Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi xin chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh lời nói: TN3-C1
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi xin chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh lời nói của tiên tri Isaia, mà thánh Luca đã nhắc lại qua đoạn Tin mừng hôm nay:
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được rằng: tư tưởng và đường nẻo của Chúa thật khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Chúa cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của chúng ta bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường đánh giá người khác qua những biểu hiện bên ngoài, dựa trên quyền lực và giàu sang. Đúng thế, người có tiền thì được yêu mến:
- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khác tầm. Có nghĩa là ngèo mà ở giữa phố chợ cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở trên rừng trên núi, đèo heo hút gió cũng vẫn có kẻ chịu khó tìm đến. Hay: Thấy người sang bắt quàng làm họ. Miệng nhà giàu có gang có thép. Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Còn người có quyền, thì được vị nể, trọng kính:
- Lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng.
Bởi đó, người đời thường mơ ước được giàu sang và quyền thế. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại đem Tin mừng đến cho những kẻ nghèo hèn. Trong bài giảng trên núi Ngài còn chúc phúc cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ và bị bách hại. Lần khác, Ngài cũng đã nguyện cầu:
- Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã dấu không cho những người thông thái biết những sự mầu nhiệm này, mà lại tỏ ra cho những kẻ bé mọn.
Chúa không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm như vậy. Một Đavít nhỏ yếu với vóc dáng của một cậu bé chăn chiên, thế mà Chúa đã cho thắng được Golíat, lên ngai vàng và trở thành một vị vua hùng mạnh, dẫn đưa dân Do Thái tời một thời đại hoàng kim. Một Maria khiêm tốn với thân phận của một nữ tì, thế mà Chúa đã chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế. Và khi Chúa đến, thì ai là những người đầu tiên được diễm phúc đón nhận tin mừng giáng sinh, nếu không phải là những mục đồng, những kẻ chăn chiên vất vả nghèo túng. Rồi những môn đệ được Chúa mời gọi để cộng tác với Ngài trong việc rao giảng Phúc âm là ai nếu không phải là những bác tuyền chài quê mùa và dốt nát.
Chính Chúa cũng vậy. Ngài không đến với binh đội hùng hậu, nhưng đến dưới vóc dáng của một hài nhi bé nhỏ, nghèo túng, không một mái nhà ẩn náu. Vậy tại sao Ngài lại dành Tin mừng và phúc lành cho những kẻ khó nghèo và dành yêu thương cho những người bất hạnh ?
Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng hôm nay tôi chỉ xin đưa ra một lý do rất đơn giản mà thôi. Sở dĩ Chúa hành động như vậy là vì người giàu sang và quyền thế thường hay cậy dựa vào sức riêng của mình, nên rất dễ sinh ra kiêu căng. Mà đã kiêu căng, thì chắc chắn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong Kinh thánh, Chúa đã phán:
- Ta chống lại kẻ kiêu căng.
Hay trong lời kinh ngợi khen, Mẹ Maria cũng đã nói:
- Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao nhưng người phận nhỏ.
Vì thế, thánh Gregorio đã nói:
- Kiêu căng là dấu chỉ rõ ràng nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Trái lại, người nghèo hèn và bất hạnh sẽ cảm thấy mình yếu đuối, thấp hèn và thiếu thốn, nên dễ đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận Tin mừng và được Chúa chúc phúc.
Muốn bỏ một vật gì vào túi, thì chiếc túi phải rỗng. Nếu túi đã đầy thì làm sao nhét vào cho được. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu còn chỗ cho Chúa nữa. Trong khi đó người nghèo hèn và bất hạnh luôn cảm thấy tâm hồn mình trống để cho tình thương của Chúa hoạt động.
Từ đó, chúng ta đi tới kết luận: người nào coi mình chỉ là một con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Đấng vô cùng. Trái lại, kẻ nào coi mình là vô cùng, thì trước mặt Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
Tác giả tập sách có tựa đề: “Cuộc Săn Đuổi Mặt Trời” kể lại cuộc mạo hiểm của những người: TN3-C2
Tác giả tập sách có tựa đề: “Cuộc Săn Đuổi Mặt Trời” kể lại cuộc mạo hiểm của những người lính Hoàng Gia Tây Ban Nha trong thế kỷ XIX đi chiếm thuộc địa bên Nam Mỹ, tại vùng đất mà ngày nay gọi là quốc gia Pe-ru.
Một người trong nhóm đem tặng cho viên tù trưởng trong bộ lạc da đỏ một quyển Kinh Thánh và nói: Đây là quyển sách Thánh, nơi Thiên Chúa nói với con người và ban cho con, những ai lắng nghe được lời Ngài, một sức mạnh phi thường vượt qua được mọi gian nan thử thách và được hạnh phúc trường sinh.
Đón nhận quyển sách,viên tù trưởng kia vui mừng vội mau tìm nơi vắng đưa sách lên tai để lắng nghe Thiên Chúa nói. Nhưng thật là vôi ích, ông cầm lên, đưa xuống đủ cách mà im lặng vẫn hoàn im lặng, không có tiếng Thiên Chúa nào phán cả. Bực mình, viên tù trưởng ném sách đi và lẩm bẩm: Ta bị gạt, ta đã bị gạt.
Có thể ta sẽ cười thái độ ngớ ngẩn của cả hai người, người cho cũng như kẻ nhận. Không chỉ cầm quyển sách Kinh Thánh trong tay là nghe được Lời Chúa. Người cho cũng như người nhận cần phải thực thi một vài điều kiện để giúp cho mình và kẻ khác được nghe Lời Chúa. Bài Phúc Âm của Chúa Nhật III Mùa thường niên được trích từ Phúc Âm thánh Luca, tác giả đã cẩn thận ghi lại như sau:
Kinh thánh là sách bán chạy nhất thế giới, vượt mọi kỷ lục từ xưa đến nay. Kinh thánh được ham mộ vì đó là một cuốn sách chứa đựng kho tàng Lời Chúa, chứa đựng đầy dẫy những bí quyết giúp con người sống ơn gọi làm người của mình, đứng đắn và hạnh phúc. Biết lắng nghe lời Chúa và để cho lời Chúa thấm nhập tấm lòng rồi đem ra thực hiện trong cuộc sống của mình là con người thành công trong nỗ lực sống ơn gọi làm người hạnh phúc. Cũng chính vì thế nên Mẹ Giáo Hội cống hiến Lời Chúa cho tín hữu qua các bài đọc phụng vụ mỗi ngày. Từ sau Công Đồng Vaticano II đến nay, các bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật được phân chia như sau: Hãy Ra Khơi
Chu kỳ A theo Phúc Âm thánh Matthêu.
Chu kỳ B theo Phúc Âm thánh Marcô.
Chu kỳ C theo Phúc Âm thánh Luca.
Còn Tin Mừng theo thánh Gioan thì đặc biệt dùng cho mùa Phục Sinh và mùa phụng vụ khác.
Trong số bốn thánh sử, thánh Luca là người có óc sử gia hơn cả. Trong những câu mở đầu đọan Tin Mừng hôm nay, thánh sử cho biết ngài đã sưu tầm, tra cứu kỹ lưỡng các loại tài liệu truyền miệng cũng như viết tay để viết ra sách Tin mừng.
Là người gốc Siry Antiôkia, thánh sử Luca không thuộc Do Thái giáo. Nghề bác sĩ y khoa khiến thánh sử đặc biệt chú ý đến các phép lạ chữa lành bệnh tật. Thánh sử đã từng là môn đệ của các Tông đồ, bạn đồng hành và cộng sự viên của thánh Phaolô. Vì là người ngoài Do Thái giáo theo Kitô giáo, thánh Luca chú ý viết Tin Mừng cho anh chị em không Do Thái giáo, nên hay cắt nghĩa các tập tục Do Thái để giúp họ hiểu dễ dàng hơn. Thánh sử không chủ ý viết lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu mà chỉ kể lại chứng tích lịch sử. Chứng tích lịch sử của Thánh sử Luca nhấn mạnh đến mấy mấu điểm thần học chính yếu sau đây:
Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho những người ngoài Do Thái thấy con đường ơn cứu độ. Ngài thuyết giáo lưu động nhưng là hiện thân tình yêu thương Thiên Chúa có đối với loài người, đặc biệt đối với những người tội lỗi, yếu đau, bé nhỏ, bị bỏ rơi, bị khinh miệt ngoài lề xã hội, không tiếng nói, không quyền lợi, bị áp bức, chèn ép, bóc lột và đối xử tàn tệ nhất. Vì thế, ở đâu có bước chân và sự hiện diện của Ngài là ở đó bừng lên ánh sáng cứu độ, niềm an vui và tình yêu thương hòa hợp.
Chúa Giêsu cống hiến ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, không trừ một ai và ngay trong thời điểm của hiện tại, ngày hôm nay trong lúc này và ở đây. Qua Ngài, Thiên Chúa đến thăm và cứu rỗi con người, thế nên mọi người cần phải biết tỉnh thức, chăm chú lắng nghe, nhìn xem và nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu, đón nhận Ngài và sống theo Ngài, vượt qua cái chết để đạt đến cuộc sống Phục Sinh vĩnh cửu mà Thiên Chúa muốn trao ban và dành để cho con người.
Nơi phần hai của bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa thường niên chúng ta thấy thánh sử Luca nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa trong cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu. Ngài chịu phép thanh tẩy của thánh Gioan Tiền Hô tại sông Giócđan và Thánh Thần Thiên Chúa đã hiện diện trên Chúa Giêsu trong những lúc bị cám dỗ. Thánh Thần Thiên Chúa đã hướng dẫn Chúa Giêsu và giờ đây trong bài giảng đầu tiên tại thành Nazareth, Chúa Giêsu cũng được tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Đây là ngày Chúa Giêsu tỏ mình ra cho những người đồng hương của Ngài khi Ngài nói: “Đoạn Sách Thánh hôm nay đã được ứng nghiệm”. Chúa Giêsu muốn nói rằng, ơn cứu độc được Thiên Chúa hứa ban ngày xưa, hôm nay hiện diện trong con người của Ngài. Sự hiện diện của ơn cứu rỗi đó không theo quan niệm và tiêu chuẩn của loài người, nhưng là theo chương trình của Thiên Chúa. Ơn cứu rỗi đó nằm trên một bình diện cao cả hơn, rộng lớn hơn và sâu xa hơn. Nó không chỉ hạn hẹp trong một số người hay một dân tộc, lại càng không phải là sự giải phóng về chính trị, kinh tế, văn hóa cấp thời trần thế. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đem lại cho con người được dành để cho tất cả mọi người tin và chấp nhận Tin Mừng của Ngài, không phân biệt giai cấp, màu da và chủng tộc.
Trong những tuần lễ đầu của mùa thường niên. Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào những sự kiện: TN3-C3
Trong những tuần lễ đầu của mùa thường niên. Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào những sự kiện khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật lại sứ vụ rao giảng của Đức Kitô tại hội đường Nazareth, chính Đức Kitô đã công bố cho mọi người biết “niềm vui cứu độ” đã khởi sự. Vì “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh em vừa nghe”.
Với lời khẳng định này, Đức Kitô chứng tỏ cho thấy Ngài chính là “niềm vui cứu độ”., mà chúng ta là những Kitô hữu đã thực sự tin và đón nhận niềm vui đó chưa ? Chúng ta đã làm gì cho niềm vui ấy được triển nở trong thế giới hôm nay?
1. Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ
Câu chuyện tư tế Esdras đã nỗ lực canh tân đời sống dân Chúa và củng cố giao ước cũ. Cũng như việc ông đứng đọc Luật Môsê trước mặt con cái Israel, trong bài đọc 1. Đó chỉ là hình ảnh báo trước việc Đức Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Chính Đức Kitô mới là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, Ngài đến để hoàn tất và kiện toàn Lề luật, bằng chính cuộc khổ nản và phục sinh, Ngài thiết lập giao ước mới, giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người.
Hôm nay tại hội đường, Đức Kitô đã khẳng định Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà tiên tri Isaia đã loan báo.
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo luật ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Đức Kitô đã tự giới thiệu mình là vị ngôn sứ phải đến loan báo “niềm vui cứu độ”. Sự hiện diện của Ngài đã khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của năm hồng ấn cứu độ.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần đã được ban xuống ngay trong lời của Đức Kitô, nhờ Thánh Thần mà Lời đã trở thành hiện thực. Người nghèo được ưu ái, kẻ tù đầy được giải phóng, người mù được xem thấy. Những điều này rõ ràng nói lên tình yêu thương của Chúa dành cho những kẻ biết đón nhận Đức Kitô bằng một lòng tin.
Đức Kitô đến tái lập trật tự và mặc cho thế giới này một khuôn mặt mới của công bình tình thương và an vui. Cho nên, việc tuyên xưng niềm tin nơi Đức Kitô là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu độ, là chúng ta đón nhận chính niềm vui cứu độ ngay giữa những gì là tang thương và bi đát.
2. Đón nhận niềm vui cứu độ
Trong Tông thư “Khởi đầu thiên niên kỷ mới”, Đức Gioan Phaolô II mở ra cho chúng ta một hướng đi tiến vào thiên niên kỷ mới. Đó là “Gặp gỡ Đức Kitô, chiêm ngắm Đức Kitô, bước theo Đức Kitô và làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô”.
Đức Kitô đã đem “niềm vui cứu độ” đến thế gian. Ngài biến những đau buồn thành niêm vui nội giới cho chúng ta… Một niềm vui trọn hảo không gì có thể làm lu mờ đi được. Niềm vui đó không chỉ ấp ủ trong lòng mà phải được tuôn trào ra bên ngoài bằng cuộc sống đan kết bởi những việc làm lành thánh.
Như Thánh Phaolô luôn miệng nhắn nhủ tín hữu Philipphê rằng “hãy vui lên”, mặc dù chính ông đang bị cầm tù và Giáo Hội đang rơi vào cảnh bị bách hại.
Để được niềm vui đích thực như Thánh Phaolô đã lãnh nhận nơi Đức Kitô. Chúng ta phải biết thay đổi cách sống bằng tình yêu thương, công bằng bác ái. Khi đó chúng ta mới thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô, chiêm ngắm Ngài và bước theo Ngài bằng chính những việc làm tốt đẹp của chúng ta. Bằng không, bóng tối của tội lỗi của ích kỷ sẽ bao phủ cõi lòng, cho dù bên ngoài chúng ta vẫn tỏ ra vui cười, nhưng bên trong sẽ không có được niềm vui bình an. Vì chỉ có Chúa mới là tình yêu và là “niềm vui cứu độ” cho chúng ta, “Đức Kitô là đường là sự thật và là sự sống”… Khi chúng ta có Chúa trong lòng rồi, chính niềm vui sẽ thúc đẩy và biến đổi chúng ta trở thành những chứng nhân cho tình yêu của Đức Kitô bằng việc đem Tin Mừng Cứu độ đến với những người anh em vẫn chưa biết Chúa. Đó chính là cách chúng ta trao ban “niềm vui cứu độ” là chính Đức Kitô…
3. Trao ban niềm vui cứu độ.
Vì chỉ có một Tin Mừng Cứu độ duy nhất cho mọi người mọi thời. Đó là Đức Kitô, trong Ngài Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn biểu lộ “niềm vui cứu độ” cho nhân loại. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà công cuộc cứu độ của Chúa vẫn đang sinh hoa trái trong Giáo Hội và qua Giáo Hội từ bây giờ cho đến muôn đời,.
Khi chúng ta lãnh nhận các bí tích là chúng ta lãnh nhận chính Đức Kitô trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đó là hệ quả của “niềm vui cứu độ” mà chính Đức Kitô đã đem đến để giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể.
Nhờ lời rao giảng và giáo huấn của Giáo hội, Đức Kitô tiếp tục thông truyền ánh sáng của Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm.
Một trong những mẫu gương mà chúng ta có thể noi theo chính là Mẹ Maria, khi vừa có trong lòng, Mẹ đã vội vã lên đường đem Chúa đến cho gia đình bà Isave. Chúng ta là những kitô hữu đã được lãnh nhận hồng ân Cứu độ trong ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng phải tiếp tục đem “niềm vui cứu độ” đến cho những anh chị em vẫn chưa biết Chúa, bằng việc rao giảng Tim Mừng và qua chính đời sống thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ước chi sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta chân nhận và xá tín rằng “Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ” duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi…Nhờ Ngài mà tâm hồn mọi người được hoan lạc va bình an, nếu biết mở lòng ra đón nhận thần lương nuôi hồn và mở đôi tay ra để trao ban niềm vui cứu độc cho những ai còn ngồi trong bóng đêm của tội lôi.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết mở lòng đón nhận “niềm vui cứu độ”, để rồi niềm vui đó không ngừng triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
Sau khi kể lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa: TN3-C4
Sau khi kể lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Galilê. Tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Nadarét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Nadarét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người đã am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Nadarét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đọi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vụi vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Luca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều Isaia đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn sách Thánh này.Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tật. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lội. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh tần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời theu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến “linh hồn”. Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện,m các trại phong, trai tế bần, trại dưỡng lãi…Ai đã khai hóa cho thế giới “Man di” của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma ? Chính là Giáo hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bộn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hứu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoạc xua đuổi hoặc giũ người khác lại cho Chúa Kitô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-ti hữu, chúng ta đi lễ đi nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không ? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không ? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không ? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình yêu.
Chúng ta thường gọi cuốn sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu là Phúc âm, là: TN3-C5
Chúng ta thường gọi cuốn sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu là Phúc âm, là Tin mừng. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều người không thích đọc Phúc âm, không muốn nghe Tin mừng. Sở dĩ như vậy vì họ thấy trong đó toàn là những bổn phận và những đòi buộc. Không nghe, không biết thì không phải làm theo. Nếu nói như vậy, thì người ta mới chỉ thấy được những chi tiết phụ thuộc, chứ chưa hiểu thấu cái cốt lõi.
Cốt lõi là một lời loan báo rất phấn khởi: Xin hãy nghe đây, Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên đã sai Con của Ngài đến dạy cho loài người con đường hạnh phúc. Biết được con đường dẫn tới hạnh phúc chẳng phải là một Tin mừng đó sao ? Dĩ nhiên những lời Chúa Giêsu dạy là những điều chúng ta phải làm theo, mà đã làm theo thì phải cố gắng, phải cực khổ, phải hy sinh…Nhưng làm theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc.
Một bà kia rất thường đọc sách Tin mừng và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích: Hôm qua tôi nhận được bức thư của một người tôi rất quí mến. Tôi đã đọc chăm chú và đọc đi đọc lại tới năm lần. Không phải vì tôi không hiểu vì những lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tô cũng rất thương người đó.
Chúng ta đừng coi những lời trong sách Tin mừng là những đòi hỏi của một người xa lạ đâu đâu. Nhưng hãy xem đó là những lời khuyên dạy chí tình của Đấng đã không quản ngại xuống thế, chịu cực chịu khổ để ở cùng chúng ta và cuối cùng đã chịu chết vì chúng ta. Ngài đã làm tất cả chỉ vì yêu thương chúng ta mà thôi. Và Ngài không muốn gì khác hơn là chúng ta được hạnh phúc
Trong ngày nhận chức, ông thủ tướng thường đọc một bài diễn văn để công bố cho dân chúng: TN3-C6
Trong ngày nhận chức, ông thủ tướng thường đọc một bài diễn văn để công bố cho dân chúng biết chương trình hoạt động của mình. Khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Tại hội đường Nagiarét, Ngài đã dùng một đoạn trích từ sách tiên tri Isaia đề phác họa cho sứ mạng của Ngài. Ngài loan báo rằng: Ngày của Chúa mà dân chúng bấy lâu nay hằng mong đợi thì nay đã đến. Đó là một ngày hồng ân cho mọi người, cách riêng cho những kẻ nghèo túng. Mẩu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.
Ông điền chủ kia có rất nhiều đất đai. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không đóng tô đúng hạn cho chủ được. Dù biết ông chủ rất tốt bụng, không đến nỗi làm khó dễ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu. Thế rồi một hôm, viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu,trong nhà có mấy người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không…Cách chung, nhà ai cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn. Ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô nữa. Khi mọi người đã tới đủ, viên quả lý bước ra và nói: Ông chủ biết là các ngươi rất nghèo, không còn khả năng đóng tô, nên ông bảo tôi báo cho các ngươi hay. Nói tới đây, viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: Tôi có một tin mừng muốn loan báo cho các ngươi. Mọi người xôn xao bàn tán: Tin mừng ư ? Tin mừng gì vậy ? Lúc đó viên quản lý mới nói lớn: Ông chủ tha hết nợ cho các ngươi. Từ nay các ngươi cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình. Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca.
Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nagiarét cũng là một Tin mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người. Người Pharisêu nghĩ rằng ngày của Chúa là một ngày phán xét, còn Chúa Giêsu thì loan báo ngày của Chúa là ngày xóa nợ, ngày hồng ân. Ngày ấy không phải là một ngày nhất định được ghi trong lịch, mà là mọi ngày. Thực vậy, ngày nào cũng là ngày của Chúa. Tin mừng về ngày của Chúa là ơn giải thoát không tùy thuộc vào công nghiệp của chúng ta mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất chúng ta phải làm, đó là hãy mở rộng cửa lòng cho Chúa ngự vào và mang ơn đến cho chúng ta..
Có một dân tộc kia chưa từng nghe nói đến cuốn Tin mừng. Một hôm có người lạ đến báo: TN3-C7
Có một dân tộc kia chưa từng nghe nói đến cuốn Tin mừng. Một hôm có người lạ đến báo cho họ rằng: Tôi mang cho các ngươi một tin mừng. Rủi thay, người ấy lâm bệnh và chết trước khi nói rõ cho họ biết tin mừng ấy là gì. Họ mới lục túi của người ấy và gặp một cuốn sách có tựa đề là “Tin mừng của Đức Kitô”. Họ đoán rằng đó chính là tin mừng mà người kia muốn báo cho họ biết. Thế là họ bắt đầu đọc cuốn sách ấy. Sách viết về một nhân vật giàu lòng nhân ái, làm nhiều việc lạ lùng để giúp những kẻ khốn khổ và dạy nhiều điều cao thượng. Đọc xong cuốn sách, một người nói: Tiếc thay người mang cuốn sách này đã chết. Hẳn anh ta là một môn đệ của Đức Kitô. Kẻ khác lại bảo: Chắc là ở nơi ông ấy sống cũng có nhiều môn đệ khác của Đức Kitô. Một người khác nũa góp ý: Chúng ta thử gửi người đến đấy xem các môn đệ của Đức Kitô sống lời Ngài gạy như thế nào. Mọi người đều tán thành, họ cử Francis đi. Anh là một chàng trai rất chín chắn. Anh đã tìm đến nơi, tiếp xúc với nhiều người, sau đó trở về. Khi vừa về tới nhà, thì những người đồng hương đã đặt những câu hỏi: Họ có yêu thương nhau không ? Họ có hòa thuận với nhau không ? Họ có đơn sơ và hạnh phúc không ? Tất cả những câu hỏi đều được tóm gọn trong một câu duy nhất, đó là những môn đệ của Đức Kitô có sống theo cuốn sách của Ngài hay không ? Và sau đây là bản báo cáo của anh Trên căn bản, tôi đã giập năm hạng môn đệ của Đức Kitô. Hạng thứ nhất chỉ mang danh Kitô thôi. Dù họ có rửa tội nhưng họ chẳng sống theo một lời dạy nào của Ngài cả. Hạng thứ hai là những người làm môn đệ Đức Kitô theo thói quen. Mặc dù họ tuân giữ những điều Đức Kitô dạy, nhưng những điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cách sống của họ cả. Đúng ra, họ sống theo những nguyên tắc không liên can gì tới lời dạy của Đức Kitô, một số còn ngược lại nữa. Hạng thứ ba gồm một số người rõ ràng là sùng mộ đức tin Kitô. Họ cố gắng làm những việc tốt, nhưng xem ra họ thiếu sức sống. Họ không thực sự có được những đức tính của Thầy mình. Hạng thứ thư có thể được gọi là những Kitô hữu thực hành. Dường như họ nắm được trọng tâm của Tin mừng. Họ biết quan tâm đến người khác và không xấu hổ vì người khác biết họ là Kitô hữu. Ở một vài nơi, tôi thấy họ bị bách hại hay bị chính đồng bào của họ đối xử lạnh nhạt. Hạng thứ năm không nhiều lắm. Đó là những người mà tôi không ngần ngại gọi họ là những Kitô hữu chính danh. Họ sống Tin mừng cách sâu sắc. Khi gặp họ, tôi tưởng là gặp chính Đức Kitô.
Ngày nay rao giảng Tin mừng cho thế giới là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là một đặc ân to lớn nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, cũng như Đức Kitô, chúng ta được Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin mừng là sống tốt đời sống Kitô hữu. Cuốn sách duy nhất giúp cho người khác hiểu được Tin mừng, chính là cuốn sách đời sống của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê, Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Làm: TN3-C8
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê, Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Làm sao Ngài quên được mảnh đất làng quê đã ấp ủ mình, nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn. Hơn nữa Ngài cũng không cắt đứt với tôn giáo của cha ông.
Ngài vẫn là một người Do Thái ngoan đạo, quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát, để thờ phượng Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha. Chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu đứng đọc Sách Thánh. rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người. Cử chỉ của Ngài thật trang trọng, đỉnh đạc, khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại. Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Ngài giảng. Đoạn sách Ngài đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia. Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình. Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Đức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này. Ngài thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình. Đây là một hướng đi mà Ngài phải theo đuổi, một chương trình hành động mà Ngài muốn hoàn thành.
Đức Giêsu là người đầy tràn Thánh Thần cách đặc biệt.
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Ngài. Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Ngài được sai đến với những kẻ bị giam cầm bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Ngài cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Ngài trả lại tự do cho cả người bị áp bức lẫn người gây áp bức bóc lột. Ngài mời gọi cả hai sống thanh thoát như Ngài, sống như con của Cha và anh em của nhau.
Ngài khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ. "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Đức Giêsu.
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do, nhưng ít người chịu tin vào Đức Kitô chỉ vì đời tôi đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ. Thậm chí có khi tôi lại là kẻ áp bức anh em, kẻ bịt mắt và giam hãm tha nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Đức Giêsu. Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi, để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Đại Năm Thánh 2000 đã kết thúc, nhưng kết thúc là để tôi bắt đầu sống quảng đại một thiên niên kỷ mới chan chứa hồng ân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha đã mời gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo nhân dịp Năm Thánh 2000. Bạn nghĩ mình có thể làm gì để những người chung quanh được vui tươi hơn, nhẹ nhàng hơn?
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều xung đột, chiến tranh. Bạn có thể kể ra những cuộc xung đột hay chiến tranh mà bạn biết? Đâu là lý do gây ra chúng? Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới, trong lòng mọi người.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau - để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình; khi cả thế giới lo chung một mối lo: bảo vệ trái đất, ngăn chận sida, tận diệt ma tuý; khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn; khi trẻ thơ và người già được chăm sóc; khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ; khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da; khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho con người sống hạnh phúc; khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau, sống trên cùng một hành tinh, dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin cho chúng con thấy Ngài nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố, nơi những hy sinh vô vị lợi, và cả nơi những thao thức của ai đó, muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
Có một câu truyện cổ tích kể về một tên cướp khét tiếng tại vùng Viễn Đông bị trọng thương: TN3-C9 chuyện
Có một câu truyện cổ tích kể về một tên cướp khét tiếng tại vùng Viễn Đông bị trọng thương và được chở đến một nhà thương của các nhà truyền giáo. Sau một vài tuần tịnh dưỡng và được săn sóc đầy đủ, tên cướp đã được phục hồi hoàn toàn. Tên cướp rất biết ơn các nhà truyền giáo và tự hứa là sẽ không bao giờ ăn cướp của bất cứ Kitô hữu nào. Lời hứa của tên cướp đã được đồn ra và hễ ai gặp tên cướp ấy đều thú rằng, "Tôi là Kitô hữu." Như thế, tên cướp đã gặp vấn đề và hắn thắc mắc làm sao biết được ai là Kitô hữu và ai không phải là Kitô hữu. Hắn đã trở lại nhà thương và hỏi các nhà truyền giáo. Các nhà truyền giáo đã nói với hắn rằng nếu ai là Kitô hữu thì tất nhiên phải biết Kinh Lạy Cha và 10 Giới Răn. Từ hôm đó, ai tự xưng với hắn là Kitô hữu thì đều phải đọc Kinh Lạy Cha và Thập Giới.
----------
Nếu mọi người đang hiện diện nơi đây được hỏi để chứng minh đức tin của mình bằng Kinh Lạy Cha và Thập Giới, tôi không biết có bao nhiêu người sẽ thi đậu, tuy nhiên tôi cho rằng đó không hẳn là bài thi của đức tin.
Bạn có thể đọc Kinh Lạy Cha, Thập Giới, và Kinh Tin Kính, và những bài Thánh Vịnh, thậm chí cả Tám Mối Phúc Thật. Tuy nhiên, tất cả những lời kinh này không đủ để trả lời cho câu hỏi, "Bạn có phải là Kitô hữu không?" Nói như vậy có nghĩa là "Bạn có biết khuôn đúc hóa chính mình theo cuộc sống của Chúa Kitô không? Bạn có cố gắng để sống đời Kitô hữu không? Bạn có trở nên một với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu hay bạn là người xa lạ đối với Thiên Chúa?
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca kể lại cho chúng ta về cuộc cấm phòng của Chúa Giêsu trong hoang địa và bị cám dỗ do ma quỉ, Ngài "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh" (Lc 4:14-15). Chúa Giêsu bắt đầu thu hút dân chúng đến với Ngài để nghe giảng dạy. Sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu được bắt đầu bằng một cách tốt đẹp. "Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét", Thánh Luca tiếp, "là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát" (Lc 4:16). Ngài đứng trước dân chúng và đọc một đoạn sách trong sách Isaiah: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4:18).
Tất cả những con mắt trong hội đường đều tập trung vào Chúa Giêsu, như Thánh Luca đã kể lại. Thêm một lần nữa, Chúa Giêsu lại gây thêm một ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. Sau đó Ngài bắt đầu nói với dân chúng, "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe." Nói một cách khác, "Đoạn văn vừa rồi trích từ trong sách Isia thật ra là nói về tôi. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, và tôi là người được xức dầu để rao giảng cho người nghèo khổ, mùa lòa, và trả tự do cho người bị áp bức. Đi xa hơn một chút nữa trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rằng "mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người" (Lc 4:19). Nhưng những người vừa mới khen Chúa Giêsu họ đã trở thành một đám côn đồ muốn giết chết Ngài.
Thánh Phaolô đã nhắn nhủ chúng ta rằng chúng ta phải có thái độ giống như của Chúa Kitô. Nói một cách khác, hiểu biết Chúa Kitô đem Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa đến và giải thoát cho nhân loại vẫn chưa đủ. Chúng ta còn phải biết đem Tin Mừng đó thấm nhập vào con người của mình và để cho nó sinh hoa kết quả. Qua đó, chúng ta biết cử xử làm sao với chính mình và với người khác giống như Chúa Kitô.
Thái độ này được diễn tả cách sống động qua một câu truyện nhỏ "Bàn Tay" của tác giả Sylvia Sunderlin.
Vào ngày mừng sinh nhật thứ 100 của người bố chồng, tôi quì bên bố và nắm lấy bàn tay nhợt nhạt và yếu ớt của ông. Bố chồng tôi nghiêng mình về phía tai tôi và nói nhẹ, "Con có một đôi bàn tay tuyệt vời." Những lời khen đó xem như là quá đáng. Tôi vẫn thường cảm thấy xấu hổ với bàn tay của tôi bởi vì nó xấu quá. Các khớp đốt ngón tay thì không còn xinh xắn, ngón tay cái thì bị cong sang một bên, còn ngón trỏ thì bị một cái lồi lên nữa. Nghe bố chồng tôi khen như vậy, tôi thật cảm động và chỉ còn biết thì thào, "Cám ơn bố!"
Những giây phút đó còn vang vọng trong tôi. Thỉnh thoảng, tôi nhìn bàn tay mình, và suy nghĩ rằng bố chồng mình thật hiền lành. Nhưng có lẽ ông đã nói sai... Tuy nhiên, dần dần, tôi bắt đầu quan sát bàn tay của tôi kỹ lưỡng hơn. Tôi bắt đầu khám phá ra những việc nó đang làm.
Nó đang cầm cây bút chì và kim chỉ, cái chổi và cái xẻng, cuốn sách và cây vợt tenis. Trộn bột pha bánh và đốt lên những ngọn nến sinh nhật. Các ngón tay ấn lên ấn xuống trên phím đàn dương cầm và bàn chữ, sử dụng cây cọ để vẽ và chiếc bàn ủi. Bàn tay này đã dùng để chải tóc cho con cái, gạt đi những dòng nước mắt, băng bó vết thương, và vỗ vễ những ai sầu khổ...
Rồi một ngày nọ, tôi nhìn bày tay của tôi và nhận ra chúng thật đẹp đẽ. Bố chồng tôi đã giúp cho tôi nhìn ra cái đẹp mà Thiên Chúa đã muốn tôi phải nhìn: các món quà quí giá từ Ngài, đã được ban cho tôi để phục vụ!
Thái độ của các bạn phải là thái độ của Chúa Kitô để người khác có thể nhìn thấy bàn tay của các bạn đẹp đẽ, là những bàn tay Kitô giáo, được ban tặng để phục vụ.
Thánh Luca dùng câu "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy" để giúp người đọc hiểu: TN3-C10
(c. 14) Thánh Luca dùng câu "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy" để giúp người đọc hiểu rằng đoạn tiên tri Isaiah trong câu 18 ám chỉ chính Đức Giêsu (Thần Khí Chúa ngự trên tôị..)
(c. 15) Hôị đường là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Luật thời đó chép rằng nơi nào có mười gia đình Do Thái trở lên thì phải có một hội đường. Nghi thức tôn giáo tại hội đường thường có ba phần:
ạ Dâng lời cầu nguyện.
b. Một vài giáo dân đứng lên đọc các đoạn Kinh Thánh. Có lẽ Đức Giêsu đã được chọn trước để đọc đoạn Kinh Thánh trong ngày đó.
c. Phần giảng dạy do một người thông thạo Kinh Thánh trình bày, và sau đó là bàn luận.
(c.18) Đức Giêsu dùng đoạn Isaia để nói vềcông cuộc cứu độ của Ngài. Đoạn trích dẫn này được viết theo lối hành văn thời đó:
ạ loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo b. kẻ giam cầm được tha c. người mù được sáng mắt
b'. trả tự do cho người bị áp bức á. công bố năm hồng ân của Chúa
Trong lối hành văn cổ này người đọc thấy câu a và á giống nhau, câu b và b' giống nhau. Nhờ đó câu c được làm nổi bật lên thành điểm chính trong năm câu.
(c.19) Cứ cách 50 năm, người Do Thái tổ chức 1 năm hồng ân. Trong năm này, các nô lệ được thả, và các món nợ được tha. Những người nghèo khổ đều trông chờ năm hồng ân này. Đức Giêsu đến, mang ý nghĩa mới cho năm hồng ân: tha thứ và cứu thoát con người khỏi xiềng xích của tội lỗi. Năm 2000 sắp tới được Giáo Hội chọn là năm hồng ân.
(c. 20) Đọc xong Đức Giêsu ngồi xuống. Người đọc có cảm tưởng là Ngài đã làm xong việc. Thực ra, lúc đó Đức Giêsu mới khởi sự bài giảng. Những người giảng dạy (thí dụ như các rabbi) thường ngồi xuống trước khi bắt đầu giảng.
Một Điểm Chính
Thiên Chúa luôn trung thành với dân Ngài. Ngài đã hứa sẽ cứu thoát, và mang ánh sáng hiểu biết đến để mở mắt cho chúng ta là những kẻ mù lòa. Lời hứa đó đã được Đức Giêsu thực hiện.
Suy Niệm
Đối với tôi, thế nào là tự do? Trong tôn giáo của tôi, tôi đang tự do, hay đang bị giam cầm như thế nào?
Thế nào là mù lòa? Tôi nhắm mắt vài phút và thử xem tôi có thể nhớ rõ các màu sắc quanh tôi, những khuôn mặt thân quen? Tôi xin Chúa Giêsu chữa những mù lòa của tâm hồn tôi, xin cho tôi được ánh sáng và hiểu biết mới.
Với lời mở đầu theo văn phong Hylạp, thánh sử Luca cho chúng ta biết một cách xúc tích về: TN3-C11
Với lời mở đầu theo văn phong Hylạp, thánh sử Luca cho chúng ta biết một cách xúc tích về cách thức biên soạn cũng như mục đích của sách Tin mừng. Theo đó, những gì thánh sử viết ra, ngài đã điều nghiên hết sức cẩn thận để gửi cho phần lớn là những dân ngoại mà đại diện là ông Thêôphilô nhằm khẳng định tính khả tín, tính chân thật của giáo huấn.
Sau khi chịu phép rửa và sau khi vào sa mạc 40 ngày để chịu cám dỗ, giờ đây Chúa Giêsu trở về Galilê để khai mở sứ vụ rao giảng. Ngài đến quê hương Nazarét, vào hội đường để giảng dạy. Tại đây, lời ngôn sứ Isaia loan báo về Người nay đã ứng nghiệm.
Chúng ta biết là trình tự phụng vụ nơi hội đường Dothái thường diễn ra theo thứ tự sau: trước hết là phần đọc Lời Chúa gồm hai phần: lề luật (ngũ thư) và Ngôn sứ. Sau phần đọc lề luật và giải thích lề luật, thì đến phần đọc và giải thích lời Ngôn sứ được giao cho những người Dothái trưởng thành, đặc biệt là những ai cai quản hội đường hay những người thông tuệ Thánh kinh. Ơ đây Chúa Giêsu phụ trách phần đọc và diễn giải lời Ngôn sứ như Luca đã trình bày. Tiếp đến là phần hát thánh vịnh và cầu nguyện kết thúc.
Người Dothái luôn xem lời các Ngôn sứ như là niềm hy vọng hướng dẫn cuộc sống của họ. Vì vậy, với lời ngôn sứ mà Chúa Giêsu đọc hôm nay, họ xem đây là lời loan báo về Đấng Mêsia- người sẽ được tràn đầy Thần Khí của Đức Chúa; người đem Tin mừng; giải phóng dân tộc Israel và khai mở thời đại nước Thiên Chúa.
Có thể nói lời Ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trước dân chúng Dothái trong hội đường như là kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời và sứ vụ rao giảng của Ngài. Chúa Giêsu lãnh nhận Thánh Thần để ra đi rao giảng Tin mừng. Khởi đầu sứ vụ rao giảng, chúng ta thấy việc ưu tiên của Chúa Giêsu không phải cho những người giàu sang, đạo đức mà chính là cho người nghèo, người bị giam cầm, bệnh hoạn và áp bức.
Thật vậy, Chúa Kitô chính là Đấng Mêsia được sai đến. Con người và sứ điệp của Người chính là Tin mừng cho người nghèo. Trong suốt cuộc đời rao giảng, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn đến với những con người hèn yếu nhất, tội lỗi nhất, sống và chia sẻ những khốn khó với họ nhằm cho họ biết rằng Thiên Chúa luôn yêu thương họ, Thiên Chúa luôn đồng hành với họ.
