Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm: TN4-C51
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
Nếu truy tầm lý do tại sao có sự thay đổi này, ta sẽ thấy phần nào cách suy tư, lời nói và con người Đức Giêsu làm cho dân chúng Nagiarét bị chưng hửng đối với ý tưởng họ sẵn có về Đức Messia và sứ mạng của Ngài. Con người của Ngài không am hợp với những gì họ tưởng tượng. Ngài cũng giống như bất cứ ai trong họ; chẳng có gì tỏ ra là người thiên thai cả. Ở đây Ngài cũng chẳng thực hiện phép lạ nào trước mặt họ. Rồi sứ điệp của Ngài cũng chẳng nói lên những điều họ đang thực sự ước ao: bởi lẽ Ngài không loan báo cho họ một cuộc sống thế trần tiện nghi thoải mái, cũng không loan báo một nước Israel hùng cường vĩ đại. Chắc chắn họ mong chờ nơi Chúa Giêsu những gì Ngài đã từ khước khi bị cám dỗ trong sa mạc: bánh, sự lạ và quyền thế. Thế nhưng Ngài lại mang đến Lời Chúa, mang đến một nước Thiên Chúa tuy đơn sơ nhưng thật là vĩ đại. Các tiến sĩ luật mớm những chuyện đó cho dân chúng và làm thay đổi bầu không khí.
Hơn nữa, Ngài đã thực hiện những phép lạ ở chỗ khác, trước hết là ở là ở Caphanaum chứ không làm ở Nagiarét nơi họ cư ngụ; điều đó đụng chạm đến lòng ái quốc quá khích của họ khiến họ nói: ‘Thày lang ơi! Hãy chữa lấy mình. Mọi điều chúng tôi đã nghe xảy ra ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở nơi quê hương ông đây nữa đi!’ Chúa Giêsu trả lời: ‘Không có tiên tri nào được sùng mộ ở quê hương mình’, Ngài không chút nhượng bộ lòng ái quốc sai lầm của họ. Ngài không theo họ hướng dẫn, chính họ mới phải theo sự chỉ đạo của Ngài.
Ngài đi xa hơn nữa và cho họ thấy rằng việc họ được thuộc về dân Thiên Chúa tuyển chọn không hẳn là bảo đảm được cứu độ, chỉ có những tâm hồn biết chuẩn bị mới nhận được chứ không phải là những liên hệ máu mủ.
Xưa tiên tri Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp một người ngoại bang: vì bà goá Sarepta thuộc xứ Siđon này đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu ông. Rồi Naaman, người Syria cũng thế, ông đến với tiên tri Êlisêô và được chữa lành, còn những người đồng quê với tiên tri lại luôn cản mũi kỳ đà. Vậy hai người của Thiên Chúa đó đã đủ để cho thấy rằng cứ là người Israel mà thôi không đủ; người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn cứu độ bằng một con tim ngay thẳng và một tinh thần chân thành.
Dân cư Nagiarét đã hiểu được lời đe doạ. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy rằng Ngài không theo cùng một lối suy tưởng như họ, không cùng hy vọng như họ và họ cần thay đổi não trạng. Nhưng họ lại không chịu, thế nên mới có sự thù địch giữa Ngài với họ.Nhiệt tình ban đầu dựa trên tình cảm bỗng dưng đổi thành ghen ghét. Họ biết rõ Chúa đòi hỏi phải hoán cải, nhưng họ lại không muốn quay lại. Như thế là họ đã xua đuổi Ngài và ồn ào giận dữ, họ đuổi Ngài ra khỏi hội đường đến cuối làng để rồi xô Ngài từ trên triền đá xuống. Nhưng Ngài đi qua giữa họ mà họ chẳng thể hại được Ngài. Ngài ra đi để chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa.
Đối với chúng ta, việc Ngài từ bỏ ngôi làng nơi Ngài lớn lên là một sơ thảo về những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai: bị dân riêng khai trừ, từ nay Ngài đi về phía các dân ngoại.
Sự thay đổi bất ưng và thiếu suy nghĩ, việc biến thương yêu ra hận thù, tán dương thành bài xích ấy đáng cho ta suy nghĩ. Tự bản chất, Kitô giáo khơi dậy nơi những ai không thành kiến một sự hấp dẫn tự phát, bởi vì Tin mừng trả lời cho những vấn nạn thâm sâu nhất của con người và đáp lại nỗi thất vong thầm kín nhất của tâm hồn. Nhưng rõ ràng con người lại tiếp nhận với tất cả định kiến. Họ xét đoán theo mặt trái, nông cạn, dựa trên những thiên kiến đã được hấp thụ qua nền giáo dục. Họ quan niệm ơn cứu chuộc, trợ giúp theo cách thế của họ, kẻ theo chiều hướng coi trọng vật chất, ngưới lại theo xu hướng chính trị hay xã hội. Họ không có ý nghe để hấp thụ mà để biện minh cho những gì họ tưởng nghĩ hay mong ước. Họ lấy phán đoán cá nhân họ để đo lường Lời Chúa.
Nếu Lời Chúa không am hợp với những tư tưởng và ước muốn của họ thì họ liền kết án và khu trừ. Họ không muốn để mình được điều gì khác cân đo, nhưng muốn mình là khuôn là thước cho chính mình; họ không muốn cái gì khác thẩm định họ, nhưng muốn tự phán xét chính bản thân mình.
Bối cảnh đã xảy ra ở Nagiarét vẫn không ngừng tiếp diễn. Trong lần xuất hiện đầu tiên này, Chúa Giêsu khuyên bảo và cảnh giác. Mặc kệ tất cả, Ngài cứ bước đi giữa họ, đến với người khác, điều đó có nghĩa là sự bài xích chẳng thể làm gì được Ngài, nhưng sẽ trở lại chính họ. Chúa Giêsu sẽ đi xa, chính khi con người không muốn tiếp nhận Ngài. Khi họ ghét Ngài, thì Ngài đem tình thương đi chỗ khác; khi họ có ý giết Ngài thì Ngài vẫn không ngừng trao ban sự sống. Họ bị huỷ diệt, còn Ngài vẫn tiến bước đi.
Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe Đấy là: TN4-C52
Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Đấy là kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội trường làng quê Nagiarét: Qua bài đọc của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu vừa đưa ra một chương trình hành động: Rao giảng Tin Mừng cho Người nghèo hèn, giải phóng những tù nhân, đem lại sự giải thoát cho những người bị áp bức, loan báo năm hồng ân của Chúa. Lời chú giải duy nhất của Đức Giêsu nói rằng! Hôm nay, mọi sự ấy đã ứng nghiệm. Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, Người khẳng định rằng bản thân Người đã đáp lại trọn vẹn mọi sự chờ đợi của Israel. Đức Giêsu kéo Lời Chúa từ "quá khứ" xa xôi nơi người ta muốn luôn luôn giam hãm Lời Chúa. Người yêu cầu nhân loại chớ đặt Thiên Chúa "trong quá khứ” hoặc "trong tương lai": phải là sự lan tỏa của Thiên Chúa, dự án của Thiên Chúa, trong đời sống hàng ngày của chúng ta... Hôm nay!
Và hôm nay, chẳng phải chúng ta cũng đã cố gắng kéo lui Tin Mừng trở về phía sau, vào hai mươi thế kỷ trước đây đó sao? Vậy còn những người nghèo hèn nào, những tù nhân và người bị áp bức nào hôm nay ở chung quanh chúng ta? Chúng ta sẽ mang đến cho họ Tin Mừng nào?
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người
Tôi chiêm ngưỡng "miệng" Đức Giêsu mà Luca là người duy nhất thường nói với chúng ta (Lc 4,22; 11,54; 22,71). Những "lời ân sủng" từ miệng Đức Giêsu mà ra. Như thế, sự rao giảng của Đức Giêsu đã bắt đầu với việc khẳng định rằng thời kỳ mà Thiên Chúa ban ơn "không mất tiền" và ban sự tha thứ đã đến và đó là hôm nay: ý nghĩa sít sao của từ "giải phóng" trả lại tự do, hay "giải thoát" ("aphésis" trong tiếng Hy Lạp) là thế. Đức Giêsu đến để mang lại một "sứ điệp của ân sủng", một sự ban ơn, một quà tặng vô giá mà không ai xứng đáng được. Chúng ta phải ghi nhận rằng toàn bộ thần học của thánh Phaolô về "ân sủng" trong thư gởi tín hữu Rôma đã được viết ra khi Luca soạn thảo Tin Mừng của Người. "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20).
Luca đã là một môn đệ và một người bạn đồng hành của Phaolô. Không giống như Máccô (6,1-6), trước tiên Luca ghi nhận rằng việc rao giảng của Đức Giêsu được đón nhận: “Mọi người đều tán thành và thán phục?". Những người dân ở Nagiarét không xấu xa hơn ở những nơi khác: Vậy thì, tại sao họ sắp sửa trở mặt?
Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?
Luca biết rất rõ đó là một biểu lộ sự ngu dốt của họ về nguồn gốc thật sự của Đức Giêsu như ngài vừa viết ra trên giấy trắng mực đen: "Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse" (Lc 3,23). Vậy thì, người ta hài lòng với "sứ điệp của Đức Giêsu, nhưng Người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Người: Đó là cớ vấp phạm rất thông thường của nhân loại! Dẫu sao, đó chỉ là "con ông Giuse". Giáo Hội cũng luôn gây ra cùng một cớ vấp phạm. Người ta sẵn sàng tiếp đón sứ điệp của Giáo Hội, nhưng người ta không chấp nhận sự yếu đuối của con người trong Giáo Hội.
Giáo Hội cơ cấu giống như phần lớn các hiệp hội, với tài chính của nó, với sự nặng nề trong việc điều hành, nhưng sơ cứng của sức nặng quá khứ trong huyết quản, những tội lỗi của cách thành viên, chứng nhận định thiếu sót của một số viên chức, sự sợ hãi canh tân, những mâu thuẫn giữa “nói" và "làm". Người ta không bao giờ nhận xét hết những khía cạnh "quá" con người của Giáo Hội. Như thế, những người dân ở Nagiarét bị kẹt cứng trong định kiến "con ông Giuse".
Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Đức Giêsu không tìm cách làm giảm nhẹ cuộc xung đột mà Người đoán trước: Chính Người đã tấn công. "Vậy ông hãy làm cho chúng tôi những phép lạ như ông đã làm ở những miền lân cận!". Người ta không ngừng đặt "cơn cám dỗ" lớn ấy dưới chân Đức Giêsu. Đó là cơn cám dỗ của satan (Lc 4,l-14). Người ta đòi hỏi Đức Giêsu những "dấu chỉ từ trời xuống" (Lc 11,16).
Một trong những cách chối bỏ Thiên Chúa là yêu cầu Chúa làm các phép lạ. Chúng ta tiếp tục có thái độ của người dân ở Nagiarét. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta muốn ép Người làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ. Khi Người chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Người muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi Người chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Người mong muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi một bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi của chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin Mừng (Lc 5,17-26).
“Vậy ông cũng hãy làm tại đây một phép lạ cho chúng tôi”. Chúng ta cũng thế, có lúc chúng ta tưởng rằng mình phục vụ Thiên Chúa theo cách đó. Vả lại, muốn xếp đặt Thiên Chúa "để phục vụ chúng ta" chính là chối bỏ Người. Tối hậu thư bi đát. Tối hậu thư buồn cười. Con người tìm đến trước mặt Chúa và yêu cầu Người "làm" điều mà mình mong mỏi, điều phục vụ cho mình? Thách thức Thiên Chúa? Giảm lược Thiên Chúa để Người chỉ còn là một "động cơ phụ gỡ rối cho chúng ta khi cái xe: không còn chạy được nữa. Oâi! Lạy Chúa, con nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa ở Nagiarét! Xin Chúa giúp con trở lại với lòng con để bắt đầu phục vụ Chúa, thay vì đòi Chúa phục vụ con. Thay vì lúc nào cũng nói ‘nguyện ý con được thể hiện bởi Chúa, con phải nói trong chân lý rằng nguyện ý Cha được thể hiện bởi con’
Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình
Không, người ta chẳng chịu nghe cách ngôn sứ.
Làm ngôn sứ chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đằng khác! Nghĩa là làm “người phát ngôn" của Thiên Chúa. Giêrêmia trong bài đọc một của chủ nhật này nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe. Vì thế nhiều ngôn sứ đã phải chết: "Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi!” (Mt 23,37). Đấy là một chủ đề của Luca (6,23; 11,47-50; 13,33-34; Cv 7,52).
Còn chúng ta, trong thế giới mà đa số là vô tín và duy vật, nhưng chúng ta có phải là những ngôn sứ không? không phải trong những lúc đặc biệt mà trong đời thường mỗi ngày; nắm chắc "chính nghĩa của Thiên Chúa", nắm chắc lời "vì Chúa” (từ ngôn sứ trong tiếng Hy Lạp do chữ "pro - phèmi" có nghĩa là "tôi nói vì").
Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.
Luca, môn đệ của thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, là người duy nhất đưa ra sự so sánh này lấy ra từ Cựu ước để nhấn mạnh đến những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho những người không phải là dân Do Thái. Biến cố ở Nagiarét mang dáng dấp của một chủ đề thần học: ơn cứu độ không dành riêng cho một số người đặc quyền. Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại. Không có Đất Thánh, không có Dân được chọn. Chúng ta sẽ lạm dụng ngôn ngữ mạc khải nếu chúng ta sử dụng những cách diễn tả của Kinh Thánh một cách cố chấp như thể những miền đất khác bên ngoài Israel là phàm tục, như thể các dấn tộc khác bị loại trừ khỏi Giao ước Thiên Chúa không có biên giới! Thiên Chúa còn bao la, cao cả hơn những chân trời nhỏ bé của bản thân chúng ta! Người ta không thể giam hãm con ông Giuse trong cái "hố" ở Nagiarét của Người. Thiên Chúa cao cả hơn Giáo Hội hữu hình. Những người ngoài Kitô giáo không nằm bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa.
Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ co ông Naaman, người xứ Xyri thôi Trong sự so sánh giữa Israel và các dân ngoại, mọi ưu điểm thuộc về dân ngoại. Khi nào có thể, Đức Giêsu đều thán phục đức tin của các dân ngoại, những người không phải là Do Thái, những người Samari dị giáo (Lc 9,23.47; 10,33; 17,16). Thật lạ lùng khi tôn giáo có thể làm sơ cứng lòng người. Từ hai ngàn năm rồi Israel đã chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng đức tin của họ bị sơ cứng. Đó là lời cảnh báo cho tất cả những ai tưởng rằng mình thân thiết với những việc của Thiên Chúa, tưởng rằng mình được hưởng, một nền giáo dục Kitô giáo tốt đẹp, và việc thường xuyên tham dự các bí tích bảo đảm. "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông" (Lc 7,34).
Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực
Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Người bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57). Chúng ta hẳn sẽ lầm khi vội vã tưởng rằng mình ở về phía những người lương thiện và được miễn trừ thái độ của những người đồng hương với Đức Giêsu. Rất nhiều lần, chúng ta cũng "lôi" Đức Giêsu ra khỏi những quyết định của chúng ta, nhà chúng ta, nghề nghiệp chúng ta. Oâng không can dự gì ở nhà tôi! Hỡí ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo.
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi
Những từ khước của tôi không thể ngăn Con Thiên Chúa theo đuổi kế hoạch của Người với những người khác. Điều tệ hại là tôi không biết ngạc nhiên nhiều hơn! Giữa những trào lưu của lịch sử, những từ khước của con người, Đức Giêsu tiếp tục "con đường của Người”. Lạy Chúa, cám ơn Chúa!
Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc trình thuật của thánh Luca về việc Đức Giêsu đến thăm hội: TN4-C53
Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc trình thuật của thánh Luca về việc Đức Giêsu đến thăm hội đường Nagiarét. trình thuật đó đã được thánh Luca đặt vào lúc Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ và được trình bày như một cảnh khái quát chương trình, một biến cố điển hình có dụng ý khai mở và tóm tắt những gì sắp xảy ra.
Sau khi đứng lên đọc đoạn sách Isaia 61: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi...", theo tập tục, Đức Giêsu ngồi xuống giảng một bài và tuyên bố không úp mở rằng: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe".
Đầu tiên những người có mặt trong hội đường hôm ấy đều tán thành và thán phục những lời ban ân sủng (= những lời hay ý đẹp) thốt ra từ miệng Người". Họ bảo nhau: "ông này không phải là con ông Giuse đó sao? ". (Đức Giêsu mà thánh sử đã ghi trong gia phả của Người, được coi là con của Giuse: 3,23).
Đức Giêsu nắm lấy ngay vai trò chủ động của mình bằng hai giai đoạn.
Trước tiên, bằng cách tố giác hy vọng úp mở của những người đồng hương khi họ muốn Chúa làm cho họ, tại quê hương Người, những việc lạ lùng mà Người đã làm ở những nơi khác và muốn Người thi hành lời ban ân sủng để mưu ích cho họ. Dựa vào một câu tục ngữ, Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na- um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào! Lẽ nào ta lại không có thể coi đây như điều báo trước về lời nhục mạ mà người ta sẽ nhắm vào Đức Giêsu khi Người hấp hối trên thập giá: "Hãy tự cứu mình đi, nếu ông là Đấng Kitô "(Lc. 23,35. 7.39)
Rồi, bằng cách loan báo sứ mệnh của mình có tính phổ quát, Đức Giêsu đưa các thính giả của mình trở về với hai khuôn mặt lớn của Cựu ước là ngôn sứ Êlia và Eâlisa; đây là hai vị ngôn sứ có những hoạt động vượt ranh giới về mặt lãnh thổ cũng như tôn giáo. Vị thứ nhất đã hóa bánh và dầu ăn ra nhiều giúp nuôi sống một góa phụ ở Sarepta là miền đất thuộc dân ngoại (Cv. l7.7-27). Vị thứ hai là ngôn sứ Êlisa, môn đệ của Êlia đã chữa khỏi bệnh cùi cho một viên tướng người Syria đích thân tới gặp vị tiên tri ngày trên đất Israel (2 CV. 5, 1-27). Góa phụ Sarépta và Naaman người Syria được coi như những người cầm đầu đàn lũ đông đảo những dân ngoại mà công cuộc giải phóng họ đã được loan báo trong sách Isaia 61, thì "hôm nay" được ứng nghiệm nơi Người là Đức Giêsu.
"Gương Êlia và Êlisa ban ơn huệ của Thiên Chúa cho dân ngoại, như J. Dupgnt nhận xét, cho người ta thấy trước rằng một khi Chúa Giêsu đã bị dân Israel cũng như các đồng hương của mình chối bỏ thì sứ điệp cứu độ sẽ chuyên sang cho các dân ngoại. Vì thế biến cố ở Nagiarét là điềm báo trước những gì người ta thấy xảy ra đối với Phaolô ở Antiôkhia miền Pixiđia và ở Rôma khi ngài quay về phía các dân ngoại. Cách xử sự như vậy của Phaolô lúc này đã được hai vị ngôn sứ Eâlia và Êlisa thực hiện trong thời buổi của ngài như để tiên báo và biện minh cho hành động của Phaolô vậy".
2. Một sự chối bỏ báo trước sự chối bỏ khác:
Lời loan báo Israel không còn được hưởng đặc ân và Thiên Chúa tiếp đón các dân ngoại đã khiến cho cử tọa của hội đường đầy phẫn nộ. Y hệt như thái độ của những người Do thái ở Antiôkhia Pixiđia lúc đầu còn thiện cảm, tử tế rồi không bao lâu sau chuyển thành giận dữ khi họ thấy dân ngoại "nghe Lời Thiên Chúa" (Cv 13,44-45).
Thì này đây, những người đồng hương của Đức Giêsu đang đứng dậy lôi Người "ra khỏi thành" “để xô Người xuống vực". Giống như những thù địch của Chúa rồi đây sẽ lôi Người “ra khỏi thành" Giêrusalem để đóng đinh Người. Chẳng khác gì những người Do thái sẽ lôi Stêphanô "ra khỏi thành" để ném đá ông vậy (Cv. 7,54).
Nhưng giờ của Người chưa tới, nên "Người băng qua họ mà đi"; Đức Giêsu còn phải tiếp tục con đường sẽ dẫn Người tới thành đô Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc khổ nạn của Người, và là nơi Người sẽ sống lại và tỏ mình ra cho các môn đệ vào sáng ngày Lễ Vượt Qua.
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Một bài tường thuật để loan báo tương lai"
(H. Vulliez trong “Dieu si proche. Năm C", DDB, trg 90)
"Luca đã viế câu chuyện này để báo trước tương lai hơn là để tường thuật lại những gì xảy ra ở Nagiarét. Biến cố xảy ra trong hội đường hôm ấy là một giai đoạn mở đầu bi thảm báo trước những gì sẽ xảy ra cho sứ mệnh của Đức Giêsu khi ở giữa loài người. Một sứ mệnh sẽ vươn tới mọi dân tộc. Một sứ mệnh sẽ dẫn Người tới cái chết: Người sẽ bị người nhà của mình lên án tử, nhưng phàm những ai thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi mầu da nước tóc, đón nhận Người thì Người sẽ cho họ được làm con Thiên Chúa".
2. "Con người luôn có khuynh hướng muốn giam hãm Thiên Chúa”.
Những con người ấy nhận mình là những kẻ tin Chúa chân thành, có lòng đạo đức và thực hành đạo, thế mà sau khi đã ca ngợi Đức Giêsu ở trong hội đường, chính họ lại "đầy phẫn nộ, đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực". Vậy có ai dám nhận mình giống những người ấy không?
Dù là ai chăng nữa, chúng ta thảy đều có khuynh hướng muốn giam hãm Chúa và Đấng Kitô của Người trong một phạm vi nhất định của Giáo Hội ta, trong lời lẽ của những giáo điều, những truyền thống, những thực hành và ngay cả trong những cách sùng mộ của chúng ta nữa. Chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng nắm độc quyền về các ân sủng, phép lạ, ánh sáng của Chúa và ngay cả đức ái mà Người là nguồn mạch nữa. Vậy mà Phúc âm hôm nay khẳng định mạnh mẽ với ta rằng những người thân của Đức Giêsu thường sẵn sàng tống cổ Người ra khỏi nhà thờ, nghề nghiệp, quyết định và gia đinh của họ, mỗi khi sứ điệp của Chúa không làm vừa lòng họ, mỗi khi cuộc viếng thăm của Người gây phiền hà cho họ. Còn chính Chúa Giêsu thì lại nhắc nhở ta rằng Thiên Chúa đã thực hiện được những sự lạ lùng nơi các dân ngoại, đã cho những người cùi, những người thù địch của Israel, dân Chúa, được lành sạch. Đối với Thiên Chúa tình yêu, chỉ có tình yêu là tiêu chuẩn cuối cùng làm nên giá trị và sự thật cho tư tưởng và hành động của ta.
3. “Một sự hiểu lầm đáng sợ”
(G. Boucher, trong "Le ciel sur terre”)
Tại sao người con của quê hương lại không thực hiện được ở quê quán mình những việc lạ lùng mà người ấy đã làm ở những nơi khác? Và rồi có thể đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng trở mặt từ khen ngợi đến phẫn nộ đấy. Bởi lẽ, về phần Đức Giêsu thì Người nói rõ rằng điều cốt yếu mà Người muốn trình bày cho họ không phải chỉ có vấn đề các việc lạ lùng, mà Người muốn mạc khải cho họ tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa. Cái đó mới là điều hạnh phúc và may mắn thực cho chúng ta.
Lẽ ra Đức Giêsu phải cung cấp cho những người đồng hương của mình tiền bạc hoặc chữa cho họ khỏi những bệnh này tật nọ mới đúng. Xem ra người ta ao ước một điều, thì Chúa lại đưa ra điều ngược lại. Bởi lẽ ai nấy đều thích được lãnh nhận, trong khi Đức Giêsu lại đòi hỏi phải cho đi, cho đi bản thân mình, cho đi mạng sống mình. Và kết cục sẽ là thành công và hạnh phúc.
Đức Giêu có hy vọng những người đồng hương của mình sẽ hiểu biết và thông cảm hơn với Người không? Bởi vì họ là những người nhà của Người mà. Họ biết Người hơn, từng sát cạnh liền kề với Người, quý chuộng Người và yêu mến Người mà! Vậy mà chỉ mới ngay trong buổi nói chuyện đầu tiên, họ đều nổi xung lên với Người. Cả đám đều đứng dậy xô đẩy Người ra ngoài, loại bỏ và trục xuất Người khỏi cộng đồng của họ. Là vì Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong đợi. Họ nghĩ là Người lừa gạt quần chúng. Chừng nào sứ điệp của Người còn là lại kêu gọi hoán cải cuộc đời và chừng nào người ta chỉ thích sống dễ dãi, thì việc chối bỏ Đấng Thiên Chúa sai đến đã khởi sự rồi. Họ muốn cho Người phải chết, nên họ tìm cách loại bỏ Người con của quê hương này ra khỏi nhà họ bằng cách xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Đức Giêsu “băng qua giữa họ mà đi”. Người là kẻ tự do, hết sức tự do, Người cứ thảnh thời đi trên con đường của mình lòng đầy tự tin và tin vào sự trung tín của Thiên Chúa Cha Người. con đường Người đi được vạch sẵn. Không có gì làm cho Người phải lui bước!
Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài là Đấng Cứu Thế khi đọc đoạn Sách Thánh của tiên tri Isaia loan: TN4-C54
Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài là Đấng Cứu Thế khi đọc đoạn Sách Thánh của tiên tri Isaia loan báo về Ngài nhưng dân chúng tại quê hương Ngài không đón nhận và nhận ra Ngài.
Dưới con mắt và suy nghĩ của con người, dân chúng đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế phải đến. Ban đầu họ thán phục về phong thái và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó, kết quả tệ hơn là họ muốn loại trừ Ngài ngay những ngày đầu ra đi rao giảng và ngay tại quê hương mình, nơi mà những bà con thân thuộc của Chúa ở đây, đáng lẽ họ phải ủng hộ và hãnh diện về Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không quan tâm, không nao núng hay sợ hãi trước thái độ của dân chúng khi họ muốn loại trừ Ngài bằng hành động đẩy Ngài xuống vực thẳm, Ngài bình thản băng qua giữa họ mà đi.
Thái độ của con người là như vậy, chuộng điều hay, thích nghe điều mới lạ nhưng điều hay điều tốt nhất muốn dành cho mình ở ngay trước mắt lại không đón nhận. Trông chờ Đấng Cứu Thế đến để giải thoát mình khỏi ách thống trị của tội và mang lại bình an, hạnh phúc đích thực con người lại chối bỏ, từ khước và loại trừ Đấng đó, nặng nề hơn là đóng kín tai, nhắm mắt và muốn giết chết Đấng Cứu Thế.
Con người bám chặt vào hình thức bên ngoài, vào cái lợi ích trước mắt, thoả mãn ý riêng của mình, đánh giá sự việc cục bộ, so sánh mà không đúng với thực chất của nó.
Dân chúng thành Caphacnaum nhìn Chúa Giêsu hoàn toàn là trần tục, họ nhìn vào dòng họ, gia đình như bao nhiêu người khác, họ không nhận ra vai trò đích thực của Chúa Giêsu. Ngài vừa là con người để chia sẻ, thông cảm với kiếp sống con người vừa là Con Một của Thiên Chúa và Ngài chính là Thiên Chúa.
Chúng ta cũng vậy hằng ngày gần gũi với Chúa qua đời sống cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, đón nhận ơn của các bí tích và những việc đạo đức thường ngày, chúng ta có nhận ra thật sự sự hiện diện sống động của Chúa ngay bên mình hay không? Hay cũng chỉ là những đòi hỏi và bắt buộc Chúa đáp ứng mọi nhu cầu riêng tư của mình, có khi là những đòi hỏi trái ý Chúa và có hại cho phần rỗi của mình. Khi không được như ý, chúng ta loại trừ Chúa. Chúa có hay và quyền phép đó nhưng không thể hoàn toàn đáp ứng được những nhu cầu trước mắt, tạm thời của chúng ta. Chúa cũng chỉ là những mảnh mảnh vụn, chiếc bình phong cuối cùng khi chúng ta không còn gì để bám víu. Tại sao ngay từ đầu và ngay bây giờ chúng ta không tin tưởng và sống trọn vẹn cho Chúa. Phó thác hoàn toàn vào sự sắp đặt của Chúa cho cuộc đời chúng ta.
Nhưng cho dù thái độ của chúng ta như thế nào Chúa vẫn là Chúa, Ngài mãi yêu thương và chấp nhận mọi cách cử xử của chúng ta với Chúa. Cho dù chúng ta muốn loại trừ Chúa và giết chết Chúa trong tâm hồn mình hay ra loại Chúa ra khỏi cuộc sống hằng ngày của chúng ta, Chúa vẫn chờ đợi và vẫn luôn là Thiên Chúa cứu độ, khao khát đem bình an và hạnh phúc cho mỗi người chúng ta.
Qua bài phúc âm hôm nay, ước gì chúng ta ra Chúa là Chúa đích thực và có tâm hồn nhạy cảm nhận ra Chúa trong cuộc sống hằng ngày và đừng giới hạn Chúa trong suy nghĩ của mình mà sống theo những lời mời gọi của Chúa.
Sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian này là khai mở Nước Thiên Chúa. Chọn lựa của Ngài: TN4-C55
Sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian này là khai mở Nước Thiên Chúa. Chọn lựa của Ngài là làm theo Thánh ý Chúa Cha. Những gì liên quan đến sứ mạng ấy đã được tiên trị Isaia nói đến: “Loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, cho kẻ bị giam cầm được giải thoát . . .Nói chung Ngài là Đấng giải phóng con người khỏi những thế lực thế gian và tà thần đang làm cản bước con người tìm đến với chân lý. Ngài đã thực hiện sứ mạng ấy cách triệt để nơi tất cả mọi người. Ngài yêu thương hết mọi người và muốn giải cứu hết mọi người. Nhưng điều đáng tiếc đã xảy ra. Chúa Giêsu trở thành vị tiên tri bị từ chối! Những người từ chối Ngài trước tiên chính là những đồng hương, những người mà Ngài muốn dành cho họ những tình cảm ưu ái nhất. Bởi lẽ, óc thành kiến của những người nơi làng quê Nazareth đã ngăn cản họ, không cho họ tiến đến đón nhận những gì tốt đẹp nhất mà Chúa Giêsu muốn đem đến cho họ.
Có một câu chuyện kể rằng: Có một nhà thám hiểm nọ phải băng qua một Sa mạc rộng lớn. Vì không biết rõ hướng đi nên ông ta bị lạc đường. Chẳng may, ông ta bị hết nước uống. Cơn khát dữ dội khiến ông ta kiệt sức. Bổng ông ta nhìn thấy phía trước cách khoảng vài chục mét, có cái gì giống như một khe suối với tiếng nước chảy. Nhưng lý trí ông mách bảo ông rằng: “Làm gì có con suối trong Sa mạc”. Và ông đã gụt xuống! Một người khách bộ hành đi qua con đường đó, nhìn thấy nhà thám hiểm ngã gụt nên đến trợ giúp. Nhưng không còn kịp nữa. Nhà thám hiểm chỉ kịp nói một lời duy nhất: “khát”, rồi tắt thở! Người khách bộ hành lấy làm xót xa và thương tiếc cho nhà thám hiểm tội nghiệp kia vì ông ấy chết khát khi đã tới được rất gần con suối nước trong lành!
Hình ảnh nhà thám hiểm trong câu chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng đến những người Do thái đồng hương với Chúa Giêsu. Óc thành kiến đã khiến họ “chết khát” ngay cận bên Giòng Suối trường sinh Giêsu. Thật đáng buồn cho thân kiếp của những con người hay kiêu căng và ích kỷ. Họ đã để cho những rào cản tầm thường và nhỏ nhoi nơi cõi lòng họ lấn át và che lấp sự thật và sự sống đích thực. Óc thành kiến hẹp hòi nơi con người có thể trở thành rào cản khắc nghiệt ngăn cản họ tìm đến Chân -Thiện - Mỹ! Chúng ta hãy xét xem, mình có bị thế lực nào ngăn cản mình trên con đường đến với Chúa và Nước Trời không? Có thể mình không bị óc thành kiến hẹp hòi ngăn cản, nhưng lại bị sự cao ngạo, sự nghi ngờ, sự thù hận hay bât mãn nào đó đã chận đứng ta lại, làm cho mình không gặp được Chúa, không gặp được anh em mình trong hành trình sống đức tin của chúng ta! Sống đức tin chân thật là hãy nhìn Chúa mà thẳng tiến. Đừng lấy ai khác ngoài Chúa làm thần tượng cho mình, vì tất cả sẽ sụp đỗ hết! Có nhiều người Kitô hữu vì thất vọng khi thấy Đức Giám mục này, linh mục kia, Dì phước nọ không như mình tưởng hay chưa là hình ảnh của Đức Kitô theo họ nghĩ. Từ đó, họ bắt đầu nguội lạnh, không đi Nhà thờ, không đọc Kinh sáng tối. . . Như thế là đáng tiếc cho chúng ta lắm. Hãy lấy Chúa làm đích tới, làm lẽ sống, làm gia nghiệp của đời chúng ta. Hãy bám chặt vào một mình Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Bên cạnh óc thành kiến nặng nề cố hủ nơi mình, những người Do thái ngày xưa đã phạm phải một sai lầm lớn nữa khi họ tiếp cận với Chúa Giêsu. Họ muốn Chúa Giêsu phải đi theo con đường tình cảm riêng tư mà họ vạch ra. Dân làng Nadarét nghĩ rằng: Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Họ nghĩ rằng: Ngài đã từng làm phép lạ ở thành Capharnaum xa xôi kia rồi thì Ngài phải làm thật nhiều phép lạ nữa ở làng quê Nadarét này: "Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào". Họ muốn Chúa Giêsu làm thỏa mãn tính ích kỷ và hiếu kỳ của họ. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ để cho những tình cảm nhỏ nhen và vụn vặt trong cuộc sống làm cản trở con đường sứ vụ của Ngài. Việc ưu tiên hàng đầu của Chúa Giêsu vẫn là thi hành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài: “Rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, mang ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho ngườimù được sáng mắt, cho người bị áp bức được tự do”. Chúa Giêsu không để sự lẫn lộn giữa tình cảm và sứ vụ xảy ra làm cản bước sứ mạng của Ngài.
Nói cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ trương ưu tiên cho sứ mạng được trao phó. Chúng ta có thể thấy rõ rằng: tình cảm thường là hẹp hòi, còn sứ mạng thì bao la; tình cảm thường là mù quáng, còn sứ mạng mới sáng ngời!
Xét lại đời sống chứng nhân của mình, chúng ta có thể đã để cho những tình cảm mù quáng và lệch lạc làm cản trở việc chúng ta đến với Chúa và đến với anh em mình, ngay cả khi chúng ta làm việc bác ái và làm công tác tông đồ. Thường thì mình hay tìm đến và thương những ai mình thích, nên dành ưu tiên cho họ, tạo mọi sự dễ dàng cho họ. Còn những người không hợp với mình hay không có lợi cho mình thì mình hay làm khó dễ, nói năng thiếu lịch sự và dịu dàng với họ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến sứ mạng mà mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa qua các Bí tích. Nếu có ưu tiên thì chúng ta hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở và đang cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Người môn đệ đích thực của Chúa thì phải giống Chúa mỗi ngày một hơn! Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và chân thành giúp nhau ý thức ơn gọi và công việc tông đồ của mình mỗi ngày để chúng ta trở thành những chứng nhân sống động cho tình yêu Thiên Chúa ở đời này, hầu ngày sau được vui vẻ sum vầy bên Chúa mãi mãi. Amen.
Con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa" hay "Một người làm quan cả họ được: TN4-C56
"Con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa" hay "Một người làm quan cả họ được nhờ" . Dường như đây là những quan niệm ỷ lại của một số người trong cuộc sống. Và đây cũng là quan niệm của một số người Do thái trong làng Nagiaret nơi Chúa Giêsu sinh trưởng. Họ quên rằng Chúa Giêsu đến trần gian là đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại.
Tuần trước chúng ta đã theo Chúa Giêsu vào Hội đường Nagiaret và người ta đã trao cho Người đoạn sách tiên tri Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”(Lc 4, 18 - 19). Tiếp theo đó, với đầy đủ tư cách và quyền năng Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21b). Nghĩa là Chúa Giêsu đem đến sự giải thoát cho toàn thể nhân loại mà không phân biệt bất cứ một ai.
Dù vậy, những người cùng quê hương với Chúa Giêsu lại chỉ muốn Người thực hiện những điều ấy giới hạn cho họ mà thôi. Hiểu được tâm trạng cục bộ ấy, Chúa Giêsu đã nhắc nhở họ: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Qua câu nói này, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ về vai trò của các ngôn sứ và cách riêng là của chính Người.
Vai trò ấy được thực hiện là cho tất cả mọi người không phân biệt một ai và cũng không giới hạn trong vùng đất nào. Hay nói khác hơn là các ngài không có thiên vị cũng không ưu đãi cho riêng một số người nào hoặc vùng đất nào.
Có lẽ những người Do thái này nghĩ rằng họ đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng. Rồi Chúa Giêsu một Ðấng đặc biệt lại sinh ra và lớn lên trong vùng đất của họ. Cho nên, làm gì thì làm họ cũng sẽ được cứu độ. Còn những người không nằm trong cộng đoàn của họ thì không được. Ðấy là một cách suy nghĩ sai lầm.
Ðạo của chúng ta được gọi là đạo Công giáo chính là đạo mời gọi tất cả mọi người mà không phân biệt bất cứ ai. Những ai thành tâm thiện chí tin và sống theo những chỉ dẫn của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu và Giáo Hội đều được hưởng ơn cứu độ.
Hãy biết trân trọng ơn làm con Chúa của mỗi người chúng ta. Ðồng thời, hãy có cái nhìn thoáng về ơn cứu độ. Ðể rồi mỗi người cố gắng sống thế nào hầu ơn cứu độ ấy được lan tràn đến những anh chị em lương dân đang sống xung quanh chúng ta.
