩa thiết của Chúa thì làm sao chết được.
c. Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu cũng mạc khải cho biết về cuộc sống mai hậu. Cuộc sống này hoàn toàn khác với cuộc sống tại thế này: Con cái đời này lấy vợ gả chồng, còn những người xét đáng được hưởng sự sống lại thì không, họ như các thiên thần. Cuộc sống mới là cuộc sống của con cái Chúa, con cái tự do. Không còn phải nô lệ cho sự chết và tội lỗi nữa. Con cái Chúa đã đạt đến sự bất tử nên không còn cần hôn nhân nữa. Cuộc sống mai hậu không giống và không tiếp nối cuộc sống tại thế này. Tuy nhiên, những gì người ta sống ở trần thế này lại ảnh hưởng đến việc xét xem có đáng được đi vào cuộc sống mới hay không. Ngay tại thế này người ta cũng có thể tiên hưởng, cảm nếm sự sống đời sau nếu biết sống theo ý Chúa.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Tín điều: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại", tín điều không dễ tin
Những người Sadducêô không tin vào sự sống lại. Họ đến chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề này. Những người này không tin vì họ chưa hiểu hết vấn đề, hơn nữa, chính họ cũng chưa hiểu hết lời Kinh thánh đã được mạc khải. Thực ra mạc khải về sự sống lại chỉ có từ Thế kỷ thứ II TCN với Đaniel, và chỉ thực sự rõ ràng với sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô. Đây quả là một vấn nạn không thể hiểu nỗi với lý trí con người, cho dù người ta phần lớn trong nhân loại đều tin tưởng con người có linh hồn bất tử. Nhất là với thời đại ngày nay, khi mà khoa học phát triển thì lý trí con người càng tự mãn với việc cố kéo dài tuổi thọ hơn là chấp nhận có sự sống đời sau, có sự sống lại. Tìm vui hưởng cuộc sống tại thế này hơn là mơ tưởng đến cuộc sống mai hậu. Chính xã hội và con người ngày hôm nay cũng đến để chất vấn Kitô hữu về vấn nạn này như ngày xưa người Sadducêô đã chất vấn Chúa Giêsu.
Vì thế, đức tin của Kitô hữu hôm nay phải đối diện với vấn nạn không dễ giải thích vì dù sao đó cũng là mầu nhiệm đòi phải tin hơn là đi tìm lời giải thích. Chính đời sống đức tin, cung cách sống hiện tại của Kitô hữu sẽ là câu trả lời thỏa đáng cho câu chất vấn của ngày hôm nay.
2. Tin vào sự sống đời sau, một hướng đi cho đời hiện tại
Đối diện với cái chết luôn là một nỗi âu lo, ám ảnh và đáng sợ đối với tâm thức con người. Quan niệm về cái chết và sự sống đời sau như thế nào thì sẽ ảnh hưởng rõ rệt đến cuộc sống và cách sống tại thế này. Phần đông trong tâm thức và niềm tin bình dân của con người nói chung và của người Việt Nam nói riêng thì mô phỏng cuộc sống Cõi Âm cũng giống như ở dương thế vậy. Những người Sadducêô khi chất vấn Chúa Giêsu đưa ra lập luận về hôn nhân, họ cũng nghĩ tưởng đời sống mai hậu như cuộc sống hiện tại mà thôi. Tất cả đều dựa trên kinh nghiệm về cuộc sống hiện tại để suy đoán cuộc sống mai sau. Từ đó, cách sống sẽ hướng theo quan điểm này. Với người Kitô hữu thì khác, câu trả lời của Chúa Giêsu trước người Sadducêô cho thấy cuộc sống đời sau không phải như hiện tại này: không dựng vợ gả chồng, người ta sống như các thiên thần. Điều này không có nghĩa là không còn là người hay đã biến thành các thiên thần nhưng có nghĩa là con người đã thực sự được giải thoát khỏi kiếp nô lệ cho tội lỗi và sự chết, đồng thời, thoát khỏi mọi giới hạn của thế giới này để trở nên bất tử, nên con cái tự do của Thiên Chúa.
Sự sống đó triển nở từ nơi Thiên Chúa, do đó, cách sống của Kitô hữu sẽ là một cách sống được thể hiện bằng niềm lạc quan vui sống, hy vọng và tín thác vào Thiên Chúa. Họ không còn sợ chết nữa và sự chết không làm gì được họ.
3. Từ lời giải đáp vấn nạn của Chúa Giêsu đến việc tôn trọng và bảo vệ sự sống giữa xã hội hôm nay
Sống hiện tại và tin vào cuộc sống mai sau khác với cuộc sống hiện tại này không có nghĩa là cả hai đối lập nhau, tách rời nhau. Trong công trình sáng tạo, sự sống của Thiên Chúa được trao ban cho con người. Với công trình cứu độ cũng chính sự sống phát xuất từ Thiên Chúa được trao ban cho con người được cứu. Sự sống hiện tại và sự sống đời sau đều phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất là Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa chỉ có một, nhưng cách đón nhận của con người và biểu lộ sự sống ấy của con người thì khác. Nói cách khác, sự sống ở đời này và sự sống đời sau đều xuất phát từ Thiên Chúa nên đều được yêu quí và tôn trọng như nhau. Nếu không có sự tôn trọng sự sống đời này, nếu chỉ biết hủy diệt sự sống đời này thì sẽ không bao giờ có sự sống đời sau. Ngày nay, nhân loại đang chứng kiến một nền văn minh của sự chết hoành hành thế giới: chiến tranh, hận thù, chia rẽ, nghèo đói, bất công bạo lực, phá thai, không tôn trọng quyền con người…
Với thực trạng đó, niềm tin vào sự sống lại phải là nỗ lực làm cho con người hôm nay được sống và sống dồi dào ngay từ trần thế này. Niềm tin vào sự sống lại không nhằm tìm cách chốn chạy khỏi thực tại này, nhưng là động lực để dấn thân phục vụ sự sống, bảo vệ và phát triển một nền văn hóa của tình thương và sự sống.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, khi minh chứng có sự sống lại, Chúa Giêsu đã khẳng định Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa hằng sống những ước nguyện của chúng ta:
1. Giáo hội chính là cộng đồng đón nhận và hiệp thông sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho niềm tin vào sự sống lại luôn được loan truyền và phát triển sâu rộng trong mọi thành phần Giáo hội.
2. Nền văn minh của sự chết ngày nay đã và đang đẩy biết bao con người vào trong thảm cảnh bi thương và chết chóc. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia luôn có được sự khôn ngoan để biết đề ra những quốc sách mang lại lòng yêu mến, tôn trọng sự sống, phẩm giá và quyền sống của mọi con người.
3. Sự sống do chính Thiên Chúa ban tặng cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi gia đình trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương, chăm lo phát triển sự sống và nhân cách nơi thanh thiếu niên. Xin cho mọi người trẻ biết yêu quý sự sống của mình để tránh xa những tệ nạn hủy hoại cuộc sống và nhân cách.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương cho chúng con được làm người, làm con Chúa. Xin cho chúng con ngày càng biết phát triển sự sống của mỗi người bằng nỗ lực thăng tiến đời sống trong công bằng, bác ái và thánh thiện. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
---------------------------------
TN 32-C170: Vấn đề kẻ chết sống lại
(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)
Con người có một linh hồn bất tử và sự sống đời sau hay không? Con người chúng ta thường hay TN 32-C170
Con người có một linh hồn bất tử và sự sống đời sau hay không? Con người chúng ta thường hay thắc mắc như vậy.
Có lẽ chúng ta nghĩ rằng các tôi giáo đều dạy là có đời sau. Tuy nhiên, Do Thái giáo lại không chủ trương là có đời sau một cách rõ rệt. Hai trường phái lớn của Do Thái giáo bất đồng ý kiến với nhau về đời sau. Trường phái Saducêo không tin có sự sống lại. Họ chống lại niềm tin vào đời sau của trường phái Pharisêu. Họ nêu chuyện 7 anh em cưới một vợ để bác bỏ niềm tin sống lại.
Ngày nay, giữa cuộc sống không tin vào Thiên Chúa, hay lãng quên Thiên Chúa, gắn chặt vào vật chất trần gian, vào đời sống thực tại trần gian, thì người ta lại thích những chuyện huyền bí. Những cuốn sách ghi lại những kinh nghiệm của những người trở về từ cõi chết lại là những cuốn sách bán chạy nhất Âu Mỹ. Hai tác giả nổi tiếng nhất trong lãnh vực này là bác sĩ Raymond Moody với cuốn "Đời Sau" (Life After Life) và bác sĩ Melvin Morse với cuốn "Được Ánh Sáng Biến Đổi" (Transformed by the Light).
Có người chết lâm sàng 5 phút, có người chết nửa giờ, rồi sống lại. Cả mấy trăm trường hợp, được gọi là sống lại hay hồi sinh, được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính:
1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh.
2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài như bà Betty Eadie kể lại trong cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (trang 39) Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới.
3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria như bà Betty Eadie: "thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi" (trang 191). "Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật... Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương..." (trang 61).
Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong "Ánh Sáng Muôn Năm" (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27).
4. Được biến đổi: "Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết" (Được Ánh Sáng Biến Đổi, trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa "Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới.”
Những kinh nghiệm về cõi đời sau như thế, được kể lại, chúng ta không biết là thực sự đã xảy ra hay không, vì cũng có thể là chuyện tưởng tượng. Tuy nhiên rất có nhiều điều không sai lạc với giáo lý Công giáo mà còn giúp ta biết được một số nét của cõi đời sau.
Ngay chính thánh Phaolô cũng có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: "Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra..." (2Co 12,1-6).
Và chúng ta cũng nhớ đến chuyện thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên. Khi bị hành hình, tuy chưa chết nhưng ngài nhìn lên trời và thấy thị kiến, Ngài la to: “Tôi thấy Con Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa”. Cũng chính vì làm chứng cho sự thật như thế. Stêphanô bị dân Do Thái cho là phạm thượng và ném đá ông cho đến chết.
Tất cả những điều trên giúp ta xác tín thêm về chân lý đời sau mà Chúa Giêsu mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: “Những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau... họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại.” (Lc 20, 34-36).
Niềm tin về sự sống lại, về thưởng phạt đời sau không cho phép chúng ta thờ ơ với vận mạng đời đời của mình. Chúa Giêsu nhiều lần nhắc bảo, chỉ dạy chúng ta về điều này. Ngài dạy hãy vào qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa; được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì.
Xin cho chúng ta biết xây dựng đời sau bằng chính đời này, biết dùng của cải đời này để mua nước thiên đàng mai sau. Nói cách khác hơn, xin cho chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, để đáng được hưởng hạnh phúc với Ngài.
--------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà TN 32-C171
Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Một lần nữa chúng ta lập lại lời tuyên xưng trong kinh tin kính: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.”
1. Chối bỏ việc kẻ chết sống lại
Trong thời Đức Giêsu, ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống xã hội cũng như tôn giáo Do Thái. Ba nhóm ấy là Luật Sĩ, Biệt Phái và Sađucêu.
Nhóm Luật Sĩ và Biệt Phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh Kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy nhiên chính họ lại là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ.
Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do Thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do Thái từ trước thời Đức Giêsu.
Họ chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, và chỉ coi Môsê là vị tiên tri vĩ đại nhất. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm Biệt Phái) vì hai lý do: một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh Kinh (đối với họ chỉ có luật Môsê thôi), hai là họ nghĩ rằng: quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người.
Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Môsê mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23,5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại.
Theo luật Môsê, luật mà Thánh Kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu góa để gây dòng họ cho anh em mình.
Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại. Họ hỏi Đức Giêsu: nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại bà là vợ ai?
Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xảy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại là một việc không thể tin được.
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách bác bỏ quan niệm sai lầm về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng: “con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi. Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa. (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).[ Lm. Giuse Đinh lập Liễm]
2. Khoa học chứng minh có “sự sống đời sau”
Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (cuộc sống sau cõi đời này) vào năm 1975, công chúng Phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (tạm gọi là trải nghiệm sự chết đi sống lại). Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được giới chuyên môn về y khoa xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó họ hồi sinh.
Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm này.
Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng này. Họ đã phỏng vấn 1.370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Có một cuộc sống khác ở "cõi bên kia" và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Điều đặc biệt là sau khi "chết đi sống lại", không ai còn sợ chết nữa, không còn ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. (Willie Hoffsuemmer).
Bác sĩ George Rodonaia, có học vị tiến sĩ trong ngành thần kinh học (về sau nầy cũng là một tiến sĩ tâm lý học tôn giáo) vốn là công dân Liên Xô, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Ông là chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow. Ông đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Ông được giới y khoa xác nhận là chết ngay lập tức sau một vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, được đưa vào nhà xác và được quàn tại đó trong ba ngày. Ông vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng như một phần của công tác khám nghiệm tử thi. Ông thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia và xác quyết rằng chính biến cố nầy khiến ông đổi đời tận gốc rễ.
http://www.nderf.org/Vietnamese/index.htm
Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng.[ Văn Quy, Đi về đâu, trg. 39]
3. Niềm Tin Kitô hữu
Mỗi khi đọc kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng, chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay.
Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”(Cv 2,32; 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu.
Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Một lần nữa chúng ta lập lại lời tuyên xưng trong kinh tin kính: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.” Amen.
-------------------------------
(Suy niệm và Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
Diễn từ này bắt đầu bằng một lời khuyến cáo (cc. 8-9). Chủ đề chỉ được đề cập với các câu 10-11 TN 32-C172
1. Diễn từ này bắt đầu bằng một lời khuyến cáo (cc. 8-9). Chủ đề chỉ được đề cập với các câu 10-11: mô tả các tai họa trong vũ trụ. Diễn từ này bị gián đoạn vì lời khai triển dài dòng về các biến cố sẽ phải đến “trước tất cả các điều đó”, là các biến cố không có giá trị dấu chỉ tiên báo ngày chung cục sắp đến: một đàng là các cuộc bách hại người Kitô hữu sẽ phải chịu (cc.12-19), đàng khác là hình phạt sắp giáng xuống Giêrusalem (cc.20-24). Lúc đó bài diễn từ mới bàn tiếp các tai họa vũ trụ sẽ phải xảy ra khi đến ngày thế mạt (cc.25-33). Diễn từ kết thúc bằng một lời khuyến cáo mới (cc.34-36). Đây là lược đồ qui tâm (expose concentrique) của diễn từ.
A. Lời khuyến cáo đầu tiên (cc. 5-9)
B. Các tai họa vũ trụ (cc. 10-11)
C. Điều xảy ra trước:
a) bách hại người Kitô hữu (12-19)
b) hình phạt Giêrusalem (20-24)
B’. Các tai họa vũ trụ ngày thế mạt (25-33)
A’. Lời khuyến cáo cuối cùng (34-36)
Như vậy đoản văn chúng ta chú giải dừng lại ở giữa bài diễn từ. Tuy nhiên đừng quên rằng mỗi một thành tố đều có ý nghĩa trong toàn thể.
2. Câu người ta hỏi Chúa Giêsu ở câu 7 có hai phần: trước hết hỏi về thời gian (“khi nào?”), đoạn hỏi rõ ràng hơn về dấu chỉ để nhận ra biến cố thực sự đang xảy ra. Cách đặt câu hỏi như thế giống với hai phúc âm nhất lãm kia. Nhưng biến cố Lc nhắm đến là việc phá hủy đền thờ, còn Mt và Mc đi từ việc phá hủy đền thờ sang ngày thế mạt. Rõ ràng hơn Mc 13,4, Mt đặt câu hỏi như sau: “Khi nào các điều đó xảy ra và đâu là dấu chỉ điềm báo ngày Ngài quang lâm và ngày thế mạt đến?” (Mt 24,5). Việc phá hủy Giêrusalem, việc Con Người đến và ngày thế mạt liên hệ mật thiết với nhau. Lc hủy bỏ mối liên hệ đó. Việc phá hủy đền thờ không là thành tố của các biến cố đó. Trong suốt bài diễn từ, Lc cố ý tách rời việc phá hủy đền thờ khỏi biến cố thế mạt, loại bỏ mọi tương quan giữa hai sự kiện đó. Ngay từ đầu, ông đã muốn tránh mọi lầm lẫn giữa hai biến cố. Ông tạm thời lưu tâm đến số phận đền thờ và chỉ đề cập đến ngày thế mạt khi ông có thể minh chứng thế mạt không liên hệ gì đến biến cố năm 70. Câu hỏi trong câu 7 rõ ràng nhắm đến số phận đền thờ, và toàn bộ bố cục diễn từ cũng xác quyết điểm đó.
3. Chúa Giêsu nói lời cứng rắn mạnh mẽ chống lại đền thờ và nói đó được xem như là thời điểm cao nhất trong việc rao giảng phúc âm, vì lời đó tiên báo Israel sẽ bị kết án và loại bỏ. Theo Lc, Chúa Giêsu nói lời đó ngay chính trong đền thờ, sau khi đã thanh tẩy đền thờ, điều đó cho thấy Ngài thực sự quản lý vật sở hữu của Ngài. Đền thờ là dấu chỉ cụ thể Thiên Chúa đang hiện diện giữa dân Người; Israel thấy đền thờ là lý do tồn tại của mình trong tư thế là dân được tuyển chọn. Việc phá hủy từ đây ám chỉ họ đã bị bỏ rơi và cùng khổ, nhục nhã, là những điều mà tiên tri Malakia đã tiên báo (3,21). Trong lúc mọi người hết lời ca tụng, ngưỡng mộ vẻ đẹp đền thờ, Chúa Giêsu chỉ thấy đổ nát thiêu hủy. Qua sự kiện này, Ngài tiếp nối sự nghiệp các tiên tri liên tục tiên báo các sự đổ nát đã xảy ra (Mi 3,9-12; Giêr 7,14; 26,18; Ez 2,21). Đến lượt mình, Chúa Giêsu nói tiên tri và hoàn tất sự đổ nát, vì từ đây Ngài là dấu chỉ duy nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại.
4. Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi về ngày giờ và dấu chỉ cuộc phá hủy Giêrusalem. Thay vì trả lời như thế, c.8 đề phòng các Kitô hữu coi thường các kẻ gian manh sẽ tìm cách đánh lừa họ. Lc trước hết lấy lại phương cách mà Lc đã gán cho họ: họ là những kẻ tự xưng là đến “nhân danh” Chúa Giêsu, họ nói: “chính ta đây”, và tìm cách làm thiên hạ kính trọng họ như là Đấng Kitô. Mc chú tâm nhiều đến hiểm họa Kitô giả, đến nỗi đã nhắc lại trong phần cuối bài diễn từ (Mc 13,21-23); họ sẽ làm nhiều dấu chỉ và phép lạ, và lừa gạt được nhiều người. Lc loại bỏ lời khuyến cáo thứ hai, và việc đề phòng của ông, ở c.8 không xác quyết là họ sẽ thành công trong việc lừa gạt thiên hạ.
Ngược lại Lc thấy trước một hiểm họa khác, đối với ông xem ra khẩn trương hơn: hiểm họa các người gian manh loan báo “thời giờ đã đến gần đến”. Theo Lc, đó là “thời giờ” nào? Dựa vào câu hỏi ở c.7, người ta có thể nghĩ đó là thời gian tàn phá đền thờ. Nhưng chắc chắn Lc không nghĩ đến điều đó. Ta thấy được điểm này nhờ câu thiếp theo, là câu nói đến tai ương mà người ta chỉ có thể kết luận là “ngày tàn” của các tai ương đó sắp chấm dứt. Diễn từ tiếp tục đề cập đến các dấu chỉ, theo đó có thể biết là “sự cứu thoát các con đã gần kề” (c.28), và “Nước Thiên Chúa đã gần đến” (c.31). Sai lầm mà Lc muốn người Kitô hữu đề phòng là sai lầm trong ông lưu ý trong 19,11: “Chúa Giêsu lại nói thêm một dụ ngôn nữa, vì Ngài đã đến Giêrusalem, và người ta tưởng rằng liền ngay đó nước Thiên Chúa sẽ xuất hiện”. Đây là hiểm họa làm Lc lo lắng: là các Kitô hữu háo hức nghe theo ảo giác của những kẻ tưởng giờ thế mạt đã gần kề, rằng Nước Thiên Chúa sắp tỏ hiện trong vinh quang, rằng Con Người sẽ ngự xuống trên đám mây. Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ và sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin: người ta sẽ thôi chờ đợi, không sống trong hy vọng nữa. Chính vì thế Lc nhấn mạnh: “Các con chớ nghe theo chúng”.
Câu 9 cũng cản giác một nguy hiểm tương tự: nguy hiểm giải thích các biến cố (không chút liên hệ đến thế mạt) như là dấu chỉ ngày thế mạt đã gần kề. Theo Mc, người ta sẽ nghe nói về chiến tranh giặc giã; Lc xác định rõ hơn: “Có chiến tranh và hoan lạc”, là chữ chỉ các cuộc nổi dậy, phản động, và người ta nghĩ ngay đến cuộc nổi dậy của dân Do thái. Lúc bấy giờ chớ sợ hãi. Mc giải thích: “các điều đó sẽ phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận thế”. Ở đây Lc cũng xác định và nhấn mạnh rõ: “Các điều đó phải đến trước, nhưng chưa phải là tận cùng ngay đâu”. Đối với Mc, chiến tranh giặc giã chỉ là dấu chỉ xa của ngày tận thế thì ra chúng biểu hiện “giờ đau khổ đã điểm” (Mc 13,8). Trong Lc, chiến tranh, nổi loạn không có giá trị dấu chỉ tiền phong, dù là dấu chỉ xa; chúng không liên hệ gì với ngày tận thế. Chúng phải xảy ra trước, nhưng không phải là lời loan báo về ngày tận thế.
Lc biết ngày tận thế không thể đến ngay. Ông sợ các ảo giác về vấn đề này sẽ làm lung lạc đức tin của Kitô hữu, khiến họ phải thất vọng. Lời khai mào diễn từ cánh chung đã bị ảnh hưởng bởi mối ưu tư về nguy hiểm trên.
Vì chính vì biết ngày tận thế không đến ngay, nên Lc đã không mô tả các dấu chỉ tiền phong của ngày tận thế: chỉ cần hai câu để mô tả là đủ (cc.10-11). Vả lại, các dấu chỉ đó không cho biết thêm điều gì. Các đối thoại viên của Chúa Giêsu đã xin một dấu chỉ, nhưng không phải dấu chỉ về ngày thế mạt, nhưng là dấu chỉ về việc tàn phá Giêrusalem. Chúa Giêsu không cho một dấu chỉ, nhưng nhiều dấu chỉ và các dấu chỉ này không liên hệ tới việc tàn phá Giêrusalem, nhưng liên hệ tới ngày thế mạt. Hơn nữa, các dấu chỉ này mơ hồ đến nỗi bất cứ thời nào cũng cảm thấy bị chúng ảnh hưởng. Nhưng ngoài bối cảnh lu mờ đó, có một điều rõ ràng: ngày tận thế sẽ không đến ngay.
5. Càng nói phớt qua và không minh xác các dấu chỉ tiền phong đó, Lc càng nhấn mạnh đến thái độ người Kitô hữu phải có cho đến ngày thế mạt. Vì thế ngày thế mạt xa dần trong một tương lai bất định, người Kitô hữu càng cần phải sống trong thời gian, đương đầu với lịch sử. Đặc biệt họ phải anh dũng đối đầu với các cuộc bách hại. Và trong lúc Lc ghi lại diễn từ này, các lời Chúa Giêsu tiên báo về việc bách hại trong tương lai đã thực sự thể hiện trong lịch sử; sách Cvsđ đã minh chứng điều đó (Cvsđ 8 và 12).
Lc đã lưu tâm đến đoản văn liên hệ đến các cuộc bách hại đó. Người ta có cảm tưởng ông muốn khích lệ các người bị bách hại khi nhấn mạnh đến các lý do nhằm làm họ tin tưởng cậy trông trong các cuộc thử thách đó. Như thế lòi tiên báo đã biến thành lời mời gọi tin tưởng phó thác. Và Lc làm nổi bật tất cả những gì đem lại lợi ích cho người bị bách hại.
“Điều đó sẽ giúp các con làm chứng” (c.13). Cách dịch này chẳng để ý gì đến việc thay đổi nhãn quan. Ông đặt mình về phe người bị bách hại, để cho thấy lợi ích của các cuộc thử thách họ phải chịu: đây là bằng chứng chắc chắn cho thấy họ sẽ được cứu rỗi. Do đó đúng hơn phải dịch là: “Điều đó sẽ là dịp để các con làm chứng”. Đây là một lời khuyến khích chịu đựng các đau khổ, chúng là chiến tích hùng hồn biện hộ cho họ trước tòa án Thiên Chúa.
Phải đặt lời khuyên đừng lo lắng phải biện hộ thế nào trước mặt vua chúa quan quyền trong chiều hướng khuyến khích đó, vì lời khuyến khích là sứ điệp thiết yếu của diễn từ. Không những Thiên Chúa sẽ lo liệu bằng cách ban khôn ngoan và miệng lưỡi, nhưng còn lo liệu cho lời nói đó đừng trở nên cớ vấp phạm. Không gì có thể thắng nổi lời nói đó. “Ta sẽ cho các con miệng lưỡi và khôn ngoan, làm kẻ nghịch các con hết thảy đều vô phương chống lại hay bắt bẻ các con” (c.15). Cuối cùng Lc thêm lời hứa: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng chẳng hư mất” (c.17). Câu này được gặp lại ở chỗ khác, trong một bối cảnh khác hẳn (x. Lc 12,7; Mt 10,30) được đặt ở đây, trong cuối đoản văn mô tả các cuộc bách hại, câu đó đưa ra một viễn ảnh đen tối và nặng nề; nó nhắc lại sự che chở đã được hứa trước. Đây cũng là lời mời gọi mới để tín hữu thêm can đảm và tín thác ngay khi gặp phải cảnh bắt bớ gian truân.
6. “Các con sẽ giữ mạng sống nhờ biết bền đỗ” (c.19). Đây là một câu ngắn của Lc, có một nghĩa tổng quát: nó không còn liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của những người sống ngay trước ngày thế mạt. Nó có giá trị trong mọi thời. Thực ra, Lc đã không ám chỉ đến ngày sau hết có trong Mc: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Lc biết ngày sau hết không phải là gần đến; ông kết án là gian manh những kẻ chủ trương như thế (c.8). Đó là tất cả ý nghĩa việc Lc đọc lại viễn ảnh cánh chung học của Mc: các cuộc bách hại không liên hệ với thời sau hết. Đúng hơn chúng biểu thị thân phận người Kitô hữu trong thế giới, trong lịch sử nhân loại đang còn tiếp diễn.
Sự bền đỗ đó là sự kiên tâm bền chí giúp người Kitô hữu can đảm tin tưởng đương đầu với những vô vị của cuộc sống thường nhật cũng như các hoàn cảnh đặc biệt của thời bách hại. Đó là quộc thử thách đức tính kiên nhẫn mà Giêremia đã nói, ông là người đã hết lòng tin tưởng vào Chúa, nhưng rồi cũng đã thất vọng vì đó: “Lạy Giavê, Ngài đã dụ dỗ tôi, và quả thật tôi đã bị dụ dỗ, Ngài đã bắt tôi và đã thắng tôi. Mỗi ngày tôi biến thành trò cười, nọi người ai cũng chế nhạo tôi” (Giêr 20,7). Sự bền đỗ theo phúc âm biểu thị “những người nghe lời với thái độ tốt, đã đào sâu lời đó và mang lại nhiều hoa quả nhờ kiên tâm bền chí” (Lc 8,15); sự bền đỗ đó chắc chắn giúp ta được sống cũng như được vào vương quốc (x. Cvsđ 14,22). Nó được Thiên Chúa hứa và minh chứng lòng tín thác vào đấng hoàn tất lời hứa.
KẾT LUẬN
Thời của giáo hội là thời bách hại. Thời gian này đang tiếp tục. Việc giải phóng và ơn cứu độ hoàn toàn chỉ bắt đầu với việc Con Người đến nhưng Ngài chưa đến gấp. Do đó phải kiên nhẫn và bền chí đứng vững.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đứng bên Chúa Giêsu, có nhiều người trầm trồ khen ngợi Đền thờ và lấy làm hãnh diện sung sướng về các viên đá tốt và các lễ vật quí người ta dâng cúng. Thật thỏa mãn và vui mừng biết bao khi thấy ở chính Giêrusalem có một dấu chỉ minh nhiên sự hiện diện của Chúa. Nhất là hãnh diện biết bao, vì đền thờ nguy nga lộng lẫy là công trình của toàn dân, đồng thời nói lên lòng trung tín của các tín hữu cũng như sự che chở của Đấng toàn năng. Tất cả điều đó khiến họ hài lòng thỏa mãn.
Trước sự ngưỡng mộ chính đáng và quan yếu đó, Chúa Giêsu phán: “những gì các ngươi nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào, tất cả sẽ bị tàn phá”. Nghe vậy chắc các thính giả xôn xao lo lắng lắm. Đền thờ bị phá hủy thì còn đâu sự che chở của đấng Tối Cao, đâu còn chứng tích của lòng trung tín?
Chính vì thế, họ tò mò và quan ngại: “Thưa thày, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?”
Qua câu hỏi này, thính giả Chúa Giêsu cho thấy họ đã nhận thức tầm quan trọng của việc chuẩn bị sống các biến cố đó. Phải khắc phục các tai ương đó, chứ đừng bị chúng bắt chợt. Niềm tin vào đền thờ, nơi Đấng tối cao đang hiện diện, càng sống động. Đền thờ càng trở nên quan trọng vì là dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện này, do đó người ta càng khó chịu khi thấy đền thờ bị tàn phá.
Ngày nay phải chăng người ta cũng có một tâm tưởng như thế, khi nghĩ là giáo hội đang trên đường diệt vong? Trước những biến đổi sâu xa do công đồng đem đến, nhiều người tức tối, nuối tiếc phụng vụ cổ xưa, các bài giảng ngày trước, việc bình thản nhàn hạ đã có từ lâu. Niềm tin của các bạn trẻ hôm nay, được biểu lộ một cách khác xưa, có còn là niềm tin nữa không? Các linh mục liên hệ với cộng sản là vô thần, có còn là linh mục nữa không? các nữ tu đến sống với các những nghèo trong các ổ chuột tồi tàn có còn là nữ tu nữa không? Cuối cùng, dù với những ý tưởng ngay lành của thế giới, người ta sẽ chẳng phá hủy giáo hội sao? Cũng như dân Do thái ngày xưa muốn bảo trì đền thờ Giêrusalem của họ, ngày nay người ta cũng muốn giữ gìn giáo hội và những cái gọi là truyền thống của giáo hội, nhưng giáo hội mới cứu người tín hữu.
2. Sau các câu hỏi mà giờ đây chúng ta đã hiểu rõ, Chúa Giêsu mới bắt đầu lên tiếng. Ngài không cho biết khi nào sẽ xảy ra cuộc tàn phá Giêrusalem, cũng như các dấu chỉ tiên báo cuộc tàn phá đó. Ngài không bao giờ trả lời để thỏa mãn tính tò mò hay xoa dịu nỗi ưu tư xao xuyến. Ngài giúp ta can đảm và bình thản đón nhận biến cố. Chính vì thế, Ngài nói trước các nguy hiểm, các sai lệch hoặc các cuộc đào tẩu bội phản có thể xảy ra; đoạn cho biết phải sử dụng năng lực của mình như thế nào cho hợp lý.
Trước tiên là các nguy hiểm và ảo tưởng. Chúa Giêsu canh chừng thính giả khỏi mắc mưu các Messia giả. Vào thời hoan lạc, con người quá xao xuyến đến nỗi phải tìm đến người có thể trấn an và hướng dẫn họ cách quyền uy. Chúa Giêsu cảnh giác họ đừng vội tin những người bịa đặt những phép lạ dễ dãi và những thày phù thủy chữa bệnh tâm tư phiền muộn; đừng vội theo những ai đơn giản hóa sự việc bằng cách đồng hóa đức tin với các hệ thống kinh tế hoặc chính trị của họ.
Chúa Giêsu đề phòng chống lại các ngày thế mạt giả mà chúng ta thường tin cách dễ dàng: chiến tranh, động đất, ôn dịch, đói kém… đó là những lệnh báo động giả, nhiều khi rất đánh động, nhưng chúng ta đừng vì đó mà xao lãng hoặc quên mất điều cốt yếu.
Điều cốt yếu là sống đức cậy trông Kitô giáo trong thế giới, là giữ vững đức tin. Niềm tin luôn làm thế giới chống đối: Chúa Giêsu nói đó là điều không thể tránh được. Môn đệ không hơn thày. Người Kitô hữu có thể bị cám dỗ hoảng sợ và kinh hãi những tội phạm vì lòng yếu đuối của mình. Chúa Giêsu cho họ biết là trong họ có một sự hiện diện siêu phàm đang ngự trị. Khi đến giờ làm chứng tá, người Kitô hữu không phải chuẩn bị đối phó, tự vệ: chính Chúa Giêsu sẽ linh ứng cho họ điều phải nói. Do đó ngay bây giờ phải sống hiện tại cách tin tưởng hoàn toàn phó thác vào Chúa: không một sợi tóc trên đầu chúng ta rụng đi mà không có sự thỏa thuận đồng ý của Ngài. Điều quan hệ là hôm nay hãy sống đời môn đệ Chúa Kitô cách trung tín ngày qua ngày, luôn kiên trì trong đời Kitô hữu. Đó là đường duy nhất đưa đến cứu rỗi.
-----------------------------------
ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG KẺ SỐNG LẠI: MỘT THỰC TẠI MỚI LẠ TUYỆT VỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Gài bẫy từ một trường hợp không thực:
Khi những kinh sư và thượng tế phái các "tay sai" đến hỏi Đức Giêsu về việc nộp thuế cho hoàng TN 32-C173
Khi những kinh sư và thượng tế phái các "tay sai" đến hỏi Đức Giêsu về việc nộp thuế cho hoàng đế Rôma, người đã trả lời họ một cách quá khôn khéo đến độ họ "phải ngạc nhiên và làm thinh luôn".
Bấy giờ là chính những người thuộc nhóm Sađốc tới thay phiên. Những người này làm thành một "phe" thân với thượng tế (Cv 5,l7). Có nguồn gốc là quý tộc, thuộc giai cấp tư tế, và là những người bảo thủ trong vấn đề tôn giáo, họ rất quý chuộng bộ Ngũ Thư của Kinh Thánh, nhưng lại không đếm xỉa đến sách các ngôn sứ; còn về các trước tác gần đây hơn, họ chối bỏ uy tín của những sách ấy. Nếu nhóm này "chủ trương không có sự sống lại", là vì họ không tìm thấy dấu vết nào trong bộ Ngũ Thư mà họ thường tham khảo: Họ coi niềm tin vào sự sống lại như một sự canh tân và lệch lạc, mà thực ra chỉ xuất hiện trong bối cảnh cuộc nổi dậy của anh em nhà Macabê khi những người Israel trung thành với luật Chúa đã can đảm chịu chết vì đạo (cf. Bài đọc 1 Chúa nhật này).
Vì thế, khi biết Đức Giêsu cũng như tất cả nhóm biệt phái và phần đông dân chúng đều tin có sự sống lại, thì những người thuộc nhóm Sađốc liền nêu ra cho Người một trường hợp không có thực chứng tỏ sự phi lý của niềm tin này, dựa vào câu chuyện kỳ cục mà họ đưa ra. Đó là câu chuyện hoang đường về một người phụ nữ hiếm muộn nọ, mà theo luật Lêvi (một luật đã bị huỷ bỏ ở thế kỷ I) đã lần lượt kết hôn với sáu người em chồng chết mà không có con. Họ hỏi Chúa: "Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?".
2. Câu trả lời khiến đối phương phải rút lui:
Câu trả lời Chúa đưa ra hôm nay thật không ai ngờ, khiến đối phương phải rút lui, tuy nó vẫn thích nghi phần nào với não trạng của những người đôi thoại, những người Pharisêu, và nhóm Sađốc. Với những người biệt phái, Chúa đả phá cái quan niệm quá duy vật mà họ đưa ra về vấn đề kẻ chết sống lại, quan niệm mà những người thuộc nhóm Sađốc hẳn cũng chế giễu: họ mường tượng sự sống lại như chuyện thân xác được hồi sinh để có một nếp sống sau này đại khái như nếp sống hiện nay ở trần gian: cũng sinh con đẻ cái, cũng làm công việc kia nọ vậy.
