Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 6-C Bài 51-100 Những mối phúc và những mối họa đích thực ------------------------------------ Phúc Âm: Lc 6, 17. 20-26: "Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Tinh thần mới, nội tâm quan trọng hơn là chức bậc, phẩm trật và hơn cả hình thức tổ chức bề: TN 6-C51
Tinh thần mới, nội tâm quan trọng hơn là chức bậc, phẩm trật và hơn cả hình thức tổ chức bề ngoài. Tinh thần ấy được phác hoạ trong bài giảng trên núi, Thánh Luca viết cho những người ngoại giáo, không phải cho những người Do thái. Chính vì thế, những gì có tính cách đặc biệt Do thái đều bị bỏ đi và tất cả bài giảng chỉ bằng một phần ba bài giảng của Thánh Mathêu.
Công cuộc canh tân mà Chúa Giêsu đem đến đang bắt đầu nơi Ngài và nhờ Ngài, bây giờ đây, Ngài thấy nó trở nên sung mãn hoàn toàn: chính lúc con người chết, là đi vào cuộc sống mới, đối với toàn thể nhân loại, đó là ngày cùng tận được đi vào trời mới đất mới. Suốt trong sứ điệp của vị Thiên Chúa rao giảng, cái nhìn vẫn cố định trên cái viễn tượng tối cao đó: bài giảng trên núi chỉ có thể hiểu theo nghĩa này.
DIỄN TỪ.
Đối lại bốn lời chúc dữ là bốn lời chúc lành.
‘Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, khốn cho các ngươi những kẻ giàu có…’. Đối với Chúa Kitô, đây không phải là diễn từ mang tính chất xã hội, một cách phân phối của cải, một cuộc cách mạng kinh tế, nhưng là một quan điểm về sự đảo lộn có tính cách quyết định, của cuộc cách mạng chân thật và sâu sắc nhất, của sự đảo lộn tuyệt đối trong đó những kẻ trước hết sẽ nên sau hết và những kẻ sau hết sẽ nên trước hết.
Lúc đó sẽ xảy ra là những ai đang sống nghèo khổ trong thế giới hiện thời sẽ được gìn giữ để khỏi sa vào lưới thế gian, họ đã luôn nhắm vào vũ trụ tương lai, vào nước Thiên Chúa. Người nghèo khó không bị của cải trần gian đè lấp: vì thế họ hy vọng với lòng trông cậy những ngày tươi sáng hơn. Người giàu trái lại coi thế này như là nơi vĩnh cửu. Họ tìm thấy ở đó những thoả mãn những điều họ ao ước. ‘Ở đó, ‘một ngày kia’, đó là những viễn tượng họ không nghĩ đến, và cũng chẳng nghĩ đến nữa: đó là cái họ sợ hãi và trốn chạy.
Nhưng dầu sao, nước Thiên Chúa vẫn sẽ đến, cũng vậy khốn cho ai ít ao ước nó, mà lại muốn xa tránh nó.
‘Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát… Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ’. Người đói khát là người cảm thấy có nhu cầu. Họ chờ mong với lòng ao ước điều ngày hôm nay họ không có được. Còn kẻ no nê, thoả mãn với chính mình lại muốn làm cho giây phút hiện tại này thành vĩnh cửu và từ chối sự vĩnh cửu thực sự. Họ đáng cái mà người ta ca thán khi giờ nước Thiên Chúa đến: đó là lời chúc dữ chứ không phải là lời chúc phúc.
‘Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc… khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười’. Ở đây nữa, từ ngữ, ‘bây giờ’ ‘hiện giờ’ là chính yếu. Những kẻ khóc lóc là những người thấy thất vọng với cái thế gian này. Họ chỉ thấy những sự khó chịu, đau khổ. Do đó họ hướng về tương lai, hy vọng có cái gì khác lạ và mới mẻ mà Chúa Kitô mang đến.
Trái lại những kẻ cười nói, vui thú trong những sung sướng dưới thế này, họ hài lòng với tính chất hời hợt của thế gian này, không muốn tin rằng thế gian này là cái chóng qua. Đến lúc thay đổi, vui cười của họ sẽ biến thành than khóc; ngay từ bây giờ họ đã bị nguyền rủa.
‘Phúc cho các ngươi nếu vì Con Người mà thiên hạ oán ghét, trục xuất và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương… Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi’.
Hai nhóm đó tạo thành một tương phản thật kêu và ít thấy có hoà đồng hỗ tương. Những kẻ nghèo khó, đói khát, những kẻ khóc lóc, bị đuổi bắt, bị những người no nê, giàu có, vui cười… ghét ghen và khinh dể. Nhưng có Chúa Kitô ở bên họ, Ngài là Đấng giảng lời quyền năng được dân chúng ca tụng, và Ngài sẽ lên tiếng khen họ.
Đó là một thái độ lạ lùng. Đối với Ngài, biến đổi thế gian này chưa đủ. Ngài còn mang đến một cái gì hoàn toàn khác hẳn, tuyệt đối mới mẻ: đó là nước Thiên Chúa. Như thế, sứ điệp Ngài giảng không phải là chuyện cải biến thế giới hiện thời, một sự cao thượng hoá con người, kéo dài luân lý nhân loại. Và như vậy có thể giải thích được sức mạnh và quyền năng chưa hề nghe nói về vị giảng thuyết và về giáo huấn của Ngài.
Kẻ nghe lời Ngài sống bằng tương lai và xây tất cả hy vọng của mình trên sự đổi thay bao la đã được Chúa khai mở và một ngày kia sẽ đạt được tầm mức sung mãn.
LÒNG NGƯỜI CHỈ TOẠI NGUYỆN KHI BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đường dẫn đến hạnh phúc thật
Chỉ có Mátthêu và Luca tường thuật lại các mối phúc. Tuy hai ông có lẽ cùng truy cứu chung một: TN 6-C52
Chỉ có Mátthêu và Luca tường thuật lại các mối phúc. Tuy hai ông có lẽ cùng truy cứu chung một nguồn, nhưng mỗi người lại khai thác dữ liệu một cách độc đáo, khiến cho hai bản viết, bên cạnh những nét tương đồng rõ rệt, vẫn có những dị biệt tỏ tường về nội dung và con số các mối phúc cũng như về cấu trúc, thể văn và ý hướng.
Nội dung các mối phúc theo thánh Luca rất khác với nội dung Bài giảng trên Núi của thánh Mátthêu.
Đức Giêsu lên núi, nơi “ Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa", trước khi chọn lấy mười hai ông trong số các môn đệ, mà người gọi họ là "tông đồ" nghĩa là kẻ được sai đi. Giờ đây Người đóng vai một Môsê mới, “xuống núi", mang theo sứ điệp của Thiên Chúa và "dừng lại ở một chỗ đất bằng”, đối diện với "đông đảo môn đệ của Người" là đoàn lũ "dân chúng”, tiêu biểu cho những con người đến từ "khắp miền Giuđê, Giêrusalem" lẫn lộn với những người từ những miền dân ngoại thuộc "miền duyên hải Tyrô là Siđôn". Những lời Người sắp tuyên bố là các mối phúc, được dành cho hết mọi người, vì chỉ có mình Người mới có thể thoả mãn được khát vọng hạnh phúc của con người. Cộng đoàn các môn đệ của Người, một khi đã lãnh hội và sống các mối phúc ấy sẽ phải làm chứng về các mối phúc ấy cho mọi người.
Con số các mối phúc trong Matthêu là chín. Còn trong Luca chỉ có bốn. Điểm khác biệt nữa là: Luca cho thêm vào bốn "mối hoạ” đặt rất song hành với bốn "mối phúc"; đây không phải là những lời nguyền rủa, mà chỉ là những lời thiết tha kêu gọi những "người bất hạnh" ăn năn hối cải khi họ lỡ bước lao mình vào con đường sa đoạ.
Sau cùng, thể văn và ý hướng của các mối phúc này đều rất khác nhau. Thánh Matthêu trình bày các mối phúc ấy ở ngôi thứ ba số nhiều và nhắm những thái độ nội tâm: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó...." Còn Luca lại diễn tả ở ngôi thứ hai số nhiều và chỉ ra những loại người trong xã hội, mà "bây giờ" đang thực sự phải nghèo khổ, phải đói, phải khóc bị nguyền rủa hay bị ngược đãi: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó... Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói..." Nếu mối phúc thứ hai hay thứ ba loan báo một sự đảo ngược hoàn cảnh hoàn toàn thì tuyệt nhiên không phải có ý khuyến khích đương sự chịu đựng, luồn cúi vì hy vọng ở thế giới bên kia. Mối phúc thứ nhất và cuối cùng nói ở thì hiện tại: "Nước Thiên Chúa là của anh em", "vì này đây, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao"; những mối phúc ấy tỏ cho biết rằng triều đại cứu thế đang được khai mở trong con người Đức Giêsu.
R. Meynet viết: "Nước Thiên Chúa, không phải đợi tới ngày tận thế, Nước ấy đang ở đây ngay hôm nay cho ai biết chọn lựa nước ấy... Cũng giống như Nước Chúa, thiên đàng (trời) không phải đợi mai sau mới có, thiên đàng là đây, ngay bây giờ, chứ không phải tìm kiếm ở nơi đâu khác; thiên đàng thuộc về một trật tự khác, trật tự của Thiên Chúa chứ không phải của loài người" ("L'evangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ", Cerf, trg 79).
2. Theo chân Đức Giêsu:
"Các mối phúc-mối hoạ" là mạc khải có tính tiên tri thúc giục ta hoán cải những quan niệm phàm trần của ta về hạnh phúc, nghèo đói và than khóc, theo ánh sáng của mầu nhiệm được tỏ ra ở đây: mầu nhiệm về Thiên Chúa muốn tỏ mình cho người ta chiêm ngưỡng Người trong mầu nhiệm Đức Giêsu, nơi Người mầu nhiệm về con người được soi sáng.
- Ở đây, người ta khám phá ra mầu nhiệm về Thiên Chúa đầy lòng xót thương những kẻ nghèo khổ. Ph. Bossuyt và J. Radermakers còn giải thích: Thực vậy, những người này, được tuyên bố là "người hạnh phúc", bởi vì Thiên Chúa quan tâm tới họ. Vì người quan tâm tới họ, không phải vì họ có công trạng gì, nhưng vì chính hoàn cảnh của họ: nghèo khổ, phải đói, phải khóc, bị ngược đãi… Đây chính là mầu nhiệm khơi nguồn cho hiến chương Nước Trời vậy (Sđd, trg 241)
- Ở đây chúng ta cũng được đưa vào chính trung tâm mầu niệm Đức Giêsu mà ngay từ bài giảng khai mạc ở hội đường Nadarét Người đã hé mở cho thấy trước số phận Con người sẽ phải chịu: số phận một người bị hiểu lầm, bị chối bỏ.
Hai tác giả trên tiếp tục: "Vì vậy, chân lý của Thiên Chúa về các mối phúc, không tỏ ra tách biệt với số phận của con người. Hơn nữa chân lý ấy còn có một nền tảng vững chắc là tin vào lòng trung tín của Thiên Chúa như vẫn được biểu lộ ra trong con người Đức Giêsu. Những kẻ nghèo khổ, đói khát, khóc than là những người có phúc, bởi lẽ, trong Đức Giêsu, Thiên Chúa đã hành động quyết liệt để bênh vực họ, khi con Người sống lại từ trong kẻ chết. Người là đang thực hiện niềm hy vọng của họ" (Sđd, trg 242).
- Sau cùng, người ta thấy vén lên ở đây mầu nhiệm về con người, một sinh vật có một trang sử để sống, được kêu gọi để tự do lựa chọn, được mời gọi sống theo khuôn mẫu của Chúa được bày tỏ ra nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Tóm lại là dám nối gót theo chân Đức Giêsu chết và phục sinh.
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Đức Giêsu đã làm đảo lộn quan niệm về hạnh phúc cách khác thường”
Chẳng có gì là ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thân, tự giới thiệu và khẳng định mình là “đường, sự thật là sự sống". Ngay cả trước khi được gọi là Kitô hữu, những ai đã đặt lòng tin cậy nơi Đức Giêsu đều được gọi là "Người môn đệ của Đường". Người là con đường tốt, là sự chọn lựa đúng cho ta, là đầu tư ngắn hạn và dài hạn rất tốt, vì thế mà thánh Phaolô mới nói rõ: "Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô, chỉ để mưu ích cho cuộc sống này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người".
Thực ra khi tuyên bố về các mối phúc, Đức Giêsu đã đảo ngược bậc thang truyền thống về các giá trị là đặc biệt làm đảo lộn cả quan niệm về hạnh phúc. Vậy mà thánh Luca vẫn không do dự giới thiệu các mối phúc ấy với các tín hữu ở thế kỷ đầu vốn đã phải gian nan vì bị ngờ vực, khinh bỉ và bách hại. Không chỉ coi đây là một lời hứa hay là quy tắc sống, phải chăng Luca còn muốn phác hoạ chân dung những con người bé mọn kia, họ đã nhờ Đức Kitô mà thay đổi hẳn ý nghĩa cuộc đời của họ? Kìa, những con người ấy cảm thấy hạnh phúc ngay trong những hoàn cảnh mà ta cho là không có mảy may khả năng nào để mà hạnh phúc và vui sướng được. Vậy mà đó lại là kinh nghiệm và chứng từ của những người nam cũng như nữ chịu để cho Thần Khí tác động và hướng dẫn, đặt niềm tin tưởng vào Người và đi theo con Đường của Người.
2. “Nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc”
Có những người đặt tất cả hy vọng và dùng hết sức lực của mình để đạt cho được tự do và hạnh phúc bao lâu còn sống ở đời này: họ chẳng hy vọng gì ở thế giới bên kia.
Người khác đã có được niềm tin chắc chắn rằng cuộc sống trần gian chỉ là điểm xuất phát, là một chuyến đi hay là một cuộc tập nghề và cuộc sống ấy sẽ được viên mãn ở thế giới bên kia, sau khi chết. Vì thế không nhất thiết phải khinh chê những vui sướng phàm trần. Họ coi những vui sướng trần gian kia vừa mong manh vừa giới hạn nên chỉ là hình ảnh mờ nhạt tượng trưng cho cái được hứa cho con người. Hầu hết các tôn giáo đều ấp ủ niềm xác tín này.
Ngay từ Cựu ước, Thiên Chúa đã được khẳng định là cội nguồn hạnh phúc đích thực và duy nhất: người công chính là kẻ "bước đi với Chúa". Trong quan niệm cổ xưa của Kinh Thánh, hạnh phúc ấy được thực hiện ngay ở đời này khi Thiên Chúa ban ân huệ cho ngươi trung tín như được sống lâu, đông con nhiều cháu, khoẻ mạnh, giàu có... Thế nhưng vẫn có những người công chính phải khốn khổ, bị khinh chê, bị bách hại: những người đó, Thiên Chúa hứa cho họ một sự đền bù mà bản chất thế nào thì còn bị che khuất.
Chính nhờ giáo huấn của Đức Kitô mà ta được biết rõ bản chất của hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban cho con người, hạnh phúc của một tình yêu trọn vẹn, tuyệt đối, hoàn hảo: đó cũng chính là tình yêu hiệp nhất của Ba Ngôi trong tương quan với nhau.
Thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, như bị chi phối hoàn toàn bởi một thứ tiếng lòng thổn thức "Thiên Chúa là tình Yêu", thường diễn tả và quảng diễn lời mời gọi này của Thiên Chúa gởi đến cho con người: "Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa là Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống tình yêu cốt ở điều này không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống đời đời, và sự sống này ở trong Con của Người".
Vậy con đường mà Người con ấy là Đức Giêsu Kitô đề nghị cho con người để đạt được sự sống và tình yêu sung mãn (sự sống và tình yêu luôn liên kết với nhau) được diễn tả đặc biệt trong đoạn Phúc âm nổi tiếng thường được biết dưới cái tên là Bài Giảng Trên Núi hay đúng hơn, là bài giảng về Các Mối Phúc Thật (phúc ở đây là hạnh phúc thật).
Thực ra, người ta có thể hiểu các mối phúc mà các Phúc âm Mátthêu (5,3-11) và Luca (6,20tt) trình bày, là phần dẫn nhập vào luân lý Kitô giáo, một nền luân lý chủ trương hạnh phúc là vì Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, ngoài ra các mối phúc vừa đưa ra một lời hứa, vừa là con đường đưa đến hạnh phúc.
Lời hứa ban hạnh phúc bắt đầu được thực hiện ngay từ hôm nay, vì rằng thứ hạnh phúc Chúa ban cho con người đây, tiên vàn không phải là kết quả ở sức riêng của con người, nhưng là sự cởi mở đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ mà Chúa ban cho hết thảy mỗi người là được hiệp thông sự sống với Người. Sống luân lý theo Kitô giáo là đáp lại ân sủng của Chúa một cách tự do tự nguyện.
Con đường hạnh phúc là một lược đồ gợi ra những thái độ nội tâm phải sống (tâm hồn nghèo khó, dợn sơ, tin tưởng), những cách xứ sự đối với tha nhân (lòng thương xót, ý muốn hoà bình), những hoàn cảnh khó khăn phải đối phó (những thử thách về tâm hồn và vật chất, những sự bắt bớ). Tất cả những điều này đều hoà hợp chặt chẽ trong bản thân Đức Giêsu, Đấng được coi như thực hiện trọn vẹn nơi mình khát vọng hạnh phúc. Chính Người đã muốn sống cách hoàn hảo tinh thần của Mối Phúc trong cuộc sống của mình và đến cả trong cái chết của Người nữa.
Nếu như các mối phúc dẫn nhập vào một luân lý chủ trương hạnh phúc, thì không phải vì luân lý ấy có những lời khuyên thực hành rõ rệt, hoặc đòi hỏi phải tự mình cố gắng mới được nhưng luân lý ấy chỉ muốn đưa ra cho người ta một ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, ân huệ được hiệp thông trong sự sống và hoan lạc với Người. Ân huệ này, người ta sẽ bắt đầu tiếp nhận bằng cách ngày qua ngày sống hai giới luật về tình yêu của Chúa là yêu Chúa và yêu người. Giống như con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu đã khởi sự và đi trước vậy.
Với người tín hữu, hãy hành động như Thiên Chúa, luôn sáng tạo và có sáng kiến như Người, biết hiến thân như Đức Kitô, đó là suối nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy rất nhiều điều trái ngược nhau. Cũng như tôi nhìn: TN 6-C53
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy rất nhiều điều trái ngược nhau. Cũng như tôi nhìn thấy có những người dường như rất nghèo khổ, họ dường như không có việc làm, không có được mái nhà để trú thân, không có được bữa cơm cho xứng đáng. Nhưng tôi cũng dường như nhận ra rằng: họ không có gì phải lo lắng; lúc nào họ cũng có chai rượu bên mình và một vài người bạn đồng cảnh, họ uống, rồi ngã lưng ra ngủ, vừa tỉnh dậy thì đã có chai rượu bên cạnh nữa rồi. Họ đã đóng kín cuộc đời lại, có vẽ như họ cảm thấy đã đầy đủ với cuộc sống như thế, nên những lời khuyên, những lời hướng dẫn không thể lọt vào đời sống của họ được. Họ không thấy có gì cần thay đỗi trong cuộc sống như thế.
Đồng thời cũng có những người, hằng ngày phải lo toan với bao nhiêu công việc, không để phung phí thời gian. Làm việc bên ngoài để có đồng tiền cho cuộc sống. Về gia đình họ còn bao nhiêu trách nhiệm, nào là lo cho con cái, lo trau dồi cuộc sống, còn giúp được những người bên cạnh khi cần thiết. Họ là những người không phải giàu lắm, nhưng cũng không đến nỗi phải thiếu ăn. Họ là những người biết làm cho cuộc sống mỗi ngày được hoàn thiện hơn bằng những gì mình đang có trong hiện tại.
Nhìn những người như thế thì đâu là người được chúc phúc theo như Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Có lẽ chúng ta bỡ ngỡ và lo lắng, vì dường như Thiên Chúa của chúng ta không muống cho con cái mình có được đời sống tốt đẹp nơi trần gian. Dường như TC muốn cho những người con của Ngài phải đau khổ, nghèo đói và không được quyền vươn lên. Nhìn thoáng qua thì như thế. Nhưng nếu chịu để tâm, chịu lắng nghe thêm, suy nghĩ thêm và tìm hiểu thêm chút nữa, thì những lời chúc phúc thật chính đáng. Những nghèo khó, than khóc, đói khổ, bị oán trách. Đó là những gì con người chúng ta luôn mang nó bên mình, đó cũng là những gì là khiếm khuyết của con người. Nếu con người nhìn thấy được những khiếm khuyết đó, cố gắng hoàn thiện, chạy đến với Chúa, để từng ngày những khiếm khuyết được bù đấp. Mỗi lần được bù đấp, được đong đầy như thế là mỗi lần được nhận ân phúc. Còn nếu con người không nhìn thấy được những gì thiếu thốn, những cần thay đỗi.
Nếu con người tự mãn với cuộc sống hiện tại mà không cần lắng nghe, không cần hoàn thiện. Đó là con người đã tự đóng kín cửa lại, không để cho những gì bên ngoài có thể vào để làm cho họ nên tốt hơn. Đó là những người giàu có, no nê và luôn vui cười với những lời nịnh hót bên tai. No nê vui cười vì đã thỏa mãn với những khát vọng riêng tư ngông cuồng mà mình đã đạt được, và giàu có với những nguồn lợi bất chính, nhưng vẫn bằng lòng và thỏa mãn vì thấy mình hơn được người khác.
Nếu con người biết lắng nghe những lời nói chính đáng để thay đỗi đời sống cho tốt. Nếu con người biết tìm những gương sáng, những gương sống tốt đẹp của người xưa để noi theo. Đó là những người đói khát, những người nghèo khó. Vì đói, vì nghèo, nên họ mới tìm cách đong đầy cuộc sống của mình khi có thể. Mọi người nhìn vào, với con mắt người đời thì dường như họ là những người đau khổ bần cùng. Nhưng thật sự họ đang hạnh phúc vì họ biết mở rộng cửa của mình để đón nhận, họ đã biết mở rộng đôi tai để lắng nghe và làm cho cuộc sống mình được hoàn thiện. Họ biết mở rộng tâm hồn để đón nhận những ai muốn đến. Họ biết giang cánh tay để đón nhận và ban phát khi cần thiết, như thế họ được xứng đáng lãnh nhận lời chúc phúc.
Còn chúng ta, những người đang ngồi đây, chúng ta cho mình là những người đáng nhận lời chúc phúc hay lời chê trách. Mỗi người để ra một ít phút suy nghĩ và nhìn lại những việc làm của mình trong cuộc sống. Chúng ta có như những người tự mãn và lười biếng, với chai rượu của sự ít kỷ, hẹp hòi, tranh chấp bên cạnh, để rồi chúng ta bị chất men đó làm cho say sưa, không còn nhìn thấy được chính mình. Hay chúng ta là những người đang mỗi ngày, muốn làm cho cuộc sống mình được hoàn thiện hơn, với những gì tốt đẹp mà Thiên chúa đòi hỏi.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết chọn cuộc sống xứng đáng, để được nhận lãnh những lời chúc phúc của Ngài.
Theo quan niệm cổ xưa trong Kinh Thánh, người hạnh phúc, người được Chúa thương là người: TN 6-C54
Theo quan niệm cổ xưa trong Kinh Thánh, người hạnh phúc, người được Chúa thương là người ngay ở đời này được sống lâu, được đông con nhiều cháu, được có nhiều của cải... thế nhưng ngay trong chính cuộc sống của dân Do Thái họ vẫn chứng kiến có nhiều người công chính phải khốn khổ, bị khinh chê, bị bách hại... Như vậy, quan niệm về một Thiên Chúa thưởng phạt công minh có gì đó còn bị che khuất? Còn có gì đó ẩn khuất trong niềm tin vào Thiên Chúa của dân Do Thái? Phải chăng hạnh phúc chỉ là sống lâu, phải chăng hạnh phúc là có nhiều của cải, có đông con nhiều cháu....? chúa Giêsu trong Tin Mừng Luca được đọc hôm nay đưa ra cho chúng ta những mẫu mực để ta được hạnh phúc thật và nó như hoàn toàn trái nghịch với những khuôn mẫu hạnh phúc mà con người quan niệm.
Theo quan niệm của con người, người hạnh phúc là người có nhiều của cải, có công việc ổn định, thành đạt trong cuộc sống... nhưng Chúa Giêsu đưa ra bốn khuôn mẫu người hạnh phúc là người nghèo, là đói, là khát, là bị oán ghét, bị khai trừ, bị xỉ vả. Còn những người bất hạnh là giàu có, là no nê, là vui cười, là được ca tụng. Tại sao có sự đối nghịch như thế, có phải Chúa Giêsu muốn cho con cái mình mãi nghèo, mãi khóc than. Chắc chắn không phải thế, nếu phải thì Chúa Giêsu đã không nói “ Ai bỏ mọi sự mà theo Ta thì ngay ở đời này sẽ được gấp trăm ” .
Nhưng điều Chúa muốn nhấn mạnh và nói đến là những người nghèo, những người đau khổ... là những người dễ dàng nhận Chúa là cùng đích, Chúa là tất cả vì họ như không thể bám víu vào những của cải phù hoa vật chất. Chính Chúa là nguồn mạch của hạnh phúc, tất cả tiền tài danh vọng chỉ là phương tiện đưa ta đến hạnh phúc thật, nếu ta biết sử dụng nó để mưu cầu cho hạnh phúc thật. Thật ra những gì con người tưởng là hạnh phúc chỉ là những hạnh phúc chóng qua, không có giá trị vĩnh cửu và nếu con người cố bám víu vào nó có thể dẫn tới vong thân. Trong cuộc sống ta mơ ước được cái này ta tưởng chắc là hạnh phúc nhưng khi đạt được rồi ta lại muốn cái cao hơn, quý hơn, giá trị hơn và luôn luôn như vậy. Chỉ trong Thiên Chúa mới có hạnh phúc thật, hạnh phúc vĩnh cửu. Đối với Chúa Giêsu nếu con người biết sử dụng của cải, danh vọng, quyền lực để phục vụ tha nhân, phục vụ nhân loại theo đúng ý Chúa thì làm sao có thể gọi đó là bất hạnh được, chắc chắn họ sẽ tìm được hạnh phúc thật, hạnh phúc vĩnh cửu. Cũng vậy nếu vận dụng những khó khăn, đau khổ để tín thác vào Chúa, dâng tất cả cho Chúa, để tăng thêm đức tin, lòng trông cậy sẽ tìm được hạnh phúc mai sau còn nếu gặp khó khăn, nghèo khổ mà cứ cay đắng oán trách Chúa, nguyền rủa người đời, nguyền rủa số phận thì nghèo khó như vậy làm sao gọi là phúc cho được.
Trong bài đọc I Tiên Tri Giêrêmia cũng đưa ra sự bất hạnh của những ai tin tưởng vào người đời. Trong lịch sử dân Do Thái đã chứng minh điều đó. Khi họ trung tín với Thiên Chúa thì họ được hạnh phúc, được Thiên Chúa che chở. Còn khi dân bỏ Chúa chạy theo các thần ngoại bang, chạy theo của cải vật chất thì họ bị ngoại bang xâm chiếm, phải lưu đày.... Chúa Giêsu qua lời rao giảng của Ngài, hạnh phúc mà Ngài mời gọi và trao ban là hạnh phúc Nước Trời, hạnh phúc nơi Thiên Chúa. Tất cả những gì thế gian cho là hạnh phúc thì mỏng giòn chóng qua. Vậy phải chăng Chúa Giêsu muốn nói hạnh phúc chỉ có được ở đời sau. Không phải như thế. Hạnh phúc mà Chúa ban bắt đầu thực hiện ngay từ hôm nay trong cuộc sống này, thứ hạnh phúc mà con người phải biết cởi mở đón nhận ơn huệ Thiên Chúa ban, không do sức riêng của con người, ơn huệ Thiên Chúa ban cho con người hiệp thông với Thiên Chúa, hạnh phúc là mở lòng ra đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa cách tự nguyện. Chúa Giêsu là người đã sống trọn vẹn các mối phúc. Ngài sống nghèo, Ngài chịu đau khổ, Ngài chịu đói khát, Ngài chịu xỉ vả....nhưng trong mọi sự Ngài luôn hiệp thông với Chúa Cha nên mọi sự Ngài đón nhận như ơn ban của Cha ban cho Ngài.
Người Kitô hữu chúng ta sống trong thế giới phải biết xây dựng thế giới này ngày một văn minh, tiến bộ giàu đẹp hơn. Nhưng không vì thế mà chúng ta coi nó như là cùng đích mà ta phải tiến về, mà ta phải đánh đổi tất cả chỉ vì muốn đạt được nó. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa ban mọi sự cho chúng ta để qua tất cả mọi sự đó chúng ta biết ca tụng và tôn thờ Thiên Chúa là cùng đích mọi loài và là nguồn hạnh phúc thật. Hy vọng mọi người chúng ta biết đặt đúng giá trị của những của cải vật chất, của các loài thụ tạo trước mặt Đấng Tạo Hoá là Thiên Chúa Toàn Năng.
Con người luôn khao khát được hạnh phúc. Đó là khao khát chính đáng. Nhưng làm sao để: TN 6-C55
Con người luôn khao khát được hạnh phúc. Đó là khao khát chính đáng. Nhưng làm sao để có được hạnh phúc đích thực. Người ta thường nói: “ Cái gì cũng có cái giá của nó ” . Trong cuộc sống có rất nhiều điều để ta lựa chọn. Ta sẽ được hạnh phúc hay bất hạnh tuỳ theo sự lựa chọn của mình. Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật hôm nay chỉ cho ta con đường để đạt được hạnh phúc đích thực.
Vì yêu thương con người chúng ta mà Thiên Chúa luôn muốn cho chúng ta được hưởng hạnh phúc. ngay từ thuở ban đầu lúc tạo dựng Thiên Chúa đã đặt để con người trong tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo. Thế nhưng thật đáng tiếc ông bà nguyên tổ đã đánh mất. Do đó Thiên Chúa tìm mọi cách để cứu con người. Cụ thể, Lời Chúa hôm nay trong bài đọc 1 tiên tri Giêrêmia cho biết: “ Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái. ” (Gr 17, 7 - 8)
Rồi trong bài Tin mừng Chúa Giêsu nói: “ Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, xỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao ” (Lc 6, 20 - 23)
Có phải Chúa Giêsu khuyến khích ta phải đói khổ, phải nghèo, phải chịu sỉ nhục...mãi không?
"Chính Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi hạnh phúc đích thực. Không có Ngài thì không có hạnh phúc đích thực. Những gì con người tưởng là hạnh phúc chỉ là nhất thời và chóng qua, không có giá trị vĩnh cửu và có thể làm cho con người bị vong thân. Nếu biết sử dụng những gì mà người ta cho là hạnh phúc ở đời này như tiền bạc của cải, danh vọng quyền lực để phục vụ nhân loại, phục vụ anh chị em theo đúng ý Chúa thì sẽ có hạnh phúc vĩnh cửu, còn nếu không thì hạnh phúc đó sẽ trở thành tai hoạ cho mình. Ngược lại, cũng thế nếu biết vận dụng những khó khăn, đau khổ đời này như một phương thế tích cực để tín thác vào Chúa, để gia tăng đức tin và lòng bác ái thì rủi may sẽ trở nên phúc phần mai sau. Còn nếu cứ ngồi đó mà nguyền rủa phận đời, oán trách Thiên Chúa, cay đắng với đời thì chắc chắn không bao giờ có hạnh phúc”. (Sưu tầm)
Như vậy, trên hết mọi sự ta hãy luôn nhớ đặt niềm tin và lòng trông cậy vào Thiên Chúa là vững chắc nhất, là lựa chọn khôn ngoan nhất. sự lựa chọn này sẽ đưa ta tới hạnh phúc đích thực. Và đó cũng là ước muốn của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta.
“Hỡi anh em là những người có Phúc, vì Nước Trời là của anh em..” (Lc 6, 20)
Hoàng đế Napoléon, người hùng chinh phục cả Âu Châu, vị hoàng đế lừng danh của Nước Pháp: TN 6-C56
Hoàng đế Napoléon, người hùng chinh phục cả Âu Châu, vị hoàng đế lừng danh của Nước Pháp, đã có một câu nói đáng ghi nhớ. Lúc ông bị đày sang đảo St. Hélène và sắp đến ngày tàn của cuộc đời, người viết tiểu sử của ông, một hôm đến hỏi ông: “xin ngài cho biết trong cuộc đời của ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất ?” Napoléon chậm rải trả lời: “Tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời của tôi, đã xảy ra cách đây lâu lắm, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi Rước Lễ lần đầu.”… Kinh nghiệm sống của Napoléon cho chúng ta thấy, dù đầy danh vọng, giàu sang trần gian, ông cũng không có hạnh phúc thật sự. Ông chỉ có hạnh phúc thật, khi ông có Chúa mà thôi. Qua bài Tám mối phúc trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói đến một thứ hạnh phúc chân thật như thế.
a.Thời Cựu Ước: Người ta không hiễu rõ, khi cho rằng giàu có là do Thiên Chúa ban thưởng, còn nghèo khó là vì Thiên Chúa trừng phạt hoặc do: “cha ăn mặn, con khát nước” hoặc do người lớn gây nên. Các tiên tri Isaia, Amos, Daniel, sách Châm ngôn…đã cực lực lên án quan niệm này và cho rằng: người nghèo không hẳn là bị Chúa phạt; họ còn là người khiêm tốn, tin tưởng phó thác nơi Chúa; họ là người đáng để ta quan tâm hơn…
Thời Tân Ước: Chúa Kitô còn nói rõ ràng hơn qua “phúc cho ai sầu khổ, họ sẽ được ủi an” (Mt 5, 5); và “phúc cho anh em là kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6, 20). Chúa Giêsu còn nhấn mạnh, đặc biệt qua thái độ yêu thương người nghèo khó, bé mọn. Người còn kêu gọi quyết liệt: phải từ bỏ của cải để theo Ngài (Mt 16, 24), đồng thời mạnh mẽ cảnh báo nguy cơ to lớn của giàu sang. Thánh Luca còn ghi lại các giáo huấn khắt khe về tiền của: Tiền là tên bất lương (Lc 16, 9), làm con người thành khờ dại (Lc 12, 15), ngăn cản ta vào Nước Trời; do đó các môn đệ phải từ bỏ tất cả mà theo Chúa Kitô. Qua bài Tin Mừng này, Chúa muốn khích lệ người nghèo khó, khổ đau; đồng thời cảnh cáo nghiêm khắc những người giàu có mà thiếu lòng bác ái , không san sẻ với anh em kém may mắn…
b. Mới nghe qua, có lẻ nhiều người trong chúng ta chắc lưỡ i và than: giữ đạo sao mà khó quá? Làm sao vào Nước Trời được đây? Thực ra muốn vào Nước Trời không phải là chuyện dễ, vì chính Chúa Giêsu cũng nói: muốn vào Nước Trời phải chiếm đoạt bằng sức mạnh. Hơn nữa, vì Nước Trời quá cao quí, nên người muốn vào phải có thái độ dứt khoát chọn lựa như người tìm ngọc quí, tìm kho báu vô giá . Tìm được rồi, vì hiểu giá trị “liên thành” của nó, nên người ta có thể sẳn sàng bán đi mọi thứ mình có để mua cho được ngọc quí, hay để đổi cho được kho báu đó. Chúa cũng nói: lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì. Nếu để đổi lấy của cải trần gian chỉ là của tạm bợ, mà ta còn uổng phí công sức, ngày giờ, huống chi để mua cho được sự sống vĩnh cữu, ta còn phải hi sinh của đời này hơn nữa. Các thánh là những người khôn ngoan nhất vì đã biết chọn lựa hạnh phúc chân thật là Nước Trời.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Chúa chúc phúc cho người nghèo, người đau khổ, không phải vì muốn con người muôn đời phải nghèo, phải khổ đau, song là để cho chúng ta hiểu, tiền bạc danh vọng trên đời này, chưa phải là cái đem lại hạnh phúc thật, chưa phải là cái quý nhất. Ta có hiểu và nghĩ như thế không?
* Giữ đạo Chúa không phải là chối bỏ sự giàu sang, của cải ở đời. Nhưng phải biết sử dụng của cải cho đúng và xem đó như phương tiện sống chư không phải là mục đích sống. Vì đối với mỗi người Kitô hữu chúng ta chỉ có một mình Thiên Chúa mới là gia nghiệp vĩnh cữu và là cùng đích của đời người.
Trong dịp Tết, ta thường chúc nhau an khang – thịnh vượng, ta cũng thường nghe câu “xóa đói: TN 6-C57
1. Trong dịp Tết, ta thường chúc nhau an khang – thịnh vượng, ta cũng thường nghe câu “xóa đói, giảm nghèo”. Chính Đức Giêsu trong bước đường rao giảng, khi thấy dân chúng vì đi theo mình mà đói khát đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Giáo Hội từ xưa đến nay vẫn theo gương Đức Giêsu không những xoa dịu những đau đớn về tinh thần, mà còn làm hết sức để xoa dịu những đau khổ của con người cụ thể là thực hiện những việc từ thiện, góp phần đẩy lui nghèo đói. Thế nhưng trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, nếu như theo thánh Mátthêu thì ghi tám lời chúc phúc của Đức Giêsu, ta thường gọi là “Tám mối phúc thật”. Còn ở đây, Luca ghi lại bốn lời Chúa chúc phúc cho những người nghèo, đói, khóc, bị ngược đãi và bốn lời cảnh cáo cho những người giàu, no đủ, vui cười và được ca tụng! Như vậy chúng ta phải hiểu lời Chúa hôm nay như thế nào? Phải chăng Chúa khuyến khích chúng ta nghèo, khổ…? Phải chăng hạnh phúc đích thực của ta là nơi tiền bạc của cải ?
2. Ta có thể ghép bốn lời chúc phúc và bốn lời cảnh cáo thành bốn cặp tương phản nhau: Nghèo-giàu, đói-no, khóc-cười, bị ngược đãi-được ca tụng. Những cặp đối nghịch nầy có thể quy vào cặp thứ nhất, bởi vì với con mắt người đời người nghèo thường hay đói khát, khóc lóc, bị ngược đãi và người giàu thường được no đủ, vui cười, được ca tụng.