Từ khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã hứa ban một Đấng Cứu Độ cho loài người. Lời hứa: TN4-C57
Từ khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã hứa ban một Đấng Cứu Độ cho loài người. Lời hứa đó đã được nhắc lại nhiều lần trong dân Do Thái qua các tiên tri.
Trong bài đọc I, Giêrêmia được Chúa gọi làm tiên tri cho dân để nhắc nhở, cảnh cáo, tiên báo những tai hoạ: Giêrusalem sắp bị huỷ diệt, lưu đày và sau cùng hứa sẽ ban ơn giải thoát cho họ hồi hương trở về. Với những sứ điệp như vậy, cuộc đời Giêrêmia đã gặp nhiều đau khổ và chống báng.
Đời sống bi thảm của Giêrêmia đã làm cho ông xứng đáng với danh hiệu là “con người sầu khổ”. Có lúc ông đau khổ quá mức vì sứ mạng Chúa trao và tự gọi mình là “ con chiên bị đem đi giết” (Gr. 11,19), ông tiên báo về sự tàn phá của thành Giêrusalem. Ông đã vô tình tự đặt mình làm tiền thân của Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa tự nguyện chịu sát tế để đền thay vì tội lỗi chúng ta và Ngài cũng sống dưới bóng của thành Giêrusalem sắp bị tiêu diệt.
Trong bài Phúc Âm, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh về Đấng Thiên Sai. Lời Chúa Giêsu giảng ai cũng thán phục, tuy nhiên, khi Ngài thấy họ chỉ thích thú nhất thời chứ chưa giục lòng tin, chưa chân thành tìm hiểu về sứ mạng của Ngài. Họ dừng lại ở mức coi Ngài là người phàm, không muốn coi Ngài là Vị Cứu Thế muôn dân nên Ngài đã cảnh tỉnh họ bằng câu ngạn ngữ: “Hỡi thầy thuốc hãy chữa lấy chính mình” và “ không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”. Ngài cũng nói cho họ biết ơn cứu độ dành cho tất cả những ai tin chứ không chỉ dành riêng cho dân Do thái. Cũng như bà goá Sarepta và Naaman là người ngoại nhưng lại được nhiều phúc lộc hơn những người trong dân Israel vốn cứng lòng tin.
Trước lời cảnh tỉnh cứng rắn của Chúa Giêsu, những kẻ có đầu óc hẹp hòi không chấp nhận được. Họ không chịu được việc Thiên Chúa lo cho dân ngoại, ban ơn cứu độ cho dân ngoại như họ, và họ tỏ rọ thái độ chống báng, loại trừ sứ điệp của Chúa Giêsu.
Sở dĩ người Do Thái không đón nhận sứ điệp Tin Mừng là vì họ còn sống theo ý riêng, chưa để cho Chúa Thánh thần soi dẫn và cởi mở tâm hồn họ.
Mỗi người chúng ta hôm nay đã hiểu được chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã đón nhận lời Chúa Giêsu và đang thi hành theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh.
Thực ra, chúng ta đã thực hành Lời Chúa và đón nhận ơn cứu độ như thế nào? Theo như lời Thánh Phaolô dạy trong bài đọc II, Chúa muốn chúng ta thực hành lời dạy của chúa chứ không chỉ tin suông. mọi người hãy lo đáp trả tình thương cứu chuộc của Chúa Giêsu bằng đức mến. Đó là con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các thứ tiếng mà tôi không có đức bác ái thì lời nói của tôi cũng vô giá trị. Nếu tôi thông biết mọi điều khôn ngoan mà không có bác ái thì cũng bằng không. Nếu tôi bán hết của cải cho người khác mà không phải vì tình mến thì có giá trị gì?
Và để biết mình có đức mến thật sự chưa thì hãy xem hiện nay mình có những đức tính mà Phaolô đã nêu ra hay chưa: kiên tâm, nhân hậu, không đó kỵ, không khoác lác, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công nhưng biết tha thứ, chịu đựng, tin cậy, chia vui cùng chân lý.
Mỗi người chúng ta đã được hưởng ơn tha thứ của Chúa, được làm con cái Chúa rồi, chúng ta hãy cố gắng gìn giữ địa vị cao trọng này và giới thiệu cho mọi người cùng được chung niềm vui cao trọng nầy với chúng ta. Amen.
Mẹ Têrêsa Calcutta mặc dù đã chết nhưng những gì Mẹ đã làm, những gì Mẹ còn để lại, muốn nói: TN4-C58
Mẹ Têrêsa Calcutta mặc dù đã chết nhưng những gì Mẹ đã làm, những gì Mẹ còn để lại, muốn nói lên rằng: dường như Mẹ còn hiện diện mãi trên trần gian này. Chính vì thế, trong giờ phút Mẹ qua đời, những người có trách nhiệm của đất nước Albani và Ấn độ ngồi lại thương lượng với nhau, để xem thi hài Mẹ sẽ được an táng ở đâu. Có lẽ chúng ta hơi ngạc nhiên, tại sao như thế? Vì Mẹ là người gốc Albani, nhưng vì hoàn cảnh Mẹ không thể sống được trên quê hương đất nước của mình, phải sinh sống ở một nơi khác, cuối cùng, vì nhu cầu của nhiều người, Mẹ đã sống và kết thúc cuộc đời của mình ở đất nước Ấn Độ. Albani muốn hưởng một chút danh dự của Mẹ, muốn tìm một chút lợi lộc nơi danh tiếng của Mẹ, nhưng không được gì hết, vì cuộc đời Mẹ đã gắn liền với những người dân Ấn Độ, mặc dù quê hương sinh trưởng là Albani.
Chúa Giêsu về quê nhà, mọi người đang chờ đợi với một chút hiếu kỳ, chắc cũng có sự thán phục nào đó trong tâm tư của những người đồng hương. Nhưng thái độ của họ đã hoàn toàn đổi khác, vì không chấp nhận được thái độ của kẻ đã từng là người sinh sống bên cạnh họ, thấp kém hơn họ, cũng có thể là con cháu của họ, theo một cách suy tư nào đó. Chính con người như thế đó, giờ đây không chịu thực hiện những gì họ mong muốn. Họ đang mong muốn gom lại tất cả về cho chính mình. Họ muốn Chúa Giêsu làm cho họ được vinh dự, bằng những việc mà họ đã nghe biết. Một ý nghĩ hoàn toàn trái ngược với Chúa Giêsu. Ngài muốn ban phát, muốn cho đi, Ngài hướng tình yêu của mình đến với mọi người. Cho nên những người đồng hương không nhận được điều họ mong muốn. Ngài không thể để cho người ta chiếm lấy và giữ làm của riêng cho mình. Nhưng Ngài vì tất cả mọi người, không loại trừ ai hết. Chính vì thế, những người đồng hương không bao giờ chiếm giữ được Ngài, vì Ngài là của tất cả mọi người.
Tất cả những người trong chúng ta đều là đồng hương của Chúa Giêsu, Ngài cũng đã từng đến thăm viếng, dạy dỗ. Nhưng những người đồng hương của Chúa Giêsu trong thời đại mới nầy, đang chờ đợi, đang mong muốn và đang đòi hỏi điều gì nơi Ngài. Chúng ta cũng có chút tự hào vì mình là người Công Giáo. Càng tự hào hơn nữa vì mình là người giữ đạo lâu năm, được truyền từ thời cha ông cho đến bây giờ: gọi là đạo dòng. Càng tự hào và kiêu hãnh hơn nữa, khi chúng ta cảm thấy mình có đóng góp một ít công sức cho công việc chung, mà chúng ta gọi là làm cho Chúa. Chính vì những niềm tự hào đó, mà những lần Chúa đến viếng thăm chúng ta, Ngài phải đành thất vọng trở về, băng qua trước mắt chúng ta, mà không làm được gì cho những người đồng hương nầy. Nhưng trái lại còn để lại các người đồng hương những nỗi bực tức khó chịu, vì Ngài không biết vâng lời, không thực hiện những đòi hỏi mà họ yêu cầu. Cũng chính vì thế mà những người đồng hương muốn tống khứ Ngài đi cho khuất mắt. Đó là những lúc chúng ta bực tức khó chịu, vì những việc thường ngày trong cuộc sống không diễn ra đúng với những gì mình đòi hỏi. Đó cũng là những lúc, chúng ta ngỡ mình có quyền hành tối thượng, đòi hỏi mọi người phải lắng nghe và tuân theo những gì mình chỉ dạy. Không được như thế, chúng ta cảm thấy như bị xúc phạm và tìm cách loại trừ đối thủ. Những lúc như thế, nếu giờ nầy chúng ta chịu khó bình tâm suy nghĩ, có phải mình đã đi trên con đường mà những người đồng hương ngày xưa đã đối xử với Chúa Giêsu như thế không?
Hôm nay một lần nữa, chúng ta, những người đồng hương của chúa Giêsu trong thời đại mới, cũng đến bên Ngài. Nhưng chúng ta có đến với một tâm hồn để lắng nghe, để vâng phục, để chấp nhận những gì Ngài chỉ dạy, hay đến để đòi hỏi rồi lại trở về trong bực tức. Như thế thì những lần đến nhà thờ của chúng ta không thể nhận được điều gì tốt đẹp sao?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho chúng ta biết nhận ra Thánh Ý chúa trong đời sống thường ngày, để biết vâng phục và làm cho Lời Chúa được ứng nghiệm thật sự nơi mỗi người.
Chúng ta thường nghe nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ”, một người có chức có: TN4-C59
1. Chúng ta thường nghe nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ”, một người có chức có quyền thì ít nhiều những người thân cũng được chút ân lộc gì đó. Bởi theo lẽ thường "bác ái từ trong nhà bác aí ra" , nghĩa là việc yêu thương, giúp đỡ thường khởi đầu từ những người gần gũi, thân thuộc với mình. Qua bài Tin Mừng hôm nay, cho thấy dân làng Nagiarét cũng có tâm trạng như vậy, họ muốn Đức Giêsu phải có gì đó ưu tiên cho họ. Đức Giêsu có theo ý họ không ? Người muốn dân làng Nagiarét và chúng ta điều gì trong tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân ?
Hãy tưởng tượng ngày hôm đó chúng ta cùng với Đức Giêsu có mặt tại Hội Đường làng Nagiarét, quê hương của Người. Người được mời đứng lên đọc sách Thánh và dựa trên đoạn sách Tiên tri Isaia vừa đọc, Người công bố chương trình hành động của Người. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho mọi người, cách riêng những người nghèo khổ (Lc 4,18). Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình đồng hương, Người sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ, nhưng Người đã từ chối, tại sao ? Thưa bởi vì họ không có lòng tin và hơn nữa Người là Đấng cứu độ của mọi người chứ không riêng cho dân làng hay chỉ cho người Do thái.
2. Dấu nào cho thấy họ không có đủ niềm tin vào Đức Giêsu ? Mặc dù Đức Giêsu đã giảng dạy rất thành công, dân chúng rất thán phục Người (Lc 4,18). Nhưng điều trở ngại là nguồn gốc nhân loại của Người: “Con ông Giuse” (Lc 4,22) dân làng ai mà không biết. Họ cũng nói rằng Mẹ, anh em, và chị em của Người là bà con lối xóm của họ, quen qúa mà (x. Mt 13,55-56)! Vì họ đã có thành kiến như thế, cho nên dù có thán phục những trong thâm tâm vẫn coi thường Đức Giêsu. Họ chỉ nhìn thấy nhân tính nơi Chúa Giêsu, chứ không nhận ra thiên tính của Người. Chính Chúa đã biết tâm trạng của họ nên Ngài nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”, hay “bụt nhà không thiêng”. Đọc Tin Mừng, chúng ta dễ thấy những phép lạ Đức Giêsu thực hịên thường là để củng cố niềm tin và xuất phát từ lòng tin của người muốn được hưởng nhờ. Ở đây vì thái độ kém tin của dân làng, nên Người đã không làm theo ý họ. Còn nếu họ có chút hy vọng gì nơi Chúa, chẳng qua vì họ muốn lợi ích vật chất riêng tư mà thôi, đó là lý do thứ hai tại sao Chúa không làm phép lạ cho họ.
3. Chúng ta dễ thấy những người Nagiarét không chỉ vừa vụ lợi mà còn hẹp hòi nữa! Họ nghĩ rằng ông Giêsu này là con ông Giuse, bây giờ đã trở thành vị ngôn sứ khôn ngoan, thì tại sao không dùng địa vị, khả năng ấy để mưu ích cho dân làng ? Điều này cho thấy sự tính toán vụ lợi của dân làng Nagiarét. Đức Giêsu đã hiểu tâm ý của họ, nên Người nói lên câu ngạn ngữ: ”Hỡi thầy thuốc hãy chữa lấy chính mình” để diễn tả tâm trạng trên của người đồng hương. Họ muốn Chúa thực hiện các phép lạ cho các thân nhân, cho những người đồng hương được hưởng nhờ. Họ vừa vụ lợi vừa thách thức Đức Giêsu: “Những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm ở Capharnaum, ông cũng làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!”. Như vậy quá rõ, họ vừa có thái độ kém tin, lại còn thêm thái độ hẹp hòi nữa. Điều nầy ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa của Đức Giêsu: Đức tin rất cần thiết để có đón nhận ơn cứu độ (Lc 8,12 ; Mc 16,16 ; Dt 11,6) và ơn cứu độ của Thiên Chúa mang tính phổ quát, cho nên không lạ gì Chúa đã không thực hiện theo ý của họ.
Để minh họa về ơn cứu độ phổ quát này, Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisê hai vị này đã làm phép lạ để cứu giúp những người ngoại. Êlia được sai đến giúp cho bà góa thành Xarépta khỏi cơn đói. Còn Êlisê chữa bệnh hủi cho ông Naaman, người xứ Xyri. Hẳn nhiên để được cứu giúp, bà góa Xarépta và ông Naaman phải có niềm tin vào các vị ngôn sứ là người của Thiên Chúa. Như thế, Đức Giêsu một mặt từ chối thỏa mãn ước muốn có tính cách thiên vị của dân Nagiarét, đồng thời nhắc nhở cho họ thấy tính cách phổ quát sứ mạng của Người.
4. Lịch sử không thiếu những trường hợp xe sau lại rơi vào vết xe cũ, chúng ta trách người làng quê Nagiarét cách riêng, những người Do thái nói chung đã không tin nhận Đức Giêsu, mà còn muốn và đã khử trừ Người. Nhưng giờ đây, chúng ta dễ có thái độ như thế:
- Thái độ xem thường, thiếu đức tin trong việc cử hành phụng tự. Các bí tích do chính Đức Giêsu lập, đáng quý vô cùng, nhưng Người trao lại cho các thừa tác viên, các linh mục, là những con người, nhiều khi những người đó rất quen thuộc, gần gũi với chúng ta cho nên rất có thể chúng ta thiếu thái độ trân trọng, niềm tin khi các thừa tác viên cử hành. Hoặc chúng ta thiếu thái độ khiêm tốn lắng nghe, bởi vì người giảng dạy đó quen thuộc quá! Như người Do thái xưa đã từng nói với Đức Giêsu: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?”, chúng ta cũng có thể nói với thái độ khinh thường: “ông cha này (ông thầy, bà phước nầy) là con ông x, bà y, là bạn của tao ai mà không biết ”. Tuy họ là con người trần tục như bao con người, nhưng mang lấy trách nhiệm chính Thiên Chúa giao phó.
- Chúng ta rất có thể rơi vào thái độ của người làng Nagiarét xưa là thái độ trục lợi. Đối với Đức Giêsu, người dân Nagiarét chỉ mong Người nể tình đồng hương mà ưu tiên ban cho họ nhiều đặc ân. Khi ước muốn đó không đạt thì họ quay mặt phản đối và trục xuất Người. Phải chăng thái độ của chúng ta giữ đạo cũng nhằm vụ lợi như thế đó: Khi Thiên Chúa không làm thỏa mãn những ý muốn lắm khi rất trần tục của chúng ta (phải cho giàu có, phải cho trúng tôm, trúng số…) thì chúng ta mới sốt sắng, mới giữ đạo ngược lại chúng ta khước từ Người, mời Người ra khỏi những quyết định của bản thân, gia đình, nghề nghiệp của ta… !
5. Muốn vậy, người Kitô hữu phải vượt qua những cám dỗ, thử thách trong cuộc sống. Trong xã hội hiện nay người ta thường đặt nặng lợi ích trước mắt, xem tiện nghi, hưởng thụ… là trên hết mà ít chú trọng đến luân thường đạo lý. Người Kitô hữu cũng dễ rơi vào tâm trạng đó. Hãy nhớ rằng, đằng sau cuộc sống trần thế nầy, còn có cuộc sống mai hậu. Ý thức như vậy chúng ta hãy vượt qua những cám dỗ lợi lộc trước mắt, những lôi cuốn trần tục để thẳng bước như Đức Giêsu – không sống theo ý mình mà luôn theo thánh ý Thiên Chúa và sống quảng đại với tha nhân – Người đã băng qua giữa những người đồng hương mà tiến bước trên con đường Người đã chọn.
Câu nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ” có lẽ sức ảnh hưởng của nó không chỉ cho con: TN4-C60
Câu nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ” có lẽ sức ảnh hưởng của nó không chỉ cho con người thời nay không mà thôi mà nó cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với con người thời xa xưa nữa, cụ thể là dân thành Nagiareth. Họ thán phục những hành động của Chúa, họ cũng muốn Chúa Giêsu, Người mà họ đã nghe nói đã làm nhiều phép lạ ở nơi này, nơi kia cũng hãy làm phép lạ để ưu ái dân làng mình. Chúa Giêsu thì sao ?Ngài có tán thành ước muốn của họ không ? Ngài có làm theo những đòi hỏi của họ không?
Đoạn Tin Mừng Luca được phụng vụ cho đọc hôm nay cho ta thấy: sau khi Chúa Giêsu vào hội đường Nagiareth, đọc đoạn sách tiên tri Isaia và Ngài nói: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai quý vị vừa nghe”, mọi người đều thán phục và tán thành. Họ kể ra và móc nối cho thấy sự liên hệ gần gũi của Chúa Giêsu với làng Nagiareth hầu mong muốn Chúa Giêsu cũng hãy làm phép lạ như Người đã từng làm tại Caphanaum. Chúa Giêsu chẳng những không tán thành ý kiến của họ mà Ngài còn cố tình chỉ ra hai trường hợp trong Cựu Ước Thiên Chúa đã ưu ái dân ngoại, người ngoài hơn dân Do Thái, con cái trong nhà như họ nghĩ. Sau khi nghe những lời nói đó thì họ thay đổi thái độ muốn hãm hại Chúa Giêsu vì Ngài đã cố tình đề cao người ngoại hơn họ và họ coi đó là chống lại ý Chúa. Tại sao mới tán thành đó, thán phục đó mà lại đổi thái độ mau như vậy? Thưa bởi vì lời Chúa Giêsu nói đi vào và đánh đổ sự kiêu hãnh, thái độ tự cao của dân Do Thái nói chung và dân thành Nagiareth nói riêng. Những người đồng hương của Chúa Giêsu dĩ nhiên rất tự hào về danh tiếng của Chúa Giêsu khi Người rao giảng ở Caphanaum và sự tự hào đó đưa họ đến chỗ muốn chiếm hữu Chúa, muốn Chúa chỉ làm phép lạ cho họ mà thôi. Nên khi Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu gương của Tiên tri Êlia và Tiên tri Êlisa cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa thì phổ quát cho mọi người mọi dân tộc thì họ khó chấp nhận và thay đổi thái độ. Thái độ của dân Do Thái xưa cũng có thể là thái độ của người tín hữu của chúng ta hôm nay. Chúng ta tự cho mình là người giữ đạo lâu năm, làm nhiều việc hy sinh bác ái nên chúng ta đòi hỏi Chúa phải ban ơn này ơn kia cho chúng ta hay chúng ta so bì với những người chung quanh, chúng ta oán trách Chúa vì Chúa có lẽ không thương chúng ta mà đi thương những người không nhận biết Chúa và có khi là chống lại Chúa nữa bằng chứng là Chúa cho họ được may lành, sung túc...hơn chúng ta.
Trước thái độ đầy phẫn nộ của dân thành Nagiareth, Chúa Giêsu đã băng qua giữa họ mà đi cho thấy cách cư xử của một tiên tri, mà ở đây là tiên tri Cao Cả là chính Đức Giêsu. Ở bài đọc I Tiên tri Giêrêmia được kêu gọi phải vững chí không được run sợ khi nói lời Thiên Chúa và chính Chúa Giêsu đã thực hiện trọn hảo lời tiên tri này. Chúa Giêsu có thể làm mọi sự, dân chúng đã tán thành, đã thán phục, uy thế của Chúa Giêsu đã lên rất cao trong dân chúng. Nếu Chúa Giêsu nghe theo họ, ưu ái họ hơn những nơi khác thì chắc chắn Chúa Giêsu đã chiếm được trọn vẹn cảm tình của dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không đến để tranh thủ tìm đồng minh, tranh thủ chiếm được cảm tình mà Ngài đến để nói Lời Thiên Chúa, là làm theo ý Chúa. Sứ mạng đó Ngài không dễ thực hiện chút nào mà Ngài phải luôn đối mặt với khó khăn thử thách và chống đối. Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu bị chính những người đồng hương, những anh chị em, những người thân thuộc chống đối. Nhưng không vì thế mà Chúa Giêsu bỏ ý định của Chúa Cha, bỏ sứ mạng Thiên Sai của Ngài. Mỗi người Kitô hữu chúng ta qua Bí tích rửa tội được Thiên Chúa mời gọi trở nên những sứ giả của Tin Mừng, những người nói Lời Thiên Chúa. Chắc chắn khi trở thành những sứ giả của Thiên Chúa thì mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng chịu đồng cảnh ngộ như Chúa Giêsu, phải chấp nhận chịu phỉ báng, chịu khó khăn, chịu chống đối và có khi phải hy sinh tính mạng. Nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa thì Thiên Chúa vẫn ban ơn cho người sứ giả của Chúa hân hoan tiến bước, mạnh mẽ lên đường để rao truyền chân lý Chúa. “Ơn Ta đủ cho con”.
Chúa Giêsu là mẫu gương sống động cho ơn gọi người Kitô hữu chúng ta. Ngài đã sống đã nói Lời Thiên Chúa, bị chống đối, bị giết chết nhưng Ngài đã được phục sinh trong huy hoàng của Thiên Chúa
Một người làm quan cả họ được nhờ”. Có lẽ đây là tâm lý chung của nhiều người? mọi thời: TN4-C61
”Một người làm quan cả họ được nhờ”. Có lẽ đây là tâm lý chung của nhiều người? mọi thời đại. Chính những người Do thái đồng hương với Chúa Giêsu khi xưa cũng có tâm trạng ấy. Họ đã được nghe và chứng kiến nhiều dấu lạ mà Chúa Giêsu đã làm nơi các xứ khác. Giờ đây họ muốn rằng Người hãy vì tình đồng hương mà làm nhiều phép lạ hơn để cho họ được nhờ. Họ cho mình là những người xứng đáng được hưởng. Nhưng họ đâu biết rằng ơn cứu độ Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người chứ không phải riêng một ai. Bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã hiểu được ý muốn ấy của họ. Dĩ nhiên là Chúa Giêsu không thể nào đáp ứng yêu cầu của họ. Người nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh “được chấp nhận” nghĩ là “được ưu đãi”. Như thế, câu này ta hiểu đúng là: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được ưu đãi tại quê hương mình”.
Sứ mạng mà Chúa Giêsu nhận được nơi Chúa Cha là đem Tin mừng, đem ơn cứu độ và đem ơn giải thoát đến cho mọi người thuộc mọi dân tộc và thuộc mọi ngôn ngữ. Do đó, sứ mạng ấy Chúa Giêsu không thể dành riêng cho một dân tộc hay một nhóm người nào. Cụ thể, ta thấy đạo Công giáo mặc dù chưa được mọi người trên giới biết đến nhưng khắp nơi trên thế giới này nơi nào có con người thì nơi ấy có người Công giáo. Bởi vì, trước khi về trời Chúa Giêsu đã truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19 - 20)
Chỉ có điều kiện duy nhất để đón nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa là niềm tin. Ơn Chúa ban thì không phân biệt ranh giới hay chủng tộc. Bà goá thành Sarepta, ông Naaman, người đàn bà xứ Canaan .....đâu phải là người Do thái nhưng vì niềm tin mà họ đã lãnh nhận được ơn Chúa. Xin cho ta luôn nhớ tình yêu cứu độ của Thiên Chúa là dành cho tất cả mọi người.
Trong những mối liên hệ hàng ngày của chúng ta, ngoài những tình cảm ruột thịt, anh em ho: TN4-C62
Trong những mối liên hệ hàng ngày của chúng ta, ngoài những tình cảm ruột thịt, anh em họ hàng, bà con thân tộc, chúng ta còn gắn bó với nhau bằng nhiều mối liên hệ khác. Và một trong những mối liên hệ, một trong những tình cảm đáng quý, mà có lẽ không nơi nào thể hiện cách keo sơn đậm đà như Việt Nam chúng ta, đó là “Tình làng nghĩa xóm”. Bởi đó mà người xưa mới có câu: “Bà con xa không bằng láng giềng gần” là như thế. Chính trong mối liên hệ đó mà người ta có quyền tự hào, hãnh diện về người đồng hương của mình khi được công thành danh toại. Chính Đức Giêsu cũng có một kinh nghiệm về tình đồng hương nhhư thế trong một lần trở về thăm quê hương xứ sở, mà chúng ta vừa nghe trong bài phúc âm hôm nay. Thánh Luca thuật lại là khi Người vào hội đường Nagiarét để đọc Thánh Kinh, cắt nghĩa Lời Chúa, thì ai nấy đều tán thành đắc ý về những lời hay ý đẹp từ miệng Người thốt ra. Thái độ ngỡ ngàng đó, như một điều rất tự nhiên, làm cho họ nghĩ về nguồn gốc lai lịch của Người: “Ông này chẳng phải là con ông Giuse đó sao ? Ông này chẳng phải là người hàng xóm của chúng ta sao ?” Ở đây chúng ta hoàn toàn không biết là họ muốn tỏ ra khinh thường Chúa Giêsu, vốn là một người thợ mộc quê mùa, hay là họ muốn khéo léo nhắc nhở Chúa về tình đồng hương. Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, thì câu ngạn ngữ mà Chúa dùng để nói với họ đều đúng cả: “Thầy lang ơi ! hãy cứu lấy mình”. Nghĩa là nếu như Ngài có khả năng làm nhiều phép lạ như người ta đã từng ca tụng đồn thổi ở đâu đó, thì hôm nay hãy thực hiện nơi quê hương của mình, và hãy làm nhiều hơn nữa để quê hương của mình được ấm no hạnh phúc hơn. Vâng ! Những lời phân trần của đồng hương Chúa Giêsu xem có vẻ rất hợp lý: làm ở đâu cũng vậy, thôi thì làm ở đây cho em cháu được nhờ. Nhưng rồi cách ứng xử của Chúa Giêsu trong tình huống này thật dễ xa nhau: thay vì Chúa lợi dụng tình đồng hương, nghĩa xóm tình làng để đắc nhân tâm, thu phục lòng người, lôi kéo bà con về phía mình, thì đằng này, Chúa lại thẳng tay đánh gục lòng tự hào của họ: “Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương của mình”.
Đúng vậy, trong thâm tâm của họ, họ luôn nghĩ rằng: mình là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nên so với các dân tôc khác, mình phải được Chúa ưu tiên hơn, phải được hứơng trước những đặc quyền đặc lợi. Và để chứng minh cho điều đó, Chúa Giêsu đã nhắc lại hai câu chuyện xảy ra từ thời Cựu Ước, mà bấy lâu nay, dường như họ muốn lãng quên, muốn thanh tẩy khỏi ký ức của mình. Thứ nhất là câu chuyện của tiên tri Êlia. Trong khi dân Chúa phải chịu hạn hán trong ba năm sáu tháng, chết đói chết khát như vậy, thế mà Elia đành lòng nhắm mắt làm ngơ để tìm đến cứu giúp những người dân ngoại ở Sarépta. Câu chuyện thứ hai là câu chuyện của tiên tri Êlisêô. Trong lúc dân Chúa có nhiều người cần được chữa bệnh, vậy mà Êlisêô đã chẳng chữa trị cho một ai ngoài Naaman, một người ngoại đạo xứ Xyria. Và khi Chúa Giêsu nói tới đây, thì mọi người có mặt ở đó lòng đầy phẩn nộ. Họ đứng lên trục xuất người ra khỏi hội đường, muốn loại bỏ hình ảnh của Người ra khỏi cuộc sống bằng việc xô Người xuống vực thẳm, nhưng Người đã vượt qua giữa họ mà đi.
Thưa anh chị em ! Phải chăng đức Giêsu đã tự mâu thuẫn với mình: miệng thì nói không thiên tư tây vị ai, nhưng trong việc làm thì ngược lại. Bằng chứng là Nagiarét, quê hương của Chúa cho đến giờ này, dường như chưa hưởng được một chút ân huệ nào của Chúa cả. Chắc chắn là không ! sở dĩ như vậy là tại vì nhiều người Do thái, nhiều đồng hương của Chúa đã không thật lòng tin nhận quyền năng của Chúa, không sống theo đường lối của Người. Mà ngược lại, họ dựa vào gốc gác của mình là con cháu Abrahm, tự hào mình là dân riêng của Chúa, nên đương nhiên là Chúa phải có cái gì đó ưu tiên cho họ, chứ họ không bao giờ nghĩ tới những bổn phận mà mình phải chu toàn đối với Người. Đây quả thật là một bài học sâu sắc cho người Kitô hữu ở mọi nơi và mọi thời, dĩ nhiên là có chúng ta trong đó. Bởi vì cho dù chúng ta không vỗ ngực xưng tên, không lên mặt dạy đời thiên hạ, nhưng trong thâm tâm, có lẽ rất nhiều khi chúng ta mỉm cười đắc ý với truyền thống giữ đạo, với bề dầy đức tin của mình. Chính trong cái tự hào đó mà nhiều lúc chúng ta nghĩ rằng: Chúa sẻ bỏ qua những khuyết điểm, xí xóa những lỗi lầm cho mình trong ngày sau hết. Thưa không! Chúng ta nên nhớ rằng: trong vương quốc của Chúa không có chỗ cho những kẻ có đặc quyền.
Khi giã từ cõi đời này, thì trước mặt Chúa, mọi người đều như nhau. Đành rằng chúng ta đã thuộc về Giáo hội của Chúa ngay từ thuở nhỏ, được hưởng một nền giáo dục và đời sống ơn Thánh kể như là lâu dài phong phú, mà tự nó vốn là những điều tốt, những điều ích lợi cho phần rỗi linh hồn của mình. Thế nhưng để đạt được điều mà Chúa Giêsu mang tới cho mình là ơn cứu rỗi, thì tất cả những điều kiện trên phải được thực hiện trong một tinh thần thật sự là khiêm tốn, đó là phải khao khát đón nhận ơn Thánh Chúa bằng một trái tim chân thành và một thái độ đúng đắn. Tình thương Chúa, nơi nào cũng có. An lộc Chúa, lúc nào cũng dư thừa. Thế nhưng để lãnh nhận được thì cần phải có niềm tin, biết xoay chuyển cuộc đời của mình theo những nẻo đường mà Chúa đã hướng dẫn qua Phúc âm và qua giáo lý của Người. Đó cũng chính là điều được xác quyết trong thánh vịnh 127: “Hạnh phúc thay những ai tôn sợ Chúa, và ăn ở theo đường lối của Người”.
Một cách thâm thuý, bài tin mừng của Thánh Luca hôm nay muốn trình bày Đức Giêsu, Vị sứ giả: TN4-C63
Một cách thâm thuý, bài tin mừng của Thánh Luca hôm nay muốn trình bày Đức Giêsu, Vị sứ giả tin mừng của Chúa Cha, dưới mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh. Chúng ta sẽ học được nhiều điều khi nhìn vào thái độ của Người.
1. Đức Giêsu không được đón nhận tại quê hương
Tin mừng đã không che dấu một sự thật đớn đau là Đức Giêsu không được đón nhận tại quê hương mình.
Khi ấy, Đức Giêsu đã trở nên nổi tiếng. Những phép lạ Người làm tại Capharnaum đã đến tai đồng hương. Chắc hẳn, khi về đây, họ chờ đợi ở Người rất nhiều.
Rồi Người đã rao giảng khiến mọi người đều “thán phục”. Tuy nhiên, họ mang trong mình những tình cảm ngổn ngang.
a/ Một đàng, xem ra có vẻ ghen tương: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?”. Nghĩa là người ta đã biết rõ gốc gác của Đức Giêsu.
Người từng làm nghề thợ mộc, thế rồi sau một thời gian xa vắng, đã trở về nơi đây và ăn nói kiểu cách “khác thường” khiến họ không muốn đón nhận. Chính cái gốc gác tầm thường, dân dã của Đức Giêsu khiến người ta không muốn tin, cho dầu có thán phục chăng nữa. Luca như muốn nói với chúng ta rằng chính thái độ ấy đã cản trở việc tiếp nhận Chúa và mọi cơ hội Người đến viếng thăm ta.
b/ Dân thành Nadarét còn mang một thái độ trục lợi nữa: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình. Tất cả những gì chúng ta nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào”.
Đức Giêsu buồn phiền trước thái độ của họ. Người ngao ngán nói: “Tôi bảo thật các ông, không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình”.
Đức Giêsu, trong nháy mắt, đã nhìn lại cả một lịch sử dân Chúa để thấy rằng thân phận của Người âu cũng là thân phận chung của các tiên tri,, - những người rao giảng lời Chúa - như Êlia và Êlisa. Họ là những tiên tri vĩ đại, đã làm được những việc phi thường như cho người chết sống lại, cho dầu và bột không hề vơi, nhưng cũng đã thất bại ê chề tại quê hương mình.
Bài học thứ nhất mà Luca muốn chúng ta suy nghĩ chính là việc đón nhận Chúa và lời Chúa. Bao giờ còn mang những tư tưởng ghen tương hay trục lợi như người Do thái ngày xưa thì ta không thể đón nhận Chúa, lắng nghe lời Chúa và mọi cơ hội Chúa đến viếng thăm ta sẽ bị vuột mất.
c/ Chưa hết, “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành, kéo Người lên tận đỉnh núi để xô Người xuống vực”. Thật là một hành động dữ dừng, một phản ứng dữ dội đối với Đức Giêsu.
Ở đây, Luca ngầm cho thấy mầu nhiệm thánh giá của Đức Giêsu mà người rao giảng tin mừng phải chấp nhận nếu muốn lời rao giảng của mình sinh nhiều hoa trái.
2. Thái độ của Đức Giêsu
“Người băng qua giữa họ mà đi”.
Câu nói này bao hàm nhiều ý nghĩa:
a/ Đức Giêsu tiếp tục con đường của mình và con đường ấy chỉ kết thúc tại Giêrusalem (chú thích của CGKPV). Người không vì khó khăn mà nản lòng bỏ cuộc.
b/ Sự tự do tuyệt đối của Đức Giêsu. Khi băng qua giữa họ mà đi, Đức Giêsu cho thấy Người không hề bị ràng buộc vào một nơi chốn, một biến cố hay bất cứ sự gì. Chúng ta cần học tinh thần của Đức Giêsu trước khi học hỏi nội dung sứ điệp của Người. Làm sao chúng ta có thể công bố sứ điệp giải thoát nếu trước tiên chính mình chưa được giải thoát ?.
c/ Sau cùng, câu nói ấy ngầm nhắc đến việc phục sinh của Người. Mặc dù, bị người ta định xô xuống cho chết, nhưng Người, một cách linh diệu, đã thoát khỏi để sống lại vinh quang, tiếp tục công việc cứu thế.
Kết luận
Thế là chỉ bằng vài nét chấm phá, Luca đã thật tài tình khi liên kết việc rao giảng của Đức Giêsu với mầu nhiệm khổ nạn và vượt qua.
Trong “năm thánh truyền giáo” này, “năm lên đường của cả Hội Thánh VN” (TMV, s. 13), chúng ta hãy nhìn vào Đức Giêsu và học với Người về thái độ phải có đối với công cuộc truyền giáo. Công cuộc rao giảng tin mừng phải được liên kết với mầu nhiệm thánh giá. Đó có thể là những hi sinh vất vả, bị hiểu lầm và có khi không được đón nhận nữa. Nhớ lời của Đức Giêsu: “Hạt lúa có chết đi mới sinh nhiều bông hạt”.
Ba ngày Tết vừa qua đi. Tết con rắn này xem ra có vẻ trầm lặng hơn nhiều, những miền xa phố: TN4-C64
Ba ngày Tết vừa qua đi. Tết con rắn này xem ra có vẻ trầm lặng hơn nhiều, những miền xa phố phường, Tết chỉ vỏn vẹn ngày Mồng Một. Thành phố du lịch mộng mơ cũng vắng khách hơn mọi năm. Tất cả là hậu qủa của một năm thiên tai và hệ lụy của kinh tế toàn cầu đang hồi xuống dốc. Thôi thì ở quê hương cũng chia sẻ với mọi người, cách riêng anh chị em hải ngoại, cũng đang nhức nhối vì thị trường chứng khoán tụt dốc. Dầu vậy, chưa có nơi nào phải sống cảnh Dân Chúa thời Elia hoặc Elisê: khi nạn đói hoành hành khắp trong xứ, hay phong cùi như một dịch tễ lan tràn. Thực ra nếu truy nguyên mọi nỗi khổ đau của con người, có lẽ phải công bình mà nói: Thiên tai chỉ là một phần nhỏ, nhưng chính cơ cấu tổ chức và thái độ con người đã làm nên phần lớn. Vì thế Thiên Chúa đã không ngừng sai các sứ ngôn của Người loan báo con đường dẫn đến an bình và thịnh vượng:
Con đường ấy khởi đi từ niềm tin vào Tình Yêu của Chúa, tình yêu đã gọi và đã hiến thánh con người ngay từ trong lòng mẹ, và còn trước cả khi tạo thành nên họ. Tình Yêu hiến thánh và đặt con người làm tiên tri cho Người. Cùng với ơn gọi và sự hiến thánh này, là sự hiện diện thường hằng của chính Chúa trong cuộc đời, để họ nên thành trì vững chắc với cột sắt và tường đồng. Và cũng như bản thân các tiên tri dầu cuộc đời có nhiều sóng gió, nhưng đời sống các Ngài luôn vang dội âm hưởng lời tụng ca.