Đời sống của các kẻ sống lại được hiệp thông với Thiên Chúa hấng sống, Đức Giêsu khẳng định, là đời sống hoàn toàn mới lạ so với đời sống trần gian này. Đời sống đó không có một kiểu mẫu nào ở đời này cả. Đó là một cuộc sống không thể nào tưởng tượng ra nổi, một cuộc sống hoàn toàn được biến đổi, một cuộc sống của những người "Con Thiên Chúa", những "người được hưởng ơn phục sinh": "Họ giống như các thiên thần".
Với những người thuộc nhóm sađốc dựa vào Lề Luật Môsê để chối bỏ niềm tin kẻ chết sống lại, thì Đức Giêsu không trưng dẫn những sách gần đây hẳn, như sách Đanien. Người dựa vào Luật Chúa mà khẳng định rằng: "Mọi kẻ chết đều phải sống lại".
Trong bụi gai cháy sáng (Xh 3,6) Thiên Chúa tự xưng mình là "Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp". Nếu Thiên Chúa làm bạn hữu với các tổ phụ, thì không phải chỉ trong thời gian của một đời người mà thôi. Giao ước người đã ký kết với các tổ phụ không thể chết, mà phải tồn tại đến muôn đời, vì Thiên Chúa đời đời trung tín.
Tất cả "những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết" đều là những người sống mãi, sống muôn đời, họ hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa vì "Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Chúa của kẻ sống".
H. Cousin chú giải: "Ý tưởng nền tảng là lòng trung tín của Đức Chúa đối với những kẻ Người tuyển chọn, thì ngay cả Thần chết, kẻ thù của Thiên Chúa cũng không làm gì nổi. Do lòng trung tín của Thiên Chúa đối với Giao ước chính là động cơ thúc đẩy niềm tin vào sự sống lại của kẻ đã chết"
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Thiên Chúa hằng sống
Đức Giêsu lợi đụng những vấn đề lắt léo người ta đưa ra chống đối Người để tiếp tục mạc khải của Đức Chúa Cha cho đến những ngày cuối cùng. Những người thuộc nhóm Sađốc vốn chủ trương không có sự sống lại đến đặt cho người một trường hợp giả trang, mà theo họ nghĩ thì việc sống lại là điều phi lý không thể có được. Để tuân theo luật Môsê, bảy anh em lần lượt cưới cùng một người phụ nữ, và sau mỗi lần người phụ nữ ấy lại trở thành kẻ góa bụa. Sự sống lại hẳn sẽ đặt họ vào tình cảnh éo le: "Khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đều lấy bà làm vợ? ". Đức Giêsu dùng thời giờ trả lời đầy đủ cho vấn đề phục sinh, vì đó là điều rất hệ trọng. Không có sống lại, như thánh Phaolô nói, đức tin của chúng ta hóa ra "hão huyền". Cũng đáng công cho chúng ta chăm chú lắng nghe lời Chúa phán về điều này. Thí dụ người ta đưa ra để chống đối Người, tạo cho Người cơ hội để giải thích tình trạng mới lạ của "những ai được xét là đáng hưởng phúc đòi sau và sống lại từ cõi chết". Đây không phải là vấn đề trở lại với cuộc sống đời này, để mà dựng vợ gả chồng, mà là một sự tham dự vào thế giới mai sau, ở đó người ta không còn chết nữa, không còn lấy vợ lấy chồng, người ta giống như thiên thần. Đó là một dạng sinh ra mới, làm cho người ta trở thành con cái của sự sống lại. Và do đó, hoàn toàn là con cái Thiên Chúa.
Sự sống lại là hành động của một Thiên Chúa hằng sống, Đấng ban sự sống ngay cả bên kia cái chết; Thiên Chúa của bụi gai cháy sáng, tự giới thiệu mình là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac và là Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Người đâu có giới thiệu mình là Thiên Chúa của kẻ chết?" Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của các kẻ chết mà là của kẻ sống". Suốt cả cuộc đời Đức Giêsu luôn quy hướng về Đức Chúa Cha; chính Người là cội nguồn, là sự sống mà ngay cả thần chết cũng không có được tiếng nói cuối tùng. Vì có mấy vị kinh sư dám ngả về lập trường của Chúa - họ vui mừng thấy những ngươi thuộc nhóm Sađốc phải bẽ mặt - nên chúng ta chỉ có thể ngợi khen Đức Giêsu vì đã loan báo cho chúng ta một vị Thiên Chúa như thế: " Thưa Thầy chúng tôi biết Thầy nói và dạy cách thắng thắn!". Chẳng bao lâu nữa, sự phục sinh của chính Đức Giêsu sẽ tỏ cho thấy một tương lai mà chẳng bao giờ chúng ta dám mơ ước? ".
2. “Sự sống lại đã bắt đầu rồi"
"Đối với những người thuộc nhóm sa-đốc, đây là cơ hội tốt để chế giễu có pha chút hài hước, những ai tin rằng sự sống lại là chuyển đổi nếp sống ở trần gian này lên thiên đàng.
Câu hỏi mà cũng là cái bẫy cho Đức Giêsu khiến Người phải nói rõ "giáo lý" của Người về sự sống lại từ cõi chết và thỏa mãn tính tò mò của đám thính giả? "Nếu các vị tin vào sự sống lại, thì cụ thể điều đó sẽ xảy ra như thế nào?".
Đức Giêsu hẳn làm cho đối phương của Người phải rút lui bẽ mặt và bỏ đi những điều tưởng tượng quá trớn cùng những câu chuyện trẻ con chỉ làm cho ngủ gật thôi. Thiết tưởng là vô ích, vả lại cũng không thể có được một ý niệm nào về "Thế giới mai sau" dựa vào những thực tại trần gian này. Những "người được hưởng sự sống lại" sẽ được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa. Họ sẽ "giống thư các thiên thần", và sẽ không có thể chết nữa. Thế nhưng với một điều kiện là "được xét là xứng đáng”.
Đức Giêsu cũng hướng thính giả của mình về tận cội nguồn Kinh Thánh. Chắc chắn là những người Pharisêu và những người thuộc nhóm Sađốc đều biết Kinh Thánh, nhưng còn phải giải thích cho đúng những dữ kiện của Mạc khải nữa. Phải quy chiếu về Môsê, nhưng để tìm ra những điều mà người khác đã không tìm thấy. Nếu Đức Chúa tự giới thiệu với Môsê là "Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp", thì rõ ràng người là Thiên Chúa của những kẻ "còn đang sống" chứ không phải của những "kẻ đã chết rồi". Bởi lẽ, mọi người đều sống với Người, nhờ Ngươi và vì Người. Và điều đó thiết tưởng phải đủ để ta hân hoan cùng với lòng tin tưởng mà hiểu biết rằng mầu nhiệm này thật khôn lường, trí con người không thể vươn tới được. Đời sống của kẻ sống lại là đời sống sung mãn tràn đầy, là kinh nghiệm về tình yêu trọn vẹn, là sự nối dài và phát triển mối tương quan đã được thiết lập và phát triển ngay ở đời này. Phần còn lại đều là tò mò hão huyền vô ích. Trang sử vĩ đại của tình yêu không thể "bị kết thúc và vùi sâu dưới nấm mồ".
Còn hôm nay, mặc dầu Đức Kitô đã phục sinh, mặc dầu truyền thống Kitô giáo đã trải qua hai ngàn năm, mặc dầu trong kinh Tin Kính chúng ta vẫn tuyên xưng rằng xác loài người ngày sau sẽ sống lại, thế mà nhiều Kitô hữu vẫn lo lắng, và bối rối; có những người còn để mình lạc lõng trong những chi tiết vụn vặt và những điều ấu trĩ. Lại còn có những người bày tỏ bất mãn hoặc tìm ánh sáng và ủi an bên ngoài nguồn ánh sáng và an ủi. Người thì đòi hỏi những chứng cớ lịch sử hoặc cho đó là những chuyện huyền thoại; người khác lại bám víu vào thế giới bên kia để tìm an ủi mình một cách rẻ tiền.
Hôm nay cũng như hôm qua, chúng ta không ngừng sẵn sàng lắng nghe Đức Kitô và đặt niềm tin tưởng nơi Người để luôn tin vào sự sống lại và sống như người đã sống lại rồi ".
3. "Một điều bất ngờ hoàn toàn”.
"Người chết sống lại làm sao? Họ trở về với thân thể nào?"
Chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng. Đã hẳn, trong Tân Ước, có vài chỗ đề cập đến chủ đề này nhưng luôn luôn với chừng mực và giản dị hết sức. Một sự giản dị đến độ cuối cùng người ta chẳng biết được gì khá hơn! Thực ra những đoạn văn ấy chỉ muốn cảnh giác tin tưởng tượng của ta thôi. Bởi lẽ người ta luôn luôn có nguy cơ, đặc biệt trong những lãnh vực này, là thích phản ánh những điều ta mơ ước vào thế giới bên kia và mường tượng rà một thực tại, mà đứng ra, chúng ta tuyệt đối không thể nào hình dung ra được, bởi vì không ai trong chúng ta đã có lần nào được nhìn thấy thực tại ấy cả? Làm sao ta có thể mô tả một cây sồi mà suốt đời ta chưa bao giờ được nhìn thấy cây ấy hoặc có được trong tay chỉ một trái cây sồi thôi? Đó là lý do tại sao các tác giả Tân ước, những người cũng chẳng biết gì hơn ta, mời gọi ta phải có sự khôn ngoan hết sức và dẫu sao cũng phải từ bỏ mọi cách trình bày duy vật.
Vì thế chúng ta hoàn toàn bất lực để nói về cái thực tại mà chúng ta hoàn toàn chẳng biết gì cả. Những điểm mốc ta quen dùng, rõ ràng là không đủ khả năng giúp ta tưởng tượng ra cái thế giới khác ấy, cái tình trạng "thân xác vinh hiển" mà thánh Phaolô nói đến ấy, những "trời mới, đất mới" mà sách Khải Huyền (21,l) hứa hẹn cho ta thấy. Thực tại đó chẳng có gì để so sánh với cái ta biết ở trên mặt đất này. Sẽ là một bất ngờ lạ lùng theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này.
Và là một bất ngờ vui sướng? Một thế giới tuyệt vời diễn ra không ngừng những điều mới lạ, một cái gì đó không thể tưởng tượng nổi?".
-----------------------------------
TÔI TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI. TÔI TIN HẰNG SỐNG VẬY
Bài Tin Mừng hôm nay (Luca 20,27-38) đề cập đến hai tín điều cuối cùng của Kinh Tin Kính TN 32-C174
1. Bài Tin Mừng hôm nay (Luca 20,27-38) đề cập đến hai tín điều cuối cùng của Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, Tôi tin có “sự sống đời đời” sau khi chết.
Đây là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Vì chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng chết là bắt đầu sống cuộc đời mới, như lời tuyên xưng của Kinh Tiền Tụng Thứ Nhất trong Thánh Lễ cầu cho kẻ qua đời: “Nơi Người, niềm hy vọng sống lại vinh phúc đã chiếu toả trên chúng con, để những ai buồn sầu vì số phận phải chết, cũng được an ủi vì Chúa dã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Vì lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chớ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian này bị huỷ diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời”.
2. Chúa Giêsu trả lời vấn nạn của Nhóm Xa-Đốc
- Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,34-36).
- “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống." (Lc 20,37-38).
3. Chúa Giêsu đối với sự sống lại
- Ngài bác bỏ bè Sađuxêô là bè không tin có sự sống lại, như trong bài Tin Mừng hôm nay.
- Ngài nói đến sự sống lại của kẻ lành để được thưởng, của kẻ dữ để bị phạt trong Ngày Phán Xét Chung...
- Ngài hứa ban sự sống lại cho kẻ nào ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa...
- Ngài quả quyết Ngài là sự sống lại...
- Ngài làm nhiều phép lạ để chứng minh về sự sống lại...
4. Tín điều “Thân Xác sống lại” đối với người công giáo
- Một tín điều đặc biệt của Đạo Công Giáo chúng ta: chỉ có người Công Giáo có niềm tin này. Đây là tín điều mà từ xưa đến nay, nơi người ngoại giáo, không ai nói tới. Đây là tín điều mà người vô thần, người vật chất, không thể nào nghĩ đến được vì họ chỉ cho rằng chỉ có thiên đàng trên mặt đất nầy mà thôi
- Một tín điều có liên quan mật thiết đến đời sống của con người chúng ta, là con người có hồn có xác.
- Tín điều nầy làm cho người công giáo chúng ta được vui mừng vì hai lý do:
- vì sự cao trọng của thân xác (vì những đau khổ nơi thân xác, những hy sinh trong thân xác có một ý nghĩa rạng rỡ cho ngày mai khi sống lại);
- vì chúng ta vẫn gặp lại thân xác của những người thân yêu của chúng ta sau nầy khi sống lại.
5. Thân xác của con người rất cao trọng
Sự cao trọng của thân xác con người có ba lý do sau đây:
- thứ nhất, vì Con Thiên Chúa xuống thế làm người, mặc lấy thân xác loài người của chúng ta;
- thứ hai, vì thân xác chúng ta được phước ăn Thịt và uống Máu của Chúa Giêsu để được sống đời đời;
- thứ ba, Giáo Hội Công Giáo hết sức kính trọng thân xác của người chết.
6. Giáo Hội Công Giáo kính trọng thân xác của người chết
Đạo Công Giáo là Đạo kính trọng thân xác của người chết.
Khi biết được trái tim người chết vừa thôi đập, Giáo Hội Công Giáo dạy đánh chuông nhà thờ để tiếng chuông vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn người nầy đã được Chúa gọi về.
Khi nghe tiếng chuông báo tin nầy, mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ tìm cách đến nhà người chết, đọc kinh, cầu nguyện, tẩm liệm cung kính theo nghi thức của Giáo Hội.
Xác người chết được rước đên Nhà Thờ, được đăt ngay trước Nhà Chầu của Chúa Giêsu, được đặt gần quả tim của Người. Cây nến Phục Sinh, tượng trưng cho sự sống lại của Chúa Giêsu và của những ai tin theo Ngài, được thắp sáng lên, đặt cạnh quan tài người chết. Rồi thánh lễ đươc cử hành để cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội cung kính xác người chết, như thánh nữ Mađalêna cung kính Xác Thánh của Chúa Giêsu.
Sau Thánh lễ, linh mục chủ tế, đại diện cho Giáo Hội, lên đường đi tống táng, từ Nhà Thờ ra đến Đất Thánh, cùng với anh chị em trong cộng đoàn gia đình giáo xứ.
Tại Đất Thánh, linh mục làm phép huyệt để thánh hóa nơi người chết an nghỉ, và nói lên cho mọi người nghe những lời hy vọng tuyệt vời: chúng ta hãy gởi xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại, sẽ gặp nhau trên nước thiên đàng.
7. Tín điều Sự sống đời đời
- Chúa Giêsu nói Ngài ban sự sống đời đời cho những ai tin Ngài: “ Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6,47).
- Chúa Giêsu ban sự sống đời đời cho chúng ta: “Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
- Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những tin nghe lời Ngài: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" (Ga 4,14).
- Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai sống đời yêu Chúa và yêu người: “Có người thông luật kia đứng lên hỏi Chúa Giêsu để thử Chúa: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Chúa Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,25-28).
- Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tuân giữ các điều răn: Bấy giờ có một người đến thưa Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?" Chúa Giêsu đáp: “... Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,16-17).
- Chúa Giêsu nói rằng ai đã làm điều lành khi còn sống, thì khi sống lại, sẽ được sự sống đời đời: “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29).
8. Về sự sống đời đời, Chúa Giêsu khuyên chúng ta những điều quan trọng sau đây:
- Một: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời.9 Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18,8-9).
- Hai: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).
- Ba: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51)
9. Đời sống sau khi sống lại
- Sống lại thế nào, chúng ta không cần để cho trí tưởng tượng bày vẽ (!)...vì đây là một cuộc sống khác (không cưới vợ, không lấy chồng, nhưng sống như thiên thần,...
- Khi được sống lại, thân xác chúng ta vẫn là chính thân xác của chúng ta, nhưng lúc đó, thân xác chúng ta giống như thân xác của Chúa Giêsu Phục Sinh: sáng đẹp, nhanh nhẹn, tinh vi, không còn đau đớn,...
----------------------------------
(Suy niệm của Giuse Vũ An Tôn)
Bạn làm người được mấy năm? Chết hết làm người, bạn định làm gì? Sống và chết, có lẽ là TN 32-C175
Bạn làm người được mấy năm?
Chết hết làm người, bạn định làm gì?
Sống và chết, có lẽ là điều mà ai trong chúng ta cũng đã từng, đang và sẽ còn nghĩ tới. Ngay cả những người vô thần, dù không tin có đời sau, vẫn băn khoăn về ý nghĩa của cuộc đời. Chúng ta lo lắng mình phải sống làm sao, và chết rồi chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta thường tìm cách tưởng tượng xem nếu một mai được sống lại thì chúng ta sẽ như thế nào? Sự tò mò này chính đáng nhưng không đem lại câu trả lời thoả mãn.
Giữa nỗi tuyệt vọng ấy, quan điểm của Chúa Giêsu qua cuộc đối thoại giữa Người và nhóm Xađốc hôm nay, là cơ sở vững chắc cho chúng ta mạnh dạn tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.