Một điều ai cũng dễ nhận ra rằng tuy tiền của không thể mua được tất cả, nhưng nó rất cần cho đời sống của con người. Tự thân tiền của không tốt cũng chẳng xấu. Xấu tốt là do con người sử dụng nó. Người ta thường nói “tiền của là đầy tớ tốt, và là ông chủ xấu”. Quả đúng thế, tiền của là đầy tớ tốt khi ta biết sử dụng nó để giữa ta với tha nhân, giữa ta với Thiên Chúa được tương quan tốt hơn. Ngược lại, là đầy tớ xấu khi vì nó mà ta xa Chúa, xa anh em. Như vậy, dù ta giàu hay nghèo không quan trọng cho bằng thái độ của ta đối với của cải bạc tiền.
3. Đức Giêsu nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”. Cái phúc của người nghèo không phải hệ tại ở việc không có tiền của, mà chính yếu là không bận tâm về những của cải chóng qua đời nầy nhưng hướng tới những giá trị của sự sống đời đời. Điều đó được chứng tỏ khi: dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, luôn phó thác vào Thiên Chúa quan phòng (x. Mt 6,25-34); dù nghèo mà vẫn trung thành giữ Lề Luật của Thiên Chúa; dù nghèo mà không tham lam, không lỗi đức công bằng ; dù nghèo, mà vẫn rộng rãi trong việc đóng góp việc chung, như bà góa và hai đồng tiền nhỏ (x. Lc 21,1-4. Có thể nói từng thành viên gia đình Nagiarét (Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse) là mẫu gương cho những người nghèo của Thiên Chúa.
Cũng có những Kitô hữu chọn nếp sống thanh bần, nghèo tự nguyện, như các ẩn sĩ, các tu sĩ… thật đáng cho chúng ta trân trọng. Không phải những người nầy không biết giá trị của tiền của, nhưng họ nhận ra rằng chỉ duy nơi Thiên Chúa mới là nguồn hạnh phúc thật. Họ từ bỏ tiền của để trở nên giống Đức Giêsu hơn, Đấng rất giàu có mà lại hạ mình mang thân phận người nghèo.
Tuy nhiên cũng có những người nghèo mà thật đáng trách. Đó là những người nghèo mà do lười biếng. Có những người nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giàu dục vọng, tham lam… thì không thể là phúc được, vì như thế không được gì đời này lẫn đời sau !
4. Thiên Chúa đã cho con người làm chủ vũ trụ vạn vật nầy (x. St 1,26.28), cho nên con người phải có trách nhiệm làm cho nó trở nên sung túc, tươi tốt hơn. Vì vậy giàu có là biểu hiện sự chúc phúc của Thiên Chúa, nếu việc giàu có đó do siêng năng lao động, do làm ăn lương thiện mà có. Ngược lại giàu có mà do gian lận, do tham ô, xảo trá thì thật là đáng trách.
Người giàu cũng được xem là phúc nếu nhận ra rằng tiền của chỉ là phương thế cho cuộc sống. Họ biết sử dụng cách hợp lý tiền của cũng như quảng đại trong việc tông đồ. Kinh thánh kể lại bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều người khác nữa, đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ Người (x. Lc 8,3). Hay như các tín hữu khá giả đã chia sẻ cho những người nghèo thời lời khuyên của các tông đồ (x. 2Cr 8,14). Còn ngược lại, hưởng thụ của cải cách ích kỷ và làm ngơ trước nỗi đau khổ của người khác, như ông phú hộ và Lazarô nghèo khó (x. Lc 16,19-31) thì thật là đáng trách. Cũng vậy, nếu ai đó coi tiền của là nơi nương tựa vững chắc thì quả là ngu xuẩn, như câu chuyện người phú hộ không khôn, chỉ lo cậy dựa vào của cải, lo xây thêm kho lẫm, nhưng chưa kịp hưởng thụ thì đã chết (Lc 12, 16-21)!
5. Thực tế trong cuộc sống, tuy không phải hết đúng cho mọi người, người có nhiều tiền của thường cậy dựa vào tiền của, bị trói buộc bởi tiền của. Người ít tiền của có thể được thanh thoát hơn. Chính vì vậy lời Chúa qua Tin Mừng Luca hôm nay khuyên chúng ta nên có một chọn lựa, thà chọn sự giàu sang, no đủ đời sau hơn là sự giàu sang no đủ đời nầy. Người ta thường nói “ cái nết đánh chết cái đẹp”, hay “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, phần nào qua đó cho chúng ta hiểu rằng không những ở nơi người đời mà nhất là dưới mắt Thiên Chúa, giá trị của con người không hệ tại ở người đó giàu hay nghèo, có của cải ít hay nhiều… mà ở chỗ là người đó có sống đúng với phẩm giá con người, xứng danh là con Thiên Chúa hay không?
Đời sống của người Kitô hữu là một hành trình tiến về nhà Cha trên trời. Mỗi người có điều kiện, hoàn cảnh riêng, người giàu đi con đường của mình, người nghèo cũng phải đi con đường của mình, không ai thế cho ai được. Điều quan trọng là dù giàu hay nghèo, ta phải biết dùng những gì mà Thiên Chúa ban cho để đạt hạnh phúc nước Trời.
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Suy Niệm:
Các Cbúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu khởi sự truyền giáo. Người từ giã gia đình: TN 6-C58
Các Cbúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu khởi sự truyền giáo. Người từ giã gia đình để đi vào xã hội (tiệc cưới Cana, Chúa Nhật II). Người đến hội đường Nadarét tự giới thiệu là vị tiên tri mà Thiên Chúa hứa gửi đến (Chúa Nhật III). Kẻ đồng hương phủ nhận Người (Chúa Nhật IV) khiến chúng ta thấy trước công việc của Người rồi sẽ đi tới đâu. Nhưng Đức Giêsu đã chọn các tông đồ để sứ mạng của Người được đảm bảo trong tương lai (Chúa Nhật V). Hôm nay (Chúa Nhật VI) bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy chính nội dung giáo lý của Người, cũng là giáo huấn trường tồn trong Hội Thánh. Nó đã được chuẩn bị trong Cựu Ước, như bài sách Giêrêmia có thể cho chúng ta thấy. Và nó chỉ có thể được tin theo nếu chắc chắn ở việc Đức Giêsu đã sống lại để trở thành người đi trước chúng ta vào hạnh phúc trường sinh.
Bài thư Phaolô hôm nay ngắn nhưng rất quan trọng. Chúng ta hãy suy niệm Lời Chúa để nhận ra những bài học rất hiện đại cho đời sống con người.
1. Sự Khôn Ngoan Của Cựu Ước
Giêrêmia là một tiên tri. Ông là một trong bốn tiên tri lớn còn lại một văn phẩm. Ở đây lời lẽ của ông không có vẻ "tiên tri" bao nhiêu. Đành rằng vẫn có công thức mà các tiên tri vẫn dùng để khai ngôn: "Lời Chúa phán như thế này". Nhưng sau đó tác giả đã sử dụng lối văn khôn ngoan, đưa ra ý kiến phải ăn ở thế nào cho được hạnh phúc và khỏi bất hạnh.
Thực ra thì lối văn này không phải là không bao giờ được các tiên tri dùng. Môsê vẫn dùng nó khi vạch ra cho con cái Israen thấy rằng họ luôn luôn đứng trước hai con đường: một đường dẫn đến sự sống và một đường dẫn đến sự chết. Người ta được tự do lựa chọn một trong hai con đường ấy. Cũng là hai con đường hạnh phúc và vô phúc. Lối văn tiên tri thường không mặc hình thức trình bày gẫy gọn ấy... Nó thường phong phú và tâm tình hơn. Nhưng cuối cùng nó thôi thúc người ta phải lựa chọn giữa đường dẫn tới sự sống và đường đưa tới sự chết. Đoạn tiên tri Giêrêmia hôm nay là một khúc nằm trong toàn bộ tác phẩm mang tên ông. Nó mặc hình thức lối văn khôn ngoan, nhưng vẫn giữ giọng tiên tri, vì nó bắt đầu với những câu tuyên án mà các tiên tri vẫn phải nói để sửa sai và phá đổ.
Giêrêmia loan báo tai họa cho kẻ tin tưởng vào người đời và trở lòng đối với Chúa. Ông có nhắm cụ thể vào ai không, hay chỉ nêu lên những lẽ khôn ngoan ngàn đời? Chắc chắn nhiều người nghe ông nói thời bấy giờ, đã giật mình và khó chịu. Họ cảm thấy bị nhắm thật sự. Vì ở thời Giêrêmia con cái Israen đang sa sút lòng đạo đức. Nhất là bậc vua Sêđêcias (597-586 trước CN). Nhà vua không chịu nghe lời tiên tri. Cứ ăn ở theo xác thịt. Rồi thấy roi Chúa bắt đầu quất lên, thay vì thống hối ăn năn trở về với Người, ông đi tìm sức mạnh nơi các liên minh quân sự. Ông không đang trở lòng với Chúa và tin tưởng vào phàm nhân sao? Ông bỏ chỗ cậy dựa vào Thiên Chúa cao cả, để cầu cứu với những con người xác thịt. Và không riêng gì Sêđêcias. Hầu hết hàng đầu mục dân bấy giờ đều như vậy. Chính sách của Israen bấy giờ là coi thường đường lối của Chúa và tin tưởng ở mọi tổ chức loài người.
Giêrêmia đến làm sứ mạng tiên tri... Ông nguyền rủa chính sách ấy. Ông loan báo tai họa sẽ ập đến trên những kẻ bỏ Chúa như vậy. Họ sẽ như cỏ cây nơi sa mạc, làm sao có được hạnh phúc? Nắng sẽ thiêu, đất sẽ đốt, cỏ sẽ rụi. Khác hẳn với con người đặt tin tưởng vào Chúa. Họ như cây trồng bên bờ suối. Rễ sẽ mát, lá sẽ tươi, trái sẽ nhiều. Đó là những hình ảnh quen thuộc mà Kinh Thánh vẫn dùng để mô tả định mệnh của kẻ dữ, người lành. Giêrêmia lặp lại những hình ảnh ấy để khẳng định niềm tin của mình và kêu gọi mọi người trở về với Chúa.
Đó chỉ là sáo ngữ hay là những lời chân thật? Chúng ta biết Sêđêcias đã kết thúc cuộc đời thảm hại như thế nào: ông bị bắt, bị khoét mắt, bị dẫn đi lưu đày và con cái ông đã bị tàn sát thảm thương (Gr 39,1-10).
Giêrêmia đã không thấy trước hoàn toàn như vậy đâu. Nhưng ông thâm tín về chung cuộc bi đát của những kẻ bất trung với Chúa. Ông nói lên những lời khôn ngoan và tiên tri cho mọi người và mọi thời. Chẳng bao giờ những lời này mất giá trị. Nhưng chúng ta cũng có những giáo huấn rõ ràng và đầy đủ hơn nữa. Chính Đức Giêsu đã đến dạy chúng ta. Và thánh Luca đã ghi lại cho Hội Thánh trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Giáo Lý Của Tân Ước
Đức Giêsu bấy giờ ở trên núi xuống... Người vừa qua một đêm cầu nguyện cùng Chúa Cha... Và sáng ngày, Người đã gọi 12 môn đệ lại và đặt họ làm tông đồ. Bấy giờ Người xuống khỏi núi, không những có đoàn 12 và nhiều môn đệ khác đi theo, mà còn có rất đông dân chúng đang đứng chờ ở một chỗ đất bằng và rộng. Họ từ khắp nơi kéo đến, như muốn đươc chia sẻ những gì mà Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ của Người khi ở trên núi. Quả vậy, thánh Mátthêu nói rằng Đức Giêsu đã giảng về các Phúc thật khi ở trên núi và bài giảng đó được mệnh danh là bài giảng trên núi. Nó lại kê khai 8 điều phúc hứa cho những người nghe Lời Chúa, nên được gọi là bài giảng 8 mối phúc thật. Ở đây chúng ta chỉ thấy có 4 điều phúc và thấy Đức Giêsu đã tuyên bố những điều này ở một chỗ đất bằng phẳng và rộng. Là vì thánh Luca là tác giả có tinh thần phổ quát, muốn cho hết mọi dân tộc được chia sẻ tin mừng cứu độ. Chỗ đất bằng và rộng gợi lên mặt biển bao la mà tác giả đã nhiều lần vượt qua với thánh Phaolô để mang tin mừng đến cho các dân tộc. Hôm nay các dân tộc cũng hiện diện chỗ đất bằng và rộng này vì có đông đoàn lũ từ Giêrusalem và nhiều tỉnh kéo đến.
Chắc chắn không phải Luca đã bớt xén bài giảng của Đức Giêsu, khiến 8 mối phúc thật chỉ còn có 4. Chúng ta phải nói rằng cả thánh Luca và thánh Mátthêu đã ghi lại toàn bộ bài giảng của Chúa qua trung gian một bản văn đã có trước bản văn của các ngài. Bản văn này ghi 4 điều phúc cho kẻ nghèo, kẻ đói, kẻ khóc, và kẻ bị bắt bớ vì đạo. Mátthêu và Luca cũng chép lại cả 4, nhưng cả hai muốn quảng diễn thêm. Mátthêu thì phân 4 thành 8; còn Luca thì nhân 4 với 2, tức là dùng thêm hình thức tiêu cực, nghĩa là sau khi nói đến 4 điều phúc, Luca nói đến 4 điều vô phúc cho những kẻ mâu thuẫn với 4 hạng người nghèo, đói, khóc lóc, và bị ghét bỏ, thì bốn điều vô phúc lại đe dọa những kẻ giàu, no, cười cợt và được tâng bốc. Như vậy, thể văn của Luca gần với lối văn khôn ngoan như chúng ta nhìn thấy trong bài sách Giêrêmia. Ở đây chúng ta cũng đã thấy có 2 phần: đoạn trước nói về số phận những kẻ bỏ Chúa để chạy theo thế gian. Định mệnh của họ ngược hẳn với tương lai của những người đặt hết tin tưởng vào Chúa, được trình bày ở đoạn sau. Nhưng chúng ta hãy thôi nói về hình thức văn chương, để tập trung suy nghĩ vào tư tưởng của bài Tin Mừng hôm nay.
Luca là một y sĩ và là tác giả của lòng Chúa thương xót nhân loại. Ngay từ câu đầu tiên, chúng ta đã nhìn thấy một lòng thương xót rất cụ thể. Luca viết rằng: Chúa phán: Phúc cho những kẻ khó nghèo; chứ không nói như Mátthêu: Phúc cho những kẻ có tinh thần nghèo khó. Có thể nói được rằng, theo Luca, khi ấy Đức Giêsu nhìn vào môn đồ và tuyên bố như trên. Lời của ngài có tính cách rất chân thật vì các môn đệ kia thật sự đã khó nghèo... Và khi ghi lại Lời Chúa, Luca cũng thấy trước mắt chỉ có những kẻ nghèo khó đã tin vào Phúc Âm và đang làm nên Hội Thánh của Chúa ở trần gian. Nói cách khác theo Luca, Chúa tuyên bố những người nghèo khó trong xã hội là những người có phúc. Còn những người giàu có, chính là những hạng vô phúc.
Và như vậy Luca tỏ ra trung thực với truyền thống các tiên tri trong Cựu Ước. Vì các ngài luôn loan báo những kẻ nghèo khó sẽ được rao giảng Tin Mừng. Nay Đức Giêsu mang Tin Mừng đến; những người có phúc nhận lãnh chính là những thành phần nghèo khó trong xã hội. Chính Người cũng đã sinh ra giữa đám người này. Họ là những người đầu tiên được loan báo ơn cứu độ đã đến, khi sứ thần Thiên Chúa hiện ra với mục đồng trong đêm Chúa Giáng Sinh, Nhiều lần Người khẳng định Tin Mừng và của cải không thể đi với nhau, vì nhất thiết họ sẽ mê của và bỏ Chúa, hoặc ngược lại người ta sẽ đi theo Chúa và bỏ hết mọi sự.
Đặc biệt nhất trong sách Luca có câu chuyện người phú hộ và Lazarô, một kẻ ăn mày ngồi ở ngoài cửa nhà ông (16,19-32). Không phải người giàu có ác tâm gì với Lazarô. Nhưng khi hai người chết, số phận đã đảo ngược hẳn lại. Lazarô được đưa vào cung lòng Abraham, còn người phú hộ phải ở nơi đau đớn. Lý do chỉ vì xưa kia ông đã sung sướng và Lazarô đã khổ; bây giờ Lazarô được an ủi và ông phải đau đớn. Dĩ nhiên chúng ta không nên cắt nghĩa một cách máy móc. Nhưng phải thành thật công nhận rằng Kinh Thánh vẫn có truyền thống chiếu cố những thành phần nghèo khó trong xã hội và thường phủ nhận nếp sống của những người giàu sang.
Sách Tin Mừng của Luca lại càng rõ rệt về vấn đề này (xem 16,13; 18,22.25; 12,30; 8,14...) Có thể vì như sách ấy viết ở đầu, tác giả đã tra cứu kỹ lưỡng về cuộc đời của Chúa Cứu Thế và thấy rõ thái độ ưu ái của Người đối với thành phần nghèo khổ trong xã hội. Và cũng có thể vì yêu mến Hội Thánh và thấy Hội Thánh gồm toàn những thành phần khổ sở nhất trong xã hội, tác giả thâm tín quả thật Nước Trời là của những kẻ nghèo khó.
Một bằng chứng nữa về việc tác giả Luca đã hiểu những con người nghèo khó đây một cách cụ thể là cách người trình bày các mối phúc thật sau. Khác với bản văn có trước mà Người với thánh Mátthêu đã sử dụng để viết lại bài giảng của Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay đã đổi chỗ nói về những con người đói ăn lên trước những con người khóc lóc. Và như vậy những con người nghèo khổ trước hết là những con người bây giờ túng đói. Họ sẽ được no đầy ở đời sau; nhưng bây giờ Nước Trời cũng đã là của họ rồi vì họ là thành phần những người nghèo khó. Ngược lại, những kẻ bây giờ no đủ sau này sẽ bị đói khát, như người phú hộ nọ.
Nhưng trong truyền thống của Thánh Kinh, những kẻ nghèo khó không những phải túng đói mà còn gặp rất nhiều đau khổ khác ở đời. Hiện tại họ phải khóc lóc; nhưng phúc cho họ vì họ sẽ được vui cười. Còn những kẻ bây gờ vui cười, sau này sẽ phải ưu phiền khóc lóc. Có thể nói ba mối phúc đầu làm thành một bộ và chủ yếu nhắm tới hạng người khổ sở trong xã hội mà Kinh Thánh gọi chung là những người nghèo khó. Họ sẽ được rao gaỉng Tin Mừng cho ở đời này và sẽ được bù lại ở đời sau... Nhưng khi đã lãnh nhận Tin Mừng, họ phải cẩn thận. Nếu họ bị ghét bỏ vì danh Chúa; thì họ có phúc vì họ sẽ giống các tiên tri thật. Còn nếu họ được khen lao, họ sẽ như các tiên tri giả.
Chúng ta có thể nghĩ rằng, ở đây tác giả Luca cũng đã diễn tả Lời Chúa cho một hoàn cảnh rất cụ thể. Chúa đã nói trước cho các môn đệ biết họ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ vì Tin Mừng... Nhưng khi Luca viết sách, có lẽ các cơn bắt đạo chưa mãnh liệt hoặc đã lặng xuống. Ngược lại, đâu đâu người ta theo Chúa cũng bị kỳ thị và gặp khó khăn. Do đó tác giả không nói đến bắt bớ mà chỉ diễn tả ý tưởng bị ghét bỏ. Và như vậy chúng ta lại có dịp phải hiểu sách Luca trong hoàn cảnh cụ thể của Hội Thánh.
Dân Chúa bấy giờ, như sách Công Vụ các Tông Đồ cho thấy là cộng đoàn bác ái đến nỗi không còn ai nghĩ của mình có là của riêng mình nữa, nhưng đã đem chia sẻ hết cho nhau để không còn ai túng thiếu. Tuy lòng bác ái đã bắt đầu sa sút khi những kẻ muốn giữ một phần của cải lại cho mình, như vợ chồng Anania... Luca thấy rõ tiền của thật là bất lương (16,9). Người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được (16,13). Thế nên phúc cho người nghèo khó vì nước Thiên Chúa là của họ.
Nhưng dân Chúa bấy giờ cũng đang gặp khó khăn với người Do Thái, nên phúc cho họ khi bị kỳ thị vì danh Chúa. Họ đang đóng vai trò của các tiên tri thật ở giữa dân được tuyển chọn. Sự khôn ngoan của Cựu Ước vì thế nay đã thuộc về họ. Họ hãy tin tưởng vào Chúa.
3. Niềm Tin Của Chúng Ta
Hoàn cảnh của chúng ta hiện nay ở trong Hội Thánh dĩ nhiên đã khác với thời thánh Luca. Nhưng những nét tả trên đây của Người về Hội Thánh vẫn còn nhiều giá trị. Mọi nơi, Tin Mừng Nước Trời vẫn đến với những người nghèo khó và những người theo Chúa thường bị ghét bỏ... Chúng ta không mong nhận được bù đắp và phần thưởng ở đời này, vì đúng như lời thánh Phaolô hôm nay nói: Nếu chúng ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong tất cả thế gian. Không, vì chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, thì chúng ta cũng chắc chắn rằng những kẻ chết trong Người cũng sẽ sống lại.
Tuy nhiên ngay ở trần gian này, mỗi khi cử hành phụng vụ Thánh Thể, hơn bao giờ hết, chúng ta lại thấy được ở trong Nước Trời. Và đó không phải là một hạnh phúc nhỏ đâu... Nói cách khác, đời sống Kitô hữu hiện nay của chúng ta đang thể hiện những lời Luca đã viết và đã được sự khôn ngoan của các tiên tri ngày xưa báo trước. Về mặt xã hội chúng ta là những thành phần khó nghèo và đang phải phấn đấu nhiều, nhưng hiện nay nhờ mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh, không những chúng ta được an ủi vì đang ở trong Nước Trời, nhưng hơn nữa, chúng ta còn nắm vững niềm tin về hạnh phúc bất diệt sau này, khi những kẻ chết trong Đức Kitô sẽ sống lại cho sự sống muôn đời. Và không nói gì xa, cộng đoàn phụng vụ chúng ta đang ở đây lúc này, là gì sánh với xã hội loài người? Nhưng ai trong chúng ta không đang cảm thấy được hạnh phúc tràn trề vì đang được tiếp xúc, được vây quanh, được ở trong Nước Trời của Tin Mừng cứu độ? Và mầu nhiệm Nước Trời cử hành bây giờ không là bảo chứng cho việc sống lại mai ngày và hạnh phúc trường cửu sao? Do đó chúng ta hãy yêu mến phụng vụ, hãy cử hành thánh lễ sốt sắng đầy niềm tin, để luôn luôn trong cuộc sống hằng ngày chúng ta vẫn nhớ mình đang có hạnh phúc Nước Trời và sự sống muôn đời nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã sống lại từ cõi chết. Chúng ta hãy đứng lên tuyên xưng niềm tin ấy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trong cuộc sống của anh chị em hải ngoại có một cái hết sức quen thuộc, ngoài sự quan trọng: TN 6-C59
Trong cuộc sống của anh chị em hải ngoại có một cái hết sức quen thuộc, ngoài sự quan trọng cần thiết để có thể hội nhập xã hội Mỹ, thì ít ai đặt vấn đề: đó là cái thẻ tín dụng (credit card). Cho dù có mặt ở đấy hơn 4 tháng, có thoáng thấy mấy người cháu quẹt thẻ nơi quầy thu tiền các siêu thị, nhưng chưa cầm nó trên tay, thành ra chẳng biết hình thù và cơ cấu của nó. Nhưng có lần tôi thấy người ta cũng hết sức bối rối vì máy không nhận thẻ, cuối cùng phải nhờ thẻ của người cùng đi. Tôi hiểu đại khái là thẻ này có một ai đó bảo chứng giá trị cho nó trên khắp đất Mỹ. Cũng thật tiện lợi và đóng góp vào sự thịnh vượng chung của đất nước chú Sam. Ở Việt Nam thẻ tín dụng chưa có thói quen lưu hành trên thị trường, nó vẫn chỉ như một biên lai giữa 2 đối tác trực diện.
Qua vài nét về thẻ ấy cuối cùng tôi nhận ra rằng "niềm tin" vẫn là vấn đề sống còn và thịnh vượng của nhân loại. Thiếu nó, con người vẫn không thể trở thành con người bình thường trong xã hội, dù đó là xã hội Mỹ. "Niềm Tin" cần được "bảo kê" hay "bảo chứng" để có giá trị khách quan trong xã hội, để rồi nó có thể tương tác với xã hội trong những lãnh vực không phải là nó. "Niềm Tin" cũng có thể bị lợi dụng về phía này hay phía kia, và khi "niềm tin" phá sản thì đại họa ập tới, người ta cũng không thể mường tượng hết mọi hậu qủa của nó trên đất Mỹ.
Trong cuộc sống của anh chị em hải ngoại hiện nay đang lên cơn sốt vì thị trường chứng khoán. Rõ ràng đây là một thứ đặt cược niềm tin của mình vào những cổ phần của một công ty nào đó. Và chính ở cái thị trường lớn lao này, thị trường vượt ra khỏi mọi sự kiểm soát tương tác, mà tôi có thể nói chính đây là chợ rao bán và đổi chác niềm tin. Một sự kiện khó thấy trong những xã hội cổ xưa. Và cách nào đó khi niềm tin trở thành hàng hóa thì nó đã bộc lộ mặt trái của nó: bản chất cũng chỉ là cái mồi cho thiên hạ cắn câu. Nền kinh tế Mỹ dù thịnh vượng không nước nào sánh kịp, nhưng không ai có thể đánh giá thực chất nó là gì, tất cả chỉ là những con số đã được cược vào đó. Mỗi cổ phần của một công ty mang giá trị của những niềm tin đã cược vào nó. Và vì vậy, vấn đề sống còn của kinh tế Mỹ là duy trì niềm tin của khách "làng chơi". Chúng ta mới thấy cái ngớ ngẩn của con người: trong khi bằng mọi cách loại trừ niềm tin tôn giáo, thì lại dồn hết tài sức để duy trì "niềm tin" cho khách "làng chơi".
Theo Giêrêmia và thánh Phaolô thì đó là "cái khốn" của loài người.
Tại sao người Kitô chúng ta lại phải mặc cảm về lòng tin của mình: phải che đậy nó. Nhiều người "có ăn học" bảo rằng làm dấu trong một quán ăn là thiếu lịch sự. Trong khi cả một xã hội văn minh hàng đầu người ta phải mất hàng chục nghìn đô để mượn cái thân lõa lồ của một minh tinh để nói lên niềm tin của họ vào một món hàng (có khi thật kém chất lượng), thì họ lại cho là "lịch sự và đúng điệu". Ngôn ngữ cũng đã vấy mùi gian trá trong cái chợ buôn bán lòng tin ấy.
Dấu Thánh Giá đó là bảo chứng của Niềm Tin Kitô Giáo, theo Luca, đó là bảo chứng tuyệt vời nhất: vì nó nghèo, vì nó đói khát, vì nó là nước mắt không ngừng chảy, vì nó là dấu hiệu bị thù ghét, bị trục xuất, bị phỉ báng. Bởi vì Luca người cộng sự một thời của Phaolô đã xác tín rằng Thánh Giá chính là lối vào Sự Sống Lại. Và đấy là tất cả niềm tin và hy vọng của người Kitô Hữu. Ở đây không phải là con số nay còn mai mất, mà là Một Đấng, Một Con Người đã chết và sống lại vì mỗi người chúng ta.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt khi Chúa Giêsu: TN 6-C60
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt khi Chúa Giêsu chúc phúc cho những người nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, sỉ nhục và đi kèm theo là những lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, phè phỡn, vui cười, được mọi người ca tụng. Chúng ta có thể nhận ra những nghịch lý, những đối chọi giữa người giàu, kẻ nghèo, giữa những người đói khát và những người no nê. Đây là hai giai cấp trong xã hội giữa giàu và nghèo mà Tin Mừng mô tả để người môn đệ Chúa chọn lựa.
Có một nghịch lý rất cơ bản mà Tin Mừng gợi lên, đó là Chúa luôn chúc phúc cho những người nghèo khó không ham lợi lộc thế gian, biết cam với số phận, biết bám chặt vào Chúa. Đối với những người này, Chúa luôn hướng họ tới một niềm hy vọng hạnh phúc tương lai. Chúa cũng không lên án những người giàu có biết chia sẻ, biết cảm thông với người khác. Chúa chỉ lên án những hạng giàu có như ông phú hộ giàu không biết quan tâm, không thương xót. Những người giàu có biết chia sẻ sẽ được hạnh phúc cả đời này, lẫn đời sau bởi vì họ biết trao ban, cảm thông và sẻ chia.Chúa không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách đặc biệt cách sử dụng tiền của.
Vâng, của cải có thể tốt nhưng cũng có thể xấu. Tiền bạc là con dao hai lưỡi: nó có thể sử dụng vào việc tốt cũng như việc xấu. Chúa lên án những người giàu chỉ khư khư bám lấy của cải và chỉ thiển cận nhìn thấy cái nẫm, cái kho tàng của mình thôi. Họ để cho tiền của nhận chìm họ trong những sự việc hào nhoáng bề ngoài, những sự mau qua của trần thế này. Họ không hiểu cái mau qua và cùng đích của đời sống, của con người. Họ quên đi cùng đích hay mục đích của con người là “ Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người “ ( Mt 6, 33 ). Chính vì thế mà họ đã chỉ tìm phương tiện, và để cùng đích tan biến trong phương tiện.Chúa chỉ lên án hạng giàu sang nhưng sống ích kỷ, sống bo bo với con người của mình. Họ sống theo chủ nghĩa cá nhân và quên đi họ còn mắc nợ nhiều người bởi vì đời sống con người là một sự liên đới không thể tách rời. Chúng ta sống có nợ với nhau, chúng ta nợ ấy cho kẻ đói ăn, cho kẻ kẻ rách rưới ăn mặc, cho kẻ khát uống, thăm viếng kẻ tù đày. Nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:” Sống trên đời phải có tấm lòng “. Đặc biệt Chúa dạy:” Hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương các con “.
Do đó, người giàu, làm giàu một cách lương thiện, chính đáng không phải là tội.Tiêu xài căn cơ, đúng không phải là điều xấu xa. Nhưng giầu có, hưởng thụ và làm ngơ trước sự đau khổ của người khác là một tội ác. Hạnh phúc thật không phải do sự giầu có mà là sự trao ban như thánh Phaolô viết:” Cho thì có phúc hơn nhận lãnh “. Hạnh phúc thật là sống trong an bình, thanh thản và tử tế với mọi người.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã mở ra cho chúng ta một chân trời mới, một trật tự mới, trật tự khác với trật tự chúng ta đang sống. Trật tự, chân trời mới được đặt trên nền tảng là chính Thiên Chúa, niềm tin và niềm cậy trông của người môn đệ Chúa. Giầu có biết chia sẻ, biết trao ban là hạnh phúc thật. Nghèo khó nhưng biết phó thác, tin tường, cậy trông và không tham lam của cải, không tham lam tiền của của ngưởi khác là hạnh phúc thật.
Thánh Luca ghi lại những lời chúc phúc và những lời chúc dữ của Chúa Giêsu với chủ ý vạch ra con đường mà những người muốn theo Chúa phải lựa chọn. Con đường đó là con đường siêu thoát đối với những quyến rũ, những cạm bẫy của trần gian để chỉ khao khát và tìm kiếm và cậy trông vào Chúa đến cùng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tin tưởng, cậy trông và phó thác nơi bàn tay nhân từ đầy thương yêu của Chúa. Amen.
Con người sinh ra ở trần gian này, ai cũng muốn cho mình được ấm no, hạnh phúc. Đó là: TN 6-C61
Con người sinh ra ở trần gian này, ai cũng muốn cho mình được ấm no, hạnh phúc. Đó là khuynh hướng và ước mong tự nhiên của con người. Tuy nhiên, thế giới vẫn có những người quá giầu, bên cạnh đó lại nhan nhản có những người quá nghèo: cơm không đủ ăn, mặc không đủ ấm. Tại sao lại như vậy ? Con người vẫn cho rằng giầu mới có hạnh phúc, mới được Chúa, Trời, Thượng Đế chúc phúc. Có đúng vậy không?. Tin Mừng của thánh Luca 6, 17-18. 20-26 sẽ trả lời những vấn nạn này.
TIN MỪNG THÁNH LUCA NÓI GÌ HÔM NAY ?:
Đọc đọan Tin Mừng của thánh Luca hôm nay phải chăng con người sẽ chưng hửng khi Chúa Giêsu đưa ra bốn lời chúc phúc ngược lại theo suy nghĩ của con người trần thế: “ Phúc cho những người nghèo đói, thiếu thốn, lầm than; phúc cho những kẻ khóc than, bị ngược đãi, bắt bớ, bị lọai trừ, bị sỉ nhục” và kèm theo đó là bốn lời Chúa Giêsu nguyền rủa:” Những kẻ giầu có, no đầy, sung sướng nói cười thỏa thê, được mọi người tôn vinh,ca tụng”. Đây là sự tương phản giữa hai lớp người trong xã hội mà Chúa Giêsu trình bầy để môn đệ Chúa chọn lựa. Điều rất quan trọng và gợi hình, gợi cảm ở đây là Chúa Giêsu hướng đến người xấu số, bất hạnh, bị xã hội khinh bỉ, đẩy lui ở đời này và Chúa hứa cho họ phần phúc đời sau. Đây là phản đề nổi bật của tám mối phúc Chúa nói với môn đệ và mọi người ở muôn thời, ở muôn thế hệ. Quả thực Chúa Giêsu không hề có ý chúc dữ những người giầu có mà biết sử dụng của cải Chúa ban một cách hợp lý, biết chia sẻ cho những người túng nghèo như Giakêu, người thu thuế giầu có, nhưng được Chúa biến đổi để tin nhận Chúa là phần phúc và tự tâm biết chia sẻ với những người nghèo, với những người mà ông đã làm thiệt hại. Chúa muốn ám chỉ tới người giầu có và ông Nagiarô nghèo nàn, ghẻ lở vv…Chúa muốn nói đến những người giầu có biết chia sẻ và biết trao ban. Chúa Giêsu không lên án của cải nhưng Ngài kết án đồng tiền bất lương, đồng tiền không ngay chính, đồng tiền liên lẹo. Tự bản chất tiền của không xấu, nhưng không biết sử dụng nó, không biết chia sẻ, bo bo ích kỷ làm giầu trên xương máu người khác là bất chính. Chúa kết án nặng nề những thành phần ích kỷ, keo kiệt.
KHỐN KHỔ CHO NHỮNG NGƯỜI GIẦU NHƯ ÔNG GIẦU CÓ TRONG TIN MỪNG MÀ CHÚA ĐỀ CẬP TỚI:
Nghèo khó tự nó không phải là nhân đức. Cùng cực như ông Gióp mà biết chấp nhận theo ý Chúa mới là nhân đức đáng ca ngợi. Tuy nhiên giầu có mà xài phung phí, yến tiệc linh đình ngày này qua ngày khác mà làm ngơ trước nỗi thống khổ, đau thương của người khác, để người nghèo ghẻ lở nằm ngòai cửa, ngòai trời cho chó liếm, không để một vụn bánh rơi xuống đất, ích kỷ đến vắt ra
nước như ông giầu có Chúa nói đến là bất nhân, Chúa lên án thật nặng nề. Vâng, Chúa nói:” Khốn cho người giầu có” khi họ chỉ biết tích lũy, giầu kếch sù nhưng vẫn bon chen, hà hiếp người nghèo để cuỗm tay trên,ăn trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác.Mỗi người đều có sự liên đới với người khác.Không ai là một hòn đảo, không ai được sống riêng lẻ. Ích kỷ, sống chủ nghĩa cá nhân mà quên đi tất cả, quên đi sự có mặt của người khác là có tội. Cùng đích của con người:” Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa…còn những thứ kia Người sẽ ban cho”( Mt 6, 33 ). Thiên Chúa không bần cùng hóa con người, nhưng Ngài luôn muốn con người thăng tiến, luôn muốn con người vươn lên. Mỗi người Chúa ban cho một trái tim. Con tim phải biết rung lên những nhịp điệu của tình yêu, rung lên những thì của yêu thương. Giầu có mà biết quảng đại, biết chia sẻ là hạnh phúc. Tuy nhiên, giầu có mà ích kỷ, keo kiết, không trao ban, không chia sẻ là bất hạnh và đáng Chúa lên án, nguyền rủa.
Hạnh phúc Nước Trời là khi chúng ta sống cái nghịch lý của Tin Mừng với tất cả niềm tin, cậy trông và phó thác.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống hạnh phúc đích thực của tám mối phúc theo như lời Chúa dậy. Xin Chúa ban cho chúng con quả tim biết quảng đại và chia sẻ. Amen.
Phúc họa vẫn hằng theo đuổi con người. Nói khác cuộc đời chỉ là cuộc chơi hú tim giữa phúc: TN 6-C62
Phúc họa vẫn hằng theo đuổi con người. Nói khác cuộc đời chỉ là cuộc chơi hú tim giữa phúc và họa. Làm cách nào tránh họa và hưởng phúc ? Cái nhìn rất thực tế của Đức Giêsu xoáy tận vào thân phận người nghèo và những người khốn cùng trong xã hội. Cái nhìn đó đã đảo lộn mọi toan tính con người và vẽ nên một cảnh bồng lai ngay giữa những khốn cùng trần thế.
NGỔN NGANG TRĂM MỐI.
Đức Giêsu đã chọn sinh ra trong một xã hội đẫy dẫy bất công. Những tệ nạn xã hội như nghèo đói, trộm cướp, giết người, đĩ điếm. Bị đặt ra ngoài lề xã hội là những người phong cùi, bị bỏ rơi, khinh bỉ, áp bức. Xã hội đời nào cũng có những cái nhìn đóng khung những người như thế vào số phận hẩm hiu.