Con đường ấy trải qua các thời đại ngôn sứ được cô đọng lại nơi cuộc đời của chính Đức Kitô: rong ruổi qua mọi thành trì Israel để chữa lành, giải thoát, và thiết lập cộng đồng huyng đệ. Công bố tình yêu phổ độ của Thiên Chúa Cha cho hết mọi dân tộc và mọi người nghèo khổ. Con đường hiến thánh bản thân trở nên tấm bánh khai sinh một thế giới mới, thế giới lấy tình yêu thương làm động cơ và mục đích.
Con đường mà thánh Phaolô đã rong ruổi qua các hành trình truyền giáo không mệt mỏi, con đường từ lòng tin, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng vững bền đã hiện lên một cách cụ thể trong đời bác ái, như là cùng đích và tiêu chí hành động.
Sự khổ đau muôn mặt đang tiêu hao sức lực chúng ta, có nguyên nhân sâu xa nhất, là con người đã bỏ con đường yêu thương bác ái ấy. Ngay từ điạ đàng, Ađam-Evà đã không tin vào ơn gọi và sự hiến thánh của Chúa dành cho họ, họ khởi đầu xây dựng đời sống trên sự đố k# và nghi nghờ. Ngày nay, con đường sống dường như chỉ được đánh giá trên thành qủa làm ra của cải vật chất, và thậm chí chỉ được đề cao khi nó làm ra nhiều lợi nhuận. Cách nhìn ấy cũng đang thâm nhập vào chính cuộc sống giáo hội: nhiều khi người ta đánh giá ngay cả đời linh mục dựa trên những công trình tổ chức, kiến thiết và những sinh hoạt sôi nổi... Vô hình chung, con người đã bị lôi kéo vào những mâu thuẫn, những tranh chấp và đố k# sẽ dễ dàng khép kín con tim để bảo vệ lấy những gì còn lại...
Lời Chúa thắp sáng con đường đưa con người ra khỏi sự giày xéo của khổ đau qua sự mở rộng con tim để yêu thương, sự yêu thương thậm chí mở ra cho cả những con người không cùng chung huyết thống và niềm tin, chớ gì chúng ta không giống như dân thành Nazareth vội vã muốn chôn vùi tiếng gọi yêu thương ấy xuống vực thẳm.
Rõ ràng phải có sự cầu nguyện và ân sủng để đi trọn đường thương yêu này vậy.
Chúa Giêsu trở về làng quê Nagiarét sau khi Ngài đã sống ở đó 30 năm. Trở về quê hương, Chúa: TN4-C65
Chúa Giêsu trở về làng quê Nagiarét sau khi Ngài đã sống ở đó 30 năm. Trở về quê hương, Chúa Giêsu trước hết thăm lại cha mẹ, những người thân thương, những người đồng hương và sau đó giới thiệu với mọi người về tông tích thực sự của mình.Chính vì thế, khi được trao cho cuốn Kinh Thánh mở ra ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Thiên Sai, Chúa Giêsu đã đọc to tiếng và thuyết giảng hùng hồn về những điều ngôn sứ Isaia thông báo. Ngài nói:” Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe “.
Dân làng Nagiarét theo như Kinh Thánh thuật lại thoạt đầu họ rất khâm phục Chúa, nhưng rồi vì cái thành kiến cố hữu, họ lại quay lưng cho Chúa. Họ mỉa mai Chúa:” Thầy lang ơi hãy chữa lấy mình “. Chúa trả lời họ:” Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình “. Nghe vậy, những người đồng hương xô đẩy Ngài, kéo Ngài lên đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Thánh Luca đã kết thúc câu chuyện bằng một thông tin rất ngạc nhiên và thật hóm hỉnh:” Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi “. Ở đây chúng ta ghi nhận thái độ bình thản của Chúa trước những kẻ chối từ Ngài, những kẻ địng giết Ngài. Điều này giúp chúng ta hiểu rõ Chúa là ngôn sứ, Đấng dám hy sinh cả mạng sống để loan báo về Thiên Chúa. Chúa chính là Sự Thật tuyệt đối. Do đó, không có một sức mạnh nào có thể cản đường của Ngài khi giờ của Ngài chưa tới. Dân thành Nagiarét khó chịu, căm phẫn vì Chúa Giêsu cho mình là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.Họ không thể nào hiểu nổi làm sao con ông thợ mộc Giuse và con bà nội trợ Maria lại trở nên Đấng Cứu Thế được.
Họ không tin và họ trở nên cớ vấp phạm vì Ngài. Đúng như lời tiên báo của ông già Siméon ngày Mẹ Maria dâng Chúa Giêsu vào đền thánh:” Trẻ này là dấu hiệu bị người đời chống báng “ ( Lc 2, 34 ). Và nếu để ý, chúng ta sẽ thấy lời của ông già Siméon đã theo Chúa Giêsu suốt cả đời Ngài. Dân Nagiarét có lần đã đòi Chúa làm phép lạ để chứng minh Ngài là ngôn sứ. Các đầu mục, kinh sư, các vị lảnh đạo tôn giáo lúc đó cũng bắt Chúa Giêsu chứng minh giáo lý, Tin mừng của Ngài là thật, là chính thống. Dân làng Nagiarét đã tố cáo Ngài là lộng ngôn, phạm thượng vì tự xưng là Con Thiên Chúa. Các Pharisêu đã kết án Ngài là dùng quyền năng của Belgiêbút mà trừ quỉ. Còn kinh khủng hơn nữa khi chính những người đồng hương Nagiarét tìm cách giết Chúa Giêsu. Sau đó, cũng chính dân thành Giêrusalem đã hô hoán to tiếng đòi tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Đúng Vị ngôn sứ luôn phải gánh chịu những thảm họa, những thử thách, những cam go, cả cái chết của chính mình.
Dân làng Nagiarét đã xua đuổi Chúa một cách hồ đồ bởi vì họ có thành kiến cố hữu, không có cái nhìn từ tâm hồn, từ con tim. Chúa Giêsu không đi theo con đường tham lam, không phù hợp với quan niệm và tham vọng của họ. Do đó, qua bài học của dân thành Nagiarét, chúng ta rút ra được bài học thấm thía là đừng hấp tấp, hồ đồ đoán xét và kết án anh em một cách chủ quan và hẹp hói ích kỷ.
Chúa Giêsu là Đấng giầu tình thương và lòng trắc ẩn. Ngài luôn yêu thương mọi người và không hề kết án ai theo ý riêng của mình. Chúa là ngôn sứ loan báo về một thế giới mới, một trời mới đất mới, Chúa loan báo về Nước Thiên Chúa trong đó yêu thương, công bình nở rộ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa nơi mọi người. Amen.
Chúa Giêsu đã trở về Nagiarét quê hương của Ngài, sau những ngày đi hết làng này qua làng: TN4-C66
Chúa Giêsu đã trở về Nagiarét quê hương của Ngài, sau những ngày đi hết làng này qua làng khác để rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Danh tiếng Ngài đã lan rộng khắp các vùng lân cận Nagiarét. Hôm nay, Ngài trở về làng như một minh chứng về tư cách Mêsia của Ngài. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay tiếp nối đoạn Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 thường niên, năm C. Ngài khẳng định tư cách ngôn sứ của Ngài. Thay vì tơng bốc dân làng như thói quen người đời thường làm, Chúa vạch trần những cái giả dối, thói hư tật xấu của dân làng Nagiarét. Do đó, dân Nagiarét phẫn nộ, lôi Ngài lên đỉnh núi, định xô Ngài xuống vực sâu. Quả làm ngôn sứ không phải là dễ.
CHÚA GIÊSU THỰC HIỆN SỨ MẠNG NGÔN SỨ: Như các vị ngôn sứ khác, Chúa Giêsu cũng bị ngược đãi khi thi hành sứ mạng ngôn sứ của Ngài. Bài Tin Mừng của thánh Luca 4, 21-30 cho ta thấy rõ điều này. Chúa Giêsu đã thuyết giảng trong hội đường Nagiarét, quê hương của Ngài. Chúa tuyên bố không úp mở:” Lời tiên báo của Thánh Kinh theo đoạn 61 ngôn sứ Isaia hôm nay đã thực hiện nơi chính Ngài “. Những người có mặt trong hội đường Nagiarét lúc đó đều hiểu:” Chúa Giêsu là Đấng Mêsia phải đến và đã đến”. Qua câu khẳng định cứng rắn của Chúa Giêsu, thính giả lúc đó đòi Ngài làm phép lạ để họ tin vào Ngài”(Lc 4, 23 ). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không cho họ một phép lạ, một dấu lạ nào như Ngài đã từng làm ở Capharnaum. Chúa không muốn chiều theo sự tò mò có vẻ thách thức của họ vì sợ họ lầm tưởng sứ mạng của Ngài. Vâng, sứ mạng của Chúa Giêsu không chỉ đóng khung nơi gia đình, quê quán của mình mà nó vượt biên giới để đến với mọi dân, mọi nước. Chúa chứng tỏ ơn cứu độ không dành riêng cho dân tộc Do Thái mà thuộc về tất cả mọi người. Chúa đã nêu lên gương của hai vị ngôn sứ Eâlia và Eâlisê đã giúp bà goá Sarépta và quan Naaman, ngoại bang thuộc xứ Syria. Chính vì thế mà những người đồng hương với Chúa Giêsu đã tự ái, căm phẫn tống khứ Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, ra khỏi thành và muốn xô đẩy Ngài xuống vực sâu cho chết đi đúng như lời Kinh Thánh:” Không một ngôn sứ nào được đón tiếp nơi quê hương của mình”( Lc 4, 24 ). Và điều này cũng làm chúng ta liên tưởng tới câu Thánh Kinh:” Trẻ này là dấu hiệu bị người đời chống báng”( Lc 2, 34 ).
NGƯỜI KITÔ HỮU CŨNG ĐƯỢC MỜI GỌI THI HÀNH SỨ MẠNG NGÔN SỨ: Nếu người Do Thái trong hội đường Nagiarét ép Chúa phải làm phép lạ thì các đầu mục, tư tế lại đòi Chúa chứng minh giáo lý của Người là chính thống. Người Nagiarét cố tìm cách giết Chúa khi muốn xô Người xuống vực sâu thì các ký lục, biệt phái lại kết tội Người là lợi dụng uy quyền dựa vào Bengiêbút, dựa vào Satan, ma quỷ.Dân Giêrusalem thì tìm cách đóng đinh Người vào thập giá. Người Kitô hữu được mời gọi thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình và họ cũng hiểu được nỗi cô đơn, sự cay đắng, ruồng rẫy của người khác đối với mình khi mình nói lời Chúa:” Nếu thế gian ghét các con, hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước”( Ga 15, 18) Tâm tình, thái độ của người Kitô hữu lúc đó sẽ ra sao? Chúng ta có noi gương kiên nhẫn của Chúa và sự nhẫn nhục chịu đựng của Chúa hay không ? Tin Mừng cho thấy Chúa quả thực đã trở nên dũng mãnh vô song, nhưng Người cũng là Đấng giầu lòng thương xót. Thi hành sứ mạng của Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta trở nên cứng cõi, ngỗ nghịch không tuân theo ý Chúa. Chúng ta giống như những người Do Thái xưa trong hội đường Nagiarét đã muốn xô Người xuống vực thẳm cho khuất mắt. Tuy nhiên, Chúa vẫn cho ta cơ hội để quay trở về với Ngài. Chúa ban ơn cứu độ để ta sinh ích cho ta và làm lợi cho kẻ khác chứ không chỉ bo bo giữ riêng cho mình. Sứ mạng ngôn sứ là như thế. Hy sinh và thí mạng để làm sao Thiên Chúa được hiện diện, được nổi bật.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được ơn gọi ngôn sứ của chúng con để chúng con luôn biết thi hành sứ mạng ấy với lòng tin sắt đá. Amen.
Thiên Chúa muốn và thực sự đã nói với con người qua trung gian là các ngôn sứ. Nhưng ngôn: TN4-C67
Thiên Chúa muốn và thực sự đã nói với con người qua trung gian là các ngôn sứ. Nhưng ngôn sứ đã trở thành một vấn đề lớn cho dân Chúa.
MỘT ƠN GỌI
Vai trò ngôn sứ bắt đầu từ một niềm tin. Nếu chỉ đóng khung tầm nhìn trong những giới hạn trần gian, không thể chấp nhận được sứ mệnh ngôn sứ. Thực vậy, ngôn sứ là người đại diện Chúa nói cho dân biết về những mạc khải của Người. Nếu không tin nơi Chúa, không thể đón nhận những lời ngôn sứ. Nhưng nếu tin Thiên chúa, sẽ thấy ơn gọi ngôn sứ vượt qua mọi tính toán trần gian.
Thật vậy, Thiên Chúa từng mạc khải cho ngôn sứ Giêrêmia: “Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1:5) Ơn gọi ngôn sứ hoàn toàn phát xuất từ Thiên Chúa. Bởi đó, ngôn sứ không thể nói theo thị hiếu quần chúng, nhưng phải theo ý Thiên Chúa. Ý Thiên Chúa luôn là sự thật. Sự thật mất lòng. Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc 4:24) Quê hương là hình ảnh thân thương. Nhưng quê hương cũng có thể giới hạn tầm nhìn con người. Nói khác, quê hương quá gần khiến con người không thể nhìn xa hơn.
Đây là một cơ hội tốt hay xấu cho ngôn sứ ? Có những ngôn sứ đã run sợ trước những trở ngại từ chính đồng hương. Trước những đe dọa, tù đầy, giết chóc, nhiều người đã không dám nói sự thật. Nhưng cũng không thiếu những ngôn sứ vững tin vào ơn gọi và sứ mệnh. Họ dám đánh đổi mạng sống lấy sự thật. Tận thâm tâm, họ luôn nghe thấy tiếng Chúa: “Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ.” (Gr 1:17) Phải được phấn khích như thế, họ mới có đủ can đảm lên đường làm chứng.
Lời ngôn sứ bao giờ cũng tạo hai phản ứng ngược chiều. Có thể thuận lợi. Chẳng hạn sau khi nghe Đức Giêsu nói, “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” (Lc 4:22) Nếu thực tế lúc nào cũng như thế, chắc chắn ngôn sứ đã thành điểm hấp dẫn muôn dân. Biết đâu ngôn sứ không là một nghề nuôi sống nhiều gia đình ?
Thế nhưng, trong lịch sử Dân Chúa, đã có nhiều ngôn sứ bị bỏ mạng vì sứ mệnh. Hoàng hậu Giêdêben đã từng giết nhiều ngôn sứ Giavê (x. 1 V 18:4,13) Chính ngôn sứ Êlia cũng làm chứng “con cái Ítraen đã dùng gươm sát hại các ngôn sứ.” (1 V 19:10, 14) Chút xíu nữa Đức Giêsu cũng phải chung số phận với các ngôn sứ rồi. Nếu không nhờ Thần Khí hướng dẫn “băng qua giữa họ mà đi,” (Lc 4:30) Người đã bị vùi thân dưới lòng vực thẳm, vì “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.” (Lc 4:28) Thái độ quần chúng thật khó hiểu. Khen chê thất thường. Không còn biên giới giữa thán phục và phẫn nộ. Cùng một cử tọa, một thời điểm đã diễn ra hai cảnh ngộ trái ngược nhau. Chẳng qua chỉ vì Đức Giêsu không màng tới những tham vọng đầy ích kỷ của họ mà thôi.
Nhưng chính khi bị từ chối, ngôn sứ mới có cơ hội vượt qua biên giới quê hương. Từ xưa, ngôn sứ Êlia đã “phớt lờ” các bà góa đồng hương. Vượt qua biên giới đồng hương, ông “được sai đến giúp bà góa thành Xêrépta miền Xiđôn.” (Lc 4:26) Giữa bao tiếng kêu gào của những “người phong hủi trong nước Ítraen,” tại sao ngôn sứ Êlisa chỉ chữa lành cho “ông Naaman, người xứ Xyria.” (Lc 4:27) Lịch sử chứng minh, ngôn sứ không được sai đến để chiều theo thị hiếu hay thỏa mãn óc tò mò, nhưng chỉ để đáp ứng khát vọng của những con người chân thành.
Chỉ với niềm tin, mới có thể thấy được tất cả chiều kích lớn lao của sứ điệp Thiên Chúa. Niềm tin sẽ mở rộng nhãn quan và làm nền tảng đức ái, khiến con người có thể “vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13:6) phát xuất từ miệng ngôn sứ. Nếu quả thực đồng hương chấp nhận Đức Giêsu, nghĩa là tin Người là Con Thiên Chúa, họ đã có một trái tim rộng mở để “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả,” (1 Cr 13:7) chứ không đòi nhốt chặt ngôn sứ trong biên giới Do thái. Lời Chúa luôn mang chiều kích phổ quát. Tin mừng dành cho muôn dân.
THÂN PHẬN
Sứ mệnh và số mệnh ngôn sứ luôn gắn liền với Lời Chúa. Lời Chúa luôn tra vấn và xoáy sâu vào lòng người. Theo chân Thày chí thánh, rất nhiều ngôn sứ đã đi đến tận cùng trái đất để làm chứng cho Thiên Chúa và bỏ mạng vì Lời Chúa. Theo Thông tấn xã Fides, năm 2003 vừa qua, ít nhất 29 người Công giáo đã bị giết trong khi đang làm việc truyền giáo. Trong số đó, có bốn giáo dân, một tu sĩ, ba chủng sinh, 20 linh mục và một tổng giám mục. Dẫn đầu trong việc sát hại các nhà truyền giáo là Colombia với sáu vị, Châu Mỹ La tinh bốn vị, El Salvador hai vị, Ba tây và Guatemala mỗi nơi một vị. Phi châu 17 vị: sáu tại Uganda, năm tại Congo, và mỗi vị tại các nước Cameroon Burundi, Nam Phi, Equatorial Guinea, Somalia và Kenya. Á châu hai vị: một tại Ấn độ và một tại Pakistan.
Dù sống giữa bao hiểm nguy và ngộ nhận, Giáo hội không bao giờ lùi bước trước vai trò ngôn sứ. Nếu những miền đất đó đón nhận ngôn sứ, chắc chắn hòa bình đã ngự trị. Vì Lời ngôn sứ sẽ là sức mạnh nối kết con người với Thiên chúa và với nhau. Quả thế, “sống giữa nhân loại, Kitô giáo có sứ mệnh tạo lập tình thân hữu, sự hiểu biết, cổ võ, thăng tiến, nâng cao tinh thần. Đó là sứ mệnh cứu độ.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 06/01/2004) Nói khác, đó là sứ mệnh tình yêu, một sứ mệnh vô cùng cần thiết giữa một thế giới hận thù. Hình ảnh ngôn sứ càng trổi vượt, nhân loại càng tiến gần chân lý. Ngôn sứ cao cả nhất và quyền năng nhất đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thực vậy, chỉ “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6:68)
Nếu đọc bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin Mừng Chúa Nhật trước, ta hiểu đó là phản: TN4-C68
Nếu đọc bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin Mừng Chúa Nhật trước, ta hiểu đó là phản ứng của dân chúng Na-da-rét đối với lời tuyên bố của Chúa Giê-su nói về Người: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Nhưng nếu đọc bài Tin Mừng hôm nay theo cách sắp đặt của Phụng vụ Lời Chúa muốn tuần tự trình bày Chúa Giê-su là ai và sứ vụ của Người là gì qua bài Tin Mừng của các Chúa Nhật thường niên, thì câu truyện Chúa Giê-su bị tẩy chay tại Na-da-rét lại cho ta một hình ảnh trung thực về Người: Chúa Giê-su đã bị chống đối ngay từ khởi đầu sứ vụ là sự kiện tiên báo cho cuộc Thương khó và cái chết của Người mai sau. Dĩ nhiên cả sách Tin Mừng lẫn Phụng vụ Lời Chúa đều muốn ta hoàn toàn chú ý đến Chúa Giê-su, theo Người và trở thành môn đệ của Người. Nhưng phản ứng của dân chúng cũng là dịp để ta xét lại thái độ của chính ta trong đời sống Ki-tô hữu. Do đó luôn luôn có hai đề tài song song: Chúa Giê-su và tôi; Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và tôi là người được Chúa gọi làm môn đệ.
a) Chúa Giê-su thể hiện lời Kinh Thánh: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Tuyên bố những lời trên, Chúa Giê-su không nói một cách hàm hồ, nhưng trong hoàn cảnh trang trọng khi “ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.” Nghĩa là Chúa Giê-su nói về chính bản thân Người, một con người bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt dân chúng trong hội đường Na-da-rét, và có họ làm chứng rằng Người đã sinh trưởng tại đây. Với tư cách ấy, Chúa Giê-su thực sự là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1:14), là lời của Thiên Chúa đã làm người.
Con đường từ “Lời Thiên Chúa phán” đến “trở nên người phàm” làm thành lịch sử cứu rỗi đã được thư Do-thái mô tả như sau: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:1). Mục đích Thiên Chúa phán dạy là vì lợi ích cho thân phận của ta: để ta nhận biết “vẻ huy hoàng và bản thể Thiên Chúa” (câu 2); và để Ngôi Lời dùng quyền năng của mình mà “duy trì vạn vật” nghĩa là cứu rỗi nhân loại và đem con người về với Thiên Chúa sau khi “Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời” (câu 3). Thiên Chúa đã tiến “một bước nhảy vọt” khi đi từ “Lời” đến biến thành “người phàm.” Chỉ có Tình yêu đích thực mới có được sáng kiến nhiệm mầu ấy: từ vô hạn biến thành hữu hạn, từ vĩnh cửu biến thành ba mươi ba năm trần thế, từ vô hình biến thành “hình ảnh trung thực” của bản thể Thiên Chúa.
Lời tuyên bố của Chúa Giê-su đã chấm dứt sự mong đợi của nhân loại từ bao đời. Họ mong chờ sự giải thoát, vì chính họ đã làm cho mình thành “kẻ thù” của Thiên Chúa, mất hết khả năng đến với Thiên Chúa rồi, nên không thể tự mình thoát ra khỏi kiềm lực của tội lỗi. Chỉ còn trông vào lời hứa cứu rỗi của Thiên Chúa. Giờ đây, lời hứa được thể hiện, “hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh.”
Đến với nhân loại từ trời cao, Lời Thiên Chúa Nhập Thể phải hữu hiệu, phải đem lại kết quả là ban sự sống muôn đời. Ngôn sứ I-sai-a ghi lại lời Chúa phán về tính hữu hiệu ấy như sau: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nảy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đời có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55:10-11). Sứ mệnh của Chúa Giê-su rõ ràng như thế đó. Ngay đến môn đệ Người là ông Phê-rô cũng nhận ra mình cần đến tính hữu hiệu ấy qua lời phát biểu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Một đàng là sứ mệnh của Chúa Giê-su, nhưng đàng khác cũng là bổn phận đáp ứng của ta. Nếu ta không tiếp nhận Lời và sống những điều Lời dạy thì cũng vô ích thôi.
Lời không chỉ là lời nói trong những bài giảng và ngôn từ của Chúa Giê-su, nhưng Lời còn là tất cả con người của Chúa, lối sống của Chúa, cách cư xử của Chúa, gương mẫu yêu thương của Chúa. Có như vậy, Lời mới có thể sống động “cư ngụ giữa chúng ta” và là “vinh quang của Thiên Chúa” để ta có thể nhận thấy được và noi theo được.
b) Tôi là kẻ tiếp nhận Lời và để cho Lời biến đổi tôi
Nói phải mà không chịu nghe thì cũng vậy thôi, chẳng đi tới đâu! Thiên Chúa không bắt ép loài người phải nghe Người nói. Tuy Chúa Giê-su “giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7:29), nhưng Người vẫn tôn trọng tự do của ta. “Rồi Người nói: ‘Ai có tai nghe thì nghe!’” (Mc 4:9).
Là kẻ đón nghe Lời Chúa, lúc nào ta cũng được mời gọi hãy là đất tốt để Lời Chúa có thể mọc và lớn lên, sinh hoa quả phong phú. Tiếp nhận Lời Chúa giống như việc xây nhà. Phải xây trên nền đá là Lời Chúa, chứ đừng xây trên cát là lời của thế gian.
Muốn để cho Lời biến đổi ta, ta phải tin vào tính hữu hiệu của Lời. Lời hoặc Nước Thiên Chúa là hạt giống gieo xuống đất, tuy là loại hạt nhỏ bé như hạt cải nhưng lại có tiềm năng vô biên, “mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4:32). Tiếp đến là mở lòng đón nhận, không chỉ lời giảng mà là cả con người của Chúa Giê-su. WWJD (What would Jesus do?) là khẩu hiệu các học sinh Công giáo Hoa-kỳ thường tâm niệm, để cố gắng bắt chước Chúa. Chúa Giê-su luôn luôn chờ đợi ta. Người phán với ta: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:20). Người còn thách đố: “Tại sao anh em gọi Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’, mà anh em không làm điều Thầy dạy?” (Lc 6:46). Nghe và làm là hai công việc hỗ tương nhau: nghe để biết phải làm gì, làm để thấy cần phải nghe thêm. Cứ thế ngày qua ngày, con người mình sẽ thay đổi. Chúa không giành làm tất cả, nhưng Người muốn chúng ta cộng tác để giúp cho Lời, tức là giúp cho con người Chúa Ki-tô lớn lên trong ta. “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3:30), để đến một lúc nào đó, “không phải là tôi sống, nhưng là Chúa Ki-tô sống trong tôi.”
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Từ trước tới nay, tôi có bao giờ đọc Tin Mừng với xác tín rằng Thiên Chúa nói với tôi bằng Lời của Người là Đức Ki-tô không? Chúa Cha phán với các môn đệ Chúa trên núi Ta-bô-rê: “Các ngươi hãy nghe lời Ngài.” Tôi sẽ đáp lại lời phán dạy ấy như thế nào?
Ông Phê-rô thưa với Chúa: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai?” Đó có phải là tâm tình của tôi không? Từ nay tôi sẽ đến với Chúa bằng những cách nào? Thường xuyên thế nào?
Qua các bài đọc Phụng vụ Lời Chúa mỗi Chúa Nhật, tôi sẽ chiêm ngưỡng Chúa Giê-su cách nào để thực sự sống trong mối quan hệ mật thiết với Người?
***
“Lạy Chúa Giê-su, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.”
Trong tiếng Việt Nam có câu nói “Sự Thật mất lòng!” và Chúa Giêsu nói “Sự Thật giải thoát anh: TN4-C69
Trong tiếng Việt Nam có câu nói “Sự Thật mất lòng!” và Chúa Giêsu nói “Sự Thật giải thoát anh em!” (Gioan 8: 32). Chúng ta thường không thích nghe những lời “nói thẳng và nói thật” vì va chạm tự ái của chúng ta; nhưng nếu biết khiêm tốn lắng nghe và sửa đổi, thì “Sự Thật lại giải thoát chúng ta” khỏi những khuyết điểm mà mình không nhìn ra, và như thế “Sự Thật” xây dựng chúng ta. Trái lại, những lời nịnh bợ tâng bốc thường làm chúng ta ra mù quáng và không nhìn được rõ những khuyết điểm để sửa đổi.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy nhân dịp về thăm quê hương Nagiaret, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu cũng vào sinh hoạt tại Hội Đường và nhân dịp được mời đọc Sách Thánh, Chúa Giêsu đã chia sẻ với cộng đoàn về lời trong Thánh Kinh: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó…” Thánh Luca ghi lại: “mọi người đều thán phục những lời Ngài nói…” Nhưng vẫn có những người đặt vấn đề “Ông này không phải là con bác thợ mộc đó sao?” Biết phản ứng của họ như vậy, Chúa Giêsu đã nói rõ sự thực về tâm tính ngang bướng của họ và của cha ông họ thời xưa, và đưa ra những bằng chứng rất rõ ràng. Thế là “mọi người trong hội đường (bị chạm tự ái) đã nổi giận, lôi Chúa Giêsu lên đỉnh đồi và định xô Ngài xuống vực thẳm.”
Đúng là sự thật mất lòng và đưa đến thù hận. Nhưng trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã không sợ nói sự thật và thường được dân chúng hân hoan đón nhận. Tuy nhiên, vẫn có những người đầy tự ái, như các kinh sư, biệt phái, họ không muốn nghe sự thật; họ căm phẫn, và nhiều lần họ đã âm mưu giết Chúa. Cuối cùng họ đã lên án và giết Người trên Thánh Giá. Nhưng đó lại là chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thực ra, Chúa Giêsu không phải vì ghét họ mà nói sự thật. Nhưng Ngài muốn “nói thẳng, nói thật” để cảnh tỉnh họ và giúp họ sửa đổi, và có thể nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Chúa Giêsu. Bằng chứng là trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đến với người bệnh hoạn, nghèo khó, bị bỏ rơi để giúp đỡ và rao giảng cho họ và khi có dịp, Chúa Giêsu cũng vẫn đến thăm nhà và dùng bữa với những người biệt phái, những kinh sư, đến với những người tội lỗi, những người thu thuế (Matthêu 9: 10-13). Tất cả là vì tình thương của Chúa đối với mọi người, và mong muốn mọi người sửa đổi cuộc sống để được hưởng ơn cứu độ.
Nhìn vào đời sống của các Tiên Tri thời Cựu Ước, chúng ta thấy các tiên tri được Chúa sai đến để nói sự thật với Dân Chúa cũng chỉ với mục đích kêu gọi họ bỏ cuộc sống tội lỗi, vô luân để sống theo lề luật Chúa, sống xứng đáng con cái Chúa. Dân chúng thường đón nhận lời các tiên tri; nhưng cũng vẫn có những kẻ chống đối, và có những tiên tri bị bách hại, bị xua đuổi và có khi bị giết chết nữa (Matthêu 23: 34-36). Vị tiên tri cuối cùng là Thánh Gioan Baotixita cũng bị tù đày và giết hại.
Hôm nay, trong bài Đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn Giêrêmia (sinh khoảng 650 trước Chúa Giáng Sinh) làm Tiên Tri cho Chúa. Chúa bảo ông: “Hãy nói cho dân chúng những điều Ta truyền ngươi nói với họ. Đừng run sợ trước mặt họ!... Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ sẽ không thắng được ngươi, vì ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Đúng như lời Chúa nói, trong cuộc đời rao giảng những mệnh lệnh của Chúa, tiên tri Giêrêmia đã phải nói những sự thật để giúp họ sửa đổi ‘lòng chai đá của họ’, vì thế mà tiên tri đã gặp rất nhiều chống đối, thù ghét. Sau cùng tiên tri bị giết chết (vào khoảng 580 trước Chúa Giáng Sinh) trong thời bị lưu đày ở Ai-Cập. Chính sau cái chết thảm khốc của ông mà dân chúng càng hiểu ông hơn và đem lòng sùng mộ, và nhận ra những điều chân thật tiên tri đã giảng dạy ho.
Mỗi tín hữu chúng ta, sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hiến qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta cũng đều có bổn phận phải làm “tiên tri”, làm “chứng nhân” cho Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho mọi người. Trong khi loan truyền Lời Chúa, thường khi chúng ta cũng gặp được những con người vui vẻ đón nhận, nhưng cũng có những trường hợp bị phản ứng bất lợi. Chúng ta luôn phải kiên nhẫn chịu đựng, và cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa chính chúng ta, và thánh hóa những người chúng ta rao giảng; cầu nguyện đặc biệt cho những người chống đối chúng ta (Matthêu 5: 43-48). Tất cả chỉ vì lòng “mến Chúa và yêu người” mà chúng ta làm nhiệm vụ “tiên tri” và chứng nhân cho Chúa.. “Lòng mến Chúa yêu người” tức là đức Bác Ái, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay: “Đức Bác Ái thì nhẫn nhục… tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả…”
Mong rằng từ nay chúng ta biết ý thức hơn về bổn phận rao giảng Lời Chúa, làm chứng cho Chúa (nhất là bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta) trong cuộc sống hàng ngày nơi gia đình, sở làm, trường học, với mọi người chúng ta có dịp tiếp xúc. Trong cuộc hành trình Đức Tin, chúng ta không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với anh chị em chúng ta, chúng ta cần nâng đỡ nhau, cầu nguyện cho nhau, luôn giữ vững Đức Tin, duy trì Đức Bác Ái, và cùng nhau giúp đỡ những người chưa nhận biết Chúa được nhận ra Chúa là Cha, và Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế làm người rao giảng Tin Mừng cứu độ, đã chịu nạn chịu chết để cứu chuộc chúng ta; Người đã sống lại và về trời để mở đường cứu rỗi chúng ta. Ai tin và sống theo giới răn của Người, thì được ơn cứu chuộc.
Cuộc sống mỗi người ở trần gian này rồi sẽ qua đi, chúng ta hãy biết dùng mọi thời gian còn lại, mọi phương thế có thể được để giúp đỡ mọi người, không phải chỉ bằng vật chất, nhưng cả về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng, để mọi người có thể hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa.
“Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần Khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi, Ngài sai tôi đi, Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, Mang Tin Mừng giải thóat, Thiên Chúa đã cứu tôi…”
Lc 4,22-30: 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân đức thốt ra từ miệng Người, và họ nói: “Ông nầy không phải là con ông Giuse sao?” 23 Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” 24 Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” 25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: có nhiều bà goá vào thời Êlia trong Israel, khi trời đóng lại trong ba năm sáu tháng, và đã xảy ra nạn đói lớn trên khắp đất nước; 26 thế mà ông không được sai đến một bà nào cả trong họ, ngoại trừ đến bà goá tại Saréphta miền Xiđôn. 27 Cũng vậy, có nhiều người phong hủi vào thời ngôn sứ Êlisa trong Israel, nhưng không người nào được sạch ngoại trừ ông Naaman, người xứ Xyria.” 28 Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ sau khi nghe điều ấy. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tận đỉnh núi, trên đó thành được xây, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Đoạn tin mừng hôm nay 4:23-30 nối tiếp tin mừng Chúa nhật tuần trước, nói đến quan hệ của: TN4-C70
Đoạn tin mừng hôm nay 4:23-30 nối tiếp tin mừng Chúa nhật tuần trước, nói đến quan hệ của Chúa Giêsu với quê hương của Người. Điều Luca muốn nhấn mạnh trong đoạn nầy là sứ vụ của Chúa Giêsu và các ngôn sứ hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, chứ không phải vào con người. Bố cục của đoạn có thể phân chia như sau: - Phản ứng của người đồng hương (4:22); - Câu trả lời của Chúa Giêsu (4:23-27); - Nổi giận và muốn giết Người (4:28-29); - Chúa Giêsu ra đi (4:30).
Những thính giả trong hội đường hôm ấy làm thành một tập thể, “tất cả” (4:22.28). Phản ứng của họ trước tiên là thán phục khi chứng kiến những lời diễn giải của Chúa Giêsu sau khi đọc đoạn sách Isaia 61:1 tt (4:22ab), rồi đặt câu hỏi về gốc gác của Người (4:22c; x. 3:23). Điều họ chứng kiến là những việc Chúa Giêsu đã nói và đã làm ngày hôm ấy. Thái độ của họ lúc ấy có tính cách tích cực. Họ đã thán phục Người không chỉ vì lời của Người đã làm họ kinh ngạc, mà họ thật sự ca ngợi Người (x. 2:33; 9:43; 20:26). Cụm từ “lời của ân sủng” chỉ nội dung lời Chúa Giêsu đã nói hôm ấy. Và lời ấy nói về ân sủng và sự tốt lành của Thiên Chúa (x. 1:30; 2:40.52). Câu hỏi họ đặt ra: “Ông ấy chẳng phải là con ông Giuse sao?” ám chỉ đến lúc ấy họ chỉ biết Chúa Giêsu chừng ấy, và những gì Người vừa làm thì vượt quá sự hiểu biết của họ và làm họ rất đỗi kinh ngạc.
Sự chuyển tiếp từ phản ứng của những người trong hội đường (4:22) sang sự can thiệp của Chúa Giêsu sau đó (x. 4:23-27) chỉ có thể hiểu được dựa trên câu 23. Người đồng hương đòi hỏi Người làm cho Nazaréth, quê hương của họ và cũng là của Người những điều lạ như Người đã làm tại Capharnaum (4:23; x. 4:14tt.31-41). Đòi hỏi không nói ra nầy chỉ mình Người đoán biết được. Đáp lại, Người đưa ra một khẳng định trước khi chứng minh nó: “Quả thật Tôi bảo các anh: Không ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (4:24). Qua khẳng định nầy Chúa Giêsu tự đặt mình như một ngôn sứ vào hàng các ngôn sứ (x. 7:16.39; 24:19). Hai minh họa sắp đưa ra sẽ là chuyện của hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisêô.
Trong hai câu chuyện, Luca đặt tương phản giữa Israel (4:25.27) là quê hương của hai ngôn sứ ấy, và Siđôn và Syria là xứ sở của hai người dân ngoại: bà goá Saréphta (1V 17:9) và Naaman (2V 5:14). Ông muốn làm nổi bật điều nầy là hai ngôn sứ lớn của Israel mà lại được Thiên Chúa sai đến với những người không phải là dân Israel để thực hiện những điều kỳ diệu cho họ. Động từ “sai đến” (4:26) ở thể thụ động muốn chỉ Thiên Chúa là tác nhân. Cả hai trường hợp của Êlia và Êlisêô được nêu ra để chứng minh là đòi hỏi “Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình” (4:23) của họ là không thể thực hiện được. Là ngôn sứ của Thiên Chúa, họ không thể ưu tiên cho quê hương của họ vì bất cứ lý do gì. Trái lại, họ lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa và chỉ làm điều Người muốn.
