Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 13-C Bài 1-50 Theo Chúa là một chọn lựa dứt khoát -------------------------------------- Phúc Âm: Lc 9, 51-62: "Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy".
Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem, đó là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Thế nhưng: TN 13-C1
Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem, đó là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Thế nhưng, dân chúng ở đây thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét thật tệ hại, đã có từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn ở trong tư thế đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man và đẫm máu, nhất là khi người Do Thái có công chuyện phải đi ngang qua vùng đất này.
Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem.
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Vì phải ngủ qua đêm, nên Ngài đã sai Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị. Ngài hy vọng mọi sự được tốt đẹp, bởi vì toàn cõi Samaria đã biết đến danh tiếng Ngài. Làm gì mà họ lại không được nghe nói tới những việc lạ lùng Ngài đã làm ở Capharnaum và ở nhiều nơi khác.
Thế nhưng, chỉ một lúc sau, hai môn đệ được sai đi trở về, lòng đầy căm tức. Các ông nói:
- Thưa Thầy, nếu Thầy muốn, chúng con sẽ sai lửa trời xuống thiêu hủy họ. Sở dĩ như vậy, vì các ông đã bị họ từ chối, không cho được một chỗ trú ngụ qua đêm.
Chúng ta có thể tưởng tượng ra câu trả lời đầy mỉa mai của họ:
- Nếu Thầy các ông muốn lên Giêrusalem, thì hãy đi thẳng vào những làng mạc của dân Do Thái. Chúng tôi chẳng có liên hệ gì với ông ấy và cũng chẳng cần ông ấy làm phép lạ, bởi vì chúng tôi chẳng có người nào đau yếu bệnh tật.
Rồi họ lại còn đe dọa, khiến cho hai ông cảm thấy cần phải tường trình lại sự việc cho Chúa Giêsu được rõ. Họ đã không tuân giữ khoản luật về việc cho khách đỗ nhà, lại còn miệt thị dân Do Thái và coi thường đền thờ. Hành động như vậy phải chăng là đã đổ dầu vào lửa. Và hơn thế nữa, họ đã không đón tiếp Thầy mình, là Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Như vậy, phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Elia ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ.
Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu đã thực sự đi ngược lại với lòng mong đợi của họ:
- Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu vớt.
Ai sống tinh thần của Chúa sẽ không bẻ gẫy cây sậy đã bị dập nát và không thổi tắt tim đèn còn khói.
Cho tới lúc bấy giờ, các ông có lẽ cũng chưa hiểu thấu được ý nghĩa của dụ ngôn về tên đầy tớ độc ác, được chủ tha cho món nợ khổng lồ, nhưng lại cư xử hà khác với người bạn mình.
Không kết án những người Samaria, Chúa Giêsu đi tới một làng khác và thực hiện đúng như lời Ngài đã dạy:
- Nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con.
Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ hành động một cách nóng nảy và vội vã như các môn đệ. Nhìn thấy tội lỗi tràn lan và những kẻ chống đối Giáo hội không ngừng tìm mọi cách để bôi bác và hạ nhục Giáo hội, chúng ta cũng muốn sai lửa trời xuống tiêu diệt họ.
Thế nhưng, Chúa Giêsu có lẽ cũng muốn nói với mỗi người chúng ta:
- Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu vớt.
Bổn phận của chúng ta là phải cứu vớt những kẻ sa ngã vấp phạm, là phải tìm kiếm những kẻ lầm đường lạc lối, là phải đem Tin mừng đến cho những người chung quanh bằng lời cầu nguyện và nhất là bằng những hành động bác ái, là phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù.
Hãy bắt chước Chúa vì Ngài là Đấng nhân hậu, chậm bất bình và đầy lòng khoan dung.
Trước khi trở thành người sáng lập Dòng truyền giáo mới, gọi là những nhà truyền giáo của Đức: TN 13-C2
Trước khi trở thành người sáng lập Dòng truyền giáo mới, gọi là những nhà truyền giáo của Đức Bác Ai, nữ tu thừa sai Bác Ai, mẹ Têrêxa thành Calcutta đã là nữ tu khấn trọn của dòng các nữ tu Côlôrentô và đang sống trên sự an nhàn tiện nghi của một thầy giáo trường Trung học tại Calcutta, nhưngbỗng chị như cảm thấy sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, từ bỏ nếp sống an lành đang có để ra đi một nơi khác, dấn thân phục vụ người nghèo nhiều hơn.
Trong tập sách có tựa đề là: “Mẹ Têrêxa thành Calcutta” hay “Cây Viết Chì Trong Tay Thiên Chúa”, kể lại giây phút thay đổi tận căn này trong cuộc đời của mẹ Têrêxa. Đó là vào sáng ngày 1.8.1946, mẹ Bề trên cộng đoàn các nữ tu Côlôrentô nhận được bức thư của Đức Giáo Hoàng Piô XII giải lời khấn cho chị nữ tu Maria Têrêxa để được tự do ra đi theo tiếng gọi mới của Chúa. Phản ứng của mọi người lúc đó là ai nấy đều ngạc nhiên không biết mình có làm gì gây phiền cho chị Maria Têrêxa hay không để chị phải ra đi như vậy. Mọi người đều khóc khi phải chia tay chị Têrêxa, vì thật sự chị được mọi người trong cộng đoàn yêu mến.
Phần chị Têrêxa Maria sau khi nhận được bức thơ thì chị rất bình tĩnh và nói một câu vắn tắt: “Bây giờ tôi có thể đi đến xóm nghèo”. Lúc đó chị Têrêxa Maria Calcutta đã phải cương quyết, dứt khoát lắm để có thể bỏ lại mọi tiện nghi vật chất đang hưởng và mọi tình thân thương của cộng đoàn. Sách tiểu sử của chị sau này ghi lại rằng, chị ra đi khỏi cộng đoàn với đôi chân không, hành trang của chị là một xâu chuỗi, một vé xe lửa và năm đồng Rubi trong túi, chị đã dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo Chúa trên con đường Chúa muốn.
Mẹ Têrêxa ra đi bắt đầu công việc phục vụ người nghèo với năm đồng Rubi trong túi, một món tiền không đủ sống cho một ngày bình thường, mẹ đã thực hiện tinh thần theo Chúa như được nhắc đến trong đoạn Phúc âm Chúa nhật XIII Thường niên hôm nay.
Sự dứt khoát, nhất là quyết ra đi như mẹ Têrêxa mà trong túi chỉ có năm đồng tiền là điều mà Chúa muốn những ai theo Ngài phải thực hiện và từ bỏ những cái đang quyến rũ hay níu kéo chúng ta trở lại phía sau, không tiến lên theo Chúa trọn vẹn hơn. Chúa có phải là người tôi yêu mến nhất hay không ?
Truyện cổ Hy Lạp có kể lại câu chuyện của nhà vua Á-rập lên đường đi chu du khắp nơi, với đoàn tùy tùng đông đảo và những con lạc đà chở theo nhiều của cải phân phát trong dân chúng ; dĩ nhiên có nhiều đầy tớ theo phục vụ nhà vua. Khi đi được một ngày đàng, nhà vua Á-rập dừng lại phân phát của cải cho dân nghèo và chỉ giữ lại một ít của cải cho đoàn tùy tùng rồi tiếp tục lên đường. Một số những người theo phục dịch nhà vua không tiếp tục cuộc hành trình theo nhà vua qua sa mạc nữa, nhưng dừng lại để nhận những thùng lương thực mà nhà vua để lại phân phát cho dân chúng.
Đi qua nửa sa mạc, nhà vua truyền dừng lại và để lại những thùng đựng vàng, bạc châu báu mà ban phát rồi nhà vua tiếp tục lên đường. Nhưng lần này thì hầu như tất cả những người theo nhà vua đều ở lại để chia nhau những thùng vàng ngọc châu báu, ngoại trừ một người phục vụ duy nhất đi theo, dù nhà vua không còn gì để phân phối cho nữa. Lấy làm lạ, nhà vua quay lại hỏi anh ta:
- Sao nhà ngươi theo ta mà không ở lại để chia những thùng của cải ta để lại đó ?
- Thưa nhà vua, con theo nhà vua vì lòng yêu mến kính phục nhà vua chứ không phải vì tiền bạc giàu sang, nhà vua là tất cả của con rồi.
Trong cuộc đời mình có bao giờ chúng ta đã thưa với Chúa như vậy không ? Lạy Chúa, con muốn theo Chúa vì yêu mến Chúa chứ không phải vì điều gì khác, có Chúa là phần gia nghiệp của con thế là đủ rồi. Khi dấn bước theo Chúa, trong niềm sốt sắng chúng ta hân hoan dâng bài ca: “Chúa là gia nghiệp đời con”, lúc đó xem ra như không còn gì phân lìa ta ra khỏi tình yêu của Chúa. Thế nhưng tại sao với thời gian tình yêu của ta đối với Chúa bị nhạt dần, bị phai mờ đi vì những thử thách, vì những bám víu, vì những mưu toan lo cho bản thân mà chối bỏ Chúa, chối bỏ không dấn thân sống sứ điệp của Chúa.
Bài Phúc âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ lại một số điều kiện căn bản để sống theo Chúa: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi”. Đây là một phản ứng nồng nhiệt, tình cảm, nhưng Chúa Giêsu cảnh tỉnh ông về cuộc sống theo Chúa là không có sự an toàn êm ả trong một căn nhà êm ấm đâu, mà phải chịu thiệt thòi, phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, kể cả những gì con người tự nhiên có quyền hưởng lấy cho mình. Chúa muốn chúng ta phải có một thái độ dứt khoát theo Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài và vì Ngài mà thôi, Chúa sẽ bù lại gấp trăm nhưng theo cách thức mà Chúa muốn theo ý Chúa an bài chứ, không phải theo ý riêng của chúng ta. Lạy Chúa, xin cho chúng con được dứt khoát theo Chúa cho đến cùng.
Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay: TN 13-C3
Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng để cứu chữa”.
Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài, và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán: “Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con người.
Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa.
Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”. Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.
Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Nếu chỉ đọc lướt qua hay nghe sơ qua bài Tin Mừng, có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên: không hiểu: TN 13-C4
Nếu chỉ đọc lướt qua hay nghe sơ qua bài Tin Mừng, có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên: không hiểu tại sao Chúa Giêsu lại có thái độ khắt khe đối với những người muốn theo Chúa như vậy ? Tin Mừng kể lại trường hợp của ba người khác nhau.
Người thứ nhất, theo Tin Mừng Matthêu, là một kinh sư, tự thân hành đến xin theo Chúa. Anh phấn khởi và tuyên bố sẵn sàng theo Chúa khắp nơi, vì anh thấy nơi Chúa có thể thỏa mãn được những tham vọng của anh, một thứ tham vọng theo kiểu trần thế: giàu có, bảo đảm danh vọng, địa vị. Chúng ta hiểu như vậy là nhờ vào câu trả lời của Chúa. Chúa đưa ra điều kiện làm anh chưng hửng: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ. Còn Con Người không có chỗ tựa đầu:, nghĩa là Chúa cho anh biết: Chúa không có gì bảo đảm cho cuộc sống trần gian, vì nghèo đến nỗi còn thua con chim có tổ, con chồn có hang, và nghèo đến nỗi không có nơi dựa đầu, tức là không có mái nhà để ở. Chúa nghèo như thế đó. Theo Chúa anh cũng phải sống như vậy, anh có chấp nhận được không ? Tin Mừng không cho biết anh ta có chấp nhận điều kiện của Chúa không ? Tức là anh có đi theo Chúa không ?
Người thứ hai, chính Chúa kêu gọi anh. Anh xin phép về nhà để chôn cất cha già rồi đến theo Chúa. Nhưng Chúa không chấp nhận. Chúa cho anh biết: chôn cất cha già là bổn phận cao quí, nhưng còn có một bổn phận cao quí hơn, đó là xây dựng Giáo Hội, tôn vinh Thiên Chúa, cứu vớt các linh hồn. Vì thế, Chúa bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa”, nghĩa là hãy để cho những kẻ trần thế lo công việc của họ, còn anh được ủy thác cho một sứ mệnh cao cả hơn, thì anh hãy đi theo Ngài. Tức là việc phụng dưỡng cha mẹ là cần, nhưng việc rao giảng Tin Mừng lại cần hơn, nên phải ưu tiên hơn. Tin Mừng không cho biết anh ta có đi theo Chúa không?
Người thứ ba, cũng như người thứ nhất, tự mình đến xin theo Chúa. Anh cũng khéo léo nối kết thêm một yêu cầu: xin về từ giã gia đình. Thật ra yêu cầu này cũng chính đáng, nhưng Chúa bảo anh: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Chúa đã dựa vào công việc người đi cày để trả lời cho người thứ ba này về điều kiện đi theo Chúa. Người cầm cày khi cày ruộng, thì luống cày phải thẳng, vì thế, không được ngoái cổ về đàng sau kẻo làm luống cày vênh vẹo, khiến cho đất không cày đều, làm cho đất không tốt cho hạt giống gieo xuống. Cũng vậy, người đã đi theo làm môn đệ Chúa phải có một thái độ dấn thân dứt khoát, không được do dự, ngập ngừng hay chần chừ khiến cho việc theo Chúa bị cản trở, tức là phải quay lưng lại với quá khứ và hướng mắt nhìn về tương lai. Một khi tâm hồn thanh thản, con người dễ dành trọn con tim cho Chúa và tha nhân. Tin Mừng cũng không cho biết người này có đi theo Chúa không ?
Qua những tìm hiểu trên, có người đã thắc mắc: tại sao muốn theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa, phải chấp nhận từ bỏ nhiều thứ, kể cả những điều rất tự nhiên, rất hợp lý như vậy ? Vì thế, nhiều người cho rằng: những điều Chúa dạy bảo ở đây chỉ hiểu về những người đi tu thôi. Nhưng theo các thánh Giáo phụ và các nhà giải thích Kinh Thánh, thì những điều này có thể áp dụng cho tất cả mọi tín hữu. Đúng vậy, chúng ta đã đi theo Chúa, đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tất cả mọi sự, nhưng chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện tại lúc này, chúng ta có coi Chúa Giêsu và nước trời hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự không, hay chúng ta còn ngoái cổ lại đàng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa và nước trời ? Chúng ta có thái độ dứt khoát và rõ ràng đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và tiếc rẻ tất cả?
Rồi theo Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với Tin Mừng, với giới răn của Chúa, chúng ta có thấy mình cần phải từ bỏ gì không ? Như đời sống tội lỗi, thói hư tật xấu, những hành động gương mù, lòng độc miệng dữ, những ý nghĩ sai trái, những lời nói chua cay độc địa… chúng ta có thấy mình cần phải từ bỏ nhiều thứ không ? Tóm lại, Chúa muốn những ai theo Chúa thì phải có thái độ dứt khoát và quảng đại. Xin kể cho anh chị em câu chuyện mà thánh Gioan Bôscô thường kể để dạy cho thanh thiếu niên về lòng quảng đại: Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại và bảo hai ông cùng leo núi với Ngài. Dọc đường, Ngài bảo hai ông, mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một viên đá bỏ vào túi. Gioan, do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hỗn hển. Còn Phêrô, vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan: “Sao anh lại nhọc công vác một tảng đá lớn như thế ?” Chúa Giêsu nghe tất cả, nhưng Ngài thinh lặng. Khi lên tới đỉnh núi, Chúa muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống, rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành ra bánh mì. Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành mẫu bánh mì nhỏ không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào trong bụng ông.
Lần khác, Chúa Giêsu lại cũng gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan, bảo leo núi với Ngài một lần nữa. Lần này Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm lần trước, Phêrô liền đi tìm tảng đá lớn để vác theo. Đường xa, Phêrô phải cố gắng hết sức mới mang được tảng đá cồng kềnh lên đỉnh núi. Ông chờ đợi một phép lạ mà Chúa sẽ làm để tưởng thưởng ông. Thế nhưng, vừa lên tới đỉnh núi, Chúa chỉ nói với họ: “Nào chúng ta hãy ngồi lên tảng đá chúng ta vừa mang theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh đâu”. Phêrô cảm thấy xấu hổ. Ông thưa Chúa: “Thì ra Thầy đã chơi khăm con”. Nhưng Chúa Giêsu mỉm cười bảo ông: “Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại có tính toán và vụ lợi”.
Chúng ta hãy nghĩ xem: chúng ta theo Chúa thế nào ? Chúng ta cầu nguyện, chúng ta hy sinh hãm mình, chúng ta làm những việc từ thiện bác ái với thái độ và ý hướng thế nào ? Chúng ta có đặt điều kiện hoặc trả giá với Chúa không ? Xin mỗi người hãy suy nghĩ.
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể lại, việc Chúa Giêsu quyết định lên Giêrusalem để nộp: TN 13-C5
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể lại, việc Chúa Giêsu quyết định lên Giêrusalem để nộp mình, để thi hành thánh ý của Chúa Cha. Trên đường đi, Ngài ghé vào thành Samaria, nhưng dân chúng không tiếp Ngài, cho nên các môn đệ nổi nóng, đòi xin lửa từ trời tiêu diệt họ. Nhưng, các môn đệ đã bị Chúa Giêsu khiển trách. Bởi vì, sứ vụ của Ngài đến không phải để tiêu diệt, nhưng để cứu vớt. Và đang khi đi trên đường, có ba người muốn xin đi theo làm môn đệ Ngài. Chúng ta không biết sau này, những người này có trở thành môn đệ của Ngài không, nhưng lời của Chúa, có vẻ như là điều kiện quá khắt khe cho những ai muốn theo làm môn đệ của Ngài.