Thời đại của Người chính là thời đại của ân sủng, thời đại công bố năm hồng ân. Qua Người, Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc để giải thoát muôn người. Qua Người, tất cả những ai tin tưởng chạy đến với Người đều được chữa lành, được thứ tha và bình an.
Theo gương Thầy Chí Thánh, mỗi người chúng ta - qua bí tích Thánh tẩy- cũng được mời gọi ra đi để rao giảng Tin mừng, đến với muôn dân, đặc biệt cho những người khốn khổ nghèo hèn. Nếu ngày xưa, Thiên Chúa qua Đức Kitô để thông ban Tình yêu của Người cho nhân loại thì ngày hôm nay, thiết tưởng Chúa Kitô cũng dùng chính mỗi người chúng ta để đến với những người bệnh hoạn, tật nguyền, nghèo đói nhằm rao giảng tình yêu của Thiên Chúa. Ước mong lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta hăng say ra đi loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho thế giới này.
Mở đầu Phúc Am Thứ Ba, Luca Thánh sử nhập đề một cách hết sức chân thực, khẩn khoản về: TN3-C12
Mở đầu Phúc Am Thứ Ba, Luca Thánh sử nhập đề một cách hết sức chân thực, khẩn khoản về những điều ngài viết. Ngài viết cho Theophilus (“Bạn của Thiên Chúa”), với mục đích để củng cố đức tin, làm cho sự nhận thức về chân lý cùng những giáo huấn đã được học hỏi thêm chắc chắn, vững vàng.
Ngài là người gốc Hy Lạp, môn đệ của Thánh Phaolô, là một Y sĩ thời đó. Ngài viết Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp, nhắm đến những người dân ngoại. Chúng ta không lạ gì người Hy Lạp, với bản tính luôn tìm kiếm sự khôn ngoan, có lẽ do vậy mà Thánh sử Luca đã viết cuốn Phúc Am thứ ba hết sức lớp lang, rành mạch, và dài nhất trong 4 cuốn (đơn cử một thí dụ: Thánh Mathiô ghi lại 17 dụ ngôn, Thánh Luca ghi lại 22 dụ ngôn). Dài gần gấp đôi cuốn Phúc Am thứ hai của Thánh Macô (môn đệ của Thánh Phêrô).
Khi so sánh những Kitô hữu ở thế kỷ đầu tiên và những Kitô hữu được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy từ lúc mới sinh, ta thấy giống nhau ở chỗ: cả hai đều lãnh nhận đức tin. Rồi muốn được hiểu biết, kiên vững trong đức tin họ phải học hỏi về Tin Mừng, nói cách khác Tin Mừng (là chân lý duy nhất) sẽ củng cố đức tin cho họ, làm cho họ tin tưởng vững vàng vào giáo lý và giáo huấn của đức tin họ có. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy được một điều: những Kitô hữu đầu tiên không cần phải có Thánh Kinh, ngược lại Thánh Kinh luôn luôn cần phải có Giáo Hội để giải thích. Và đây là một quy luật.
Có nhiều người cho rằng tự mình có thể đọc, hiểu được Thánh Kinh. Điều này chỉ đúng một nửa. Đúng là có thể đọc được, nhưng sẽ hiểu sai đi, không đúng ý Thánh Kinh muốn nói. Vì ai cũng cho rằng tự mình hiểu được Thánh Kinh, nên không có gì ngạc nhiên: khi hiện nay trong World Christian Encyclopedia, đã có trên 20.000 tên gọi các hệ phái (denomination) khác nhau. Chúng ta cùng đọc một đoạn trong Sách Tông Đồ Công vụ do Thánh sử Luca viết (8,27-39) khi Philiphê nhìn thấy một ông quan lớn trong triều của bà Candakê (ông này làm tổng quản kho bạc của bà), đang đọc sách ngôn sứ Isaia, thì hỏi: “Ngài có hiểu điều ngài đọc không?” Ông quan đáp:”Mà làm sao tôi hiểu được nếu không có người dẫn giải?”, ông mời Philiphê lên ngồi bên cạnh và Philiphê giải thích đoạn Thánh Kinh này…
Trong phần thứ hai của Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đọc và giải thích đoạn Kinh Thánh trong sách ngôn sứ Isaia. Điều này cho thấy rằng những tông đồ của Chúa sau này -dĩ nhiên là họ phải ở trong Giáo Hội của Ngài- mới có thể giải thích đúng đắn ý nghĩa của Thánh Kinh. Nói cách khác chỉ có những người được đào tạo, hay qua trường lớp của Giáo Hội Công Giáo La Mã, mới giải thích đúng cách nghĩ của Kinh Thánh. Thiết nghĩ đây là ý định của Thiên Chúa ràng buộc “Dân Thiên Chúa” với Giáo Hội của Ngài.Thánh Phaolô trong thư thứ 2 gởi cho TimôThê (1:11) Ngài viết “Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng đó, làm tông đồ và thầy dạy”. G.K Chesterton đã viết một câu nói lên chân lý hiển nhiên: “Một người giảng dạy mà không dựa trên giáo điều (dogmatic), đó là người giảng dạy mà chính họ không được giảng dạy”.
Là người Kitô hữu, muốn đức tin được kiên vững, trước hết chúng ta phải siêng năng học hỏi giáo lý Công Giáo, Kinh Thánh là cốt lõi, nền tảng của kho tàng đức tin, và chính Chúa Kitô là Tin Mừng, là chóp đỉnh của Mạc khải ơn cứu độ. Có hai cách để học hỏi: một là tham gia vào các lớp giáo lý, Kinh Thánh; hai, tập chú vào các bài chia sẻ trong Thánh lễ. Riêng sách báo Công Giáo cũng là nguồn bổ sung quý giá. Như thế chúng ta mới có thể khám phá, nắm bắt được ý tưởng của Kinh Thánh, cùng các giáo huấn của Giáo Hội, mà không sợ bị sai lạc, ngộ nhận. Từ đó đức tin chúng ta mới có thể tăng trưởng như Hội Thánh mong muốn.
Tóm lại, Giáo hội là “bậc thầy” duy nhất để giảng dạy, giải thích Kinh Thánh. Còn chúng ta dù thông thái cách mấy cũng không thể tự mình hiểu được đâu -có chăng chỉ một phần rất nhỏ-. Mẹ Giáo Hội luôn giảng dạy, với mục đích trang bị cho con cái mình một kiến thức tối thiểu về tín lý, để ít ra họ cũng có thể sống và giữ đạo một cách đàng hoàng, vì đức tin của người Công giáo không phải là một đức tin mù quáng, mang tính mê tín, dị đoan, ngược lại người tín hữu có thể vận dụng kiến thức của mình, giải thích được những những điều mình tin. Muốn yêu ai, phải hiểu biết nhiều về người đó trước đã, đối với Thiên Chúa cũng vậy. Và có một thực tế không ai chối cãi được, như hiền triết Pascal viết:” Từ chỗ hiểu biết về Thiên Chúa, đến chỗ yêu mến Thiên Chúa là một khoảng cách rất xa”. Uớc gì mỗi tín hữu đều nhận thức được điều này, cố gắng thăng tiến, hầu đức tin được củng cố, mang lợi ích thiết thực cho cá nhân và đại gia đình Giáo Hội.
- Lời Chúa: “Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó”. - Câu chuyện: Người nghèo bị xua đuổi:
Chuyện xảy ra trong một đêm trình diễn Thánh ca Giáng Sinh: Một thanh niên hóa trang thành: TN3-C13
Chuyện xảy ra trong một đêm trình diễn Thánh ca Giáng Sinh: Một thanh niên hóa trang thành một mục đồng nghèo khó, trong phần các mục đồng đến viếng hài Nhi Cứu Thế. Nhưng anh chàng thanh niên này lại không thể đến gần sân khấu được, vì bị những người giữ trật tự xua đuổi, vì họ tưởng lầm anh là gã hành khất đến xin tiền và làm mất trật tự cho buổi trình diễn.
- Suy niệm:
+ Về hóa trang, ban tổ chức đã thành công khi làm cho chàng thanh niên đóng vai mục đồng nghèo khó đã hóa thân thành một người hành khất có dáng vẻ nghèo thực sự.
+ Nhưng về mặt tinh thần, thì vô tình những người giữ trật tự đã có thái độ ngược lại với tinh thần của Đức Giêsu là ưu tiên ban ơn cứu độ cho người nghèo. Điều đó chứng minh rằng: Tin Mừng chưa thực sự thấm nhập vào cách suy nghĩ, nói năng và hành động của những người trình diễn Tin Mừng !
- Thảo luận: Ngày hôm nay người nghèo được Giáo Hội ưu tiên loan báo Tin Mừng là những ai ? Phải loan Tin Mừng cho họ bằng cách nào ?
2) Chủ đề: Lắng nghe Lời Chúa:
- Lời Chúa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”:
- Câu chuyện: Chúa nói với chúng ta bằng cách nào ?
Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là “Hoàng Gia đi săn mặt trời” kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pêru vào thế kỷ 16. Trong đó có một màn kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha tặng cho một viên tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng: “Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này”. Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai để nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào từ cuốn sách phát ra. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban nha có mặt liền cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn phía trước mặt !
- Suy niệm:
Thánh Kinh thực sự là sách ghi Lời Chúa phán dạy. Nhưng chúng ta chỉ có thể nghe được Lời của Chúa nói bằng mấy cách như sau:
+ Nghe bằng tâm trí: Cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, làm cho Lời Chúa sống động y như ta đang nghe được chính Chúa Giêsu nói. Thánh Inhaxiô thường nhắm mắt, tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do thái để nghe Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng. Như thế, nghe bằng tâm trí không những đòi phải hiểu Lời Chúa dạy, mà còn phải làm cho Lời Chúa trở thành sống động như nghe từ chính miệng Chúa phán ra.
+ Nghe bằng trái tim: Nghĩa là ghi nhớ Lời Chúa và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mỗi người. Phanxicô Xaviê đã nghe thầy mình là Inhaxiô nhắc nhở câu Lời Chúa: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ?” (Mt 16,26; Lc 9,25). Cuối cùng Phaxicô đã từ bỏ mọi công danh sự nghiệp đầy hứa hẹn để chọn bậc tu sĩ và hy sinh cả cuộc đời để “làm sáng danh Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”.
+ Nghe bằng linh hồn: Sau cùng cần đáp lại Thánh ý Chúa bằng lời cầu nguyện “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?”, và quyết tâm thực hành những điều Người truyền dạy.
- Thảo luận:
Một ông chủ nhà kia muốn cho vợ con học sống Lời Chúa nên đã làm như sau: Ông ta mua một tấm bảng và để trong phòng ăn, Mỗi tuần ông chọn và viết lên bảng một câu Lời Chúa chủ đề và một vài việc làm cụ thể để sống Lời Chúa.. . Trước mỗi bữa ăn và trong giờ kinh tối gia đình, các thành viên sẽ cầu nguyện tự phát dựa theo câu Lời Chúa chủ đề và những việc đề nghị làm. Vậy bạn nhận xét thế nào về cách làm của ông gia trưởng trên ? Bạn quyết định làm gì để gia đình bạn trở thành một Gia Đình Học Sống Lời Chúa ?
Nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra Thánh Thần Chúa vẫn đang ngự trị giữa lòng thế giới và trong lòng mọi người. Thế giới hôm nay tuy còn nhiều tội lỗi, nhưng vẫn chan hòa ánh sáng tin yêu nơi các gia đình tín hữu, trong các xóm đạo, nơi các cộng đoàn quyết tâm học sống Lời Chúa. Ngày nay người ta đã biết ngồi lại với nhau để giải quyết các tranh chấp và tìm kiếm hòa bình, thay vì tiếp tục làm theo luật rừng “mạnh được yếu thua”; cùng nhau giải quyết các mối lo chung: Bảo vệ trái đất trước những nguy cơ hủy diệt như hiện tượng hiệu ứng nhà kính; Loại bỏ những chất thải hạt nhân hay khí đốt công nghiệp phá hủy tầng Ô-dôn; Ngăn chặn các dịch bệnh…Các tổ chức quốc tế hợp tác chống kỳ thị chủng tộc, mầu da, tôn giáo, phái tính; Các cơ quan ban ngành đoàn thể hợp tác chống tham nhũng, buôn lậu, cướp giựt, buôn bán Hê-rô-in, cờ bạc, đĩ điếm…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng được đầy Thánh Thần để sẵng sàng đi bước trước: nở nụ cười thân thiện với tha nhân, hy sinh vô vụ lợi để dấn thân phục vụ dân nghèo ở những vùng sâu vùng xa … Xin cho các tín hữu chúng con biết hợp tác xây dựng một Trời Mới Đất Mới, bắt đầu từ bản thân, gia đình, khu xóm và xã hội … Xin cho khắp nơi không còn đau khổ, nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương và sự phục vụ tha nhân.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Lời Chúa Giêsu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” phải được các tín hữu chúng con thực hiện. Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng và tự do, nhưng nhiều người lại tiếp tục làm những việc gây ra biết bao đau khổ cho người khác như: đàn áp và bóc lột những người thấp cổ bé miệng, những người thân cô thế cô, gian dối lừa đảo, sống ích kỷ hại nhân và coi thường luật pháp …
Xin Mẹ giúp chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa, để chúng con cộng tác với Ơn Thánh Thần, biết ngồi lại với nhau để cùng học hỏi Lời Chúa, tìm ý Chúa và mau mắn xin vâng như Mẹ xưa. Xin cho chúng con thực thi bác ái đời thường: “làm những việc bình thường bằng một cách thức phi thường”. Nhờ đó Nước Chúa mau trị đến.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Với việc Nhập Thể của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đến viếng thăm dân Người. Người đã đến: TN3-C14
Với việc Nhập Thể của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đến viếng thăm dân Người. Người đã đến và đồng hành với dân Người trong từng biến cố vui buồn của cuộc sống thường ngày; đồng thời, Ngài còn đem lại cho họ niềm hy vọng và niềm vui thật sự khi hóa nước thành rượu trong tiệc cưới tại Cana, như chúng ta vừa cùng nhau suy niệm trong Chúa Nhật vừa qua.
Không chỉ đem lại niềm vui cho dân riêng của Người, khi đến trong thế gian, Đức Giêsu cũng đã dùng lời của Người để qui tụ muôn dân và cho tất cả cùng được hưởng nếm niềm vui ơn cứu độ. Tin mừng vĩ đại này đã được Đức Giêsu chính thức công bố khi Ngài tham dự buổi phụng vụ tại Hội đường Do thái và được thánh Phaolô mời gọi chúng ta kéo dài qua cuộc sống hiệp nhất yêu thương dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Để thấy rõ hơn điều này, chúng ta cùng đọc lại phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.
1. Từ phụng vụ:
Bài đọc một mô tả lại một buổi phụng vụ của dân Chúa sau khi từ nơi lưu đày trở về. Ngay từ những ngày đầu của buổi hồi hương, cùng với việc lo lắng tái thiết lại Đền Thờ, điều quan trọng mà dân Chúa vẫn thường xuyên thực hiện là tụ họp lại với nhau để lắng nghe lời Chúa, Nêhêmia, vị tổng đốc của Giêrusalem lúc bấy giờ thuật lại: “Ngày ấy, thầy Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật… Từ sáng đến giữa trưa, Thầy đứng ở công trường… đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bàn và những người hiểu luật”. Trong buổi phụng vụ này, chúng ta thấy toàn dân đã tụ họp lại, trăm người như một đủ mọi thành phần: già trẻ, trai gái… Tất cả đều tập trung hướng về thầy tư tế Esdras đang rước sách Luật, lời của Thiên Chúa ra và quan trọng hơn nữa: “Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật”. Sau lời chúc tụng Thiên Chúa của Thầy Esdras, toàn dân đã sốt sắng đáp lời “Amen, amen”. Lòng sùng mộ lời Chúa của dân chưa dừng ở đó, tổng đốc Nêhêmia thuật tiếp: “Khi thầy Esdras mở sách, thì tất cả đều đứng lên”, và sau lời chúc tụng, họ “cúi mình phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất”. Kế đó, Esdras và các tư tế đọc cho họ nghe sách Luật và giải thích ý nghĩa cho dân. Nhờ đó, “người ta hiểu được điều đã đọc”.
Càng nghe đọc lời Chúa, dân càng xúc động và thấm thía trước tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho dân tộc, cho từng người trong họ. Đồng thời, họ cũng không khỏi xót xa, ngậm ngùi trước những bội phản bất trung của cha ông và của từng người trong họ đối với tình yêu của Thiên Chúa. Từng giọt nước mắt thống hối, đau buồn đã chảy ra. Thế nhưng ngay lúc đó, tổng trấn Nêhêmia, thầy tư tế Esdras và các tư tế đã lên tiếng an ủi họ: “Hôm nay được thánh hóa dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị đừng mang tang, đừng than khóc… Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gởi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn lũy của anh chị em!”.
Như thế, lời Chúa quả thật đã soi dọi và đem lại cho dân một niềm vui khôn tả. Lời đó cho họ thấy tình yêu bao la và tấm lòng nhân hậu hay tha thứ của Thiên Chúa. Bước sang bài Tin mừng, chúng ta thấy: cũng chính trong khung cảnh phụng vụ tại Hội đường của người Do thái, Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa, một lần nữa công bố tin vui cho dân: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm”. Đấng mà vị ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa giờ đây đã đến, đó chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, như chính lời khẳng định của Đức Giêsu: “Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Chính nơi Đức Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản, thất vọng tìm lại được niềm vui và hy vọng.
Tóm lại, chính trong phụng vụ, dân Chúa đã nghe được tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa. Không chỉ là một tiếng nói, trong phụng vụ, chúng ta còn gặp được chính Ngôi Lời của Thiên Chúa, Lời đem lại niềm vui, có sức mạnh giải thoát, và chữa lành. Thế nhưng, nếu chỉ dừng lại ở phụng vụ, ở Hội đường Do thái năm xưa, hay Nhà thờ hôm nay thì chưa đủ, Tin mừng chưa được trọn vẹn, bởi vì Đức Giêsu đến thế gian là để được “sai đi rao giảng Tin mừng”. Do đó, lời Chúa cần được đọc lên và được sống ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta nữa, và đó mới là điều quan trọng.
2. … đến cuộc sống:
Kết thúc mỗi thánh lễ, chúng ta đều nghe lời chào: “Chúc anh chị em ra về bình an”. Và bình an mà chúng ta được mời gọi đến để lãnh nhận không phải là thứ bình an dựa trên những bảo đảm của vật chất, của tiền tài danh vọng, nhưng là dựa trên tình yêu của Thiên Chúa. Đó là sự bình an được trả giá bằng hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá. Do đó, đến lượt chúng ta muốn nhận lãnh được bình an đó, từng người chúng ta cũng phải đi con đường Đức Giêsu đã đi. Đó là con đường của vâng phục và hi sinh, để qui tụ muôn dân về một mối (x. Ga 11, 50-52).
Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi chúng ta sống hiệp nhất như các chi thể trong một thân thể: “Như thân xác là một, mà có nhiều bộ phận, và tất cả các bộ phận tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy”. Thánh nhân còn nhắc bảo chúng ta: “Vì chưng, trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do thái hay Hy lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần”. Trong thân thể tuy nhiều bộ phận, nhưng không thể nói cái nào quan trọng hơn cái nào. Một bộ phận đau thì toàn thân cũng đau. Và “con mắt không thể nói với bàn tay: “Ta không cần mi” đầu cũng không thể nói với chân: “Ta không cần ngươi”.Vì nếu một người chỉ có đầu hay chỉ có mắt mà thôi thì đó không phải là một người bình thường, đó là một quái thai, và dĩ nhiên là cũng không thể sống được.
Tóm lại, lời Chúa hôm nay công bố cho chúng ta một tin vui. Tin vui này dân Do thái đã nhận ra nhờ việc nghe đọc Lời Chúa trong phụng vụ. Ước gì trong Năm Mới này, noi gương người Do thái khi xưa, chúng ta cũng siêng năng học hỏi Lời Chúa bằng cách chú tâm hơn trong việc lắng nghe lời Chúa trong Thánh Lễ, nhất là thánh lễ Chúa Nhật, và trong giờ kinh tối gia đình. Và nhờ sức mạnh của Lời Chúa, gia đình chúng ta sẽ trở nên một cộng đoàn sống hiệp nhất yêu thương. Nếu mỗi người trong cộng đoàn chúng ta sống hiệp nhất yêu thương, mỗi người đều biết tôn trọng người khác, luôn biết “sống cho, sống vì và sống với” người khác. Lúc đó, từng gia đình và cả giáo xứ chúng ta sẽ thực sự là một cộng đoàn hiệp nhất trong bình an và niềm vui. Nhờ đó, chúng ta có đủ sức mạnh để dẫn đưa mọi người về với Chúa. Amen.
Phụng vụ của Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, với lời phán ra từ trời: “Con là con yêu dấu của: TN3-C15
Phụng vụ của Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, với lời phán ra từ trời: “Con là con yêu dấu của Cha. Hôm nay Cha đã sinh ra con” đã xác định Đức Giêsu là Đấng Mêsia của Thiên Chúa và là Đấng mà dân chúng đang trông đợi. Nhưng chân lý ấy cần được chính Đức Giêsu xác nhận. Và Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy một cách công khai khi Người áp dụng lời của ngôn sứ Isaia về sứ mạng của Đấng Mêsia vào trường hợp của Người. Đó là nội dung bài Phúc âm Chúa nhật 03 Thường niên hôm nay.
SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
1. Sứ mạng ngôn sứ Chúa Giêsu Kitô:
(a) Để hiểu về nội dung của sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu thì không có bản văn Phúc âm nào rõ ràng và chi tiết hơn đoạn Lc 4,14-21. Theo Thánh Kinh, ngôn sứ là người nói Lời Thiên Chúa, nói thay Thiên Chúa. Từ “nói” ở đây không chỉ được hiểu là “nói bằng miệng” mà nhiều khi còn được hiểu là “hành động” là “việc làm” nữa. Để đầy đủ và rõ ràng thì chúng ta phải nói: ngôn sứ là người nói và hành động cho Thiên Chúa, thay Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã làm như thế.
(b) Nhìn vào nội dung đoạn văn của Isaia đã được Đức Giêsu đọc cho mọi người trong hội đường Nadarét nghe, chúng ta thấy các điều sau đây:
(1o) Đức Giêsu là Vị Ngôn Sứ được Thần Khí ngự đến, sức dầu tấn phong và sai đi. Người đã ra đi và đã hiến mạng sống mình cho sứ mạng ngôn sứ của Người.
(2o) Công việc hay sứ vụ của Vị Ngôn Sứ Giêsu là:
* loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, * công bố cho kẻ bị giam cần biết họ được tha, * cho người mù biết họ được sáng mắt, * trả tự do cho người bị áp bức, * công bố một năm hồng ân của Chúa.
c) Trong Phúc âm chúng ta dễ dàng tìm thấy đủ sự việc chứng minh Đức Giêsu đã thực hiện tất cả những việc nêu trên. Quả vậy, nhờ Đức Giêsu, Tin Mừng Cứu độ đã được loan báo cho mọi hạng người, nhất là người nghèo hèn, bị khinh khi, loại trừ và tội lỗi. Cũng nhờ Người, nhiều người bị giam cầm trong tối tăm, ngục tù, mặc cảm đã được thứ tha, cứu vớt; nhiều người mù về thể lý và tinh thần hay tâm linh được khai sáng; nhiều người bị áp bức được tự do: ví dụ mục đồng và ba nhà chiêm tinh Phương Đông được cung bái Chúa Hài Nhi, Nicôđêmô được khai sáng, Dakêu được cứu độ, người phụ nữ Samari được đối xử bình đẳng, Maria Madalêna được bênh vực, người phụ nữ ngoại tình được bảo vệ, người thu thuế được đề cao, người ngoại đạo được tôn trọng v.v… Và Đức Giêsu đã chết để sứ mạng Cha giao được hoàn thành.
2. Chúng ta tham gia vào sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Kitô:
(a) Giáo lý Công giáo dậy rằng khi nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu được Chúa Giêsu rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa. Nhờ đó họ tham dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của chính Đức Giêsu. Còn nói theo Thánh Phaolô thì khi chúng ta chịu phép rửa là chúng ta trở thành chi thể, bộ phận của Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô là Hội Thánh. Thân thể có sứ mạng nào thì chi thể cũng có sứ mạng ấy.
(b) Trong ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô mà Kitô hữu được vinh dự tham gia, thì việc thực thi sứ mạng ngôn sứ là khó khăn nhất vì 2 lý do chính: (*) Lý do thứ nhất là người ấy không được nói hay rao giảng lời của riêng mình mà phải nói hay rao giảng Lời của Thiên Chúa. Muốn thế người ấy phải biết Lời Chúa tức phải sống gần gũi, mật thiết với Thiên Chúa và thường xuyên suy niệm Lời Thiên Chúa. (*) Lý do thứ hai là người ấy phải có lòng dũng cảm và sức mạnh mới chống lại được sự đe dọa của bạo quyền và chấp nhận hy sinh, thiệt thòi, thậm chí phải mất cả mạng sống vì sứ mạng ngôn sứ. Tổng kết của thế giới năm nào cũng cho thấy số các nhà báo bị giết hại là một con số không ai có thể ngờ được. Đó là những người dám nói lên sự thật nhằm bênh vực công lý, đòi hỏi nhân quyền, tố cáo bất công, bạo lực, cường quyền và tội ác của các thế lực của Satan và bè lũ.
3. Quyết tâm tham gia vào việc thi hành sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu trong môi trường: Trong tuần, tôi sẽ thực hiện một trong hai hoặc cả hai việc sau đây: (1o) Loan báo Tin Mừng cho người nghèo bằng cách nói hay làm cho họ biết họ được Thiên Chúa yêu thương cứu độ, (2o) Giúp những người đang sống trong tối tăm, u mê, mặc cảm, tội lỗi thoát khỏi cảnh tù tội ấy.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Thiên Chúa toàn trí, toàn năng, chúng con cảm tạ Cha về việc Cha đã ban cho chúng con một Vị Ngôn Sứ Tuyệt Vời là Đức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Cha. Người đã thực thi sứ mạng ngôn sứ một cách hoàn hảo khiến bao người được hạnh phúc, tự do và giải thoát. Xin cho chúng con biết lắng nghe Lời Người và làm theo gương Người.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là vị Ngôn Sứ Hảo Hạng của Cha, Chúa đã không quản ngại hy sinh, mất mát để cho toàn sứ mạng Cha giao phó. Xin Chúa ban cho chúng con ơn biết yêu mến và noi gương Người, để chúng con biết làm chứng cho Tin Mừng bằng lời nói, việc làm và cách sống trong cảnh đời đầy ích kỷ, bất công và bạo lực này.
Lạy Chúa Thánh Thần là sức mạnh toàn năng của Thiên Chúa, xin Người ngự đến trong tâm hồn chúng con, đổ tràn sức mạnh thần linh cho chúng con, để chúng con đủ sức đương đầu với Kẻ Thù và thế lực bạo tàn của nó. Amen.
Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ là gì? Có phải sứ mạng đó chỉ liên quan đến tâm linh và: TN3-C16
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ là gì? Có phải sứ mạng đó chỉ liên quan đến tâm linh và tôn giáo, không liên quan gì đến cuộc sống đời thường của con người?
2. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ có bao trùm những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không? Có thể tránh được sự bao trùm ấy không? Tại sao?
3. Người Kitô hữu có bổn phận phải tranh đấu cho quyền sống và quyền sống cho ra con người không? Tránh né việc tranh đấu ấy có phải là thái độ đúng đắn không?
Suy tư gợi ý:
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc sách của Isaia nói về sứ mạng ngôn sứ của ông. Đức Giêsu cũng áp dụng sứ mạng ấy cho chính Ngài qua câu: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe». Đức Giêsu hay các ngôn sứ được «Thiên Chúa xức dầu tấn phong» và được Thần Khí Chúa ở cùng, để làm gì? Chắc chắn không phải chỉ để tế lễ hay đọc kinh cầu nguyện, cũng không phải chỉ để lo những chuyện thuần túy tôn giáo như «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn», mà còn để làm cả những công việc xã hội, việc ngoài đời, như «cho người mù được sáng mắt», cho «kẻ bị giam cầm được tha», «trả lại tự do cho người bị áp bức». Sách Châm ngôn cũng nói lên một trong những công việc quan trọng mang tính xã hội của người ngôn sứ: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9).
Thật vậy, cuộc đời của Đức Giêsu và của các tông đồ đầy dẫy những công việc như: chữa lành đủ mọi chứng bệnh, trừ khử đủ mọi thứ quỉ, hóa bánh ra nhiều để lo cho người đói… Sách Công Vụ Tông đồ nói về Đức Giêsu: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38). Việc thi ân giáng phúc của Ngài không phân biệt lãnh vực nào là đạo, lãnh vực nào là đời. Gioan Tẩy Giả - cũng là một ngôn sứ - ngoài việc dọn đường cho Đức Giêsu, rao giảng sự hối cải, ông còn làm những công việc mang tính xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua Hêrốt không được lấy vợ của anh ruột mình, bất chấp việc cảnh cáo ấy có thể dẫn ông vào tù hay mất mạng (x. Mt 14,3-12). Các ngôn sứ thời trước, ngoài những công việc mang tính tâm linh và tôn giáo, cũng đã từng dấn thân vào những việc xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua cũng như toàn dân chúng về những tội ác của họ.
2. Đức Giêsu đến để giải phóng con người toàn diện
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân lẫn xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: «Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta» (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: «Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta» (Rm 7,24-25); «Anh em đã chết cùng Đức Kitô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ» (Cl 2,20). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng chân lý, công lý và tình thương.
Vì thế, từ khi thành lập đến nay, Giáo Hội vẫn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu là cứu độ con người một cách toàn diện. Chủ trương đó phần nào được diễn tả trong kinh «Thương người có 14 mối», trong đó không chỉ có 7 mối về linh hồn mà còn có 7 mối về thể xác.7 mối về thể xác rất cụ thể là: cứu giúp những kẻ thiếu thốn vật chất (thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu chỗ ở…); an ủi, giúp đỡ và chữa lành những kẻ ốm đau bệnh tật; thăm viếng và tìm cách giải phóng những kẻ bị giam cầm một cách oan ức hoặc bị làm nô lệ; giúp kẻ chết trong cảnh nghèo khổ được chôn cất tử tế. Tất cả đều nhằm giúp cho mọi người - đặc biệt những kẻ nghèo khổ - được sống và chết xứng với phẩm giá cao trọng của con người, là con cái và là hình ảnh của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu phải bảo vệ quyền sống cho ra người
Theo gương Đức Giêsu, tiếp tục thực hiện sứ mạng toàn diện của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tranh đấu rất mạnh, rất hăng hái để bảo vệ sự sống, chẳng hạn chống phá thai, chống ngừa thai theo những phương pháp trái tự nhiên. Điều đó thật đáng khích lệ! Nhưng phần còn lại cũng rất quan trọng - là làm cho sự sống mà mình đã bảo vệ được sống cho xứng với phẩm giá con người - thì rất nhiều Kitô hữu lại coi nhẹ hoặc không đặt nặng. Như thế có khác nào «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», «đầu voi đuôi chuột»? Thử hỏi: bảo vệ cho các thai nhi được quyền sống trên đời, nhưng lại không bảo vệ cho chúng quyền được sống hạnh phúc, sống đúng với phẩm giá con người, thì việc bảo vệ sự sống cho chúng có ích lợi gì? Ngoài việc bảo vệ sự sống, ta còn có bổn phận phát triển sự sống, để sống có chất lượng. Đừng để những thai nhi mà chúng ta cứu sống phải sống bất hạnh đến nỗi chúng phải than trách ta, những kẻ cứu sống chúng: «Thà để chúng tôi đừng sinh ra thì hơn!», «Tranh đấu cho chúng tôi sinh ra làm gì nếu sau đó lại để chúng tôi lâm vào cảnh lầm than khổ sở thế này?»
4. Phải tranh đấu cho công lý
Muốn mọi người được sống đúng phẩm giá của con người, xứng với địa vị của con cái Thiên Chúa, chúng ta phải loại trừ mọi hình thức bất công trong xã hội. Hiện nay, trong xã hội, sự xuất hiện hay sự thịnh vượng của người này có thể gây khó khăn hay làm giảm bớt quyền lợi của người kia. Vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để tước đoạt hoặc giảm thiểu quyền sống và quyền sống cho ra người của nhau. Vì thế, muốn mọi người được sống đúng với phẩm giá của con người, phải có những người tranh đấu cho quyền ấy. Những kẻ đang tước đoạt quyền làm người của kẻ khác hầu như không bao giờ tự động trả lại quyền ấy cho người bị tước đoạt cả. Họ chỉ trả lại quyền đó khi chúng ta hoặc chính người bị tước đoạt tranh đấu đòi buộc họ phải trả lại. Hy vọng dùng cầu nguyện hoặc lời năn nỉ van xin để kẻ ác tự động trả lại sự công bằng cho mọi người quả là một ảo vọng.
Muốn cho mọi người đang sống được sống đúng với phẩm giá của mình, thiết tưởng chúng ta phải tranh đấu mới được, dù là tranh đấu trong ôn hòa, trật tự. Và chúng ta cần tranh đấu cho quyền sống cho ra người một cách cũng hăng hái và hữu hiệu như chúng ta đã từng tranh đấu để bảo vệ sự sống vậy! Là người Kitô hữu, được thúc đẩy bởi đức ái Kitô giáo, chúng ta có bổn phận phải tranh đấu cho mọi người có quyền sống và quyền sống cho ra người. Muốn thế, phải lên tiếng bảo vệ công lý, chống lại những cơ chế phát sinh bất công, nghèo khổ, đồng thời cổ võ mọi người - mà trước hết là chúng ta - sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
5. Tranh đấu như thế có hợp với tinh thần Kitô hữu không?
Việc tranh đấu cho quyền làm người và sống cho ra người như thế tất nhiên ít nhiều phải liên quan tới chính trị. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không hề chủ trương làm chính trị. Nhưng khi thực hiện sứ mạng của mình, là làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, các ông không ngại ngùng khi việc làm chứng ấy có vẻ như dính líu đến những vấn đề chính trị, hay mang tính cách chính trị. Việc lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội, làm sao tránh được chuyện liên can đến chính trị? cũng như làm sao tránh được chuyện liên can đến văn hóa, xã hội, kinh tế…? Tất cả mọi vấn đề trong xã hội con người đều liên quan đến nhau một cách chặt chẽ. Không thể làm một việc gì trong xã hội mà không bị liên can đến những vấn đề ấy! Không muốn liên can đến những vấn đề ấy thì làm sao lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội được? Muốn vô can thì chỉ có nước là im lặng, bất động, không nói không làm gì cả, và cũng hãy từ bỏ ý muốn làm ngôn sứ!
Cũng tương tự như các ngôn sứ không chủ trương làm mất lòng ai, hay làm ai ghét mình, nhưng nếu vì sứ mạng mà phải làm mất lòng, phải nên cớ cho người ta ghét, thì cũng đành phải chấp nhận. Chẳng lẽ vì sợ làm mất lòng, sợ bị người ta ghét mà mình đành lỗi sứ mạng của mình?! Phải chăng người ngôn sứ được miễn thi hành sứ mạng của mình khi việc thi hành sứ mạng ấy có liên can đến chính trị?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhiều khi chúng con coi những gì liên quan đến chính trị như những điều kỵ húy, như thể chúng phản lại tinh thần Kitô hữu. Thực ra chúng con không thể tránh được sự liên quan ấy khi chúng con làm theo tiếng lương tâm, khi chúng con bảo vệ chân lý, công lý và tình thương. Chúng con đã coi chuyện tránh né những vấn đề chính trị còn quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa là luật yêu thương: chúng con sẵn sàng bỏ thi hành luật Chúa khi việc thi hành này có liên quan đến chính trị! Xin cho chúng con ý thức được quan niệm sai lầm của mình.
Chúa Giêsu được Thần khí đưa vào sa mạc, ăn chay và chịu ma quỉ cám dỗ trong bốn mươi đêm: TN3-C17
Chúa Giêsu được Thần khí đưa vào sa mạc, ăn chay và chịu ma quỉ cám dỗ trong bốn mươi đêm ngày, sau thời gian ấy, Chúa Giêsu trở về Galilêa, rồi Nagiarét. Cuộc đời dấn thân vì nước trời, giới thiệu Tin Mừng khởi đi từ việc Ngài liên kết mật thiết với Cha của Ngài trong sa mạc. Chính những ngày trò chuyện thân mật với Thiên Chúa Cha đã giúp Chúa Giêsu làm sáng tỏ Tin Mừng của Ngài, vai trò và sứ mạng của Ngài trong các Hội Đường ngày hưu lễ, đặc biệt tại Hội Đường Nagiarét hôm nay.
NAGIARÉT, NƠI CHÚA GIÊSU TỎ LỘ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA MÌNH
Ngày hưu lễ, Chúa Giêsu vào Hội Đường để tham dự nghi lễ với người Do Thái. Đây là điều hết sức tự nhiên và bình thường đối với mọi người Do Thái lúc đó. Có khác chăng là Chúa Giêsu mới vào sa mạc để sống những giây phút thinh lặng, quay trở về với Thiên Chúa Cha và chịu ma quỷ thử thách. Vào Hội Đường với một tâm hồn hoàn toàn thuộc về Cha, Chúa Giêsu đã khai mở sứ vụ loan báo Tin Mừng của Ngài. Tuy nhiên, trong Hội Đường Nagiarét, làng quê của Ngài, Chúa Giêsu sáng nay đã vén lộ con người và vai trò của Ngài cho mọi người. Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và được chính Thiên Chúa sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó mà ngôn sứ Isaia và nhiều ngôn sứ khác đã loan báo trong thời Cựu ước. Chúa Giêsu đã công khai tuyên bố không hề úp mở rằng:" Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" trước một cử tọa đang đăm đăm, chăm chú nhìn Ngài.
CHÚA ĐÃ CÔNG KHAI XÁC NHẬN:
"NGÀI LÀ ĐẤNG MÊSIA MUÔN DÂN MONG ĐỢI":
Câu chuyện xẩy ra ngay nơi làng quê thân thương của Chúa Giêsu trong ngày hưu lễ. Ngày sabbát là ngày nghỉ lễ của người Do Thái và theo thường lệ những người trong làng xóm, những bà con thân thuộc tụ tập nhau trong Hội đường để cầu nguyện, tạ ơn và giữ luật lệ Do Thái. Chúa Giêsu sau những ngày rời xa cha mẹ, gia đình, làng xóm để đi loan báo Tin Mừng và sống chung với nhóm môn đệ Ngài đã qui tụ. Hôm nay trở về làng quê, vào Hội Đường ngày hưu lễ, đáng lẽ ra Chúa Giêsu sẽ trao đổi, thuật lại những câu chuyện Ngài và các môn đệ đi truyền giáo trong thời gian vừa qua, đáng lẽ ra Ngài chỉ nói chuyện tâm tình làng xóm, nhưng không hôm nay Chúa Giêsu đã không dừng lại ở những chuyện tình cảm, làm ăn đời thường mà Chúa Giêsu lại mở sách trúng ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng cứu thế mà dân Do Thái và muôn dân đã mong đợi từ lâu đời.