Nhưng Đức Giêsu thì khác. Người có một cái nhìn rất trân trọng và trìu mến đối với những người đau khổ đó. Cái nhìn đó không phát xuất từ một lòng thương hại của những người giàu có hay quyền lực. Vì chính Người cũng là một người nghèo, từng sống một đời tầm thường trong một đất nước mất chủ quyền và giữa một dân tộc bị áp bức. Người thấy rõ những nguy hiểm của những người giàu có và quyền lực. Bởi đó, Người mới lên tiếng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó.” (Lc 6:20) Người nghèo trước tiên là những người bị bóc lột về kinh tế. Nhưng cũng được xếp vào hạng nghèo những người bị mất hết quyền căn bản về chính trị, văn hóa hay tôn giáo, những nạn nhân của nạn kỳ thị nam nữ hay chủng tộc. Chắc chắn khi lên tiếng như thế, Đức Giêsu không có ý mị dân. Nhưng làm thế nào Người có thể thấy được hạnh phúc lớn lao nơi những con người xấu số đó ?
Cái nhìn của Đức Giêsu sâu xa hơn mức bình thường. Sâu hơn vì Người thấy Thiên Chúa đang ngự trị tâm hồn con người. Xa hơn vì Người tin niềm hi vọng của những người nghèo có cơ sở vững chắc nơi Thiên Chúa. Niềm hi vọng đó không phải chỉ đạt được trong tương lai để người Kitô hữu khỏi phải tranh đấu chống lại những cơ chế bất công. Nhưng ngay từ bây giờ niềm hi vọng đó phải là nguồn động lực cho những ai tin tưởng nơi Đức Kitô. Vì “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17) Muốn xây dựng Nước Thiên Chúa mà không hoạt động tích cực chống lại bất công, đó là tự mâu thuẫn. Bởi thế, hạnh phúc tương lai tùy thuộc nỗ lực hôm nay làm cho người anh em nghèo khổ được hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn trở thành một thứ bình phong cho người ta lẩn tránh trách nhiệm đối với anh em đồng loại.
Thực tế, nếu vì hoạt động tích cực cho hạnh phúc tha nhân và sự công chính của Nước Thiên Chúa mà bị bách hại, Kitô hữu không được phép tìm sự an ủi nơi người đời. Thánh Kinh cảnh cáo: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa.” (Gr 17:5) Trái lại, càng bị bách hại, họ càng “vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Lc 6:23) Chính Đức Giêsu đã là nạn nhân của những cơ chế bất công.
Người đã bị giết vì sứ điệp của Người làm suy giảm quyền lực của những người cầm quyền thời đó. Cuộc đời của Người là một bể nước mắt. Nhưng Người vẫn công bố Tin Mừng và những mối phúc cho những ai đồng cảnh ngộ với Người. Đó là lý do tại sao dân chúng tuốn đến với Người. Người nói lên được khát vọng sâu xa của tâm hồn họ. Không chia sẻ cùng cảnh ngộ với họ, Đức Giêsu không thể diễn tả và phóng lên những hình ảnh và niềm hi vọng lớn lao đó. Hơn nữa, chính Người trở thành niềm hi vọng cho những ai đặt hết niềm tin tưởng nơi Người. Vì “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết.” (1 Cr 15:20) Người trở thành tiêu chuẩn để phân biệt phúc họa cho cuộc đời. Từ đó, người ta mới thấy rõ tiền bạc, của cải, thú vui và danh vọng là những thứ có thể gây nguy hiểm và trở thành mối họa cho những người chiếm hữu. Thực tế, nhiều người đã mắc vào vòng cùng khốn đó. Cuối cùng chẳng biết ai là người hạnh phúc trên cõi đời này ?! Đức Giêsu tỏ ra ái ngại trước những người đang mắc vòng kiềm tỏa đó. Người mạnh mẽ kêu gọi mọi người hối cải bằng những lời ngăm đe: “Khốn cho ... “ (Lc 6:24-26), chứ không phải nguyền rủa. Chắc hẳn những ngăm đe đó cũng đánh thức nhiều người !
ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ.
Vấn đề không phải là giàu nghèo. Nhưng đâu là hạnh phúc ? Dưới ánh sáng cứu độ, con người có thể phân biệt rõ ràng “phúc họa tại trời”. Với niềm tin, con người có thể làm được mọi sự. Quả thế, Đức Giêsu quả quyết:“cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin.” (Mc 9:23) Vượt qua những thách đố của cuộc đời nghèo khó, đói khát, sầu khổ không phải là chuyện khó lắm đối với những người có lòng tin. Đúng hơn, trong niềm tin vào Thiên Chúa, Kitô hữu nhận thấy “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người.” (Rm 8:28)
Thế giới hôm nay còn biết bao vấn đễ chưa giải quyết được chỉ vì Kitô hữu thiếu niềm tin. Nếu có lòng tin thực sự, họ không thể đặt mình ngoài cuộc. Tóm lại, họ là những người phải nhập cuộc, sẵn sàng cho người khác phiền đến mình. Không ai có thể lên thiên đàng một mình. Bởi đó, một cách hay nhất lo hạnh phúc của mình là bắt tay lo cho hạnh phúc tha nhân. Nói khác, Kitô hữu đích thực phải liên đới và hợp tác với mọi người thiện chí để xây dựng hạnh phúc cho đồng loại. Đứng trước những cơ chế bất công, không phản ứng tức là đồng lõa. Hạnh phúc Đức Giêsu hứa cho những ai nghèo khó, đói khát và khóc lóc không phải đợi tới đời sau mới thực hiện. Ngay từ bây giờ, Kitô hữu phải thấy được chiều kích thực tế của Tin Mừng để mau mắn bắt tay vào công cuộc chống đối mọi hình thức bất công. Càng lo hạnh phúc tha nhân, càng bảo đảm hạnh phúc tương lai, vì “phần thưởng danh cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Lc 6:23)
Chúa Giê-su tuyển chọn mười hai người trong số các môn đệ và đặt họ làm Tông đồ. Họ sẽ được: TN 6-C63
Chúa Giê-su tuyển chọn mười hai người trong số các môn đệ và đặt họ làm Tông đồ. Họ sẽ được huấn luyện đặc biệt và ở bên cạnh Chúa Giê-su để tập việc. Họ cần phải am hiểu giáo lý của Người hơn ai hết, để đến lượt họ sẽ phải loan truyền giáo lý ấy cho dân chúng. Giáo lý ấy có những điểm đặc biệt giúp người nghe căn cứ vào đó mà làm phát triển những gì là độc đáo nơi con người họ. Những điểm đặc biệt ấy được gọi là những Mối phúc trong bài giảng khai mạc của Chúa Giê-su. Ta thường quen thuộc với Tám Mối phúc trong Tin Mừng Mát-thêu. Còn bài Tin Mừng của thánh Lu-ca hôm nay lại trình bày những Mối phúc ấy với một kết cấu hơi khác biệt.
1) Bối cảnh quen thuộc: Chúa Giê-su ngước mắt nhìn các môn đệ
Trước khi ghi lại bài giảng hay diễn từ của Chúa Giê-su, thánh Lu-ca thường mở đầu bằng cách mô tả khung cảnh tụ họp của các môn đệ hoặc dân chúng kéo đến với Chúa. Ngài cũng không quên nhắc tới một số việc làm của Chúa Giê-su, như làm phép lạ và chữa lành bệnh tật. Điều ấy cho thấy Lu-ca muốn diễn tả Chúa Giê-su đang thi hành sứ vụ mà ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo (Lc 4:18-19). Từ đầu sách Tin Mừng tới giờ, ta chỉ mới nghe nói về Chúa Giê-su giảng dạy tại nơi này nơi kia, nhưng chưa có dịp nghe một bài giảng của Người. Hôm nay ta được nghe bài giảng khai mạc của Chúa. Chắc chắn phải là một bài giảng hết sức quan trọng, vì tất cả những gì ta được nghe sau đó sẽ là những điều được khai triển từ chủ đề của bài giảng khai mạc.
Một chi tiết khác giúp ta hiểu tầm quan trọng của bài giảng, đó là nó được công bố ngay sau việc Chúa tuyển chọn mười hai Tông đồ. Các ông không thể vắng mặt trong biến cố quan trọng này được. Trong buổi lễ nhậm chức, tân tổng thống Hoa-kỳ bao giờ cũng có một bài diễn văn, và mọi người, từ các tổng trưởng tới mọi người dân đều chăm chú lắng nghe. Thí dụ ấy giúp ta hiểu khung cảnh trang trọng của bài giảng khai mạc Chúa Giê-su nói hôm nay.
Bài giảng trong Tin Mừng Mát-thêu dành cho dân chúng. Còn bài giảng trong Tin Mừng Lu-ca lại đặc biệt nhắm đến các môn đệ Chúa. “Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói”. Dĩ nhiên là có cả đám đông dân chúng cũng có mặt. Nhưng Lu-ca nói đến cử chỉ Chúa ngước mắt nhìn các môn đệ là ngài muốn ta hiểu rằng bài giảng của Chúa nhắm mô tả chân dung người môn đệ thập toàn. Từ các Tông đồ cho tới đám dân chúng theo Chúa, ai mà chẳng phải làm môn đệ thập toàn của Chúa? Cử chỉ ngước mắt nhìn các môn đệ ngầm nói lên một mong ước hoặc mời gọi đầy thiết tha của Chúa. Cử chỉ ấy cũng giúp ta hiểu lời lẽ trong các mối họa (“Khốn cho...”) không phải là lời nguyền rủa ngăm đe, nhưng là lời kêu gọi người ta hối cải, đừng sống theo não trạng đi ngược lại giáo lý của Chúa.
2) Bài giảng khai mạc hay niềm vui nỗi buồn của Chúa Giê-su về các môn đệ
Bài giảng này Chúa đặc biệt dành cho các môn đệ đang ở trước mặt Người lúc ấy cũng như dành cho các môn đệ mọi thời mọi nơi trong tương lai. Nó chứa đựng tất cả tâm tình của Chúa Giê-su đối với những ai muốn làm môn đệ Người. Nếu những người đó sống theo đường lối Người chỉ dạy thì đó là một ân sủng cho họ, vì ân sủng ấy sẽ là con đường đưa họ tới sự hoàn hảo. Môn đệ được như vậy, hẳn người hạnh phúc nhất phải là Thầy của họ. Còn nếu môn đệ sống ngược lại với giáo lý của Thầy thì quả thực là một tai họa lớn lao cho họ. Trường hợp này Thầy sẽ buồn rầu lắm, những mong họ hối cải ăn năn. Vậy Chúa Giê-su muốn các môn đệ Người hãy trở nên loại người nào và phải ăn năn hối cải trong những trường hợp nào?
Chắc chắn có rất nhiều đức tính tốt của người môn đệ, nhưng ở đây Lu-ca chỉ ghi lại bốn loại tiêu biểu cho mẫu người môn đệ trong tình huống lúc ấy của cộng đoàn Ki-tô.
Trước hết người môn đệ phải là “những kẻ nghèo khó”. Nghèo khó trong Tin Mừng Lu-ca được hiểu theo hai ý nghĩa. Có thể là người nghèo khó về vật chất tiền của, như ta thấy Chúa Giê-su thường quan tâm tới họ (Lc 14:13,21; 16:20). Nhưng cũng có thể là người sống khiêm nhu, bé mọn (Lc 18:14; 10:21). Chính Chúa Giê-su cũng là người nghèo khó gương mẫu, nghèo tiền bạc nhưng giầu sự khiêm nhường.
Tiếp đến, người môn đệ phải là những người hiện tại đang đói, đói của ăn thiêng liêng là lời Chúa và luôn ước mong theo đó mà sống, để qua cơn đói thiêng liêng đời này họ sẽ được no thỏa trong ngày cánh chung. Chúa Giê-su thường nói: Lương thực của tôi là làm theo ý Cha tôi.
Thứ ba, con đường làm môn đệ đòi ta phải “bỏ mọi sự, vác thập giá mà theo Thầy”. Dù ta có phải trả giá làm môn đệ Chúa bằng bao nước mắt thì cũng không có nghĩa đó là mối họa, vì chính Chúa cũng phải trả giá bằng cái chết khổ nhục để thi hành thánh ý Chúa Cha.
Mối phúc sau hết là chấp nhận mọi thiệt thòi khi làm môn đệ Chúa. Không hẳn chỉ là những bách hại hay cái chết như những Ki-tô hữu thời Lu-ca đã phải gánh chịu, nhưng cũng là những thiệt thòi hôm nay khi ta can đảm sống theo những giá trị Tin Mừng.
Đó là những điều kiện căn bản người môn đệ Chúa mọi thời phải lấy làm mẫu mực để sống theo. Tuy nhiên hành trình làm môn đệ luôn gặp trở ngại, từ nội tâm cũng như từ bên ngoài. Nếu người môn đệ không sống theo những đòi hỏi trên của Tin Mừng thì là điều bất hạnh cho họ. Chọn lựa duy nhất khi ấy là phải ăn năn hối cải để trung thành với lý tưởng làm môn đệ Chúa.
Tóm lại, ta có thể hiểu những mối phúc họa trong bài giảng khai mạc của Chúa Giê-su chính là những đặc tính người môn đệ phải có để theo Chúa và những nguy hiểm họ phải đề phòng để khỏi phản bội lý tưởng sống theo gương Người.
3) Suy nghĩ và cầu nguyện
Suy nghĩ về người môn đệ của Chúa hôm nay, tôi thấy điều kiện nào là khó khăn nhất cho tôi: nghèo khó và khiêm nhu? luôn khát khao nên trọn lành? phải biết khóc để mà trở về với lý tưởng làm môn đệ Chúa sau những vấp ngã? chấp nhận thiệt thòi trước mặt người đời? Tại sao khó, và tôi sẽ làm gì để thắng vượt?
Trong tất cả những điều kiện làm môn đệ thập toàn, tôi có luôn luôn nhìn lên gương mẫu là Chúa Giê-su không? Tôi đã học được nơi Người những gì trong từng điểm Người dạy?
Nếu tôi phải nghe Chúa nói với tôi những lời “Khốn cho anh em...”, thì tôi hiểu thế nào về tâm tình của Chúa Giê-su đối với tôi? Tôi có sẵn sàng đáp lại lòng yêu thương của Chúa muốn tôi ăn năn hối cải không? Và tôi sẽ làm gì?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con. Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa. Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 30)
Sau những giới thiệu vào đề về con người và sứ vụ cứu thế của Chúa Giê-su cũng như đề cập: TN 6-C64
Sau những giới thiệu vào đề về con người và sứ vụ cứu thế của Chúa Giê-su cũng như đề cập đến những chuẩn bị cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng của Người (thí dụ, lấy Ca-phác-na-um làm địa điểm khởi hành, trình bày hoàn cảnh nhân loại cần được nghe giảng dạy và được chữa lành, tuyển chọn môn đệ để huấn luyện...), bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa mời ta theo bước Chúa Giê-su để lắng nghe Người giảng dạy, chiêm ngưỡng những việc Người làm và nhất là thiết lập mối tương quan mật thiết với Người, nói khác đi, là tập làm môn đệ Người.
Trong sách Tin Mừng Mát-thêu (5:1-12), bài giảng khai mạc của Chúa Giê-su thường được gọi là Bài giảng trên núi, hoặc Các mối phúc thật, vì khung cảnh của bài giảng là trên núi, có các môn đệ bên cạnh và các câu mở đầu là “Phúc thay ai...” Còn bài giảng khai mạc được thánh Lu-ca ghi lại thì mang sắc thái khác. Chúa Giê-su không giảng từ trên núi, nhưng ở đất bằng. Chúa không nói như ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en từ trên cao, nhưng Người nói với toàn thể nhân loại ngay tại môi trường xã hội của họ. Người nói trực tiếp với mỗi người qua mỗi lời mở đầu “Phúc cho anh em...” Người nói với những kẻ không muốn làm môn đệ Người qua mỗi lời mở đầu “Khốn cho các ngươi...” Phân biệt những mối phúc với những mối họa, thánh Lu-ca muốn trình bày điều gì qua sứ điệp Tin Mừng của Chúa?
a) Mẫu người Ki-tô hữu thập toàn
Trước hết ta hãy nhìn tư thái của Chúa Giê-su khi Người giảng bài giảng này. Thánh Lu-ca viết: “Chúa Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói...” Qua phong cách ấy, Chúa Giê-su muốn đề cập thẳng tới những vấn đề của môn đệ Người. Trước mắt Người, ta quả thực là những người có phúc. Những lời “Phúc cho anh em” là những điều Chúa Giê-su chúc lành cho ta. Nó gợi lại cho ta quá khứ, nhắc nhở ta rằng được Chúa gọi làm con cái Người, làm Ki-tô hữu, đó là một mối phúc ngoài cả sự mong ước của ta. Nó nói với ta về hiện tại, hiện tại của chính cuộc sống ta và hiện tại của hoàn cảnh xã hội ta đang sống. Nhưng nó cũng ngầm nói với ta về tương lai, mời gọi ta tiến đi từ tình trạng bất toàn để đạt tới những chiều kích sung mãn của Đức Ki-tô. Tất cả những gì đã được thể hiện nơi Chúa Giê-su là Mối Phúc nguyên thủy thì cũng cần được thể hiện nơi các môn đệ Người. Hoặc ta có thể nhìn những mối phúc theo hai chiều: nếu nhìn từ Chúa Giê-su, các mối phúc là những đường nét thập toàn trở nên gương mẫu sống động cho ta noi theo mà sống; nếu nhìn từ phía ta, các mối phúc phải là những biểu lộ của những khía cạnh khác nhau thuộc con người Đức Ki-tô, được phản ảnh qua những cách cư xử và lối sống của ta. Chúa Giê-su cho ta thấy các mối phúc qua kinh nghiệm bản thân của Người.
- Chúa Giê-su nghèo khó. Trước hết, không giống như bài giảng trong Mát-thêu, ở đây Chúa nói đến nghèo khó cả phương diện tinh thần lẫn vật chất. Bản thân Người đã có kinh nghiệm về nghèo khó. Người sinh ra trong cảnh nghèo hèn, lớn lên trong lao động vất vả và khi chết cũng không mảnh vải che thân. Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su rất quan tâm đến người nghèo khổ. Đám dân nghèo theo Người để nghe giảng được ăn uống no nê. Bà góa bỏ hai xu vào thùng tiền Đền Thờ không qua khỏi con mắt quan sát của Chúa và Người đã xác nhận bà cúng tiền vào Đền Thờ nhiều hơn ai hết. Người nghèo khó đối với Chúa Giê-su không phải chỉ là những người nghèo tiền bạc, nhưng còn là những người bé mọn, những người khiêm nhường. Có bé mọn và khiêm nhường, người ta mới dễ dàng đón nhận những ơn lành của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã ngầm ca tụng những người nghèo khó như thế khi Người cầu nguyện: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10:21; xem Lc 14:11; 18:14). Có nghèo khó, người ta mới biết cậy dựa vào Thiên Chúa và biết phó thác mọi sự. Chúa Giê-su, Con Người không có chỗ tựa đầu, đã phó thác mọi sự trong tay Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
- Chúa Giê-su đói. Cơn đói của Chúa đã được thánh Lu-ca nói đến trong trình thuật về việc Người bị ma quỷ cám dỗ trong sa mạc. “Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói” (Lc 4:2). Cơn đói trong sa mạc và cơn đói Chúa đề cập đến trong bài giảng ở đây tuy có thể hiểu theo nghĩa vật chất, nhưng cơn đói tinh thần vẫn là ưu tiên. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8:3; Mt 4:4). Chúa Giê-su còn một cơn đói khác. Lúc nào Người cũng thấy đói và đi tìm thánh ý Chúa Cha. Đó là lương thực của Người. Người cho các tông đồ biết: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4:34).
- Chúa Giê-su khóc. Có vài lần Chúa Giê-su khóc: Người khóc trước mộ anh La-da-rô bạn Người (Ga 11:35); Người khóc thương cho số phận của thành Giê-ru-sa-lem (Lc 19:41-44). Đó là những giọt nước mắt người ta thấy được. Còn bao nhiêu giọt nước mắt khác ở trong lòng, như nỗi ưu tư khoắc khoải vì con người không mở lòng đón nhận tình yêu Thiên Chúa, cảm thấy như bất lực trước thái độ ngoan cố của Pha-ri-sêu, đau khổ vì môn đệ vẫn hiểu lầm sứ mệnh của mình... Tất cả những đau khổ ấy còn tiếp diễn cho tới tột độ trên thập giá. Khóc vì thương, vì muốn người ta được cứu rỗi... Từ khóc lóc đến vui cười, đó là con đường một chiều của Đức Ki-tô, của bất cứ Ki-tô hữu nào. Không thể tới vinh quang nếu không qua thập giá.
- Chúa Giê-su bị bách hại. Phải nói chắc chắn rằng: Chúa Giê-su bị bách hại từ lúc mới sinh tại Bét-lem cho tới lúc chết trên Đồi sọ. Bị bách hại do các nhà lãnh đạo, như vua Hê-rốt, Phi-la-tô, nhóm Pha-ri-sêu, hoặc do chính những người đồng hương Na-da-rét (Lc 4:29). Bị bách hại vì làm ơn làm phúc cho người ta vào ngày sa-bát, vì đến với những người tội lỗi, cùi hủi, bị khinh bỉ và không ai muốn gặp, vì nói điều phải, vì dạy người ta thờ phượng Thiên Chúa cho đúng cách và yêu thương cả kẻ thù nữa. Cuối cùng, Người bị bách hại vì có tình yêu lớn quá, không thước đo nào của loài người đo lường nổi: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).
b) Sống bên những mối họa
Thoạt nghe những lời chúc dữ “Khốn cho các ngươi là những kẻ...”, ta thấy sởn gai ốc và tưởng tượng như Chúa Giê-su đang nguyền rủa một số hạng người, gay gắt buộc tội họ. Không phải như vậy đâu! Nhưng Chúa chỉ nêu lên những sự kiện đó để làm nổi bật những đức tính cần thiết của người Ki-tô hữu đích thực. Cách nói tương phản là để làm cho rõ hơn điều mình chủ ý nói. Mà trong bài giảng này, Chúa Giê-su chủ ý nêu lên mẫu người lý tưởng của Nước Trời. Không thể hiểu theo nghĩa đen về những mối họa này. Chúng chỉ là mối họa thực sự khi chúng ta sử dụng không đúng. Chúng là con dao hai lưỡi. Thí dụ giàu có mà không biết sử dụng những gì mình có để làm sáng danh Chúa, thì của cải tiền bạc sẽ là mối họa cho ta... Vì thế, ta sẽ hiểu những lời này của Chúa là để biểu lộ nỗi lo lắng, ái ngại của vị Mục Tử nhân lành, của người Cha lúc nào cũng muốn điều tốt cho con cái, hoặc là những lời Chúa tha thiết kêu gọi ta hối cải nếu ta đang đi sâu vào mối họa có thể xảy đến.
Bối cảnh trần gian là thế đấy. Ta được mời gọi thực hiện lý tưởng của người Ki-tô hữu. Nhưng chung quanh ta, hoặc ngay trong lòng ta, những mối họa vẫn chập chờn đe dọa. Chỉ còn một điều phải làm là ta hướng nhìn vào Chúa Giê-su, gương mẫu và Thầy dạy, cố gắng bắt chước Người và làm những mối phúc của Người rực lên trong ta qua lối sống đã được biến đổi.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Chúa Giê-su ngước mắt lên nhìn tôi và nói... Mỗi khi đọc và suy niệm Lời Chúa, tôi có gặp được hình ảnh ấy của Chúa Giê-su không? Nếu không thì tại sao? Tôi có ngước mắt lên nhìn Chúa và lắng nghe không? Tôi sử dụng những kỹ thuật nào để chuẩn bị trước khi cầu nguyện?
Mối phúc nào tôi cần phải lắng nghe Chúa nói với tôi nhiều hơn? Tôi sẽ nghe và sống như thế nào?
Mối họa nào nguy hiểm nhất nơi tôi hiện giờ? Tôi phải làm gì để tránh nó?
Suy nghĩ về môi trường làm môn đệ Chúa của tôi và tôi phải làm sao để biểu lộ cho người khác thấy Mối Phúc nguyên thủy là Chúa Giê-su?
***
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách; những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này: “Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 7)
Ai trong chúng ta cũng muốn sống sung sướng, hạnh phúc, và thông thường sự giầu có, tiền bạc: TN 6-C65
Ai trong chúng ta cũng muốn sống sung sướng, hạnh phúc, và thông thường sự giầu có, tiền bạc đầy đủ bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. “Tiền bạc là chìa khóa mở cửa vào cuộc sống hạnh phúc.” “Có tiền mua tiên cũng được!” Số người mua xổ số càng ngày càng đông, vì muốn giàu có mau chóng và được sống hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong thực tế, sự giầu có tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người tự tử ở các nước tiên tiến , giàu có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các nước khác (xin vào website Suicide để tham khảo). Theo cuộc điều tra mới đây về những người trúng xổ số và trở nên triệu phú trong giây lát, hầu như không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn. Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số 30 triệu; nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng sống của ông vì tấm vé số trúng. Trong thực tế có nhiều người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ; ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ, nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giầu có thêm mãi.
Trái lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng cho ông ta một túi tiền. Thế là từ ngày đó, ông ta không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Và ông ta đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.
Trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật này, thường được gọi “Tám Mối Phúc Thật”, Chúa Giêsu có vẻ như đã đi ngược đời, nói đến hạnh phúc không phải cho người giầu có, quyền thế, ăn no mặc ấm… nhưng là cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ, bệnh tật, bị bách hại, phỉ báng, đánh đập tàn nhẫn (như những Giáo sĩ, Giáo dân đang bị bách hại tại Việt Nam, Mã Lai , Trung Quốc, Bắc Hàn, ở Trung Đông và Phi Châu… chẳng hạn). Quả thật là ngược đời hết sức! Nhưng trong Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã soi sáng cho chúng ta biết, qua tiên tri Giêrêmia: con đường hạnh phúc thật là “biết đặt mọi niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Chúa làm tất cả, lấy Chúa làm nơi tựa nương tuyệt đối. Những người đó được sống hạnh phúc thật. Họ giống như cây được trồng bên bờ suối, đâm rể sâu vào đất ẩm ướt; không sợ gì, khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi; không sợ gì, khi nắng hạn, vẫn sinh hoa kết trái!”
Chúa Giêsu Kitô, Thày Chí Thánh của chúng ta, đã không mở đường hạnh phúc cho chúng ta bằng sự giàu sang, quyền qúy; nhưng bằng cuộc sống nghèo khó của chính Ngài, và trong thời gian đi rao giảng Phúc Âm Tình thương, lo cho những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi, lại thường xuyên bị chống đối, ghét bỏ, thù hận. Cuối cùng lại chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, sỉ nhục và chết trên Thập Giá, táng xuống mồ, rồi mới sống lại và về Trời để mở đường hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta. Nếu chúng ta không tuyệt đối tin tưởng như vậy; nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời này mà thôi; nếu chúng ta chỉ đặt hạnh phúc vào sự giàu sang, quyền quý và tự do mọi sự ở đời này, thì chúng ta sẽ là những kẻ vô phúc nhất thiên hạ! (Như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay).
Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác,
Không theo đường lối những tội nhân, Không ngồi chung với những kẻ khinh bỉ người khác;
Nhưng vui thỏa trong lề luật Chúa, Và suy ngẫm luật Chúa đêm ngày. Họ như cây trồng bên bờ suối nước, Trổ sinh hoa trai đúng mùa, Lá cây không bao giờ tàn úa, Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. Kẻ gian ác không được như vậy, Họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi! Phúc thay người đặt niềm tin cậy nơi Chúa; Vì Chúa canh giữ đường người công chính, Con đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. (Bài Đáp Ca theo Thánh Vịnh 1)
Theo đường lối của Chúa, Giáo Hội cũng chỉ lo rao giảng Tin Mừng hạnh phúc thật cho mọi người, giúp đỡ người bệnh hoạn, người đang ở các trại phong cùi (như ở Việt Nam hiện nay), mở mang văn hóa cho các dân tộc, loan truyền ơn cứu độ, con đường đưa đến hạnh phúc thật đời đời. Nhưng như Chúa Giêsu Kitô, trong mọi nơi, mọi thời, Giáo Hội cũng luôn bị bách hại, phỉ báng, lăng nhục. Tuy nhiên, từ những Hoàng Đế Rôma tàn bạo như Neron đến các bạo chúa thời nay như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông v.v… tất cả đều đã trở về với cát bụi, nhưng Giáo Hội Chúa vẫn trường tồn và phát triển.
Theo mệnh lệnh của Chúa, chúng ta hãy: “Yêu thương mọi người, làm ơn cho những ai ghét bỏ chúng ta, chúc lành cho những người nguyền rủa chúng ta, và cầu nguyện cho những người vu khống cho chúng ta những điều gian ác.” (Luca 6: 27…). Đó là con đường yêu thương, con đường đưa đến hạnh phúc thật trong cuôc sống đời đời.
Lc 6:17.20-26: 17 Khi đi xuống cùng với các ông, Người đứng ở một chỗ đất bằng, với đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn.
20 Ngước mắt lên nhìn các môn đệ và Người nói: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. 21 "Phúc cho anh em bây giờ đang đói, vì anh em sẽ được no lòng. "Phúc cho anh em bây giờ đang khóc, vì anh em sẽ vui cười. 22 "Phúc cho anh em khi người ta oán ghét anh em, khai trừ anh em và sỉ vả và xoá tên anh em như người xấu vì Người Con của Nhân Loại. 23 Anh em hãy vui mừng trong ngày ấy, vì phần thưởng của anh em rất lớn lao ở trên trời. Bởi lẽ cũng một cách ấy mà cha ông họ đã đối xử với các ngôn sứ. 24 "Nhưng khốn cho anh em là những kẻ giàu có, vì anh em đã được phần an ủi của mình rồi. 25 "Khốn cho anh em, những kẻ bây giờ đang được no nê, vì anh em sẽ phải đói. "Khốn cho anh em, hỡi những kẻ bây giờ đang vui cười, vì anh em sẽ phải sầu khổ khóc than. 26 "Khốn cho anh em khi được mọi người nói tốt, vì cũng cách thế ấy cha ông họ đối xử với các ngôn sứ giả.
So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn: TN 6-C66
So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn ra trên một chỗ đất bằng và có rất nhiều điểm khác biệt khác (6:17. 20-26). Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Đoạn 6:20-26 nằm trong văn mạch của diễn từ dành cho các môn đệ (6:17-49), vì họ vừa được qui tụ thành nhóm (6:12-16). Đoạn nầy có thể phân chia làm hai phần đối xứng nhau:
1 - Bốn mối phúc (6:20-23);
2 - Bốn lời chúc dữ (6:24-26). Thính giả trực tiếp của bài giảng nầy là đám đông các môn đệ: “Ngước mắt lên nhìn các môn đệ, Người nói..” (6:20).
Như thế, những gì Người sắp nói cho họ phải được hiểu trong tương quan làm môn đệ của Chúa Giêsu. Các mối phúc khác có thể tìm thấy rãi rác trong tin mừng Luca (1:45; 7:23; 10:23; 11:27.28; 12:37.43; 14:15; 23:29; Cv 20:35; ). “Phúc cho...” là từ diễn tả sự ca ngợi, qui chiếu về một điều may mắn chẳng hạn con mắt (Lc 10:23), cái dạ mẹ (23:29), tuy nhiên phần lớn qui chiếu về một người được sủng ái, chúc phúc, may mắn. Thiên Chúa là nguồn của mọi phúc lành ban cho họ (x. 1 Tt 6:15). Và “Khốn cho...” là tiếng ta thán diễn tả sự đau buồn hoặc than phiền hơn là một lời chúc dữ hoặc kết án.
Mối phúc thứ nhất là “Phúc cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về họ” (6:20); đối lại “Khốn cho người giàu vì họ đã được sự an ủi” (6:24). Luca không dùng chữ “nghèo trong tinh thần” như trong Matthêô (x. Mt 5:3). “Người nghèo” (ptôchos) theo nguyên ngữ chỉ một người sợ hãi vô cùng đến nỗi phải che dẩu mình. Họ thường lẩn tránh và không ở một nơi nào nhất định. Từ đó, chữ nầy chỉ đến người ăn xin, túng thiếu (x. Cv 4:34).
Thế nào là người nghèo? Luca không định nghĩa “người nghèo”, mà chỉ cho thấy cách hành động của người nghèo để được Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là người nghèo vì Người đã “trở nên không” (kenoô) vì Chúa Cha (x. Phip 2:7), đến nỗi Người chẳng còn nơi để tựa đầu (9:58). Các môn đệ là nghèo vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (5:11; 18:28). Bà góa được gọi là nghèo không phải vì bà chỉ có hai xu, trong thực tế có thể bà giàu hơn người chỉ có một xu hoặc chẳng có gì hết, mà vì bà đã bỏ tất cả hai xu ấy vào hòm dâng cúng cho Thiên Chúa (21:3); trong khi người được Chúa Giêsu mời gọi bán của cải tất cả mà cho người nghèo được gọi là giàu và “có nhiều của cải”, là vì người ấy từ chối từ bỏ và “trở nên không” để có thể đi theo Người (18:22). Vậy người nghèo được đặt trong tương quan với Chúa Giêsu, chứ không phải với những gì họ đang có hoặc với người khác khi so sánh về tài sản.
Mối phúc thứ nhất nầy được kết cấu bằng hai mệnh đề, mà mệnh đề phụ có chức năng cắt nghĩa mệnh đề trước: không phải vì nghèo mà người môn đệ có phúc, nhưng vì họ được Nước Thiên Chúa như là kết quả của việc từ bỏ mọi sự. Động từ “là” ở thì hiện tại trong mệnh đề phụ muốn chỉ đây là một quả quyết, chứ không phải là một lời hứa. Điều nầy trở nên định luật cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu là phải “từ bỏ những gì mình có” (14:33); trái lại, nếu không từ bỏ để trở nên nghèo như Người, không thể làm môn đệ của Người, như trường hợp người giàu có. Đàng khác, chỉ khi nghèo mới để mình lệ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của người khác, đến bất cứ lúc nào và từ bất cứ hướng nào. Đặc điểm nổi bật của họ là đón nhận dễ dàng hơn người giàu. Họ dễ chấp nhận vào dự tiệc hơn bội phần những người giàu có đã được mời (x. 14:13.21). Và cũng cho đi cách dễ dàng và quảng đại hơn những người giàu. Xem xét sự quảng đại của bà goá (x. 21:3) và sự từ chối của người giàu có (18:22). Vậy, mối phúc của người nghèo là được Nước Thiên Chúa làm của mình, vì họ đã từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa Giêsu; khác với những người giàu là tìm và hưởng những an ủi do sự giàu có mang lại (x. 6:24).
Câu 6:21 nói đến hai mối phúc “đói-no” và “khóc-cười” (6:21). Chúng được xem như là biểu hiện và hậu quả của cái nghèo. Luca liên kết cái nghèo với sự thiếu thốn thực phẩm: Lazarô vì nghèo nên không có gì để ăn (x. 16;21); trái lại, ông phú hộ thì tiệc tùng linh đình mỗi ngày (16:19). Luca xác định thời điểm hiện tại “bây giờ” (6:21[2x]) vừa để cho thấy là sự đau khổ của cái đói và khóc lóc chỉ là tạm thời chứ không trường cửu; đồng thời cho thấy sự tương phản của tình trạng hiện tại với điều sẽ đến khi Thiên Chúa can thiệp vào.
Do đó, sự no đầy và vui cười của những người đang hưởng bây giờ cũng tạm thời; cái đói khát và khóc lóc sẽ đến ngay với họ (x. 6:24). Những câu chuyện được ghi lại trong tin mừng Luca cho thấy những người đang khóc lóc là những người đang sầu khổ: bà góa thành Naim (7:13), ông Giairô (8:51-51), người đàn bà tội lỗi (7:38), Phêrô (22:62). Và chính khi họ đang khóc lóc, Chúa Giêsu can thiệp và biến đổi sự khóc lóc ấy thành tiếng cười khi thấy người con sống lại, hoặc biết tội lỗi đã được tha. Đối lại mối phúc nầy (6:24), Luca dùng thêm chữ “than khóc” (x. Mt 5:4; 9:15) bên cạnh chữ “khóc” để nhấn mạnh tình trạng trầm trọng đảo ngược của những người bây giờ đang vui cười. Động từ “no đầy” ở thể thụ động cho thấy chính Thiên Chúa là người làm hành động nầy. Đồng thời cả hai hành động “được no đầy” và “cười” đều ở thì tương lai, hướng về một sự can thiệp từ phía Thiên Chúa sẽ đến. Vậy, hai mối phúc nầy không xây dựng trên sự đói khát thể lý hoặc thiêng liêng và trên những đau buồn đang xảy ra (x. Mt 5:6), mà trên sự can thiệp quyền năng của Chúa Giêsu, “Người đã đổ đầy cho người đói những điều tốt lành” (1:53).
Sự chúc phúc bằng việc sở hữu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu ngay bây giờ cho những ai trở nên nghèo như Chúa Giêsu: Maria (1:48), Simêôn (2:29), Phêrô (5:10), Lazarô (16:25) và ngay cả Con Người (22:69).
Bài giảng các Mối phúc trong sách Tin Mừng Lu-ca hơi khác với bài giảng trong Mát-thêu: TN 6-C67
Bài giảng các Mối phúc trong sách Tin Mừng Lu-ca hơi khác với bài giảng trong Mát-thêu. Lu-ca chỉ có bốn Mối phúc và thêm vào bốn Mối họa. Thánh sử bỏ bớt đi những yếu tố hoàn toàn Do-thái để nhắm vào khối độc giả thuộc Dân ngoại. Ngài chỉ giữ lại bốn Mối phúc cốt ý mô tả dung mạo người môn đệ chân chính của Chúa Ki-tô. Đồng thời ngài thêm vào bốn Mối họa, không phải là những lời nguyền rủa, nhưng là để làm nổi bật lên bốn Mối phúc vừa kể. Tóm lại, chúng ta có thể coi bốn Mối phúc là những lời hứa và những đòi hỏi Chúa gửi tới những ai muốn làm môn đệ Người, còn bốn Mối họa chính là những lời Người trăn trở kêu gọi người ta hãy từ bỏ những nguy hiểm đó mà sám hối quay về đi theo đường lối Chúa.