Theo Chúa phải trở nên nghèo khó . Bởi vì, câu trả lời của Chúa, cho người muốn biết Ngài ở đâu. Ngài cho thấy: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người thì không có nơi gối đầu”. Cuộc đời của Chúa sống nghèo khó, Ngài không lợi dụng quyền năng để làm giàu cho mình, để lo cho mình. Nhưng Chúa đã cứu giúp và dành cho người nghèo, kẻ đau khổ và tội lỗi. Khi mới sinh ra, Chúa đã chọn nơi nghèo nàn nhất để sinh ra, nơi hang bò lừa, sinh ra ở nơi chẳng xứng cho một người. Cho nên, Ngài đã đồng hóa với người nghèo, người đau khổ. Ngài cũng dạy các môn đệ, khi đi rao giảng, thì đừng mang theo gì. Người ta cho ăn thì anh em ăn những thứ đó. Chính cuộc đời của Ngài và các môn đệ Ngài, là sống nghèo khó, không tạo cho mình văn phòng, không tích lũy của cải dành riêng cho mình. Bởi vì, ai đến với Ngài, đều được đón nhận lời Chúa, được chữa trừ mọi bệnh tật, không một điều kiện, không đòi hỏi gì. Ngài và các môn đệ sống lay lắt, ngủ đường, ngủ chợ. Khi rao giảng rày đây, mai đó.
Theo Chúa, đòi phải từ bỏ.
Người thứ hai xin theo Chúa, nhưng muốn về chôn cha. Ngài bảo: “Hãy theo Ta, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”. Câu nói này có đi trái ngược với giáo lý Ngài dạy hay không ? Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Ngài dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Còn trong Cựu ước thì nói, kẻ bất hiếu với cha mẹ thì đáng bị xử tử. Còn lời dạy trên đây Chúa không nghiêm khắc đến nỗi không cho người con về chôn cha. Nhưng có lẽ, người cha của chàng thanh niên đó đang bị đau nặng. Nhưng, đòi hỏi của Chúa, tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng, là điều cấp bách, còn hệ trọng hơn cả việc chăm sóc bệnh nhân nữa. Khi theo Chúa, thì phải biết hy sinh, phó thác cho Chúa, biết từ bỏ đi những quyến luyến riêng tư của mình, mà quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa. Trường hợp thứ ba, anh muốn về từ giã gia đình. Cũng vậy, Chúa không cấm việc từ giã người thân, nhưng Chúa muốn kẻ theo Ngài thì biết hy sinh, biết đáp trả lại ơn gọi là điều cần thiết hơn, quan trọng hơn. Cho nên, theo Chúa thì phải biết từ bỏ, từ bỏ những gì quyến luyến với mình, từ bỏ những cản trở để đến với Chúa, luôn sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa “hãy theo Ta”. Theo Chúa, đáp lại lời mời gọi của Ngài, biết phó thác mọi sự cho Ngài. Dù có gặp nghèo khổ, dù có gặp những khó khăn hay thử thách, nhưng người môn đệ biết luôn trung thành với Ngài. Cho nên, muốn trở nên môn đệ Đức Kitô, thì hãy vác thánh giá hằng ngày, để theo Chúa.
Theo Chúa, phải chịu thiệt thòi.
Mỗi người Kitô hữu đều là môn đệ Chúa. Chúng ta biết rằng, mình theo Chúa phải chịu nhiều thiệt thòi lắm ! Thiệt thòi là bởi vì sống ơn gọi Kitô hữu thì phải lội ngược dòng. Tôi không được chiếm đoạt của người khác, tôi cũng không có quyền sống buông thả, chiều theo những dục vọng của tội lỗi. Tôi phải sống tha thứ, ngay cả cho kẻ thù. Còn bổn phận phải chu toàn đối với Chúa nữa. Thay vì bây giờ, tôi có thể lựa chọn ở nhà, để lai rai với bạn bè, có thể ngồi đánh bạc, hay tán gẫu với bạn bè khác hàng giờ ở các quán cà phê, thì tôi lại đến với Chúa, để tham dự thánh lễ, để nghe Lời Chúa. Anh chị em nghĩ coi, theo Chúa làm cho tôi bị hạn chế rất nhiều. Nhưng mà chính trong cái hạn chế đó, tôi biết tôi là ai, và tôi hiện diện ở cõi đời này để làm gì. Không phải là tôi chỉ biết tôi, sống cho tôi, lo cho tôi mà thôi, nhưng tôi còn có bổn phận đối với anh chị em sống chung quanh tôi nữa và tôi cũng phải có trách nhiệm với gia đình của mình với khu xóm. Sống tôn trọng người khác. Chính đời sống đó làm cho cuộc đời tôi trở nên có ý nghĩa, và có mục tiêu rõ ràng. Chính khi anh chị em và tôi đã là Kitô hữu, là môn đệ Đức Kitô, thì những cản trở đó, sự dấn thân đó không còn làm cho tôi mất đi tự do, mà trái lại, còn làm cho tôi có được tự do đích thực hơn nữa là đàng khác. Nếu tôi sống trong tự do của lề luật của Chúa thì lại càng làm cho cuộc sống này trở nên có ý nghĩa hơn, tốt hơn và không những tình yêu của Chúa lan tỏa trong tôi mà còn lan tỏa đến mọi người nữa. Cũng như trong Thánh vịnh 18 nói rằng: “luật pháp Chúa quả là chính trực, làm hoan lạc tâm can”. Cho nên, luật của Chúa chính là sự sống, là con đường dẫn ta đến với Chúa và anh chị em của mình, chứ không như sự chết thì dẫn người ta đến ngõ cụt.
Muốn trở nên môn đệ của Chúa, đòi hỏi ta phải vác thập giá hàng ngày để theo Chúa. Có nghĩa là biết chấp nhận sống nghèo như Chúa. Nghèo ở đây tức là mình biết sống chia sẻ cho anh chị em túng thiếu xung quanh mình, biết phục vụ, giúp đỡ anh chị em mình. Đó chính là sống nghèo khó thật sự là lời chứng sống động và hùng hồn nhất của người môn đệ Chúa Kitô. Hình ảnh những người muốn theo làm môn đệ Chúa hôm nay, còn là lời mời gọi của Chúa với chúng ta là hãy biết từ bỏ những rào cản, những gì nó gắn bó, nó thiết thân, thân quen với mình, đã cản trở, làm cho mình lỡ đi những cơ hội để theo Chúa… Những quyến luyến đó là gì ? Đó là những ích kỷ, những kiêu ngạo, hận thù, ngăn cách ta đến với Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta, biết quí trọng ơn gọi làm Kitô hữu của mình, và sống đáp lại tình thương của Chúa dành cho mình.
Trong cuốn tiểu sử tự thuật, Con Một, nhà văn Ailen Frank O’Connor kể lại một cách sinh động: TN 13-C6
Trong cuốn tiểu sử tự thuật, Con Một, nhà văn Ailen Frank O’Connor kể lại một cách sinh động cái đêm mà sau cùng ông đã quyết định trở thành một nhà văn. Ông đã mất việc làm trong ngành đường sắt ở Great Souther Railway và không có tiền. Những người láng giềng nhìn ông như một tên khùng vô tích sự. Tuy nhiên, ông đã trình ra trước công chúng những điều ông đã viết:
“Hành động tin tưởng hy vọng quan trọng đến nỗi bằng cách nào đó, ở nơi nào đó, tôi muốn chứng tỏ tôi không điên cũng không vô tích sự ; bởi vì giờ đây tôi nhận ra rằng tôi phải trả giá cho mọi sự, và không được quay đầu lại đàng sau. Khi còn là những cậu bé, chúng tôi đến bức tường bao qaunh một vườn cây ăn quả, có vẻ quá cao khó mà trèo qua được, chúng tôi cởi mũ lưới trai ra và ném chúng qua bức tường và rồi không có chọn lựa nào khác hơn phải đi theo chúng. Tôi đã ném cái mũ qua bức tường đời tôi và tôi biết rằng tôi phải đi theo nó, bất cứ nơi nào mà nó rơi xuống”.
Trong Tin Mừng, một cách nào đó, Đức Giêsu đã đối xử tương tự với ba người muốn trở thành môn đệ của Người. Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Người nêu bật sự cần thiết phải cam kết dấn thân và nói rằng không thể quay đầu nhìn lại đàng sau. Nếu bạn muốn cày một luống cày thẳng, bạn phải tập trung chú ý công việc bạn đang làm, không để bị phân tâm. Nếu bạn cứ quay đầu nhìn lại đàng sau, bạn sẽ không làm tốt công việc. Bạn cần phải có sự dâng hiến và cam kết. Nếu bạn bắt đầu công việc như thế, thì bạn toàn tâm toàn ý với công việc ấy.
Mọi người chúng ta đều tra tay cầm cày, không cày này thì cày khác. Thanh niên thì bắt tay vào việc học… vợ chồng thì bắt tay vào cuộc hôn nhân… linh mục thì bắt tay vào tác vụ… còn có thể kể thêm nhiều nữa. Và khi được rửa tội, chúng ta tra tay vào một cán cày khác – đi theo Đức Kitô hoặc gia nhập vào hàng ngũ các môn đệ của Ngài.
Nếu chúng ta cứ nhìn lại đàng sau, thì sự tập trung của chúng ta bị phân tán. Do đó năng lực của chúng ta cũng suy giảm. Chúng ta không dấn thân trọn vẹn. Chúng ta chỉ có một nửa nhiệt tình. Chúng ta hầu như đánh mất thời gian, đánh mất tầm nhìn hướng về mục tiêu, và bị cám dỗ quay trở lại và hoàn toàn rời bỏ công việc. Nhìn lại đàng sau cũng gợi ý rằng chúng ta có những suy nghĩ thứ hai, và có lẽ là nghi ngờ hoặc hối tiếc. Có lẽ chúng ta thấy rằng cái giá phải trả quá cao. Có lẽ những việc khác mà chúng ta nghĩ rằng mình đã từ bỏ vẫn còn giằng co trong tâm hồn chúng ta ?
Nhưng nếu chúng ta nhìn tới trước, chúng ta sẽ có sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ hoàn toàn phó thác. Chúng ta sẽ toàn tâm toàn ý. Điều đó sẽ cho chúng ta sức mạnh to lớn. Tất cả mọi tiềm năng của chúng ta sẽ được tập họp và triển khai cho nhiệm vụ. Chúng ta sẽ không bị chệch hướng. Và do đó chúng ta có một cơ hội tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Những người toàn tâm toàn ý vào công việc sẽ tìm thấy niềm vui, bất chấp gian khổ. Những người không toàn tâm toàn ý sẽ không có được niềm vui ấy. Vậy sứ điệp là: Đừng quay đầu lại ; cũng đừng nhìn lại đàng sau.
Bài đọc một cho thấy Elisê đã nghe theo lời gọi của Elia như thế nào. Sự đáp lại của ông thì toàn diện, và bằng việc giết bò, đốt cày ngăn cản mình quay về đời sống cũ. Trong Tin Mừng chúng ta thấy gương mẫu tốt nhất trong chính Đức Giêsu. Người hướng đến Giêrusalem dù biết rằng sự loại trừ, phản bội và cái chết chờ đợi Người ở đó. Người không muốn đào thoát khỏi con đường đó. Người đã đem lại một gương sáng cho các môn đệ của Người về loại dâng hiến mà Người được đòi hỏi.
Loại dâng hiến ấy là một thách đố lớn. Nó có thể dễ dàng lúc khởi đầu. Nhưng để giữ được sự kiên định, chúng ta cần có ân sủng của Thiên Chúa. An sủng này sẽ giữ chúng ta trung tín với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta kiên trì trên con đường đã chọn, bền bỉ trong nhiệm vụ đã chọn. Lúc đó chúng ta sẽ hiểu được niềm vui của người tận hiến và đến thời gian thuận lợi chúng ta thấy mình đã phù hợp với Nước Trời.
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau:Một con khỉ cầm hai nắm: TN 13-C7
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau:
Một con khỉ cầm hai nắm đậu rồng, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm ; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”.
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã, Chúa trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa”. Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”.
Thực ra, Chúa Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên một, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên một chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa.
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình ; sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Chúa Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho”.
Viktor Frankl bị giam cầm 3 năm trong những trại tập trung Auschwitz và Dachau của Quốc: TN 13-C8
Viktor Frankl bị giam cầm 3 năm trong những trại tập trung Auschwitz và Dachau của Quốc xã Đức. Ông kể lại câu chuyện sau:
Ông là một bác sĩ nên được giao trách nhiệm chăm sóc các tù nhân bị bệnh. Gần cuối cuộc chiến, ông và một bạn tù đã tìm được một cách để vượt ngục. Nhưng trước khi trốn đi, ông đi một vòng thăm các bệnh nhân. Một bệnh nhân sắp chết hỏi “Có phải ông sắp trốn ra không ?” Frankl chối. Nhưng câu hỏi ấy cứ ám ảnh ông, khiến ông có mặc cảm tội lỗi là ông đào nhiệm. Ông thấy mình có lỗi với các bệnh nhân. Cuối cùng ông bảo người bạn kia hãy trốn đi một mình, còn ông thì quyết định ở lại. Từ lúc đó ông thấy lòng mình rất thanh thản. Dù ông biết rằng tiếp tục ở lại trong trại tập trung thì sẽ gặp rất nhiều khổ sở, nhưng ông chấp nhận và cảm thấy rất bình an trong lòng.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng câu “Chúa Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem”. Ngài biết có rất nhiều gian khổ đang chờ Ngài ở Giêrusalem như bị từ chối, bị phản bội và bị giết chết. Nhưng sứ mạng Chúa Cha giao cho Ngài ở Giêrusalem thì Ngài phải hoàn thành, không thể quay lui được.
Đáp lại một người muốn đi theo làm môn đệ Ngài, Chúa Giêsu cũng nói “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Đã dấn thân theo một lý tưởng thì phải kiên trì cho đến cùng.
Điều này ban đầu thì dễ. Nhưng với tháng năm trôi dần, khó khăn tăng thêm thì kiên trì trở nên rất khó. Khi ấy, ta bị cám dỗ “ngoái lại đàng sau”.
Lời Chúa Giêsu nói với người muốn theo làm môn đệ Ngài cũng là nói với chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta theo Ngài không phải trong một thời gian mà theo suốt cả đời.
Xin Chúa giúp chúng ta kiên trì bước theo Ngài, không bao giờ “ngoái lại đàng sau”.
Trên đường lên Yêrusalem, Đức Yêsu linh cảm những gì đang chờ đợi Ngài. Những gì xảy đến: TN 13-C9
Trên đường lên Yêrusalem, Đức Yêsu linh cảm những gì đang chờ đợi Ngài. Những gì xảy đến cho Đức Yêsu và các môn đồ của Ngài trong thời điểm này, soi sáng những tình huống và cách cư xử của mỗi người chúng ta.
Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã
Ngày xưa khi Chúa truyền cho Êlia gọi Êlisa tiếp tục sứ mạng Chúa trao cho ông, ông đã vứt áo choàng trên người Êlisa. Êlisa đã cắm cày, và xin Êlia được phép về hôn cha mẹ để từ giã, trước khi đi theo Êlia; và Êlia đã cho phép.
Với người “tôi xin theo Thầy nhưng xin được phép về từ biệt gia đình trước”, Đức Yêsu trả lời: “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Dường như Đức Yêsu đòi hỏi hơn Êlia với những người đi theo các Ngài? Với cái nhìn của Đức Yêsu, những người do dự, dùng dằng không dứt khoát, nuối tiếc quá khứ, không thích hợp với Nước Thiên Chúa.
Những người được mời gọi đi theo Chúa ngày nay, cũng phải xét lại thái độ của mình đối với Đức Yêsu, xem mình có dứt khoát theo Chúa không? Nếu thái độ của mình không dứt khoát, còn ngoái lại đằng sau, còn quá quyến luyến gia đình, e rằng khó có thể theo Chúa. Xin Chúa cho những người theo Ngài, được ơn chọn Ngài là tất cả để theo Ngài.
Con người không có chỗ tựa đầu
Nếu ai muốn đi theo Đức Yêsu để có một nơi ở yên ổn, để được bảo đảm về vật chất, thì người đó sẽ thất vọng, vì Ngài chẳng có gì: “chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Đức Yêsu nghèo, nhưng Ngài có Thiên Chúa là tất cả. Gia tài của Đức Yêsu, là Thiên Chúa. Lương thực của Đức Yêsu, là làm theo ý Thiên Chúa.
Số phận của Đức Yêsu, tuỳ thuộc thái độ sống của Ngài. Nếu Ngài “khôn ngoan” theo kiểu người đời, chắc không đến nỗi phải chết “ô nhục” trên thập giá. Đức Yêsu đã sống theo lẽ phải, sự thật bất chấp tất cả. Và Đức Yêsu đã sống thật với chính Ngài và Thiên Chúa, đến độ Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết. Số phận của Đức Yêsu vắn vỏi.
Theo tiêu chuẩn người đời, Đức Yêsu không “khôn”, không đạt được những gì con người ngày nay đòi hỏi. Nếu có ai muốn theo Đức Yêsu, muốn “đồng hình đồng dạng” với Ngài, người đó phải tự hỏi xem họ có sẵn sàng nên giống Đức Yêsu trong cách hành xử trong chọn lựa, trong tư tưởng, lời nói, hành động không?'
Đức Kitô giải phóng chúng ta
“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng chúng ta”. Người đời ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền…, Đức Yêsu tự do với tất cả những điều đó, và Ngài trở thành mẫu gương để những ai muốn theo Ngài, cũng được tự do với tất cả.
Nhìn những người nghiện rượu, nghiện xì-ke, mới hiểu thế nào là “nô lệ” khi cơn nghiện hoành hành. Tiền bạc, danh vọng, trai gái, xì-ke ma tuý, có sức hấp dẫn và trói buộc của nó, mà một khi đã vướng vào không dễ gì thoát ra được. Có bao người quyết định bỏ thuốc, bỏ rượu nhưng không dễ để bỏ; những điều này giúp để hiểu những người nghiện ma tuý hơn, vì chuyện nghiện hút thuốc hay nghiện rượu là những “chuyện nhỏ” so với nghiện ma tuý. Tội lỗi cũng có những trói buộc của nó và con người không dễ gì thoát ra được. Tội lỗi trói buộc con người, không để con người được tự do sống theo điều lý trí nhận thấy là đúng. Tội lỗi làm suy nhược ý chí của con người, trói buộc con người vào con đường ác. Ai có thể làm cho người nghiện ma tuý thoát khỏi cảnh nghiện đó? Những người thân rất muốn, nhưng không làm được. Phải chính đương sự muốn, mới có thể làm được (cũng có những người muốn, nhưng họ không thể vượt được khi cơn nghiện đến).
Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương và tha tội cho con người; Ngài cũng là đường giúp con người thoát khỏi ách nô lệ của tội. Qua chính con người và cách sống của Ngài, Ngài dạy cho con người biết đâu là giá trị đích thực: giá trị của cuộc sống nghèo, giá trị của một cuộc đời bình dị. Cuộc sống và cái chết và sống lại của Đức Yêsu, có sức giải phóng con người khỏi tội và ách nô lệ của tội.
Đức Yêsu luôn sống theo Thần Khí, Ngài sẵn sàng để Thần Khí hướng dẫn Ngài trong mọi sự. Ngài ban Thần Khí cho con người, và chính Ngài luôn hiện diện với con người cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang. Để có sự tự do từng ngày, con người cũng phải sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí như Đức Yêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tại sao Đức Yêsu lại đòi hỏi những người theo Ngài như vậy? 2. Bạn có hài lòng với cuộc đời của bạn không? Nếu cho bạn chọn cuộc đời của Đức Yêsu và cuộc đời của bạn như hiện tại, bạn chọn cuộc đời của ai? Tại sao? 3. Bạn hiểu và kinh nghiệm gì về tự do thể lý và tự do nội tâm? Tại sao người sống “yêu thương” là người tự do đích thực?
Một tờ báo tại một thành phố lớn quyết định sẽ cho đăng tải trên tờ báo của họ những bài viết: TN 13-C10
Một tờ báo tại một thành phố lớn quyết định sẽ cho đăng tải trên tờ báo của họ những bài viết ở phần "Thành Phố Nhỏ Tiểu Biểu Tại Hoa Kỳ." Các ký giả và thợ chụp hình đã đi đến một thành phố nhỏ nọ để thu lượm tài liệu. Một trong những người dân địa phương được phỏng vấn là một người 97 tuổi. Nhà báo hỏi ông, "Chắc là cụ đã nhìn thấy nhiều sự thay đổi tại thành phố nhỏ bé này trong cuộc đời của cụ!" Cụ già 97 tuổi liền đáp, "Đúng thế, và tôi đã chống đối lại tất cả những thứ kỳ quặc đó."
Đáng tiếc thay, đó cũng là điều thường xảy ra trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Con người đang bị ngột ngạt với những không khí nặng nề của thuế má, của vật giá leo thang, của chiến tranh. Không những thế, trong gia đình chúng ta thấy giới già thì than là giới trẻ vô trách nhiệm, còn giới trẻ thì than là giới già cổ hủ không thèm nghe những ý kiến tốt, và chúng ta có thể kể ra hàng loạt những thứ khác cho đến khi chúng ta bị dẫn đến chỗ đặt mình vào khung cảnh của chống đối với cuộc sống và tất cả những điều hay tốt ở trong đó. Hơn thế nữa, chúng ta còn có thể là những người ủng hộ cho rằng cuộc sống là một hành trình đi vào bóng tối. Đó là một điều rất dễ làm cho chúng ta nói tiếng "Không được, No" trong cuộc sống, và nhiều người đã bị lâm vào cảnh này. Đó chính là tại sao mà đó là một điều tốt để nhắc nhở cho mỗi người chúng ta rằng cuốn Thánh Kinh là một cuốn sách xác định và Chúa Giêsu là người đã luôn luôn nói tiếng "Được,Yes."
Các thánh ký Thánh Kinh đã khẳng định cuộc sống bằng nhiều cách tuyệt đẹp. Ngay từ ở những chương đầu, các ngài đã diễn tả về việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, và chính Ngài đã nói, "Mọi sự đều tốt đẹp!" Còn ở trong Tân Ước, các thánh ký đã nói rằng Chúa Giêsu Kitô xuống thế gian trong vai trò của một người đến để mạc khải về Thiên Chúa một cách rõ rệt hơn hết; và trong một cách thế tuyệt diệu, Ngài đã nói với con người: thế nào là một con người, thế nào là sống, thế nào là nhận ra những khả năng của mình. Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô là câu trả lời "Yes!" của Thiên Chúa cho cuộc sống của chúng ta. Trong thư thứ hai gởi giáo đoàn Corintô, Thánh Phaolô viết, "Vì Đức Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xinvanô, và Timôthê và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là "có" (Yes) vừa là "không" (No), nhưng nơi Người chỉ toàn là "có" (Yes). Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là "có" (Yes) nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên "Amen" để tôn vinh Thiên chúa" (2 Cor 1:19-20).
"Amen!" chính là cách mà chúng ta đáp lại với Tin Mừng. Chúng ta là những người được nhận diện với Chúa Giêsu nhận thấy mình nói câu "Yes" với Thiên Chúa, chứ không phải câu, "No." Những thái độ "Vâng, Yes" sẽ đem đến cho chúng ta sự sống viên mãn.
Trong ngày Lễ Hiện Xuống, những ai thưa tiếng "Yes" qua Chúa Kitô trong sự đáp lại tiếng "Yes" của Thiên Chúa cảm nghiệm được sự bình an. Chúa Thánh Thần xuống trên họ giống như là những cơn gió và lửa hồng. Thiên Chúa làm cho họ trở thành một cộng đồng cầu nguyện. Thiên Chúa nuôi nấng và đào tạo họ trở thành những con người đi rao giảng. Thiên Chúa đã sai họ đi vào thế giới để rao giảng "Yes" cho cuộc sống.
Cái lối sống của Kitô hữu là lối sống tích cực. Lúc nào cũng phải tích cực! Qua cái lối sống tích cực, chúng ta đi vào trong cuộc sống trọn vẹn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Tận trong thâm tâm của mỗi người, chúng ta ai cũng đều có một ước muốn để sống, sống với tất cả năng lực của mình. Khi cuộc sống của chúng ta bị sa sút, chúng ta thường lâm vào cái cảnh chán trường và tiêu cực. Ngược lại, khi chúng ta nhìn cuộc sống với ánh mắt tích cực, chúng ta có một cuộc sống hạnh phúc và dễ thu hút người khác. Qua sự nhận biết về vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp của mỗi một giây phút cho chúng ta, bởi vì Thiên Chúa ở trong mỗi giây phút đó, chúng ta đặt mình vào trong sự đẹp đẽ của Thiên Chúa và chúng ta được chúc phúc.
Một người đàn bà nọ đang gặp những nỗi gian truân trong cuộc sống đã được tặng cho một câu nói như sau, "Hãy chờ đợi một phép lạ." Người đàn bà đó đã đặt câu đó ở trên một tấm kiếng mà bà vẫn thường nhìn vào mỗi buổi sáng. Lạ lùng thay, từ hôm đó, bà ta bắt đầu nhận ra những phép lạ xảy ra trong cuộc sống của bà ấy. Thái độ tích cực của bà ta đã mở ra cho bà những giây phút được nhận thấy Thiên Chúa ở trong cuộc sống.
Tôi học được một bài học mà nó đi với tôi suốt đời đó là khi chúng ta xác quyết, khi chúng ta mong đợi, khi chúng ta hy vọng, chúng ta đặt mình vào chỗ để được vươn lên và đưa đi bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Một trong những đặc tính của một huấn luyện viên thể thao đó là làm sao để cho đội banh có thể hòa hợp với nhau mà chơi với tất cả khả năng của mình. Nói về mặt cuộc chơi của cuộc sống thì thái độ xác quyết mà chúng ta nói đến không phải là làm sao để trở thành người nổi tiếng nhất thế giới, nhưng là làm sao để mà đáp trả lại sự xác quyết của Thiên Chúa ở trong cuộc sống của chúng ta. Khi chúng ta đáp lại với thái độ tích cực và xác quyết thì cho dù là chúng ta có thắng hay bại, chúng ta đều vẫn vui vẻ và hạnh phúc. Đây là một chân lý trong đạo Kitô giáo.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu gặp ba người muốn theo Ngài làm môn đệ. Cả ba người đều tỏ ra vẻ mong muốn theo Ngài, tuy nhiên, họ đều mong muốn Chúa Giêsu cho họ làm điều này hoặc điều nọ trước khi có thể theo Ngài. Điều đó chứng tỏ ra là họ không có một thái độ tích cực và cương quyết để từ bỏ tất cả để theo Chúa.
Đoạn Phúc Âm này khởi đầu cuộc hành trình của Đức Giêsu về Giêrusalem. Trong cuộc hành: TN 13-C11
Đoạn Phúc Âm này khởi đầu cuộc hành trình của Đức Giêsu về Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này (9:51-19:27), Thánh Luca diễn tả một hình ảnh rất lôi cuốn về Đức Giêsu, người con trung thành và nhất quyết, qua lời nói và qua hành động dạy chúng ta con đường dẫn đến cuộc sống với Thiên Chúa.
(c.51) Trong đoạn Phúc Âm Đức Giêsu biến hình (9:31), Ngài đã trò chuyện với Môsê và Elia về cuộc xuất hành, tức là về sự chết, sự sống lại và lên trời, mà Người sẽ hoàn tất ở Giêrusalem. Trong trang nghiêm, Đức Giêsu bắt đầu cuộc hành trình đi Giêrusalem, thành phố biểu tượng cho sự liên tục giữa cũ và mới trong chương trình của Thiên Chúa, và cũng từ đó lời Chúa sẽ được rao giảng cho mọi dân nước (24:27).
(cc.52-53) Samaria là vùng đất ở giữa Giudêa và Galilê. Cuộc hành trình từ Galilê tới Giêrusalem thuộc Giudêa buộc phải đi ngang Samaria. Vì lý do sắc tộc và lịch sử, người Samaria không thân thiện với người Do thái (như trong Gioan 4:9, Đức Giêsu và người phụ nữ Samaria bên bờ giếng), nhất là đối với những người Do thái phải băng qua xứ của người Samaria trên đường đi đất thánh Giêrusalem. Cho tới bây giờ, người Samaria vẫn tin là phải thờ phượng Chúa ở núi Gerizim, còn Giêrusalem tượng trưng cho tà giáo.
(c.54) "Lửa từ trời xuống" như trong 2Kings 1:10-12, tiên tri Êlia đã hai lần gọi lửa từ trời xuống tiêu diệt kẻ thù. (c.55) Nhưng Đức Giêsu đã hành động như lời Người dạy là không trả thù kẻ thù địch mình.
(cc.59-60) "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" thường được hiểu là những kẻ không dáp trả lời Chúa sẽ bị chết về mặt thiêng liêng, họ còn thời giờ để đi chôn người chết về thể lý. Đòi hỏi của Đức Giêsu còn hơn cả nghĩa vụ hiếu thảo quan trọng nhất của người Do thái là chôn cất tiêm tất cho người cha của mình. Vào thời đó, người con trai cả phải ở với cha mẹ, lo ruộng vườn và lo chôn cất cho cha mẹ. Làm như vậy cũng mất ngót 30 năm. Đức Giêsu thách thức dân chúng đi theo Ngài ngay bây giờ chứ không phải đợi hết bao nhiêu năm sau.
(c.61) Trong 1V 19:19-21, Êlia cho phép môn đệ của mình là Êlisa thời giờ để giã biệt những người trong gia đình, nhưng lời gọi về nước Thiên Chúa còn khẩn thiết hơn.
(c.62) Phương pháp canh nông thời đó còn rất thô thiển, người nhà nông dùng một tay để giữ cày, còn tay kia để điều khiển trâu. Nếu anh ta quay lại thì luống cày sẽ không được thẳng.
Một Điểm Chính
Là người theo Đức Giêsu, điều ưu tiên nhất luôn là Nước Trời. Nó phải vượt trên đời sống thoải mái và mọi liên hệ gia đình không chút do dự hoặc hối tiếc.
Suy Niệm
Phản ứng của tôi thế nào khi tôi bị chối từ trong một nhóm, trong một xã hội hay một quốc gia mới? Tôi làm gì để trung dung trong một xã hội đa chủng? Cảm nghiệm sự khó chịu của Giacôbê và Gioan, nhưng hãy lắng nghe lời nói và hành động của Đức Giêsu lúc ấy.
Hãy tưởng tượng cuộc hành trình của Đức Giêsu từ Galilêa tới Giêrusalem là cuộc hành trình của cuộc đời. Tôi có cùng đích không? Nếu có, cùng đích đó là gì? Ưu tiên trong cuộc sống hiện tại của tôi là gì? Tôi phải đi theo con đường này thế nào?
Theo một tôn giáo thường được gọi là theo đạo. Theo đạo là theo một con đường. Điều này: TN 13-C12
Theo một tôn giáo thường được gọi là theo đạo.
Theo đạo là theo một con đường.
Điều này đặc biệt đúng đối với Kitô giáo (x. Cv 9,2).
Làm môn đệ Đức Kitô là theo Ngài trên con đường Ngài đi, con đường đất quanh co trong xứ Palestine hay con đường đầy chông gai nhọc nhằn của sứ vụ.
Đức Kitô chẳng những dạy Đạo, Ngài còn là Đạo (x. Ga 14,6).
Theo đạo là theo một ngôi vị hơn là theo một giáo lý.
Sống đạo là sống như Ngài, với Ngài, cho Ngài và trong Ngài.
Phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện ba người muốn theo Chúa.
Chúng ta chẳng biết họ là ai, cũng chẳng rõ cuối cùng họ có theo Chúa hay không, nên mỗi người chúng ta dễ thấy mình nơi hình ảnh họ, để rồi chúng ta phải đưa ra lời đáp trả của mình.
Người thứ nhất hăng hái xin theo Ngài đi bất cứ nơi đâu.
Đức Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, ổn định, là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x. 1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu, chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ, chỗ tựa cuối là thập giá.
Cuộc sống nghèo làm Ngài tự do hơn, sẵn sàng hơn trước những đòi hỏi bất ngờ của Cha và nhân loại.
Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã.
Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con. Đức Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
Câu trả lời của Ngài làm chúng ta bị sốc thực sự.
Loan báo Tin Mừng ư? Cần gì phải vội vàng đến thế! Dầu sao cái sốc giúp ta nhận ra mình vẫn quen thờ ơ trước một bổn phận thiêng liêng và hết sức cấp bách.
Người chết nằm xuống thật đáng kính trọng; nhưng có bao người sống đang cần phục vụ khẩn trương.
Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.
Đức Giêsu đòi anh dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Trong đời sống, nhiều lúc ta phải chọn lựa. Chọn lựa là chấp nhận hy sinh, bỏ một trong hai.
Đức Giêsu không dạy ta sống vô cảm hay bất hiếu... Ngài dạy ta can đảm tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã.
Có bao nhiêu cái trước đã chi phối đời ta? Đâu là lựa chọn ưu tiên một? Chúng ta cần sắp xếp lại thứ tự các ưu tiên cho đúng.
Nếu Đức Giêsu gặp tôi hôm nay và mời tôi theo Ngài, tôi có xin phép Ngài để làm cái gì đó trước đã không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong cuộc sống của bạn, có nhiều điều quan trọng và cần thiết. Đâu là 3 điều mà bạn nghĩ là quan trọng và cần thiết hơn cả? Tại sao bạn chọn 3 điều ấy?
Bạn nghĩ gì về thái độ của Đức Giêsu đối với thân mẫu của Ngài dựa trên các sách Tin Mừng? Ngài có hiếu không? Ngài có quá lệ thuộc và Mẹ Ngài không? Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Đời là một con đường: đường đời. Sống là bước vào một cuộc hành trình tiến về phía trước: TN 13-C13
Đời là một con đường: đường đời.
Sống là bước vào một cuộc hành trình tiến về phía trước, để đến nơi mình được thu hút, mời gọi. Nhưng đường đời không luôn luôn bằng phẳng. Có những dốc cao làm chúng ta ngần ngại, có những khúc ngoặt làm chúng ta sợ hãi. Đôi khi ta thấy mình phải đến nơi mình không muốn.
Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này khi Ngài kiên quyết lên đường đi Giêrusalem, dù biết có những nguy hiểm đang chờ mình ở đó.
Đức Giêsu đã phải cố gắng như chúng ta để thắng vượt nỗi sợ hãi và do dự, và đi hết đường đời của mình, vì đó là con đường Cha muốn Ngài đi.
Trên đường đi, Đức Giêsu gặp sự từ khước. Một làng Samari không muốn tiếp đón Ngài. Họ có lý do của họ, lý do có thể rất nghiêm túc. Nhưng điều đó khiến Giacôbê và Gioan nổi giận. Hai ông đòi sai lửa từ trời thiêu rụi cả làng.
Có cần trừng phạt vội vã như vậy không? Có cần dùng sức mạnh Thiên Chúa để tiêu diệt mọi kẻ dữ không?
Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người, kể cả tự do của những kẻ dữ trên mặt đất. Ngài kiên nhẫn chờ họ sám hối và biến đổi. Cả Giacôbê và Gioan cũng phải được biến đổi. Cần có thời gian và cần được huấn luyện để những "đứa con sấm sét" trở thành khoan dung, để Gioan trở thành vị tông đồ dịu dàng suốt đời ca ngợi tình yêu.
Đường đời của người Kitô hữu là đường theo chân Giêsu. Tự bản chất kitô hữu là người đi theo Đức Giêsu.
"Thầy đi đâu, con sẽ theo Thầy đi đó" (Lc 9,57).
Ai có ngờ rằng đi theo Đức Giêsu là đi theo một Đấng không nhà cửa, không nơi trú ngụ, một Đấng nghèo hơn cả loài chim, loài chồn, một Đấng luôn tín thác và chờ đợi tất cả từ Cha.