Ngài đã khẳng định Đấng Mêsia đó là chính Ngài đang ở trước mặt họ. Lời khẳng định ấy chắc chắn đã làm cho dân làng nhỏ bé Nagiarét phải kinh ngạc, sửng sốt.
Tin Mừng có đoạn đã chép:" Người ta đã xúc phạm Ngài khi họ chỉ thấy nơi Chúa Giêsu là Con bác thợ mộc Giuse và Mẹ của Ngài là bà Maria nội trợ".
NÉT TƯƠNG PHẢN CỦA TIN MỪNG:
Đoạn tin Mừng của thánh Luca hôm nay có một nét đẹp tương phản. Đáng lẽ ra kẻ làm được xức dầu phong vương phải là người oai phong lẫm liệt, quần áo cẩm bào xứng đáng chức vị vua. Nhưng Chúa Giêsu lại khác, Ngài được Chúa Cha phong vương, được xức dầu, Thiên Chúa Cha lại sai Ngài đến với những người nghèo khổ, những kẻ đui mù, điếc lác, què quặt, những kẻ bị áp bức, bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Chúa là vua nhưng là vua khiêm nhượng và khó nghèo. Thần dân của Ngài là những kẻ nhỏ bé, những kẻ thấp cổ, bé họng, những kẻ luôn chỉ biết làm theo ý Chúa. Điều này làm ta suy nghĩ về con người của ta. Là con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, được tạo dụng giống hình ảnh Thiên Chúa, ta có đi con đường của Chúa đã đi hay ta chỉ hời hợt sống cái vỏ bên ngoài. Chúa mời ta và cũng sai ta đi loan báo Tin Mừng cho những con người nghèo khó. Liệu ta có theo bước đường của Chúa đã đi hay ta lại nghĩ khác theo ý của ta. Thiết tưởng, mọi người chúng ta không thể đi bất cứ con đường nào khác ngoài con đường mà Chúa đã đi. Niềm tin sẽ giúp ta can đảm, hăng hái phục vụ Chúa, giới thiệu nước trời và phục vụ anh em vì đây là dấu chỉ của Phúc Âm, của nước Thiên Chúa và của Chính Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn hiểu gì về ngày hưu lễ của người Do Thái ?
2. Hội Đường và Nhà Thờ khác nhau thế nào ?
3. Chúa Giêsu đã khẳng định gì về Ngài trong Hội Đường Nagiarét ?
Theo truyền thống tại giáo đường Do thái, thì trong việc thờ phượng, người ta thường cho đọc: TN3-C18
Theo truyền thống tại giáo đường Do thái, thì trong việc thờ phượng, người ta thường cho đọc một bài Sách Luật, một bài Sách tiên tri, theo sau là bài giảng. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giê-su đượ mời vừa làm người đọc Sách thánh, vừa là người diễn giảng. Chúa chọn bài trích Sách tiên tri I-sa-i-a: Thánh thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc 4:18). Rồi Người ban lời huấn dụ, những lời đơn giản, nhưng quan hệ, những lời vụt trí hiểu của người nghe. Phúc âm thuật lại: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người (Lc 4:20). Rồi Ngưòi gấp sách lại nói: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh qúi vị vừa nghe (Lc 4:21).
Thực ra thì không phải chỉ có đoạn Thánh kinh này mới được ứng nghiệm, mà tất cả toàn bộ Thánk kinh cựu ước được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là Người đã hoàn tất mọi điều viết trong Thánh kinh cựu ước. Bằng việc tỏ ra là Người ứng nghiệm lời Thánh kinh cựu ước, Chúa Giê-su biểu lộ cái căn tính thực sự của Ngưòi. Người biết rõ Người là ai, và tại sao Người đến trong thế gian.
Cho tới lúc này, người Do thái tự vinh quang hoá cái dĩ vãng của họ. Họ được nhắc nhở họ là dòng dõi được lựa chọn, hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện và dân riêng của Chúa. Họ được dạy bảo về Ap-ra-ham mà họ coi là tổ phụ. Họ lắng nghe những câu chuyện về Môi-sê, người đã đưa họ thoát khỏi vòng nô lệ bên Ai-cập, vượt qua biển đỏ. Họ học biết về vua So-lo-mon đã xây dựng đền thờ Giê-ru-sa-lem đồ sộ và nguy nga, và làm sao Nơ-khe-mi-a đi tiên phong trong việc tái thiết đền thờ sau cuộc lưu đầy bên xứ Ba-bi-lon.
Cũng vào thời kỳ đó, người Do thái mơ tưởng về tương lai của họ. Điều họ chú tâm và tầm quan trọng của họ trong lịch sử xem ra nằm trong tương lai. Họ hướng về cái ngày tái thiết vương quốc của họ. Vì thế chính Đấng cứu thế đang ở giữa họ, nhưng họ không nhìn thấy, hay không chấp nhận. Cho nên họ vẫn mong đợi vị cứu tinh khác.
Những cái tự hào của người Do thái cổ xưa một phần nào cũng giống những cái tự hào riêng của mỗi người chúng ta. Ta có thể tự hào là gia đình tôi theo đạo gốc, gia đình tôi có người làm linh mục, làm giám mục, làm bà sơ. Tôi đã được chụp hình và bắt tay với hồng y nọ kia, ngay cả với đức giáo hoàng. Tổ tiên tôi là thánh tử đạo nọ, thánh tử đạo kia. Quê tôi có nhà thờ lớn được kiến trúc theo kiểu này kiểu nọ. Những cái tự hào đó cũng là tốt bao lâu giúp cho mình sống theo mẫu gương đạo hạnh của tiền nhân. Tuy nhiên những cái tự hào đó có thể khiến cho mình trở nên tự mãn và dựa thế, không muốn tiến thân trên cuộc hành trình đức tin và sống đạo. Ta để cho mình sống như cây tầm gửi. Cái việc tổ tiên ta là người thế nọ thế kia, hay làm được chuyện nọ việc kia là một chuyện. Còn cái việc chính ta có sống đạo và thực thi đức tin hay không lại là chuyện khác.
Trong khi ta đang sống trong thời gian ở giữa, giữa cái thời gian Chúa cứu thế đã đến trong lịch sử loài người và cái thời gian Người sẽ đến để kết thúc lịch sử loài ngưòi, ta không được ngồi đó với thái độ tự mãn hoặc thờ ơ lãnh đạm. Ta phải sống cái đức tin hiện tại ở đây và bây giờ với khả năng và phưong tiện có thể. Nếu ta coi việc Đấng cứu thế đã đến như một biến cố thuộc dĩ vãng, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại, là ta để cho đức tin dựa vào quá vãng. Đức tin của ta không phải là đức tin dựa trên quá vãng hay hướng về tương lai. Nhiều người trong chúng ta cũng đặt đức tin vào tương lai. Họ tự nhủ mình: Ngày nào đó họ sẽ đi xưng tội để làm hoà với Chúa, họ sẽ sống đạo hạnh hơn; họ sẽ làm lại cuộc đời, sẽ sống đạo hạnh hơn. Và cái ngày đó không bao giờ đến, hay đến quá trễ vì bất thình lình họ đã trở thành người thiên cổ.
Sứ mạng Cứu Độ chúng sinh của Đức Giê-su. 2. Ai có nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng ấy?: TN3-C19
1. Sứ mạng Cứu Độ chúng sinh của Đức Giê-su.
2. Ai có nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng ấy?
Suy tư gợi ý:
1.Sứ mạng Cứu Độ chúng sinh của Đức Giê-su:
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe đọc rất nhiều lần. Nhưng mỗi lần nghe đọc phải giúp chúng ta hiểu hơn về sứ mệnh cứu độ của Đức Giê-su. Ngôn sứ I-sai-a nói về sứ mạng của Đấng Mê-si-a một cách rất cụ thể và gắn liền với đời sống xã hội con người. Đức Giê-su hiểu sứ mạng của mình là sứ mạng giải thoát toàn diện con người: từ lãnh vực vật chất cho đến lãnh vực tinh thần, từ lãnh vực tự nhiên cho đến lãnh vực siêu nhiên. Sự giải phóng sâu xa nhất là giải thoát con người khỏi tội lỗi và những yếu đưối của thân phận con người có tội.
Chúng ta thấy Đức Giê-su xác nhận những lời của ngôn sứ I-sai-a được ứng nghiệm nơi Người, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động cụ thể: Những phép lạ Người thực hiện cho những người ốm đau, bệnh tật, đui mù, què quặt, kể cả người chết là những minh chứng cụ thể và hùng hốn cho việc thực thi sứ mạng cứu nhân độ thế của Con Một Thiên Chúa nhập thể và nhập thế.
2. Hội Thánh và người Ki-tô hữu tiếp tục sứ mạng của Đức Giê-su:
Ngay từ những ngày đầu, Hội Thánh luôn ý thức là người tiếp tục sứ mạng cứu độ chúng sinh của Đức Giê-su. Và Hội Thánh hiểu rằng sứ mạng cứu độ ấy bao hàm mọi chiều kích nhân linh của con người: văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, tôn giáo và tâm linh. Nhìn vào mô hình cấu trúc hạ tầng của một giáo xứ mà cha ông chúng ta để lại, chúng ta thường thấy ngôi thánh đường được xây dựng ở giữa một khoảng đất rộng, một bên là nhà xứ, một bên là nhà trường, cạnh đó là nhà mồ côi với nhà của các nữ tu. Nhìn vào mô hình ấy chúng ta hiểu rằng: Đối với cha ông chúng ta: việc mở mang kiến thức cho con trẻ và việc chăm sóc những thành phần bất hạnh trong xã hội (mồ côi, tật nguyền, già cả) luôn là một yếu tố không thể thiếu trong cách sống đạo của một cộng đoàn giáo xứ. Hay chúng ta đọc lại kinh "Thương người có mười bốn mối", chúng ta thấy ngay tầm quan trọng của những công việc có tính xã hội bác ái trong thực hành Ki-tô giáo: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, đem quần áo cho kẻ rách rưới, thăm viếng kẻ bị cầm tù, bệnh tật v.v. Nhưng rất tiếc đã có một thời người Ki-tô hữu bỏ quên mất tính hiện sinh của Ơn Cứu Độ, vì họ nhấn mạnh thái quá tính chất thiêng liêng, vô hình của Ơn Cứu Độ ấy. Họ hiểu lầm rằng Đức Giê-su đem Ơn Cứu Độ đến cho con người khi ban cho con người sự sống đời đời chỉ ở đời sau mà thôi. Chính vì hiểu sai lạc như thế mà nhiều Ki-tô hữu coi thường những thực tại trần thế là những thực tại thiết thân đối với mọi người. Do đó, Hội Thánh trở thành xa lạ, không cần thiết đối với nhiều người. Người Ki-tô hữu bị coi là những người sống ngoài hành tinh, không ích lợi gì cho người khác.
Rất may là sự hiểu lầm ấy đã được Hội Thánh nhận thức và chấn chỉnh kịp thời. Ngày hôm nay nói đến Ơn Cứu Độ trong Ki-tô giáo thì Hội Thánh hiểu đó là Ơn Cứu Độ toàn diện, tức bao hàm mọi chiều kích cuộc sống con người và bắt đầu từ ngày hôm nay, trên mảnh đất này. Vì thế mà càng ngày càng có nhiều Ki-tô hữu dấn thân một cách tích cực vào các lãnh vực hoạt động từ thiện, bảo vệ môi trường cũng như xây dựng kinh tế xã hội văn hóa và chính trị, với ý thức mạnh mẽ rằng làm như thế là họ tiếp tục sứ mạng của Đức Giê-su trong thời đại và xã hội của họ (Đọc lời mở đầu Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II).
Riêng trong đời sống các gia đình Khôi Bình thường có một dự án kinh tế, làm ăn chung với nhau. Đó là điều thuận lợi nhắc nhở các thành viên ý thức về tầm quan trọng của các chiều kích kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa trong cách sống Đạo và truyền Đạo của chúng ta. Cha Thánh A. Kolping đã làm gương cho chúng ta và để lại cho chúng ta một linh đạo phù hợp với nhận thức chung của Hội Thánh. Chúng ta chỉ còn cách sống linh đạo ấy một cách ý thức và hiệu quả mà thôi!
Nguyện:
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho mọi hoạt động của chúng con có một ý nghĩa cao đẹp khi chúng con biết liên kết các hoạt động ấy với Hành Động Cứu Độ của Chúa.
Xin Chúa ban Thần Khí tràn đầy trên chúng con, để mọi hoạt động của chúng con đều được liên kết với Hành Động Cứu Độ của Chúa.
Đêm qua tôi không ngủ được vì xem thấy hình ảnh giáo dân dầm mưa dãi nắng biểu tình để: TN3-C20
Đêm qua tôi không ngủ được vì xem thấy hình ảnh giáo dân dầm mưa dãi nắng biểu tình để đòi tự do tôn giáo, những giáo dân bị thảm sát vì mình là người công giáo, ở khắp nơi trên thế giới. Họ là những người nghèo thực sự. Đúng là "nghèo tàn nghèo mạt, nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra bụi, nghèo lủi vô bơ, nghèo mờ con mắt, nghèo thắt xương sườn, nghèo cong xương sống". Họ nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Và ở đó trong thời gian này, giáo hội có rao giảng Tin mừng cho họ chưa?
Rao giảng tin mừng là gì? Phải chăng là xây nhà thờ nhà thánh, nhà xứ cho đẹp, tháp chuông cho cao, mua chuông cho lớn? Phải chăng là những lễ nghi phụng vụ sang trọng đông người tham dự trong những y phục lộng lẫy, tiếng đàn hát dìu đặt, những ca đoàn đông người với những bài ca thánh thót du dương? Phải chăng là đi ngoại quốc hội họp? Phải chăng là vui vẻ vì những đặc ân nhỏ giọt để gây chia rẽ giữa chỗ này chỗ kia? Phải chăng là những phép tắc đi ngoại quốc xin tiền về tu sửa cơ sở tôn giáo cho khang trang lộng lẫy?
Rao giảng tin mừng phải chăng là lấy lý do "không làm chính trị" như một thứ ngụy biện rẻ tiền để trốn tránh trách nhiệm và trở thành những "con cừu của Panurge", không giống ai?
Rao giảng Tin Mừng chính là đem lại niềm vui vật chất trước, tinh thần sau. Cơm no áo ấm, rồi cơm ngon áo đẹp, và cho con người sống xứng đáng là con Chúa trong tự do đích thực, hạnh phúc đích thực, có thể nói lên những khát vọng của mình, có những quyền tự do căn bản dám ra khỏi sự êm ấm của mình để dấn thân cho người nghèo thật sự.
Người nghèo là ai?
Họ có thể là những linh mục, tu sĩ, giáo dân trong những họ đạo nghèo nàn ở thôn quê, đang ưu tư cho giáo dân sống cho ra con người. Có thể là những linh mục, tu sĩ, giáo dân đang bị kì thị, bỏ rơi, thất nghiệp, và có thỏa mãn được với lời nói: "đã thương anh và tôi cầu nguyện cho anh". Người nghèo có thể là chính những người đang chống đối giáo hội khắp nơi vì họ không tìm được những chứng nhân thực sự mà chỉ là những kịch sĩ hay những người phản chứng cho một Kitô chết trần trụi nghèo khó bị cả Thiên Chúa bỏ rơi và thất bại trong lãng quên và tủi nhục. Họ là những nạn nhân của bất công khi chính những cán bộ của giáo hội cho rằng lý lẽ của người giàu luôn đúng và bất công không nghe lời nói của những người không cảm nghỉ như mình.
Hôm nay lời ngôn sứ Isai đã được thực hiện.
Ngài đến để mang Tin mừng cho người nghèo khó nghĩa là cho họ biết mình là con Thiên Chúa dù cuộc sống này không dễ thương. Bóng tối của hận thù, tiên kiến, hủ lậu, hèn nhát vẫn còn trong cuộc sống. Năm hồng ân của Thiên Chúa đã đến từ lâu nhưng có thật sự hôm nay nhân loại có được hồng ân Chúa hay thấy tất cả chỉ là pháo đài lo bảo vệ "những con dê của ông Seguin" bằng những hàng rào bất công.
Các giáo xứ rửa tội cho ai hay chỉ cho những anh chị theo đạo để lấy vợ lấy chồng. Sống đạo không chỉ là phụng vụ mà còn là sống bác ái, chứng tá tin mừng cho anh em.
Tại đại học Kansas City cách mấy chục năm nay có vị giáo sư chỉ dậy môn lịch sử giáo hội nhưng môn sinh của ông hầu hết đã trở lại và làm linh mục cho đến hôm nay với con số hàng ngàn. Họ đã được rao giảng tin mừng thật sự khi biết rõ cốt tủy của đạo Chúa là gì và biết bỏ qua những hào nhoáng những áo quần bên ngoài để chỉ nhìn ra chân lý của Đạo chính là Chúa Giêsu chịu đau khổ, chịu đóng đinh và theo đạo có nghĩa là hạnh phúc không phải chỉ đời sau mà ngay từ giây phút này trong cách sống tình thương và can đảm lương thiện và đơn sơ nhìn người khác với cái nhìn của Chúa và hân hoan sung sướng vì cảm nhận được tình thương làm cho mình sống lại thực sự trong Chúa Kitô.
Có nhà rao giảng nào đủ lương thiện thực hành cho đến nơi đến chốn lời mình rao giảng? Họ thực sự nghèo khó như Chúa chưa? Hay họ chỉ là những não bạt chập cheng không mang lại gì cho con người và cuộc sống. Họ có thực sự làm gương sáng cho tha nhân và gương sáng để phản ánh được dung nhan dịu hiền của Chúa Cứu Thế đã đến mang niềm vui hạnh phúc cho thế gian. Chính mỗi người dù là giáo sĩ hay giáo dân hãy tự hỏi: tôi đã thực sự rao giảng tin mừng hay chỉ mang tin buồn cho thế gian. Tin buồn lúc nào cũng có mà tin mừng thì hiếm hoi.
Ai sẽ thực sự mang tin mừng cho người nghèo đang tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo đang bị thảm sát vì Tin Mừng ở khắp nơi trên thế giới ?
Bác sỹ Daniel Rose là khoa trưởng phân khoa Do thái trong học viện Kinh Thánh ở Los Angeles, một bữa kia ông nói với một người bạn: “Tôi sẽ đọc cho anh một đoạn kinh thánh, và anh sẽ cho tôi biết đoạn kinh thánh tôi đọc thuộc phần nào của Thánh kinh”. Ông đọc lời tiên báo của Isaia về Chúa Kitô từ câu 13 đoạn 52 tới đoạn 53. Đoạn này được gọi là “Tin mừng của Cựu Ước” vì nó nói về cuộc đời Đức Kitô hàng trăm năm trước khi Đức Kitô sinh ra. Khi đọc xong, người bạn tuyên bố: “Đoạn này trích từ Tân Ước và nói về Đức Giêsu Nazarét” Bác sỹ Rose mới chỉ cho ông bạn hay đoạn đó thật sự trích từ Cựu Ước.
Hôm nay chúng ta nghe chính Chúa Giêsu đọc lời tiên tri Isaia đó và Người thêm: “Hôm nay bài Kinh Thánh đã ứng nghiệm”
Vâng, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài hàng trăm năm trước. Nắm vững sự kịên này như nghĩ tưởng đến Chúa chúng ta là điều quan trọng. Vì đó là một bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban, Đức Kitô là con Thiên Chúa thật. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ người làm có rất nhiều lời tiên tri về Đức Giêsu trong cựu ước đã tiên báo, Trước khi người sinh ra hằng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của người. Đây xin chỉ nêu lên một vài lời tiên tri đó.
Lời giảng của Gioan Tẩy giả, sự ra đời của Đức Kitô bởi Mẹ trinh khiết ở Belem, việc Chúa trốn sang Ai Cập, Chúa nhật lễ lá, các chi tiết cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Người bị bán với giá 30 đồng bạc. Lời cầu nguyện của người cho lý hình. Người ta cho Người uống dấm chua, mật đắng, sự sống lại của Người.
Một lời tiên tri là một lời nói trước quyết đoán về một biến cố trong tương lai liên quan đến hành động tự do của Thiên Chúa hay của loài người. Những lời tiên tri tri về Đức Kitô đã được Thiên Chúa tỏ bày cho những ngôn sứ, để họ công bố lời tiên tri từ nhiều trăm năm trước khi Đức Kitô đến. Hiển nhiên Thiên Chúa đã chuẩn bị thế giới cho con của Người, Đấng Cứu Thế sẽ đến với những ai biết suy tư, đây là một bằng chứng rõ ràng Đức Kitô là Thiên Chúa. Như trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu thường dẫn chứng lời tiên tri đó để chứng minh rằng Người là Thiên Chúa, chính Người cũng nói tiên tri về những điều sẽ xẩy đến cho Người và Thiên Chúa đều đã ứng nghiệm.
Có nhiều lời tiên tri trong Cựu Ước cũng như Tân Ước chúng ta đọc trong các ngày Chúa nhật. Nhưng quan trọng hơn, mỗi ngày chúa nhật, vâng, chính trong giờ phút này chúng ta làm sống lại những biến cố đã ứng nghiệm lời tiên tri: Thánh lễ là sự Giáng sinh, sự sống, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô được lặp lại trên bàn thờ này. Hy tế Thánh lễ là tổng hợp lời Chúa là thần trí và là sự sống với sự thực hiện lời Chúa trong hành động.
Điều này phải làm vững mạnh Đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, làm chúng ta quyết tâm học biết Chúa hơn yêu mến và phụng sự Chúa nhiều hơn. Amen.
GỢI Ý ĐỂ SỐNG VÀ CHIA SẺ TIN MỪNG: Lc 1,1-4; 4,14-21
Tại một nhà thờ bé nhỏ thuộc địa điểm truyền giáo ở đảo Sơn-mã-tha (Sumatha) của Indonesia: TN3-C22
Tại một nhà thờ bé nhỏ thuộc địa điểm truyền giáo ở đảo Sơn-mã-tha (Sumatha) của Indonesia, cha sở Lê Đăng Linh (Lorenso Lini) đang cặm cụi điều chỉnh lại vài chi tiết chuẩn bị cuối cùng trước khi bắt đầu thánh lễ nửa đêm giáng sinh cho tín hữu.
Bàn thờ được trang hoàng bằng đủ thứ hoa sặc sỡ của miền nhiệt đới. Phía dưới là những chậu cảnh với những nhành lá xanh tươi vươn lên để làm nổi bật chiếc bàn thờ ở giữa cung thánh. Ở phía trái gần cung thánh là hang đá sinh nhật với tượng Chúa Hài Đồng xinh tươi dưới ánh sao lấp lánh. Tín hữu đã tập trung đầy đủ đang im lặng chờ đợi thánh lễ bắt đầu.
Người Bệnh Phong Xuất Hiện
Bỗng trong nhà thờ mọi người như rú lên một tiếng kinh hoàng. Ai nấy đẩy nhau lùi về bốn góc nhà thờ. Cha sở ngẩng đầu nhìn ra phía cửa liền thấy một người bệnh phong mặt mũi xần xùi vì bị vi khuẩn Han-sen (Hansen) tàn phá. Người bệnh lết về phía linh mục, giơ hai cánh tay cụt lên quờ quạng, miệng kêu ú ớ những tiếng nấc nghẹn tuyệt vọng. Ở phía chân người bệnh máu chảy ra từ những vết thương làm thành một vệt dài trên nền nhà thờ. Không một ai trong đám tín hữu dám mở miệng. Niềm xót thương như bị ngăn chặn bởi nỗi kinh hoàng.
Người bệnh phong dừng lại trước bàn thờ và nhìn cha Linh với thái độ van lơn. Cha bối rối không biết phải xử trí như thế nào cho hợp với bối cảnh của cuộc lễ. Làm sao có thể sắp xếp để người bệnh phong này ở lại dự lễ trong cộng đoàn tín hữu? Ngược lại, không ai có quyền mời người bệnh ra khỏi cuộc lễ. Nào đây chẳng phải là nhà của Thiên Chúa, Đấng là Cha chung của mọi người sao? Nào Chúa Giêsu đã chẳng mời những ai vất vả và mang gánh nặng hãy đến để chính Người nâng đỡ và bồi dưỡng cho đó sao? Chẳng lẽ bấy lâu nay gia đình người bệnh phong này đã hất hủi anh, nay chính Giáo Hội cũng muốn khước từ anh sao?
Cuộc Chiến Nội Tâm
Cuộc chiến nội tâm cuối cùng đưa cha Linh tới lời mời người bệnh phong ở lại dự lễ. Cha nói: "Vâng, bạn hãy ở lại đây với chúng tôi. Chúng ta sẽ là một gia đình duy nhất. Các vết lở của tâm hồn còn thối tha hơn các vết thương của thân xác gấp bội! Chúng ta tất cả đều là anh em với nhau. Một cách nào đó, chúng ta tất cả đều là những người mắc bệnh phong về đời sống thiêng liêng ở trước mặt Thiên Chúa."
Nói tới đó, cha Linh khựng lại như bị cứng họng. Một đàng không thể bắt đầu Thánh Lễ khi người bệnh phong còn đứng đó. Đàng khác, cha cũng không thể mời anh ta đi. Bởi lẽ nhà thờ là nhà của Thiên Chúa, Đấng là Cha của tất cả mọi người, không trừ một ai. Hiện người bệnh phong này là người bất hạnh nhất nên càng đáng được ở lại để dự lễ nửa đêm mừng Chúa Giêsu giáng trần.
Người bệnh phong như linh cảm thấy nỗi khó khăn mà cha Linh gặp phải khi đối phó với những người đến dự lễ. Chàng phủ phục sát đất nhiều lần. Khuôn mặt chàng mếu xệch như muốn nói lên lời cám ơn rồi thất thểu bước ra khỏi nhà thờ.
Hình Ảnh Người Bệnh Phong Đứng Xa Đâu Đó
Ca đoàn thiếu nhi đã cất tiếng hát bài ca giáng sinh tươi vui mừng Chúa Giáng Sinh xuống thế làm người. Nhưng cha Linh như nghe văng vẳng có tiếng than vãn của chàng bệnh phong đang đứng xa xa đâu đó. Có lẽ anh đang muốn lãnh bí tích hoà giải để được chịu lễ đêm nay với mọi người. Chỉ có Chúa biết rõ lòng anh và ban cho anh dồi dào hồng ân Người dành cho anh.
Dù sao lễ Giáng Sinh năm đó, cha Linh đã được ơn Chúa thúc đẩy để thiết lập trại phong. Việc cha chăm sóc những người bệnh phong kết qủa đến nỗi vào năm 1952 chính quyền Italia đã tặng cha giải thưởng Giáng Sinh năm đó.
Quả thật, câu chuyện có thực nói trên do cha Linh kể lại cho thấy hình ảnh của người bệnh phong thật là bi đát. Thử hỏi bài Tin Mừng hôm nay do Chúa Giêsu công bố (cc.18-19) có thực sự là Tin Mừng cho những con người nghèo khổ, cơ cực và túng quẫn như anh chăng?
Ở đây có lẽ là cơ hội rất thích hợp để nêu câu hỏi đã được nêu lên với Đức Gioan Phaolô II là "Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu thì tại sao lại xảy ra biết bao sự dữ trên thế giới?... Làm sao có thể tiếp tục tin vào Thiên Chúa là tình yêu khi phải đối đầu với những khổ đau, những bất công, những bệnh tật và chết chóc, là những điều xem ra bá chủ lịch sử lớn lao của thế giới cũng như trang sử nhỏ bé hàng ngày của mỗi người chúng ta?" (Jean Paul II, Entrez dans l'Espérance, Paris, Plon-Mame, 1994, p.103).
Thánh Giá Đứng Vững Giữa Thế Giới Xoay Vần
Đức Gioan Phaolô II khẳng định rằng "Thánh Giá luôn đứng vững giữa lúc thế giới xoay vần". Người đồng ý cho rằng "không ai có thể tránh nêu lên những câu hỏi ở ngay cội nguồn của những nghi ngờ không những về lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhưng cả về hiện hữu của Người nữa; Tại sao Thiên Chúa mà có thể cho phép xảy ra những cuộc chiến tranh, những trại tập trung...? Nếu Thiên Chúa mà cho phép tất cả những thứ đó xảy ra thì Người còn thực sự là tình yêu nữa chăng...? Và nữa, Người có thực sự là Thiên Chúa công bằng với thụ tạo của Người chăng? Nào Người đã chẳng đặt trên đôi vai chúng ta cái gánh quá nặng đối với mỗi người chúng ta đó sao? Nào Người đã chẳng bỏ rơi con người trong cảnh cô đơn bi đát? Lý do vì con người bị đè bẹp dưới sức nặng của cuộc sống và kể như đã bị kết án để sống một cuộc sống vô vọng rồi.
Tất cả những thứ bệnh vô phương chữa trị trong các bệnh viện, tất cả những trẻ em tàn tật, tất cả những cuộc sống con người mà không hề nhận được chút hạnh phúc trần thế nào, tức thứ hạnh phúc đơn giản do tình yêu, hôn nhân hoặc gia đình... Quả thật bức tranh về cuộc sống con người có thể như là đen tối!...
Cuộc Phán Xét Của Con Người Về Thiên Chúa
Thiên Chúa đã dựng nên con người có trí thông minh và tự do, cho nên chính Người đã chấp nhận đặt mình dưới sự phê phán của thụ tạo do chính Người dựng nên. Lịch sử cứu độ cũng là lịch sử của cuộc phán xét liên lỉ của con người đối với Thiên Chúa. Bởi lẽ điều được đặt ra không chỉ là những vấn đề đơn giản hoặc những nghi ngờ, nhưng thực sự là một cuộc phán xét. Một phần của sách ông Gióp trong Cựu Ước bao gồm nguyên mẫu của cuộc phán xét loại đó. Đó là việc sách ông Gióp tự đặt vào giữa những cuộc can thiệp của tên Ac Thần. Hắn luôn mau miệng phê phán với một sự thông suốt chưa từng nghe thấy, không những về con người nhưng cả về hành động của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Ta thấy về điều đó một minh họa đột xuất trong sách ông Gióp.
Người ta nói tới xì căng đan của Thánh Giá... Hỏi rằng để cứu độ loài người, Thiên Chúa có cần phải phó nộp Con của mình vào cuộc hy sinh trên Thánh Giá chăng? Ở đây chúng tôi chỉ có thể tự hỏi liệu có thể xảy ra cách khác được chăng?... Ta có thể nói rằng Thiên Chúa có thể biện minh về lịch sử con người với gánh nặng chất chứa khổ đau bằng cách khác, chứ không bằng cách đặt cây thánh giá của Đức Kitô vào giữa lịch sử đó chăng? Dĩ nhiên, người ta có thể trả lời rằng Thiên Chúa không phải biện minh trước loài người. Người chỉ cần là Đấng Toàn Năng. Tất cả những gì Người làm và cho phép làm đều phải được chấp nhận trong viễn tượng đó. Đó là lập trường của sách ông Gióp trong Kinh Thánh. Nhưng Đấng Toàn Năng cũng là Đấng Thượng Trí và Tình Yêu... Người không phải là một Đấng Tuyệt Đối ở vị trí bên kia thế giới nên dửng dưng với khổ đau của con người. Người là Emmanuen, tức là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", là Đấng Thiên Chúa chia sẻ số phận của con người và thông hiệp vào định mạng của loài người...
Thiên Chúa Đặt Mình Về Phía Con Người
Cả những người thời nay chỉ trích Kitô giáo cũng đều đồng ý về điều đó. Chính họ cũng nhìn nhận rằng Đức Kitô chịu đóng đinh là một bằng chứng về tình liên đới của Thiên Chúa đối với con người đang chịu đau khổ. Thiên Chúa đặt mình về phía con người. Và Người thực hiện điều đó một cách tận căn là "Chính Người đã hạ mình bằng cách vâng lời cho đến chết và chết trên cây thập giá". Điều đó bao gồm được mọi sự: nó bao gồm được mọi khổ đau, dầu là khổ đau của cá nhân hay tập thể, mọi khổ đau gây nên do những sức mạnh mù quáng của thiên nhiên cũng như những khổ đau gây nên do con người một cách có cân nhắc, chẳng hạn, những cuộc chiến tranh, những trại cải tạo và những cuộc diệt chủng." (Ibid, pp.105-108).
Bài Tin Mừng hôm nay gồm lời mở đầu (cc.1-4) và bài giảng khai trương của Đức Giêsu tại Nadarét. Câu chuyện cảm động của cha Linh về người bệnh phong và những lời của Đức Gioan Phaolo II nói về ý nghĩa của Thánh Giá Chúa Giêsu trong lịch sử loài người ít nhất giúp ta tìm hiểu và sống sứ mạng loan Tin Mừng cho người nghèo hèn như Chúa Giêsu công bố (c.18).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy điều gì cảm động nhất về người bệnh phong xuất hiện nơi nhà thờ dịp lễ Sinh Nhật như cha Linh kể lại? 2. Bạn thấy những điều gì dễ hiểu nhất và những điều khó hiểu nhất trong lời cắt nghĩa của Đức Gioan Phaolo II về cây Thánh Giá của Đức Kitô đối với những khổ đau của con người?
Dịp Tết ai mà chả mơ ước và chúc nhau được sống phúc lộc thọ. Nhưng làm thế nào để những: TN3-C23
Dịp Tết ai mà chả mơ ước và chúc nhau được sống phúc lộc thọ. Nhưng làm thế nào để những ước mơ đó thành sự thực hay chỉ là đầu môi chót lưỡi cho qua đi, như Trần Tế Xương đã từng mỉa mai khi nghe người ta chúc Tết: Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau...! Cả một xã hội bon chen chôm chỉa làm giầu, đo giá trị một người bằng đồng lương, muốn trở thành giầu có thật quả là một điều đầu tắt mặt tối, chân lấm tay bùn!
ĐIỀM THỜI ĐẠI
Đầu năm 1997, Gerald Celente, giám đốc Viện Nghiên Cứu về Đà Bước của người thời đại, trung tâm nằm ở Rhinebeck, New York, cho biết rằng năm 1997 là điểm quặt quan trọng sửa soạn cho năm 2000. Những năm tới con người sẽ trải qua những khắc khoải lo sợ và thất vọng trước khi bước vào thời đại mới. Một số dấu chỉ mới lạ như lời tiên báo sẽ xẩy ra:
- Hồng Công sẽ bị thuộc trọn vào Trung Cộng về kinh tế và chính trị, mặc dù Trung Cộng vẫn luôn hứa là sẽ để cho độc lập.
- Ảnh hưởng văn hóa Tây Ban Nha Nam Mỹ sẽ rất mạnh và thấy rõ tại Hoa Kỳ, chen chân với dòng ảnh hưởng "Ăng-lê" từ trước tới nay vẫn chế ngự nước này.
- Người ta sẽ tự chọn lối sống giản đơn, tìm hạnh phúc chân thực qua nếp sống điều độ, tự kỷ và tinh thần hơn là lối sống thừa mứa vật chất làm buồn nôn hiện tại. Nhiều người tìm về thiên nhiên hòa hợp vạn vật, hơn là lo thu mình lại sống quá ích kỷ chỉ còn biết có mình, làm cho đời sống mỗi ngày mỗi nghèo nàn ra!
LỐI LÀM GIẦU MỚI
Năm 1987 xảy một hiện tượng lạ lùng trong ngành hội họa: Những bức tranh của họa sĩ Vincent Van Gogh vẽ vào cuối thế kỷ 19 được mua với một giá khủng khiếp: bức Hoa Hướng Dương được bán với giá 41 triệu tiền Mỹ vào tháng ba; đến tháng sáu thì bức Cầu ở Trinquetaille giá 20 triệu. Và tháng 11 thì một bức Hoa Cầu Vồng (Irises) được bán với giá 49 triệu. Bức này đang để trong bảo tàng viện Paul Getty ở Malibu Beach, California.
Bộ những người dám bỏ một số tiền dễ sợ như vậy để mua những bức tranh này điên cả sao? Hay họ muốn làm ra vẻ phách lối ta đây quá dư tiền phải đi học làm sang? Nghe như truyện hoang đường mà lại xảy ra thực mới lạ.
Nhìn những bức tranh trên thì nhiều người cũng thấy thường thôi. Có gì đặc sắc đâu. Nhưng một số người đã khám phá ra cái nhìn và cái thấy của Van Gogh, gọi là đường hướng biểu hiện, nhìn thấy cuộc đời giầu sang lắm, sức sống sung mãn đã nằm sẵn trong vạn vật, chứ đâu phải những hăm hở kiếm tìm mệt nhọc của loài người như hiện nay. Chỉ cần dừng chân ngắm nhìn: một cọng cỏ, một bông hoa, một cái cầu, một cái ghế, ngôi nhà đang ở, xem ra tầm thường và nhàm chán, bỗng khám phá ra những lạ lùng. Vì một cành lá cũng đang biểu hiện sức sống của cả vũ trụ. Mà vũ trụ thì giàu có, tại sao lại cứ phải sống nghèo nàn ăn mày ăn xin những đồ phế thải cuộc đời.
Khám phá ra được như vậy thì cuộc sống trở nên giầu có sung túc biết bao. Ngay ở vườn đàng sau và ngay trong nhà mình đã có nhiều triệu rồi, cả một kho tàng quí giá đang chờ được khám phá. Người mua bức tranh Hoa Hướng Dương hay Hoa Cầu Vồng của Van Gogh chỉ muốn nói lên sứ điệp đó cho con người mệt mỏi hôm nay: bạn đang quá giàu có rồi. Chỉ cần bừng mở con mắt: nguồn phú túc đang hiển hiện trước mặt mà Chúa Trời Đất đã bày biện ra.
TẾT LÀ TIẾT LIỆU CÁCH LÀM GIẦU
Ngày Tết, người Việt có nghi lễ bánh dầy bánh chưng, do tích truyện hoàng tử Tiết Liệu. Đó là bí quyết sống đời hoàng vương sang giầu.
Sau khi đã đánh thắng phá được giặc Ân bên Tầu sang xâm chiếm nước ta, trong nước được thái bình, vua Hùng muốn truyền ngôi cho con, liền họp tất cả các hoàng tử lại mà tuyên bố rằng:
"Ta muốn truyền ngôi cho đứa nào làm vừa lòng ta, là đến cuối năm, tìm được thức ăn vừa ngon vừa quí, để dâng cúng tổ tiên cho tròn đạo Hiếu".
Thế là các công tử lên đường đi khắp mọi nơi. Người thì đi lên rừng, người thì đi xuống biển, ra sức tìm cho được thức ăn gì lạ nhất, quí nhất, ngon nhất, mong sẽ được truyền ngôi làm vua.
Duy chỉ có người con thứ chín là Lang Liêu, vừa nghèo kém vừa cô thế, không biết xoay xở làm sao được. Nhưng chàng lại rất có hiếu, muốn làm vừa lòng vua cha. Vì vậy chàng suy nghĩ ngày đêm ăn ngủ không yên.