- Phúc: Hai con đường: một của người môn đệ Chúa và một của thế gian. Người môn đệ sống trong hoàn cảnh khốn khổ của cuộc đời, nhưng lấy Chúa làm cứu cánh và hoàn cảnh bất lợi lại là khởi điểm để họ đến với Chúa. Từ cảnh nghèo khó, người môn đệ nhận ra sự giàu sang đích thực không phải ở tiền của, nhưng là chính gia nghiệp của Thiên Chúa, vì tiền của là vật chóng qua, còn những gì thuộc về Chúa mới thực vững bền. Người môn đệ không hiểu đói khát theo nghĩa vật chất, nhưng là khát khao và ước vọng của con người luôn thao thức lấp đầy được khoảng trống trong tâm hồn, điều mà thánh Augustinô hằng cầu nguyện: Tâm hồn con sẽ chẳng được an nghỉ cho tới khi nào được an nghỉ trong Chúa. Đời người nước mắt nhiều hơn nụ cười là lẽ thường, nhưng đối với môn đệ Chúa, sướng khổ không phải là phần thưởng hay hình phạt, mà là những cơ hội để chúng ta tìm đến hạnh phúc đích thực là được Chúa cứu độ. Chọn lựa đi theo Chúa và sống theo quy luật Tin Mừng, người môn đệ chấp nhận những thiệt thòi hoặc bách hại, đi ngược chiều với lối sống và suy nghĩ của thế gian.
- Họa: Nêu lên những điểm chính của hành trình làm môn đệ, Chúa Giê-su còn nói đến những điều người đời cho là “hạnh phúc” nhưng có thể là mối họa cho người môn đệ. Giàu có, no nê, vui cười và được ca tụng là những điều thế gian cho là tiêu chuẩn của hạnh phúc. Nhưng đó lại là những cạm bẫy, cám dỗ con người lấy mình làm trung tâm, khiến cho con người thấy họ không cần Thiên Chúa và không biết đến anh chị em. Những Mối họa còn cho thấy phân biệt thời gian bây giờ và vĩnh cửu. Cái no nê bây giờ và vui cười bây giờ không đi theo con người về đời sau đâu. Chỉ có hạnh phúc vĩnh cửu mới là tương lai đích thực và chỉ tìm được nơi Chúa mà thôi.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Các Mối phúc được Tin Mừng Lu-ca trình bày dựa trên căn bản thực tế cuộc sống con người nói chung và Ki-tô hữu nói riêng. Từ chính hoàn cảnh sống của Ki-tô hữu, nhất là trong nghèo đói, đau khổ và bị thiệt thòi vì làm môn đệ Chúa, chúng ta được Chúa mời gọi hãy đặt Người vào trung tâm cuộc đời mình, để hướng đời mình theo đường lối của Tin Mừng. Chính hoàn cảnh đáng thương sẽ giúp chúng ta hết lòng tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, đồng thời khích lệ chúng ta biết mở lòng yêu thương giúp đỡ những anh chị em đang chịu thiếu thốn hoặc đau khổ. Bài giảng của Chúa Giê-su về các Mối phúc mở ra cho chúng ta một đời sống mới: đời sống của những người bước đi theo vết chân Người. Xưa “Chúa Giê-su ngước mắt nhìn các môn đệ” và giảng Lề Luật Mới. Nay Chúa nhìn chúng ta và gọi chúng ta làm môn đệ. Chắc chắn chúng ta sẽ đáp lời gọi của Người chứ!
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người TN 6-C68
Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người nghèo như “bà góa nghèo đến bỏ tiền vào đền thờ hai đồng kẽm chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma” (Mc. 12, 42), đầy những kẻ đói khát như anh ăn mày Ladarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà giàu (Lc. 16, 20), đầy những người khóc lóc như con thành Giêrusalem đến khóc thương Chúa trên đường vác Thánh giá, đã được Chúa đứng lại yên ủi như Cha yên ủi con trong cơn khóc lóc, hay như Phêrô khóc than vì đã phạm tội chối Thầy ba lần, đầy những người bị oán ghét, khai trừ, nhục mạ và xóa bỏ tên tuổi coi như đồ xấu xa như Đức Giêsu, Gioan tiền hô, các tiên tri và các thánh tử đạo.
Nếu chúng ta có quyền tự lực đập tan cửa hỏa ngục, chúng ta sẽ thấy đầy dẫy những hạng phú hộ ăn chơi, những hạng tham ô, móc ngoặc, những quản lý giết người cướp của, như hạng nhà giàu không thương giúp Ladarô, hạng kinh sư móc hết tài sản các bà góa, hạng tá điền cướp vườn nho (Mc. 12. 1-9, 38-40), đầy những hạng quyền quý sang trọng được tung hô, yến tiệc khao vọng, múa nhẩy, nghiện ngập như Hêrôđê no say còn bày trò chém đầu Gioan tiên hô, đầy hạng vui cười, chế nhạo, oán thù như quân dữ, trưởng tế và luật sĩ nhục mạ Đức Giêsu lúc bị treo trên Thánh giá.
Tại sao những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc bị oán ghét lại được Chúa chúc phúc chan chứa vui mừng trong vinh quang nước trời?
Thưa, vì họ bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt hết các thứ thuộc về thế gian. Hàng đoàn đám đông dân chúng đó chỉ còn biết trông cậy vào Đức Giêsu. Họ bỏ cả quê hương danh tiếng như Giudêa, Giêrusalem, Tyrô, Siđon để đến theo Chúa. Người đã cứu chữa họ cả xác lẫn hồn. Người vừa chữa cho họ khỏi tật nguyền quỷ ám, vừa giảng cho họ biết đường sống hạnh phúc muôn thuở.
Họ là những người nghèo khó về tiền của như Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, nhưng lại giầu lòng thương người như Đức Giêsu đã cho bao nhiêu người nương tựa. Họ nghèo khó, vì không tham lam, trộm cắp, nhưng lại giầu tinh thần cao quý thanh tao, siêu thoát. Họ nghèo của trần tục, nhưng họ giầu của nước trời. Họ là những người bụng đói của ăn như Ngài, đến nỗi các môn đệ bứt lúa ăn và bị chỉ trích, nhưng họ khao khát công chính và theo Ngài đi rao giảng Tin Mừng nước trời cho muôn dân. Họ đói bánh nuôi cái bụng, nhưng họ thoả dạ an lòng vì siêng năng rước Bánh Hằng sống.
Họ là những người sầu khổ khóc lóc thương xót bao nhiêu cảnh lầm than như Chúa đã khóc thương Ladarô, khóc thương thành Giêrusalem và chịu chết cho con cháu họ. Ít ra, họ là những người như Phêrô biết ăn năn thống hối và trở lại với Thầy để lãnh nhận trách nhiệm cứu giúp muôn dân sa ngã như mình.
Họ là những người hy sinh chịu đau khổ, oan uổng, bất công, biết vác thập giá theo Chúa để cứu nhân độ thế. Họ đã được phần thưởng lớn lao trên nước trời.
Tại sao những kẻ giầu, no nê, vui sướng, vinh quang lại bị chúc dữ?
Thưa, họ là những kẻ ham danh, ham lợi, ham thú vui vật chất phàm tục. Họ cậy vào tiền của vì họ tưởng: “Có tiền mua tiên cũng được”, chẳng cần đến ai. Họ xa lìa Thiên Chúa đi theo các thần tài, thần hoàng, thần nữ, thần thổ địa và các thần tượng. Đó là các tử thần, họ sẽ chết theo chúng.
Lịch sử đã cho thấy, khi con người nghèo đói, túng cực, lam lũ khổ sở, họ sốt sắng chạy đến kêu cầu, trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng khi được ấm no, sung túc thì ăn chơi, lười biếng, cậy mình kiêu ngạo, không cần đến Thiên Chúa nữa. Dân nước Balan trước đây hơn 90% siêng năng đi lễ, cầu nguyện, đoàn kết như một, dưới quyền hướng dẫn của Giáo Hội. Nay được dễ dãi, làm ăn phát đạt, họ lại chia rẽ, khinh thường hàng giáo phẩm và xa lìa Thiên Chúa. Các nước Âu Mỹ cũng thế. Giáo dân Việt Nam cũng không khá gì: trong những năm 1975-1985, đời sống đói khổ, thì ngày thường cũng như Chúa nhật nhà thờ đầy người. Nay, ngày thường chỉ leo teo một số cụ già, con nít, còn thanh niên người lớn có tiền bạc, ăn chơi, rượu chè, hút sách bất tận. Chúa nhật đi lễ hơn một giờ thì thấy lâu, sốt ruột, ngồi ngoài sân, đứng lấp ló xó nọ góc kia, nói chuyện, hút thuốc, mà không biết rằng ai cho cái miệng để ăn nói, ai cho cái mũi để thở, ai cho hơi thở khí mát để sống. Thật vô phúc, vô ơn Thiên Chúa đến chừng nào! Những hạng đó đến bao giờ mới được chúc phúc, Đức Giêsu còn phải chúc dữ đến bao giờ!
Người ta nói: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Trồng người để có người tốt, có dòng giống con cháu tốt thì mới có việc tốt, nhờ đó xây dựng gia đình, xã hội tốt từ đời này tới đời kia, lâu dài hàng trăm năm. Trồng cây để lấy của hưởng thụ, chỉ được mươi mười năm là hết. Biết rõ như thế, những bậc thánh hiền vĩ nhân luôn luôn quan tâm đặc biệt tới trồng người, dù có phải sống hy sinh kham khổ như Khổng Tử, Đức Phật.
Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân … Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư … lo đạt đạo” (Ln. 7, 15 và 15, 30-31). Đức Phật không thể chịu nỗi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc. 9, 58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài, không phải giầu sang, quyền quý, mà là siêu thoát để truyền dậy chân lý không mệt.
Lạy Chúa, xin cho con “đừng tựa vào tường vì tường sẽ đổ, đừng tựa vào cây vì cây sẽ gẫy, đừng tựa vào người vì người sẽ chết” mà chỉ lo sống tựa vào lời chúc phúc của Chúa mà thôi.
---------------------------------
TN 6-C69. NGHÈO KHÓ NHƯNG LẠI GIÀU CÓ TRONG ĐỨC TIN VÀ PHÓ THÁC.
Ở trung tâm của Bài đọc hôm nay là chủ đề về sự tín thác vào Thiên Chúa. Bài đọc 1 đối chiếu số TN 6-C69
Ở trung tâm của Bài đọc hôm nay là chủ đề về sự tín thác vào Thiên Chúa. Bài đọc 1 đối chiếu số phận của những người tin tưởng vào Thiên Chúa. Những người tin tưởng và con người như cây gai cằn cỗi trong sa mạc; trong khi những người tin tưởng vào Thiên Chúa giống như cây sai trái trồng gần dòng sông nhiều nước.
Tín thác vào Thiên Chúa là trông cậy nơi Người vốn là suối nguồn sức sống. Những người tín thác vào Thiên Chúa là những người nghèo được Thiên Chúa chúc phúc trong các mối Phúc thật (Tin Mừng).
Khi Đức Giêsu nói: “Phúc cho những người nghèo khó”, Người đã không chúc phúc cho sự đói khát và khốn cùng. Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều được chúc phúc là lòng trông cậy, tín nhiệm Thiên Chúa. Những người đặt tín nhiệm của họ vào Thiên Chúa sẽ không bị thất vọng. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta; chỉ Thiên Chúa mới có thể thoả mãn khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước tiên.
Thánh Giacôbê nói rằng những người nghèo khó đối với thế gian này sẽ được Thiên Chúa làm cho giàu có trong đức tin (2,1-5). Bất cứ ai thực thi tác vụ trong đôi ba năm đều có thể xác nhận chân lý ấy.
Những người giàu có xu hướng dựa vào của cải họ có. Đối với họ, chính thế gian này mới quan trọng. Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi, và đời sau thì xa vời và mơ hồ. Trái lại, những người nghèo có xu hướng tự nhiên quay về với Thiên Chúa. Đối với họ, mọi nguy cơ và khó khăn của đời sống làm cho Thiên Chúa và đời sau gần gũi và hiện thực.
Sự nghèo khó ấy tự nó không phải là điều tốt. Nhưng khi đời sống trở nên khó khăn hơn và luôn bị đe doạ, nó cũng trở nên phong phú hơn bởi lẽ khi chúng ta càng ít mong đợi thì những điều tốt lành của đời sống càng trở thành những ân huệ bất ngờ mà chúng ta đón nhận với lòng biết ơn. Đó là lý do Đức Giêsu nói; “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Một ngày kia một người nghèo đi dọc theo một con đường, tình cờ ông gặp một người ăn mày đến xin ông bố thí. Xấu hổ vì không có gì để bố thí, người nghèo đáp: “Tiếc thật, nhưng tôi cũng nghèo như anh thôi”.
Khi nghe nói điều đó, người ăn mày nói: “Cám ơn bạn, vì món quà của bạn”.
Không hiểu người ăn mày muốn nói điều gì, người nghèo hỏi: “Tại sao ông cám ơn tôi? Tôi có cho ông cái gì đâu”.
“Ồ có chứ”, người ăn mày đáp: “Ông cho tôi sự lương thiện của ông, sự nghèo khó của ông và lòng tín thác của ông”.
Thiên Chúa không nghèo, nhưng chúng ta nghèo. Thế mà chúng ta có cái để cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể cho Người sự lương thiện, nghèo khó và lòng tín thác của chúng ta.
Nghèo khó, đói khát là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách khắc phục, tiêu diệt cho đến TN 6-C70
Nghèo khó, đói khát là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách khắc phục, tiêu diệt cho đến cùng. Nhân loại hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Vậy mà sao Chúa Giêsu lại nói: Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói? Không lẽ Chúa Giêsu lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?
Tất nhiên là không. Chúa Giêsu muốn cho mọi người được hạnh phúc và no đủ. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy xin Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày và chính Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và dư dật cho những người đi theo Chúa vào nơi hoang vắng hôm xưa được ăn no.
Thế thì tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ đói khát”?
Ðể hiểu rõ lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy đọc cho kỹ câu văn: Bấy giờ “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… là những kẻ bây giờ phải đói… bây giờ đang khóc…”
Thánh Luca ghi rõ: “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…” Vậy thì đây là những lời Ðức Giêsu trực tiếp nói với các môn đệ và đối tượng đầu tiên của các mối phúc nầy chính là những môn đệ của Chúa Giêsu.
Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những những khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, các vị từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên nghèo thiếu vì Tin Mừng và vì Chúa Giêsu. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giêsu trọng thưởng. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.
Trước đây, với nghề chài lưới trên một vùng biển vốn nhiều tôm cá, các môn đệ Chúa Giêsu không biết đói khát là gì. Thế mà từ ngày lang bạt theo Chúa Giêsu rày đây mai đó để loan báo Tin Mừng, các ngài phải chịu cảnh bữa đói bữa no. Có lần các môn đệ khi đi qua đồng lúa, phải bứt lúa mà ăn cho đỡ đói (Mt 12,1). Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng quảng đại ắt sẽ bù đắp cho họ dư đầy. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng”.
Rồi cũng theo dòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu nói: Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.
Như vậy, nói tóm lại, các môn đệ sẽ được dư đầy hồng phúc vì các ngài đã chịu nghèo đói, thua thiệt vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng của Ngài. Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn.
Ðại thi hào Tagore người Ấn độ có một bài thơ minh hoạ cho chân lý nầy:
“Tôi đang đi hành khất hết cửa nhà nầy đến cửa nhà kia dọc suốt đường làng lúc xe người vàng óng xuất hiện đàng kia như một giấc mơ rực rỡ; lòng nhủ lòng tôi hỏi đức vua oai phong nầy là ai!
Hy vọng trong tôi giang cánh bay cao; tôi thầm nghĩ ngày xấu số từ đây thôi chấm dứt; tôi đứng đợi chờ của bố thí chẳng hỏi xin mà có và bạc vàng trên bụi đường rơi vãi tứ tung.
Xe ngừng nơi tôi đứng. Người đưa mắt nhìn tôi rồi bước xuống, mỉm cười. Tôi thầm nhủ duyên may đời mình thế là đã đến. Nhưng chẳng chần chừ, người lại chìa bàn tay phải ra mà nói: Có gì cho ta không?
A ha, gớm chưa lời thử lòng vương giả khi mở bàn tay ăn xin một người hành khất tầm thường! Bối rối, tôi đứng lặng im lưỡng lự một hồi, rồi từ từ móc trong bị lấy ra hạt lúa nhỏ bé nhất đưa cho người.
Nhưng, ngạc nhiên xiết bao, lúc ngày tàn, giốc túi ăn xin ra nền đất, tôi lại thấy giữa đống của bố thí nghèo nàn hạt lúa vàng vô cùng nhỏ bé. Tôi khóc nức nở, nghĩ bụng ước gì đã có tấm lòng dám cho người tất cả những gì là của riêng tôi!”
Người ăn xin trên đây đã vò đầu bức tóc và khóc nức nở vì tiếc xót. Giá như ông ta dốc hết cả túi thóc cho đức vua, thì giờ đây, ông đã được một túi đầy những hạt bằng vàng!
Các môn đệ của Chúa Giêsu là những người đã dốc hết cuộc đời cho Chúa Giêsu và cho việc rao giảng Tin Mừng, đến nỗi các ngài trở nên nghèo thiếu, trống không vì Chúa Giêsu, thế nên các ngài sẽ được Thiên Chúa đổ đầy hồng ân. Nước Thiên Chúa thuộc về các ngài. Hạnh phúc thiên đàng đang ở trong tầm tay.
Nếu hôm nay, chúng ta không bủn xỉn như gã ăn xin trên đây, nhưng biết rộng lượng cống hiến cho Chúa khả năng, thời giờ, sức lực, trí tuệ… của chúng ta cho Thiên Chúa và cho việc loan báo Tin Mừng như các môn đệ của Chúa Giêsu năm xưa, chúng ta cũng sẽ là những người được Thiên Chúa ban cho dư đầy phúc lộc mai sau và đối tượng của những lời chúc phúc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng là hôm nay cũng chính là chúng ta.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Ông Arafat, nguyên lãnh tụ phong trào giải phóng Palestin, lúc ông còn sống đã là người đầu tiên TN 6-C71
Ông Arafat, nguyên lãnh tụ phong trào giải phóng Palestin, lúc ông còn sống đã là người đầu tiên nhiệt liệt ủng hộ cựu tổng thống độc tài Saddam Hussein của Irak, bởi vì ông tin chắc rằng chuyến này, nhân dân Palestin cũng sẽ giành lại được quyền tự quyết. Nhưng sau khi Irak bại trận, ông Arafat và nhân dân Palestin lại bị bỏ rơi, và họ mới vỡ lẽ ra là mình cũng chỉ là một thứ chiêu bài chính trị được ông Saddam hoan hô nhằm phục vụ cho mưu toan của Irak trong ván cờ phức tạp khi đánh ở vùng Trung Ðông.
Biết tin vào ai, và biết cậy vào ai trong thế giới chỉ biết trọng kim tiền và khinh dể công lý, các quyền tự do căn bản của những con người này? Bởi vì các quốc gia, các phe nhóm, các lực lượng ý thức hệ, kinh tế, chính trị, xã hội hùa nhau đó nếu không còn lợi lộc gì thì trong nháy mắt họ quay lưng trở mặt lại với nhau.
Các bài đọc phụng vụ hôm nay cống hiến cho chúng ta một lời giải đáp. Có lúc người nghèo khó chỉ phó thác nơi Thiên Chúa chớ không cậy dựa nơi sức mạnh vật chất và khả năng của loài người mau tàn lụi và hay hư nát. Giáo huấn của tiên tri Giêrêmia đoạn 17,5-8 viết cũng là điều thánh vịnh 146 và 40 khuyên nhủ chúng ta: “Con đừng cậy dựa nơi vua chúa và kẻ quyền quí, vì loài người không thể cứu được con. Phúc cho ai được Chúa nhà Giacóp trợ lực. Phúc cho ai hy vọng nơi Chúa và không về phe với kẻ kiêu căng cũng không chạy theo sự dối trá”. Thánh vịnh 1 cũng đưa ra cùng lời khuyên nhủ như trên và rất giống giáo huấn của tiên tri Giêrêmia: “Khốn cho những ai cậy dựa nơi con người”. Tức là cậy dựa nơi những phường tội lỗi gian ác, vì chúng có quyền cao chức trọng và giàu có, tiền rừng bạc bể đến đâu đi nữa chúng cũng không thể cứu chính mình và cứu được ai.
Sức lực con người là bao, cuộc đời con người là mấy? Có kẻ quyền quý nào mà lại không phải chết và tan biến thối rữa đâu? Con người tự bản tính thường hay ích kỷ hẹp hòi và ham danh lợi, thấy quyền cao chức trọng và của cải, nó thường tới mức họ quên hết mọi điều cao đẹp khác. Do đó, cậy dựa vào con người quả thật là thái độ khờ dại. Khi con người tự cậy dựa nơi mình và khép kín với Thiên Chúa và tha nhân, nó cố trở nên khô cằn và chết đi, nó giống như cây me mọc trong hoang địa khô cằn và chết héo. Do đó, các lời tiên tri Giêrêmia tố cáo dân Israel hồi thế kỷ thứ VII trước Tây lịch, cũng còn rất là thời sự đối với con người sống trong thế giới ngày nay, là một thế giới chủ trương lấy con người làm thước đo mọi sự. Tám mối Phúc thật và Lời Chúa Giêsu đe dọa những người giàu có như tường thuật trong Phúc Âm thánh Luca, đoạn 6, cũng là mời gọi chúng ta đừng lấy tâm thức của thế giới con người làm mẫu mực cuộc sống nhưng hãy lấy cái nhìn của Thiên Chúa.
Bốn mối Phúc thật và bốn lời chúc dữ trong Phúc Âm thánh Luca. Mối phúc thật là một kiểu hành văn quen thuộc của nền văn chương tiên tri và nền văn chương khôn ngoan, loan báo một niềm vui trong hiện tại hay trong tương lai. Nó cũng không phải là một lời cầu chúc mà là một khẳng định, một lời cam kết long trọng được tuyên bố với chính quyền bính và sức mạnh của Thiên Chúa, Ðấng luôn hoạt động trong lịch sử loài người để thực hiện sự công chính của Ngài. Các mối phúc thật của Chúa Giêsu công bố đảo lộn mọi giá trị trong tâm thức và kiểu cách nhìn bình thường của con người, bởi vì chúng diễn tả một cuộc cách mạng nội tâm sâu xa, có năng lực biến đổi hoàn cảnh sống bên ngoài của thế giới loài người. Chúa Giêsu không chúc lành hay chúc dữ cho một số cảnh sống nghèo. Tự chúng sự giàu có và của cải vật chất không phải là những gì đáng khinh rẻ, bởi vì chúng cũng được Thiên Chúa tạo thành, giúp con người sống sung túc và hạnh phúc. Một khi con người coi chúng như là một giá trị tuyệt đối, tôn chúng lên địa vị của Thiên Chúa và quỳ thờ lạy chúng, thì khi đó, của cải đáng chúc dữ và khốn cho những người thờ lạy chúng. Bởi vì khi đó của cải vật chất khiến cho con người khép kín ơn trời, cuộc sống của mình trong một chút hạnh phúc bé nhỏ, hạn hẹp mau qua của thế giới vật chất này, mà quên đi cuộc sống đích thật mà Thiên Chúa cống hiến cho mình. Của cải khi đó đáng chúc dữ vì nó khiến cho chúng ta đóng chặt, khép kín cửa nhà và cánh cửa tâm lòng mình trước những người anh em túng thiếu, khổ đau, quên Chúa, xa Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu của mình.
Cũng thế, sự nghèo nàn và các khổ đau trong cuộc sống con người tự chúng là những gì đáng ghê sợ, vì chúng hủy hoại hạnh phúc của con người, do đó cần phải cố gắng bài trừ chúng trước hết bằng cách loại trừ các nguyên nhân gây ra chúng. Thật ra, Chúa Giêsu không đề cao sức tàn phá tiêu cực đó của nghèo đói và khổ đau. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ơn cứu độ Ngài đem đến cho con người là ơn cứu độ toàn vẹn, đem lại của ăn và sức khỏe cho thân xác cũng như cho linh hồn. Ðó là ý nghĩa các phép lạ nuôi dân và chữa lành mọi tật bệnh cho con người. Nhưng trái lại, Chúa Giêsu cũng coi nghèo đói và khổ đau cũng là ân phước, vì chúng có thể giúp con người hồi tâm ăn năn hối cải, rộng mở tâm lòng để hiểu biết và đón nhận tình thương sâu xa của Thiên Chúa và ký thác nơi Ngài. Khi tuyên bố: Phúc cho những người nghèo hèn, đói khát, khóc lóc và khổ đau vì bị người đời hất bỏ, Chúa Giêsu không muốn trói buộc con người trong tình trạng nghèo nàn và khổ đau, mà Ngài muốn cho họ hiểu rằng, ngay cả khi phải sống trong những hoàn cảnh tiêu cực ấy, như hậu quả của bất công xã hội, ngay cả cái chết của con người họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và vẫn có thể rộng mở tâm lòng đón nhận ơn cứu độ Ngài ban.
Cái nghèo đói và khổ đau vật chất là cái nghèo đói và khổ đau có phước, vì nhờ đó con người được gặp gỡ Thiên Chúa và được ơn cứu độ. Nói tóm lại, người giàu có không phải vì giàu mà bị án phạt; người nghèo khó và khổ đau không phải vì nghèo khó và khổ đau mà được trọng thưởng. Giàu cũng như nghèo, ai cũng phải nỗ lực sống Tin Mừng yêu thương, chia sẻ đại đồng của Chúa để được cuộc sống đời đời.
Ðó cũng là điều thánh Phaolô nhắc nhủ chúng ta trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, chương 15: Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh phải giúp chúng ta chết đi cho những kiểu cách suy tư hành xử cũ của con người trần gian. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh phải trao ban cho chúng ta một tâm thức mới, một kiểu cách suy tư lý luận mới, một cái nhìn mới, một nếp sống mới đặt nền tảng trên Tin Mừng Phục sinh và trên các mối phúc thật. Nói cách khác, khi tuyên xưng lòng tin vào Chúa Kitô Phục sinh là chúng ta chấp nhận nhìn mọi sự với chính đôi con mắt của Thiên Chúa và sống theo các nấc thang giá trị Tin Mừng của Chúa. Tin vào Chúa Kitô Phục sinh cũng có nghĩa là biết lấy các giá trị đó làm mẫu mực và nền tảng cho cuộc sống gia đình và xã hội.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để chúng ta sống hạnh phúc ở đời này và đời sau lại được hạnh TN 6-C72
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để chúng ta sống hạnh phúc ở đời này và đời sau lại được hạnh phúc vĩnh viễn bên cạnh Ngài. Bởi thế loài người luôn khát khao hạnh phúc. Thế nhưng hình như ở đời này hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều; và có thứ ta tưởng là hạnh phúc nhưng thực ra lại là bất hạnh.
Hôm nay Chúa sẽ dạy ta biết thế nào là hạnh phúc thật, và làm thế nào để có được hạnh phúc thật ấy.
Gợi ý sám hối
Chúng con thường chỉ biết tìm hạnh phúc trần gian mà lơ là với hạnh phúc muôn đời.
Chúng con thường chỉ tìm hạnh phúc ích kỷ cho bản thân mà không quan tâm xây dựng hạnh phúc cho tha nhân.
Chúng con chưa thực sự tin vào những mối phúc thật mà Chúa công bố.
III. Lời Chúa
Bài đọc I (Gr 17,5-8)
Ngôn sứ Giêrêmia giới thiệu hai con đường: một dẫn đến hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh:
Con đường dẫn đến hạnh phúc là đặt niềm tin nơi Chúa. Ngôn sứ diễn tả hạnh phúc ấy bằng những hình ảnh thiên nhiên cho dễ hiểu: Người đặt niềm tin vào Chúa là người đi trên con đường có nước, có bóng cây, có hoa trái…
Con đường đưa tới bất hạnh là đặt niềm tin nơi người đời. Người đi trên con đường ấy chỉ gặp sa mạc khô nóng, đồng khô cỏ cháy, đất mặn, không bóng mát…
Đáp ca (Tv 1)
Tiêu chuẩn hạnh phúc và bất hạnh theo ngôn sứ Giêrêmia là đặt niềm tin nơi Thiên Chúa hay loài người. Còn theo tác giả Thánh vịnh 1 thì đó là sống theo Luật Chúa hay là đi theo quân gian ác.
Tin Mừng (Lc 6,17-26)
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là Bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trước đông đảo dân chúng (bài giảng thứ nhất ở quê hương Nadarét, Lc 4,16-30, chỉ giảng cho đồng hương Ngài nghe).
Bài giảng này có những điểm giống và những điểm khác với bài giảng trên núi trong Tin Mừng Matthêu: Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những kẻ bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
Bài đọc II (1 Cr 15,12-16.20) (Chủ đề phụ)
Người dân Côrintô chịu ảnh hưởng triết lý hy lạp nên không tin có việc kẻ chết sống lại.
Để giúp tín hữu mình tin vào giáo lý ấy. Thánh Phaolô đưa nhiều lập luận: Nếu kẻ chết không thể sống lại thì tại sao Đức Kitô đã chết mà đã sống lại? Nói cách khác, việc Đức Kitô phục sinh là bằng chứng rõ ràng về việc kẻ chết sống lại.
Đức Kitô không chỉ có khả năng làm cho bản thân Ngài sống lại, mà còn có thể làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được sống lại như Ngài.
Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.
Gợi ý giảng
* 1. Hạnh phúc đích thực
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận dịch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt mũi vì công việc, tình cảnh trong các dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở New York quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà còn tình nguyện khoác áo blouse trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa cho các bệnh nhân, vỗ về những gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng không sợ lây bệnh cho chính bản thân.
***
Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả, kèm theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản dề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát và kẻ no đầy. Đó!à hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin Mừng muốn mô tả để người tín hữu Kitô chọn lựa.
Một điều rất hiển nhiên là Tin Mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin Mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào Nước Trời. Giàu có mà hành xử như các thành viên của hội thượng lưu ở New York trong câu chuyện còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Chúa Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu xa, và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ “khốn cho người giàu có” khi họ không phân định rạch ròi giữa phương tiện và cùng đích, giữa điều kiện vật chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất chỉ giúp họ duy trì và phát huy sự sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Chỉ “Khốn cho người giàu có” khi họ không ý thức rằng họ lệ thuộc rất nhiều vào người khác. Họ mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không còn thấy rằng của cải cá nhân là do của cải tập thể đem lại, họ cũng không nhận ra rằng họ đã thừa hưởng một kho tàng lý tưởng và các tiến bộ mà người đang sống cũng như kẻ đã chết góp phần tạo nên. Họ nghĩ rằng mình có thể sống sung túc trong thế giới nhỏ bé chật hẹp mà họ là trọng tâm. Họ là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Dù có ý thức hay không, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người quen biết cũng như người chưa quen biết. Vậy chúng ta phải trả món nợ ấy ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: Cho kẻ đói ăn, cho người trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau yếu. Nói như Martin Luttler King: “Chúng ta có thể cất giữ số thực phẩm dư thừa của chúng ta trong các bao tử trống rỗng của hàng triệu con cái Thiên Chúa, khi mỗi tối họ phải lên giường nằm ngủ mà không có gì để ăn”.
Dưới con mắt Chúa, làm giầu một cách lương thiện không phải là tội, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và tặng ban cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khoá lại trái tim và nắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính.
Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Hạnh phúc đích thực không nằm nơi của cải, hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chính là sự mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Thánh Phaolô viết: “Cho đi vui sướng hơn nhận lãnh”.
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyền uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em, và với chính mình, như lời Thánh Phaolô: “Lương tâm rôi không trách cứ tôi điều gì”.
Một tác giả có viết: “Trong hạnh phúc có mầm đau khổ. Quả thật, hạnh phúc bao giờ cũng trộn lẫn với mồ hôi và nước mắt. Có hạnh phúc đích thực nào mà không phải trả giá bằng đau khổ? Có ai sống trên đời này mà được hạnh phúc trọn vẹn đâu?
Điều này giải thích tại sao những gì chúng ta coi là bất hạnh, thì Chúa Giêsu lại cho là hạnh phúc.
Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được cái nghịch lý của Lời Chúa thì chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực.
Chỉ khi nào chúng ta dám nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bi sỉ vả vì danh Chúa, chúng ta mới sống trọn vẹn các mối phúc thật.
Chỉ khi nào chúng ta thấy mình giàu lên khi chịu nghèo, no thoả lúc đói khát, vui cười khi lệ rơi, và hân hoan lúc bách hại, chúng ta mới thực sự nếm cảm niềm hạnh phúc của Nước Trời.
***
Lạy Chúa, hạnh phúc đích thực chính là có một lương tâm an bình, một con tim biết chia sẻ và một khối óc luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn đắm chìm trong hạnh phúc được làm con cái Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Hạnh phúc hiện tại của người nghèo
Etienne Charpentier viết:
“Bài giảng trên núi trong Mátthêu và bài giảng trên cánh đồng của Luca mở đầu bằng những lời chúc phúc. Nghĩa là sứ điệp của Chúa Giêsu chủ yếu là loan báo hạnh phúc. Nhưng loan báo cho ai, và như thế nào?
Phải đau đớn nhận rằng các lời chúc phúc ấy đã bị hiểu sai và bị lợi dụng làm một thứ thuốc phiện nhằm ru ngủ nỗi khổ đau và sự nổi loạn của những người nghèo. Người ta muốn hiểu chúng như sau: “Hỡi những người nghèo, các người hạnh phúc lắm vì các người được Thiên Chúa yêu thương… vậy cứ tiếp tục nghèo đi! Hãy chấp nhận thân phận của các người, rồi một nào đó ở trên trời các người sẽ được hạnh phúc”. Nhưng thực ra Chúa Giêsu nói ngược hẳn lại: “Hỡi những người nghèo, chúng con hạnh phúc, vì từ nay chúng con không còn nghèo nữa, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. (Pour lire le Nouveau Testament)
Chúa Giêsu không hứa sẽ ban hạnh phúc cho người nghèo, Ngài loan báo cho người nghèo biết là họ đang hạnh phúc. Lý do hạnh phúc của họ là tuy họ không có nhiều tiền bạc của cải, nhưng họ có Nước Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là của anh em”.
Có Nước Thiên Chúa là có tất cả. “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?”
* 3. Nghịch lý
Người ta thường nói “nghèo khổ”, nghĩa là cái nghèo và cái khổ đi đôi với nhau; đã nghèo thì tất nhiên khổ. Thế mà Chúa Giêsu lại nói “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo”. Hình như Chúa Giêsu muốn đảo ngược kiểu nói “nghèo khổ” thành “nghèo phúc”. Thật là nghịch lý!
Nhưng chuyện nghịch lý không phải là không có trên đời. Thông thường ai cũng muốn một cuộc sống sang giàu. Thế nhưng có những người lại đi tìm một cuộc sống nghèo: chẳng hạn như các nho gia cởi áo từ quan, rời bỏ nếp sống tiện nghi nơi thành thị để tìm nếp sống thanh đạm giữa thiên nhiên; hay thánh Phanxicô Assisi là con nhà giàu nhưng từ bỏ tất cả để sống nghèo, lại còn lập cả một huynh đoàn quy tụ những người muốn sống nghèo như ngài; hay ngày nay những tu sĩ với lời khấn trọn đời sống nghèo nàn. Những con người đó không phải điên khùng mà hoàn toàn sáng suốt. Quyết định sống nghèo của họ không phải do bốc đồng nhất thời mà là kết quả của một thời gian dài suy nghĩ chọn lựa. Sự chọn lựa ngược đời của họ khiến ta phải suy nghĩ vì chắc hẳn họ đã nghiệm ra có nhiều điều hay trong cái nghèo nên họ mới chọn lựa như vậy.
Dĩ nhiên cái nghèo mà họ chọn lựa không phải là tình trạng túng thiếu: không đến nỗi phải chết đói, chết khát, chết lạnh, mà chỉ cần tối thiểu để ăn, để uống, để mặc. “Tri túc, tiện túc”: biết đủ thì đủ.
Vì chỉ cần tối thiểu như thế nên lòng họ không bị giao động vì những ham muốn có thêm. “Túi tham không đáy”: lòng ham muốn sẽ không bao giờ thỏa mãn, nên cứ giao động hoài.
Không tham muốn thêm mà cũng không sợ bị mất, nên người nghèo như thế rất bình tâm, nhờ đó có thể ăn ngon, ngủ yên.
Người nghèo không kiêu căng, không khoe của, không khinh miệt người khác.
Người nghèo không cậy dựa vào tiền bạc của cải nên dễ cậy dựa vào Chúa hơn.
Có thể người nghèo bị người đời khinh ghét, nhưng bù lại, họ được Thiên Chúa yêu thương che chở.
* 4. Những mối phúc của tấm lòng
Phúc thay ai có lòng thanh sạch, họ sẽ được thấy Chúa. Phúc thay ai có lòng khiêm tốn, họ sẽ tìm được sự ngơi nghỉ cho linh hồn. Phúc thay ai có lòng ấm áp, họ sẽ tỏa chiếu lòng tốt ra chung quanh. Phúc thay ai làm việc với tấm lòng, họ sẽ tìm gặp niềm vui trong công việc. Phúc thay ai không ngã lòng, họ sẽ tìm được nghị lực để kiên trì.
Và phúc thay ai đặt lòng mình vào Nước Thiên Chúa, mọi điều khác sẽ được ban cho họ. (FM)
* 5. Nghèo mà giàu
Khi Chúa Giêsu nói “Phúc cho những người nghèo”, Ngài không chúc phúc cho sự túng thiếu và bần cùng đâu, vì túng thiếu và bần cùng là những điều xấu.
Điều được chúc phúc chính là sự cậy trông vào Chúa. Ai cậy trông vào những gì thuộc về loài người thì sẽ bị thất vọng, còn ai cậy trông vào Chúa sẽ chẳng thất vọng bao giờ. Chỉ một mình Chúa mới có thể đong đầy những chỗ trống của chúng ta. Chỉ một mình Ngài mới có thể thỏa mãn những đói khát của chúng ta.
Người giàu thường hay cậy dựa vào tiền bạc của cải của họ. Đối với họ, chỉ có đời này là quan trọng, còn đời sau hay là Chúa đều là quá xa vời. Trái lại người nghèo thì tự nhiên dễ hướng về Chúa, cuộc sống càng cơ cực khó khăn thì họ càng cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Mà ai cậy dựa vào Chúa thì sẽ được Ngài phù hộ chở che.
Khi người nghèo nhận được một điều gì đó, dù rất tầm thường, họ cũng lấy làm sung sướng và biết ơn.