Các môn đệ đầu tiên đã sống bấp bênh từng ngày, họ đã hy sinh nghề nghiệp ổn định để chấp nhận theo Thầy bữa đói bữa no.
Đức Giêsu mời ta theo Ngài để loan báo Nước Thiên Chúa.
Đây là một công việc khẩn trương và quan trọng, một giá trị vượt trên mọi giá trị khác.
Không cần phải trở về từ giã người thân yêu, không được quay lại đàng sau khi cầm cày, vì tất cả nằm ở phiá trước.
Cũng không cần lo xong việc tống táng cha già rồi mới nghĩ đến chuyện theo Chúa. Ở đây còn có gì trọng hơn chữ hiếu, vượt trên tình cảm tự nhiên của con người.
Lời Chúa hôm nay dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đòi chúng ta phải hy sinh, chấp nhận sự bất ổn, thiệt thòi và đau khổ.
"Hãy tìm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đúng tinh thần của Đức Giêsu, thực thi những lời Ngài dạy, điều đó chẳng dễ chút nào. Riêng bạn, bạn thấy có lời nào của Ngài quá khó đối với bạn không?
Chấp nhận đặt Thiên Chúa lên trên hết là chấp nhận đặt mọi sự khác dưới Thiên Chúa. Bạn có khi nào trải qua một kinh nghiệm chọn Chúa trong nước mắt không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một ngư phủ ít học và đã lập gia đình, để làm vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây nền Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
· 1 V 19: 16b.19-21: (20) Ê-li-sa liền để bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: «Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông». Ông Ê-li-a trả lời: «Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu?» (21) Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông.
· Gl 5:1.13-18: (1) Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. (13) Anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. (14) Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
· TIN MỪNG: Lc 9:51-62
Đức Giê-su đòi hỏi môn đệ phải bỏ mọi sự
(51) Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. (52) Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. (53) Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. (54) Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: «Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ họ không?» (55) Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. (56) Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
(57) Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: «Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo». (58) Người trả lời: «Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu».
(59) Đức Giê-su nói với một người khác: «Anh hãy theo tôi!» Người ấy thưa: «Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã». (60) Đức Giê-su bảo: «Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa».
(61) Một người khác nữa lại nói: «Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã». (62) Đức Giê-su bảo: «Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa».
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao hai tông đồ tức giận với người Sa-ma-ri? Tức giận là vì bản thân bị xúc phạm? hay vì: TN 13-C14
1. Tại sao hai tông đồ tức giận với người Sa-ma-ri? Tức giận là vì bản thân bị xúc phạm? hay vì Đức Giê-su? Hay vì cả nhóm? Nếu tức giận là vì Đức Giê-su, vì thiện chí muốn loan báo Tin Mừng, thì sự tức giận ấy có đáng khuyến khích không? Tại sao?
2. Tại sao Đức Giê-su lại đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ mọi sự? Từ bỏ nào là căn bản nhất? Nếu đòi hỏi phải từ bỏ cả cha mẹ, thì có quá đáng không? Từ bỏ như thế phải chăng là bất hiếu? Phải hiểu sự từ bỏ như thế nào?
Suy niệm
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ thiếu khoan dung và thiếu bao dung của các tông đồ
Trong bài Tin Mừng, ta thấy người Sa-ma-ri không chịu đón nhận Đức Giê-su và các môn đệ chỉ vì các ngài là người Do Thái. Vì thế, hai ông Gia-cô-bê và Gio-an tức giận, đến nỗi muốn trả đũa lại. Các ông đã bị Đức Giê-su quở mắng vì thiếu khoan dung và bao dung, là những đức tính hết sức cần thiết trong việc loan báo Tin Mừng.
Có lẽ các ông nghĩ rằng Đức Giê-su và cả các ông nữa đang là những nhân vật hết sức quan trọng. Đối với các ông, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, từ trời xuống để giải phóng dân Do Thái, sau này Ngài sẽ làm vua. Còn các ông, những kẻ theo Ngài, nếu Ngài là số một, thì ắt các ông phải thuộc hàng thứ hai, là những nhân vật hết sức quan trọng trong dân. Các ông rất có lý khi nghĩ như thế. Vì thế, từ chối đón tiếp Đức Giê-su và những nhân vật quan trọng của Ngài là một xúc phạm lớn.
2. Thái độ đầy tính «tự hủy» của Đức Giê-su
Một điều rất đáng ghi nhận là đang khi các tông đồ – cụ thể là Gia-cô-bê và Gio-an – lại cảm thấy bị xúc phạm, thì Đức Giê-su, Đấng quan trọng nhất trong nhóm, lại có vẻ như không cảm thấy bị xúc phạm. Tại sao? Vì Đức Giê-su đã tự hủy «cái tôi» của Ngài ngay từ trong bản chất của Ngài, trước khi quyết định nhập thể làm người: «(6) Vốn dĩ là Thiên Chúa, Nhưng Người không nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, (7) mà đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm, sống như người trần thế. (8) Người lại còn hạ mình, là vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8). Đã chấp nhận «mặc lấy thân nô lệ», «trút bỏ (mọi) vinh quang», tức là đã chấp nhận cho người ta đối xử với mình sao cũng được, đâu còn muốn đòi hỏi gì? Đòi hỏi người ta phải coi mình là cái chi chi, tức chưa tự hủy triệt để. Còn các tông đồ – tuy được Đức Giê-su tuyển chọn – nhưng vẫn còn coi «cái tôi» của mình là quan trọng. «Cái tôi» ở đây không chỉ là «cái tôi cá nhân», mà còn có thể là «cái tôi tập thể» trong ý thức của mỗi ông. «Cái tôi tập thể» ấy gồm Đức Giê-su và cả các ông nữa.
Thái độ quở mắng của Đức Giê-su chứng tỏ Ngài không đồng tình với việc quan trọng hóa «cái tôi tập thể», cho dù trong ấy Ngài là người số một. Nếu không có tinh thần tự hủy, chắc chắn chính Ngài sẽ cảm thấy bị xúc phạm mạnh hơn các tông đồ rất nhiều, vì Ngài là Con Thiên Chúa xuống trần gian, một nhân vật vô cùng quan trọng. Khi sống tinh thần «tự hủy» như Đức Giê-su, nghĩa là tự coi mình chẳng là gì cả, coi tài đức của mình chỉ là những hồng ân Chúa ban, và coi những việc tốt lành mình làm như chẳng phải mình làm, mà chỉ là do Thiên Chúa thúc đẩy và ban ơn để mình làm, thì ta sẽ không cảm thấy bị xúc phạm. Cảm thấy bị xúc phạm đến mức bực bội là dấu «cái tôi» của ta chưa được thuần hóa bằng tinh thần «tự hủy» của Đức Giê-su. Nếu cảm thấy «cái tôi» dù là cá nhân hay tập thể của mình bị xúc phạm, mà phản ứng lại bằng cách trả đũa như ông Gia-cô-bê và Gio-an, thì còn gì là tinh thần yêu thương, tha thứ, quảng đại… của người theo Chúa? Và như thế làm sao loan báo Tin Mừng và cứu rỗi được người Sa-ma-ri?
3. Làm môn đệ Chúa, cần khoan dung và bao dung
Trong phần trên của đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đòi hỏi những kẻ theo Ngài không những phải từ bỏ hay tự hủy «cái tôi cá nhân» mà còn cả «cái tôi tập thể» ở trong mỗi người nữa. Tự mãn về tập thể mình, tuyên dương và đề cao tập thể của mình trước các tập thể khác, coi tập thể của mình là cao nhất, tốt nhất, thì có gì khác với một cá nhân tự mãn về mình trước các cá nhân khác, tự tuyên dương đề cao mình, coi mình là tốt nhất? Phong cách cá nhân hay tập thể như thế chắc chắn không thu phục được nhân tâm!
Điều quan trọng trong công việc tông đồ là Thiên Chúa được vinh danh, mọi người được cứu độ và hạnh phúc, chứ không phải là «cái tôi» cá nhân hay tập thể của mình được vẻ vang, phát triển. Và Thiên Chúa được vinh danh ở đây không nhất thiết phải là Thiên Chúa được quan niệm theo «cái tôi» cá nhân hay tập thể của mình, mà là Thiên Chúa «đúng như Ngài là», vốn siêu việt và siêu nghiệm: không thể dùng những ý niệm nghèo nàn và hạn hẹp của con người để diễn tả Ngài một cách trung thực «đúng như Ngài là» được.
4. Theo Chúa, phải từ bỏ chính mình
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đòi hỏi những người đi theo Ngài phải từ bỏ tất cả mọi sự để sẵn sàng chấp nhận cuộc sống «không có chỗ tựa đầu» như Ngài. Từ bỏ cả những ràng buộc tình cảm thiêng liêng nhất như tình cảm đối với cha mẹ, anh em ruột thịt, v.v… Thật ra, chữ «từ bỏ» ở đây phải hiểu theo nghĩa tương đối nhưng rất triệt để. Tương đối, vì nó không có nghĩa là từ bỏ thật sự theo nghĩa đen, mà là coi tất cả mọi sự nhẹ trước công việc chính và quan trọng nhất của những kẻ theo Ngài, là thực hiện Nước Thiên Chúa trong đời sống của mình. Triệt để ở chỗ khi có sự xung đột giữa bổn phận ấy với những sự khác thì phải luôn dành ưu tiên cho việc thực hiện Nước Thiên Chúa.
Nhưng điều đó quan trọng nhất cần phải từ bỏ là chính «cái tôi» của mình. Nếu theo Chúa mà còn coi trọng «cái tôi» của mình, thì tất cả những từ bỏ khác đều chỉ là giả tạm. Từ bỏ tất cả mọi sự mà chưa từ bỏ chính «cái tôi» của mình – dù là «cái tôi» cá nhân hay tập thể – cùng với ý riêng mình, tự ái của mình, thì sớm muộn «cái tôi» ấy sẽ quơ lại tất cả những gì nó đã từ bỏ trước đó. Rất nhiều người Ki-tô hữu thánh thiện đã từ bỏ được cái tôi cá nhân, nhưng chưa từ bỏ được cái tôi tập thể là hội đoàn mình, là chính Giáo Hội trước sự đòi hỏi của việc thực hiện Nước Thiên Chúa. Vì thế, đôi khi chính tập thể của mình lại trở thành vật cản trở không cho Nước Thiên Chúa phát triển trong xã hội hay trên thế giới chỉ vì những người trong tập thể chưa từ bỏ «cái tôi tập thể» của mình. Ta vẫn còn coi «cái tôi tập thể» của mình quá quan trọng, coi nó như mục đích thay vì như phương tiện của Nước Thiên Chúa, đồng thời chưa coi nhẹ mình đủ để khoan dung và bao dung, để tôn trọng sự khác biệt giữa mình và người khác. Có tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt của người khác, họ mới có thể tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt của ta, nhờ đó ta mới đem Chúa đến với họ và phục vụ họ được.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho con lòng bao dung quảng đại, biết từ bỏ chính mình, biết sống tinh thần tự hủy để có thể yêu thương và ôm trọn thế giới và mọi người vào trong lòng mình, bất chấp những khác biệt về văn hóa, về cách quan niệm hay lề lối suy tư, để đem Chúa đến với họ, và đem họ về với Chúa, hầu biến thế giới thành Nước Trời tại thế.
"Các người thường nói: "Ráng chiều ửng hồng, rạng đông sẽ đẹp"; hoặc: "Trời kia màu đỏ pha thâm, hôm nay giông gió không nhầm đâu ai". Các người đã biết nhìn điềm trời mà luận thời tiết, cớ sao không biết xem dấu chỉ mà luận thời kỳ?" (Mt 16:1-3).
THỜI ĐIỂM ĐI LỘN GIẦY
Trong nhà xứ chúng tôi ở Louisiana có một linh mục được biệt tài tính toán khá kỹ: TN 13-C15
Trong nhà xứ chúng tôi ở Louisiana có một linh mục được biệt tài tính toán khá kỹ và giỏi về nhiều chuyện. Một hôm Ngài tính chuyện đi mua giầy, chọn hiệu S.A.S, vì giầy hiệu này vừa bền vừa êm. Và cho chắc ăn, Ngài mua một lúc hai đôi: một đôi đen và một đôi nâu; đôi đen thì để đi trong những trường hợp trang trọng như làm lễ và những buổi xuất hiện công cộng; còn đôi nâu thì để đi ra vườn hay đi chơi cho thong thả và đỡ dơ. Vả lại phải mua hai mầu như thế cho dễ phân biệt vì hai đôi cùng hiệu mà cùng mầu thì tránh sao khỏi lẫn lộn. Mua về rồi lại cẩn thận để màu nào vào chỗ nấy để tiện bề xử dụng.
Ấy vậy mà chuyện thật đã xẩy ra: một hôm phải dậy sớm ra phi trường đi xa, Ngài xỏ giầy rồi rồ máy xe ung dung "an toàn trên xa lộ". Sau khi đã soát vé và hành lý xong, Ngài ra ghế ngồi chờ chuyến bay. Có giờ rảnh rỗi nhìn tới nhìn lui, Ngài bỗng phát hiện ra rằng mình ăn mặc rất lịch sự mà lại đi hai chân hai giầy mầu khác nhau. "Lạy Đức Bà, hèn chi từ nãy đến giờ thấy thiên hạ trai gái lớn bé mập còm cứ nhìn mình chằm chằm. Bây giờ biết giải quyết ra sao. Chỉ có nước độn thổ thôi." Loay hoay mãi chưa biết phải làm gì thì may hết sức, nhân viên hãng bay tuyên bố hoãn chuyến bay. Hú hồn! Thế là lo chạy ngay về nhà mà lòng ít thấy thơ thới hân hoan.
CON MẮT SÁNG CỦA TRẬT TỰ MỚI
Con người được trao ban trí khôn biết suy nghĩ. Nhưng dù có tính toán kỹ mấy cũng có lúc vẫn bị hụt hẫng. Chưa kể nhiều lúc con người lại thấy mình đã đạt tới đỉnh cao trí tuệ, mọi sự do con mắt sáng của lý trí và sức mình làm ra khỏi cần ơn nào ban từ trên cả.
Joseph Campbell, một nhà huyền thoại học nổi tiếng vào bậc nhất đã cho biết ý nghĩa những biểu tượng của Trật Tự Mới Tam Điểm được ghi trên tờ một đồng tiền Mỹ trong cuốn "Sức Mạnh của huyền thoại" (The Power of Myth, Doubleday xuất bản).
Con mắt sáng ở đỉnh kim tự tháp trên tờ giấy một đồng tiền Mỹ vốn là một tuyên ngôn của lý trí, của xếp đặt thước đo Thợ Nề Tam Điểm đưa mọi sự vào Trật Tự Mới vuông tròn trái ngọt như khẩu lệnh in phía dưới kim tự tháp: Trật Tự Mới của trần gian (Novus ordo seclorum) với ghi chú rành rành: đây là ẩn tín của triều đại chúng tôi (the Great Seal); phía trên có hàng chữ lạc quan: Người mỉm cười nhìn mọi sự tiến hành tốt đẹp (annuit coeptis). Và phía bên kia là hình tổng thống đầu tiên của Mỹ là Washington, một biểu tượng quyền uy của "triều đại mới", một người đã từng tuyên thệ làm hội viên Tam Điểm. Và tính tới năm 1967 đã có 13 tổng thống Mỹ thuộc Tam Điểm, như Andrew Jackson, James Polk, James Buchanan, Andrew Johnson, James Garfield, William Mckinley, Theodore Roosevelt, William Taft, Warren Harding, Franklin D. Roosevelt, Harry Truman, Lyndon Johnson... Chưa kể mấy ông gần đây. Như vậy lời khẳng định của Joseph Campbell về nhóm người lập quốc Hoa Kỳ thuộc nhóm Tam Điểm quả là một điều đáng chú ý.
HOA NÀO TIN QUẢ ĐẮNG ĐẾN KHÔNG NGỜ
Vậy mà cuối một trăm năm, cuối một ngàn năm, ngồi nhìn lại những tính toán, những xếp đặt, những phát minh, những mớ chủ nghĩa cứ tưởng là cao vời tuyệt kỹ tới mức đỉnh cao trí tuệ loài người, bây giờ con người chuyển mình vào ngàn năm mới, mới vỡ lẽ mọi sự đang trở thành như chuyện nhảm nhí. Xem lại những cuốn phim thời Hitler hay thời Lenin, những cảnh sĩ quan đi giết người về được gắn huy chương tuyên dương công trạng với mặt mũi tự mãn và hãnh diện mà có cảm tưởng buồn nôn như đang nhìn một lũ điên đóng kịch trên xác chết đồng loại. Bây giờ tất cả đã qua đi, ai cũng chết cả rồi, chả biết ai thua ai thắng! Sống với nhau có mấy chục năm trên mặt đất này mà sao loài người nghĩ ra được nhiều cách để hành hạ nhau đến thế.
Riết rồi mới thấy những tính toán, những xếp đặt, dù có hay và kỹ mấy, cũng vẫn có gì hụt hẫng, như chuyện mua hai đôi giầy hai mầu, như câu truyện tàu Titanic đã được đóng thành phim rất thu hút như một thời điểm. Tính như thế thì người Việt mình bảo ngay là "tính cua trong lỗ". Người nhà nông đi bắt cua ở ngoài ruộng có kinh nghiệm rất rõ: đừng đếm hai mươi lỗ cua mà tính sẽ bắt được hai mươi con cua cho bữa bún riêu trưa nay mà trướt nồi. Vì thọc tay vào nhiều lỗ chỉ gặp rắn hay cua đã lột xác bò đi mất từ lâu.
Nhà thơ Du Tử Lê đã diễn tả cái cảnh tính toán chắc ăn của bao nhiêu chủ thuyết, bao nhiêu cuộc đánh đấm tranh bá đồ vương, bao nhiêu bon chen chôm chỉa giành giật, mà chả đi tới đâu, ngược lại chỉ đưa đến những thảm khốc. Hai câu thơ ngắn, gọn, mà chuyên chở cả một biển máu và nước mắt của thế kỷ này trong lúc nhân loại trăn trở tìm mở lối vào năm 2000.