Bỗng một hôm nằm ngủ, trong giấc mơ chàng thấy một vị thần linh đến mách bảo:
"Trong trời đất không có gì quí hơn gạo, vì gạo nuôi sống con người, mà ăn mãi vẫn không chán. Như thế còn gì quí hơn được nữa. Vậy con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn tượng trưng cho trời, và làm bánh hình vuông tượng trưng cho đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, có ý nói ơn trời đất sinh dưỡng muôn loài. Như thế thì lòng vua sẽ vui, và chắc thế nào cũng được truyền ngôi làm vua".
Lang Liêu thức dậy mừng lắm, tự nhủ:
"Đã có thần linh giúp ta, vậy ta cứ theo đó mà làm".
Lang Liêu mới lựa hột nếp nào trắng tinh, hoàn toàn không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông tượng trưng cho đất, bỏ nhân vào giữa, đem nấu đi cho chín, gọi là bánh chưng. Lại làm một cái bánh hình tròn để tượng trưng cho trời, gọi là bánh dầy.
Đúng kỳ hạn, các công tử đều đến trưng bày phẩm vật, dâng vua không thiếu một thức gì. Duy chỉ có Lang Liêu đem bánh tròn và bánh vuông đến dâng. Vua Hùng lấy làm lạ mới hỏi cho biết, thì Lang Liêu trình bày như lời vị thần linh chỉ bảo. Nhà vua liền nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, mà lại thật ý nghĩa, phẩm vật của các công tử khác không sao hơn được. Nhà vua khen ngợi rồi chấm cho Lang Liêu giải nhất và được nối ngôi làm vua.
Năm hết, nhà vua dùng bánh ấy dâng lên tổ tiên. Thiên hạ bắt chước truyền đến bây giờ, và lấy tên của Lang Liêu để gọi là Tiết Liệu.
BAO GIỜ MỚI TÌM ĐƯỢC HẠNH PHÚC?
Chúa Giêsu đã bắt đầu loan báo Tin Vui bằng một câu như tóm lược tất cả: "Nước Trời đã gần bên. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1:14)
Nước Trời là vườn hạnh phúc đang ở ngay đây, nơi có Chúa hiện diện. Bánh chưng và bánh dầy thật dễ làm, gạo, nhân đậu và lá gói có thể kiếm ngay ở trong nhà, ở ngoài vườn, không phải đi tìm mãi xa xôi. Bí quyết để sống đời hoàng vương sang giầu và hạnh phúc luôn nằm sẵn trong tầm tay, có thể tu luyện ngay trong cuộc sống thường ngày. Vườn hạnh phúc sống hoàng vương đang ở trong tầm tay. Ngay lúc này. Ở đây. Tiết Liệu đã được ơn trên soi sáng để thấy được điều đó mà được nối ngôi làm vua.
Truyện thiêng Tiết Liệu cũng muốn gửi người thời đại này một điều thật đơn giản: hạnh phúc đang trong tay bạn, ở ngay vườn đàng sau, trong nhà bạn, trong lòng bạn. Có cần gì phải miệt mài đi tìm bí quyết hạnh phúc ở mãi trên rừng dưới biển gì đâu đâu như những hoàng tử khác. Hạnh phúc đâu có khó tìm quá vậy?! Bạn có thể sống đời hoàng vương sang giầu. Là Con của vua Trời Đất mà không sang giầu nữa thì thôi. Vincent Van Gogh cũng thấy được như thế. Như vậy, truyện thiêng Bánh Dầy Bánh Chưng này phải được người thời đại mua cả mấy chục triệu mà đọc mới đúng.
Vâng, lạy Chúa, nhiều điềm thời đại cho con thấy con người đang có những thay đổi sâu xa trong lúc cựa mình bước vào năm 2000. Dấu rõ nhất là tìm về lối sống giản đơn nhưng thật giầu có mà Chúa đã trao ban sẵn, có phải kiếm chác bon chen nhiều đâu. Con bỗng thấy được nước hạnh phúc đã gần bên, chỉ cần thay đổi con mắt nhìn và lối sống. Con xin mở rộng tâm hồn con trong năm mới để đón nhận bao ân huệ giầu sang, như thi hào Hàn Mặc Tử trong những lúc trăn trở khốn cùng bỗng được mở mắt nhìn thấy niềm vui thật đơn giản gần kề, khi khám phá ra quà tặng quí báu đang bày ra trước mắt:
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuânNở một lượt giầu sang hơn Thượng Đế...Trái cây bằng ngọc, vỏ bằng gấmVà mặt trời kia tựa khối vàng...Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghiCây bằng gấm và lòng sông toàn ngọc.
Tại Milano, Italia, trong thư viện thánh Ambrôsiô, còn giữ lại một mảnh chỉ thảo được biết như là: TN3-C24
Tại Milano, Italia, trong thư viện thánh Ambrôsiô, còn giữ lại một mảnh chỉ thảo được biết như là "Quy điển Muratori", do tên của sử gia Antonio Muratori (1672-1750), nhà khám phá mảnh chỉ thảo: ông đã thu thập được bảng danh sách các tác phẩm chính lục của Kinh Thánh có kèm lời giải thích, nghĩa là bảng liệt kê các sách được thừa nhận như do Thiên Chúa linh ứng của Giáo đoàn Rôma thế kỷ II. Đến chỗ Tin Mừng Luca, tác giả của tài liệu tối cổ này viết: "Thứ ba là sách Tin Mừng theo Luca. Ông Luca này là một y sĩ, mà sau khi Đức Giêsu về trời, Phaolô đã đem theo như bạn đồng hành. Ông đã tự mình viết theo quan điểm của mình mặc dầu ông đã không đích thân thấy Chúa trong xác thịt".
1. Vài nét về tác giả
Qua dòng phác thảo này, chúng ta có được một vài dữ kiện tiểu sử về tác giả Tin Mừng thứ ba, được truyền thống Kitô giáo thu nhận: y sĩ (hãy nghĩ đến chi tiết mồ hôi máu của Đức Giêsu, việc tránh nói xấu giới y sĩ trong câu chuyện người đàn bà bị băng huyết), môn đồ của thánh Phaolô (Cl 4,10-12; 1Tm 4,11), truyền giáo như ngài trong thế giới dân ngoại (như xác nhận trong công trình thứ hai của Luca, sách Công vụ Tông đồ), văn sĩ độc đáo (tiếng hy lạp của ngài là hay nhất trong toàn bộ Tân Ước), chứng nhân gián tiếp. Truyền thống về sau đã tô thêm bức chân dung sơ sài này với nhiều đường nét thường là tưởng tượng: nổi tiếng nhất là việc gán cho Luca danh hiệu họa sĩ vẽ các ảnh "Đức Mẹ đen" (ví dụ ở Bologna, ở Đền thờ Đức Bà Cả Rôma). Thực tế, các bức ảnh tuyệt đẹp hơn đã được Luca vẽ trong các trang của tác phẩm ngài.
Và từ Chúa Nhật này rồi suốt năm phụng vụ, chúng ta sẽ đến với Tin Mừng Luca, một tác phẩm được sinh ra, như chính tác giả xác nhận trong bài tựa hôm nay vừa công bố, từ việc "cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự để viết ra tuần tự".
Nói cho đúng, tác phẩm của Luca gồm hai cuốn sách trình bày chương trình cứu độ về mặt lịch sử và cả về mặt địa lý.
Xét về mặt lịch sử, thì sau giai đoạn đoan hứa là đến giai đoạn thực hiện với a) thời của Đức Giêsu: Thần Khí xưa đã tác động các ngôn sứ, thì nay càng tỏ hiện tràn đầy trong ngôn ngữ và hành vi của Đức Giêsu (sách Tin Mừng); b) thời của Giáo Hội: Thần Khí nơi Đức Giêsu nay được tuôn tràn trên cộng đoàn môn đệ Người sau khi Người phục sinh (sách Công vụ).
Xét về mặt địa lý thì chương trình cứu độ được diễn ra với điểm xuất phát là Giêrusalem. Mọi sự bắt đầu tại đó với lời sứ thần báo tin cho ông Dacaria. Sau khi Đức Giêsu lên đó để hoàn tất cuộc "xuất hành" của Người (sách Tin Mừng), thì các môn đệ cũng từ đó ra đi để đem Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất (sách Công vụ).
Vì thế, hôm nay chúng ta sẽ đưa ra một vài nét về các chủ đề căn bản của Tin Mừng Luca, để biết đọc tác phẩm này cách tổng quát, toàn bộ, vượt lên trên vẻ rời rạc do việc cắt xén tác phẩm thành nhiều đoản văn phụng vụ Chúa nhật. Chúng ta làm việc này thông qua một ngữ vựng nhỏ gồm 6 từ:
42. Vài chủ đề chính của tác phẩm
Từ thứ nhất đương nhiên là Giêsu Kitô. Luca trình bày Người như "bạn của những kẻ thu thuế và những kẻ tội lỗi" (15,2), như vị Ngôn sứ có lời tối hậu và hoàn hảo của Thiên Chúa cần chuyển cho chúng ta, như kẻ nghèo chẳng có ngay cả gối để kê đầu (9,58), như người lang thang muôn thuở, ("Đức Giêsu là kẻ sinh ra bên đường, sống trên đường và chết ở một góc đường", Nguyễn Ngọc Lan), như Đấng cứu chữa không những các cơn bệnh thể xác mà cả nỗi khổ tâm hồn, như nơi Thánh Thần cư ngụ để rồi từ đó tuôn đổ trên cộng đoàn các môn đệ, như tâm điểm, ý nghĩa và cùng đích của lịch sử nhân loại.
Từ thứ hai thân thiết với Luca là từ tình yêu. Đại thi hào Dante Alighieri, người Italia (1265-1321), trong tác phẩm la ngữ Monarchia (Quân chủ) đã định nghĩa Luca như scriba mansuetudinis Christi (văn sĩ về lòng thương xót của Đức Kitô). Dụ ngôn người cha phung phí (chứ không phải đứa con phung phá) ở chương 15, dụ ngôn người Samari nhân lành, "Diễn từ trên đồng bằng" ở 6,17-49, lòng thương xót của Đức Giêsu đối với những kẻ bị loại trừ, việc lựa chọn giới nghèo khó, việc tự hiến đến hy sinh chính mình, cử chỉ tối hậu là tha thứ và cứu rỗi tên trộm lành, tất cả đều là bấy nhiêu bằng chứng về sự đúng đắn của định nghĩa do Dante đưa ra. Thậm chí, Luca còn vẽ chân dung người môn đệ đích thực của Đức Kitô như sau: "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ" (6,36).
Từ thứ ba là từ niềm vui. Luca sử dụng năm động từ khác nhau để diễn tả niềm vui trong 27 đoạn của tác phẩm. Tiêu biểu theo nghĩa này là chương 15; chúng tôi xin mời các độc giả liên tục rảo qua các câu 5.6.7.9.10.23.24.32: "Tìm được (con chiên) rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai... và nói: "Xin chung vui với tôi...". Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng... Tìm được (đồng bạc) rồi, bà ấy nói: "Xin chung vui với tôi...". Cũng thế, giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng... "Hãy đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng (con ta đã trở về)"... Và họ bắt đầu ăn mừng... "Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ""
Nghèo khó là chủ đề thứ tư được đặc biệt nêu bật trong Tin Mừng Luca, một Tin Mừng hết sức nhạy bén với vấn đề xã hội: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó" (Lc 6,20); "kẻ nghèo hèn được loan báo Tin Mừng" (4,18); người hành khất Ladarô và bà góa cho tất cả là những gương sống; chàng thanh niên giàu có không thể theo Đức Giêsu nếu chẳng phân phát cho kẻ nghèo "mọi thứ mình sở hữu"; tay trọc phú miệt mài thu tích cho mình chứ không phải cho Thiên Chúa là kẻ ngu dại; những người biệt phái hám tiền đến độ biến nó thành Chúa thực của mình. "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa" (18,24-25).
Từ thứ năm thân thiết với Luca là cầu nguyện. Đức Giêsu là con người cầu nguyện tiêu biểu. Trong những khúc quanh quyết định của đời Người, Luca luôn trình bày Người cầu nguyện và đối thoại với Chúa Cha: trước khi chịu Phép rửa (3,21), giữa cơn cuồng nhiệt của quần chúng (5,16), trước khi tuyển chọn nhóm Mười hai (6,12), trước cuộc tuyên tín của Phêrô (9,18), trước khi tỏ mình long trọng trong cuộc Biến hình (9,28-29), trước khi dạy lời kinh đặc trưng của Kitô giáo, kinh "Lạy Cha" (11,1), trong giờ quyết định tối hậu trước khi chịu chết (22,40-46). Và lời sau hết của Người trên trần gian là một lời cầu nguyện: "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha" (23,46).
Từ thứ sáu và cuối cùng, chúng ta có thể đưa vào bảng tổng hợp các chủ đề thân thiết với Đức Giêsu của Luca là từ bỏ. Ám chỉ ơn thiên triệu của Êlisa, kẻ được ngôn sứ Êlia kêu gọi đang khi đi cày, một ngày nọ Đức Giêsu đã thốt lên: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa" (9,62). Để theo Đức Giêsu, cần phải thực hiện một lựa chọn triệt để và cần chữa mình khỏi cơn bệnh luyến tiếc nhớ nhung. Các môn đệ không chỉ từ bỏ "lưới và cha mình" như Mátthêu nói, mà còn bỏ "tất cả" theo Luca 5,11. Nói về ơn gọi của mình, Mátthêu chỉ viết: "Ông đứng dậy đi theo Người" (Mt 9,9), trái lại Luca thêm "bỏ tất cả" (Lc 5,28). "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (9,23).
Vậy phải nghĩ sao khi ngay cả sự yên thân mà chúng ta cũng chẳng dám từ bỏ để dấn thân vì Tin Mừng, vì tự do của Giáo Hội, vì sự độc lập của đạo Chúa?
ĐỂ TÔI LOAN BÁO TIN MỪNG - Sr. Magdalene Oanh, MTGQN.
Lc 1, 1-4, 4:14-21
Một ông nọ đang cầu nguyện, nhưng bị chia trí bởi những người qua lại trước mặt. Ông trông: TN3-C25
Một ông nọ đang cầu nguyện, nhưng bị chia trí bởi những người qua lại trước mặt. Ông trông thấy những người nghèo, những người vô gia cư, những người tàm tật, những người đau ốm và những nạn nhân của bạo hành - của tội ác. Trần trở với bể khổ cuộc đời đang diễn ra quanh mình, ông chân thành thưa với Chúa: "Lạy Chúa Đấng toàn năng, có lẽ nào Người là Vị Sáng Tạo đầy yêu thương, đầy khôn ngoan lại đành bất lực nhìn những thảm cảnh con cái Người đang chịu, và không ra tay được sao?" Trong thinh vắng cõi lòng, ông nghe tiếng Chúa nhẹ nhàng đáp trả: "Ta đã ra tay rồi đấy. Ta đã tạo thành con và con hiện hữu trong dòng đời."
Mầu nhiệm khổ đau luôn làm ray rứt bao cõi lòng. Tại sao sự ác tự do tung hoành! Tại sao con người phải chết! Tại sao tôi phải chịu cơ cực, phải mang cơn bệnh hiểm nghèo! Tại sao những người thân của tôi bị tai ương rủi ro giữa lúc họ rất tốt lành, hiền hòa, ngoan đạo...Và còn vô vàn câu hỏi "tại sao", khiến chúng ta hồ nghi về sự hiện diện của tình thương quan phòng của Thiên Chúa, cũng như quên đi vai trò trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Vâng, nếu một hạt cát bé nhỏ còn mang giá trị cần thiết tạo nên bãi cát trắng. Và một giọt nước vô danh giữa lòng đại dương mênh mông còn góp phần tạo vị mặn của biển cả, thì huống chi chúng ta, những con người sống động được Thiên Chúa tạo dựng và mời gọi vào sứ mạng chứng tá yêu thương, tại sao chúng ta không đặt ngược câu hỏi đó cho bản thân. Chúng ta không nên bán cái mọi việc cho Thiên Chúa. Người sẽ không làm phép lạ ngoạn mục như nhà ảo thuật lấy những trứng ra từ chiếc mũ bí mật của ông ta. Phép lạ của Thiên Chúa rất âm thầm nhưng cũng rất thực tiễn trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Thật vậy, công trình cứu chuộc được xuyên suốt qua lịch sử của dân tộc Israel, và hoàn tất nơi cuộc đời một Đức Kitô có tên tuổi trong lịch sử nhân loại. Một Đức Kitô đã từng nếm trải những ngọt bùi đắng cay phận bần hèn, không mái nhà để chào đời, không hòn đá để gối đầu, không tấm vải che thân trên thập tự. Chính cùng sống với đồng bào Người càng thâh hiểu cơn khát lòng người và tự nguyện dâng hiến trọn mạng sống vì sứ mạng yêu thương:
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa."
Đoạn Isaiah do Đức Giêsu đọc, đã không còn nằm trên trang sách Kinh Thánh. Nó đã được tượng hình trên cuộc đời Đức Kitô, Ngài ra tay chữa lành mọi bệnh tật, mở mắt đức tin, đức cậy cho lớp người bị coi khinh tội lỗi: thu thuế, gái điếm. Ngài an ủi đỡ nâng người đàn bà bị kết án. Nơi Ngài đi qua bừng sáng sức sống mới "mọi người ca tụng Thiên Chúa và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng người."
Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta dư sức thực thi những việc tha nhân đang cần. Bởi lẽ giới hạn của tình yêu là vô giới hạn. Tình yêu chân thành luôn có những sáng tạo độc đáo để làm hài lòng người yêu. Vì thế Lời Chúa hôm nay rất thiết thực đối với mỗi người. Vậy:
Hãy là đôi chân cho người già yếu, giúp họ đến nhà thờ, đi thăm bà con.
Hãy là đôi tai cho những bạn trẻ đang mong bạn lắng nghe những nỗi lòng của họ. Hãy là tin mừng cho người đang u sầu bằng những lời chia sẻ ủi an, khích lệ khôn ngoan.
Và hãy đem ánh sáng cho những ai đang lầm đường lạc lối, bằng sự hướng dẫn ân cần đầy thương yêu.
Thái độ sẵn sàng cho đi của bạn sẽ nối dài cánh tay yêu thương của Thiên Chúa và quanh bạn cuộc sống sẽ ươm đầy sức sống Thần Linh bởi những phép lạ đáng yêu. Riêng bạn sẽ hân hoan đáp lại lời Chúa: "Lạy Chúa, hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai con vừa nghe." Amen
Ngày Tết có nhiều thứ để mua vui lắm. Những màn sát phạt đỏ đen, những trò khích động lôi: TN3-C26
Ngày Tết có nhiều thứ để mua vui lắm. Những màn sát phạt đỏ đen, những trò khích động lôi cuốn đông người không ý tứ thì dễ vặn vò làm lệch hỏng ý nghĩa ngày Tết, khiến các sắc dân khác tìm vào cộng đồng Việt khó mà tìm ra được nét cao đẹp của văn hóa mình!
Nhà ảnh người Mỹ trắng là Mark Sindler ở vùng New Orleans rất mê lối sống người Việt. Một trong những bức nổi tiếng là cảnh "Dọn Tết". Tuyệt lắm. Anh ta đã chụp được cái hồn của người Việt sau nhiều năm lặn lội tìm tòi, tập húp nước mắm và ăn chả giò. Chắc là phải tốn nhiều công sức thời giờ lắm.
Cả nhà đang cùng tham gia một "công tác" lớn: Bà mẹ đang cặm cụi gói bánh chưng, mấy đứa nhỏ đứa thì đưa lá, đứa đưa lạt buộc. Cứ như là cảnh bác sĩ giải phẫu có mấy cô y tá đưa dao đưa kéo. Đứa bé nhất đang bò thì có bà coi, cảnh bà cháu ríu rít sao mà thân thương thế. Mấy đứa lớn thì lăng xăng chạy tới chạy lui đưa bánh cho bố bỏ vào nồi lớn để nấu.
Nhìn kỹ này, đây mới là điểm chú tâm của tấm hình: Ông bố với dáng điệu trang trọng như đang cử hành nghi lễ. Ánh sáng từ bếp lửa làm rạng lên khóe mắt long lanh hay từ một sức gì bên trong toát ra, khó mà phân biệt được. Hay là cả hai. Ông bố như đang mở tâm ra nhận lấy dòng sức sống từ bao đời qua mấy ngàn năm lịch sử với đầy vinh quang mà cũng nhiều tủi nhục của dân tộc. Bây giờ đến lượt ông là người dẫn đầu gia phong có trách nhiệm chuyển dòng sức sống này chảy tới cho đàn con cháu đã đưa sang Mỹ. Khói từ nồi bánh chưng tỏa lên nghi ngút tưởng chừng như khói hương rước hồn thiêng tiên tổ từ những mồ cao mả dài hằng bao thế hệ về hiện diện nơi đây, một Việt Nam thu hẹp.
Nấu bánh chưng thì cũng phải nấu bánh dầy. Vuông phải hòa nhập với tròn, đất phải hòa hợp với trời. Ông bảo chỉ nấu bánh chưng không, là nghe dại mấy đứa duy vật vô thần nghỉ chơi với Trời, cho ông Trời thất nghiệp "lây óp" là láo xà. Nên ăn tết phải có đủ nghi lễ bánh chưng bánh dầy. Người Nam mình còn đơn giản hơn nữa, nét vuông nét tròn được cô đọng lại nơi đồng bánh téc. Trời cao đất thấp gặp nhau. Xa cách mấy rồi cũng nối liền được. Đối nghịch mấy rồi cũng dung hóa được. Mà có dung hóa như vậy được thì mới phát sinh điện lực, như cực âm cực dương nối kết. Người Việt lì lắm, gặp khốn khổ mấy cũng biết vậy đã. Rồi đâu cũng vào đó. Cũng có cách giải quyết chứ không điên mát như người Âu Mỹ đâu.
Cảnh nấu bánh dầy bánh chưng mà linh thiêng vậy đấy, có nghi thức hẳn hòi chứ chả thường đâu. Cả nhà tham dự. Cả dòng họ tiên tổ tham dự. Cả trời đất tạo dựng, chuyển dòng sức sống cho từng người, cho từng công việc, cho cả năm. Mark Sindler không mê sao được.
LẠI NHỚN NHÁC TÌM
Quả thực, người Âu Mỹ đang thừa tiền mà lại quá nghèo tinh thần và tình thương. Họ đang mệt mỏi và nhớn nhác đi tìm lối thoát, nhưng chỉ thích tìm cái gì mới lạ thôi, chán những cái đã có. Nhiều người mò sang Nhật học thiền, tập vũ thái cực của Tàu, tập Yoga của Ấn. Thậm chí sách viết về mật tông Tây Tạng như Hoa Sen Trên Tuyết, Hành Trình Về Đông Phương, Tử Thư, bán chạy hơn tôm tươi.
Thiền là một thứ thời trang bây giờ, đánh đúng thị hiếu người Mỹ đang quá thừa mứa mệt mỏi. Nhiều người chịu chi cả 75 tiền Mỹ một ngày để được dạy cho cách thiền ăn táo, mà táo mỗi người phải mang theo sẵn.
Chậm lại, đừng hối hả. Tỉnh thức. Hít vào. Thở ra. Dõi theo hơi thở trở về nhất tâm. Biết mình đang hít vào, đang thở ra. Ý thức mình đang ăn, và hưởng cái thú đang ăn táo, từng miếng nhai, từng vị ngọt, ý thức mình đang nuốt...
Thế là ăn xong một trái táo, ra về thơ thới hân hoan vì đã biết ... ăn táo, mà chỉ mất có 75 đồng.
TIẾT LIỆU DẠY THIỀN
Thực ra thì Thiền không phải là của riêng Nhật hay Phật Giáo. Thiền đã có từ lâu trong truyền thống Ấn Độ cũng như nhiều tôn giáo, là một phương cách tĩnh niệm, là nhìn kỹ để bỗng mở mắt thấy một điều gì mà mọi khi vẫn nhìn mà không thấy: sức sống đang hiển hiện. Trời đất chỉ có một hơi thở, một Thần Khí, một dòng sức sống. Chỉ cần bắt lại được vào nhịp sống đó, thì tìm lại an lạc. Thi hào Tagore và linh mục dòng Tên người Ấn là Anthony De Mello gọi là Sadhana. Truyền thống Công Giáo thì gọi là chiêm niệm. Thánh I-Nhã gọi là Linh Thao. Thế thôi. Điều khác biệt căn bản là người Công Giáo thấy được dòng sức sống là chính Thánh Thần Tình Yêu đang hiện diện, chứ không phải là một lực vô vi.
Nếu nói như vậy thì văn hóa Việt đã biết linh thao hay thiền từ lâu rồi. Đúng là dân mình là dân có đạo. Hoàng Tử Tiết Liệu trong truyện thiêng bánh dầy bánh chưng, đã có thể lên ngôi sống đời hoàng vương giàu có nhờ biết linh thao: hòa nhịp vuông góc cạnh cuộc sống nhốt hộp của đất với dòng sinh khí của Trời tròn đầy vô biên. Tiết Liệu đã biết cách liệu cho hòa nhịp được tiết điệu trời đất. Thiền đúng điệu rồi còn gì.
Con trăng có nhịp, con nước có nhịp, con người cũng có nhịp. Cứ đóng kín ích kỷ cố giữ lấy nhịp riêng của cái tôi mà không đi được vào tiết điệu trời đất của cái Ta nhịp nhàng toàn mãn là loạn ngay, mát dây, chạm điện tứ tung. Leonardo da Vinci là một trong những người tiên phong cho nền khoa học và y học hiện đại, đã có lần vẽ lên hình ảnh một người sống lành mạnh cân bằng theo Vitruvius khi chân tay chạm được với hình vuông và tròn. Đúng với câu giáo khoa thư ngày xưa: "Người ta... đầu đội Trời, chân đạp đất, chẳng ngang như súc vật, chẳng ngườc như loài cây". Ngày Tết là ngày người Việt tìm bắt lại nhịp trời đất. Một năm với bao đợt sóng nhồi xuống tung lên dễ làm cho lòng người chao động và say sóng. Thì đây là lúc linh thao, dừng chân nhìn kỹ để nhận ra đạo trời, để hòa nhập vào sức sống đất trời đang cựa mình đổi mới sang xuân. Dòng sinh lực ơn thánh đang tuôn chảy từng giây phút đây này qua mọi sự. Từng động tác, từng cảm giác, từng ngụm khí thở, quí báu chừng nào. Và bỗng thấy phép lạ của cuộc hiện hữu, đang được sống, đang giang rộng tay để lãnh nhận. Vui như Tết là vậy.
LINH THAO NGÀY TẾT
Trời đã sẵn có đạo, có đường lối, có tiết nhịp như thế rồi, cứ việc hòa theo thôi là an vui hạnh phúc. Những gì cũ đang qua đi, mình thở ra một hơi thật dài, xả buông mọi sự theo mây gió. Và hít một hơi cho đẫy, nhận lấy cả sinh lực đất trời. Giờ đây tất cả đều trở thành mới, từ trong ra ngoài. Hòa mình vào từng cây xanh bãi cỏ trong hội đạp thanh hái lộc. Hòa nhập vào thiên nhiên, vạn vật, vào những gì đang thấy trước mặt. Tất cả đều lạ lùng. Gạo và đậu làm nhân có ngay trong nhà. Lá gói có ngay trong vườn. Hạnh phúc vuông tròn toàn mãn ở ngay trong tầm tay chứ có phải chạy tìm mãi nơi xa tắp nào như những hoàng tử khác, giống người Mỹ nhớn nhác bây giờ.
Niềm vui chỉ toàn mãn khi đất vuông hòa nhập được vào với trời tròn. Đức Maria cũng linh thao khi dâng con vào đền thờ. Như linh mục linh thao khi pha chút nước vào chén rượu trong thánh lễ với tâm tình: "Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con".
Đúng rồi. Từng bổn phận nhỏ bé thường ngày như việc dâng con theo phong tục, nuôi nấng dạy dỗ con được lớn lên trong mạnh khỏe hiền ngoan, từng việc nấu cơm dọn nhà, tất cả đều trở thành những tác động linh thao, biến đổi từ vuông cạnh ra tròn đầy sung mãn. Cuộc sống đầy những phép lạ kinh ngạc.
Tổ tiên mình cũng sống tinh thần linh thao hay thiền từ lâu. Cấy lúa, tát nước, làm mùa, dệt chiếu là linh thao. Giã gạo, rửa chén là linh thao. Vừa làm vừa ca hát vừa thiền đấy. Ăn Tết là linh thao. Bưng bát cơm đầy, ăn táo cũng là linh thao:
Người ta đi cấy lấy công,Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
Nhìn gió, ngắm trăng sao là linh thao. Mục đích của linh thao là để thấy Chúa trong mọi sự mà. Tổ tiên thì thấy ông Trời bao trùm vạn vật. Như vậy đời sống là một chuỗi thiền chứ không chỉ giới hạn trong nhà thờ hay phòng nguyện nào cả. Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cảm nghiệm thấy như vậy:
Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gióHãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao.
Một khi đã bắt lại được vào nhịp trời đất như hoàng tử Tiết Liệu rồi, thì dù mọi thăng trầm có xô đẩy tới trong năm, người Việt vẫn cảm thấy an nhiên bình thản. Như bánh dầy bánh chưng hòa nhập làm nên đạo sống, việc chấp nhận được cả các đối nghịch, dung hóa được hai cực âm dương thành điện lực, biến chế mọi sự thành vuông tròn tốt đẹp. Nhịp đạo Trời đã sẵn vậy mà, như niềm tin tưởng trong ca dao:
Dù ai nói ngược nói xuôiTa đây cứ vững đạo Trời khăng khăng.
Chủ đề:Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng 3 lỗ tai: Lỗ tai của tâm trí, lỗ tai của trái tim và lỗ tai của linh hồn.
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường: TN3-C27
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường (Sy-nagogue). Đền thờ thì chỉ có một cái, tức Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do Thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu và bồ câu. Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng thuyết nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ Misa của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống chúng ta giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phục vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ; giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc Ly; “Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Ngài cầm chén lên và nói: “Đây là chén của giao ước mới ký kết trong máu Ta, máu sẽ đổ ra vì các con” (Lc 22:20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là lắng nghe. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa đề là The Royal Hunt of the Sun (Hoàng gia đi săn mặt trời). Vở này kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta; “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này” Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ; “Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?”
Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hêt, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí. Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do Thái để nghe Chúa Giêsu nói. Ngài tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu; “Thần khí Chúa ngự trên tôi. Và Ngài còn tưởng tượng ra nỗi phấn khích như điện giật lan chuyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố “Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó”.
Như thế nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng Lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây dựng điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông; “Được lời lãi cả thế gian mà mất đi chính mình thì lợi ích gì đâu?” (Lc 9:25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: “Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!”. Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách lắng nghe Lời Chúa sau cùng là nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về Lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi hủy diệt đời sống ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rổi quản trị nó”. Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, ngoài phút giây chúng ta cầu nguyện chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm mơ ước muốn cải tạo hoàn cảnh hiện tại, Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta về môt trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, những chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Chúa bằng ba cách:
Bằng lỗ tai tâm trí, bằng lỗ tai trái tim và bằng lỗ tai linh hồn.
Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa dược diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta, và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
Đọc Kinh Thánh là việc cần thiết trong đời sống của người Kitô hữu. Vì Kinh Thánh là sách chứa: TN3-C28
Đọc Kinh Thánh là việc cần thiết trong đời sống của người Kitô hữu. Vì Kinh Thánh là sách chứa đựng Lời Thiên Chúa nói với con người. Kinh Thánh không phải là bộ sách cổ được cất giữ trong các thư viện quốc gia, cũng không phải là một món hàng giá trị được triển lãm, hay bán đấu giá cho người khác mua, nhưng Kinh Thánh cần được người tín hữu đọc hằng ngày. Chính Chúa Giêsu trong cuộc đời tại thế cũng thường hay đọc Kinh Thánh. Chúng ta đã biết khi lên 12 tuổi Chúa Giêsu đã ngồi thảo luận về Kinh Thánh với những vị trưởng lão tại đền thờ Giêrusalem. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một lần Chúa Giêsu đọc Kinh Thánh trong hội đường Nagiarét quê hương của Ngài, vào ngày Sa-bát. Theo gương Chúa Giêsu chúng ta cần phải chăm đọc, lắng nghe, học hỏi Lời Chúa trong Thánh lễ và trong cuộc sống hằng ngày.
1. Dân Do Thái nghe đọc sách Thánh:
Việc đọc Sách Thánh xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử dân Do Thái. Việc đọc Sách Thánh trong thời Cựu Ước gần giống với việc công bố Lời Chúa trong thánh lễ của chúng ta hôm nay. Theo bài đọc 1, tác giả sách Nơ-khê-mi-a kể lại: Sau khi dân Chúa lưu đày được hồi hương về Giêrusalem, Thầy tư tế Ê-đơ-ra quy tụ đoàn dân ô hợp lại để đọc Sách Luật cho họ nghe. Trước tiên, ông dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng và toàn dân đồng thanh đáp lại Amen. Họ cúi mình phủ phục xuống đất mà thờ lạy Chúa. Kế đó ông bắt đầu đọc và giải thích Sách Luật Mô-sê cho họ. Dân càng nghe càng thấm thía tình thương cứu độ của Thiên Chúa đối với họ. Mắt họ rơi những giọt lệ thống hối, nhưng thầy tư tế Ê-đơ-ra khuyên họ nên cụ thể lòng thống hối bằng một cuộc sống mở lòng chia sẻ cơm áo cho những người nghèo khổ bất hạnh.
2. Chúa Giêsu công bố lời Chúa:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu trở về quê nhà ở Nagiarét. Vào ngày Sa-bát, theo thói quen Ngài vào hội đường và được viên Trưởng hội đường trao cho vinh dự đọc Sách Thánh. Chúa mở sách và đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia nói về người Tôi Trung của Thiên Chúa, nghĩa là ám chỉ về chính Ngài. "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đọc xong, Chúa đóng sách lại và ngồi xuống giảng dạy cho dân chúng đang chăm chú lắng nghe y như một vị Rabbi. Ngài nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm Lời Kinh Thánh mà tai quí vị vừa nghe”
3. Lời Chúa trong thánh lễ:
Điểm sơ qua những nét chính của bài đọc 1 và bài Tin Mừng để chúng ta hiểu được tầm quan trọng của việc đọc và nghe Lời Chúa trong lịch sử Dân Chúa. Nhờ ơn soi sáng của Lời Chúa chúng ta xác tín rằng, ngày nay Chúa Giêsu đang còn công bố Lời Chúa trong Thánh lễ khi Giáo Hội cử hành. Đến tham dự Thánh lễ chúng ta được nghe Lời Chúa. Chúa đang dạy dỗ,hướng dẫn Dân Mới của Ngài là Giáo Hội qua các bài đọc. Chính Chúa quy tụ chúng ta để liên kết mọi người với với nhau và bên Chúa. Chúa đang công bố một thời cứu độ,năm hồng ân cho toàn thể nhân loại. Tất cả những ai tin vào Ngài, đến gặp gỡ Ngài trong thánh lễ đều được mời gọi bước vào thời cứu độ đó. Thật không cảnh tượng nào đẹp bằng hình ảnh mà đoạn trích sách Isaia loan báo được Chúa Giêsu công bố hôm nay. Tin mừng được loan báo cho người nghèo,người câm nói được, người què đi được, người tù được phóng thích, đó là cảnh tượng thời cứu độ Chúa Giêsu ban cho tất cả mọi người. ? Chúa Giêsu đang mở rộng cánh cửa của năm Hồng ân, thời Cứu độ cho mọi người, không trừ một ai.
Nhưng làm thế nào để thời cứu độ đó được bắt đầu ? Lời Chúa hôm nay chỉ ra cho chúng ta một cách thế. Đó là hãy chăm đọc và lắng nghe Lời Chúa, để cho Lời Chúa thâm nhập vào đời sống,làm mới tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta có thể nhận ra ý định Chúa. Lời Chúa là cẩm nang cho chúng ta trong đời sống lòng tin. Lời Chúa dạy chúng ta sẽ biết phải làm gì cho thời Cứu độ được bắt đầu ngay trong cuộc sống tại thế này.
Thật vậy,trong thánh lễ mỗi khi nghe bài Tin Mừng chúng ta được nghe chính lời Chúa Giêsu giảng dạy cho các môn đệ và dân chúng thưở xưa, được nghe kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu đã sống chết vì con người. Ngài quả thật là Đấng đến đem lại cho thế giới này những điều tốt đẹp nhất.
Nhưng nhiều khi chúng ta không đón nhận sứ điệp Lời Chúa được nghe hằng ngày. Khi tham dự thánh lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa cùng các cộng đoàn. Chính Chúa đang nói với chúng ta qua các bài đọc chứ không phải ai khác, các vị thứa tác viên đọc sách Thánh chỉ là dụng cu Chúa dùng để đem Lời Chúa đến mà thôi, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa như năm xưa dân Chúa nghe thầy tư tế Ê-dơ-ra đọc Luật Mô-sê. Càng nghe Lời Chúa chúng ta lại càng cảm nghiệm được tình yêu thương vô bờ mà Chúa dành cho con người.
Phần Phụng vụ Lời Chúa gồm: Bài đọc 1, Đáp ca, bài đọc 2, câu xướng trước Tin Mừng, bài Tin Mừng, bài giảng, Kinh Tin Kính và lời nguyện chung, tất cả điều hài hòa với nhau theo một chủ đề xuyên suốt nhằm cung cấp cho chúng ta một bài học đầy đủ cho đời sống lòng tin.
Chúng ta đang sống trong những ngày đầu năm mới, trong bầu khí vui mừng của những ngày tết của toàn dân tộc Việt Nam chúng ta phải quyết tâm chăm chú nghe Lời Chúa trong thánh lễ, không trò chuyện, hay suy nghĩ chuyện khác. Đừng để cho khi thánh lễ kết thúc, chúng ta ra về mà chẳng còn đọng lại một chút gì những điều Lời Chúa dạy. Chúng ta dành thời giờ cho mình và gia đình của minh trong ngày một thời gian ngắn để đọc và suy niệm Lời Chúa. Chúng ta phải học theo thái độ của Mẹ Maria, nghĩa là luôn đón nhận, suy niệm và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa ! Chúng con luôn xác tín rằng:Trong thánh lễ này chính Chúa quy tụ chúng con lai để dạy dỗ chúng con qua Lời Chúa. Chúa qúa biết chúng con còn yếu đuối dễ sa ngã nên bao giờ cũng cần phải được Chúa nhắc nhớ thường xuyên về những điều hay lẽ phải. Xin cho chúng con biết chú tâm lắng nghe Lời Chúa trong thánh lễ và đọc Lời Chúa hằng ngày để biết làm những điều gì Chúa ưa thích, biết sống hết mình vì Chúa và dấn thân phục vụ vì hạnh phúc của tha nhân. Vì chính khi đó là ngày cứu độ, Năm Hồng Ân đã bắt dầu trong cuộc đời này. Amen Martin Lê Hoàng Vũ
Kể từ lễ Giáng sinh năm nay đến lễ Hiển Linh năm 2005, Giáo Hội Việt Nam cử hành năm Hồng: TN3-C29
Kể từ lễ Giáng sinh năm nay đến lễ Hiển Linh năm 2005, Giáo Hội Việt Nam cử hành năm Hồng Ân, hay nói cách đơn giản là Năm Thánh. Việc cử hành Năm Thánh này để kỷ niệm 470 năm Giáo Hội Việt Nam đón nhận Tin Mừng. Bài Tin Mừng Chúa nhật III thường niên hôm nay được coi là bài Tin Mừng của Năm Thánh, vì mang ý nghĩa Năm Thánh, Năm Hồng Ân. Bởi nội dung của nó là chính lời Chúa Giêsu tuyên bố khai mạc thời gian Thánh. Bởi thế, nếu ai tham dự ngày khai mạc Năm Thánh, chắc chắn sẽ được nghe nội dung của bài Tin Mừng này.