Như thế, câu khẳng định của Chúa Giêsu về tương quan của ngôn sứ với quê hương ông (4:24) muốn nói là ngôn sứ trong sứ vụ chỉ tùy thuộc vào ý muốn của Thiên Chúa, chứ không phải ý muốn của người đồng hương. Hậu quả kéo theo là họ sẽ không được “chấp nhận” (dektos) tại quê hương mình. Về điều nầy Luca khác với Matthêô và Marcô trong cách dùng chữ. Hai thánh sử nầy dùng chữ “atimia”, có nghĩa là “không nhận biết” hoặc “khinh rẻ” (x. Mt 13:57; Mc 6:4). Lý do là Matthêô và Marcô chú trọng đến dư luận của người đồng hương. Họ khinh rẻ Người khi lôi ra tất cả chi tiết về gốc gác của Người; trong khi Luca nhấn mạnh đến đòi hỏi của họ.
Điều nghịch lý ở đây là một đàng Chúa Giêsu vừa loan báo năm hồng ân của Chúa, tức là thời kỳ mới được mở ra trong đó mọi người sẽ được Thiên Chúa lắng nghe và chấp nhận (dektos) qua bản thân Người (x. 4:19). Đàng khác, theo qui định của năm toàn xá của Israel, mọi người được trở về với quê hương mình với quyền lợi và tự do toàn vẹn (x. Lv 25:10). Vậy mà khi trở về lại trong chính quê hương của Người (x. 4:14.16), Người lại không được chấp nhận (dektos) và không được ưu đãi (4:24).
Phản ứng của người đồng hương lúc nầy khác hẳn với lúc ban đầu (4:28-29). Không thấy một đối đáp, biện luận hay lý lẽ nào về phía họ sau lời của Người, mà chỉ thấy họ đầy giận dữ, vì những lời Người đã nói. Thái độ giận dữ nầy được diễn tả là “tất cả” “đầy giận dữ” và bộc phát lên cách dứt khoát, mạnh mẽ và hung tợn đến nỗi chuyển sang hành động là họ “đứng lên”, “dẫn Người ra ngoài” với mục đích là ném Người xuống. Hành động “dẫn ra ngoài” để giết chết cũng được thấy trong dụ ngôn những người tá điền. Các ngôn sứ và cả người Con của chủ vườn nho đều bị lôi ra ngoài mà giết (20:15; x. Cvtđ 7:58; 13:50; 16:37). Rồi việc “dẫn đi” như một tù nhân cũng gặp thấy trong trình thuật khổ nạn, ở đó Người bị dẫn đến toà án của thượng tế (x. 22:54; 23:1); trong khi ở đây, người đồng hương muốn tiêu diệt Người liền mà không cần xét xử.
Vậy, trong biến cố taị hội đường nầy số phận cuối cùng của Chúa Giêsu đã được vạch ra. Tuy nhiên, Người đã “băng qua giữa họ mà đi” (4:30). Không có một giải thích hoặc ghi nhận nào là làm thế nào mà Người có thể tự giải thoát được. Chỉ có động từ “đi” (poreuomai) có thể giúp hiểu điều nầy. Động từ nầy thường gắn liền với Giêrusalem “đi lên Giêrusalem” (9:51.53; 17:11; 19:28); mà Giêrusalem là nơi Người sẽ chịu chết. Hơn nữa, việc “đi” nầy đã được quyết định trong chương trình của Thiên Chúa như được bộc lộ trong hai câu sau đây: “Tôi phải đi… Không ngôn sứ nào chết ngoài thành Giêrusalem” (13:33), và “Người Con của Nhân Loại ra đi như đã được ấn định” (Lc 22:22). Như thế, việc đi thoát khỏi những người tìm cách ám hại Người (4:30) là do Thiên Chúa quyết định và che chở. Chúa Giêsu không thể bị giết khi Người chưa đến Giêrusalem. Việc Người ra đi đã đóng lại câu chuyện xảy ra trong hội đường tại Nazaréth (x. 4:16.30): nửa đầu đầy phấn khởi như đoạn đầu của sứ vụ rao giảng của Người (4:16-22) và nửa sau đầy thương đau như kết thúc sứ vụ của Người trong cuộc tử nạn và cái chết trên thánh giá (4:23-30).
Như Chúa Giêsu người ngôn sứ nhận lãnh ơn gọi từ Thiên Chúa, nên khi thi hành sứ vụ người ngôn sứ chỉ làm theo ý muốn của Người.
Rao giảng Tin Mừng cứu độ là sứ vụ của Chúa Giê-su, còn đón nhận Tin Mừng là việc đáp trả: TN4-C71
Rao giảng Tin Mừng cứu độ là sứ vụ của Chúa Giê-su, còn đón nhận Tin Mừng là việc đáp trả của chúng ta. Chúa Giê-su trở về Na-da-rét với tính cách Đấng cứu độ, nhưng Người bị dân chúng xua đuổi và thậm chí họ còn muốn giết chết Người nữa. Kinh nghiệm cay đắng này nói lên hình ảnh Đấng rao giảng Tin Mừng luôn trung thành trong sứ vụ trước mọi khó khăn, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy có tư thế xứng đáng để đón nhận Tin Mừng.
- Chúa Giê-su trung thành trong sứ vụ: Kinh nghiệm Na-da-rét có thể làm cho Đấng rao giảng Tin Mừng phải nhụt khí hoặc chán nản. Sự thay đổi quá nhanh nơi tâm hồn người dân Na-da-rét từ thán phục đến muốn giết hại Chúa Giê-su chung quy cũng chỉ vì Người không chịu đáp ứng những nhu cầu ích kỷ của họ, hoặc vì họ khinh rẻ xuất xứ tầm thường của Người. Dân chúng Na-da-rét chắc chắn là những hàng xóm láng giềng thân quen của Chúa Giê-su, nên việc họ chối bỏ Người làm cho Người đau đớn hơn là khi Người bị những người xa lạ chối bỏ. Hơn nữa đây cũng là vào lúc khởi đầu sứ vụ, nên kinh nghiệm bị chối bỏ này càng làm cho Chúa Giê-su dễ bị cám dỗ bỏ cuộc. Đáp lại lối cư xử ngạo mạn của dân Na-da-rét, Chúa Giê-su không dùng quyền năng để trừng trị họ. Trái lại, Người khiêm tốn giữ im lặng, không nguyền rủa, nhưng băng qua giữa họ mà đi. Thái độ khiêm tốn này còn được lập lại khi Người đến một làng miền Sa-ma-ri nhưng họ không đón tiếp Người (Lc 9:51-56) và khi Người dạy môn đệ đi truyền giáo phải làm thế nào nếu bị người ta chối bỏ (Lc 9:4-5). Trung thành được biểu lộ rõ ràng nhất khi chúng ta gặp khó khăn và chống đối. Càng khó khăn, Chúa Giê-su càng trung thành hơn, trung thành đến chấp nhận cái chết khổ nhục.
- Chúng ta phải tiếp nhận Tin Mừng với thái độ nào? Nhìn vào bài học dân Na-da-rét đối xử với Chúa Giê-su, chúng ta biết phải làm sao đón nhận Chúa và lời giảng của Người. Trước hết chúng ta phải loại bỏ những thiên kiến và tham vọng ích kỷ. Dân chúng Na-da-rét chỉ thấy Chúa Giê-su là “con ông Giu-se” với nghề thợ mộc, chứ không muốn nhìn nhận Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ. Họ chỉ muốn xem phép lạ Người làm, chứ không muốn nghe lời giảng Người dạy để giúp họ hoán cải. Cũng vậy, chúng ta cần phải lắng nghe Chúa thay vì đòi hỏi Người phải làm điều này điều nọ cứu giúp chúng ta. Thái độ nội tâm luôn cần thiết để chúng ta biết lắng nghe và Lời Chúa nhắm vào ích lợi thiêng liêng chứ không phải ích lợi vật chất.
Thứ đến, chúng ta hãy xác tín Người được sai đến với mọi người không trừ ai, miễn là họ có lòng tin. Lòng tin của bà góa Xa-rép-ta và ông Na-a-man là gương mẫu giúp chúng ta tiếp nhận Chúa và lời giảng của Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ vụ rao giảng qua Giáo Hội. Mỗi Thánh lễ phải là một buổi chúng ta lắng nghe Chúa Giê-su giảng dạy Tin Mừng cứu độ. Lời Chúa trong mỗi Thánh lễ là thần lương nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta trong ngày hoặc trong tuần. Thêm vào những bài đọc Sách Thánh, chúng ta còn được nghe chia sẻ Lời Chúa. Giáo Hội sơ khai đã coi việc lắng nghe lời Chúa và việc “bẻ bánh” ngang hàng với nhau. Vậy chúng ta hãy khiêm tốn xét lại việc tham dự Thánh lễ và việc lắng nghe Lời Chúa, để chúng ta khỏi đi vào vết chân của dân làng Na-da-rét là muốn xô Chúa ra khỏi tâm hồn chúng ta.
Ngôn sứ là những người được Thiên Chúa sai đi nói Lời Chúa cho dân. Họ được Thiên Chúa yêu: TN4-C72
Ngôn sứ là những người được Thiên Chúa sai đi nói Lời Chúa cho dân. Họ được Thiên Chúa yêu thương chọn gọi và nâng đỡ để có thể chịu đựng được trước sự tấn công của những kẻ thù địch với Lời Chúa. Vì Thiên Chúa không bao giờ chiều theo thị hiếu của con người, trái lại Ngài còn đòi hỏi con người phải luôn sống theo đường lối của Ngài, nên đã là người nói Lời Chúa, các ngôn sứ luôn phải tuyệt đối trung thành với Lời Chúa, nói hết mọi điều Thiên Chúa muốn tỏ cho dân biết, kể cả những điều mà nhiều người xem là chướng tai không thể nghe được. Điểm chung trong cuộc đời của hầu hết các ngôn sứ là phải trải qua con đường đau khổ, bị người đời lên án, chống đối và khai trừ, nhưng có Thiên Chúa là sức mạnh họ không bao giờ lo sợ.
1. Đức Giêsu - Lời Thiên Chúa ngỏ với con người
Thật vậy, Đức Giêsu chính là một ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến với con người. Không những là người nói Lời Chúa với chúng ta, ngài còn chính là Lời Thiên Chúa ngỏ với con người. Ở nơi Ngài mọi điều đã được loan báo trước trong thời Cựu Ước đã trở thành hiện thực. Ngài đồng chia sẻ số phận đau khổ với các vị ngôn sứ khác.
Bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Luca ghi lại thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Đó chính là ví dụ điển hình của thái độ con người chối từ Lời Chúa và tiêu diệt các ngôn sứ. Trong lần về quê này, Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương của Ngài chối từ. Bởi vì Chúa Giêsu đã không nói và làm theo ý muốn của họ. Ngài chỉ nói những điều mà Thiên Chúa muốn truyền dạy mà thôi. Dù thoạt đầu khi nghe Chúa Giêsu giảng giải Sách Thánh những thính giả đồng hương với Ngài rất thán phục. Đến khi Chúa Giêsu nói đến một chân lý là ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người thì những người đồng hương lại không đồng ý. Họ nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ trổ tài làm nhiều phép lạ tại chính quê hương của mình. Vì đã lâu rồi người làng Nagiarét đã nghe tin đồn về tài làm phép lạ của Chúa Giêsu. Họ suy nghĩ theo kiểu "Một người làm quan cả họ được nhờ". Họ tưởng rằng Chúa Giêsu, một người thuộc làng quê Nagiarét mà có tài hơn người thì những người đồng hương, những người bà con họ hàng được tiếng thơm lây.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại không suy nghĩ và hành động như thế. Đối với Ngài không có một sự ưu tiên nào ngoài sự ưu tiên dành cho những người nghèo khổ bất hạnh và người có tấm lòng thành tâm thiện chí. Chúa Giêsu quả thật là ngôn sứ và là Lời Thiên Chúa. Ngài được sai đi với hết mọi người, mọi dân tộc, không loại trừ một ai. Ngài ra đi để loan báo Tin Mừng cứu độ cho những ai thành tâm cầu mong, muốn tiếp đón Ngài và nhận lấy ơn Ngài ban cho.
Nhờ bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mạng ngôn sứ. Chúa đang sai chúng ta đến với từng môi trường sinh sống hàng ngày, nơi mình học tập, làm việc và gặp gỡ nhau để đem Chúa đến cho tha nhân. Có thể cũng như các ngôn sứ, chúng ta sẽ bị người đời khước từ, nhưng đừng bao giờ thất vọng vì có Chúa là sức mạnh. Dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, chúng ta hãy đứng vững trong niềm tin cậy mến ở Chúa. Chúng ta đừng nói và làm theo yêu cầu của người đời mà chỉ nói và làm theo lời dạy của Tin Mừng, của Lời Chúa mà thôi.
2. Đức Giêsu - Đức Mến cao cả:
Trong bài đọc 2 hôm nay, đoạn thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê là một bản văn quan trọng. Bản văn này chúng ta thường hay gọi là Bài ca Đức Mến. Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu hãy ao ước những nhân đức cao cả, mà hơn hết là Đức Mến. Vì Đức Mến là nền tảng, không có Đức Mến thì mọi việc làm, dù được xem là lạ lùng, mọi nhân đức, mọi việc làm tốt, làm một cách anh hùng đều như không. Giáo huấn của Thánh Phaolô và của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay hoàn toàn ăn khớp với nhau. Bài Tin Mừng trình bày với chúng ta là sự nối dài của Bài ca Đức Mến. Đức Mến giữ vai trờ rất quan trọng trong đời sống của người tín hữu, mọi việc chúng ta làm mà thiếu Đức Mến thì không thể trở nên tốt lành.
Hơn nữa, qua đoạn thư này Thánh Phaolô còn đưa chúng ta đến một ý nghĩa cao sâu hơn. Đức Mến ở đây được đồng hóa với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Tình yêu, là Đức Mến cao cả được ban cho con người qua mọi thời đại. Cách nói trong lòng mến và trong tay Chúa được thấy trong các thư Phaolô nhắc đến ý nghĩa đó. Như vậy chỉ trong Chúa chúng ta mới làm được những điều có giá trị, cuộc đời sẽ có ý nghĩa và đáng sống hơn. Khi ca ngợi Đức Mến thánh nhân cũng muốn ca ngợi Đức Giêsu. Chỉ nhờ Ngài, trong Ngài, và cùng với Ngài, Thiên Chúa mặc khải chính mình cho con người và mặc khải quan trọng nhất là Thiên Chúa tỏ tình yêu thương với con người.
Nhưng chướng ngại vật chúng ta phải vượt qua là lòng ích kỷ, chúng ta muốn đóng khung ân sủng của Thiên Chúa, tính kiêu căng tự mãn làm cho chúng ta không mở lòng đón nhận Chúa được. Đó là tình trạng thiếu lòng mến, thiếu Đức ái hay thiếu sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của chúng ta.
Điều mà hôm nay cần cầu nguyện với Chúa là xin Ngài ban cho chúng ta thật nhiều lòng mến, xin Ngài hiện diện trong cuộc đời của chúng ta mỗi ngày, để cùng với Ngài và với quyết tâm của mỗi chúng ta, mỗi một ngày mới là chúng ta biết đổi đời theo định hướng "hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật... tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả".
Lạy Chúa Giêsu là lời của Thiên Chúa nói nói con ngườI. Nhất là Chúa đã tỏ cho chúng con biết Thiên Chúa luôn yêu thương và có thể làm tất cả mọi sự vì con người. Xin Chúa ban cho chúng con thật nhiều lòng mến, để chúng con có thế chu toan sứ mạng làm ngôn sứ giữa cuộc đời này, để chúng con cũng rao truyền Tình yêu Chúa cho tha nhân mà không sợ ngườI khác đe doạ mình vì Chúa là sức mạnh của con, con còn sợ chi ai. Amen
Khen chê là thói đời khi người ta vừa lòng hay không được như ý. Nó có thể ảnh hưởng lớn tới: TN4-C73
Khen chê là thói đời khi người ta vừa lòng hay không được như ý. Nó có thể ảnh hưởng lớn tới việc thực thi lý tưởng của ta nếu ta không biết tự chủ trước dư luận. Do đó, được khen không kiêu căng và bị chê không nản lòng. Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước kể lại biến cố Chúa trở về quê nhà Na-da-rét, đọc và giải thích Kinh Thánh trong hội đường. Tiếp theo câu truyện, thánh sử Lu-ca ghi lại hai phản ứng đối nghịch của người đồng hương Chúa Giê-su. Khen thì ít (câu 22a), nhưng chê thì nhiều (câu 22b-24,28-29). Điều ấy nói lên thử thách của sứ vụ cứu độ Chúa Giê-su đã bắt đầu sau khi lãnh nhận phép rửa của ông Gio-an. Vậy Chúa Giê-su đã xử trí ra sao trước khó khăn khởi đầu này?
1) Chúa Giê-su công bố thời ân sủng bắt đầu
Sau khi đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a kể ra những hồng ân Thiên Chúa sẽ thực hiện cho con người trong thân phận khốn cùng, Chúa Giê-su mở đầu cuộc chia sẻ lời Chúa bằng một câu tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Sau lời ấy, thánh sử Lu-ca không ghi lại những gì Chúa Giê-su giải thích cho đám thính giả về đoạn Kinh Thánh. Nhưng ta biết chắc chắn những điều Người nói với dân chúng trong hội đường hôm ấy đều là “những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”.
Mặc lấy thân phận con người, Chúa Giê-su thấu hiểu những hậu quả tội lỗi đã gây nên cho nhân loại. Từ cái chết là “lương bổng tội lỗi trả cho ta” (Rm 6:23) tới những đau khổ thể xác lẫn tinh thần, Chúa Giê-su đều trải qua (Dt 5:7-8). Hơn ai hết, Người nhận thức được nhu cầu cứu độ của nhân loại và thấu hiểu ý nghĩa của thông điệp mà ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo về sứ vụ của Người. Do đó Chúa Giê-su đã giúp họ hiểu cặn kẽ lời Kinh Thánh Người vừa tuyên đọc để họ nhận ra thân phận tội lỗi con người và lòng khao khát được giải thoát khỏi tất cả những hậu quả tai hại do tội lỗi gây ra. Chúa Giê-su đang chỉ cho họ thấy một viễn tượng mới: thời ân sủng bắt đầu ngay bây giờ và tại đây, ý nghĩa của từ “Hôm nay”, và rõ ràng hơn, bắt đầu ngay từ con người đang đứng trước mặt dân chúng trong hội đường, là Chúa Giê-su Ki-tô.
Có lẽ ta cũng học được một điều hết sức tế nhị và sâu sắc, đó là cách Chúa Giê-su tuyên bố. Người không vỗ ngực nghênh ngang tự xưng là Đấng Mê-si-a, giống như những chính trị gia dương dương tự đắc về xuất xứ của họ. Người không đề ra một chương trình quy mô đủ điều và vẽ vời ra một tương lai không tưởng như những ứng cử viên tổng thống đã làm. Nhưng Người chỉ nói lên một thực tại: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Người khai mở một con đường mới dẫn người ta về nguồn cội là Thiên Chúa và mời gọi người ta cùng lên đường với Người. Chính Người sẽ là “trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29), đồng hành với các anh chị em mọi nơi mọi thời để tiến về nhà Cha. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Người không ép buộc ai, nhưng để cho họ hoàn toàn tự do chọn lựa.
Ước chi ta luôn luôn nghe được “những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, vì những lời đó là những lời ân sủng vẽ đường chỉ lối cho ta. Rồi không những nghe được mà thôi, nhưng đi xa hơn những người Na-da-rét đã chỉ biết tán thành và thán phục Chúa, ta còn phải sẵn sàng rũ bỏ mọi sự để lên đường làm môn đệ Người nữa.
2) Chúa Giê-su bị chống đối
Lòng người thay đổi thật mau chóng, vừa mới hoan hô đấy, nhưng ngay sau đó lại cực lực đả đảo. Chúa Giê-su vừa cho dân chúng Na-da-rét biết Thiên Chúa yêu thương họ thế nào và Người đã được sai đến với họ để thể hiện tình yêu thương ấy trong vai trò Đấng Mê-si-a. Nhưng họ không muốn chấp nhận Người, chỉ vì họ muốn có một Đấng Mê-si-a theo khuôn mẫu và đòi hỏi của họ. Họ muốn Người thực hiện cho họ những gì Người đã làm ở Ca-phác-na-um, và còn phải làm hơn thế nữa. Để “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Để họ cũng được nổi tiếng như Người và phá bỏ được thành kiến của toàn dân miền Ga-li-lê về họ: “Từ Na-da-rét làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1:46).
Chúa Giê-su đã biết thái độ họ đối với Người như thế nào rồi. Nhưng Người vẫn bình tĩnh đưa ra những dữ kiện lịch sử thời ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa để biểu dương lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không phải để biện hộ cho chính mình. Tình thương của Thiên Chúa không có biên giới, nhưng bất cứ ai biết đón nhận và đáp trả, người ấy sẽ được cứu độ. Nói như thế, Chúa Giê-su vẫn mở cho họ một lối thoát và kêu gọi họ tiếp nhận Đấng Cứu Độ được Thiên Chúa sai đến, trước hết với nhà Ít-ra-en và tiếp đến là Dân ngoại. Tuy nhiên đối với một dân cứng đầu và kiêu căng, thái độ khiêm nhường và kiên nhẫn của Chúa Giê-su chỉ làm họ nổi giận thêm. Kết quả là Người bị họ lôi ra khỏi thành phố và muốn giết Người đi cho khuất mắt. Thành kiến và lòng ganh ghét thúc đẩy họ chối bỏ Ân Sủng Thiên Chúa sai đến với họ. Sự kiện dân Na-da-rét đối xử bạc bẽo với người con thân yêu của thành phố là điềm báo trước về những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Chúa Giê-su trong những tháng ngày sắp tới.
3) “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”
Giữa cảnh dân chúng Na-da-rét hùng hổ muốn xô Chúa Giê-su xuống vực sâu, ta lại thấy thánh Lu-ca mô tả một cảnh trái ngược: Chúa vẫn an nhiên đi qua giữa đám đông và rời bỏ họ. Không ai làm gì được Người. Phải chăng là một phép lạ? Ta có thể hiểu như vậy. Nhưng ta cũng có thể hiểu cách khác. Một người có thẩm quyền khi dạy dỗ (xem Mc 1:21-28; Lc 4:32,36) sẽ làm cho người khác phải kính nể, cũng giống như trường hợp trong Vườn Ô-liu khi Chúa nói với những kẻ đến bắt Người: “Chính tôi đây”, họ phải lùi lại và ngã xuống đất (Ga 18:5-6). Chúa Giê-su là người đầy lòng tin vào Thiên Chúa, luôn luôn có thể làm chủ bất cứ tình huống nào, dù là đối đầu với cái chết đi nữa.
Hơn nữa, khi viết rằng Chúa Giê-su “băng qua giữa họ mà đi” và Người vẫn không một lời nói nặng đối với những kẻ toan hại mình, thánh Lu-ca muốn nói lên lòng trung thành và kiên trì của Chúa đối với sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Đường ta, ta cứ đi. Con đường rao giảng tình yêu của Thiên Chúa cần phải tiếp tục qua mọi khó khăn và chỉ kết thúc tại Giê-ru-sa-lem. Lý tưởng của Người đã rõ ràng. “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được” (Lc 13:32-33).
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Chúa Giê-su là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa. Vậy nơi Chúa Giê-su, tôi nhận ra được điều gì Thiên Chúa muốn cho tôi biết? Tôi đáp lại mặc khải ấy như thế nào?
Thành kiến và ganh ghét có phải là một vấn đề lớn của tôi không? Tôi đã nhìn người khác theo cái nhìn nào?
Chúa Giê-su băng qua dân thành Na-da-rét mà đi vì họ không muốn tiếp nhận Người. Có khi nào tôi làm cho Chúa phải băng qua tôi mà đi không? Tôi thử nhìn kỹ lại một vài trường hợp cụ thể và xét xem phải làm gì để giữ Chúa ở lại với tôi?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, dân làng Na-da-rét đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc chúng con không tin chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.”
Bài Tin Mừng Lc 4, 21 – 30 kể về phản ứng của những người Nadarét đối với Đức Giêsu và câu: TN4-C74
Bài Tin Mừng Lc 4, 21 – 30 kể về phản ứng của những người Nadarét đối với Đức Giêsu và câu trả lời của Người đối với những phản ứng đó.
1. Phản ứng của cư dân Nadarét
Phản ứng đầu tiên của cư dân Nadarét có hai khía cạnh. Một đàng, họ tán thành và thán phục những lời giảng dạy của Đức Giêsu. Đàng khác, họ đặt vấn đề về Người: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?” tức là họ quy chiếu về quá khứ bình thường mà Người đã trải qua giữa họ, từ đó nghi ngờ về giá trị của những lời giảng dạy của Người. Làm sao một con người đã sống bao năm giữa chúng ta một cách bình thường như thế mà lại có thể là sứ giả của Thiên Chúa ? Có thể tin anh ta được không ?
Thực ra, đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu phải đối diện với cách đặt vấn đề này. Sau này, người ta sẽ hỏi: người bị treo trên thập giá này mà có thể là Đấng Mêsia được ư ? Và Hội Thánh và các nhà Thừa Sai, cho đến hôm nay, cũng vẫn thường xuyên phải đối diện với loại câu hỏi này.
Nhưng vấn đề không nằm ở phía Đức Giêsu hay Hội Thánh, mà nằm ở chỗ: một khi chấp nhận Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và là Mêsia, người ta bị buộc phải thay đổi hoàn toàn quan niệm của mình về Thiên Chúa và chương trình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu thấu biết lòng dạ người ta. Người còn đi xa hơn những gì cư dân Nadarét đã nói. Người biết rằng họ còn muốn ấn định điều kiện cho Người. Vì thế Người bảo họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !”
Cho đến bây giờ, Đức Giêsu chưa thực hiện các điềm thiêng dấu lạ nào ở Nadarét, ngoài việc giảng dạy và công bố Tin Mừng. Những cư dân Nadarét muốn Đức Giêsu thực hiện những việc lạ lùng tại Nadarét như Người đã thực hiện tại Capharnaum. Họ không muốn nghe lời công bố Tin Mừng của Đấng mà Thiên Chúa sai đến; họ muốn ra điều kiện và ấn định những gì Người phải làm. Thay vì khiêm tốn đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa, họ đòi là những người có quyền quyết định điều gì Thiên Chúa và sứ giả của Người phải thực hiện nếu muốn họ chấp nhận sứ điệp đó.
2. Câu trả lời của Đức Giêsu
Đức Giêsu từ chối làm phép lạ. Trong Mc 6, 1 – 6, Đức Giêsu muốn làm phép lạ tại Nadarét nhưng không thể, vì người ta thiếu lòng tin. Trong Tin Mừng theo Thánh Luca thì khác. Cư dân Nadarét muốn Đức Giêsu làm phép lạ, nhưng Đức Giêsu từ chối. Tại sao ?
Có hai cách giải thích được đề nghị:
( a ) Sở dĩ Người không làm phép lạ theo yêu cầu của họ là vì Người sợ rằng cơn khát phép lạ sẽ làm cho người ta không nhìn ra được điều cốt yếu nằm trong lời cứu độ đã được công bố. Thực ra, cách giải thích này không hoà hợp lắm với ngữ cảnh đi trước và đi sau.
( b ) Sở dĩ Người không làm phép lạ là vì Người không chấp nhận tham vọng của cư dân Nadarét muốn chiếm Người làm của riêng cho họ, muốn giới hạn Người vào xứ sở riêng của mình mà thôi.
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” ( c. 24 ). Đó là câu trả lời hiển ngôn của Đức Giêsu cho cư dân Nadarét. Có hai cách hiểu câu này.
- Cách thứ nhất: từ đêktôs hiểu theo nghĩa “ân huệ”, “ưu đãi”, và dịch là “Không một ngôn sứ nào được phép ưu đãi quê hương mình”. Theo cách hiểu này, một số nhà nghiên cứu cho rằng Luca có ý khẳng định rằng sẽ là không phù hợp ý muốn của Thiên Chúa nếu ngôn sứ giới hạn hoạt động của mình tại quê hương xứ sở mình mà thôi. Ngôn sứ được kêu gọi không ở lại trong nhà mình. Đức Giêsu đã trả lời như thế cho sự ích kỷ của cư dân Nadarét muốn giữ riêng Người cho mình. Vậy, theo cách hiểu này, câu 24 không ám chỉ sự thất bại của lời rao giảng, mà nhấn mạnh tính khẩn thiết và phổ quát của sứ điệp cứu độ theo ý muốn của Thiên Chúa.
- Cách thứ hai: tính từ đêktôs ( do bởi ‘đêkhômai’ = đón nhận, chấp nhận ) có nghĩa là “được chấp nhận”, và dịch là “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Vậy nếu cư dân Nadarét có từ chối Đức Giêsu, thì điều đó không làm giảm suy tư cách và giá trị ngôn sứ của Người, trái lại còn củng cố giá trị ấy. Sự kiện Đức Giêsu là ngôn sứ thật không tuỳ thuộc vào sự chuẩn nhận của cư dân Nadarét, và Người không buộc phải chứng tỏ tư cách ngôn sứ của mình bằng cách làm vừa lòng họ và thoả mãn tham vọng của họ.
Dù hiểu theo cách nào thì điều quan trọng vẫn là có một sự từ chối đối với cư dân Nadarét.
Tiếp đó, Đức Giêsu đề cập một cách tường minh đến các Ngôn Sứ Êlia và Êlisa, hai vị Ngôn Sứ lớn của Israel. "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ítraen; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ítraen, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi" ( cc. 25 – 27 ). Tuỳ theo cách hiểu c. 24 mà người ta sẽ có thể hiểu cc. 25 – 27 này theo những cách khác nhau. Nhưng dù theo cách nào, thì vẫn phải công nhận rằng Đức Giêsu muốn nói hai điều qua các ví dụ Êlia và Êlisa:
( a ) Người không chấp nhận tham vọng và ý muốn chi phối của bất cứ ai, ngay cả những người đồng hương với Người. Người chỉ quy phục một mình Thiên Chúa và chỉ thực hiện công việc của mình như Thiên Chúa muốn mà thôi. Suốt cuộc đời, Người sẽ sống điều này một cách hết sức nghiêm túc.
( b ) Dù Thiên Chúa đã sai Người đến với dân Israel trước hết, nhưng chân trời sứ vụ của Người là phổ quát và không hề có sự loại trừ nào đối với dân ngoại.
Hai điều đó diễn tả trước hết ý tưởng của tác giả Luca về sứ vụ của Đức Giêsu và của Hội Thánh. Gắn hai ví dụ ngôn sứ Êlia và ngôn sứ Êlisa vào trình thuật Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai tại Nadarét, Thánh Luca có ý giải thích ý tưởng đó của mình: bởi chương trình của chính Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể thực hiện hoạt động của mình theo ý muốn của bất cứ ai và không thể giới hạn hoạt động đó vào Nadarét mà thôi, nhưng phải mở rộng khắp xứ Palestina.
Tương tự như thế, Hội Thánh cũng không được phép để cho mình bị chi phối bởi bất cứ ai ngoài một mình Thiên Chúa, và không được giới hạn hoạt động thừa sai của mình trong một lãnh thổ hay lãnh vực nào, mà phải mở rộng ra cho muôn dân ( x. Cv 13 – 15 ). Theo viễn tượng này, thái độ và cách hành xử của Đức Giêsu trong Tin Mừng thứ ba đã trở nên mẫu mực và nền tảng cho thái độ và cách hành xử của Hội Thánh trong sách Công Vụ các Tông Đồ.
Kết cục: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” ( cc. 28 – 30 ).
Phản ứng của cư dân Nadarét ở đây thực chất là phản ứng của dân Do Thái đối với toàn bộ sứ điệp mà Đức Giêsu công bố cho đến khi Người bị treo trên thập giá, và cũng là phản ứng của họ đối với Hội Thánh, nhất là khi Hội Thánh hướng về thế giới không-Do-Thái. Sự giận dữ của cư dân Nadarét không bắt nguồn từ sự kiện Đức Giêsu từ chối làm phép lạ, mà là từ chỗ Đức Giêsu khẳng định ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Và điều đó cũng xảy ra với Hội Thánh sau này.
Nhưng Đức Giêsu sẽ vẫn tiếp tục con đường của mình, theo ý Thiên Chúa. “Người băng qua giữa họ mà đi” ( c. 30 ).
Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Ý về Hoa Kỳ mang theo một số Giám Mục: TN4-C75
Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Ý về Hoa Kỳ mang theo một số Giám Mục nước Mỹ mới đi dự Công Đồng Vatican 2 về, có một nữ chiêu đãi viên hàng không rất xinh đẹp, tận tình và nhã nhặn phục vụ các hành khách.
Thế nhưng đặc biệt trong cả chuyến bay, cô vẫn cảm thấy bực bội trong lòng và mất tự nhiên trước một đôi mắt cứ nhìn chăm chú mãi vào khuôn mặt và vóc dáng của cô mỗi khi thấy cô xuất hiện. Lại càng đáng bất bình hơn nữa khi cô tìm cách kín đáo hỏi thăm một hành khách ngồi gần đó, thì hóa ra đó lại là đôi mắt của một Giáo Sĩ, Đức Cha Fulton Sheen, vị Giám Mục Tông Đồ lừng danh nước Mỹ ( ảnh bên trái ).
Khi phi cơ hạ cánh, đợi các hành khách xuống hết, Đức Cha mới tiến đến trước mặt cô gái, ngỏ ý một cách đứng đắn trang trọng nhưng không kém phần trìu mến dịu dàng: “Hỡi cô bé, cô xinh đẹp lắm ! Cô hãy cảm tạ Thiên Chúa thật nhiều, vì Người đã ban tặng cho cô một sắc đẹp tuyệt vời...”
Thế rồi chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen ở Tòa Tổng Giám Mục New York. Cô tiếp viên hàng không hôm nọ vào đề ngay khi vừa ngồi xuống ghế: “Thưa Đức Cha, câu nói của Đức Cha đã làm cho con phải băn khoăn suy nghĩ mãi. Vậy thưa Đức Cha, con biết phải cảm tạ Thiên Chúa như thế nào cho xứng đáng với những gì Người đã ban cho con ?”
Đức Cha điềm đạm đặt lại cho cô một câu hỏi thay vì trả lời: “Thế con có bao giờ nghe nói đến một trại phong cùi mang tên Di Linh ở Việt Nam chứ ?” Cô gái ngước đôi mắt xanh như dọ hỏi: “Thưa Đức Cha, có lần con đã đọc được trên báo và cũng đã được nghe ai đó kể về trại Di Linh.”
Đức Cha dõi nhìn xa xăm qua khuôn cửa sổ: “Có thể hiểu theo một cách nào đó thì Thiên Chúa đã dành tất cả những nét đẹp của những người cùi ở Di Linh mà ban riêng cho con. Nếu con thành tâm muốn cảm tạ Thiên Chúa, con hãy xin sang Việt Nam và tìm cách an ủi họ bằng đời sống phục vụ... Vị Tổng Giám Mục thành lập trại phong Di Linh, Đức Cha Jean Cassaigne người Pháp, lại là một người bạn rất thân của cha…”
Chỉ chừng ấy thôi, cô tiếp viên hàng không chẳng bao lâu sau đó đã trút bỏ tất cả tương lai để tự nguyện khoác áo Nữ Tu. Sau một thời gian tập tu và học hỏi, chị đã xin Nhà Dòng cho được sang Việt Nam phục vụ ngay giữa những con người bất hạnh ở trại phong Di Linh.
Người Nữ Tu Dòng Nữ Tử Bác Ai Vinh Sơn ấy tên là Louise Bannet. Sau biến cố 30 tháng 4, chị bị trục xuất khỏi Việt Nam, nhưng không chịu trở về Pháp mà lại tình nguyện sang phục vụ các bệnh nhân phong tại Tahiti cho đến khi chị qua đời vào năm 1983 vì căn bệnh ung thư... ( Trích Nối Lửa Cho Đời số 2 )
Hôm nay trình thuật Tin Mừng theo Thánh Luca nói về Chúa Giêsu rao giảng cho những người đồng hương Nadarét. Dù mọi người đếu tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra ( Lc 4, 22 ), nhưng đã trở nên bất bình trước thái độ dứt khoát của Chúa Giêsu, không chiều theo yêu cầu tầm thường của họ.
Ngôn Sứ theo Thần Khí
Không xu nịnh thói đời háo danh, không vì tư lợi hay bổng lộc, không xảo ngôn, mị dân, Ngôn Sứ hành động hoàn toàn theo sự hướng dẫn khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần, hoàn toàn vâng theo Thánh Ý Chúa. “Hôm ấy, được quyền năng thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh” ( Lc 4, 14 – 15 ).
Đức Giêsu chính là Ngôn Sứ mẫu mực, làm chứng cho Tình Yêu, cho sự thật, công lý và hòa bình. Trong khi người đồng hương trông chờ phép lạ, để thỏa trí tò mò, để hãnh diện khoe khoang, Người đã tử chối làm sự lạ như họ trông chờ. Bởi vì Người làm mọi việc để vinh danh Chúa Cha, chứ không vì bản thân, hay cho dòng họ, và quê nhà. Thông điệp mà Người muốn gửi qua các dấu lạ, đó là củng cố Đức Tin, chứ không phải đem đền những lợi ích thế gian. Gần đây, Bậc Đáng Kính, Đức Giám Mục Fulton Sheen, cũng đã thể hiện thiên chức Ngôn Sứ một cách vẻ vang rạng ngời.
Không chỉ các Chủ Chăn, các Linh Mục, Tu Sĩ, Chúa Giêsu còn mời gọi tất cả Kitô hữu đều trở nên Ngôn Sứ của Người, một khi đã là nghĩa tử, cha, mẹ, con cái, đều là những Ngôn Sứ thực sự, tỏa sáng Đức Tin cho gia đình và xã hội.
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết người, trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt người làm Ngôn Sứ cho chư dân… Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyển cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi, để giải thoát ngươi” ( Gr 1, 5, 7 – 8 ).