Chúng ta tin tưởng vững vàng và hy vọng chắc chắn rằng: cũng như Đức Kitô đã thực sự phục sinh từ cõi chết và sống mãi, thì sau khi chết người công chính cũng sống mãi với Đức Kitô Phục sinh và Người sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. (GLHTCG, số 989)
Viễn tượng này giúp chúng ta biết nên đầu tư tiền tài, sức lực, trí khôn vào đâu cho hợp lý và bảo đảm tương lai vững bền. Chúng ta chỉ đi qua cuộc đời một lần mà thôi. Nếu đầu tư sai, ắt tất cả sẽ “xôi hỏng bỏng không”, tương lai kể như không có, còn cuộc sống hiện tại trở nên vô nghĩa. Do đó, sự sống đời đời đã bắt đầu ngay từ cuộc sống hiện tại. Chính mỗi người đã chọn cho mình số phận vĩnh cửu qua cách sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, dù tuyên xưng lòng tin của mình, nhưng thực chất thái độ và suy nghĩ của chúng con: chạy theo tiền tài, danh vọng, địa vị, chức quyền, những tiện nghi sung sướng thoải mái mà thế gian có thể cung cấp,… cũng chẳng khác gì nhóm Xađốc xưa, những người “chủ trương không có sự sống lại”. Chúng con loay hoay thu vén và vội vã thưởng thức những thiên đàng giả tạo, chóng qua nơi trần thế mà quên đi còn một điều cần thiết và cao quý hơn cả là sự sống đời đời trong cung lòng Thiên Chúa. Trào lưu tục hoá và hưởng thụ của xã hội ngày càng phổ biến là một thách đố lớn cho niềm tin vào sự sống đời sau của chúng con. Chúng con luôn bị cám dỗ buông xuôi, vì quanh mình bao người khác đang vui chơi, hưởng thụ mà có ai bị làm sao đâu; dẫn đến chúng con ngại phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13,24), vì sợ bị thiệt thòi, sợ bị coi là khác người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, qua bí tích thánh tẩy chúng con đã được tháp nhập vào trong thân thể Chúa là Hội Thánh. Tuy nhiên, bấy nhiêu đó thôi thì chưa đủ bảo đảm một chỗ trên nước Chúa. Chúng con chỉ thực sự có được cuộc sống mới, được “ngang hàng với các thiên thần” và được gọi là con Thiên Chúa, khi ngay còn sống ở đời này, chúng con biết tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa và không ngừng vâng giữ những lời Người dạy, mà cụ thể là giới răn mến Chúa – yêu người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, “ngoài Chúa ra đâu là hạnh phúc?”(Tv 16,2) Chúa chính “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Lời Chúa hứa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54) là cứu cánh cho cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con ý thức được mình đang sở hữu một món quà cao quý là Thánh Thể Chúa, và biết tận dụng những ngày tháng nơi trần thế sống kết hiệp mật thiết với Chúa qua việc siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa.
Lạy Chúa, xin cho niềm tin vào sự sống lại luôn là động lực để chúng con sống một cuộc sống tốt đạo đẹp đời. Và xin cho tất cả mọi công việc, hành động, lời nói, suy nghĩ của chúng con đều quy hướng về mục đích cuối cùng ấy. Amen.
--------------------------------------
Con người sinh ra ở đời, đã có ngày sinh ắt có ngày tử. Nếu sống là bước đi trong một cuộc hành TN 32-C176
Con người sinh ra ở đời, đã có ngày sinh ắt có ngày tử. Nếu sống là bước đi trong một cuộc hành trình, thì hành trình ấy, nếu đã có ngày khởi đầu, ắt có ngày kết thúc. Người ta sinh ra, rồi lớn lên, trưởng thành, tạo lập sự nghiệp. Khi đạt tới đỉnh vinh quang, rồi cũng đến ngày sức lực suy tàn, và cái chết ập đến. Sinh lão bệnh tử, đó là chu kỳ của đời người, chẳng ai cưỡng lại được. Nhưng, chết rồi sẽ ra sao? Đó là câu hỏi luôn ám ảnh con người, dù ở thời hoang dã hay hiện đại, dù người nghèo hay người giàu, dù người lớn tuổi hay người còn trẻ. Các tôn giáo đều nhằm đi tìm câu trả lời cho hậu vận tương lai của kiếp người. Các tác giả Thánh kinh cũng theo chiều hướng ấy. Với ơn soi sáng của Chúa, từ rất sớm, người Do thái đã tin vào đời sau và khẳng định: chết không phải là hết. Con người vẫn tồn tại bên kia sự chết. Vào lúc một người chết, một cuộc sống mới khởi đầu.
“Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Đại thi hào Nguyễn Du đã đặt vào môi miệng nàng Kiều câu khẳng định này, khi nàng Kiều đứng trước ngôi mộ của Đạm Tiên. Đây cũng là quan niệm thể hiện nhân sinh quan của người Á Đông. Chết chỉ là thể xác, phần hồn, hay phần tinh anh vẫn tồn tại. Giáo lý Kitô giáo gặp gỡ văn hoá Á Đông ở điểm này, và khẳng định thêm: linh hồn con người, vào ngày tận thế, sẽ được hoà nhập với thân xác, để rồi những ai sống công chính sẽ được hạnh phúc với Chúa.
Khi xác tín vào hạnh phúc tương lai, người ta không còn sợ chết. Nói đúng hơn, người ta sẵn sàng chết để làm chứng cho Chân lý. Bà mẹ người Do thái cùng với bảy người con được sách Macabê ghi lại là bằng chứng cho niềm hy vọng thâm sâu ấy. Bà là người mẹ phi thường. Bà can đảm chứng kiến bảy người con chết trong một ngày, trước gươm đao của nhà vua Hy Lạp. Những lời tuyên bố mạnh mẽ cho thấy bà mẹ và các con đã thấm đượm giáo huấn của Kinh thánh về linh hồn bất tử. Cuộc tử đạo của bà và các con đã được lưu truyền cho mọi thế hệ của dân tộc Do thái, cũng như mọi thế hệ Kitô hữu.
Mục đích cuộc đời dưới lăng kính Kitô giáo là tìm hạnh phúc ở đời này và hạnh phúc ở đời sau. Khi hạnh phúc đời này có nguy cơ ngăn cản hành trình hướng tới hạnh phúc đời sau, thì người tin Chúa sẵn sàng gạt bỏ hạnh phúc chóng qua, để chọn hạnh phúc bất diệt. Những ai tin vào Chúa đều xác tín rằng, Ngài là Đấng ban thưởng cho những ai trung thành.
Mục đích của chúng ta là hướng tới vĩnh cửu. Tuy vậy, từ thời Chúa Giêsu, đã có những người không tin điều đó và họ chủ trương ngược lại. Những người này thuộc phái Xađốc, hay còn gọi là phái Sadusêô. Cũng giống như những người vô thần duy vật ngày nay, họ chỉ tin vào những gì mà họ cảm nhận được bằng giác quan. Họ cũng chủ trương con người chỉ có sự sống đời này, sau khi chết sẽ trở về với hư vô. Nhóm người này đã trưng dẫn một khoản luật Môisen để giăng bẫy thử thách Chúa Giêsu. Luật này được gọi là Lêvira (Lévirat), cho phép người em trai lấy vợ của anh mình, trong trường hợp người anh đã chết mà không có con. Câu chuyện giả định là trường hợp một người phụ nữ cưới lần lượt bảy đời chồng là bảy anh em để lưu giữ người nối dòng cho người chồng đầu tiên là anh cả. Chúa Giêsu đã trả lời dứt khoát: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng”. Qua những lời này, Chúa mặc khải cho chúng ta về tương lai sau sự chết. Mục đích của đời người là để chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa và để ca tụng Chúa đến muôn đời. Đó cũng là hạnh phúc vô biên Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến và kính sợ Ngài.
“Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống”. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ngài cũng là nguồn mạch của sự sống muôn loài. Những ai trung tín theo Chúa sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Đức Giêsu đã chứng minh quyền năng Thiên Chúa, khi Người bước ra khỏi nấm mồ tối tăm, phục sinh huy hoàng. Sự phục sinh của Đức Giêsu là bảo đảm cho người tín hữu rằng: những ai đã cùng chết với Đức Kitô, chắc chắn sẽ được sống lại với Người.
Chúng ta đã bước sang tháng 11 dương lịch, được gọi là “Tháng cầu hồn”. Đây là thời gian nghĩ đến những người đã khuất, qua việc sửa sang phần mộ và nhất là cầu nguyện cho những người thân đã qua đời. Những nấm mộ không phải đống đất vô tri vô giác. Mỗi ngôi mộ đang bao bọc một cuộc đời. Bên dưới những nấm mộ, có những người đã từng thành công hay thất bại, có những người đã sống rất thánh thiện hay tội lỗi. Tất cả đều đang chờ được Chúa phán xét. Ngôi mộ chính là một “phòng chờ” của những người đã chết, trước khi sống lại vinh quang vào ngày tận thế để hưởng thánh nhan Chúa. Cuộc sống muôn hình muôn vẻ và gian nan nghiệt ngã. Ai kiên trì và trung tín sẽ được Chúa thưởng công. Ai vội vàng và bất nghĩa sẽ phải muôn đời bất hạnh.
Giữa biết bao bộn bề lo toan của cuộc sống, thánh Phaolô khuyên chúng ta trong bài đọc II: “Thiên Chúa là Đấng trung tín. Ngài sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần”. Như thế, với ơn phù trợ của Chúa, điều không thể, sẽ trở thành điều có thể. Nhờ Ngài, chúng ta có thể vượt qua những khó khăn và gian nan thử thách. Ý thức được giới hạn của bản thân, vị thánh Tông đồ dân ngoại ngỏ lời với anh chị em tín hữu: “Anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin”. Quả vậy, không ai tự tin đến nỗi nói rằng mình chắc chắn đứng vững mà không cần ơn Chúa.
“Sự sống không mất nhưng chỉ đổi thay”. Đó là lời của một bài thánh ca. Lời này đem cho chúng ta niềm hy vọng, vào thời điểm bi đát nhất của cuộc đời. Dừng chân suy niệm nơi nấm mộ của người thân, chúng ta hãy thinh lặng để lắng nghe những tâm tình của người đã khuất. Chắc chắn những người đã ra đi có rất nhiều điều tâm sự với chúng ta, là những người đang sống. Một trong những điều tâm sự đó, lời ước muốn cho chúng ta sống lành thánh để cùng với những người thân hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên
------------------------------
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về ngày chung cuộc và nuôi dưỡng đức tin cũng TN 32-C177
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về ngày chung cuộc và nuôi dưỡng đức tin cũng như củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa, Đấng đã tạo thành vũ trụ muôn loại trong đó có chúng ta là Thiên Chúa hằng sống.
Bài đọc trích sách Maccabê quyển thứ II nói với chúng ta về việc sống lại sau này: “Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi được sống lại trong cuộc sống đời đời” (x. 2 Mcb 7,1-2.9-14); Tin Mừng khẳng định: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống” (Lc 20,27-38). Còn thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta một vài công việc cụ thể phải làm trong khi chờ đợi ngày Ðức Giêsu Kitô trở lại.
Thiên Chúa Hằng Sống
Thiên Chúa “Đấng Hằng Sống” đã từng tỏ mình cho ông Môisê qua bụi gai cháy bừng khi ông Môisen hỏi Chúa: “Ngài là ai?” Thiên Chúa phán: “Ta là Đấng Tự hữu” (Xh 3,14). “Tự hữu”, có nghĩa Ngài là Đấng vô thủy vô chung, phép tắc vô cùng, là “Thiên Chúa Hằng Sống”.
Tin vào Thiên Chúa Hằng Sống, là niềm tin căn bản của người Do Thái. Chúa là Đấng sáng tạo mọi loài và ban cho chúng sức sống. Dù trời đất có qua đi, Thiên Chúa vẫn tồn tại, bởi Ngài là Đấng Hằng Sống. Niềm tin ấy đã giúp con người vượt lên mọi khó khăn nghiệt ngã của cuộc đời. Ông Gióp, trong cảnh khốn cùng, đã không mất niềm hy vọng vào Chúa. Cuộc sống đang an lành, bỗng nhiên ông mất hết mọi sự: con cái, tài sản, người thân… Bản thân ông phải ngồi trên đống tro, bạn bè xa lánh. Người vợ cũng nặng lời nguyền rủa ông là đồ vô phúc. Dù vậy, ông vẫn xác tín một niềm: “Tôi biết rằng Đấng Cứu chuộc tôi hằng sống” (G 19,25). Ông là mẫu mực cho những người tín hữu thánh thiện trung thành. Niềm tin vào Đấng Hằng sống cũng ban sức mạnh cho biết bao vị tử đạo Do Thái, vào thời đất nước bị Hy Lạp hóa và Do Thái giáo bị bách hại. Người mẹ can đảm mẫu mực được kể lại trong sách Maccabê đã khuyên các con: “Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mcb 7,23). Người mẹ đạo đức và các con đã vui lòng chấp nhận sự chết, vì họ tin rằng, Chúa sẽ cho họ sống lại và hưởng phúc vinh quang. Ngài cũng luôn trọng thưởng cho những ai trung tín với Ngài.
Tin sự sống lại
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” là lời tuyên xưng chúng ta vẫn đọc trong Kinh Tin Kính. Quả thật, Cái chết không là một phần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1, 13-14). “Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa” hay “vì Chúa.” (Lc 20, 37-38). Tin kẻ chết sống lại là một niềm tin đã có từ lâu nơi các dân tộc, đặc biệt nơi những người Do Thái. Họ tin rằng những ai trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Tuy nhiên, niềm tin vào sự sống lại đời sau vẫn là một thách thức đối với nhiều người, khiến họ không dễ chấp nhận. Nhóm người thuộc phái Sađucêô thời Chúa Giêsu đâu có tin sự sống lại. Họ không chấp nhận niềm tin này, nên họ mới đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Có một người cưới bảy anh em trai, mà cuối cùng chết đi không ai có con, thì sau này nếu như sống lại người ấy là vợ của ai trong số họ? Họ nghĩ, cuộc sống đời sau hoàn toàn giống như cuộc sống tại thế, cũng dựng vợ gả chồng, cũng xây nhà cửa, cũng có của cải vật chất … Chúa Giêsu trả lời: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại”. (Lc 20, 34-36)
Trường hợp bảy anh em đã liên tục kết hôn với cùng một người phụ nữ như nhóm Saducêô trưng dẫn. Đối với họ là bằng nhau, lặp đi lặp lại cùng một điều: đó là tình yêu đích thực và món quà mỗi cặp vợ chồng, khách quan tất cả đều tốt, Thiên Chúa sẽ không xóa nhòa nhưng hoàn tất nó ở trên trời. Trong Thiên Chúa sẽ không có sự cạnh tranh hay ghen tuông: những điều không thuộc về tình yêu đích thực, hay dưới ách thống trị do hậu quả của tội lỗi, sẽ không tồn tại ở trên trời.
Sống niềm hy vọng
Có “một cuộc sống khác” đang chờ đợi chúng ta, như Đức Giêsu nói: “Họ là con cái Thiên Chúa”. Đối với Chúa Giêsu chắc chắn rằng một vài lời nói lên tất cả, bởi vì đối với Ngài không có hạnh phúc lớn hơn: là con cái Thiên Chúa được chia sẻ trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa.
Sống, yêu, ca tụng, vui mừng … tất cả những động từ này sẽ đề cập đến thực tế duy nhất tồn tại ở nơi Thiên Chúa, những người cuối cùng sẽ là “tất cả trong mọi sự”; “Bởi lòng yêu mến Người đã tiền định cho ta được phúc làm con, nhờ Ðức Yêsu Kitô, và vì Người, chiếu theo nhã ý của thánh chỉ Người.” (Ep 1, 5 ) .
Lời của bài hát “Niềm Hy Vọng Hằng Sống” của nhạc sĩ Ân Đức minh họa phần nào: “Tôi tin rằng Đấng Cứu chuộc tôi hằng sống và ngày tận thế tôi sẽ từ bụi đất sống lại và trong thân thể này tôi sẽ được chiêm ngưỡng Đấng Cứu chuộc tôi”.
Lạy Chúa, “Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16). Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
-------------------------------------
Cuộc đời có vẻ đơn giản mà nhiêu khê, luôn có những vấn đề nan giải, đôi khi hầu như không giải TN 32-C178
Cuộc đời có vẻ đơn giản mà nhiêu khê, luôn có những vấn đề nan giải, đôi khi hầu như không giải quyết được. Đời này là thế, phàm nhân là thế. Có lẽ vì vậy mà nhóm Pharisêu và nhóm Sađốc cấu kết với nhau tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu với vấn đề “hóc búa” mà phàm nhân không thể xử lý. Chắc chắn như vậy.
Giả hình và hống hách là đặc tính của nhóm Pharisêu, còn đặc tính của nhóm Sađốc là không tin có sự sống đời đời. Thế nên họ đặt vấn đề với Chúa Giêsu về vấn đề liên quan sự sống đời sau. (Lc 20:27-38 ≈ Mt 22:23-33 và Mc 12:18-27)
Thánh Luca cho biết rằng, có mấy người thuộc nhóm Sađốc đến gặp Chúa Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Đúng là lắm chuyện, chỉ tìm cách hại người khác, bề ngoài làm ra vẻ nghiêm chỉnh nhưng đầu óc và lòng dạ đầy cặn bã, những thứ ô uế nhất. Vì phát ngôn bất cẩn mà cái miệng hại cái thân!
Kinh Thánh Cựu Ước nói: “Con người phải chịu hậu quả lời mình nói và được hưởng những gì môi miệng họ thốt ra. Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó, sẽ lãnh nhận hậu quả.” (Cn 18:20-21) Tân Ước xác định: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão.” (Ga 1:26) Tự rước họa vào thân chỉ vì KHÔNG uốn lưỡi bảy lần trước khi nói. Chớ khinh suất mà nói càn!
Nhóm Sađốc cho rằng đó là vấn đề hóc búa, chắc chắn không ai giải quyết được. Nhưng họ “bé cái lầm” quá hố! Chúa Giêsu thản nhiên nói: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham,Thiên Chúa của tổ phụ Isaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”
Nghe vậy hẳn là họ lùng bùng lỗ tai, vừa ngạc nhiên vừa khó chịu lắm. Sao ông Giêsu này thông minh và khôn ngoan vậy? Con Bác Thợ Mộc Giuse và Cô Maria ở xóm nghèo Nadarét mà hay thật. Tất nhiên nhóm Sađốc phải câm họng, đành ngậm bồ hòn làm ngọt, lủi thủi kéo nhau đi chứ cứ ở đó thì có nước độn thổ. Mất mặt ghê đi!
Không ai biết đường về Cõi Sống nếu không có Ánh Sáng của Thiên Chúa, có Ánh Sáng của Ngài chiếu soi thì chúng ta tin tưởng sẽ đến đích, an tâm và vui sống, như Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11)
Ai được vào Cõi Sống, tới Miền Trường Sinh? Thánh Vịnh gia cho biết: “Người thực thi công chính được đi vào cõi sống, kẻ theo đuổi gian tà phải đến chốn tử vong.” (Cn 11:19) Đó là công bình và công lý của Thiên Chúa. Sống công chính là làm đúng những điều Ngài truyền dạy, như ngày xưa ông Nôê đã thi hành. (St 6:22; St 7:5)
Có điều đặc biệt là chính sự sống lại xác định giá trị của niềm tin Kitô giáo. Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.” (1 Cr 15:17) Chết là “cái ngưỡng” bắt buộc. Chết đi để sống lại. Cõi Chết và Cõi Sống đối lập nhau nhưng vẫn như sự cân đối cần thiết và kỳ diệu.