Hôm nay, một lần nữa, Giáo Hội lại đề nghị chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này. Vậy nội dung của bài Tin Mừng là gì mà Giáo Hội lại coi là mang ý nghĩa của thời gian Thánh?
Từ rất xa, trong Cựu Ước, tác giả sách tiên tri Isaia đã báo trước ngày dân Chúa sẽ lãnh nhận Tin mừng cứu độ. Lời loan báo này khởi đi từ nỗi thống khổ của Dân Chúa trong thời gian bị bắt lưu đày trở về. Lúc ấy, tiên tri Isaia nói về ơn gọi của mình: Ông “được xức dầu Thánh Thần” để trở nên ngôn sứ và được sai đi loan báo Tin Mừng cho đám dân cùng khổ vừa mới hồi hương ấy. Lời ông nói trở thành lời an ủi, lời đầy yêu thương, để dân chúng biết rằng, tình thương yêu vô vàn của Thiên Chúa vẫn đổ tràn trên họ. Thời khốn cùng đã chấm dứt. Chúa sẽ khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do cho dân của Người, đó là việc “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”.
Và hôm nay, cũng trước mặt toàn dân, Chúa Giêsu, áp dụng lời này của tiên tri Isaia cho chính mình: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Như thế, Người đã làm cho hoàn cảnh, hay thời buổi mà lời nói của tác giả sách tiên tri Isaia ra đời, cũng như chính lời ấy trở thành tiên trưng, báo trước điều mà ngày hôm nay đang xảy ra nơi chính bản thân của Người.
Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để dân Chúa được bình an mà sống những ngày tháng sau lưu đày, thì đây, với lời tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”, Chúa Kitô đã chính thức công bố thời kỳ cứu độ ấy đã đến. Người không chỉ mang bình an trong cuộc đời mà còn là ơn bình an vĩnh cửu. Vì chính Người là ơn Cứu Độ của chúng ta. Đây là thời kỳ mà những người nghèo được đón nhận Tin Mừng. Họ sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, và sẽ sống tự do. Vì thế, cùng với Chúa Kitô, thời gian Thánh đã được khai mở. Thời gian Thánh được sách Thánh gọi là “Năm Hồng Ân”.
Bạn ạ, Chúa Kitô đã khai mở Năm Hồng Ân, nhưng Người chưa kết thúc. Do đó mọi ngày trong thời Tân Ước, tức là thời mà chúng ta đang sống, đều là thời của Năm Thánh. Cho nên ngay từ đầu, từ tựa đề của bài này, thay vì gọi là năm Thánh, tôi đã nói “Thời Gian Thánh”. Chính xác hơn, ta phải hiểu rằng, năm Hồng Ân mà Chúa tuyên bố không là một năm tròn 365 ngày như chúng ta quen hiểu, mà là một triều đại cứu độ của Chúa Kitô. Triều đại này không bao giờ tàng phai, vì Chúa Kitô hằng sống và luôn hiển trị.
Nói rằng mọi ngày đều là thời gian Thánh, sao trong lịch sử Giáo Hội lại có nhiều năm Thánh? Chẳng hạn năm Thánh 2000 vừa qua và bây giờ tại Giáo Hội Việt Nam là năm Thánh truyền giáo? Đó là những năm Hồng Ân do Giáo Hội công bố. Năm 2000 là năm Thánh cho cả Giáo Hội hoàn vũ. Còn năm Thánh 2004 cho Giáo Hội Việt Nam, vì là kỷ niệm việc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam tròn 470 tuổi, và Tòa Thánh đã ân chuẩn cho Giáo Hội Việt Nam, nhằm mang lại lợi ích cho các tín hữu trên quê hương này và nhắc nhở họ ý thức ơn gọi truyền giáo. Như vậy, những năm Thánh do Giáo Hội công bố có khởi đầu và có kết thúc. Tất cả các năm Thánh dù là bình thường (25 năm một lần) hoặc ngoại thường (như năm Thánh Truyền giáo tại Việt Nam), đều có một điểm chung, đó làgiúp dân Chúa ý thức thời gian ân xá kéo dài mãi đến tận thế, nhờ công trình cứu độ của Chúa Kitô.
Hiểu như thế, ta thấy bản thân mình khi sống trong năm Thánh truyền giáo này, phải nói được như Chúa Kitô: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai anh chị em vừa nghe”. Vì xung quanh mình còn quá nhiều người khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do… nhưng không mấy người trong số họ tin vào Chúa Kitô. Sở dĩ như vậy, phần nào là lỗi của chúng ta. Anh chị em chưa nhìn biết Chúa vì thiếu chất xúc tác để đưa dẫn họ về với Chúa. Chất xúc tác ấy chính là tình yêu, lòng bác ái, vị tha, vô vị lợi… của chúng ta. Nói các khác, Tin Mừng bị khựng lại, đã không được anh chị em đón nhận vì Tin Mừng ấy thiếu chứng tá. Vậy bạn và tôi hãy là những chứng tá cho Chúa, cho Tin Mừng của Người ở giữa cuộc đời này. Chứng tá mới là lời rao giảng hữu hiệu và sống động, ngàn lần hơn những lời hay ý đẹp chỉ thốt lên từ cửa môi mà không hề được người Kitô hữu sống.
Vậy tôi tự nhủ lòng, mình hãy lợi dụng thời gian Thánh, tức là năm Thánh truyền giáo này, để ý thức hơn nữa vai trò và trách nhiệm rao giảng Lời Thiên Chúa của bản thân. Ước gì Lời Chúa được ứng nghiệm trong đời tôi, để Lời Chúa nói: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh…”, thì “Hôm Nay” đó của Chúa được kéo dài mãi, dài mãi… Ít là cái “Hôm Nay” ấy sẽ là thời gian Thánh trong suốc cuộc đời của tôi.
Để được tất cả những mong ước ấy, tôi cần lặp lại từng giây phút, suốt đời mình, một điều đã xưa, đã cũ nhưng quan trọng: Ơn Cứu độ đã được thực hiện nhờ Tình yêu. Nguồn Tình yêu là chính Chúa Kitô. Chính Tình yêu đó sẽ biến đổi thế giới, biến đổi lòng người, BẮT ĐẦU TỪ CHÍNH BẢN THÂN TÔI. Nói cách khác, Năm Thánh truyền giáo là Năm mà tôi biết để cho Tình yêu của Chúa chảy từ bản thân tôi đến với anh chị em quanh mình.
* BÀI ĐỌC 1: Nehemia 8, 2- 4; 5- 6; 8- 10= Đoạn này nói ông Ét-ra đọc RÕ RÀNG và giải thích sách Luật của Thiên Chúa cho tòan dân./ This passage describes Ezra read plainty and interpreting the book of the God’s Law to all the people.
* BÀI ĐỌC 2: 1 Cor.12, 12- 30 = Thánh Phaolô cho ta biết tuy khác nhau nhưng đều hiệp nhất, chúng ta là một và là chi thể của nhau./ Paul brings out our diversity in unity, we are ONE for one body another, we need our mutual in-spiration.
* TIN MỪNG (Gospel): Luca 1, 1- 4; 4, 14- 21= Chủ đề của bài này giải thích thật rõ ràng của Đức Giêsu về đoạn Kinh Thánh của Isaia./ The theme is clearly seen in Jesus’ interpretation of the Scripture passage from Isaiah.
A. Bạn và tôi cùng Cảm- Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflection, live out and share )
Đức Giêsu đã mở trúng đoạn sách Tiên tri Isaia như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa: TN3-C30
1/ Đức Giêsu đã mở trúng đoạn sách Tiên tri Isaia như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong cho tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn...” Mỗi người Tín hữu đều được mời gọi qua hồng ân này từ khi chịu phép Rửa tội, các thánh đã cảm nhận sứ mệnh cao cả trên và quyết tâm thực hiện thông điệp cứu độ của Chúa cho tha nhân bằng nhiều cách. Cho biết cụ thể cách loan báo Tin Mừng cho tha nhân của tôi? (Hành đạo)
“The Spirit of the Lord is upon me; therefore He has anointed me. He sent me to bring glad tidings to the poor.” (Lc. 4, 18)
2/ Sau khi đọc xong, mọi người đều chăm chú nhìn Đức Giêsu, Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Ơn cứu độ Chúa muốn ban cho mọi người không phải chỉ cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng là cho bạn và tôi ngày Hôm nay.! Ngài xuất hiện để khai mở hồng ân loan báo cho tất cả những ai khao khát Tin Vui giải thoát. Chia sẻ những người bạn thấy cần đưa Tin Mừng cứu độ cho họ? (Sống đạo)
He began by saying to them: “Today this Scripture passage is fulfilled in your hearing.” ( Luca 4, 21 )
3/ Trong bài đọc 1, sách Nehemia viết: “Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc.” Bạn và tôi đã đọc và dã nghe Lời Chúa, đã dẫn giải cho người khác nữa; nhưng có trở về với Chúa bằng đời sống thì Ngài sẽ tập họp chọn lấy hay là bất trung thì tôi sẽ bị phân tán,tiêu diệt...Kể vui mừng, bình an khi tôi thực hành Lời Chúa trong Gia đình? (Sùng đạo)
“Ezra and Levites read plainty the book of Law of God, interpreting it... could understand what was read.” (Neh. 8, 8 )
4/ Thánh Phaolô nói rõ ràng các ơn hoạt động của Thánh Thần trong mọi người như sau: “Tất cả chúng ta là Do Thái hay Hy Lạp, Nô lệ hay Tự do, chúng ta đã đều chịu phép Rửa trong một Thần Khí để trở nên một thân thể...” Như vậy mỗi người con Chúa có ơn Đặc Sủng khác nhau để làm nên thân mình Đức Kitô đang hiện diện trong Thánh Thần của Ngài. Không phân biệt chủng tộc, màu gia, tiếng nói, kẻ hèn, người sang, kẻ mù, người điếc đều được những ơn trong cùng một Thần Khí duy nhất. Nói cái nhìn của bạn với anh em bên cạnh thế nào? (Học đạo)
“It was in one Spirit, whether Jew or Greek, slave or free, were Baptized into one body...” ( 1 Cor. 12, 12- 30 )
B. Lời Chúa kêu gọi tôi Sống tuần này: ( The Best God’s Word )
VÌ CHÚA ĐÃ SỨC DẦU TẤN PHONG CHO TÔI ĐỂ TÔI LOAN BÁO TIN MỪNG CHO KẺ NGHÈO HÈN
Therefore He has anointed me; He has sent me to bring the Good New to the poor. (Lc 4, 18 )
Vatican II: Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô. (HCMV # 1)
Mẹ Maria: Kẻ nghèo khó Chúa cho no đầy ơn phúc, và để người giầu có trở về tay không. (Luca 1, 53)
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì: Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm Nghiệm Sống và Chia sẻ ở phần A để thực hành.
D. Tôi cầu nguyện và Sống cầu nguyện: Lạy Cha, Đúc Kitô đã nói: Hôm nay đã ứng nghiệm Lời Kinh Thánh quý vị vừ a nghe. Xin giúp con thi hành Giáo huấn của Con Cha ngay hôm nay với anh em đãng nghèo nàn và đau khổ.
Lời hay ý đẹp: CHÚA GIÊSU YÊU MỌI NGƯỜI, CHỨ KHÔNG CHỈ YÊU NHỮNG NGƯỜI GIỐNG NHƯ BẠN
“ Jesu loves all people, not just the ones who look like you.”
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: - Phần I (Lc 1,1-4): Bài Tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu: TN3-C31
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: - Phần I (Lc 1,1-4): Bài Tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu lý do khiến Luca viết Tin Mừng và giá trị chính Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần:
- Phần I (Lc 1,1-4): Bài Tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu lý do khiến Luca viết Tin Mừng và giá trị chính xác của cuốn sách là nhờ dựa trên truyền thống và có tính khoa học. Vì tác giả là một nhà sử học đáng tin cậy, đã dày công sưu tầm nghiên cứu các điều đã được các người ngay từ đầu đã chứng kiến, đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho.
- Phần II (Lc 4,14-21): Đức Giêsu sau khi lãnh phép rửa và chịu thử thách cám dỗ, đã khởi đầu sứ vụ Thiên Sai bằng việc rao giảng chương trình hành động cụ thể, đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm như sau: Đức Giêsu đã được Thánh Thần ngự xuống trên mình để xức dầu thiêng liêng, tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai, rồi sai Người thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng: cho kẻ nghèo hèn biết họ sẽ được giàu có về ân sủng, kẻ đang bị tù đày sẽ được tự do, kẻ mù lòa sẽ được sáng mắt, người đang bị áp bức sẽ được giải oan, và Người sẽ công bố một Năm Hồng An Cứu Độ cũng gọi là Năm Toàn Xá.
2) Chú thích:
- Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta (Lc 1,1-2):
+ Lời tựa: Được viết theo lối Hy Lạp. Luca trình bày cách thức làm việc của mình và nêu rõ chủ ý của ông là muốn viết một trang sử thánh, một Tin Mừng về Đức Giêsu, dựa vào truyền thống của Giáo Hội.
+ Ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính: “Ngài” là một tiếng dùng để nói với một bậc vị vọng đáng kính. Thê-ô-phi-lô có thể là một Kitô hữu đãhọc đạo và muốn tìm hiểu sâu về Tin Mừng. Mà cũng có thể là một người ngoại giáo được Luca tặng cuốn Tin Mừng này để biện hộ cho đức tin kitô giáo. Nhưng thông thường được hiểu là một người giàu có, đáng kính thời bấy giờ, được Luca gửi tặng để nhờ ông này dùng tiền sao chép nguyên bản ra nhiều bản sao bằng tay khác hầu dễ dàng phổ biến cuốn sách.
+ Có nhiều người đã ra công biên soạn: “Nhiều người” là một kiểu nói cường điệu thường được xử dụng trong các bài tựa các cuốn sách thời bấy giờ. Thực ra những người ra công biên soạn chỉ có Máccô và một số tác giả vô danh mà ngày nay ta chưa biết rõ là ai, vì không có văn bản nào còn lưu lại.
+ Những điều đã được thực hiện giữa chúng ta: Tác giả xác định về nội dung của tác phẩm, những biến cố liên quan đến đời sống và sứ mạng của Đức Giêsu.
+ Những người được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa: ám chỉ các tông đồ của Đức Giêsu.
- Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài. Mong ngài sẽ nhận thức được rằng: giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc (Lc 1,3-4):
+ Cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự: Luca tra cứu đầu mối căn nguyên về cuộc đời Đức Giêsu và Tin Mừng mà Người rao giảng, vì ông không phải là người đi theo Đức Giêsu ngay từ ban đầu như nhóm 12 tông đồ.
+ Tuần tự viết ra: là theo thứ tự về văn chương và giảng huấn, chứ không theo thứ tự thời gian xảy ra.
+ Giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc: Luca muốn trình bày những sự kiện chính xác theo lối các sử gia thời bấy giờ, để không ai bắt bẻ hay hoài nghi gì được.
- Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và được mọi người tôn vinh (Lc 4,14-15):
+ Được quyền nằng Thần Khí thúc đẩy: Trong quyền năng Thần Khí, Đức Giêsu được Thánh Thần mà Người đã nhận khi chịu phép rửa, đưa đẩy vào sa mạc ăn chay và chịu ma quỷ thử thách. Giờ đây cũng Thánh Thần ấy lại thúc đẩy người trở về miền Galilê.
+ Tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận: Lời giảng, việc làm và đời sống thánh thiện của Đức Giêsu khiến dân chúng cảm phục và loan khắp vùng lân cận Galilê.
+ Người giảng dạy trong các hội đường của họ: hội đường là nơi hội họp của Người Do thái ở Pa-lét-tin cũng như những nơi có người Do thái cư ngụ. Ngày sa-bát, người ta đọc sách Luật hay sách Ngôn Sứ, rồi sau đó là phần giảng giải. Người Do thái trưởng thành nào cũng có quyền được giảng trong hội đường. Tuy nhiên, viên trưởng hội đường thường trao Sách Thánh và nhờ giải thích Lời Chúa cho các luật sĩ (x. Cv 13,15). Đức Giêsu cũng hay được mời giảng tại các hội đường. Lời giảng của Người linh động thực tế và Người giảng như một đấng có quyền, khiến mọi người nghe đều cảm phục và ca ngợi.
- Rồi Đức Giêsu đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a (Lc 4,16-17a):
+ Đức Giêsu đến Na-da-rét: Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu trở về quê hương Na-da-rét của Người hai lần. Đây là lần thứ nhất nhằm vào ngày hưu lễ (sa-bát).
+ Người vào hội đường: Theo thói quen, Người vào hội đường để cầu nguyện và nghe đọc Sách Thánh. Viên quản đốc hội đường nghe biết về Người, nên đã tín nhiệm trao Sách ngôn sứ I-sai-a cho Người đọc và sau đó giải thích cho dân.
- Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc 4,17b-19):
+ Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Chữ gặp ở đây cho thấy Đức Giêsu đã không chọn hay sửa soạn trước, nhưng mở ra đã gặp ngay một đoạn sách phù hợp, dường như có bàn tay quan phòng của Chúa đã can thiệp mở ra cho Người.
+ Thần khí Chúa ngự trên tôi…Đoạn văn được trích dẫn trong sách I-sai-a (x. Is 61,1-2) có lẽ nói về việc xức dầu tấn phong một vị Ngôn Sứ (x. 1 V 19,16). Nhưng Đức Giêsu đã ứng dụng vào bản thân Người: Người mới lãnh nhận Thánh Thần trong cuộc thần hiện sau khi chịu phép rửa, và coi đó là nguồn gốc phát sinh hoạt động cứu độ của Người.
+ Công bố một năm hồng ân của Chúa: Năm Hồng An hay Năm Toàn Xá của Thiên Chúa. Theo luật Môsê, cứ năm mươi năm lại cử hành một lần (Lv 25,10-13). Đức Giêsu trình bày sự xuất hiện của Người như là sự khai nguyên cho thời kỳ hồng ân đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo.
- Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho Người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,20-21):
+ Ngồi xuống: Đức Giêsu với tư thế một ráp-bi Do thái, đã ngồi mà giảng dạy trong khi dân chúng thì ngồi lắng nghe.
+ Chăm chú nhìn: Dân làng Na-da-rét hiếu kỳ muốn nghe Đức Giêsu giảng để có thể tự mình đánh giá thực hư về Đức Giêsu so với những lời người ta đồn đại về Người.
+ Hôm nay: Chữ này xuất hiện nhiều lần trong Tin Mừng Luca, nhằm nhấn mạnh đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ. Chẳng hạn: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,11); “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22; Tv 2,7); “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21); “Hôm nay chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ !” (Lc 5,26); “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật…” (Lc 13,32-33); “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5b); “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9); “Hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22,34.61); “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
+ Đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe: Đức Giêsu trình bày sự xuất hiện của Người như là khai mở cho thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã từng loan báo. Thực vậy: Khi chịu phép rửa cho Gioan, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một nghi lễ xức dầu thiêng liêng, tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai, để mang Tin Mừng cứu độ cho người nghèo, kẻ tù đầy được giải phóng, người đui mù được sáng mắt…
II. Học sống Lời Chúa:
1) Chủ đề: Sống và làm chứng cho Tin Mừng:
- Lời Chúa: “Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó”.
- Câu chuyện: Người nghèo bị xua đuổi:
Chuyện xảy ra trong một đêm trình diễn Thánh ca Giáng Sinh: Một thanh niên hóa trang thành một mục đồng nghèo khó, trong phần các mục đồng đến viếng hài Nhi Cứu Thế. Nhưng anh chàng thanh niên này lại không thể đến gần sân khấu được, vì bị những người giữ trật tự xua đuổi, vì họ tưởng lầm anh là gã hành khất đến xin tiền và làm mất trật tự cho buổi trình diễn.
- Suy niệm:
+ Về hóa trang, ban tổ chức đã thành công khi làm cho chàng thanh niên đóng vai mục đồng nghèo khó đã hóa thân thành một người hành khất có dáng vẻ nghèo thực sự.
+ Nhưng về mặt tinh thần, thì vô tình những người giữ trật tự đã có thái độ ngược lại với tinh thần của Đức Giêsu là ưu tiên ban ơn cứu độ cho người nghèo. Điều đó chứng minh rằng: Tin Mừng chưa thực sự thấm nhập vào cách suy nghĩ, nói năng và hành động của những người trình diễn Tin Mừng !
- Thảo luận: Ngày hôm nay người nghèo được Giáo Hội ưu tiên loan báo Tin Mừng là những ai ? Phải loan Tin Mừng cho họ bằng cách nào ?
2) Chủ đề: Lắng nghe Lời Chúa:
- Lời Chúa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”:
- Câu chuyện: Chúa nói với chúng ta bằng cách nào ?
Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là “Hoàng Gia đi săn mặt trời” kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pêru vào thế kỷ 16. Trong đó có một màn kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha tặng cho một viên tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng: “Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này”. Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai để nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào từ cuốn sách phát ra. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban nha có mặt liền cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn phía trước mặt !
- Suy niệm:
Thánh Kinh thực sự là sách ghi Lời Chúa phán dạy. Nhưng chúng ta chỉ có thể nghe được Lời của Chúa nói bằng mấy cách như sau:
+ Nghe bằng tâm trí: Cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, làm cho Lời Chúa sống động y như ta đang nghe được chính Chúa Giêsu nói. Thánh Inhaxiô thường nhắm mắt, tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do thái để nghe Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng. Như thế, nghe bằng tâm trí không những đòi phải hiểu Lời Chúa dạy, mà còn phải làm cho Lời Chúa trở thành sống động như nghe từ chính miệng Chúa phán ra.
+ Nghe bằng trái tim: Nghĩa là ghi nhớ Lời Chúa và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mỗi người. Phanxicô Xaviê đã nghe thầy mình là Inhaxiô nhắc nhở câu Lời Chúa: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ?” (Mt 16,26; Lc 9,25). Cuối cùng Phaxicô đã từ bỏ mọi công danh sự nghiệp đầy hứa hẹn để chọn bậc tu sĩ và hy sinh cả cuộc đời để “làm sáng danh Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”.
+ Nghe bằng linh hồn: Sau cùng cần đáp lại Thánh ý Chúa bằng lời cầu nguyện “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?”, và quyết tâm thực hành những điều Người truyền dạy.
- Thảo luận:
Một ông chủ nhà kia muốn cho vợ con học sống Lời Chúa nên đã làm như sau: Ông ta mua một tấm bảng và để trong phòng ăn, Mỗi tuần ông chọn và viết lên bảng một câu Lời Chúa chủ đề và một vài việc làm cụ thể để sống Lời Chúa.. . Trước mỗi bữa ăn và trong giờ kinh tối gia đình, các thành viên sẽ cầu nguyện tự phát dựa theo câu Lời Chúa chủ đề và những việc đề nghị làm. Vậy bạn nhận xét thế nào về cách làm của ông gia trưởng trên ? Bạn quyết định làm gì để gia đình bạn trở thành một Gia Đình Học Sống Lời Chúa ?
III. Hiệp sống nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra Thánh Thần Chúa vẫn đang ngự trị giữa lòng thế giới và trong lòng mọi người. Thế giới hôm nay tuy còn nhiều tội lỗi, nhưng vẫn chan hòa ánh sáng tin yêu nơi các gia đình tín hữu, trong các xóm đạo, nơi các cộng đoàn quyết tâm học sống Lời Chúa. Ngày nay người ta đã biết ngồi lại với nhau để giải quyết các tranh chấp và tìm kiếm hòa bình, thay vì tiếp tục làm theo luật rừng “mạnh được yếu thua”; cùng nhau giải quyết các mối lo chung: Bảo vệ trái đất trước những nguy cơ hủy diệt như hiện tượng hiệu ứng nhà kính; Loại bỏ những chất thải hạt nhân hay khí đốt công nghiệp phá hủy tầng Ô-dôn; Ngăn chặn các dịch bệnh…Các tổ chức quốc tế hợp tác chống kỳ thị chủng tộc, mầu da, tôn giáo, phái tính; Các cơ quan ban ngành đoàn thể hợp tác chống tham nhũng, buôn lậu, cướp giựt, buôn bán Hê-rô-in, cờ bạc, đĩ điếm…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng được đầy Thánh Thần để sẵng sàng đi bước trước: nở nụ cười thân thiện với tha nhân, hy sinh vô vụ lợi để dấn thân phục vụ dân nghèo ở những vùng sâu vùng xa … Xin cho các tín hữu chúng con biết hợp tác xây dựng một Trời Mới Đất Mới, bắt đầu từ bản thân, gia đình, khu xóm và xã hội … Xin cho khắp nơi không còn đau khổ, nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương và sự phục vụ tha nhân.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Lời Chúa Giêsu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” phải được các tín hữu chúng con thực hiện. Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng và tự do, nhưng nhiều người lại tiếp tục làm những việc gây ra biết bao đau khổ cho người khác như: đàn áp và bóc lột những người thấp cổ bé miệng, những người thân cô thế cô, gian dối lừa đảo, sống ích kỷ hại nhân và coi thường luật pháp …
Xin Mẹ giúp chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa, để chúng con cộng tác với Ơn Thánh Thần, biết ngồi lại với nhau để cùng học hỏi Lời Chúa, tìm ý Chúa và mau mắn xin vâng như Mẹ xưa. Xin cho chúng con thực thi bác ái đời thường: “làm những việc bình thường bằng một cách thức phi thường”. Nhờ đó Nước Chúa mau trị đến.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, hôm nay Chúa Giêsu đến Hội Đường của thôn làng Nazarét: TN3-C32
Dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, hôm nay Chúa Giêsu đến Hội Đường của thôn làng Nazarét.
Phần chúng ta cũng thế, chúng ta cũng sẽ hiện diện trong ngôi Thánh Đường, Nhà Nguyện hoặc Trung Tâm của Giáo Xứ hay Cộng Đoàn nơi chúng ta đã sinh trưởng hoặc đang hội nhập vào những ngày cuối tuần 'Theo Thói Quen'. Chính trong những nơi nầy, chúng ta sẽ gặp gỡ những Anh Chị Em của mình hằng tuần qua những sinh hoạt Lễ Nghi Tôn Giáo.
Phúc Âm hôm nay kể rất rõ là Chúa Giêsu vào Hội Đường ‘Theo Thói Quen’ chứ không phải theo ‘Hứng - Thích’… và Ngài đã ‘Công Bố Lời Chúa…’ Qua phần ‘Đóng Góp’ của Chúa hôm nay, tạo cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ cho sự ‘Dấn Thân’ của cá nhân hay gia đình trong việc ‘Phục Vụ’ Cộng Đoàn hay Giáo Xứ.
Có lẽ nhiều lần chúng ta nghe người ta nói đùa với nhau câu: ‘Đi Lễ Chùa’. Chùa ở đây không có nghĩa là Chùa Chiềng của Phật Giáo mà là ‘không đóng góp’ công hay sức để xây dựng ‘Giáo Xứ hay Cộng Đoàn Địa Phương’.
Giáo Xứ hay Cộng Đoàn là một Đại Gia Đình có những sinh hoạt gần giống như một tiểu gia đình của chúng ta. Các phần tử trong gia đình, giống như thánh Phaolô đã so sánh như là những bộ phận trong con người sẽ liên đới với nhau. Nếu như chúng ta biết đóng góp tài năng, công sức để tô điểm ‘Ngôi Nhà Mẹ - Đại Gia Đình’ sẽ phát triển tốt đẹp về cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất…
Về Tinh Thần: Nếu như trong gia đình có nhân sự, sắp xếp được giờ giấc, các phần tử trong gia đình có thể tham gia vào các công tác Phụng Vụ như đọc sách thánh, dẫn lễ, ca viên, giúp lễ… quét dọn ‘Nhà Mẹ’ luân phiên với các nhóm để làm nhẹ đi gánh nặng của Anh Chị Em… và còn nhiều công tác từ thiện khác trong Giáo Xứ hay Cộng Đoàn…
Về Vật Chất: ‘Đi Lễ Chùa’ phần nào đó ám chỉ có những gia đình hay cá nhân ‘Tòng Sở’ ở Giáo Xứ hay Cộng Đoàn nầy nhưng lại đi lễ ở một nơi khác như là ‘Khách’ thường xuyên cho nên ‘hưởng những ân huệ như là những vị khách’. Nếu nhìn kỹ vào những sinh hoạt của một Cộng Đoàn-Giáo Xứ, chúng ta sẽ thấy cần phải có nhiều bàn tay nâng đỡ. Nếu Giáo Xứ hay Cộng Đoàn mà gia đình hay cá nhân đi lễ ‘Chùa’ có chiến dịch mời gọi đóng góp hay gia nhập vào Cộng Đoàn Giáo Xứ nầy thì họ sẽ khéo từ chối và tự xác nhận họ chỉ là ‘Khách’ của Cộng Đoàn Giáo Xứ nầy và họ ‘Tòng Sở’ Cộng Đoàn hay Giáo Xứ ‘Bên Kia Đường’.
Đôi lúc chúng ta phàn nàn hay so sánh Giáo Xứ hay Cộng Đoàn của mình với những nơi khác… về phương diện nầy phương diện kia nhưng chính cá nhân hay gia đình chúng ta không có một ai ‘Dấn Thân-Phục Vụ’. thì làm sao Cộng Đoàn-Giáo Xứ phát triển được. Bắt chước gương Chúa Giêsu hôm nay, người ta trao cho Ngài Kinh Thánh, Ngài đón nhận, mở ra và đọc…
Trong gia đình có người Chúa ban cho có giọng đọc tốt, tiếng hát hay, nấu ăn ngon… nhưng chỉ thấy xuất hiện trong nhưng vai trò MC, Karaoke hay trổ tài ‘đầu bếp’ ở nơi các đám tiệc. Cộng Đoàn-Giáo Xứ mời thì họ sẽ khéo đáp từ: ‘Không Có Giờ - Không Có Khả Năng - Không Biết Nấu Ăn’.
Có người thì quan niệm rằng họ chỉ đi lễ mà không hứa hẹn một sự đóng góp nào về tinh thần cũng như vật chất. Nhưng thử hỏi làm sao một Giáo Xứ hay Cộng Đoàn có thể bảo trì mọi sinh hoạt một cách đều đặn, quy cũ nếu không có những sự dấn thân của các phần tử trong Đại Gia Đình?
Như đã trình bày ở trên, thánh Phaolô quảng diễn về tài năng và địa vị Chúa ban cho mỗi người khác nhau, cốt để mưu cầu công ích. Ngài trình bày cho chúng ta hình ảnh của thân xác, trong đó có nhiều bộ phận như tay chân, mắt mũi... đã làm nên thân xác. Giống như những bộ phận trong thân xác, chúng ta là những chi thể của mình mầu nhiệm là Giáo Hội luôn phải kết hiệp với Đầu là vị Thủ Lãnh, tức là Chúa Kitô.
Các bài đọc hôm nay đã tạo cho chúng ta cơ hội để kiểm lại sự dấn thân của chính mình hay gia đình trong Cộng Đoàn Giáo Xứ một cách cụ thể không những chỉ hiện diện bằng thân xác mỗi ngày Chủ Nhật nhưng còn phải dấn thân phục vụ trong những công tác ‘Phụng Vụ hay Mục Vụ’ mà Cộng Đoàn Giáo Xứ cần chúng ta hay gia đình góp sức để vun trồng sự ‘Tăng Trưởng’ của Cộng Đoàn Giáo Xứ về hai nhu cầu ‘Tinh Thần Lẫn Vật Chất’ trong chính ‘Khả Năng của Cá Nhân hay Gia Đình’ của mỗi người trong chúng ta.
Lời Nguyện:
Xin cho mẫu gương của Chúa Giêsu là bài học cụ thể cho sự ‘Dấn Thân của chúng con hay gia đình trong Gia Đình Giáo Xứ hay Cộng Đoàn một cách sống động. Vì chúng con là chi thể trong mình mầu nhiệm là Giáo Hội thu hẹp là Cộng Đoàn Xứ Đạo mà Ngài đã thiết lập. Là tay, là chân là miệng của Chúa Giêsu chúng con phải cùng Ngài xây dựng thế giới nầy trong chiều hướng mà chúng con đã chia sẻ hôm nay.
Mỗi người trong chúng ta ai cũng có một thói quen, thói quen này có thể do điều luật quy định: TN3-C33
Mỗi người trong chúng ta ai cũng có một thói quen, thói quen này có thể do điều luật quy định, cũng có thể do luật bất thành văn của làng họ quy định, và cũng có thể do thói quen của từng cá nhân hoặc của gia đình mà có.
Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có một thói quen tốt, thói quen tốt của Ngài là đến hội đường vào ngày hưu lễ để nghe đọc sách các tiên tri loan báo về Đấng cứu độ sẽ đến, nhưng hôm nay Ngài lại được mời công bố Lời Chúa trong thánh kinh cho mọi người nghe.
Thói quen biểu lộ cá tính và nhân cách của con người ta.
Thói quen của kẻ lường gạt, ăn cướp là ngập ngừng và láo liên con mắt đảo qua đảo lại khi đến một nơi nào đó; thói quen của người thích sưu tầm thì đến bất cứ đâu cũng đều tò mò coi nhìn hỏi han cho biết sự việc; thói quen của tình yêu là giúp đỡ và phục vụ; thói quen của người Kitô hữu là đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, làm việc bác ái, và còn rất nhiều thói quen tốt lành khác mà khi chúng ta thực hành người khác sẽ nhìn thấy Chúa Giêsu trên con người của chúng ta.
Chúa Giêsu đã không ngần ngại tuyên bố với tất cả những người hiện diện trong hội đường: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21). Ngài mạnh dạn tuyên bố lời kinh thánh đã ứng nghiệm nơi Ngài, bởi vì mục đích của Ngài đến trần gian là để cứu chữa những gì đã bị huỷ hoại do tội gây ra, là để an ủi những người đang bị người đời bỏ rơi, là để làm cho tâm hồn con người được ấm lên tình yêu thương đồng loại qua việc đón tiếp và phục vụ những người mà xã hội cho là bất trị. Tóm lại, Chúa Giêsu đến để cứu chuộc nhân loại và qua hành động này đã bày tỏ cho nhân loại được biết Ngài chính là Thiên Chúa làm người.
Thói quen tốt sẽ phản ảnh lại khuôn mặt của Chúa Kitô nơi người tín hữu, bởi vì chỉ có tâm hồn méo mó tội lỗi mới làm cho khuôn mặt của Chúa Kitô trở nên méo mó nơi người tín hữu.
Không một Kitô hữu nào lại không biết đến Chúa Kitô, nhưng không phải mọi tín hữu đều có thói quen thực hành những công việc mà Chúa Giêsu đã làm: giúp đỡ người nghèo, tha tội cho cho tội nhân, chữa lành bệnh tật và hi sinh mạng sống cho người mình yêu.
Thói quen của người Kitô hữu trong một xã hội đầy những gian dối này là thành thật; thói quen tốt của người Kitô hữu trong một xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ cho cá nhân mình là dấn thân phục vụ tha nhân... Tất cả những thói quen ấy đều phản ảnh lại khuôn mặt hiền dịu của Chúa Kitô trên con người chúng ta, và khi chúng ta đã làm được như thế thì chúng ta cũng sẽ tuyên bố với mọi người như Chúa Giêsu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu là Thiên Chúa và không cần đến thói quen tốt bởi vì Ngài vốn là Đấng thiện mỹ, nhưng trong thân phận bản tính con người Ngài cũng có những thói quen tốt, thói quen này được học hỏi nơi Đức Maria dạy bảo, được học hỏi nơi thánh cả Giuse và nơi các kinh sư cũng như các thầy thông luật, Ngài được dạy dỗ phải đến hội đường vào ngày hưu lễ, phải siêng năng suy gẫm và đọc thánh kinh, cho nên Ngài đã trở thành mô phạm cho chúng ta bắt chước noi theo...
Hãy làm gương sáng, hãy tập làm thói quen tốt để dạy dỗ con cái có thói quen tốt, hãy tập làm các việc lành để hướng dẫn người khác thực hành điều tốt, đó chính là phản ảnh lại hình ảnh Chúa kitô trong cuộc sống của chúng ta vậy...
Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 3 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh - Taiwan. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Khi khởi sự năm phụng vụ C, tức Chúa nhật 1 mùa vọng, chúng ta tập trung nghe Phúc Âm Luca: TN3-C34
Khi khởi sự năm phụng vụ C, tức Chúa nhật 1 mùa vọng, chúng ta tập trung nghe Phúc Âm Luca. Một Tin Mừng đầy đủ nhất trong ba Tin Mừng nhất lãm, nó là bảng tổng hợp thánh Matthêu, Marcô và cuộc điều tra cẩn thận của thánh nhân. Nhưng từ ấy đến nay phải phân tán vì những ngoại lệ trích sách Tin Mừng khác. Hôm nay chúng ta lấy lại khí thế ban đầu, gọi là năm Luca. Bởi lẽ cho đến hết năm, các bài đọc đều trích từ thánh nhân, theo một thứ tự ngăn nắp trước sau. Do đó, Tin Mừng chúa nhật này bắt đầu bằng một đoạn dẫn nhập và lời giảng đầu tiên của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét. Chúng ta đang ở trong giai đoạn khởi sự sứ vụ công khai của Ngài và một ý nghĩa nào đó, của Hội Thánh, của mỗi người tín hữu. Riêng đối với Giáo Hội Việt Nam thì cũng là khởi đầu năm thánh truyền giáo, kỷ niệm 470 năm Đức Tin đến với đất nước và con cháu Lạc Hồng.
Tôi phải thành thật thú nhận khi liếc qua bài Tin Mừng, tự nhiên có cảm giác “khổ lắm, biết rồi”. Tôi đã rao giảng nó cách đây ba năm, đúng hơn, nhiều năm trước, vào những năm C. Ở vị trí nhà thuyết giảng đồng thời là kẻ thờ phượng Chúa, tôi bối rối không hiểu còn điều chi mới mẻ để chia sẻ với thính giả? Trái tim, trí óc, lòng muốn còn rung động khi đọc bài Tin Mừng quá quen thuộc này nữa không? Với bổn phận giảng thuyết tôi có thể tìm ra những điểm tiếp cận mới cho năm này? Liệu tôi còn tâm huyết để đi trọn con đường? Quý vị nào cùng cảnh ngộ, xin chung lời cầu khẩn Thần Khí Chúa soi sáng.