Búp nghi hoặc: -có chăng đời lá: chết!
Hoa nào tin quả đắng đến không ngờ…
Mùa hoa đến tưng bừng như mùa hoa kinh tế của thế giới vào thập niên '60 và '70 từ thời tổng thống Kennedy. Lúc đó ai cũng lạc quan lắm, ai cũng nghĩ hai mươi bông hoa sẽ là hai mươi trái ngọt. Những sách bán chạy nhất vào thời này là những sách viết về cách hưởng thụ "how to enoy". Nào ngờ đâu bước sang thập nhiên '80 và '90, hai mươi bông hoa lại sinh ra tới mười mấy trái đắng, trái chua, trái chát, với những cuốn sách bán chạy nhất viết về cách chữa trị "how to heal"! Nào là chữa trị bệnh AIDS, bệnh ung thư, bệnh ứ mỡ, bệnh ngẹt tim, bệnh ủng thối gia đình, bệnh khùng điên vì thấy đời chán mứa buồn nôn.
Vậy mà hoa nào tin quả đắng đến không ngờ, chẳng phải nơi xã hội, mà bây giờ nhiều người cũng nếm ngay trong nhà mình, trong tâm hồn mình, sau những kiếm tìm, sau những căn me chộp giật cho lợi tức gia tăng...
TIN VUI THỜI ĐIỂM 2000
Sở dĩ quả đắng đến không ngờ là vì con người nhiều khi tìm nương tựa thua cả loài vật: "Con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có nơi gối đầu" (Luca 9:57).
Vì thực ra, con chim con chồn biết "tri thiên mệnh" theo được lẽ Trời, còn con người thì lại đi tìm gối đầu vào nhiều thứ ngược ngạo. Những tính toán gối đầu của con mắt sáng loài người được Chúa Giêsu diễn tả một cách cụ thể qua những truyện đang xảy ra:
- Lo gối đầu vào sự chấp nhận của thiên hạ, tìm nương tựa vào tiếng tăm danh giá, như truyện các môn đệ đòi khiến lửa từ trời đốt cả làng dân Samaria vì đã không chịu đón tiếp thầy trò mình cho phải phép!
- Tìm nương tựa vào vây cánh liên hệ, gối đầu vào các hãng bảo hiểm và ngân hàng có sức bao che đời mình: hãy để kẻ chết chôn kẻ chết.
- Tiếc rẻ bám vào quá khứ vàng son tưởng rằng yên ổn: ai đã tra tay vào cầy mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với nước Chúa.
Chúa muốn loan một Tin Vui lớn: chỉ có Chúa mới là nơi nương tựa gối đầu an toàn, mới làm cho hoa trái thơm ngọt. Đó cũng là câu trả lời mà hội thánh Công Giáo qua tông thư "Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến" của Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô II đang mời gọi mọi người bước vào ngàn năm mới: "
"Nay chúng ta đang tiến gần đến đệ tam thiên niên của kỷ nguyên mới, tâm tư chúng ta hướng về những lời nói của tông đồ Phao-lô: "Khi thời gian đã đến buổi trọn đầy, Thiên Chúa gửi Con Mình đến, sinh từ một người phụ nữ" (Gl 4:4).
"Sự kiện Ngôi Lời vĩnh cửu, trong sự toàn mãn của thời gian đã mặc lấy thân phận của tạo vật, đem lại cho biến cố của Bê-lem cách đây 2000 năm một giá trị hoàn vũ lạ lùng, Nhờ Ngôi Lời, thế giới của các tạo vật được xuất hiện như một hoàn vũ, nghĩa là một vũ trụ được xếp đặt trong trật tự. Và cũng chính Ngôi Lời khi nhập thể, làm mới lại trật tự hoàn vũ nơi các tạo vật" (tông thư, số 3)
Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
Vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ,
Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?"
Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
Là chén phúc lộc dành cho con;
Số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
Trong một cuốn sách nói về tu thiền tại Nhật, có thuật lại câu truyện như sau:
“Một sư phụ dạy thiền có rất nhiều đồ đệ. Một lần kia, trong một cuộc tụ tập để an cư nhập định, một anh đệ tử bị bắt quả tang về tội ăn cắp. Việc này được trình lên cho sư phụ với lời yêu cầu trục xuất tên tội phạm. Nhưng vị sư phụ lờ đi, làm như không có gì xảy ra. Mấy hôm sau, người đệ tử kia lại bị bắt tại trận đang khi giở trò chôm chỉa đồ vật của người khác. Vụ việc lại được trình lên, nhưng dường như sư phụ cũng chẳng bận tâm. Điều nầy làm cho các đệ tử nổi nóng. Họ họp nhau lại, cùng soạn ra một tờ kiến nghị, trình bày hành động xấu của tên ăn cắp, và tuyên bố rằng nếu sư phụ không xử tội hắn thì bọn họ sẽ bỏ theo thầy khác hết.
Đọc qua tờ kiến nghị, vị sư phụ cho gọi tất cả mọi người đến và nói:
“Các anh là những người khôn ngoan. Các anh biết việc nào nên làm và việc nào không nên làm. Các anh có thể đi học với bất cứ vị thầy nào các anh muốn. Còn người anh em đáng thương này, anh ta u mê lầm lạc và thiếu can đảm tránh xa điều xấu. Nếu tôi không dạy thì ai sẽ là người dạy anh ta đây? Nếu tôi từ chối thì ai sẽ là người đón nhận anh ấy? Thế cho nên, tôi sẽ giữ người anh em này lại cho dù tất cá các anh có bỏ đi hết.”
Một dòng nước mắt tuôn xuống trên khuôn mặt của người đệ tử ăn cắp. Tất cả lòng tham muốn của cải người ta tự dưng biết mất khỏi anh.
Nhờ cảm được tấm lòng xót thương mà dòng nước mắt thống hối đã tuôn trào. Thế ra tiến trình hoán đổi con người không nhất thiết là cứ phải kết án, khước từ, hay trục xuất. Sức mạnh có khả năng tái sinh và thăng tiến tâm hồn nhất chính là sức mạnh của tình thương. Chỉ có tình thương, với lòng quảng đại bao dung, cùng sự cảm thông nhân ái mới làm tái sinh và phục hồi những nét đẹp cao quí của tâm hồn con người.
“Tình thương thì hết lòng bao dung, hết lòng kính tin, hết lòng trông cây, hết lòng kiên nhẫn” (1 Cor 13:7). Đó chính là giáo lý của Đức Kitô. Yêu thương là thứ lửa Ngài mang xuống từ trời cao để đốt lên trong tâm hồn mọi người dương thế, chứ không phải thứ lửa của hận thù trả đũa. Giáo lý thương yêu này bàng bạc nhiều nơi trong Tân Ước, từ dụ ngôn Tình Cha (Lc 15) cho đến Hiến Chương Nước Trời (Mt 5), từ Bài Ca Đức Mến của thánh Phaolô cho đến lời khuyên muôn thuở của Thánh Gioan. Nhưng nổi bật nhấn vẫn là câu truyện xảy ra nơi một thành dân ngoại.
Số là khi biết gần đến ngày rời khỏi thế gian, Đức Giêsu đã quyết định lên đường đi Giêrusalem. Con đường thẳng từ Galilê đến Giuđêa băng ngang thành Samari, nơi những người Do Thái tạp chủng cư ngụ. Mối bất hoà giữa người Samari và dân Do Thái đã kéo dài từ bao thế kỷ, không chỉ vì lý do đồng chủng và tạp chủng, nhưng còn vì quan niệm về nơi thờ phượng: một bên thì bảo chỉ có Giêrusalem mới là nơi phượng thờ chính đáng, bên kia lại cho rằng trên núi Samari cũng là nơi thờ phượng chân thật. Không ai chịu thua ai.
Rốt cuộc, người Samari đã tìm mọi cách ngăn cản, có khi còn đả thương những người hành hương đi ngang lãnh thổ của họ. Thế nên chẳng lại gì khi dân thành Samari “không đón tiếp Đức Giêsu, vì Ngài hướng tới Giêrusalem” (Lc 9:53). Nhưng điều hơi lạ là hai môn đệ thân cận của Chúa Giêsu là Giacôbê và Gioan đã nổi nóng khi bắt gặp thái độ “vô lễ và ngoại đạo” của dân Samari: họ xin Chúa cho phép khiến lửa từ trời xuống tiên diệt cả thành.
Chắc hẳn hai ông đã tức giận vì Chúa. Họ nhớ lại hình ảnh của ngôn sứ Êlia trong cuộc biến hình trên núi Tabor ít ngày trước đó, nên muốn bắt chước Ngài xin lửa từ trời thiêu sạch những kẻ thù nghịch.
Nhưng Đức Giêsu đã quở trách: “Không biết thần khí nào đã xúi giục các ngươi? Vì Con Người đến không phải để hủy diệt, nhưng là để cứu sống” (Lc 9:55-56). Chúa Giêsu không đến để kết án, sát phạt, hay loại bỏ, nhưng để tha thứ, chữa lành và giải thoát.
Thái độ của Giacôbê và Gioan có lẽ cũng là thái độ của một vài Kitô hữu, khi vì quá “sốt sắng việc đạo” mà sẵn sàng bất khoan dung với những kẻ chống đối hay trái nghịch lập trường. Họ muốn có biện pháp mạnh, thậm chí cả bạo lực để giải quyết những rào cản bước chân. Nhưng đó không phải là thái độ của Tin mừng. Thái độ của Tin mừng chính là thái độ cao thượng của Đức Giêsu đối với dân thành Samari: nhân hậu với mọi người: ai chưa hiểu mình thì vẫn khoan dung và đối xử tử tế.
Đường lên Giêrusalem của Chúa Giêsu là đường tiến đến đỉnh cao của yêu thương cứu độ. Nhưng yêu là khổ và cứu độ tất phải bỏ mình. Từ bỏ cách dứt khoát và quyết liệt là điều kiện tất yếu dành cho những ai muốn trở nên đồ đệ chân chính của Đức Kitô. Chấp nhận số phận bị khước từ đến nỗi không có nơi gối đầu, hết lòng lo việc Nước Trời đến nỗi hy sinh những liên hệ tình cảm gia đình, và can đảm từ bỏ mọi sự để tiến vào con đường thánh giá, hầu mang lại ơn tha thứ và giải thoát, chính là nẻo đường Thầy trò Đức Giêsu đang đi qua.
Ngày xưa, khi được ngôn sứ Êlia kêu gọi đang lúc cày ruộng, Êlisê đã lấy ngay chiếc cày của mình để đốt lửa thui các con bò làm bữa tiệc lên đường. Hành động tiêu hủy tất cả những phương tiện làm ăn sinh sống chứng tỏ một thái độ từ bỏ dứt khoát: quyết không vướng bận để từ nay chỉ sống cho lý tưởng. Đây phải là mẫu gương cho người theo Chúa.
Không có sự từ bỏ nào lớn lao và khó khăn cho bằng sự từ bỏ chính mình. Mà từ bỏ chính mình cũng có nghĩa là tháo cởi những đam mê xác thịt và mặc lấy thần khí mới của tình yêu.
Tôi nhớ đến lời nhắc nhở của Thánh Phaolô:
“Anh em đừng thoả mãn các đam mê xác thịc... như dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, ma thuật, hằn thù, kình địch, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè đảng, ganh tị, say sưa, chè chén... Nhưng hãy sống theo thần khí với những gì là mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực, hiền từ, tiết độ” (Gal 5:19-23)
Nhìn tới trước và bước đi trên nẻo đường do Thần khí dẫn lối là ta đang đắp xây cho đời nền an bình và tình hiệp nhất mà Đức Kitô hằng mong ước.
Phụng Vụ tháng Bảy mở đầu với Chúa Nhật thứ 13 mùa thường niên. Phúc Âm của thánh lễ được trích từ sách Luca 9:51-62 là trình thuật quyết định của Đức Yêsu đi lên Yêrusalem để hoàn thành cuộc Vượt Qua tại đây, nghĩa là Ngài sẽ trải qua thương khó, bị đóng đinh, tử nạn, được chôn cất, rồi phục sinh.
Theo Luca, Đức Yêsu "nhất quyết đi lên Yêrusalem", để trong sự tự do tuyệt đối của Ngài, Ngài hy sinh chịu chết để cứu rỗi loài người đang sống trong nô lệ tội lỗi mình.
Con đường tự do ấy dân làng Samari không muốn đi theo Ngài! Các môn đồ cũng chẳng muốn đi ngay. Một người được Đức Yêsu mời gọi: "Anh hãy theo tôi!" thì thưa lại Ngài: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã." Người thứ nhì được kêu gọi đã đáp ứng Ngài với một điều kiện: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã."
Với người thứ nhất, Đức Yêsu đã đưa ra một phát biểu thật bí nhiệm, rất khó hiểu: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết!" Lời này không có nghĩa Ngài chống đối việc chúng ta lo liệu tang chế, ma chay cho các người thân yêu của mình. Theo một nghĩa nào đó, lời tuyên bố của Ngài có thể hiểu là những kẻ từ khước Ngài thì giống như những kẻ đã chết – đã chết vì họ khước từ Chúa của sự sống, nhưng lời ấy cũng là cách thức Đức Yêsu nói rằng chúng ta phải quyết định là không gì có thể quan trọng hơn sự trung thành, trung tín, gắn bó với Ngài.
Với người thứ nhì, Ngài khẳng định: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa". Đức Yêsu mời gọi chúng ta theo Ngài lên Yêrusalem, tức lên Đồi Sọ, với một sự dứt khoát, không đắn đo, không điều kiện nào hết, kể cả những việc chúng ta phải chu toàn cho gia đình mình.
Ngài không bằng lòng cho chúng ta "ngoái lại đàng sau", vì đó là thái độ chúng ta tiếc rẻ, muốn bắt cá hai tay, dính bén những sự đời này, những vật chất, danh vọng, quyền uy, chức tước thế gian này. Ngài mời gọi chúng ta lên Yêrusalem để chúng ta được giải thoát, được giải phóng, được tự do đích thật, khi chúng ta cùng chịu đóng đinh với Ngài trên thập tự cho tội lỗi và xác thịt mình.
Bạn có muốn kinh nghiệm một sự thay đổi tận căn trong cách mình suy nghĩ và hành động chăng? Bạn có muốn nhận sự khôn ngoan và hướng dẫn của Thiên Chúa trong cách mình liên hệ với những người xung quanh chăng? Bạn có muốn biết quyền năng Thiên Chúa khả thể giúp mình hành động theo minh triết của Ngài chăng? Vậy, bạn đừng tránh né thập giá! Bạn đừng bịt tai lại khi Thần Khí thức tỉnh lương tâm bạn hoặc đưa ra một lãnh vực nào đó trong đời sống bạn cần được đóng đinh cùng Chúa Kitô. Thay vào đó, bạn hãy "nhất quyết đi lên Yêrusalem" như Đức Yêsu, để ôm lấy thánh giá. Bạn chớ sợ cái giá mình phải trả. Điều bạn đạt được sẽ không là gì nhỏ bé hơn một đời sống Kitô hữu tràn đầy quyền năng cho chính mình, và quyền lực Thiên Chúa tuôn trào từ bạn ra đến gia đình, thân hữu và mọi người bạn gặp trên đường đời.
(Tu Viện Majella, Baldwin Park, CA, June 11, 2001) ( Trích Người Tín Hữu)
Bài Tin Mừng Chúa nhựt hôm nay gồm 2 chuyện: 1. Chuyện một làng Samaria không đón: TN 13-C18
Bài Tin Mừng Chúa nhựt hôm nay gồm 2 chuyện:
1. Chuyện một làng Samaria không đón tiếp Đức Giêsu: Trước sự việc trái ý này, một lần nữa, Gioan (và Giacôbê) biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
- Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
- Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
- Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Thái độ Chúa Giêsu dạy hai bài học:
- Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
- Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
2. Chuyện 3 người muốn làm môn đệ Đức Giêsu: Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.
- Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một "rabbi" nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với "rabbi" đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1,37-49)
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các "rabbi": cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (x. chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.
- Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.
- "Mặc cho kẻ chết chôn người chết". Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15,3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
- Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1.V 19,19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày "đầu ngoái lại sau": còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị vv...), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.
Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
B.... nẩy mầm.
1. Không nên phản ứng theo cảm xúc tự phát, nhất là cảm xúc nóng giận. Phải phản ứng theo định hướng căn bản của sứ mệnh của mình: không nhằm giết chết mà nhằm cứu chữa.
2. Quyền hành không phải để trừng trị kẻ không làm đúng ý mình, mà để phục vụ.
3. Theo suy nghĩ của loài người, nhường là thiệt thòi, nhịn là nhục. Nhưng theo suy nghĩ của Chúa, nhịn nhục là biểu lộ một nhân cách rất vững vàng và một tấm lòng rất khoan dung.
4. Một Cha sở già kia có nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau: "Khi các con thấy trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau: "Để sáng mai rồi hãy gây gỗ". Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là nhỏ nhoi không đáng gây gỗ chút nào. Khi các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài một ngụm nước lạnh cho đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm nước khác. Làm như thế các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình. (Trích "Phúc")
5. Nhiều lần trong lúc sốt sắng, tôi cũng thưa với Chúa "Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy". Thế nhưng trên thực tế con cũng như các nhân vật xưa đã không thực sự theo Chúa vì những thành kiến (như dân làng Samaria); hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ (3 người được kể trong Tin Mừng hôm nay).
6. "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu": đôi khi tôi cũng gặp cảnh thiếu thốn cả những tiện nghi cơ bản như thế. Cám ơn Chúa vì khi đó con đã không rút lui. Nhưng thú thật là tinh thần con đã bị chao đảo, nhiệt tình con đã bị nguội lạnh.