Ngôn Sứ phục vụ
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thuận lợi hay đối nghịch, Ngôn Sứ cũng phải phấn đấu hoàn thành thiên chức của mình, như lương tâm của thời đại, trở nên phát ngôn nhân chính thức của Chúa Giêsu, loan báo Tin Mừng, ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa, bảo vệ Sự Thật và Công Lý.
“Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi, nều tôi không rao giảng Tin Mừng” ( 1Cr 9, 16 ).
Chẳng thể hèn nhát, nhu nhược, khiếp đảm nhục hình tra tấn của ác nhân, hôn quân, bạo quyền, mà đánh mất thiên chức Ngôn Sứ, cứ ấp a ấp úng, phân vân, do dự lên tiếng, hay không lên tiếng. Mặt khác, Satan đang ra sức lấy cái bả danh lợi, địa vị, của cải, sắc dục,... để nhẹ nhàng, êm ái bịt miệng, bịt mắt, bịt tai Ngôn Sứ !
Nếu Chúa Giêsu dè dặt, cả nể, ngần ngại va chạm, sợ hãi đối đầu, thì đã không dám lên tiếng tố cáo thói háo danh, lòng hẹp hòi, cục bộ, tính đố kỵ, kỳ thị, kèn cựa, so bì, ganh ghét, háo thắng, của người đồng hương Nazareth. Họ đòi hỏi, thèm thuồng của phù vân, thứ hư danh, chứ không muốn đón nhận Đức Tin cao quý và bền vững.
Trong cuộc sống thường nhật, người Kitô hữu cũng thường chọn lối ứng xử khôn ngoan theo kiểu thế gian, khôn ngoan như con rắn, tránh va chạm, tránh đối đầu với bất công, với sự tha hóa đạo đức, để yên thân và an phận giữ đạo; coi như mình đã đầy đủ nghĩa vụ với Chúa. Đó là những khi tôi vô cảm, im lặng thỏa hiệp trước tội ác, trước áp bức, trước gian tham, trước bóc lột, trước bạo tàn… Khi đó, tôi tránh né, lặng lẽ chối bỏ thiên chức Ngôn Sứ, mà a dua sống theo, sống cùng, sống với sự dữ, làm sao còn xứng đáng làm nghĩa tử của Chúa nữa ?
Lắm khi vị nể người thân, con cháu, tôi chẳng dám nhắc bảo, sống đúng Lời Chúa, thì cũng chẳng đâu phài Ngôn Sứ chân chính. Trong nhà mà còn e dè, sao dám tuyên xưng Đức Tin với người ngoài ?
Ngôn Sứ chứng nhân
Ngôn Sứ luôn noi gương Chúa Giêsu, kết hợp tri hành hiệp nhất, sống đúng theo Tin Mừng mình rao giảng. Nếu Ngôn Sứ chỉ biết nói suông, mà không làm theo thì cũng chỉ là một Ipod, máy ghi âm vô hồn. Hoặc tệ hơn nữa, Ngôn Sứ lại ba hoa chích chòe, bốc thơm ca tụng, truyền bá tà thuyết vô thần, thì thành tay lính đánh thuê chính tông, mong được ân thưởng những đồng tiền tanh tưởi máu và nước mắt.
Ngay sau khi bị lật tẩy bộ mặt háo danh, hẹp hòi, đố kỵ, “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” ( Lc 4, 28 – 30 ).
0Ngôn Sứ luôn sẵn sàng hy sinh cho sứ vụ, chẳng hề run sợ, chùn bước trước thách đố có thể chết người, bởi vì Thần Khí ban sức mạnh chịu đựng. Chính vì vậy, biết bao Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã hiên ngang chịu chết, để bảo vệ Đức Tin.
Nhưng trong cuộc sống thường nhật, tôi lại thường dỗ ngọt thiên chức Ngôn Sứ, cứ việc an nhiên đông miên ( yên giấc mùa đông ), như con gấu cực Bắc. Đừng lên tiếng phản đối trò gian xảo, áp bức, chèn ép, bất nhân, để được an thân, bình yên vô sự, kẻo chuốc phiền toái vào thân.
Như thế, chính tôi đang bịt miệng Ngôn Sứ, đang cấm triệt Ngôn Sứ đem tình thương, đem Lời Chúa can thiệp vào đời mình, vào gia đình và xã hội. Sao Ngôn Sứ có thể làm trọn vai trò chứng nhân Đức Kitô được ? Thánh Phaolô đã từng nhắc nhủ: “Bạn dạy người khác, sao lại không dạy chính mình ? Bạn tự hào vì có Lề Luật sao bạn lại vi phạm Lề Luật mà làm nhục Thiên Chúa” ( Rm 2, 21 – 23 ). Phần thưởng luôn sẵn sàng dành cho Ngôn Sứ trung thành và tận tâm. “Những ai giỏi giang và vất vả giảng Lời Chúa, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi” ( 1Tm 5, 17 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhở con luôn là Ngôn Sứ, để nói với bản thân và tha nhân nhận biết Tin Mừng, qua chính cuộc sống và tâm tình con với Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Ngôn Sứ nguyên bản qua Kinh Magnificat, xin dạy con trở nên Ngôn Sứ, biết cảm tạ, ngợi khen và vinh danh Thiên Chúa mãi mãi. Amen.
Thiên Chúa luôn tác động, song hành và quan phòng gìn giữ các Ngôn Sứ của Người để họ can đảm: TN4-C76
Thiên Chúa luôn tác động, song hành và quan phòng gìn giữ các Ngôn Sứ của Người để họ can đảm rao truyền Lời Chúa, dù gặp khó khăn, trắc trở, bách hại. Giêrêmia tự thuật Lời Thiên Chúa về ơn gọi làm Ngôn Sứ của mình như sau ( Ảnh Icon Giêrêmia ):
“Trước lúc tượng hình trong dạ mẹ, Ta biết ngươi và thánh hiến ngươi rồi. Ta đặt Ngươi làm ngôn sứ. Hãy đi khắp muôn nơi và nói cho thế giới Lời Ta truyền dạy. Đừng nhát đảm hay chùn chân, khiếp hãi, Bởi nơi ngươi Ta xây vững thành trì. Cột sắt đúc, vách thành đồng, thì sá chi, vì kẻ chống đối không mảy may thắng được. Vì Ta ở cùng Ngươi, đi cùng trong từng bước, để giải thoát ngươi khỏi mưu chước gian tà”.
Thân phận Ngôn Sứ của Đức Giêsu cũng vậy, nếu không nói là còn bi tráng hơn. Cả trình thuật lần về quê hương Nadarét để rao giảng Tin Mừng hôm nay, đã cho thấy gần như toàn bộ hành trình Ngôn Sứ của Ngài.
Đức Giêsu về quê hương Nadarét để rao giảng Tin Mừng. Nghe Chúa Giêsu giảng, phút đầu, kẻ thán phục, người ngỡ ngàng, rằng kiếm ở đâu ra một con người tài ba xuất chúng thế. Thế nhưng, khi nhận ra con người ấy là Giêsu, con trai ông thợ mộc trong làng, thì họ tỏ ra xem thường Người, phẫn nộ, đuổi xua và thậm chí, còn muốn ám hại Người nữa.
Vâng chuyện xưa nay vẫn vậy. Con mắt trần gian vẫn nhìn người qua thân thế, nguồn gốc. “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Há lẽ ông thợ mộc Giuse nghèo hèn thinh lặng kia lại có thể có một đứa con tuyệt vời như vậy sao ? Tính ganh tỵ của con người vẫn không ưa ai hơn mình, có khi ngay cả người nhà: “Người nhà chẳng thích người nhà, lắm tài nhiều đức khôn ra với đời”. Đáng lý phải tự hào, phải hãnh diện về người nhà, người làng mình chứ. Người cùng quê hương, làng xóm với Chúa Giêsu không thể chấp nhận trong làng quê mình lại có người tài giỏi, xuất chúng hơn người. Họ quên rằng, nếu không có cái gốc rạ, thì chẳng có cây lúa, nếu không có cây lúa, thì chẳng có hạt lúa, hạt cơm.
Vâng, còn đó, cái gốc rạ, một đời làm chân cho cây lúa, một đời nặng nhọc, vất vả, rồi tàn úa, từ thuở lúa trổ đòng đòng, đến chắc hạt vàng bông. Thử hỏi ai đã từng quí hạt gạo trắng trong, thì quên sao những đêm mưa, bềnh bồng cây lúa ? Ai đã từng nức nở khen cánh đồng mướt xanh như lụa, lại có thể vô tình xem gốc rạ vô công ?
Cũng vậy, Con Chúa xuống làm người, và làm người con trong gia đình có cái gốc rạ là cô thợ may, anh thợ mộc. Về Nadarét, nghe ai đó mắng vốn thật đau, hẳn thiếu điều Người bật khóc thương cho họ đã không hiểu thấu mầu nhiệm kiếp người của Con Thiên Chúa là được sinh ra vì hạnh phúc cuộc đời, được sai đi ban Lời tình muôn thuở. Và vì thế, họ không đón nhận, họ từ chối, phẫn nộ, đuổi xua. Họ không biết “cái gốc rạ” của Đức Giêsu ở trên Trời.
Trước thái độ của người Do Thái ở làng Nadarét, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa Cha, chương trình cứu chuộc nhân loại. “Người băng qua giữa họ mà đi”, vì Tin Mừng không chỉ dành riêng cho Người ở quê hương Ngài, ở Do Thái, mà là Tin Mùng cho muôn dân tộc, cho cả và thiên hạ.
Chúa Giêsu đã rẽ lối, đi về phía xa vời, cho muôn nước, cho mọi thời rạng ngời Lời Cứu Thế. Người vẫn biết số phận Ngôn Sứ là không ai có thể được vinh dự gì nơi cắt rốn chôn nhau. Hẳn là, Người cũng bỏ lại đằng sau bao kỷ niệm luyến thương nơi quê hương ngày thơ bé để bước vào đường thênh thang mà hành trình không cô lẻ, bởi Thánh Linh cùng Người hiên ngang bước Cứu Thế rạng ngời.
Vâng, Tin Mừng không ưu tiên cho đồng hương, nhưng ưu tiên cho người hân hoan đón nhận. Tin Mừng không ưu tiên cho trí thức, nhưng ưu tiên cho kẻ thành tâm khiêm cung.
Chiếc áo của Tin Mừng không sang trọng lụa là gấm vóc, nhưng là tình yêu thương che ấm những cuộc đời tang tóc điêu linh. Lời thân thưa của Tin Mừng không chuốt ngót, cũng chẳng rẻ khinh, nhưng chân thật tự tấm lòng yêu không hề gian dối.
Bước đi của Tin Mừng không ngại dấn thân vào trong hẻm tối, nhưng can đảm thắp lên niềm tin nơi chán chường, lầm lỗi, diệt vong. Niềm vui của Tin Mừng không chỉ một lóe sáng cõi hư không, nhưng chiếu dọi vạn hào quang rực hồng muôn năm hằng hữu.
Thời gian của Tin Mừng không tính năm tính tuổi, nhưng là vĩnh cửu, là vô hạn vô biên
Ai có thể cầm chân Tin Mừng trong thánh thất, trong đền thiêng, mà không ngộ ra Tin Mừng đã bước đến muôn miền thế giới ? Ai có thể bắt bớ, bỏ tù ngàn ngàn Ngôn Sứ, mà che mắt nhìn cánh đồng vàng muôn tín hữu thành tâm ?
Con Thiên Chúa đến trần gian rất đỗi âm thầm, rồi hiên ngang bước đi gieo Tin Mừng nguồn sống mới. Người đã đi giữa mũi đạn làn tên chống đối, vẫn hùng anh chết để phục sinh cho nên trọn Tin Mừng.
Lạy Chúa, chúng con, những tín hữu thi hành sứ vụ Ngôn Sứ trong đời thường cũng không tránh khỏi bao làn tên mũi đạn. Xin cho chúng con lòng kiên vững làm chứng rằng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa đang dành cho tất cả những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng, đón nhận Đức Giêsu. Amen.
Con người được sinh ra đã khó, nhưng để tồn tại trong thế giới này lại càng khó hơn. Để một đứa: TN4-C77
Con người được sinh ra đã khó, nhưng để tồn tại trong thế giới này lại càng khó hơn. Để một đứa trẻ ra đời, người cha người mẹ đã phải khổ cực biết chừng nào, nhưng làm cho đứa trẻ ấy lớn lên, trở thành người và tồn tại được trong xã hội là cả một vấn đề.
Như vậy, xã hội là nơi con người tồn tại và được lớn lên, đó cũng chính là một trong những nơi quyết định sự sống còn của họ. Rất khó để tồn tại với những cá thể bị xã hội loại bỏ, bị mọi người khinh ghét. Bất kỳ một tổ chức, hay cộng đoàn nào cũng vậy, luôn luôn có những con người, những cá vị bị “tẩy chay”.
Con người được sinh ra trong thế giới và được phát triển trong thế giới. Nếu ra khỏi quĩ đạo đó, tất yếu họ sẽ bị hủy diệt. Thế nhưng, đâu là chuẩn mực chung nhất có thể quyết định sự tồn tại của nhân loại ? Phải chăng đó là danh vọng ? địa vị ? tiền bạc ? sắc đẹp ? chức vị ? quyền lực... ?
Ở trong thế giới sự thiện, thì chính sự công chính quyết định vận mạng con người. Nhưng giữa một thế giới sa đọa bởi tội lỗi, hận thù, thì cái làm nên lịch sử đời người không tùy thuộc vào tài đức nữa, bởi nơi đó cán cân công lý đã không còn, chỉ có đồng tiền mới là sức mạnh tạo dựng bệ phóng vững chắc của họ trong xã hội.
Nếu vậy, nhân loại là kẻ đáng thương hơn bao giờ hết. Họ được đưa vào thế giới rồi bị chính thế giới đó làm chủ. Trong khi theo ý định thánh thiện nguyên thủy của Thiên Chúa, Ngài trao cho con người quyền làm chủ, cai quản toàn bộ vạn vật. Nói vậy, chính con người đã tự thay đổi vận mạng đời mình bằng việc đảo lộn mục đích cuộc sống. Loại bỏ Thiên Chúa, cung phụng bạc tiền.
Có một câu thơ bất hủ trong dân gian:
“Cười đi, thiên hạ đồng tình Khóc than, bạn sẽ một mình khóc than !”
Phải, dường như tất cả những ai bước đi trên con đường của Đức Giêsu, đều là người lội ngược dòng, kêu gọi hòa bình, sống công chính, thực thi bác ái, yêu thương, chia cơm sẻ áo… những việc làm đó rất hữu ích nhưng chẳng mấy ai quan tâm. Người thì bận rộn, kẻ thì bàng quang, người phải lo trách nhiệm gia đình. Làm thế nào để có thể chỉ sống mà chăm lo cho kẻ khác. Nhưng đó cũng mới chỉ là một vấn nạn nhỏ. Việc qui phục, đón nhận giá trị một người càng khó khăn hơn đến chừng nào. Có những khó khăn đến tự bản thân chủ thể, nhưng có những khó khăn đến từ ngoài bản thân họ. Đó chính là những định kiến, thành kiến của xã hội. Nó chính là con dao hai lưỡi, hủy hoại sự tồn tại của nhân loại.
Đức Giêsu là một nhân vị thực thụ trong xã hội Do Thái, Ngài cũng không chệch ra khỏi con đường oan nghiệt đó. Khi tuyên bố ứng nghiệm những lời đã được ghi trong Sách Thánh: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe” ( Lc 4, 21 ), lập tức Ngài bị mọi người chỉ trích, phê phán. Họ xầm xì, bàn tán về thân thế của Ngài. Họ không chấp nhận con của một ông Giuse thợ mộc nghèo nàn làng quê họ, có thể trở thành vị tiên tri loan báo lời Thiên Chúa được: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?” ( Lc 4, 22 ) Hiểu tất cả thâm ý đó, Đức Giêsu dõng dạc giải thích: “Tôi bảo thật các ông, không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” ( Lc 4, 24 ).
Đức Giêsu không được chấp nhận không phải vì Ngài không xứng đáng, kém tài, vô dụng, nhưng là vì định kiến xã hội Ngài sống gán cho Ngài án mác bị xem thường, khinh miệt. Cũng vậy, nhân loại trong xã hội, người này từ khước người khác, kẻ này phỉ báng kẻ nọ, cũng chỉ vì định kiến, ác cảm cá nhân. Nhưng nếu điều đó xảy ra với con người trong xã hội loài người thì có thể chấp nhận được, đàng này là Con Thiên Chúa, là Đấng Công Chính, là Vua Công Bình thì làm sao có thể ?
Lạy Chúa, cùng Ngài lật lại trang Kinh Thánh của ngày Ngài vào hội đường công khai rao giảng, trước những phản ứng gay gắt của công chúng, con lại càng hiểu ra tình thương cao cả mà Thiên Chúa đã dành cho con. Phải, Ngài đã yêu thương hết mình, sống hết mình và chia sẻ hết mình kiếp người với con. Không còn nơi sâu thẳm tận cùng nào của kiếp sống con mà Ngài không trải qua, những đau khổ cùng cực, những phỉ báng bất công, những ác cảm cay nghiệt… ngay cả tội lỗi con, Ngài cũng đã gánh lấy hết vào thân thể. Đối diện với chúng, chấp nhận chúng và thánh hóa chúng. Tất cả là vì yêu con, là muốn sống cho con, là muốn chứng minh tình yêu với con.
Vậy mà, sao mỗi lần con gặp xỉ vả, khinh miệt, con lại ủ rũ ưu sầu, oán trách Chúa. Những giọt nước mắt ích kỉ của con cứ mãi làm phiền lòng Ngài. Xin giúp con, có được trái tim như Chúa, có được tinh thần như Chúa, có được niềm tin như Chúa, để mà kiên vững tồn tại giữa đời, mặc cho đời loại bỏ lên án, con vẫn luôn tin rằng đã có Thiên Chúa đón nhận con.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi cảm động vì cuộc đời năm chìm bẩy nổi của: TN4-C78
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi cảm động vì cuộc đời năm chìm bẩy nổi của Người. Là Chúa và là người, Chúa Giêsu đã mang trong mình những niềm vui, những cay đắng của thân phận làm người. Những lời Chúa dạy, những phép lạ Chúa làm là những bằng chứng hùng hồn nói lên Ngài là Thiên Chúa, Đấng có đầy uy quyền trên Trời dưới Đất. Tuy nhiên, Ngài đến trần gian không phải ai cũng dễ chấp nhận Ngài, không phải ai cũng tôn vinh Ngài. Cho nên, chúng ta chẳng lấy gì ngạc nhiên khi họ vừa tung hô, rồi sau đó lại đả đảo Ngài. Dân làng Nagiarét cũng chẳng khác gì nơi ở những nơi khác, khi Chúa trở về quê hương và vào Hội Đường ngày sabát, Ngài đọc Sách ngôn sứ Isaia, mới đầu họ ngạc nhiên, tung hô Ngài, nhưng rồi vì thành kiến cố hữu, họ đã chống đối Ngài, muốn khử trừ Ngài…
Tin Mừng của thánh Luca hôm nay thuật lại, khi đọc xong đoạn ngôn sứ Isaia có đoạn chép:” Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe “. Họ đều tán thành và thán phục. Nhưng rồi họ lại viện cớ:” Thầy lang ơi hãy chữa lấy mình “. Xem ra những người đồng hương của Chúa Giêsu đã có thành kiến cố hữu của họ. Họ không thể tin rằng Chúa Giêsu là con ông thợ mộc Giuse và bà nội trợ hiền lành Maria lại có thể sinh Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu hiểu ý họ và đã phản lại bằng một câu ấn tượng ngàn vàng:” Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình “. Những người đồng hương của Chúa không chịu nổi lời của Chúa, họ phẫn nộ, Tin Mừng viết tiếp:” Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành…Họ lôi Người lên đỉnh đồi, để xô Người xuống vực “. Sự căm phẫn của dân làng Nagiarét đã đổ xuống trên người vô tội bởi vì họ mù tối và thành kiến xấu xa.Thánh Luca đã kết thức câu chuyện về Chúa Giêsu tại Hội Đường quê hương một cách bất ngờ, hóm hỉnh:” Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi “.
Chúa Giêsu là tiên tri, một vị ngôn sứ cao cả, danh tiếng dám đem cả mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Cha. Về làng Nagiarét, Chúa Giêsu không có ý khoe mình, không tự tôn vinh mình, Ngài không chiều theo thị hiếu của người đồng hương, Ngài không đoán quẻ, không tiên đoán thời vận như các thầy bói toán, không chữa bệnh như những thầy lang, bác sĩ…Chúa là ngôn sứ làm tất cả vì thánh ý Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu là ngôn sứ theo kiểu Môsê, Giêrêmia, Isaia, Ôsê, Amót vv…Ngài là tiên tri của chính Thiên Chúa. Ngài loan báo Thiên Chúa sẽ đến, Nước Thiên Chúa sẽ trị vì. Ngài là tiên tri công bố năm hồng ân, loan báoThiên Chúa sẽ đến để làm cho mọi sự được đổi mới, mọi điều được tốt hơn. Chúa Giêsu là vị ngôn sứ cao cả nhưng người đồng hương của Ngài chối từ Ngài bởi họ u tối không thể nhận ra Ngài. Họ cho rằng Nagiarét nào có cái chi, nào có ra gì ! Họ đã lầm vì thành kiến, vì thiển cận vv…
Ngôn sứ Giêrêmia hôm nay loan báo:” Phần Ta, hôm nay, Ta làm cho ngươi trở nên thành trì kiên cố, cột sắt tường đồng, để chống chọi với cả nước này: chống chọi với vua chúa Giuđa, với quan quyền, tư tế và toàn dân trong nước. Chúng sẽ tấn công ngươi, nhưng sẽ không làm gì nổi, vì có Ta ở với ngươi để độ trì ngươi “.
Vâng, Đấng cứu độ là Chúa Giêsu vâng lời Thiên Chúa Cha mặc lấy xác phàm làm người…Ngài luôn làm theo ý Chúa Cha và cuối cùng tột đỉnh của sự vâng phục là cái chết trên thập giá. Chúa đến nhưng như thánh Gioan nói:” người nhà đã không đón nhận Ngài “. Dân Do Thái đã khước từ Chúa như hôm nay, Chúa bị chính những người đồng hương từ chối Ngài…
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để trong mọi hoàn cảnh, trong mọi biến cố của cuộc đời, chúng con đều nhận ra có Chúa đang hiện diện. Xin cho chúng con luôn mau mắn đón nhận Chúa trong mọi trạng huống của đời người để lúc nào chúng con cũng biết phó thác trong bàn tay uy quyền của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi chúng con, Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa chúng con, Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của người nghèo, của những người cô thân, cô thế, của những kẻ thấp cổ bé hỏng.
GỢI Ý ĐỂ. CHIA SẺ
1.Tại sao những người đồng hương của Chúa Giêsu không đón nhận Ngài ? 2.Thế nào là thành kiến ? 3.Thái độ của Chúa thế nào trước sự căm phẫn hàm hồ của những người Do Thái đồng hương ? 4.Băng qua có nghĩa gì ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 4:21-30)
Đọc hết câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải ngạc nhiên và hỏi tại sao dân thành Na-da-rét: TN4-C79
Đọc hết câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải ngạc nhiên và hỏi tại sao dân thành Na-da-rét lại có thể đối xử với Chúa Giê-su cạn tàu ráo máng như vậy. Biểu lộ những định kiến không tốt về thân thế và gia đình của Người đã đành, nhưng họ còn đang tâm “kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực” nữa! Phải chăng chỉ vì Người từ chối làm phép lạ như Người đã từng làm tại Ca-phác-na-um và nhiều nơi khác? Có lẽ việc Chúa Giê-su đan cử hai phép lạ của ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa giúp chúng ta đi vào lý do chính khiến họ thù ghét Người, đó là vì họ muốn “độc quyền” giành lấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta đều biết sách Tin Mừng Lu-ca chú trọng đến tính phổ quát của ơn cứu độ. Nhiều nhân vật dân ngoại đã được đề cao. Thêm vào đó là những người bị coi là “phường tội lỗi, quân thu thuế…” Kế hoạch cứu độ là kế hoạch phổ quát, chứ không dành riêng cho nhóm người Do-thái vỗ ngực cho mình là người công chính. Chính vì thế, lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được hiểu là ám chỉ về Chúa Giê-su: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho muôn dân” (Giê-rê-mi-a 1:5). Nhưng người ta không muốn chấp nhận chân lý này của Thiên Chúa. Sự thay đổi thái độ của người dân Na-da-rét đã được thánh sử Lu-ca ghi lại rất sống động. Đầu tiên thì “mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra”. Nhưng tán thành và thán phục chỉ là cảm ứng nhất thời, không đủ để dẹp được những định kiến của họ về Chúa Giê-su. Đáng lẽ họ phải cảm tạ Thiên Chúa vì một người con của Na-da-rét đã được Người sử dụng để thực hiện những việc vĩ đại làm vinh danh Thiên Chúa. Nhưng dân Na-da-rét lại muốn giành lấy vinh quang ấy cho riêng mình và đòi hỏi Người hãy ưu tiên làm những phép lạ cho họ. Đó không phải là não trạng của Chúa Giê-su, cũng không phải là mục đích kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Việc Chúa Giê-su từ chối yêu cầu của họ làm cho họ thay đổi thái độ: từ thán phục và tán thành biến sang phẫn nộ, khinh thường và không chấp nhận.
Lời khẳng định của Chúa Giê-su “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” không phải chỉ là lời nói về cá nhân Người, nhưng là về ơn cứu độ và sứ mệnh Chúa Cha đã trao cho Người thi hành. Ơn cứu độ phải là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại. Sứ mệnh của Chúa Giê-su không chỉ là kêu gọi những người công chính, mà còn là đưa cả thế giới về nhà Cha. Nhắc lại câu chuyện ông Ê-li-a cứu đói cho bà góa thành Xa-rép-ta và ông Ê-li-sa chữa lành cho quan Na-a-man người Xy-ri không mang tính cách lên án dân Do-thái, nhưng chỉ là một bằng chứng nói lên rằng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không bị giới hạn cho một dân tộc, mà là cho muôn dân.
Người dân Na-da-rét có những phản ứng không tốt đối với Chúa Giê-su. Nhưng đối lại, Chúa Giê-su đã hành xử thế nào? Trước khi họ xô Người xuống vực, thì “Người băng qua giữa họ mà đi”. Người đã thực hiện điều ngôn sứ Giê-rê-mi-a nói về Người: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ” (Giê-rê-mi-a 1:18).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hầu hết chúng ta không phải là người Do-thái, nên câu chuyện Tin Mừng hôm nay đem lại cho chúng ta nhiều tâm tình ý nghĩa. Chúng ta xác tín tình yêu cứu độ Thiên Chúa dành cho cả chúng ta nữa. Người muốn quy tụ hết mọi người vào trong Giáo Hội của Chúa Ki-tô, để đón nhận “những lời ân sủng từ miệng Chúa Giê-su nói ra”. Nên tâm tình đầu tiên là cảm tạ Chúa.
Tuy nhiên chúng ta cũng phải cẩn thận tránh thái độ mang định kiến của dân chúng Na-da-rét. Định kiến làm cho trái tim chúng ta thắt lại, không thể đón nhận ngay cả những điều tốt đẹp của người khác. Định kiến gây ra không biết bao nhiêu đầu mối chia rẽ, một kinh nghiệm đã xảy ra cho giáo hội tại Cô-rin-tô. Liều thuốc thánh Phao-lô gửi cho tín hữu Cô-rin-tô để chữa định kiến là đức mến, “đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cô-rin-tô 13:7). Sống yêu thương để loại bỏ định kiến!
Với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình kết án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng: TN4-C80
Với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình kết án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh là “Hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê” (Lc 3,1–9,50), và thuộc về phân đoạn 4,16-30, “Đức Giêsu tại Nadarét”. Chúng ta có thể xác định cầu trúc của bản văn 4,16-30 như sau:
+ Mở: Đức Giêsu đến Nadarét (c. 16a); Người vào hội đường (c. 16b).
I. Đọc sách Isaia
a) Dẫn nhập (c. 16c) b) Chuẩn bị đọc (c. 17) c) Bản văn Isaia (cc. 18-19) b’) Kết thúc việc đọc (c. 20ab) a’) Kết luận (c. 20c)
- Chuyển tiếp: Mọi người trong hội đường chăm chú nhìn Người (c. 20d)
II.Các lời nói của Đức Giêsu
A- Can thiệp thứ nhất của Đức Giêsu a) lời nói về hoàn tất (c. 21) b) các hậu quả đầu tiên nơi các thính giả (c. 22)
B- Can thiệp thứ hai của Đức Giêsu a) lời nói về thầy thuốc (c. 23) b) lời nói về ngôn sứ (c. 24)
C- Can thiệp thứ ba của Đức Giêsu a) dân Israel trước Êlia (cc. 25-26) b) dân Israel trước Êlisa (c. 27)
+ Kết: Dân Nadarét đuổi Đức Giêsu khỏi hội đường (cc. 28-29) Người rời Nadarét (c. 30)
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (4,21-22); 2) Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (4,23-24); 3) Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (4,25-27); 4) Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (4,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm nay (21): Trạng từ sêmeron hiếm khi được hiểu theo nghĩa tổng quát là “vào ngày hôm nay, nowadays”. Do vị trí nhấn mạnh ở đầu câu, trạng từ này đánh dấu một điểm quan trọng trong các nhìn lịch sử của tác giả Lc (x. 4,21; 5,26; 19,5.9; 23,43): những điểm này, những lời nói này của Đức Giêsu vẫn còn giá trị cho cuộc sống của người Kitô hữu hôm nay.
- đều tán thành (22): dịch sát là “đều làm chứng cho (emartyroun) cho điều này? / cho ngài?”. Đa số các nhà chú giải hiều là đại từ autô ở tặng cách (dative) nam-tính và có nghĩa là “cho Người”, tức là ca ngợi Người. Chúng tôi nghĩ rằng giáo sư Fitzmyer có lý khi cho rằng đại từ autô ở tặng cách (dative) trung-tính (neuter) và có nghĩa là “về điều này”.
- thán phục (22): Động từ thaumazein có thể diễn tả sự kinh ngạc (đi đôi với chỉ trích, nghi ngờ, phê phán; x. Lc 11,38) hoặc sự thán phục (đi đôi với sự thích thú bất ngờ; x. Lc 1,63; 2,18; 2,33; 7,9.8.25; 9,43;11,14; 20,26 …). Theo ngữ cảnh (đến sau “tán thành” và được nối với động từ bằng “và”), chỉ có thể chọn nghĩa “thán phục”.
- không phải là con ông Giuse đó sao? (22): Câu này có thể diễn tả sự khó chịu, bực bội, khinh bỉ hoặc một sự ngạc nhiên đầy thích thú, sự thán phục. Theo ngữ cảnh, có thể hiểu là sự thán phục.
- Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình (23): Đức Giêsu dùng câu tục ngữ này để diễn tả ra nguyện vọng thầm kín của người Do Thái: Vì họ đã nghe biết nhiều về hoạt động của Đức Giêsu tại Caphácnaum, họ ước muốn Người cũng làm như thế cho quê hương. Câu nói tiếp theo câu tục ngữ đã giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ. Người dân Nadarét đang tính toán vụ lợi.
- không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương (24): Khi dịch tính từ dektos bằng “được chấp nhận”, Bản Dịch CGKPV đã coi dektos có ý nghĩa tương tự như atimos trong Mc 6,4 và Mt 13,57, mà thật ra đây cũng là cách dịch của các Bản dịch nổi tiếng thế giới là BJ, TOB và NAB, và là ý kiến của một giáo sư chuyên về truyền thống Luca, J.A. Fitzmyer (x. The Gospel according to Luke I-IX, The Anchor Bible, Doubleday NY 1970, 537). Tuy nhiên, lúc ấy ta thấy là phản ứng mạnh của Đức Giêsu như thế không phù hợp với thái độ của cử tọa. Hơn nữa, các lời Đức Giêsu nói lại không thống nhất: người ta xin Người làm phép lạ (điều này giả thiết là người ta có tin, dù chút ít), Người lại than trách là bị tiếp đón tệ bạc (c. 24). Đã thế, các ví dụ Người nêu ra ở cc. 25-27 lại không phù hợp với hoàn cảnh: không phải là các ngôn sứ bị tiếp đón tệ bạc (như Người), nhưng lại là các ngôn sứ mới từ chối làm những phép lạ để giúp đỡ người đồng hương. Như vậy, phải kết luận là bản văn Lc thiếu mạch lạc?
Vấn đề là các học giả đã hiểu bản văn Lc theo hướng của các bản văn song song Mc và Mt, thế mà bản văn Lc lại khác: thay vì dùng từ atimos (“bị khinh bỉ”), tác giả dùng dektos. Dektos là một tính từ phái sinh từ động từ dechomai (“đón nhận, đón tiếp, chấp nhận”) và thường có nghĩa bị động (passive); trong trường hợp này, dektos tương đương với atimos. Tuy nhiên, tính từ này cũng có một nghĩa chủ động (active) (x. M. Zerwick, Biblical Greek, Rome 1963, số 142), “đón nhận, ân cần, thuận thảo, thuận lợi”. Và trong thực tế, cách đó năm câu, từ dektos có ý nghĩa chủ động (“Năm hồng ân = năm thuận lợi; năm đón nhận”). Nếu như thế, câu nói của Đức Giêsu hẳn sẽ có nghĩa là: không một ngôn sứ nào dành ưu tiên / thiên vị cho / với quê hương; và hiểu cụm từ “không một ngôn sứ nào” là một cụm từ nói “ngoa”, chứ không theo nghĩa chữ và nghĩa xấu (= một ngôn sứ luôn luôn tỏ ra bất thuận lợi với quê hương mình), bởi vì trong thực tế Mt 13,58 và Mc 6,5 cho thấy là Đức Giêsu cũng có làm một vài phép lạ tại Nadarét. Cuối cùng, câu nói của Đức Giêsu có ý nghĩa là: Một ngôn sứ không tỏ ra thuận thảo với quê hương mình hơn là với người ngoại quốc; tất cả là vấn đề đức tin và tình trạng tâm hồn sẵn sàng. Hiểu như thế, bản văn rất mạch lạc.
Có người bẻ lại: bản văn nói “en tê patridi”: patri, “quê hương”; giới từ en, “tại, trong”; vậy en tê patridi có nghĩa là “tại quê hương”, mà như thế, nghĩa bị động của dektos được biện minh. Thật ra, trong hy-ngữ phổ thông [koinê] (hy-ngữ Tân Ước là hy-ngữ này), en không chỉ có nghĩa nơi chốn, mà còn có nghĩa thời gian, dụng cụ, nguyên nhân, v.v. Trong nhiều cách sử dụng ấy, en thường được dùng với các động từ nói về tình cảm để diễn tả “điều mà tâm tình hướng về” (W. Bauer, A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature, The University of Chicago Press, Chicago 1957, tr 160: III,3b).
- nhưng quả thật, tôi nói cho các ông hay (25): De, “nhưng”, tiêu từ ở đầu c. 25 này rất quan trọng, diễn tả một ý đối lập.
- hạn hán ba năm sáu tháng (25): 1 V 18,1 nói rằng có mưa “vào năm thứ ba”. Ở đây, tác giả Lc kế thừa một truyền thống khác, có được nhắc đến trong Gc 5,17. Theo truyền thống này, thời gian hạn hán kéo dài bằng thời gian khốn quẫn trong văn chương khải huyền (thời gian này được rút ra từ thời gian cuộc bách hại dưới triều Antiôkhô IV Êpiphanê: Đn 7,25; 12,7; x. Kh 11,2; 12,6.14. Tác giả Lc không quan tâm đến ý nghĩa khải huyền. Trời hạn hán”: dịch sát là “trời bị đóng [cửa] lại”: thái bị động thay tên Thiên Chúa.
- không được sai đến (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa. Xem cả c. 27, “được sạch”.
- bà góa thành Sarépta (26): xem 1 V 17,9 (LXX).
- ông Naaman (27): xem 2 V 5,1-19
- thành này được xây trên cao (29): Nadarét hiện đại được xây trên một triền đồi, xung quanh có các đồi khác vây bọc. Nhưng ta không thể xác định được nơi nào đã xảy ra sự cố kể đây; với lại, thật ra cũng khó tìm được một chỗ nào ở đây có dốc núi để có thể xô người ta xuống cho chết, hoặc để ném đá. Vào thế kỷ ix, có một truyền thống đã coi địa điểm này là một chỗ cách Nadarét khoảng ba cây số về phía đông nam, nhưng nay người ta không chấp nhận giả thuyết này nữa. Đây rất có thể là dấu chứng tỏ Lc không biết rõ địa lý Paléttina và cũng có thể cho hiểu là tác giả đã ép các dữ kiện để báo trước việc Israel giết Đức Giêsu.
- Người băng qua giữa họ mà đi (30): Không nhất thiết đây là một phép lạ. Điều chính yếu đối với Lc là cho thấy Đức Giêsu còn phải tiếp tục con đường của Người để loan báo Tin Mừng, và con đường này chỉ kết thúc tại Giêrusalem (x. 13,33).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (21-22)
Người dân Nadarét đang ca ngợi và thán phục Đức Giêsu. Do đó, họ bắt đầu tính toán: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (c. 22). Nếu đây đúng là con ông Giuse, nay đã thành ngôn sứ và thầy chuyên làm phép lạ, sao ta lại không tận dụng cơ hội để có lợi cho làng ta? Câu trả lời sau đó của Đức Giêsu cho hiểu là quả thật dân chúng đang tính toán như thế.
* Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (23-24)
Đức Giêsu đã dùng một tục ngữ để lật tẩy lối giải thích của những người đồng hương về sứ mạng của Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình” (c. 23); “chính mình” đây là dân làng của Người. Người lập luận: Đơn giản chỉ vì các ông là người đồng hương với tôi, mà các ông đòi hỏi tôi phải làm ở đây những phép lạ giống như tôi đã làm ở Caphácnaum! Họ muốn Nadarét cũng được hưởng nhờ quyền lực của Người là “thầy thuốc-thầy làm phép lạ”. Nhưng một ngôn sứ không hề chiếu cố riêng đến quê hương mình (c. 24). Người phải làm việc theo kế hoạch của Thiên Chúa.
* Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (25-27)
Các ông cứ nghĩ đến trường hợp ngôn sứ Êlia và Êlisa. Có biết bao bà góa Israel phải đói, khi trời hạn hán ba năm sáu tháng; thế mà Êlia lại chỉ nuôi bà góa Sarépta mà thôi (1 V 17,9-16). Vào thời Êlisa, tại Israel đâu có thiếu người phong hủi; thế mà Êlisa chỉ chữa lành một người ngoại quốc mà thôi (2 V 5,1-19). Đức Giêsu từ chối liên kết các ân huệ thiên sai với những quan hệ thân tộc hoặc tình làng nghĩa xóm. Người là ngôn sứ; Người phải chu toàn một sứ mạng Thiên Chúa giao; chẳng phải là những yêu cầu của dân Nadarét có thể xác định hướng hoạt động cho Người. Đứng trước Thiên Chúa, phải bỏ đi mọi yêu sách, mọi đòi hỏi: Thiên Chúa hòan toàn tự do trong việc ban tặng các ân huệ; chỉ có một đức tin khiêm nhường và tín thác mới có thể trông chờ (chứ không đòi hỏi) một phép lạ.
* Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (28-30)
Bởi vì Đức Giêsu không chiều theo ý họ, họ đã nổi giận và loại trừ Người. Nhưng Người còn phải tiếp tục ra đi để loan báo Tin Mừng và tiến về Giêrusalem (9,51; 13,22.33; 17,11; 19,28), tiến đến thập giá và vinh quang. Lúc này người ta chưa chặn được sứ vụ của Người. Người sẽ tiếp tục phục vụ những người nghèo ở Israel và cả các dân nước.
+ Kết luận
Con người không có quyền gì để được hưởng các ân huệ của Thiên Chúa. Không một tư cách nào cho phép con người được quyền hưởng ơn cứu độ thiên sai. Ơn cứu độ được ban cho nhân loại, nơi bản thân Đức Giêsu, hoàn toàn là ân huệ. Đó là điều mà dân Nadarét đã không muốn hiểu. Chính thái độ này, khi đã phổ biến khắp Israel, đã khiến Đức Giêsu đi ngỏ lời với mọi người ngoài Do Thái.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vì thấy Đức Giêsu là đồng hương, dân Nadarét nghĩ Người có bổn phận chiếu cố đến họ trước. Đức Giêsu đã thẳng thắn đánh tan ngộ nhận này. Sự sai lầm của người Nadarét, người tín hữu vẫn có thể mắc phải, khi nại ra tư cách đã được rửa tội, đã sống đạo lâu năm (là người “đạo dòng, đạo gốc”, là tu sĩ, là linh mục …), đã đóng góp nhiều cho Giáo Hội bằng công sức và của cải… Thiên Chúa hoàn toàn tự do ban phát các ân huệ cho bất cứ ai, như và khi Ngài muốn. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mãi mãi là những con người nghèo hèn, bất xứng, luôn luôn cần được Ngài chiếu cố đến. Đức Giêsu không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bách cách loan báo Tin Mừng của Người và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Phép lạ chính là Lời của Người; chính Lời này làm ra các phép lạ và biến đổi dân chúng và sẽ tạo ra một thế giới mới.
2. Bằng cách nêu bật sứ mạng của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa, Đức Giêsu cho hiểu rằng hoạt động của Người cũng nhằm chiếu cố đặc biệt đến Dân ngoại. Đấy là điều Đức Giêsu còn chứng tỏ khi đến sống tại Capha1cnaum, một thành đầy người ngoại giáo. Ở đây sứ mạng của người Kitô hữu được phác họa ra. Họ cũng được sai đi để chuyển trao ân phúc của Thiên Chúa cho Dân ngoại, như Đức Giêsu ngày trước, và như thế, chương trình sống của Đức Giêsu được công bố tại Nadarét (Is 61,1-2; 58,6) cũng phải là chương trình sống của mỗi Kitô hữu.
3. Với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình kết án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Nhu thế, khi sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ trọn vẹn.
4. Trong tư cách là Con Thiên Chúa, với uy quyền lớn lao nhất, Đức Giêsu loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Là Đấng sống một cuộc sống nghèo, Đức Giêsu chính là lời chuẩn nhận rằng Thiên Chúa dủ thương chiếu cố đến những người nghèo. Đức Giêsu quy hướng niềm hy vọng của loài người không vào của cải trần thế, nhưng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa.
5. Đức Giêsu nói năng tự do bởi vì Người không lo lắng tìm kiếm thành công riêng tư hay lợi lộc hoặc tránh né tiếng xấu có thể lan tỏa đi các làng phụ cận, hoặc mất sự tín nhiệm nơi các thính giả. Người chứng tỏ là một nhà rao giảng có tinh thần hoàn toàn tự do. Người cho thấy có một tầm nhìn bao trùm thế giới, nhìn tới các chân trời của chính Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã bị người đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại: TN4-C81
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã bị người đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại: vì họ đã không được thỏa mãn khi đòi hỏi Người phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai. Người đòi họ phải có đức tin là điều kiện để có phép lạ, Người trưng dẫn hai nhân vật là bà góa nghèo ở Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở xứ Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã được phép lạ nhờ có đức tin. Do không được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến từ thán phục ban đầu sang tức tối muốn bách hại Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”: Đức Giê-su trình bày sự xuất hiện của Người như khai mở thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo, nhưng không dành riêng cho dân Ít-ra-en mà dành cho mọi dân tộc. Tin mừng Lu-ca thường nhấn mạnh đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”: Khi ra giảng đạo Đức Giê-su được 30 tuổi và thiên hạ vẫn cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc 3,23).
- C 23-24: + “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình!”: Đức Giê-su đã dùng câu tục ngữ này để nói lên tâm trạng của dân Na-da-rét, muốn được ưu tiên nhìn thấy Người làm phép lạ phục vụ đồng hương như Người đã từng làm ở nhiều nơi khác. + Ca-phác-na-um: là một thành phố nằm về hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động của Đức Giê-su. Tại đây, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân và làm nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28), tha tội cho người bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm những người tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung về luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!”: Dân Na-da-rét đang lặp lại cơn cám dỗ của Xa-tan là muốn thử thách Người. Họ tính lợi dụng lòng tốt của Người để phục vụ cho ích lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng mình đã biết rõ nguồn gốc Đức Giê-su, nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc 11,16). + “Không một Ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”: Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để an ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo một tương lai tốt đẹp sắp dến và động viên dân trung thành với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15); Cáo trách tội của vua quan và dân chúng như Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23); Na-than cáo trách tội “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Si-mon 12,1-15); Giê-rê-mi-a lên án dân chúng phụng thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)... Chính vì “Trung ngôn nghịch nhĩ”-“Lời thật khó nghe” mà nhiều ngôn sứ đã bị người đời giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình” ở đây đồng nghĩa với câu “Bụt nhà không thiêng” của Việt Nam chúng ta.
- C 25-27: + Tôi nói cho các ông hay: Đức Giê-su muốn trình bày tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là cho mọi dân mọi nước, chứ không chỉ dành cho dân Ít-ra-en hay cho quê hương Na-da-rét mà thôi. Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su cũng thường đề cao đức tin của dân ngọai như: khen viên đại đội trưởng Rô-ma (x. Lc 7,9) ; Dạy làm theo người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ; Khen người đàn bà Ca-na-an (x. Mt 15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta được qua cơn đói kém: Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị chết đói vì nạn hạn hán mất mùa. Bà may mắn gặp được ngôn sứ Ê-li-a. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà đã được ông làm phép lạ cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi: Ê-li-sa là đồ đệ của Ê-li-a, nổi tiếng vì khả năng chữa bệnh lạ lùng. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan Na-a-man bị bệnh phong cùi. Nhờ được một nữ tì mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm tới ngôn sứ Ê-li-sa để xin chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn làm theo lời ngôn sứ xuống sông Gio-đan tắm 7 lần và sau đó ông đã được khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).
- C 28-30: + Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ: Họ phẫn nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa mãn đòi hỏi của họ muốn xem phép lạ. Họ còn tức giận vì Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái được Đức Chúa ưu tuyển. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê hương Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người sẽ bị người đời chống đối, mà ông già Si-mê-on đã báo trước (x. Lc 2,34), và sau này Người sẽ bị kết án tử hình thập giá (x. Lc 20,15). + Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi: Trước sự chống đối của dân Na-da-rét, Đức Giê-su đã băng qua giữa họ mà đi trên đường của Người sẽ chỉ kết thúc tại thành Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,33).
4. CÂU HỎI: 1) Tin mừng Lu-ca cho biết khi ra giảng đạo Đức Giê-su được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là con của ai? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và sứ vụ của họ là gì? 3) Tại sao dân Na-da-rét đòi Đức Giê-su phải làm phép lạ cho họ xem và họ đã có thái độ thế nào khi không được như ý? 4) Hãy kể ra một số trường hợp Đức Giê-su đã đề cao đức tin của dân ngọai? 5) Khi nêu ra hai phép lạ của ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho hai người thuộc dân ngoại, Đức Giê-su muốn nói gì với người đồng hương Na-da-rét? 6) Tại sao các người Na-da-rét nổi giận và muốn giết hại Đức Giê-su?
Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều đình đến tư dinh để cùng bàn mưu tính kế và uống máu ăn thề với nhau. Sau khi nghe Thôi Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức triều đình có mặt đều tỏ ra khiếp nhược trước uy thế của Thôi Trữ và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm nhiên tự tại và không chịu thề hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng: “Nếu ngươi theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập tức bị tiêu diệt!”. Trước khí thế của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời rằng: “Lấy cái lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm lòng người sợ hãi phải nghe theo là thất đức. Giết thì giết! Ta đây quyết không làm theo việc bất trung thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy ung dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính ngăn lại và giết hại như đã đe dọa trước đó.
3. SUY NIỆM:
1. Ơn gọi và sứ vụ của ngôn sứ: Ngôn sứ là những người được Đức Chúa tuyển chọn và cho thấy trước trong giấc chiêm bao về những hình phạt Ngài sắp giáng xuống trên những kẻ quyền thế hay trên tòan dân, để kêu gọi họ phải cấp thời ăn năn sám hối các tội đã phạm, hoặc tiên báo tin mừng họ sẽ được Chúa cất đi những hình phạt đang phải chịu nếu trung thành giữ giao ước. Những lời sấm ngôn của các ngôn sứ trong Cựu Ước ít nhiều đều liên quan đến Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) sẽ đến. Lời sấm ngôn của các ngôn sứ về sau đã được ghi lại thành sách trong Thánh Kinh Cựu Ước. Trong số 16 ngôn sứ có 4 ngôn sứ lớn (để lại nhiều sấm ngôn) là: I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en và 12 ngôn sứ nhỏ (để lại ít sấm ngôn hơn) như: Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Ô-va-di-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. Ngôn sứ có nhiệm vụ đại diện Đức Chúa để giáo huấn dân Ít-ra-en và phải nói điều Chúa muốn họ nói dù người nghe có nhận hay không (1 Cr 9,15-16)).
2. Đức Giê-su thi hành sứ vụ ngôn sứ:
- Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã công bố chương trình cứu độ của Người: Nhân dịp về thăm quê hương và theo thói quen ngày sa-bát, Người đã vào hội đường Na-da-rét và đọc một đọan trong sách ngôn sứ I-sai-a về sứ vụ của Đấng Thiên Sai rồi sau đó tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe’ (Lc 4,21).
- Phản ứng của người đồng hương: Lúc đầu họ thán phục về tài ăn nói lưu lóat khôn ngoan của Đức Giê-su, nhưng không chấp nhận sứ vụ Thiên Sai của Người vì họ mang thành kiến về nghề thợ mộc thấp kém và về gia thế tầm thường của Người. Họ muốn xem Đức Giê-su làm dấu lạ như Người đã làm trước đó tại thành Ca-phác-na-um. Khi Người không thỏa mãn đòi hỏi ấy vì họ không tin thì họ sinh ra tức giận vì cho rằng Người coi khinh đồng hương và hè nhau lôi Người lên triền núi để xô xuống vực cho chết đi. Nhưng “người đã băng qua giữa họ mà đi” vì Giờ của Người chưa đến..
3. Sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu hôm nay: Mỗi tín hữu hôm nay nhờ phép rửa tội và phép thêm sức cũng được Chúa mời gọi làm ngôn sứ cho Người. Vậy chúng ta cần tránh những gì và cần phải làm gì rút ra được từ Tin Mừng hôm nay để chu tòan sứ vụ ngôn sứ này?
-Cần tránh thành kiến với tha nhân: Thành kiến hay định kiến là sự đánh giá người khác không dựa trên lời nói việc làm của họ, mà dựa vào gia thế và tình cảm yêu ghét dành cho họ. Đây là thói xấu mà có lẽ ai trong chúng ta cũng ít nhiều mắc phải: Cùng một lời nói hay một việc làm mà nơi một người địa vị cao hay có uy tín thì được mọi người khen ngợi và đánh giá cao, đang khi nếu do một người thấp cổ bé miệng thực hiện lại bị chê và đánh giá thấp!
-Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ: Đức Giê-su muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ. Người muốn các tín hữu chúng ta tránh đóng khung các họat động truyền giảng Tin Mừng hay chia sẻ bác ái chỉ trong phạm vi khu vực của mình, đang khi lẽ ra phải biết mở rộng tầm nhìn đến với mọi người cần được giúp đỡ.
-Cần trung tín nói lời Chúa cho tha nhân: Làm ngôn sứ không dễ, vì một đàng phải nói lời Chúa cách trung thực cho người khác, mà sự thật thường hay mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì phải trung thành nói lời Chúa muốn và sẵn sàng đón nhận những hậu quả thiệt thòi cho bản thân như lời Đức Giêsu cảnh báo: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước … Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,18-20).
-Cần dũng cảm bênh vực công lý: Làm ngôn sứ nhiều khi phải lội ngược dòng, không thể chiều theo dư luận xấu hay theo số đông lầm lạc bất công, nhưng phải biết khôn ngoan chọn lối ứng xử phù hợp với lợi ích chung tập thể và rịêng cá nhân theo lời Chúa dạy, theo giáo huấn của Hội Thánh và luật pháp xã hội quy định. Chính lối sống ngược dòng này đòi chúng ta phải dũng cảm và khôn ngoan để vừa giữ được hòa khí với mọi người, nhưng đồng thời cũng trung thành với công lý và khi cần sẵn sàng đón chịu thiệt thòi để làm theo lương tâm mách bảo. Chính sự can đảm ấy sẽ làm cho đức tin của chúng ta chiếu sáng trước mặt anh em lương dân như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN:
Đức Giê-su đã luôn tỏ ra ưu ái và đề cao dân ngoại. Vậy noi gương Đức Giê-su, chúng ta sẽ phải đối xử thế nào với anh em lương dân mà chúng ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, để giới thiệu Chúa cho họ?
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con biết chu tòan sứ vụ làm ngôn sứ là rao giảng Lời Chúa trong xã hội hôm nay. Xin cho chúng con năng học sống Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho Chúa là “Sự Thật” (x Ga 14,6) bằng lối ứng xử thân thiện và khiêm tốn phục vụ, nhất là phục vụ những người đau khổ bất hạnh hay đang lạc xa Chúa. Xin cho chúng con luôn tin vào sức mạnh tất thắng của lẽ phải và sự thật như lời Chúa dạy: “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32). – A-men.
Trong vấn đề ứng nghiệm có nhiều quan niệm vì thế có nhiều lối giải thich: Quan niệm phàm hèn: TN4-C82
Trong vấn đề ứng nghiệm có nhiều quan niệm vì thế có nhiều lối giải thich:
Quan niệm phàm hèn: Lời Chúa chỉ ứng nghiệm cho các vĩ nhân như Đức Giêsu, các tông đồ và các Kitô hữu nguyên thủy... đã được các ngôn sứ báo trước cả mấy trăm năm..còn chúng tôi, tội lỗi đầy mình, yếu đuối, Lời Chúa làm sao có thể ứng nghiệm cho nổi.
Quan niệm thực tế: Thường thường khi gặp thành công hay thất bại, chúng ta thường nói nửa đùa nửa thật: Quả là ý Chúa!! Đúng là ý Chúa.
Một bài báo đã viết rằng: "Phải chăng Giáo hội Tây Phương đang hấp hối như lời cảnh báo của Vị Ðương Kim Giáo Hoàng và nhiều giáo phận tại Hoa Kỳ đang bị phá sản phải bán hàng trăm ngôi thánh đường để bồi thường cho tội lạm dụng tình dục và bao che... đang ứng nghiệm lời sấm của Chúa công bố với vua Salômôn? Giáo hội Công giáo Việt Nam bề ngoài xem ra như đang phục hưng và phát triển, nhưng thực chất, phải chăng Giáo hội chúng ta đang sống trung thành với Tin Mừng của Chúa Kitô cũng như với lời sấm vừa rồi của Thiên Chúa?"
Quan niệm cục bộ: Ta tốt - Địch xấu
Trong một cuộc tranh chấp nẫy lửa, cuối cùng cộng đòan ta thắng, cộng đoàn phe kia rút êm. Thế là phe ta hỉ hả với nhau: "Thế là ứng nghiệm Lời Chúa: Đúng là cỏ lùng, cuối cùng cũng bị loại bỏ ra ngoài!!"
Quan niệm vâng phục: Huynh trưởng đại diện cho Chúa nên những gì huynh trưởng làm dễ ứng nghiệm Lời Chúa hơn bè lũ thấp cổ bé miệng của các thành viên tầm thường… Từ đó, những vị lãnh đạo các cộng đoàn hay sử dụng để chụp mũ các thành viên một cách hết sức thoải mái và tự nhiên, theo một tiêu chuẩn: theo ý lành đạo là theo ý Chúa và dễ ứng nghiệm Lời Chúa hơn!!!
Quan niệm Tâm Linh: Theo ánh mắt tâm linh, úng nghiệm được hiểu đơn giản và thực tế ngay trong đời thường của một người Kitô hữu.
Nhưng làm sao tôi biết chắc chắn Lời Chúa ứng nghiệm nơi tôi? Có một cách vài cách giúp chúng ta khẳng định Lời Chúa ứng nghiệm nơi tôi. Trước tiên, xin đừng mơ tưởng ứng nghiệm những chuyện vĩ đại qua những biến cố long trời lở đất, lòng người thất kinh… Chính ứng nghiệm thuộc lãnh vực Tâm linh mới thực sự là những ứng nghiệm quan trọng và cần thiết
Chúng ta thử rút kinh nghiệm từ Thày Giêsu
Đức Giêsu đã tuyên bố: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.
Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4:18-20)
Đối với Đức Giêsu, qua lời tuyên bố trên, Lời Chúa đã ứng nghiệm ở đỉểm nào? Có 3 điều đã được ứng nghiệm:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố
Trong ba điếu này, điều ứng nghiệm quan trọng và nền tảng nhất chính là: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.
Từ đó, chúng ta thử nhìn lại chính lòng mình: Sau khi đọc Kinh Thánh, tôi đặt vấn đề, suy tư, tìm hiểu, chia sẻ, khám phá… và sống trong tâm tình mình đã khám phá, đã đổi mới quan niệm…
Một lúc nào đó… con mắt tâm linh ta mở ra. Lúc đó tôi cảm nhận rất rõ Lời Chúa: Người mù biết họ được sáng mắt Lập tức ta vui mừng biết rằng Lời Chúa đã ứng nghiệm nơi tôi. Vì trước đây, tôi mù mờ, đi trong đêm tối…với tư tưởng rất tiêu cực. Chúa cao sang, thánh thiện, sáng láng - Tôi thấp hèn, tội lỗi, mù tối. Nay qua tìm hiều, suy tư và sống Lời Chúa, mắt tôi dần dần sáng ra…cuối cùng tôi nhận ra rằng: Tôi chính là con yêu dấu của Chúa. Ngay từ trong lòng mẹ, tôi đã được Thần Khí Ngài thánh hiến và sai đi làm ngôn sứ cho muôn dân.
Và hiện nay, chúng tôi đang công bố Lời Chúa cho anh em qua nhiều cách thế khác nhau: chia sẻ trong các buổi họp, trong gia đình, bên bàn cafê, trên mạng internet... Chính lúc này, tôi xác tín một cách rất rõ ràng: Lời Chúa đã ứng nghiệm nơi tôi...
Lời Chúa là “Lời sáng tạo”, “Lời quyền năng”, “Lời yêu thương”, “Lời an ủi”… nhưng cũng là: TN4-C83
Lời Chúa là “Lời sáng tạo”, “Lời quyền năng”, “Lời yêu thương”, “Lời an ủi”… nhưng cũng là “Lời thường gây dị ứng”. Thông thường, ai cũng thích gặp được những “lời yêu thương”, “lời an ủi”. Nhất là cứ mỗi độ Tết đến, ai ai cũng mong “bốc” được một câu Lời Chúa đầy khích lệ, an ủi như “Hỡi những ai lao đao vất vả, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho…”, hoặc “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm sẽ gặp…”, hoặc “Phúc cho biết xót thương vì họ sẽ được thương xót”, v.v... hoặc ít ra, một Lời khuyến thiện chung chung như “Thầy là đường, sự thật, sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nhưng nhiều người sợ nhất là “bốc phải” những câu như “Khốn cho các ngươi bọn biệt phái giả hình…”, hoặc “hỡi nòi rắn độc, trốn đâu cho khỏi cơn thịnh nộ sắp đến…”; thậm chí có người sợ những câu có liên hệ tới tài chánh như “Ngươi hãy về bán hết của cải phân phát cho kẻ nghèo rồi hãy đến theo ta”, hoặc dị ứng cả với những câu có liên quan tới việc làm hòa, nhường nhịn, tha thứ: “Ta không bảo phải tha bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần”, “hãy về làm hòa đã rồi đến dâng lễ…”
Tại sao lại sợ những câu Lời Chúa như thế. Đơn giản, vì tin và hiểu rằng: Chúa đã nói thì không thể sai được, và Chúa Phán mà cố tình không thực hiện là mắc lỗi với Chúa, là không toàn tâm toàn ý với Lời Chúa.
Trích đoạn Tin Mừng thánh Luca liên tiếp hai Chúa Nhật, vừa rồi và hôm nay, đã cho thấy rõ hai thái độ của dân Na-da-rét trước Lời Chúa. Vừa nghe Chúa công bố lời của Ngon sứ I-sa-ia “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó…” họ liền phấn khởi “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”. Nhưng sau đó, khi nghe chính những Lời của Đấng là “Ngôn sứ trên mọi sứ ngôn” phán “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình … vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phung hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Sy-ri thôi”, thì “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, đến độ muốn thủ tiêu Người bằng cách xô xuống núi.]
Quả thật, Lời Chúa thường hay gây dị ứng là thế. Cho nên bài học đầu tiên của “chương trình lời Chúa” hôm nay đó chính là: xin cho con thành tâm đón nhận Lời Chúa, cho dù Lời đó có gây dị ứng, có làm “trầy vi tróc vảy”, có kết án con, có bôi nhọ con, có làm cho con bầm dập, có khiến con hổ ngươi… đúng như lời trong thư Do Thái đã dạy:
"Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12).
Để có được một thái độ như thế trước Lời Chúa không phải là chuyện của một sớm một chiều, mà là một cuộc “trường chinh” của nguyện cầu và cố gắng, và trên hết, là thái độ khiêm hạ. Khiêm hạ tự nhận sự yếu đuối, tội lỗi, bất toàn trước Lời Chúa, như người trộm lành thuở xưa: “Chúng ta chịu như thế nầy là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông nầy đâu có làm điều gì trái” (Lc 23,41). Chỉ với thái độ đó, Lời Chúa sẽ đưa chúng ta đến ngưỡng cửa của sự giải thoát đích thực, của hạnh phúc vĩnh hằng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đường” (Lc 23,43).
2. Không tránh né sứ vụ “mang lời Chúa”.
Chính vì “Lời Chúa hay gây dị ứng cho người nghe” như thế, nên, không ít người đã thoái thác nghĩa vụ mang lời Chúa, tránh né “sứ vụ ngôn sứ”. Chuyện nầy đã từng xảy ra với các vị đại ngôn sứ như Mô-sê: “Con là ai mà dám đến với vua Pha-ra-ô…” (Xh 3,11), như Ê-li-a xin cho được chết “Lạy Chúa, đủ rồi ! Bấy giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con” (1 V 19,4), như Giê-rê-mi-a: “Ôi lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói” (Gr 1,6), và đặc biệt như trường hợp Giô-na: Chúa bảo “mang Lời Chúa tuyên rao” ở Ni-ni-vê, ông ta đã trốn đi lối khác: “Ông Giô-na đứng dậy nhưng là là để trốn đi Tác-sít, tránh nhan Đức Chúa” (Gn 1,3).
Đức Kitô trong Tin Mừng vừa được công bố, không dừng lại ở “khoản” dân chúng thán phục, hoan hô để tận hưởng cái “thành công ban đầu tại quê hương” trong sứ vụ ngôn sứ vừa mới khởi sự ; mà Ngài đã “tới luôn bác tài”, sẵn sàng vạch trần thói xấu của dân chúng đồng hương Na-da-rét, cái thói “coi mặt mà bắt hình dong”, đánh giá con người chỉ bằng cái mã hình thức và coi thường những thân phận thấp cổ bé miệng. “Ông nầy không phải là con ông Giu-se đó sao?” Và dĩ nhiên, cái cung cách hành xử sứ vụ ngôn sứ như thế, hầu hết đều dẫn tới “thiệt thân”. Nhẹ là bị săn đuổi như Ê-li-a, Giê-rê-mia…nặng là “đi đứt cuộc đời” như Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, mục sư Luther King, Đức Giám mục Rômêrô…
Và như thế bài học thứ hai trong “câu chuyện Lời Chúa” hôm nay đó chính là hãy can đảm “mang lấy Lời Chúa và tuyên rao” cách thành tâm, can đảm. Dĩ nhiên, không đợi đến lúc có được quyền cao chức trọng mới thi hành hiệu quả sứ vụ nầy, mà mỗi một cuộc đời đều là một cuộc lên đường thi hành sứ vụ ngôn sứ.
3. Nói Lời Chúa làm sao cho thuyết phục:
Còn nếu hỏi: Phải rao giảng Lời Chúa làm sao, phải thể hiện sứ vụ ngôn sứ thế nào ? thì Bài Đọc II hôm nay với chủ đề “Bài ca Đức Mến” trong thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô là một câu trả lời tuyệt vời nhất: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người, và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì…” (1Cr 13,1-2)
Hình như có một điệp khúc trong một bài ca của nhạc sĩ Trần Tiến đó là “hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy, háy hát lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu…” Vâng, làm ngôn sứ, thi hành sứ vụ rao giảng Lời Chúa đó chính là “nói lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy”. Nếu lời Chúa không được chuyển tải bằng ngôn ngữ của tình yêu, một tình yêu đã được cảm nghiệm, đã được sống, thì chỉ là một cuộc “tuyên truyền, một cuộc vận động chính trị, một cuộc ba hoa quảng cáo…” của trường phái “mồm loa mép dãi”, chứ không bao giờ là thuộc trường học của Chúa Giêsu, của Tin Mừng. Mà để “nói lời tình yêu” như thế, thì người mẹ người cha nào không nói được với con cái trong mái ấm gia đình của mình, người chồng người vợ nào không nói được với nhau trong cuộc sống lứa đôi ? Anh chị em ruột thịt lẽ nào không nói được hai tiếng thương nhau, bạn bè cùng trang lứa, cùng học hành, cùng nghề nghiệp, cùng cảnh ngộ… lẽ nào không trao cho nhau được một ánh mắt thân thiện, một tiếng nói chân tình? Những người chưa một lần được nghe nói đến giới luật tình yêu, chưa một lần nhìn thấy cây Thánh giá với một con người bị chết trần truồng vì yêu… thì có thể ngập ngừng với hai tiếng “yêu thương”, chứ chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta đã được đào tạo, trui rèn trong cái trường dạy yêu thương từ Bê-lem đến Đồi Sọ, từ cái dấu chỉ Thánh giá đơn sơ nhất được vẽ trên mình đến cả 365 ngày cử hành hy lễ tình yêu, thì không thuộc được hai chữ “yêu thương” mới là lạ.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau đừng để hôm nay “Chúa Giêsu băng qua giữa chúng ta mà đi” như một người khách lạ, nhưng xin Người hãy ở lại trong tâm hồn mỗi người chúng ta để dạy bảo chúng ta học thuộc ngôn ngữ tình yêu của chính Ngài, hầu ra đi mang Lời Chúa chia sẻ cho anh em chung quanh bằng chính cuộc sống thấm tràn Đức Mến. Amen.
Ngay sau khi mới mở mắt chào đời, hành động đầu tiên của một em bé là vội vàng đi tìm tình yêu: TN4-C84
Ngay sau khi mới mở mắt chào đời, hành động đầu tiên của một em bé là vội vàng đi tìm tình yêu. Em ngu ngơ, khùa khoạng, và khóc thét lên cho đến khi được nằm nghỉ yên trong vòng tay của người mẹ. Tình yêu đã đem lại cho em hạnh phúc, sức sống, và và phát triển. Thiếu tình yêu, em sẽ đau khổ, sẽ chết, và nếu có sống, em cũng không thể phát triển thành một con người toàn vẹn và trưởng thành xứng với nhân phẩm và nhân vị của một con người. Đó là thân phận những em bé chưa được một lần nhìn thấy ánh sáng mặt trời, và đã bị giết chết ngay khi còn trong dạ mẹ mỗi năm lên đến hàng chục triệu vụ trên thế giới. Và đó cũng là thân phận những em bé sau khi chào đời đã bị bỏ vào viện mồ côi, hoặc lang thang đầu đường, xó chợ.
Nhưng nói đến tình yêu, thì lập tức ai cũng nghĩ đến tình yêu lứa đôi, tình yêu trai gái, tình yêu của những cặp tình nhân. Và khi nghĩ tới tình yêu lứa đôi, tình yêu trai gái, thì người ta lại nghĩ ngay đến những tình cảm lãng mạn, những vuốt ve, những hờn dỗi, và những đam mê cuồng si. Và vì nghĩ như thế, sống như thế, nên tình yêu thay vì đem lại hạnh phúc, nó đã trở thành một nguyên nhân cho nhiều bất hạnh đến nỗi nhiều người đã cảm thấy sợ hãi mỗi khi nghĩ đến tình yêu.
Đồng hóa tình yêu với những cảm xúc bên ngoài. Đồng hóa tình yêu với những đam mê có tính cách dục vọng, nên tình yêu của nhiều người mang sắc thái, ích kỷ, hẹp hòi, kiêu căng, khoác lác và đầy ẩn ý. Đó là những người bề ngoài nói yêu, nhưng trong lòng luôn nghĩ xấu, xoi mói, tìm tòi, ghen tỵ với người khác. Họ rất bất nhẫn, tàn ác, và độc hại. Họ sẵn sàng ly dị, sẵn sàng phá thai, sẵn sàng sang đoạt và chiếm hữu vợ chồng của nhau. Họ luôn luôn theo ý mình và khi không được điều mình muốn thì nổi giận, và bực tức. Hơn thế nữa, họ là những con người vô thần trong tư tưởng và lối sống. Họ đa nghi, co cụm, và hèn nhát khi phải đối diện với những khó khăn của thực tế để minh chứng tình yêu.
Có một phụ nữ nọ một hôm đến trước tòa Đức Mẹ, khóc lóc thảm thiết và kể lể:
- Mẹ ơi! Chỉ có Mẹ mới cứu nổi gia đình con. Xin Mẹ ra tay thương xót cho chồng con ơn ăn năn trở lại và có trách nhiệm với gia đình. Tuần qua, nhà con đã đi Las Vegas và thua hơn 10.000$. Con khổ quá Mẹ ơi!
Cầu xin rồi, nàng để vào bao thơ 100$ để dâng cúng. Nhưng vừa ra khỏi nhà thờ, chợt nhớ lại các siêu thị lúc này đang trong mùa đại hạ giá. Thịt, cá, tôm, cua, rau, trái cây và tất cả mọi mặt hàng. Nàng chợt nghĩ đến mấy con tôm hùm đang bơi trong hồ, và tự nhiên thấy thèm. Và nàng đã quay trở lại nói với Đức Mẹ:
- Con xin lại Đức Mẹ 50$. Hôm nay tôm hùm đang hạ giá. Con sẽ trở lại tạ Đức Mẹ sau.
Năm tuần lễ trôi mau, nàng lại đến trước tòa Đức Mẹ và khóc lóc. Động lòng thương Đức Mẹ hiện ra và hỏi:
- Có truyện gì thế con?
- Mẹ ơi! Mẹ thương con thì thương cho trót, chồng con nó bỏ cờ bạc được ít tuần nay con mừng quá, nào ngờ hôm qua nó lại đi Las Vegas và lần này thua mất 5000$. Khổ quá Mẹ ơi!
Nghe vậy Đức Mẹ liền hiền từ nói:
- Này con, 50$ con dâng đã giúp chồng con chừa cờ bạc được 5 tuần lễ và cứu cho gia đình con được 5000$ so với lần trước chồng con thua 10.000$. Rồi Đức Mẹ kết luận: “Tiền nào của nấy con!”
Bạn và tôi đã có lần nào cầu nguyện, xin khấn, và xin lễ như người thiếu phụ trên chưa? Tôi nghĩ là có và là rất nhiều lần. Chúng ta đến với Chúa, đến với Đức Mẹ và đến với chồng, với vợ, với con, với anh chị em, bạn bè của chúng ta bằng một tình yêu nửa vời. Bằng một sự cắt xén và tính toán. Chúng ta thường sống và diển tả tình yêu của chúng ta ngược lại với những gì mà tình yêu thật sự đòi hỏi. Nhưng đâu là thứ tình yêu đích thực?
Thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Côrintô và cũng là cho tất cả mọi người chúng ta những lời này: “Yêu là kiên nhẫn, là nhân hậu. Yêu không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy nghĩ điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chung vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cor 13: 4-7). Và đây chính là phản ảnh của Đấng đã tự nhận mình là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Gio 4:8).
Có một sự trùng hợp diệu kỳ giữa các Bài Sách Thánh của các Chúa Nhật đầu Mùa Thương Niên: TN4-C85
Có một sự trùng hợp diệu kỳ giữa các Bài Sách Thánh của các Chúa Nhật đầu Mùa Thương Niên Năm C và thực tế của xã hội và Giáo Hội Việt Nam! Kinh nghiệm kim cổ cho chúng ta thấy rằng khi thì hành sứ mạng ngôn sứ, các “phát ngôn viên” của Thiên Chúa thường sẽ gặp phải sự chống đối, thù hận, thậm chí ám hại của người đời nữa. Chuyện này không chỉ xẩy ra trong thời Cựu Ước mà vẫn đang xẩy ra trong thế giới văn minh ngày nay. Bằng chứng hùng hồn là hàng năm con số các nhà báo và các nhà truyền giáo bị giết hại luôn làm cho nhiều người phải kinh ngạc. Họ bị giết hại, không phải vì chiến tranh bom đạn mà vì họ đã “to gan” dám nói lên sự thật, dám bênh vực công lý và dám tố cáo cách làm ăn phi pháp hay tội ác của một số cá nhân hay đảng phái, thậm chí cả chính quyền của một số quốc gia.
Bài Phúc âm hôm nay cho ta thấy chính Đức Giê-su Ki-tô cũng đã từng bị đối xử tồi tệ bởi chính những người đồng hương của Ngài ở Na-da-rét. Vậy muốn bước theo chân Chúa Giê-su trong sứ vụ ngôn sứ, tiên vàn chúng ta phải ý thức rằng “lời thật mất lòng” nhưng “sự thật mới giải phóng con người!”
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Gr 1, 4-5.17-19): Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.
4 Dưới thời vua Giô-si-gia-hu có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: 5 "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.
17 Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn. 18 Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. 19 Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì - sấm ngôn của Đức Chúa - có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi."
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 13, 4-13): Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.
12/31 Thưa anh em, trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.
13/1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. 2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. 3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. 4 Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 5 không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.8 Đức mến không bao giờ mất được.
Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. 9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. 13 Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 4, 21-30): Như các ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa, Đức Giê-su không phải chỉ được sai đến với dân Do-thái mà thôi.
21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. 23 Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" 24 Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. 25 "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi." 28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Gr 1, 4-5.17-19) là một đoạn văn quan trọng của Sách Giê-rê-mi-a nói về sứ mạng của vị ngôn sứ. Để thi hành sứ mạng khó khăn ấy, Giê-rê-mi-a phải biết rõ mình có trách nhiệm nói Lời Chúa với ai (cả dân Chúa và dân ngoại), sẽ gặp trở ngại gì (bị tấn công) và phải có thái độ dũng cảm (đừng sợ) và tin tưởng vào sự hiện diện và hỗ trợ của Thiên Chúa.
à Trong đoạn Gr 1,4-5.17-19 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là một nhà sư phạm và quan phòng tuyệt diệu. Trước hết Chúa gọi và giao sứ mạng ngôn sứ cho Giê-rê-mi-a; thứ đến là Chúa chuẩn bị tinh thần cho ông và sau cùng là Chúa cam kết sẽ luôn ở bên cạnh ông để giúp ông thực hiện sứ vụ được giao. Với mỗi người Ki-tô hữu, Thiên Chúa cũng cư xử như vậy, vì Người là Thiên Chúa không bao giờ thay đổi.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 12, 31 – 13,30) là đoạn văn có thể xem là hay nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về đức ái Ki-tô giáo. Đời sống tôn giáo của người Ki-tô hữu được xây dựng trên ba nhân đức (gọi là đối thần) là tin, cậy, mến thì đức mến là đức tồn tại lâu bền nhất. Đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu được tràn ngập những đặc sủng (ơn nói tiên tri, ơn hiểu biết, ơn nói tiếng lạ, ơn đức tin chuyển núi dời non, ơn dũng cảm hy sinh cả mạng sống) thì ơn đức mến là ơn cao trọng hơn cả, vượt trên tất cả các đặc sủng mà người Ki-tô hữu có quyền ước ao và cầu xin.