Chí ít, tôi tìm ra một nhân vật cùng hoàn cảnh, đó là thánh Luca. Chúng ta nghe ông tâm sự: “Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta…” Nghĩa là những điều ông sắp viết không có gì mới mẻ, mọi sự đã được soạn thảo cả rồi, độc giả đã quen với những điều ấy. Tuy nhiên ông vẫn quyết định viết theo thứ tự, ngõ hầu Thêôphilô ngộ ra tính chân thật của những biến cố đó, chứ không phải dối trá bịa đặt. Ở đây, cũng có điểm mới, đó là tính vững chắc của Phúc Âm. Liệu cộng đoàn thánh Luca đã thuộc lòng câu chuyện của Chúa Giêsu chưa? Có đúng nó đã mất tính thời sự và chỉ còn là tranh ảnh treo tường, không mấy ai chú ý trong cuộc sống vội vã hàng ngày?
Thực ra, trong giai đoạn đầu của Phúc Âm Luca, chúng ta khởi sự một hành trình. Hành trình sẽ đem độc giả đến những nơi xa lạ, gặp những người không quen, nhiều linh hồn thực sự thiếu thốn đang tìm kiếm chân lý và cuộc sống thiêng liêng, kẻ khác chỉ là thân hữu, bạn bè giúp sức trên đường đi. Phần đông là thù nghịch. Họ ném nghi ngờ, vật cản trên lối tiến. Tuy nhiên, chúng ta sẽ biến đổi khi đi hết con đường. Chuyện của ông sẽ nuôi dưỡng tâm linh chúng ta và giải quyết nhiều khó khăn, thắc mắc nảy sinh từ cuộc sống. Ba năm qua, mọi sự đã thay đổi nhiều, mặc dù nếp sống của chúng ta dường như vẫn theo lối cũ, chẳng có chi khác thường.
Một điều chân thật: Lời Chúa không bao giờ bế tắc, tù đọng, nhưng luôn tuôn chảy. Nó không phải là chuyện ngày xưa, xảy ra từ lâu lắm như các chuyện cổ tích. Mặc dù văn phạm trong Phúc Âm đang ở thì quá khứ “đã”. Nhưng thực chất là chuyện hiện tại. Nó “đang” cần cho những tâm hồn theo Chúa Giêsu đích thực. Họ cần nghe Lời Chúa và gẫm xem các việc Người làm. Nếu như “đã” thì làm thế nào “thấm” được? Cho nên, ai đó cảm thấy năm phụng vụ C này là chuyện “khổ lắm biết rồi nói mãi” (Déja vu, all over again) thì xin ăn chay, cầu nguyện Thánh Linh Chúa để Ngài ban phước lành trước khi khởi sự hành trình. Thực ra trong năm Luca, chúng ta đi hành hương hơn là du lịch, cầu nguyện hơn là tìm thú vui chơi. Trên đường chúng ta sẽ nghỉ ngơi và suy gẫm. Như những người hành hương đạo đức khi xưa, chúng ta cùng tiến bước về thánh địa. Khởi sự mỗi chặng đường đi người ta có thói quen cầu xin phước lành. Cũng vậy khởi sự một năm phụng vụ mới, chúng ta cần ơn Thánh Linh để hoàn tất hành trình. Để rằng mọi người sẽ có sức sống mới, nhiệt huyết mới, phấn khởi mới ngõ hầu cùng nhau tiến tới trong đức tin. Mỗi ngày theo quy luật tự nhiên, vạn vật đổi mới, thì mỗi ngày theo quy luật sự sống, con người cần tiến tới. Không tiến tới, hoá thạch, là phản tự nhiên, phản siêu nhiên. Cho nên khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…” chúng ta phải cầu xin Thánh Linh ngự trên mỗi người, đổi mới mỗi người, sai chúng ta đi rao giảng Lời Chúa. Đó là nhiệm vụ phải chu toàn, nếu muốn làm môn đệ Ngài, ngoài ra là dối trá. Hiện thời, chúng ta suy gẫm sâu xa hơn về Tin Mừng chu kỳ C, chúng ta khẩn nài Thiên Chúa đốt lửa sốt sắng trong lòng mình. Thần Khí Chúa sẽ ngự trong mỗi con tim để chúng ta đủ nhiệt tâm gieo vãi Lời Chúa cho thế gian, đang lầm lạc, đói khát chân lý và phần rỗi cho linh hồn mình. Ôi lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con cảm nghiệm được lửa Lời Chúa và đam mê rao giảng Nước Trời “thuận tiện cũng như không thuận tiện”. Khi lãnh phép thanh tẩy, mọi tín hữu đều được kêu gọi công bố “Tin Mừng” cho khắp thế gian bằng lời nói việc làm. Xin đừng để lu mờ ơn gọi đó, nhưng ngày càng sáng tỏ và thôi thúc. Phúc Âm hôm nay nhắc lại mệnh lệnh rao giảng cho mỗi người. Theo thánh Luca Chúa Giêsu còn sai 72 môn đệ, ngoài 12 tông đồ, đi khắp các làng mạc Palestine rao giảng Nước Trời.
Xin lưu ý, bài đọc 3 hôm nay cho thấy rõ sự thật trong toàn bộ Phúc Âm thánh Luca: Sứ vụ của Chúa Giêsu hoàn toàn đặt dưới tác động của Chúa Thánh Linh: “Thần Khí Chúa đậu trên tôi, Ngài sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”. Thánh Gioan Tiền Hô xác nhận: “Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Sau đó là một loạt những công việc yêu thương Chúa Giêsu thực hiện trên toàn cõi Giuđêa dưới sự thúc giục của Chúa Ba Ngôi. Các hình ảnh Chúa dùng để rao giảng cũng mang đặc trưng Năm Hồng Ân mà người Do Thái quen thuộc. Những điều kẻ nghèo khó, người khốn khổ, kẻ tù đày, bị áp bức mong mỏi suốt cuộc đời, thì nay đã trở nên hiện thực nơi Đức Giêsu. Họ được giải phóng, chữa lành, nghe Tin Mừng. Như vậy Năm Hồng Ân, năm được Thiên Chúa chấp nhận, thực tế đã khai mở và được công bố cho toàn thể địa cầu. Điều chỉ là giấc mơ, niềm hy vọng trong trái tim dân tộc Israel thì nơi Đức Kitô đã trở thành thực tế. Khoảng trống rỗng trong lịch sử nhân loại nay được lấp đầy bằng sự hiện diện của Chúa Cứu Thế. Thực ra, những điều nghe trong bản văn quá khứ, chúng ta phải hiểu hiện tại. Nội dung của nó là cho ngày nay. Ai hiểu nó chỉ trong lịch sử đã qua thì hoàn toàn sai lầm. Lời Chúa không phải cho kẻ chết, mà chủ yếu cho người sống, uốn nắn và dạy bảo linh hồn nên hoàn thiện. Bài diễn văn công bố sứ vụ thiên sai công khai của Chúa Giêsu cũng không phải dành cho tương lai, một ngày nào đó, thế giới bị quên lãng của nghèo đói, khổ cực sẽ được nhìn ra và nhu cầu được thoả mãn, sửa chữa. Đúng hơn, Ngài phán bảo chúng ta bây giờ. Những sai lầm của thế giới hiện nay cần được sửa chữa, những điều lành thánh cần được thăng hoa, nhân rộng. Hơn nữa Ngài không chỉ nói về thế giới vô hình mà cả thế giới hữu hình. Ngài tuyên bố Năm Hồng Ân cho tất cả mọi loài, mọi vật. Hình ảnh Năm Hạnh Phúc có trong sách Lêvi ký đoạn 25, câu 8 đến 55. Người Do Thái nào cũng thuộc lòng và hiểu rõ ý nghĩa của nó, không thể nhầm lẫn. Thánh Luca khi viết những dòng này đã tra hỏi kỹ lưỡng “nhiều người”, cho nên tư tưởng của ông là chính xác và cụ thể, không tưởng tượng viển vông: “Có nhiều người đã ra công tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu… kể lại cho chúng ta… mong ngài nhận thức được rằng giáo huấn ngài học hỏi là vững chắc.” Chẳng còn gì rõ ràng hơn! Hết chỗ để nghi nan bài bác.
Cho nên vào thời điểm người ta tâm linh hoá quá đáng Kinh Thánh, làm cho nó trở nên linh thiêng, tối tăm, thì chúng ta cần coi lại. Chúa Giêsu tuyên bố cuộc giải phóng toàn diện của Năm Hồng Ân: Kẻ què đi được, người mù sáng mắt, kẻ bị giam cầm được tự do. Không phải chỉ trên bình diện tinh thần mà còn cả vật chất. Vì thế mọi hình thức áp bức, kìm kẹp, bất công trong Giáo Hội phải bị loại trừ. Nhân phẩm con người phải được tôn trọng triệt để bất cứ ở đâu, tuổi nào, trẻ cũng như già, con nít cũng như người lớn. Phá thai là một trọng tội phạm đến sự sống con người. Tước bỏ quyền tự do, hạnh phúc người khác phải được coi là tội bất công. Chúa Giêsu nói về thời của Ngài và sự giải phóng do Ngài đem lại cho dân chúng, cho toàn thể thế giới. Thánh Luca áp dụng nó nơi cộng đoàn của mình và chỉ ra tinh thần giải phóng và tự do đang tiến hành trong Hội Thánh, kêu gọi mọi thành phần góp tay, chung sức xây dựng lợi ích chung, ngõ hầu Nước Thiên Chúa được tỏ hiện rõ nét trước mặt chư dân. Ngày nay cũng vậy, những điều Chúa công bố trong sứ vụ của Ngài, phải được thi hành trong các Giáo Hội, để biểu lộ Ngài đang hiện diện. Theo truyền thống, vị Tổng Thống mới của Hoa Kỳ, khi lên nhậm chức, đều đọc trước quốc dân bài diễn văn, tường trình công việc tương lai, những dự tính, những chiến thuật chiến lược kinh tế, dân sự, quốc phòng. Bài diễn văn của Chúa Giêsu trong hội đường Nadarét không chỉ trong kỳ hạn của Ngài, mà còn cho toàn thế giới mọi nơi, mọi thời. Nhất là trong đời sống của những kẻ tình nguyện theo Ngài. Chúng ta phải làm rõ những đặc tính ấy bằng lời nói việc làm. Nếu không chỉ là dối trá, lừa đảo bàn dân thiên hạ. Đối với người Hy Lạp, Thần Khí bất định hình mà Chúa Giêsu rao giảng không hiểu được. Họ yêu chuộng cụ thể, trật tự, hài hoà. Nghệ thuật còn lại ngày này của họ chỉ rõ điều đó. Nhưng chính Thánh Thần và lửa bất định hình của Chúa Giêsu lại mạnh mẽ nói lên tự do của ơn thánh. Chúng ta có nhiệm vụ làm thế nào cho thế giới ngày nay hiểu. Chính tính chất vô định của Thánh Linh mà nhân loại được giải phóng khỏi áp bức, bất công.
Ước chi năm phụng vụ C, Chúa Giêsu làm cuộc hành trình lên Giêrusalem, theo như thánh Luca kể lại, cho thấy những dấu chỉ cụ thể Ngài tuyên bố, trở nên Tin Mừng cho thế giới hôm nay. Xin cho chúng ta, những người tin kính và rao giảng Nước Đức Chúa Trời, được tràn đầy Thần Khí, miệng lưỡi tự do, lòng trí sốt sắng, công bố cho toàn thế giới: Họ được giải phóng theo tuyên ngôn của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét. Ngõ hầu cùng nhau sống hạnh phúc, thánh thiện suốt Năm Hồng Ân Luca. Amen.
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo" (Lc 4,18)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi: TN3-C35
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo". Chúng ta đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho chính chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình ra đón nhận Tin Mừng của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
* Chúng con thường khư khư bám lấy ý riêng, không mở lòng ra đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
* Chúa Giêsu đã mang Tin Mừng đến cho chúng con, nhưng chúng con không nhiệt tình đón nhận.
* Do cuộc sống ích kỷ và khô cằn, chúng con không làm cho Tin Mừng của Chúa trở nên hấp dẫn đối với những người chưa biết Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Nkm 8,1-10)
Dân Do Thái vừa từ chốn lưu đày trở về. Tư tế Ét-ra tập họp mọi người tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Có lẽ đây chính là bộ Ngũ Thư mà Ét-ra đã sưu tập lại từ những nguồn tài liệu rải rác có sẵn trước đó (các nguồn tài liệu J, E, D, P), vì thế mà thời gian đọc kéo dài rất lâu, từ sáng tới trưa.
Khi nghe đọc, toàn dân đều khóc. Có lẽ một phần do cảm động vì thấy được tình thương của Thiên Chúa đối với họ qua dòng lịch sử; phần khác là do hối tiếc bởi họ đã không đáp ứng tốt với tình thương Thiên Chúa.
Ét-ra an ủi dân: "Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em".
2. Đáp ca (Tv 18)
Nối tiếp ý tưởng của bài đọc I, Tv 18 ca tụng Luật Chúa: "Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn"
3. Tin Mừng (Lc 1,1-4 và 4,14-21)
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
4. Bài đọc II (1 Cr 12,12-30) (Chủ đề phụ)
Tiếp tục huấn đức cho tín hữu giáo đoàn Côrintô đang chia rẻ nhau, Thánh Phaolô dùng hình ảnh nhiệm thể Đức Kitô.
* Giáo Hội là một thân thể mầu nhiệm, trong đó Chúa Giêsu là đầu và các tín hữu là chi thể.
* Các chi thể tuy khác nhau, nhưng mỗi chi thể có chức năng riêng của mình.
* Do đó các chi thể phải bổ túc cho nhau, đoàn kết với nhau, và nhất là luôn kết hợp với đầu.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Có phải là Tin Mừng không?
Quyển sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu ngày xưa được gọi là "Ê Vang", trước đây không lâu lắm được gọi là Phúc Âm, còn ngày nay thì thường được gọi là Tin Mừng.
Xét theo thần học Thánh Kinh thì hai chữ "Tin Mừng" là đúng nghĩa nhất. Nhưng nếu xét về ảnh hưởng của nó trên cuộc sống thì sao?
Trên thực tế, có nhiều người không thích đọc Tin Mừng. Nhiều người ngán không muốn nghe Tin Mừng. Tại sao? Vì họ thấy trong đó toàn là những bổn phận và những đòi buộc. Không nghe, không biết thì không phải làm theo.
Sở dĩ có cảm giác ngán và sợ như thế là vì người ta chỉ mới thấy được những chi tiết phụ, chứ chưa hiểu thấu tới cốt lõi.
Cốt lõi là một lời loan báo rất phấn khởi: Xin hãy nghe đây. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên đã sai Con của Ngài đến dạy cho loài người con đường hạnh phúc. Biết được con đường dẫn tới hạnh phúc chẳng phải là một Tin Mừng sao?
Dĩ nhiên những lời Chúa Giêsu dạy là những điều ta phải làm theo, mà làm theo thì phải cố gắng, phải cực khổ, phải hy sinh v.v. Nhưng làm theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc.
Một bà kia rất thường đọc Sách Tin Mừng và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích: Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới năm lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó.
Chúng ta đừng coi những lời trong sách Tin Mừng là những đòi hỏi của một người xa lạ đâu đâu. Hãy xem đó là những lời khuyên dạy chí tình của Đấng đã không quản ngại từ trời xuống thế, chịu cực chịu khổ đến gần chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Ngài đã làm tất cả chỉ vì thương chúng ta và Ngài không muốn gì khác hơn là muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
* 2. Tin Mừng cho người nghèo
Không phải Chúa Giêsu được sai đi để loan Tin Mừng cho tất cả mọi người sao? Vậy tại sao Ngài lại nói "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo"?
Chúng ta hãy phân tích kỹ toàn văn đoạn sách Isaia mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho sứ mạng của Ngài:
Sau khi công bố "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo", Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
* Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha
* Cho người mù biết họ được sáng mắt
* Trả tự do cho người bị áp bức
* Công bố một năm hồng ân của Chúa
Như vậy, "người nghèo" là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức... và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ.
Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không "bị giam cầm" trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không "mù" một cách nào đó? Ai mà không "bị áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó?
Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo.
* 3. "Chúa đã sai tôi đi..."
Qua bài Tin Mừng này, Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi.
Bất cứ ai khi được sai đi làm một nhiệm vụ thì sẽ cố gắng để làm cho thật tốt:
- Khi còn nhỏ, chúng ta thường được cha mẹ sai đi tới những nhà hàng xóm để mượn một món đồ, hay để biếu xén vài món quà. Bình thường thì ta nói năng hồ đồ, cộc lốc. Nhưng khi được sai đi làm những nhiệm vụ đó, chúng ta lựa lời nói, lựa cung cách xử sự, có khi suốt doc đường cứ lẩm nhẩm những câu lễ phép mà cha mẹ đã dạy để chút nữa nói năng cho đàng hoàng.
- Thỉnh thoảng cha sở sai một người giáo dân trong họ đi đến một gia đình nguội lạnh rối rắm để làm việc tông đồ. Người tông đồ ấy đến gia đình bê trễ nọ phải biết cách tỏ ra lịch thiệp, giúp đỡ, phải dám nói về đạo, và đồng thời cũng phải tỏ ra mình có đôi chút đạo đức để khỏi bị người bê trễ kia hạch sách "Ông cũng bê bối như ai thôi đừng khuyên tôi".
Dĩ nhiên khi đóng vai trò một kẻ được sai đi làm tông đồ thì người ta phải cố gắng tỏ ra mình là người tốt, trong khi thực tế thì đời sống của họ chưa chắc là tốt được như thế. Điều đó xem ra là một sự giả hình, vì cái mình tỏ ra bên ngoài không đúng với cái đời sống thực sự của mình. Tuy nhiên có lẽ không nên nặng lời dùng chữ "giả hình" trong trường hợp này. Bởi vì người tông đồ ấy có tỏ ta như vậy cũng chỉ vì muốn cho sứ mạng tông đồ của mình được hoàn thành tốt đẹp thôi. Và hơn nữa, nhờ cố gắng tỏ ra tốt hơn như thế trước mắt người khác mà dần dà chính đời sống của người tông đồ thực sự trở thành tốt hơn thật.
Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi". Bởi vậy lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người " Chúa đã sai tôi đi", cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta "Chúa cũng sai tôi đi".
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi người Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vaticanô 2 còn nói mạnh hơn: "Làm Tông đồ là bản tính của người Kitô hữu". Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
Nhưng sai đi làm tông đồ với ai? Bài Tin Mừng hôm nay kể rõ những hạng người mà Chúa sai ta đến với họ:
a/ Trước tiên là những người nghèo: Số người này thật là nhiều, hàng ngày ta gặp thiếu gì người như vậy. Thế nhưng, khi ta gặp một người nghèo tôi có cư xử lễ độ với họ không hay là khinh bỉ họ? Ta có tìm cách giúp đỡ họ, hay nếu không có khả năng giúp đỡ thì ta có vận động người khác giúp đỡ không? hay ta tìm cách tránh xa họ, đuổi khéo họ để mình khỏi bị quấy rầy? Ta có cố gắng an ủi họ để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa đạo, xa Chúa không? Trước những câu hỏi đó, nếu ta chỉ biết trả lời "không" thì sứ mạng tông đồ của ta như một kẻ được Chúa sai đi đã bị thất bại.
b/ Chúa còn sai ta đi tới những người đau khổ. Những người này cũng không thiếu trong khu xóm của ta, có khi ở cạnh nhà ta nữa. Nhưng phải chăng mặc dù Chúa đã sai ta đi, ta vẫn cứ ở nhà chưa đến thăm viếng họ? Và khi đến với họ, ta có đem lại cho họ được thêm một chút bình an, một chút tin tưởng nào không? Chúng ta đừng quên câu Tin Mừng hôm nay "Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin mừng, nghĩa là phải làm cho người ta được thật sự vui mừng, tin tưởng, hy vọng.
c/ Chúa còn sai ta đi đến với những người tội lỗi. Những người này cũng không thiếu trong họ đạo. Nhưng có lẽ đối với họ, chúng ta lại cũng quên lời Chúa "Chúa đã sai tôi đi đến với họ". Vì quên mà thường chúng ta cứ lảng tránh họ, cứ kết án họ. Chúng ta không thực hiện Lời Chúa dạy ta đến với họ để an ủi họ, khích lệ và dẫn họ trở về tình thương của Thiên Chúa.
d/ Cuối cùng trong xã hội ngày nay, Chúa còn sai ta đi đến với những kẻ không tin. Những người này cũng có mặt rất nhiều: trong sở làm của ta, ngoài đường phố chung với ta, trong buổi họp với chúng ta. Đừng quên Chúa sai ta đi tới họ để cũng rao giảng Tin mừng cho họ. Nếu ta ngại, hay thấy bất tiện không dám nói thẳng với họ về Chúa về đạo thì ít ra đời sống của chúng ta, cách làm việc của chúng ta, lương tâm của chúng ta có thể thay cho lời nói của chúng ta không?
Ngôn sứ Isaia đã hát lên rằng "Đẹp thay bước chân của những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng". Những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng ấy là chính chúng ta, mỗi người hết thảy trong chúng ta. Xưa nay có lẽ chúng ta quên điều đó. Nhưng hôm nay Lời Chúa nhắc chúng ta nhớ lại. vậy dưới sự hướng dẫn và ban ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi. Đi đến với những người nghèo khó, những người đau khổ, những kẻ tội lỗi và những kẻ không tin. Đến với họ để rao giảng Tin mừng cho họ bằng cách này hay cách khác tùy hoàn cảnh. Và hãy an ủi mình rằng những bước chân được sai đi như vậy thật là đẹp!
4. "Ngày của Chúa"
Ngày một vị Thủ Tướng nhậm chức, ông đọc một bài diễn văn để công bố cho dân biết chương trình hoạt động của ông trong nhiệm kỳ. Khởi đầu sứ vụ của mình, Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Tại hội đường Nadarét, Chúa Giêsu đã dùng một đoạn trích từ sách ngôn sứ Isaia để phác họa sứ mạng của Ngài. Chúa Giêsu loan báo rằng cái "Ngày của Chúa" mà dân chúng bấy lâu nay hằng mong đợi thì nay đã đến. Đó là một ngày hồng ân cho mọi người, cách riêng là những người nghèo.
Mẫu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.
Ngày xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không đóng tô đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu.
Thế rồi một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà ai cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn.
Một ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô nữa. Khi mọi người đã đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói: "Ông chủ biết là các người ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo cho các người hay". Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền cũng như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: "Tôi có một Tin Mừng muốn loan báo cho các người". Mọi người xôn xao: "Tin Mừng ư! Tin Mừng gì vậy?" Lúc đó viên quản lý hô lớn: "Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình".
Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.
Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét cũng là một Tin Mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người.
Những người pharisêu nghĩ rằng "Ngày của Chúa" là một ngày phán xét. Còn Chúa Giêsu thì loan báo "Ngày của Chúa" là người xóa nợ, ngày hồng ân.
"Ngày của Chúa" không phải là một ngày nhất định ghi trong lịch, mà là mọi ngày. Thực vậy, ngày nào cũng là "Ngày của Chúa" hết. Tin Mừng về "Ngày của Chúa" là: ơn giải thoát chúng ta không tùy thuộc vào công nghiệp của chúng ta, mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất chúng ta phải làm là mở rộng cửa lòng cho Chúa Giêsu ngự vào mang ơn đến cho chúng ta. (FM)
5. Quyển sách
Sau nửa thế kỷ bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái được hồi hương. Tư tế Ét-ra tập họp họ lại để tái hiến dâng họ cho Thiên Chúa. Ét-ra bắt đầu bằng việc đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ đó trở đi, đời sống và tín ngưỡng của dân Do Thái gắn chặt với quyển Sách Luật ấy. Có thể nói, đó là một dân "sống với sách".
Kitô hữu chúng ta cũng là những người "sống với sách". Chỉ khác một điều là quyển sách chúng ta sống với là quyển Tin Mừng.
Có một chuyện kể về một dân kia chưa từng nghe nói tới quyển Tin Mừng. Một hôm có một người lạ đến báo cho họ rằng "Tôi đến đây mang cho các người một tin mừng". Rủi thay người ấy mang bệnh và chết trước khi nói rõ cho họ biết tin mừng ấy là gì. Họ mới lục lúi của người ấy và gặp một quyển sách có tựa đề là "Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô". Họ đoán rằng đó chính là cái tin mừng mà người kia muốn báo cho họ biết. Thế là họ bắt đầu đọc quyển sách ấy. Sách viết về một nhân vật giàu lòng nhân ái, làm nhiều việc lạ lùng để giúp cho những người khốn khổ và dạy nhiều điều rất cao thượng.
Đọc xong quyển sách, một người trong họ nói: "Tiếc thay người mang quyển sách này đã chết. Chắc là một môn đệ của ông Kitô ấy". Một người nói: "Nhưng chắc là ở nơi ông ấy sống cũng có nhiều một đệ khác của ông Kitô". Một người khác nữa góp ý: "Chúng ta thử gởi người đến đấy xem các môn đệ ông Kitô sống những lời ngài dạy thế nào". Mọi người tán thành.
Họ cử Francis đi. Đây là một chàng trai rất chín chắn. Chàng đã tìm đến nơi, tiếp xúc với rất nhiều người, sau đó trở về. Khi chàng vừa về tới nơi thì những người đồng hương của chàng đặt những câu hỏi tới tấp:
* "Những tín đồ của quyển sách ấy có thương yêu nhau không?"
* "Họ có hòa thuận với nhau không?"
* "Họ có đơn sơ không?"
* Họ có hạnh phúc không?"
Tất cả các câu hỏi đều có thể tóm trong một câu duy nhất này: "Những môn đệ của ông Kitô ấy có sống theo quyển sách của Ông ta không?".
Và sau đây là báo cáo của Francis:
Trên căn bản, tôi đã gặp được 5 hạng môn đệ của ông Kitô ấy:
Hạng thứ nhất chỉ mang danh Kitô thôi. Dù họ có rửa tội nhưng họ chẳng sống theo một lời dạy nào của Ngài cả.
Hạng thứ hai là những người làm môn đệ Đức Kitô theo thói quen. Mặc dù người ta thấy họ giữ những điều Đức Kitô dạy, nhưng những điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cách sống của họ cả. Tôi đã quan sát cách sống của họ một thời gian lâu và thấy ra rằng thực ra họ sống theo những nguyên tắc không liên can gì tới lời dạy của Đức Kitô, một số còn ngược lại nữa.
Hạng thứ ba gồm một số người rõ ràng là sùng mộ đức tin Kitô. Họ cố sức làm những việc tốt, nhưng xem ra họ thiếu sức sống, họ không thực sự có được những đức tính của Thầy họ.
Hạng thứ tư có thể được gọi là những Kitô hữu thực hành. Dường như họ đã nắm được trọng tâm của Tin Mừng. Họ biết quan tâm đến người khác và không xấu hổ vì người khác biết họ là Kitô hữu. Ở một vài nơi tôi thấy họ bị bách hại. Ở một vài nơi khác tôi thấy họ phải gặp tình cảnh có lẽ còn tồi tệ hơn nữa, đó là bị đồng bào của chính họ đối xử lạnh nhạt.
Hạng thứ năm không nhiều. Đó là những người mà tôi không ngại gọi là những Kitô hữu chính danh. Họ sống Tin Mừng cách sâu sắc. Khi gặp họ, tôi tưởng là gặp chính Đức Kitô.
Câu chuyện kết thúc ở đó, nên không biết dân chúng xứ đó có đón nhận Tin Mừng hay không.
Ngày nay rao giảng Tin Mừng cho thế giới là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là một đặc ân to lớn nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, cũng như Đức Kitô, chúng ta được Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống tốt đời Kitô hữu. Quyển sách duy nhất mà nhiều người chưa bao giờ đọc để hiểu Tin Mừng, đó chính là quyển sách của đời sống chúng ta. (FM)
6. Xóa nợ cho nhau
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho:
Ngã cứu nhi thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần!
Nghĩa là:
Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ,
Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
*
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Chúa Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Chúa Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hoá.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một Năm Toàn Xá, Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mứng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Chúa Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan nguỳ để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu toả ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm toả trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; ngườt tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ.
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con cũng biết xoá nợ cho nhau, không chỉ xoá nợ tiền bạc mà còn xoá đi những bất bình, nghi kỵ thành kiến, hiểu lầm nhau..., để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen. (TP)
7. Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô
Ngày nay trong y khoa có quá nhiều chuyên khoa khiến cho cơ thể như bị tách rời thành nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, một số khác chuyên về não, một số khác chuyên về mắt, một số khác chuyên về tai, vân vân. Chuyên môn là tốt nhưng cũng có mặt trái của nó. Các bác sĩ ấy có thể hiểu biết rất ít về con người mà họ đang điều trị về mắt, hay tim, hay chân tay...
Cơ thể con người là một toàn thể thống nhất mặc dù nó gồm bởi nhiều bộ phận. Những bộ phận này rất khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chắc hẳn là một số bộ phận quan trọng hơn những bộ phận kia. Tuy nhiên chúng đều cần cho cơ thể và đều cần cho nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta tuy nhiều nhưng tạo thành một thân thể duy nhất trong Đức Kitô (Bài đọc II). Bởi Phép Rửa, chúng ta đã trở thành chi thể của thân thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội. Có lẽ có "người" nào đó muốn sống một mình, không lệ thuộc cộng đoàn. Nhưng không thể nào có "người kitô hữu" đơn độc được. Kitô hữu nào tự ý cắt mình rời khỏi cộng đoàn thì làm cho cộng đoàn bị đau như một cơ thể bị cắt lìa một chi thể.
Cộng đoàn đòi hỏi chúng ta. Vì lý do đó nên nhiều người bị cám dỗ sống một mình, tìm ơn cứu độ một mình không cần đến người khác. Nhưng không thể như thế được. Chúng ta cần nhau, cũng như các chi thể cần nhau vậy. Và Giáo Hội cần tất cả chúng ta. Chúng ta cần ý thức tùy thuộc nhau và tùy thuộc Đức Kitô. Chúng ta vẫn liên đới với nhau dù khi chúng ta chỉ muốn nghĩ đến bản thân mình.
Sự tùy thuộc vào cộng đoàn có nhiều lợi ích rõ ràng. Hãy lấy cây sậy làm thí dụ. Nếu chỉ có một mình thì nó rất yếu và dễ gãy đổ. Nhưng nhiều cây bó chung lại với nhau thì không thể nào bẻ gãy được. Đối với con người cũng thế. Sức mạnh là do hợp quần. Người ta sẽ can đảm hơn khi quen biết nhau, khuyến khích nhau và sát cánh cùng nhau chiến đấu. Nhiều công trình to lớn đã được thực hiện nhờ người ta biết làm việc chung với nhau.
Tinh thần cộng đoàn được chính Chúa Giêsu nhấn mạnh khi Ngài kể dụ ngôn cây nho và cành nho: "Thầy là cây nho, chúng con là cành". Một hình ảnh thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc về sự hợp nhất và tùy thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là các cành nho cần đến cây nho. Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho vậy, bởi vì chính cành nho sinh trái. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn có giữa Ngài và các môn đệ của Ngài. Ngài là cây nho, chúng ta là cành nho. Hay nói như Thánh Phaolô: "Chúa Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là chi thể của thân thể ấy". Nếu không ý thức về sự tùy thuộc lẫn nhau, chăm sóc cho nhau và chịu trách nhiệm về nhau thì ta không còn là Kitô hữu nữa.
Hoa trái mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chúng ta trước hết chính là sự hiệp nhất giữa chúng ta với nhau. Dấu chỉ cho mọi người biết chúng ta thuộc về Ngài là chúng ta yêu thương nhau và chăm sóc nhau. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa là núi đá cho ta trú ẩn, là thành trì bảo vệ ta. Với lòng tin tưởng Chúa là Đấng phù trợ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Thần Khí Chúa sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / hết lòng yêu thương và tận tình giúp đỡ những ai khó nghèo.
2. Thần Khí Chúa sai tôi đi băng bó những tấm lòng tan nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều Kitô hữu / dám xả thân phục vụ những ai đang gặp đau khổ trong cuộc sống thường ngày.
3. Ngày nay / nghèo đói và bệnh tật / dốt nát và bất công / vẫn còn ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết chân thành cộng tác với hết thảy mọi người để xóa đói giảm nghèo / tiêu diệt dốt nát / giảm thiếu bất công / và khống chế bệnh tật / để ai nấy đều được sống trong hạnh phúc và an bình.
4. Hằng ngày / có biết bao lời nói độc ác / thiếu bác ái / góp phần giết chết / hoặc làm sứt mẻ tình thân hữu giữa con người với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn dùng lời nói và việc làm để kiến tạo hòa bình / xây dựng tình thương và xóa bỏ hận thù.
Chủ tế: Lạy Chúa, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng con trở nên anh em một nhà và có cùng một Cha chung trên trời. Xin Chúa cho chúng con luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều được Rửa tội trong cùng một Chúa Thánh Thần. Giờ đây chúng ta hãy kết hợp với Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha lời kinh nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
VII. Giải tán
Chúa Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo khó. Anh chị em cũng đã đón nhận tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và Chúa cũng sai anh em đi. Vậy anh chị em hãy hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người anh chị em gặp gỡ.
Sách bài đọc của phụng vụ mới đã tổng hợp làm thành một bài đọc 2 đoạn phúc âm cách nhau: TN3-C36
1. Sách bài đọc của phụng vụ mới đã tổng hợp làm thành một bài đọc 2 đoạn phúc âm cách nhau đến 3 chương trong phúc âm thánh Lc. Thực khó tìm thấy được ý hướng xếp đặt này; một cách đơn giản có lẽ phụng vụ muốn ráp nối 2 đoạn văn khai mạc: một đoạn của phần nhập đề phúc âm Lc và đoạn kia nói đến việc CGS bắt đầu giảng dạy tại Nazaret. Dù sao, giả thiết phần nhập đề của phúc âm không đặt ra vấn đề gì đặc biệt trong việc chú giải, chúng ta chỉ cần chú giải ở đây phần thứ hai của bài đọc phụng vụ, nghĩa là sự rao giảng của CGS tại Nazaret.
2. Cả 3 phúc âm nhất lãm đều phù hợp nhau khi kể lại rằng, sau khi được thanh tẩy và bị cám dỗ, CGS trở về Galilêa để bắt đầu rao giảng ở đó (Mc 1,14; Mt 4,12; Lc 4,14). Lời rao giảng công khai của Đấng thiên sai đi liền theo sau các giai thoại siêu nhiên được thực hiện cách âm thầm.
Theo Mc 1,15 và mt 4,17, Ngài rao giảng nước TC đã gần đến và cần phải thống hối ăn năn để thông dự vào nước ấy (Mc xác định đó là Tin mừng và phải lãnh nhận Tin mừng ấy bằng đức tin). Lc không phải là không biết đến những đề tài này trong lần rao giảng đầu tiên của CGS (4,43; 5,32). Nhưng thay vì tóm lược lời rao giảng ấy trong một câu thì tác giả lại trình bày nó trong một khung cảnh rộng rãi, khung cảnh ấy phác họa những đường hướng hướng căn bản khai mào cho sứ mệnh trần thế của CGS. Đó là một khai mào trọng thể được Thánh Thần hướng dẫn (4,14.18), là Đấng đã tuôn tràn trên CGS từ ngày thanh tẩy (3,22; 4,1).
3. Trình thuật tiếp theo một đoạn tóm lược lời rao giảng của CGS tại Galilêa: Ngài giảng dạy trong các hội đường, gây sự chú ý và lòng nhiệt thành khắp cả vùng (4,14-15). Rồi “trở lại Nazaret là nơi Ngài đã sinh trưởng, và theo thói quen, thì ngày nghĩ lễ, Ngài vào trong hội đường, đứng dậy đọc sách” (c.16), Lc vắn tắt nhắc lại điều ông đã kể về thời thơ ấu của CGS ở Nazaret (2,39-40.51-52). Chỉ lần này tác giả gọi thành nhỏ này bằng tiếng Aram Nazara (như trình thuật tương tự của Mt 4,13) nhưng tác giả không gọi thành đó là “quê hương” của CGS (như Mc 6,1 và Mt 13,54 đã gọi): có lẽ vì CGS không sinh ra ở đó (2,4-7), và nhất là vì đối với Lc thì “quê hương” của CGS là tất cả vùng đất Israel (x.các chương 24-27).
Phúc âm của ông đã cho thấy cha mẹ CGS nhiệt thành tuân giữ lề luật (2,21.22-34.39.41-42), tác giả sẽ còn kể nhiều lần CGS vào trong các hội đường ngày hưu lễ (4,31-33; 6,6; 13,10). Nhưng đây là ngày hưu lễ đầu tiên mà CGS lên tiếng công khai trong buổi cầu nguyện ở hội đường. Do đó, theo phong tục thời bấy giờ, Ngài đứng dậy sau khi nghe sách luật và ra mắt quần chúng bằng một bài đọc sách các tiên tri.
4. Cách chung người ta thừa nhận rằng vào thời CGS thì việc đọc các sách tiên tri trong hội đường ngày hưu lễ không theo một lịch trình rõ ràng, nghĩa là không theo một chu kỳ gồm những bài đọc dọn sẵn như phụng vụ chúng ta ngày nay (ít ra đó là ý kiến của phần đông các nhà chú giải phúc âm Lc. Lập trường của Strack-Billerbeck trong cuốn Commenter zum Neuen Testament, IV Minchen năm 1928, trang 169-170, dầu vậy lập trường này cũng bị chống đối: xem Guilding, The Fourth Gospel and Jewish Waship, Oxford, 1960, tr. 7-10, 21-22, 125-126; vấn đề hình như cũng chưa được giải quyết ổn thỏa). Điều này rất phù hợp với trình thuật của Lc, CGS “gặp ngay” bản văn (chắc chắn sau khi đã tìm kiếm: CGS là người biết rõ kinh thánh, có thể dễ dàng tìm được một đoạn nói về Đấng Messia trong hầu hết các sách tiên tri; khi tỏ ý cho người chủ nhà hội mời Ngài giải thích đoạn văn Isaia, chắc chắn Ngài có thể chọn một trong nhiều đoạn văn loan báo về Đấng Messia) có thể giúp Ngài giải thích sứ mạnh của mình.
Bản văn CGS đọc là Is 61,1-2. Lc trích dẫn theo bản văn LXX với một vài thay đổi: nơi câu một của tiên tri, tác giả bỏ sót câu “chữa lành những tâm hồn tan nát” và ngắt câu hai trước những chữ “và ngày báo thù”; tác giả thêm vào câu 1: “trả tự do cho những kẻ bị áp bức”, chắc hẳn là do Is 58,6; từ đầu câu 2, tác giả thay tiếng: “rao” (appeler) bằng “công bố” (proclamer) đã có sẵn ở câu trước.