Ai cũng muốn vào Cõi Sống, không ai muốn vào Cõi Chết. Nhưng “chẳng ai tìm được đường về cõi sống” (Cn 2:19) thì phải làm sao đây? Một danh nhân nói: “Đời sống, đời chết; đời cười, đời khóc; đời bỏ cuộc và đời cố gắng. Nhưng đời nhìn khác nhau qua con mắt của mỗi người.” Có nhiều loại đời ghê đi! Cuộc đời ra sao tùy cách nhìn của mình. Cuộc đời như tấm gương, chúng ta cười thì nó cũng cười, chúng ta khóc thì nó cũng khóc. Ai cũng chào đời bằng tiếng khóc, sống với nhiều phiền toái, nhưng chết trong hy vọng hoặc trong thất vọng là cách tự chọn riêng mỗi người.
Triết gia, thần học gia, thi sĩ và nhà phê bình Søren Kierkegaard (1813-1855, người Đan Mạch) nhận định: “Ngay khi bạn sinh ra trên thế giới này, bạn đã đủ già để chết.” Văn sĩ Hans Christian Andersen (1805-1875, người Đan Mạch) nhận xét: “Cái chết đi nhanh hơn gió và không bao giờ trả lại thứ gì nó đã lấy đi.”
Đề cập cuộc đời là nói đến cuộc sống – chính xác là cách sống. Có người sống nhanh, sống vội vã; có người sống chậm, sống từ từ; có người sống xả láng, bất cần; có người sống cẩn thận, nghiêm túc; có người sống ác độc, có người sống nhân hậu; có người sống hèn hạ, có người sống cao thượng; có người sống ích kỷ, có người biết quên mình. Có đủ hình thức và đủ mức độ về cách sống!
Cuộc tử đạo của bảy anh em với người mẹ được kể lại trong 2 Mcb 7:1-2, 9-14. Trình thuật này là một thước phim bi hùng của những con người yêu công lý và hòa bình, dám chết cho chính nghĩa. Từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, đâu đâu cũng có những kiểu bách hại tôn giáo, càng ngày càng tinh vi hơn, nhưng tín nhân vẫn kiên cường và trung thành với Thiên Chúa.
Bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ, vua Antiôkhô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, bắt họ ăn thịt heo là thức ăn cấm theo luật Môsê. Thay mặt cho anh em mình, một người lên tiếng: “Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi.” Nghe vậy, vua tức giận, ra lệnh nung một cái chảo lớn, cắt lưỡi người vừa nói thay cho anh em, lột da đầu và chặt cụt chân tay của anh ngay trước mắt các anh em và bà mẹ. Chặt chân tay anh rồi, vua truyền lệnh đưa anh còn đang thở thoi thóp đến lò lửa mà nướng.
Mặc dù chứng kiến cảnh tượng hãi hùng, nhưng lạ thay, bà mẹ và các anh em vẫn khích lệ nhau anh dũng chịu chết. Họ bảo nhau rằng Thiên Chúa thấy rõ và chắc chắn người dủ lòng thương chúng ta, như lời ông Môsê đã làm chứng cho mọi người: “Đức Chúa sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ.”
Tiếp tục người thứ hai cũng phải chịu các cực hình y như người thứ nhất. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh dõng dạc nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.”
Rồi đến người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được.” Nhà vua và quần thần phải sửng sốt vì lòng can đảm của người thanh niên đã dám coi thường đau khổ. Người thứ tư cũng bị tra tấn như vậy. Khi sắp tắt thở, anh vẫn hiên ngang: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu.”
Cả bảy anh em lần lượt bị lý hình hành hạ cho đến chết, nhưng ai cũng hiên ngang đối diện với Tử Thần. Cuối cùng, người mẹ cũng chết theo các con. Cả gia đình trở thành các vị tử đạo. Diễm phúc biết bao! Tuy nhiên, vấn đề là họ can đảm liều thân vì Chúa. Tử đạo bằng máu là bị giết chết liền, còn tử đạo liên lỉ là “chết” từ từ với những đau khổ – thể lý hoặc tinh thần. Tử đạo kiểu nào cũng khó, không có ơn Chúa thì không thể vượt qua chính mình để kiên cường tới cùng.
Là con người, ai cũng biết rằng cuộc sống luôn có những khó khăn, cả tinh thần và thể lý, nên phải chân thành tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.” (Tv 17:1) Và cứ an tâm tín thác vào Ngài, như Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Dõi vết chân Ngài, con không vấp ngã. Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.” (Tv 17:5-6)
Càng tránh né đau khổ hoặc tìm cách diệt đau khổ thì càng đau khổ, dám đối mặt với nó và đi xuyên qua nó là cách để chiến thắng nó, chúng ta có thể cười vào những nỗi đau khổ. Đó là một dạng tự trào phúng. Khôi hài có khả năng biến đau khổ thành tiếng cười. Một cách tuyệt vời là cầu nguyện. Đó là sức mạnh của con người, khả dĩ khiến Thiên Chúa “mủi lòng” và thay đổi số phận của chúng ta. Cầu nguyện để được bình an và được Thiên Chúa xót thương: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở. Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc, được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.” (Tv 17:8 và 15)
Cầu nguyện là hơi thở, là lương thực giúp Kitô hữu có thêm sức sống. Thật vậy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện, làm gì Ngài cũng cầu nguyện một mình nơi thanh vắng. Ngài muốn chúng ta noi gương Ngài nên Ngài khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21:36)
Cõi sống đời này hữu hạn, sẽ có lúc chấm dứt, vậy mà quý giá và quan trọng lắm. Chắc chắn cõi sống đời sau còn quý giá hơn, quan trọng hơn, không gì có thể so sánh. Vì cõi sống đời sau là cõi trường sinh, bất tử, vô hạn. Muốn sống trường sinh thì phải sống khôn, sống khéo cuộc sống đời này. Đó là điều tất yếu.
Đã dày dạn kinh nghiệm sống, Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để LÀM và NÓI tất cả những gì tốt lành.” (2 Tx 2:15-17) Ngôn hành phải song song, cân bằng hai vế như trong một phương trình, không thể chỉ có một vế.
Với kinh nghiệm sống, ai cũng biết rằng cầu nguyện rất cần thiết, lời cầu nguyện có sức mạnh liên đới, khả dĩ tác động tới người khác. Cầu nguyện lẫn nhau như chất xúc tác giúp cân bằng tâm linh, vì ba thù là loại virus cực độc. Ma Quỷ như những tên cướp đường, chúng có thể ập đến bất ngờ, không cảnh giác thì trở tay không kịp; Thế Gian ví như thời tiết thất thường, chúng ta có thể bị bệnh tật nếu không bảo vệ mình bằng các dưỡng chất hoặc thuốc men; Xác Thịt là các thói hư tật xấu, ví như sâu bọ đục khoét thân cây, không kịp chữa trị thì cây sẽ chết. Xác thịt là chính mình, loại nội gián vô cùng nguy hiểm, có thể nguy hiểm hơn ma quỷ và thế gian.
Chẳng có ai dám nhận mình là vô tội, trong sạch, công chính. Thánh Phaolô cũng đã phải cậy nhờ người khác: “Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em. Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin.” (2 Tx 3:1-2) Con người rất yếu đuối, sơ sảy một chút là sa ngã ngay, thế nhưng có khi chúng ta tự biện hộ và viện cớ với nhiều lý lẽ lắm. Quả thật, “cái tôi” vô cùng đáng ghét!
Vì thế, đừng ỷ sức mình, ngay cả trên đường hoàn thiện mình. Nhưng nhờ ơn Chúa giúp thì an tâm. Thánh Phaolô cho biết: “Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần. Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng vào anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng tôi truyền. Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô.” (2 Tx 3:3-5) Chắc chắn rằng không có Chúa thì chẳng ai có thể làm gì được. (x. Ga 15:5)
Lạy Thiên Chúa, xin dạy bảo đường lối Ngài và giúp chúng con sống theo Thánh Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh; xin giúp chúng con vượt qua mọi nghịch cảnh với niềm tin yêu sắt son, và xin cho chúng con được ở với Ngài đời đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
-------------------------------
Bạn có biết có bao nhiêu người trên thế giới này tin rằng chết không phải là hết, nhưng còn có TN 32-C179
Bạn có biết có bao nhiêu người trên thế giới này tin rằng chết không phải là hết, nhưng còn có sự sống đời sau không? Chẳng ai biết chính xác cả! Nhưng tôi tính thế này, lấy tổng số 7.7 tỉ người trừ đi 500 triệu người vô thần, thì còn khoảng trên dưới 7 tỉ 200 triệu người tin vào Thượng Đế, mà cứ sự thường mà nói, hễ tin vào Thượng Đế có nghĩa là tin vào đời sau.
Như vậy, tôi có thể đoán, số người tin vào sự sống đời sau có khoảng 5-7 tỉ người.
Nhưng nếu hỏi có bao nhiêu người trong số 5-7 tỉ này có sự chuẩn bị cho đời sau của họ, thì tôi e rằng, con số đó sẽ không nhiều cho lắm, nếu không muốn nói là rẩt thấp!
Tin rằng có đời sau, có sự sống vĩnh hằng sau khi ta từ giã cõi đời này, mà ta lại không chuẩn bị gì cả cho đời sống đó, thì chả khôn ngoan chút nào cả, nếu không muốn nói là dại dột, đúng không?
Còn bạn, bạn đã chuẩn bị gì cho đời sau chưa? Nếu câu trả lời của bạn là YES, thì Deo Gracias! Còn nếu bạn nói là NO, chưa chuẩn bị gì cả, thì xin bạn hãy suy nghĩ lại và lo chuẩn bị cho đời sau của bạn ngay hôm nay là vừa!
Ta phải chuẩn bị gì cho đời sau? Mỗi người có cách chuẩn bị riêng của mình. Riêng cá nhân tôi, tôi đang chuẩn bị cho đời sống mai hậu của tôi giống y như khi chuẩn bị đi định cư ở Mỹ hồi xưa vậy. Hồi còn ở Việt Nam, trước khi đi định cư ở Hoa Kỳ, tôi đã chuẩn bị ba việc sau đây:
1. HỌC NGÔN NGỮ: Tiếng Anh là ngôn ngữ chính bên Mỹ, tôi phải biết đọc, viết và nghe hiểu tiếng Anh.
2. HỌC VĂN HÓA: Phải tập thích ứng với văn hóa mới, ví dụ, không được quét nhà hắt ra ngoài đường, không chen lấn khi sắp hàng, phải thường xuyên nói những câu như xin lỗi, làm ơn, cám ơn, xin vui lòng…
3. CHUYỂN NGÂN: Ở Mỹ chỉ xài tiền đôla, còn tiền đồng có hình của ông Hồ mà đem qua Mỹ, thì chỉ là những tờ giấy vụn không hơn không kém. Chuyển ngân rồi thì khi qua Mỹ, tôi có tiền xoay sở được ngay!
Để việc đi định cư ở Thiên Quốc được chu đáo, tôi đã và đang cố gắng:
1. HỌC NGÔN NGỮ: Cư dân trên Thiên Quốc không nói tiếng Anh, Pháp, Đức, Việt, nhưng họ nói tiếng YÊU. YÊU chính là ngôn ngữ chính thức được sử dụng trên Thiên Quốc, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài là Vua cư ngụ cùng với họ (Kh 21:3).
2. HỌC VĂN HÓA: Ở trên Thiên Quốc, tất cả cư dân đối xử với nhau rất lịch sự, chân thành và nhã nhặn, vì ở đó không có những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và ăn gian nói dối (Kh 21:8). Cho nên, ngay từ bây giờ, tôi phải tập sống“bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, và tiết độ” (Gl 5:22-23).
3. CHUYỂN NGÂN: Trên Thiên Quốc chỉ dùng có mỗi một loại tiền có tên là TIỀN CHO ĐI, vì thế tôi phải lo chuyển tất cả tiền TÍCH LŨY ở đời này lên Thiên Quốc thành tiền CHO ĐI. Cách chuyển ngân lên Thiên Quốc rất đơn giản và an toàn, bạn cứ mở Phúc Âm của Thánh Luca ra thì sẽ thấy ngay:
- Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16:9).
- Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá (Lc 12:33-34).
Tôi tin rằng, nếu mỗi ngày bạn và tôi siêng năng và chăm chú học ngôn ngữ YÊU, trau dồi văn hóa của Thiên Quốc, và lo chuyển ngân càng nhiều càng tốt, thì việc định cư ở Thiên Quốc sẽ dễ dàng và thuận lợi. Còn nếu như không lo chuẩn bị ngay từ hôm nay, thì không ổn đâu! Lúc đó có hối hận thì cũng đã quá muộn màng rồi! Lo chuẩn bị ngay từ hôm nay đi là vừa, đừng chần chờ, đừng trì hoãn nữa bạn nhé!
Chúng mình cầu nguyện cho nhau, xin Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Lavang, ban cho bạn, cho tôi và cho những người thân yêu của chúng mình ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, và ơn thông minh, để chúng mình lo chuẩn bị một cách thật chu đáo cho dời sống mai hậu trên Thiên Quốc. Have a blessed weekend. God bless!
Lm. Ansgar Phạm Tĩnh, SDD
---------------------------------
Truyện kể rằng có linh mục kia đang trông coi một giáo xứ miền quê. Vào một buổi chiều nọ, ông TN 32-C180
Truyện kể rằng có linh mục kia đang trông coi một giáo xứ miền quê. Vào một buổi chiều nọ, ông chủ tịch hội đồng giáo xứ vào gặp ngài. Hai cha con ngồi nói chuyện dưới mái hiên nhà xứ. Bỗng nhiên, với vẻ trang trọng ông thưa với cha rằng: “Thưa cha, trong suốt 30 năm qua, không ngày nào mà vợ chồng con không cãi nhau.” Nghe đến đó, cha lùi lại phía sau, nhìn thẳng vào mắt ông trùm, với vẻ ngạc nhiên và hỏi: “Mỗi ngày sao?” “Thưa cha, mỗi ngày” ông đáp. Vậy hôm nay thì sao? Ông trùm trả lời: “Dạ thưa cha, sáng nay cũng thế, cô ta quàng tay sang phía con, tung mền và lôi con bò dậy rồi lớn tiếng quát “ông không dậy ra khỏi giường mà lo việc, cứ nằm đó mà nướng.” Thế là lời qua tiếng lại, cuối cùng con vẫn là người chịu thua và im đi cho yên chuyện.
Trong cuộc sống lứa đôi, vợ chồng thường xuyên gặp phải hoàn cảnh thực tế nói trên. Không tranh luận, không cãi vã, không có lời qua tiếng lại thì không phải là sinh hoạt vợ chồng, thế mà vợ chồng vẫn trung thành sống bên nhau. Cuối cùng cả vợ lẫn chồng đều nhận ra một thực tế mà cha ông chúng ta đã trải nghiệm, đó là: “Càng yêu nhau lắm, càng cắn nhau đau.”
Anh chị em thân mến,
Những cuộc cãi vã thường xuyên xẩy ra trong đời sống vợ chồng thế nào thì mấy ông lãnh đạo thời Đức Giê-su cũng thế. Mỗi khi họ gặp nhau thì đề tài kẻ chết sống lại và sự sống đời sau lại được họ mang ra để tranh luận. Phe nào cũng muốn phần thắng thuộc về họ. Những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu tin có sự sống lại, còn những ai thuộc nhóm Xa-đốc thì lại không tin. Không phe nào chịu thua! Họ không có điểm chung, cho nên mọi cuộc tranh luận đều đi vào ngõ bí và không có lối thoát!
Hôm nay, những người thuộc nhóm Xa-đốc muôn gài bẫy Chúa bèn đưa ra câu chuyện về một người đàn bà đã trải qua bẩy đời chồng mà chồng của bà lại là anh em trai với nhau trong một gia đình. Theo quan niệm của họ thì chết là hết và bà chẳng thuộc về ai hết. Còn nếu ai tin rằng sự sống đời sau tiếp nối sự sống hiện tại, thì sau khi chết bà này sẽ là vợ của ai? Vì bà đã là vợ của cả bẩy anh em!
Điểm then chốt mà họ đưa ra ở đây không phải để tìm hiểu giáo lý, nhưng để bắt bí Đức Giê-su. Nếu Người cũng chủ trương có sự sống đời sau thì Người phải đối diện với một tình huống thật khó xử. Đức Giê-su lại một lần nữa bị đặt vào hoàn cảnh dường như không lối thoát. Người sẽ hành xử ra sao trong lúc đối tượng chỉ là những người chống đối và gây khó khăn cho Người?
Dù biết được thâm ý của họ như thế nhưng Đức Giê-su vẫn kiên nhẫn trong cách hành xử để đáp trả vấn nạn mà họ nêu ra. Lời đáp trả của Người về sự sống lại có thể tóm tắt như sau:
Điểm quan trọng trước hết là có sự khác biệt giữa sự sống đời này và sự sống đời sau. Cuộc sống với Thiên Chúa trong thời sau khi chết thì khác hẳn với sự sống hiện tại. Khác như thế nào không được nói rõ, nhưng hẳn nhiên không phải là một sự tiếp nối của cuộc sống hiện tại.
Điều thứ hai là không có việc lấy vợ gả chồng trong thời đại đó.
Điểm thứ ba là họ không thể chết nữa vì trong Chúa họ đang sống đời đời.
Sau cùng, những ai đã được cứu độ thì sẽ có lối sống giống như các thiên thần, chầu chực và ca tụng Thiên Chúa.