Một hôm, một người nghèo đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Người ăn xin chìa tay xin tiền. Người nghèo này bối rối đáp: “Xin lỗi, tôi chẳng có gì cho bạn, vì tôi cũng nghèo như bạn”. Người ăn xin nói: “Xin cám ơn vì món quà bạn đã cho tôi”. Người nghèo ngạc nhiên họi lại: “Tại sao bạn cám ơn tôi? Tôi có cho bạn cái gì đâu”. Người ăn mày nói tiếp: “Bạn đã cho tôi sự nghèo nàn, lòng chân thành và sự tin cậy của bạn”.
Đối với Chúa, chúng ta đều nghèo. Nhưng dù nghèo, chúng ta cũng có những món quà cho Chúa, đó là lòng chân thành, sự cậy trông và chính sự nghèo nàn của chúng ta. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Tìm lại hạnh phúc
Tại văn phòng của một cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể:
“Chồng tôi đã chết, cách nay ba tháng. Con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”.
Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
b/ Người hạnh phúc nhất
Nhà vua bị bịnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bịnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo!
c/ Bí quyết sống vui
Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao!
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, phúc thay người đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chốn nương thân. Cùng với tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa là Đấng ban hạnh phúc thật sự cho mọi người, chúng ta tha thiết nguyện xin:
Hội thánh không ngừng kêu gọi con cái mình sống lời Chúa dạy / đặc biệt là sống theo tinh thần Tám mối phúc thật / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh xác tín rằng / sống đạo là sống theo Lời Chúa dạy.
Trên thế giới ngày nay / người nghèo vẫn chiếm đa số / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các dân tộc được phát triển / để mọi người đều được hạnh phúc ấm no.
Là con người / ai cũng mong muốn được hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / qua việc chia sẻ tình thương và cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.
Mọi thực tại ở trần gian này đều chóng qua / không có gì tồn tại mãi mãi ngoài một mình Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn nhớ đến chân lý căn bản này / để đừng bao giờ quá bám víu vào của cải vật chất, nhưng biết hướng tâm hồn lên cùng Chúa / là nguồn hạnh phúc của hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con chỉ trở nên người Kitô hữu chân chính khi chúng con sống lời Chúa. Xin cho chúng con biết yêu mến và sống theo Lời Chúa dạy trong Kinh thánh, để nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc thật sự trong đời sống thường ngày. Chúng con cầu xin
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tất cả những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta xin trong Kinh lạy Cha đều nhằm đem đến cho chúng ta hạnh phúc đích thực. Vậy chúng ta hãy hướng lòng lên Cha trên trời và sốt sắng đọc lời kinh Chúa dạy.
VII. Giải tán
Hôm nay Chúa đã dạy chúng ta biết đâu là hạnh phúc thật và đâu là hạnh phúc giả trá chóng qua. Ước chi tuần này chúng ta sẽ khôn ngoan, biết tìm kiếm hạnh phúc chân thật vững bền.
Phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian TN 6-C73
Phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc…
“Bần cùng sinh đạo tặc.” Quả đúng như vậy, có một số người trở thành đạo tặc vì đời sống của họ quá bần cùng, như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều.” Như thế thì bần cùng, đói khát là tai hoạ cho con người và xã hội chứ đâu có mang lại hạnh phúc.
Thế mà Chúa Giê-su lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.” Tại sao?
Nếu đọc kỹ câu đầu của bài Tin mừng này (Lc 6,20), chúng ta thấy thánh sử Lu-ca viết như sau: Bấy giờ, “Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…”
Khi tuyên bố những lời này, Chúa Giê-su vừa ngước mắt nhìn các môn đệ vừa nói. Vậy thì đây là những lời Chúa Giê-su nói trực tiếp với các môn đệ. Các môn đệ là đối tượng của những lời chúc phúc này.
Tại sao?
Vì trước đây, trong số các môn đệ của Chúa Giê-su có người làm nghề chài lưới, có thuyền có ghe, có thu nhập hằng ngày ổn định, có người làm nghề thu thuế kiếm bộn bạc… Thế rồi, khi lên đường theo Chúa, các ngài đã bỏ hết thuyền bè, nhà cửa, công việc làm ăn… nên bây giờ các ngài trở thành những người nghèo khó… Nghèo khó vì từ bỏ mọi sự để đi loan báo Tin mừng như thế thì mới là người có phúc, chứ không phải bất cứ ai nghèo khó là có phúc.
Rồi Chúa Giê-su nói tiếp với các môn đệ:
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.”
Với nghề chài lưới trên biển hồ nhiều tôm cá hoặc nghề thu thuế như Lê-vi đã làm… các môn đệ chưa biết đói khát là gì. Vậy mà từ ngày theo Chúa Giê-su, lang bạt từ làng quê lên phố thị, từ bờ biển đến nơi hoang địa… các ngài phải chịu đói khát; thậm chí có ngày đi qua đồng lúa, các ông đã bứt những gié lúa vò xát trong tay rồi ăn để dằn cơn đói… Đói khát vì ra đi xây dựng Nước Trời như các môn đệ ắt phải được đền đáp và sẽ được thỏa chí toại lòng vì niềm vui tận hiến, vì hạnh phúc đời đời.
Và Chúa Giê-su tiếp lời với các môn đệ:
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc vì anh em sẽ được vui cười.”
Trước đây các môn đệ sống hạnh phúc với cha mẹ, vợ con trong mái ấm gia đình, nay theo Chúa là Đấng không có chỗ tựa đầu, lang bạt rày đây mai đó, có lần bị đuổi khéo ra khỏi khu dân cư (Mt 8,34), có lúc đi ngang qua vùng Sa-ma-ri-a bị dân làng tẩy chay không tiếp đón, rồi sau nầy các ngài bị bắt bớ, tù đày, bị giết hại… khiến các ngài phải khóc thầm... Khóc vì chịu khổ nạn vì Nước Trời như thế thì thật là diễm phúc và mai đây sẽ được vui cười.
Và điều phúc thứ tư:
“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Các môn đệ luôn kề vai sát cánh với Chúa Giê-su, đồng lao cộng khổ với Chúa và vì Ngài mà bị người đời “oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa”, cùng chịu khổ nạn với Chúa Giê-su, thì chắc chắn sẽ được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Chính vì thế mà Chúa Giê-su nói: “Anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta muốn được hưởng những mối phúc mà Ngài công bố thì phải chấp nhận “nghèo khó” vì Tin mừng, chịu “đói” vì chia sẻ cơm áo cho nhau, chịu buồn phiền “khóc lóc” vì đạo Chúa, chịu “oán ghét, khai trừ, sỉ vả” vì Nước Trời.
Nước Trời không phải là lô độc đắc dành cho người may mắn trong các cuộc xổ số. Phải trả giá cao mới đạt được Nước Trời như lời Chúa Giê-su phán: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được” (Mt 11,12).
Lạy Chúa Giê-su, Xin dạy chúng con nhớ rằng: Của cải đời này chỉ là phù du, mau tan biến đi như sương, như khói, chỉ có hạnh phúc thiên đàng mới vĩnh viễn thiên thu.
Xin giúp chúng con biết phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc… để phục vụ anh chị em chung quanh, nhờ đó chúng con đạt được những mối phúc mà Chúa công bố trong Tin mừng hôm nay.
Như dân Do thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm mới được đặt chân vào miền TN 6-C74
Như dân Do thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm mới được đặt chân vào miền đất hứa, chúng ta cũng là những người đang dấn bước. Cuộc đời là hành trình. Trần gian là sa mạc. Đất hứa là Nước trời. Đúng thế, mỗi ngày sống phải là một bước tiến tới niềm đất Chúa đã hứa ban là Nước trời, là niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Và như vậy, đối với chúng ta cuộc sống không phải là một sự phi lý đáng nôn mửa, hay buồn chán và tuyệt vọng, nhưng là một giai đoạn quan trọng để thanh luyện, để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho niềm hạnh phúc vĩnh hằng mai sau. Vì thế, chết không phải là hết, nhưng là thời điểm chúng ta được sinh cho cuộc sống đời đời, là khung cửa hẹp qua đó chúng ta được tiến vào nhà Cha.
Đó là niền tin tưởng và hy vọng của chúng ta. Người Kitô hữu không bi quan yếm thế, nhưng nhìn rõ và đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. Chính niềm tin tưởng và hy vọng vào cuộc sống mai sau đã thắp sáng những năm tháng hiện tại của chúng ta.
Thế nhưng, ai là người sẽ làm cho mơ ước của chúng ta trở thành sự thật, cho tin tưởng và hy vọng của chúng ta không tan theo mây khói? Ai là người sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc tuyệt vời ấy? Ai là người đáng cho chúng ta đặt trót niên tin tưởng và hy vọng?
Trước hết, có phải là chính bản thân chúng ta hay không?
Tục ngữ Tây phương đã bảo:
– Vouloir c’est pouvoir, muốn là được.
Hay như một nhân vật trong cuốn phim “Chiếc lều của chú Tom” đã nói:
– Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.
Tin vào mình là điều kiện cần thiết giúp chúng ta đạt tới thành công. Đứng trước một việc khó khăn, nếu chúng ta dứt khoát muốn lướt thắng, thì đã giải quyết được một nửa.
Tuy nhiên, sụ tự tin không phải là điều kiện ắt có và đủ để đem lại thành công và hạnh phúc. Kinh nghiệm cho chúng ta hay:
– Ước mơ thì rất nhiều mà thực tế lại chẳng được bao nhiêu.
Sở dĩ như vậy là vì cái khó bó cái khôn, lực bất tòng tâm, những ước mơ của chúng ta, nhất là ước mơ về hạnh phúc, và đặc biệt là hạnh phúc vĩnh cửu, vốn thường ở ngoài khả năng và tầm tay của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình bất lực đối với chính bản thân mình.
Con người chúng ta là một bí mật mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng hiểu nổi. Vui đấy rồi lại buồn đấy. Chúng ta cũng chẳng biết mình muốn gì và mình là người như thế nào? Hơn nữa, bản thân chúng ta giống như con ngựa chứng bất kham,chúng ta không thể điều khiển nổi mình nữa và nhiều lúc đã phải đầu hàng trước những cám dỗ, những thôi thúc của tội lỗi, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
– Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại làm.
Đằng khác, chúng ta còn bất lực đối với những hoàn cảnh, những sự việc xảy ra chung quanh chúng ta. Thực vậy, cho dù chúng ta đã làm lụng vất vả, những do thời tiết bất ổn, mưa không thuận, nắng không hòa, thành thử mùa màng vẫn thất thu như thường.
Sau cùng, nhiều lúc chúng ta cảm thấy bất lực trong việc tạo dưng hạnh phúc. Thực vậy, dù chúng ta đã cố gắng rất nhiều, thế mà cuộc đời vẫn chìm ngập trong khổ đau vì khổ đau vốn dĩ là một cái gì gắn liền với thân phận con người và trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm với của chúng ta như người xưa đã bảo:
– Đời có vui sao chẳng cười khì.
Bởi đó, bản thân chúng ta không phải là nơi để chúng ta đại niềm tin tưởng và hy vọng.
Thứ đến, có phải là những người sống chung quanh chúng ta hay không?
Người khác đối với chúng ta cũng là một bí mật khó có thể hiểu thấu, như tục ngữ đã bảo:
– Sông sâu còn có người dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
Hơn thế nữa, trong giao tiếp và liên hệ, chúng ta thấy người khác thường hay đóng kịch và giả dối đối với chúng ta và nếu không sáng suốt và cảnh giác, chúng ta rất dễ bị lừa gạt. Trước mặt họ ca tụng chúng ta, nhưng sau lưng họ lại chửi bới chúng ta hay toan tính những ý đồ mờ ám và thâm độc theo kiểu:
– Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
– Ngoài thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Nhiều khi chỉ vì những lợi lộc nhỏ nhen mà họ sẵn sẵn sàng bán đứng chúng ta hay nỡ dứt tình và phản bội chúng ta khiến chúng ta phải ngao ngán thốt lên:
– Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc, bạc như vôi.
– Bạc như dân, bất nhân như lính.
Cho dù họ là người quyền thế và thành thực yêu thương chúng ta chăng nữa, thì họ vẫn bất lực trong việc mưu tìm hạnh phúc cho chúng ta. Thực vậy, bản thân họ cũng phải cúi đầu chấp nhận đau khổ như một lá bài định mệnh và nhiều khi chính họ lại là nguyên nhân gây nên những đau khổ cho chúng ta. Biết bao nhiêu bậc cha mẹ đã phải cay đắng vì những đứa con mình đã mang nặng đẻ đau. Biết bao nhiêu người vợ đã phải bẽ bàng về sự phản bội của người chồng mà mình rất mực yêu thương. Và như thế, người khác cũng không phải là nơi để chúng ta đặt niềm tin tưởng và hy vọng.
Riêng với chúng ta, chỉ mình Thiên Chúa mới là nơi cho chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng và hy vọng, bởi vì Ngài là Đấng luôn yêu thương chúng ta, luôn mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc. Hơn thế nữa, Ngài còn là Đấng chân thật, không hề lừa dối chúng ta như lời Ngài đã phán:
– Ta là đường, là sự thật và là sự sống.
Tất cả những lời Ngài đã hứa, thì Ngài đã, đang và sẽ còn thực hiện cho chúng ta. Sau cùng, Ngài là Đấng quyền năng, chỉ mình Ngài mới có thể thực hiện được những điều Ngài muốn.
Chúa là phần sản nghiệp của chúng ta. Chính Ngài sẽ dẫn chúng ta tới đồng cỏ Nước trời. Hãy đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông nơi Ngài. Và Ngài sẽ trở thành niềm hy vọng thắp sáng cuộc đời chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, với tình yêu thương chân thành của một người Cha, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng con và với quyền năng của một vị Thiên Chúa tối cao, Chúa dư khả năng thực hiện bất cứ những gì chúng con kêu xin. Chính vì thế, chúng con luôn tin tưởng, cậy trông và hy vọng vào Chúa. Xin Chúa hãy nâng đỡ chúng con trên vạn nẻo đường đời, để nhờ đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng con luôn trung thành và gắn bó cùng Chúa.
Người ta thường so sánh hạnh phúc đích thực với chiếc áo lót của một người chăn chiên. Chuyện được TN 6-C75
Người ta thường so sánh hạnh phúc đích thực với chiếc áo lót của một người chăn chiên. Chuyện được kể như sau:
Một vị vua nọ có tất cả mọi sự, nhưng không bao giờ cảm thấy được hạnh phúc. Ngày kia có một người khuyên nhà vua hãy mặc cho kỳ được chiếc áo lót của người hạnh phúc nhất trần gian. Quân lính đã được sai đi khắp nơi để tìm cho bằng được con người ấy, họ đi săn lùng khắp nơi mà vẫn không tìm được người hạnh phúc ấy. Cuối cùng họ bắt gặp một người chăn chiên đang đứng giữa mưa gió mà vẫn ngân nga ca hát. Hẳn người này phải là con người hạnh phúc nhất trần gian. Nghĩ như thế nên họ mới xông đến lột áo người chăn chiên ra. Thế nhưng than ôi, người chăn chiên nghèo đến nỗi không có nổi một chiếc áo lót trên người.
Người chăn chiên nghèo trong câu chuyện trên đây phải chăng là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Bởi vì, chỉ nơi Ngài chúng ta mới thấy được “hạnh phúc đi đôi với nghèo khó”. Hơn nữa, chỉ có Chúa Giêsu mới thực sự là con người hạnh phúc nhất trên trần gian này. Là lời của Thiên Chúa nói với con người, Chúa Giêsu đã đạt đến sự thống nhất trọn vẹn giữa lời nói và cuộc sống. Chúa Giêsu chỉ rao giảng những gì Ngài đã sống và Ngài luôn sống đúng những gì Ngài rao giảng.
Rao giảng Tin mừng cho con người, Chúa Giêsu cũng chính là Tin mừng được loan báo cho con người. kêu gọi con người sống hạnh phúc, Chúa Giêsu hẳn phải là một con người hoàn toàn hạnh phúc. Thế nhưng, đâu là hạnh phúc đích thực mà Chúa Giêsu rao giảng cho chúng ta? Ngài đã sinh ra nghèo khó, lớn lên trong khó nghèo, sống nghèo và chết cũng nghèo. Không những Chúa Giêsu muốn chia sẻ đến tận cùng kếp sống con người,nhưng qua cuộc sống nghèo hèn ấy Ngài còn muốn nói với chúng ta rằng: Của cải đích thực của con người chính là Thiên Chúa. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu. Không những sống nghèo, Chúa Giêsu còn sống với những người nghèo hèn, Ngài ăn uống với những người nghèo hèn, ngồi đồng bàn với những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề.
Qua cuộc sống chia sẻ ấy, Chúa Giêsu hẳn muốn nói với chúng ta rằng: hạnh phúc đích thực của con người chính là sống cho Thiên Chúa qua tha nhân. Con người chỉ có thể tìm thấy được qua ý nghĩa của cuộc sống khi nó biết sống tình liên đới, khi nó biết chia sẻ với tha nhân. Cái đẹp trên Thập giá của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của cuộc sống cho tha nhân. Dưới con mắt của người đời thì cái chết ấy là một thất bại ê chề, nhưng với Chúa Giêsu thì cái chết đó đã biến thành nguồn ân phúc: “Phúc cho các ngươi khi người ta thù ghét, trục xuất, phỉ báng các ngươi và loại trừ các ngươi như những kẻ bất lương, nhưng phần thưởng các ngươi thật lớn ở trên trời”.
Một đời sống tiêu hao vì người khác, một cuộc đời sống trọn cho tha nhân, đó là tất cả những gì chúng ta có thể nói về cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu và Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa mới được nghe Chúa Giêsu công bố cũng chính là chương trình sống của Ngài.
Chương trình sống ấy Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta như chính Hiến Chương Nước Trời mà Ngài đã rao giảng. Hãy sống như Ngài, hãy hành động như Ngài, hãy cư xử như Ngài. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói ới chúng ta qua bản Hiến Chương Nước Trời của Ngài. Sống như Ngài tức là sống trọn vẹn cho tha nhân. Xét cho cùng thì nghèo khó không phải là sống trong cảnh bần cùng thiếu thốn. Tinh thần nghèo khó của Chúa Giêsu không hẳn đã biến cuộc sống của chúng ta thành một trại tế bần mà trái lại, Ngài kêu gọi con được ống xứng với phẩm giá của nó trong thể xác cũng như trong tinh thần nghèo khó đích thực mà Chúa Giêsu muốn rao giảng qua cuộc sống của Ngài, đó là sống tự do và trao ban trọn vẹn cho tha nhân. Lòng tham nào cũng là một thứ nô lệ đối với của cải trần thế, trái lại tự do đích thực chính lá thoát sự kềm tỏa của cải để có thể chia sẻ và rao ban đến tận cùng. Chúa Giêsu đã để lại khuôn vàng thước ngọc mà hánh Phaolô đã ghi lại như sau: “Cho thì có phúc hơn là nhận”.
Niềm hạnh phúc trao ban ấy Chúa Giêsu cũng muốn lập lại cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, Ngài tiếp tục lý tưởng khó nghèo của Ngài khi trao ban trọn vẹn cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, đó là lý tưởng của Ngài và lẽ sống của Ngài. Nhận lãnh sự sống của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để sống theo lý tưởng ấy. Và như Ngài đã hứa trong “Tám Mối Phúc Thật”, nếu chúng ta sống lý tưởng trao ban ấy chúng ta sẽ cảm nếm được niềm hạnh phúc đích thực ngay trên trần gian này.
Một Linh Mục quản xứ lấy làm tiếc, nói: “Chưa có điện, thì trông cho có điện. Có điện rồi, nhà TN 6-C76
Một Linh Mục quản xứ lấy làm tiếc, nói: “Chưa có điện, thì trông cho có điện. Có điện rồi, nhà thờ sáng lên rồi, thì trông cho có người đi lễ, vì ai nấy đều ở nhà xem ti vi- ti vi mới sắm, nhờ có điện. Không chỉ ở các thành phố, mà ngay ở các giáo xứ vùng quê hôm nay, cũng đã bắt đầu ít người đi lễ, đi đến nhà thờ, đọc kinh, cầu nguyện. Mỗi lễ sáng lễ tối có khi được năm bảy chục người, chỉ toàn là ông bà già…Có ông già than thở: “Ngày ấy nghèo khổ biết bao nhiêu, mà người đông như kiến tổ; chừ làm ra giàu ra có, nghe chuông đổ, ngủ khò”. “Hồi còn nghèo còn khổ, nửa củ khoai sùng cũng chia nhau, chừ ra giàu ra có, nhà ai cũng xây rào”. “Hồi còn nghèo còn khổ, không thấy họ cãi nhau, chừ ra giàu ra có, nghe chén đĩa lào xào”
Nghèo hay giàu, phúc hay họa, đồng ý là, tùy thuộc vào cách sử dụng của cải vật chất trần gian, nhưng thực tế nguy cơ nghiêng hẳn về sự giàu có. Vì sự giàu có có thể mua được tất cả thực tại trần gian, và khả năng mua được những giá trị vĩnh cửu cũng không kém, nhưng chỉ tiếc là, người ta có chấp nhận mua những thực tại chỉ thấy được bằng con mắt đức tin: lòng bác ái thật- lòng bác ái vì yêu người như mến Chúa, lòng bác ái vô vị lợi.
Chúa chúc phúc cho những người bây giờ đang nghèo, đang đói, đang đau khổ khóc lóc, đang bị sỉ vả, bị khinh khi xem thường…
Tôi không tìm cách để dành cái “hơn” cho người nghèo, vì Chúa đã nói là “phúc”. Mà cái phúc ấy, không dễ chấp nhận tí nào, nếu không nhìn vào cuộc đời của Chúa và của trần gian mà suy gẩm. Sinh trong máng chiên lừa, con ông Giuse thợ mộc mà giàu có gì đâu? Nhưng thật ra là một người giàu, một Thiên Chúa uy quyền, cao sang và thượng trí… Chính Ngài chấp nhận cuộc sống nghèo hèn, để từ thân phận nghèo hèn thấp bé ấy cho chúng ta biết con đường về với sự Giàu Có của Thiên Chúa, về với Thiên Chúa Giàu có. Nhìn vào những mảnh đời được cho là bất hạnh, nhưng ai tìm thấy được vẻ cao sang tuyệt vời trong họ. Một anh chạy xe ôm, nằm trên chính chiếc xe của mình, bên vỉa hè dưới chân khách sạn, ngủ bình an một giấc tới bình minh. Một người hành khất, dốc túi tiền ngày qua kiếm được, ngước lên tạ ơn Phật, tạ ơn Trời, lăn ra gầm cầu “hò kéo gỗ”. Mấy người ở nhà quê, sau một ngày đẫm bùn trên ruộng, về nhà, nghe những ngọn lúa đang cười trong đêm, tôi mừng, tạ ơn, ngủ”. Như thế, không hẳn là người nghèo không đau khổ đâu, nhưng “em đã quen đau khổ rồi, đã quen nợ nần rồi, đã quen bị khinh bỉ rồi, đã quen cay đắng cuộc đời rồi” và “đau khổ làm gia vị cuộc đời em thơm ngát”.
Vâng, những đau khổ của người nghèo là loại thuốc ướp tẩm xác cao cấp nhất, mà người giàu chưa chắc có được. Loại thuốc ướp tẩm thân xác Chúa Giêsu Tử nạn và Chúa Giêsu Phục Sinh. Ấy vậy, Chúa đã bảo mà:“Nước Thiên Chúa” sẽ thuộc về những người nghèo. Họ sẽ được no thỏa. Họ sẽ được vui cười. Họ sẽ được phần thưởng.
Hơn thế nữa, người nghèo của Thiên Chúa được nhắc nhiều trong kinh thánh, với ý nghĩa là người biết mình “hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa”: Lý trí, sự thông hiểu, tâm hồn và thân xác… tất cả cuộc sống con người là của Thiên Chúa ban cho, không có gì là của riêng mình, không có gì để khoe khoang tự phụ- kể cả sự giàu có. Vì thế “tinh thần nghèo khó” là hương hoa thiêng liêng của một tâm hồn, trong đó, “đức khiêm nhường” chiếm vị trí số một. Kế đến là lòng “tri ân”. Chỉ có người có tinh thần nghèo khó, mới xác tín được “tất cả là hồng ân” để mà “tri ân”.
Chúng ta cùng nhìn lại “sự nghèo khó” và “tinh thần nghèo khó” của chính mình, để chọn lựa cho mình một giá trị siêu việt nhất.
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã TN 6-C77
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.
Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.
Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.
Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.
Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.
Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.
Hiện nay, có những chiến sĩ đang đấu tranh cho hòa bình, cho tự do, cho chân lý, cho công bình TN 6-C78
Hiện nay, có những chiến sĩ đang đấu tranh cho hòa bình, cho tự do, cho chân lý, cho công bình, cho hạnh phúc của người khác. Lời Chúa trong Phúc Âm hôm nay xem ra có vẻ trái ngược với những ước mong của người đời. Để sống hạnh phúc, con người phải giàu có, phải đoàn kết yêu thương nhau. Đang khi đó, lời chúc phúc của Chúa Giêsu xem ra có vè lạc lõng, không hợp thời: Phúc cho các ngơi là những người nghèo khó! Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát! PHúc cho các ngươi là kẻ bây giờ khóc lóc! Phúc cho các ngươi là những kẻ bị bách hại vì tin vào Chúa…!
Nhưng suy nghĩ kỹ hơn, tôi thấy lời giảng dạy của Chúa hôm nay có một ý nghĩa rất sâu xa. Trước hết, những lời giảng dạy này chỉ cho ta con đường hy vọng và hạnh phúc chân thật. Vì như chúng ta biết sau những biến cố đau thương trong lịch sử, toàn dân Do Thái khát vọng một đấng cứu thế tới, giải thoát dân khỏi ách thống trị ngoại bang, dẫn dân tới thịnh vượng và vinh quang. Chúa Giêsu, đấng cứu thế đã đến; nhưng chương trình cứu chuộc của Ngài hoàn toàn khác biệt với những điều dân Do Thái mong đợi. Do đó, nếu những lời dạy trong Phúc Âm hôm nay có khó nghe đối với cử tọa, thì nó cũng đạt được mục đích lỗi kéo chúng ta khỏi những hy vọng hão huyền!
Lời Chúa luôn là ánh sáng. Là chân lý. Ai có tâm hồn nghèo khó, ắt sẽ không làm nô lệ tiền của. – Có tâm hồn đói khát cự công chính, chịu đau khổ, hiểu lầm vì muốn sống theo đức tin; bị bách hại và xỉ nhục vì danh Chúa…Đó là những con đường hẹp, những chặng đường thánh giá dẫn ta tới vinh quang Nước Trời. Đó là những chông gai, sỏi đá trên con đườnh dẫn tới vui mừng và hy vọng. Thật vậy, chỉ có hạnh phúc thật sự sau khi đã trải qua khó khăn đau khổ. Trước khi Chúa sống lại vinh quang, Chúa đã phải trải qua chặng đường thập giá đau thương.
Chuyện kể rằng có một nông dân nước Anh, đã vượt đồi băng đèo lội suối tới niềm đất xa xôi tìm kim cương. Người ta ta bảo những hạt kim cương thường lẫn trong những viên đá cuội nơi dòng suối. Người nông dân ngày nào cũng bới đào, tìm kiếm. Số viên đá cuội ông loại ra đã tới viên thứ 999.999. Chỉ còn 1 viên nữa tròn một triệu. Nhưng ông nản chí không nhặt nữa, vì nghĩ rằng: dầu có nhặt cũng vô ích. Người bạn đồng hành vói ông khuyên ông nên cố gắp một lần nữa, trước khi về nhà. Ông tìm bới dưới dòng suối được viên đá cuội. Viên đá này rất nặng. Càng lau chùi, viên đá càng trong sáng. Và ông đã khám phá ra đó là một khối kim cương. Ông đem bán khối kim cương ấy cho một tiệm kim hoàn ở Luân Đôn với giá 2.000.000 mỹ kim. Ông đã trở nên tỉ phú.
Người đời thường bảo “Không vào hang hàm sao bắt được cọp?” Không theo Chúa Giêsu trên con đường khổ giá làm sao có sống lại lại vinh quang.
Các thánh tông đồ, Thánh Phanxicô thành Assise, thánh Vincent de Paul, cha thánh Damien và Maximilien de Kolbe…Các ngài được Giáo Hội tôn kính và các ngài đã dám hy sinh mạng sống cho những kẻ ngèo khổ, xấu số.
Quốc vương Thổ nhĩ kỳ là Abdurahman III cai trị một vương quốc giàu có nhất thế giới trong suốt TN 6-C79
Quốc vương Thổ nhĩ kỳ là Abdurahman III cai trị một vương quốc giàu có nhất thế giới trong suốt 49 năm vào khoảng thế kỷ 10. Lợi tức của nhà vua lên tới 336 triệu mỹ kim. Nhà vua có 6321 bà vợ được tuyển chọn trong số những thiếu nữ sinh đẹp nhất của vương quốc và sinh được 618 đứa con. Tài sản của nhà vua trị giá khoàng 3 tỷ mỹ kim. Ấy thế mà sau khi chết người ta đọc thấy trong cuốn nhật ký của nhà vua một đoạn như sau: “Trong suốt cuộc đời dài và đầy danh vọng này, tôi đã đếm được những người tôi hoàn toàn hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có 14 ngày mà thôi”.
Qua câu chuyện này, chúng ta tự hỏi: Hạnh phúc là gì? Trước khi giải đáp vấn nạn này, chúng ta phải công nhận rằng: nói đến hạnh phúc là đề cập đến một vấn đề sống còn của con người vì đã là người đúng nghĩa thì không thể sống mà không tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Vì thế, cho dù có sử dụng phương tiện khác nhau bao nhiêu đi nữa thì mọi người đều nhắm tới cái đích duy nhất ấy, cho dù bất cứ cử động nhỏ nhặt nào của con người cũng không ngoài mục tiêu hướng tới cái đối tượng ấy. Vậy đã rõ hạnh phúc là động cơ thúc đẩy cong người hành động, là hy vọng quyến rũ con người cố gắng phấn đấu.
Thế những từ ngàn xưa cho đến ngày nay, đã có biết bao nhiêu thánh nhân, quân tử, hiền triết, bác học cố công tìm cách giải đáp cách thức để nhận ra đâu là hạnh phúc và làm thế nào để chiếm đoạt được nó. Nhưng rồi kết quả chẳng đến đâu vì không đáp ứng nỗi khát vọng thâm sâu của con người. Trước tình trạng nan giải đó, người thời nay, nhất là giới trẻ, muốn đả phá và chng đối lại tất cả với mục đích thoát khoải những ràng buộc của xã hội, những luật lệ tôn giáo để sống cho riêng mình. Và họ vẫn vô vọng.
Như thế, phải chăng hạnh phúc không có? Và phải chăng những thứ như tiền tài, danh vọng, lạc thú mà con người mơ ước theo đuổi chỉ là một thứ bọt trong bể khổ, một thứ bèo trong bến mê, một thứ ảo ảnh lừa dối? Vậy trước nỗi khát vọng vô bờ và sự bất lực của con người khi tìm kiếm hạnh phúc có ý nghĩa gì.
Điều đó chứng tỏ rằng từ xa xưa con người đã được hưởng một niềm hạnh phúc thực sự, nhưng vì lầm lỗi đã đánh mất nên bây giờ chỉ còn lại cái bóng mờ, trống rống của nó trong tâm hồn. Do đó, con người ngày nay ra sức lấp đầy cái lỗ hổng này bằng tất cả những gì họ tưởng tượng ra, nhưng vẫn thảm bại.
May mắn thay có một Đấng vừa là con người để kinh nghiệm, nhận thức được nỗi khát khao tìm kiếm hạnh phúc của con người, vừa là Thiên Chúa có đủ khả năng và giải phát giúp con người đạt được hạnh phúc đích thực. Đó là Đức Giêsu Kitô mà trong bài phúc âm hôm nay để long trọng công bố những nguyên tắc căn bản để giúp con người tìm ra hạnh phúc.
Nhưng qua những nguyên tắc mà Chúa công bố, nếu đặt dưới lăng kính của những quan niệm xưa nay của nhân loại, hình như chúng đảo ngược mọi giá trị, đánh đổ mọi pháo đài mà con người cố gắng xây dựng cho đời mình và là bản án cáo chung của mọi lý tưởng, thần tượng mà bấy lâu nay con người tin tưởng. Và cũng đừng lầm tưởng rằng tình trạng hạnh phúc mà Chúa công bố là khổ sở, nghèo đói, khờ khạo, nhu nhược…trái lại Chúa coi chúng ta như là những nguyên nhân làm cho con người thoái hóa, cần phải loại bỏ.
Vậy, theo lời Chúa dạy, thì hạnh phúc chính là tình trạng của con người dù biết mình nghèo, thiếu thốn, khổ đau mà vẫn cố gắng làm việc vui vẻ, trong sáng, chăm chỉ vì luôn tín thác vào sụ quan phóng nhân ái của Chúa; là tình trạng của người dù có gặp gian nan thử thách vẫn kiên trung luôn ý thức mình là cn Chúa. Nói khác đi, điều làm cho con người dễ dàng đón nhận hạnh phúc Thiên đàng, chính là sự tự do của người nghèo khó: nghĩa là khi chịu đựng các thăng trầm bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống, nghèo khó ý thức rằng chỉ có cuộc sống đời sau mới thỏa mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn con người. Và cả nhu ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì tình yêu Chúa thì Ngài sẽ đền bù cho họ niềm hoan lạc đích thực đời này lẫn đời sau.
Tóm lại, hạnh phúc không gì khác là luôn có Chúa ở cùng vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được nỗi khát vọng sâu xa của con người. Và khi cảm nhận được tình yêu lớn lao của Ngài đổ tràn trong tâm hồn thì mọi sự khác đêu trở nên vô nghĩa.
Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại TN 6-C80
Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Lời cáo buộc này xem ra được củng cố hơn khi người ta đọc những lời chúc phúc của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thật thế, trong quan niệm thông thường của con người, dù ở đâu và ở bất cứ thời đại nào: có tiền của là có tất cả. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại tuyên bố: Phúc cho những kẻ đang nghèo khó, phúc cho những kẻ đang đói khát, phúc cho những kẻ đang khóc lóc kêu van, phúc cho những kẻ đang bị oán ghét. Phải chăng Chúa Giêsu không là kẻ lừa bịp đang cười cợt trên những đau khổ của nhân loại? Phải chăng đó không là sứ điệp cổ võ sự bần cùng, đói khổ, lạc hậu, đi ngược với tiến bộ và phát triển của nhân loại?
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo. Đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ đang nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ đang bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Được lời Chúa soi sáng hướng dẫn, người Kitô hữu chúng ta phải là người luôn tìm kiếm và sống cho những giá trị vĩnh cửu. Giữa những vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, xin cho chúng ta luôn tìm kiếm Nước Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất, vì chúng ta biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
Có một nhóm học giả Nhật Bản thường gặp nhau để trao đổi về đủ mọi vấn đề. Trong những lần TN 6-C81
Có một nhóm học giả Nhật Bản thường gặp nhau để trao đổi về đủ mọi vấn đề. Trong những lần gặp gỡ đó, họ thường đem những món trà quí giá và đắt tiền nhất ra để thưởng thức. Khi đến lượt chuẩn bị cuộc gặp gỡ, người cao niên nhất trong nhóm đã biến tuần trà thành những nghi thức vô cùng trang trọng: ông sử dụng bình trà cổ xưa và quí giá nhất của gia đình, ông lựa lọc và nâng niu từng cọng trà trước khi cho vào bình. Mọi người khen lấy khen để mùi vị thơm ngon của thứ trà mà họ cho từng được thưởng thức. Ai cũng hỏi cho biết cách ướp và nghệ thuật của ông, người cao niên mỉm cười nói như sau:
– Trà mà quí vị cho là hảo hạng đây thật ra chỉ là thứ mà người làm công trong nông trại của tôi uống mỗi ngày. Những điều tuyệt diệu trong cuộc sống không đắt đỏ cũng không khó tìm.
Nỗi khao khát vô biên về hạnh phúc là một thách đố triền miên cho con người, hoặc là con người bằng lòng với hiện tại và tìm thấy hạnh phúc đích thực trong cái mình đang có, hoặc con người sẽ mải mê chạy theo ảo ảnh về của cải, danh vọng, quyền thế. Chúa Giêsu đến để đặt lại tất cả đúng bậc thang giá trị của chúng. Ngài nói rằng quyền bính không phải là để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Ngài nói rằng tiền của không phải là cứu cánh của cuộc đời, nhưng là phương tiện giúp con người sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Chúa Giêsu không đến để bần cùng hóa nhân loại. Sự giải phóng Ngài mang lại là sự giải phóng toàn diện. Con người được no cơm ấm áo, đó cũng chính là thể hiện của chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Tiền của, quyền bính chỉ là phương tiện giúp con người sống ơn gọi làm người và tìm được hạnh phúc ngay từ cuộc sống này.
Cùng đích của cuộc đời, gia nghiệp duy nhất mà con người phải tìm kiếm là chính Thiên Chúa. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với con người khi chọn cuộc sống khó nghèo. Ngài quả thực là mẫu mực của con người hạnh phúc đích thực. Sống nghèo khó, Chúa Giêsu hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa; sống nghèo khó, Ngài cũng hoàn toàn thuộc về tha nhân. Kết hiệp với Thiên Chúa và sống trọn cho tha nhân, đó là bí quyết Chúa Giêsu đã sống và Ngài muốn truyền lại cho con người. Bí quyết đó cũng là đón nhận và sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại. Bí quyết đó cũng là chấp nhận mọi bất trắc, thất bại, khổ đau với niềm tín thác và tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Có như thế, con người sẽ không còn nhọc công để tìm theo những ảo ảnh của hạnh phúc, nhưng sẽ hưởng nếm được hạnh phúc ngay trong từng biến cố và sinh hoạt của cuộc sống hằng ngày. Những điều tuyệt diệu trong đời sống quả thật không đắt tiền cũng không khó tìm là như thế đó.
“Đức Giêsu đã làm đảo lộn quan niệm về hạnh phúc cách khác thường”
Chẳng có gì là ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thân, tự giới thiệu và khẳng TN 6-C82
Chẳng có gì là ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thân, tự giới thiệu và khẳng định mình là “đường, sự thật là sự sống”. Ngay cả trước khi được gọi là Kitô hữu, những ai đã đặt lòng tin cậy nơi Đức Giêsu đều được gọi là “Người môn đệ của Đường”. Người là con đường tốt, là sự chọn lựa đúng cho ta, là đầu tư ngắn hạn và dài hạn rất tốt, vì thế mà thánh Phaolô mới nói rõ: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô, chỉ để mưu ích cho cuộc sống này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”.
