“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Đây là lời đã được tiên tri Isaia tuyên sấm từ xa xưa trong Cựu Ước. Hôm nay Chúa Kitô nhắc lại và tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”, Chúa đã làm cho lời sấm của tiên tri Isaia thành hiện thực và chính Chúa là người thực hiện lời sấm ấy.
Chúa đến để “mang Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Đó là những người nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói… Chúa Kitô được sai đến với những người bị giam cầm, thiếu thốn tự do bởi nhiều sự trói buộc. Những trói buộc đó có thể là nỗi lo sợ về muôn điều đe dọa về vật chất cũng như tinh thần; hoặc có thể là sự hoang mang bởi nhiều nỗi lo, nỗi chán chường; hoặc bị trói buộc bởi những ích kỷ tham lam…
Chúa Kitô ưu tiên dành cho người nghèo trong trái tim của Người. Đúng thôi, bởi người giàu có thì có quá nhiều việc phải lo. Thời gian đâu còn, cả tâm hồn cũng không lúc nào trống để Lời Chúa có thể đến và lớn lên. Vì thế, trong Tin Mừng, chúng ta nhận ra, những lời ngọt ngào, dịu dàng, Chúa Kitô đều dành cho những người nghèo khó, người bé mọn: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5, 11); Hoặc: “Đức Giêsu cất tiếng nói: ‘Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (11, 25)…
Trong khi những lời gay gắt nặng nề, Chúa lại không tiếc để chỉnh đốn, trách cứ người giàu có, người có quyền hành: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào” (Mt 23, 13); “Chúa nói rằng: ‘Thật, nhóm Pharisêu các ngươi, bên ngoài chén đĩa, thì các ngươi rửa sạch nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi” (Lc 11, 39-41).
Đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta ý thức hơn thế giới quanh chúng ta còn nhiều người nghèo. Họ nghèo từ tinh thần đến vật chất. Họ cần sự quan tâm, chia sẻ của chúng ta. Ước gì mỗi người đều hiểu rằng, cuộc sống sẽ đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi có những người giàu quan tâm đến người nghèo, người nghèo quan tâm đến người nghèo hơn, khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau mà sống liên đới đùm bọc lấy nhau…
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đến tràn ngập tâm hồn chúng con, như xưa Chúa đến và hoạt động nơi Chúa Kitô, để chúng con cũng có một tấm lòng giàu tình yêu thương bác ái như Chúa Kitô. Xin cho chúng con luôn tìm đến vơi anh chị em hơn là tìm an thân cho mình, để nhờ biết quan tâm lẫn nhau, chúng con có hạnh phúc và bình an. Amen.
Làm! Một động từ rất ngắn gọn: chỉ có một tiếng, nhưng lại là một con đường dài, khởi đi từ suy nghĩ đến cái miệng hoặc cái tai rồi mới đến bàn tay. Làm! Một động từ mà bản thân nó chẳng nói lên điều gì tốt hay xấu. Nhưng khi nó trượt hết con đường dài đến được bàn tay, thì kết quả của nó có thể là hoa trái của tình yêu, nhưng cũng có thể gây ra không biết bao nhiêu hận thù, chết chóc. Làm! Đơn giản là thế, nhưng cũng phức tạp không ít. Vì chỉ một hành vi nào đó, có khi thể hiện ra bên ngoài là một nghĩa cử rất yêu thương, lại ẩn chứa bên trong nó là một thái độ mua chuộc, mưu lợi, tệ hơn: trả thù. Có khi nó là một sự che đậy giả tâm của một ai đó.
Những năm qua, khi mà nhân loại còn đang bắt đầu thời gian khai mạc ngàn năm thứ ba, cứ tưởng rằng, với mọi nỗ lực đi đến hòa bình của bao nhiêu tâm hồn thiện chí, sẽ mang lại bình an cho thế giới. Nào ngờ, hòa bình trên thế giới vẫn bị đe dọa và thách thức từng ngày.
Tại Đất Thánh, quê hương của Chúa Giêsu, người ta đổ máu nhau gần như mỗi ngày. Sự thù hận làm cho người ta trở nên những kẻ điên cuồng. Hết đánh bom cảm tử đến càn quét, cày xới nhà cửa, đất đai của nhau. Năm 2003, cũng tại Đất Thánh, người ta dựng lên bức tường ngăn cách. Nếu phải gọi tên cho bức tường này, có lẽ phải gọi nó là sự thất bại của con người cho một mơ ước rất đơn giản: hòa bình! Đơn giản là thế, vậy mà bao nhiêu năm rồi vẫn cứ giằn co, máu vẫn cứ thay nhau mà đổ, mà chảy, đỏ thắm cả niềm đau.
Tại Iraq, những cuộc đánh bom giết người, tàn phá tài sản liên tục xảy ra, mặc cho thế giới lên án, căm phẫn, mặc cho những bên có liên quan, những người trong cuộc, các nhà lãnh đạo và tất cả những ai yêu hòa bình lo sợ. Đã nhiều năm nay, nguy cơ vũ trang nguyên tử Bắc Triều Tiên vẫn chưa có lối mở nào giải quyết khả dĩ. Người ta vẫn chưa quên được sự xách động của thế giới Hồi giáo làm ồn ào và gây nhiều nguy hiểm cho nền hòa bình thế giới khi hô hào chống lại lời phát biểu của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI…
Đó mới chỉ là những con sự kiện nổi cộm. Nếu ước tính những vụ khủng bố và bạo động trong một năm qua hay xa hơn nữa, chắc không ai dám nghĩ tới, vì nó sẽ làm ta rùng mình khiếp sợ. Thật là trái ngược, trái ngược đến mức mâu thuẫn hoàn toàn, vì tận trong tâm, ai cũng yêu hòa bình, ai cũng muốn sống niềm vui và hạnh phúc. Nhưng tại sao khi hành động, thì việc làm của con người lại có quá nhiều nguy hiểm, đe dọa và giết chóc. Lòng người sao tàn nhẫn đến thế!
Người ta nhân danh sự lớn mạnh, sự giàu có của quốc gia mình để trút bao nhiêu bom đạn và huênh hoan rằng, sẽ dẹp yên bạo động, trừ vạ khủng bố. Không biết người ta đã trừ, đã dẹp đến đâu, đạt được những thành quả nào, chỉ biết rằng, hôm nay nhân loại vẫn đang mất bình an, thế giới càng đầy dẫy hận thù, nguy cơ của những cái chết tập thể không ai lường hết được.
Con người dường như không ngăn nổi sự điên cuồng của bản thân, hay cũng đã trở nên điên cuồng. Tất cả những điều đó đều gói trong một động từ duy nhất: LÀM. Và sử dụng động từ làm như thế, đã biến con người ta thành những kẻ say máu đến độ thèm khát giết chóc, lao mình vào giết chóc. Những kẻ đánh bom cảm tử là một điển hình.
Cũng cùng một động từ làm, nhưng đối với thánh Gioan Tẩy Giả, nó lại quásức thân thương, đáng yêu và đáng học đòi. Thánh Gioan đề nghị mọi người động từ LÀM, mà nếu ai sống như thế, chẳng những bản thân bình an, cuộc sống của mọi người xung quanh cũng sẽ hưởng bình an lớn lao.
Đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ cảm nhận tất cả tình cảm đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng của động từ làm mà thánh Gioan đề nghị: Dân chúng hỏi thánh Gioan, “Chúng tôi phải LÀM gì?” Thánh Gioan trả lời cho họ biết phải làm gì bằng những việc làm thật cụ thể, thật gần gũi, dính kết ngay trong bổn phận của mỗi một người. Và tùy từng đấng bậc, nhiệm vụ mà thánh Gioan dạy họ làm:
Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Nếu ở thời đại chúng ta, chắc chắn thánh Gioan cũng không đề nghị một cái gì khác hơn, nhưng vẫn chỉ là một động từ làm kết dính vào bổn phận của từng người, của chính bạn và chính tôi.
Điều cần chú ý ở đây là những gì thánh Gioan nói cũng chính là những gì Chúa Giêsu dạy. Trong Tin Mừng, động từ LÀM được nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần. Chẳng hạn trước câu hỏi của người thanh niên giàu có: “Tôi phải làm gì để sống đời đời”, Chúa dạy: “Ngươi hãy bán tất cả của cải và phân phát cho người nghèo, rồi đi theo Ta”. Như vậy, điều cần làm ở đây, đó là sự trút bỏ để nên nghèo khó, là lòng bác ái với anh chị em nghèo.
Hay ở nơi khác, Chúa dạy người luật sĩ bằng dụ ngôn về người Samari tốt bụng, giúp đỡ người bị nạn trên đường đi. Và Chúa kết luận: “Anh hãy đi và LÀM như vậy” (Lc 6, 46). “Làm như vậy”, nghĩa là nếu người Samari trong dụ ngôn tốt bụng thế nào, thì người luật sĩ và cả chúng ta cũng hãy tốt bụng như thế. “Làm như vậy” còn là cúi xuống để nâng dậy những anh chị em khốn cùng, bất hạnh, đói rét… “Làm như vậy”, nghĩa là chấp nhận xóa mình, chấp nhận hao mòn sức lực, thời giờ, để hiến thân như chính Chúa đã hiến thân cho ta.
Dẫu biết rằng con đường dài nhất là con đường đi từ nói hoặc nghe đến làm. Đó là một con đường khó đi. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Chỉ cần chúng ta học lấy mỗi ngày một chút, chú ý thêm mỗi ngày một chút, chắc chắn không có gì khó đến mức không thể làm được. Đó là chưa kể tới ơn Chúa trợ giúp. Với ơn Chúa, chúng ta vững tin rằng, lòng mình sẽ được biến đổi để trở nên mềm mại hơn, đáng yêu hơn và dễ đến với anh em hơn. Bởi vậy động từ làm mà hôm nay thánh Gioan đề nghị sẽ là một từ ngữ đẹp hơn hết mọi thứ mà ta có thể cho là đẹp.
Chúng ta nói tới những việc làm gây chấn động thế giới bằng sự giết người tàn bạo. Nhưng cụ thể nơi tâm hồn mỗi người thì sao? Có lẽ bạn và tôi không ai dám nghĩ tới việc hãm hại anh chị em quanh mình, nhưng cách này cách khác, bằng sự đố kỵ, bằng thái độ chấp nhất, không tha thứ, không bao dung, nói không tốt về người khác, hoặc có khi trả đũa một người nào, không phải bằng giết người, nhưng bằng một hành động, một việc làm nào đó..., ta đã không LÀM tốt, không LÀM như Tin Mừng dạy. Vì thế, nhiều lần bản thân mỗi người đã xúc phạm đến anh chị em, gây đổ vỡ trong tình yêu, trong những mối tương thân tương ái, và làm mất bình an trong lòng người khác, nặng hơn: đào sâu thêm mối oán hận, thù nghịch nào đó…
Không biết có phải bi quan quá không, khi nói rằng: Nếu đi từ suy nghĩ đến hành động đã khó, thì từ suy nghĩ đến suy nghĩ đúng, lan rộng tới hành động: làm đúng, lại càng khó. Bởi thế, đứng trước mọi hiểm họa do lòng người độc ác đã tàn nhẫn gây nên, người Kitô hữu được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy sống những gì Tin Mừng dạy và làm những gì hợp Thánh ý Thiên Chúa để thế giới hòa thuận hơn, cuộc sống con người bình an hơn. Khi môi trường xung quanh có bình an, mỗi người cũng sẽ tràn ngập bình an.
Đức Giêsu trở về miền Galilê ( cc. 14 – 15 ). Thánh Luca viết phần này như một bản tóm tắt các hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê.
Từ Giorđan, qua hoang địa, Đức Giêsu trở về Galilê với tràn đầy quyền năng Thánh Thần. Đó là nơi Đức Giêsu đã sống suốt thời niên thiếu. Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên Người trở về Galilê, theo Tin Mừng theo Thánh Luca. Đây là lần thứ hai. Lần thứ nhất xảy ra khi Người lên 12 tuổi, sau kỳ lễ tại Giêrusalem. Khi ấy, “Người đi xuống cùng cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” ( 2, 51 ). Còn bây giờ, Người trở về Galilê dưới sự thúc đẩy của Thần Khí, trong tư cách Mêsia – Ngôn Sứ, và để bắt đầu sứ mạng công bố Tin Mừng của Người. Điểm đặc biệt của cuộc trở về lần này, như thế, là do Thần Khí, Đấng đang ngự trên Người. Sự khởi đầu sứ vụ công bố Tin Mừng của Đức Giêsu được đặt trong tương quan mật thiết và trực tiếp với cuộc xức dầu Thánh Thần trong biến cố Người lãnh nhận phép rửa và cuộc thần hiện sau đó. Chính dưới sự thúc đẩy của Thần Khí mà Đức Giêsu đã bắt đầu thi hành sứ vụ của Người. Người sẽ hoàn thành sứ vụ ấy trong sức mạnh của Thần Khí.
Vừa sau khi kể về cuộc trở lại Galilê của Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng đã khẳng định: “và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận”. Thực ra, cho đến lúc này, Đức Giêsu chưa thực hiện bất cứ hoạt động công khai nào. Vậy tiếng đồn ( phêmê ) này liên quan đến điều gì ? Phải chăng đó là tiếng đồn về những gì đã xảy đến trong biến cố Người được xức dầu trong khi cầu nguyện sau khi nhận phép rửa ? Có thể là như thế. Nhưng cũng có thể hiểu đây là tiếng đồn ( sau này ) về những gì Người thực hiện trong cuộc đời hoạt động công khai, nhưng được tác giả Luca nói trước trong bản tóm lược hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê này.
Về hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê, tác giả Luca nhấn mạnh việc Người giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái ( c. 15a ). Thực ra, hoạt động của Đức Giêsu nhắm đến toàn dân. Nhưng ở đây, tác giả Tin Mừng nhấn mạnh yếu tố “trong các hội đường của họ”. Phải chăng ông muốn trình bày Đức Giêsu như một rabbi hoạt động trong hệ thống tôn giáo của thời đại mình ? Hay Thánh Luca muốn tránh cho người đọc ấn tượng về một nhà giảng thuyết “lang thang” như nhiều triết gia thời ấy ? Hay ông muốn nhấn mạnh rằng thực tại mới mẻ mà Đức Giêsu mang đến không hề đoạn tuyệt với thực tại tôn giáo Israel ? Dù sao đi nữa, cách thức hoạt động đó của Đức Giêsu sẽ được Thánh Phaolô trung thành áp dụng sau này.
Tác giả Luca không nói gì về nội dung lời giảng dạy của Đức Giêsu tại Galilê. Có lẽ ông muốn dành điều đó cho trình thuật về cuộc giảng dạy đầu tiên của Người tại Nadarét. Nhưng ông cẩn thận ghi nhận rằng Đức Giêsu “được mọi người tôn vinh” ( c. 15b ). Đức Giêsu thành công bước đầu trong việc thực hiện sứ mạng rao giảng tại Galilê, và tác giả Tin Mừng ghi nhận điều đó một cách ngắn gọn. Đáng chú ý là ông dùng một từ thường chỉ sử dụng cho Thiên Chúa: “tôn vinh” ( x. 7, 16 ).
Sau phần tóm tắt ( cc. 14 - 15 ), tác giả Luca kể lại hoạt động giảng dạy đầu tiên của Đức Giêsu, diễn ra tại Nadarét. Đó “là nơi Người đã được dưỡng dục”, nên cư dân ở đó sẽ là những chứng nhân đầu tiên của lời Người giảng dạy, và phản ứng của họ sẽ phần nào là hình ảnh của phản ứng của Israel đối với hoạt động của Đức Giêsu.
Đến Nadarét, “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm”. Thói quen này của Đức Giêsu, như thế, có từ thời niên thiếu. Lòng tin Kitô giáo rõ ràng không phải là sự đoạn tuyệt, song là sự trưởng thành hoàn bị của đời sống tôn giáo đích thực trong Israel.
Nhưng bắt đầu từ hôm nay, sẽ có một điểm mới so với tất cả những lần Đức Giêsu lui tới hội đường trước kia. Điểm mới mẻ này sẽ xảy đến khi Người đứng lên đọc đọc Sách Thánh và mở lời giảng dạy. Tác giả Luca không kể lại chi tiết những nghi lễ diễn ra trong hội đường vào ngày sabát ấy. Ông lược bỏ mọi chi tiết có thể làm cho người đọc mất tập trung vào điểm chính yếu. Trung tâm của trình thuật ở cc. 16 – 21, thực ra, là lời trích Ngôn Sứ Isaia và lời khẳng định của Đức Giêsu về sự ứng nghiệm lời Kinh Thánh. Cấu trúc của trình thuật mang tính quy tâm:
( a ) Người đứng lên ( b ) Người nhận sách ( c ) Người mở sách ra ( d ) lời trích Ngôn Sứ Isaia ( c’ ) Người cuộn sách lại ( b’ ) Người trả sách ( a’ ) Người ngồi xuống.
Điều đáng chú ý nữa là Thánh Luca không hề nói cách tường minh rằng Đức Giêsu đọc sách. Ông cố ý làm thế có lẽ bởi vì ông không muốn người đọc chú tâm vào sự kiện Đức Giêsu đọc bản văn, mà chỉ chú tâm vào lời giảng của Người sau đó.
Bản văn Ngôn Sứ Isaia được ghi lại ở cc. 18 – 19 thực ra là sự trộn lẫn hai bản văn của Isaia trong bản LXX ( Is 61, 1 – 2; 58, 6; 61, 2a ). Tác giả Luca cố ý nhấn mạnh những điểm chính yếu trong sứ mạng công bố Tin Mừng của Đức Giêsu khi ông đặt bản văn ngôn sứ này vào trong cuộc khởi đầu sứ mạng ấy:
- Việc nhắc đến vai trò của Thần Khí gợi ý trực tiếp đến biến cố xảy ra sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa: Người được xức dầu Thánh Thần và được thánh hiến cho sứ mạng Mêsia. Hơn nữa, điều đó còn cho chúng ta một yếu tố có tính quyết định trong việc giải thích hoạt động của Đức Giêsu: tất cả hoạt động của Đức Giêsu đều được đặt dưới dấu ấn Thần Khí đã được tỏ hiện trong biến cố tại Giorđan. Cũng chính Thần Khí sẽ thúc đẩy Hội Thánh công bố Tin Mừng cho thế giới.
- Điểm chính yếu trong sứ điệp Tin Mừng mà Đức Giêsu công bố là ơn giải thoát toàn diện. Đó cũng sẽ là điểm chính yếu trong sứ điệp của Hội Thánh.
- Giá trị của lời công bố được đề cao. Tác giả Luca không phủ nhận sự kiện Đức Giêsu làm phép lạ, nhưng ông muốn nhấn mạnh ở đây trên lời loan báo và công bố Tin Mừng. Đức Giêsu hoạt động trước hết qua lời của Người để thay đổi con tim người ta. Tất nhiên đó cũng sẽ là thực tế của Hội Thánh sau này: Hội Thánh công bố lời, và qua kerygma mà ơn cứu độ được hiện tại hoá trong thế gian.
- Đối tượng ưu tiên của lời loan báo Tin Mừng là những người nghèo. Chính cho họ trước hết mà Đức Giêsu công bố tin Mừng của Thiên Chúa.
- Tác giả Luca cố ý cắt bỏ câu “ngày báo phục của Thiên Chúa” trong Is 61, 2b. Ơn cứu độ mà Đức Giêsu công bố là ơn cứu độ phổ quát chứ không phải là một cuộc phán xét kinh hoàng trong đó Thiên Chúa an ủi những người Israel bằng cách trừng phạt dân ngoại. Như thế, năm hồng ân được công bố cho mọi người. Có hai cách dịch chữ đêktôs ở đây:
+ hiểu theo nghĩa hoạt động, phải dịch là hồng ân, cứu độ, phúc lộc: “năm hồng ân / năm cứu độ”, trong đó Đức Chúa thực hiện ơn cứu độ của Người;
+ hiểu như một tính từ, phải dịch là được thương nhận, tức là “một năm được Đức Chúa thương nhận”, trong đó, Đức Chúa thương nhận con người, tỏ lòng ưu ái đối với con người.
“Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” ( cc. 20 – 21 ). Đức Giêsu không bình luận hay giải nghĩa lời ngôn sứ Isaia vừa được trích dẫn. Người xác nhận và thực hiện lời ấy. “Hôm nay” ( semêrôn ) khai mở “năm hồng ân / năm được thương nhận”, tức là khai mở thời gian cứu độ. Lời công bố này của Đức Giêsu cũng một trật là sự thực hiện của Người, tức là một rhema, một lời – biến cố, không chỉ là một diễn văn hay một thông báo.
Sự ứng nghiệm / thực hiện / hoàn thành ở đây có thể hiểu theo 3 nghĩa: sự thực hiện một lời hứa, sự ứng nghiệm một lời tiên báo và sự hoàn thành một chương trình đang được thực hiện. Lời Kinh Thánh ( Cựu Ước ) là lời tiên báo cần được ứng nghiệm, là lời hứa cần được thực thi và là tiến trình cần được hoàn thành. Đức Giêsu công bố rằng hôm nay, nơi Người, đã xảy đến sự ứng nghiệm – thực hiện – hoàn thành đó.
“Mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng Thánh Lễ. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài.
Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công Giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, "Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào" ( Ga 10, 10 ). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất Hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng Đường Hy Vọng ( x. Ga 6, 53 ).
Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm Giờ Thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công Giáo trở lại sống Đạo đức hơn; nhiều anh em không Công Giáo, Phật Giáo tìm hiểu Phúc Âm và lãnh phép Thánh Tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người” ( Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá ).
Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca giới thiệu sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đấng Cứu Thế. Đấng Messia mà Ngôn Sứ Isaia đã loan báo hàng trăm năm trước.
Đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn
Người đến không đem Tin Mừng đến cho quý bậc vương giả, quý chánh khách, quý nhân sĩ học cao hiểu rộng, quý vị kiêu căng, hợm hĩnh tự phụ về tài năng, về chức tước, bổng lộc. Mà Người đến với những thân phận nghèo hèn, những kẻ cùng đinh, những thân phận bên lề xã hội, những người bé nhỏ, khiêm tốn, nhường nhịn, tự hạ, vị tha, chân thành ý thức bản thân như cát bụi với Đấng Tạo Hóa.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ( Lc 4, 18 ).
Đến thờ lạy Đấng Cứu Thế trong máng cỏ Bêlem, những trẻ mục đồng chăn chiên khốn khó, với tâm hồn chân thành, trong sáng, những nhà chiêm tinh thiện tâm, nhiệt tình khao khát yết kiến Vua Vũ Trụ.
Khởi sự đi rao giảng, Người cũng kêu gọi và chọn những Tông Đồ từ dân thuyền chài tầm thường, nghèo khó, đơn sơ, mộc mạc. Những người sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự thế gian, công việc, gia đình, để đi theo Chúa.
Trong khi đó, bao nhiêu Luật Sĩ, Kinh Sư, Tư Tế và cư dân thành Giêrusalem đều nghe biết Đấng Messia được sinh hạ ở Bêlem, nhưng vẫn lạnh nhạt, hờ hững, làm ngơ, chẳng hề đoái hoài đón nhận và thờ lạy Ngươì.
Cũng như trào lưu xã hội hiện nay, đang đua nhau phủ nhận Chúa, đang xua đuổi Người ra khỏi mọi lãnh vực. Khi đua nhau vái lạy những con Bò Vàng tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, lạc thú, thay vì kính Chúa, yêu người, thì Tin Mừng đương nhiên trở nên điều xa xỉ, không cần thiết với họ.
Do vậy, Tin Mừng chỉ có thể đến được với những tâm hồn khiêm cung, nhỏ bé, đói khát sự công chính, sự thật và chân lý. Chúa Giêsu vẫn khuyên nhủ mọi người, hãy trở nên trong sáng, hồn nhiên, đơn sơ như trẻ thơ, dễ dàng nhận được những hạt giống Tin Mừng, ươm chồi, nảy lộc, thành cây xanh tươi, sinh hoa thơm trái ngọt sau này.
Đem tự do cho người tù và bị áp bức
Chúa Giêsu đến thế gian không phải làm chiến sĩ anh hùng, giải thoát dân Israel khỏi ách đô hộ Rôma, không giải thoát những tù binh hay nô lệ. Nhưng giải thoát con người khỏi xiềng xích ma quỷ, khỏi quyền lực thế gian đen tối độc ác, khỏi cạm bẫy cám dỗ, khỏi đam mê xác thịt. Dẫn dắt con người đến bến bờ hy vọng cứu rỗi.
“Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha… trả lại tự do cho người bị áp bức” ( Lc 4, 18 ).
Ngay nơi tù ngục, Tin Mừng vẫn đem lại ánh sáng tự do cho những ai đang quằn quại chịu nhục hình. Giải thoát tâm hồn họ khỏi ách tù đày, khỏi áp bức tra tấn, khỏi thù hận, nghi kỵ, bất mãn, như Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê đã trải nghiệm: “Dẫu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” ( Tv 23, 4 ).
Nhất là Tin Mừng còn phá tan vòng kiềm tỏa của ma quỷ, giam hãm con người trong ngục thất tội lỗi u mê, tìm được lối thoát an toàn. Những tù nhân của đam mê vật chất, những con tin của cuộc sống trụy lạc, sớm thức tỉnh, sẽ được tự do trở về với Lòng Thương Xót vô bờ.
Đem ánh sáng cho người mù
“Người sai tôi đi công bố cho người mù biết họ được sáng mắt” ( Lc 4, 18 ).
Người đem Tin Mừng đến dẫn dắt, soi sáng, hướng dẫn những ai mù lòa lạc đường trong tối tăm, trong bóng đêm vô thần. Những người đang bị Chủ Nghĩa Duy Vật, Chủ Nghĩa Hiện Sinh, Chủ Nghĩa Thực Dụng, khuynh đảo che mất tầm nhìn về tương lai. Nhất là Chủ Nghĩa Duy Tương Đối và khuynh hướng tục hóa đang thách thức và đe dọa thô bạo đến niềm tin Kitô hữu. Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 119, 105 ).
Trước cái bả danh lợi, sắc dục, của cải, con người dễ dàng mù quáng lao theo chước cám dỗ chiếm đoạt, không còn biết đến công bằng, chánh trực và Đạo nghĩa. Trước những lời nói có cánh, khen ngợi, dụ dỗ, khích động, con người cũng dễ dàng gục ngã, a dua, tán đồng, hoặc bị phỉnh lừa. Đó là chính là lúc cần đến Lời Chúa đến soi sáng phân minh, đâu là thật giả, đâu là con đường chính đáng phải theo.
Ban phúc Hồng Ân
Đấng Cứu Thế công bố Năm Hồng Ân của Chúa, không chỉ là một năm duy nhất, mà kéo dài cho đến ngày chung thẩm. Nay thời thế mạt sắp đến gần, thế nhưng có bao nhiêu người chịu lắng tai nghe, tiếng kêu khần thiết trong hoang mạc của ông Gioan Tiền Hô, để kịp thời ăn năn sám hối ?
Nhiều người đang trở nên điếc đặc, hay mù lòa trong cái xã hội hỗn độn, phù phiếm, gian manh, lừa đảo, bóc lột, đàn áp, bất nhân, bất nghĩa. Trong đó, con người coi nhau như cừu địch, chỉ biết đua nhau bước lên đầu lên cổ người khác để tiến thân, để hưởng thụ. Nhưng Đấng Cứu Thế đã kịp thời đến xua tan bóng đêm hãi hùng, chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng, hóa giải những mưu ma, chước quỷ, mời gọi mọi người quay trở về đường ngay, nẻo chính, về với quê hương Nước Trời.
Lạy Chúa, xin hãy giải thoát con khỏi xiềng xích tội lỗi, xin mở mắt, mở tai con ra, để biết đón nhận Tin Mừng, áp dụng vào đời sống thường ngày.
Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cho con biết ăn năn sám hối, trở về cùng Chúa nhân lành, hầu con xứng đáng hưởng hồng ân cứu độ. Amen.
Bất công, không biết từ bao giờ, đã xuất hiện trên trái đất, trong xã hội loài người. Có một điều chắc chắn rằng, chẳng một thọ tạo nào chấp nhận bất công cả. Sự bất công luôn khiến cho con người cảm thấy bức bối, tức giận. Phải chăng vì Thiên Chúa đã phú bẩm nơi họ lương tâm biết phân biệt điều lành dữ. Chính vì sự nhận biết này, mà con người khó có thể chấp nhận bất công, bởi nó hoàn toàn trái ngược với Đạo làm người.
Nhân loại không thích bất công, nhưng không phải ai cũng có thể sống để khỏi bất công. Chỉ vì cuộc sống, chỉ bởi cơm áo gạo tiền, danh vọng, địa vị, quyền lực… mà người ta có thể sẵn sàng bất công với người khác, ngay cả bất công với mình để đạt được tham vọng.
Có những bất công nhỏ, và không thiếu bất công lớn. Nhưng cho dù là bất công nào đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì ích kỉ mà ra. Ai cũng muốn thu lợi về mình, mấy ai dám sống công bằng để bảo vệ quyền lợi cho kẻ khác. Thế nên, tội lỗi, sự ác, đau khổ, hận thù, áp bức, bóc lột… luôn luôn xảy ra trong mọi thời đại, chẳng bao giờ ngừng.
Để có thể sống công bình trong điều nhỏ nhặt, tầm thường cũng đòi hỏi một con người có tấm lòng Đạo đức phi thường mới có thể thực hiện được. Chỉ những ai biết kính sợ Thiên Chúa mới có thể biết sống công bình, chính trực. Trần gian có khác gì chiếc bẫy tinh xảo, không chừa bất kỳ ai, không tha bất kỳ kẻ nào, và chỉ có người biết kính sợ Thiên Chúa, biết thi hành lề luật của Ngài mới không thể bị giăng bẫy mà thôi.
Kẻ càng làm lớn thì bất công càng nhiều. Chính vì sự lợi lộc danh hoa phí quí cùng với quyền lực địa vị làm mờ con mắt công chính. Người nghèo đói, kẻ thấp cổ bé họng,… người không có địa vị trong xã hội chính là nạn nhân của kẻ bất công. Có kẻ áp bực bóc lột, tức nhiên có người bị bóc lột, áp bức.
Có nhiều bất công. Bất công với Thiên Chúa trong việc sử dụng tinh hoa vạn vật vũ trụ Ngài hiến tặng nhưng không cho nhân loại trong hoàn vũ này. Từ hơi thở, nước, không khí đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vũ trụ. Bất công với tha nhân trong việc tranh giành quyền lực, địa vị, tài sản, nhân phẩm… không thuộc về mình. Và bất công với chính mình với lòng tham vô tận cùng với những đòi hỏi thái quá, không chấp nhận sự thật về mình…
Ai là người có thể thi hành lề luật của Thiên Chúa để không trở thành kẻ bất công ? Thưa, chỉ một mình Đức Giêsu, chỉ một mình Con Thiên Chúa mới là Đấng Công chính, chỉ có Ngài mới là Đấng ban phát công bình. Và sứ mệnh của Ngài cũng chính là loan báo sự công bình chính trực. Hôm nay đây, nơi hội đường, Ngài đã khẳng khái tuyên bố:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức đầu tấn phong tôi, Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, và công bố một năm hồng ân của Chúa.” ( Lc 4, 18 – 19 )
Nếu nói không gì phúc hơn được tự do, thì đồng nghĩa với không gì đớn đau bằng bị áp bức, bóc lột. Và càng không có gì bất hạnh hơn khi thế giới muôn đời không bao giờ ngừng bóc lột, áp bức bất công. Vậy thế giới nào mới là thế giới của sự công bình và chính trực ? Thưa, đó chính là thế giới của Thiên Chúa, đó chính là vương quốc tình yêu của Ngài. Và hôm nay, thực sự Ngài đã đến loan báo, khai mở cho nhân loại con đường đi về thế giới tuyệt mỹ ấy, nơi mà người mù sẽ được thấy, người điếc sẽ được nghe, người què sẽ đi được… và người người sẽ công bình, hạnh phúc !
Thế nhưng, cái vương quốc mà Đức Giêsu đến trần gian thiết lập ấy lại chính là vương quốc của tâm hồn. Không thể nào có một thế giới công bình trong một trái tim chai cứng, lạnh lùng, ích kỉ. Một con người gian ác, bất công làm sao có thể có được sự công bình ? Cho nên, để có thể đặt chân vào ngưỡng cửa công bình, thì không cách nào khác hơn việc bản thân phải trở nên công bình, đoan chính.
Trần gian không có công bình nhưng lại có cơ hội để nhân loại sống công bình. Nếu muốn thay đổi thế giới, nếu muốn giảm bớt bất công, không gì khác hơn mỗi người hãy là một công bình. Đừng ngồi chờ thế giới thay đổi, đừng hy vọng xã hội đổi thay, mà hãy đổi thay chính bạn !
Lạy Chúa, nếu có phải đấu tranh chống áp bức, bóc lột, có lẽ con sẽ là người tiền phong. Con căm ghét áp bức, con oán hận bóc lột… nhưng trớ trêu thay con lại chính là kẻ bất công. Quả là đáng nực cười Chúa nhỉ ? Kẻ bất công làm sao có thể đấu tranh cho công bình ? Con xin lỗi, con thật lòng xin lỗi Chúa, con là kẻ bất công đầu tiên đối với Ngài trong tất cả mọi sự.
Bao nhiêu ân huệ nhưng không đón nhận từ Thiên Chúa, vậy mà con đã sống và đền đáp cho cân xứng ? Bao nhiêu tình thương và hy vọng của người xung quanh dành tặng, vậy mà con đã nhìn nhận cho vẹn toàn ?
Và không gì đáng trách hơn, chính linh hồn đáng thương của con mà con đã dày vò, áp bức. Biết bao nhiêu lần con đã không tha thứ cho bản thân, cứ mải miết chạy theo danh vọng, tiền tài, quyền lực… để rồi khi thất bại lại tự oán trách, căm ghét chính mình.
Con chợt nhận ra, chỉ khi nào con không còn bất công với mình, chính là khi con mới dám hy vọng công bình với tha nhân.
Xin giúp con, lạy Chúa, kẻ bất công… biết công bình, tha thứ cho con !
Lịch Tây ghi rõ ngày 21 tháng 3 là ngày bắt đầu mùa xuân. Nhưng thực ra trời đất đã bắt đầu cựa mình vào dịp tết Việt Nam. Mùa đông bàn giao cho mùa xuân, gọi là giao thừa. Đúng là ngày bắt đầu một tiết nhịp mới, nhựa sống căng phồng tung tóe từ cành cây kẽ đá.
Trời đất vẫn xoay vần theo nhịp theo điệu. Có lúc thì xuống thật thấp, như những củ thủy tiên bị vùi dập cho “chết” đi từ tháng mười năm trước, nằm chìm sâu dưới “lòng đất lạnh”. Vậy mà sức gì lạ lắm: đúng tiết đúng nhịp thì bật lên những mầm non đầy nhựa sống. Rồi nở ra những bông hoa rực rỡ đủ màu hấp dẫn quá chừng. Như vậy thì trời đất có lễ nghi "giao thừa" đàng hoàng đấy chứ. Khi “chết” thì biết mình chết, không giẫy giụa la hét như con người. Vì củ thủy tiên khi bị vùi dập đã “thấy” trước ngày lễ bàn giao của sự cựa mình đất trời mà hòa vào khúc luân vũ. Nó “thấy” được bên dưới đợt sóng sinh tử chuyển vần là một dòng sức sống duy nhất, nên nó an nhiên nhảy múa theo nhịp dòng đời.