Sau đó, Đức Giê-su còn trích dẫn lời tuyên xưng của Mô-sê, khi ông gọi Đức Chúa hiện vẫn là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Người còn khẳng định rằng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là người sống, vì đối với Thiên Chúa, tất cả vẫn đang sống.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng thế, câu hỏi về sự sống đời sau không phải để thảo luận, bàn cãi hay tranh luận. Đó là vấn đề của đức tin và cũng là một điều bí ẩn. Nó hàm chứa một niềm hy vọng, một thách đố, một kiếm tìm và một lòng tin tưởng đầy hứa hẹn ở tương lai. Khi sinh ra, chúng ta đã bước vào cuộc hành trình của sự sống vĩnh cửu. Lời hứa của cuộc sống đời sau đó giúp chúng ta đối diện với các khó khăn cũng như nghịch cảnh của cuộc sống này như những con người không để cho sự chết đánh gục. Tuy nhiên, trước các nghịch cảnh trong cuộc sống, chúng ta sẽ buồn phiền, thậm chí thất vọng, nhưng không tuyệt vọng bởi vì chúng ta tin rằng cuộc sống mới sẽ đến. Chúng ta tin rằng có một thực tại tuyệt vời hơn đang chờ đợi chúng ta ở tương lai.
Chúng ta yên tâm về Thiên Đàng, chính nhờ niềm tin này mà chúng ta sẽ sống khác với những ai chỉ thấy thiên đàng tại thế. Chúng ta sẽ sống vì Chúa. Chúng ta sẽ đáp lại tình thương của Người bằng toàn bộ cuộc sống này. Nói khác đi, cuộc sống vĩnh cửu không phải là quà tặng ban cho tôi khi tôi đã về già; nhưng nó đã được khởi động trong ngày tôi lĩnh nhận bí tích Thánh Tẩy để làm Con Chúa của tôi.
Thật đúng như lời Đức Giê-su đã khẳng định Người là Thiên Chúa của kẻ sống. Đối với Người thì tất cả đều đang sống. Hy vọng Lời Chúa nói hôm nay đem đến cho chúng ta sự bình an, niềm vui và hy vọng ngay bây giờ và mãi mãi sau này nữa.
Trong niềm tin và hy vọng vào cuộc sống đời sau đã được hứa ban, nhất là trong tháng các linh hồn năm nay, chúng ta xác tín về số phận của những người thân. Họ đã bước qua ngưỡng cửa, mà chúng ta gọi là sự chết để bước vào nước hằng sống. Quí ngài đang sống gần Chúa hơn chúng ta, các ngài đang nghỉ yên để thụ hưởng tình yêu và sự hiệp thông - cho dù chưa trọn vẹn – với Chúa.
Niềm xác tín như thế được đặt trên căn bản của niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương, chậm bất bình và không kể tội của con mình. Hãy xem cách mà Thiên Chúa đã hành xử với Da-kêu và người con thứ. Cả hai người khi trở về nhà có người nào bị hạch tội hay phải nhắc lại quá khứ của mình hay chăng, ngược lại họ còn được trọng thưởng và mở tiệc mừng ăn khao.
Quả thật, nếu chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã săn sóc chúng ta khi còn sống, thì chắc chắn Ngài còn săn sóc và thương yêu chúng ta nhiều hơn nữa khi chúng ta bước về nhà Cha. Trong nhà Cha, con người chuyển sang vũ trụ khác, một trạng thái sống không còn đau khổ, không còn hận thù, nhưng chỉ có bình an, hoan lạc và niềm vui. Sau khi chết, con người được thu hút vào vũ trụ tràn đầy tình thương của Thiên Chúa, và họ biết rõ rằng Thiên Chúa biết và yêu thương họ.
Thưa anh chị em, như vậy việc cầu nguyện cho những người quá cố có cần thiết hay không?
Dạ thưa, cần và rất khẩn thiết. Tuy nhiên chúng ta không đến ngôi mộ để tìm và cầu cho người chết. Họ đang sống. Vì thế, việc cầu nguyện của chúng ta không nhằm mục tiêu đánh thức Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn thương yêu và lo lắng cho mọi người, Người không muốn cho bất cứ ai bị hư đi. Như vậy, việc cầu nguyện và tưởng nhớ đến những người thân hay mọi người đã lìa cõi thế của chúng ta nói lên sự yêu thương, nhớ nhung của chúng ta với các ngài.
Qua việc cầu nguyện, chúng ta minh chứng rằng thân nhân của chúng ta không chết. Sự chết không làm đứt đoạn hay tiêu hủy mọi mối dây tương quan mà chúng ta đã thiết lập và xây dựng. Bởi vì, các mối tương quan đó được đặt trên nền tảng của sự yêu thương trong Chúa. Chính vì sức mạnh của tình yêu giúp chúng ta xác tín rằng cho dù thân nhân của chúng ta đã lìa cõi thế về mặt thể lý, nhưng sự hiện diện của họ tồn tại vĩnh viễn trong lòng yêu thương và sự tưởng nhớ của chúng ta.
Vì, Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Đối với Người thì tất cả đều đang sống, không còn ai chết nữa. Đây là niềm hy vọng mà chúng ta dùng để an ủi, nâng đỡ và cầu nguyện cho nhau. Amen!
Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT
--------------------------------
Niềm Tin xác loài người ngày sau sống lại ngay từ lúc đầu đã bị hiểu lầm và bị chống đối mãnh TN 32-C181
Niềm Tin xác loài người ngày sau sống lại ngay từ lúc đầu đã bị hiểu lầm và bị chống đối mãnh liệt. Chuyện sống lại là vấn đề cần thiết không riêng gì cho người Kito hữu mà còn cho tất cả những ai đã từng suy tư về sự sống và sự chết. Của tất cả mọi tôn giáo.
NGƯỜI SA-ĐỐC VÀ KINH THÁNH
Bài Tin Mừng Luca hôm nay (Lc 20:27-38) nói về người Sa-Đốc, một nhóm riêng trong Do Thái Giáo. Họ là những tư tế, phần lớn giàu có và bảo thủ, theo thuyết Aristotle duy vật. Họ chỉ theo những sách của Maisen. Đối với họ, giảng huấn nào không thấy trong Ngũ Thư (năm cuốn sách đầu tiên của bộ Cựu Ước) đều vô giá trị, và ngay cả những sách của Maisen họ cũng không thấy có giáo lý nào nói về sự sống lại sau khi chết.
Các lãnh tụ tôn giáo này ở Jerusalem và những đại diện của họ đều hợp tác với La Mã để kết tội chúa Giesu và cố tình làm mất uy tín của Người. Họ hoạnh họe, bắt bẻ, làm náo loạn trong dân, đẩy Chúa Giêsu vào trường phái tư duy với chủ đích chia rẽ những người theo Chúa. Họ không chịu học hỏi và nghiên cứu. Đơn giản họ chỉ muốn chọc tức, gài bẫy Chúa Giêsu bằng những câu hỏi cổ hữu đã có trong đầu họ từ lâu là “Không có chuyện xác người chất sống lại” (c.27; Cv 23:8). Có vậy thật không?
XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI
Trái lại, những người biệt phái và những người cùng thời với Chúa đều tin và hy vọng xác người ta sẽ sống lại. Họ không chỉ là những tiên tri, dựa vào Kinh Thánh mà còn tin vào cả những lời truyền khẩu từ Maisen. Căn bản niềm tin của họ về sự sống lại là những lời truyền khẩu. Đề tài này được làm sống lại trong cuộc tranh luận giữa phe Biệt Phái và Sa-Đốc mà Phaolô đã dùng để phân hóa, làm náo loạn trong Thượng Hội Đồng Do Thái lúc xét sử Ngài để Ngài thoát chết (Cv 23:6-10).
Những người Sa Đốc không tin có sự sống lại. Câu hỏi của họ trong bài Phúc Âm hôm nay dựa trên hôn phối luật Lêvi được chép trong sách Thứ Luật 25: 5-10, nói rõ bổn phận của người em đối với người anh đã chết. Đám người Sa-Đốc đã kỳ cục hóa tư tưởng về sự sống lại. Chúa Giêsu đã phản kháng sự hiểu biết sơ đẳng và ấu trĩ đó của họ (c 35-36), đồng thời đưa ra biện chứng dựa trên sự sống lại của những người chết theo luật có ghi chép đàng hoàng (c 37-38) mà những người Sa-Đốc đã chấp nhận.
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm 2 phần. Phần đầu (c 34-36) đã lật tẩy câu hỏi không thích hợp đó, bởi lẽ đời sống ở trần thế khác với đời sống sau khi chết. Ở trần gian, hôn phối và cuộc sống là chính nhưng cái chết đã kết thúc nó rồi. Tuy nhiên, ở đời sau không có sự chết, và những người sống lại thì giống như những thiên thần, họ là con Thiên Chúa thì không có chuyện vợ chồng nữa. Trong phần trả lời sau, Chúa Giêsu dựa vào chính Kinh Thánh của người Sa-Đốc là sách xuất hành 3:6 của Maisen (c 37-40), Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, không phải của kẻ chết.
Cả hai phần trả lời của Chúa Giêsu là một biện chứng dựa vào lý trí, nghĩa là điều kiện của đời sống trần gian không thể dùng làm bằng cớ cho điều kiện của đời sống mai sau. Và Kinh Thánh (Xh 3:6) cũng xác quyết là người chết sẽ sống lại. Dựa vào niềm tin này, Chúa Giesu đã đồng ý với phe Biệt Phái. Biện chứng này phải đặt trên sự phục sinh khải hoàn của Chúa Giêsu, không phải trên giáo lý về sự sống lại theo nghĩa thường tình tổng quát.
HÃY HIỂU BIẾT VẤN ĐỀ MỘT CÁCH CHÍNH XÁC
Vào thời Chúa Giêsu, những người Biệt Phái và Sa-Đốc hiểu biết về Chúa Giêsu rất hời hợt. Họ đã học hỏi giáo huấn của Chúa và nhiều chi tiết, nhưng sự hiểu biết của họ không phải là một hiểu biết đúng nghĩa “Người là Sự Thật”. Các thành viên của phe họ cũng vậy, chỉ hiểu biết Người một cách hời hợt bề ngoài. Họ biết nhiều điều về Người nhưng không hiểu những điều nòng cốt đích thực về Người. Về 12 Tông đồ, ít ra họ cũng hiểu biết một cách cụ thể và họ đã bắt đầu khám phá ra Chúa Giêsu là ai.
Sự hiểu biết khác nhau như vậy vẫn còn tồn tại ở thời đại ngày nay. Có nhiều người biết khá nhiều chi tiết về Chúa Giêsu, nhưng chưa bao giờ thực sự biết và yêu mến Người. Nhiều người đã từng nghiên cứu thâm sâu về thần học! Nhưng cũng có nhiều người đơn sơ, không nghiên cứu, chẳng hiểu biết chi tiết nhiều về Người nhưng lại biết về sự thật và vẻ đẹp huy hoàng của Người đầy đủ và trọn vẹn. Họ biết luật của Chúa là “Mến Chúa Yêu Người”.
HÔN NHÂN LÀ TẶNG VẬT MẦU NHIỆM
Hôn nhân cũng là một yếu tố của vấn đề xác loài người sống lại. Mục đích tự nhiên của hôn nhân là sinh con cái. Nó bảo đảm cho sự liên tục của nòi giống, tạo dựng thế hệ mới, bởi vì con người sống rồi chết, nhưng có thế hệ sau nối tiếp. Do đó mới có sự liên tục của loài người. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói với chúng ta rất nhiều lần về việc này: “Tương lai nhân loại là ở gia đình”.
Có người đặt câu hỏi, cuộc sống tận hiến độc thân và giữ đức trong sạch phải chăng là dấu chỉ của sự sống lại và vương quốc Thiên Chúa đang đến gần, vì khi đã sống lại và ở trong vương quốc, người ta không còn cưới nhau, không có chuyện dựng vợ gả chồng nữa. Độc thân và đức trong sạch trong Giáo Hội đã gợi chú ý đến một phẩm trật mới trong Tin Mừng. Nó liên hệ đến sự sống lại của người chết; nó là dấu chỉ của viên mãn, của bất giệt và của sự sống.
Tình trạng độc thân là dấu chỉ của thế giới sắp tới mà các linh mục thuộc nghi thức La-tinh đang cố gắng sống trọn vẹn suốt đời là kẻ theo chúa Giêsu Kitô, làm mục vụ Tin Mừng, cầu nguyện và chiêm nghiệm dưới chân thầy chí thánh, tuyên xưng ngày sắp đến của Vương Quốc Thiên Chúa, dâng hiến bí tích hy tế Thánh Thể được gói gém trọn vẹn trong thiên chức linh mục. Đó chính là điều Chúa Kitô muốn khi người thành lập tình trạng tự ý độc thân và giữ khiết tịnh vì“Vương Quốc Thiên Đàng”. Thiết lập điều giống như Chúa Kitô, không phải chỉ là tinh thần mà còn cả thể chất lẫn thực tế nữa. Tự ý ở độc thân và tự do giữ khiết tịnh là một tình trạng rất thích hợp với công việc phục vụ Vương Quốc. Giống như Chúa Giêsu, linh mục tự hứa hoàn toàn xã thân cho công tác mục vụ. Giữ độc thân và khiết tịnh không phải để được an bình hay tự do hơn hầu làm điều mình mong muốn, nhưng là để trở nên giống chúa Giêsu Kitô trong ước nguyện quyết tâm đi về vương quốc Thiên Chúa.
Với Công đồng Vatican II, truyền bá Tin Mừng không phải chỉ do linh mục hay hàng giáo sĩ, tu sĩ mà còn do cả giáo dân. Giáo dân cũng giữ một vai trò không kém, có khi còn thực tế và quan trọng, tạo kết quả hơn cả giáo sĩ. Chủ trương tân phúc âm hóa của Giáo Hội phải chăng là đặt trách nhiệm trên giáo dân hơn là giáo sĩ, vì giáo dân dễ đi vào lòng người hơn là giáo sĩ. Do đó giữ lòng trong sạch, trung thành trong tình nghĩa vợ chồng cũng quan trọng không kém tính độc thân và khiết tịnh của hàng giáo sĩ, và đó cũng là chuẩn bị cho ngày sống lại hưởng vương quốc thiên đàng!
LỜI NGUYỆN TRONG TUẦN
Xác loài người ngày sau sống lại là thực sự. Vương quốc Thiên Chúa là có thật. Chớ gì Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha là đấng đã yêu thương chúng ta và cho chúng ta lòng can đảm không hề phai và hy vọng vững bền qua ân sủng của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng cương quyết và sức mạnh trong mọi lời nói và việc làm. Chúa chúng ta là đấng trung tín, Người sẽ ban sức mạnh và dìu giắt chúng ta tránh khỏi mọi ác quỉ. Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn chúng con yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Chúa Kitô (2 Tx 2:16-3:5).
Lạy Chúa, khi vinh quang Chúa xuất hiện, nỗi vui mừng của chúng con sẽ tràn đầy. Xin gìn giữ chúng con như con mắt Chúa, xin che chở chúng con dưới cánh tay Người. Nhưng, trong sự công chính, chúng con sẽ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa; khi bước đi, chúng con sẽ hoan hỉ trước sự hiện diện của Chúa (Cv 17:1,5-6,8,15).
Chúng con tin xác loài người ngày sau sống lại. Xin Chúa cho chúng con an hưởng Vương Quốc Thiên Đàng của Chúa, trong vinh quang Thiên Chúa. Amen.
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
--------------------------------
Ba năm một lần, Chúa nhật 32 năm C, Hội Thánh cho chúng ta suy niệm đoạn ngắn sách Macabê TN 32-C182
Ba năm một lần, Chúa nhật 32 năm C, Hội Thánh cho chúng ta suy niệm đoạn ngắn sách Macabê quyển II, nói về việc vua Antiôkô hành hạ tám mẹ con Do thái vì đức tin của họ vào Thiên Chúa cho đến khi lần lượt cả tám mẹ con đều tử nạn thảm khốc. Tại sao lại có câu chuyện bi hùng này? Antiôkô là ai? Macabê là ai? Sách Macabê ra đời thế nào?
1. BỐI CẢNH HY LẠP HÓA.
Thế kỷ V trước Chúa Giêsu giáng sinh (tCG), Đất hứa Canaan tức Israel, rơi vào tay Đế chế Macedonia của Alexandrô Đại đế, thuộc đế quốc Hy lạp (trị vì 13 năm từ 336-323 tCG). Alexandrô Đại đế từng đem quân chinh phạt nhiều nơi. Ông quá thành công. Ông biến Đế chế Macedonia trải dài một vùng rộng lớn từ châu Á, châu Âu đến châu Phi.
Sau khi Alexandrô chết một cách bí ẩn (có người cho rằng ông bị đầu độc), Đế chế Macedonia rơi vào cảnh tranh giành hỗn loạn và chia thành bốn vùng. Một trong bốn vùng đó là dải đất rộng lớn chạy từ Ai cập đến Syria.
Hai vị tướng là Ptôlêmê và Sêlêcô lại kiểm soát Ai cập và Syria, lập nên các vương triều của riêng mình đang tranh giành nhau để đạt ảnh hưởng và trị vì. Nhà Ptôlêmê lập thủ phủ ở Ai cập (phương nam). Nhà Sêlêcô lập thủ phủ ở Syria (phương bắc).
Nằm giữa Ai cập và Syria, Israel ngẫu nhiên trở thành vùng đất tranh chấp, nhiều lần bị xâu xé bởi hai vương triều nói trên. Chỉ 17 năm, từ 319-302 tCG, do những cuộc ẩu đả qua lại của hai vương triều, Giêrusalem bảy lần đổi chủ, hết bị Ptôlêmê rồi đến Sêlêcô cai trị.
Đến năm 301, nhà Ptôlêmê hoàn toàn thắng thế và cai trị đế quốc Hy lạp, trong đó có Israel. Dù trước đây, trong thời chiếm đóng qua lại, cả Ptôlêmê và Sêlêcô đều ra sức tuyên truyền và phổ biến văn hóa Hy lạp gọi là "Hy lạp hóa" (Hellenism). Đây là thứ văn hóa ngoại giáo, hoàn toàn đi ngược đức tin vào Thiên Chúa của dân Do thái.
Tuy nhiên, nhà Ptôlêmê hiền hòa. Khi nắm quyền, họ gây nhiều thiện cảm với dân Do thái. Dân Do thái vẫn tự do tôn giáo. Thời Ptôlêmê, cộng đoàn Do thái tại thủ đô Alexandria (đặt tại Ai cập) của đế quốc Hy lạp dịch Thánh Kinh Cựu Ước từ tiếng Do thái sang tiếng Hy lạp, hoàn tất năm 250 tCG. Đây là bản “Thánh Kinh Bảy Mươi” (tương truyền do 70 vị dịch thuật), nhằm phổ biến cho các cộng đoàn Do thái ảnh hưởng văn hoá Hy lạp.