7. "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết": Tuy là môn đệ Chúa, tức là người chuyên lo những việc của Nước Trời, nhưng đầu óc tôi vẫn còn vấn vương những lo lắng thế tục, lo cho gia đình, cho những người thân. Chúa không cấm tôi nghĩ đến những việc đó và những người đó. Nhưng Chúa khuyên tôi đừng để những lo lắng ấy xâm lấn nhiệm vụ chính hiện tại của tôi, ngoài ra tôi còn phải biết phó thác vào Chúa quan phòng nữa.
8. "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng…": quá khứ mà Chúa dạy tôi phải quên đi là những quyến luyến tình cảm thế phàm, những ước mơ thế tục, kể cả những mặc cảm tội lỗi xa xưa…
9. Một linh sư ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông. Có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc quý như của lễ ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, người đàn ông giàu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc. Nhưng mất một ngày mà không tài nào tìm lại được. Chiều đến, người đàn ông đến xin vị linh sư chỉ rõ nơi ông đã ném viên ngọc quý. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném luôn xuống sông và nói: "Ta đã ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm".
Chúa Giêsu cũng đòi hỏi môn đệ Ngài một thái độ từ bỏ dứt khoát như thế. ("Mỗi ngày một tin vui")
Nghe đoạn Tin Mừng nầy có lẽ cảm tưởng đầu tiên của chúng ta là: Sao Đức Giêsu đòi hỏi nhiều quá, ai có thể theo Người một cách triệt để như thế được? Nhu cầu tự nhiên của mọi người là có một chỗ ở, một nơi nương tựa; trong cuộc sống chung, con người có những nghĩa vụ phải chu toàn, chẳng việc chôn cất thân quyến, những lễ nghi thủ tục đối với gia đình. Những đòi hỏi để trở thành môn đệ Đức Giêsu xem ra không thực tế và không thuyết phục chúng ta.
Để hiểu lời Người dạy, cần nhìn vào vào cuộc sống của Người. Đức Giêsu đã sống tất cả những gì Người đòi hỏi các môn đệ: không có chỗ ở cố định, đặt các bổn phận gia đình qua một bên, không từ giã khi ra đi. Người sống như thế không phải vì Người coi thường những điều trên, nhưng chính vì một sứ mạng quan trọng nhất: thực hiện thánh ý của Chúa Cha, đem Nước Trời đến cho nhân loại. "Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem". Bối cảnh nầy giúp chúng ta hiểu động lực nào thúc đẩy Người hành động như vậy. Người biết điều gì chờ đón Người nơi đó, Người quyết tâm đi đến đó để thực ý Chúa Cha. Đây là giây phút quan trọng, có tính cách quyết định trong cuộc đời Người. Ở giây phút đó, tất cả những lo lắng cho cuộc sống hằng ngày, những lễ nghi rườm rà trong sự giao tiếp đều mất tầm quan trọng.
Đức Giêsu đến trần gian với một sứ mạng rõ rệt và đó là điều quan trọng hơn cả đối với Người: Thiên Chúa, Cha của Người, muốn bày tỏ lòng yêu thương nhân loại và muốn cứu rỗi họ. Chỉ Thiên Chúa cao cả với thánh ý của Người mới làm cho Đức Giêsu được sung mãn, Người xem đó là điều quan trọng trên hết, đến độ con đường của Người vượt lên trên những thách đố nhân bản và biểu lộ được điều quý giá nhất cho con người. Theo Đức Giêsu, người môn đệ tìm được kho báu quý giá nhất mà họ hằng ước vọng trong thâm tâm và đạt được một bậc thang giá trị chính đáng cho những chọn lựa trong cuộc sống: họ nhận ra tính tương đối của những mối tương quan và các giá trị khác. Điều đó giải thoát họ khỏi nhiều áp lực của cuộc sống, của môi trường chung quanh.
Đức Giêsu kêu gọi chúng ta theo chân Người trên những con đường khác nhau, theo những ơn gọi khác nhau, với những cách thức thể hiện khác nhau. Người không đòi hỏi tất cả mọi kitô hữu theo một con đường triệt để duy nhất, nghĩa là lìa xa gia đình, rời bỏ nhà cửa, quê huơng. Tuy nhiên, Người đòi hỏi môn đệ của Người phải có cùng một mục tiêu và cùng một tính chất triệt để như Người: thực hiện ý của Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh sống. Chẳng hạn, chúng ta phải ý thức ngôi nhà không phải nơi ở cuối cùng, nhưng qua con đường của Đức Giêsu chúng ta phải tìm về nơi cư ngụ vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời. Những con đường theo Đức Giêsu không khác nhau ở mức độ triệt để, nhưng ở hình thức thể hiện.
Triết gia Martin Buber có kể về đạo sĩ Naftali ở Ropschitz như sau: Trong thành phố nầy, những người giàu có thường mướn người bảo vệ nhà ban đêm. Những người nầy đi bách bộ chung quanh khu vực họ phải canh. Một buổi tối kia, đạo sĩ Naftali đi bách bộ trong phố. Ông gặp một người bảo vệ và hỏi anh: "Anh đi cho ai?" Anh nầy nói tên người chủ của anh và hỏi lại đạo sĩ: "Còn ngài, thưa đạo sĩ, ngài đi cho ai?" Câu hỏi đánh động ông như một mũi tên nhọn, ông trả lời một cách cực nhọc: "Cho đến bây giờ, ta chưa đi cho ai cả". Im lặng một hồi lâu, ông hỏi người bảo vệ: "Anh có muốn làm việc cho ta không?". Anh bảo vệ trả lời: "Tôi muốn lắm và tôi phải làm gì cho ngài?". Đạo sĩ trả lời: "Anh phải nhắc ta điều đó".
Ngụp lặn trong những thăng trầm của cuộc sống, bị chi phối bởi trăm ngàn công việc, Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta ý thức lại đâu là điều chính yếu trong cuộc sống, đâu là ý nghĩa sau cùng cho cả cuộc đời. Thường xuyên tiếp xúc với lời Chúa, để lời Chúa thấm nhập vào tâm hồn; tìm cách chuyển đạt lời Chúa và kinh nghiệm sống cho người chung quanh một cách dễ hiểu; và loan báo Nước Trời qua cuộc sống chứng tá. Đó là con đường để thực hiện sứ mạng của mỗi kitô hữu ở mọi thời và ở mọi nơi, như Tin Mừng mời gọi: "Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa."
Theo phụng niên của Giáo Hội, Chúa Nhật tuần này chúng ta ở vào tuần XIII của Mùa Thường Niên. Như tuần trước chúng tôi đã nhận định về ý nghĩa khác nhau của hai thời đoạn Mùa Thường Niên, thời đoạn Hậu Giáng Sinh và thời đoạn Hậu Phục Sinh, một yếu tố chúng ta cần phải để ý trong việc suy niệm Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và bài Phúc Am nói riêng. Hôm nay, chúng tôi xin lập lại ý nghĩa của hai thời đoạn Mùa Thường Niên này, và chúng ta sẽ thấy ý nghĩa ấy rất hợp với bài Phúc Am được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật XIII Thuòng Niên Năm C hôm nay.
Thật vậy, nếu ý nghĩa của Mùa Thuòng Niên Hậu Giáng Sinh là ở chỗ Giáo Hội tuỏng kính Mầu Nhiệm Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho chung dân Do Thái, nhất là cho riêng các môn đệ, cho tới khi Người tử giá trên đồi Canvê, một biến cố được tưởng niệm trong Tuần Thánh, cũng như cho tới khi Người sống lại từ trong cõi chết, một biến cố đuọc cử hành trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, thì ý nghĩa của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là ở chỗ Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại, qua Giáo Hội Nhiệm Thể Người, trong Thánh Thần Người đã thông cho các tông đồ khi Người sống lại từ trong cõi chết, cũng là Vị Thánh Thần Người đã từ Cha sai đến với Giáo Hội trong Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem, Vị Thánh Thần dùng Giáo Hội để làm chứng về Chúa Kitô cho tới khi Người lại đến trong vinh quang.
Vậy, căn cứ vào ý nghĩa của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh như vừa được phân biệt với Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, chúng ta có thể hiểu được tại sao Giáo Hội bỏ các câu Phúc Am của Thánh Luca đoạn 9 từ câu 25 đến 50 để nhẩy sang câu 51 đến 62 cùng đoạn. Chúng ta còn nhớ là bài Phúc Am cho Chúa Nhật Thuòng Niên XII Năm C tuần trước đuọc Giáo Hội trích cũng từ Phúc Am Thánh Luca đoạn 9 từ câu 18 đến 24 về căn tính của Chúa Kitô liên quan đến sứ vụ chứng nhân của các tông đồ. Sở dĩ Giáo Hội không đọc tiếp Phúc Am Thánh Luca mà lại nhẩy vọt như vậy, theo tôi, là vì phần bỏ qua này không hợp với ý nghĩa của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, như về biến cố Chúa Biến Hình trên núi từ câu 28 đến 36 đã đuọc Giáo Hội tưởng kính vào Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay, hay về việc Chúa trừ thần ô uế cho người con trai từ câu 37 đến 43, một việc Người đích thân tỏ mình ra, hợp với ý nghĩa của Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh hơn là Hậu Phục Sinh. Đúng thế, ý nghĩa của bài Phúc Am theo Thánh Luca hôm nay, cùng đoạn 9, từ câu 51 đến 62, là tiếp tục ý nghĩa về vai trò môn đệ là chứng nhân cho Chúa Kitô của bài Phúc Am tuần trước, một ý nghĩa hoàn toàn hợp với Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh.
Bài Phúc Am hôm nay, về phương diện bố cục văn từ, được chia làm hai phần, phần nhất về sự kiện Chúa Giêsu lên Giêrusalem nhưng dọc đường không được dân làng Samaritanô tiếp rước, và phần thứ hai về điều kiện cần có để theo Chúa của ba người khác trường hợp nhau. Vậy mối liên hệ giữa hai phần của bài Phúc Am hôm nay như thế nào, nhất là câu “hãy để kẻ chết chôn cho kẻ chết” nghĩa là gì, chết rồi mà còn có thể chôn cất nhau đuọc hay sao?
Căn cứ vào ý nghĩa của thời điểm Hậu Phục Sinh liên quan đến Mầu Nhiệm Chúa Kitô được tỏ hiện qua Giáo Hội là nhân chứng của Người, chúng ta chẳng những sẽ thấy được hai phần của bài Phúc Am Chúa Nhật XIII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay rất ăn khớp với nhau, mà còn hiểu đuọc cả ý nghĩa của câu “hãy để kẻ chết chôn cho kẻ chết” nữa. Ở phần kết thúc chia sẻ bài Phúc Am Chúa Nhật XII Mùa Thường Niên Năm C tuần trước, tôi đã nhắc lại lời Sách Khải Huyền ở đoạn 14 câu 4 về tính cách chứng nhân của người môn đệ đích thực Chúa Kitô là “đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới”, như Mẹ Maria là người môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô đã đứng dưới chân thập giá của Người vậy. Trong bài Phúc Am Chúa Nhật XIII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, chúng ta thấy, là môn đệ của Chúa Kitô, của “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”, như vị tiền hô của Người xác nhận trong Phúc Am Thánh Gioan đoạn 1, câu 29, các tông đồ cũng theo “Con Chiên đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới”, tức nhất định theo Người lên Giêrusalem là nơi, như Người đã tiên báo cho các vị biết những gì bất hạnh nhất sẽ xẩy ra cho Người ở Phúc Am Thánh Luca tuần trước, một lời tiên báo cũng được Người lập lại một lần nữa cho các vị hay ở các câu 43 và 44 truóc bài Phúc Am hôm nay.
Tuy nhiên, dù có đi theo Thày và đồng hành với Thày lên Giêrusalem với tư cách là môn đệ của Người đi nữa, thực tế cho thấy, các vị cũng còn và vẫn còn cách xa Người lắm lắm. Đó là lý do Phúc Am hôm nay đã nhắc đến sự kiện “Người quay lại quở trách các vị”. Đúng thế, cho dù các tông đồ, qua Phêrô, có thực lòng tin tưởng và tuyên nhận “Thày là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa”, như bài Phúc Am tuần trước thuật lại, thế nhưng, vì Thần Chân Lý chưa đến với các vị, do đó, các vị đã có những tác hành hoàn toàn tương khắc ngược phản với niềm tin của các vị. Điển hình nhất là sự kiện được Phúc Am hôm nay thuật lại là “Giacôbê và Gioan thưa cùng Người: ‘Lạy Thày, Thày có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy đám dân này đi chăng?’” Tại sao? Tại sao các vị lại có một thái độ và phản ứng quá dữ dằn và độc ác như vậy? Nếu không phải tại vì các vị cứ tưởng và mơ tưởng rằng “Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa” chỉ được sai đến để giải phóng dân Do Thái mà thôi, như nội dung câu các vị hỏi Chúa Kitô trước khi Người thăng thiên về trời, “giờ đây có phải là lúc Thày sắp phục quốc cho dân Israel không?”, được Sách Tông Vụ ghi nhận ở đoạn 1 câu 6, cho thấy rõ điều ấy, hay ở Phúc Am Thánh Luca từ câu 46 đến 50 ngay trước bài Phúc Am hôm nay cũng cho thấy như vậy, cho thấy các vị đang tranh luận với nhau về ngôi thứ của mình trong nội bộ, cũng như đã tỏ ra thái độ bất mãn đối với kẻ không thuộc về nhóm các vị lại dám nhân danh Thày các vị để trừ quỉ. Bởi vậy, đối với một vị anh hùng cứu tinh dân tộc, được Thiên Chúa toàn năng sai đến là Thày mình, mà đám dân Samaritanô ngoại lai lại dám phủ nhận, bằng cách không nghênh đón và tiếp đãi Người thì thật tình là đáng chết. Chúa Kitô đã lợi dụng cơ hội này để tỏ mình ra cho thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ biết về Người hơn nữa, để sau này các vị không rao giảng về Người như một phản Kitô, tức rao giảng một Chúa Kitô khác, mà là một Chúa Kitô nhân ái xót thương, như Người minh định ngay trong bài Phúc Am hôm nay: “Con Người đến không phải để sát hại mà là để cứu vớt”.
Như thế, làm môn đệ của Chúa Kitô không phải chỉ là việc theo Người, như các tông đồ theo Người lên Giêrusalem, mà còn phải có tinh thần của Người nữa, nghĩa là phải làm sao để chúng ta có thể ở trong Người và Người ở trong chúng ta, sống trong chúng ta, Kitô hữu chúng ta mới có thể thực sự là những chứng nhân đích thực và sống động của Người.
Chính nhờ phần trên của bài Phúc Am chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa thâm sâu của phần duói của bài Phúc Am Chúa Nhật XIII Mùa Thường Niên Năm C này. Thật vậy, nhờ phần trên của bài Phúc Am, chúng ta chẳng những hiểu đuọc ý nghĩa của câu “kẻ chết chôn cho kẻ chết” mà còn cả hai câu kia nữa, câu “Con Người không có chỗ dựa đầu” và câu “tra tay cầm cầy”.
Theo tôi hiểu thì như thế này, nếu muốn thực sự đi theo làm môn đệ của Chúa Kitô, Kitô hữu chúng ta cũng cần phải chịu thế gian hất hủi, bỏ rơi, khinh khi, quên lãng như Chúa Kitô, đúng như lời Người tiên báo cho các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, đoạn 16 câu 33: “Các con sẽ chịu khốn khó trên thế gian”, như chính trường hợp Người khi còn sống trên đời cũng đã bị dân Samaritanô không tiếp đón trên đường lên Giêrusalem được nhắc đến trong bài Phúc Am hôm nay, nhất là bị chính dân Do Thái của Người hoàn toàn phủ nhận tại Giêrusalem, như Nguòi loan báo cho các tông đồ trong bài Phúc Am tuần truóc. “Không có chỗ dựa đầu” ở đây là như vậy, là bị thế gian phủ nhận và hất hủi.
Thế nhưng, sở dĩ dân Samaritanô ngoại lai, nhất là dân Do Thái chính cống, đã thực sự phũ phàng phủ nhận “Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa” như các tông đồ tin nhận trong bài Phúc Am tuần trước, là vì họ không nhận biết Thiên Chúa, đúng như lời Chúa Kitô cho biết trong Bữa Tiệc Ly đuọc Phúc Am Thánh Gioan ghi nhận ở đoạn 15 câu 21: “Họ sẽ làm cho các con tất cả những điều ấy vì danh Thày, bởi họ không biết Đấng đã sai Thày”. Mà “sự sống đời đời”, cũng theo lời Chúa Kitô xác định trong Lời Nguyện Tiệc Ly ở Phúc Am Thánh Gioan đoạn 17 câu 3, “là nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô, Đấng Ngài Sai”. Vậy nếu người Samaritanô trong bài Phúc Am hôm nay và người Do Thái không nhận biết Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai thì không phải là họ thực sự ở trong sự chết hay sao, tức là thành phần những kẻ chết về phương diện tâm linh hay sao? Như thế, “hãy mặc kẻ chết chôn cho kẻ chết” nghĩa là hãy cứ để cho “con người yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng”, như lời Chúa Kitô nói với Nicôđêmô về bản chất và khuynh hướng tự nhiên của thế gian, ở Phúc Am Thánh Gioan đoạn 3 câu 19, chứ đừng vì thế gian không nhận biết mình, hất hủi mình, xử tệ với mình, mà nản chí bỏ cuộc theo Chúa, trái lại, Kitô hữu môn đệ đích thực của Chúa Kitô chúng ta lại càng vì thế phải sống đúng thân phận và sứ vụ “là ánh sáng thế gian… soi sáng cho cả nhà” của mình, như lời Chúa Kitô nói với các tông đồ ở bài Giảng Trên Núi trong Phúc Am Thánh Mathêu đoạn 5 câu 14 và 15. Đó là lý do, ngay sau khi nói: “hãy mặc kẻ chết chôn cho kẻ chết”, Chúa Kitô liền kêu gọi, “Phần anh hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Bằng không, nếu không chấp nhận được bị thế gian ghét bỏ, nghĩa là vẫn đi tìm an ủi cá nhân theo cảm tình cảm xúc tự nhiên, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào “đi rao giảng Nuóc Thiên Chúa” đuọc, hay không thể nào “theo Con Chiên đi đến nơi nào Chiên đến”, tức sẽ ở vào tình trạng xẩy ra đúng như lời cuối cùng Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Am hôm nay: “Ai đã cầm cầy mà còn quay trở lại thì không xứng đáng với Nuóc Thiên Chúa”.