THỜI ĐIỂM NÉT XUÂN SƠN
Nhà văn Phạm Xuân Đài trong cuốn "Hà Nội Trong Mắt Tôi" đã kể lại tâm trạng của chính mình trong những ngày gian khổ, "quắt queo vì đói lạnh, lòng run chứ không còn rung động, các bắp thịt teo tóp căng cứng trong cơn lập cập”, nhưng vẫn tự nhủ để giữ tinh thần khỏi suy sụp bằng một cái nhìn chính xác: “Miễn là đừng chết, miễn là qua được mùa đông”.
Mà quả thực, đất trời có nhịp, dòng đời cũng có nhịp: “Rồi thì núi sẽ trở lại núi, sông trở lại sông, người trở lại người. Một buổi, cơn giá lạnh như đang tan loãng dần trong không gian, cái ấm áp như nhen nhóm được một tí từ đâu đấy, cây mơ, cây đào bỗng đầy nụ... Và xuống bến sông, nhìn về phía đông nơi con sông chảy dần thành chất lỏng để có thể xôn xao nhè nhẹ trong cuộc hành trình. Bạn sẽ sững người trông thấy núi, và tâm bạn, trí bạn, miệng bạn cùng lúc thốt lên: “Nét xuân sơn”, như là chỉ có tiếng đó mới nói lên đầy đủ được những gì bạn đang thấy. Trên nền trời vừa trong sáng lại một cách dị kì sau mấy tháng xám xịt, như một tảng ngọc xanh có pha phơn phớt hồng, các dãy núi mới toanh như vừa lột xác. Trời nước trong một làn ánh sáng long lanh, núi đứng tiếp sau từng dãy, trật tự và tươi cười, đường nét thanh tú rõ rệt cái đậm cái nhạt tạo thành một bức hoành tráng mĩ lệ, như một dàn hợp xướng ngợi ca điều cao cả trong lành đang ngập tràn trong trời đất. Vứt bỏ mớ áo xống lôi thôi của mùa đông, dáng núi trở nên uyển chuyển duyên dáng lạ lùng, một thân thể người nữ tuyệt hảo trong tuổi thanh xuân cũng không thể hơn thế.
Đường cắt trên bầu trời như một nét hân hoan, một tiếng cười chưa thành, một niềm vui mới chớm. Chứa chan. Người đứng trên bờ sông cảm thấy mắt mình đẫm lệ vui, biết mình đã bắt lại được với nguồn sống đang chỗi dậy trong đất, trong nước, trong cây đá ở trên núi. Núi có vẻ đang vẫy tay, đang chuẩn bị lên đường trong một hành trình đầy hứa hẹn...”
Thì ra cái nhịp đất trời vẫn mãi chuyển vần trầm bổng, nhưng vẫn chỉ là một dòng sức sống. “Bắt lại” được với nhịp dòng sống đó, nắm bắt được những khoảnh khắc thấy được này... thì mắt sẽ đẫm lệ vui là phải. Cái sức gì lạ vậy? Thì đây Phạm Xuân Đài tâm sự:
“Người đứng bên bờ sông Mã đã bẩy lần được tiếp sức như thế để tiếp tục sống còn. Không gì hữu hiệu hơn là mùa xuân. Một niềm vui từ đâu trong sâu thẳm bỗng được khơi dậy cùng với núi thay áo mới, sông hết đông lạnh và bầu khí ôn hòa. Cái gì làm cho tôi vui thế? Không có gì làm cho tôi vui cả, bản thân tôi lúc ấy là niềm vui. Cái mà tôi gọi là niềm vui ấy thật ra là một sự cựa quậy chuyển mình của chính tôi như là một phần của sự chuyển mình chung của vạn vật. Có thể thiên nhiên vô tình, chuyển mình như thế chắc chẳng vui mà cũng chẳng buồn, cái nẩy mầm với cái tàn lụi đối với vũ trụ vần xoay thì có gì là quan trọng đâu, chỉ là cái chu kỳ được lặp lại. Nhưng đối với tôi, một sinh vật ốm o đói rét và tuyệt vọng đứng bên sông Mã một buổi sáng xuân thì cái “cựa mình mùa xuân” xảy ra trong tôi thật cực kỳ quan trọng, nó cho tôi một nỗi phơi phới không điều kiện, nỗi phơi phới tự thân, đưa tôi ngang tầm với núi với sông và với bầu trời rộng lớn khiến trong chốc lát tôi thấy nỗi khổ đau tuyệt vọng đang mang chỉ là cái nhỏ bé buồn cười...” (Thế Kỷ xuất bản, trang 58-60).
Tuyệt quá, tuyệt quá! Phạm Xuân Đài đang thấy cái mà ít người thấy được. Vẽ lên được nét vật vã và nhìn thấy được dòng sống đang chuyển hóa, chẳng phải là giây phút giác ngộ bỗng khám phá ra một kỳ diệu nhưng thực ra lại rất bình thường sao? Giống bức tranh "Đêm Sao" Vincent van Gogh vẽ trên bờ sông Rhones chảy qua vùng Arles miền Nam nước Pháp quá. Dòng sông ánh sáng vẫn đang chuyển sinh lực hóa giải tất cả những tăm tối mịt mù. Đau khổ phi lý được hóa giải bằng nét xuân sơn. Hàng cây trơ trụi lá cho thấy "đầu cành khô bỗng hoa nở tràn". Tự nhiên thôi. Có gì lạ đâu. Hoặc là quá lạ lùng đấy phải không? Dòng đời vẫn thế. Đất trời vẫn một nhịp. Nhưng cái lạ là thấy được như vậy mà hòa theo được cái nhịp điệu đó, chứ không ghì lại. Những khoảnh khắc này mới thật kỳ diệu, được biến thành thiên thu, đưa “con người cũng lên ngôi theo” có sức thay đổi cả một đời người, mở ra cả một nhãn quan mới, thấy được trời mới và đất mới. Sức đột biến là vậy.
TIN VUI TỪ QUI TRÌNH ĐẠT VUÔNG TRÒN
Lời Thánh Kinh đang vang vọng quanh đây, chứng nghiệm một cuộc đột biến đang diễn tiến:
Lời chàng văng vẳng bên rào
Em ơi tỉnh dậy ra chào Chúa xuân.
Mưa ngớt tạnh đông tàn băng giá,
Hoa đồng nhà muôn đóa khoe tươi
Nhạc xuân rộn rã nơi nơi
Ngàn chim đua hót vang trời líu lo.
(Diệu Ca 2:10-12, bản dịch của Đào Mộng Nam)
Sức đột biến này do thần lực từ cõi Tròn, là chính Chúa Trời, vị Thần Tình Yêu. Biến cố của hai ngàn năm trước đây Đức Giêsu là Thiên Chúa đã bước vào lịch sử con người, trở thành một người, mang tròn xuống vuông để nâng vuông lên tròn, đã như một qui trình thể hiện vuông tròn mang lại mùa xuân mới cho nhân loại. Thì nay, sau những tàn tạ của trái đắng mùa đông vì muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống nhầy nhụa duy vật này, con người đang khắc khoải tìm mở lại con mắt niềm tin, để thấy được Chúa Xuân đang khấp khởi bước lại vào cuộc đời của mình làm đột biến nở hoa mùa xuân mới.
Theo nét văn hóa Việt tộc, khi mọi sự được xuôi xắn nhịp nhàng thì gọi là được vuông tròn. Nét này phát khởi từ câu truyện thiêng của Việt tộc với phong tục bánh dầy bánh chưng ngày Tết. Vật chất đất vuông phải hòa nhịp với tinh thần trời tròn thì mới tròn đầy viên mãn được. Đó là qui trình của đạo sống Việt tộc. Không hiểu từ hồi nào, có thể từ vô thức do trào lưu kỹ thuật mới với mớ thuyết "người là con vật kinh tế" chỉ biết tìm mồi, một số người mình không khéo mà chỉ còn thích ăn bánh chưng vào dịp Tết, quên phắt bánh dầy!
NHỊP VŨ VUÔNG TRÒN CỦA VIỆT TỘC
Đây là thời khắc trân trọng để nhận lại bánh dầy tròn vào một năm mới, bắt lại lối nhìn trong đạo sống Việt tộc như một dòng lực vẫn chảy từ bao đời qua suốt dọc dài lịch sử. Mùa xuân chính là thời điểm bắt lại nhịp vuông tròn theo tâm thức Việt. Vì thế mà phong tục bánh dầy bánh chưng được cử hành trang trọng thành một nghi lễ hẳn hòi vào ngày Tết, mở đầu nhịp vũ vuông tròn cho cả một năm.
Quả là dân mình là dân có đạo, là đạo vuông tròn, là đạo hiếu đất vuông hướng về trời tròn, nguồn sức sống mùa xuân, từ trong máu, từ trong tâm, từ bao thuở, từ ánh mắt tổ tiên, từ nhịp tim sông núi, từ nhịp thở giống nòi. Đó là nhịp vũ hòa nhập cõi vuông vào cõi tròn, biến cuộc sống đang trì trệ ứ đọng trở thành một nhịp uốn lượn như thủy triều, hài hòa nét vuông và nét tròn trên những mái nhà cong, biến chân không thành diệu hữu, nối kết được đông tây, hóa giải được mọi xung khắc.
Trời đất vẫn một nhịp, vẫn một diễn tiến theo qui trình. Nhưng bí quyết đạt vuông tròn lại nằm trong tim mỗi người, khi biết hòa theo được nhịp đó. Chẳng lạ gì mà đối với nhà văn Phạm Xuân Đài, "một sinh vật ốm o đói rét và tuyệt vọng đứng bên sông Mã một buổi sáng xuân, thì cái “cựa mình mùa xuân” xảy ra trong tôi thật cực kỳ quan trọng, nó cho tôi một nỗi phơi phới không điều kiện, nỗi phơi phới tự thân, đưa tôi ngang tầm với núi với sông và với bầu trời rộng lớn khiến trong chốc lát tôi thấy nỗi khổ đau tuyệt vọng đang mang chỉ là cái nhỏ bé buồn cười...”
Nhãn quan này sao gần Đạo Chúa quá! Giây phút giác ngộ thấy được dòng nhựa sống mùa xuân ra đời thì bốn mùa đều là mùa xuân cả, mỗi ngày sống, mỗi phút giây cũng đều nhuần gội áng thiều quang. Han Mặc Tử đã cảm nhận được sức đột biến từ chính đời mình, từ những quằn quại giẫy giụa bệnh cùi đến cái thấy lạ lùng của Nhịp Vũ Sông Thanh: dòng tuôn ơn phước thanh bình, thanh thản, thanh tú:
Tứ thời xuân, tứ thời xuân non nước
Phút thiêng liêng nhuần gội áng hào quang
Thiên hạ bình và trời tuôn ơn phước,
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.
PHÚT CẢM NHẬN SỨC ĐỘT BIẾN
Sức đột biến nơi Đức Giêsu thì thật rõ. Khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu cũng chấp nhận thân phận mỏng dòn yếu đuối như bất cứ ai, cũng mang nét vuông của đất. Nhưng sở dĩ Ngài có được sức mạnh biến đổi mọi sự khiến mọi người sửng sốt, là vì Ngài cảm nhận và hành động "trong quyền lực Thánh Thần," là nét tròn của Trời.
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Vui cho kẻ nghèo khổ. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bì giam cầm biết họ được tha, cho người mù sáng mắt lại, giải thoát những kẻ bị đè nén, và loan báo năm hồng ân của Chúa." (Luca 4: 18-19)
Lâu nay mình cũng bị ứ đọng trì trệ một cách nào đó, tiêu điều lạnh lẽo như cảnh cuối đông vì chỉ lo thu mình vào cõi vuông của sức riêng. Có những lúc thấy mình như cành cây trơ trụi lá, chẳng làm gì cho ra hồn cả. Giây phút này mình muốn mở tâm ra để cảm nhận sức đột biến từ dòng sống đất trời cựa mình sang xuân. Đoạn Kinh Thánh mà Chúa Giêsu cảm nghiệm về năng lực Thánh Thần hôm nay cũng ứng nghiệm nơi cuộc sống của mình. Được đột biến do chính dòng lực tình của vị Thần Tình Yêu, có sức hóa giải và biến đổi tất cả. Đó là dòng thần lực của Thần Linh Chúa chuyển chất tình yêu có sức làm rung động con tim và ấm áp lòng người.
Và mình hòa nhập vào cả một dòng thác sức sống đang tuôn đổ xuống lòng mình qua mọi sự, qua từng nhịp thở, qua từng cây cỏ vạn vật: “Cùng một dòng sinh lực tuôn chảy ngày đêm trong mạch máu tôi, cũng đang chảy tuôn qua thế giới, nhảy múa theo tiết điệu nhịp nhàng.
"Cũng chính một sinh lực đang hân hoan phóng lên khỏi mặt đất nẩy mầm thành muôn vàn ngọn cỏ, vươn lên thành những lớp sóng cuồn cuộn hoa lá xum xuê. Cùng một sinh lực đu đưa ru nhịp sinh tử trong nôi đại dương như nhịp thủy triều lên xuống.
"Tôi cảm thấy cơ thể mình tươi tắn lại khi được cả sinh lực đất trời tuôn nhập. Và thấy thật thỏa thuê cảm nhận được lực bơm sinh khí qua bao thời đại đang đánh nhịp nhảy múa trong huyết quản tôi lúc này” (Tagore, Lời Dâng #69. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Sau một thời gian vắn đi rao giảng. Hôm nay Đức Giêsu trở về Nazareth quê hương của Ngài. Tiếng đồn về Ngài, từ ở những nơi xa, cũng đã vang dội về đến đây. Chính vì thế, người ta nhìn Ngài bước vào trong hội đường bằng một con mắt tò mò, bán tín bán nghi. Đặt ra những câu hỏi, những thắc mắc: Không biết ông này là ai? Là một người thông minh đột xuất, một tiên tri, hay là?….
Đến giây phút đọc Lời Chúa. Người ta trao Kinh Thánh cho Ngài. Mời Ngài đọc Lời Chúa. Ngài mở Kinh Thánh. Ngài mở sách tiên tri Isaia. Đoạn Ngài chọn, là đoạn tiên tri Isaia diễn tả về vai trò và trách nhiệm của Đấng Cứu Tinh mà thiên hạ đợi chờ sẽ đến. Đọc xong, Ngài gấp sách lại, và nói với mọi người: “Hôm nay, đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”. Nghĩa là: Ngài xác định một cách trực tiếp rõ ràng: Hình ảnh Đấng Cứu Thế, với vai trò và trách nhiệm ấy, được áp dụng vào chính Ngài. Hay nói một cách khác Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà nhân loại đang đợi trông, nay đã xuất hiện. Dựa vào đoạn tiên tri Isaia ấy, ta thử tìm hiểu xem, có thật là Đấng Cứu Thế như Ngài nói không?
1- Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi.
Bao giờ và ở đâu? Có thấy vị thượng tế nào xức dầu cho Ngài đâu? Thưa có: Ở bờ sông Jordan. Khi vừa ở dưới nước lên. Trời đã mở ra. Chúa Thánh Linh đã đến dưới hình chim bồ câu, và đậu trên Ngài. Lúc đó, từ trong đám mây, có tiếng Đức Chúa Cha tuyên phán: “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Thế đó. Đơn sơ nhưng hoành tráng. Đức Chúa Cha đã xác nhận giữa ban ngày về bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu.
2- Để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó.
Nghèo khó là cái ách nặng nhất, trong mọi cái ách. Là thứ đắng nhất trong mọi thứ đắng. Không thiếu những người nghèo nghĩ rằng: “Mình nghèo, bởi mình bị Chúa phạt”. Cái ách nặng nề ấy, cứ mãi xiềng xích đời tôi đến hết đời. Chúa Giêsu bảo: “Không phải thế, nghèo hèn không phải là hình phạt, mà là một cơ hội. Nếu ai biết nhìn và biết dùng, thì nó sẽ trở thành một hồng phúc”. Bài giảng đầu tiên của Chúa, là bài giảng về 8 mối phúc này. Phúc cho ai nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát, thương xót, tinh sạch, hòa thuận, tử đạo. Bài giảng ấy mở ra một hy vọng lớn lao cho những người nghèo khó, đi theo hướng Chúa chỉ, những người nghèo khó sẽ biến những cái ách ấy thành hạnh phúc cho mình.
3- Cho người mù được sáng.
Có vô vàn kiểu mù, nhưng cái mù lớn nhất là mình mù mà không biết mình mù. Cái mù linh hồn, thì lớn hơn cả cái mù trong tâm trí, và cái mù thể xác. Chúa Giêsu đến, Đấng Cứu Thế đến, sẽ khai quang tất cả: để từ trong linh hồn, đến tâm trí và cả ngoài thể xác, tất cả đều được tinh thông, thấu suất. Những tâm trí vốn tối đen nay đã được mở rộng, sáng choang. Người ta có thể hiểu được từ khởi đầu của vũ trụ, của đời mình, cho đến đàng sau cái chết của mình và của vũ trụ. Một cái nhìn thông suốt về vũ trụ và con người, để với tự do, người ta có quyền quyết định và lựa chọn.
Gợi ý suy niệm
1- Đã có lần nào, bạn đọc chậm rãi, và suy nghĩ về tám mối phúc thật của Chúa chưa? 2- Đố bạn biết, bạn sống ở đời này để làm gì?
Có hai đệ tử sau nhiều năm luyện tập, được sư phụ cho xuống núi để cứu nhân độ thế. Sau nhiều tháng đi khắp nơi giúp đỡ dân lành, họ trở về núi để tường trình lại cho sư phụ những việc họ đã thực hiện. Sau khi báo cáo, sư phụ thấy đệ tử A làm thật khá, nhưng đệ tử B còn khá hơn. Sự phụ cảm thấy rất hài lòng, liền nói: Hai con làm rất tốt. Ta sẽ ban thưởng cho hai con. Tuy nhiên đệ tử B lập nhiều công trạng hơn, để được công bằng, ta cho đệ tử A xin trước. Nếu đệ tử A xin một thì ta sẽ cho đệ tử B hai. Suy nghĩ giây lát, đệ tử A, trong lòng rất bất mãn, bèn nói: Xin sư phụ cho con chột một con mắt.
Trong câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ và hành động ghen tỵ của đệ tử A đối với đệ tử B cũng là thái độ và hành động ghen tỵ, thù hiềm của thính giả đối với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ không bằng lòng đối với sự thành công của Chúa Giêsu. Đây là con ông Giuse thợ mộc, nghèo nàn. Tại sao ông ta nói hay như thế. Đối với nhà lãnh đạo tôn giáo thì họ cảm thấy bị đe doạ khi Chúa Giêsu giảng dạy hay. Chúa Giêsu được đưa lên cao, còn họ bị lép vế. Chiến thuật ghen tỵ của họ rất là đơn giản: Tìm cách hạ Chúa Giêsu xuống để họ được đưa lên cao. Thái độ ghen tỵ, hiềm thù của họ đã dẫn đến hành động đả phá. Họ dẫn đưa Người lên triền núi, để xô Người xuống vực thẳm.
Rút từ bài học Phúc Âm và nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng và xã hội nói chung, chúng ta phải chân nhận rằng lòng ghen tỵ của con người len lỏi khắp nơi trong cuộc sống từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Trong gia đình anh chị em ghen tỵ nhau khi cảm thấy rằng mình không được thương yêu hơn anh chị em khác trong gia đình. Nơi nhà trường học sinh này ghen tỵ học sinh khác trong khía cạnh học hành. Nơi xưởng thơ nhân công này cảm thấy không bằng lòng với nhân công khác trong vấn đề tiền lương.
Quả thật, sống trong xã hội ngày hôm nay, chúng ta thường dễ đem chính mình so sánh với người khác. Chúng ta so sánh quần áo, xe cộ, nhà cửa, công danh, sự nghiệp. So sánh để rút ra điều hay điều dở làm cho cuộc sống chính mình và người khác khá hơn là rất tốt. Tuy nhiên so sánh để rồi mang đến thái độ ghen tỵ, hiềm thù, đả phá, đè bẹp, gièm pha người khác vì người khác thành công hơn mình là điều không tốt. Con người ghen tỵ sẽ không tìm thấy chính mình và không có hạnh phúc vì họ luôn ao ước vài tìm kiếm nơi người khác điều mà không phải là của họ.
Ước gì mỗi người nhìn vào chính mình để làm sao chúng ta thay đổi con người cũ đầy ghen tỵ, hiềm thù để mặc lấy con người mới đầy yêu thương, bác ái của Chúa.
Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Lời Hứa Cứu Độ đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu. Lời Hứa Cứu Độ ấy được báo trước qua miệng các ngôn sứ. Các ngôn sứ loan báo hình ảnh của Đấng Cứu Độ. Có lẽ rõ nét nhất là hình ảnh của ngôn sứ Isaia, một ngôn sứ quá đau khổ.
Mở sách ngôn sứ Isaia, ở Is 52, 13-53 chúng ta bắt gặp ngay: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Đọc những dòn tiếp theo, một mảng tối thật u ám nơi cuộc đời của vị ngôn sứ đau khổ này. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa: “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi: “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?
Nhìn hình ảnh người tôi tớ như thế này, độc giả sẽ nghĩ ngay trong lòng“Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình:“Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng?
Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.
Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một mầu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, bởi lẽ công việc vĩ đại như gánh tội và xoá tội trần gian lại không theo lối nhìn cũng như cách hiểu của con người. Với Thiên Chúa thì khác, người tôi tớ của Thiên Chúa là người khiêm nhường, nhịn nhục và là người yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thư Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.
Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông: “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.
Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh? Thiên Chúa hay người tôi tớ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại!
Ngày hôm nay, người tôi tớ mà Isaia loan báo đó đã trở thành hiện thực nơi cuộc đời ngôn sứ Giêsu. và ngôn sứ Giêsu hôm nay tiến vào hội đường như là việc hết sức bình thường. Những người trong Hội Đường đã trao cho ngôn sứ Giêsu sách Isaia và mở ra, bất chợt bắt gặp lại hình ảnh của người tôi tớ đau khổ cũng như sứ mạng của người ngôn sứ đó Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Sau đó, Chúa Giêsu đã nói với những người ở trong hội đường rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định lại vai trò của Ngài. Ngài đến để đem niềm vui, đem bình an, đem hạnh phúc cho con người.
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng đã được ông Etra nói với dân sau khi nghe sách Luật mà ông mở ra đọc cho dân: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em."
Vẫn là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Chúng ta sẽ tự hỏi rằng chúng ta có giàu có gì đâu để loan báo cho người nghèo?
Và, có ai hỏi ta, ta cũng sẽ nói rằng tôi nghèo lắm, tôi đâu có gì để mà cho, có gì để mà chia sẻ? Nói như thế mà không biết ngượng.
Thử, lúc nào đó trong lặng thầm, nhìn lại cuộc đời chúng ta xem, chúng ta được Chúa ban cho quá nhiều ơn đó nhưng chúng ta đã không nhận ra.
Có lúc nào đó, người hằng nghiền ngẫm suy tư Cảm thấy đời ta, chứa chan hồng ân Chúa ban còn chờ gì nữa? Không vang khúc hát tri ân Ngài? Lạy Chúa, con xin cảm tạ, Lạy Chúa con xin cảm tạ Ôi lạ lùng hồng ân Chúa đã ban cho đời! Chúa ơi, sao con suy thấu tỏ tường? Ôi, nhiệm mầu tình yêu thánh thiêng dâng cao vời! Chúa ơi, tình Ngài tuyệt diệu xiết bao
Nghiền ngẫm thử đi sẽ rõ! Những ngày này, những ngày Tết Nguyên Đán cận kề. Giữa dòng đời ngược xuôi đi tìm miếng cơm manh áo, ta hạnh phúc hơn nhiều người đó chứ! Ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng ta đâu nhận ra để rồi ta oán trách Chúa thế này thế kia.
Cứ thử đặt mình vào vai một người di dân xa quê nghèo vì miếng cơm manh áo ta sẽ rõ hơn ai hết. Đi làm tháng vài triệu bạc, thuê căn phòng trọ ọp ẹp gần triệu bạc. Cơm ăn, áo mặc nữa, quay đi quay lại hết tháng phải đóng tiền phòng trọ, tiền điện tiền nước, thử hỏi còn bao nhiêu. Và, những ngày này dắt díu nhau về quê gặp gia đình được dăm ba bữa. Những ngày này, ra các bến xe, ta thấy những người nghèo ngược xuôi để về quê với hai bàn tay chai sạm và bờ vai gầy guộc nhỏ ta mới thấy được Chúa thương ta là dường nào.
Và, nhất là cuộc đời của ta là ta hạnh phúc, ta có Chúa trong đời.
Một chút, một chút thôi một bữa ăn, một chầu karaoke ta có thể làm ấm lòng những người nghèo. Những người nghèo đó ở đâu xa? Những người nghèo đó ngay bên cạnh nhà ta mà bấy lâu nay ta vô tâm vô tình không nhớ đến họ.
Có cái để cho nữa đó chứ! Là chút tấm lòng với những người bất hạnh.
Sứ vụ của Chúa mở ra cho mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có sống sứ vụ mà Chúa đã sống, đã mời gọi chúng ta hay không mà thôi.
Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).
Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: "Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật." (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa." (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.
Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.
Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: "Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh." (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.
Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.
Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: "Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy." (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: "Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một." (1 Cr 12,20)
Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: "Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất." (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.
Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: "Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận." (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.
Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: "Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung." (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.
Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: "Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa." (Kh 20,15).
Hội đường là nơi tụ họp có tính cách tôn giáo của người Do Thái. Đồng thời, ngày Sabat, tức là ngày nghỉ lễ được cử hành tại hội đường, với việc nghe đọc Thánh Kinh và diễn giảng. Mọi người Do Thái trưởng thành, tức là từ 30 tuổi trở lên đều có thể được đề nghị hay tình nguyện lên đọc và giải thích Kinh Thánh.
Trở về Nadarét lúc này, Chúa Giêsu đã trên 30 tuổi, cho nên Ngài đã tham dự vào sinh hoạt của cộng đồng tại quê nhà. Theo thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu đã nhiều lần giảng dạy trong các hội đường và lời giảng dạy của Ngài hẳn đã có được một sức lôi cuốn và hấp dẫn, vì chẳng bao lâu, tiếng tăm Ngài đã được làn truyền khắp vùng. Tất cả bầu khí phấn khởi này được sử dụng như là phần nhập đề cho Tin Mừng lớn lao, mà Ngài sẽ rao giảng tại hội đường Nadarét, như là một xác định lập trường và công bố chương trình hành động của Ngài. Vậy lập trường ấy như thế nào và chương trình hành động của Ngài ra làm sao?
Tôi xin thưa: Lập trường ấy, chương trình hành động ấy xoay quanh lời loan báo của tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu tấn phong tôi và sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, giải phóng những kẻ bị giam cầm, làm cho người mù được sáng, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Lời loan báo này có nghĩa là thời cứu chuộc đã bắt đầu, và Chúa Giêsu, người đang đọc và cắt nghĩa đoạn tiên tri này, chính là Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu và sai đến để thực hiện ý định cứu chuộc mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, trước một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe. Có thể xưa cũng như nay, nhiều người đã chờ đợi ở Vị Cứu Tinh những việc cả thể và lớn lao, những chiến công lừng lẫy và oanh liệt. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người khổ đau, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến và phải thực hiện. Trước mặt Ngài, thời cứu độ là thời tái lập lại trật tự và tình thương giữa người với người.
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu tại hội đường năm xưa chính là một sự thách đố đối với cá nhân mỗi người chúng ta, cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, bởi vì cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội có nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa nơi trần gian, thế nhưng cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội đã thực sự tái lập trật tự và tình thương yêu giữa người với người hay chưa?
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho: ‘Ngã cứu nhi thượng lương chi ách. Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần’. Nghĩa là: ‘Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ. Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo’.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu, rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Đức Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Đức Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hóa.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một năm Toàn Xá, Năm Thánh, năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan ngùy để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu tỏa ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm tỏa trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; người tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ. Và Năm Đức Tin qua đi trong cuộc đời mà họ không hề nhận được một chút Hồng Ân nào của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo. Xin cho chúng con cũng biết xóa nợ cho nhau, không chỉ xóa nợ tiền bạc mà còn xóa đi những bất bình, nghi kỵ, thành kiến, hiểu lầm nhau…, để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.
Chúng ta đều biết rằng Thánh lễ gồm hai phần liên kết chặt chẽ là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Trong Phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng lời hằng sống của Chúa. Trong Phụng vụ Thánh Thể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt và Máu Thánh của Ngài.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa trong đạo cũ Do-thái và người khởi xướng ra là một tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa GS. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nohemi kể lại việc ông tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích. Dân chúng nghe, tung hô, rồi phủ phục trước Thiên Chúa cầu nguyện.
Đó là nghi thức Phụng vụ Lời Chúa thường được tổ chức tại Hội đường Do-thái trong ngày Sabba.
Thì, trong bài Phúc Âm, Luca kể lại một nghi thức Phụng vụ đặc biệt tại Hội đường Nagiaret, quê quán của Chúa Giêsu. Trong xóm nghèo Nagiaret, ai cũng biết Ngài là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria. Ngài đã từng sống giữa họ, chia sẻ đời sống của họ. Rồi gần đây, Ngài bỏ họ, bỏ nghề, bỏ làng đi rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ. Danh tiếng đồn thổi khắp nơi. Hôm nay, ngày Sabba lễ nghỉ, họ được tin Ngài trở về làng. Thế là họ ùn ùn kéo đến Hội đường nơi người sẽ giảng, đến vì muốn xem sự việc xảy ra làm sao. Con bác thợ mộc, ít học trở thành một Rabbi!
Người ta trao cho Ngài sách Tiên tri Isaia, Ngài mở đúng vào nơi có chép: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn xám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Đoạn đó trích ở Isaia, chương 61, tiên báo về Đấng Messia. Đến đây, không có gì lạ. Đoạn ấy dân chúng đã nghe nằm lòng. Sự lạ lớn lao như quả bom nổ là: Người gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, Lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện.” Chưa một tiên tri nào nói như thế hay cả dám nói như thế. Chữ “hôm nay” thật là quan trọng. Lời của Thiên Chúa mà đem áp dụng vào mình, y rằng mình là Thiên Chúa. Họ ngạc nhiên, họ bàn tán, họ châm biếm: Đó là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria đầu xóm kia mà. Trong Hội đường, có lẽ chỉ có một người đàn bà hiểu, một người đang đứng với chị em phụ nữ bên kia tấm chấn song ngăn cách. Đó là Đức Mẹ.
Ngài tuyên bố: Thời gian cứu độ đã đến. Chính Ngài là Đấng “hôm nay” đến để cứu chuộc nhân loại, khai mạc mùa hồng ân cứu rỗi. Ơn cứu chuộc đó, mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, thì trong bài đọc II, Thánh Phaolô dạy chúng ta phải ăn ở xứng đáng vì “chúng ta là chi thể của Ngài.” Mỗi người trong thân phận của mình hãy làm sáng danh Chúa.
Lạy Chúa, “giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa sáng ngời”, xin sáng soi con mắt và đường lối con đi.
Người ta kể: "Có ông nhà giàu Do Thái kia có tên là Rabba, nhiều ruộng vườn, gia nhân đầy tớ và thợ làm công. Một hôm có người thợ làm việc cho ông lỡ làm bể một thùng rượu, ông giận dữ mắng, chửi thậm tệ và buộc bồi thường. Bọn thợ đến than phiền với một tiến sĩ luật, vị này khuyên ông Rabba tha cho đám thợ nghèo. Ông Rabba hỏi vị luật sĩ: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ trả lời: "Phải, nếu ông hiểu biết tinh thần luật". Nghe thấy, Rabba tha không đòi đám thợ bồi thường nữa. Có lần khác, đám thợ can đảm than thở thẳng với ông chủ của họ: "Thưa ông, chúng tôi quá nghèo túng, mặc dầu được ông thương cho việc làm và chúng tôi cũng đã làm hết sức như ông thấy, nhưng chúng tôi cũng đói khổ và thiếu thốn mọi sự". Vị tiến sĩ biết chuyện, nói với ông Rabba: "Ông hãy cho họ lãnh lương tháng trước đi, nhưng đừng ghi sổ và sau đó sẽ quên chuyện này". Ông Rabba hỏi: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ luật trả lời: "Phải, nếu ông hiểu tinh thần luật, vì thật ra luật Chúa đòi buộc công bằng, nhưng có chủ đích làm cho con người trở nên tốt lành hơn".
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, mở mắt tinh thần canh tân tâm lòng và sống tốt lành hơn giữa những suy đồi xã hội một cách đích thực. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Do Thái đã có công rất lớn trong nỗ lực hồi sinh dân Israel, tái thiết thành Giêrusalem và xây lại đền thờ sau khi họ từ Babylon trở về nước vào năm 537 trước Tây Lịch. Hai tác phẩm mang tên hai vị tường thuật công tác tái thiết cuộc sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo của dân Do Thái trong thời ấy. Chương VIII sách Nêhêmia nêu bật vai trò của Lời Chúa trong công trình tái thiết. Thật vậy, đối với dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, đã nhận được luật lệ Chúa ban, nghĩa là Lời Người nói với họ, thì công trình tái thiết không thể chỉ hạn hẹp trên bình diện vật chất như xây lại nhà cửa đền đài, tổ chức trở lại bộ máy chính trị, kinh tế và các dịch vụ hành chánh của cuộc sống thường ngày, mà còn phải tái thiết cuộc sống tinh thần nữa.
Tái thiết ở đây, trước tiên có nghĩa là trở về với các đòi buộc của Giáo Hội, tuân giữ các luật lệ của Chúa, sống chìm ngập trở lại trong bầu khí đạo hạnh, tin tưởng vững mạnh vào các Lời Chúa hứa vào giao ước và các phúc lành của Chúa. Nói cách khác, dưới ánh sáng Lời Chúa, việc tái thiết đầu tiên mà dân Do Thái phải làm là công cuộc tái thiết cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần bị tội lỗi phá hủy. Vì nếu không thì công cuộc tái thiết vật chất cũng sẽ không giúp dân Do Thái hồi sinh thật sự. Có đền thờ đẹp mà làm gì với tâm lòng con người đầy tràn tội lỗi và xa rời Thiên Chúa. Đây là lý do giải thích tại sao mặc dầu có rất nhiều điều phải làm trong giai đoạn tái thiết, ông Nêhêmia vẫn tổ chức các buổi cử hành Phụng vụ Lời Chúa và dành thời giờ cho việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, và toàn dân tán thành việc tái thiết cuộc sống tinh thần do ông đề xướng.
Mặc dầu giờ đây họ cũng đang rách rưới, đói khát cơm bánh, cần đến nhà cửa và công ăn việc làm, nhưng người dân hiểu rằng trong quá khứ, kiểu cách sống tội lỗi sa đọa của họ đã khiến cho Giêrusalem bị đánh chiếm và thành thánh bị phá hủy bình địa, thì giờ đây, chỉ có cuộc sống tâm linh mới giúp họ duy trì những gì họ sẽ xây dựng mà thôi. Nếu không có nếp sống tinh thần mạnh mẽ, nền văn minh vật chất cao, sớm muộn gì cũng dẫn đưa con người đến chỗ diệt vong.