Dòng họ Ptôlêmê lãnh đạo đế quốc Hy lạp trong thời gian khá dài (301-198 tCG). Đến năm 198 tCG, bất ngờ Antiôkô III thuộc dòng họ Sêlêcô đánh thắng quân Ai cập (một phần của đế quốc Hy lạp), nắm quyền cả một vùng từ Syria đến Israel.
Sau khi Antiôkô III chết, con trai là Antiôkô IV (175-164 tCG), một con người võ đoán, tàn độc thay cha, tự xưng một cách kiêu ngạo là Antiôkô Êpiphan (Thiên Chúa hiện thân), thực hiện chính sách hà khắc, nhằm loại nền văn hóa kết hợp với đức tin từ lâu đời mà người Israel luôn mang nơi mình. Ông buộc Israel bỏ đạo cha ông, không được thờ Thiên Chúa, nhưng phải thờ các thần Hy lạp. Năm 169 tCG, ông cướp đoạt những đồ quý giá trong đền thờ Giêrusalem, xúc phạm nặng và biến đền thờ thành nơi thờ đa thần Hy lạp. Cụ thể, ông dựng bàn thờ kính thần Zeus ngay trong đền thờ.
2. CUỘC NỔI DẬY CỦA GIA ĐÌNH MACABÊ.
Cuộc bách hại do dòng họ Sêlêcô, khởi đi từ Antiôkô IV (Antiôkô Êpiphan) là cuộc bách hại khốc liệt và trực tiếp vào đức tin Do thái giáo. Người Do thái bắt đầu tự vệ. Nhưng càng nổi dậy, họ càng bị đàn áp nặng nề.
Không thể chịu nổi sự áp bức khốc liệt, năm 166 tCG, từ thành Môđin, một năm sau khi đền thờ Giêrusalem bị xúc phạm nặng, ba anh em ruột nhà Macabê nổi dậy dưới sự lãnh đạo của cha là tư tế Mattathia. Họ đã có nhiều chiến thắng vang dội, lập nên triều đại Hasmônê.
Sau khi Mattathia chết, người con thứ ba, Giuđa Macabê đầy mưu lược, dũng cảm, đã đưa quân đội Do thái đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, khiến quân thù khiếp sợ. Tháng 12.165 tCG, họ chiếm lại được đền thờ và long trọng làm lễ thanh tẩy đền thờ. Tuy nhiên, Giuđa gặp nhiều khó khăn do âm mưu của thượng tế Alcimus. Ông qua đời trong một trận chiến.
Đáng tiếc, sau Giuđa Macabê, những người tiếp theo của dòng họ Hasmônê ít tài lại kiêu ngạo. Họ hướng về thế tục nhằm tranh đoạt chính trị, quyền lợi, hưởng thụ...
Một người anh em là Gionathan Macabê kế vị (160-142 tCG). Tuy bắt đầu hướng về thế tục như đã nói, Gionathan lấy lại phần đất thuộc vương quốc của Đavít và Salomon xưa. Cuối cùng ông bị tướng Trypho của nhà Sêlêcô giết.
Người thứ ba kế tục là Simon Macabê (142-134). Ông cũng theo lối thế tục, dần mở rộng bờ cõi. Ông bị con rể ám sát. Kẻ sát nhân lại bị người con thứ hai của Simon là Gioan Hyrcanô giết, để tiếp tục sự nghiệp của cha lập nên triều Hyrcanô I (134-105).
3. HẬU DUỆ CỦA MACABÊ KIÊU NGẠO VÀ YẾU KÉM.
Hyrcanô I là người tài. Năm 109 tCG, ông chiếm Samaria, hủy đền thờ ngoại giáo trên núi Garizim, buộc dân Samari thờ Chúa ở Giêrusalem. Tuy không xưng vương, Hyrcanô lại tự xem mình như người tái lập vương quốc Đavít nhờ chính sách bành trướng.
Sau khi Hyrcanô I qua đời, con lớn là Aristôbôlô I lên ngôi (104-103 tCG), nổi tiếng tàn ác. Ông bắt giam mẹ và anh em ruột, buộc mẹ chết đói trong tù. Ông kiêu ngạo, tự xưng vương. Tệ hại hơn, dòng họ Hasmônê tự xưng là thượng tế, đã làm mất lòng hàng tư tế chính thức ở Giêrusalem, gây nên sự chống đối nơi người Do thái.
Một nhóm người mệnh danh là Hasidim (tiền thân của Pharisêu hay còn gọi là nhóm biệt phái), xuất thân từ những người Do thái đạo đức thuộc mọi tầng lớp xã hội, chống đối sự phản bội của dòng họ Hasmônê đối với Lề luật và tinh thần Do Thái giáo.
Trong hành ngũ những người Hasidim có một số gồm tư tế và thường dân hoàn toàn phủ nhận quyền tôn giáo và chính trị của triều đại Hasmônê-Macabê, tạo thành nhóm biệt phái Qumran nổi tiếng ở phía tây bắc Biển Chết.
Chính cộng đoàn Qumran, sau này do sự tấn công vũ bão của quân La mã năm 68 sau khi Chúa Giêsu giáng sinh, đã dấu những tác phẩm Kinh Thánh vào những ghềnh đá, mà mãi đến năm 1974, ngành khảo cổ mới tìm thấy.
Sau khi Aristôbôlô I chết năm 103 tCG, Alexandrô Jannê (103-76) lên ngôi trị vì, lại hết lòng ủng hộ Hy lạp. Có thể xem Alexandrô Jannê là người cuối cùng của dòng họ Hasmônê-Macabê. Dù trên ngai cai trị, ông vẫn tiếp tục coi mình là thượng tế y như các vua trước của dòng họ Hasmônê-Macabê.
Đáng buồn là, trước đây, để chống văn hóa ngoại giáo Hy lạp, tổ tông nhà Macabê lãnh đạo người Do thái bảo vệ văn hóa đi đôi đức tin tôn giáo, tin mãnh liệt vào Thiên Chúa, thì bây giờ, sau khi trải qua năm đời lãnh đạo, con cháu Macabê dần nghiêng theo Hy lạp. Đặt dấu ấn nặng nề nhất cho sai lầm này là Hyrcanô I, Aristôbôlô I (kẻ độc ác, bất tài) rồi đến Alexandrô Jannê.
Sau khi Alexandrô Jannê qua đời năm 76, vợ ông là Alexandra nối nghiệp chồng cai trị thêm 9 năm. Sau khi bà chết ít lâu, hai người con của bà là Hyrcanô II và Aristôbôlô II xâu xé nhau để tranh quyền làm thượng tế và làm vua. Chính trong thời gian khủng hoảng quyền lực, đế quốc La mã nhanh chóng nắm lấy thế cờ để giành quyền làm chủ.
Như chúng ta đã biết, thời Chúa Giêsu, ở Palestine, đế quốc La mã đã hoàn toàn làm chủ tình hình.
Nhìn lại: Cuộc nổi dậy của nhà Macabê tuy ngắn ngủi (167-164). Nhưng là cột mốc quan trọng cho Do thái giáo. Trước ý muốn của vua Antiôkô IV dùng bạo lực buộc người Do thái chỉ còn nước phải chọn lựa dứt khoát hoặc chối đạo để sống tiếp, hoặc chịu tử đạo. Cuộc nổi dậy của Giuđa Macabê và sự thành công - thanh tẩy Đền thờ - đã giúp cho đức tin sống lại. Nhưng như ta đã thấy, những kẻ kế nghiệp ông đã tự bôi bẩn mình với những âm mưu chính trị và tranh giành quyền lực.
4. SÁCH MACABÊ QUYỂN I.
Sách Macabê quyển I (không rõ do ai viết) ra đời khoảng năm 100 tCG, ghi lại những sự kiện xảy ra từ năm 323-104 tCG. Trong đó, sách đặc biệt lưu ý cuộc khởi nghĩa của người Do thái bảo vệ đức tin do gia đình Macabê lãnh đạo.
Quyển sách nhấn mạnh đến sự trung thành với lề luật của Chúa đối lập với những chính sách tàn ác của đế quốc Hy lạp, luôn tìm cách xóa bỏ niềm tin vào Thiên Chúa của người Do thái.
Sách cũng nêu gương gia đình Macabê, một gia đình trung thành với lề luật của Chúa, đồng thời gan dạ, dũng cảm bảo vệ đến cùng đức tin ấy. Dù đề cập nhiều chiến thắng của Macabê, sách luôn cho thấy, những thành công không phải do con người, nhưng là do Thiên Chúa.
Dù anh em nhà Macabê bị giết chết nhưng dân được hưởng tự do tương đối để sống theo Lề luật và truyền thống cha ông. Một lần nữa, qua nội dung sách Macabê, Thiên Chúa bày tỏ sự trung tín với dân của Người.
5. SÁCH MACABÊ QUYỂN II.
Không phải phần nối tiếp quyển I, được viết vào khoảng năm 124 tCG (trước quyển I khá lâu), cũng không chú ý về mặt lịch sử.
Trong khi quyển I trình bày toàn diện một giai đoạn lịch sử, thì quyển II lại tập trung vào những sự kiện, đôi khi gồm chuỗi bình luận hay tích truyện. Chẳng hạn sách kể lại những biến cố xảy ra cho đền thờ: bị xúc phạm, được thanh tẩy và tái thiết, rồi lại bị tấn công dưới thời Antiôkô IV và con trai ông này. Những gì xảy ra cho Đền thờ cũng là những gì xảy ra cho dân tộc: chịu bách hại, được giải thoát và tái thiết. Sách giúp độc giả hiểu về niềm hy vọng và những đau khổ của các tín hữu bị bách hại.
Sách thẳng thắn trách cứ các thượng tế và nhiều vị lãnh đạo khác, khờ khạo, nông nổi đưa văn hoá ngoại giáo Hy lạp vào đất nước, vào Giêrusalem và vào cả đền thờ. Đây là điều không thể chấp nhận đối với các thực hành Do thái giáo chân chính.
Sách quy cho tội lỗi đã dẫn đến sự trừng phạt của Chúa. Như thế, tư tưởng mà tác giả muốn đề cao là: tội lỗi sẽ dẫn đến hình phạt, còn hoán cải dẫn đến ơn cứu độ. Điểm yếu của cách nhìn này là không thể giải thích được nỗi đau của người vô tội, khiến người ta dễ cho rằng, mọi đau khổ đều là hình phạt của tội.
Dù sao quyển II rất quan trọng về mặt Kinh Thánh và đức tin. Nó cho ta cái nhìn sâu sắc về đau khổ và sự chết, về công lý của Thiên Chúa.
Macabê quyển II tuyên xưng đức tin vào sự sống lại của những người đã chết, điều mà theo sau sách này, các sách Đanien, Khôn ngoan cũng trình bày.
5. BÀI HỌC CHO NGƯỜI TÍN HỮU.
a. Người Kitô hữu cần ghi nhớ luôn rằng, lịch sử cứu độ gắn liền với vận mệnh của một dân tộc đã và vẫn âm thầm trôi giữa lòng thế giới. Lịch sử ấy đã thánh hóa mọi lịch sử của loài người. Là tiếng nói cứu độ của Thiên Chúa phát xuất từ trời, lịch sử cứu độ trở nên một và nhập cuộc hoàn toàn với mọi dòng lịch sử của người trần thế.
Vì là tiếng nói của Thiên Chúa, Đấng trường tồn, Đấng bền vững vĩnh cửu, mặc cho lịch sử của loài người rất bấp bênh, đã nhiều lần thay ngôi đổi chủ, thì lịch sử cứu độ vẫn chỉ là một, vẫn luôn luôn mang trong mình sức sống thần linh vô biên và không ngừng trao ban ơn cứu độ, như dòng thác tuôn chảy đến vô cùng giữa lòng thế giới.
Thế giới bấp bênh đến đâu, bàn tay Thiên Chúa vẫn tiếp tục dìu dắt, hướng dẫn để ai tin vào Người, sẽ thấy bình an và hiểu rằng, vận mệnh của đời mình nằm trong tay Thiên Chúa vĩnh cửu. Bởi được cư ngụ trong Thiên Chúa, loài người có một chiều kích vĩnh cửu, tồn tại muôn đời trong Thiên Chúa.
b. Bất cứ thời đại nào cũng đều có những thế lực đối kháng và chống lại đức tin Kitô giáo. Chẳng hạn: chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa vô thần, những lôi kéo về vật chất, thể xác, quyền lực, não trạng hưởng thụ, lối sống thực dụng...
Đứng trước những nguy cơ xa rời đức tin, Thái độ của tư tế Mattathia và gia đình ông là mẫu gương quý cho chúng ta về tinh thần tận trung với Chúa.
Hay như câu chuyện tám mẹ con lần lượt tử đạo chỉ trong một ngày mà phụng vụ Lời Chúa cho chúng ta suy niệm, là câu trả lời duy nhất về thái độ chọn lựa: Không a dua theo thế gian để được sống tiếp trong thân xác, nhưng quyết chứng minh đức tin là tất cả lẽ sống, là cao trọng trên cả mạng sống của thân xác, để luôn nêu cao tinh thần bất khuất tiến về nhà Chúa trong mọi điều kiện, dẫu bi đát nhất, đau khổ nhất, ngay cả phải đành mất mạng sống.
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
-------------------------------
Sự sống lại là trọng tâm của đức tin Kitô giáo, tuy nhiên ngày nay, cũng như vào thời Chúa Giêsu TN 32-C183
Sự sống lại là trọng tâm của đức tin Kitô giáo, tuy nhiên ngày nay, cũng như vào thời Chúa Giêsu, việc tin vào sự sống lại của kẻ chết không hẳn là hiển nhiên. Sự phục sinh này là trọng tâm của đức tin Kitô giáo, bởi vì sự phục sinh của Chúa Giêsu là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta khi đối mặt với cái chết, một thực tế hàng ngày. Thực tế về sự kết thúc cuộc sống trần thế này của chúng ta đã là điểm khởi đầu cho nhiều suy tư triết học và tôn giáo qua nhiều thời đại. Từ câu trả lời của chúng ta về ý nghĩa của cái chết, chúng ta cũng sẽ xác định được ý nghĩa của cuộc sống. Nói chung đối với câu hỏi về điều gì xảy ra ở bên kia cái chết, chúng ta có ba câu trả lời: những người không tin hoặc những người theo thuyết bất khả tri không trả lời gì cho câu hỏi này, nói cách khác chúng ta không biết gì về việc đó; hiền triết phương Đông trả lời câu hỏi này bằng thuyết luân hồi, mà trong những năm gần đây đã trở nên phổ biến ở thế giới phương Tây; cuối cùng các Kitô hữu trả lời rằng chúng ta được kêu gọi tới sự sống lại.
Trong Tin mừng hôm nay, một nhóm người Do Thái, cụ thể là những người phái Xađốc từ chối tin rằng người chết đã sống lại. Trái lại, những người Pharisêu, và phần lớn dân Do Thái, tin vào sự sống lại, như sách Macabê quyển hai nói: “chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Ngài sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2 Mcb 7:9). Giữa hai quan niệm đó, Chúa Giêsu được đề nghị làm trọng tài một cuộc tranh luận khá sôi nổi, như chúng ta có thể thấy trong chương 23 của sách Công vụ Tông đồ, nơi đó Thánh Phaoô khéo léo lợi dụng sự đối kháng này để trốn khỏi những kẻ tố cáo ngài: “Ông Phaolô biết rằng một phần Thượng Hội Đồng thuộc phái Xađốc, còn phần kia thuộc phái Pharisêu, nên ông nói lớn tiếng giữa hội nghị: "Thưa anh em, tôi là người Pharisêu, thuộc dòng dõi Pharisêu; chính vì hy vọng rằng kẻ chết sẽ sống lại mà tôi bị đưa ra xét xử." Ông vừa nói thế, thì người Pharisêu và người Xađốc chống đối nhau, khiến hội nghị chia rẽ. Thật vậy, người Xađốc chủ trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng có thiên sứ hay quỷ thần; còn người Pharisêu thì lại tin là có. Người ta la lối om sòm” (Cv 23: 6-9). Lập luận của Xađốc là cố chứng minh niềm tin vào cuộc sống đời sau là sai lầm bằng cách đưa ra một trường hợp họa hiếm, hầu như chỉ có trong tưởng tượng. Họ dựa vào một luật lệ được gọi là Lêvira - trong Đệ nhị luật: “Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình ; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết ; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Israel” (Đnl 25: 5-6). Lý do cho thực hành này trên tất cả là kinh tế và xã hội: vấn đề là tìm người thừa kế có thể chịu trách nhiệm về gia sản của người đã khuất để lại.
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy tầm nhìn hạn hẹp của những người Xađốc đối thoại với Ngài. Họ tưởng tượng cuộc sống sau này giống như cuộc sống trần gian, kể cả chuyện hôn nhân. Họ đơn giản giảm thiểu sự sống vĩnh cửu thành một sự kéo dài của cuộc sống trần thế. Chúa Giêsu trả lời bằng cách chứng minh rằng những người Xađốc vừa hiểu sai lời Kinh thánh vừa hiểu sai quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì trái với những gì họ tuyên bố, Kinh thánh loan báo về sự sống lại, kể cả trong năm sách đầu tiên của Kinh thánh, những sách duy nhất được những người Xađốc đối thủ của Ngài công nhận. Quả thật, Chúa Giêsu đã trích dẫn đoạn văn nổi tiếng từ “Bụi gai cháy bừng”: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Ábraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp” (Xuất hành 3: 6) “Mà Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống” (Lc 20: 38) ngụ ý rằng Thiên Chúa “chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 10).