à Trong đoạn 1 Cr 12,31 - 13,3 trên, chúng ta nhận ra bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu. Là Tình Yêu nên Thiên Chúa là Đấng giầu có và quảng đại vô cùng trong việc ban phát các ơn huệ của Người cho con cái.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 4, 21-30) là tường thuật của Phúc âm Lu-ca về thái độ và cách đối xử tồi tệ của những người dân làng Na-da-rét dành cho Chúa Giê-su. Nguyên nhân sâu xa là họ không tin vào Ngài, không khám phá ra con người và không nhận biết sứ mạng của Người.
à Qua đoạn Phúc Âm Lc 4,21-30 này, Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy Người “quân tử” và “quyền năng” như thế nào. Quân tử khi Người thẳng thắn nói cho dân làng Na-da-rét biết họ sai, họ dở ở chỗ nào. Nhưng ngài cũng không chấp nhất thái độ hẹp hòi, thiển cận, ghen tỵ và phẫn nộ của họ. Quyền năng vì Ngài đã thoát khỏi sự ám hại của những người đồng hương một cách tài tình.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Chúa Giê-su cũng như các ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Ê-li-a, Ê-li-sa và tất cả các Ki-tô hữu chúng ta có sứ mạng nói Lời Thiên Chúa với mọi người sống trong thế giới này. Để chu toàn sứ mạng ấy, “phát ngôn viên” của Thiên Chúa phải có 4 điều sau:
(1o) ý thức trách nhiệm ngôn sứ của mình,
(2o) thấy trước những khó khăn, thử thách và chống đối của người đời và dũng cảm thực hiện sứ vụ được giao,
(3o) tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Chúa là Đấng quyền năng và yêu thuơng, luôn ở bên cạnh để phù giúp các sứ giả của Người!
(4o) thể hiện đức ái đích thực với tha nhân, nhất là với những kẻ ghen ghét và làm hại mình.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Cha là Đấng trân trọng các ngôn sứ khi giao cho họ sứ vụ nói Lời Chúa cho mọi người ở mọi nơi. Sống với Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã thi hành sứ vụ ngôn sứ một cách hoàn hảo đến nỗi chịu nạn chịu chết cho sứ vụ ấy. Sống với Chúa Thánh Thấn là Đấng hiệp thông với Cha và với Con để làm cho Lời Chúa vang dội trong lòng người và trong lịch sử loài người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi phải nghiêm túc xét mình về bốn điều nêu trong phần sứ điệp của Lời Chúa ở trên. Cụ thể:
(1o) Tôi ý thức như thế nào về sứ mạng ngôn sứ, về vai trò và trách nhiệm của tôi là “phát ngôn viên” của Thiên Chúa?
(2o) Tôi có thấy trước những khó khăn, thử thách, chống đối đang chờ đợi tôi không? Tôi chùn bước, tháo lui hay dũng cảm tiến lên phía trước?
(3o) Tôi có trông cậy, tin tưởng và bám vào Thiên Chúa không? Tôi có biết dựa vào sức mạnh của Người mà sống và chiến đấu cho Công Lý và Nước Trời không?
(4o) Tôi có thực sự yêu thương và bao dung, quảng đại đối với những người Chúa gửi đến cho tôi không? Đối chiếu với các cách biểu hiện đức ái mà Thánh Phao-lô đã trình bày (trong bài đọc 2) tôi nhận thấy mình còn thiếu những gì?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI
5.1 «Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới ngày hôm nay để họ biết lắng nghe tiếng nói ngay thẳng của các ngôn sứ là những phát ngôn viên của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục, để các ngài được ơn dũng cảm trước mọi kẻ thù và trong mọi nghịch cảnh mà bênh vực công lý và quyền con người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Hội Thánh tại Việt Nam nói chung, cho giáo dân của giáo xứ chúng ta nói riêng, để trong Năm Đức Tin này, mọi thành phần Dân Chúa sống Đức Ái là nét đặc trưng của các môn đệ Chúa Ki-tô, nhất là với những người hiện đang thù ghét và bách hại các Ki-tô hữu chúng ta.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Kinh nghiệm kim cổ cho chúng ta thấy rằng khi thì hành sứ mạng ngôn sứ, gần như cách tự nhiên: TN4-C86
Kinh nghiệm kim cổ cho chúng ta thấy rằng khi thì hành sứ mạng ngôn sứ, gần như cách tự nhiên, các “phát ngôn viên” của Thiên Chúa sẽ bị đặt vào thế đối đầu với người đời. Vì thế mà có nhiều lúc ngôn sứ phải đương đầu với sự chống đối, ruồng bỏ, thậm chí ám hại nữa. Chuyện này không chỉ xẩy ra trong thời Cựu Ước mà vẫn đang xẩy ra trong thế giới văn minh ngày nay. Bằng chứng hùng hồn là mới đây trên một số phương tiện thông tin đại chúng, người ta đã liệt kê danh sách dài những nhà báo bị giết hại trong năm 2006. Họ bị giết hại, không chỉ vì chiến tranh hay xung đột mà còn và nhất là vì họ đã “to gan” dám nói lên sự thật, bênh vực công lý, tố cáo cách làm ăn phi pháp hay tội ác của một số cá nhân hay đảng phái, thậm chí cả chính quyền của một số quốc gia. Riêng trong cánh đồng truyền giáo thì Tòa Thánh vừa cho biết năm vừa qua đã có tất cả 24 linh mục, tu sĩ và giáo dân phải bỏ mạng vì sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Bài Phúc âm hôm nay cho ta thấy chính Đức Giê-su Ki-tô cũng đã từng bị đối xử tồi tệ bởi chính những người đồng hương và đồng đạo của Ngài ở Na-da-rét xưa. Vậy muốn bước theo chân Chúa Giê-su trong sứ vụ ngôn sứ, tiên vàn chúng ta phải phải học với Người về tinh thần và lối sống, nhất là với địch thủ của chúng ta, ý thức rằng người đời chẳng ưa gì các ngôn sứ.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Gr 1, 4-5.17-19: Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.
4 Dưới thời vua Giô-si-gia-hu có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: 5 "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.
17 Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn. 18 Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. 19 Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA- có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi."
(2) Bài đọc 2: 1 Cr 12, 31-13,3: Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.
12/31 Thưa anh em, trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.
13/1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. 2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. 3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. 4 Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 5 không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.8 Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. 9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. 13 Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 4, 21-30: Như các ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa, Đức Giê-su không phải chỉ được sai đến với dân Do Thái mà thôi.
21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
23 Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" 24 Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
25 "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi."
28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Gr 1, 4-5.17-19) là một đoạn văn quan trọng của Sách Giê-rê-mi-a trong đó sứ mạng của vị ngôn sứ này được Thiên Chúa bộc lộ rõ. Để thi hành sứ mạng khó khăn ấy Thiên Chúa đòi Giê-rê-mi-a phải biết rõ mình có trách nhiệm nói Lời Chúa với ai (cả dân Chúa và dân ngoại), sẽ gặp trở ngại gì (bị tấn công) và phải có thái độ dũng cảm (đừng sợ) và tin tưởng vào sự hiện diện và hỗ trợ của Thiên Chúa.
Trong đoạn Gr 1,4-5.17-19 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là một nhà sư phạm và quan phòng tuyệt diệu. Trước hết Chúa gọi và giao sứ mạng ngôn sứ cho Giê-rê-mi-a; thứ đến là Chúa chuẩn bị tinh thần cho ông và sau cùng là Chúa cam kết sẽ luôn ở bên cạnh ông để giúp ông thực hiện sứ vụ được giao.
Với mỗi người Ki-tô hữu, Thiên Chúa cũng cư xử như vậy, vì Người là Thiên Chúa không bao giờ thay đổi
(2) Bài đọc 2 (1 Cr 12, 31 – 13,3) là đoạn văn có thể xem là hay nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về đức ái Ki-tô giáo. Đời sống tôn giáo của người Ki-tô hữu được xây dựng trên ba nhân đức (gọi là đối thần là tin, cậy, mến) thì đức mến là đức tồn tại lâu bền nhất. Đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu được tràn ngập những đặc sủng (ơn nói tiên tri, ơn hiểu biết, ơn nói tiếng lạ, ơn đức tin chuyển núi dời non, ơn dũng cảm hy sinh cả mạng sống) thì ơn đức mến là ơn cao trọng hơn cả, vượt trên tất cả các đặc sủng mà người Ki-tô hữu có quyền ước ao và cầu xin.
Trong đoạn 1 Cr 12,31 - 13,3 trên, chúng ta nhận ra bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu. Là Tình Yêu nên Thiên Chúa là Đấng giầu có và quảng đại vô cùng trong việc ban phát các ơn huệ của Người cho con cái.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 4, 21-30) là đoạn của Phúc âm Lu-ca tường thuật lại thái độ và cách đối xử tồi tệ của những người dân làng Na-da-rét dành cho Chúa Giê-su. Nguyên nhân sâu xa là họ không tin vào Ngài, không khám phá ra con người và không nhận biết sứ mạng của Người.
Qua đoạn Phúc Âm Lc 4,21-30 này, Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy Người “quân tử” và “tài ba” như thế nào. Quân tử khi Người thẳng thắn nói cho dân làng Na-da-rét biết họ sai, họ dở ở chỗ nào. Nhưng ngài cũng không chấp nhất thái độ hẹp hòi, thiển cận, ghen tỵ và phẫn nộ của họ. Tài ba vì Ngài đã thoát khỏi sự ám hại của những người đồng hương một cách tài tình.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Chúa Giê-su cũng như các ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Ê-li-a, Ê-li-sa và tất cả các Ki-tô hữu chúng ta có sứ mạng nói Lời Thiên Chúa với người có đạo và với người không có đạo (hiểu là Ki-tô giáo).
Để chu toàn sứ mạng ấy, “phát ngôn viên” của Thiên Chúa phải có 4 điều sau:
ý thức trách nhiệm ngôn sứ của mình,
thấy trước những khó khăn, thử thách và chống đối của sứ vụ và dũng cảm thực hiện sứ vụ được giao.
tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Chúa là Đấng quyền năng và yêu thuơng, lại luôn ở bên cạnh để phù giúp các sứ giả của Người!
đức ái đích thực đối với tha nhân, nhất là với những kẻ ghen ghét và làm hại mình.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi phải nghiêm túc xét mình về bốn điều nêu trong phần sứ điệp của ba bài đọc Thánh Kinh (mục 2.3) trên.
Cụ thể:
Tôi ý thức như thế nào về sứ mạng ngôn sứ, về vai trò và trách nhiệm của tôi là “phát ngôn viên của Thiên Chúa”?
Tôi có thấy trước những khó khăn, thử thách, chống đối đang chờ đợi tôi không? Tôi chùn bước, tháo lui hay dũng cảm tiến lên phía trước?
Tôi có trông cậy, tin tưởng và bám vào Thiên Chúa không? Tôi có biết dựa vào sức mạnh của Người mà sống và chiến đấu cho Công Lý và Nước Trời không?
Tôi có thực sự yêu thương và bao dung, quảng đại đối với những người Chúa gửi đến cho tôi không? Đối chiếu với các cách biểu hiện đức ái mà Thánh Phao-lô đã trình bày (trong bài đọc 2) tôi nhận thấy mình còn thiếu những gì?
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
* Lạy Thiên Chúa Cha từ bi nhân ái, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã chọn chúng con làm phát ngôn viên của Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con ơn ý thức về sứ mạng ngôn sứ mà Chúa đã giao cho chúng con. Cũng xin Chúa ban cho chúng con ơn can đảm trước khó khăn và lòng trông cậy phó thác vào Chúa trong khi thi hành sứ vụ được giao.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Phát Ngôn Viên Số Một của Thiên Chúa, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã nêu gương cho chúng con trong cách Chúa đối xử với những người đồng hương ở Na-da-rét. Chúa đã không im lặng trước sự thật mà Chúa đã nói ra để giúp họ nhận ra chân lý. Nhưng Chúa cũng không gay gắt với họ dù họ giận dữ với Chúa và tìm cách ám hại Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Tình Yêu và Đức Ái, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dạy chúng con phải biết ước ao, tìm kiếm và cầu xin cho được đặc sủng cao trọng nhất là Đức Ái. Xin Chúa ban cho chúng con đức ái của Thiên Chúa, để chúng con biết sống yêu thương, trân trọng, khoan dung và đại lượng với những người nghe/gặp chúng con, mà không phản bội ơn gọi và sứ mạng phát ngôn viên của Sự Thật của chúng con
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Hãy để giữa lòng bạn một khoảng trống,
Cho Gió Trời có thể nhảy múa thênh thang.
(Kahlil Gibran, The Prophet)
Vào năm 1998, Đức Gioan Phaolô II đã rời Roma để sang thăm Cuba, nước Cộng Sản cuối cùng của: TN4-C87
Vào năm 1998, Đức Gioan Phaolô II đã rời Roma để sang thăm Cuba, nước Cộng Sản cuối cùng của tây bán cầu. Đây quả là một chuyến thăm lịch sử, và cũng kéo sự chú ý nhiều của người Bắc Mỹ, vì Cuba nằm sát nách nước Mỹ, đã từng gây nhức nhối cho Mỹ nhất là vào thời tổng thống Kennedy với cuộc đột kích ở Vịnh Con Heo.
Báo chí Mỹ bàn tán cả tháng trời trước về chuyến viếng thăm lịch sử này. Nào là hai địch thủ không đội trời chung sẽ đối đầu với nhau, nào là "thiên thần" sẽ gặp "quỉ dữ", thủ lãnh của niềm tin đạo Chúa giáp mặt với lãnh tụ vô thần chống đạo v.v. , nào là diễn lại câu chuyện dài từ ngày vị giáo chủ đến từ một nước Cộng Sản Ba Lan, rồi bị đường dây Cộng Sản bắn tại công trường thánh Phêrô vào năm 1981 mà vẫn không chết, rồi những cuộc công du về Ba Lan, qua Nam Mỹ thách thức với trào lưu duy vật, rồi thành trì xã hội chủ nghĩa Xô Viết vĩ đại và Đông Âu sụp đổ, Nam Mỹ hoàn hồn. Lần này báo chí và dư luận cũng tha hồ mà suy đoán, thậm chí đặt cả câu hỏi rất ư thế tục: ai thắng ai thua?!
THỜI ĐIỂM HỎI GIỜ FIDEL CASTRO
Vừa bước xuống phi trường Havana, Đức Gioan Phaolô II hỏi ngay chủ tịch Fidel Castro: "Ở địa phương đây là mấy giờ rồi?" Cảnh Fidel Castro giơ đồng hồ lên xem giờ được giới truyền thông ghi lại thật kỹ.
Quả là một câu hỏi hơi lạ thường. Chẳng mấy khi hai nhân vật lớn gặp nhau lại hỏi nhau câu đó, ra như chẳng có gì để nói chuyện với nhau cả sao, giống như kiểu hỏi trời mưa trời nắng vậy. Nhưng đây có thể là điềm thời đại. Một việc tình cờ nhưng cũng là một dun dủi từ bên trong. Nhìn cảnh này, có người buột miệng chú giải ngay rằng Đức Gioan Phaolô II có ý hỏi Fidel Castro: "Giờ hồn đấy nhé, đến giờ đến tuổi biết mệnh Trời chưa? Liệu ông còn sống được mấy năm nữa? Bằng ấy năm phá đạo đã đủ chưa?"
Mà đúng vậy,cao điểm sau năm ngày
thăm viếng nhiều nơi,ngày Chúa Nhật 25 tháng 1, Đức Gioan Phaolô II đã trở lại Havana cử hành thánh lễ tại quảng trường Cách Mạng, ngay trước tượng anh hùng Cộng Sản là Che Guevara. Nhưng bức hình Chúa Giêsu được vẽ lớn như vượt lên tất cả. Fidel Castro lần đầu tiên sau 39 năm chống đạo ngồi dự lễ nghiêm trang nghe Đức Gioan Phaolô "giảng bảo" trong một bài nói dài 40 phút, nhiều lúc cũng vỗ tay theo đám đông hoan hô ủng hộ. Nhiều lúc Đức Gioan Phaolô phải ngưng nói vì những tràng vỗ tay dài, Ngài lại dí dỏm khôi hài khiến bầu khí trở nên thân tình: "Tôi cũng thích được vỗ tay lắm, vì mỗi lần như vậy là tôi được nghỉ xả hơi một chút." Nơi quảng trường này từ 39 năm qua, chỉ một mình Fidel Castro mặc sức tung hoành, và mọi người chỉ có một bổn phận là hoan hô lãnh tụ. Vậy mà giờ đây dân Cuba thấy được một chân trời mới. Đức Gioan Phaolô II kêu gọi dân Cuba "hãy tìm con đường mới đáp ứng thời điểm đổi mới", "một cuộc giải phóng thật không thể chỉ co vào khía cạnh xã hội và chính trị, nhưng còn phải bao gồm việc thể hiện tự do lương tâm, là căn bản và là nền tảng của mọi thứ nhân quyền khác", " trong thời đại này, không một nước nào có thể sống đóng kín." Ngài nhắc tới lời của nhà anh hùng Marti mà phi trường của Cuba mang tên, đó là "mọi người đều cần tôn giáo."
PARIS CÓ GÌ LẠ KHÔNG AI?
Bài hát văng vẳng đâu đây lời thơ mộng: Paris có gì lạ không em? Mai anh về bên bến sông Seine... Rồi bài khác của Phạm Duy với lời của Cung Trầm Tưởng: Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế. Trời mùa đông Paris suốt đời làm chia ly...
Paris có gì lạ không mà người ta chịu khó làm thơ làm nhạc ca tụng như làm vậy?! Riêng nhà văn Võ Đình thì xôn xao xúc động trong bài viết "Paris có gì lạ đâu em!" ở Xứ Sấm Sét. Võ Đình trong một lần trở lại Paris đã tả cái nỗi xúc động rồi tự phân tích cái xúc động này chẳng có gì là kỳ bí cả: "Ba mươi năm sau tôi trở lại Paris khi bộ râu tôi đã bạc quá một nửa, những con đường lót đá vuông... những giọt mưa phơi phới trên tàng cây maronnier. Tôi chợt nghĩ ra rằng Paris mà tôi yêu không phải là "kinh thành ánh sáng", không phải là "thủ đô văn hóa Tây phương"... mà chỉ vì "là thành phố duy nhất tôi đã sống qua trong đời ở đó thời gian diệu vợi, mông lung nhất... Ngày nay tôi đi trên đại lộ Émile Zola, một đại lộ tầm thường, bourgeois hàng hai, mà lòng tôi bồi hồi thấy rằng chính Paris đẹp nhất ở những nét tầm thường, đúng hơn, bình thường, đó".
Bước vào một năm mới mình cũng ngâm nga thành câu hát: năm nay có gì lạ không ai? Và từ trong đáy lòng hình ảnh một dòng sông bỗng hiện lên, có tiếng vọng đâu đây về một tiễn biệt cái cũ và đón chào dòng nước mới, luôn mới mãi. Đó là tiếng trong Tống Biệt Hành của Thâm Tâm:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Tam Quốc Chí là bộ truyện lịch sử Tầu rất hấp dẫn với cả ngàn trận đánh, với những quân sư giỏi như Khổng Minh, với những tay gian hùng như Tào Tháo. Ai là người khôn ngoan, ai là kẻ xảo quyệt? Ai thắng ai thua? Nhưng đọc Tam Quốc Chí thực ra chẳng phải để xem những truyện như vậy, mà để thấy được cái nhìn về cuộc đời mà người viết đã tóm gọn trong một câu hát theo điệu Tây Giang Nguyệt ở ngay đầu sách:
Sông dài cuồn cuộn về đông
Sóng vùi gió dập anh hùng còn đâu
Được thua phải quấy tranh nhau
Xôn xao mấy chốc ngoảnh đầu thành không.
TIN VUI GỬI NGƯỜI MẤT SỨC
Nếp văn hóa ngày nay thích điều mới lạ, trẻ trung. Những gì quen thuộc dễ trở thành nhàm chán, những gì già cũ dễ trở thành lỗi thời. Người Do Thái thấy Đức Giêsu xuất thân từ một làng quê Nagiarét thì bỉu môi như kiểu Natanaen lần đầu tiên được giới thiệu: Nagiarét thì có chi ra hồn! Và khi Ngài bắt đầu rao giảng thì người ta càng thấy chả có gì phải chú ý; Ngài cũng chỉ là một người bình thường như bất cứ ai! Kinh Thánh ghi rõ: "Người tìm về bản quán, vào hội đường mà thuyết giảng. Người ta ngạc nhiên nói: Ông ấy lấy từ đâu ra trí tuệ và tài lạ như thế này? Phải chăng ông là người con bác thợ mộc? Phải mẹ ông có tên là Maria, và anh em ông là Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa? Các chị ông chẳng ở cả với chúng ta hay sao? Vậy từ đâu người ấy được như thế này?" Và họ không tin phục Người. Đức Giêsu bảo họ:
"Tiên tri được thiên hạ tôn quí ở nơi khác thì có, nhưng về quê hương về nhà riêng thì không. Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ thiếu lòng tin." (Mt 13:54-58)
Nhưng người ta có ngờ đâu là Ngài đã bắt đầu với "đầy quyền năng của Thánh Thần", vì được xức dầu, được thánh hóa, được Thánh Thần ở cùng. Cũng thế một cụ già với 77 tuổi đời lại bị bệnh run tay là Đức Gioan Phaolô II lại đã thực sự thổi vào dân Cuba một luồng Sinh Khí mới hết sức trẻ trung, đã cho Fidel Castro những phút dừng chân điểm giờ cuộc đời mà cảm thấy "sao có tiếng sóng ở trong lòng".
PHÚT TỊNH TÂM
Sức sống Thánh Thần là đây. Đúng là thời điểm cho cả năm với cảm nhận Sinh Khí Chúa trong mọi sự... Đức Gioan Phaolô có thể cũng đang hỏi giờ mỗi người: Năm nay có gì lạ không ai? Mọi sự xem ra rất bình thường, nhưng sẽ rất lạ: mỗi cử chỉ, mỗi hơi thở, mỗi cây cỏ đều lạ lùng quá phải không? Mỗi phút mỗi giây đều trân quí vì cảm nhận được phép lạ của sự hiện hữu: mình còn sống, đang có thể nhìn, đang có thể nghe, đang có thể thở, và đang có thể suy tư để cảm thấy như "sao có tiếng sóng ở trong lòng."
Con người cần được phút bừng mở này, cảm nghiệm được sức biến đổi kỳ lạ từ bên trong như Thánh Phaolô: "Tôi có thể làm được mọi sự trong Chúa là sức mạnh cho tôi." (Phil 4:13). Đó là phép lạ của Chúa Thánh Thần. Chuyển đạt được những phút giây xúc động, "sao có tiếng sóng ở trong lòng" như Đức Gioan Phaolô II, khiến cho con người náo động thấy được mệnh trời, là bởi cảm nhận được cái Tâm trong từng sự việc dù tầm thường, để Thánh Thần Chúa tác động.
Xin Chúa là sức mạnh nâng đỡ chở che trong năm mới với tâm tình cầu nguyện qua thánh vịnh 18:
Lạy Chúa là sức mạnh của con;
Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy,
Là Đấng giải thoát con; Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai,
Người đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi.
Chính Chúa đã làm cho tôi nên hùng dũng,
Và cho nẻo tôi đi được thiện toàn
Hồn tôi đã chao đi, và tim tôi đã chết lặng, khi nhìn thấy tấm ảnh bi thương mà một Cha dòng truyền: TN4-C88
Hồn tôi đã chao đi, và tim tôi đã chết lặng, khi nhìn thấy tấm ảnh bi thương mà một Cha dòng truyền giáo ở Nigeria gởi về: Bảy tám chục xác người nằm xếp hàng trước cửa nhà thờ còn đang cháy dở. Những xác người co quắp, không khác tí nào những con chó bị thui. Buồn ơi! Họ là những người tín hữu đang dâng lễ cùng nhau, thì bị những người Hồi giáo cực đoan, bao vây và đốt cháy. Họ chết quá bi thương. Chúa ơi, Chúa ở đâu, mà không ra tay cứu vớt những người con của Chúa? Oan ức quá! Không con ạ. Thân phận người chứng nhân là thế. Con cứ nhìn kỹ vào thân phận đời Ta trong suốt 33 năm làm người, con sẽ hiểu được chân lý này. Đây con xem, chỉ trong khúc dạo đầu của đời rao giảng, ngay tại quê hương Nagiareth thôi, cũng đã thấy thân phận của người đi gieo là thế nào rồi.
1- Con người luôn dửng dưng với lời chân lý.
Nghe Chúa Giêsu giảng, cả hội đường ở Nazareth đều tâm đắc khen hay. Nhưng chỉ coi đó như một chuyện vui tai, không hề dừng tâm suy nghĩ. Họ chỉ thắc mắc, là con ông Giuse thợ mộc, sao lại nói hay đến thế. Họ không hiểu cái chân lý Chúa muốn truyền đạt là gì? Họ cũng chẳng có ý tưởng, là phải đối chiếu giữa đời mình và chân lý mà mình vừa nghe, khác nhau, giống nhau thế nào? Lòng họ cứ ngập sâu trong sự tự mãn ngập đầy tới nắp: Họ không phải thay đổi gì cả, mà chính lời của Chúa, phải thay đổi cho hợp với họ.
2- Con người chỉ thích xem những điều mới lạ, huyền bí.
Nghe Ngài giảng xong, sự vui vẻ được đẩy lên thành cao trào. Họ nói với Chúa rằng: “Nghe đồn ông đã làm nhiều phép lạ ở khắp nơi. Ở đây, yêu cầu ông, cũng hãy làm một vài phép lạ cho chúng tôi coi”. Người ta chỉ sống hời hợt bên ngoài. Không được mấy người, biết suy tư, tìm hiểu. Nghe chỗ nào có Đức Mẹ hiện ra, Đức Mẹ xoay, áo Đức Mẹ đổi màu là tất tả vội vã đi ngay, mà quên mất một điều quan trọng, là hãy sám hối, và thay đổi chính mình. Tất cả mọi phép lạ, đều nhằm mục đích là nhắc nhở cho ta nhớ: Hãy cậy tin vào Chúa. Và vì thế, phải rửa sạch linh hồn, bằng việc sám hối ăn năn.
3- Vì thế, người chứng nhân sẽ bị loại trừ, và có thể bị giết chết.
Không chịu nổi trước sự thật mà Chúa phanh phui. Những người đồng hương đã nghiến răng, ùa lên bắt Chúa. Họ đẩy Ngài lên một triền núi, với ý định là sẽ xô Ngài rơi xuống, cho nát thân. Người ta định giết Người, chỉ vì Người rao truyền sự thật, chỉ vì Người nói thật. Vì chưa đến giờ Ngài, nên Ngài vẫn bình an. Nhưng nếu Ngài có chết, thì cũng là chết cho sự thật. Cho nên thân phận của người chứng nhân, của người đi gieo, luôn nằm trong sự rình rập, ghét bỏ, và có khi gặp phải tai họa, hay mất mạng. Cũng lại là cái định mệnh đau thương nhưng cao cả của người đi rao giảng chân lý.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn nghe lời Chúa để làm gì?
2- Bạn có thông cảm, và cầu nguyện cho người đi rao giảng không?
Giêrêmia là một vị tiên tri sống vào thời dân Do Thái bị băng hoại từ bên trong, và bị kẻ thù đe doạ TN4-C89
Giêrêmia là một vị tiên tri sống vào thời dân Do Thái bị băng hoại từ bên trong, và bị kẻ thù đe doạ từ bên ngoài. Tình hình ấy đã làm cho ông hết sức đau xót. Có lẽ vì thế Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho đồng bào của ông. Tuy nhiên, lần nào được Chúa kêu gọi, thì ông cũng đáp lại bằng một thái độ miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi quê hương mình là điều rất khó khăn. Nhưng rồi ông cũng phải lên tiếng và thẳng thắn nói với dân chúng con đường duy nhất họ phải đi là canh tân đời sống, quay trở về với Chúa. Nghe ông rao giảng dân chúng bèn nổi giận: Ông ấy là ai mà dám phê phán chúng ta.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và bẽ bàng khi lãnh nhận sứ mạng làm tiên tri ngay trong xứ sở mình. Đoạn Tin Mừng cho thấy, dân làng Nadarét đã tức tối và lẩm bẩm: Anh ta là ai mà dám tự nhận mình là Đấng Thiên Sai. Anh ta há chẳng phải là con ông Giuse thợ mộc đó sao? Sự căm tức lên tới cao điểm khi họ định xô Ngài xuống vực thẳm.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời ông già Simêon nơi cửa đền thờ: Trẻ này sẽ là dấu chỉ cho người ta chống đối. Nếu dân làng Nadarét đã đòi Ngài phải đưa ra bằng cớ chính mình Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng đòi buộc Ngài phải chứng minh giáo lý của Ngài là chân thật. Nếu dân làng Nadarét đã tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã thẳng thừng kết án Ngài là khí cụ của ma quỷ. Nếu dân làng Nadarét đã tìm cách giết Chúa thế nào, thì dân thành Giêrusalem cũng đã kêu la: Đóng đinh nó vào thập giá.
Số phận của Chúa Giêsu cũng là số phận của chúng ta, nhưng môn đệ của Ngài: Nếu họ đã bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Bất cứ ai sống đúng địa vị người Kitô hữu cũng sẽ nhận ra sự thật ấy.
Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta đón gió trở cờ, thấy khó khăn là xoá bỏ đức tin, khước từ lối sống lành mạnh và lương thiện. Bởi vì Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối ướp cho đời khỏi ươn thối. Các con là tấm men làm cho khối bột là xã hội đang băng hoại phề phương diện đạo đức, được dậy lên sự thánh thiện. Các con là ánh sáng chiếu soi vào thế gian tăm tối. Ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người, để họ nhìn thấy những việc thiện các con làm, mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thánh Phaolô viết: Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như những vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này.
Như chúng ta đã thấy Chúa Giêsu khởi sự công việc rao giảng của Ngài. Thoạt đầu, Ngài đã gây được TN4-C90
Như chúng ta đã thấy Chúa Giêsu khởi sự công việc rao giảng của Ngài. Thoạt đầu, Ngài đã gây được hứng khởi nơi người nghe. Thánh Luca viết về những hoạt động của Ngài trong lúc này như sau: Danh tiếng Ngài lan tràn cả miền chung quanh. Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Nhưng cũng chính thánh Luca đã cho chúng ta thấy một cách sống động rằng ngay từ điểm khởi đầu này, lời giảng dạy của Chúa Giêsu đã tạo nên những chống đối. Chẳng hạn ngày hôm nay, những người làng Nadarét sau khi đã ca ngợi Ngài, thì họ bắt đầu thắc mắc về Ngài. Họ bàn tán: Ông này hẳn không phải là con bác phó mộc Giuse hay sao? Và từ thắc mắc, họ đi đến chỗ căm thù, thậm chí còn muốn thủ tiêu Ngài, như lời thánh Luca đã viết: Mọi người trong hội đường đều đầy lòng căm phẫn, họ đứng dậy, đuổi Ngài ra ngoài thành và điệu Ngài lên tận triền núi, nơi thành họ được xây cất, cố ý xô Ngài xuống cho chết.
Qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta không khỏi liên tưởng tới lời mở đầu của Tin Mừng theo thánh Gioan, trong đó thánh Gioan cũng đã viết: Ánh sáng đã chiếu soi trong u tối, nhưng u tối không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài. Từ đó chúng ta đi tới hai nhận định cho việc sống đạo.
Nhận định thứ nhất đó là mầu nhiệm làm người và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu phải chăng chỉ là một? Cuộc khổ nạn ngày thứ Sáu Tuần Thánh và cuộc sống lại vinh hiển ngày phục sinh, chỉ là phần kết thúc của một tiến trình duy nhất, bắt nguồn từ lúc giáng sinh làm người? Thái độ từ chối và chống đối của người Do Thái, không phải chỉ xuất phát từ những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng bắt nguồn từ một lựa chọn căn bản giữa ánh sáng và u tối, giữa yêu thương độ lượng và hận thù ích kỷ. Chúng ta không thể vừa theo Chúa lại vừa phủ nhận chương trình và đường lối cứu chuộc của Ngài.
Nhận định thứ hai đó là như chúng ta đã biết: Dân làng Nadarét đã tỏ ra cứng lòng, không tin những điều Ngài giảng dạy. Sở dĩ như vậy là vì họ đã quá quen thuộc với bản thân Ngài, gia đình Ngài nên mới có thái độ: Gần chùa gọi bụt bằng anh. Tại Nadarét, Chúa Giêsu bị chống đối không phải bởi những người ngoại đạo, mà bởi những người có đạo, bị oán ghét không phải bởi kẻ thù địch, mà bởi những người họ hàng thân thích.
Hình ảnh những người làng Nadarét của thánh Luca, cũng như những hình ảnh gia nhân không tiếp đón Ngài của thánh Gioan, phải chăng là những hình ảnh tượng trưng cho người tín hữu chúng ta. Bởi vì mặc dù đã biết Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn không tin Chúa. Mặc dù nhận lãnh những ơn lành của Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn lăng nhục và thù ghét Chúa. Mặc dù đã được Chúa thứ tha, mà nhiều lúc chúng ta vẫn xua đuổi Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta không cứng lòng như những người làng Nadarét, cũng như không xua đuổi Chúa như những gia nhân mà thánh Gioan đã nói đến.
Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài được nuôi dưỡng và trưởng thành, để rao giảng. Cái nhìn cũ TN4-C91
Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài được nuôi dưỡng và trưởng thành, để rao giảng.
Cái nhìn cũ không thể nhận ra và đón nhận Đức Giêsu
“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.” Dân làng Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này là con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao, vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một người đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.
Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ. Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu? Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó khổ như thế nào.
“Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng mở với mọi người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một người. Một người qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể họ không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Theo kinh nghiệm sống, điều này rất khó xảy ra, nhưng khó không có nghĩa là không có. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chị Maria Magdala là một điển hình.
Năm mới, xin cho chúng ta có cái nhìn “mới” về con người, đặc biệt những người vẫn sống với chúng ta, để chúng ta lạc quan và trông cậy vào Thiên Chúa hơn.
Khiêm tốn để đón nhận và cho đi
Sự đối kháng không chỉ ở mức độ không thích, không muốn nghe, nhưng đã đến độ người làng Nadarét muốn giết Đức Giêsu. Họ dẫn Đức Giêsu tới sườn đồi, và muốn xô Đức Giêsu xuống vực, nhưng Ngài đã băng qua giữa họ mà đi. Được sống với Đức Giêsu, được là người đồng hương (cùng làng) với Đức Giêsu, đáng lẽ là một ơn phúc, nhưng bây giờ lại là mối họa, là điều ngăn cản nhận biết Đức Giêsu. Tại sao vậy?
Tiên tri không được đón nhận tại quê hương mình. Vì người ta cho rằng họ đã biết rõ về con người đó. Và như vậy, con người đó đâu có gì để mình học, đâu có gì đặc sắc để mình phải lắng lòng. Không cần gì thêm, là một thái độ tự mãn, không thể đón nhận gì khác được, ngay cả Thiên Chúa. Người ta thường ví người tự mãn như một ly đầy nên không thể nhận gì hơn. Nếu không nhận, đâu có gì để cho. Một đại dương hay một dòng sông, luôn sẵn sàng đón nhận khe suối hay những giọt nước dù rất nhỏ, nên có thể cho mãi mãi mà không bao giờ cạn.
Một người tự mãn tự kiêu thường lấy mình làm tiêu chuẩn, và không mở lòng ra đón nhận sự thật. Vì coi mình vượt trên người khác, nên khi thấy người khác “có vẻ” coi thường mình, thì họ sẵn sàng hạ bệ hoặc tiêu diệt người khác. Đó là lý do tại sao người làng Nadarét muốn xô Đức Giêsu xuống vực.
Xin cho con có tâm hồn khiêm tốn, để con có thể đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ trong đời sống từng ngày của con.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Hiện tại không ai trong chúng ta thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng bạn có tin rằng Thiên Chúa đến với bạn mỗi ngày không? Xin bạn cho vài thí dụ.
2. Có khi nào bạn “thấy” Thiên Chúa đến với một người bạn quen qua biến cố nào đó, nhưng người đó không nhận ra? Tại sao vậy, và làm sao để có thể nhận ra Thiên Chúa đến với mình?
3. Tết này dịp bạn về quê, đâu là dự định của bạn? Điều bạn dự tính có ích lợi gì cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân, người yêu không? 4. Năm mới, nếu cho bạn một điều ước, bạn sẽ ước điều gì?
Tiên tri Giêrêmia được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tư tế ở miền Bắc Giêrusalem. Thiên TN4-C92
Tiên tri Giêrêmia được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tư tế ở miền Bắc Giêrusalem. Thiên Chúa đã gọi, thúc giục và tác động cách mạnh mẽ trong tâm hồn của ông ngay khi còn thơ trẻ. Giêrêmia chấp nhận sứ mệnh ra đi giữa bao thử thách và khó khăn. Sứ mệnh của ngài kéo dài qua nhiều thập niên trong lịch sử của cộng đồng Giêrusalem. Ngài đã tiên báo về sự đe doạ và sụp đổ của thành Giêrusalem. Tiên tri có cá tính riêng và rất mạnh mẽ chịu đựng những khổ cực cùng với đoàn dân. Giêrêmia đã giúp mọi người nhận ra những hậu qủa xấu mà họ phải gánh chịu do sự bất trung và tội lỗi gây nên. Đôi khi ông cũng cảm thấy đuối sức và ngại ngùng, nên đã muốn chối từ sứ vụ đặc biệt này. Nhưng cánh tay của Chúa luôn dẫn dắt ông trong mọi nẻo đường. Ông thố lộ tâm tư qua sự mạc khải: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân." (Gr 1,5). Chúng ta biết rằng sứ mệnh tiên tri là một ơn gọi đặc biệt vì là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa hứa ban sức mạnh và đồng hành cùng ông trong cuộc hành trình đầy gian nan này.