Lịch sử thăng trầm của mỗi dân tộc trên thế giới đều minh xác sự thật này. Sự suy đồi luân lý đạo đức và các giá trị tinh thần là dấu chỉ các bước đầu suy thoái của một xã hội. Do đó phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần là cách thế hữu hiệu nhất giúp duy trì và thăng tiến cuộc sống xã hội. Ngay trên bình diện vật chất, lập trường của ông Nêhêmia là một bài học quí báu cho các vị lãnh đạo tinh thần, cho các cộng đoàn dân Chúa. Công việc cấp thiết nhất luôn luôn là việc đào tạo nhân lực, củng cố tinh thần sống đạo sâu đậm của tín hữu, chớ không phải là xây thêm nhiều nhà thờ và cơ sở cho to, cho lớn, cho đẹp. Các cơ sở cần thiết nhưng chúng không làm nên sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này đã được thánh Phaolô áp dụng như tường thuật trong chương 12 thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
Cộng đoàn này hồi đó bị chia rẽ nội bộ trầm trọng, các cuộc cải vã, tranh chấp giành địa vị xảy ra trong các tầng lớp trong cộng đoàn, thêm vào đó là kiểu cách sống và hành xử đi ngược tinh thần Kitô. Trong các tín hữu có người sống dâm loạn, buông thả các nhân đức Kitô, đặc biệt là đức bác ái bị lãng quên. Để tái tạo sự hiệp nhất giữa các thành phần cộng đoàn và cho thấy tất cả mọi người đều có một chỗ đứng quan trọng và một phận vụ cần thiết đối với cộng đoàn, thánh Phaolô đã dùng lại hình ảnh thân mình và các chi thể là một hình ảnh quen thuộc trong nền văn chương Ai cập, và nhà văn Rôma, Titô Liviô, đã dùng lại để diễn tả nỗ lực của hoàng đế Agrippa làm hòa lại giữa hai nhóm cùng đinh và quý tộc Rôma tranh chấp chống đối nhau. Tuy nhiên, thánh Phaolô không chỉ dùng hình ảnh thân mình và chi thể như một kiểu nói ám chỉ, diễn tả tính cách bổ túc và phối hợp điều hòa giữa các chi thể với nhau trong thân thể con người, mà thánh nhân cũng còn rất thường hay nói đến thân mình thật sự của Chúa Kitô là bí tích Thánh Thể và thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô là cộng đoàn tín hữu, là Giáo Hội. Cộng đoàn tín hữu phải có khả năng diễn tả cho mọi sinh hoạt và kiểu cách sống của mình, những gì được biểu lộ trong bí tích Thánh Thể, nghĩa là diễn tả sự hiệp nhất tinh thần, chia sẻ ơn thánh, thái độ sống tận hiến cho nhau, hòa tan trong nhau và xây dựng cho nhau và với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là các tương quan giữa các tín hữu với cộng đoàn và nhiệm vụ mỗi người giữa lòng Giáo Hội, phải được sống như trong bí tích Thánh Thể, phục vụ, hy sinh và tận hiến, chớ không được để cho chủ trương tranh giành địa vị, đòi hỏi quyền lợi như các thái độ vụ lợi trần tục chi phối và hướng dẫn.
Trong viễn tượng và tinh thần đó, mỗi một Kitô hữu đều tìm ra chỗ đứng của mình trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà không bị rơi vào chước cám dỗ coi mình là có nhiều khả năng nhất, tài giỏi nhất và giữ địa vị quan trọng nhất, không có mình thì không xong. Thay vì cố gắng xây dựng vun trồng cộng đoàn Giáo Hội vững mạnh thì lại sống phản chứng, ích kỷ, kiêu căng ngạo mạn để đi đến chỗ trở thành dụng cụ của Satan, đánh phá Giáo Hội, gây chia rẽ kỳ thị khiến cho cộng đoàn Giáo Hội bị thương tích tan rã và suy yếu đi.
Mỗi khi không sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô và không diễn tả những gì được thể hiện qua bí tích Thánh Thể, là người tín hữu chối bỏ ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân loại khi nhập thể làm người, khi bước vào lịch sử và sống giữa lòng xã hội con người. Trong chương 1 và 4, thánh Luca có ý củng cố niềm tin của tín hữu, đặc biệt những người nghi ngờ nền tảng lịch sử của ơn cứu độ. Thánh nhân đề nghị với mọi người theo sát chương trình sống của Chúa Giêsu Kitô, chương trình này hiện thực Lời Thiên Chúa hứa, vĩnh viễn can thiệp vào cuộc sống của con người đã bị tội lỗi biến sự sống trở thành cái chết. Tất cả những động từ thánh Luca dùng trong chương 4,14-21, như giải thoát, chữa lành, trao ban ơn thánh cho con người, diễn tả ơn cứu độ toàn vẹn mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Chúng cũng phải là kiểu cách sống của một Kitô hữu, khi nào và ở đâu có bóng dáng Kitô hữu, thì ở đó bóng tối của sự dữ cũng phải bị đẩy lui. Khi đó, ở con người cũng có cuộc sống sung túc lành mạnh hơn trên thân xác mà nhất là trong tinh thần. Đây là lý do giải thích mọi nỗ lực và mọi sinh hoạt của xã hội trong việc củng cố cuộc sống tâm linh và thăng tiến cuộc sống xã hội cho con người. Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện, một thân thể có to lớn mập mạp béo tốt đến đâu mà không có tinh thần và tâm trí lành mạnh, thì cũng chỉ là một thân thể bệnh hoạn đáng thương.
“Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho: kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Kinh sư Esdra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, khi nhắc lại những ân huệ mà Giavê Thiên Chúa dành riêng cho dân tộc Israel, đã làm cho nhiều người cảm động đến rơi lệ. Qủa vậy, tình yêu của Giavê Thiên Chúa luôn đồng hành và cứu giúp dân chúng trong mọi hòan cảnh, đặc biệt trong những ngày khốn khổ và cùng cực của những ngày là nô lệ dân ngọai. Thiên Chúa đã không bỏ rơi, nhưng trái lại, Ngài hằng thương xót và bảo vệ dân riêng của Ngài, dẫu họ có phản bội và nhiều lần chối bỏ Ngài mà thờ cúng bụt thần của dân ngọai. “Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em."
Khi trở về quê hương của Mình, Chúa Giêsu mặc khải sứ mạng Mình cho chính những người bà con thân yêu của Mình, như là một lời giới thiệu về những việc Mình đã và đang làm cho mọi người. Sứ mạng đó đã được các tiên tri tiên báo, và Ngài chính là Người đến để hòan tất. Ngài cũng chính là đầu của thân thể mầu nhiệm, mà mọi chi thể đều phải lệ thuộc và hướng về. Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi và khỏe mạnh, bởi với Ngài, mọi người đều được Thiên Chúa quan tâm,yêu thương và chăm sóc. “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.”
Mỗi người chúng ta là một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa, đặc biệt là những người nghèo. Ngay từ những bài giảng đầu tiên, cho đến những phép lạ, Chúa Giêsu luôn quan tâm đến những ai không có chỗ tựa nương, không có chỗ trông nhờ,không có ai giúp đỡ. Sự xuất hiện của Ngài ở đâu,bất cứ lúc nào, cũng đều là tâm điểm lôi cuốn tất cả mọi người.Ngài đã đồng hành với mọi người bằng những tiêu chí: cùng ăn, cùng ở và cùng sống với những người đói khổ, khó nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Ngài không sống riêng cho mình, nhưng trái lại bị quấy rầy suốt ngày, thậm chí không còn giờ để ăn uống, gia đình cũng tưởng “Ngài đã mất trí”.
Năm đức tin, năm mà Giáo Hội muốn tất cả chúng ta trở về nguồn, vừa để học hỏi và đào sâu những Lời Chúa dạy; và cũng để soi dọi lại cách sống của mình có còn thích hợp với những gì Chúa dạy và những gì Chúa muốn cho xứng với bậc mình. Thường chúng ta vẫn tự mãn về cái gốc gác của mình: nào là 50 năm đạo gốc, nào là những chức vụ mình đang mang trên thân mình, nào là những thành tích rỗng tuếch bằng những con số thống kê ảo, nào là những công trình hòanh tráng đã thực hiện cho Giáo Hội.
- Liệu những khoe khoang, khoác lác đó có thực sự thích hợp với cái nhìn và cách sống của Chúa.
- Liệu những con số thống kê có thực sự nói lên những nỗ lực của chính mình hay cũng chỉ là những nhận vơ, cho những khó nhọc và đóng góp của những đồng trinh nhỏ của những bà góa nghèo hằng ngày kiếm được bằng cả cuộc sống cơ cực. - Liệu cách sống giầu sang khoe mẽ, những thói quen tiêu xài phung phí, những thái độ chơi ngông có thực sự thích hợp với lời giảng dạy như chính Chúa đã sống.
- Liệu những hành động tiêu cực hoặc cách đối xử với anh em mình bằng những thái độ “lọai trừ” có thực sự xứng đáng là những ngừơi đem Chúa Kitô đến cho người khác, hay chỉ là những lời phản chứng đang ngày đêm âm thầm phá họai Giáo Hội.
Lời cầu nguyện:
Lạy Thánh Thần Chúa, xin hãy đến trên tất cả chúng con.Xin hãy làm cho tất cả chúng con trở thành những nhân chứng thực sự của tình thương Chúa giữa trần thế, để trong mọi hòan cảnh, chúng con là những hiện thân đích thực của Chúa. Xin hãy thanh luyện và thanh lọc khỏi chúng con những gì là giả dối,giả hình và thiếu sót để mỗi người chúng con xứng đáng là những chi thể lành mạnh và có ích trong thân thể mầu nhiệm của Chúa.
Ngày 21 tháng 1 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và "phó tướng" Biden đã tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh "bộ đôi quyền lực" này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này. Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden. (Antoine Nguyễn).
Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.
Tại quê hương Nazaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Người nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe".
Trước đó ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: "Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng" (Mt 11,4-5). Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội...Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45).(x. ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).
Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.
1. Sứ điệp và hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu
"Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố...". Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Tin Mừng được loan báo là: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã "bị giam cầm" nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công... làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
2. Chúa Thánh Thần, thúc đẩy và hướng dẫn.
Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác.
Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu "ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" (Lc 2,40); "ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu "được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy". Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc "xức dầu", được tấn phong làm "Đấng được xức dầu" (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.
3. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu xác định: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe." Trải suốt Tin Mừng Luca, từ "Hôm nay" xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra" (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này" (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (23,43). Ý nghĩa của từ "Hôm nay" mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là "ngày hôm nay" vào lúc Người tại thế, mà còn là "ngày hôm nay" của Giáo Hội nữa.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão...Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:"Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ" (Lumen Gentium, 8). Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là "sự thật giải thoát" (Ga 8,32).
"Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương". (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.
Đang khi quân Pháp đánh nhau dữ dội với quân Nga, Napôlêon được mật báo sắp có một cuộc đảo chánh tại Pháp nhằm truất phế ông ta. Tức khắc, vị tướng lừng danh khắp cõi Châu Âu vội cải trang, lén lút đem theo vài cận vệ rời khỏi cuộc chiến đang hồi ác liệt để trở về Pháp, nhằm trừng phạt bọn phản loạn và để bảo tồn ngai triều hoàng đế của mình.
Đến một con sông, đoàn người phải thuê một bác chèo đò đưa qua bờ bên kia. Đang lúc sang sông, Napôlêon buộc miệng hỏi lão chèo đò: “Ông có thấy người lính Pháp nào trốn qua khúc sông này không?” Người lái đò, một công dân Pháp, không biết trước mắt mình là hoàng đế Napôlêon đang cải trang, nên vô tình mỉa mai đáp lại: “Tôi chỉ thấy ông và những kẻ theo ông là những người lính Pháp hèn nhát trốn về ngang đây đầu tiên.”
Người kể truyện không nói rõ Napôlêon, vị tướng hùng của dân tộc Pháp, kẻ chưa từng nếm mùi chiến bại đã phản ứng thế nào với lão chèo đò dám có những lời khinh thị kia, người viết chỉ kết bằng một câu chua chát: “Đây là một cuộc trở về ê chề nhất trong đời Hoàng đế.”
Trước đây, mỗi khi Napôlêon với đoàn quân viễn chinh trở về là những lúc kinh thành Balê tưng bừng náo nhiệt và ngập tràn ánh sáng. Người ta tung hô, múa nhảy, ăn mừng, bởi vì hoàng đế của họ đang mang lại chiến thắng, danh dự, an bình, vinh quang cho đất nước và dân tộc. Thế nhưng, hôm nay Napôlêon đã trở về không phải cho dân hay cho nước, song là cho chính mình-cho chính ngai vàng và quyền bính của mình, mà nghe đâu đang có kẻ đe doạ lật đổ. Hậu quả, vị tướng tài đã phải nhục nhã vô cùng khi nghe câu nói châm biếm của lão chèo đò.
Biến cố trở về của Napôlêon nhắc người ta nhớ đến hình ảnh nổi loạn của dân Do thái ngày xưa trong sa mạc: giữa một cuộc chiến đang hồi ác liệt với đói khát, thiếu thốn, nắng nôi trên con đường tiến về miền đất Chúa hứa, dân Do thái đã trở lòng. Họ muốn quay lui. Họ mơ tưởng đến những nồi súp, miếng thịt, củ hành, tép tỏi bên vùng đất Ai cập, nơi họ từng phải làm nô lệ, tôi đòi. Mơ chưa đủ, họ còn nổi loạn bắt Môisen phải cho phép quay về vùng đất đó. Không tha thiết gì với vùng đất “chảy sữa và mật ong” nữa.
Thế đấy, cả Napôlêon lẫn dân Do thái xưa, tuy khác nhau ở chỗ một bên đang trên đường trở về, một bên mong mỏi và nổi loạn đòi trở về, nhưng cả hai đều có cùng một mục tiêu trần tục và phù vân như nhau. Họ điên cuồng tức giận, bỏ mặc quân lính giữa cuộc chiến đang hồi nóng bỏng để trở về với nồi khoai, nồi thịt nay đầy mai hết, với những thứ mà Thánh Phaolô cho là “việc vàn của xác thịt.”
Hôm nay, Phúc Âm Luca cũng nhắc đến việc Đức Giêsu trở về (Lc 4:14). Cuộc trở về này xảy ra ngay sau một cuộc chiến ác liệt: cuộc chiến chống lại cám dỗ của quỉ ma trong sa mạc, suốt 40 ngày đêm liên tiếp.
Nhưng ngay từ khởi đầu, bài Phúc âm đã không nhắc đến việc Chúa Giêsu trở về với những gì liên quan đến xác thịt, nhưng lại nhấn mạnh: “Ngài trở về trong quyền năng của Thần khí.” Chúa Giêsu đã trở về trong quyền năng của Thánh Thần vì Ngài đã chiến thắng, vượt qua cuộc cám dỗ gay go về cơm bánh, vinh quang, và uy quyền thế gian. Ngài đã trở về không cho chính mình, song là cho mọi người, những ai cần đến ơn cứu độ.
Con người gồm có xác hồn, một tổng thể của vật chất và linh thiêng, của xác thịt và thần khí. Nhưng theo lời Thánh Phaolô trong thư Galata thì xác thịt và Thần khí luôn chống lại nhau. Nếu phần xác thịt-những đam mê, ham muốn, dục vọng, vật chất-thắng thế thì phần thiêng liêng tất sẽ bị suy yếu. Song nếu phần thiêng liêng hay Thần khí trong ta thắng thế thì sẽ chế ngự được những đòi hỏi của xác thịt.
Đức Giêsu trở về trong Thần khí. Ngài không để cho phần xác thịt là những đam mê vượt thắng. Ngài không quì gối bái lạy Satan để có được một chút vinh quang, danh dự, uy quyền. Ngài không để cho cái bao tử hay đồng tiền vật chất khuất phục mình, khi cương quyết không làm đá hoá bánh, không làm điều trái nghịch với tự nhiên để thoả mãn những tham muốn hay dục vọng riêng tư.
Trái lại, đối với Đức Giêsu, mọi vinh quang, danh dự, hay sự sống đều phải qui hướng về Thiên Chúa, chứ không phải Satan hay cá nhân mình. Đây chính là tinh thần của Đức Kitô. Đây cũng chính là Thần khí mà Ngài đã có khi trở về đất Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng.
Có trở về trong Thánh Thần, tức có hướng lòng lên Thiên Chúa để vươn mình thắng vượt những tham lam, tiền bạc, bất công, và chế ngự những khát vọng uy quyền, xác thịt, danh lợi, thì mới có thể đem Tin Mừng cho người nghèo khó, mới giải phóng cho kẻ tù đày, và mới mở mắt cho người đui mù được. Còn nếu tôi cứ tự cột trói và giam hãm trong đau khổ và lo lắng thái quá về đồng tiền, của ăn, thế giá thì làm sao ta đem được Tin Mừng hay niềm vui cho người khác; có chăng chỉ là tranh chấp, gian dối, và u buồn thôi!
Người ta hay nói “đời là một cuộc trở về.” Đúng lắm! Và dưới cái nhìn của con mắt đức tin, mọi người đang trở về quê trời. Đây là một cuộc trở về vinh quang cuối cùng này, tôi vẫn cần luôn những cuộc trở về nho nhỏ, hằng ngày. Rất bình thường, nhưng không kém quan trọng.
Thử hỏi có hôm nào trong cuộc sống mà tôi lại không có một chuyến trở về nào đó: trở về từ sở làm, trở về sau khi đi nhà thờ, trở về sau lúc đi chợ, đi chơi, đi học, đi nhậu, trở về sau những cuộc hẹn hò, tiệc tùng v.v.. Nhưng thử hỏi với lần trở về như vậy, tôi mang theo được điều gì? Tôi mang về bực bội, khó chịu, cay chua, nóng nảy, giận hờn, ghen tuông hay đưa về Thần khí của Đức Kitô, thứ Thần khí hoa trái là mến yêu, vui mừng, bình an, quảng đại, hiền từ, tiết độ.
Chợt giật mình tự vấn: “Không biết mỗi ngày khi về nhà, tôi có đem về niềm vui, sự sống, an bình và thoải mái cho tâm hồn tha nhân, hay vợ chồng con cái của mình chăng?”
Cách nay không lâu, trên tờ báo Catholic Register người ta học thấy có câu chuyện “Trở Về” rất đáng suy tư. Số là anh Jim O’Donnell, một công dân Hoa kỳ 36 tuổi đang làm việc tại Luân Đôn, Anh quốc, cho một nhóm các ngân hàng của Hồng Kông và Shangai. Jim O’Donnell đã gây sửng sốt cho giới doanh thương Hồng Kông, Luân Đôn và cả New York khi tuyên bố rằng anh sẽ về nước, nghỉ việc, mặc dầu khi ấy các ngân hàng vừa tăng lương cho anh với số tiền là 1.650.000 đôla một năm.
Nhiều người thắc mắc tại sao anh Jim không tiếp tục công việc để hưởng số lương bổng mà không ít kẻ nằm mơ cũng chưa thấy được số lẻ của nó. Bạn có biết lý do anh trở về nước không?
Rất lạ! Anh về nước là để cho kịp niên học tại một chủng viện vào mùa Thu 98. Anh muốn đi học để trở thành linh mục. Đúng là anh trở về với tâm hồn của Đức Kitô, với Thần khí của Thiên Chúa, với tinh thần hy sinh những gì thuộc về xác thịt, quyền lợi, sở thích riêng tư, để thực hiện một ước vọng mới là mang Tin mừng, niềm vui và sự sống chân lý cho muôn người.
Xin Chúa cũng ban cho bạn trong những lần trở về với gia đình, cộng đoàn, có được chính Thần khí của Đức Kitô tác động và dẫn lối.
Luca khi viết Tin Mừng đã có những người đi trước ngoài. Lúc đó Máccô đã viết Tin Mừng của mình và Luca đã có biết bởi vì ngài đã sử dụng và đôi khi theo khá sát Tin Mừng của Máccô.
Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để soạn thảo về cùng một đề tài. Vả lại, không phê phán những người đã viết trước mình, Luca đề ra cho mình cách viết khác, theo phương thức và với những điểm nhấn mạnh của riêng ngài.
Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta
Do đó, như chúng ta, Luca thú nhận mình là một người đã không "thấy" Đức Giêsu: Ngài là một Kitô hữu thuộc "thế hệ thứ hai". Nhưng vì sống rất gần với các biến cố của Đức Giêsu nên ngài đã điều tra... và nhận trách nhiệm truyền đạt lại (đó là Truyền thống) những gì chính ngài đã nhận được. Phần tôi, có phải tôi cũng là một mắt xích truyền đạt Đức Giêsu từ thời này qua thời khác không?
Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc
Luca thừa nhận ý định dạy giáo lý của mình một cách rõ ràng: Người muốn làm cho đức tin của người đọc được vững chắc. Tin Mừng không phải là một điều hư cấu, một huyền thoại. Tin Mừng rất nghiêm túc. Theo gương của Thánh Phaolô, thầy mình, và nhắm đến dân ngoại cải giáo (không phải là người Do Thái), Luca sẽ đề cao một số khía cạnh và giảm nhẹ một số khía cạnh đặc thù của người Do Thái. Tác phẩm của ngài được linh hứng. Nhưng sự Linh hứng của Thiên Chúa không loại trừ vai trò bình thường của các khả năng con người, của các tài năng, của việc tìm tòi của tác giả. Tin Mừng của Thánh Luca là một Tin Mừng độc đáo. Chúng ta hãy tiếp nhận nó như thế.
Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận
Suối nguồn nội tâm của Đức Giêsu chính là Chúa Thánh Thần. Luca sẽ không ngừng lặp lại điều đó: Được thụ thai bởi Chúa Thánh 'Thần (Lc 1,35)... mặc lấy Thần Khí của phép rửa tội (Lc 3,22)... được Thần khí dẫn đưa (Lc 4,l-4,14-4,18)... Nói theo cách của con người, người ta có thể tưởng tượng Đức Giêsu trong sự kết hiệp không ngừng với Đấng vô hình bằng một thứ cầu nguyện liên tục: Người không làm điều gì bởi chính Người. Người sẽ nói như thế (Ga 8,28). Trong Người, về một Hơi Thở là hơi thở của chính Chúa Cha. Trong Người, có một "người nhắc" nói với Người mọi việc Người làm trong sự tự do tuyệt đối. Tôi cũng thế, tôi hãy để cho Thần Khí dần đưa tôi.
Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh
Hơn các thánh sử khác, Luca thường cho biết rằng Đức Giêsu "giảng dạy trong các hội đường" (Lc 4,15; 16,31; 6,6; 13,10) hoặc trong Đền thờ (Lc 19,47; 20,l; 2l,37). Giảng dạy trong hội trường trước hết có nghĩa là chú giải Cựu Ước. Đôi khi chúng ta tự hỏi nội dung các bài giảng của Đức Giêsu là gì. Người mở rộng, đi vào chi tiết, chú giải Kinh Thánh. Tin Mừng của Đức Giêsu, trong sự mới mẻ của Người, dựa vào các lời hứa: của Kinh Thánh một cách sâu xa. Việc Công Đồng đưa Cựu ước vào bài đọc thứ nhất mỗi chủ nhật là một sự đổi mới tìm về một truyền thống cổ xưa! Nhờ có Công Đồng, chúng ta thực hiện lại điều Đức Giêsu đã làm.
Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi
Là Đấng Mêsia của những người nghèo khó, Đức Giêsu không lập dị. Người đến rao giảng không phải ở Giêrusalem, thành phố của các vua và các Thượng Tế; nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị coi thường "vùng Galilê của dân ngoại" (Mt 4,15), vùng đất của những người phận nhỏ và nghèo khó. Là Đấng Mêsia và là tư tế, Đức Giêsu không lên Đền Thánh để cử hành các nghi thức thờ phượng, các hy tế, nhưng Người vào trong một Hội đường ở làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, mà tất cả lời Chúa đều tập trung trên sách thánh. Như thế, Người biểu lộ chức tư tế của Người trước hết thuộc bình diện ngôn sứ. Ngày nay cũng thế, trước tiên chúng ta hiệp thông với Đức Giêsu trong phần đầu tiên này của thánh lễ mà người ta gọi là "phụng vụ Lời Chúa". Đó không phải là một phần nhập đề phụ thuộc và tùy thích. Thánh lễ đã bắt đầu. Đức Giêsu đã "thánh hiến" một lần duy nhất trong cuộc đời Người vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Nhưng Người đã dùng lời" nhiều lần: "Đó là chức tư tế của Người. Thánh Phaolô đã hiểu rõ điều ấy khi ngài được Đức Giêsu Kitô ban ân sủng làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16). Cuốn sách mà Đức Giêsu, ngày hôm đó mang theo, mở ra và đọc luôn trường tồn. Tôi có cuốn sách ấy trong nhà tôi không? Tôi có dành thời gian để đọc không? Kinh Thánh có là một phẩm đặc biệt trong việc đọc sách của tôi không? Gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". Vì thế Đức Giêsu đã xác định sứ mạng của Người là một sứ mạng của ngôn sứ. Trong ngôn ngữ của Israel, những lời ấy có nghĩa: Tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa gọi đến để nói nhân danh Người, để nói sứ điệp của Người. Và Đức Giêsu đặt mình dưới sự bảo trợ của ngôn sứ lớn nhất Isaia. Qua thủ bản Qumram, người ta biết được rằng ngôn sứ Isaia là một ngôn sứ được sử dụng nhiều nhất vào thời. Đức Giêsu: Thủ bản cổ thất thế giới rõ ràng là các cuộn da, đã được tìm thấy trong một: hang động cách nay vài năm và được bảo quản trong Viện Bảo Tàng Kinh Thánh, ở Gìêrusalem, và trên đó là toàn bộ bản viết tay sách Isaia. Như một sự tình cờ, một tài liệu duy nhất thuộc loại này trong toàn bộ văn chương thế giới đến được với chúng ta vào giữa thời kỳ hiện đại. Phải chăng chỉ do sự tình cờ? Chúng ta xúc động nhận rằng Đức Giêsu đọc sách Isaia đó.
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
Chúng ta hãy nhận xét thêm một lần nữa từ "xức dầu” được gọi là "chrisma" trong tiếng Hy Lạp, và Đấng được xức dầu được gọi là "christos" do đó mới có danh hiệu Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Đấng được Thần Khí: Thiên Chúa xức dầu, thâm nhập và thấm nhuần như dầu thấm vào cơ thể. Nơi người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện một cách cụ thể (Côlôsê 2,9).
Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Những từ "loan báo Tin Mừng" dịch từ một động từ Hy Lạp: euaggehsasthai có nghĩa là "truyền bá phúc âm". Isaia đã viết ra từ ấy, mang đến niềm hy - vọng bao la gởi cho những. người bị lưu đầy ở Babylon để loan báo Tin Mừng họ được giải phóng (Is 52,7-61,1). Tin Mừng chính là sự' "giải phóng"... và sự "phục hưng" Giêrusalem. Nhưng một thất vọng to lớn sẽ tiếp nối những loan báo mang tính ngôn sứ của Isaia. Những người "nghèo hèn" tiếp tục bị đàn áp, và bất hạnh. Dần dần, từ "nghèo hèn" trong Kinh Thánh bắt đầu gợi ra không chỉ một điều kiện khó khăn về kinh tế hoặc xã hội, những còn là thái độ nội tâm của người nào còn tìm được chỗ dựa nơi con người khi đối diện với những kẻ quyền thế của thế gian nên phải quay về Thiên Chúa. Luca đặc biệt thích nhấn mạnh đến chủ đề này: Thiên Chúa đã đặc biệt thi ái "những kẻ nghèo hèn "…
Còn bạn là anh chị em tôi, bạn cảm thấy mình bị loại khỏi hạnh phúc theo kiểu của thế gian, bạn là người mà Lời Đức Giêsu nhắm đến trước tiên. Có một hạnh phúc khả dĩ dành cho bạn: Bạn hãy tìm hạnh phúc đó bên cạnh Thiên Chúa.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa
Tùy theo tính khí, người ta sẽ còn tiếp tục giải thích bản văn này theo hai hướng trái ngược nhau, nếu như người ta không chịu chấp nhận cả hai: Vấn đề là sự giải phóng vật chất, chính trị và nhân bản... kẻ bị giậm cầm, người mù và người bị áp bức?... hay vấn đề là một sự giải phóng tâm linh hơn?
Chắc chắn rằng Đức Giêsu đã không mở cửa tất cả các nhà tù, không chữa lành mọi người mù và bệnh tật, đã không từ bỏ mọi áp bức khỏi hành tinh chúng ta. Hỡi ôi như thế chẳng hóa ra là một lời hứa vô ích, lừa phỉnh sao? Tuy nhiên trước hết người nghèo hèn động ở hàng đầu tiên để chờ đợi sự giải phóng về vật chất cho họ. Có lẽ chính chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu sẽ có tội nếu chúng ta không "thực hiện" lời tiên tri ấy. Chúng ta phải làm gì để giải phóng anh em chúng ta? Để làm giảm nhẹ những người bệnh tật? Nhưng cũng chắc chắn rằng sự áp bức tệ hại nhất là sự nô lệ nội tâm mà tội lỗi tạo ra trong chúng ta. Từ được dịch ra ở đây bằng từ "giải phóng" hay trả lại tự do chính là từ "aphésis" cũng có nghĩa là “tha thứ” (Lc 1,77-3,3-24,47; Cv 2,38,5,31 v.v...) Vâng, lạy Chúa, xin giải phóng chúng con xin tha thứ chúng con! ôi! trong tầm hồn con, có sự nô lệ khủng khiếp đó, khi con trở nên tù nhân của xác thịt con, của thù hận, tiền bạc, tiện nghi, khoái cảm! Sự giải phóng mà Đức Giêsu đã hứa cũng dành cho chính con.
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Ngày nay ở thế kỷ 21, điều đó có liên quan gì với tôi? Thánh Luca sử dụng mười hai lần tiếng "hôm nay" mầu nhiệm và trang nghiêm ấy, trong Tin Mừng của Ngài; từ “Hôm nay” đã sinh ra cho anh em một “Cứu Chúa" cho đến "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" lúc Người bị treo trên thập giá. (Lc 2,11; 3,22; 4,21; 5,26; 12,28; 13,32; 13,33; 19,5; 19,9; 22,34; 22,61; 23,43).
Thánh Philip Neri, biệt danh là “Tông Đồ thành Rôma” là một trong những khuôn mặt vĩ đại đã đóng góp vào việc cải tổ Giáo Hội thời bây giờ. Ngài đã ảnh hưởng dân chúng bằng chính đời sống của mình. Ngài không viết một quyển sách, cũng không đưa ra một lý thuyết thần học nào, hoặc một đường hướng tinh thần nào.
Neri sinh ở Florence nãm 1515. Gia đình ngài sống chật vật nên đã gởi ngài đến ở với ngýời bà con buôn bán giàu có. Trong thời gian này, Neri thường đến một hang đá gần nhà đã biến thành Nhà Nguyện, mà đọc kinh cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện, Neri được soi sáng nên quyết định rời bỏ việc buôn bán mà tận hiến đời sống mình lên Thiên Chúa.
Sau khi từ giã người bà con, Neri đi lên Rôma vào nãm 1533 và sinh sống bằng cách dạy kèm cho mấy đứa con của một người đồng hương. Neri theo học Triết và Thần học cho đến lúc Neri nhận thấy việc học đã cản trở việc kinh nguyện, nên Neri liền bỏ việc học mà sống như một vị ẩn tu. Đêm đêm, Neri thường ra ngoài đường phố, lắm lúc đi vào trong Nhà Thờ, nhưng thường xuyên là đến hầm mộ của Thánh Sebastiano mà cầu nguyện.
Thánh Philip Neri lúc 29 tuổi, nhận được một quà lớn lao của Chúa Thánh Thần. Khi ngài sốt sắng cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hãy ban cho ngài những ơn đặc sủng của Chúa, thì một có một trái cầu bằng lửa rớt vào miệng ngài và nằm trong ngực ngài. Lúc ấy, ngài ngạc nhiên vì nhận được lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần.
Vì không thể chịu được sức nóng của tình yêu Thiên Chúa, nên ngài phải ném mình xuống mặt đất để làm cho thân xác được mát mẻ hơn. Trong khi đó nơi lồng ngực ngài thì có lửa tình yêu thiêng liêng bốc cháy. Ngài phải nằm yên trong một hồi lâu để được phục hồi. Sau đó ngài ngồi dậy với tràn đầy niềm vui. Trái tim ngài sưng to lên như có một cái bướu lớn bằng nắm tay của một người lớn. Nhưng sau đó ngài không còn đau đớn nữa, trong suốt 50 nãm của cuộc đời. Ngài cưõng quyết từ bỏ tất cả để đi theo Chúa. Giúp việc tại bệnh viện của những người bệnh gần chết và ngài bắt đầu rao giảng cho mọi người về Thiên Chúa, từ người ãn xin ngoài đường cho đến những chủ nhà băng.
Nãm 1548 Neri thành lập một hội đoàn, cầu nguyện giúp đỡ những người hành hương đến Roma, thiếu thốn lưõng thực và nơi trú ngụ. Vi linh hướng của cộng đoàn khuyến khích Neri làm Linh Mục, thì sẽ giúp ích được nhiều hơn. Sau khi đã theo học đầy đủ, Neri được lãnh nhận thánh chức Linh Mục vào nãm 1551.
Tại trú sở mới, Nhà Thờ San Girolamo, ngài yêu mến phép giải tội. Những người trẻ tìm thấy nơi Neri những lời khuyên giải khôn ngoan và giúp cho đời sống thiêng liêng lớn mạnh. Neri cảm thấy những người trẻ này không chỉ cần tha tội, nhưng cần được hướng dẫn trong đời sống thường nhật nữa, nên Neri mời gọi họ đến Nhà Thờ mỗi buổi chiều, để đọc và học hỏi Kinh Thánh và cùng nhau cầu nguyện. Số người đến tham dự càng ngày càng gia tãng, nên ngài cùng cha Buonsignore Cacciaguerra chính thức thành lập một Hội Đoàn Cầu Nguyện để hướng dẫn họ. Nãm 1575, Hội Đoàn này được Đức Giáo Hoàng Gregory XIII thừa nhận và những quy luật của Hội Doàn phản ảnh tính phóng khoáng của thánh nhân.
Thánh Philip Neri đã làm nhiều phép lạ, trong dịp lễ Hiện Xuống nãm 1544, Neri đã xuất thần và cảm thấy tim mình tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Sau đó khi dâng Thánh Lễ thì mặt ngài sáng rực một cách lạ lùng. Vào ngày 25 tháng 5 nãm 1595, như thường lệ, Thánh Neri ngồi tòa giải tội và tiếp những người đến thãm viếng. Trước khi đi về nghỉ, ngài nói: “Cuối cùng rồi chúng ta cũng phải chết.” Và đêm đó ngài về với Chúa. ( Kim Hà, 7 Vị Thánh Tràn Đầy Õn Chúa Thánh Thần. MeMaria.org )
Tin Mừng Chúa Nhật 3 TN hôm nay, Thánh Luca thuật lại Đức Giêsu về Nadarét, vào hội đường ngày Sabát, đọc sách Ngôn Sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo nãm hồng ân của Chúa.” Với tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa, Thánh Philip Neri đã bước theo bước chân Đức Giêsu, chu toàn cả ba sứ vụ: Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Giả. Đây cũng chính là õn gọi và sứ mạng của người Kitô hữu trong Giáo Hội và trong thế giới.
Tư Tế
“Thần Khí Chúa ở trên tôi”. Qua Bí Tích Thanh Tẩy, Thần Khí Chúa thánh hoá người lãnh nhận, trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể của Đức Giêsu. "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô" ( Gl 3, 27 ). Người Kitô hữu bất cứ ở đâu, hay bất cứ thân phận nào, được xức dầu trong Thần Khí đều trở nên đền thờ thiêng liêng, hiệp nhất với Đức Giêsu và Hội Thánh. Như Thánh Phaolô đã mạnh mẽ minh xác với tín hữu Côrintô: "Vì trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta được thanh tẩy mà nhập vào Thân Mình độc nhất, dù là Do Thái hay Hy Lạp, dù là nô lệ hay tự do, và hết thảy ta đã được cùng uống Thần Khí độc nhất" ( 1Cr 12, 13 bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, DCCT ).
Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu được tham dự vào chức năng Tư Tế của Đức Kitô, theo cách thức riêng của mình, trở nên đền thờ Thiên Chúa, chiếu tỏa sự thánh thiện và thánh hiến con người cho Thiên Chúa Cha. "Thực vậy, mọi hành động, kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ãn việc làm hàng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô." ( Hiến Chế Lumen Gentium, 34, đ 2 ).
Chức nãng tư tế của tín hữu là hiệp dâng lên Thiên Chúa tất cả bổn phận, lẫn trách nhiệm theo ơn gọi, noi gưõng cuộc đời Đức Giêsu hiến dâng, phục vụ cho Thiên Chúa và con người. Hằng ngày, người Kitô hữu tiến dâng lên Chúa những thành quả, lẫn thất bại, niềm vui lẫn nỗi buồn, âu lo và hy vọng, để biết õn, cảm tạ, ngợi khen, cũng như để được an ủi, cứu giúp.
Ngôn Sứ
"( Thánh Thần Chúa ) sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.” Người Kitô hữu còn có chức năng Ngôn Sứ, đem Tin Mừng đến mọi người, nhất là người nghèo hèn, đau khổ, bệnh tật, qua chính cuộc sống bản thân, qua chứng tá Đức Tin, qua lời nói chân thành và việc làm bác ái, tương thân, tương ái với tha nhân.
Nhân Nãm Thánh Lòng Thương Xót, từng Kitô hữu có thể tự kiểm điểm vai trò ngôn sứ của mình qua kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối. Thương Xác Bảy Mối thì tương đối dễ dàng thực hành, còn Thương Linh Hồn Bảy Mối thì người tín hữu Kitô đã chu toàn hay đã bỏ quên, chỉ vì lối sống vị kỷ mackeno, chẳng muốn dây dưa với tha nhân, khỏi phiền luỵ. Nếu thế, đến ngày cánh chung, Chúa cũng sẽ ngoảnh mặt làm ngơ, không biết chúng ta là ai, mà cho vào hưởng Nước Chúa.
“Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý." ( Hiến Chế Lumen Gentium 35, đ. 3 ).
Vưõng Giả
“Ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo nãm hồng ân của Chúa.” Hơn nữa, nhờ thuộc về Đức Giêsu người Kitô hữu còn dược vinh dự thông phần vào chức nãng vương giả của Người. Đem ánh sáng Tin Mừng giải thoát tha nhân khỏi ngục tù tội lỗi chế ngự, khai sáng những kẻ mù loà, hoa mắt trong thế giới vật chất phù phiếm hấp dẫn, đem sự thật, công lý và tình thương đến những kẻ bị sự dữ khai trừ, đàn áp, bị bỏ rơi. Như thế, người Kitô hữu được mời gọi phục vụ, xây dựng và phát triển Nước Chúa ngay tại thế.
Nhưng trước hết, người Kitô hữu phải chiến đấu với chính mình, tỉnh thức vượt qua các chước cám dỗ hằng ngày, cũng như luôn ãn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng và ban sức mạnh, canh tân, đổi mới, người Kitô hữu mới có thể phục vụ Đức Giêsu đang hiện hữu trong mọi người. Như Thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ, để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa” ( Rm 6, 13 ).
Nếu con bảo "giáo dân có ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần" có người sẽ cho rằng con nhạo báng họ ! Nếu con bảo "Giáo Dân là Tư Tế, Ngôn Sứ, Vương Giả", có người sẽ cho con là thệ phản ! Có mấy Giáo Dân ý thức họ được Chúa gọi ? Chúa cần họ ? Hãnh diện và tri ân vì được làm con Chúa nhờ Bí Tích Thánh Tẩy ? Làm chiến sĩ, chứng nhân cho Bí Tích Thêm Sức ? ( Đường Hy Vọng, số 333 ).
Lạy Chúa Thánh Thần xin thương xót, giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, chu toàn ba chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Giả với người thân thuộc đến Giáo Xứ, Cộng Đoàn và tất cả tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng chúng con ý thức rằng, nhờ Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người, chúng con luôn được vinh hưởng Lòng Thương Xót, trở nên đồng hình, đồng dạng Con Chúa, cũng như biến thành chi thể của Người. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con chân thành tri ân, cảm tạ, ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa chí nhân chí ái muôn đời. Amen.
Sau một thời gian ngược xuôi giảng dạy ở nhiều nơi, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét yêu dấu thăm viếng. Vào ngày Sabát, Ngài đến hội đường, người ta mời Ngài đọc Sách Thánh và giảng dạy. Thời đó, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự là Đền Thờ và Hội Đường. Chỉ có một Đền Thờ tại Giêrusalem. Hội đường rất nhiều, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do Thái dâng hy lễ cho Thiên Chúa, như chiên, cừu, bồ câu… Còn Hội Đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ.
Ngày Sabát, người ta thường đọc sách Luật, các sách Ngôn Sứ rồi tiếp theo là một bài giảng giải. Người Do Thái trưởng thành nào cũng có quyền được lên tiếng ở đó, nhưng thường những người coi sóc Hội Dường hay giao cho ai thông thạo Kinh Thánh làm việc này. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa Giêsu cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn Ngôn Sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Ngài sẽ làm.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” ( Lc 4, 19-19 ). Chúa Giêsu xác nhận lời tiên báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Nội dung của sứ điệp ngôn sứ được ứng nghiệm nói lên công việc Chúa Giêsu sẽ thi hành. Công việc gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Loan báo Tin Mừng
Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” ( Ga 3, 16 ). Chúa Giêsu nói rõ đối tượng ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là đến với những người nghèo khó: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Mọi người đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho tất cả mọi người. Giáo Hội luôn phục vụ những người nghèo. Sống nghèo, tận tụy phục vụ người nghèo, đó là những nét nổi bật của Giáo Hội. Sứ vụ ấy làm nên tinh thần khó nghèo của Tám Mối Phúc.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng Y Claudio Hummes, người Brasil. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”. ( x. Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài Truyền Hình Braxin Globo sau kết thúc Ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro ).
Thực sự, “Đừng quên người nghèo” là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo Hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. “Đừng quên người nghèo” cũng được coi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay. Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7 ).
Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong chồng bò với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 nãm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo. Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi.
Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các Thượng Tế, các Luật Sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết. Sở dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu. Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mình.
Người chết, nhưng đã sống lại, để rồi mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm. Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện.
Thế nào là đừng quên người nghèo ? Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng Y, và khi đã làm Giáo Hoàng, xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo.
Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể, tế nhị và quảng đại, tùy khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng sa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gưõng Chúa Giêsu.
Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phanxicô nhắc đến thập giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ. “Đừng quên người nghèo” đang được khõi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn. Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự hủy. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. ( x. Đừng quên người nghèo, Gm. Bùi Tuần ).
Đại Hội Đồng các Giám Mục Mỹ Châu Latinh đã tuyên bố tại Puebca năm 1979 rằng: “Việc phục vụ con người tốt đẹp nhất là loan báo Tin Mừng. Công việc đó giúp con người phát triển như con cái Thiên Chúa, giải thoát con người khỏi những bất công và thúc đẩy công trình phát triển toàn diện con người”.
Đi công bố
Sau khi công bố "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo", Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
- Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. - Cho người mù biết họ được sáng mắt. - Trả tự do cho người bị áp bức. - Công bố một năm hồng ân của Chúa.
Như vậy, "người nghèo" là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ. Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn ? Ai mà không "bị giam cầm" trong một thứ tù ngục nào đó ? Ai mà không "mù" một cách nào đó ? Ai mà không "bị áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó ? Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo. ( x. Sợi chỉ đỏ, Chúa Nhật 3 thường niên C ).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt Đức Tin để nhìn thấy và tin vào Chúa.
Tự do là quà tặng quư giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công... làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội ( x. Lumen Gentium, 3 ).
Giáo Hội tiếp nối sứ vụ
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Sức thuyết phục của Chúa Giêsu chỉ có thể giải thích được là tất cả lời giảng, dụ ngôn và suy luận của Người không bao giờ tách khỏi đời sống của Người. Theo nghĩa đó, tất cả cuộc đời của Người là một bài giảng liên tục…” ( Catechesi tradendae số 9 ). Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Ngài. Giáo Hội luôn ư thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Chúa Giêsu. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão… Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” ( Lumen Gentium, 8 ).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lư, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” ( Ga 8, 32 ).
Trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô” ( số 49 ). Giáo Hội thực thi sứ vụ ấy không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng.
Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời Ngôn Sứ Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay. Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Chúa luôn luôn ở bên trong sứ vụ tình yêu của chúng ta.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu trở về quê nhà. Trong khi gửi tới dân làng TN3-C121 Luong
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu trở về quê nhà. Trong khi gửi tới dân làng Nagiarét, nơi Ngài đa lớn lên, một trong những sứ điệp quan trọng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy một tình yêu thương chân thành và nồng thắm. Thực vậy, lúc bấy giờ Ngài đã nổi tiếng khắp miền Galilêa và nhiều nơi khác, thế nhưng, Ngài đã không quên thôn ấp nhỏ bé Ngài đã sống suốt những năm tháng dài của tuổi ấu thơ và trưởng thành. Ngài muốn chuyển thông Tin mừng cứu rỗi cho những người bà con họ hàng.
Là Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngài đã không chối từ những liên hệ của con người, nối kết ngài với Nagiarét. Và như thế, ơn thánh không phá hủy, mà trái lại còn kiện toàn bản tính tự nhiên của chúng ta.
Nếu nhìn lại cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy Ngài không đến để công bố những lề luật, rồi sau đó Ngài đứng bên lề cuộc đời. Trái lại, Ngài đã làm người, đã hóa thành nhục thể, trở nên một người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã dấn thân vào số kiếp con người, đã nhập cuộc vào trò chơi của lịch sữ nhân loại. Trước hết, Ngài đã tuân giữ những luật lệ phần đạo cũng như phần đời.
Phần đạo, Ngài cũng đã chịu phép cắt bì, hằng ngày Ngài vẫn đến hội đường để nghe đọc Kinh thánh, hằng năm Ngài vẫn lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua….Phần đời, Ngài đã biểu lộ lập trường của mình về việc nộp thuế:
- Của Cêsar hãy trả cho Cêsar. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Ngài đã thực sự hòa mình vào nếp sống của mọi người: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Thực vậy, Ngài đã đi ăn cưới tại Cana để chia sẻ niềm vui của đôi tân hôn. Trái lại, Ngài đã xúc động trước đám tang người con trai của một bà góa thành Naim, Ngài đã khóc thương trước nấm mộ của Lagiarô cũng như trước viễn cảnh của một Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn…Hơn thế nữa, Ngài còn cúi xuống xoa dịu mọi nỗi khổ đau của những người chung quanh: Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống đám đông trong hoang địa, Ngài đã xua trừ ma quỉ, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ điếc được nghe, và người chết được sống lại. Ngài đã chu toàn những công việc của nhân loại theo cách thức của Thiên Chúa để thánh hóa và đem lại cho chúng một giá trị tuyệt vời.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta rút ra được một quan niệm sống cho người Kitô hữu. Thực vậy, người Kitô hữu phải sống trọn vẹn cuộc đời của mình trong những giây phút hiện tại. Họ không được phép chê ghét và xa tránh những người bà con lối xóm. Họ không được phép chạy trốn và khước từ những thực tại trần gian. Trái lại, họ phải dấn thân, phải nhập cuộc như Đức Kitô ngày xưa. Tuy nhiên, họ dấn thân không phải là để cho thế gian lôi kéo. Họ nhập cuộc không phải là để cho tội lỗi vùi dập trong đám bùn nhơ. Đời sống của họ phải trở nên như một bông sen: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Hơn thế nữa, họ dấn thân và nhập cuộc là để lôi kéo thế gian trở về cùng Chúa. Họ chính là muối mặn ướp cho đời khỏi ươn thối. Họ chính là ánh sáng chiếu tỏa vào thế gian còn chìm ngập trong tăm tối. Họ chính là men làm cho nhân loại này dậy lên hương thơm đạo đức và thánh thiện. Ơn gọi của người Kitô hữu là làm chứng cho Đức Kitô, là sống đức tin của mình giữa lòng cuộc đời, để thánh hóa bản thân và những người chung quanh.
Nếu so sánh quan niệm trên với những luồng tư tưởng lớn của Đông phương, chúng ta sẽ nhận ra được một sự khác biệt.
Thực vậy, Lão giáo thì ngần ngại trước cuộc sống ngắn ngủi phù du, nên đã đi tìm lãng quên trong men rượu, trong vui thú để rồi đã có một cái nhìn thật bi quan và yếm thế.
Khổng giáo thì hăm hở bước vào đời để cải tạo xã hội va đem lại cho bản thân mình chút vinh quang phù phiếm:
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Và sau cùng, Phật giáo thì ý thức rằng đời là bể khổ, mà mỗi người là như một cánh bèo trôi dạt trên đó, để rồi lên đường kiếm tìn sự giải thoát cho cá nhân mình.
Chỉ Kitô giáo mới đưa ra một cái nhìn vừa lạc quan lại vừa đúng đắn, để xây dựng cho bản thân cũng như cho xã hội.
Có một người đã nhiều năm vui vẻ chấp nhận cuộc sống với những thiếu thốn về tiền bạc và những buồn phiền trong gia đình. Người ta hỏi ông:
- Tại sao lại có thể an vui được như thế ?
Ông ta đã trả lời:
- Sở dĩ như vậy vì tôi biết sử dụng cái nhìn của tôi với đôi mắt sáng suốt.
Người ta tò mò hỏi:
- Như thế có nghĩa là gì ?
Ông ta nói:
- Trước hết tôi nhìn lên trời và nhớ rằng việc chính của tôi là đạt tới trời. Rồi tôi nhìn xuống đất và hình dung ra nắm đất thân xác tôi sẽ trở thành. Sau cùng tôi nhìn sang bên cạnh và tôi nhận thấy có biết bao nhiêu người còn khốn khổ hơn tôi rất nhiều. Chính ba cái nhìn này đã làm cho tôi sung sướng và bàing lòng với cuộc sống mà không than van trách móc.
Người Kitô hữu sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian. Bởi đó, hãy biết chấp nhận những thực tại trần gian, để nhờ đó thánh hóa bản thân và những người chung quanh trên con đường trở về cùng Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bài Tin Mừng này nhấn mạnh đến giá trị lịch sử và nội dung của lời Chúa. Xét về giá trị lịch TN3-C122
Bài Tin Mừng này nhấn mạnh đến giá trị lịch sử và nội dung của lời Chúa.
Xét về giá trị lịch sử, Thánh Luca đã mở đầu sách Tin Mừng bằng dựa vào thế giá “các người đã được chứng kiến ngay từ đầu đã phục vụ lời Chúa, truyền lại cho chúng ta”. Thánh Luca còn “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự … để gởi “Ông Thêôphilô nhận thức được rằng giáo huấn Ông đã học hỏi thật là vững chắc”.
Trước hết, thánh Luca tra cứu nơi chính Đức Mẹ Maria, vì các biến cố đời thơ ấu của Đức Giêsu, từ lúc Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ đến lúc Đức Giêsu lên 12 tuổi đi lễ đền thờ, Thánh Mathêu chỉ kể vài việc: Truyền tin cho Thánh Giuse biết Đức Maria thụ thai bởi phép Thánh thần, các hiền sĩ, Thánh gia trốn sang Ai Cập. Thánh Marcô và Gioan không kể gì. Thánh Luca kể khá nhiều về đời sống ẩn dật mà chỉ Đức Mẹ biết rõ thôi.
Thứ đến, Thánh Luca tra cứu nơi các tông đồ đã sống bên Đức Giêsu suốt ba năm giảng đạo. Hơn nữa, nhờ Gioan và Giacôbê là anh em họ hàng với Đức Giêsu nên có thể giúp thánh Luca biết về đời sống của Đức Giêsu lúc Người giảng đạo.
Sau nữa, Thánh Luca còn tra cứu rất đông các môn đệ mà Thánh Phaolô kể trong thư Côrintô, có tới 500 người tiễn Đức Giêsu về trời (1Cor. 15, 5-8).
Ngoài ra, Thánh Luca còn tra cứu nơi biết bao nhiêu bệnh nhân đã được Đức Giêsu cứu chữa có thể nói toàn dân Do Thái đã chứng kiến cuộc suy tôn Đức Giêsu làm vua và cuộc khổ nạn của Người trong ngày đại lễ quốc khánh của nước Do Thái.
Phần đông những người đã chứng kiến cuộc đời của Đức Giêsu vẫn còn sống lúc Tin Mừng Thánh Luca ra đời, vì Thánh Luca chép Tin Mừng khoảng năm 60-70 hay 70-80 nghĩa là khoảng 30-40 năm sau Đức Giêsu chịu chết. Như vậy những người chứng kiến đó cũng chỉ 50, 60 tuổi. Họ biết rất rõ về Đức Giêsu nên Luca không thể bịa đặt, thêm thắt, làm sai lịch sử về Đức Giêsu.
Thánh Luca lại là thầy thuốc, ở địa vị thầy thuốc, tất nhiên phải nghiên cứu học hỏi kỹ lưỡng cẩn thận. Trước khi cho một toa thuốc, Ông phải tỉ mỉ xem xét những triệu chứng gây ra bệnh tật, mới dám viết đơn thuốc. Sai trệch, cẩu thả là nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân và đe dọa chính thầy thuốc nữa. Tin Mừng Thánh Luca thật là một toa thuốc vô cùng quan trọng, vì đó là thuốc trường sinh cho cơn bệnh trầm trọng của nhân loại đang hấp hối. Thánh Luca cắt toa thuốc này không phải cho Ngài Thêôphilô và những người mới trở lại đạo, mà còn cho cả thế giới từ nay cho đến tận thế.
Ngài Thêôphilô là bậc thế giá, hàng trí thức và còn bao nhiêu Ngài trí thức vị vọng khác của hàng ngàn năm đã nhận biết chân giá trị thực sự về lịch sử của Đấng Cứu thế nhờ Tin Mừng của Luca. Nếu Luca viết sai lầm, giả dối, thì đã mất hết giá trị từ lâu rồi. Thế mà trải qua hai ngàn năm thử lửa, giá trị lịch sử về Tin Mừng càng ngày càng vững chắc. Không có một cuốn sách nào được in ra hàng ngàn thứ tiếng với hơn năm trăm triệu bản in và hơn hai tỷ cuốn sách như Tin Mừng Đức Giêsu.
Một thế giá khác hơn thế giá lịch sử, nó có giá trị tồn tại trong thời gian như lịch sử, mà còn vượt thời gian đến vô cùng, đó là thế giá nội dung của chính Tin Mừng. Thánh Luca đã tóm tắt nội dung của Tin Mừng vào mấy câu khởi đầu sau đây: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”.
Mấy câu mở đầu đó cho ta thấy rõ: Tin Mừng là của Thần khí, việc rao giảng Tin Mừng là do Thiên Chúa sai đi. Đó là thế giá tuyệt đối của Tin Mừng, không một giá trị nào của trần gian có thể sánh được. Dù bao nhiêu công trình vĩ đại của loài người cũng chỉ có giá trị tương đối, chúng luôn luôn bị thời gian xoi mòn, cuối cùng sẽ bị cạn kiệt, tiêu tan. Còn Tin Mừng của Thần khí: “Dù trời đất này qua đi, thì lời Ta, một chấm, một phẩy trong Tin Mừng cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt. 5, 18). Thần khí Chúa đã khởi đầu công trình sáng tạo thế nào, thì khởi đầu công trình Tin Mừng cứu chuộc còn kỳ diệu hơn thế nữa. Thần khí đã khởi đầu công cuộc nhập thể của Ngôi Hai xuống thế làm người, đã khởi đầu cuộc giảng đạo Đức Giêsu, khởi đầu công vụ Tông Đồ và muôn ngàn công cuộc của Hội Thánh, của các thánh nhân, những cuộc canh tân, cải thiện đời sống muôn dân về tinh thần cũng như thể chất.
Chính Thần khí của Đức Kitô đã báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, đói khát: hèn về địa vị, thấp mồm bé miệng trong xã hội; nghèo về đói khát của ăn tthể xác, nhất là đói Lời Hằng Sống và hèn do tội lỗi đè nén trên lương tâm, đang mong chờ Thần khí đến giải thoát khỏi bị giam cầm trong tối tăm áp bức, đưa về cùng Thiên Chúa là ánh sáng vinh quang của mình.
Đại văn hào Don. Dostoievski của Liên Xô, lúc sinh thời đã ghét đạo vì bao nhiêu áp bức tối tăm đã đè nặng trên tâm trí ông, khi tuổi đời đã xế bóng Thần khí của Tin Mừng đã giải thoát ông. Ông đã ăn năn sám hối và nói với vợ ông: “Tôi biết hôm nay tôi chết, hãy đốt nến sáng lên và đưa cho tôi một cuốn sách Tin Mừng”
Lạy Thần Khí Đức Kitô, xin hãy đốt nến sáng lên trong tâm hồn chúng con, không phải chỉ đến lúc hấp hối mà ngay bây giờ biết sốt sắng chiêm niệm Tin Mừng của Đức Giêsu trong Thần khí và Chân lý, cho chúng con được sống hạnh phúc trong tình thương bao la của Thiên Chúa. Amen.
Đoạn tin mừng vừa đọc trên đây, tóm gọn chương trình hoạt động của Chúa Giêsu trong ba năm TN3-C123
Đoạn tin mừng vừa đọc trên đây, tóm gọn chương trình hoạt động của Chúa Giêsu trong ba năm truyền giáo của Ngài: đó là loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được xem thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức. Đọc xong đoạn sách tiên tri Isaia, Chúa Giêsu xếp sách lại nói với mọi người: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn sách thánh anh chị em vừa nghe”.
Và quả thực như vậy, trong ba năm truyền đạo, Chúa Giêsu đã biểu lộ tình thương yêu bao la của Thiên Chúa cho loài người, nhất là những người tàn tật, yếu đuối và tội lỗi, những người bị xã hội gạt ra ngoài lề.
Chúa Giêsu đã lấy máu đào trên thập giá, để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, và bao tính mê tật xấu khác do dục vọng và lòng ích kỷ của con người sinh ra.
Là tín hữu của Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày nay cũng tiếp tục sứ mạng loan báo tin mừng cho người nghèo khó, đang góp phần vào công cuộc giải thoát những người bị áp bức, những nạn nhân của chiến tranh…Tin mừng của Chúa Kitô, không phải chỉ nói với nhân loại ngày nay về sự giải thoát khỏi án phạt đời đời mai sau, nhưng còn góp phần thăng tiến cuộc sống cụ thể của con người. đạo Kitô không phải là thuốc phiện ru ngủ quần chúng cắn răng chấp nhận bất công xã hội, mang lại niềm hy vọng cho nhiều người đau khổ, nghèo đói.
Điển hình là những đóng góp đáng kể về sức người, sức của và tài năng của đồng bào Thiên Chúa giáo cho việc đổi mới đất nước của chúng ta hiện nay. Vào còn bao chiến sĩ phúc âm: điển hình như các nữ tu dòng Sainta Paul, dòng nữ tử Bác Ái…cùng bao chứng tá Kitô âm thầm khác theo gương Chúa Kitô đem nguồn vui đến cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ.
Một tín hữu công giáo cùng người bạn dạo chơi trong vườn hoa. Giữa mùa hoa, nên hoa nở thật đẹp. Người bạn hỏi tín đồ công giáo rằng: “Anh thường nói với tôi về Chúa Kitô; Vậy, Ngài với anh có liên hệ thế nào?” Tín đồ dừng bước hỉ vào một đóa hồng tươi thắm nói: mặt trời có liện hệ với hoa kia thế nào, thì Chúa Kitô cũng liên hệ với tôi như thế.
Người Kitô hữu phải là bằng chứng của Chúa Kitô, cũng như bông hồng là bằng chứng tác dụng của ánh sáng mặt trời.
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau, thử thách. Đó là số phận chung của TN3-C124
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau, thử thách. Đó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu ước qua Tân ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả ; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia đã trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với lời Chúa, Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Đau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nhiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái, Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào, nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài ; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trờ về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc:’’không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình’’, đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazarét nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestine. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dàicủa Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mệnh tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép rửa, người kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô; bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiên, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
Một trong những dung mạo Chúa Giêsu cổ nhất là của tổng trấn xứ Duđêa phát họa năm thứ 32. Lúc TN3-C125
Một trong những dung mạo Chúa Giêsu cổ nhất là của tổng trấn xứ Duđêa phát họa năm thứ 32.
Lúc đó có một người tên là Giêsu Kitô được coi như là tiên tri, có sức mạnh phi thường, cao lớn, vóc dáng thanh lịch điềm đạm, mái tóc phủ dài xuống đôi vai. Vàng trán ông cao, nghiêm nghị, đôi má không một vết nhăn, moi miệng cân đối hiền hòa, râu dài chẻ ra ở giữa, mắt tươi sáng dịu dàng. Theo nhiều học giả, bức chân dung này được mang về Vatican vào khoảng thế kỷ thứ 19.
Trong các sách Tin mừng, chúng ta có tất cả thông tin về cuộc sống Chúa Giêsu, nhưng không thấy một chân dung nào của Người. Tại sao? Vì Thiên Chúa muốn chúng ta ý thức: Những việc Chúa Giêsu làm quan trọng hơn là những đường nét trong con người của Người.
*****
Mục đích và lý tưởng của Kitô hữu chúng ta là được nên đồng hành với Chúa Giêsu. Các tác giả sách Tin mừng không mô tả cho chúng ta biết Chúa Giêsu giống ai, vì ngoại diện của Người không quan trọng, không đáng chúng ta quan tâm. Điều quan trọng để chúng ta đồng hành với Người là thi hành việc Người làm. Người làm gì? Tin mừng hôm nay trả lời cho chúng ta:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho con người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Nét nổi bật nhất trong con người Chúa Giêsu là sự “cảm thông”. Người luôn tìm đến những kẻ bị xã hội và mọi người ruồng bỏ, Người đau khổ với niềm đau của con người. Người đến với những người mà không ai muốn đến. Người cứu giúp những kẻ bị gạt ra bên lề. Người là hiện thân của tình yêu. Giống Người là đi vào tình yêu của Người. Mỗi cử chỉ yêu thương của chúng ta là một đắp bồi cho dung mạo Chúa Giêsu. Cả cuộc sống bác ái của chúng ta là họa lại dung mạo Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta. (Theo “Chờ đợi Chúa”).
2. Chúa Giêsu ra mắt đồng hương
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha… Công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Sau khi tuyên thệ nhậm chức, các tổng thống Mỹ đua ra lời phát biểu đầu tiên. Bài phát biểu thường cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về những gì người ta chờ đợi nơi họ.
Tin mừng hôm nay cũng giống như một bài phát biểu. Chúa Giêsu được Chúa Cha chọn vào sứ vụ của Đấng Mêsia. Ngài bắt đầu sứ vụ bằng cách đứng giữa công chúng và nói cho ta biết điều ta chờ đơi nơi Ngài trong sứ mệnh cứu thế.
Điều gì làm tôi ngạc nhiên, ít là về những gì Chúa Giêsu đã nói trong sứ điệp khai mạc của Người? Tại sao?
“Tôi biết rõ con người, và tôi nói với các bạn rằng: Chúa Giêsu Kitô không phải là một con người” (Napoléon Bonaparte) (Trích “Viễn tượng 2000”).
3. Tấm lòng vàng
Tại California bên Hoa Kỳ có một người ăn xin được nhiều người biết là ông En-đi-va-gát 70 tuổi. Ngày ngày ông đi nhặt những chiếc lông nhung. Ông không phải là kẻ ăn xin tầm thường, mà là người ăn xin triệu phú. Ông được trúng số độc đắc, thế là từ một người ăn xin nghèo khó nay trở thành triệu phú.
Nhưng ông không quên nguồn gốc của ông. Và vì đó mà ông rất thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Sở dĩ ông tiếp tục ăn xin là để gần gũi những người nghèo khổ bất hạnh để ông giúp đỡ. Tiền xin được ông đem giúp trẻ em nghèo được tiếp tục đến trường, các sinh viên theo đuổi việc học. Ngay lúc trúng số, ông đã biếu ngay 20 ngàn mỹ kim vào quỹ học bổng.
Ông là một triệu phú đích thực. Ông giàu không phải vì trúng số mà giàu vì tấm lòng vàng.
---------
Nét đẹp của câu chuyện trên đây là người triệu phú lại chấp nhận ăn xin cho người nghèo. Cũng như trong Tin mừng hôm nay, Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong nghĩa là được phong vương lại được sai đi để chăm lo cho những người nghèo khó, tù đày, đui mù, bị áp bức…
Chính nét đẹp đó cũng đòi hỏi nơi người Kitô hữu chúng ta “đem Tin mừng cho người nghèo khó”.
Thế giới mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu tình thương.
Con người cần cơm bánh để sống, nhưng con người cũng cần tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống, vì ai sống trong tình yêu người ấy sống trong Thiên Chúa. (Trích “Tất cả là hồng ân”).
4. Vì hạnh phúc tha nhân
Truyện cổ Trung Hoa kể lại: Hai nước kia định giao chiến với nhau. Quân đội đôi bên đã đặt trong tình thế ứng chiến. Cả hai nước đều cho người đi trinh thám để tìm địa điểm tấn công thuận lợi nhất. Thế là chiến tranh xem ra không thể tránh.
Sau một thời gian quan sát kỹ lưỡng, đội trinh sát đôi bên đều về trình lên thượng cấp:
“Có một địa điểm nằm trên khu vực thuận lợi cho cuộc tấn công. Nhưng ngay tại địa điểm đó có một gia đình sinh sống, gồm hai vợ chồng và đàn con thơ đang sống đầm ấm hạnh phúc trong một mái nhà tranh xiêu vẹo. Chúng tôi đã tìm cách tiếp xúc với gia đình này. Họ là những người rất chân chất làm ăn và rất hiếu khách. Họ tha thiết được sống yên ổn trong mái chòi tranh nhỏ bé của họ. Nếu chúng ta tấn công vào đất địch, buộc lòng chúng ta phải tiêu hủy căn nhà của họ và sát hại chính họ nữa; như thế là chúng ta cướp mất hạnh phúc của họ. Chúng ta nghĩ rằng cuộc tấn công không thể diễn ra được”. Nghe xong báo cáo, bộ tổng tham mưu hai nước đều thấy hợp lý, nên chiến tranh đã không xảy ra.
*****
Chỉ vì hạnh phúc của một gia đình mà chiến tranh đã không diễn ra giữa hai nước. Nếu ai hành động vì hạnh phúc của người khác, nhất là những người bé nhỏ bất hạnh thì chiến tranh đã không xảy ra giữa người với người. Tận trong thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng muốn người khác mang lại cho mình hạnh phúc, nhưng người ta quên rằng: Hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi chúng ta biết tạo hạnh phúc cho người khác.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta được Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến đem hạnh phúc cho ta, nhất là cho những “kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức!!!” Còn chúng ta, chúng ta có biết đem hạnh phúc niềm vui cho anh chị em chúng ta không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui Chúa ban cho đồng bào đồng loại chúng ta chăng? Hay chúng ta ích kỷ giữ riêng cho chúng ta?
Trong cái nhìn của đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không (free) của Chúa, tất cả những gì chúng ta làm được cho đến đức tin đều phát xuất từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì nhận lãnh nhưng không (free) mà chúng ta cũng được mời gọi để trao ban nhưng không(free). Nếu chúng ta biết trao ban những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ được hạnh phúc, như Lời Người hứa; “Các con cho bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy, và đã dằn đã lắc…” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).
5. Nghe bằng ba lỗ tai
Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần tấn phong để loan báo Tin mừng cho chúng ta.
Chúng ta cần phải nghe Lời Chúa bằng ba cách: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của tâm hồn.
Nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm trí là gì? Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, làm cho lời đó sống động như chúng ta đang nghe chính Chúa nói với chúng ta.
Thánh Inhatiô Loyola thường nghe Lời Chúa bằng cách này. Ngài nhắm mắt lại và tưởng tưởng như mình đang ở trong hội đường Do thái xưa nghe chính Chúa nói.
Lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim, và cố gắng áp dụng lời đó vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta như Charlic Pitts. Ông là chủ công ty xây dựng ở Toronto, Canađa. Ông càng làm ăn phát đạt thì cá nhân và gia đình ông càng bê bối sa đọa. Ông phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ ông đọc thấy: “Kẻ nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì nào có ích lợi gì” (Lc.9,25). Ông ghi khắc lời đó vào trái tim và suy nghĩ xem phải áp dụng lời đó vào hoàn cảnh của ông thế nào.
Và nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm hồn là xin Chúa hướng dẫn phải làm gì theo Lời Chúa, như Charlie Pitts làm sau đây. Sau khi cầu nguyện, ông bàn luận với vợ con rồi bán công ty, lấy tiền mua một khách sạn, lợi tức của việc kinh doanh này ông dùng để giúp công cuộc truyền giáo.
Bởi thế, mỗi khi sắp nghe Linh mục đọc Tin mừng trong Thánh lễ, mỗi người Kitô hữu chúng ta làm dấu thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực: làm dấu thánh giá trên trán có ý xin cho chúng ta hiểu được Lời Chúa; làm dấu thánh giá trên miệng để xin cho chúng ta biết nói Lời Chúa cho kẻ khác; làm dấu thánh giá trên ngực có ý xin Chúa cho chúng ta biết mến mộ Lời Chúa.
Như thế việc nghe Lời Chúa mới đem lại lợi ích cho chúng ta, gia đình chúng ta và tha nhân. (Theo “Sunday Homilies”).
* LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19)
* CHIA SẺ:
Có thể nói, cuộc sống luôn là một sự biến chuyển không ngừng. Có những sự kiện, biến cố xảy TN3-C126
Có thể nói, cuộc sống luôn là một sự biến chuyển không ngừng. Có những sự kiện, biến cố xảy ra, đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhiều người; nhưng cũng có những sự kiện, biến cố xảy ra làm cho cả thế giới phải lo âu, sợ sệt.
Ngày 29 tháng 6 năm 2014, những người Hồi giáo cực đoan đã thành lập nên nhà nước Hồi giáo tự xưng tại vùng đất Irắc, từ đó, họ đặt ra những luật lệ khắc nghiệt, tàn độc, họ tiến hành các cuộc đánh bom liều chết, những vụ khủng bố kinh hoàng khắp nơi trên thế giới … làm cho tình hình thế giới trở nên rối ren, sự hận thù lên đến đỉnh điểm.
Ngày 13 tháng 3 năm 2013 Khi Đức Thánh Cha Phanxicô được chọn làm giáo hoàng của giáo hội hòan vũ, với một con người gốc Á Căn Đình, có lẽ thế giới đang còn tranh luận tại sao Đức Bênêdictô 16 lại từ chức. Do Chúa muốn, từ đó đến giờ Đức Phanxicô đã mang lại cho giáo hội nhiều điều thay đổi, nhiều luồng gió mới của Chúa Thánh Thần hoạt động. Năm vừa qua tháng 9 đã đến đất nước Hoa Kỳ, có bài tại Hội đồng liên hiệp quốc, tại thủ đô của hoa kỳ, và nhất là có sự khuyến khích cho các gia đình nhân đại hội gia đình thế giới tại Philadelphia. Nhưng tháng 11 vừa qua 2015, ngài đến Trung Phi thật như một phép lạ, vì an ninh không bảo đảm và ba quốc gia rất nghèo, chính ngài đã mở cửa năm thánh lòng thương xót Chúa tại đây cho toàn khối trung phi để Chúa Thương xót an ủi họ. Đây là sinh khí của Chúa Thánh Thần rất mạnh cho giáo hội chúng ta, trong thời đại này.