Ý nghĩa huyền nhiệm của bài Phúc Am hôm nay còn được diễn giải nơi bài đọc thứ hai nữa. Thật vậy, theo Phúc Am hôm nay, nếu thành phần môn đệ theo Chúa Kitô để làm chứng cho Người phải hiên ngang “đi rao giảng Nuóc Thiên Chúa”, bất chấp thế gian chống đối, để làm cho thế gian nhận biết chân lý, thì, theo bài đọc hai hôm nay, họ mới thực sự là thành phần tự do, thành phần sống theo thần trí vậy.
Đúng thế, khi lãnh nhận Phép Rửa là chúng ta đã trở nên con cái Thiên Chúa, “trở nên một tạo vật mới” (Gal 6:15), tức đã đuọc giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết, đuọc tự do sống thân phận làm con cái Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho chúng ta Thần Linh của Ngài. Đó là lý do trong bài đọc hai hôm nay Thánh Phaolô đã xác tín: “chính vì để cho chúng ta đuọc sống tự do mà Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta… Nếu anh em đuọc thần trí huóng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật nũa”. Thế nên, thánh nhân đã khuyên giục thành phần môn đệ theo Chúa Kitô rằng: “Anh em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thỏa mãn đam mê xác thịt nữa”. “Bởi vì”, thánh nhân quả quyết: “Đam mê xác thịt thì chống lại thần trí, và thần trí thì ngược lại với xác thịt; đôi bên kình chống nhau khiến anh em không thi hành được những gì anh em mong muốn”. Chúng ta có thực sự cảm nhận thấy xẩy ra trong đời sống đạo của mình đúng như những gì Thánh Phaolô quả quyết như thế hay chăng? Nếu có, chúng ta cũng đừng bối rối, vì đó là dấu chứng tỏ con người mới, con người chứng nhân chúng ta, cũng mang trên mình những dấu tích của Người (xem Gal 6:17), những dấu tích vẫn còn trên thân xác phục sinh của Người, những dấu tích chính Người sau khi sống lại đã dùng để chứng thực rằng Người thật sự là Đấng Tử Giá song đã sống lại, Người thực sự là Đấng Thiên Sai, Đấng “đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), Đấng đã “hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn dân” (Mt. 20:28), mà chúng ta “là những nhân chứng về điều này” (Lk 24:48), những chứng nhân để Chúa Kitô tỏ hiện nơi thân xác của chúng ta (xem 2Cor. 4:10).
(Tin Mừng Sự Sống, buổi phát thanh thứ bốn mươi hai, Chúa Nhật 1/7/2001)
Thành kiến là một trong những tệ nạn lâu đời nhất của xã hội loài người. Thành kiến thường mang ý nghĩa tiêu cực hơn là tích cực. Do đó thành kiến ở đây được hiểu như là sự “in trí” hoặc sự thù ghét không thay đổi về người nào đó không phải vì tư tưởng hay hành động của họ cho bằng vì họ đã được “dán nhãn hiệu” như vậy. Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy có những mối thù truyền kiếp giữa hai quốc gia, dòng tộc, gia đình, hoặc cá nhân với nhau mà nhiều khi chính người trong cuộc cũng không còn biết được nguyên do vì sao. Nói cách khác, nhiều khi người ta thù ghét nhau chỉ vì không muốn làm trái di chúc ông bà để lại.
Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay cũng là nạn nhân của sự thành kiến vừa nêu trên: Mối thù truyền kiếp giữa người Do Thái và người Samaria. Đối với người Do thái, không có điều gì tốt nơi dân Samaria vì cha ông họ thờ các thần dân ngoại. Dân Samaria ghét người Do thái vì bị coi thường không đáng để tiếp xúc.
Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu không bao giờ chấp nhận mối thù truyền kiếp này nên Ngài luôn tìm cách để phân giải nó. Qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu không ngại đề cao phẩm giá người Samaria trước mặt người Do Thái và khuyên họ nên coi nhau như láng giềng tốt vì họ cũng có những đức tính tốt lành mà nhiều Do thái chính tông không có. Nói tóm lại Ngài muốn dạy họ đừng bao giờ đánh giá hoặc kết án ai vì dòng giống, giai cấp, hoặc tôn giáo... vì tất cả mọi người đều là con cùng một Cha trên trời. Khi tiếp xúc với dân Samaria, Ngài đối xử với họ như với người Do thái quaviệc rao giảng chân lý cho họ. Vì vậy, người Samaria rất có thiện cảm với Chúa Giêsu như Phúc âm Gioan đã ghi lại trong chương 4.
Thế nhưng, hôm nay Chúa Giêsu lại bị chính người Samaria xua đuổi không đón tiếp. Sở dĩ sự việc xảy ra như vậy là vì người Samaria biết được Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem là trung tâm tôn giáo của người Do thái để dự lễ. Như vậy, người Samaria cho rằng Chúa Giêsu vẫn coi trọng người Do thái hơn người Samaria. Thấy vậy, hai anh em Giacôbê và Gioan nổi nóng xin Chúa cho phép họ khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi đám dân Samaria xấc láo này. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã quở trách hai anh em con ông Zêbêđê đã xử sự theo tinh thần thế gian.
Trong cuộc sống hằng ngày có lẽ ai trong chúng ta cũng có danh sách những người ghét chúng ta cũng như những người chúng ta không ưa thích. Tệ hơn nữa, sự thù ghét hoặc không ưa thích này nhiều khi lại là kết quả của sự khác biệt về sở thích, tính tình, quan niệm sống, tôn giáo, hoặc tiếng nói...
Trước những hoàn cảnh như vậy, thông thường chúng ta cũng hành động giống như con người của hai ngàn năm trước, đó là tẩy chay không tiếp xúc với họ. Tuy nhiên, đấy không phải là thái độ của người Kitô hữu đích thực. Người Kitô hữu chính hiệu phải là người sống trên dư luận và thành kiến như Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trong bài Phúc âm hôm nay: Bác ái với hết mọi người không phân biệt ai, và rộng lượng bỏ qua những xúc phạm người ta gây ra cho mình.
Nói thì rất dễ nhưng thực hành lại rất khó. Nhưng như vậy không có nghĩa là không thể thực hiện được. Điều quan trọng là chúng ta có dám bắt tay vào ngay từ bây giờ để tập dần dần hay không, vì một khi đã mang danh Kitô hữu, chúng ta buộc phải sống cuộc sống như vậy. Tại sao? Vì tất cả chúng ta đều là con cùng một Cha trên trời và trở nên một trong Chúa Kitô. Đem lòng thù ghét nhau tức là thù ghét chính mình và thù ghét chính Chúa Kitô vậy.
- Bài đọc I (1 V 19,16b.19-21): Khi được gọi làm ngôn sứ, Êlisê đã dứt khoát bỏ tất cả (bò, cày, cha mẹ) - Tin Mừng (Lc 9,51-62): Chúa Giêsu đòi 3 người xin đi theo làm môn đệ Ngài phải dứt khoát từ bỏ tất cả.
Minh họa
- Mille images 70 C - "Hãy theo Ta" (Lc 9,59)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem mặc dù biết rõ lên: TN 13-C22
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem mặc dù biết rõ lên đấy Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết. Qua chuyện này ta biết Chúa Giêsu trung thành đến mức nào đối với nhiệm vụ mà Chúa Cha giao cho Ngài. Nhiều khi lòng trung thành đòi hỏi phải hy sinh rất nhiều.
Chúng ta hãy bày tỏ lòng trung thành với Chúa, xin Ngài tha thứ cho những lần chúng ta đã bất trung, và xin Ngài giúp chúng ta thêm can đảm để luôn trung thành với Chúa cho dù phải hy sinh.
II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ những lần chúng con bất trung với Chúa. - Xin Chúa tha thứ những lần chúng con không dám từ bỏ những điều bất xứng với Chúa. - Xin Chúa tha thứ những lần chúng con chọn tội lỗi mà bỏ Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 19,16b.19-21)
Bài tường thuật ơn gọi của Êlisê:
- Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình.
- Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình (tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ) cho Êlisê. Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia.
2. Đáp ca (Tv 15)
Tác giả Tv này đã nhất quyết chọn Chúa làm cơ nghiệp của mình nên bày tỏ sự phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 9,51-62)
Đoạn Tin Mừng này gồm hai chuyện:
a/ Chuyện một làng Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu: Trước sự việc trái ý này, Gioan và Giacôbê biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
- Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
- Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
- Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Thái độ Chúa Giêsu dạy hai bài học:
- Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
- Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
b/ Chuyện 3 người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu: Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.
- Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1,37-49)
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (xem chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.
- Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.
Chúa Giêsu nói: "Mặc cho kẻ chết chôn người chết": tiếng Pháp rõ nghĩa hơn "mặc cho les mortels chôn les morts" (nghĩa là mặc cho người phàm lo việc thế phàm. Hiểu ngầm người môn đệ Chúa Giêsu phải lo việc Nước Thiên Chúa). Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15,3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
- Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1.V 19,19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày "đầu ngoái lại sau": còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị vv...), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.
Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria ; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
4. Bài đọc II (Gl 4,31b--5,1.13-18)
Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng họ đã được rửa tội nên đã trở thành những con người tự do. Sau đó Thánh Phaolô dạy cho họ biết phải sống thế nào như một người tự do: Người tự do là người sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt
‑ Bởi đó đừng viện cớ mình tự do rồi buông tuồng theo những đòi hỏi của xác thịt.
- Hãy theo Thánh Thần soi sáng mà sống bác ái với anh chị em mình.
IV. Gợi ý giảng
1. Đời là những chọn lựa
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu 1 chuyện dí dỏm như sau:
Một con khỉ cầm hai nắm đậu rồng, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm ; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu" (Lc 9, 58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa" (Lc 9, 54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa" ( Lc 9, 62).
Thực ra, Chúa Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: "Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử" (Mi 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên một, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên một chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14, 26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình... Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Chúa Giêsu lại dạy: "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho" (Mi 6, 33). (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", nam C)
2. Suy nghĩ về điều kiện thứ nhất: "Không có chỗ gối đầu"
"Chỗ gối đầu" là một nơi thoải mái mình muốn chọn làm nơi thường trú, là một nếp sống tiện nghi mình muốn được hưởng mãi. Ai mà không thích có một chỗ gối đầu như thế.
Tuy nhiên nếu là môn đệ Chúa Giêsu thì không được "mọc rễ" ở "chỗ gối đầu" đó. Một vài thí dụ:
- Cuộc sống của tôi đã thành nếp: ban ngày làm việc, tối về nhà nghỉ ngơi giải trí với gia đình, ngày Thứ bảy Chúa nhựt là thời gian hưởng thụ. Những lúc nghỉ ngơi, giải trí và hưởng thụ ấy chính là những "giờ thánh" của tôi, không ai được đụng đến. Nhưng tối nay, nhà hàng xóm có người hấp hối, người ta mời tôi sang cầu nguyện, phải bỏ mất một tập phim truyền hình đang hồi gay cấn ! Chúa nhựt tới, Cha Xứ mời tôi dự phiên họp các gia trưởng, mất toi một buổi nghỉ ngơi ! Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những mất mát đó.
- Từ trước tới nay tôi là một tín hữu bình thường, đọc kinh tối sáng hằng ngày, Chúa nhựt và lễ trọng đều đi dự lễ. Tôi thấy như vậy là đủ quá rồi. Bây giờ người ta mời tôi tham gia sinh hoạt đoàn thể trong Xứ đạo: nào là hội họp, nào là đi công tác tông đồ, nào là đóng góp quỹ này quỹ nọ… Nếp sống của tôi bị xáo trộn. Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những xáo trộn đó.
3. Suy nghĩ về điều kiện thứ hai: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết"
Có thể chia những việc làm thường ngày của chúng ta thành hai loại: những việc "của kẻ chết" là những việc lo cho đời sống vật chất như làm ăn kiếm tiền, nhà cửa, tiện nghi, giải trí, hưởng thụ, địa vị, thể diện v.v. Và những việc "hằng sống" như cầu nguyện, bác ái, tông đồ, truyền giáo…
Chúa dạy người môn đệ Ngài phải ưu tiên cho những việc sau, hoặc khi có mâu thuẫn giữa hai loại việc thì phải can đảm bỏ loại việc thứ nhất để chọn loại việc thứ hai.
Thực tế, hằng ngày chúng ta lo loại việc thứ nhất nhiều hơn loại việc thứ hai ; và khi phải chọn một bỏ một thì chúng ta chọn loại thứ nhất và không chút ngần ngại bỏ loại việc thứ hai.
4. Vài mẫu chuyện minh họa cho việc trả thù
a/ Đem yêu thương vào nơi oán thù
Cha S. Hodden thấy một đại úy đến xin học đạo. Khi ngài hỏi lí do, ông trả lời như sau: "Trong đại đội tôi, có một binh nhì là Kitô-hữu. Đêm nọ, anh đi gác về, mình mẩy ướt nhẹp, nhưng trước khi ngủ, anh còn quì gối đọc kinh. Ngứa mắt, tôi đá cho anh một cú vào đầu, ngã lăn ra. Nhưng anh ngồi dậy, không nói gì và tiếp tục cầu nguyện.. Sáng hôm sau, tôi thấy đôi giầy mà tối qua tôi đá anh được đánh bóng láng và xếp ngay ngắn bên giường ngủ. Điều đó làm tôi sững sờ, hổ thẹn và vì thế tôi quyết tâm học đạo."
b/ Không có kẻ thù
Một thầy giảng lên tiếng: Mọi người đều có kẻ thù. Ông mời bất kỳ một thính giả nào không có kẻ thù lên nói về chính mình.
Một sự thinh lặng đồng tình với lời xác quyết đó. Nhưng rồi một người già giơ tay và nói: "Tôi không có kẻ thù".
Đương đầu với lời mời và gây sự chú ý của thính giả, ông nói: "Rất dễ. Tôi không quan tâm đến họ".
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt làng Samaria, và hãy sốt sắng khi đọc câu "xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"
VI. Giải tán
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Chúng ta sắp trở lại cuộc sống. Hãy nhớ những gì Chúa đã dạy chúng ta trong Thánh lễ hôm nay và hãy can đảm chọn lựa những gì thuộc về Nước Thiên Chúa.
Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa, chống lại quân nhà Minh tàn ác cai trị nước ta, có Lê Lai rất giống Lê Lợi. Một hôm, quân ta đánh thua to, chạy về trú ẩn ở núi Linh Sơn, bị quân Minh vây hãm lâu ngày, hết lương thực, Vua tôi hầu chết đói. Lê Lai đã giả làm Lê Lợi hy sinh ra nộp mình cho quân Minh. Chúng tưởng đã bắt được Lê Lợi rồi, chúng kéo quân về. Thế là Lê Lai đã giải thoát cho quân ta khỏi bị quân Tàu tàn sát. Nhờ đó, Lê Lợi chiêu tập quân sĩ đông đảo, đã đánh bại quân Tàu. Nước ta thoát ách nô lệ dã man của nhà Minh.
Tin Mừng hôm nay đã tường thuật cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem, bắt đầu một cuộc khởi nghĩa thiêng liêng.
Giêrusalem mệnh danh là thành đô của Thiên Chúa đang bị quân thù vây hãm tứ bề, đang mong chờ Đấng Cứu thế đến giải thoát. Đức Giêsu lên Giêrusalem hy sinh nộp mình như Lê Lai, để cứu thoát thành thánh. Đức Giêsu đã biết rõ: “đã tới ngày Người được rước lên trời” Ngày Người sắp kết thúc một cuộc khởi nghĩa vĩ đại giải phóng muôn dân thoát ách nô lệ tử thần. Người thấy rõ mục đích cuộc khởi nghĩa thần thánh này sắp đến ngày chiến thắng vinh quang, nên “Người nhất quyết lên Giêrusalem, khuôn mặt gân guốc của Người hướng thẳng về thành Thiên Chúa đang lâm nguy. Nhưng càng cam go cực khốn, thì càng vinh quang rực rỡ, vì “Con Người phải qua đau khổ mới tới vinh quang”, “Con Người bị bắt, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Trận chiến đã bắt đầu Người sai sứ giả đi thăm dò và về báo cáo những trở ngại. Có những đoàn quân Samaria phục kích chặn đường tiến bước. Các môn đệ xin Người lấy lửa bởi trời xuống đốt, nhưng Người không dùng chính sách bạo động đốt sạch, giết sạch, dù Người đang nắm trong tay toàn quyền của Thiên Chúa. Người đã dùng đường lối bất bạo động, nhún nhường khiêm tốn tìm đường khác để đi. Toàn quyền của Thiên Chúa để thực hiện lòng thương yêu họ, cho họ được sống và được sống dồi dào, chứ không để hủy diệt. Thiên Chúa như thân phụ và từ mẫu chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Người kiên nhẫn kêu gọi ta. Người chịu đựng mọi từ chối, mọi xúc phạm. Người hằng chờ đợi mọi trì trệ, lì lợm cứng lòng. Người khát khao ta tham gia vào cuộc hành trình khởi nghĩa của Người. Người đã kêu to: “Ta khát”.