Thực ra khi tuyên bố về các mối phúc, Đức Giêsu đã đảo ngược bậc thang truyền thống về các giá trị là đặc biệt làm đảo lộn cả quan niệm về hạnh phúc. Vậy mà thánh Luca vẫn không do dự giới thiệu các mối phúc ấy với các tín hữu ở thế kỷ đầu vốn đã phải gian nan vì bị ngờ vực, khinh bỉ và bách hại. Không chỉ coi đây là một lời hứa hay là quy tắc sống, phải chăng Luca còn muốn phác hoạ chân dung những con người bé mọn kia, họ đã nhờ Đức Kitô mà thay đổi hẳn ý nghĩa cuộc đời của họ? Kìa, những con người ấy cảm thấy hạnh phúc ngay trong những hoàn cảnh mà ta cho là không có mảy may khả năng nào để mà hạnh phúc và vui sướng được. Vậy mà đó lại là kinh nghiệm và chứng từ của những người nam cũng như nữ chịu để cho Thần Khí tác động và hướng dẫn, đặt niềm tin tưởng vào Người và đi theo con Đường của Người.
“Nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc”
Có những người đặt tất cả hy vọng và dùng hết sức lực của mình để đạt cho được tự do và hạnh phúc bao lâu còn sống ở đời này: họ chẳng hy vọng gì ở thế giới bên kia.
Người khác đã có được niềm tin chắc chắn rằng cuộc sống trần gian chỉ là điểm xuất phát, là một chuyến đi hay là một cuộc tập nghề và cuộc sống ấy sẽ được viên mãn ở thế giới bên kia, sau khi chết. Vì thế không nhất thiết phải khinh chê những vui sướng phàm trần. Họ coi những vui sướng trần gian kia vừa mong manh vừa giới hạn nên chỉ là hình ảnh mờ nhạt tượng trưng cho cái được hứa cho con người. Hầu hết các tôn giáo đều ấp ủ niềm xác tín này.
Ngay từ Cựu ước, Thiên Chúa đã được khẳng định là cội nguồn hạnh phúc đích thực và duy nhất: người công chính là kẻ “bước đi với Chúa”. Trong quan niệm cổ xưa của Kinh Thánh, hạnh phúc ấy được thực hiện ngay ở đời này khi Thiên Chúa ban ân huệ cho ngươi trung tín như được sống lâu, đông con nhiều cháu, khoẻ mạnh, giàu có… Thế nhưng vẫn có những người công chính phải khốn khổ, bị khinh chê, bị bách hại: những người đó, Thiên Chúa hứa cho họ một sự đền bù mà bản chất thế nào thì còn bị che khuất.
Chính nhờ giáo huấn của Đức Kitô mà ta được biết rõ bản chất của hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban cho con người, hạnh phúc của một tình yêu trọn vẹn, tuyệt đối, hoàn hảo: đó cũng chính là tình yêu hiệp nhất của Ba Ngôi trong tương quan với nhau.
Thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, như bị chi phối hoàn toàn bởi một thứ tiếng lòng thổn thức “Thiên Chúa là tình Yêu”, thường diễn tả và quảng diễn lời mời gọi này của Thiên Chúa gởi đến cho con người: “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa là Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống tình yêu cốt ở điều này không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống đời đời, và sự sống này ở trong Con của Người”.
Vậy con đường mà Người con ấy là Đức Giêsu Kitô đề nghị cho con người để đạt được sự sống và tình yêu sung mãn (sự sống và tình yêu luôn liên kết với nhau) được diễn tả đặc biệt trong đoạn Phúc âm nổi tiếng thường được biết dưới cái tên là Bài Giảng Trên Núi hay đúng hơn, là bài giảng về Các Mối Phúc Thật (phúc ở đây là hạnh phúc thật).
Thực ra, người ta có thể hiểu các mối phúc mà các Phúc âm Mátthêu (5,3-11) và Luca (6,20tt) trình bày, là phần dẫn nhập vào luân lý Kitô giáo, một nền luân lý chủ trương hạnh phúc là vì Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, ngoài ra các mối phúc vừa đưa ra một lời hứa, vừa là con đường đưa đến hạnh phúc.
Lời hứa ban hạnh phúc bắt đầu được thực hiện ngay từ hôm nay, vì rằng thứ hạnh phúc Chúa ban cho con người đây, tiên vàn không phải là kết quả ở sức riêng của con người, nhưng là sự cởi mở đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ mà Chúa ban cho hết thảy mỗi người là được hiệp thông sự sống với Người. Sống luân lý theo Kitô giáo là đáp lại ân sủng của Chúa một cách tự do tự nguyện.
Con đường hạnh phúc là một lược đồ gợi ra những thái độ nội tâm phải sống (tâm hồn nghèo khó, dợn sơ, tin tưởng), những cách xứ sự đối với tha nhân (lòng thương xót, ý muốn hoà bình), những hoàn cảnh khó khăn phải đối phó (những thử thách về tâm hồn và vật chất, những sự bắt bớ). Tất cả những điều này đều hoà hợp chặt chẽ trong bản thân Đức Giêsu, Đấng được coi như thực hiện trọn vẹn nơi mình khát vọng hạnh phúc. Chính Người đã muốn sống cách hoàn hảo tinh thần của Mối Phúc trong cuộc sống của mình và đến cả trong cái chết của Người nữa.
Nếu như các mối phúc dẫn nhập vào một luân lý chủ trương hạnh phúc, thì không phải vì luân lý ấy có những lời khuyên thực hành rõ rệt, hoặc đòi hỏi phải tự mình cố gắng mới được nhưng luân lý ấy chỉ muốn đưa ra cho người ta một ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, ân huệ được hiệp thông trong sự sống và hoan lạc với Người. Ân huệ này, người ta sẽ bắt đầu tiếp nhận bằng cách ngày qua ngày sống hai giới luật về tình yêu của Chúa là yêu Chúa và yêu người. Giống như con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu đã khởi sự và đi trước vậy.
Với người tín hữu, hãy hành động như Thiên Chúa, luôn sáng tạo và có sáng kiến như Người, biết hiến thân như Đức Kitô, đó là suối nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc.
Deborab là nữ tài tử chính trong cuốn phim “Quo vadis”, nói về cuộc bắt bớ các Kitô hữu tại TN 6-C83
Deborab là nữ tài tử chính trong cuốn phim “Quo vadis”, nói về cuộc bắt bớ các Kitô hữu tại Rôma, dưới thời bạo vương Néron. Sau khi đóng xong một cảnh nguy hiểm, một phóng viên đã hỏi cô:
– Cô có cảm thấy sợ hãi khi bày sư tử xông vào ở đấu trường hay không?
Cô trả lời:
– Không sợ chút nào cả, bởi vì tôi đã đọc trước chuyện phim và biết chắc rằng tôi sẽ được cứu thoát.
Niềm tin cô đặt vào những người bảo vệ cô là một hình ảnh sống động cho niềm tin đặt nơi Chúa của những người nghèo khó trong Kinh Thánh. Vậy thì những người nghèo khó là ai mà lại được Ngài chúc phúc?
Bình thường chúng ta hiểu nghèo khó là túng thiếu, không có của cải vật chất, lại không phải là điều tốt lành, mà còn là một điều xấu xa, chúng ta có bổn phận phải tiêu diệt khỏi cuộc sống của mình.
Chúa Giêsu không bao giờ có ý nói rằng sự thiếu thốn vật chất là đáng được chúc phúc. Ngài không bao giờ tán đồng sự khốn khổ trong những dãy nhà ổ chuột, tồi tàn.
Theo tiếng Do Thái thì nghèo túng trước hết là thiếu thốn của cải vật chất. Nhưng nó không dừng lại ở đó, mà còn phải tiến xa hơn nữa. Vì không có của cải vật chất, nên từ ngữ này cũng ám chỉ những người không có quyền lực và ảnh hưởng, hay nói cách khác họ là những kẻ bơ vơ, cô thân cô thế. Và từ chỗ bơ vơ lạc lõng, họ thường bị áp bức và bóc lột. Và cuối cùng, đám người trên vì không có của cải, bơ vơ và bị bóc lột, nên một số đã đặt trọn niềm tín thác vào Chúa.
Thế là từ ngữ này cuối cùng được xử dụng, để chỉ những người trông cậy nơi Chúa. Và đây mới chính là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn ám chỉ trong bài giảng trên núi khi Ngài nói:
– Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó vì Nước Trời là của các ngươi.
Người nghèo khó ở đây chính là những người ý thức rằng họ không thể tìm được hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải vật chất đời này. Và từ đó, họ sẽ tìm kiếm hạnh phúc chỉ ở nơi Chúa. Với họ, Chúa là tất cả, còn của cải vật chất chả là gì hết. Theo Ngài, những người này mới thực sự là kẻ được chúc phúc.
Như thế, phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, phải được hiểu như sau: Phúc cho các ngươi là những kẻ ý thức được rằng không thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải trần gian, nhưng bằng cách đặt trọn niềm phó thác nơi Chúa.
Đây cũng là đề tài được Chúa nói đến rất nhiều trong Phúc âm:
– Ai trong các ngươi nhờ âu lo mà có thể kéo dài thêm cuộc sống được ít lâu? Vậy nếu các ngươi chẳng thể thay đổi được những việc nhỏ bé thì làm sao các ngươi có thể lo liệu được những việc khác. Tiên vàn, các ngươi hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, còn những thứ khác sẽ được ban thêm cho các ngươi. Vì của cải các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi cũng sẽ ở đó.
Hãy trao phó dĩ vãng cho lòng Chúa xót thương để Ngài tha thứ. Hãy trao phó hiện tại cho tình yêu của Chúa để Ngài chăm sóc và cũng hãy trao phó tương lai cho việc quan phòng của Chúa để Ngài định liệu.
Khi Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Giêsu: “Kìa là Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian TN 6-C84
Khi Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Giêsu: “Kìa là Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”, Anrê và một môn đệ khác liền bỏ Gioan, chạy đến với Chúa Giêsu và thưa: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Chúa trả lời: hãy đến mà xem, và họ đã đến ở với Ngài suốt ngày hôm đó.” Ngày hôm đó họ đã hỏi Ngài những gì, và Chúa đã nói những gì với họ? Phúc Âmkhông hề nói gì cả. Nhưng phúc Âm lại nói đến hậu quả của cuộc gặp gỡ trong ngày hôm đó: Sau cuộc gặp gỡ ấy, Anrê gặp em là Phêrô liền nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”.
Việc gặp Chúa và ở với Chúa đã đưa các ông đến một thái độ dứt khoát:kể từ đó các ông đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, sống nghèo khó như Thầy. Thế là chúng ta đã tìm ra được lý do thỏa đáng cho Tám mối Phúc: Muốn sống cách triệt để những đòi hỏi của Phúc Âm, muốn cho Tám mối Phúc trở thành sự thật trong cuộc sống thì phải gặp Chúa và ở với Chúa như các Tông Đồ.
Kinh nghiệm tông đồ mục vụ của hơn 33 năm linh mục đã cho tôi có dịp tiếp xúc với nhiều kitô hữu sống đời hôn nhân, nhưng sống tinh thần Tám mối Phúc một cách rất quảng đại. Vì Phúc Âm không dành riêng cho ai cả, nhưng là dành cho tất cả mọi Kitô hữu. Tinh thần nghèo khó, lòng không dính bén của cải trần gian: “Ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”, ngươi kitô hữu giữa đời vẫn phải sống và sống được tinh thần nghèo khó, không dính bén đó, với điều kiện là người kitô hữu gặp được Chúa và nghe Chúa nói trong Phúc Âm cũng như siêng năng ở với Chúa trong Bí Tích Thánh Thể.
Có những người, biết tính toán làm ăn, trở nên giàu có . Tuy giàu có, nhưng vẫn cố gắng đem Phúc Am vào đời sống; cố gắng sống những đòi hỏi của Phúc Âm, lòng không dính bén hay đam mê của cải trần gian thì họ đâu có bị chúc dữ. Trái lại có những người nghèo đói thực sự, nhưng lòng mải mê của cải vật chất mà không nhớ gì đến bổn phận làm con Chúa, sống bất lương; tuy là nghèo thật đấy, nhưng làm sao mà có thể được chúc phúc?
Đám đông người kitô hữu hôm nay đến nhà thờ cũng giống như đám đông người Do thái ngày xưa chạy theo nghe Chúa giảng, nghe xong rồi ra về, nhưng mấy ai nghe và đi theo Chúa; mấy ai nghe và cố gắng sống những lời của Chúa? Người đạo đức thật là người nghe Lời Chúa và đưa lời Chúa vào cuộc sống.
Một cha sở nọ vừa giảng về nước Trời. Sau thánh lễ, một giáo dân đến hỏi ngài:
– Cha quên nói cho chúng con biết phải tìm nước Trời ở đâu. Vị linh mục trả lời:
– Ồ! ở gần lắm, rất dễ. Tôi biết có một bệnh nhân rất nghèo đang sống với đứa con của bà ta ở cuối đường nhà thờ. Ông hãy đến thăm bà ta với một ít tiền và một ít thức ăn và nói với bà ta: ” Đây là những gì tôi mang đến cho bà nhân danh Đức Kitô Chuá chúng ta “. Và ông nói vài lời an ủi bà trong cơn đau đớn bệnh hoạn, thì ông sẽ thấy nước Trời. Nếu ông không thấy thì tôi sẽ hoàn trả lại số tiền chi phí lại cho ông. Người kia làm những gì vị linh mục nói. Sáng hôm sau, ông đến gặp cha sở, nét mặt vui tươi, và nói: “Thưa cha, đúng thế thật! Con đã thấy Nước Trời và con đã ở đó nửa tiếng đồng hồ.”
---------------------------------
TN 6-C85: Những Hạnh Phúc Bất Tiện – GF
Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ rồi nói: “Phúc cho anh em những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, Vì anh em sẽ được vui cười. (Lc. 6, 20-21)
Với lý trí chúng ta rất khó hiểu về các mối hạnh phúc này. Lý trí đành chịu thua. Chúng đả đảo TN 6-C85
Với lý trí chúng ta rất khó hiểu về các mối hạnh phúc này. Lý trí đành chịu thua. Chúng đả đảo lý luận con người. Chúng làm ta phát điên. Nhưng chúng lại làm ta kinh ngạc và chúng ta không dám từ bỏ chúng vì nghĩ đến những bao nhiêu quả phúc chúng đã sinh ra qua những thế hệ. Những hạnh phúc theo Thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu đều gây kinh ngạc, tuy hai Thánh có viết khác nhau, nhưng cùng một mục đích là hạnh phúc nước trời. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó, đến thái độ con tim. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến nghèo khó thật sự, nghèo khó của giai cấp xã hội chẳng có gì hết trơn hết trọi, giai cấp xã hội nghèo khó này đang qui tụ lại thành tín đồ của Tin Mừng Đức Giêsu. Thánh Mát-thêu kêu mời từ bỏ bên trong. Thánh Lu-ca kêu gọi cải tạo cơ cấu xã hội để giảm bớt những khổ đau trong xã hội.
Chính trong thảm trạng cụ thể của lịch sử mà Đức Kitô nói: “ Các bạn là những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc, bị khinh bỉ, ghen ghét, bị bắt bớ, bị nhục nhã, phúc cho các bạn. Vì nếu bây giờ các bạn chịu được như thế, ngày kia tất cả sẽ đổi lại, các bạn sẽ giầu có, no nê, vui cười, được mến chuộng trong nước Thiên Chúa”.
Có thật không hay trò đùa? Đức Kitô nói thế nào? có phải Ngài nói dỡn để cho những kẻ khốn khổ thể xác, tình cảm, tinh thần được vui chút ư? có phải Ngài là chú hề đã nói đến sự đền bù ở tương lai mơ hồ giả định ư? có phải chỉ là giấc mơ hạnh phúc có thể giúp cho người ta chịu khổ bây giờ để đè nén cho nguôi đi những đau đớn và uất ức chăng? hiểu sai lầm các mối phúc thật, như thế là độc ác và vô liêm sỉ. Đức Kitô không bao giờ phong thần đau khổ và bất hạnh. Người không ngừng làm giảm bớt nỗi đau khổ của con người suôt đời Ngài đã cứu chữa, an ủi những bệnh nhân, tật nguyền, nghèo khổ và tha thứ cho những tội nhân, giải phóng những kẻ bị ma quỷ xiềng xích. Ngài muốn chúng ta hiểu và chấp nhận thập giá như Ngài. Vì mến Chúa và yêu người. Lúc đó thập giá trở nên lời hứa thực hiện ơn cứu độ. Như vậy khác xa những thứ mỵ dân!
Tin Mừng hôm nay nói về hạnh phúc. Trong khi Thánh Mátthêô ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa TN 6-C86
Tin Mừng hôm nay nói về hạnh phúc. Trong khi Thánh Mátthêô ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi lại có 4 lời và điều đáng chúng ta lưu ý là ngài còn kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những người bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
Vâng, hạnh phúc là mối bận tâm sâu thẳm nhất của con người. Nhưng làm sao để có hạnh phúc thì điều đó không phải dễ trả lời.
VuaAbder Rahman đệ tam của nước Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:
– Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.
Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!
Vậy thì hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do Thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại Đền thờ đức bà ở Paris, ngài nói:
– Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp… Ôi lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy bây giờ ở đâu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng”.
Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa”.
Đây là tâm sự của một người đã cố gắng sống như Chúa: “Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và yêu thương vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn thân phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn lao cho con.
Lạy Chúa Giêsu, Đọc trong Tin Mừng, chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui của người được lành bệnh. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu, chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con. Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen. (Rabboni)
---------------------------------
TN 6-C87: PHÚC CHO ANH EM LÀ NHỮNG KẺ NGHÈO KHÓ
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN C
Gr 17,5-8 ; 1 Cr 15,12.16-20 ; Lc 6,17.20-26
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 6,17.20-26
(17) Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông. Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đon đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. (20) Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. (21) Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. (22) Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. (23) Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa. Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các Ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế. (24) Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. (25) Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. (26) Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.
1. LỜI CHÚA: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ TƯƠNG ĐỐI CỦA TIỀN BẠC:
Một cuộc khảo sát do Đại Học PO-LY-TECH-NIC ở Hong Kong thực hiện phỏng vấn 2,000 người giúp việc Philippines ở Hong Kong và 300 ông bà chủ của họ. Kết quả là 92% người giúp việc Phi cảm thấy “hạnh phúc” hơn các ông bà chủ của họ.
- Tuy nhiên, khi hỏi nếu được hoán đổi vị trí xã hội để trở thành ông bà chủ, thì 100% các chị em ô-sin đều sẵn sàng hoán đổi, dù họ biết rất rõ là các người chủ của họ hàng ngày phải lo lắng đối phó với bao điều phức tạp như: Bị căng thẳng do áp lực của công việc kinh doanh, lúc nào cũng lo xem chỉ số chứng khoán lên xuống, nên không có giờ vui chơi giải trí hay giao tiếp với người thân, luôn phải suy nghĩ để cải tiến kỹ thuật giúp công ty tồn tại và phát triển...
- Ngược lại, khi hỏi các ông bà chủ có muốn hoán đổi vị trí để trở thành ô-sin không, thì 100% đều dứt khoát trả lời “không bao giờ”, dù trước đó họ vừa công nhận là những người giúp việc đang sống “hạnh phúc” hơn họ nhiều.
Như vậy tiền bạc tuy có giá trị vì là thành quả của tài trí khôn ngoan và lao động chăm chỉ. Nhưng giá trị của tiền bạc cũng chỉ là tương đối, dễ bị tiêu tan và không phải lúc nào cũng đem lại hạnh phúc… như tựa đề một cuốn phim: “Người giàu cũng khóc !”. Chính thái độ đối với tiền bạc mới là nguyên nhân làm cho người ta được hạnh phúc hay bị bất hạnh. Người nghèo tiền bạc vẫn có thể hạnh phúc nếu biết quan tâm chia sẻ cho tha nhân những gì mình đang có. Và người giàu cũng có thể bị bất hạnh nếu coi đồng tiền là ông chủ và tìm mọi cách để sở hữu nó càng nhiều càng tốt. Chính khi biết quên mình để lo tìm hạnh phúc cho tha nhân bằng việc chia cơm xẻ áo cho những người nghèo ở bên cạnh như lời Chúa dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).
Một ông vua kia có đủ mọi thứ của cải trên đời: Nào là cung điện nguy nga tráng lệ, vàng bạc chất đầy kho, ăn uống no say với đủ thứ cao lương mỹ vị, lại có cả một đoàn hầu thiếp mỹ nữ phục vụ ngày đêm... Thế mà nhà vua vẫn không cảm thấy được hạnh phúc. Vua ngày một bị buồn phiền không thiết đến việc ăn uống đến bị phát bệnh. Các thày thuốc giỏi trong triều đình ngày đêm chữa trị cho nhà vua nhưng tất cả đều bó tay. Cuối cùng một vị thần y đã được phát hiện và được cấp thời triệu vời vào hoàng cung chũa bệnh cho nhà vua. Sau khi thăm mạch, vị danh y cho biết Đức vua chỉ bị tâm bệnh, không cần dùng thuốc, mà chỉ cần mặc được chiếc quần lót của người nào thực sự hạnh phúc là bệnh sẽ lập tức khỏi ngay. Một đoàn thái y được sai đi khắp nơi để tìm kiếm con người hạnh phúc để lấy chiếc quần lót mang về trị bệnh cho nhà vua. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp nơi nhưng đoàn vẫn không sao tìm ra được người nào thực sự hạnh phúc, nên viên quan trưởng đoàn đành quyết định quay về triều chịu tội.
Một hôm khi đi ngang qua một cánh đồng cỏ thì đột nhiên đoàn thái y nghe thấy có tiếng ca hát rất hồn nhiên vui vẻ. Lần theo tiếng hát thì đoàn thái y gặp một gã chăn chiên nằm dưới gốc cây đa và đang nghêu ngao ca hát. Khi được hỏi, gã chăn chiên cho biết dù luôn sống nghèo khó, nhưng lúc nào gã cũng thấy hạnh phúc. Đoàn người liền vui mừng hè nhau trói gã lại, lột chiếc áo khoác cũ kỹ gã đang mặc trên người để tìm lấy chiếc quần lót đem về cho nhà vua chữa bệnh. Thế nhưng thật bất ngờ: Gã chăn chiên này lại nghèo đến nỗi ngoài chiếc áo khoác sờn rách đang mặc, trên người gã chẳng còn bất kỳ thứ quần áo nào ngay cả một chiếc quần lót !
Nhiều người nghĩ rằng, chỉ những người giàu sở hữu nhiều của cải mới được hạnh phúc. Vì thế, họ không thỏa mãn với số tài sản đang có, và luôn tìm mọi cách để của cải ngày một gia tăng. Đang khi thực ra hạnh phúc không hệ tại sở hữu nhiều tiền bạc của cải mà bắt nguồn từ sự bình an nội tâm như lời Chúa dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời sẽ là của họ” (Mt 5,3).
3) KHI TIỀN VÀO NHÀ THÌ CHÚA ĐI RA:
Có một đôi vợ chồng tá điền kia làm công cho một ông lãnh chúa giàu có. Hai vợ chồng tuy nghèo nhưng rất có lòng đạo đức: Ngày nào cũng vậy, cả hai đều thức giấc khi gà vừa gáy sáng và dâng giây phút đầu ngày tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa. Trong ngày dù phải chịu vất vả làm việc nắng nôi, họ cũng không quên hát những bài thánh ca quen thuộc. Trước và sau bữa ăn đạm bạc, cả hai đều có những lời cầu nguyện sốt sắng. Ngày nào họ cũng đọc kinh tối: ăn năn sám hối tội lỗi và đọc 50 kinh Mân côi dâng kính Đức Mẹ rồi phó thác hồn xác cho Chúa trước khi nghỉ đêm. Tiếng lành về lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền đã đến tai ông lãnh chúa. Ông ta quyết định thử để biết nếu đôi vợ chồng này giàu lên thì họ có còn giữ được lòng đạo đức như hiện tại hay không ?
Một hôm chờ lúc đêm khuya ông lãnh chúa sai đầy tớ bí mật mang một hòm tiền đựng 100 đồng vàng đến để trước cửa nhà của đôi vợ chồng tá điền rồi quan sát động tĩnh. Hôm ấy khi nghe tiếng gà gáy sáng, theo lệ thường hai vợ chồng bác nông dân liền thức dậy đọc kinh râm ran rồi ăn sáng qua loa trước khi ra đồng làm việc. Chợt anh chồng phát hiện ra một chiếc hòm rất đẹp nằm ngay trước cửa nhà. Anh liền gọi vợ ra khiêng vào nhà. Cả hai rất đỗi ngạc nhiên khi mở hòm ra đếm được tới 100 đồng tiền vàng, một tài sản lớn lao mà không bao giờ hai người dám mơ ước. Thế là họ không đi làm như mọi khi mà ở nhà bàn nhau cách cất giấu hòm tiền vàng. Họ hết đào góc nhà lên chôn hòm tiền vàng xuống, rồi lại moi lên mang cất giấu chỗ khác trong nhà vì không yên tâm. Buổi trưa hôm ấy họ không cảm thấy đói và bỏ ăn luôn cả bữa chiều. Đến tối họ cũng không còn đọc kinh râm ran như mọi khi và lúc nào cũng thắc mắc hòm tiền kia của ai và lý do tại sao xuất hiện trước cửa nhà mình. Ba ngày sau, do ăn uống thất thường và tâm trạng quá lo lắng, nên sức khỏe suy kiệt và cả hai vợ chồng đều nằm liệt giường với chiếc hòm tiền được cất giấu ngay dưới gầm giường.
Tất cả thái độ và cách ứng xử của đôi vợ chồng đều được gia nhân báo cáo cho ông lãnh chúa nên ba ngày sau, ông liền đến nhà đôi vợ chồng tá điền thăm hỏi và báo tin nhà ông bị trộm mất một hòm tiền vàng. Lúc đầu cả hai vợ chồng đều chối, nhưng một phần vì sợ bị đi tù và phần khác biết không thể tiếp tục dấu được mãi, nên hai vợ chồng đành phải thành thật khai báo đã cất giữ hòm tiền vàng ra sao và xin được hoàn lại chủ cũ để tránh sự tù tội. Từ ngày đó, do không còn lo lắng về tiền của bất minh nên hai vợ chồng bác nông dân đã dần dần bình tâm trở lại và tiếp tục thói quen cầu nguyện chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa như trước. Từ nay họ bằng lòng với hòan cảnh hiện tại và đã rút ra bài học này: “Khi tiền vào nhà thì Chúa đi ra!”.
3. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta phải làm gì để góp phần xóa đói giảm nghèo, thăng tiến và phát triển con người ngay từ trong gia đình ra đến môi trường xã hội ta đang sống ?
4. SUY NIỆM:
1) Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc: Cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ sự giàu sang phú quý, có danh thơm tiếng tốt và quyền cao chức trọng... Thế nhưng Đức Giê-su lại chúc phúc cho những kẻ nghèo khó! Thế nhưng Người không đề cao sự bần cùng, vì “bần cùng sinh đạo tặc!”.
2) Đức Giê-su đã thực hiện các mối phúc: Người đã làm nghề thợ mộc vất vả để kiếm sống; Người đã bị rơi vào vảnh đói khát sau khi ăn chay 40 ngày. Người đã nhỏ lệ khóc thương bạn thân là anh La-da-rô mới chết; Trong cuộc khổ nạn, Người chấp nhận mọi đau khổ, xỉ nhục, đòn vọt và chịu đóng đinh chân tay vào thập giá... Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Người vẫn luôn hạnh phúc vì đã bỏ đi ý riêng để vâng theo thánh ý Chúa Cha...
3) Đức Giê-su đến để xóa bỏ các đau khổ bất công: nhân loại đang giàu có đã trở nên nghèo khó, đang sung sướng hạnh phúc lại phải chịu đau khổ bệnh tật và còn phải chết là do tội lỗi đã phạm, bắt đầu từ tội tổ tông truyền và sau đó là tội của tất cả mọi người. Đức Giê-su đến để chia sẻ thân phận nghèo khó ấy để mở ra con đường cứu độ giúp loài người chúng ta lại được ơn nghĩa với Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã hóa nên nghèo khó vì anh em, để lấy sự nghèo khó của mình mà làm cho anh em nên giàu có” (x. 2 Cr 8,9). Người đến ban ơn cứu độ bằng việc: xua trừ ma quỷ, tha thứ tội nhân, mở mắt người mù, mở tai kẻ điếc, cho kẻ què được đi, người câm nói được, phục sinh kẻ chết, mở xiềng xích cho các tù nhân và công bố Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (x Lc 4,18-21).
4) Chúng ta phải làm gì ? Hôm nay Đức Giê-su muốn các tín hữu chúng ta tiếp tục sứ mệnh cứu độ bằng cách thay Người thăm viếng chia sẻ tiền bạc cho những bệnh nhân nghèo khó tại các bệnh viện, những trẻ em đường phố ... Người muốn chúng ta cộng tác với những người thiện chí để xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ các tệ nạn xã hội như: mê tín, mù chữ, sì-ke ma túy, đĩ điếm..., tạo công ăn việc làm cho những người thất nghiệp, sản xuất nhiều của cải phục vụ xã hội... Người muốn chúng ta sống có nhân cách: “Đói cho sạch, rách cho thơm”.
Sống trên đời giầu và nghèo là hai thái cực, hai giai cấp luôn đối chọi nhau.Tin Mừng của thánh TN 6-C88
Sống trên đời giầu và nghèo là hai thái cực, hai giai cấp luôn đối chọi nhau.Tin Mừng của thánh luca hôm nay cho chunh1 ta hiểu thế nào là lời chúc, thế nào là lời nguyền rủa của Chúa. Hạnh phúc mà con người muốn đạt được ở trần gian này, chắc chắn không phải là cái gì mau qua, chóng tàn mà phải là sự bền lâu, vĩnh viễn..Tin Mừng mô tả các mối phúc để mời gọi người tín hữu chọn lựa.
Tin Mừng của thánh Luca hôm nay đưa ra bốn lời chúc phúc của Chúa Giêsu cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị khử trừ, bị sỉ vả và bốn lời nguyền rủa, chúc dữ cho những người giầu có ,no phỉ,vui cười, được nhiều người ở đời ca tụng, tán dương. Đây là những điều nghịch lý, phản đề, đối chọi,mời gọi người môn đệ Chúa phải biết phân định, chọn lựa vv…
Điều Chúa muốn hướng chúng ta và mọi người về những người xấu số, khổ cực, đói nghèo, những kẻ thấp cổ bé họng , đồng thời Ngài đem lại cho họ niềm hy vọng.Thực tế, Chúa không lên án những người giầu có vì họ có lắm tiền, nhiều của, Chúa không bần cùng hóa xã hội, nhưng Chúa chỉ lên án những người giầu có khi họ có tiền của mà không biết chia sẻ, dùng tiền của vung vít, bừa bãi mà không nghĩ đến những người nghèo, những người cơ cực trong xã hội. Chúa chỉ lên án người giầu khi họ dùng tiền, tài sản như vật cản đường không cho người khác đến với Chúa, và vào Nước Trời. Tiền bạc, của cải, tài sản tự nó không phải những gì xấu xa, tội lỗi. Cách sử dụng tiên của sao cho phù hợp mới là điều quan trọng. Tiền của, vật chất có thể được dùng vò việc tốt và việc xấu. Điều quan trọng là biết chia sẻ và trao ban. Anh thanh niên giầu có trong Tin mừng là một điển hình cụ thể. Anh có thể thao Chúa, nhưng với điều kiện duy nhất là đừng bám víu, đừng ham của cải nữa mà về bán hết tài sản, phân chia cho những người nghèo khó và đi theo Đức Giêsu. Tự bản chất, giầu không phải là xấu.Nghèo cũng không phải là nhân đức.
Khốn cho người giầu có khi họ chỉ bo bo giữ của cho riêng mình, không biết xót thương, chia sẻ, trao ban. Họ thu tích của cải, tiền bạc vào kho, rồi đóng kín kho không biết mở ra để giúp người nghèo, giúp những công việc chung vv…Hạnh phúc đích thật là con người biết yêu thương, chia sẻ, quảng đại cho đi mà không đòi lại.
Vâng, người ta sinh ra ở đời là để được sống hạnh phúc. Cả cuộc sống trần gian của con người là tìm kiếm hạnh phúc. Con người có thể ở giữa cái họa và cái phúc. Nhưng họa là khi con người chỉ bo bo, nông cạn tìm điều phúc ngắn hạn, những thú vui mau qua ở trần gin. Hạnh phúc đích thực là chính Chúa mà con người phải tìm kiếm. Lúc con người đặt Chúa ưu tiên trong cuộc sống, lắng nghe tiếng Người và phục vụ, thực thi Lời Chúa trong cuộc sống.Chắc chắn, khi lắng nghe, cầu nguyện, xin ơn soi sáng thì các mối phúc của Chúa dạy là lời an ủi, khích lệ, động viên mạnh mẽ và đó cũng chính là lời thức tỉnh cho những ai bước trên hành trình theo Chúa, và giúp những ai biết xây dựng đời sống của mình trên những thực tại vĩnh viễn, trường cửu của Nước Thiên Chúa hơn là chỉ dựa vào những việc mau qua ở trần gian, ở thế giới này.Nói cách khác, con người phải biết cộng tác với Chúa để các mối phúc được hiện thực ngay nơi trần thế này, nhờ biết chia sẻ, trao ban tiền của cho tha nhân, đem lại hy vọng, niềm vui cho những kẻ khó nghèo, sầu khổ vv…
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết đem yêu thương và phụng sự Chúa nơi mọi người, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem thứ tha vào chốn lỗi lầm.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Bốn mối phúc nói gì cho chúng ta ? 2.Bốn mối họa nói gì cho chúng ta ? 3.Hạnh phúc đích thực là gì ? 4.Ai ban cho chúng ta hạnh phúc đích thực ? 5.Chúng ta phải làm gì để các mối phúc của Chúa được thành tựu ở đời này ?
---------------------------------
TN 6-C89: Chúa muốn chúng ta là những người có phúc
SUY NIỆM CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN – C
(Lc 6,17.20-26)
Trong Tin mừng thánh Luca hôm nay dìu chúng ta về với các Mối Phúc để sống và các mối họa TN 6-C89
Trong Tin mừng thánh Luca hôm nay dìu chúng ta về với các Mối Phúc để sống và các mối họa để mà tránh. Trước khi nói đến phúc thì Chúa Giêsu nói đến họa “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!” Quả thật, nghèo khó là trung tâm của Tin Mừng: “Phúc cho những ai có tình thần nghèo khó” là mối phúc đầu tiên trong các mối phúc và là sứ mạng khi Chúa Giêsu tự giới thiệu về mình với dâng làng Nagiaret tại hội đường: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo, tin vui cho người nghèo”.
Vấn nạn từ mối phúc
Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt. Khi công bố trong đoạn Tin Mừng (Lc), Chúa Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác, với sự đánh giá khác. Người cho các môn đệ biết rằng: họ là những người có phúc, khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Người, khiến người nghe những mối họa và phúc không khỏi thắc mắc: Thế nào là giàu, thế nào là nghèo ? Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cái nghèo? Hơn nữa, Người lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Nếu Chúa Giêsu tuyên bố: “Phúc cho anh em là những người bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6,21). Vậy ai là người đói khát và ai là người no thỏa ?
Chẳng những Chúa Giêsu từ ngàn xưa đã công bố như thế, mà ngay chính Đức Giáo hoàng Phanxicô trong thời hiện đại khi kể chuyện về giây phút cái danh hiệu PHANXICÔ đi vào lòng ngài, ngài diễn tả chương trình hành động của ngài, không phải bằng một lời tuyên bố long trọng, nhưng bằng cách bộc lộ một nỗi khao khát: “Ôi, tôi mong ước biết bao có được một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”. Nhưng khi nghe đến “một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”, có người hỏi: “Thế còn người giàu thì sao?” Phải chăng một “Hội Thánh nghèo” là một Hội Thánh gồm toàn những người nghèo?
Phúc cho kẻ nghèo
Câu chuyện về một vị ẩn tu sống rất nghèo do Đức Cố Hồng Y Carôlô Maria Martini viết trong một cuốn sách, giúp chúng ta hiểu phần nào về người giàu có thể có tâm hồn nghèo khó, người nghèo lại không.
Chuyện kể rằng, vị ẩn sĩ này chỉ có một tấm áo rách trên mình và một cái vò đựng nước đã bể… Một hôm ông hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con có phải là người nghèo nhất trên thế gian này chưa?” Chúa sai thiên thần đưa ông đến trước một lâu đài sang trọng và bảo: “Người sống trong lâu đài này mới là người nghèo nhất trên thế gian”. Vị ẩn sĩ rách rưới ngẩn người hỏi Chúa: “ Sao lại như thế được?” Chúa trả lời: “Người sống trong lâu đài sang trọng này có đủ mọi thứ, nhưng lòng không dính bén chút gì, còn con, con dính bén với chính cái áo rách và cái vò đã bể của con”.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất thật cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người đặt con người làm chủ và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Nhưng của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Người nghèo là người biết sống cho những giá trị ấy, cho dù giữa những vất vả lo toan, miếng cơm, manh áo, họ vẫn luôn tìm kiếm Nước Trời, họ sẽ là người hạnh phúc nhất, vì biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
Khốn cho người giầu
Tại sao Chúa Giêsu lại nặng lời với những người giầu? Có lẽ vì của cải là ngẫu tượng hấp dẫn, nó cuốn hút chúng ta và đẩy xa Thiên Chúa ra khỏi lòng chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Anh em không thể làm tôi hai chủ, hoặc ghét chủ này yêu chủ nọ”. Liên hệ trực tiếp, chúng ta chỉ có thể làm tôi Thiên Chúa, hoặc làm tôi tiền của, chứ không thể làm tôi cả hai được. Vì thế, nếu xem tiền của là chủ đời ta, thì tiền của sẽ túm lấy ta, phá vỡ sự hòa hợp giữ con người với nhau, hủy hoại cuộc sống và linh hồn khiến ta không còn yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức và hết trí khôn nữa, và như thế là đối nghịch lại với điều răn thứ nhất là thờ phượng Một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.