Đối với thính giả CGS, bản văn này là lời của một tiên tri và họ có thể đồng hóa vị tiên tri ấy với người tôi-tớ- Giavê mà những lời sấm của người tôi tớ ấy được tìm thấy ngay trong chính sách này (nhất là 42,1-7 có những tương quan chặt chẽ với 61,1). Bản văn loan báo một năm hồng ân tương đương với định chế của năm toàn xá theo luật Môisen (Lv 25,8-17). Nhưng mọi người đều hiểu rõ rằng, đối với Isai, điều quan hệ ở đây không phải chỉ đơn giản nói đến những tính toán giữa con người với nhau: chính TC sắp can thiệp bằng ân sủng của Ngài, và sự tự do mà Ngài loan báo hoàn toàn vượt lên trên sự tha nợ giữa những Do thái; đó là sự cứu độ lạ lùng của thời cánh chung và có thể đồng hóa với nước TC, mà người ta sẽ sôi nổi chờ đợi.
5. “Bấy giờ Ngài bắt đầu nói với họ: “hôm nay ứng nghiệm đoạn kinh thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Trong câu đầu tiên này CGS đưa ra tất cả ý hướng bài giảng. Ngài sắp thực hiện nơi Ngài lời sấm ngôn tiên tri mà chính Ngài vừa đọc. Làm như vậy, Ngài xử sự như một tiên tri.
Tiếng đầu tiên của CGS thật quyết liệt. "Hôm nay” xuất hiện nhiều lần nơi Lc, và chỉ Lc mà thôi, trong những đoạn khác nhau nói đến ơn cứu độ được thực hiện trong suốt cuộc đời CGS: ngày sinh nhật (2,11), chịu thanh tẩy (3,22), chữa lành người bất toại (5,26), những phép lạ và cuộc tiến lên Giêrusalem (13,32-33), tha thứ cho ông Giâkêu (19,5-9), lời hứa tha tội người trộm lành (23,43). Tiếng này ám chỉ sự hiện diện của CGS tạo nên một giai thoại thoại đặc sắc trong thời cứu độ. Lc không xem đây là thời thế mạt, vì ông biết Giáo hội đang nối tiếp cuộc đời CGS và ông trông đợi ngày Chúa trở lại (12,40; 17.22-37; 18,8; 21,27). Nhưng ông cũng nhìn thấy trong sứ điệp của CGS, một thời kỳ đặc biệt của lịch sử, một thời đại ân sủng giữa những sửa soạn của CƯ và thời bành trướng của Giáo hội, “trung tâm thời gian”, thành ngữ danh tiếng của Conzelmann.
CGS áp dụng cho chính Ngài sấm ngôn của Is 61. Khi chịu phép rửa Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần như một xức dầu ban cho Ngài một phận vụ thánh mà Lc diễn tả như là phận vụ của Messia (hoặc do việc trông đợi Đức Kitô trong 3,15 hoặc do lời Chúa Cha trong 3,22 lấy lại lời sấm phong vương cổ xưa của thánh vịnh 2,7). Nhưng CGS là Đấng Messia khác xa các vua trần gian mà các người đương thời mong đợi. Để tránh hiểu lầm Ngài không công khai minh định mình là Đấng Messia (x.4,11) và chỉ mạc khải điều đó cho nhóm tông đồ này, sau này khi họ đủ khả năng lãnh hội mạc khải đó (9,18-21). Còn bây giờ, lúc mới bắt đầu sứ vụ Ngài thích tự xưng là tiên tri mang tin mừng cứu độ. Có lẽ bản văn Is cho thấy Ngài là chân dung người tôi tớ Giavê, và nói lên các đề mục chính yếu của Tin mừng Ngài rao giảng là: người nghèo được ưu đãi, kẻ tù đày bị áp bức được giải phóng tự do, người mù được xem thấy. Những điều đó rõ ràng nói lên lòng ưu ái Ngài dành cho những kẻ khiêm nhu và các phép lạ Ngài sắp làm để thắng bệnh tật thể xác. Đồng thời các lời đó còn đưa ra các yêu sách và ân huệ của Ngài: lời mời gọi có tâm hồn nghèo khó, lời hứa giải phóng tội nhân đắm chìm trong giận dữ, cho người tin được xem thấy (khi chú giải “xem thấy” này, CGS theo sát tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2 tiên tri vừa loan báo một năm hồng phúc vừa loan báo một ngày báo oán; như thế ông trình bày đề tài cựu truyền về ngày của Giavê, vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Ở đây CGS không nói đến việc phán xét: không phải là Ngài loại bỏ chủ đề Ngài thường đề cập trong Tin mừng (Lc 6,20-26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), nhưng trong diễn từ này Ngài chỉ nhắm đến “trung tâm thời gian” là lúc mà ơn cứu độ được ban cho Israel; chính là thời gian mà Ngài gọi là năm hồng phúc của Chúa, là dịp thuận tiện mà dân Ngài phải lợi dụng (thật bạo gan khi muốn tìm ở đây một chỉ dẫn về thời hạn sứ vụ của CGS; bản văn Is nói là rao giảng trong một năm, nhưng CGS ở đây không nói chi đến thời gian hoạt động của Ngài).
Tóm lại, theo LC, tư tưởng CGS ở đây giống như tư tưởng trong lời loan báo: Nước TC đã gần đến, mà Lc 1,15 và Mt 4,17 đã ghi lại vì lời loan báo này cho thấy bây giờ người ta có thể vào nước TC nhờ sứ mệnh của CGS. Nhưng cách diễn tả của Lc chính xác hơn: phân biệt thời gian CGS hoạt động với thời gian hoàn tất có ý nghĩa cánh chung Lc cũng xác định đúng vai trò, hồng ân và các yêu sách của CGS.
6. Giai thoại này bộc lộ các ý hướng chính của Lc. Ông biết giai thoại Nazaret này nằm sau một chuỗi hoạt động của CGS. Ông nói câu đó trong hai câu đi trước đoản văn này (4,14-15) và gián tiếp ám chỉ ở 4,23. Ông đặt giai thoại này vào lúc CGS bắt đầu sứ vụ rao giảng. Hiển nhiên ông muốn chính CGS xác định sứ mạng ngay từ đầu phúc âm. Ý hướng này cũng có ở đầu sách Cvsđ (Ccsđ 1,8), là câu ghi lời CGS loan báo sứ mệnh truyền giáo của các tông đồ, và cho thấy lược đồ cuốn sách.
Cũng như trong Mc và Mt, khung cảnh câu chuyện là hội đường. Đây là một trong những phương pháp của CGS (4,15.33-34; 6,6; 13,10). Đây cũng là cách các nhà truyền giáo (mà Lc được tháp tùng) thường làm; tại mỗi thành, các Ngài bắt đầu rao giảng tại hội đường (Cvsđ 9,20; 13,5.14.44; 14,1; 17,1.10; 18,4.7.19; 19,8). Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh sứ điệp cứu rỗi được ban cho Israel trước hết bắt đầu từ thánh kinh và phụng tự; giao ước mới hoàn tất giao ước cũ.
Mc 1,15 và Mt 4,17 tóm tắt sứ điệp đầu tiên của CGS là: công bố nước TC gần đến. Lc làm sáng tỏ điều đó hơn nữa khi trích Is 61 là đoạn mà chắc chắn CGS đã tự áp dụng cho mình. Trong cảnh ở Nazaret, bản văn cho thấy đấng Messia, được giới thiệu khi chịu phép rửa, đã ra mắt công chúng như là vị tiên tri được Thánh Thần tấn phong; Ngài sắp đặc biệt lưu tâm đến các người nghèo khó, đau khổ, bị áp bức (đây là tư tưởng của riêng Lc); Ngài đến giải thoát họ và cho họ nhìn thấy chương trình của TC. Sứ mệnh tại thế của CGS tạo nên thời đại ân sủng cho Israel, mà họ phải biết lợi dụng ngay từ hôm nay.
KÉT LUẬN
Màn khai diễn là một điểm rất quan trọng để hiểu những chương phúc âm kế tiếp. Một cách nào đó CGS trình bày giáo huấn của Ngài. Trước hết Ngài đem đến ơn cứu độ, giải phóng, ánh sáng, ủi an: tất cả những thứ đó đều dành cho những người nghèo khó và bị áp bức. Thực sự đã bắt đầu một năm mới toàn xá. Nhưng lần này không phải chỉ có con người mới tha nợ và trao trả quyền công dân, tự do. Trong ngôi vị được xức dầu, chính Giavê đến tha nợ cho con người và giải thoát con người khỏi nô lệ sự dữ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Kiến thức về CGS mà chúng ta có được, kiến thức mà các vị thủ lãnh giáo hội, cha mẹ và những nhà giáo dục truyền lại cho ta từ đời nọ sang đời kia, bắt nguồn từ các sách phúc âm. Những sách phúc âm này, như tác giả phúc âm Lc cho biết trong những câu đầu của phúc âm ta vừa đọc, đã được viết bởi các nhân chứng đã chứng kiến các biến cố, hay bởi những người cẩn thận, như Lc, đã sưu tầm cách chắc chắn trước khi xuất bản. Như vậy có nghĩa là đức tin của chúng ta không phải được dựa trên những dụ ngôn hay thần thoại do trí tưởng tượng bày ra. Đức tin của chúng ta đặt cơ sở trên những sự kiện lịch sử được nhiều người thà đổ máu để làm chứng hơn là chối bỏ những sự kiện này. Điều này mang lại cho Kitô giáo một bộ mặt đặc biệt, độc nhất trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Kitô giáo được đặt trên cơ sở chính yếu là sự can thiệp của TC trong lịch sử, phân biệt Kitô giáo với các tôn giáo cũng như với mọi hệ thống tư tưởng khác. TC chúng ta là Chúa tể mọi sự kiện,mọi hành động có thực, không phải là ngẫu tượng hay thuần tư tưởng. Và TC ấy lưu tâm đến lịch sử cụ thể của con người, chính TC ấy ngày nay còn kêu gọi ta qua trung gian CGS, con người cụ thể ở Nazaret.
2. Khi rao giảng một trong những sứ điệp của mình cách công khai tại Nazaret là “nơi mình đã sinh trưởng” (c.16), CGS cho thấy rõ sự tế nhị của tâm hồn Ngài. Là người có tiếng tăm khắp vùng Galiles (c.14-15), Ngài không quên nơi mình đã lớn lên. Ngài muốn thông truyền cho người láng giềng, bà con, người đồng hương Tin mừng cứu độ, “năm hồng phúc” mà TC ban cho dân Israel và thế giới qua Ngài. Cho dầu là Con TC, được sinh ra nơi Thánh Thần, CGS cũng không từ chối những tương quan nhân loại nối kết Ngài với thành Nazaret. Ân sủng không đến để phá hủy nhưng để hoàn hảo những gì tự nhiên: để sống đời Kitô hữu trọn vẹn thay vì làm cho chúng ta tách rời khỏi người đồng hương lại làm cho chúng ta xích lại gần họ hơn và khích lệ ta yêu mến họ một cách trung kiên và tế nhị hơn.
3. Cho dầu là Đấng Cứu thế, Con TC, CGS cũng tiếp tục lui tới hội đường “theo thói quen của Người: (c.16). “Ngài tự đặt mình dưới lề luật” (Gal 4,4) như trình thuật về thời thơ ấu đã cho thấy điều đó. Ngài không đến để phá bỏ lề luật, nhưng thục thi và kiện toàn Lề luật. Là môn đệ của Ngài, chúng ta phải chọn con đường là vâng lời và tuân theo thánh ý Chúa Cha được bộc lộ trong luật Chúa và luật giáo hội.
4. CGS đã đến trước hết là để cứu vớt những người nghèo, bị áp bức đui mù. Sứ vụ công khai của Ngài thấy Ngài luôn quan tâm nâng đỡ những người đau khổ Ngài gặp trên đường. Nhưng trước hết Ngài chú ý đến những người đau khổ trong tâm hồn. Vì những người đau khổ phần xác chỉ là hậu quả và dấu chỉ của đau khổ phần hồn. Vì vậy, chính khi chữa lành bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, trước tiên ngài nhằm giải thoát những tâm hồn tội lỗi, xua đuổi ma quỉ, mở mắt đức tin. Công việc từ bi của Ngài luôn được tiếp tục trong giáo hội và qua giáo hội. Nhờ các nhiệm tích, CGS tiếp tục giải thoát các tín hữu nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng họ bằng bánh Thánh Thể, ban cho họ sức mạnh ân sủng. Nhờ lời giáo huấn của giáo hội, CGS tiếp tục thông truyền ánh sáng Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm. Và mỗi người chúng ta, trong hoàn cảnh của mình, đã được thụ hưởng hồng ân cao cả ấy của Chúa Kitô, thì đến lượt mình cũng phải làm cho những người mình gặp cũng được hưởng ân huệ ấy như mình. Mỗi người phải tiếp nối công việc của Chúa Kitô quanh mình, bằng cách tuôn tràn niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng tất cả nhân phẩm của mình. Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ môn đồ Chúa Kitô như thế, thì lời tiên tri Isaia hôm nay được hoàn tất, năm hồng ân của Chúa hôm nay được công bố, và nước TC sẽ hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét: TN3-C37
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
B.... nẩy mầm.
1. “Thần khí Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Thời Chúa Giêsu và thời các tông đồ, những kẻ nghèo hèn quả thực đã được nghe Tin Mừng. Nhưng những kẻ nghèo hèn thời nay có được như thế chưa ?
2. Chuyện xảy ra trong một đêm trình diễn văn nghệ Giáng sinh: một thanh niên hóa trang thành một người ăn mày để diễn nhạc cảnh Chúa đến với người nghèo. Nhưng thanh niên này không thể nào bước lên sân khấu được, vì khi anh tới gần đó thì bị những người trong ban trật tự đuổi đi. Họ tưởng anh là một tên ăn mày thật, và họ sợ anh phá rối buổi trình diễn. Xét về mặt hóa trang thì ban tổ chức văn nghệ đã thành công. Tuy nhiên xét về tinh thần thì họ đã tự mâu thuẫn: họ muốn nói cho khán giả biết Chúa đến với người nghèo, nhưng khi gặp người nghèo, dù chỉ là một người giả nghèo, thì họ đã xua đuổi. Tin Mừng đã không thấm nhập vào lòng những kẻ trình diễn Tin Mừng.
3. “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18)
Một người bạn kể lại: “… Trong lớp tôi dạy, có một em bị khuyết tật bẩm sinh: sứt môi và điếc một tai trái. Bị các bạn chế diễu, em luôn cảm thấy bị bỏ rơi, thua thiệt. Em trở nên khép kín và xa lánh mọi người. Một hôm, tôi cho các em được tự do đi lại trong lớp và có thể nói nhỏ vào tai bất kỳ một người bạn nào những gì mình thích. Bi ngồi đó, không tham gia, cũng không chờ đợi. Và chính lúc đó, tôi đã đến nói nhỏ vào tai em “Ước gì Bi là đứa em nhỏ của cô !” Bi ngước mắt ngạc nhiên như dò hỏi “Có thật không cô ?” Và tôi đã ôm chầm lấy em.”
Kỳ diệu thay luồng gió của Thánh Thần ! Ngài vẫn tác động trên tâm hồn con người, ngay trên người bạn của tôi, để luôn biết cảm thông và trao tặng… Hành vi ấy đang tiếp nối những hành vi của Chúa Giêsu, Đấng đã được Thánh Thần thúc đẩy để đem Tin Mừng cho người nghèo khó.
Lạy Chúa, khi con đói, xin gởi đến con người cần của ăn. Khi con cô đơn, xin gởi đến con người cần được thông cảm. (Epphata)
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn bản tường thuật những: TN3-C38
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đạ học hỏi thật là vững chắc.
Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và được mọi người tôn vinh.
Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sa-i-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Sau khi Chúa Giê-su đã lãnh nhận lễ rửa của Gio-an và vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài ở lại Giu-đê một thời gian rồi quay về Ga-li-lê. Nơi đây Ngài bắt đầu một chức vụ mà Lu-ca để dành sáu đoạn trong Phúc Âm ông viết để nói đến. Ông kể ra ba đặc điểm của chức vụ này: được thi hành do quyền năng của Chúa Thánh Thần, danh tiếng Ngài được đồn rộng khắp xứ, cách giảng dạy có uy quyền giữa công chúng.
Nơi đầu tiên Ngài thăm viếng và giảng bài đầu tiên là tại hội đường Na-da-rét, quê nhà của Ngài. Na-da-rét không phải là một làng, nó được gọi là 'Polis' nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới hai mươi ngàn dân. Na-da-rét tọa lạc trong một vùng đất của sườn đồi của Ga-li-lê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. Geoge Ađam Smith diễn tả phong cảnh từ đỉnh đồi đó như sau: "Lịch sử của Ít-ra-en mở ra trước mặt chúng ta: kia là cánh đồng Edroelon, nơi Đêbora và Barac đã chiến đấu, nơi Giêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi vua Saolê đã thảm bại, và chính nơi này Giosia đã bị giết trong chiến trận. Kia là vườn nho của Na-bốt, chỗ Giêhu giết Giêsaben, kìa nữa là đất Sunem, nơi tiên tri Ê-li-a đã sống, kìa là núi Các-men, nơi tiên tri Ê-li-a đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Ba-an, và xanh xanh ở đàng xa là Địa Trung Hải và các đảo. Nhưng không phải chỉ có lịch sử Ít-ra-en ở đó, mà lịch sử thế giới cũng mở ra từ trên đỉnh đồi Na-da-rét. Có ba con đường lớn vây quanh Na-da-rét. Có con đường từ phía nam đưa các khách hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thương gia chở nặng hàng hóa từ Ai-cập lên tới Đa-mát. Có con đường lớn đi về Phương Đông cho những đoàn doanh thương từ xứ Arabi tới, và cũng có những đoàn quân viễn chinh La-mã tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giê-su lớn lên tại một nơi hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thương của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Chúa Giê-su đã giảng bài quan trọng chứa đựng cả chương trình chức vụ của Ngài hay cũng có thể gọi được là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
Hôm ấy là ngày sa-bát. Các bà con bạn hữu và những người đồng hương của Chúa Giê-su đều hội họp đông đảo tại nơi thờ phượng chung là hội đường. Tất cả đều nóng lòng muốn dược nghe một người mà họ quen biết nhiều, một người mới thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh Thánh của tiên tri I-sai-a để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa. Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đày từ Ba-by-lon. Chúa Giê-su đọc xong thì ngồi xuống như cách các giáo sư nhà hội thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài, Ngài tuyên bố Ngài chính là Đấng Mê-si-a (Cứu Thế) đã được hứa. Lời tiên tri bắt đầu với câu "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi", đem áp dụng cho Ngài, có nghĩa rằng Ngài đã được xức dầu tấn phong, không phải bằng dầu thường như các tiên tri, thượng tế hay vua, nhưng bằng Thánh Thần để làm Đấng Được Xức Dầu hay Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Với tư cách ấy, Ngài sẽ giảng Tin Mừng cho người nghèo về thuộc thể cũng như thuộc linh. Ngài sẽ công bố sự giải phóng cho những kẻ bị tù đày vì tội lỗi, và thiết lập những nguyên tắc rồi đây sẽ đem lại sự tự do cho nhân loại. Ngài sẽ giúp cho kẻ bị áp bức được tự do, nghĩa là cởi bỏ những hậu quả và sự độc ác của lòng ích kỷ và tội lỗi. Ngài sẽ rao truyền một thời đại ân điển cho tất cả. Như vậy với những lời mô tả về sự giải phóng nô lệ và niềm vui của năm hồng ân, Chúa Giê-su đã diễn đạt tính chất ân điển và phước hạnh của chức vụ Ngài.
Chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng hơn để thấy được dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su đã vận dụng Kinh Thánh Cựu ước như thế nào cho sứ mệnh cứu thế của Ngài.
Khi Chúa Giê-su giảng dây trong các nhà hội, thường vẫn có độc Sách Thánh, nhưng đây là cơi hội duy nhất chúng ta được biết Ngài chọn bản văn. Và những lời đầu tiên được Ngài công bố trong bản văn Thánh "Thần Khí Chúa ngự trên tôi." Người có thể nhận thấy niềm hoan lạc tỏa ra từ giọng nói và nét mặt khi Ngài thốt ra lời Thần Khí Chúa, lời mà tiên tri I-sai-a đã ghi lại mà không nắm bắt hết nội dung, còn Ngài thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Khi công bố "Thần Khí Chúa", Ngài muốn tôn vinh tác giả Thần Linh, Đấng đã linh hứng lời tiên tri và giờ đây hướng dẫn việc thực hiện. Âm thầm và mau mắn, Chúa muốn cho thấy chính Thần Khí Chúa là nguồn gốc sứ mệnh của Ngài và hướng dẫn mọi đường đi nước bước. Ngài dùng chính từ ngữ mà chính Thần Khí đã bảo nhà tiên tri.
Trước những người đồng hương Na-da-rét, việc nêu rõ tên như thế này mang lại một tầm quan trọng hơn. Chúa Giê-su đang ở trong làng nơi đã nhiều năm sinh sống, ai cũng biết rõ gia đình Ngài: "Đây không phải là con ông Giuse sao ?" Câu nói biểu lộ sự ngạc nhiên thấy con của một người thợ tầm thường lại có được khôn ngoan và quyền năng như thế. Nhưng cũng hé mở cho thấy niềm xác tín rằng một giá trị cao cả như thế không thể do nguồn gốc gia đình mang lại. Chúa Ki-tô lập tức phải đối đầu với nhóm thính giả gợi ra gia đình thần linh mà Ngài đang thuộc về. Chẳng phải gia đình nhân loại đem lại cho Ngài những danh hiệu cho công trình Ngài đang đảm nhiệm, nhưng là Thần Khí của Đức Chúa. Ít ra các thính giả hiểu rằng Ngài đang nại đến uy quyền thần linh, Ngài tuyên bố giáo lý và hành động của Ngài là do Thiên Chúa đặt định. Ngay lúc này họ chưa có thể nhận ra Chúa Giê-su muốn ám chỉ đến một ngôi vị thần linh khác, vì cho đến lúc này họ chưa hề có được ý tưởng Thần Khí là một Ngôi vị Thiên Chúa. Nhưng ý tưởng này đả bao hàm trong lời nói của Chúa Cứu Thế.
May mắn hơn dân làng Na-da-rét, chúng ta biết được ý nghĩa Chúa Giê-su áp dụng cho lời tiên tri. Chúa Giê-su áp dụng cho Ngôi vị thần linh khác là nguồn gốc và điều khiển sứ mệnh cứu thế của Ngài. Để sứ mệnh của Ngài được điều hành do Thiên Chúa, chỉ cần Ngôi Hai Thiên Chúa làm người hoàn thành cũng đủ, thế nhưng Chúa Giê-su dựa vào sự hiện diện của Đức Chúa trên Ngài. Ngài xác nhận vai trò chủ quản của Thần Khí, và hơn thế, ở phía sau vai trò nguyên thủy tối quan trọng của Chúa Cha, là nguồn gốc của tất cả; vì nếu từ "Thần Khí" hướng về Chúa Thánh Thần, thì từ "Đức Chúa" trong ý của Chúa Giê-su phải quy hướng đặc biệt về Ngôi Cha, và như thế tất cả gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa được gợi lên. Như thế là theo chương trình của Thiên Chúa, Đức Ki-tô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần là Thần của Chúa Cha, đang ngự trong Ngài.
Cần hiểu đúng ý nghĩa việc Thần Khí ngự trên Đức Giê-su. Lời sấm trong sách tiên tri I-sai-a cho thấy một sự hiện diện qua việc xức dầu và trao ban một sứ mệnh. Nếu Thần Khí của Đức Chúa ngự trên Ngài là vì Đức Chúa đã xức dầu cho Ngài. Xức dầu là dấu chỉ thánh hiến một người, biệt riêng ra để phục vụ Thiên Chúa và mặc lấy quyền năng do Chúa ban như xưa trong Cựu ước, quyền làm vua, làm tiên tri, làm tư tế.
Chúa Ki-tô quả quyết Ngaì được xức dầu do Đức Chúa , từ Thiên Chúa Cha. Không phải dầu vật chất, nhưng là chính Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Chúa Giê-su được thánh hiến để phục vụ Chúa Cha, chính do Thánh Thần mà Ngài nhận được quyền năng. Danh hiệu Ki-tô của Chúa Giê-su là do Thánh Thần, vì danh hiệu này theo nguyên ngữ là "Đấng được xức dầu". Vì thế mỗi khi nhắc tới danh hiệu Ki-tô là nêu ra việc Ngài được Chúa Thánh Thần thánh hiến.
Việc xức dầu là để hoàn thành một sứ mạng. Khi đọc lời tiên tri, Đức Giê-su loan báo sứ mạng mà Thần Khí Chúa trao cho Ngài thi hành. điều đáng lưu ý là Ngài cắt ngang ngay giữa câu. Lời sấm ghi: "Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng… Ngài sai tôi công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta." (61,2), Chúa Giê-su ngừng lại sau "Năm hồng ân" và bỏ qua loan báo "ngày báo phục". Ngài không đến để loan báo ngày báo phục của Thiên Chúa, nhưng để công bố năm hồng ân. Như thế chữ cuối cùng "Năm hồng ân" diễn tả phúc lộc của Thiên Chúa phù hợp với chữ đầu tiên "Thần Khí Chúa". Thần Khí Chúa làm cho sứ điệp và công việc của Chúa Giê-su thành dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa. Khi bỏ đi phần báo phục, Chúa Ki-tô muốn chứng tỏ rằng Chúa Thánh Thần chỉ thông chuyển tình yêu qua Ngài. Có thể coi Chúa Thánh Thần như là hồn của sứ mệnh Đức Giê-su. Chính Chúa Cha giao nhiệm vụ cho Chúa Con, khi thi hành sứ mệnh này, Chúa Thánh Thần đã tác động trong Chúa Con, chính Ngài qua Chúa Con "loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ." Khi Chúa Giê-su hăng say rao giảng cho quần chúng, chính Thánh Thần linh động lời Ngài và thấu vào tâm trí người nghe. chính Chúa Giê-su cũng không đưa ra dấu hiệu nào khác minh chứng cho sứ mệnh của Ngài bằng nại đến ban phát tình thương. Khi Gio-an Tẩy giả nóng lòng chờ đợi thiết lập vương quốc thiên sai, từ trong ngục tù sai người hỏi Chúa Giê-su: "Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi đấng nào khác ?" Chúa Giê-su trả lời bằng cách nhắc cho vị Tiền Hô lưu ý tới thể hiện hiện Thần yêu thương, Thần Khí đã giáng xuống dưới hình chim bồ câu để làm cho dung nhan Đấng Cứu Thế có diện mạo Con Chiên hiền lành. Đừng chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế một quyền năng nào khác ngoài tình yêu được ban phát giờ đây. Để nhắc lại Thần Khí Chúa ngự trên Ngài, Chúa Giê-su trích dẫn chính lời tiên tri I-sai-a, và kể lại cho Gio-an điều mắt thấy tai nghe: "Mù được thấy, què được đi, phong cùi được khỏi, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo." (Mt 11,4-6)
Chúng ta đã được tháp nhập vào Đức Ki-tô với Bí tích Rửa tội. Không gì thích hợp hơn để chúng ta áp dụng trong thực tế lời kinh Năm Thánh 2000: "Lạy Cha, xin cho chúng con trong Năm Toàn Xá, biết vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, biết trung thành theo Đức Ki-tô, biết chuyên cần lắng nghe lời Chúa, và năng đến với nguồn mạch ân sủng.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh,
Chỉ có Chúa là Thiên Chúa và là Đấng Tối Cao, Chúng con xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Lạy Cha, xin dùng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, làm cho Hội Thánh thêm nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, cách thích hợp trong thời đại mới. Xin dẫn bước chúng con trên khắp nẻo đường trần gian, để rao giảng Đức Ki-tô bằng tất cả đời sống, và hướng cuộc lữ hành dương thế của chúng con, tiến về thành đô ánh sáng trên trời. Xin cho các môn đệ Đức Ki-tô được tỏa sáng nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức. Xin cho họ biết liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống đời bác ái yêu thương. Xin cho họ biết khoan dung với mọi người hầu chính họ cũng được hưởng lòng Cha tha thứ khoan dung …"
Nhiều giáo dân Việt Nam ít hoặc không quan tâm đến việc thi hành những chức vụ tư tế, ngôn sứ và: TN3-C39
Nhiều giáo dân Việt Nam ít hoặc không quan tâm đến việc thi hành những chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả mà Chúa Giê-su Ki-tô đã ban cho mỗi người qua/trong Bí Tích Rửa Tội (1). Trong ba chức vụ ấy thì chức vụ ngôn sứ là khó thực thi nhất vì đòi hỏi ở người Ki-tô hữu chẳng những một đời sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, mà còn một lòng dũng cảm, dám liều thân vì sứ mạng nói lời Thiên Chúa, làm “phát ngôn viên” của Thiên Chúa, trong lúc thuận lợi cũng như không thuận lợi, với những người muốn nghe và với cả những người không muốn nghe Lời Chúa.
Những Bài Thánh Kinh hôm nay mời gọi chúng ta hãy mở lòng mở tai lắng nghe Đức Giê-su Ki-tô là Ngôn Sứ trên hết các ngôn sứ của Thiên Chúa và xác tín hơn về sứ mạng ngôn sứ của mình.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Nkm 8, 2-4a.5-6.8-10: Ông Ét-ra và các Thày Lê-vi đọc và giải thích sách Luật.
2 Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. 3 Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. 4 Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này.
5 Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. 6 Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "A-men! A-men! " Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy ĐỨC CHÚA.
8 Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. 9 Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: "Hôm nay là ngày thánh hiến cho ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc." Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. 10 Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em."
(2) Bài đọc 2: 1 Cr 12, 12-30: Anh em là thân thể Đức Ki-tô và mỗi người là một bộ phận.
12 Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
14 Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi.15 Giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 16 Giả như tai có nói: "Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 17 Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?
18 Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. 19 Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? 20 Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy mắt không có thể bảo tay: "Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo hai chân: "Tao không cần chúng mày."
22 Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; 23 và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25 Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.
27 Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28 Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30 ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?
(3) Bài Tin Mừng: Lc 1, 1-4; 4,14-21: Hôm nay ứng nghiệm Lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.
1/1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. 2 Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. 3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài,4 mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.
4/14 Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15 Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh. 16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào? (1) Bài đọc 1 (Nkm 8, 2-4a) là một đoạn văn quan trọng của Sách Nơ-khê-mi-a cho thấy vai trò của việc giải thích Luật Chúa. Việc này được giao cho một số người. Cụ thể là tổng đốc Nơ-khê-mi-a, tư tế kiêm kinh sư Ét-ra và các thày Lê vi. Dĩ nhiên những người này phải nói lời Thiên Chúa chứ không được nói lời của riêng mình. Muốn nói lời của Thiên Chúa thì họ phải siêng năng học hỏi Luật Chúa và phải sống mật thiết với Thiên Chúa.
Trong đoạn Nkm 8,2-4a trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng rất quan tâm đến Ít-ra-en nên đã giao cho một số người việc đọc và giải thích Luật Chúa cho dân hiểu và tuân giữ luật ấy. Những người này còn phải biết an ủi, vỗ về dân trong lúc họ buồn khổ tuyệt vọng nữa.
(2) Bài đọc 2 (1 Cr 12, 12-30) là đoạn văn “bất hủ” của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về mối hiệp thông cơ bản và sâu xa giữa mọi phần tử trong Hội Thánh Chúa Ki-tô. Thánh Phaolô dùng hình ảnh “Thân Thể con người và các chi thể của thân thể ấy” để trình bày sự liên kết chặt chẽ và bổ sung kỳ diệu của các chi thể khác nhau.
Qua đoạn thư 1 Cr 12,12-30 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng vừa sáng tạo vừa quan phòng tuyệt vời. Người muốn qui tụ nhân loại thành một gia đình mà Chúa Giêsu Ki-tô Con Thiên Chúa là Anh Cả và mọi người là anh em chị em của nhau. Người muốn mọi người liên hết với nhau thành một thân thể mà Chúa Giêsu Ki-tô Con Thiên Chúa là Đầu và mọi người là chi thể của nhau. Sự hiệp nhất thâm sâu, tình liên đới chặt chẽ và sự bổ sung hài hòa là ba nét phải được làm nổi bật trong đời sống mọi cộng đoàn Ki-tô hữu: gia đình, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận, dòng tu!
(3) Bài Tin Mừng (Lc 1, 1-4;4,14-21) là hai đoạn của Phúc âm Lu-ca được Phụng Vụ ghép chung lại với nhau. Phần thứ hai quan trọng hơn vì phần này xác định rõ vai trò và sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giê-su Na-da-rét.
Qua đoạn Phúc Âm Lc 1, 1-4;4,14-21 này, Chúa Giê-su đã mạc khải chân dung và sứ mạng ngôn sứ cũng là phát ngôn viên của Thiên Chúa: (a) loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, (b) công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, (c) trả lại tự do cho người bị áp bức, (d) công bố một năm hồng ân của Chúa.
Để được đầy đủ hơn nữa thì chúng ta phải nói thêm rằng: Chúa Giê-su không chỉ loan báo…, công bố….. mà Người còn tích cực hành động để cho Tin Mừng Ơn cứu độ được đón nhận.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần liên kết chặt chẽ với nhau:
Phần thứ nhất: Chúa Giê-su là ngôn sứ trên hết mọi ngôn sứ vì Người là LỜI và là “phát ngôn viên” của Thiên Chúa; vì Người đến trần gian để nói “Lời tin vui” cho mọi người, cách riêng cho kẻ nghèo hèn; “Lời giải thoát” cho kẻ bị giam cầm (thể lý và tâm linh); “Lời sự sáng” cho kẻ mù lòa (thể lý và tâm linh); “Lời tự do” cho kẻ bị áp bức (thể xác và tinh thần); “Lời hồng ân và chúc phúc” cho hết mọi người và cho mọi ngày trong năm.
Phần thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần đã giao sứ mạng ngôn sứ cho một số người. Tất cả các Ki-tô hữu chúng ta đều được kể là các phát ngôn viên của Thiên Chúa, vì được tham dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Giê-su Ki-tô. Chúng ta có trách nhiệm đọc và giải thích Luật Chúa; có trách nhiệm nói “Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” cho mọi người, nhất là cho những người sầu khổ, bị giam cầm, mù lòa, bị áp bức và sống thiếu thốn mọi sự; và có trách nhiệm làm cho Tin Mừng Ơn cứu độ được nhiều người đón nhận.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi quyết tâm thực hiện hai việc này:
Việc thứ nhất: Chạy đến với Chúa Giê-su, sống riêng với Người trong chốn riêng tư, trong tình thân mật…. để nghe và sống Lời của Người, để học với Người về tinh thần và cách thi hành chức vụ ngôn sứ của người Ki-tô hữu.
Việc thứ hai: Dù gặp thuận lợi hay gặp chống đối, tôi quyết kiên trì và dũng cảm thực thi sứ mạng “phát ngôn viên” của Thiên Chúa mà nói “Lời chân thật, Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” trong mọi môi trường riêng của tôi là gia đình, khu xóm, hội đoàn, giáo xứ, công ty xí nghiệp, cộng đồng xã hội.
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
* Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân ái, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã chọn chúng con làm con cái Hội Thánh Chúa. Xin Chúa ban cho hết mọi người trong Hội Thánh ơn sống hiệp nhất, yêu thương, đoàn kết, liên đới và bổ túc cho nhau.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôn Sứ Vĩ Đại của lịch sử Cứu độ, là “Phát Ngôn Viên” Tuyệt Vời của Thiên Chúa, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã nói “Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” cho chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con ơn biết lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, để Lời ấy sinh hoa kết quả trong đời sống chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôn Sứ Vĩ Đại của lịch sử Cứu độ, là “Phát Ngôn Viên” Tuyệt Vời của Thiên Chúa, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã giao sứ mạng ngôn sứ và “phát ngôn viên” cho chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con ơn hiểu biết, ơn khôn ngoan và ơn can đảm để chúng con biết cách nói Lời của Chúa với những người chung quanh, nhất là với những người đang cần được Lời Chúa giải thoát khỏi cảnh tù ngục và khổ đau phần hồn phần xác.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ngự trên Chúa Giê-su và đã xức dầu tấn phong Người để Người làm tròn sứ mạng Ngôn Sứ trong trần gian. Xin Chúa Thánh Thần hãy ngự trên chúng con và xức dầu thánh hiến tâm trí và môi miệng chúng con để chúng con chu toàn sứ vụ nói Lời của Chúa, làm “phát ngôn viên” của Chúa hầu đem lại ơn phúc dồi dào cho mọi người.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Lễ Hiển Linh, Sàigòn ngày 07.01.2007. ……….
(1) Công đồng Va-ti-ca-nô II nói về Bản tính và sứ mạng giáo dân: “Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Ki-tô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo Hội công nhận; nghĩa là những Ki-tô hữu đã được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Ki-tô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Ki-tô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Ki-tô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình” (Hiến chế ‘Ánh sáng muôn dân’, số 31).
Nhìn vào xã hội, chúng ta nhận thấy con người thời nay đang bị giằng co, đang bị lôi kéo bởi: TN3-C40
Nhìn vào xã hội, chúng ta nhận thấy con người thời nay đang bị giằng co, đang bị lôi kéo bởi hai ước muốn, đều tích cực, đều hợp lý như nhau nhưng chưa bao giờ được dung hòa một cách tốt đẹp.
Thực vậy, từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta đều mong muốn người khác biết đến những tư tưởng, những tài năng của mình, đòi hỏi họ phải tôn trọng và giúp đỡ để chúng ta phát triển được toàn diện con người. Khuynh hướng này có tính cách cá nhân.
Đằng khác, con người lại ước muốn hợp nhất, để xã hội này trở thành một cộng đồng hợp nhất và thương yêu, trong đó, con người không còn phải trải qua những sự trống vắng và cô đơn. Ước mơ này ngày càng trở nên mãnh liệt trong một thế giới bị phân hóa trầm trọng. Đây là một khuynh hướng có tính cách cộng đồng.
Hai ước mơ trên đây càng mãnh liệt bao nhiêu thì lại càng va chạm dữ dội bấy nhiêu, và cho đến nay chưa ai có thể dung hòa được một cách tốt đẹp.
Riêng với những người Công giáo, những người có đức tin, thì sự dung hòa ấy khả dĩ có thể tìm thấy được nơi Đức Kitô và lời Ngài phán dạy. Thực vậy, qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Giêrêmia đã mô tả cái quang cảnh hùng vĩ: Dân Chúa tụ tập để lắng nghe lời Ngài. Esdras đọc và chú giải lời Chúa, còn dân Chúa thì vui mừng đến rơi lệ bởi vì Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài. Cảnh tượng trên đây đã được chính Đức Kitô thực hiện trong Tân ước. Đúng thế, Ngài đến để thực hiện sự hiệp nhất giữa muôn người. Ngài đến để thực hiện những lời hứa đã được tiên báo. Ngài đến để phá vỡ những bức tường ngăn cách, như nghèo đói, bệnh tật và dốt nát. Công cuộc hợp nhất này, cho đến ngày hôm nay, vẫn không ngừng được thực hiện dưới tác động của Chúa Thánh Thần…
Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy chúng ta tìm về gặp gỡ để tạo thành một thân thể, tuy một mà nhiều, tuy duy nhất mà lại đa diện, trong muôn ngàn sắc thái của ơn Chúa. Nếu suy nghĩ chúng ta cũng sẽ nhận thấy nhân loại tự bản tính vốn đa diện: Có Do Thái, có Hy lạp, có nam có nữ, có trắng có đen, nhưng nhờ bí tích Rửa tội, con người đã gặp gỡ, đã hiệp nhất và trở nên một.