Đối diện với sự ruồng bắt và cái chết, ai mà không lo sợ cho tính mạng của mình. Giêrêmia cũng không ngoại lệ, ông cũng là con người mang nhiều sự yếu đuối và lỗi lầm như mọi người. Sứ điệp của ông là kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để trở về cùng Thiên Chúa. Ông đã đặt niềm tin vào Chúa là kiên thuẫn và dũng lực. Thiên Chúa hứa: "Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì sấm ngôn của Thiên Chúa, có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi." (Gr 1,19) Giêrêmia đã trung thành với sứ vụ được trao ban và đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm của Dân Dothái từ năm 627 tới khoảng năm 587 BC.
Sứ mệnh khó khăn của các tiên tri là phải đối đầu với đời sống con người thế tục. Các nhà cầm quyền đã dùng mọi ảnh hưởng để loại trừ thần quyền ra khỏi cuộc sống. Họ dùng sức mạnh và bạo lực của thế quyền để đàn áp, tẩy chay và loại trừ các nhân chứng của sự thật và công chính. Lòng người thế trần bị nhuốm màu tội lỗi vì sống thả theo bản năng thú tính và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của tham sân si. Nhiều người không còn muốn nghe những lời khuyên răn luân lý đạo đức. Đôi khi họ cho rằng những người sống đạo hạnh, công chính và chân thật là những người dại khờ. Phải tranh đấu để sống. Sống là phải hưởng thụ. Chúng ta biết đời sống là cuộc chạy đua. Không phải mọi người đều nhận ra được con đường chính thật. Người ngu mà biết mình ngu là người có trí. Người ngu mà tưởng mình có trí thì càng ngu hơn. Không biết chính mình là người vô minh và ngu đần. Đôi khi họ lại tưởng nghĩ mình là người khôn ngoan và sành đời. Luôn tìm cách tiêu diệt những người công chính và coi họ như là cản mũi kỳ đà.
Chúa Giêsu biết rất rõ về số phận của các nhân chứng cho sự thật. Từ xưa, số phận các tiên tri hoặc ngôn sứ đã thường bị bách hại, xua đuổi và tẩy chay. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm điều này ngay tại quê quán mình: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình." (Lc 4,24). Làm nhân chứng cho sự thật giữa một xã hội bị tục hoá như hiện nay là một sự dấn thân hy sinh và từ bỏ. Các trào lưu xuôi dòng đang cuồn cuộn kéo lôi con người như thác lũ đi vào cuộc sống hưởng thụ thế tục. Nhiều nhà cầm quyền có xu hướng chạy theo thị yếu và mị dân chấp thuận những khuynh hướng của nền văn minh sự chết. Các thế hệ trẻ hiện nay dễ bị đầu độc bởi nền văn hóa thụ hưởng rất tinh tế và nhẹ nhàng qua cách suy tưởng và phán đoán thuận theo đa số. Là Kitô hữu, chúng ta không thể chạy theo những trào lưu hào phóng bên ngoài, nhưng phải biết tìm kiếm nguồn chân thiện mỹ. Hãy yêu chuộng những vẻ đẹp của đời sống lương tâm tự nhiên đã được in ghi trong tâm hồn.
Chúa Giêsu về lại làng quê mình để gặp gỡ và truyền rao sứ mạng cứu độ. Người đồng hương ngạc nhiên về lời giảng dạy của Chúa nhưng họ không mở lòng đón nhận chân lý. Họ đòi hỏi và thách thức quyền năng của Chúa: "Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực." (Lc 4,29) Chúa Giêsu đâu làm gì nên tội để bị đối xử tệ như thế. Có lẽ tâm hồn của họ bị khép kín và trái tim bị đóng băng lạnh lùng. Họ không chấp nhận lời giảng và cũng không đón nhận chính Chúa. Họ đã vào hùa với nhau chống báng và xua trừ Chúa để khỏi phải nghe những lời chân thật. Chúa Giêsu cùng đồng số phận với các tiên tri bị người đời ngược đãi và thế gian chống đối ghét bỏ.
Số phận các ngôn sứ hôm nay cũng không khá hơn các vị tiền bối. Những nhà truyền giáo và các nhân chứng sự thật đều phải đối diện với hiện trạng thờ ơ và lạnh nhạt trong đời sống luân lý, đạo đức. Dù trong hoàn cảnh nào, xem ra sự kiện có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn vẫn có thể kéo lôi nhiều người. Khi cuộc sống ổn định về kinh tế và tài chính, đời sống đạo cũng nhờ đó mà thăng hoa. Chúng ta chấp nhận rằng thực tế cuộc sống luôn đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể trước. Chính Giáo Hội cũng đang nỗ lực giúp đỡ những vùng truyền giáo xa xôi. Họ thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất. Nhân chứng sự thật không thể tách rời khỏi những nhu cầu căn bản cuộc sống của người dân.
Một điều rất quan trọng mà thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi." (1 Cr 13,3) Đức mến là cốt lõi của việc ra đi làm nhân chứng. Là nhân chứng cho Chúa Kitô, chúng ta không thể thiếu tình yêu chia sẻ. Nếu tất cả mọi việc phục vụ tha nhân với trái tim yêu thương, sẽ mang lại niềm vui và ý nghĩa đích thực. Yêu rồi làm. Tình yêu sẽ thăng hoa tất cả. Phaolô khuyên dạy: "Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật." (1 Cr 13,4-6)
Đức ái là nhân đức tuyệt hảo. Chỉ có tình yêu mới có thể tha thứ, bao dung và liên kết nên một. Tình yêu như lửa hun đốt và hâm nóng những tâm hồn nguội lạnh. Một thái độ cảm thông yêu mến có thể xoá nhoà mọi lỗi lầm. Một cử chỉ yêu thương có thể khơi dậy niềm hy vọng. Một dấu ấn tình yêu có thể đổi đời. Một lời nói dễ thương có thể vỗ về tâm hồn nguội lạnh. Ôi tình yêu thật diệu vời! Ai trong chúng ta cũng có trái tim để yêu, chỉ cần chúng ta biết mở cửa trái tim để trao ban và đón nhận. Tình yêu như dòng sông nước chảy, càng chảy càng thấm nhuần. Yêu là cho đi và cũng là đón nhận. Một tình yêu tuôn trào sẽ tạo nguồn sống tươi vui và hạnh phúc. Chúng ta đang ngụp lặn trong biển tình: tình Chúa, tình gia đình và tình nhân lọai. Tình yêu chính là lẽ sống. Lạy Chúa, Chúa là Tình Yêu. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ dám hiến thân mình vì bạn hữu. Chúa đã hiến mình vì yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Chỉ có đức mến mới tồn tại muôn đời: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến." (1 Cr 13,13).
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghĩ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe TN4-C93
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghĩ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì?".
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: "Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon". Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài "mất trí". Kinh sư chụp mũ Ngài "nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ". Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: "Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh". Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên...
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của "chủ nghĩa lý lịch". Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: "Không ai là tiên tri cho xứ sở mình". Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn "Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận". Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta... Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
Trong đạo cũ, Thiên Chúa thường gửi những nhà Tiên tri đến dạy dỗ dân riêng của Ngài. Thánh TN4-C94
Trong đạo cũ, Thiên Chúa thường gửi những nhà Tiên tri đến dạy dỗ dân riêng của Ngài. Thánh Kinh nhắc đến tên 16 vị Tiên tri tất cả, gồm 4 vị Tiên tri lớn và 12 vị Tiên tri nhỏ.
Tiên tri là người phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Và làm phát ngôn nhân của Thiên Chúa không phải là dễ. Ông không thể chọn lựa điều phải nói, mà phải nói điều Chúa muốn ông nói và nói nhân danh Chúa. Vì thế, mệnh lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị đả kích chống đối và nhà Tiên tri phải chết vì sứ mạng. Nhiều đấng run sợ bị chọn làm Tiên tri. Tiên tri Giona nghe Chúa gọi đã xuống thuyền trốn tiệt.
Chúa Giêsu, vị phát ngôn nhân của Đức Chúa Cha, cũng không tránh khỏi định luật hy sinh ấy. Bài Phúc Âm hôm nay kể lại diễn tiến của cuộc thuyết giảng trong Hội đường Nagiaret, quê hương Ngài.
Ngài tuyên bố thẳng thừng: “Lời tiên báo của Thánh Kinh về Đấng Messia hôm nay đã thực hiện”. Thính giả đều hiểu: Ngài tuyên bố mình là Đấng Messia phải đến và đã đến.
Sau những phút kinh hoàng bở ngỡ, họ đòi Ngài phải đưa ra bằng chứng: “Chúng tôi nghe ông làm nhiều phép lạ ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở đây nơi quê hương ông, cho chúng tôi xem nào!” (Lc. 4, 23). Nhưng, Chúa Giêsu không muốn cho họ một dấu, một phép lạ nào cả, để họ khỏi lầm tưởng về sứ mạng của Ngài… Sứ mạng đó không bị gò bó hạn hẹp trong phạm vi gia đình quê quán, không dành riêng cho dân Do-thái thôi. Tin Mừng sẽ vượt biên cương, kêu gọi mọi người thiện chí. Để chứng minh, Chúa nhắc đến gương của hai nhà Tiên tri Elia và Êlisê mà dân chúng đều biết. Hai vị đã thi ân giáng phúc cho bà góa xứ Sêrepta và Naaman, sĩ quan ngoại bang thuộc xứ Syria.
Ơn cứu độ không dành riêng cho một số người được đặc ân mà là một ân sủng cho hết mọi người. Phản ứng đồng hương của Ngài rất dễ hiểu; lòng tự ái bị tổn thương, họ căm phẫn, đồng loạt đứng dậy, tống xuất Ngài ra khỏi thành và muốn xô Ngài xuống hố thẳm cho chết đi.
“Không một Tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình”.
Câu chuyện Nagiaret mở màn cho những diễn tiến tương lai. Các Giáo phụ coi đó là điềm báo của lối đối xử của toàn dân Do-thái dành cho Chúa. Ngài cũng sẽ bị kết án, dẫn ra khỏi thành và bị đóng đinh trên cây Thập giá. Luca, tác giả sách Công vụ Tông đồ còn muốn đối chiếu việc Chúa bị tống xuất khỏi thành với việc Stêphanô bị lôi ra khỏi thành và bị ném đá chết (CV. 7, 58). Cuộc bách hại tiếp theo sau cuộc tuẫn tiết của Stephanô đã làm cho Tin Mừng loan đi khắp vạn nẻo đường thế giới. Lịch sử của Chúa Giêsu tiếp diễn trong lịch sử Giáo hội. Giáo hội mở rộng vòng tay đón cả nhân loại.
Lạy Chúa, xin đừng để con ỷ lại vào ơn cứu độ đã được Chúa ban nhưng không. Trái lại, biết làm lợi cho mình và làm lợi cho kẻ khác để Nước Chúa trị đến.
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét. Vì ưu ái người đồng hương, Ngài ưu tiên tỏ cho TN4-C95
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét. Vì ưu ái người đồng hương, Ngài ưu tiên tỏ cho họ nhận biết vai trò và sứ mạng của Ngài là Người được Thánh Thần xức dầu, được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ân xá cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù tối đón nhận ánh sáng, cho người bị áp bức được tự do và công bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa... với hy vọng là những người đồng hương cốt nhục của mình được đón nhận ơn cứu độ trước hết.
Thế nhưng đôi mắt của người dân Na-da-rét đã bị che phủ bởi thành kiến nên họ đã không nhận ra vai trò và sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu. Với thành kiến rằng Đức Giêsu chỉ là một anh thợ mộc bình thường con của bác thợ Giu-se, bà con thân thích của Ngài đâu có ai sáng giá... nên họ đã không tin Ngài. Họ đã để tuột khỏi tầm tay một cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân vô giá.
Để cảnh tỉnh họ, Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến cho mình, nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Isaia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Isaia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.
Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Israen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo, người nước Sy-ri.
Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài khủng khiếp!
Họ oán ghét và nổi cơn phẫn nộ với Ngài chỉ vì Ngài đã chỉ cho họ thấy những sự thật phũ phàng liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi Ngài ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.
Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, cho Ngài nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống, vì Ngài đã dám nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng, đen tối liên quan đến họ...
Ôi, khủng khiếp thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!
Hành động như thế là thiếu tinh thần phục thiện, là hèn nhát không dám đối diện với sự thật. Đúng ra, họ phải cám ơn Chúa Giêsu vì Ngài đã giúp họ thấy được sai lầm của mình để sửa chữa cho tốt hơn. Đúng ra họ nên nhìn lại sai lầm của mình thật rõ và những hậu quả do đó mà ra để rồi không còn tái phạm nữa.
Tiếc thay họ đã đi vào vết chân của cha ông họ nhưng còn tồi tệ hơn. Cha ông họ bạc đãi các tiên tri, còn chính họ thì toan giết hại Con Thiên Chúa.
Thế nhưng hôm nay soi lại bản thân, chúng ta cũng thấy đôi khi mình cũng đi theo vết chân đó. Khi có ai đó chỉ cho ta thấy những lầm lỗi khuyết điểm của chúng ta, những sự thật đen tối về bản thân ta, thì thay vì cám ơn người đã chỉ bảo cho mình điều hay lẽ phải, chúng ta lại lồng lên như một thú dữ bị thương, gầm lên dữ dội và có thể có thái độ hung hãn đối với người đã vạch ra lầm lỗi của mình. Thế rồi mình cứ cố chấp trong tội lỗi của mình. Và như thế, chúng ta cứ mang thói hư tật xấu xuống mồ và sẽ không bao giờ biết cải thiện. Thật đáng tiếc lắm thay!
Nếu ngôi nhà chúng ta bén lửa, bỗng có người phát hiện và báo cho ta biết để chữa cháy, thì hẵn là chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và khẩn trương chữa cháy cho ngôi nhà.
Còn nếu trong hoàn cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy, chúng ta lại quay ra căm giận, hành hung người báo cháy cho mình thì thật là điên rồ không thể chấp nhận được.
Thói hư tật xấu và những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo cho biết có 'lửa' đang bén vào 'căn nhà cuộc đời' của mình, thì đừng phẫn nộ với người đó như người dân thành Nadarét năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ họ cảnh báo mà chúng ta biết được những 'ngọn lửa' lầm lỗi, âm ỉ đốt cháy cuộc đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình khỏi cháy.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách đen tối trong tâm hồn chúng con để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen tối trong đời mình.
Xin cho chúng con can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực của người khác mà không tìm cách biện minh hay chống chế.
Xin cho chúng con dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình, gọi đúng tên chúng, quan sát cách vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi, lời nói, và cách cư xử hằng ngày của chúng con...
May ra lúc đó, chúng con mới có thể cải thiện và đổi đời.
Theo báo chí nhận xét: "Tết năm nay (2010) lượng trái cây của Trung Quốc nhập về giảm mạnh TN4-C96
Theo báo chí nhận xét: "Tết năm nay (2010) lượng trái cây của Trung Quốc nhập về giảm mạnh. Các năm trước, đến thời điểm này, hàng trái cây Trung Quốc đã chất hàng ngàn tấn tại chợ nhưng năm nay thì lại chưa thấy gì". Có người còn độc miệng nói rằng: các loại trái cây của Trung Quốc chủ yếu là lê, táo, nho... màu đẹp, bóng, để được lâu (khoảng tháng rưỡi) nên một số người mua để cúng chứ không dám ăn. Không chỉ trái cây nhưng rất nhiều mặt hàng Trung quốc đến nay người dân đã tẩy chay vì hàng kém chất lượng, nhất là lại chứa nhiều độc tố. Điều đó dẫn đến một làn sóng trở về với dân tộc: "Ta về ta tắm ao ta - Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn".
Thực vậy, với xu hướng xính ngoại, lâu nay nhiều người không dùng hàng Việt. Thích dùng hàng ngoại. Hậu quả là hàng ngoại kém chất lượng, quá date, hàng giả... tràn ngập thị trường Việt Nam. Điều này không chỉ dừng lại ở hàng hóa mà ngay cả trong vấn đề hôn nhân cũng vậy. Nhiều cô gái thích lấy chồng ngoại. Đến nỗi có cả một thị trường tuyển chọn cô dâu. Nhưng có mấy ai lấy chồng ngoại được yên bề gia thất? Có mấy ai thực sự hạnh phúc với hôn nhân thiếu vắng tình yêu?
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng từng cay đắng để thốt lên rằng: "không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình". Người ta dễ "gần chùa gọi Bụt bằng anh". Người ta xem thường đồng hương. Dù biết rằng tình đồng hương rất cần vì "tối lửa tắt đèn có nhau". Dù biết rằng kẻ láng giềng rất cần thiết, cần thiết hơn là anh em ruột thịt mà ở xa, như lời cha ông đã nói: "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Thế nhưng, thực tế cho thấy, người hàng xóm lại dễ mất lòng nhau. Người hàng xóm lại dễ ganh tỵ với nhau. Thay vì sống với nhau để mang lại sự chia sẻ, cảm thông, nhưng lại gây sóng gió cho nhau. Có mấy ai ở bên nhau mà không lời qua tiếng lại? Có mấy ai ở bên nhau mà đùm bọc lấy nhau như là bí với bầu "tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"? Chúa Giêsu cũng từng bị đồng hương tìm cách loại trừ. Đã có lần người ta cho rằng Người đang bị mất trí. Chính vì cái nhìn thiển cận và đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào nơi quê hương mình. Hôm nay, sau thời gian dài, Ngài đi rao giảng và làm nhiều phép lạ, Ngài trở về dưới cái nhìn xem thường của đồng hương. Họ không tin một Giêsu con bác thợ mộc lại có thể làm nhiều phép lạ như lời đồn. Nói đúng hơn, là họ không thể chấp nhận sự thật về con người Giêsu mà họ đã biết từ khi ấu thơ, nay lại có thể có những khả năng phi thường như vậy. Họ đã bị vấp phạm vì Người. Họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, nhưng Người đã băng qua giữa họ mà đi.
Vâng, cuộc sống của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người người biết tôn trọng lẫn nhau, biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn, hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả, những đóng góp của anh em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.
Ước gì mỗi người chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình. Vợ chồng cần có nhau để bổ túc và mang lại hạnh phúc cho nhau. Con cái cần đến cha mẹ để nương nhờ cậy trông. Hàng xóm cần đến nhau để "tốt lửa tắt đèn có nhau". Và một khi đã nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình, thì hãy sống tôn trọng và kính trọng lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho nhau những niềm vui và hạnh phúc. Amen
Nếu như Chúa nhật thứ Ba Mùa Thường niên, Đức Giêsu đã thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về TN4-C97
Nếu như Chúa nhật thứ Ba Mùa Thường niên, Đức Giêsu đã thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai. Ngài dạy dỗ chúng ta những Mối Phúc tuyệt vời mà chúng ta cần phải sống mỗi ngày để đạt được hạnh phúc thật là Nước Trời (Phụng vụ Năm A). Ngài chữa lành những người bị quỉ ám (Phụng vụ Năm B), nhưng Lời Ngài là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều ...thán phục Người ; các thần ô uế phải vâng lệnh, nhưng ngược lại, những người Do thái đầy căm phẫn, chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm " (Lc 4, 29) (Phụng vụ Năm C).
* Phụng vụ Lời Chúa Năm A
- Soph 2, 3 ; 3, 12-13: Thiên Chúa muốn một dân tộc khiêm tốn, nhỏ bé và nghèo hèn - Tv 146, 7: Phúc thay ai có lòng khó nghèo, vì Nước Trời là của họ - 1 Cr 1, 26-31: Những điều Chúa chọn - Mt 5, 1-12a: Bài giảng trên núi: Tám Mối Phúc
* Phụng vụ Lời Chúa Năm B
- Đnl 18, 15-20: Môisen loan báo vị tiên tri trong thời sắp tới - Tv 95, 1: Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng nữa - 1 Cr 7, 32-35: Sự trinh trong đối với Thiên Chúa - Mc 1, 21-28: Đức Giêsu rao giảng và chữa lành người bị quỉ ám
* Phụng vụ Lời Chúa Năm C
- Gr 1, 4-5 ;17-19: "Ta sẽ làm cho ngươi trở thành tiên tri của nhiều dân tộc" - Tv 71, 5: Tới muôn đời, tôi sẽ loan báo sự chiến thắng và ơn cứu độ của Người. - 1 Cr 12, 31 à 13, 13: Bài ca Đức Aí
- Lc 4, 21-30: Sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu
Về điều này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau:
Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Một thầy thuốc cao tay là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã đến giữa chúng ta. Ngài đã rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Đức Giêsu đã đến, và Ngài thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Ngài liền hứa trao ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là: “Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm”. ( 1Cr 2, 9).
Thiên Chúa, Thầy thuốc đến để chữa bệnh gì cho nhân loại? Ngài đã dùng phương thuốc nào? Ngài đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Ngài mời gọi ta. Thật vậy, Ngài biết rằng phương thuốc để chữa lành bệnh tật của ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Ngài đến cứu giúp ta, vì Ngài biết điều chúng ta cần.
Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Ngài vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Ngài được? Và, nếu không bắt chước được, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Ngài đến trong sự khiêm nhường, vì Ngài biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh: thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Ngài, tay cầm chén, và nói: "Lạy Thiên Chúa của con, Ngài là Đấng nào? Ngài được sinh ra, Ngài đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.
Thường thì kẻ mặc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy lòng thương xót không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn sẽ cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Ngài không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Ngài đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Ngài đã chết và đã sống lại.
Như thế, Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Ngài đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.
Đoạn Phúc âm tuần này tiếp nối sự kiện Đức Giêsu trở về Galilê, như là cứ điểm xuất phát đầu tiên TN4-C98
Đoạn Phúc âm tuần này tiếp nối sự kiện Đức Giêsu trở về Galilê, như là cứ điểm xuất phát đầu tiên cho chương trình cứu thế của Ngài.
Galilê, miền bắc của nước Palestine, có kích thước khoảng 50 dặm từ bắc xuống nam và 25 dặm từ đông sang tây. Danh xưng Galilê tự nó, trong tiếng Do thái, có nghĩa là vòng tròn. Vùng đất này được đặt tên như thế là vì vây quanh nó toàn là dân ngoại. Đã có thời các sử gia ghi nhận Galilê có đến 204 ngôi làng, với số dân trong mỗi làng không dưới 15 ngàn người. Vị chi có tới 3 triệu người từng cư ngụ chen chúc nhau nơi đây.
Galilê còn là vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Văn học dân gian Do thái từng ví “Trồng một rừng cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa bé ở Giuđêa.” Khí hậu tươi mát và nguồn nước ngọt phong phú từ hồ Tibêria đã biến Galilê thành vườn cây thiên nhiên trù phú của Palestine.
Riêng người dân Galilê thì được mô tả là “rất có óc sáng tạo, hay canh tân đổi mới, và rất thích dấy động. Họ sẵn sàng đi theo bất kỳ người nào dám đứng lên lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa. Dân Galilê dễ nổi nóng và ưa tranh biện. Họ không thiếu can đảm, nhưng bao giờ cũng lưu tâm đến danh dự hơn vật chất bên ngoài.”
Đó là những nét đặc thù của Galilê, “cứ điểm cứu thế”. Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ từ đó, trong một hội đường của người Do thái.
Hội đường là trung tâm sinh hoạt tôn giáo. Theo qui định, bất cứ nơi đâu có 10 gia đình Do thái trở lên, chỗ đó phải có một hội đường cho vấn đề phụng tự. Việc giảng dạy được thực thi trong các hội đường, còn việc sát tế súc vật để dâng lên Thiên Chúa thì được cử hành tại Đền thờ Giêrusalem.
Chính trong một hội đường nơi làng Nazaret mà Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ cứu thế, bằng một bản tuyên ngôn hùng hồn: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được xem thấy, kẻ bị áp bức được giải oan, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4:18-19).
Có lẽ bản tuyên ngôn trên không có gì mới lạ đối với dân Do thái. Không chừng họ còn nghe nằm lòng. Chắc chắn đã vài ba lần, những người được vinh dự công bố sách Luật và các Tiên tri đã đọc cho họ nghe lời tiên báo trên đây. Nó được trích trong sách tiên tri Isaiah, chương 61, nói về Đấng Cứu Thế.
Nhưng điều lạ lùng đến sinh ra bối rối kinh ngạc nơi người Do thái là vì sau khi đọc lên đoạn ấy, Đức Giêsu gấp sách lại, dõng dạc tuyên bố với cử toạ: “Hôm nay, lời Kinh thánh các ngươi vừa nghe đã ứng nghiệm” (Lc 4:21).
“Ôi! Đã ứng nghiệm rồi sao lời tiên báo của các tiên tri về Đấng Cứu Thế? Phải chăng niềm an ủi của Israel, nỗi trông chờ trải bao thế kỷ đã thành sự trước mắt chúng ta? Nhưng sao lại như thế được? Chàng Giêsu này thì ai mà không biết. Chàng đã sống giữa chúng ta. Từng giúp đỡ chúng ta chuyện này việc kia. Mới đây tự nhiên chàng bỏ làng ra đi. Không biết đi đâu. Nhưng tin đồn thì cứ đổ về làng. Nào là chàng đã làm phép lạ hoá rượu ra hàng mấy trăm lít bên làng Cana. Nào là chàng đã trừ ma diệt quỉ, chữa lành người bệnh bên làng Caphanaum. Bây giờ trở về cố hương, chàng lại tự xưng là Messiah-Đấng Cứu Thế. Chà, sao mà nghe chói tai quá,” có lẽ người Do thái xì xào bàn tán với nhau như vậy.
Thế rồi tiếng xì xào lớn dần thành lời hằn học: “Tại sao hắn lại không làm những sự cả thể thế kia nơi đây mà lại trổ tài nơi khác. Người nhà bao giờ cũng phải được ưu tiên hơn chứ…. Nhưng kìa, tại sao hắn lại nói cái gì về chuyện Êlia cứu giúp bà goá tại Sarepta trong thời kỳ hạn hán và Êlisê chữa lành cho Naaman người Syria, khi ông này bị bịnh phung cùi. Mà mấy kẻ đó đâu có phải là dân Do thái. Họ là những người ngoại, những người đáng bị kinh tởm. Ấy thế mà họ lại được ưu tiên cứu chữa mới tức chứ… Còn tên Giêsu này, nghề ngỗng thì có gì đặc biệt đâu. Anh ta không làm vài phép lạ cho bà con đồng hương xem chơi đã đành, lại còn nhắc đến mấy cái chuyện chạm tự ái dân tộc thế kia thì chịu sao nỗi.” Thế là họ đồng loạt xông lên, căm tức vô bờ, nhất tề tống xuất Đức Giêsu ra khỏi hội đường. Kinh khiếp hơn, họ còn muốn đẩy ngài xuống chân núi cho chết.
Thế mới hay lòng tự ái và ích kỷ của con người thật khủng khiếp, chỉ mong đẩy kẻ khác đi đến cái chết! Nhưng Đức Giêsu không chấp nhận thái độ ích kỷ và cục bộ đó. Tin mừng Nước Trời, niềm vui ơn cứu độ không thể giới hạn trong một làng hay một dân tộc nào, nhưng tin mừng và niềm vui đó phải được phổ quát đến tất cả mọi nước mọi dân.
Như lời tiên tri của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu thế nào, thì lời của ngôn sứ Giêrêmia cũng thành sự nơi Ngài như vậy: “Thiên Chúa phán cùng tôi rằng; Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc” (Grr 1:4-5).
Không phải chỉ nơi dân tộc Israel mới có người “nghèo khó” cần cứu giúp, người “tù đày” cần tự do, người “đui mù” muốn nhìn chân lý, kẻ bị “áp bức” cần được minh oan, nhưng là khắp mọi nơi. Tin Mừng của “năm hồng ân” phải vượt khỏi ranh giới Nazaret, vươn ra ngoài biên cương Galilê và Palestine, đến cùng các dân tộc và mọi tâm hồn.
Thế nên, bao lâu mà người Kitô hữu vẫn chỉ lưu lại trong cái nhìn cục bộ, lo tìm tư lợi hơn là mưu cầu ích chung, đòi hỏi ơn riêng thay vì rộng tay ban phúc, chắc chắn “Chúa phải băng ngang giữa họ mà đi” (Lc 4:30). Vì đạo Chúa phải là đạo Công giáo, đạo cho mọi người.
Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội đường Nazareth, Chúa Giêsu không những đã nói rõ TN4-C99
Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội đường Nazareth, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.
1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính thần linh
Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.
Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazareth không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.
Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?
2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính nhưng không
Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.
Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.
Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).
3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính phổ quát
Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (x. Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Abraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.
Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).
Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?
Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Đấy là kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội trường làng quê Nagiarét: Qua bài đọc TN4-C100
Đấy là kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội trường làng quê Nagiarét: Qua bài đọc của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu vừa đưa ra một chương trình hành động: Rao giảng Tin Mừng cho Người nghèo hèn, giải phóng những tù nhân, đem lại sự giải thoát cho những người bị áp bức, loan báo năm hồng ân của Chúa. Lời chú giải duy nhất của Đức Giêsu nói rằng! Hôm nay, mọi sự ấy đã ứng nghiệm. Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, Người khẳng định rằng bản thân Người đã đáp lại trọn vẹn mọi sự chờ đợi của Israel. Đức Giêsu kéo Lời Chúa từ "quá khứ" xa xôi nơi người ta muốn luôn luôn giam hãm Lời Chúa. Người yêu cầu nhân loại chớ đặt Thiên Chúa "trong quá khứ” hoặc "trong tương lai": phải là sự lan tỏa của Thiên Chúa, dự án của Thiên Chúa, trong đời sống hàng ngày của chúng ta... Hôm nay!
Và hôm nay, chẳng phải chúng ta cũng đã cố gắng kéo lui Tin Mừng trở về phía sau, vào hai mươi thế kỷ trước đây đó sao? Vậy còn những người nghèo hèn nào, những tù nhân và người bị áp bức nào hôm nay ở chung quanh chúng ta? Chúng ta sẽ mang đến cho họ Tin Mừng nào?
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người
Tôi chiêm ngưỡng "miệng" Đức Giêsu mà Luca là người duy nhất thường nói với chúng ta (Lc 4,22; 11,54; 22,71). Những "lời ân sủng" từ miệng Đức Giêsu mà ra. Như thế, sự rao giảng của Đức Giêsu đã bắt đầu với việc khẳng định rằng thời kỳ mà Thiên Chúa ban ơn "không mất tiền" và ban sự tha thứ đã đến và đó là hôm nay: ý nghĩa sít sao của từ "giải phóng" trả lại tự do, hay "giải thoát" ("aphésis" trong tiếng Hy Lạp) là thế. Đức Giêsu đến để mang lại một "sứ điệp của ân sủng", một sự ban ơn, một quà tặng vô giá mà không ai xứng đáng được. Chúng ta phải ghi nhận rằng toàn bộ thần học của thánh Phaolô về "ân sủng" trong thư gởi tín hữu Rôma đã được viết ra khi Luca soạn thảo Tin Mừng của Người. "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20).
Luca đã là một môn đệ và một người bạn đồng hành của Phaolô. Không giống như Máccô (6,1-6), trước tiên Luca ghi nhận rằng việc rao giảng của Đức Giêsu được đón nhận: “Mọi người đều tán thành và thán phục?". Những người dân ở Nagiarét không xấu xa hơn ở những nơi khác: Vậy thì, tại sao họ sắp sửa trở mặt?
Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?
Luca biết rất rõ đó là một biểu lộ sự ngu dốt của họ về nguồn gốc thật sự của Đức Giêsu như ngài vừa viết ra trên giấy trắng mực đen: "Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse" (Lc 3,23). Vậy thì, người ta hài lòng với "sứ điệp của Đức Giêsu, nhưng Người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Người: Đó là cớ vấp phạm rất thông thường của nhân loại! Dẫu sao, đó chỉ là "con ông Giuse". Giáo Hội cũng luôn gây ra cùng một cớ vấp phạm. Người ta sẵn sàng tiếp đón sứ điệp của Giáo Hội, nhưng người ta không chấp nhận sự yếu đuối của con người trong Giáo Hội.
Giáo Hội cơ cấu giống như phần lớn các hiệp hội, với tài chính của nó, với sự nặng nề trong việc điều hành, nhưng sơ cứng của sức nặng quá khứ trong huyết quản, những tội lỗi của cách thành viên, chứng nhận định thiếu sót của một số viên chức, sự sợ hãi canh tân, những mâu thuẫn giữa “nói" và "làm". Người ta không bao giờ nhận xét hết những khía cạnh "quá" con người của Giáo Hội. Như thế, những người dân ở Nagiarét bị kẹt cứng trong định kiến "con ông Giuse".
Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Đức Giêsu không tìm cách làm giảm nhẹ cuộc xung đột mà Người đoán trước: Chính Người đã tấn công. "Vậy ông hãy làm cho chúng tôi những phép lạ như ông đã làm ở những miền lân cận!". Người ta không ngừng đặt "cơn cám dỗ" lớn ấy dưới chân Đức Giêsu. Đó là cơn cám dỗ của satan (Lc 4,l-14). Người ta đòi hỏi Đức Giêsu những "dấu chỉ từ trời xuống" (Lc 11,16).
Một trong những cách chối bỏ Thiên Chúa là yêu cầu Chúa làm các phép lạ. Chúng ta tiếp tục có thái độ của người dân ở Nagiarét. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta muốn ép Người làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ. Khi Người chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Người muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi Người chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Người mong muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi một bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi của chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin Mừng (Lc 5,17-26).
“Vậy ông cũng hãy làm tại đây một phép lạ cho chúng tôi”. Chúng ta cũng thế, có lúc chúng ta tưởng rằng mình phục vụ Thiên Chúa theo cách đó. Vả lại, muốn xếp đặt Thiên Chúa "để phục vụ chúng ta" chính là chối bỏ Người. Tối hậu thư bi đát. Tối hậu thư buồn cười. Con người tìm đến trước mặt Chúa và yêu cầu Người "làm" điều mà mình mong mỏi, điều phục vụ cho mình? Thách thức Thiên Chúa? Giảm lược Thiên Chúa để Người chỉ còn là một "động cơ phụ gỡ rối cho chúng ta khi cái xe: không còn chạy được nữa. Oi! Lạy Chúa, con nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa ở Nagiarét! Xin Chúa giúp con trở lại với lòng con để bắt đầu phục vụ Chúa, thay vì đòi Chúa phục vụ con. Thay vì lúc nào cũng nói ‘nguyện ý con được thể hiện bởi Chúa, con phải nói trong chân lý rằng nguyện ý Cha được thể hiện bởi con’
Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình
Không, người ta chẳng chịu nghe cách ngôn sứ.
Làm ngôn sứ chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đằng khác! Nghĩa là làm “người phát ngôn" của Thiên Chúa. Giêrêmia trong bài đọc một của chủ nhật này nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe. Vì thế nhiều ngôn sứ đã phải chết: "Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi!” (Mt 23,37). Đấy là một chủ đề của Luca (6,23; 11,47-50; 13,33-34; Cv 7,52).
Còn chúng ta, trong thế giới mà đa số là vô tín và duy vật, nhưng chúng ta có phải là những ngôn sứ không? không phải trong những lúc đặc biệt mà trong đời thường mỗi ngày; nắm chắc "chính nghĩa của Thiên Chúa", nắm chắc lời "vì Chúa” (từ ngôn sứ trong tiếng Hy Lạp do chữ "pro-phèmi" có nghĩa là "tôi nói vì").
Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.
Luca, môn đệ của thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, là người duy nhất đưa ra sự so sánh này lấy ra từ Cựu ước để nhấn mạnh đến những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho những người không phải là dân Do Thái. Biến cố ở Nagiarét mang dáng dấp của một chủ đề thần học: ơn cứu độ không dành riêng cho một số người đặc quyền. Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại. Không có Đất Thánh, không có Dân được chọn. Chúng ta sẽ lạm dụng ngôn ngữ mạc khải nếu chúng ta sử dụng những cách diễn tả của Kinh Thánh một cách cố chấp như thể những miền đất khác bên ngoài Israel là phàm tục, như thể các dấn tộc khác bị loại trừ khỏi Giao ước Thiên Chúa không có biên giới! Thiên Chúa còn bao la, cao cả hơn những chân trời nhỏ bé của bản thân chúng ta! Người ta không thể giam hãm con ông Giuse trong cái "hố" ở Nagiarét của Người. Thiên Chúa cao cả hơn Giáo Hội hữu hình. Những người ngoài Kitô giáo không nằm bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa.
Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ co ông Naaman, người xứ Xyri thôi
Trong sự so sánh giữa Israel và các dân ngoại, mọi ưu điểm thuộc về dân ngoại. Khi nào có thể, Đức Giêsu đều thán phục đức tin của các dân ngoại, những người không phải là Do Thái, những người Samari dị giáo (Lc 9,23.47; 10,33; 17,16). Thật lạ lùng khi tôn giáo có thể làm sơ cứng lòng người. Từ hai ngàn năm rồi Israel đã chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng đức tin của họ bị sơ cứng. Đó là lời cảnh báo cho tất cả những ai tưởng rằng mình thân thiết với những việc của Thiên Chúa, tưởng rằng mình được hưởng, một nền giáo dục Kitô giáo tốt đẹp, và việc thường xuyên tham dự các bí tích bảo đảm. "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông" (Lc 7,34).
Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực
Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Người bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57). Chúng ta hẳn sẽ lầm khi vội vã tưởng rằng mình ở về phía những người lương thiện và được miễn trừ thái độ của những người đồng hương với Đức Giêsu. Rất nhiều lần, chúng ta cũng "lôi" Đức Giêsu ra khỏi những quyết định của chúng ta, nhà chúng ta, nghề nghiệp chúng ta. Ong không can dự gì ở nhà tôi! Hỡí ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo.
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi
Những từ khước của tôi không thể ngăn Con Thiên Chúa theo đuổi kế hoạch của Người với những người khác. Điều tệ hại là tôi không biết ngạc nhiên nhiều hơn! Giữa những trào lưu của lịch sử, những từ khước của con người, Đức Giêsu tiếp tục "con đường của Người”. Lạy Chúa, cám ơn Chúa!