Nếu Chúa ban cho ta của cải giàu có thì chính là để trao tặng cho người khác, để nhân danh Chúa làm nhiều điều tốt cho tha nhân. Nhưng của cải có khả năng cám dỗ chúng ta và chúng ta bị sa ngã, trở thành nô lệ của sự giàu có. Đã có lần Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi chúng ta cầu nguyện một tí và hy sinh một tí, không phải cho người nghèo, nhưng cho người giàu. (REI 24/05/2018)
Một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo
Một Hội Thánh nghèo không phải là một Hội Thánh gồm toàn người nghèo. Hội Thánh không phải là Bang Hội của Cái Bang (ăn mày). Hội Thánh gồm tất cả những ai tìm kiếm và tin nhận Thiên Chúa là hạnh phúc duy nhất và vĩnh cửu và “Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,2). Chính khi kêu gọi các tín hữu quyên góp để chia sẻ với cộng đoàn Giêrusalem đang lâm cảnh khó khăn mà thánh Phaolô nại đến gương Chúa Giêsu: “Quả thật anh em biết Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của minh mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cor 8,9). “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”(Pl 2,7) để cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, Một Hội Thánh nghèo là một Hội Thánh sống tinh thần nghèo khó của Tin Mừng, không dính bén với của cải vật chất, không chạy theo thói thế gian, không đặt của trọng hơn người.
Sống lời Chúa dạy
Việc đầu tiên phải làm cho người nghèo, là chiến thắng sự lãnh đạm, vô cảm, những viện cớ này khác để xa tránh những con người này, biết quan tâm đến những cảnh ngộ lầm than, đáng thương quanh ta. Giảm thiểu khoảng cách bất công giữa người giầu và người nghèo một vùng miền nào đó.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên những khí cụ tình thương hải hà của Chúa đối với anh em. Amen.
Đối lập là tình trạng trái ngược nhau, đối nghịch, bất đồng, mâu thuẫn. Phải có ít nhất hai thứ TN 6-C90
Đối lập là tình trạng trái ngược nhau, đối nghịch, bất đồng, mâu thuẫn. Phải có ít nhất hai thứ (người, vật, phe, hướng,...) mới xảy ra tình trạng đối lập, chỉ một thì không thể. Trong mọi lĩnh vực, cụ thể và trừu tượng, đều có nhiều thứ đối lập: cao – thấp, dài – ngắn, vuông – tròn, trắng – đen, đẹp – xấu, tốt – xấu, hay – dở, khôn – dại, yêu – ghét, thiện – ác, phúc – họa, sinh – tử. Và còn nhiều thứ khác...
Một trong các cặp đối lập “nổi bật” liên quan tinh thần là cặp đôi “phúc – họa”, được đề cập trong Gr 17:5-8. Chính Đức Chúa đã tuyên phán: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa!”. Đó là cái họa lớn nhất và nguy hiểm nhất.
Tại sao nguy hiểm? Như một cách giải thích, cũng chính Đức Chúa cho biết: “Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa CHẲNG ĐƯỢC THẤY hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng CHẲNG NHÌN RA, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người”. Người ta nói đó là tình trạng “có mắt mà không tròng” hoặc “có mắt mà như mù”. Thế thì thật nguy hiểm và đáng sợ, vì đó là đại họa!
Ngược với cái họa là cái phúc. Chắc chắn chẳng có phúc nào bằng phúc của Thiên Chúa trao ban: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái”. Thánh Vịnh gia so sánh tín nhân như cây tươi tốt vì đủ nguồn nước để phát triển, rất dễ hiểu và thực tế. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Vịnh gia nói tới “hai con đường” liên quan Phúc – Họa: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2). Cách so sánh cũng rất cụ thể: “Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh, cành lá chẳng khi nào tàn tạ. Người như thế làm chi cũng sẽ thành. Ác nhân đâu được vậy: chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay” (Tv 1:3-4).
Nguyên nhân thế nào thì hệ quả như vậy, chúng ta gọi là nhân – quả. Và hệ lụy là điều tất yếu và minh nhiên: “Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong” (Tv 1:6). Cái gì Tốt thì Lành, dù cụ thể hay trừu tượng. Vấn đề tâm linh cũng không ngoài quy luật tất yếu như vậy.
Qua trình thuật 1 Cr 15:12, 16-20, Thánh Phaolô đề cập cặp đối lập đặc biệt nhất: Sinh – Tử. Thánh nhân đặt vấn đề: “Nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?”. Sống hôm nay, chết ngày mai, rồi chấm hết. Nếu chỉ thế thôi thì cũng không hơn gì cây cối và thú vật, người ta không gì phải lo sống tốt hay xấu. Cứ xả láng rồi sáng về sớm cũng chẳng sao.
Thánh Phaolô giải thích: “Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Ôi, tội nghiệp thật. Và chỉ như thế thì chán thật, cũng chẳng có gì để người ta phải cố gắng chi cho mệt.
Nhưng không phải thế! Nhân quả của con người khác hẳn thảo vật và động vật: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại”. Đó mới là chuyện đáng nói, đáng nỗ lực không ngừng. Nếu sinh – tử theo kiểu luân hồi thì cũng chẳng đáng quan ngại, vì cứ như vòng tuần hoàn thì không gì phải lo lắng cho nhọc óc, nghĩa là cứ “vô tư”. Thế nhưng không như thế, cho nên cứ “vô tư” thì hóa “đại ngu”, ta tự hại mình!
Trình thuật Lc 6:17, 20-26 (≈ Mt 5:1-12) đề cập một cặp khác cũng đặc biệt: Phúc – Họa. Hôm đó, Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Ngài dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Ngài, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn. Chúa Giêsu nói hai vấn đề:
Thứ nhất là các MỐI PHÚC (Lc 6:20-23 ≈ Mt 5:3-10). Thánh Mátthêu cho biết đầy đủ chi tiết hơn, gọi là Bát Phúc, còn Thánh Luca tóm tắt thành Tứ Phúc: “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: PHÚC cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. PHÚC cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.
Thứ nhì là các MỐI HỌA (Lc 6:24-26 ≈ Mt 5:11-12), Thánh Luca phân định thành Tứ Khốn: “KHỐN cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. KHỐN cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”.
Cách phân định của Thánh sử Luca tạo thành hai vế đối cân bằng: Tứ Khôn và Tứ Khốn. Phải chịu khốn vì không sống khôn, nếu sống khôn thì tránh được cái khốn – cái họa. Liên quan sự khôn ngoan có truyện “Bán Sự Khôn Ngoan” thế này:
Một ngày nọ, hiền triết Diogène (Hy Lạp) đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều với tấm bảng ghi đậm hàng chữ: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao và cười thầm trong bụng. Muốn biết phía sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ. Anh ta đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, hiền triết Diogène vẫn thản nhiên và ôn tồn nói với người đầy tớ: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: ‘Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến Cùng Đích’. Vậy nhé!”.
Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và cũng để mọi người đi qua trước nhà ông đều có thể đọc được: “Trong tất cả mọi sự, hãy suy nghĩ đến Cùng Đích”.
Nghĩ đến Cùng Đích là nghĩ đến cái gì? Đó là Cái Chết. Nghĩ đến Cái Chết không phải là ý tưởng tiêu cực, bi quan, chán đời hoặc yếm thế, mà lại chính là CÁCH SỐNG KHÔN NGOAN, với hệ lụy tất yếu: sống Khôn để thoát Khốn. Chính Thiên Chúa cũng đã nhắc nhớ: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Người Latin có thành ngữ: Memento Mori – Hãy Nhớ Mình Sẽ Chết. Nhớ làm gì cái thứ đó? Nhớ để nên khôn bằng cách Luôn Sẵn Sàng – Semper Paratus – Always Ready.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thấu suốt mọi sự, biết cả những gì con chưa nghĩ tới, xin ban Thần Khí soi sáng để con biết việc phải làm cho hợp ý Ngài, biết khôn ngoan chọn những gì đẹp ý Ngài, và cố gắng sống vuông tròn cho tới hơi thở cuối cùng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin mừng được thánh sử Luca ghi lại. Trong bài Tin mừng hôm TN 6-C91
1. Chúng ta vừa được nghe một bài Tin mừng được thánh sử Luca ghi lại. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta nói cho chúng ta và mọi người biết về một điều mà mọi người ai cũng mong ước trong cuộc sống ở trần gian.
Cha đố chúng con điều đó là điều gì?
- Thưa cha đó là hạnh phúc. - Chúng con trả lời rất đúng.
Nếu chúng con để ý một chút, chúng con sẽ thấy: ở đời này những lời được nói nhiều nhất trong cuộc sống là lời Hạnh phúc; chữ được viết nhiều nhất là chữ Hạnh phúc, lời cầu mong lớn nhất là cầu mong Hạnh phúc. Những hiện tượng trên đây chứng tỏ Hạnh phúc là khát vọng mạnh nhất của con người. Con người luôn đi tìm Hạnh phúc cho mình.
Lúc 15 giờ ngày mồng hai tết vừa qua, cha vào Google nhập từ hạnh phúc thì trong vòng chỉ có 0,47 giây Google đã cho cha khoảng 96.900.000 kết quả.
Cha tò mò muốn biết xem những người ở Tây Phương quan tâm đến vấn đề hạnh phúc như thế nào, cha lại vào Google nhập từ "Happiness" (Hạnh Phúc) thì trong vòng khoảng 0,80 giây Google cho cha một kết quả không ngờ: 652.000.000 kết quả (0,80 giây) nhiều hơn gấp 6 lần chúng ta.
Cha hỏi chúng con: Tất cả những kết quả đó cho chúng ta thấy điều gì? Thưa, cho chúng ta thấy hạnh phúc là đều có thật. Hạnh phúc là điều mà con người hằng tìm kiếm. Người ta đã nói nhiều đến hạnh phúc, cầu chúc cho nhau có nhiều hạnh phúc, ước mong cho mình tìm được thật nhiều hạnh phúc trên đời. Hạnh phúc trở thành một ám ảnh chi phối toàn bộ cuộc sống của con người.
Thế nhưng nếu phải hỏi hạnh phúc là gì và ở đâu thì chằng ai có thể trả lời được.
Cha kể cho chúng con câu chuyện vui này:
Một con chó lớn đang quan sát một chú chó con loay hoay cố chụp bắt chiếc đuôi của chính nó.
- Chú mày làm gì thế?. Con chó lớn hỏi.
- Dạ, cháu đang tìm kiếm hạnh phúc. Chú chó con trả lời. Rồi nó nói tiếp: "Cháu nghe bảo rằng hạnh phúc nằm trong cái đuôi của cháu; nếu cháu chụp được cái đuôi mình, cháu sẽ có hạnh phúc"
Con chó lớn cười ồ. Nó nói rằng chính nó cũng từng nghe thiên hạ đồn như thế. Nhưng rồi nó đã khám phá ra rằng mỗi lần mình cố đuổi bắt chiếc đuôi thì chiếc đuôi luôn luôn vượt khỏi mình. Vì thế nó nói: “giờ đây tao chẳng cố sức vô ích như vậy nữa. Tao chỉ làm những công việc bình thường của một con chó và tao nhận thấy hạnh phúc tự kéo đến với tao”.
Có nhiều người trong chúng ta cũng tưởng hạnh phúc ở chỗ nọ chỗ kia nên đã dốc công đi tìm. Có người tìm ở nơi tiền bạc. Có kẻ đi tìm ở nơi lạc thú. Có kẻ khác đi tìm ở nơi danh vọng nhưng thử hỏi đã có ai thực sự tìm thấy hạnh phúc ở nơi tiền bạc, lạc thú, danh vọng hay chưa thì quả là chưa có ai dám can đảm quả quyết đã tìm thấy.
Hôm đó Đức Thích Ca vào thủ đô của vua Kaniska. Nhà vua đã thân hành ra đón chào Ngài. Nhà vua là bạn thân của thân phụ Đức Thích Ca. Đức Thích Ca nhìn sâu vào đôi mắt nhà vua và nói:
- Xin Ngài hãy thành thực nói với tôi: Trong tất cả những thú vui mà Ngài đang có, Ngài có thực sự được một ngày hạnh phúc không?
Vua Kaniska cúi nhìn xuống đất và giữ thinh lặng.
Nhà vua im lặng vì không có can đảm trả lời là có.
2. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng hôm Chúa Giêsu hướng chúng ta về một bí quyết mới để chúng ta có thể có được hạnh phúc trong cuộc đời của chúng ta. Theo Chúa thì chẳng cần phải đi tìm hạnh phúc ở đâu xa bởi vì hạnh phúc ở ngay trong cuộc sống của mỗi người. Hạnh phúc không ở đâu xa, Hạnh phúc ở ngay trong cuộc sống của mỗi người.
Sống làm sao để có hạnh phúc. Đó là mơ ước của mọi người. Nhà văn Alfred D'Souza từng chia sẻ: “Trước đây, tôi thường cho rằng nếu tôi vượt qua hết những khó khăn trước mắt thì mọi thứ sẽ ổn hơn, tôi sẽ có thời gian cho chính mình và tận hưởng hạnh phúc. Nhưng cuối cùng, tôi nhận thấy cuộc sống có tốt đẹp, hạnh phúc hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của chính tôi”.
Cha xin nhắc lại: Có hạnh phúc hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của chính tôi”. Chính cách suy nghĩ và cách sống của chúng ta đem lại hạnh phúc hay bất hạnh cho chúng ta.
Tôi phải có thái độ nào đối với những giá trị vật chất của trần gian và phải sống thế nào trong tương quan với mọi người. Suy nghĩ đúng và sống đúng, tôi sẽ có hạnh phúc. Ngược lại tôi sẽ trở thành người bất hạnh.
Đây là câu chuyện từ Internet: Như thường lệ, sáng nay, tôi đến phòng tập thể dục trước khi đến sở làm. Ớ đó, tôi có một người bạn già nhưng rất thân thiết. Tuy đã 79 tuổi nhưng ông vẫn giữ được thân thể tráng kiện và một tinh thần yêu đời đặc biệt. Khi gặp tôi, ông nhận ra ngay tâm trạng bất ổn của tôi. Sau đó hai bác cháu nói chuyện với nhau thật lâu.
- Trong cuộc đời bác, bác cảm thấy lúc nào mình hạnh phúc nhất?
Tôi hỏi và chợt nhận ra mình đã thay đổi câu hỏi. Lẽ ra tôi phải hỏi là có khi nào bác gặp phải cảm giác buồn chán như tôi bây giờ không.
Hồi bác còn nhỏ, cuộc sống thật khó khăn. - Ông bắt đầu kể. - Bố mẹ bác đi làm ở xa, cả ngày mới về. Thỉnh thoảng, mẹ mua quà về cho mấy anh chị em bác, khi thì những chiếc bánh, khi thì mấy viên kẹo. Những lúc đó, bác thực sự thấy mình là người hạnh phúc nhất.
Đến tuổi đi học, lần đầu tiên bác đánh vần và đọc được tên mình. Bác thấy tự hào vô cùng, chạy đi khoe khắp nơi, lúc đó là thời gian hạnh phúc nhất
Khi tốt nghiệp đại học, bác được nhận vào làm việc ở một công ty lớn. Cầm trên tay tháng lương đầu tiên, bác vui sướng biết bao.
Có lần bác bị tai nạn phải nằm bệnh viện khá lâu. Những ngày ở bệnh viện bác có giờ suy nghĩ được nhiều điều mà trước kia bác không nghĩ đến, được gặp lại bạn bè và người thân. Khoảng thời gian ấy thật là tuyệt vời.
Và giờ đây, ở tuổi bảy mươi chín, bác vẫn có thể đến đây tập thể dục hàng ngày. Bác thấy mình vẫn còn có ích cho mọi người xung quanh. Đây là thời khắc tuyệt vời nhất của bác.
Cháu hãy nghĩ một giai đoạn mới của cuộc đời cũng giống như một chương mới của quyển sách. Dù có đau khổ, buồn hay vui đều có giá trị cho quyển sách cuộc đời. Cháu cứ đọc rồi sẽ thấy.(Thảo Nguyên theo Internet)
Một sinh viên Nhật bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, nói:
- Thưa cha, con đang đi tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp. Cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu.
Linh mục đáp:
- Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?
- Thưa không, con không muốn trao đổi lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác Cha biết không. Khi còn ở ký túc xá đại học Cambridge, con ở chung phòng với một anh thợ mộc. Anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén dĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.
Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói:
- Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp anh hãy tìm trong dó.
Hai năm sau, anh đến gặp cha cười cười nói:
- Cha có nhận ra con không?
- Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói:
- Con đã tìm thấy đời sống hạnh phúc tốt đẹp rồi cha ạ. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô.
Như vậy chúng con thấy, hạnh phúc không phải là điều gì xa vời, khó tìm. Hạnh phúc có thể tìm thấy ngay ở trong cuộc sống. Vậy nếu cha hỏi đâu là cuộc sống mang lại cuộc sống cho con người thì câu chuyện chúng ta vừa nghe là câu trả lời: Sống như Chúa đã sống, sống như Chúa dạy đó là cách chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc cho chúng ta trên đời.
Cha chúc mỗi thiếu nhi yêu quí của cha tìm được hạnh phúc khi chúng con biết sống như thế. Amen.
Bài đọc Cựu ước và bài Tin Mừng của Chúa nhật này đều bao gồm những lời chúc lành và chúc TN 6-C92
Bài đọc Cựu ước và bài Tin Mừng của Chúa nhật này đều bao gồm những lời chúc lành và chúc dữ. Thực ra, những lời được gọi là “chúc dữ” không hẳn là những lời nguyền rủa khi người ta giận dữ và muốn “trù ẻo” người khác. Thiên Chúa tự bản chất là Đấng tốt lành, không lẽ Ngài lại buông những lời nguyền rủa đối với con người, mặc dù họ xấu xa và tệ hại đến mấy đi nữa. Đúng hơn, phải hiểu đây là những lời than vãn và luyến tiếc cho những con người đáng lẽ ra họ phải sống tốt lành, nhưng trong thực tế lại không phải như vậy. Đây là những lời than vãn vì thấy trước những nguy hiểm đang chờ đợi họ ở tương lai, là kết quả của lối sống vô tín đối với Chúa và vô trách nhiệm đối với tha nhân.
Nguyên nhân của những than vãn hay của những lời chúc dữ ấy là gì? đó là sự cậy dựa vào sức mạnh phàm nhân. Theo lời Chúa Giêsu, đó còn là sự kiêu ngạo, cậy vào của cải trần thế. Họ là những người giàu có, no nê và đang vui cười. Dường như họ không cần đến Thượng Đế, vì họ tự cho mình có sức mạnh vô song, có khả năng làm mọi sự. Có một thời, ở Việt Nam, người ta cho rằng niềm tin vào Thượng Đế đã lỗi thời và “cổ hủ”. Vì vậy, con người có thể “thay trời làm mưa”. Người ta cũng thường rêu rao “bàn tay ta làm nên tất cả”. Đây là lối suy nghĩ ảnh hưởng thuyết vô thần duy vật, coi con người như những “thượng đế” và tự quyết định tương lai, không cần đến thần linh hay Đấng Cao cả nào khác. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy một xã hội loại trừ Thiên Chúa sẽ trở nên bất hạnh như thế nào. Hậu quả là bạo lực, dối trá, lường gạt và phi luân lý tràn lan mọi lãnh vực cuộc sống.
Chúa Giêsu đã cảm thương và coi những người kiêu ngạo cậy mình, là những người bất hạnh. Cách nói “Khốn cho các ngươi”, như đã nêu ở trên, không phải là lời nguyền rủa, nhưng là một lời than vãn, tựa như khi ta nói: Thật bất hạnh thay, những kẻ cậy vào của cải, những kẻ cho rằng mình tự làm được mọi sự, và những kẻ đang vui cười, vì tương lai của họ thật đen tối và thảm hại!
Những hình ảnh được dùng để minh họa người hạnh phúc và người bất hạnh cũng rất cụ thể và dễ hiểu. Đó là những cây được trồng để sinh hoa kết trái. Người đặt niềm tin ở người đời mà lãng quên Thiên Chúa thì giống như cây mọc trong sa mạc cằn cỗi, quanh năm khô cháy vì chỉ có gió và nắng nóng. Trái lại, người đặt niềm tin nơi Chúa thì giống như cây trồng bên suối, quanh năm bốn mùa sinh hoa trái tốt tươi.
Lắng nghe Lời Chúa hôm nay, mỗi người tự vấn lương tâm, để xem cuộc đời và tương lai của mình đang đặt nền tảng trên cái gì. Trong cuộc sống đầy bon chen toan tính, chúng ta có nguy cơ phủ nhận Thiên Chúa để tìm cho mình những nguồn trợ lực trần gian. Những nguồn trợ lực ấy, có thể đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của chúng ta, hoặc có thể đem lại cho chúng ta những niềm vui nhất thời, nhưng không bền vững và nhất là không đem lại cho chúng ta niềm vui siêu nhiên. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng lấp đầy những khát vọng của chúng ta. Người là Cha nhân hậu, hiểu biết nỗi lòng và nguyện vọng của chúng ta. Người cũng thấu hiểu những băn khoăn trăn trở của chúng ta và ra tay cứu giúp, nếu chúng ta tin tưởng phó thác nơi Ngài.
Nhiều người nản lòng vì họ cầu nguyện mà dường như Chúa không nhận lời. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy kiên trì và hy vọng kể cả trong những hoàn cảnh bi đát nhất. Thực thế, mầu nhiệm Phục sinh là một bằng chứng cho quyền năng của Thiên Chúa. Ngôi mộ là một kinh nghiệm đen tối nhất của kiếp con người. Vậy mà Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, bước ra khỏi mộ vinh quang. Người tin vào Chúa Giêsu là người sống niềm hy vọng, kể cả những lúc cơ cực nhất. Họ không chỉ chờ đợi những lợi lộc trần gian, mà còn hướng tâm hồn về trời, là phần thưởng tối hậu cao quý Chúa dành cho những ai yêu mến cậy trông Người. Thánh Phaolô khẳng định: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (Bài đọc II).
Mỗi người trong chúng ta có một môi trường sống: gia đình, văn phòng, công ty, phố chợ, công trường... Trong những môi trường ấy, mỗi chúng ta đều là một cây do Thiên Chúa trồng. Những ai cậy trông nơi Ngài, sẽ quanh năm trổ lá sinh hoa, đem lại hoa thơm trái ngọt cho đời. Chúng ta được hưởng lời chúc lành hay chúc dữ, đó không phải là một định mệnh, nhưng là do chúng ta tự do chọn lựa, thể hiện qua lối sống của mình. Xin Chúa giúp chúng ta luôn kiên trung bền bỉ, cậy trông vào Chúa, để nhờ suối ân sủng của Ngài, chúng ta luôn sinh hoa kết trái.
“Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa” (Thánh Phanxicô de Salê)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên năm C ca ngợi những ai đặt trọn niềm tin tưởng TN 6-C93
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên năm C ca ngợi những ai đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.
Gr 17: 5-8
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đối chiếu đời sống của kẻ gian ác với đời sống của người công chính
1Cr 15: 12, 16-20
Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến thực tại phục sinh của thân thể Đức Ki-tô, và ý nghĩa của sự phục sinh ấy đối với người Ki-tô hữu.
Lc 6: 17, 20-26
Thánh Lu-ca đối lập các Mối Phúc với các Mối Họa.
BÀI ĐỌC I (Gr 17: 5-8)
Trong đoạn thơ ngắn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sử dụng hai hình ảnh thiên nhiên đối nghịch nhau để mô tả hai hạng người, hạng người bị nguyền rủa và hạng người được chúc phúc:
1. Hạng người bị nguyền rủa (17: 5-6)
Hạng người bị nguyền rủa là những kẻ gian ác đặt niềm tin tưởng vào người đời mà xa lìa Thiên Chúa. Họ được sánh ví như bụi cây cằn cỗi mọc trong hoang địa nóng cháy, nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn, chẳng bao giờ thấy được hạnh phúc.
2. Hạng người được chúc phúc (17: 7-8)
Hạng người được chúc phúc là những người công chính đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ được sánh ví như cây trồng bên dòng nước, cành lá xanh tươi, trổ sinh hoa trái bốn mùa vì đâm rễ sâu vào mạch nước.
Bài Đọc I chuẩn bị Tin Mừng hôm nay theo Thánh Lu-ca trong đó Đức Giê-su loan báo bốn Mối Phúc đối lập với bốn Mối Họa.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 12, 16-20)
Có những người tín hữu Cô-rin-tô không tin kẻ chết sống lại. Thánh Phao-lô chứng minh rằng những người chủ trương “không có chuyện kẻ chết sống lại” thật phi lý khi vạch ra những hậu quả của sự từ chối này.
Thứ nhất, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì lời rao giảng của Thánh Phao-lô và những thầy dạy của họ về việc Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại để chúng ta cùng được chết và sống lại với Đức Ki-tô là những lời nói láo. Thứ hai, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì cũng sẽ từ chối những thành quả minh nhiên của niềm tin vào Đức Ki-tô sống lại qua những ân huệ dồi dào mà Thần Khí đã ban cho cộng đồng tín hữu Cô-rin-tô. Thứ ba, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì niềm tin của những người tín hữu ở đời này thật là hão huyền và đáng thương, đồng thời các thành viên trong cộng đồng của họ đã qua đời phải bị tiêu vong.
Từ lập luận trên, thánh nhân quả quyết rằng Đức Ki-tô thật sự đã sống lại để mở đường cho những ai tin vào Ngài cũng sẽ được sống lại cùng với Ngài.
TIN MỪNG (Lc 6: 17, 20-26)
Hình ảnh Chúa Giê-su xuống núi và đến một chỗ đất bằng, tại đó dân Thiên Chúa tụ tập quanh Người gợi nhớ hình ảnh ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống mang theo sứ điệp của Thiên Chúa. Thính giả của Chúa Giê-su đại diện đầy đủ mọi thành phần Dân Thiên Chúa: nhóm Mười Hai, đông đảo môn đệ của Người và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi đến.
Sau khi đã thường xuyên nói Chúa Giê-su giảng dạy, cuối cùng Thánh Lu-ca sắp sửa đưa ra một trong những khuôn mẫu cô đọng nhất của công việc giảng dạy đó. Để làm điều này, Thánh Lu-ca không tham khảo sách Tin Mừng Mác-cô nữa mà tận dụng “Nguồn các lời”. Bài Diễn Từ Trên Cánh Đồng của Thánh Lu-ca phù hợp theo mức độ nào đó với Bài Diễn Từ Trên Núi, một bài trình thuật rộng lớn mà Thánh Mát-thêu ghi lại cho chúng ta từ chương 5 đến chương 7. Trong suốt sứ vụ công khai của Người ở những miền và những thành phố khác nhau của Ít-ra-en, chắc hẳn Đức Giê-su đã rao giảng những điều như vậy trong những dịp khác nhau. Khi sử dụng “Nguồn các lời” này, mỗi thánh ký, dưới ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần, đã sẽ chọn tường thuật những lời mà các ngài cho là hữu ích nhất trong việc giảng dạy cho độc giả đương thời của các ngài: người Ki-tô hữu gốc Do thái trong trường hợp Thánh Mát-thêu, người Ki-tô hữu gốc lương dân trong trường hợp Thánh Lu-ca.
Trước khi Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc và các Mối Họa, Thánh Lu-ca ghi nhận: “Đức Giê-su ngước mắt nhìn lên các môn đệ” (6: 20). Tại sao Thánh Lu-ca lại ghi nhận cái nhìn của Đức Giê-su như thế? Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người để gặp con người, chứ không phải là một đạo sư truyền bá một đạo lý hay một giáo thuyết. Ánh mắt của Người, cũng chính là cái nhìn của Thiên Chúa, đang rọi xuống trên những con người đang hiện diện trước mặt Người. Nơi những con người mà Người đang đưa mắt nhìn, Đức Giê-su thấy những người con được Chúa Cha tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; vì thế, Người mặc khải cho họ biết họ là ai và làm cách nào để sống cho xứng đáng là những người con đích thật của Chúa Cha.
1. Cách trình bày các Mối Phúc và các Mối Họa theo Tin Mừng Lu-ca
Thánh Lu-ca đã tóm gọn Tám Mối Phúc của Thánh Mát-thêu (Mt 5: 3-12) vào trong Bốn Mối Phúc, nhưng thêm Bốn Mối Họa đối lập. Quả thật, bốn Mối Phúc của Tin Mừng Lu-ca được phát biểu cách trực tiếp và cô đọng hơn tám Mối Phúc của Tin Mừng Mát-thêu: ví dụ trong Tin Mừng Lu-ca, Mối Phúc thứ nhất phát biểu cách trực tiếp và đơn giản “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”, trong khi trong Tin Mừng Mát-thêu chúng ta đọc thấy “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”, rõ ràng Mối Phúc này được phát biểu cách gián tiếp và chứa đựng một lời giải thích ngắn về ý nghĩa của đức nghèo khó. Thánh Lu-ca đặt hai nhóm người và hai mẫu tình huống tương phản một cách có hệ thống.
Bốn Mối Phúc là bốn Mối Họa đảo ngược:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có” “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói” “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê” “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc” “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười”
“Phúc cho anh em, khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sĩ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa”
“Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng”
Những lý do nêu ra cũng ở thế đối lập với nhau:
“Vì Nước Thiên Chúa là của anh em” “Vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” “Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” “Vì các ngươi sẽ phải đói” “Vì anh em sẽ được vui cười” “Vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” “Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” “Vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” .
Ba cặp Phúc - Họa đầu tiên được cấu trúc rất đối xứng: những kẻ nghèo khó, đang phải đói và khóc lóc ám chỉ cùng một nhóm người như nhau; những kẻ giàu có, đang được no nê và vui cười cũng vậy. Sáu từ ngữ thực tế chỉ hai loại người trong xã hội. Cặp Phúc - Họa thứ tư là cặp cuối cùng được cấu trúc hoàn toàn khác và được khai triển thành ba phần: trước hết, những thử thách phải chịu trong hiện tại: “bị oán ghét”, “bị khai trừ” và “bị sỉ vả” (6: 22) đối lập với việc “được mọi người ca tụng” (6: 26); tiếp đó, lời mời gọi hãy vui mừng, không phải trong tương lai nhưng hiện nay với sự bách hại, vì được bảo đảm rằng họ sẽ nhận được phần thưởng lớn lao: ơn cứu độ và sự sống ngay giữa cơn gian nan thử thách (6: 23a-b); sau hết, người bị bách hại được đồng hóa với các ngôn sứ Cựu Ước: “Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”. Sự kiện này thật đáng lưu ý: nếu người giàu đối lập với người nghèo, thì ở đây những người bách hại không phải đối lập với những người bị bách hại, mà là những kẻ được ca tụng, tức là bị đồng hóa với các ngôn sứ giả.
Trong bản văn đối xứng của mình, Thánh Lu-ca công bố một sự đảo ngược của các tình cảnh hiện nay vào thời cánh chung; thực ra thời cánh chung đã khởi sự rồi. Trong cặp Mối Phúc thứ hai và thứ ba, “bây giờ” và “thời sẽ đến” đối kháng với nhau rõ ràng (6: 21). Ngược lại, trong Mối Phúc thứ nhất, điều kiện của việc đảo ngược đã được hiện thực rồi: “Nước Thiên Chúa là của anh em”. Mối Phúc cuối cùng cũng tương tự như thế: “Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”. Một sự đảo ngược giữa các tình cảnh như vậy là một đề tài được thánh Lu-ca ưa chuộng. Chúng ta đã gặp thấy cấu trúc này trong bài ca “Ngợi Khen” (1: 51-53) cũng như sau này trong một bản văn khác riêng của Thánh Lu-ca: dụ ngôn ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó (16: 19-31).
2. Nghèo khó trong khiêm tốn
Ở đây, trên môi miệng của Đức Giê-su Na-da-rét, từ ngữ “những kẻ nghèo khó” phải được hiểu ưu tiên theo chiều kích kinh tế và xã hội; thuật ngữ này chỉ những người không được bảo vệ và không có quyền lợi, bị khinh dể, họ trông chờ ơn cứu độ chỉ ở nơi một mình Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đứng ra bênh vực quyền lợi của họ, vì vậy Ngài phải nắm trọn chủ quyền (“Xin cho triều đại Chúa mau đến!”: 11: 2). Hành động giải phóng của Chúa Giê-su đã là dấu chỉ hữu hiệu cho thấy Thiên Chúa ra tay hành động. Chính nơi bản thân của Đức Giê-su và công việc của Người mà hoạt động cánh chung của Thiên Chúa và “triều đại” của Ngài được bày tỏ.
Vì vậy, dường như Thánh Lu-ca cũng không thỏa mãn hơn chúng ta trước những Mối Phúc của Chúa. Nếu vấn đề của cải được nêu rõ trong Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ, chính vì giữa lòng Giáo Hội vào thời Thánh Lu-ca có những người túng thiếu và những người giàu có. Như vậy đâu là tính thời sự của Tin Mừng? Thánh Lu-ca hiểu thế nào về người nghèo khó mà Chúa Giê-su nói ở đây?
Nếu người ta tách riêng những Mối Phúc và những Mối Họa ra khỏi tác phẩm của Thánh Lu-ca, người ta sẽ phạm phải sai lầm lớn trong công việc giải thích. Trong trường hợp đó, sự đối kháng rõ rệt và được lập đi lập lại giữa “bây giờ” và “thời sẽ đến” đề xuất cuộc đảo lộn các giá trị sau này. Người nghèo sẽ được khuyến khích tự an ủi về hiện trạng khốn khó khi nghĩ đến một tương lai huy hoàng… trong lúc đó, người giàu có thể tiếp tục chè chén say sưa mà không sợ người nghèo La-da-rô tìm cách lật đổ hiện trạng của mình (x. 16: 17-31). Như vậy, Thánh Lu-ca sẽ chuốc lấy lời phê phán của Karl Marx khi triết gia này phê phán tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng.
Các Mối Phúc đòi hỏi phải được đọc dưới ánh sáng phần còn lại của sách Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ. Nếu Thánh Lu-ca có thể nhắc lại các Mối Phúc chính vì thánh ký diễn tả Giáo Hội lý tưởng là một cộng đoàn nơi đó “không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung… Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4: 32-35). Những bản văn khác sẽ cho chúng ta thấy việc chia sẻ với người nghèo, tuy khiêm tốn hơn, phải được thực hành ngay ngày hôm nay, trong cộng đoàn Giáo Hội. Nếu không, cộng đoàn sẽ không có khả năng loan báo các Mối Phúc và chứng thực thực tại của ơn cứu độ đã khởi sự.
3. Khó nghèo theo Tin Mừng
Ngay vào thời Thánh Âu-gút-ti-nô, có nhiều người không thể hiểu đúng người nghèo và người giàu; họ lập luận như sau: “Nước Trời thuộc về người nghèo, ông La-da-rô đói khát của cải thế giới này; mọi người giàu thì xấu xa, như ông phú hộ này”. Cách suy nghĩ này đã khiến Thánh Âu-gút-ti-nô giải thích ý nghĩa sâu xa của sự giàu có và sự nghèo khó theo tinh thần của Tin Mừng: “Hỡi người nghèo, hãy lắng nghe tôi giải thích những lời của bạn. Khi bạn tự cho mình là anh La-da-rô, một thánh nhân ung nhọt đầy mình, tôi sợ là niềm tự phụ của bạn làm cho bạn mô tả mình không đúng. Đừng khinh bỉ những người giàu đầy lòng từ bi nhân ái và khiêm hạ: hay nói một cách ngắn gọn, đừng khinh bỉ những người giàu mà nghèo. Hỡi người nghèo! Chính bạn hãy là nghèo; nghèo, có nghĩa khiêm tốn… Vì thế, hãy lắng nghe tôi. Hãy thật sự nghèo, phải là chân thành, phải là khiêm tốn; nếu bạn tự phụ về sự nghèo khổ rách rưới và mụn nhọt đầy người của bạn, nếu bạn tự phụ là mình giống như người ăn xin đó nằm ở ngưỡng cửa của người giàu, lúc đó bạn đang ghi nhận sự nghèo khổ của anh ta chứ không gì khác. Bạn hỏi, điều gì tôi nên ghi nhận? Hãy đọc Kinh Thánh rồi bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói. Anh La-da-rô là một người nghèo, nhưng anh được đưa vào lòng của một người giàu. Kinh Thánh viết: ‘Thế rồi người nghèo này chết và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham’. Vào đâu? Vào lòng của ông Áp-ra-ham hay, hãy để tôi nói, vào nơi mầu nhiệm ở đó ông Áp-ra-ham đang yên nghỉ. Hãy đọc… và hãy nhớ rằng ông Áp-ra-ham là một người rất giàu khi còn sống trên cõi thế này: ông giàu có tiền bạc, một gia đình rộng lớn, súc vật đầy đồng, ruộng vườn; tuy nhiên người giàu này thì nghèo, vì ông khiêm hạ. ‘Ông Áp-ra-ham tin vào Thiên Chúa và được xem là công chính’… Ông đã là trung thành, ông đã làm điều tốt, ông đã đón nhận mệnh lệnh hiến tế người con trai của ông, và ông đã không từ chối dâng hiến những gì ông đã nhận được cho Đấng từ Ngài ông đã nhận được. Ông đã được chấp nhận trong thánh nhan Thiên Chúa và phô bày trước chúng ta một mẫu gương đức tin” (Sermon 14).
Tóm lại, đức nghèo khó không cốt ở nơi điều gì đó thuần túy bên ngoài, ở nơi việc có hay không có những của cải, nhưng ở nơi điều gì đó còn sâu xa hơn, tác động đến tấm lòng và tâm hồn của một con người; nó cốt là có một thái độ khiêm tốn trước Thiên Chúa, là lòng mộ đạo, là một niềm tin tròn đầy. Nếu một người Ki-tô hữu có những đức tính này và cũng có những của cải dư đầy, người ấy phải siêu thoát khỏi sự giàu có của mình và hành xử bác ái đối với tha nhân, thì mới thật sự làm đẹp lòng Thiên Chúa. Mặt khác, nếu ai không được sung túc, không vì thế mà người ấy được công chính trước Thiên Chúa, nếu như người ấy không nỗ lực đạt được những đức tính mà đức nghèo khó đích thật đòi hỏi. “Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn và khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
Bài giảng được kể là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI trong Tin Mừng Matthêu kể ra 8 cái phúc TN 6-C94
Bài giảng được kể là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI trong Tin Mừng Matthêu kể ra 8 cái phúc (Bát Phúc), hôm nay đến lượt Tin Mừng Luca thu lại chỉ còn 4 cái phúc và 4 cái khốn.