Cách đây hơn 2000 năm, một con người đã đem đến cho nhân loại sự bình an, tình yêu và hạnh phúc tràn ngập – đó là Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đến để cho con người được sống và sống đời đời. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người sự sống đời đời.
Chỉ có những ai tin vào Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, tín thác vào Chúa Giêsu, những người đó mới được hưởng sự bình an và tình yêu viên mãn.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, con người chỉ nhận lãnh sự đau thương và chết chóc.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, chiến tranh, hận thù, khủng bố càng ngày càng gia tăng.
Chỉ có tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mới xóa đi sự hận thù, chia rẽ, chiến tranh đang tràn lan khắp nơi trên thế giới này.
* CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa! Xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
"Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin mừng cho người nghèo khó" (Lc 1, 18-19). Nhưng ai là người nghèo trước mặt Thiên Chúa?
Trang Website "Một Góc Trời" có mục "100 bức ảnh làm thay đổi thế giới". Có 2 bức ảnh làm TN3-C127
Trang Website "Một Góc Trời" có mục "100 bức ảnh làm thay đổi thế giới". Có 2 bức ảnh làm tôi xúc động đến ngậm ngùi. Bức ảnh thứ nhất đăng hình một bàn tay bé nhỏ, gân gốc, đen đủi, xấu xí của một người Uganda (mà tôi đoán là bàn tay của một bà lão) đưa ra và đặt lên một bàn tay trắng trẻo, mập tròn của một nhân viên cứu trợ đến làm việc ở đất nước này. Một hình ảnh thật xúc động làm sao! Bức ảnh đó làm tôi suy nghĩ đến thân phận của con người trước Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giơ tay ra nâng đỡ bàn tay đen đủi và khẳng khiu của con người.
Bức ảnh thứ hai chụp hình một đức bé khoảng 5 tuổi ở, trần truồng, ốm yếu ở Xuđăng (chỉ còn da bọc xương), đang đói lả nhưng vẫn cố bò về phía trại phân phát lương thực của Liên Hợp Quốc, cách đó khoảng 1km. Phía sau em là một con chim Kên Kên đang chờ đứa trẻ bị chết để nó có thể ăn thịt. Bức ảnh đã làm cho cả thế giới bàng hoàng. Không ai biết điều gì xảy ra với em bé, kể cả nhà nhiếp ảnh Kevin Carter, người đã rời ngay khỏi hiện trường sau khi chụp. Người ta cũng nói rằng ba tháng sau, Kevin đã tự sát.
Hai hình ảnh vừa kể cho chúng ta thấy rõ thực tế rất đáng buồn trên thế giới ngày nay là tình trạng nghèo khổ của hơn 1 tỷ người không có thức ăn hàng ngày, đặc biệt là ở các nước Châu Phi, chiến tranh và thiên tai nặng nề. Cái nghèo đói về mặt thân xác đã làm cho con người ta khổ đau đến thế. Người nghèo được Chúa Giêsu giải thích còn là những kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức... họ đang mong được thoát khỏi tình trạng ấy. Cho nên, Tin mừng của Chúa Giêsu mang đến cho họ quả là tin vui và tin mừng trọng đại.
Nhưng nếu người nghèo chỉ là những người nghèo về cơm bánh, những người bị giam cầm, bị mù loà, bị áp bức mà thôi, thì có lẽ đa số chúng ta đang ngồi đây không thuộc về hạng người đó. Vậy thì việc Chúa nói "loan Tin Mừng cho người nghèo khó" xem ra không liên hệ gì đến chúng ta rồi! Nhưng tinh thần của Tin Mừng hôm nay còn vượt xa phạm vi ấy rất nhiều. Theo nghĩa đen, thì chúng ta có thể là những người không bị giam cần, không bị mù loà, không bị áp bức về thể xác. Nhưng xét cho cùng, ai trong chúng ta mà không khổ sở thiếu thốn về một thứ gì đó: hoặc là vật chất hoặc là tinh thần. Ai trong chúng ta mà không bị "giam cầm" bởi một thứ "tù ngục" nào đó. Trong thực tế, chúng ta thấy có những kiểu nhà tù không chấn song, nhưng đã giam hảm con người trong đó. Có người bị "giam cầm" bởi những đam mê về tình, tiền hay tửu (rượu). Trong thực tế, ai trong chúng ta lại không bị "mù" một cách nào đó trước những vấn đề của cuộc sống: "mù" về nhận thức (không nhìn thấy chân lý), "mù" trong những chọn lựa (nhất là tình yêu mù quáng), "mù" trong cách hành xử đối với nhau...Cách đây 3 ngày, có một chuyện gây náo động cả thành phố Huế. Đó là câu chuyện liên quan đến anh chàng tên Minh, đang là một quân nhân phục vụ trong sư đoàn 968 đóng quân tại Cam Lộ, Quảng trị. Vì nghĩ rằng bị gia đình người yêu (đã đính hôn) ở thành phố Huế khinh thường vì mình nghèo, nên đã lén lấy súng của đơn vị đi tìm người yêu để nói chuyện. Vì được báo trước nên người yêu kịp lánh mặt, nhưng không may cho một cô nữ sinh đang học lớp 10 tình cờ bị hắn bắt làm con tin và đem vào một Khách Sạn ở Huế. Sau gần một đêm không ngủ của người dân cả khu vực gần đó và một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, cuối cùng anh chàng Minh ấy đã bị trúng hơi cay của cảnh sát nghiệp vụ (cả cô gái nữ sinh cũng bị) và đã bị bắt. Đó là một thứ "mù quáng" trong những chọn lựa và hành động của con người!
Cũng vậy, ai trong chúng ta lại không bị "áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó trong thế gian này. Đến như thánh Phaolô mà còn phải nhìn nhận rằng: "điều tôi muốn làm thì tôi không làm, điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm". Đó lại không phải là mình đang bị "áp bức" bởi dục vọng thấp hèn đó sao?!... Vì thế, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho trần gian và rao giảng là Tin Mừng dành cho tất cả mọi người, trong đó có chúng ta. Tin mừng có sức mạnh giải thoát, cứu sống và ban niềm vui cũng như hạnh phúc đích thực cho con người. Tuy nhiên, Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo chỉ có hiệu quả đối đích thực đối với những ai ý thức về thân phận của mình là người nghèo, những người cần được Thiên Chúa cứu giúp.
Vậy chúng ta hãy xét lại xem mình là người thế nào trước mặt Thiên Chúa. Nếu thấy mình là "người nghèo" của Thiên Chúa, thì chúng ta hãy nhanh chóng chạy đến với Chúa và mở lòng mình ra đón nhận Tin mừng cứu độ của Ngài, vui vẻ sống theo những gì mà Chúa chỉ dạy để chúng ta là những người hạnh phúc ngay ở trần gian này: "Phúc cho những ai biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa". Amen.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”(Lc 4,18-19).
Sau khi đọc xong lời Kinh Thánh trên đây tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng TN3-C128
Sau khi đọc xong lời Kinh Thánh trên đây tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các người vừa nghe”(Lc 4,21). Vâng, đó chính là sứ mạng của Ngài. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã chu toàn trọn vẹn sứ mạng cao cả đó. Trước khi về trời, Ngài đã trao sứ mạng đó cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15. Vậy, chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ mạng đó?
1. Đọc và suy gẫm Lời Chúa
Để loan báo về Đức Kitô thì trước hết phải biết về Ngài. Muốn biết về Đức Kitô một cách chính xác cần phải biết Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Để biết về Kinh Thánh, cần phải đọc Kinh Thánh dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội và sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Để hiểu ý nghĩa từng câu, từng đoạn trong Kinh Thánh cần phải liên kết nó với toàn bộ Kinh Thánh. Kinh Thánh là Lời Chúa. Lời Chúa là chính Chúa. Bởi vậy, cần phải đọc Kinh Thánh với một thái độ tôn kính và yêu mến. Chúng ta thường thấy ở phần cung thánh của nhiều thánh đường đã thiết kế hai nhà tạm: Một bên để Lời Chúa và bên kia là Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể ngang hàng với nhau.
Trong bài đọc I, khi Esdras đọc Lời Chúa: Tất cả dân chúng đều lắng nghe ông đọc sách luật; tất cả đều đứng lên; toàn dân cảm động đến muốn khóc (x. Bài đọc I). Trong bài Tin Mừng, Thánh Luca tường thuật lại: Chúa Giêsu đứng dậy đọc Sách Thánh. Đọc xong, Ngài gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống(x. Lc 4,20). Tất cả các cụm từ: Lắng nghe, đứng lên, cảm động, gấp sách lại…Là những thái độ thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa. Cũng vì để thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa, Giáo hội có thói quen đứng dậy khi đọc Lời Chúa, đặc biệt là đọc Tin Mừng. Sau bài Tin Mừng trong thánh lễ, các linh mục hôn kính Sách Thánh.
Để nhằm mục đích cho con cái được đọc và nghe Lời Chúa thường xuyên, trong các ngày thường quanh năm, ngoài bài Tin Mừng ra, Giáo hội sắp xếp các bài đọc trong thánh lễ thành năm chẵn, năm lẽ. Trong các ngày Chúa nhật, ngoài bài đọc I và II, Bài Tin Mừng được sắp xếp theo chu kỳ A,B,C. Ngoài ra, Giáo Hội còn đưa các bài đọc vào các Giờ Kinh Phụng Vụ. Giáo Hội còn khuyến khích các gia đình đọc Lời Chúa trong các giờ kinh tối sáng. Giáo hội còn mong muốn con cái của mình đọc một đoạn Lời Chúa: Trước các buổi sinh hoạt của các tổ liên gia hay trong các cuộc hội họp của hội đoàn, đặc biệt là tại các buổi chia sẻ Lời Chúa…Giáo Hội làm hết sức mình để mỗi người có thể tiếp xúc với Lời Chúa, đọc và suy gẫm Lời Chúa hằng ngày. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần phải dành nhiều thời gian để đọc và suy gẫm Lời Chúa như Giáo Hội mong muốn.
2. Phổ biến Lời Chúa
Khi đã đọc và suy gẫm Lời Chúa, người Kitô hữu chúng ta còn cần phải tìm cách phổ biến Lời Chúa cho những người khác. Thánh Phaolô nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Đối tượng để chúng ta phổ biến Lời Chúa là hết thảy mọi người.
Trước hết, phải phổ biến Lời Chúa cho những người thân trong gia đình. Mỗi thành viên trong gia đình có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho nhau. Đặc biệt, cha mẹ có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho con cái. Nhiều cha mẹ thường đưa những kinh nghiệm rút ra từ các câu ca dao, tục ngữ để dạy con cái. Điều đó rất tốt. Nhưng sẽ tốt hơn, nếu cha mẹ biết vận dụng những câu Kinh Thánh, những câu chuyện được rút ta từ Kinh Thánh để dạy cho con cái mình. Để làm tốt điều đó, mỗi gia đình cần có ít nhất là một cuốn Kinh Thánh.
Thứ đến, chúng ta có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại câu Lời Chúa "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16,26a). Nhờ thế, Ngài đã thuyết phục được chàng trai trẻ là Phanxicô Xaviê từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để trở thành vị Tông đồ đem Tin Mừng cho người Á Đông. Theo gương Thánh Ignatiô, chúng ta có thể tặng cho bạn bè, tặng cho anh em lương dân, những người chúng ta gặp gỡ các câu Lời Chúa, sách Kinh Thánh. Và nếu có thể, hãy dạy giáo lý cho họ khi có cơ hội. Thánh Phanxicô viết cho Thánh Ignatiô từ Viễn Đông rằng: “Khi tôi đến các làng, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho một kinh…Tôi đã bắt đầu dạy cho chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy cho chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng”(x. Bài đọc 2, Kinh Sách ngày 3/12).
Thứ ba, hãy phổ biến Lời Chúa qua các phương tiện truyền thông đại chúng: Internet; sách báo... Hiện nay, hầu hết các Giáo Phận, các Dòng Tu và nhiều Giáo Xứ có trang Web riêng. Đa số các trang web đó đều phổ biến Lời Chúa và các bài suy niệm Lời Chúa hằng ngày. Ngoài ra, trên các trang mạng xã hội, có rất nhiều cộng đoàn, cá nhân đăng tải các bài Lời Chúa, các câu Lời Chúa, các bài suy niệm…Thiết nghĩ, đó là cách phổ biến Lời Chúa rất hữu dụng. Đành rằng, phương tiện nào cũng có hai mặt: Mặt phải và mặt trái; mặt tốt và mặt xấu. Đừng vì mặt trái, mặt xấu mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội để phát huy mặt tốt. Trong mảnh ruộng đầy cỏ gú, cách tốt nhất để diệt chúng là trồng thế vào đó những cây giống tốt.
Ngoài ra, chúng ta có thể phổ biến Lời Chúa bằng nhiều cách khác nữa, tuỳ vào hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta. Tôi thấy nhiều nhà thờ có chương trình hái lộc Thánh Lời Chúa trong đêm giao thừa hay trong ngày mùng một tết. Mỗi gia đình cử một đại diện lên hái lộc Lời Chúa, câu Lời Chúa hái được là châm ngôn sống của cả gia đình mình trong năm mới. Đó là cách làm rất có ý nghĩa.
3. Thực hành Lời Chúa
Sau khi đọc sách tiên tri Isaia(x. Is 61,1-2). Chúa Giêsu dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”(x.Lc 1,21). Chúa Giêsu không những tuyên bố mà Ngài còn thực hiện trọn vẹn lời tiên báo của tiên tri Isaia: Ngài đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng; giải thoát cho những kẻ bị giam cầm trong tội; trả tự do cho kẻ bị áp bức; chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền... Chúng ta cũng vậy, không chỉ đọc, suy gẫm và phổ biến Lời Chúa mà còn cần phải thực hành Lời Chúa, nghĩa là sống chứng nhân Tin Mừng. Đây là cách loan báo Tin Mừng có sức thuyết phục nhất. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người thời nay thích lắng nghe các chứng nhân hơn là nghe những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy thì bởi vì những thầy dạy ấy là các chứng nhân”. Có nhiều cách sống chứng nhân Tin Mừng, nhưng thiết nghĩ cách tốt nhất là sống hiệp nhất yêu thương: Sự hiệp nhất yêu thương đó đã được Thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bài đọc II, Ngài nói: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.
Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất”(1Cr 12, 12-13). Đức Kitô là thân nho, mỗi thành phần trong Giáo hội là những cành nho. Cành nho phải liên kết với thân nho (x. Ga 15,1-8). Mặc dầu mỗi thành phần trong Giáo hội khác nhau về tiếng nói, màu da, chủng tộc… Nhưng đều là chi thể trong một thân thể là Đức Kitô. Vì vậy, cần phải liên kết với nhau, cần phải hiệp nhất yêu thương nhau. Hiệp nhất yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, trong các cộng đoàn và trong toàn thể Giáo Hội. Các Kitô hữu đầu tiên đã sống hiệp nhất yêu thương khi tất cả các tín hữu chỉ có một lòng một ý, và để mọi sự làm của chung (x. Cv 2,44). Khi đạo Công Giáo mới du nhập vào nước ta, người ngoại giáo chưa biết gọi tên đạo chúng ta là gì, nhưng họ nhìn thấy các kitô hữu sống hiệp nhất yêu thương nhau nên họ gọi đạo chúng ta là đạo yêu thương. Cho nên, có thể nói “Yêu Thương” là tên gọi khác của đạo Công Giáo. Xin cho mọi người kitô hữu chúng ta biết sống hiệp nhất yêu thương để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, như Chúa Giêsu đã từng nói:“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xưa Chúa đã hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trước khi về trời, Chúa đã trao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng đó bằng cách siêng năng đọc, phổ biến và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Chúa đầy lòng yêu thương, một thính giả TN3-C129
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Chúa đầy lòng yêu thương, một thính giả không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:
Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Ngài nhắm mắt làm ngơ trước cảnh biết bao nhiêu người nghèo khổ, tuyệt vọng, mất phương hướng phải sống trong sầu đau mà không ban cho họ một tin mừng, một tia hy vọng?
Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Cha nhân ái khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù vật chất, trong sự trói buộc của các đam mê mà Ngài không ra tay giải thoát?
Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Ngài để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.
Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm sao Chúa không giải thoát họ?
Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, ông chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của đêm trường:
– Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?
– Ngài ra tay lúc nào đâu? Ngài đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?
– Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?
Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Ngài hành động, Ngài thực hiện mọi việc qua chúng ta. Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Ngài cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thiếu nhi nên tốt thì Ngài cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.
Xưa kia Thiên Chúa Cha đã nhờ đến Chúa Giê-su để đem Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức thế nào, thì hôm nay, Ngài cũng cần đến chúng ta để thực hiện những công việc đó.
Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chúng ta chấp nhận ở lại trong nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Ngài để tiếp tục sứ mạng của Ngài, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Ngài sử dụng và sai khiến.
Tờ Times, một tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Cuối năm 2006 vừa qua, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là… “Bạn” (You). Tức là mỗi một người trong quý ông bà anh chị em. Đúng vậy, đó không phải là chuỵên đùa. Mỗi người trong chúng ta làm nên lịch sử. Thế giới nầy có được đổi mới, có được tiến bộ hay không cũng là nhờ sự cộng tác của từng người, của mỗi một người trong cộng đồng nhân loại.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ như thế đó.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy đó.
Hãy nhận ra rằng mình là chi thể của Chúa, là khí cụ cứu rỗi của Ngài. Hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình của Chúa.
Điều chính yếu và quan trọng là chúng ta hãy hiến dâng đời mình cho Chúa, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, nầy con đây, xin hãy sai con.
Một khi chúng ta đã hành động theo lời sách tiên tri Isaia hôm nay, để cho “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức”…, chúng ta có thể mãn nguyện và nói như Chúa Giê-su hôm xưa rằng: “hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe”.
Vào năm 1969, Dòng Chúa Cứu Thế có chương trình truyền giáo tại Miền Thượng của các tỉnh TN3-C130
Vào năm 1969, Dòng Chúa Cứu Thế có chương trình truyền giáo tại Miền Thượng của các tỉnh Cao Nguyên - Việt Nam.
Vì thế, một số linh mục đã khởi hành từ Sài Gòn, các ngài tiến về Tòa Giám Mục Kontum theo đường quốc lộ 14. Khi đến nơi, các cha chào thăm đức giám mục Paul Léon Seitz Kim và bày tỏ ước nguyện muốn dấn thân cho vùng truyền giáo nơi đây. Đức giám mục vui mừng đón nhận tâm nguyện cao quý của các cha. Sau khi trò chuyện thân tình, ngài dẫn các thừa sai đi trên một chiếc xe tới vùng truyền giáo. Đến nơi, đức cha đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 10, 1-11 nói về việc Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Đọc xong, ngài làm dấu 4 hướng và chỉ cho các cha thấy vùng đất rộng lớn, mênh mông, bao la và chính thức sai các ngài đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em dân tộc nơi đây (x. Thường huấn các bề trên liên Dòng mến Thánh Giá 2015).
Sau gần 20 năm, Chúa đã ân thưởng bằng việc ban cho các ngài một mùa lúa bội thu với cả ngàn người xin theo đạo.
Nhờ đời sống gương sáng, nhất là lòng thương yêu người nghèo, giúp đỡ người cô thế cô thân, bênh cực người bị áp bức... nên những anh chị em dân tộc nơi núi rừng Tây Nguyên này đã nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu và tin theo.
1. Sứ mạng của Đức Giêsu
Hôm nay, thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta biết: nhân dịp thuận tiện, Đức Giêsu trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình để thăm quê hương. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giêsu rất yêu mến, quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Cha của mình. Bởi vậy, Ngài thường xuất hiện nơi đây vào những ngày Sabát để tham dự giờ Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này, Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vào Hội Đường trong tư cách là Đấng Mêsia và chính thức công bố chương trình hoạt động, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Ngài nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Tất cả những gì Đức Giêsu đọc thấy trong Sách Thánh hôm nay thì đã được tiên tri Isaia loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế: “Hôm nay ứng nghiệm nơi Ngài”.
Ứng nghiệm, bởi vì: Đức Giêsu được chính Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong, trở thành Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài là vị lãnh đạo tôn giáo, đến để giải thoát con người cách toàn diện cả tâm linh lẫn thể xác, cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo, đó là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23).
Về tâm linh, Đức Giêsu đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại sự tự do trong ân sủng. Vì thế, thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13).
Về mặt thể xác, Đức Giêsu đứng về phía người nghèo để yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ khỏi bị tấn công bởi sự bất nhân, ích kỷ của con người và loan báo cho họ biết gia tài, kho báu, niềm vui và hạnh phúc đích thực của họ ở nơi Thiên Chúa.
Về mặt xã hội, Ngài đến để thiết lập triều đại mới, triều đại của ân sủng và tình thương, của công lý và sự thật, đồng thời mời gọi mọi người hãy sáp nhập vào nước đó để được tự do và được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
2. Sứ mạng của Giáo Hội
Sứ mạng ấy không chỉ dừng lại nơi Đức Giêsu, mà: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian”(Ga 17,18); và: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thật vậy, “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14). Vì thế: “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Gioan Phao lô II, Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, năm 1994, số 57). Đây là nguồn gốc, căn nguyên và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội. Giáo Hội không thể đứng nhìn và an tâm bởi những gì đã đạt được, nhưng Giáo Hội luôn luôn mang trong mình mọi thành phần, để cũng cùng một sứ vụ như Đức Giêsu, đó là: giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại một nền hòa bình trong công lý và tình thương, xây dựng một xã hội mang đậm dấu ấn yêu thương, bác ái.
Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mạng còn cấp bách; bao lâu còn gian dối lọc lừa, Giáo Hội có trách nhiệm lên tiếng và thanh tẩy để nó trong sáng hơn; bao lâu con người còn thất vọng, Giáo Hội sẽ loan báo và trả lời những chất vấn về niềm hy vọng của nhân loại hôm nay (x. 1 Pr 3, 15).
Nếu Giáo Hội không lựa chọn người nghèo, không tiến ra chỗ nước sâu mà thả lưới, không vượt ra khỏi vỏ bọc an thân để đi đến những vùng ngoại vi, thì Giáo Hội vẫn chỉ trơ trơ như một cái máy, hay như con rô bốt không hồn!
Nếu Giáo Hội không lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ như Đức Giêsu, thì một lúc nào đó, nhân loại sẽ không cần đến Giáo Hội vì Giáo Hội chỉ là một thể chế công chức xã hội thuần túy. Và, lẽ đương nhiên, nhân loại không còn tin tưởng Giáo Hội nữa, vì đã thất trung, bội ước với Đấng sáng lập nên mình!
Thật vậy, Giáo Hội sẽ mất đi bản chất nếu không rập đời sống và hoạt động của mình theo khuôn mẫu của Thầy Giêsu. Bởi lẽ: “Nếu Giáo Hội chỉ đi với kẻ có quyền, người ta sợ; chỉ đi với người giàu có, người ta khinh bỉ; nhưng đi với người nghèo thì được cả hai đối tượng trên và được tất cả mọi sự”.
3. Sứ mạng của chúng ta
Từ sứ mạng của Đức Giêsu, rồi đến sứ mạng của Giáo Hội và tới sứ mạng của mỗi chúng ta như một mạch liền lạc không thể tách rời. Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra, đó là: làm tông đồ bằng cách thế nào? Đức Phaolô VI đã vạch ra cho chúng ta một tiêu chuẩn để làm chứng cho Chúa, đó là: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn thầy dạy, bởi vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”.
Lời nhắn nhủ của đức giám mục trong thánh lễ phong chức linh mục muốn nhắc cho các mục tử về vai trò chứng tá. Tuy nhiên, lời nhắn gửi này có thể hiểu rộng cho mỗi người Kitô hữu, vì theo nghĩa phổ quát, mỗi chúng ta đều là mục tử vì được tham dự vào chức Tư Tế của Đức Giêsu ngày lãnh Bí tích Rửa Tội. Ngài khuyên: các con “hãy tin vào điều con đọc. Hãy giảng điều con tin. Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Mong sao lời đó sẽ được mỗi người suy đi và nghĩ lại trong lòng, để trở nên chứng tá của tình yêu Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!
Được như thế, Thiên Đàng không chỉ tại Thiên mà đã ở giữa nhân loại ngay trong giây phút hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức được sứ mạng của mình, đồng thời, biết noi gương Chúa để loan báo Tin Mừng cho con người cách toàn diện, ngõ hầu nhân loại này được an vui, hạnh phúc và bình an khi sđược sống trong tình yêu, công lý và sự thật. Amen.
Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thần Khí thúc đẩy, hướng dẫn, ngự TN3-C131
Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thần Khí thúc đẩy, hướng dẫn, ngự trị và tràn đầy quyền năng. Đây là một hành trình, là thời gian đặc biệt cho một cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Đây là thời gian hồng ân của Chúa cho nhân loại (Lc 4, 19), nhưng cũng là thời gian thách đố của con người trước Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo và mời gọi thực thi.
- Đây Là Thời Gian Hồng Ân vì là thời Thiên Chúa trực tiếp gặp gỡ con người qua Đức Giêsu Kitô - Đấng được Xức Dầu và tràn đầy Thần Khí. Là lúc Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho con người, nhất là những người nghèo khó: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa"(Lc 4, 18-19). Đây có thể được gọi là tuyên ngôn cứu thế của Chúa Giêsu. Với những từ ngữ, những cử chỉ, những việc làm cụ thể và sự đón tiếp của Chúa Giêsu với những người nhỏ bé nghèo hèn, những người bị tước đoạt tự do, họ đang bị giam cầm trong nhiều hình thức, những người mù không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và muôn tạo vật, những người đang đau khổ vì bất công, những người đang bị gạt ra lề của tôn giáo và xã hội, những người tội lỗi đang sống với tâm hồn tan nát... và Người mở lòng cho tất cả những ai khốn cùng.
Chúa Giêsu diễn tả lời của Thiên Chúa cách xác thực, nghe được, thấy được và hiện diện giữa con người. Người trở nên dấu chỉ tình yêu hữu hình của Chúa Cha cho nhân loại. Người hiến thân cho Tin Mừng mà Người vừa công bố và làm cho Tin Mừng ấy hiện thực để con người có thể mắt thấy tai nghe và hưởng tràn trề hồng ân cứu độ của Thiên Chúa "Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng..."(Lc 7, 22-23).
Bằng lời giảng dạy, qua lối sống và những hành động cụ thể, Chúa Giêsu mạc khải và thể hiện tình yêu của Người đối với nhân loại. Người xót thương thân phận con người hữu hạn và mong manh của chúng ta nên Người biểu lộ lòng thương xót đặc biệt cho những ai đau khổ, bất hạnh, tội lỗi. Và tình yêu thương xót ấy không chỉ là Lời chúng ta nghe nhưng là việc làm trên đôi tay của Chúa Giêsu mà chúng ta có thể thấy, chứng nghiệm vì: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe."(Lc 4, 21) Lời ứng nghiệm trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu và đỉnh cao là cái chết và sự phục sinh của Người để giải thoát, để cứu nhân loại cách trọn vẹn.
- Thế Nhưng Đây Cũng Là Thời Gian Thách Đố Của Chúng Ta, vì đứng trước tình yêu thương của Thiên Chúa và Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo, chúng ta không chỉ lãnh nhận, nghe, thấy nhưng Người đòi hỏi chúng ta phải để cho tình yêu và Tin Mừng hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Sứ mạng của Chúa được tiếp nối nơi chính chúng ta là những Kitô hữu, như lời nhắn nhủ của ĐTC Phanxicô: "Ước gì những lời Chúa Giêsu công bố sẽ được trở nên tái rõ ràng trong việc đáp trả phát xuất từ đức tin, cũng như trong chứng tá đời sống mà tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để cho đi."(Trích Tông Sắc Misericordiae Vultus số 16)
Chúa Giêsu đã trở nên mẫu gương cho chúng ta bằng những việc làm cụ thể biểu lộ tình yêu và Người mời gọi chúng ta là những môn sinh của Người đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy trao ban cách nhưng không. Người đã từng mời gọi các môn đệ "Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi."(Mc 6, 37) Hãy yêu thương bởi vì đó là huấn lệnh của Chúa và là giới luật cốt yếu của Tin Mừng. Chúng ta là chi thể của thân thể Chúa Kitô, mỗi người có trách nhiệm và bổn phận yêu thương, nâng đỡ những chi thể khác như lời thánh Phaolô khuyên:"Vậy anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau."(1Cr 12, 27.25) Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa, mang đến cho người nghèo một cử chỉ ủi an, nâng đỡ và trao lại ánh nhìn tin yêu hy vọng cho những ai thất vọng sầu khổ...Hãy họa lại khuôn mặt của Chúa Kitô, hãy đặt Lời của Người trên bàn tay của chúng ta và hãy để Thần Khí hướng dẫn chúng ta trong từng việc phục vụ, trong từng nhịp sống bác ái xót thương.
Nguyện xin Chúa Giêsu- Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa ở cùng chúng con và xin ban tràn đầy quyền năng Thánh Thần, giúp chúng con biết đem Tin Mừng thực thi cách thiết thực trong cuộc sống chúng con. Amen.
Tại Hội Đường quê nhà, hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố lời tiên báo cúa sứ ngôn Isaia: “Thần khí TN3-C132
Tại Hội Đường quê nhà, hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố lời tiên báo cúa sứ ngôn Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài chính là Đấng Kitô đem Loan báo và đem Tin Mừng Cứu độ cho dân tộc cho muôn dân.
Cụ thể hơn, Chúa Giêsu sau một thời gian đi Rao giảng Tin Mừng Ngài nổi tiếng khắp nơi. Hôm nay Người trở về quên hương Nararet, vào Hội trường quen thuộc, nơi mà những năm sống ẩn dật Chúa vẫn thường đến, nhất là Ngày xa bát để như mọi người Do Thái đạo đức khác để tôn thờ và nghe Lời Chúa. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức, Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia được Thánh Thân Chúa tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia. (x.HGNM)
Sau khi công bố lời Sứ ngôn Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tơi, vì Ngà xức dầu cho tơi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Ngay sau đó, Chúa Giêsu công bố: Lời sứ ngôn trên đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Trong Chúa Thánh Thần Chúa Giêsu đã hoàn thành viên mãn sứ vụ Loan báo Tin Mừng cứu độ mà chính ngài là Tin Mừng Cứu độ.
Điểm độc đáo, công cuộc Công bố Tin Mừng Cứu độ Chúa Giêsu không chỉ cho riêng Ngài. Ngài ủy quyền cho Giáo hội và không ngừng mời Giáo hội tiếp tục thực thi công cuộc Loan báo Tin Mừng mang tính bản chất của Giáo hội.
Quả thế, Chúa Giêsu ngay sau khi Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ để tiếp tục sứ vụ Loan báo Tin Mừng Cứu độ đến với muôn dân, cho đến ngày tận thế. Đấng Phục Sinh nói: ‘Như Cha đã sai Thầy Thầy cũng sai anh em… Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 21, 21-23)
Tuy nhiên, chỉ khi nhận ơn Chúa Thánh Thần trong biến cố Ngũ Tuần Giáo hội mới chính thức khai mạc sứ vụ Loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Thật vậy, khi nhận viên mãn ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ, các Kitô hữu tiên khởi của Giáo hội sơ khai đã hăng say, can đảm dấn thân phục vụ cho công cuộc Truyền giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, không sợ gian khó, chẳng ngại hiểm nguy, ngay cả tính mạng cũng chẳng nề. Thậm chí, các ngại có kinh nghiệm sống động: “Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng’…
Nhờ Bí tích Rửa Tội mỗi chúng ta đã được Thánh hiến cho Chúa Giêsu, trở thành chi thể của Chúa Giêsu. Thánh Phaolo trong bài đọc 2 đã khẳng định rõ điều đó. Thánh nhân quả quyết Mỗi Kitô hữu là thân thể, là chi thể của Chúa Giêsu.
Trong Giáo hội Hiệp thông và Sứ vụ, là chi thể của Chúa Giêsu vấn đề trong Chúa Thánh Thần ta có tiếp tục Công cuộc loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu không; có để Chúa Thánh Thần biến đổi để như Chúa Giêsu tích cực sống đời chứng nhân Tin Mừng…
Nói cách khác,
Trong sức mạnh Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu quả quyết: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe"
Đây chính là điều đáng để mỗi chúng ta nghiệm xét.
Tôi là chi thể- thân thể Chúa Giêsu, vậy ta có tiếp tục để cho Lời Chúa ứng nghiệm trong đời sống mình hay chưa?
Ta có là dấu chỉ, là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu hay chưa?.
Chủ để sống Năm thánh của Giáo phận: ‘Sống và Loan báo Lòng thương xót của Chúa’ có hiện tại hóa trong lời nói việc làm của mình hay chưa?.
Ngày 25.01 tới, giáo xứ chúng ta có niềm vui Hồng ân được Đức cha Giuse về làm phép nhà Giáo lý, nhất là Ban Bí tích Thêm Sức cho hàng trăm con em chúng ta.
Khi cử hành Bí tích Thêm Sức, Mẹ Giáo hội hiện tại hóa Ngày lễ Ngũ Tuần xin Chúa Ban Chúa Thánh Thần cho các thụ nhân để kiện toàn ơn Bí tích Rửa Tội. Để chứng thực và giúp trở thành chiến sĩ Loan báo Tin Mừng, can đảm sống Đức tin.
Đấy cũng là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại Bí tích Thêm Sức mà mình đã lãnh nhận, xem mình có để Chúa Thánh Thần giúp sống Đức tin, để Lời Chúa ừng nghiệm nơi đời sống mình hay chưa.
Bài đọc 1 trích sách Nơ- khê-mi-a cho ta hình ảnh đáng suy nghĩ. Dân Do Thái, cách đây hơn 2500 năm, sau nhiều năm lưu đầy, lần dầu tiên toàn thể dân Chúa đã được quy tụ tại quảng trường để nghe kinh sư Ét-ra, thống đóc Nơ-khơ-mi-a và các thầy Lêvi giải thích Lời Chúa. Khi nghe Lời Chúa, dân đã ăn năn khóc lóc, phủ phục thờ lạy Đức Chúa [1].
Họ đã để cho Lời Chúa đụng chạm đến đời mình, còn chúng ta, mang danh là Kitô hữu – là thân thể- chi thể của Chúa Giêsu có để Lời Chúa đụng chạm đến con tim mình chưa!
Quả là rất buồn, khi nghe đây đó trong chúng ta, giữa chúng ta còn những hiềm khích, đố kỵ, gian tham, nghi ngờ làm hại nhau…. Chỉ vì vài trăm ngàn ta sẵn sàng xâm hại đến phẩm giá người khác, chà đạp tín uy, xúc phạm đến tình người… Nhiều khi ta sống còn tệ hơn những người chưa biết Chúa. Không đâu xa, đôi khi là hàng xóm của nhau, anh chị em nhau, thậm chí ngay trong một gia đình.
Giáo hội đang trong tuần lễ cầu nguyện cho sự Hiệp nhất Giáo hội, liệu ta có ý thức để xây dựng gia đình hiệp nhất, công đoàn hiệp thông trong yêu thương; Giao hòa với Chúa gắn liền với giáo hòa anh chị em.