Bài học cũng áp dụng cho chúng ta và đặt câu hỏi cho chúng ta về cách chúng ta đọc và giải thích Lời Chúa theo quan niệm của con người chúng ta về sự sống và cái chết, hay chúng ta để mình được “hướng dẫn về sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13) bởi Chúa Thánh Thần, Đấng giải thích Kinh thánh cho chúng ta? Niềm tin vào việc chúng ta tham dự vào sự phục sinh của Chúa Kitô dựa trên Lời của Ngài, được Thiên Chúa xác nhận và được Thánh Thần chứng thực. Hy vọng của chúng ta không chỉ là sự sống ở trần thế, mà là một tác động gây sửng sốt của Thiên Chúa, giống như một sự sáng tạo mới, sẽ dành cho chúng ta “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1Cr 2, 9). Chắc chắn, người đàn ông sẽ luôn luôn là nam tính ngay cả trong thân thể phục sinh huy hoàng của mình, và người phụ nữ sẽ luôn là “trợ thủ” của người nam, là người sẽ khơi dậy sự ngạc nhiên vui mừng của anh ta như vào buổi ban mai của sách Sáng Thế: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (Stk 2:23). Tình yêu thậm chí sẽ bùng cháy hơn bao giờ hết trong trái tim họ, theo kế hoạch ban đầu của tạo hóa. Nhưng tình trạng của nhân loại được tôn vinh sẽ không còn đòi hỏi: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (Stk 1: 28) bởi vì: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20: 34-36). Người nam và người nữ sẽ yêu thương nhau trong Thiên Chúa, là Đấng, trong Thánh Thần, sẽ cho họ dự phần vào năng lực phong nhiêu của tình yêu thần linh của Ngài. Được củng cố bởi lời hứa này, chúng ta “hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Chúa Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3: 2-4).
Tại buổi Kinh Truyền tin ngày 11/10/2019, ĐTC Phanxicô tuyên bố niềm tin Kitô giáo về sự Phục sinh trước “mối nghi ngờ chạm đến nhân loại mọi thời đại ... sau cuộc hành hương trần gian này, cuộc sống của chúng ta sẽ trở thành cái gì? Phải chăng nó sẽ thuộc về hư vô, thuộc về sự chết?”
Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi những người đối thoại - và cả chúng ta nữa - hãy nghĩ rằng chiều kích trần thế này mà chúng ta đang sống hiện nay không phải là duy nhất, mà còn có chiều kích khác, không còn chịu sự chết, trong đó nó sẽ được biểu lộ đầy đủ rằng chúng ta là con cái của Thiên Chúa … Sự chắc chắn rõ ràng này của Chúa Giêsu về sự Phục sinh hoàn toàn dựa trên sự trung thành của Thiên Chúa, là Thiên Chúa của sự sống”.
“Đối với “sự nghi ngờ” cuộc sống của chúng ta sẽ trở thành gì? Phải chăng nó sẽ thuộc về hư vô, thuộc về sự chết? Chúa Giêsu trả lời rằng sự sống thuộc về Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta và quan tâm đến chúng ta rất nhiều, đến mức ràng buộc danh Ngài với chúng ta: Ngài là “Thiên Chúa của Ábraham, Thiên Chúa của Isasác và Thiên Chúa của Giacóp. Thiên Chúa không phải của kẻ chết, nhưng của kẻ sống; vì mọi người đều sống cho Ngài” (37-38). Đây là sự khôn ngoan mà không khoa học nào có thể ban cho!”
ĐTC nói thêm “Ở đây mầu nhiệm phục sinh được mặc khải, bởi vì mầu nhiệm của sự sống được mặc khải: sự sống tồn tại ở nơi có mối ràng buộc, sự hiệp thông, tình anh chị em; và nó là sự sống mạnh hơn sự chết khi nó được xây dựng trên những mối tương quan thân tình thực sự và các mối dây trung tín. Trái lại, không có sự sống nào ở nơi mà người ta tuyên bố chỉ thuộc về chính mình và sống như những hòn đảo: trong những thái độ như thế này, sự chết chiếm ưu thế. Thực tế, sự Phục sinh không chỉ là sự kiện sống lại sau khi chết, nhưng nó là một cung cách sống mới mà chúng ta đã có thể trải nghiệm ngay bây giờ” [*].
Chính vì thế, niềm tin vào sự sống lại không phải chỉ nói về những gì bên kia, mà còn đem lại ý nghĩa cho cuộc sống trần thế này, bởi vì sự sống lại nói lên tầm quan trọng, giá trị của mỗi con người ngay trần thế này. Chính nơi đây mỗi người nhận ra khả năng yêu thương và được yêu thương, và có thể cởi mở ra tham dự vào tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa, với trọn vẹn thể xác, tinh thần và linh hồn của mình, trong tính duy nhất không lặp lại. Khi nói rằng cuộc sống của tôi sẽ không lặp lại là tôi coi trọng tự do và trách nhiệm của mình, là tôi khẳng định tầm quan trọng của những lựa chọn tôi đang thực hiện ngày hôm nay. Cuộc sống trần thế ngày hôm nay của tôi là con đường duy nhất dẫn đến cõi vĩnh hằng, vì đó là nơi duy nhất mà tôi có thể nhận ra khả năng yêu thương của mình, và là nơi tôi chuẩn bị chào đón tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Không có kiếp nào khác như vậy cho tôi.
Mặt khác, tin vào sự sống lại của con người duy nhất của tôi cũng là tin rằng tình yêu của Thiên Chúa là nền tảng, chứ không phải khả năng hay sức lực cá nhân của tôi, giúp tôi thành công trong cuộc sống. Thật vậy, nếu trong cuộc đời duy nhất của mình, tôi phải lựa chọn để đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, thì tôi biết rằng việc tôi được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu không mấy phụ thuộc vào công trạng của tôi cho bằng vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho tôi. Sự tham dự của tôi vào cuộc sống vĩnh cửu sẽ không phải là phần thưởng cho những nỗ lực lặp đi lặp lại, mà là một món quà cho không từ Thiên Chúa, Đấng mà tôi hân hoan đón nhận tình yêu của Ngài. Vì vậy, tin vào sự sống lại là khẳng định tính ưu việt của tình yêu Thiên Chúa cho không mỗi người chúng ta hơn là khả năng cá nhân của chúng ta muốn xây dựng hạnh phúc và sự cứu rỗi bằng sức riêng của mình. Đây là lý do tại sao tất cả những người nghèo, dù nghèo đến đâu, vẫn có thể tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa.
Do đó, khi cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết rằng: cuộc sống này vốn được Thiên Chúa ban cho, có một ý nghĩa, vì những nỗ lực nào của chúng ta ở đời này nhằm yêu thương như Thiên Chúa yêu thương, trong các mối tương giao đa dạng khác nhau, gấn gũi nhất là tương giao vợ chồng, con cái, anh chị em trong gia đình, sẽ được đền đáp ở cuộc sống bên kia cái chết, “được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô”, như thánh Phaolô khuyên nhủ: “Vậy, thưa anh em, anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. Xin chính Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.” (2 Tx 2: 15-17).
Phêrô Phạm Văn Trung
------------------------------
Một bác sĩ sản khoa có viết một câu chuyện về cuộc đối thoại giả tưởng giữa ông với một bào TN 32-C184
Một bác sĩ sản khoa có viết một câu chuyện về cuộc đối thoại giả tưởng giữa ông với một bào thai như sau. Bác sĩ nói: “Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau nầy trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được”. Nghe vậy, bào thai liền nói: “Thôi, đừng nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ là cuộc đời duy nhất mà tôi biết, ngoài ra chẳng còn cuộc đời nào khác nữa. Một cuộc đời khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín”. Nhưng sau khi suy nghĩ một hồi, bào thai thắc mắc: “Tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi? Ở đây đâu có gì để nhìn và đâu có ánh sáng để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng ở đây tôi không đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì nhỉ? Và tại sao tôi lại có tay? Phải chăng để vòng lại? Tay lúc này làm phiền tôi và mẹ tôi lắm! Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ e vô nghĩa, nếu sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và lắm điều khác để tôi nhìn. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống trong đó chắc là vĩ đại. Chắc tôi phải đi nhiều nên tôi mới có chân. Chắc tôi phải làm việc và chiến đấu, nên tôi mới có tay!”
1. Vấn nạn của những người không tin
Câu chuyện giả tưởng trên đây nêu lên cho ta hai vấn đề như bài Tin Mừng đề cập: cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau, với ranh giới là sự chết. Nhưng sự chết cũng là một vấn đề, vấn đề nghiêm trọng nhất, khó tránh nhất, phổ quát nhất mà nhân loại luôn tự đặt. Các cơn bệnh hiểm nghèo, các đại họa thiên nhiên, các tai nạn đường sá, các cuộc chiến khốc liệt… không ngớt khiến ta nêu câu hỏi: có cái gì “mai hậu” chăng? Hầu kết mọi nền văn minh lớn và tôn giáo lớn đều khẳng định “kiếp sau” của con người, đều cử hành “phụng tự kẻ chết”, đều xác tín “tổ tiên” vẫn ảnh hưởng lên cuộc sống của con cháu hậu duệ. Nhưng ngày nay, duy vật chủ nghĩa xem ra chinh phục được các tâm trí. Lắm người không tin, không muốn tin bất cứ hình thức tồn tại nào sau cái chết cả. Tuy nhiên, ngay thời Đức Giê-su, vài nhóm tôn giáo như phái Xa-đốc cũng đã chẳng tin vào sự sống lại, do khuynh hướng “bảo thủ giáo lý” chỉ chấp nhận Ngũ Thư thôi (5 cuốn sách đầu bộ Kinh thánh). Quả thế, niềm tin sống lại chưa được bày tỏ minh nhiên trong các cuốn này. Nó mới bắt đầu được nói đến ở Đn 12,2-3, tức chỉ trước đó hai thế kỷ. Tuy nhiên, như sẽ thấy, Đức Giê-su sẽ dựa vào chính Ngũ Thư để chứng minh cho phái Xa-đốc biết là có sự sống lại.
Cả ba Tin mừng Nhất lãm đều kể lại cho chúng ta giai thoại này và trong cùng bối cảnh, nghĩa là trong những ngày cuối cùng đời tại thế của Đức Giê-su. Thật cảm động lúc thấy thiên hạ đã cho Người cơ hội phát biểu quan điểm cá nhân về thế giới bên kia đang khi cái chết của bản thân đến gần: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng để sinh con nối dõi cho anh hay em mình…”. Vâng, khát vọng sống mãi, vốn ở trong trái tim con người, đã dẫn các nền văn minh Át-xi-ri và Do-thái đến thói tục “thế huynh”: vì thật ra, thiên hạ nghĩ rằng mình chỉ sống mãi thật sự trong con cháu. Thành thử phải bằng mọi giá làm dấy lên một hậu duệ cho người anh quá vãng. Và đứa bé sinh ra từ cuộc kết hợp ấy được pháp luật xem như con của người đã khuất.
Nhưng để chế giễu niềm tin vào sự phục sinh, phái Xa-đốc đã đưa ra cho Đức Giê-su một trong những đề tài “tranh luận” tinh tế mà các trường phái ráp-bi rất ưa chuộng. Bảy anh em, vì luật thế huynh, đã cùng lấy một người vợ mà chẳng có ai để lại đứa con nào. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai? Nố lương tâm này có vẻ lố bịch. Tuy nhiên, tách riêng yếu tố huyền hoặc, nó rất giống với các kiểu tò mò của chúng ta về thế giới bên kia: chúng ta chẳng luôn ngây ngô tưởng tượng thế giới ấy như tiếp nối cuộc sống đời này mà chúng ta đang biết hay sao? Đức Giê-su sẽ giải đáp thế nào?
2. Giải đáp của Đấng sống lại
Chẳng bao giờ để mình bị lôi kéo vào sự tò mò tôn giáo thuần túy, Đức Giê-su lập tức lên cao và tỏ ra trịnh trọng. Trước hết, Người thiết lập một tương phản toàn diện giữa “thế giới đời này” với “thế giới mai sau”, và quả quyết chỉ đi vào đó “những ai sẽ được xét là đáng hưởng”. Thành thử đây là chân lý thứ nhất, hết sức rõ rệt: ta không đi vào cuộc sống vĩnh cửu “cách đương nhiên”, kiểu chơn giỡn… mà phải được xét là xứng đáng! Thế giới bên kia đâu phải là một nơi mà bất cứ ai cũng có thể vào cách thong dong: có một sự kiểm soát… theo kiểu các trắc nghiệm chúng ta thường chịu để lãnh một số trách nhiệm hay một số nghề nghiệp. Và đương nhiên thử thách để vào “trong thế giới tương lai” chỉ có thể là thử thách về cách chúng ta sống “trong thế giới đời này”!
“Họ được ngang hàng với các thiên thần”. Cần hiểu cho đúng khẳng quyết thứ hai này của Chúa. Người bảo chúng ta phải từ bỏ ý định tưởng tượng cuộc sống tương lai. So sánh các “tuyển nhân” với các “thiên thần”, đó là nói lối sống của những người quá vãng thoát khỏi tầm tay của khoa học và trí tuệ. Cuộc sống thế giới bên kia đâu dựa theo mẫu cuộc sống chúng ta! Chẳng có thể nào hình dung thế giới tương lai lẫn các thiên thần. Việc tiếp tục hay không các sinh hoạt tính dục là một câu hỏi cũng bậy bạ như việc tranh luận về giới tính của các hữu thể thiêng liêng ấy! Họ chẳng phải nam cũng chẳng phải nữ. Vậy họ thế nào? Hoàn toàn khác với chúng ta! Và Đức Giê-su đáp lại phái Xa-đốc duy vật (và cả phái Pha-ri-sêu duy lý máy móc nữa) rằng sẽ chẳng cần sinh sản, vì ta đâu còn phải chết.
Lắm người sẽ tự hỏi tại sao Thiên Chúa không giải thích thêm một chút về cuộc sống ngon lành ở thế giới bên kia? Người không thể làm được, vì chúng ta chẳng có chút kinh nghiệm nào về thế giới đó cả. Với đứa trẻ còn trong bụng mẹ, ta có thể nói gì để hé lộ cho nó biết “cuộc sống” đang chờ nó? Giả sử nó biết ngôn ngữ bạn dùng, lời của bạn cũng chả nói lên với nó điều gì, vì nó đâu kinh nghiệm về thế giới chúng ta: nó chỉ có thể khởi sự khám phá thế giới ấy một khi “chào đời”… Tuy nhiên Thiên Chúa cũng cho ta một vài hình ảnh. Con bướm là một sinh vật hoàn toàn khác với con sâu từ đó nó phát xuất. Cây lúa xanh hoàn toàn khác với hạt lúa. Bà già 90 tuổi hoàn toàn khác với cô bé vốn là bà lúc đầu đời. Có khác biệt trong mọi trường hợp ấy nhưng cũng có liên tục. Con sâu sống cuộc sống bò trên đất, một hôm nó chui vào ngủ trong cái kén dùng làm quan tài nhỏ cho nó, và một ngày nọ, con bướm xinh đẹp chỗi dậy, tung cánh bay lượn trên trời. Một hình ảnh về sự sống lại đang chờ hết thảy chúng ta.
“Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”. Đây là mạc khải tích cực thứ ba của Đức Giê-su về những người quá vãng: họ được đưa vào sống thân mật với Chúa Cha, nên con cái Thiên Chúa. Tham dự tình yêu tuyệt đối sẽ làm cho ta hạnh phúc vô cùng! Vậy là chúng ta đã xa câu hỏi nực cười của phái Xa-đốc mà đi vào trung tâm đức tin đích thực. Cuộc sống thế giới bên kia là không thể tưởng tượng, khác hẳn cuộc sống đời này, vì đó là việc tham dự vào sự sống của Đấng Toàn Tha, của Thiên Chúa! Như tất cả những gì động tới Thiên Chúa, chúng ta chẳng có cách nào để ý niệm hóa các thực tại như vậy, những thực tại vượt quá trí tuệ ta hoàn toàn. Khả năng duy nhất của chúng ta là tin vào đó hoặc không tin thôi.
“Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về Bụi Gai…”. Sau khi đã tự mình khẳng định việc kẻ chết sống lại, giờ đây Đức Giê-su dựa vào chính Kinh thánh. Người như muốn bảo hãy tìm các ý tưởng về sự sống lại không phải nơi các triết gia và các tay tưởng tượng nhưng trong Mạc khải. Và để kẻ đối thoại dễ chấp nhận, Người chỉ xoay quanh Ngũ Thư. Đức Giê-su trích câu Thiên Chúa nói với Mô-sê (Xh 3,6; rồi truyền cho Mô-sê lặp lại với dân Người: Xh 3,15-16) rằng Người “là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp”. Người loan báo sẽ cứu dân khỏi cảnh nô lệ Ai-cập vì đã giao ước với tổ tiên của họ. Câu chuyện và lời tự xưng như vậy cho thấy: 1-Các tổ phụ đã chết nhưng không tuyệt diệt mà vẫn tồn tại nên Thiên Chúa phải giữ lời. Chẳng ai bị bó buộc giữ lời -mà cần gì hứa lời- đối với một con vật sẽ bị tuyệt diệt, vì đâu có sợ “làm tủi hổ vong linh” nó, đâu có sợ “chẳng còn mặt mũi nào nhìn nó khi xuống suối vàng”! 2-Áp-ra-ham, I-xa-ac, Gia-cóp không chết nhưng còn sống mãi, vì Thiên Chúa đã giao ước là cho tới muôn đời và tình Người yêu ta vượt thắng cái chết. Nếu những kẻ đã được Thiên Chúa sáng tạo và yêu thương như Áp-ra-ham, I-xa-ac, hay ai đó… đều tất phải đi vào hư vô vĩnh viễn, thì như thế tình yêu của Người thất bại. Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa tình yêu đã chẳng gọi chúng ta đến sự sống để biến chúng ta thành những kẻ mang án chết tạm hoãn. Nếu tin vào vị Thiên Chúa do Đức Giê-su mạc khải, ta biết mình được Người yêu mến và muốn mến yêu Người. Làm sao một chuyện tình như thế lại kết thúc ở nghĩa địa? Lạy Chúa, con quá yêu Chúa, nên chẳng lẽ không mơ yêu Chúa sau cuộc đời này (x. Tv 73,23)? Phần Chúa, Chúa quá yêu con nên chẳng lẽ bỏ con hư nát trong phần mộ (x. Tv 16, 10)? Đây là kinh nghiệm tử đạo: phải chấp nhận “liều mạng hoàn toàn vì Thiên Chúa”, thậm chí cho đến chết, để sống mãi trong tình yêu Người.
Thành thử chẳng có gì thần thoại hay trẻ con trong niềm tin Ki-tô giáo về thế giới bên kia: đức tin vào sự sống lại đâu phải là một tin tưởng bên lề, không bắt buộc: đó là đức tin vào chính Thiên Chúa!
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
------------------------------