Theo Matthêu, đây là Bài giảng trên núi, bao gồm 8 mối phúc thật, nhấn mạnh đến sự “ nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý, sự đau khổ nội tâm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó…” Còn Luca, đây là bài giảng ở chỗ đất bằng, trình bầy 4 lời chúc phúc kèm theo 4 cái khốn, như những phản đề đối chiếu dành cho người nghèo và kẻ giầu, người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai thành phần xã hội, hai giai cấp đối chọi nhau mà Tin mừng muốn mô tả và để cho người tín hữu lựa chọn.
Bốn mối phúc và bốn cái khốn trở thành 4 cặp song đối với nhau:
-Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó // Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có. -Đói khát // no nê. -Khóc lóc // vui cười. -Bị bách hại // được trọng vọng ca tụng.
Nhưng tại sao nghèo khó, đói khát, khóc than và bị bách hại lại là phúc? Và tại sao giàu có, no nê, vui cười và được trọng vọng thì lại là hoạ?
1, Phúc cho anh em là những người nghèo khó…
Matthêu đã tâm linh hóa khi diễn tả: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó” ! Còn Luca thì nói về những người nghèo thực sự, đói khát thực sự, đau khổ thực sự trong thân xác, là người thiếu thốn của cải vật chất, người không có quyền lực cũng như ảnh hưởng, người bị bóc lột. Và vì không có của cải, sống bơ vơ, không được che chở nên họ chỉ còn biết đặt trọn niềm tín thác vào Chúa.
- Cần hiểu rằng Chúa Giêsu không chủ trương đói khát và cùng khốn, nhưng Chúa rất yêu thương những thân phận nghèo khó vì họ tin thác vào sự quan phòng của Người. Hơn nữa, trong kiếp sống nghèo, họ đã phải chịu thua thiệt nhiều hơn, nên Chúa sẽ bù đắp Nước Trời cho họ cũng là phải lẽ, dĩ nhiên cái nghèo này không do sự biếng nhác mà có thể vì thiếu may mắn, nhất là do bị áp bức vì dám sống thật và trung thực trong việc làm.
Đức Giêsu đang ám chỉ đến những người thiếu thốn, người thấp cổ bé miệng, những người không ai che chở vì thế họ chỉ còn biết tin cậy vào Chúa. Như thế, người nghèo khó được chúc phúc mà Đức Giêsu muốn nói, chính là những người nhận thức được rằng họ không thể tìm được hạnh phúc cậy dựa vào của cải vật chất đời này. Và từ đó họ sẽ tìm kiếm hạnh phúc chỉ ở nơi Chúa.
-Những người giầu thì có xu hướng dựa vào của cải họ có. Đối với họ, chính thế gian này mới quan trọng. Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi, và đời sau thì xa vời và mơ hồ. Nhất là khi lo chạy theo lòng tham không đáy, họ càng dễ dấn sâu vào việc làm phi pháp vì lợi nhuận, tự nó không đẹp lòng chúa và gây phản chứng cho đời sống đạo.
Lại nữa, người giàu lại muốn giàu thêm nên ngày đêm chỉ lo tính toán không còn chỗ và còn thời gian dành cho Chúa, tệ hơn vì lòng tham họ càng ngày càng trở nên keo kiệt bủn xỉ và không còn biết yêu thương chia sẻ.
Cuối cùng, khi đã giàu rồi thì lo hưởng thụ và tự đắc tự hào vênh vang về mình và dễ khinh dể kẻ khác. Họ nghĩ mình đã đầy đủ nên không cần đến Chúa…
Như vậy, lời chúc “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”, không có nghĩa là ta tìm sự thiếu thốn vật chất, nhưng có một giá trị nội tâm, nó giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc với của cải trần thế, và mở rộng lòng mình ra trước sự giàu có tinh thần. Chúa Giêsu đã sinh ra trong cảnh nghèo hèn, và đã chết trần trụi trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ, hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
2, Phúc cho anh em bây giờ phải đói khát…
Về vấn đề này, thánh Luca cũng chép là một sự đói khát thực tế chứ không phải sự đói khát công chính như thánh Matthêu, nghĩa là không phải chuyện tâm linh mà là đói cái ăn cái mặc. Việc này như là mở rộng của lời chúc phúc thứ nhất, nhưng với một mức độ sâu hơn. Cái nghèo thì bao hàm những thiếu thốn chung, nhưng khi nói đến đói cái ăn thì chạm nay đến sự tồn tại, đến mạng sống. thật vậy, có thể sống nghèo, nhưng không ai sống được nếu phải nhịn đói.
Hình ảnh đối lập giữa những người ăn chơi tiền tỉ bên cạnh những người thoi thóp cần miếng bánh lót dạ cho qua ngày vẫn hằng ngày đập vào mắt chúng ta. Chúa ở bên người đói khát nhưng cũng nhìn thấy kẻ xa xỉ ăn chơi. Chúa nhận ra nỗi đau của kẻ đói để an ủi họ trong ngày phán xét, nhưng cũng khốn nạn cho kẻ no nê mà không biệt đồng loại mình đang chết đói. Đó cũng là ý nghĩa của lời phúc và khốn cho người đói - kẻ no nê.
3, Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc lóc…
Theo Chúa thì luôn có thập giá trên vai mà vác, nghĩa là thử thách không thể thiếu trong cuộc đời kitô hữu. Nhưng rồi chính Chúa sẽ lau khô dòng lệ cho những ai theo Người (x. Kh 21,3). Chính Chúa Giêsu cũng chảy nước mắt vì thành Giêrusalem sẽ sụp đổ, khóc thương Lazarô bạn Ngài chết và đổ mồ hôi máu khi nhìn thấy viễn cảnh thập giá dành cho Ngài. Cuộc đời Kitô hữu cũng sẽ phải khóc cho thế giới hư hoại, khóc cho nội đau của đồng loại và khóc vì thập giá nặng trên vai. Con Thiên Chúa đã khóc và chúng ta cũng khóc, nhưng sự khóc lóc đó sẽ biến thành niềm vui trong Chúa và Chúa Giêsu giúp chúng ta vượt qua đau khổ, biến nó thành nguồn mạch của niềm vui trong Nước Trời.
Ngược lại, con người ngày chạy theo những đam mê truỵ lạc, bày ra đủ trò tiêu khiển vui chơi… Họ đã được vui cười, nhưng sự vui cười này đã xô đổ mọi chuẩn mực luân lý và không còn ý thức về tội. sự vui cười đó đã đẩy họ xa dần Thiên Chúa và đi tới sự khóc lóc đời đời trong hoả ngục.
4, “ Phúc thay cho anh em khi vì con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị khai trừ như đồ xấu xa…”.
Ngày xưa, các thánh Tử Đạo thường được vua chúa hứa nếu bỏ đạo sẽ được trọng thưởng cho hưởng chức tước vinh hoa bổng lộc (nghĩa là được trọng vọng và ca tụng), còn nếu không bỏ thì sẽ bị lăng nhục và giết chết. Dưới cái nhìn đức tin, chúng ta thấy các thánh đã chọn “cái phúc” là chịu bách hại và từ chối “cái khốn” là được ca tụng.
Ngày nay cũng thế, để được vinh thân phì gia và đương nhiên có chức có quyền có giàu sang thì được ca tụng, không ít người Công Giáo đã không ngại “chối Chúa” là từ bỏ lề luật, bỏ đạo để bán mình cho “tà thần”(…). Nhẹ hơn, không ít người giấu diếm để khỏi người khác biết mình là người Công Giáo vì sợ bị chê cười hoặc bị kỳ thị trong công việc… Còn những ai dám sống thật và dám làm chứng cho Chúa và cho sự thật thì cái giá họ phải trả là chịu bách hại đủ đường từ chính thể chế chúng ta đang sống cũng như mất đi những cơ hội tiến thân…
TÓM LẠI: Tin Mừng hôm nay cảnh giác chúng ta: Giàu có nhưng tham lam, ích kỷ là cái giàu vô phúc, no nê để nuông chiều xác thịt, mù quáng trước tiếng gọi thiêng liêng thì đó là sự no nê bất hạnh, vui cười mà xao lãng việc đạo đức, những bổn phận của đời sống siêu nhiên, chuẩn bị cho đời sống vĩnh hằng, thì đó là vui cười bất hạnh, được mọi người ca tụng cũng không chắc là được hạnh phúc, vì lòng con người thay đổi, nay hoan hô mai đả đảo cách dễ dàng, hơn nữa, cứ mải miết cho người ta ca tụng là làm nô lệ cho danh vọng, và sẽ sao lãng việc làm vinh danh Thiên Chúa, là bổn phận làm người và làm con Chúa. Khi chê trách sự giàu có, vui cười v.v. Chúa Giêsu có ý chê trách thái độ sống của họ theo kiểu thế gian, làm cản trở việc đi vào Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, các mối phúc theo Tin Mừng hướng chúng con đến với Chúa và tha nhân, chứ không phải chỉ sống ích kỷ cho riêng mình. Xin cho chúng con nhờ sống vì Chúa và sống cho người khác mà chúng con cảm nhận được hạnh phúc thiêng liêng và đích thực, để chúng con biết vượt lên những khó khăn mà sống một cuộc đời thanh tao giữa vũng lầy tội lỗi. Amen.
Bình thường ai cũng muốn giàu có hơn là nghèo khó, muốn no nê hơn là phải đói, thích vui cười TN 6-C95
Bình thường ai cũng muốn giàu có hơn là nghèo khó, muốn no nê hơn là phải đói, thích vui cười hơn phải buồn sầu khóc lóc, mong được ca tụng hơn bị oán ghét. Thế mà Đức Giêsu gọi những cái con người ham, thích, mong muốn ấy là khốn; còn những cái con người tìm cách xa tránh lại là phúc. Vậy phải chăng Đức Giêsu muốn đảo lộn những giá trị con người tìm kiếm? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta cùng suy nghĩ về cái phúc và cái khôn đầu tiên do giàu và nghèo mang lại.
1. Phúc của người nghèo khó
Thánh Matthêu khi nói về các mối phúc thì nói tới cái nghèo tinh thần, còn thánh Luca thì nói tới cái nghèo thật sự, nghèo về vật chất.
Người ăn mày là người nghèo về vật chất. Người ngửa tay xin là chấp nhận liệt mình vào thành phần bần cùng của xã hội. Cái nghèo làm cho người ta phải chờ mong ít đồng tiền lẻ ở đầu đường phố chợ là cái nghèo làm cho người ta khổ. Thiên Chúa không chủ trương cho người ta nghèo theo kiểu này.
Còn người nghèo mà được hạnh phúc là ở chỗ người đó được Thiên Chúa quan tâm ưu ái. Quả vậy, Đức Giêsu được sai đến trần gian là để đem Tin Mừng cứu độ cho người nghèo. Người đã trích lời ngôn sứ Isaia để nói về mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Is 6,1-12).
Tin Mừng cứu độ cũng được cụ thể qua dụ ngôn khách được mời trong Lc 14,15-24. Dụ ngôn này mô tả bữa tiệc được chuẩn bị sẵn sàng thì những người khách được mời lại từ chối. Người thì viện lý do mới mua đất cần đi thăm; người khác mới tậu năm cặp bò phải đi thử; người khác nữa mới cưới vợ không đi dự tiệc cưới được và họ nhất lọat xin kiếu. Cuối cùng thành phần tham dự bữa tiệc là những người nghèo khó, tàn tật, đui mù. Những người này có phúc ở chỗ không bị chi phối bởi những lý do bên ngoài, nhờ đó họ sẵn sàng đón nhận điều được ban là dự tiệc. Bữa tiệc trong dụ ngôn này ám chỉ bữa tiệc Nước Trời. Như vậy, người nghèo là người hạnh phúc vì sẵn sàng đón nhận Nước Trời. Ngược lại, người giàu lo vui hưởng hạnh phúc chóng qua đời này, và không chọn hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời làm gia nghiệp nên họ bị coi là người khốn.
2. Khốn của người giàu có
Con người sống gắn liền với nhu cầu vật chất. Nhu cầu ăn mặc đối với con người là không thể thiếu. Để “ăn ngon, mặc đẹp” phải có tiền. Kế đến là nhu cầu ở và đi lại. Muốn có nhà ở, muốn có xe đi phải có tiền.
Ngoài nhu cầu ăn mặc, nhà ở, phương tiện đi lại còn cần đến nhu cầu tri thức. Thông thường tri thức căn bản được tiếp thu qua trường lớp. Nếu không có tiền làm sao đến trường được? Ai muốn học cao lên phải có tiền kha khá mới trang trải đầy đủ cho việc học, nhờ đó mới có cơ may vươn lên với đời. Không có bột làm sao quấy nên hồ?
Như thế giàu có là điều kiện để thăng tiến cuộc đời. Vậy mà Đức Giêsu nói “khốn cho các ngươi những kẻ giàu có.” Lời nói này có thuyết phục không?
Người thanh niên trong Tin Mừng Matthêu chương 19 là người giàu có. Tuy anh nhận thấy Chúa là Đấng tốt lành và anh muốn theo. Nhưng chính của cải của anh đã níu kéo, ràng buộc anh lại, không cho anh trở nên người môn đệ của Chúa. Giàu có mà như thế là khốn.
Trước đây tại Anh Quốc, một đất nước giàu có, người ta làm một cuộc thăm dò ý kiến. Đối tượng được hỏi là 1000 phụ nữ đang có chồng. Câu hỏi được đưa ra là: “Bà cần đức ông chồng của bà hay cần cái tủ lạnh trong nhà bếp của bà hơn?” Kết quả thăm dò thật đáng ngạc nhiên: 87 % trả lời họ cần cái tủ lạnh trong nhà bếp hơn. Hỏi lý do tại sao thì họ trả lời: “Ngoài công dụng để bảo quản thức ăn, tủ lạnh là nơi giữ tiền đáng tín nhiệm. Nếu để ông chồng giữ tiền, ông có thể mượn đỡ đi uống bia!
Đời sống văn minh đưa con người đến chỗ đặt phương tiện sống lên trên con người, ngay cả người thân thiết nhất là vợ là chồng. Nếu không cảnh giác, phương tiện có thể trở thành mục tiêu số một khiến con người theo đuổi, đến nỗi coi con người là thứ yếu, người vợ coi chồng còn thua vật dụng trong nhà! Giàu có mà đem đến tình trạng như thế thì giàu có là một điều khốn.
Sống trong sự thịnh vượng nhiều khi là nguy cơ đánh mất những gì cao quý nhất là vậy. Giàu có có thể là một điều tốt, nhưng không bao giờ giàu có được coi là điều tốt nhất. Người ta vẫn quý sự bình an trong tâm hồn, quý tiếng tốt, quý sức khỏe, quý sự công chính hơn giàu có. Tiền bạc có giới hạn của nó. Nó không thể làm cho người sở hữu nó sống mãi được. Giàu có cũng không mua được tình yêu. Nhiều khi giàu có còn là nguyên nhân gây nên lo lắng bất an. Giàu có mà như thế thì giàu có là khốn.
Đành rằng con người sống ở trần gian cần có tiền làm phương tiện. Tuy nhiên những gì phương tiện mang lại cho con người cũng chỉ là hạnh phúc chóng qua và nhỏ nhoi. Hạnh phúc thật là hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Trời, là chính Chúa. Mỗi người sẽ là phúc hay là khốn là do mình chọn lựa hạnh phúc nào.
"Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em." (Lc 6,20
Hạnh phúc là niềm khao khát của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc.Cả TN 6-C96
Hạnh phúc là niềm khao khát của mọi người.
Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc.
Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc.
Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc con người.
Những gì Ngài làm: sáng tạo, nhập thể, cứu chuộc, thánh hóa...đều nhằm đem lại hạnh phúc đời này và đời sau.
Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc con người.
Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Chẳng có gì dễ hiểu như hai từ hạnh phúc.
Nhưng định nghĩa thì không dễ.
Mỗi người có một quan niệm về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian.
Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là hạnh phúc đích thật.
Hạnh phúc không nằm nơi của cải, kiến thức, quyền uy.
Hạnh phúc không do chiếm được những gì mình muốn, nhưng do trao hiến điều quý nhất của mình.
Hạnh phúc là sự ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, giữa tôi với chính tôi...
Sống ở đời, con người thấy mình không có hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được trộn với mồ hôi, nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc. Chúng ta cần nhiều thời gian mới hiểu được các mối phúc. Những điều ta coi là bất hạnh, Ðức Giêsu bảo là hạnh phúc.
Nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả: những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì.
Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bị sỉ vả vì Chúa, thì ta thật là người có phúc.
Có bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương của Lời Chúa. Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin...
Và còn nhiều hạnh phúc khác.
Chính chúng ta cũng có thể viết những mối phúc mới, nhờ dựa vào những niềm vui Chúa ban cho ta mỗi ngày.
Đây là câu chuyện từ Internet:
Hôm nay đã là ngày 15 tháng 6. Nhanh thật, chỉ còn hai ngày nữa, tôi sẽ bước sang tuổi 30. Bất chợt, tôi có cảm giác bất an khi nghĩ đến giai đoạn kế tiếp của cuộc đời. Tôi mơ hồ nhận ra tuổi trẻ của mình đã mau chóng qua đi, và có lẽ đã qua rồi những thời khắc đẹp nhất của mình. Chỉ còn với tôi là những nỗi lo toan về cuộc sống.
Như thường lệ, sáng nay, tôi đến phòng tập thể dục trước khi đến sở làm. Ớ đó, tôi có một người bạn thân thiết. Tuy đã 79 tuổi nhưng ông vẫn giữ được thân thể tráng kiện và một tinh thần yêu đời đặc biệt. Khi gặp tôi, ông nhận ra ngay tâm trạng bất ổn của tôi. Sau đó hai bác cháu nói chuyện với nhau thật lâu.
- Trong cuộc đời bác, bác cảm thấy lúc nào mình hạnh phúc nhất?
Tôi hỏi và chợt nhận ra mình đã thay đổi câu hỏi. Lẽ ra tôi phải hỏi là có khi nào bác gặp phải cảm giác buồn chán như tôi bây giờ không.
Hồi bác còn nhỏ, cuộc sống thật khó khăn. - ông bắt đầu kể. - Bố mẹ bác đi làm ở xa, cả ngày mới về. Thỉnh thoảng, mẹ mua quà về cho mấy anh chị em bác, khi thì những chiếc bánh, khi thì mấy viên kẹo. Những lúc đó, bác thực sự thấy mình là người hạnh phúc nhất.
Đến tuổi đi học, lần đầu tiên bác đánh vần và đọc được tên mình. Bác thấy tự hào vô cùng, chạy đi khoe khắp nơi, lúc đó là thời gian hạnh phúc nhất.
Khi tốt nghiệp đại học, bác được nhận vào làm việc ở một công ty lớn. Cầm trên tay tháng lương đầu tiên, bác vui sướng biết bao.
Có lần bác bị tai nạn phải nằm bệnh viện khá lâu, những ngày ở bệnh viện bác đã suy nghĩ được nhiều điều mà trước kia bác không nghĩ đến, được gặp lại bạn bè và người thân. Khoảng thời gian ấy thật là tuyệt vời
Và giờ đây, ở tuổi bảy mươi chín, bác vẫn có thể đến đây tập thể dục hàng ngày. Bác thấy mình vẫn còn có ích cho mọi người xung quanh. Đây là thời khắc tuyệt vời nhất của bác.
Cháu hãy nghĩ một giai đoạn mới của cuộc đời cũng giống như một chương mới của quyển sách. Dù có đau khổ, buồn hay vui đều có giá trị cho quyển sách cuộc đời. Cháu cứ đọc rồi sẽ thấy hay. (Thảo Nguyên theo Internet)
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu và chản nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con. Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
---------------------------------
TN 6-C97: Phần thưởng anh em sẽ bội hậu trên trời ( Lc 6, 26 )
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ VI thường niên được các nhà chú giải Thánh Kinh đặt là “ Hiến chương TN 6-C97
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ VI thường niên được các nhà chú giải Thánh Kinh đặt là “ Hiến chương nước trời”, có nghĩa là một văn bản qui định cho những ai tin vào nước Thiên Chúa, hiểu được nơi mình sẽ đến và điều kiện để vào.
Tin mừng của Chúa kể là khó hiểu với con người. Trong lúc xã hội hiện nay mọi người đang chạy đua làm giàu, người người đều trọng vọng những người có tiền của, danh vọng, địa vị. Chúa lại làm ngược lại là chúc: “ phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”, và những người biết sống liên đới với những người đói khổ, bất hạnh. Trong lúc mọi người tìm đến sự an nhàn, vinh thân phì gia, hưởng thụ, trong ấm ngòai êm, thì Chúa lại chúc: “ Phúc cho anh em là những người phải khóc lóc “. Không phải đôi điều chúc phúc mà là tám điều phúc thật, dành cho những người hiền lành, đơn sơ, chất phác; những ai khát khao nên người công chính. Chúa còn chúc phúc cho những ai xót thương người, những ai có tâm hồn trong sạch, những ai xây dựng hòa bình. Và nhất là những ai “ Vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng anh em, và loại trừ tên anh em như kẻ bất lương “
Lạy Chúa, Hẳn là Chúa không muốn để con người phải túng đói, nghèo hèn. Chúa cũng chẳng muốn một người nào trong chúng con bị người khác xỉ vả, bị bách hại. Nhưng Chúa chúc phúc cho họ vì trong cuộc sống trần thế này, những người như thế cần được sự thương yêu, hỗ trợ. Họ trông mong được sự chở che, giúp đỡ hầu thoát cơn hoạn nạn. Chính vì vậy, khi đã nhận biết Chúa, họ đặt trọn niềm tin vào sự giải thoát, vào ơn cứu độ của Người. Chúa yêu thương họ vì chính Chúa là tình yêu. Chúa chúc phúc cho họ vì họ luôn hướng đến quê trời, nơi đó, họ tin rằng họ sẽ được hưởng phúc thật. Họ tin vào Chúa là Đấng đầy lòng xót thương .
Trong chúng con đây, cuộc sống nhiều người chưa đến nỗi lâm vào cảnh túng thiếu, khốn cùng, cũng chưa gặp lao đao vất vả quá sức. Chúng con xin cảm tạ Chúa. Chúng con cũng mong muốn đón nhận được những lời chúc phúc của Chúa, nhưng bằng cách nào? Phải chăng đó là con phải sống chia sẻ, biết ủi an, nâng đỡ những anh chị em còn khó khăn, đang gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Những người bị áp bức, bị lọai trừ trong xã hội. Biết sống tiết độ, công bằng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Đó chính là chúng con đang trở thành những người khó nghèo trước mặt Chúa.
Xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống liên đới với mọi người, nhất là những người đang cần đến sự giúp đỡ. Dám can đảm đứng về phía chân lý, sự thật, sự công bằng. Không thỏa hiệp với những điều xấu, không sa vào những cám dỗ tội lỗi và cùng giúp nhau vươn lên hòan thiện, để mai này lời Chúa hứa: “Ngày ấy anh em hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng anh em sẽ bội hậu trên trời” sẽ được thực hiện. AMEN .
Đức Yêsu không nhằm rao giảng những điều người ta dễ chấp nhận, nhưng chính yếu rao giảng TN 6-C98
Đức Yêsu không nhằm rao giảng những điều người ta dễ chấp nhận, nhưng chính yếu rao giảng những điều giúp giải phóng con người và làm con người hạnh phúc, cho dù điều này có vẻ nghịch thường hay ngược lại với quan điểm của người đời.
Khốn cho các ngươi là những người giầu
Người nghèo ở đây, là người không đặt niềm hy vọng nơi tiền bạc, nơi con người, nhưng chỉ đặt niềm hy vọng và trông cậy nơi một Thiên Chúa mà thôi.
Sách tiên tri Jeremia nói: “khốn cho kẻ đặt niềm hy vọng nơi người phàm mà không trông cậy nơi Thiên Chúa”. Những người này cho rằng: “Đồng tiền là tiên là Phật”, “Có tiền mua tiên cũng được”. Có tiền mua được tình cảm, mua được chức vị, mua được tất cả. Quan niệm như vậy có thực sự đúng không? Liệu tiền bạc có mua được tình yêu đích thực không? Liệu tiền bạc mua được hạnh phúc không?
“Giầu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có lúc tường xiêu ngói đổ”. Có bao nhiêu người lý luận rằng, họ để gia tài cho con cái thật nhiều, là làm con cái hạnh phúc; nhưng thực tế cho thấy có rất nhiều con cái của những người giầu có hư hỏng. Nếu đặt đồng tiền lên trên, sẽ làm mất hạnh phúc gia đình vì không còn dành thời gian cho nhau (vợ cho chồng, chồng cho vợ, cha mẹ cho con cái). Đồng tiền là tên đầy tớ trung thành, nhưng là ông chủ ác nghiệt.
Theo thánh Ynhã Loyola, ma qủy cám dỗ người ta ham mê tiền bạc đầu tiên, rồi sau đó cám dỗ con người về ham mê danh vọng, và sau đó sẽ đi đến mức độ nghĩ mình có thể làm được tất cả, cho mình là nhất, và không cần chờ đợi gì nơi Thiên Chúa cả. Đa số con người ai cũng thích tiền; rồi dẫn đến quan niệm thích tiền là chuyện bình thường, và ai không thích tiền mới là người bất bình thường. Vậy làm sao để nhận ra tiền bạc là một cám dỗ với con người? Ai đã có tiền, còn muốn có nhiều hơn, và cứ như vậy, con người bị trói buộc nô lệ tiền bạc. Khi đã bước vào vòng ham mê tiền bạc, thoát ra qủa thật là điều khó. Đồng tiền có vòng kiềm toả của nó, đã sa vào thì khó có thể bước ra được.
Phúc cho các ngươi là những người nghèo
Làm sao để xác tín nghèo là mối phúc, tin tưởng vào Thiên Chúa và sống theo lề luật của Ngài làm con người hạnh phúc? Chỉ nhờ vào Thiên Chúa, tin vào Đấng tuyệt đối mới có thể giúp con người thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiền bạc và danh vọng.
“Phúc cho người đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái bốn mùa”. Những người đặt niềm tin nơi con người- sinh vật giới hạn cả về khả năng lẫn mức độ trung thành và đạo đức, làm sao có thể hạnh phúc được? Những người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, lấy luật Chúa là nguyên tắc sống, sống theo gương mẫu là Đức Yêsu, yêu thương và tha thứ, tin tưởng và bắt đầu lại mọi nơi mọi lúc, sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Đức Yêsu đã sống nghèo, và một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa Cha, ngay cả giây phút cuối đời trên thập giá “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”, dù rằng Ngài cũng bị cám dỗ cùng cực “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con”.
Không còn gì để tin tưởng, chỉ còn Thiên Chúa mà thôi, và đặt tất cả niềm tin nơi Ngài, là mối phúc. Nghèo, chứ không phải bần cùng, là mối phúc không dễ gì cảm nhận. Thánh Phanxicô khó khăn là người đã cảm nghiệm đặc biệt được điều này. Xin cho con người hiểu được giáo huấn của Đức Yêsu: phúc cho những ai đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa, phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tin tưởng vào Thiên Chúa, được gì và mất gì? 2. Những thiệt thòi của người nghèo? 3. Thiên Chúa và Giáo Hội có muốn con người nghèo đói không? Tại sao?
“Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa” (Gr.17, 5).
Làm sao có thể tin tưởng nơi người đời, khi mà kinh nghiệm sống cho thấy bao nhiêu người hứa TN 6-C99
Làm sao có thể tin tưởng nơi người đời, khi mà kinh nghiệm sống cho thấy bao nhiêu người hứa yêu nhau trọn đời, thề nguyền trọn đời chung thủy, rồi với thời gian con người đã thay đổi. Bao nhiêu người con không được sống trong mái gia đình có cha có mẹ, vì cha mẹ các em đã “chia tay”. Lời hứa “trọn đời yêu nhau” “trọn đời chung thủy” “cho dù núi chuyển sao dời anh (em) vẫn mãi mãi yêu em (anh)” đã tan đi như mây khói. Kinh nghiệm sống cũng cho thấy có bao nhiêu người tin tưởng nơi con người, nơi tình bạn, nơi tình gia đình, nhưng thực tế cũng cho thấy có bao nhiêu phản bội, bao nhiêu lường gạt, đặc biệt về khía cạnh tiền bạc! Làm sao có thể tin tưởng được nơi người đời, làm sao có thể tin được nơi con người? Cả người trong gia đình, cả vợ cả chồng, cả con cái cha mẹ còn chưa tin được nhau, thì làm sao có thể tin tưởng nơi người đời.
Ngay cả chính bản thân tôi, đôi khi tôi còn chẳng tin vào mình được nữa, thì làm sao có thể tin nơi người khác. Có bao lần tôi hứa, rồi tôi phản bội. Có bao lần tôi dốc lòng không làm điều xằng quấy, thế rồi tôi lại làm. Tôi hứa với Thiên Chúa sau mỗi lần phạm tội, và tôi đã lỗi phạm lại bao lần! Tôi muốn lắm, tôi muốn thành người tuyệt vời, không sa ngã vào điều này điều kia, thế mà tôi lại đã bao lần vấp phạm sa ngã. Có bao người chán nản và thất vọng về chính mình, vì mình đã không làm được điều mình dốc lòng, điều mình hứa với chính mình và với Thiên Chúa. Tôi còn chưa tin vào được chính mình, thì làm sao tôi có thể tin vào người khác, cho dù người đó là ai chăng nữa! Lời sách tiên tri Giêrêmia thật rất đúng: “khốn thay kẻ tin tưởng nơi người đời”.
Thế nhưng vấn đề không chỉ đơn sơ như vậy. Nếu không tin vào người đời, nếu không tin vào con người, thì liệu mình có thể sống hạnh phúc không? Nếu không tin vào con người, thì mình sống với ai? Làm sao sống có thể hạnh phúc được? Thực sự, tin vào Thiên Chúa mới làm cho con người được hạnh phúc thật. Chỉ khi nào mình tin vào Thiên Chúa, mình mới có thể tin vào mình và có thể tin vào con người. Người ta có thể có những hình ảnh méo mó lệch lạc về Thiên Chúa như coi Ngài là Con Tạo “đành hanh”, một Thiên Chúa nghiêm khắc chỉ lo rình rập để bắt lỗi và hành khổ con người. Nếu một người có cái nhìn sai lệch như vậy về Thiên Chúa, thì họ cũng không thể sống hạnh phúc được; còn nếu một người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài yêu thương con người và yêu thương mình vô cùng, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc, luôn tìm cách giúp đỡ con người, thì người đó sẽ dễ dàng sống bình an hạnh phúc.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài làm mọi sự vì yêu thương. Ngài sẵn sàng làm tất cả cho tôi, để tôi được an bình hạnh phúc thật. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho tôi, dù tôi có xúc phạm đến Ngài thế nào đi nữa. Ngài luôn tôn trọng tự do của tôi, nhưng Ngài vẫn luôn tìm cách lôi kéo tôi trở lại đường ngay nẻo chính. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tôi, mà còn yêu thương tất cả mọi người như yêu thương chính Con Một yêu quý của Ngài. Ngài luôn ban ơn trợ lực, luôn mời gọi để con người hoàn lương trở lại với Ngài và với anh chị em mình.
Tự sức tôi, tôi không thể tin vào tôi; nhưng nếu tôi tin vào Thiên Chúa, nếu tôi tin Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Ngài luôn theo tôi dù tôi hoang đàng thế nào chăng nữa, thì lúc đó tôi có thể tin vào tôi. Tôi tin vào tôi vì tôi tin vào Thiên Chúa, vì tôi tin Thiên Chúa yêu thương và sẽ giúp tôi vươn lên và trở thành người tốt. Ngài vẫn trung thành với tôi, dù tôi không trung thành với Ngài; Ngài vẫn yêu thương tôi, dù tôi không yêu thương Ngài; Ngài vẫn kiên trì với tôi và với anh chị em tôi, dù tôi không kiên trì với tôi và với họ; Ngài vẫn hy vọng và chờ đợi nơi tôi và nơi con người cho dù tôi không hy vọng nơi chính tôi và họ. Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Ngài quyền năng trong yêu thương, nên Ngài có thể biến đổi tôi và biến đổi anh em tôi. Chính vì tin vào Ngài, mà tôi có thể tin vào anh em tôi. Ngay lúc này, người anh chị em tôi có thể dở và ngoan cố, nhưng trong tương lai có thể khác. Thiên Chúa toàn năng, Ngài đang mời gọi người anh chị em tôi trở lại, và mong họ trở thành người khác, và chắc Ngài sẽ thành công. Ngay lúc này, có thể là Ngài chưa thành công, nhưng chắc Ngài sẽ thành công, vì nếu không Ngài chẳng còn là Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Khi thấy mình dở và cảm thấy mình không có nghị lực để sống tốt, thì cũng đừng sợ nhưng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa sẽ giúp tôi trở thành người tốt, và ngay cả trở thành người tuyệt vời. Người anh chị em tôi quá dở và qua kinh nghiệm, người anh chị em này không đáng tin một chút nào nữa! Đừng sợ nhưng hãy tin vào Thiên Chúa, để rồi còn có thể hy vọng nơi họ, vì Thiên Chúa là tình yêu, Ngài quyền năng và Ngài vẫn đang mời gọi và giúp đỡ người anh chị em đó trở lại với Ngài. Nếu mỗi người tin vào Thiên Chúa, thì có thể tin vào anh chị em mình. Phút cuối cùng, chắc Thiên Chúa sẽ thắng. Tôi có thể không nhìn thấy giây phút chiến thắng này của Thiên Chúa, nhưng tôi tin chắc điều đó sẽ xảy ra. Nếu tôi là người mà còn yêu thương người anh chị em mình như vậy, không lẽ Thiên Chúa là Cha họ (vì nếu không nhờ Ngài thì họ đâu có thể hiện hữu) không yêu thương họ bằng tôi sao?!
Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ ban Đức Yêsu Kitô cho con người. Ngài đã chết và đã sống lại. Nếu tôi tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa nhập thể, tôi nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người đến độ như thế nào! Đức tin là một hồng ân vô cùng lớn, và là yếu tố giúp con người có thể sống an bình hạnh phúc; vì qua đức tin con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Một người nghèo, không bám víu vào tiền bạc, chỉ trông chờ tất cả nơi Thiên Chúa, sẽ là một người có phúc. Người giầu có về tiền bạc nhưng có tinh thần khó nghèo, nghĩa là người không cậy dựa vào tiền bạc mà vẫn chỉ trông chờ tất cả nơi Thiên Chúa, thì vẫn là người được chúc phúc. Phúc cho anh em là những người nghèo!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có kinh nghiệm nào cho thấy Thiên Chúa yêu thương bạn không? Xin chia sẻ.
2. Bạn có tin rằng Thiên Chúa có thể biến đổi bạn và biến đổi người anh chị em mình không? Xin giải thích quan điểm của bạn.
Có một sự thật mà ai cũng phải gật đầu thừa nhận rằng trên đời này chẳng ai muốn mình phải sống TN 6-C100
Có một sự thật mà ai cũng phải gật đầu thừa nhận rằng trên đời này chẳng ai muốn mình phải sống trong cảnh nghèo khổ. Nếu như không quá tham vọng một cuộc sống nhung lụa, phú quý thì chí ít con người cũng khao khát cho mình có một gia đình hòa thuận, một cuộc sống đủ ăn, đủ mặc và một chút dư thừa.
Và chẳng ai hi vọng mình cứ mãi sống trong cái cảnh nghèo túng đâu? Nghèo cũng có đến năm bảy loại nghèo, nhưng chung quy đã nghèo thì chỉ thấy bất hạnh. Nghèo đến độ mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc thì quả thực là khốn khổ vô cùng.
Có câu chuyện vui kể rằng: Cuối tháng, Tèo than thở với ông bạn đồng nghiệp:
- Anh biết không, nhiều khi tôi chỉ ước được sống trong cảnh nghèo đói một ngày thôi mà Trời vẫn không cho!
- Trời ạ! - anh đồng nghiệp sửng sốt - Người ta sợ nghèo, sợ đói còn không kịp, cậu lại đi ước ao nghèo.
Tèo thở dài:
- Tôi chỉ ước một ngày thôi, chứ ngày nào cũng đói khổ như hiện tại làm sao mà chịu nổi.
- !!!
Nghèo đói là tai hoạ của kiếp người. Xã hội hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Thế mà, phúc âm Chúa Giê-su lại chúc phúc cho anh em khi được đói nghèo: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói?”. Không lẽ Chúa Giê-su lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?
Chúa không chúc phúc cho sự đói nghèo mà Chúa chúc phúc cho các môn đệ của Chúa là những người đã dám bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, để rồi chẳng còn gì là của riêng mình. Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những ngư phủ khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giê-su, các ngài từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên vô gia cư, vô sản vì Tin Mừng và vì Chúa Giê-su. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giê-su trọng thưởng. “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người. Thiên Chúa sẽ bù đắp lại cho những gì con người đã làm cho Chúa, Ngài không để cho ai thiệt thòi vì tin mừng.
Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn những cái chúng ta dâng cho Chúa.
Thiết tưởng đây phải là lối sống mà những kẻ tin theo Chúa cần thể hiện một cách triệt để trong cuộc sống hôm nay. Giữa một thế giới mà lòng ích kỷ, hưởng thụ, khiến nhân loại đang chìm đắm trong bể khổ của ly tán, bất công và bạo lực, người kytô hữu phải sống triệt để tinh thần bác ác, vị tha. Con người hôm nay đang tự đầy đoạ nhau trong những bon chen danh lợi thú, những đam mê bất chính đã đẩy nhận loại đến tận cùng của sự dữ, đến nỗi người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau và đẩy nhau đến chỗ diệt vong. Người kytô hữu hơn bao giờ hết cần phải ý thức rằng tất cả chỉ là phù hoa. Trần gian là phù vân. Mọi sự rồi cũng sẽ qua. Thiên đàng mới là bất diệt. Ở nơi đó mới làm thoả mãn mọi ước vọng của con người. Cuộc sống trần gian ngắn ngủi tựa như “bóng câu qua cửa sổ”, còn đời sống thiên quốc mới vĩnh viễn ngàn thu. Đó mới là nơi mà chúng ta phải phấn đấu để đạt lấy triều thiên của vinh quang, của hạnh phúc bất diệt.
Nguỵên xin Chúa Giêsu Thánh Thể, là lương thực trợ giúp chúng ta trên đường về đất hứa xin ban cho chúng ta được no thoả ân tình của Chúa để luôn hạnh phúc với những gì Chúa ban. Amen.