Xin Thánh Thần của Chúa Giêsu hãy đến và thúc đẩy mỗi chúng con ý thức, hăng say và can đảm dấn thân trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, biết Sống Và Loan Báo Lòng Thương Xót Của Chúa. --------------- [1] Lm Phaolo Nguyễn Văn Đông, Tin Mừng Chúa Nhật Năm C, tr.176
Ngày 10-12-1948. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con TN3-C133
Ngày 10-12-1948. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con người… đây là lần đầu tiên trong lịch nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền của con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến.
Thảm kịch chiến tranh cho nhân loại mỗi lúc hiểu rằng hòa bình chỉ có thật sự có khi con người biết tôn trọng những quyền lợi và tự do căn bản của con người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người ta cũng chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.
Thưa cộng đoàn, nếu bản tuyên ngôn ở trên được con người đặt ra để cử xử với nhau trong cuộc sống ở trần gian này, cho dù thế nào đi nữa nó vẫn có những bất toàn của nó. Thì trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã công bố “bản tuyên ngôn tình thương”, bản tuyên ngôn ấy vượt ra khỏi không gian và thời gian, và được thể hiện bằng thần khí, bằng sự thật, bằng cuộc sống, bằng tình yêu, bằng tình người và sẽ bằng chính máu – thập giá của Người
Trở lại với trình thuật Tin Mừng, chúng ta thấy thánh Mát Thêu diễn tả: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Thưa cộng đoàn, đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến trần gian và đi vào cuộc sống làm người chỉ trừ tội lỗi, vì vậy “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế ”.
Đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu là sợi chỉ nối kết giữa Cựu Ước và Tân Ước. Do đó Người đến không phải là để phá đổ những cái cũ nhưng là để kiện toàn và tạo cho nó một sinh khí mới.
Thưa cộng đoàn, qua bài đọc một chúng ta thấy rất rõ sách luật đã nói đến “hôm nay là ngày thánh hiến Đức Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc”
Đó cũng chính là điều đã ứng nghiệm rằng một viễn tượng hết sức tốt đẹp là sẽ có một đấng thiên sai đến với toàn dân, sẽ giải phóng họ thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực, khỏi cảnh bị áp bức bóc lột; vì thế “ hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em ”
Và vì vậy đã ứng nghiệm qua trình thuật Tin Mừng của thánh Mátthêu được Đức Giêsu công bố, chúng ta thấy “Bản tuyên ngôn tình thương” đã được ngôn sứ Isaia tiên báo trước đó năm thế kỷ là “Thần khí chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Nhưng để thực hiện, để mở ra bản tuyên ngôn này thì chỉ có Đức Giêsu là người duy nhất có chìa khóa mở ra.
Điểm cốt yếu của bản tuyên ngôn tình thương tại thủ phủ Nazaret được Đức Giêsu công bố ít nhiều đã làm xáo trộn trật tự sẵn có. Vì đối với não trạng của người Do Thái, đặc biệt của các thượng tế và kinh sư, thường coi những kẻ nghèo hèn, những kẻ khố rách áo ôm, những kẻ đui mù câm điếc… là do Thiên Chúa chúc dữ, do đó cần loại những kẻ ấy ra ngoài đời sống sinh hoạt của tôn giáo, của phụng tự, của xã hội. Thế mà một Đấng Thiên Sai lại đi rao giảng sự giải phóng cho những người ấy. Vâng thưa công đoàn, sao mà có thể chấp nhận cho được ! .
Nhưng đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến loan báo một thứ Tin Mừng khác hẳn, không phải là một thứ Tin Mừng chỉ dành riêng cho một dân tộc ưu tuyển nào, hay chỉ dành riêng cho các thượng tế và kinh sư, nhưng Đức Giêsu còn mang đến một thứ Tin Mừng cho những người đang sầu khổ, đui mù, câm điếc và những dân ngoại đang khao khát lời Chúa.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn được Đức Giêsu công bố, đã biến Đức Giêsu trở thành một vị Thiên Chúa ngôi vị, đã trở thành anh cả giữa một đàn em đông đúc mà qua bài đọc hai cho chúng ta thấy Đức Giêsu là Đầu, là Trưởng Tử, còn chúng ta là những thành phần được kết hợp với người, được thông phần với người vì chúng ta đã được đầy tràn một thần khí duy nhất.
Chính vì vậy Đức Giêsu đã sống đồng hành, sống cùng sống với thân phận của mỗi con người; lúc thì thủ thỉ như cha con, lúc thì chung chạ như anh em, lúc thì đồng bàn như bạn hữu.
Đức Giêsu không chỉ dừng lại đồng hành bên cạnh những thân phận ấy, nhưng Người nhận thấy nơi những con người bệnh tật, bần cùng đói khổ, tội lỗi ấy một giá trị mới, một phẩm giá mới; là được làm con Thiên Chúa. Một cách quyết liệt hơn nữa nói như tôn sư Eckhart “ Thiên Chúa xuống làm người để con người trở thành Thiên Chúa” là vậy.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn tình thương được Đức Giêsu công bố vẫn còn rất thời sự, vẫn còn rất nóng hổi đối với thế giới của chúng ta đang sống. Vậy mỗi người ki tô hữu chúng ta sẽ thực hành bản tuyên ngôn ấy như thế nào trong thế giới hôm nay?. Đây là vấn đề tôi cũng như các quý ông bà anh chị em phải suy nghĩ rất nhiều trước bối cảnh chúng ta đang sống.
Ắt hẳn cũng còn rất nhiều điều chưa ứng nghiệm là bởi vì qua thái độ sống của mỗi người chúng ta chưa thực hiện được qua bản tuyên ngôn của Đức Giêsu; Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa sống đúng với chứng tá là một ngôn sứ đến với những con người bất hạnh, và vẫn còn những thái độ tránh xa họ.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa mở rộng tấm lòng ra để đón nhận những nỗi đau của đồng loại, bởi vì chúng ta sợ không dám chia sẻ những gì chúng ta có như tinh thần và vật chất.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa công bố một sứ điệp Tin Mừng chân thật, sứ điệp Tin Mừng đó chính là thể hiện cách sống của chúng ta đối với những người bất hạnh.
Vâng, đúng vậy, khi chúng ta lãnh nhận bí tích thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào chức vụ tư tế, ngôn sứ, vương đế phổ quát của Đức Giêsu.
Cho nên mỗi ki tô hữu chúng ta cũng phải có trách nhiệm loan báo, công bố, và thực hiện bản tuyên ngôn đó; là loan báo niềm vui đến với những người đang khát khao lời Chúa biết rằng Thiên Chúa luôn luôn đón chờ, luôn dang rộng cánh tay để dìu dắt nâng đỡ, an ủi một khi trông cậy vào Người
Và công bố niềm hy vọng đối với những người tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật, đui mù câm điếc về cả tinh thần lẫn thể xác là Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống, và luôn luôn ôm trọn tất cả những tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật của mỗi người chúng ta bằng trái tim đầy thương yêu của Người và chữa lành những vết thương ấy qua Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta đón nhận mỗi ngày.
Chính vì vậy mỗi người chúng ta cầu xin Chúa luôn tăng thêm thần khí để dẫn dắt chúng ta dám sống, dám xả thân phục vụ và thực hiện bản tuyên ngôn tình thương mà Đức Giêsu đã trao lại là: mang Tin Mừng đến với mọi người, qua đó nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì chỉ có như vậy chúng con mới có thể thực hiện lời Người đã dạy “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Và cũng chỉ có như vậy thì “hôm nay sẽ ứng nghiệm lời kinh thánh” trong bối cảnh chúng ta đang sống và qua đó làm bật dậy sức sống mới trong từng tâm hồn mỗi người chúng ta. Amen.
Ngày nay trong y học, có rất nhiều chuyên khoa đến nỗi thân thể con người được chia ra làm TN3-C134
Ngày nay trong y học, có rất nhiều chuyên khoa đến nỗi thân thể con người được chia ra làm nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, những bác sĩ khác chuyên về não bộ hoặc về mắt, về tai v.v… Sự chuyên môn hoá là điều tốt như có thể có một khía cạnh tiêu cực. Nhà chuyên môn có thể chỉ quan tâm đến các bộ phận của con người mà không quan tâm đến chính con người. Họ hiếm khi hiểu rõ con người có mắt, hoặc tai hoặc hông đang được điều trị.
Thân thể con người tạo nên một thể thống nhất dù nó bao gồm nhiều chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô (Bài đọc 2). Qua phép Rửa Tội, chúng ta đã trở thành những chi thể của Thân Thể Đức Kitô, tức là Hội Thánh. Một số người muốn sống một mình, không nhờ cậy vào ai, được độc lập với cộng đoàn. Nhưng không thể có một Kitô hữu cô lập như thế. Những người chủ tâm tách lìa mình ra sẽ làm tổn thương cộng đoàn. Chúng ta là một phần của người khác và phải cố gắng không để mình sống biệt lập.
Cộng đoàn có những yêu cầu đối với chúng ta. Vì lẽ đó, cám dỗ muốn sống một mình, không cần đến ai, muốn tìm kiếm sự cứu độ độc lập với những người khác là một cám dỗ mạnh mẽ. Nhưng điều đó không thể có được. Chúng ta cần cho nhau, giống như những phần của một thân thể cần lẫn nhau.
Và Giáo Hội cần đến mọi người chúng ta. Chúng ta cần có ý thức mình thuộc về nhau và thuộc về Đức Kitô. Chúng ta phải được bao gồm cả khi chúng ta chỉ muốn tốt hơn là lo cho chính mình.
Thuộc về một cộng đoàn có những lợi ích rõ ràng. Hãy lấy những cây sậy làm ví dụ. Từng cây một, chúng mềm yếu và bị bẻ gãy dễ dàng. Nhưng khi cột chúng lại với nhau thành bó, chúng thật sự không thể bẻ gẫy được. Điều đó cũng đúng với con người.
Sức mạnh to lớn là kết quả của sự hợp quần. Người ta có thêm lòng can đảm khi hiểu biết nhau, động viên nhau, và nương tựa nhau. Khi ta cùng nhau làm việc thì có thể làm được nhiều điều vĩ đại.
Tầm quan trọng của cộng đoàn được Đức Giêsu nhấn mạnh và Người dùng một hình ảnh khác để mô tả nó. Đó là hình ảnh cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, anh em là cành”.
Hình ảnh tuy đơn sơ nhưng đã minh hoạ sâu sắc tính hiệp nhất và lệ thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là cành nho cần có cây nho. Nhưng cây nho cũng cần có cành, bởi vì chính cành sinh ra quả.
Đức Giêsu muốn tương quan ấy tồn tại giữa Người và các môn đệ. Đó là cách mà Người muốn có ở giữa Người với chúng ta. Người là cây nho, chúng ta là cành. Vả lại, nếu nói theo ngôn ngữ của Phaolô: “Đức Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là những chi thể”. Nếu một người không có ý thức thuộc về cùng một cộng đoàn, chăm sóc và chịu trách nhiệm cho nhau, người ấy không thật sự là một Kitô hữu.
Hoa quả mà Đức Giêsu mong muốn nơi chúng ta, trước tiên là sự hiệp nhất ở giữa chúng ta. Bởi sự hiệp nhất ấy, mọi người sẽ biết rằng chúng ta thuộc về Đức Giêsu, nói cách khác là bởi sự liên kết có ở giữa chúng ta và sự chăm sóc mà chúng ta thực hiện cho nhau.
Sau khi giới thiệu dung mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha được thể hiện qua Đức Giêsu Kitô TN3-C135
Sau khi giới thiệu dung mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha được thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Đức Thánh Cha nói đến nguyên lý của cuộc đời chúng ta: “Lúc này lúc khác chúng ta được mời gọi để dán mắt nhìn chăm chú hơn lòng thương xót để chúng ta có thể trở thành một dấu chỉ thuyết phục hơn cho tác động của Chúa Cha trong cuộc sống chúng ta”(MV. 3). Đó là lý do để Đức Thánh Cha “Tuyên bố một Năm Thánh Ngoại Thường về Lòng Thương Xót như một thời gian đặc biệt cho giáo Hội; một thời gian trong đó chứng tá của các tín hữu có thể phát triển mạnh mẽ và hiệu quả hơn”.
Lời Chúa hôm nay cũng dẫn chúng ta đến việc “Công bố một năm hồng ân của Chúa”.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Nk 8, 2-4a.5-6.8-10
Sau khi dân đã an cư trong Đất Hứa, ông Etra long trọng đọc Lề Luật của Đức Chúa cho dân nghe. Đây được xem là ngày khai sinh đạo Do Thái, vì từ nay đời sống tôn giáo của họ sẽ dựa vào lề luật mà ông Etra vừa tuyên đọc.
Khi nghe ông Etra đọc sách luật của Đức Chúa, toàn dân đã khóc lóc vì họ thấy mình đã không tuân giữ lề luật. Nhưng ông Etra đã khuyên họ: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa, anh em đừng sầu thương khóc lóc”, nhưng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon, và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em”.
Ông Etra đã khai mạc thời kỳ hồng ân dành cho dân của Chúa.
Tin Mừng: Lc 1, 1-4 ; 4,14-21
Đoạn Tin mừng hôm nay được Luca trình bày như bản tóm lược chương trình hành động của Đức Giêsu.
Mọi hoạt động của Đức Giêsu đều “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy”. Điều đó cho chúng ta thấy dung mạo thánh thiện của Thiên Chúa Cha qua con người Đức Giêsu. Ngài luôn hướng về những giá trị linh thánh, và được sự linh thánh thúc đẩy.
Thánh sử Luca trình bày bước chân không mỏi mệt của Đức Giêsu. Bước chân đó hôm nay rảo bước “đến Nadaret là nơi Người được dưỡng dục. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh”.Ngài làm những quan tâm đến việc linh thánh, mà còn thường xuyên làm những việc linh thánh đó. Việc Ngài đến hội đường và đọc Sách Thánh chính là minh chứng cho một đời sống thánh thiện của Ngài.
Đoạn sách tiên tri Isaia mà Đức Giêsu đọc lên trong ngày hôm nay chính là lời tiên tri cho sứ mạng của Ngài: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”.
Lời tiên báo đó được Đức Giêsu chính thức công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Ba từ ngữ mang âm thanh vang dội của Thánh Thần trong công bố này là “người nghèo” ; “được tha” ; và “năm hồng ân”.
Vẫn trong khuôn khổ những tuần đầu của mùa Thường niên, Phụng vụ tiếp tục giới thiệu với chúng TN3-C136
Vẫn trong khuôn khổ những tuần đầu của mùa Thường niên, Phụng vụ tiếp tục giới thiệu với chúng ta thời điểm Chúa Giêsu khởi đầu cuộc đời công khai. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu được trình bày như Đấng được xức dầu được Thánh Kinh tiên báo và muôn dân mong đợi. Lời giảng dạy của Chúa làm cho tiếng tăm của Người đòn ra khắp vùng, và được người ta tôn vinh. Thánh Luca đã thuật lại một lần về thăm quê hương Nagiarét của Chúa. Hôm đó là ngày sa-bát, Người vào hội đường để đọc Sách Thánh. Sau khi đọc lời Ngôn sứ Isaia, Chúa tuyên bố, trước sự ngỡ của bà con đồng hương: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe“. Khi khẳng định những lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm, Đức Giêsu cũng khẳng định với những người đồng hương Người là Đấng Thiên Sai, là Đấng được xức dầu muôn dân mong đợi. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để đem cho con người ơn cứu độ. Những người đồng hương rất ngỡ ngàng kinh ngạc, bởi lẽ, đối với họ, Đức Giêsu chỉ là con bác thợ mộc. Nguồn gốc và xuất xứ của Người, họ đã biết rõ và không có chi đặc biệt. Nếu chúng ta đọc tiếp những gì Thánh Luca kể, chúng ta sẽ thấy cuộc về thăm quê của Chúa Giêsu có một kết thúc buồn: họ tranh luận với Chúa và định tìm cách xô người xuống vực.
Phản ứng của những người đồng hương Nagiarét cũng là phản ứng của một số người Do Thái, nhất là những người biệt phái và luật sĩ. Họ mong đợi Đấng Thiên Sai, nhưng khi Người đến thì họ không muốn tin và đón nhận Người. Sau này, chúng ta còn thấy phản ứng của dân chúng trong những tranh luận với Chúa Giêsu về xuất xứ của Người. Họ cũng muốn có một Đấng Thiên Sai tuân giữ những tập tục của họ và chiều theo ý họ, chứ không phải một vị ngôn sứ dám lên án thói giả hình và nặng về hình thức bên ngoài. Chính vì vậy, nhưng lời giảng dạy của Chúa Giêsu đã gặp phải phản ứng gay gắt. Chính sự ghen tương của các kỳ mục Do Thái đã dẫn đến cái chết của Chúa chết trên thập giá.
Bài đọc I tường thuật việc thày tư tế Ét-ra đọc sách Luật. Sau sắc chỉ của Ky-rô, vua Ba Tư vào năm 538 trước Công nguyên, Ét-ra thuộc nhóm người đầu tiên trở về từ đất lưu đày Babilon để khôi phục Đền thờ Giêrusalem và quê hương xứ sở. Đoạn sách được đọc hôm nay kể lại việc ông đọc sách Luật trước công chúng, nhắc cho người dân nhớ lại điều Chúa đã dạy. Dân chúng ăn năn khóc lóc vì tội lỗi đã phạm, đồng thời nhận ra cuộc lưu đày khốn khổ chính là hậu quả của tội bất trung. Khi lồng ghép bài Tin Mừng với bài đọc I, Phụng vụ muốn giới thiệu với chúng ta, Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ đến để công bố thời của ân sủng, thời của ơn cứu độ, giống như tư tế Ét-ra công bố thời lưu đày đã mãn, dân trở về cố hương, Đền thờ Giêrusalem cùng với truyền thống tế tự đã được khôi phục.
“Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe“. Đức Kitô, Đấng xức dầu của Thiên Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta hôm nay. Người hiện diện qua Giáo Hội và qua mỗi người tín hữu, để liên kết chúng ta thành một thân thể. Thánh Phaolô (Bài đọc II) đã dùng hình ảnh một thân thể có nhiều chi thể liên kết với nhau để so sánh với cộng đoàn tín hữu. Chúa Giêsu là Đầu, Chúa Thánh Thần là Đấng nối kết và làm cho thân thể Giáo Hội luôn sinh động hài hoà. Vì là thân thể của Đức Kitô, nên Giáo Hội cũng có sứ mạng của Người. Đó là sứ mạng được sai đi để đến với người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, đem ánh sáng cho người mù, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, như nội dung lời Sách Thánh Chúa Giêsu đã đọc trong hội đường. Hai ngàn năm qua, Giáo Hội ý thức được sứ mạng cao cả này, nên đã chọn người nghèo khổ bất hạnh làm cơ nghiệp. Chúng ta đang được mời gọi tiếp nối sứ mạng của Đấng Cứu thế, để phục vụ con người và đem cho họ niềm vui của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Chủ chăn tối cao của Giáo Hội đã chọn phục vụ người nghèo như định hướng mục vụ căn bản cho Giáo Hội. Năm Thánh Lòng Thương Xót là một điểm nhấn quan trọng để Giáo Hội thực thi giáo huấn của Chúa Giêsu và trở nên hiện thân của Người giữa trần gian.
Mỗi tín hữu cần ý thức mình đều được xức dầu và được sai vào lòng thế giới. Trong truyền thống Cựu ước, dầu tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc, lòng bao dung thân thiện. Dầu cũng là dấu chỉ cho phúc lành dồi dào của Thiên Chúa. Nghi thức xức dầu được cử hành cho các ngôn sứ, tư tế và vua. Nhờ được xức dầu, người Kitô hữu trở nên những hình ảnh sống động của Đức Kitô giữa trần gian. Qua các tín hữu, Người vẫn hiện diện để rao giảng, đem niềm vui và quy tụ mọi người làm thành một thân thể duy nhất và một gia đình của Thiên Chúa.
Năm lòng thương xót đang nóng lên từng ngày. Một luồng gió của lòng Thương Xót Chúa như TN3-C137
Năm lòng thương xót đang nóng lên từng ngày. Một luồng gió của lòng Thương Xót Chúa như đang bao trùm trên đời sống tín hữu. Xem ra ai cũng kỳ vọng nơi lòng thương xót Chúa sẽ làm nhiều điều kỳ diệu cho họ. Người người suy tôn lòng thương xót Chúa. Người người tín thác vào lòng thương xót Chúa. Họ kỳ vọng Chúa sẽ mở lòng để ban nhiều hồng ân xuống cho nhân loại khổ đau.
Cuộc sống có rất nhiều khổ đau. Khổ đau tâm hồn và khổ đau thể xác. Nỗi đau nào cũng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Vì khi gặp khổ đau mà chẳng còn biết bám vào đâu. Trước những nan giải của cuộc sống, họ chỉ trông chờ một phép màu từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa chẳng còn ai có thể giúp họ. Nơi Ngài chính là niềm hy vọng duy nhất cho con người khi gặp khổ đau.
Có nhiều bệnh nhân nan y dường như họ chỉ còn trông chờ phép lạ từ lòng thương xót Chúa. Họ đã tìm đến thầy thuốc, thậm chí đã vái tứ phương nhưng vẫn bất lực.
Có nhiều người làm ăn chẳng gặp thời, nợ nần ngày càng chồng chất. Họ dường như bất lực không thể xoay sở gì thêm. Họ cũng đang trông chờ phép màu của lòng thương xót Chúa để cứu giúp họ.
Có những giọt nước mắt của người cha, người mẹ đang tuyệt vọng vì đứa con nghiện ngập, ăn chơi sa đọa. Họ đang trông chờ lòng thương xót Chúa giúp con họ quay đầu trở về nẻo chính đường ngay.
Có những người chồng người vợ đang thất vọng vì vợ chồng thiếu chung thủy với nhau, hay đang chìm đắm trong mê muội. Họ đang kêu xin lòng thương xót Chúa hàn gắn gia đình họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa. Ngài chính là một lương y tài năng như tiên tri Isaia đã nói: “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Ngài có đủ quyền năng để chữa lành mọi bệnh tật tâm hồn, thân xác và Ngài lại giầu tình thương để ban phát ơn lành cho nhân thế.
Phúc âm đã kể rất nhiều trường hợp đau bệnh được ơn chữa lành. Có người đàn bà bị bệnh băng huyết cả 18 năm nay nhờ gặp Chúa được chữa lành. Có người bị bại liệt suốt mấy chục năm nhờ Chúa mà tự mình đứng dậy không cần ai nâng đỡ. Có người hấp hối nơi giường bệnh được phục hồi. Có người Chúa cho từ cõi chết sống lại như cậu con trai bà góa thành Naim và Lagiaro bạn Ngài.
Thế nên, hãy trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc đời. Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa. Hãy để Chúa xoa dịu nỗi đau tâm hồn và thể xác mỗi khi chúng ta gặp nguy nan. Chắc chắn tình thương Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng khi chạy đến cùng Ngài.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy làm chứng về lòng thương xót Chúa. Làm chứng bằng cách hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.
Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen.
Trong suốt tháng vừa qua, báo chí trong và ngoài nước cùng nhiều người hết sức chú tâm theo TN3-C138
Trong suốt tháng vừa qua, báo chí trong và ngoài nước cùng nhiều người hết sức chú tâm theo dõi chính trường của Việt Nam, xem sắp tới những ai sẽ trở thành lãnh đạo trong tổ chức xã hội Việt Nam. Nhiều dự đoán được đưa ra, dân chúng kỳ vọng và so sánh, dự báo, ủng hộ người này, chê người kia. Có lẽ người dân Việt Nam chờ đợi nhiều nhất không hẳn là ông A hay ông B, cũng không hẳn khuynh hướng của các vị ấy nghiêng về phía Đông hay phía Bắc, nhưng điều quan trọng là những con người đại diện cho 90 triệu dân Việt có khả năng tạo được sự thay đổi rõ rệt, có đưa đất nước bước qua một trang sử mới, đem đến một tương lai mới hay không ? Nhiều người khác tỏ ra bi quan cho rằng, dù ông nào lãnh đạo cũng không hy vọng có sự thay đổi đột phá trong những năm sắp tới. Hơn lúc nào hết, người Việt Nam hiện nay đang mong chờ một sự thay đổi, một xã hội tốt đẹp, một tương lai tươi sáng.
Bối cảnh xã hội Việt Nam giúp chúng ta hiểu bối cảnh xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu. Dân chúng lúc đó đang mong đợi một vị Mêsia lãnh đạo theo cả nghĩa chính trị và tôn giáo. Họ muốn một vị Mêsia thuộc dòng dõi vua Đavít nổi lên đánh đuổi người Rôma, canh tân đổi mới xã hội, xây dựng một vương quốc Israel phồn thịnh, độc lập. Khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài đã không hứa hẹn cho họ bất cứ điều gì liên quan đến chính trị, nhưng Ngài đưa ra một phương án mới, con đường mới để canh tân đời sống xã hội và con người, vì thế, dân chúng dường như không muốn theo Ngài.
Thánh Luca ghi nhận : Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về Galilê, tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Dân Galilê đã nghe đồn về các bài giảng và các việc lạ Chúa Giêsu đã làm, nên họ kỳ vọng Ngài sẽ là người quy tụ dân chúng để làm cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên khi vào Hội đường, người ta trao cho Ngài sách Isai, mở ra gặp đoạn chép rằng : Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó… Chắc chắn không phải tình cờ Chúa Giêsu đọc đoạn sách đó, nhưng đoạn sách đó được đọc vì lời tiên báo của Isai về sứ mạng của Đấng Mêsia nay được ứng nghiệm.
Đoạn sách cho thấy, Đấng Mêsia sẽ đem đến cho con người một hy vọng mới, một nếp sống mới và một thời đại mới. Đây là thời đại Tin Mừng tình thương của Thiên Chúa được loan báo cho hết mọi người, nhất là những người nghèo khó. Vị Mêsia này sẽ hoạt động dưới sức mạnh của Chúa Thánh Thần, được xức dầu để chính thức thi hành sứ vụ của Thiên Chúa. Ngài sẽ đem đến cho nhân loại một cuộc giải phóng khỏi những ràng buộc của tội lỗi và đau khổ. Ngài sẽ là Đấng đem lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho con người, đụng chạm tiếp xúc với con người và phục vụ mọi người bằng trái tim và đôi tay của Thiên Chúa.
Điều quan trọng hơn, là với quyền năng của một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ thực hiện một cuộc giải phóng thực sự, giải thoát con người khỏi tình trạng tội lỗi và sự trói buộc của ma quỷ, xác thịt. Ngài sẽ mở ra cho con người một tương lai mới, một thời đại mới, tuyên bố thời thứ tha của Thiên Chúa. Những ai tin tưởng, khiêm tốn đón nhận Ngài, đi theo con đường của Ngài sẽ tìm được ơn giải thoát. Những ai sẵn sàng để cho Ngài yêu thương chăm sóc, Ngài sẽ chữa lành vết thương cả thể xác và tâm hồn, đem đến niềm vui và bình an.
Sau khi nghe lời tuyên đọc của Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại từng cử chỉ rất trang trọng : Ngài gấp sách lại, trao cho người giúp việc, rồi ngồi xuống ; mọi người hướng nhìn về Ngài để đón đợi sự giải thích từ nơi Ngài. Từng động tác như thế cho thấy Chúa Giêsu như một vị quân vương xuất hiện trước bàn dân thiên hạ. Những người Do Thái chờ đợi những lời hiệu triệu oai phong của Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã không làm như thế, Ngài đã nói với họ : Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Với một tuyên ngôn ngắn gọn như vậy, Chúa Giêsu khẳng định “hôm nay” là mở ra một trang sử mới, quá khứ đã khép lại, tội lỗi đã được tha ; “hôm nay”, Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài đã hứa qua các tổ phụ và các tiên tri ; “hôm nay”, ơn cứu độ đã được bắt đầu.
Việc làm của Chúa Giêsu tại Hội đường Nazaret được so sánh giống như việc làm của tư tế Esdra trong bài đọc một. Câu chuyện xảy ra sau khi dân Do Thái thoát cảnh lưu đầy bên Babylon, họ được trở về Giêrusalem tái thiết đền thờ, xây dựng lại quốc gia dưới sự điều khiển của Nekhemia và tư tế Esdra. Sau khi đã ổn định tình hình xã hội, tái thiết đền thờ, tư tế Esdra thực hiện một cuộc canh tân đời sống tôn giáo đã bị trì trệ suy thoái, bị ảnh hưởng bởi lối sống dân ngoại. Tư tế Esdra đã quy tụ dân chúng, ông đứng lên long trọng công bố luật Chúa cho toàn dân. Việc công bố này như một bản tuyên ngôn độc lập và như một lễ nghi tái cam kết thể hiện sự trung thành. Dân chúng than khóc về quá khứ tội lỗi, và cũng khóc vì vui mừng khi thấy Thiên Chúa vẫn một niềm thành tín yêu thương. Họ tái cam kết trung thành với Thiên Chúa và lề luật của Ngài, họ ăn mừng vì những ngày đen tối đã qua, thời đại mới đã mở ra.
Thánh Phaolô trong thư Côrintô cho thấy, Chúa Giêsu đã đến để thiết lập một thời đại mới, thời đại của tình thương và ân sủng. Qua đó, mỗi chúng ta được hưởng tình thương của Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu, được trở thành thành viên trong đại gia đình của Thiên Chúa, thành công dân trong vương quốc của Chúa, từ đây không còn kỳ thị hay phân biệt màu da, sắc tộc, tất cả được tháp nhập vào thân thể Ngài, được tham dự vào sự sống thần linh của Ngài và làm nên chi thể của Ngài.
Thưa quý OBACE, Chúa Giêsu đã dành cả cuộc đời để thực hiện sứ mạng yêu thương, xây dựng Nước Trời nơi trần gian và trong tâm hồn con người. Ngài mời gọi mọi người, mọi dân tộc gia nhập vào vương quốc của Ngài, tiếp nối sứ mạng của Ngài để đem tình thương và lòng thương xót của Chúa đến cho anh em. Ngài cũng muốn mỗi người khi tham dự vào vương quốc của Ngài phải chấp nhận một sự thay đổi triệt để từ trong tâm hồn đến cuộc sống bên ngoài, đi theo giới răn lề luật của Nước Trời.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, là Thiên Chúa đến ở với nhân loại, ngoài Ngài ra không có một đấng cứu chuộc nào khác. Tuy nhiên, nhiều người theo Chúa nhưng lại không chấp nhận tuân giữ lề luật của Chúa, theo Chúa nhưng lại không chấp nhận từ bỏ lối sống cũ và các tập tục của dân ngoại, họ vẫn tin kiêng cúng bái theo kiểu của dân ngoại. Thiên Chúa muốn bước đến gần con người để đồng hành và đồng lao cộng khổ với con người, nhưng dường như nhiều người từ chối, tránh né, không muốn để Ngài can thiệp vào cuộc sống của mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ rằng, mỗi người đã được thanh tẩy và được Thánh Thần xức dầu để trở nên con người mới. Vì thế, mỗi người cần phải sống và thi hành sứ mạng mà Chúa Giêsu đã thi hành, đó là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, công bố thời hồng ân thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta cần bắt đầu thi hành sứ mạng này từ trong gia đình, làm cho Tin Mừng thực sự trở nên sống động trong nhịp sống của gia đình, trở thành tiêu chuẩn cho mọi quyết định và công việc của gia đình. Hãy lấy lòng nhân từ và thương xót của Chúa để yêu thương vợ, chồng, con, cháu, qua sự quan tâm, thông cảm và nâng đỡ, tạo cho nhau cơ hội để làm mới lại cuộc đời.
Các bạn trẻ Công giáo là những người có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người trẻ khác, chúng ta hãy trở thành cánh tay nối dài và giang rộng của Chúa để có thể đụng chạm, đón nhận những người đau khổ, nghèo khó về tinh thần và thể xác. Chúng ta cần có một đôi mắt thật sáng và một trái tim thật nhạy cảm để có thể nhìn thấy những nhu cầu của các bạn xung quanh và đừng ngần ngại để cho trái tim của mình xúc động trước nỗi đau của bạn hữu.
Nhờ được nâng đỡ bởi Bí tích Thánh Thể, được Lời Chúa hướng dẫn, xin cho mỗi người chúng ta luôn ý thức mình là công dân Nước Trời và nhiệt thành làm cho Nước Trời được lan rộng khắp nơi. Amen.
Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Giêsu. Mỗi chi thể đều quan trọng và cần thiết để cho TN3-C139
Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Giêsu. Mỗi chi thể đều quan trọng và cần thiết để cho toàn thân được khỏe mạnh. Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc chúng ta điều này. Sống trong lòng Giáo hội, chúng ta cần ý thức phần vụ của mình để xây dựng nhiệm thể, đồng thời khi sự sống thần linh được lưu chuyển trong ta, chúng ta sẽ đón nhận được sức mạnh từ nơi Thiên Chúa và cảm nghiệm được niềm vui sâu xa bên trong tâm hồn
Nhiệm thể Chúa Kitô
Qua bài đọc thứ hai hôm nay, Giáo hội gợi lại tư tưởng của thánh Phaolô trích trong thơ thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô. Thánh Tông đồ nêu bật giáo lý căn bản về Giáo hội. Ngài viết: “Tất cả chúng ta, cho dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một Thần khí để trở nên một thân thể” (1Cor 12,12-13). Qua bí tích rửa tội, chúng ta chia sẻ một ơn gọi duy nhất, đó là trở nên con cái Thiên Chúa và được gắn kết nên một với nhau trong Thần Khí. Sự gắn kết này biến chúng ta thành một thân thể duy nhất, và đây là thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Đức Kitô Kitô là đầu, còn lại mỗi người đều là chi thể trong thân xác nhiệm mầu ấy.
Vì được hút nhựa sống từ thân mình mầu nhiệm thánh thiêng của Chúa, chúng ta được nuôi sống khi ăn Mình Ngài và đón nghe Lời của Ngài. Bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa mà chúng ta tham dự mỗi ngày luôn mang chở chiều kích Giáo hội. Nơi cả hai bàn tiệc này, chúng ta được nuôi sống, được tăng trưởng và có được sức mạnh thần linh.
Bài đọc thứ nhất trong phụng vụ cũng thuật lại việc toàn dân tụ tập tại một quảng trường lớn để nghe ông Estra đọc sách luật (sách Torah) và giảng dạy. Người Do thái vẫn đều đặn họp nhau trong các hội đường để nghe sách thánh. Thường mỗi làng có một hội đường để họ quy tụ lại. Bất cứ người đàn ông nào trên 30 tuổi đều có thể được cắt cử để đảm nhận sứ vụ đọc sách luật và sách các tiên tri cho cả cộng đoàn.
Cũng tương tự như thế, thánh Luca trong bài Tin mừng cũng thuật lại thời gian ban đầu khi Đức Giêsu khởi sự sứ mạng rao giảng. Ngài vào một hội đường đọc một đoạn trong sách ngôn sứ Isaia và cắt nghĩa cho dân. Hình ảnh hội đường Do thái giáo trong cựu ước phác vẽ trước hình ảnh Giáo hội. Hạn từ ‘ekklesia’ mang chở cả ba chiều kích : vừa nói về các buổi tụ họp của cộng đoàn dân Chúa, vừa ám thị các nhà thờ, và đồng thời đó cũng chính là Giáo hội của Chúa Kitô (sách Giáo lý Công giáo số 751).