Vì thế sự hiệp nhất không phải chỉ là kết quả của những cố gắng giữa người với người, mà hơn thế nữa còn là một ơn Thiên Chúa trao ban. Bởi vì, nếu chỉ cậy dựa vào sức người, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại, hay nếu có đạt được thì đó chỉ là một sự hiệp nhất dổm, một sự hiệp nhất giả hiệu mà thôi.
Sự hiệp nhất đích thực chỉ được tìm thấy trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa. Nó là kết quả của một công trình lâu dài, của một nỗ lực không ngừng để tẩy rửa, để tinh luyện tư tưởng dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, hiệp nhất không có nghĩa là phải dẹp bỏ, phải bóp chết các tài năng, các ơn thánh cá nhân. Vườn hoa chỉ đẹp, khi mỗi cánh hoa đều phô diễn trọn vẹn cái sắc thắm của mình. Cũng thế, tất cả các ơn Chúa ban, đều phải được xử dụng để làm vinh danh Chúa và góp phần đem lại lợi ích chung.
Thế nhưng trở ngại vẫn còn đó, nào ích kỷ, nào tự ái, nào kiêu căng. Con đường tiến về hiệp nhất vẫn còn nhiều chông gai và sỏi đá, tuy nhiên, chúng ta chắc chắn sẽ đạt tới đích, nếu như chúng ta luôn trung thành với lời Chúa và với Kinh Thánh.
Ước chi hôm nay chúng ta bắt đầu sống sự trung thành ấy trong chính cuộc sống của mình, bằng cách chấp nhận người khác, để cộng đồng nhân loại sẽ là một vườn hoa đủ màu đủ sắc của Thiên Chúa.
Trong phần đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thu hẹp nhận định vào điểm thánh Luca đã: TN3-C41
Trong phần đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thu hẹp nhận định vào điểm thánh Luca đã soạn thảo Phúc Âm của ngài với tất cả thái độ nghiêm túc của giới trí thức đương thời. Chúng ta dừng lại ở phương cách Đức Giêsu thuyết giáo trong nhà hội ở Nagiarét. Chúa tham gia đầy đủ vào những tục lệ dân tộc, tuân giữ ngày hưu lễ như những người Do thái khác, nghĩa là đến họp tại hội đường nghe đọc Lề Luật rồi nghe người ta bình giải. Người giữ hội đường đưa cho Chúa một cuốn sách về Cựu Ước (thời đó sách là một tờ giấy rất dài cuộn lại). Chúa đọc trong đó một bản văn mang ý nghĩa lời sấm về Đấng Messia. Chúa đọc xong, tất cả mọi người, kể cả Chúa, ngồi xuống. Bấy giờ Chúa loan báo cho đám thính giả rằng thời đại cứu độ mà nhân loại mong đợi đang mở ra cho họ, Chúa dùng lối nói bóng cho họ linh cảm rằng Đấng Messia đang hiện diện trước mặt họ.
Đoạn Phúc Âm cho chúng ta biết giảng thuyết của Chúa Giêsu bắt nguồn từ đâu và nhằm mục đích gì?
1) Bắt nguồn từ quyền phép Chúa Thánh Linh.
Một trong những nét được coi là đặc điểm của Đấng Messia hiện rõ lên ở đây: đó là quyền phép Chúa Thánh Linh. Sở dĩ Chúa Giêsu có được quyền phép ấy vì Người là Con Thiên Chúa. Tuy vậy, trên bình diện nhân tính, quyền phép ấy Chúa có được cũng là do sự Người cầu nguyện liên lỉ. Chúng ta có thể nghĩ rằng mỗi lần trước khi nói và hành động, Chúa cầu xin Chúa Thánh Linh soi sáng hướng dẫn Người. Nhờ mối liên hệ tâm linh ấy, Chúa là một người có những lời nói châu ngọc khiến người nghe ngưỡng mộ, và có một quyền năng làm phép lạ khi nào Chúa muốn. Đây là quy luật căn bản cho tất cả những ai sau này đến lượt mình mang sứ vụ loan báo cho thế gian rằng thời đại cứu độ đã tới. Dẫu cho ngày nay không cần phải làm phép lạ, sự giảng dạy về đức tin vẫn phải bắt nguồn từ tâm tình tuỳ thuộc hoàn toàn vào Chúa Thánh Linh.
2) Mục đích giảng thuyết của Chúa Giêsu là loan tin một sự giải phóng.
Chúng ta nói rõ, không phải là một sự giải phóng về chính trị, nhưng là giải phóng tâm hồn: mở ra một vận hội hy vọng cho những kẻ vô vọng. Được dễ dàng chuẩn bị nhất để đón nhận sứ điệp ấy, là những người nghèo, những kẻ bị áp bức, những kẻ đi tìm sự thật cho trí óc và giải thoát cho tâm hồn. Chúa phán rằng sự hiện diện của Người mở ra một năm ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là khai mạc một thời đại mới, thời đại cứu độ. Chúa tuyên bố điều ấy một cách dè dặt. Chúa để cho người ta phỏng đoán Chúa là AI hơn là Chúa xác nhận. Chúa biết rõ sự áp bức thật sự chính là những thiên kiến của trí óc và những mờ ám của tâm hồn. Suốt ba năm giảng dạy, Chúa Kitô giáo dục dân chúng cách tuần tự, cho họ quyền tự do nghe hay không nghe, dẫn dắt họ tiến dần đến chỗ hiểu biết rằng niềm tin vào Chúa đem đến sự giải phóng thật sự. Tất cả những cuộc giải phóng khác đều xuất phát từ sự giải phóng Chúa đề nghị với nhân loại.
Là con người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được tự do và hạnh phúc. Xã hội: TN3-C42
Là con người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được tự do và hạnh phúc. Xã hội phong kiến thời xưa đã làm cho người Việt nam sống trong sự nô lệ của những người giàu sang và có quyền thế. Sống trong tâm trạng như thế thật là thê thảm. Chính những người Do thái ngày xưa cũng đã hết sức cực khổ vì phải làm tôi mọi cho người Ai Cập. Nhờ Thiên Chúa mà họ đã được giải thoát để trở về sống an bình trong vùng đất Chúa hứa.
Hình ảnh ấy báo trước một sự giải thoát quý báu thiêng liêng hơn mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi thời Tân Ước. Thiên Chúa thực hiện điều ấy nơi Chúa Giêsu, Con duy nhất của Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu vào hội đường Nagiaret và người ta trao cho Người đoạn sách thánh. Ðây là việc làm mà Chúa Giêsu thường làm trong mỗi ngày Sabat. Ðoạn sách thánh hôm nay được trích từ sách tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 28 - 19).
Có một sự lạ thường đối với Chúa Giêsu trong ngày hôm nay là đọc xong đoạn sách thánh này Người mạnh dạn tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21b). Nghĩa là chính Chúa Giêsu sẽ làm những điều này cho toàn thể nhân loại. Người đem đến cho con người sự giải thoát. Giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời.
Từ khi tổ tông phạm tội thì con người đã đánh mất sự tự do thiêng liêng Thiên Chúa ban. Mà hậu quả của tội lỗi là sự chết. Dầu rằng chính con người tự chọn lấy điều ấy cho mình, nhưng Thiên Chúa vẫn không nỡ lòng nào để cho các con cái của Người phải gánh chịu mãi những hậu quả ấy. Ðó là hậu quả hết sức đát. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát con người. Và chính Chúa Giêsu là Ðấng đến đem cho con người sự giải thoát thiêng liêng vô cùng cao quý.
Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần thế này là bằng chứng hùng hồn nhất về sự giải thoát mà Thiên Chúa đem đến cho con người. Chúa Giêsu đi đến đâu là bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền và nhất là tội lỗi của con người được cứu chữa và tha thứ đến đó. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã ban quyền lại cho các tông đồ và những người kế vị: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 22b - 23)
Ðược nhận lãnh ơn tha thứ mỗi khi phạm tội là một ơn vô cùng cao quý. Ðặc biệt, cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong Năm thánh về linh mục và Năm thánh 2010. Ðây là một thời gian hết sức thuận tiện để chúng ta được lãnh nhận những ơn tha thứ của Chúa. Hãy biết tận dụng thời gian này cho thật sự có ích lợi.
“Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.” (Lc 1,1-4; 4,14-21)
Lời Chúa hôm nay xua tan những nghi ngờ còn ẩn khuất trong tâm trí người Do thái: ai sẽ cứu: TN3-C43
Suy niệm: Lời Chúa hôm nay xua tan những nghi ngờ còn ẩn khuất trong tâm trí người Do thái: ai sẽ cứu chúng ta? Lời ấy tiếp tục được chứng nghiệm trong sứ vụ rao giảng và chữa trị của Đức Giêsu. Người đã toàn tâm toàn trí rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, đến với người nghèo, người tội lỗi, người bị bỏ rơi. Người đã lên án những bất công trong tôn giáo và xã hội. Nhưng cuối cùng dường như Đức Giêsu thất bại vì sự cứng cỏi của người đương thời.
Mời bạn: Các sách Tin Mừng khắc họa một Đức Giêsu là Đấng chữa trị và giải phóng, Đấng ưu tiên chọn lựa người nghèo, người bất hạnh, và trở thành một giữa họ. Đức Giêsu mãi mãi là nguồn hy vọng không những hiện diện qua Giáo Hội Nhiệm Thể của Người mà còn hiện diện trong các tôn giáo, trong các nền văn hóa nữa. Giữa tất cả những gãy đổ của con người và thế giới hôm nay, Người vẫn không ngừng khích lệ chúng ta “Đừng sợ, Ta đây!” Trong sứ mạng chữa trị và giải phóng, Người là khởi điểm và cũng là điểm tới của nền văn minh tình thương mà chúng ta được mời gọi dấn thân phụng sự.
Chia sẻ: Phần bạn, bạn cảm nghiệm được gì nơi Đấng “loan Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” sau hơn 2000 năm? Bạn còn chờ ai nữa sẽ đến cứu thế giới và con người đang bị đe dọa sự sống còn từng ngày vì hận thù, chiến tranh, khủng bố, bệnh tật…?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con ngay từ lúc này biết bắt tay vào ‘thắp lên một ngọn nến’, chứ không ‘ngồi nguyền rủa bóng đêm’ – biết làm một cái gì đó cho người nghèo bớt nghèo và người khổ bớt khổ hơn. Amen.
Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, người Ki-tô hữu trở thành chi thể của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa TN3-C44
Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, người Ki-tô hữu trở thành chi thể của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô là Hội Thánh (mà Chúa Ki-tô là Đầu) nên tham dự vào 3 chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của chính Chúa Giê-su Ki-tô. Trong ba chức vụ cao trọng ấy thì chức vụ ngôn sứ là khó thực thi nhất vì đòi hỏi ở người Ki-tô hữu chẳng những một sự hiểu biết tương đối về Lời Chúa, mà còn cần có một lòng dũng cảm, dám liều thân vì sứ mạng nói lời Thiên Chúa, làm “phát ngôn viên” của Thiên Chúa, cả trong lúc thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi, cả với những người muốn nghe cũng như với những người không muốn nghe Lời Chúa. Những sự việc xẩy ra trong năm 2009 và nửa tháng đầu năm 2010 trong các giáo phận Hà Nội, Vinh, Huế, Vĩnh Long, Đà Lạt…. càng chứng minh việc thi hành sứ mạng nói Lời Chúa khó khăn, vất vả và đòi hỏi như thề nào.
Các Bài Thánh Kinh hôm nay mời gọi chúng ta hãy mở lòng, mở trí và mở tai mà lắng nghe Đức Giê-su Ki-tô là Ngôn Sứ Cao Trọng trên hết mọi ngôn sứ của Thiên Chúa và xác tín hơn về sứ mạng ngôn sứ của mình.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1: Nkm 8, 2-4a.5-6.8-10: Ông Ét-ra và các thày Lê-vi đọc và giải thích sách Luật.
2 Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. 3 Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. 4 Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này.
5 Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. 6 Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "A-men! A-men! " Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa.
8 Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. 9 Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: "Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc." Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. 10 Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em."
2.2 Bài đọc 2: 1 Cr 12, 12-30: Anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.
12 Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
14 Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi.15 Giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 16 Giả như tai có nói: "Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 17 Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?
18 Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. 19 Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? 20 Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy mắt không có thể bảo tay: "Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo hai chân: "Tao không cần chúng mày."
22 Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; 23 và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25 Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.
27 Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28 Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30 ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?
2.3 Bài Tin Mừng: Lc 1, 1-4; 4,14-21: Hôm nay ứng nghiệm Lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.
1/1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. 2 Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. 3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, 4 mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.
4/14 Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15 Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh. 16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Nkm 8, 2-4a) là một đoạn văn của Sách Nơ-khê-mi-a cho thấy vai trò quan trọng của việc giải thích Luật Chúa. Việc này được giao cho một số người được chọn lựa cách đặc biệt. Cụ thể là tổng đốc Nơ-khê-mi-a, tư tế kiêm kinh sư Ét-ra và các thày Lê vi. Dĩ nhiên những người này phải nói lời Thiên Chúa chứ không được nói lời của riêng mình. Muốn nói lời của Thiên Chúa thì họ phải siêng năng học hỏi Luật Chúa và phải sống mật thiết với Thiên Chúa.
* Trong đoạn Nkm 8,2-4a trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng rất quan tâm đến dân riêng Ít-ra-en nên đã giao cho một số người việc đọc và giải thích Luật Chúa cho dân hiểu và tuân giữ luật ấy. Những người này còn phải biết an ủi, vỗ về dân trong lúc dân buồn khổ, tuyệt vọng nữa.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 12, 12-30) là đoạn văn “bất hủ” của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về mối hiệp thông cơ bản và sâu xa giữa mọi phần tử trong Hội Thánh Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô dùng hình ảnh “Thân Thể con người và các chi thể của thân thể ấy” để trình bày mối liên kết chặt chẽ và bổ sung kỳ diệu của các chi thể khác nhau.
* Qua đoạn thư 1 Cr 12,12-30 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng vừa sáng tạo vừa quan phòng cách tuyệt vời. Người muốn qui tụ nhân loại thành một gia đình mà Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa là Anh Cả và mọi người là anh em chị em của nhau. Người muốn mọi người liên hết với nhau thành một thân thể mà Chúa Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa là Đầu và mọi người là chi thể của nhau. Sự hiệp nhất thâm sâu, tình liên đới chặt chẽ và sự bổ sung hài hòa là ba nét phải được làm nổi bật trong đời sống mọi cộng đoàn Ki-tô hữu: gia đình, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận, dòng tu!
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 1, 1-4; 4,14-21) là hai đoạn của Phúc âm Lu-ca được Phụng Vụ ghép chung lại với nhau. Phần sau quan trọng hơn phần trước vì phần này xác định rõ vai trò và sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giê-su Na-da-rét.
* Qua đoạn Phúc Âm Lc 4,14-21 Chúa Giê-su đã mạc khải chân dung và sứ mạng ngôn sứ hay phát ngôn viên Lời Thiên Chúa của Người. Sứ mạng bao hàm 4 nội dung/công việc là (a) loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, (b) công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, (c) trả lại tự do cho người bị áp bức và (d) công bố một năm hồng ân của Chúa.
Chúng ta có thể nói thêm rằng: Chúa Giê-su không chỉ loan báo hay công bố mà Người còn tích cực hành động cho Tin Mừng Ơn cứu độ được nhiều người đón nhận.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?) Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần liên kết chặt chẽ với nhau: Phần thứ nhất: Chúa Giê-su là ngôn sứ trên hết mọi ngôn sứ vì Người là LỜI và là “phát ngôn viên” của Thiên Chúa. Người đến trần gian để nói “Lời tin vui” cho mọi người, cách riêng cho kẻ nghèo hèn. Người nói “Lời giải thoát” cho kẻ bị giam cầm (thể lý và tâm linh). Nói “Lời sự sáng” cho kẻ mù lòa (thể lý và tâm linh). Nói “Lời tự do” cho kẻ bị áp bức (thể xác và tinh thần). Nói “Lời hồng ân và chúc phúc” cho hết mọi người và cho mọi ngày trong năm.
Phần thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần đã giao sứ mạng ngôn sứ cho một số người. Tất cả các Ki-tô hữu chúng ta đều được kể là các phát ngôn viên của Thiên Chúa, vì được tham dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Giê-su Ki-tô khi chịu phép rửa. Chúng ta có trách nhiệm đọc và giải thích Luật Chúa; có trách nhiệm nói “Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” cho mọi người, nhất là cho những người sầu khổ, bị giam cầm, mù lòa, bị áp bức và sống thiếu thốn mọi sự. Chúng ta còn có trách nhiệm làm cho Tin Mừng Ơn cứu độ được nhiều người đón nhận.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa vĩ đại và gần gũi yêu thương dân riêng Người khi giao việc giải thích Luật Chúa cho một số người được tuyển chọn cho công việc hệ trọng ấy; Sống với Chúa Giê-su Ki-tô là Lời và là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để nói Lời Yêu Thương, Lời Cứu Độ; Sống với Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh của các Sấm Ngôn, là Thần Khí của các Ngôn Sứ mọi thời đại!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi quyết tâm thực hiện hai việc này:
* Việc thứ nhất: Chạy đến với Chúa Giê-su, sống riêng với Người trong chốn riêng tư, trong tình thân mật…. để nghe và sống Lời của Người, để học với Người về tinh thần và cách thi hành chức vụ ngôn sứ của người Ki-tô hữu.
* Việc thứ hai: Dù gặp thuận lợi hay gặp chống đối, tôi quyết kiên trì và dũng cảm thực thi sứ mạng “phát ngôn viên” của Thiên Chúa mà nói “Lời chân thật, Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” trong mọi môi trường riêng của tôi là gia đình, khu xóm, hội đoàn, giáo xứ, công ty xí nghiệp, cộng đồng xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI
5.1 «Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục và linh mục, để các ngài chu toàn sứ vụ đọc và giải thích Luật của Thiên Chúa cho các tín hữu và cho mọi người ngày hôm nay.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cách riêng cho Hội Thánh tại Việt Nam trong Năm Thánh 2010 này, để mọi thành phần Dân Chúa tích cực thực thi sứ mạng ngôn sứ của mình trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay của xã hội.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả các Ki-tô hữu, nhất là cho những anh chị em ở Đồng Chiêm, là những người “đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” tích cực sống và làm chứng sự hiệp nhất của những kẻ tin vào Thiên Chúa, giữa thế giới đầy chia rẽ, đố kỵ và ganh tỵ này.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người đang khao khát gặp Chúa, để họ được ơn cảm nghiệm chân lý mạc khải trong Thánh Kinh, mà thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa là Thiên Chúa Duy Nhất của cả nhân loại.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Thánh Luca viết: “Anh Thêôphilê thân mến”. Sau khi lưu ý rằng đã có nhiều người làm điều đó: TN3-C45
Thánh Luca viết: “Anh Thêôphilê thân mến”. Sau khi lưu ý rằng đã có nhiều người làm điều đó trước Ngài, Thánh Luca dự định sẽ thuật lại “những biến cố được thực hiện giữa chúng ta” và phản ảnh trung thực những lời kể của những người đã mục kích. Váo thời mà các biến cố nầy chưa được ghi lại, thời mà các phúc âm chưa đeược viết ra, thì dường như có lưu hành những văn bản ngắn dùng cho những người đã “trở thành các tôi tớ của Lời”
Ở bốn chương xa hơn,chúng ta thấy lại Chúa Giêsu Nazaret. Các sử gia ngày càng thừa nhận rằng Người biết đọc, rằng Người thuộc tầng lớp thợ thủ công, những kẻ qua lại với những người ngoại quốc nói tiếng Hy Lạp, thảo với khách hàng chương trình làm việc.
Cũng thế sau khi đã rảo khắp vùng Galilêa, Chúa Giêsu trở về lại Nazaret. Ông trưởng hội đường biết Người rất rõ, nên không ngần ngại đưa sách Kinh Thánh cho Người. Chúa Giêsu “mở cuộn sách” tiên tri Isaia ở chương 61 và chọn đoạn nói về Đấng Kitô,Đấng Messia: Đức Chúa đã xức dầu hiến thánh tôi.
Sau khi trao cuộn giấy lại cho người giúp việc, Người ngồi xuống. Và để nhấn mạnh giây phút xúc động của bài giảng đầu tiên của Đấng Messia trong ngôi làng của mình, Thánh Luca đặc biệt lưu ý rằng “tất cả mọi người,trong hội đường, chăm chăm nhìn Người”. Cái tối thiểu nhất mà người ta có thể nói ở đây,đó là Thánh Luca biết viết! Ngài kể truyện rất hay. Đó là thầy thuốc,bạn trung thành của Thánh Phaolô.
Hôm nay Chúa Giêsu loan báo y` nghĩa thừa tác vụ của Người liên kết với một torng những truyền thống tiên tri lớn nhất của israel. Người nói về một văn bản được thảo ra nhận dịp trở về từ sự lưu đày:”Lời nầy của Sách Thánh, mà các ông vừa nghe, chính hôm nay nó được ứng nghiệm”.
Ba chủ đề lớn được ghi nhận từ đầu phúc âm Thánh Luca là những người nghèo, sự giải phóng và năm hồng ân. Những người nghèo, theo nghĩa Kinh Thánh,đại diện cho những người khi sống trên trần gian không có được phần hạnh phú chính đáng. Năm Thánh và sự giải phóng đi đôi với nhau: đó là năm người ta xóa nợ nần đã ký kết, năm người ta trả tự do cho các tù nhân và nô lệ. Trong tinh thần Thánh Luca, đó là lời loan báo một tin mừng và một xuất phát mới cho nhân loại”
Hôm nay lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm. Nếu tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy: TN3-C46
Hôm nay lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm. Nếu tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã thực thi mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là một bằng chứng xác quyết Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Chẳng hạn về việc Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, thì tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ ấy là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chẳng hạn về việc Ngài sinh ra ở Bêlem, thì tiên tri Mikêa đã nói:
- Và ngươi hỡi Bêlem xứ Giuđêa, ngươi không phải là một thành trì nhỏ bé, bởi vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị nhà Israel.
Chẳng hạn việc Thánh Gia trốn sang Ai Cập, tiên tri Ôsê đã loan báo:
- Ta sẽ gọi con Ta ra khỏi đất Ai Cập.
Nhất là những biến cố trong quãng đời công khai và cuộc tử nạn của Ngài, cũng đã được ứng nghiệm một cách hết sức đầy đủ, chẳng hạn về cuộc khải hoàn, tiến vào Giêrusalem một cách long trọng, thì tiên tri Giacaria đã mô tả:
- Hỡi Giêrusalem, này vua ngươi đang đến, Ngài cưỡi trên lừa con.
Về cái chết của Ngài, tiên tri Isaia đã công bố:
- Người ta đánh đập Ngài, nhưng Ngài đã bằng lòng chấp nhận, như con chiên yên lặng trước người thợ xén lông.
Và còn nhiều biến cố, còn nhiều sự việc khác nữa, Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời các tiên tri đã loan báo. Và như chúng ta đã xác quyết: Điều đó chứng tỏ Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Mỗi lời tiên tri là một lời nói trước, về một biến cố nào đó sẽ xảy ra, liên quan đến hành động tự do của Thiên Chúa. Những lời nói trước về Đức Kitô, được Thiên Chúa tỏ bày cho các tiên tri, để rồi chính các tiên tri đã công bố hàng trăm năm về trước cho dân Do Thái.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta phải tin nhận rằng Đức Kitô đã đến với chúng ta, Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân mong đợi, như trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã dẫn chứng lời tiên tri Isaia, để xác quyết rằng Ngài là Thiên Chúa đã đến trong trần gian để cứu chuộc những người nghèo đó, khổ đau và bất hạnh. Hơn thế nữa, chính Chúa Giêsu cũng nói tiên tri về những chuyện sẽ xảy ra và tất cả đều đã được ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Giêrusalem: Rồi đây sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Vào năm 70, tướng Titus, người Rôma, đã mang quân vây hãm Giêrusalem. Sau khi đã lọt được vào trong thành, họ đã đốt phá và san bằng thành phố.
Còn chúng ta thì sao? Trong giờ phút quan trọng này, chúng ta cũng đang sống lại những biến cố đã được ứng nghiệm: Thánh lễ là sự giáng sinh, là cái chết và phục sinh của Đức Kitô được lặp lại trên bàn thờ này. Thế nhưng chúng ta có đón nhận lời Chúa cùng với Bí tích Thánh Thể một cách trang nghiêm và sốt sắng, hay chúng ta lại cứng lòng như dân làng Nadarét, để cuối cùng đã xua đuổi Chúa, và tìm cách xô Ngài xuống vực sâu.
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập: TN3-C47 FB
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tim hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không? 2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý Thiên Chúa cho đời bạn? 3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không? 4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết tâm thực hiện không?
Một số người Công Giáo đã thất vọng nơi những cấu trúc gần đây của những nhà thờ, họ nhìn: TN3-C48
Một số người Công Giáo đã thất vọng nơi những cấu trúc gần đây của những nhà thờ, họ nhìn thấy chúng quá tiêu điều, không trang trí những đồ dùng sốt sắng và thiếu đi vẻ đẹp. Một số khác thì nhắm đến những nhà thờ cổ hơn thì quá cầu kỳ. Chúng ta hãy hướng đến bài đọc thứ hai ngày hôm nay. Đúng hơn là hãy quan sát những cấu trúc và trang trí của tòa nhà, hãy nhìn xem những người ở bên trong nhà thờ. Với đôi mắt đức tin Công Giáo của bạn hãy nhìn họ như họ thật sự là: Thân Mình của Đức Kitô, được làm nên bởi nhiều phần tử khác nhau. Bên trong mỗi con người là ánh sáng rực rỡ của con người Đức Kitô, Đầu của thân mình là Giáo Hội. Ánh sáng rực rỡ ấy chiếu sáng không chỉ trên những người mà đôi mắt của họ được soi sáng bởi chân lý và những người của Giáo Hội thật sự là thân mình của Đức Kitô, bên trong mỗi người là một vẻ đẹp đặc biệt và lạ lùng. Lúc ấy tôi ước ao, chúng ta có một cái nhìn quang tuyến X thiêng liêng cho phép chúng ta trong suốt Thánh Lễ nhìn xuyên được vẻ đẹp bên trong. Và tiếp theo chúng ta sẽ thấy đôi hôn phối ở gần chúng ta thì phải tranh đấu để giữ cho cuộc hôn nhân của họ được tồn tại, họ phải cầu nguyện nồng nhiệt biết bao để nắm bắt lại ân sủng thời họ mới cưới, tất cả bởi vì họ thật sự tin đó là ý muốn của Thiên Chúa, họ là hai trong một xác thịt. Đức tin của họ thì rất xinh đẹp.
Chúng ta thấy một người thanh niên ăn mặc lịch lãm. Với một cái nhìn đặc biệt chúng ta có thể biết anh ta đang nài xin Chúa giải thoát anh ta khỏi ách nô lệ của một đam mê đang đe dọa phá hủy đời sống của anh. Kế bên anh là một người thanh niên khác cũng đang cảm tạ Chúa vì những ân phúc trong đời sống của anh và xin Chúa hãy cho anh biết anh phải làm gì, để dâng mình cho Giáo Hội như là một linh mục. Bên trong cả hai con người đều rực lên ánh sáng xinh đẹp của đức tin. Chung quanh chúng ta, chúng ta nghe nhiều người đang nhiệt tình đọc kinh hoặc hát những bài hát sốt sắng. Họ là những thành phần rất khác biệt nhau trừ sự kiện họ là những người trưởng thành trẻ đã không còn đến với Thánh Lễ nữa. Tất cả bọn họ đều đã xa rời Giáo Hội Công giáo, một số khác đã kết hợp vời các tôn giáo khác, một số người nghĩ cuộc sống sẽ rất đẹp nếu Thiên Chúa không hiện hữu. Tiếp đó, một điều gì đã xảy ra, điều gì khác cho mỗi một người, làm cho họ nhận biết rằng họ cần có Thiên Chúa và Giáo Hội của Người biết bao. Bởi vì họ có hạt giống đức tin gieo bên trong họ, họ biết phải trở lại tìm kiếm Thiên Chúa ở đâu. Họ trở lại để nâng niu Giáo Hội với một sự nhiệt tình, cũng giống như những người mới gia nhập Giáo Hội vào ngày lễ Phục Sinh. Chúng ta chú ý đến những đứa trẻ. Nếu không có tia X quang, chúng ta vẫn có thể thấy sự đơn sơ và khiêm nhường của chúng. Chúng ta được nhắc nhở khi Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Thiên Chúa”. Trẻ em là một cuốn Phúc Âm sống động và chúng thì giống như những bông hoa đáng yêu trang trí cho Giáo Hội.
Thánh Phaolô đã suy niệm về sự hiệp nhất Đức Kitô với dân Người là Giáo Hội. Thánh nhân đã viết cho các tín hữu thành Corintho rằng: “Thân Mình của Đức Kitô thì có nhiều chi thể, tất cả những chi thể mặc dù chúng có nhiều nhưng chỉ là một Thân Thể, đó là Đức Kitô”. Bài học đầu tiên nói với chúng ta, dân chúng đã hạnh phúc biết bao khi họ tái khám phá cuốn sách Luật (ở đây có thể là Đệ nhị luật). Chúng ta sẽ hạnh phúc trong ngày của Chúa đã khám phá Thân Mình của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Trong bài đọc của thánh Phaolô nơi Thánh Lễ ngày Chúa Nhật ngày hôm nay đã ứng nghiệm giữa chúng ta. Hãy nhìn chung quanh bạn. Hãy chiêm ngắm Thân mình của Đức Kitô. Vẻ đẹp thật của ngôi nhà thờ. Chân lý lớn lao này đã cho chúng ta một tiếng Amen sốt sắng.
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa: TN3-C49
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa ra cho họ một lời Thánh Kinh, và bắt đầu từ tu sĩ trẻ nhất, thầy hỏi ý nghĩa của lời ấy. Mỗi tu sĩ đều nói theo khả năng của mình. Nhưng với tu sĩ nào thì thầy Antôn cũng nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”.
Tu sĩ cuối cùng nói với thầy Giuse:
- “Còn thầy, thầy giải thích lời đó ra sao?”
Thầy Giuse đáp:
- “Tôi không biết”.
Lúc ấy thầy Antôn nói:
- “Đúng, thầy Giuse đã tìm được giải đáp, vì Thầy nói: tôi không biết”.
Trước lời giải đáp của những vị tu sĩ cao niên đã nhiều năm sống đời tu hành trong hoang địa, ngày đêm không ngừng suy niệm Lời Chúa, thầy Antôn vẫn nhất mực nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”. Nhưng với thầy Giuse người có uy tín nhất, người đã trả lời “tôi không biết”, thầy Antôn lại bảo: “Chính thầy Giuse đã tìm được giải đáp”.
Thưa anh chị em,
Phải chăng có một nghịch lý trong giai thoại trên đây?
Trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, trí khôn con người làm sao có thể hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả được? Bởi vậy, cách giải thích Lời Chúa trung thực nhất là thú nhận rằng mình không giải thích nổi. Chỉ Thiên Chúa mới hiểu biết Lời Ngài và nói Lời Ngài cách thích đáng và xứng hợp. Hôm nay chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích cho chúng ta:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”.
Phải, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tru trong Cựu ước tiên báo, trước khi Ngài sinh ra hàng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của Ngài.
Thật vậy, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau nầy, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải Ngài là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm nói được v.v… đúng như lời tiên tri Isaia tiên báo.
Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc. Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đầy, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ; Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài lấy việc giải thoát họ làm sứ mạng của mình, và ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là tái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Và Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô là đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Chính Giáo Hội đã khai sinh ra các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão… Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và hôm nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn trương hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách nhất, liên quan đến công lý, giải phóng, phát triển và hòa bình.
Mẹ Têrêsa Calcutta trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô. Mẹ đã bị sốt liệt giường. Trong cơ mê sảng, Mẹ bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt Thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho Mẹ Têrêsa vào Thiên đàng. Thánh Phêrô nói: “Không để cho một người ở khu ổ chuột được vào Thiên đàng: Thiên đàng không có nơi cùng khổ”.
Mẹ Têrêsa tức giận nói với Thánh Phêrô: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên đàng”.
Tội nghiệp Thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ đó, Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiều người cùng khổ và cô dơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Ngày nay với gần 3000 nữ tu đang dấn thân với danh nghĩa là “thừa sai bác ái” trong 350 cơ sở xã hội, thuộc gần 100 quốc gia, những thừa sai bác ái ấy là những nhân chứng cho Chúa Kitô, cho sức mạnh của Tin Mừng, sức mạnh giải phóng những người nghèo khổ trên thế giới.
Nhắc lại thành quả của Mẹ Têrêsa, không nhằm làm chúng ta hãnh diện cho bằng thúc giục chúng ta, mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”. Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Chúa Kitô chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hơn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như trang Tin Mừng nêu lên, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
Khi dân Do Thái trở về quê hương sau nửa thế kỷ lưu đày ở Babylon, họ phải xây dựng lại: TN3-C50
Khi dân Do Thái trở về quê hương sau nửa thế kỷ lưu đày ở Babylon, họ phải xây dựng lại quốc gia họ. Ét-ra đã kêu gọi dân chúng thánh hiến chính mình cho Thiên Chúa. Ông bắt đầu đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ thời kỳ đó, đời sống và tôn giáo của người Do Thái có nền tảng là sự tuân thủ chính xác Luật Môsê. Là những Kitô hữu, chúng ta cũng là một dân của “sách Thánh”, tuy nhiên trong trường hợp của chúng ta là sách Tin Mừng.
Có một câu chuyện về một dân tộc chưa bao giờ nghe nói về Tin Mừng. Một ngày kia, một người nước ngoài đến và loan báo: “Tôi đến và mang cho các bạn một Tin Mừng”. Khổ nỗi, ông ta bị mắc bệnh và chết trước khi ông có thể nói cho họ nghe Tin Mừng. Người ta tìm thấy một cuốn sách nhỏ trong ba-lô của ông. Nhan đề cuốn sách là: “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Họ kết luận rằng đó là điều mà người nước ngoài muốn nói với họ. Họ bắt đầu đọc cuốn sách ấy.
Dù cuốn sách đã cũ, sứ điệp xem ra vẫn mới toanh. Nhân cách trung tâm hiện rõ ra với họ từ những trang sách mốc meo. Đó là một con người đầy sức sống, đã có được sự hiền lành và lòng thương xót cao cả. Họ đọc các tường thuật về những phép lạ. Người đã thực hiện cho những người bệnh và những người quẫn bách. Họ đọc thấy Người đã đi ra khỏi đường lối thông thường để liên kết với những người bị gạt bỏ. Lời Người tốt đẹp và có quyền bính gây một ấn tường sâu sắc trong lòng họ. Quả là một cuốn sách lạ lùng và lôi cuốn!
Tội nghiệp cho ông mang cuốn sách này đến đây và đã chết, có người nói: “Rõ ràng ông ta là một môn đệ của Đấng Kitô đó”.
“Nhưng ở xứ sở của ông ta, hẳn phải còn có nhiều môn đệ”, một người khác nói. “Chúng ta có nên sai một người đến đó để xem người dân sống giáo huấn mới này như thế nào hay không? Rồi người ấy sẽ trở về, tường thuật lại và có lẽ sau đó chính chúng ta có thể cố gắng sống giáo huấn ấy?”.
Họ chọn Francis, một thanh niên chính trực. Anh đã đi du hành khắp nơi và quan sát kỹ lưỡng. Anh sẵn sàng tìm gặp các thành phần tiêu biểu của quần chúng rộng rãi. Anh không vội vàng đưa ra kết luận và phán đoán. Sau cùng đến ngày mà anh cảm thấy đã quan sát đủ, anh liền trở về quê hương. Vừa mới về đến, đồng bào anh đã đặt ra cho anh những câu hỏi dồn dập:
“Những môn đệ của Sách Thánh có yêu thương nhau không?” “Họ có sống hoà bình với nhau không?” “Họ có sống một cách đơn sơ không?” “Họ có hạnh phúc không?”
Nhưng mọi câu hỏi có thể tóm gọn trong câu hỏi này: “Các môn đệ của Đức Kitô có sống theo đúng Sách Thánh không?”.
Và đây là một bản báo cáo tóm tắt về những gì Francis nhận thấy, được anh trao cho đồng bào anh:
“Về cơ bản, tôi thấy có năm loại Kitô hữu. Trước hết, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu nhưng chỉ trên danh nghĩa. Dù rằng họ đã được rửa tội, họ không tuân giữ một điều gì trong đạo và cũng không cam kết điều gì.
“Thứ hai, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu chỉ bởi thói quen. Dù rằng họ công khai cam kết tuân giữ theo giáo huấn của Đức Kitô, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến cách họ sống. Thậm chị, tôi còn thấy họ sống theo những nguyên tắc không liên quan gì đến những lời dạy trong Sách Thánh, mà trong nhiều trường hợp còn ngược lại với những lời dạy ấy.
“Thứ ba, tôi nhận thấy một số người rõ ràng là có lòng nhiệt thành với đức tin Kitô giáo. Họ dấn thân trong những công việc tốt lành. Nhưng dường như họ còn thiếu một yếu tố quan trọng. Họ dường như có ít hoặc chỉ có một bài phẩm chất mà Thầy họ yêu cầu.
“Thứ tư, tôi nhận thấy những người mà các bạn có thể gọi là các Kitô hữu hành đạo. Theo tôi những người này đã hiểu rõ tinh thần của Sách Thánh. Họ thật sự quan tâm đến người khác và không hổ thẹn là những Kitô hữu. Tôi thấy họ bị bách hại ở một số nơi. Ở những nơi khác, họ gặp phải tình cảnh có lẽ là tệ hại nhất: sự dửng dưng khủng khiếp của đồng bào họ.
“Sau cùng, tôi đã gặp một số người, phải thừa nhận là không nhiều, và tôi không ngần ngại gọi họ là những Kitô hữu đích thực. Họ là những người có đời sống tâm linh sâu xa. Khi gặp họ, tôi cảm thấy mình gặp được chính Đức Kitô”.
Câu chuyện không cho chúng ta biết dân tộc ấy có đón nhận Tin Mừng hay không. Ngày nay, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới tuỳ thuộc vào chúng ta. Có là một đặc ân to lớn nhưng là một công việc làm nản chí. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta được Chúa Thánh Thần ban ơn phù trợ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Cuốn sách duy nhất mà nhiều người sẽ đọc biết Tin Mừng chính là cuốn sách của đời sống chúng ta.