Cảm thức thuộc về Giáo hội (sensus ecclesiae)
Giáo hội vừa hữu hình vừa thánh thiêng. Giáo hội hữu hình có cơ cấu phẩm trật, có Đức Thánh Cha, có hàng giáo phẩm, có giáo sỹ và giáo dân như chúng ta vẫn thấy. Giáo hội hữu hình được nhìn thấy rất rõ nét qua các cộng đoàn giáo xứ với những ngôi nhà thờ khang trang và những nghi lễ sầm uất bên ngoài. Nhưng trước hết, Giáo hội tự bản chất là nhiệm thể thánh thiêng của Đức Kitô. Giáo lý Công giáo đã khẳng định ngoài Giáo hội không có ơn cứu rỗi. Bởi lẽ ơn cứu độ đến từ Đức Giêsu, và Chúa Kitô thực hiện ơn cứu rỗi ngang qua Giáo hội, vì Giáo hội là thân thể mầu nhiệm của Ngài. Các Bí tích trong Giáo hội là công cụ Đức Giêsu sử dụng để thông chuyển ơn cứu độ xuống cho nhân loại (xem sách Giáo lý Công giáo số 778-779). Chúng ta được mời gọi khơi dậy cảm thức thuộc về (sense of belonging) để góp nhần xây dựng Hội thánh, cụ thể tại mỗi cộng đoàn Giáo hội địa phương. Chúng ta không chỉ đến nhà thờ tham dự thánh lễ như hưởng nhận một ‘dịch vụ’ xã hội, nhưng cần phải chung tay xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, cụ thể tại Giáo hội địa phương nơi chúng ta thuộc về.
Ông Voltaire là một triết gia người Pháp thuộc thế kỷ thứ 18. Ông là một người Công giáo đã được rửa tội từ nhỏ nhưng khi lớn lên đã bỏ đạo và đi theo cách mạng. Ông tự hào là một trí thức, một triết gia và ông đề ra khẩu hiệu ‘Hãy đánh đổ con quái vật này đi’ (ám chỉ Giáo Hội). Ông lập một nhóm lấy tên là Beelzebut để chuyên phá hoại Giáo hội, sát hại các tín hữu đặc biệt các linh mục. Năm 1753 ông ngạo mạn tuyên bố :“Chỉ cần 20 năm nữa khi khoa học phát triển, Giáo hội sẽ bị triệt phá hoàn toàn và Thiên Chúa có thể về hưu được rồi”. Nhưng 20 năm sau, ông lâm trọng bệnh và nằm đau đớn giẫy chết trên giường bệnh. Ông thấy Giáo hội vẫn tồn tại và Thiên Chúa vẫn chưa về hưu như ông đã tiên đoán. Trong đau đớn tột cùng, ông thốt lên: “Tôi đã phạm một sai lầm rất lớn là chống đối Giáo hội. Tôi thấy cửa hỏa ngục đang mở ra và chờ đón tôi”. Ông gào thét trong hoảng loạn và tắt thở. Một người bạn đứng bên giường bệnh khi chứng kiến giây phút kinh hoàng ấy đã nói: “Tôi chưa thấy cái chết nào ghê sợ giống như cái chết của anh bạn Voltaire của tôi.”
Chúng ta đang sống trong Giáo hội và thuộc về Giáo hội. Chúng ta đừng hỏi Giáo hội đã làm được gì cho tôi nhưng hãy hỏi ngược lại là tôi đã làm được những gì cho Giáo hội.
Chúa Giêsu, đầu của Hội thánh
Trong bài Tin mừng hôm nay, tại hội đường Do thái giáo, Chúa Giêsu đã công bố cho mọi người: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21). Điều mà thính giả vừa nghe đó là lời ngôn sứ Isaia nói về một kỷ nguyên mới do chính Đức Giêsu khai mở. Ngài được ‘Thần Khí Chúa đậu xuống, được xức dầu và sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố năm hồng ân của Chúa’. Hội đường Do thái giáo ngày xưa là hình bóng của Giáo hội ngày hôm nay. Dân Chúa quy tụ bên nhau để cử hành phụng tự hướng về Thiên Chúa. Cũng từ trong lòng Giáo hội, chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong đời sống đức tin.
Chúa Kitô là đầu của Hội Thánh. Ngài là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta (châm ngôn của Đức Cha Lambert de la Motte). Cuộc sống chúng ta phải quy chiếu vào Ngài và chúng ta phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta mỗi ngày.
Kết luận
Năm nay Giáo hội cử hành năm thánh Lòng Thương xót. Lòng thương xót đó được diễn bày nơi Đức Giêsu ngang qua Giáo hội. Lòng thương xót là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa (tư tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô), song song với tên gọi ‘Tình Yêu’ mà Thánh Gioan đã nói tới trong thơ thứ nhất của Ngài. Lòng thương xót cũng được tỏ bày qua chân dung cứu thế mà Đức Giêsu nói tới trong bài Tin mừng hôm nay: “Thần Khí Chúa sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức”. Đây là sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu năm xưa và cũng là sứ mạng của Giáo hội hôm nay. Chúng ta được mời gọi tham phần vào sứ mạng thiêng liêng ấy khi sống giữa lòng Giáo hội, đặc biệt trong năm thánh này.
Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã thông báo: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi TN3-C140
Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã thông báo: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than, tặng cho những kẻ khóc than ở Sion tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu não. Người ta sẽ gọi họ là cây thánh rừng thiêng, là vườn cây Đức Chúa trồng để làm cho Người được vinh hiển” (Is 61:1-3).
Năm Hồng Ân là năm thực hiện công lý, thể hiện công bình và bác ái, và cũng là thể hiện lòng thương xót đối với mọi người – đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Một sự trùng hợp kỳ diệu vì chúng ta đang sống trong Năm Thánh ngoại thường: Năm Thánh Lòng Thương Xót (từ 8-12-2015 tới 20-11-2016).
Đầu năm Phụng Vụ mới, người ta đề nghị ba quyết định rất tuyệt vời, đáng để chúng ta học hỏi: [1] Hành động theo ý Chúa muốn, [2] Hành động theo cách Chúa muốn, [3] Hành động vì Chúa muốn vậy. Và có thêm bốn nỗ lực khác cũng rất thú vị: [1] Mạnh mẽ hơn về thể lý, [2] Mạnh mẽ hơn về trí tuệ, [3] Mạnh mẽ hơn về cảm xúc, [4] Mạnh mẽ hơn về tâm linh.
Sách Nơ-khe-mi-a cho biết: “Ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này” (Nkm 8:2-4a). Luật Chúa rất cần nghiên cứu và tuân thủ hàng ngày, giữ luật Chúa là yêu mến Ngài. Mà luật Chúa là yêu người. Thánh Gioan phân tích rạch ròi: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa” (1 Ga 2:4-5).
Sách Nơ-khe-mi-a cho biết thêm: “Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: ‘A-men! A-men!’. Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa” (Nkm 8:5-6). Lời Chúa được mọi người kính trọng, họ đã chứng tỏ bằng hành động cụ thể.
Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc”. Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. Ông Ét-ra còn nói với dân chúng về ăn mừng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8:8-10). Ngày thánh hiến là ngày hạnh phúc, năm hồng ân là năm vui mừng. Tại sao? Vì Thiên Chúa ban ơn thánh ban chan hòa cho những người tuân giữ Thánh Luật của Ngài.
Luật Chúa là huấn lệnh của Chúa, kỳ diệu lắm. Tác giả Thánh Vịnh cho biết chi tiết: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” (Tv 19:8-10). Biết được như vậy, chúng ta thật an tâm và hạnh phúc tuân giữ.
Tuy nhiên, phàm nhân dễ “hứa lèo” lắm, hứa đó rồi quên đó, nói hay lắm mà chẳng làm được chi. Vì thế, chúng ta phải cầu xin như một lời khấn nguyện: “Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng con thầm thĩ mong được thấu đến Ngài” (Tv 19:15).
Đối với Thiên Chúa, năm nào cũng là Năm Hồng Ân, lúc nào cũng là Năm Thánh. Có ngày này, tháng nọ, năm kia là để nhắc nhở chúng ta đừng quá vui, quá buồn hoặc quá lo mà quên Chúa. Ngày xưa, chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta qua lệnh truyền của Ngài dành cho mọi người – không trừ ai, ở mọi nơi và mọi thời, ai cũng phải loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, đặc biệt là thực hiện công lý, hành động cụ thể đó là “loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm” (Lc 4:18-19), “sự giam cầm” có thể hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Mọi người đều có mối liên hệ nào đó với nhau – dù xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp, đặc biệt là trong mối quan hệ tâm linh, vì tất cả chúng ta đều là các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô – Đấng cứu độ và giàu lòng thương xót.
Thật vậy, Thánh Phaolô đã so sánh: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:12-13).
Thân thể chỉ một nhưng gồm nhiều bộ phận. Và Thánh Phaolô ví von khá chi tiết: “Giả như chân có nói: ‘Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: ‘Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày’; đầu cũng không thể bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày” (1 Cr 12:12-21).
Chuyện kể rằng, răng ỷ mình cứng nên chê môi mềm nên cứ phải dựa vào nó, và chê lưỡi mềm nên cũng phải nhờ vả nó. Trời lạnh, môi và lưỡi co lại, răng dù cứng nhưng chịu buốt giá và rụng dần, còn môi và lưỡi mềm nhưng vẫn không sao. Tục ngữ nhận định chí lý: “Cười người hôm trước, người cười hôm sau”. Sông có khúc, người có lúc, nay thế này, mai thế khác, đừng ảo tưởng, chớ ỷ mình thế này hoặc thế nọ mà rồi có lúc không biết giấu mặt nơi nào. Hối không kịp. Muộn!
Thánh Phaolô cho biết cụ thể: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1 Cr 12:22-26). Cơ thể chúng ta có nhiều bộ phận, mỗi bộ phận là một bài học phong phú mà chúng ta phải học để sống. Thiên Chúa thật kỳ diệu!
Quả thật, đơn giản như lý do mỗi người có HAI tay, HAI chân, HAI tai, HAI mắt, HAI lỗ mũi, nhưng chỉ MỘT miệng. Tại sao vậy? Thiên Chúa muốn chúng ta làm nhiều, đi nhiều, nghe nhiều, nhìn nhiều, ngửi nhiều, nhưng NÓI ÍT hoặc KHÔNG NÓI. Tương tự, có HAI bán cầu não mà chỉ có MỘT trái tim: Suy nghĩ nhiều và yêu thương thật lòng.
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?” (1 Cr 12:27-30). Chắc chắn mỗi người đều có một hoặc hai tặng phẩm riêng, mỗi người như viên gạch, ở chỗ này hoặc chỗ kia, nhưng viên nào cũng có tầm quan trọng riêng, và cùng liên kết để làm nên bức tường và tòa nhà. Biết vậy rồi, không ai có thể dám kiêu ngạo về bất cứ thứ gì hoặc với bất cứ lý do gì. Quả thật, kiêu ngạo là ngu xuẩn, là khốn nạn chắc chắn bị Thiên Chúa loại trừ (x. Lc 1:52).
Ước gì chúng ta triệt tiêu được tự ái, nhờ vậy mà triệt tiêu được thói kiêu căng, nhờ vậy mà biết thương xót và nhân hậu theo lời Chúa Giêsu căn dặn.
Đầu Phúc Âm thứ ba là lời tựa và đề tặng (Lc 1:1-4), Thánh sử Luca viết: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc”.
Thánh Luca là người Hy Lạp, tân tòng, môn đệ của Thánh Phaolô, tác giả Phúc Âm thứ ba và sách Công Vụ. Ông là dân trí thức, giỏi viết văn mà cũng khéo kể chuyện. Ông đề tặng cả hai tác phẩm cho một nhân vật thế giá tên là Thê-ô-phi-lô, cũng là tân tòng. Theo Hy ngữ, Thê-ô-phi-lô có nghĩa là “người yêu mến Chúa”. Rất có thể ông là tân tòng đại diện cho nhóm độc giả mà ông Luca nhắm tới, vì muốn họ am tường về giáo huấn của đạo mới.
Phúc Âm của Thánh Luca được viết vào khoảng giữa năm 70 và 75 sau công nguyên. Thánh Luca là thầy thuốc nên quan tâm vấn đề y đức: Lương y như Từ Mẫu. Ông đề cao 3 điều: [1] Chúa Giêsu là Ðấng cứu độ mọi người, giao hoà nhân loại với Thiên Chúa; [2] Thiên Chúa là Đấng nhân từ và thương xót; [3] Tinh thần từ bỏ mình và sống nghèo khó. Quả thật, trong Phúc Âm này có ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót: [1] Con chiên bị mất (Lc 15:4-7), [2] Đồng bạc bị mất (Lc 15:8-10); và nổi bật là [3] Người cha nhân hậu (Lc 15:11-32).
Trong đoạn Lc 4:14-21, Thánh Luca cho biết rằng, Đức Giêsu được quyền năng Thần Khí thúc đẩy nên Ngài trở về miền Galilê. Ngài giảng dạy trong các hội đường chí lý và chí tình nên được mọi người tôn vinh, do đó tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Hữu xạ tự nhiên hương, đó là điều tất nhiên, không ai có thể chối cãi và phải tâm phục, khẩu phục.
Khi Ngài về quê hương Nadarét, nơi chôn nhau cắt rốn, Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sa-bát, rồi Ngài đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Ngài cuốn sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4 :18-19). Đó là đoạn Kinh Thánh mà ngôn sứ Isaia đã đề cập Năm Hồng Ân (Is 61:1-3), tức là năm đặc biệt mà chúng ta gọi là Năm Thánh.
Đọc xong, Ngài cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Rồi Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Kinh Thánh là Thánh Ngôn của Thiên Chúa, cũng là Thánh Ý của Ngài muốn đối với mỗi chúng ta. Chẳng chóng thì chày, Kinh Thánh luôn ứng nghiệm đến từng chi tiết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định rằng Ngài đến thế gian không phải là để bãi bỏ luật Cựu Ước hoặc luật Mô-sê, nhưng để kiện toàn lề luật. Mọi chi tiết đều nên trọn, vì Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Lúc nào chúng ta cũng sống trong Năm Hồng Ân, bao nhiêu tuổi là bấy nhiêu Năm Hồng Ân. Tuy nhiên, vì điều kia hoặc sự nọ mà chúng ta đã và đang có những lúc quên khuấy đi mất. Có những lúc giật mình hồi tâm, chúng ta mới thấy mình thật tệ đối với Thiên Chúa. Từ nay, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, ước gì ai cũng tự nhủ như tác giả Thánh Vịnh thế này: “Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung” (Tv 119:11). Đồng thời cũng mong sao chúng ta can đảm bảo vệ sự sống, bảo vệ chân lý và công lý như Chúa Giêsu đã truyền dạy, để thế giới không còn tình trạng bất công, áp bức, bóc lột,… ai cũng được sống tự do đích thực đúng với nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết tận dụng thời gian còn thở để nhận biết Hồng Ân bao la Ngài ban tặng cho con vì Lòng Thương Xót của Ngài. Để nhờ vậy, con có thể thở bằng nhịp thở của Thánh Tâm Chúa Giêsu, cố gắng thở mà không than chi cả. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Tiếp tục sứ vụ công khai của mình là đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành những người ốm đau TN3-C141
Tiếp tục sứ vụ công khai của mình là đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành những người ốm đau bệnh tật, xua trừ ma quỉ, kêu gọi người ta hoán cải, hoàn tất lời các tiên tri đã loan báo: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21).
Sau khi tỏ mình ra dần dần bằng các phép lạ tại Cana (x. Ga 2,1-12), Galilêa và Giêrusalem (Ga 2, 23). Chúa chọn thêm một số môn đệ, rồi cùng với các ông trở về Capharnaum, Người bắt đầu giảng dạy tại đây. Ngày Sabát đầu tiên Chúa vào hội đường Nagiarét đọc sách và giảng dạy ở đó, khiến mọi người chăm chú lắng nghe và không ngớt lời ca tụng (Lc 1, 1-4).
Được Chúa Cha xức Dầu và sai đi…
Lời của ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trong hội đường áp dụng vào chính bản thân mình :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hôn sám hối… trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng” (Lc 4, 14-18). Như thế, Chúa Giêsu loan báo thời lưu đày của dân Israel tại Babylon sẽ chấm dứt, khởi đầu một thời kỳ hoàn toàn mới, thời Đấng Cứu Thế xuất hiện, thời Đấng Messia là chính Người.
Nghe có vẻ đơn sơ, nhưng thật trang trọng, những lời tiên tri ấy áp dụng vào Chúa Giêsu một cách rất tự nhiên: “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21). Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót của Chúa Cha, được Chúa Cha xức Dầu và sai xuống trần gian để thể hiện lòng xót thương qua việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa con người trở về với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm mang hạnh phúc, niềm vui, sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Sứ vụ của Chúa Giêsu là sứ vụ thần linh, thần linh hoá nhân loại, cho nhân loại được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Thiên Chúa trong Thần Khí. Người không được sai đến với những ai tự phụ, tự mãn, cho rằng mình đã đầy đủ, nhưng là đến với những người thấy mình là phận nhỏ, thiếu thốn trăm bề, cả hồn lẫn xác. Cuộc lưu đày ở Babylon, rồi được trả tự do, cho hồi hương của Dân Chúa là một dấu chỉ, một hình ảnh tượng trưng nói lên ý định lớn lao của Thiên Chúa là cứu độ và giải thoát con người khỏi ách tù đày nô lệ tội lỗi và sự chết.
Như thế, khi áp dụng những lời sấm của tiên tri Isaia vào bản thân mình, Chúa Giêsu tự mô tả về con người và sứ mạng của mình, bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng rất uy nghi, đến nỗi dân chúng nín thở, hồi hộp, lắng nghe. Thánh Luca nói: “Mọi người trong Hội đường đều chăm chú nhìn Người“(Lc 4, 20). Cung cách dạy dỗ của người hoàn toàn khác với các thầy dạy luật mà họ đã quen bấy lâu nay. Đúng là một Tin mừng làm nức lòng họ, đem đến cả một bầu trời hy vọng và tự do.
Giáo hội đươc sai đi công bố Năm Thánh
Nếu như Chúa Giêsu được Chúa Cha xức Dầu hoan Thánh Thần, sai đi vào dòng đời để cứu vớt những kẻ cơ hàn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho biết bao con người, khai mở năm hồng ân để thi ân giáng phúc cho nhân loại, thì đến lượt mình, Người cũng trao lại sứ mạng đó cho Giáo hội: “Như cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em“ (Ga 20,21). Giáo hội cũng được xức dầu như Chúa Kitô và được sai đi. Người cũng ban tràn đầy Thánh Thần cho Giáo hội: “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mạng Giáo hội, là Chúa Giêsu nối dài, tiếp nối mầu nhiệm nhập thể và sứ vụ của Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Ngày hôm nay, chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tội và đã được xức Dầu, đang ở trong giai đoạn đầu của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm Hồng Ân đặc biệt, Năm mà chúng ta được mời gọi hãy thương xót và tha thứ như Cha trên trời. Giáo hội muốn con cái mình cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, trung thành sống và thực hành giáo huần của Đấng giầu lòng thương xót. Đây là dịp tốt để mỗi người cùng với Chúa Giêsu lặp lại những lời của tiên tri Isaia được công bố trong Phúc Âm như sau: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi...” (Lc 4, 18).
Người Kitô hữu được truyền phải sống Năm Thánh
Như thế, chúng ta được xức Dầu khi chịu Phép Rửa tội và Phép Thêm Sức, được “thánh hiến” cho Thiên Chúa và được sai đi loan báo Tin Mừng. Sống đạo là bước theo Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trên con đường yêu thương hiếu thảo đối với Chúa Cha, con đường yêu thương tự hiến cho tha nhân, con đường trở nên hoàn hảo trong tình yêu. Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta đủ sức thực thi những việc tha nhân đang cần bằng tất cả đời sống.
Thế giới ngày hôm nay đang vơi cạn tình yêu, và tha thứ, khiến cho hận thù cũng như bạo lực leo thang từ phạm vi gia đình đến quốc tế làm cho người già và trẻ em bị bỏ rơi. Vì thế, Lời Chúa hôm nay rất thiết thực đối với mỗi người. Vậy:
Hãy là đôi chân cho người già yếu, giúp họ đến nhà thờ, đi thăm bà con.
Hãy là đôi tai cho những bạn trẻ đang mong bạn lắng nghe những nỗi lòng của họ.
Hãy là tin mừng cho người đang u sầu bằng những lời chia sẻ ủi an, khích lệ khôn ngoan.
Và hãy đem ánh sáng cho những ai đang lầm đường lạc lối, bằng sự hướng dẫn ân cần đầy thương yêu.
Với ước mong những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức được chúng ta yêu thương, nhất là liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống đời bác ái yêu thương họ là chúng ta thi hành sứ mạng người kitô hữu của mình, những người được xức Dầu. Có thế, Năm Thánh Lòng Thương Xót mới thật ý nghĩa đối với người chúng ta. Amen.
Đức Giê-su đã đọc trong hội đường Na-da-rét bản văn của ngôn sứ I-sai-a câu 61:1-2; vị ngôn sứ TN3-C142
Đức Giê-su đã đọc trong hội đường Na-da-rét bản văn của ngôn sứ I-sai-a câu 61:1-2; vị ngôn sứ nói cho người Do Thái lưu đầy biết mình được thần khí (tức sức mạnh) của Đức Chúa tác động để công bố thời kỳ Thiên Chúa viếng thăm và giải thoát họ: “cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha”; tác giả Lu-ca nhấn mạnh thêm tư tưởng này, khi ghép thêm câu “trả lại tự do cho người bị áp bức” từ một đoạn văn khác (Is 58:6). Đức Giê-su trịnh trọng tuyên bố cho nhóm cử tọa cũng là đồng hương của Người rằng: “hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Trong khi những người Do Thái thời ngôn sứ I-sai-a hiểu: “được tha, trả tự do” có ý nghĩa gì trong bối cảnh chính trị, xã hội và quân sự thời bấy giờ, thì các thính giả đồng hương Đức Giê-su lại có vẻ khá mù mờ. Họ chỉ mong được chứng kiến hay được hưởng lợi từ những điều kỳ lạ mà họ nghe đồn đại, Người đã làm tại Ca-phác-na-um.
Còn đối với chúng ta, những con người của thời đại này, thì sao? Các Ki-tô hữu chúng ta ngày nay sẽ nghiệm ra điều gì trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống hàng ngày? Hơn nữa, “Đã ứng nghiệm” có nghĩa lý gì đối với bản thân mỗi người chúng ta?
Tôi thử tưởng tượng xem sao nhé! Nếu mình được sống trong một đất nước dân chủ và phát triển cao, nếu là một người tài đức, thông thái và có địa vị cao trong xã hội, nếu mình là một người thành đạt… thì sẽ phải hiểu lời công bố này sao đây? Thản hoặc, nếu là một hiền triết, một nhà tu hành đắc đạo và thuần thục của một tôn giáo cao quí nào đó… chẳng lẽ tôi sẽ lắc đầu nhún vai coi lời này chẳng có liên quan gì tới mình; tôi có bị ai áp bức đâu! tôi có cần được ai tha hay trả tự do cho đâu! Nếu quả ‘Tin Mừng’ Đức Giê-su loan báo trong Thần Khí ứng nghiệm cho hết thảy mọi người, mọi thời và mọi hoàn cảnh, thì ‘được tha, trả tự do’ này phải mang một nội dung rất phổ quát, có thể ứng dụng cho hết thảy mọi hạng người, bất luận kiếp sống làm người của họ có là thế nào đi nữa. Vậy thì: ‘ứng nghiệm’ trong thực tế hệ tại ở điều gì, đó chính là vấn nạn tôi cần tìm lời giải đáp.
Vào thời I-sai-a, cốt lõi của sứ điệp mà vị ngôn sứ muốn chuyển tải là ‘Đức Chúa trung thành’ với giao ước mà Ngài đã ký kết với dân riêng, bất chấp các thăng trầm thời cuộc. Còn Đức Giê-su, Người tới để công bố một sứ điệp khác là: ‘Thiên Chúa yêu thương’ bất chấp tất cả mọi giới hạn và bất toàn mà phàm nhân nào cũng có. Chính Người là hiện thân sống động của sứ điệp mang tính cách mạng đó; vì toàn bộ cuộc sống của Người, kể từ lúc sinh ra cho tới giây phút chết trên thập giá là để minh chứng điều đó; vì lẽ đó chỉ duy nhất mình Người có quyền công bố “hôm nay đã ứng nghiệm”. ‘Thiên Chúa yêu thương’ quả là một sứ điệp có sức ‘trả tự do’ cho hết thảy mọi người, không trừ một ai, sống trong bất kỳ hoàn cảnh hay địa vị nào; và hết thảy mọi người đều cần thứ Tin Mừng này. Có nhiều khi ‘bị áp bức’ lồ lộ và quái ác, nhưng cũng có những lúc nó âm ỉ và day dứt… Tựu chung, ta không ngừng ‘bị áp bức’ bởi nỗi lo sợ không còn được ai yêu thương mình, vì những bất toàn hay lỗi lầm mình đã phạm; mỗi người chúng ta đều có quá nhiều kinh nghiệm về điều này, trải đài trong suốt cuộc sống. Lo sợ tới từ những người lẽ ra tôi phải cảm nhận được cảm thông và tha thứ nhiều nhất, từ cha mẹ, người thân, chồng vợ hay bạn bè… các tu sĩ cùng dòng, các linh mục đồng liêu v.v… Do đó nỗi lo sợ cứ chồng chất và dai dẳng đeo bám không nguôi.
Thời I-sai-a, cứ mỗi 50 năm thì người Do Thái có một năm toàn xá: nợ nần được tha, chênh lệch xã hội được xóa bỏ, tội nhân tù đày được giảm án hay phóng thích; vì vậy mà, trong thần khí Chúa (tức là sức mạnh của Đức Chúa), vị ngôn sứ “công bố một năm hồng ân”. Còn Đức Giê-su, khi lên tiếng công bố cùng một lời loan báo đó, đã hàm ý ‘năm hồng ân’ chính là bản thân Người: ‘năm’ đây không có niên hạn nhất định, nhưng là bao lâu Người – Chú Rể còn sống, còn hiện hữu trên trần thế và trong nơi vĩnh hằng. Các Ki-tô hữu luôn miệng tuyên xưng Người đã sống lại và hằng sống, có nghĩa là ‘năm hồng ân’ này sẽ là bất tận… vì ‘Thiên Chúa yêu thương’ sẽ mãi mãi xóa bỏ mọi nợ nần và tù tội trong ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô Giê-su.
Còn một điều này nữa; Luca ghi nhận phản ứng của các đồng hương Na-da-rét “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”; nhưng thử hỏi sự tán thành này có ý nghĩa gì, khi chỉ ít phút sau đó ‘mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ’, rồi rắp tâm tiêu diệt Người? Ki-tô hữu cũng giáp mặt cùng một nguy cơ đó, họ biết về ‘Thiên Chúa yêu thương và nhân ái’ và rất thường nói tới, nhưng rồi đầu óc lô-gích lại dễ dàng ép họ quay trở về với mối hãi sợ bị Thiên Chúa công thẳng luận phạt. Họ quên rằng: làm lu mờ niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương tha thứ chính là phản bội hay tiêu diệt Đức Ki-tô đã hiến mình trên Thập Giá. Làm như thế, họ cũng chẳng khác gì các đồng hương Na-da-rét của Đức Giê-su là mấy, họ cũng rắp tâm chối bỏ việc để cho ‘Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm’, ít là nơi bản thân mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhảy mừng vì lời Chúa công bố ‘hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh’. Như Mẹ Ma-ri-a, con xin tin vững vàng và nhảy mừng luôn mãi ‘vì Người đã đoái thương phận hèn’ của con. Xin cho con luôn mãi xác tín rằng: “Chúa yêu thương và tha thứ” vì đó chính là bản tính vĩnh cửu của Người. Xin cho đời sống con, và cả nhân loại nữa, không ngừng trở nên ‘năm hồng ân’ bất tận của lòng Chúa xót thương. Cũng xin cho phép con được san sẻ niềm vui cứu rỗi này cho nhiều người khác, những người còn chưa nhận biết lòng thương xót vô biên của Chúa. A-men.
Thiên Chúa tạo dựng nên loài người chúng ta giống hình ảnh của Ngài. Vì yêu thương và muốn TN3-C143
Thiên Chúa tạo dựng nên loài người chúng ta giống hình ảnh của Ngài. Vì yêu thương và muốn con người chúng ta sống trong ân sủng, vì vậy, Thiên Chúa không muốn con người lầm lẫn trong tối tăm, tội lỗi của trần thế, nhưng Ngài đã ban cho loài người chúng ta Kinh Thánh, Lời của Ngài, để hướng dẫn cuộc sống, cũng như giúp chúng ta biết phương cách để giải quyết, nhất là giải thoát chúng ta ra khỏi những vấn nạn, khó khăn hay sự giam hãm trong cuộc sống. Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy hay không. Các Bài Đọc Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người chúng ta tin và áp dụng Kinh Thánh, Lời Chúa vào trong cuộc đời, để Lời Chúa giúp chúng ta sống vững mạnh trong đức tin, biết sống yêu thương hiệp nhất và tự do trong ân sủng của Chúa.
Bài Đọc I cho chúng ta biết tư tế thư ký Ét-ras đọc và giải nghĩa Lời Chúa, sau đó dạy dân chúng những giáo huấn của Thiên Chúa. Và chúng ta nhận ra một điểm quan trọng là dân chúng chú ý lắng nghe Lời Chúa, và Lời Chúa đã đánh động vào tâm tư của họ một cách mạnh mẽ và sâu sắc, vì vậy, họ có những cử chỉ diễn tả sự tác động của Lời Chúa vào trong tâm hồn của họ. Dân chúng cảm thấy buồn sầu, bởi vì họ nhận thấy họ đã không sống, không đi đúng với Lời Chúa dạy. Họ thành tâm hứa từ bỏ, cố gắng sống Lời Chúa một cách chân thành hơn, và bắt đầu một cuộc sống mới theo Lời Chúa dạy. Vì vậy, tư tế Ét-ras cho họ biết “Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa” và Lời Chúa sẽ mang lại cho họ sự vui mừng và hy vọng.
Trong bài đọc 2, chúng ta thấy thánh Phaolô nhắc nhở và kêu gọi mọi Ki-tô hữu phải hiệp nhất yêu thương, liên kết với nhau, giúp đỡ nhau và hy sinh phục vụ để xây dựng cộng đoàn, và sống trong ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, vì tất cả cùng chịu chung một Phép rửa, nhận cùng một Thánh Thần và tin thờ cùng một Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra một ví dụ về những chi thể liên kết trong thân thể con người, giúp chúng ta ý thức và để chúng ta áp dụng vào cuộc sống Ki-tô hữu, và để bảo trì sự hiệp nhất, thực thi đức bác ái, và cùng nhau xây dựng Nhiệm Thể của Chúa Giê-su Kitô một cách tốt đẹp và hoàn hảo hơn.
Trong bài Tin mừng của thánh Lu-ca hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaiah, để nói cho chúng ta biết Ngài chính là sự ứng nghiệm của những lời tiên tri nói từ ngàn xưa. Và Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết, ngày hôm nay mang niềm vui của Chúa, và như chúng ta vừa nghe trong bài đọc 1, là “ngày thánh, dâng cho Chúa”, vì chính Ngài sẽ mang sứ mạng “rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay thật sự là “ngày thánh, ngày hồng ân” của mọi người chúng ta hiện diện trong thánh đường này, vì chính tai chúng ta vừa được nghe Lời Chúa khẳng định chính Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai mang Tin Mừng, sự giải thoát và chữa lành đến cho chúng ta. Nhưng muốn đón nhận hồng ân Chúa, thì chúng ta phải có 2 điều kiện cần thiết và quan trọng sau đây. Thứ nhất là chúng ta phải “cá nhân hóa” Lời Chúa. Có nghĩa là, chúng ta phải đón nhận Kinh Thánh, Lời Chúa nói với chính chúng ta ngay ở đây, bây giờ và hôm nay, như Chúa nói: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.” Tuy Kinh Thánh đã được viết ra cách đây hơn 2 ngàn năm, nhưng chúng ta phải luôn luôn nghĩ rằng Kinh Thánh nói với chúng ta hôm nay. Chúng ta phải nghĩ rằng Chúa đang nói với chính chúng ta bây giờ, ngày hôm nay, chứ không phải nói ngày hôm qua và với người khác. Nếu chúng ta không cá nhân hóa Kinh Thánh thì sẽ như chúng ta đọc những chuyện cổ tích, những chuyện xưa, không liên hệ gì với chúng ta, và chẳng có ích gì cho chúng ta. Chúng ta phải cá nhân hóa Kinh Thánh thì khi chúng ta đọc Kinh Thánh, chúng ta mới có thể tiếp nhận được ánh sáng ban ân sủng, sự giải thoát và chữa lành và sự sống.
Điều kiện quan trọng và cần thiết thứ hai là chúng ta phải “nội tâm hóa” Kinh Thánh. Có nghĩa là Chúa muốn nói với chúng ta không phải là những chuyện bên ngoài, mà là những suy nghĩ, những tâm tư trong chiều sâu tâm hồn của chúng ta. Lời Chúa nói phải là cội nguồn của những sự cảm hóa, tốt lành, thánh thiện và ân sủng của chúng ta. Chúa Giê-su nói “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.” Nội tâm hóa Lời Chúa nói trên đây có nghĩa là Lời Chúa nói có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay? Nếu chúng ta không nội tâm hóa Lời Chúa thì chúng ta nghĩ Lời Chúa không có nghĩa gì với chúng ta, bởi vì chúng ta có cần đến Chúa và Lời Chúa đâu! Chúng ta có tội gì đâu! Chúng ta có mù đâu! Chúng ta có bị tù hay áp bức đâu! Nhưng nếu chúng ta thành tâm suy nghĩ: Chúng ta có thực sự khao khát, thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy không? Chúng ta có bị những đam mê, ích kỷ, lười biếng, tham lam, gian dối, nghiện ngập, kiêu căng, tự cao, những tật xấu làm cho chúng ta trở thành mù lòa, bị tù hay bị áp bức không? Hay chúng ta có sống yêu thương, liên kết, hiệp nhất và hy sinh phục vụ cũng như sống công bằng, bác ái và quảng đại để xây dựng giáo xứ, Thân Thể Chúa Ki-tô không? Chỉ khi chúng ta nội tâm hóa Lời Chúa thì chúng ta mới nhận ra được sự mù lòa, sự tù hãm, áp bức và tội lỗi của chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Khi chúng ta cá nhân hóa và nội tâm hóa Kinh Thánh và Lời Chúa nói với chúng ta ngay bây giờ và ngay ngày hôm nay, thì ngày hôm nay mới là “ngày thánh, ngày hồng ân, ngày vui mừng và hy vọng.” Và chúng ta mới tiếp nhận được ân sủng thánh hóa, ơn giải thoát, ơn chữa lành, cũng như sự bình an và sự sống do Kinh Thánh, Lời Chúa mang đến cho chúng ta. Xin Lời Chúa đánh động đến tâm hồn, và ứng nghiệm trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta hôm nay.
Xã hội thời nào cũng có những thiên tài xuất hiện : nói hay, làm giỏi, mang lại sự phồn vinh cho TN3-C144
Xã hội thời nào cũng có những thiên tài xuất hiện : nói hay, làm giỏi, mang lại sự phồn vinh cho dân tộc, đất nước, dân gian vẫn gọi là thời thế tạo anh hùng. Sống trong bầu khí gia đình, các bậc cha mẹ đều ý thức : con cái chính là hoa trái của tình yêu, và hạnh phúc bền vững luôn là sự trù phú làm nên trái ngon quả ngọt. Mơ ước con cháu nên người hữu ích, các cha mẹ thường chăm sóc, đầu tư. Điều kiện để nghe, để nhìn và thấy người tài đức cống hiến phục vụ, nhất định không phải do tình cờ may mắn, nhưng là sự thao thức của trí lòng muốn được toàn thiện, được hạnh phúc.
Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường hôm nay là người hùng không phải do thời thế, mà nhờ tác động của Thánh Thần. Đức Giêsu không chỉ nói hay làm giỏi, Ngài đến để ban phát muôn ơn của Thiên Chúa. Bằng tình yêu của Thánh Thần, Ngài vẫn đang biến đổi nhiều tâm hồn trở nên xứng đáng với ơn cứu độ của Thiên Chúa. Danh tiếng Đức Giêsu lan tràn khắp nơi không phải do Ngài đánh đông dẹp tây, ban bố bổng lộc chức tước. Đức Giêsu giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng, vì trong tâm tư họ vui mừng khi mắt thấy tai nghe về hồng ân cứu độ được ban.
Sứ mạng ban phát muôn ơn nơi Đức Giêsu là kết hiệp cầu nguyện, là nhờ Chúa Thánh Thần soi dẫn, để Ngài biết sống thánh ý Chúa Cha. Đám đông ở hội đường nghe, hiểu, và tâm hồn họ vui sướng hân hoan, cũng là nhờ bởi Thánh Thần hoạt động để tất cả nên một trong tình yêu với Đấng được Thiên Chúa thông ban cho muôn dân. Đức Giêsu trực tiếp ban muôn ơn cho các thính giả tại hội đường, Ngài cũng sẽ ban ơn cho những người ở ngoài hội đường, người được trước người được sau, nhưng đều chung nguồn ơn từ Thiên Chúa ban tặng.
Đến hội đường để cầu nguyện, nhiều người Do-thái vẫn thường đến, và họ cũng từng thấy được ý nghĩa của việc cầu nguyện. Đọc sách ở hội đường, nhiều vị hữu trách tại hội đường vẫn đọc và các thính giả cũng từng nghe. Tại hội đường Nagiarét hôm đó, Đức Giêsu đọc đoạn sách tiên tri Isaia, âm vang của niềm vui đã chạm tới tâm hồn những người ở hội đường. Đặc biệt hơn là từ xa xưa đến giờ, chỉ Đức Giêsu là đủ ơn ban, đủ tư cách để công bố : “hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
Kinh nghiệm của người xưa dạy rằng : không nên nói tất cả những gì mình biết, nhưng bao giờ cũng phải biết những gì mình nói. Đức Giêsu ý thức sứ mạng của Ngài tại trần gian, và trong tất cả mọi hoạt động, Đức Giêsu luôn cho thấy vị trí của Thánh Thần có ở trong Ngài. “Thánh Thần Chúa ngự trong tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao gảng Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Trong ca dao có câu : chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Dân gian vẫn quan niệm như vậy : xem mặt đặt tên, nhìn mặt bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Đám đông ở hội đường năm xưa, họ quan tâm đến Đức Giêsu nói hay, nói giỏi, Ngài làm nhiều việc kỳ lạ mà các kinh sư khác không nói, không làm được như vậy. Trong khi Đức Giêsu đang giới thiệu một niềm tin duy nhất : nói, nghe, hiểu, là nhờ tác động của Thánh Thần, và như thế, mọi người mới sống đúng tinh thần của Tin Mừng. Ngày hôm nay nhiều người đã nghĩ ra được : ta chỉ có một cái miệng để nói, nhưng có hai cái tai để nghe. Trong ý tưởng đó, hẳn mỗi người chúng ta nên nghe nhiều, học hỏi nhiều, để rồi ta sẽ nói và nói thật chính xác về niềm tin, về tình yêu mà ta đang có.
Tục ngữ có câu : trông gà hóa quốc, hoặc trăm nghe không bằng một thấy. Nhìn cho có nhìn, nghe cho có nghe, nhìn không chính xác, nghe mà không hiểu, hoặc hiểu sai thì mức độ trầm trọng nguy hiểm khỏi phải nói rồi, ai có thể lường hết được ? Lời Đức Giêsu đã chia sẻ, Thánh Kinh chúng ta vẫn đọc vẫn nghe, không thể nói, không thể nghe như một “quán tính” cho xong lần. Đọc, nghe, hiểu và sống giáo huấn của Chúa Giêsu phải được đặt niềm tin vào trong đó, phải đặt tình yêu trong Thánh Thần, 33 năm của Đức Giêsu tại trần thế Ngài đã sống tương quan duy nhất đó.
Tình yêu Chúa, ơn ban của Thiên Chúa được Chúa Giêsu lập lại trong hội đường hôm nay : Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,…”. Niềm tin đó, ơn ban đó, luôn là sứ mạng tông đồ của người Kitô hữu chúng ta. Đức Giêsu chính là Đấng ban phát muôn ơn của Thiên Chúa, ở hội đường xưa kia họ đã nghe, và chúng ta hôm cũng nghe, nhưng rất cần phải có tình yêu của Thánh Thần để từng tâm hồn được niềm vui trọn vẹn. Giáo huấn của Chúa, ơn ban của Chúa sẽ không mất đi, không uổng phí, khi tình yêu của Ngài thực sự vững chắc trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
Thánh Thần đã xức dầu cho Đức Giêsu, sai Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy. Và mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng của Thiên Chúa cho anh chị em mình. Mỗi chúng ta hãy ý thức mình là người nghèo ơn Chúa, nghèo tình yêu của Chúa, qua đó mỗi lần cầu nguyện, mỗi lần đọc và nghe Lời Chúa, chúng ta biết đặt tin tưởng tuyệt đối hơn vào tình yêu Thánh Thần. Amen.
Vâng, thưa quý vị, khởi đầu sứ vụ thiên sai, tức cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu tại TN3-C145
Vâng, thưa quý vị, khởi đầu sứ vụ thiên sai, tức cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu tại
Vâng, thưa quý vị, khởi đầu sứ vụ thiên sai, tức cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu tại Nazaret, được loan báo trước từ ngàn xưa. Chính Chúa Giêsu xác định điều ấy. Người nói sau khi đã đọc đoan Thánh Kinh trong hội đường : “ Hôm nay đã ứng nghiện lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. ( c 21).
Vâng, Sứ Vụ Thiên Sai chỉ có duy nhất nơi Đức Kitô, vì Kitô là Đấng được xức dầu tấn phong. Từ thời Isaia đã loan báo Đấng Cứu Độ muôn dân, là Đấng được xức dầu tấn phong. Tiên Tri Isaia là vị tiên tri loan báo nhiều nhất về Đấng Cứu Thế. Vì vậy, tất cả những ai được tháp nhập vào Đức Kitô đều được nhận lãnh tước hiệu là Kitô hữu, là người được tiếp nhận sự xức dầu tấn phong bởi chính một Đấng Kitô duy nhất. Nhưng, theo lời thánh Phao-lô nói : “ Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần.” .
Bài đọc II hôm nay ( 1Cr 12, 12-30) cũng nói về ý nghĩa trên.
Nhưng, sứ vụ thiên sai thừa tác được dành cho một số người đáp lại cách đặc biệt sứ vụ Kitô, tức Đấng được xức dầu tấn phong để đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng, rõ ràng Tin Mừng được rao giảng cho ai ?! Nếu như không phải là đối tượng Tin Mừng. Vậy đối tượng Tin Mừng là ai ? Há chẳng phải là người nghèo hèn, tù tội, mù đuôi, bị áp bức :
“ Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” ( c 18 -19 )
Nhưng, những “ đối tượng của Tin Mừng” nói trên được hiểu theo nghĩa Tin Mừng, chứ không hiểu theo nghĩa đen.
Theo đó, tất cả những ai được kêu gọi ” bước theo ” Đức Kitô là Đấng Thiên sai duy nhất, thì họ cũng trở nên là Đấng Thiên Sai thừa tác để tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô. Mặc nhiên, có những người được trực tiếp rao giảng trên tòa giảng, đó là hàng giáo sĩ. Còn những người rao giảng bằng những phương tiện truyền thông, truyền hình. Và , còn lại đa số là những người rao giảng bằng đời sống.
Theo đó, sứ vụ thiên sai thừa tác và sứ vụ thiên sai cộng đồng đều phải được tháp nhập vào Đức Kitô. Ngoài ra , đều là giả hiệu.
Trở lại Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, khởi đầu sứ vụ rao giảng của Người, Đức Kitô trở về Nazaret, nơi Người sinh trưởng, tức quê hương của Người. Đức Kitô đã xuất hiện ở giữa họ, nhưng, đáng tiếc họ không tiếp nhận Người.
Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta mặc lấy thái độ nào?
Của người Dothai ? Của người môn đệ Đức Kitô? Của người ngoại giáo?
Chúng ta mang sứ vụ thiên sai của Đức Kitô, nhưng chúng ta có mang lấy tâm tình thiên sai của Người không? Chúng ta rao giảng vì chúng ta hay vì Đức Kitô và Nước Trời ?
Năm Hồng Ân là năm gì? Năm Thánh, hay những năm Thánh, như năm nay” Năm Lòng Chúa Thương Xót”. Năm hồng ân của Chúa là mỗi năm trong chương trình cứu độ của Người từ ngày Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta thấy, các Đức Giáo hoàng luôn kế tiếp mở ra những “Năm Thánh”, năm “Hồng Ân” của Chúa.
Như vậy, nếu mù, điếc, câm, què, bị tù tội, áp bức, có nghĩa là thân thể con người bị thế lực satan ràng buộc, nhưng nếu không có ơn cứu độ giải thoát, làm sao chúng ta được cứu?! Theo đó, Tin Mừng là Lời Chúa, sẽ cứu chữa những bệnh tật phần hồn của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu , Ngôi Lời đã đến thế gian, hầu giải thoát con người khỏi thế lực thần dữ là satan. Xin cho con người biết mở lòng ra để đón nhận ơn cứu độ, là lắng nghe và thực thi Lời Chúa, hầu đón nhận ơn giải thoát và bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con./. Amen.
Galilê là một vùng đất phía Bắc xứ Palestine, rộng chừng 80km từ Bắc xuống Nam và 40km từ TN3-C146
Galilê là một vùng đất phía Bắc xứ Palestine, rộng chừng 80km từ Bắc xuống Nam và 40km từ Đông sang Tây. Galilê có nghĩa là vòng tròn, phát xuất từ chữ Galil trong tiếng Do Thái. Người ta gọi thế bởi vì vùng đất ấy được vây bọc bởi các nước ngoại bang.
Vì vậy mà Galilê luôn bị các thứ ảnh hưởng thâm nhập và đã trở thành phần đất tân tiến, ít bảo thủ. Đó là một vùng đông dân cư nhất của xứ Do Thái. Sử gia Josephus, người đã có lần làm thống đốc tại vùng này cho biết rằng miền đó có 204 làng hoặc thành, làng nào cũng có số dân không dưới 15.000.
Không ai có thể tin được Galilê chứa được đến 3 triệu dân.
Thật ra, đó là vùng đất phì nhiêu lạ thường.
Một tục ngữ đã phản ánh điều này: “nuôi một vạn cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa con ở xứ Giuđê”. Khí hậu rất tốt và nước uống dư dật khiến Galilê trở thành một vườn cây của xứ Palestine.
Danh mục các loại cây mọc ở đó chứng tỏ đất rất tốt: cây nho, ôliu, vả, giẻ, hồ đào, thông, cọ, bá hương, trắc, dầu thơm, thông các loại, sung, dương, sim, anh đào, thạch lựu, chanh, trúc đào… Chính người Galilê là những người vùng cao của xứ Palestine. Josephus nói về những người Galilê rằng: “họ chuộng sự mới mẻ, bản tính họ thích đổi thay, và chỉ thích nổi loạn.
Nếu có lãnh tụ nào đứng ra khởi xướng một cuộc nổi dậy là họ sẵn sàng theo ngay. Họ dễ nóng giận và ưa tranh cãi”. Người ta thường nói: “Người Galilê không bao giờ thiếu can đảm”, “người Galilê mê tìm danh tiếng hơn là tìm lợi lộc”.
Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình ở một nơi như vậy, một hoàn cảnh kinh tế và địa lý như vậy.
Thật ra, đó là đất của Ngài sinh trưởng. Nơi mảnh đất này, một số thính giả biết đón nhận và say sưa với sứ điệp của Ngài.
Và rồi, một trong những nơi thăm viếng đầu tiên của Chúa Giêsu là Nagiarét, quê nhà của Ngài. Nagiarét không phải là một làng, nó được gọi là một polis, nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân.
Nagiarét toạ lạc trong một vùng đất của sườn đồi núi Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. George Adm Simth diễn tả phong cảnh từ trên đỉnh đồi như sau: Lịch sử của dân Israel mở ra trước mắt chúng ta.
Kia là cánh đồng Esdraelon, nơi Đêhôra và Barac đã chiến đấu, nơi Ghêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi Saulê đã thảm bại và chính nơi này Giôsia đã bị giết trong chiến trận.
Kìa là vườn nho của Nabôt, chỗ Giêhu giết Giêsabên, kìa nữa là đất Sunem, nơi ngôn sứ Elia đã sống, kìa là núi Cácmen, nơi Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Baan, và xanh xanh ở đằng xa là Đia Trung Hải và các hải đảo! Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó mà lịch sử thế giới cũng mở ra trên đỉnh đồi Nagiarét.
Có ba đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía Nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thương gia chở nặng hàng hoá từ Ai Cập lên tới Đamas.
Và có con đường lớn đi về Phương Đông, cho những đoàn doanh thương từ Ai Cập đến, và cũng có những đoàn quân viễn chinh Rôma tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh; Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ.
Qua những trang Thánh Kinh, ta thấy Chúa Giêsu có thói quen vào hội đường vào ngày Sabat. Tại đó hẳn có nhiều điều Ngài hoàn toàn không đồng ý và làm Ngài cảm thấy khó chịu, nhưng Ngài đã đến đó. Việc thờ phượng tại nhà hội có thể có nhiều thiếu sót, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ qua hiệp thông với dân Chúa bằng thờ phượng trong Ngày của Chúa.
Hội đường là trung tâm đời sống tôn giáo ở xứ Palestine. Trong nước chỉ có một Đền Thờ, nhưng luật quy định rằng hễ ở đâu có mười gia đình Do Thái thì ở đấy phải có một hội đường, và như thế ở trong mỗi thành, mỗi làng, dân chúng nhóm họp thờ phượng trong hội đường. Không có tế lễ trong hội đường. Đền Thờ mới là nơi để dâng của lễ, hội đường chỉ để giảng dạy.
Trang Tin Mừng hôm nay đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ của Chúa Giê-su. Nhất cử nhất động, Chúa Giê-su đều làm mọi việc dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, làm theo tinh thần của Thiên Chúa chứ không phải theo tinh thần của loài người. Khi chịu phép rửa của ông Gio-an, Chúa Giê-su đã được “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu” (Lu-ca 3, 22).
Tiếp đến, “Chúa Giê-su được đầy Thánh Thần… và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu ma quỷ cám dỗ” (4,1,2). Sau đó, “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Chúa Giê-su trở về Ga-li-lê” (4,14).
Cả cuộc đời rao giảng Tin Mừng, ta thấy liên tục “ứng nghiệm lời Kinh Thánh” trong suốt quá trình thực hiện sứ vụ của Ngài.
Nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu, ta thấy biết bao nhiêu bệnh nhân đã được chữa khỏi (kẻ mù được trông thấy, kẻ què được đi, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, thậm chí cả những kẻ đã chết được sống lại).
Rồi biết bao con người khó nghèo, tù đày trong cảnh lầm than, hoạn nạn được giải thoát. Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan như mừng đón năm hồng ân đại xá đã tới. Tất cả đã minh chứng những lời tiên tri của ngôn sứ Isaia đang được thực hiện và được thực hiện nhờ Người, do Người. Cho nên không lạ khi thấy “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” (Lc 4, 24).
Thật sự, không có ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
Ta hãy để lòng mình lắng đọng trong tĩnh lặng để tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn.
Chúng con vừa được nghe một đoạn Tin Mừng do thánh sử Luca ghi lại. 1. Trong bài Tin Mừng TN3-C147
Chúng con vừa được nghe một đoạn Tin Mừng do thánh sử Luca ghi lại.
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiareth của Ngài sau một thời gian vắn đi rao giảng Tin Mừng cho những nơi gần đó.
Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu làm như sau: “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,16-19).
Thái độ của những người trong hội đường lúc đó thế nào? Thánh Luca bảo: Mọi người đều chăm chú dõi theo từng cử chỉ hành động của Đức Giêsu. Charles Erdman một nhà chú giải về Tin Mừng thánh Luca bảo: "Họ không thể nào chống lại cái vẻ dịu dàng của bài giảng, cũng không thể nào chối bỏ được cái vẻ đẹp quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ lại không thể chấp nhận được lời Ngài tuyên bố".
Chúa tuyên bố thế nào mà những người ở Nagiareth không chấp nhận được?
Chúa tuyên bố thật rõ ràng. Chúa mượn lời ngôn sứ Isaia Chúa vừa tuyên đọc rồi Chúa quả quyết: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."(Lc 4,21). Và như vậy Chúa đã chính thức tuyên bố sứ vụ cũng như chương trình hành động công khai của mình cho mọi người.
Đứng trước những lời tuyên bố công khai rõ rệt như thế, người Nagiareth cách riêng và những người Do thái cách chung đều không muốn chấp nhận vì đó không phải là những điều mà dân chúng mong đợi và muốn nghe. Trong thâm tâm của họ, Đấng Cứu Thế phải là người quyền năng, uy lực vô biên; là người đánh Đông dẹp Bắc và mang lại hòa bình cho trăm họ. Thế nhưng, Đức Giêsu lại tuyên bố: Người không phải là Đấng Mêssia theo nghĩa họ mong muốn, mà Người được xức dầu bởi Thánh Thần là để được sai đi: “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó; để công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,16-19). 2. Ngày hôm nay, Đức Kitô vẫn tiếp tục sứ mạng của Chúa qua Giáo Hội mà mỗi chúng ta là những chi thể.
Tờ Times, một trong những tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Nhưng có lẽ lạ lùng nhất là cuộc bình chọn năm 2006, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là... "Bạn" (You). Tức là mỗi một người trong chúng ta.
Bởi thế chúng ta đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ. Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy.
Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi để xây dựng thế giới này. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con". Bởi vậy, lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người "Chúa đã sai tôi đi", cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta "Chúa cũng sai tôi đi".
Mẫu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.
Ngày xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không làm sao để đóng tô - nghĩa là - lợi tức đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu.
Thế rồi một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà nào cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn.
Một ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô tức là lợi tức nữa. Khi mọi người đã đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói:
- Ông chủ biết là các người ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo cho các người hay". Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền dường như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: "Tôi có một Tin Mừng muốn loan báo cho các người". Mọi người xôn xao: "Tin Mừng ư! Tin Mừng gì vậy?" Lúc đó viên quản lý hô lớn: "Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình".
Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.
Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nagiareth cũng là một Tin Mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người. Chúng ta hãy vui mừng và tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần! Xin cho con nhận ra sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới và trong lòng mọi người xung quanh con. Xin cho con luôn tìm đến với anh chị em của con hơn là tìm an nhàn cho chính bản thân mình, để nhờ biết quan tâm đến những người chung quanh, con cũng sẽ được vui hưởng niềm vui Ơn Cứu Độ và lãnh nhận hồng phúc của năm Hồng Ân mà Thiên Chúa đã hứa ban. Amen.
Vào một ngày Sa-bát, ngày cầu nguyện của người Do-thái, Chúa Giêsu vào nguyện đường Na-gia-rét TN3-C148
Vào một ngày Sa-bát, ngày cầu nguyện của người Do-thái, Chúa Giêsu vào nguyện đường Na-gia-rét. Hôm đó có rất nhiều người tới dư:
- Người thì đã biết tin bài giảng của Chúa Giêsu thu hút rất nhiều thính giả trong toàn xứ Galilêa,
- Kẻ thì nghi ngờ về con người Giêsu này, con bác thợ mộc, không học Thần học Kinh Thánh gì cả, lại có khả năng về Kinh Thánh thành thạo được sao? Và họ đã tò mò đến để xem.
- Người khác thì đến đây theo như mọi khi do lòng đạo đức thuần tuý, có hoặc không có Chúa Giêsu tới dự cũng không có gì là khác thường.
Theo thường lệ, người phụ trách cộng đoàn phải yêu cầu một trong những người tới dự đọc một đọan kinh Thánh. Chúa Giêsu đã không chờ đợi để mình được đọc. Nhưng đám đông rất mong Ngài đọc để xem như thế nào. Và Ngài đã chấp nhận lên bục giảng. Ngài mở sách. Ngài dựa vào một đoạn Kinh Thánh đã được Linh hứng, nhưng do con người viết. Ngài đọc cách cung kính và chìm mình vào sứ điệp của Tiên Tri. Người ta thấy Ngài im lặng một lát sau khi đọc và cũng là để mỗi người trong cộng đoàn suy ngắm điều gì đánh động mình nhất. Đoạn sách Ngài đọc là của tiên tri Isaia, mô tả chương trình vĩ đại của Thiên Chúa phải được thực hiện qua Đấng Mêsia.
Có lẽ Chúa Giêsu nói với các thính giả: “Xin quý vị đừng trông chờ một Đấng Mêsia đến để đánh đuổi quân xâm lược Rôma và làm cho Israel trở thành một vương quốc hùng mạnh như thời đại của Salomon. Nhưng là Đấng Mêsia đến để loan báo tin mừng cho người nghèo khó, giải phóng cho những người bị áp bức, mở mắt người mù. Vâng, quý vị thấy điều mà tiên tri Isaia nói: những người thuộc về Thiên Chúa là những người khiêm nhường, bé nhỏ, nghèo khó, bị bắt bớ,bệnh tật và các tội nhân.”
Và sau đó Chúa Giêsu nói tiếp: “Đoạn Kinh Thánh hôm nay đã được thực hiện. Hay nói cách khác: điều mà các tiên tri loan báo hôm nay được thực hiện. Đối với quý vị, quý vị nhận thấy rằng người mù được thấy ánh sáng, người nghèo được rao giảng tin mừng và các con tim được giải phóng. Tất nhiên, đây không phải là một cuộc giải phóng vĩ đại về vật chất cũng như chính trị mà quý vị trông đợi. Nhưng chính là sự giải phóng mà tiên tri loan báo: giải phóng con tim, thăng tiến kẻ khiêm nhường và đau khổ”.
Ngài cũng có thể nói: “thời đại của giao ước cũ đã chấm hết. Đây là giao ước mới. Giao ước mới chính là thực hiện Tin Mừng một cách hữu hiệu. Ơn cứu độ con người được bắt đầu và sẽ hoàn thành vào ngày tận thế, nhưng ơn cứu độ đó đang ở giữa chúng ta và tuỳ thuộc vào mỗi người nếu điều mà chúng ta nghe đang được thực hiện.”
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi”. Giáo Hội của Chúa suốt chặng đường dài trên 2000 năm nay vẫn luôn được Thánh Thần ngự trị, và vì thế Giáo Hội vẫn luôn bám chặt Chúa cho dù gặp nhiều phong ba bão táp của lịch sử. Có cơ chế chính trị nào trên trần gian này bền vững được như Giáo Hội? Giáo Hội bền vững được như vậy chính là vì trung thành với Lời Chúa: “mang Tin mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải phóng cho kẻ bị giam cầm”.
Mỗi người Kitô chúng ta khi đọc Lời Chúa có thể nói được như Chúa Kitô đã nói trong Tin Mừng Hôm nay ứng nghiệm Lời Kinh Thánh không? Lời Kinh Thánh không phải chỉ gửi đến cho các tông đồ xưa kia, cho các tu sĩ, mà là cho chính bản thân chúng ta. Đừng bao giờ để cho Lời Chúa đi qua mà không sinh lợi ích gì cho chúng ta.
Tết sắp đến rồi, chúng ta vẫn có thói quen tốt đi lễ đầu năm để hái Lộc xuân Lời Chúa, chúng ta có hăng hái thực hiện Lời Chúa mà chúng ta đã hái được không? Hay là hái Lời Chúa để rồi vứt bỏ vào sọt rác mà không treo lên trong nhà để nhớ mà thực hiện?
Chính hôm nay Chúa nói với mỗi người chúng ta khi chúng ta cầu nguyện: “khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin…”
Chính hôm nay Chúa nói với mỗi người chúng ta và nhất là với những người có trách nhiệm trong họ đạo, trong cộng đoàn và trong giáo xứ: “chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Chính hôm nay Chúa nói với mỗi người chúng ta khi trong gia đình hoặc trong cộng đoàn chúng ta có điều bất hoà: “phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Và chính hôm nay, cộng đoàn chúng ta nói với Chúa bằng bài hát:
Xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con trong cuộc sống. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài từng theo bước đời con. Cho môi con thắm nét cười Lời Ngài được đem cho thé giới. Cho đôi tay sáng ơn trời, trọn vẹn hành lý cho ngày mai. Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui. Trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai.
Hôm nay tại nguyện đường Nagiarét, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta tính xác thực của Lời TN3-C149
Hôm nay tại nguyện đường Nagiarét, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta tính xác thực của Lời Chúa. Chúng ta thường đưa ra những thắc mắc: không biết bài Kinh Thánh này có thật hay không, hoặc bài Kinh Thánh này khó hiểu quá. Tốt hơn cả, là chúng ta hãy đặt thẳng vấn đề: Lời Chúa hôm nay có trở nên thực tế trong đời sống hằng ngày của tôi không?
Sau khi đọc bài của tiên tri Isaia, một bài đọc cổ điển từ nhiều thế kỷ trước, Chúa Giêsu nói thêm một câu đơn giản: “Hôm nay ứng nghiệm Lời Kinh Thánh”. Có nghĩa là đoạn kinh Thánh mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay trở nên hiện thực: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó…”
Chúa Kitô làm cho Kinh Thánh trở nên sống động và hiện thực ngay hôm nay.. Người xích lại gần với người nghèo, với kẻ tội lỗi, chữa các bệnh nhân, làm cho những ai bị đặt ngoài lề xã hội được trở về với cộng đoàn, cho người mù được thấy, loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Đó là ngày hôm nay của Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Bài Tin Mừng hôm nay có thể được ứng nghiệm trong đời sống của chúng ta không? Thánh Thần Chúa có thể giúp chúng ta rao giảng tin mừng: giải phóng những tù nhân ma túy, rượu chè, cờ bạc; thăm viếng các bệnh nhân và những người cô thế cô thân; trao lại cái nhìn cho những người bị sa sút tinh thần hoặc bị áp bức không?
Chúa Kitô cho chúng ta một tấm gương sáng chói về vấn đề “hôm nay của Lời Chúa” trong dụ ngôn người Samaritanô nhân lành. Một luật sư hỏi Chúa Giêsu: “Ai là anh em tôi”? Chúa Giêsu không định nghĩa thế nào là người anh em lý tưởng, Người kể cho luật sư đó dụ ngôn người Samaritanô nhân lành. Chúa khẳng định người anh em chính là người gần với một người khi cần thiết…Như vậy người anh em không phải là người đã bị đánh trọng thương bên lề đường, nhưng là người gần người khác và đến giúp đỡ người đó. Tôi có thể trở nên người anh em của một ai đó khi tôi gần họ? Và Chúa Giêsu kết thúc câu chuyện bằng cách nói với luật sư đó: “Anh hãy đi và làm như vậy”. “Hôm nay ứng nghiệm Lời Kinh Thánh”.
Chúng ta đang sống trong thế giới hoài nghi và vỡ mộng, cần phải làm cho Lời Chúa sống động và hiện thực. Làm cho Lời Chúa trở nên sống động và hiện thực có ý nghĩa hơn nhiều là cứ tranh luận về những tính xác thực của các bài Tin Mừng, mặc dù tính xác thực này là rất quan trọng và cần thiết.
Nếu đọc tiếp câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình, chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu thế nào đối với người phụ nữ đó. Người nói: “Ai sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi”! Chúng ta sẽ lánh xa đám đông tụ tập làm hại, nói xấu hoặc vu khống, làm mất thanh danh của người khác.
Nếu đọc tiếp dụ ngôn người con trai hoang đàng, chúng ta chấp nhận thay đổi con tim chai đá của chúng ta thành con tim thịt và đáp trả lời mời gọi của người Cha vào phòng tiệc để chúng ta giao hòa với đứa em đã mất và nay được tìm thấy.
Thông thường khi đi lễ, chúng ta nghe những bài đọc sách thánh như có vẻ buồn chán. Có thể là vì chúng ta nghĩ rằng những bài đọc này chỉ phù hợp cách đây trên hai hoặc ba ngàn năm mà thôi. Nhưng trong thực tế, Lời Chúa gửi đến cho chính chúng ta và giải thích cho chúng ta hôm nay. Lời Chúa luôn trở nên cho chúng ta như đã trở nên cho người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp: “một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”.
Mẫu gương của Chúa Giêsu tại nguyện đường quê hương Người mời gọi chúng ta hôm nay cũng hãy làm cho Lời Chúa trở nên sống động và hiện thực trong đời sống chúng ta. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho chúng ta bước, vì Chúa đã nói: “Thầy là Đường, là sự Thật và là sự sống”. Người đã tạo dựng trời mới đất mới. Ước gì mỗi người chúng ta có thể nói được rằng: Hôm nay ứng nghiệm Lời Kinh Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với Giáo Hội Chúa luôn mãi! Nhờ sự dịu dàng của Thần Khí Chúa, ước chi Giáo Hội loan báo Tin Mừng nhưng đừng bao giờ bẻ gãy cây lau đã giập và dập tắt tim đèn còn khói…
Ước chi Giáo Hội là ánh sáng cho mọi quốc gia, dấu chỉ của Giao Ước Chúa với tất cả mọi người. Ước chi Giáo Hội là một mảnh đất Hy Vọng cho tất cả những ai còn bị giam tù trong bóng tối sợ hãi, buồn phiền, ghét ghen và ngục tù của tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với Giáo hội Chúa luôn mãi! Ước chi Giáo Hội Chúa đầy sức mạnh của Thần Khí Chúa! Ước chi Giáo Hội luôn làm điều tốt nhân danh Tình Yêu Chúa giữa mọi người. Ước chi Giáo Hôi luôn làm rạng ngời sự Thánh Thiện của Chúa. Ước chi Giáo Hôi biến đổi vũ trụ này thành một Đền Thờ mà tất cả mọi người đều hát mừng Vinh Quang Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với Giáo hội Chúa luôn mãi! Ước cho Giáo Hội là một điểm tập hợp tất cả những ai tìm kiếm Chúa. Ước chi Giáo Hội nói được như Chúa nói hôm nay: Hôm nay ứng nghiệm Lời Kinh Thánh. Amen!
Mở đầu Tin Mừng, thánh Luca cho chúng ta biết một cách xúc tích về cách thức biên soạn cũng TN3-C150
Mở đầu Tin Mừng, thánh Luca cho chúng ta biết một cách xúc tích về cách thức biên soạn cũng như mục đích của sách Tin Mừng. Theo đó, ngài đã nghiên cứu một cách cẩn thận những điều người viết ra phần lớn để gửi cho dân ngoại, mà đại diện là ông Theophilê, nhằm khẳng định tính khả tín, tính chân thật của giáo huấn. Sau khi chịu phép rửa và vào sa mạc 40 ngày để chịu cám dỗ, giờ đây Chúa Giêsu trở về Galilê để bắt đầu khai mạc sứ vụ rao giảng. Ngài đến quê hương Nagiarét, vào hội đường để giảng dạy. Tại đây, lời ngôn sứ Isaia loan báo về Người đã được ứng nghiệm.
Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng ở Nagiarét. Ngài tuân thủ sít sao các trình tự của thời ấy. Nhưng thay vì qui hướng về quá khứ theo lối bình giải cũ, Người thay đổi hoàn toàn cung điệu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Cái mới của Đức Kitô bùng lên ở điểm này. Trong Người lời công bố và việc thực hiện hoàn toàn trùng khớp với nhau. Chúa Giêsu tỏ mình là một ngôn sứ, và thậm chí là vị ngôn sứ tiêu biểu. Ngài không phải là phát ngôn viên của Thiên Chúa, mà chính Người là Lời của Thiên Chúa. Phần tiếp theo trong văn bản cho ta thấy phản ứng mạnh mẽ của dân chúng đi từ ngạc nhiên đến việc loại trừ. Lời tiên tri trở thành một hiện thực…Ân sủng của Thiên Chúa đã được trao ban, và cần được đáp trả. Việc giải thích nhường chỗ cho việc áp dụng. Và thánh Luca là một chuyên viên về vấn đề này, bởi vì Phúc Âm của thánh nhân được nối dài bằng sách Công Vụ Tông đồ. Đó là một lời mời gọi phải cấp bách biến lời nói thành hành động (Jacky Marsaux ).
Có thể nói lời Ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trước dân chúng Do thái trong Hội đường như là kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời và sứ vụ rao giảng của Người. Chúa Giêsu lãnh nhận Thánh Thần để ra đi rao giảng Tin Mừng. Khởi đầu sứ vụ rao giảng, chúng ta thấy việc ưu tiên của Chúa Giêsu không phải cho những người giầu sang, đạo đức mà chính là cho người nghèo, người bị giam cầm, tật bệnh và áp bức.
Thật vậy Chúa Giêsu chính là Đấng Mêsia được Thiên Chúa sai đến. Con người và sứ điệp của Người chính là Tin Mừng cho mọi người nghèo. Trong suốt cuộc đời rao giảng chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn đến với những người hèn yếu nhất, tội lỗi nhất, sống và chia sẻ những khốn khó với họ để cho họ biết rằng Thiên Chúa luôn yêu thương họ, Thiên Chúa luôn đồng hành với họ.
Thời đại của Người chính là thời đại của ân sủng, thời đại công bố năm hồng ân. Qua Người, Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc để giải thoát muôn người. Qua Người, tất cả những ai tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa đều được chữa lành, được thứ tha và bình an
Theo gương Thầy chí thánh, mỗi người chúng ta với bí tích Thanh Tẩy - cũng được mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, đặc biệt cho những người khốn khổ, nghèo hèn. Nếu ngày xưa Thiên Chúa thông ban tình yêu của người cho nhân loại qua Đức Kitô, thì ngày hôm nay Chúa Giêsu cũng dùng chính mỗi người chúng ta để rao giảng tình yêu của Thiên Chúa cho những người bệnh hoạn, tật nguyền, nghèo đói. Ước mong Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta hăng say ra đi loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho thế giới này.
Vâng, một câu hỏi đặt ra : chúng ta làm gì cho Tin Mừng ? Chúa nhật III TN đã đặt chúng ta trong bối cảnh Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Chúng ta có thể nói rằng đây là Chúa nhật của Tin Mừng, và do đó là một dịp để suy niệm về các tình cảm và thái độ của chúng ta đối với Tin Mừng, một quyển sách tuyệt vời của Kitô hữu. Chúng ta biết rằng Tin Mừng cho chúng ta biết về một sứ điệp: “Thầy đến để cho các con được sống và sống dồi dào.” Từ đó, mỗi người chúng ta vui sướng để vượt qua những gian khó đời người một cách thanh thản, bình an; và biết chia sẻ tin vui này cho tất cả những người xung quanh.
Vâng, “ Chính hôm nay mà Lời này được thực hiện” và việc loan báo Tin Mừng được dành trước hết cho người nghèo. Qua đó, cùng nhau nhắc lại “những ơn lành của Chúa”, không chỉ trong những thời đã qua, mà còn cho năm mới đang bắt đầu. Tin Mừng không chỉ cho thời kỳ của chúng ta, mà chắc chắn cho mãi mãi…
“ Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã sức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn...”. Chia sẻ Tin Mừng là chia sẻ tình yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ, yếu hèn và lầm lỗi trong thế giới này./.