Suốt cuộc hành trình, Đức Giêsu kêu gọi mọi người đồng hành với Người lên Giêrusalem. Có kẻ tình nguyện đi theo Người. Nhưng khi thấy Người sống quá nghèo, quá khắc khổ, chưa được bằng: “Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Họ không còn can đảm dấn thân theo Người. Người kêu gọi kẻ khác: “Anh hãy theo tôi”. Nhưng anh còn mắc ngăn trở, xin về chôn cất cha mẹ trước đã. Anh có lòng hiếu thảo thực thi giới răn thứ bốn thảo kính cha mẹ thì rất quý. Nhưng thời giờ cấp bách, cuộc hành trình thiêng liêng đang tiến công như vũ bão, không thể dừng bước. Người nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa”. Anh phải hiểu rằng: Hy sinh cho nước trời, cho thành của Thiên Chúa, chính là giải thoát cho cha anh khỏi tay tử thần. Đó mới là đại hiếu, đại nghĩa, đó là làm cho cha anh được sống lại muôn đời, đâu còn phải lo chôn cất cho cha anh nữa.
Kẻ khác cũng xin tình nguyện theo Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy nhưng xin Thầy cho phép tôi về từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với Thiên Chúa”.
Anh này có lẽ muốn như Êlisê xưa, xin về từ giã cha mẹ bà con rồi đi theo Chúa. Êlia đã cho Êlisê cứ về từ giã, còn Đức Giêsu thì không. Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng ta từ bỏ mọi sự dứt khoát như thế ? Ngài muốn chúng ta theo gương Ngài rời bỏ mẹ hiền Maria của Ngài, từ bỏ bà con quê hương Ngài. Chính Đức Giêsu ngay khi lên mười hai tuổi, Người đã trả lời cha mẹ rằng: “Sao cha mẹ tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận thi hành ý Cha con sao ?” (Lc. 2, 44), ưu tiên thực hiện ý Cha trên trời mới quan trọng, “Còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau”.
Thiên Chúa phản đối bất cứ ưu tiên nào của chúng ta: Dù là ưu tiên an táng cha mẹ hay từ giã gia đình. Còn chúng ta lại đặt ưu tiên của chúng ta hơn ưu tiên của Thiên chúa. Mỗi ngày Chúa nhật, ưu tiên của ta là nghỉ ngơi, giải trí, ăn uống, vui chơi… Còn lễ lậy, từ thiện bác ái, sinh hoạt đạo đức sẽ tính sau.
Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã quyết tâm bắt đầu cuộc khởi nghĩa thiêng liêng với bất cứ giá nào, để trả lại quyền ưu tiên cho Thiên chúa, chống lại mọi thứ ưu tiên của satan, của thế tục, của mỗi người chúng ta, vì Người đến “giải phóng mọi xiềng xích nô lệ, cho chúng ta được tự do chân chính vững chắc muôn đời” (Gl. 5,1)
Lạy Chúa, xin cho con quyết tâm đồng hành với Ngài trên đường tiến về thành Thiên Chúa. Xin cho cho con được vác thập giá với Ngài và cùng chết với Ngài trên đỉnh cao chót vót để cùng được rước về trời với Ngài vinh quang.
Để hiểu được tình yêu thương và sự tha thứ, chúng ta cùng nhau nhìn vào thái độ của những người Samaria, của các môn đệ và của Chúa Giêsu.
Trước hết là thái độ của những người Samaria
Họ đã không tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ, chỉ vì các Ngài là những người Do thái, đang trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem. Thái độ này xuất phát từ một mối thù hận truyền kiếp.
Như chúng ta đã biết: Nước Do thái vốn được chia thành ba miền. Miền bắc la Galilê, miền trung là Samria và miền nam là Giuđêa.
Những người sinh sống trên vùng đất Samariacũng là những người Do thái, nhưng vì chung đụng với dân bản xứ, giao tiếp và lập gia đình với họ, nên đã chịu một ảnh hưởng ngoại lai sâu đậm về phương diện tôn giáo.
Bởi đó, người Do thái chính gốc đã nhìn người Samaria bằng cặp mắt kinh bỉ, coi họ như những con chiên ghẻ, những tội nhân xấu xa. Sự thù oán này được biểu lộ mãnh liệt sau thời gian lưu đày ở Babylon.
Bấy giờ người Do thái được vua Cyrus phóng thích, trả tự do và cho trở về quê cha đất tổ. Họ đã hồi hương dưới sự điều động và hướng dẫn của Esdras và Nêhêmie. Họ đã kiến tạo lại đất nước.
Thế nhưng, trong việc xây dựng đền thờ, người Do thái đã từ chối sự đóng góp của người Samaria và coi họ không còn ở trong cộng đồng dân Do thái nữa, mặc dù những người này vẫn tuân giữ lề luật của Maisen và những tập tục của cha ông tự ngàn xưa. Họ cũng mong đợi một Đấng Cứu thế sẽ xuất hiện như lời loan báo của các tiên tri.
Vì thế, người Samaria đã cắt đứt mối liên hệ tôn giáo với người Do thái. Họ xây cho mình một đền thờ trên núi Garizim. Từ đó, dân Do thái coi họ như một bọn rối đạo và lạc giáo.
Để trả đũa, người Samaria không cho người Do thái trú chân mỗi khi phải đi lên miền bắc hay phải đi xuống miền nam, khiến cho người Do thái, mỗi khi di chuyển, phải vòng qua bên kia sông Giócđan, đường xá trở nên vất vả và xa xôi hơn nhiều.
Từ đó, chúng ta hiểu được tại sao họ đã không tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ.
Cũng như bên bờ giếng Giacóp ngày nào, khi Chúa Giêsu xin nước uống, thì người phụ nữ Samaria đã ngạc nhiên trả lời:
- Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, nước uống ư ?
Tiếp đến là thái độ của các môn đệ.
Các ông đã nóng giận và đòi trả đũa theo lẽ tự nhiên khi bị người khác khước từ và xúc phạm.
Thế nhưng, tại sao các ông lại xin lửa trời đổ xuống để tiêu diệt họ ?
Có lẽ các ông đã nhớ tới trường hợp của tiên tri Elia trong Cựu ước. Sách các Vua kể lại rằng:
Ngày ấy, vua Ochozias xứ Samaria bị té ngã. Nhà vua sai sứ giả đi cầu khẩn thần Bengiêbút xem có thể chữa lành được không ? Nhưng Thiên Chúa liền nói với tiên tri Elia:
-Hãy chỗi dậy đi đón sứ giả của nhà vua và nói với họ rằng: trong Israel không có Thiên Chúa hay sao mà các ngươi lại đi cầu khẩn với Bengiêbút. Nhà vua sẽ phải chết.
Tiên tri Elia còn nói với họ:
- Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì ta sẽ nguyện cho lửa trời xuống thiêu đốt các ngươi.
Và lập tức, lửa trời đã đổ xuống và hủy diệt họ.
Sau cùng là thái độ của Chúa Giêsu..
Ngài không chấp nhận thái độ trả đũa của các môn đệ:
- Các con không biết tinh thần nào đã xúi dục các con ? Ta đến không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Như vậy, tinh thần của Chúa là tinh thần của yêu thương và tha thứ. Chính nhờ tinh thần này, Ngài đã cảm hóa được người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp, để nàng biến đổi hận thù thành yêu thương.
Với chúng ta cũng vậy. Trong cuộc sống, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những bực bội và buồn phiền, những va chạm và hiểu lầm. Trong những hoàn cảnh như thế, nhiều lần chúng ta cũng đã phản ứng như những người Samaria và cũng đã có thái độ như các tông đồ theo lẽ thường tình:
- Răng đền răng, mắt thế mắt.
- Ơn đền ơn, oán trả oán.
Chúng ta cũng muốn tiêu diệt kẻ thù và thiếu điều thầm mong lửa trời xuống thiêu rụi họ.
Trong khi đó, Chúa đòi chúng ta phải tha thứ, phải đi bước trước đến với kẻ thù và làm hòa với họ trước khi tới nhà thờ dâng của lễ, như lời Ngài đã phán:
- Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình, thì hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi mới tới mà dâng của lễ sau.
Chúng ta nên nhớ:
- Cách thức hiệu quả nhất để tiêu diệt kẻ thù đó là biến họ trở thành bạn hữu.
Ngày 27.07.82, vận động viên trượt tuyết nổi tiếng người Thụy sĩ Sylvain Saudan, 44 tuổi đã lập một kỳ công thế giới: từ đỉnh núi cao 8.068m trên dãy núi Hy-mã-lạp-sơn ông đã lao xuống còn 3.000m trong 9 giờ. Để lập được kỷ lục này, Saudan đã chuẩn bị 3 năm, phải tập luyện chịu đựng rét lạnh thật kinh khủng, phải hy sinh mọi thú vui hại sức khỏe. Và trong một lần thực tập cụ thể ở độ cao 8.000m, đoàn tùy tùng theo ông đã có 3 người bị tuyết vùi bỏ mạng, những người còn lại vật lộn 2 ngày đêm với bão tuyết mới sống sót trở về được.
Từ sự kiện này chúng ta có thể rút ra được một bài học này: dù việc to hay nhỏ, nhất là những gì gọi là kỳ công, con người muốn thành đạt buộc phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt, phải tuân theo những đòi hỏi gắt gao, phải luyện tập bản thân thật khắt khe, phải từ bỏ những thú vui khác.
Nếu vì những mục đích, những thành quả mau qua và giới hạn ở đời mà con người ra sức, nỗ lực chiếm đoạt cho bằng được, huống chi để chiếm được Nước trời, chúng ta sẽ không còn ngỡ ngàng sợ sệt khi nghe Chúa đưa ra những đòi hỏi, những điều kiện làm môn đệ, làm con Chúa trong bài Phúc âm hôm nay. Hơn nữa, nếu xét đâu là mục đích tối hậu và cao cả nhất mà con người phải nhắm tới, đâu là thành quả vĩ đại và vĩnh cửu mà cuộc đời con người phải đầu tư thì những đòi hỏi Chúa đưa ra quá rẻ.
Đòi hỏi đầu tiên là từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Đây là một đòi hỏi cốt yếu vì không ai có thể được gọi là môn đệ, không cố gắng tuân giữ những chỉ thị, những dạy bảo của Chúa. Ngay cả Chúa Giêsu, sau khi đã gặt hái được nhiều thành quả trên con đường truyền giáo, được dân chúng mến mộ, ca tụng, nhưng Ngài đã không dừng lại trong sự an phận thủ thường, trái lại Ngài cương quyết lên Giêrusalem để chịu khổ nạn theo ý của Thiên Chúa Cha.
Đòi hỏi thứ hai của người môn đệ Chúa là phục vụ kẻ khác vì Chúa. Suốt cuộc sống ở trần gian Chúa không những dạy dỗ mà còn làm gương sống phục vụ con người hết mình. Cũng thế, là môn đệ, chúng ta luôn tâm niệm và đeo đuổi một mục đích là đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác với bất cứ giá nào. Do đó, không thể để cho oán ghét, thù hận, ác độc ngự trị trong tư tưởng, lời nói, hành động của chúng ta cho dù người khác có đối xử không tốt hay vô ơn với chúng ta. Vì như Chúa dạy yêu thương, tha thứ, giúp đỡ anh em là dấu hiệu rõ ràng nhất để biết ai thuộc về Chúa, ai thuộc về thế gian.
Đòi hỏi thứ ba là tín thác hoàn toàn nơi Chúa cho dù ở đời có gặp phải những hoàn cảnh éo le, những thử thách đau thương, những thất bại đáng cay. “Con cáo có hang, chim trời có tổ” tiêu biểu những kẻ chỉ dựa vào của cải, danh vọng, kỹ thuật như là chốn nương thân vững chắc cho đời mình, còn “Con Người không có chỗ gối đầu” là những ai biết sống siêu thoát, biết hy sinh chịu khó cốt lo phần rỗi mai sau. Bởi vì, thân phận môn đệ Chúa là thân phận của một lữ khách, nghĩa là không có một nơi trú ẩn bảo đàm lâu dài nào, mà còn chấp nhận dấn thân vào những khó khăn của cuộc sống không từ nan.
Tóm lại, để theo Chúa đến cùng được và để xứng đáng làm môn đệ của Ngài, chúng ta phải có ý chí, quyết tâm cao thực hiện tốt những đòi hỏi của Chúa dạy bảo mới mong chiếm đoạt được Nước trời.
Một hiện tượng đáng quan tâm trong thế giới hôm nay đó là sự xuất hiện và bành trướng của các giáo phái. Nhiều giáo phái đã chiêu mộ tín đồ bằng của cải vật chất và những lợi lộc trần gian. Có rất nhiều người đi theo các giáo phái này, trong đó có cả những người công giáo. Đối vói Chúa Giêsu thì không như thế. Người không mua chuộc người khác bằng tiền bạc, của cải, danh vọng, lạc thú hay những giá trị đời này, nhưng Người xác định rõ: “Ai muốn theo Tôi phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Tôi”. Và câu chuyện Tin mừng hôm nay cho ta thấy rõ điều đó.
Thánh Luca kể lại rằng: khi Chúa Giêsu và các tông đồ đang trên đường đi về Giêrusalem, có một người chạy đến thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi sẽ theo Thầy đi bất cứ nơi đâu”. Chúa Giêsu trả lời: “Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Trả lời như thế, Chúa Giêsu có ý nói với người đó rằng: Đừng ảo tưởng khi đi theo Tôi. Sẽ không có một điểm tựa vững chắc, không có một nơi nương náu an toàn nào ở trần gian này đâu. Muốn theo Tôi phải chấp nhận một cuộc sống bấp bênh, một cuộc sống bị tước đoạt hết tất cả những gì là bảo đảm cho bản thân mình đến độ một chỗ tựa đầu cũng không có.
Kế đó Chúa Giêsu gặp người thứ hai và chính Người đã lên tiếng trước để gọi anh. Và lời mời gọi kèm theo một đòi hỏi thật gay gắt: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa”. Tất nhiên Chúa không tàn nhẫn đến độ không cho phép các đồ đệ của Người thi hành chữ hiếu đối với những người sinh thành ra mình. Nhưng điều Chúa muốn dạy đó là Thiên Chúa Phải Là Trên Hết. Đừng tìm bất cứ lý do nào để thoái thác lời mời gọi của Thiên Chúa. Đừng tìm bất cứ lý do nào để biện minh cho sự lừng khừng và do dự của mình. Chính Chúa Giêsu đã đặt thánh ý Thiên Chúa lên trên tất cả khi Người thưa với Thánh Giuse và Mẹ Maria rằng: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao ?”.
Còn người thứ ba khi được Chúa Giêsu gọi đã xin hoãn lại để từ giã gia đình rồi sẽ đến theo Chúa. Và câu trả lời của Chúa Giêsu là: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn quay lại đằng sau thì không xứng với Nước Thiên Chúa”. Vấn đề từ giã gia đình ở đây chỉ là một kiểu nói diễn tả sự nuối tiếc trong việc từ bỏ khi theo Chúa. Từ bỏ mối lợi vật chất bất chính, nhưng ta vẫn cảm thấy như mình đã dại dột bỏ lỡ cơ hội làm giàu. Từ bỏ những cám dỗ về xác thịt, nhưng ta vẫn cảm thấy uổng phí thế nào. Đó là sự quay trở lại khi đã cầm cày. Và Chúa Giêsu không đồng ý với thái độ ấy.
Theo Chúa là chấp nhận thuộc về Người để không còn thuộc về một ai khác, một sự gì khác. Chúa đòi sự dâng hiến trọn vẹn 100%, không bớt xén, không nuối tiếc. Dứt khoát từ bỏ như thế sẽ đem lại những ray rứt, những đau đớn, nhưng phải can đảm. Nếu không, ta không thể làm môn đệ Chúa. Chúa Giêsu đã nói: “Nước Trời chỉ có thể chiếm đoạt được bằng sức mạnh”. Thật vậy, phải có sức mạnh nội tâm ta mới có thể chiến đấu để dứt mình ra khỏi những níu kéo của ma quỷ, của trần gian, để thuộc về Chúa trọn vẹn.
Chủ đề quan trọng của Chương 9, Phúc Âm Thánh Luca nói về những điều kiện để được làm: TN 13-C27
Chủ đề quan trọng của Chương 9, Phúc Âm Thánh Luca nói về những điều kiện để được làm môn đệ của Chúa Giêsu trong Sứ Vụ cũng như trong cuộc sống đức tin ở trần thế này.
Thật vậy, trước hết muốn theo Chúa phải là người có lòng khiêm cung đích thức để noi gương Chúa là Đấng “ đến không phải được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người “(Mt 20:28). Như thế, môn đệ của Chúa không phải là những người muốn được ăn trên, ngồi trước, muốn được coi là lớn là quan trọng nhất trước mặt người đời mà phải là người “nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì người ấy là người lớn nhất”(Lk 9:48). Nhỏ nhất trong tất cả anh em thì không dễ cho mọi người chấp nhận vì đa số ai cũng muốn được coi là quan trọng, là phải được biết đến hơn nhiều người khác. Ai cũng muốn bênh vực quan điểm của mình, mặc dù khách quan mà nhận xét thì có nhiều điều không đúng với lẽ phải và thực tế trong suy tư và hành động của mình.
Theo Chúa còn đòi người môn đệ phải biết từ bỏ ý riêng mình và không được tàn nhẫn với những người không về phe với mình, chống đối mình hay tỏ thái độ thiếu thân thiện, hòa nhã với mình để rồi lại muốn hành xử tương tự như hai môn đệ Gioan và Giacôbê đã xin Chúa Giêsu cho phép họ “ khiến lửa từ trời xuống để thiêu hủy những người Samaritan không chiu đón tiếp Chúa khi Người muốn đi qua làng của họ”(Bài Phúc Âm hôm nay). Đây là điển hình cho thái độ sống chưa thực sự được phúc âm hóa của rất nhiều người trong chúng ta.Thực tế cho thấy là khi không được vừa ý với ai về điều gì thì người ta dễ dàng bôi đen moi việc tốt người khác đã làm cho mình từ bao lâu nay. Nói không đúng ý của mình hay dám phê bình mình về việc gì đó, thì cũng dễ đưa đến bất hòa giữa hai người, dù cho lời phê bình kia là khách quan và có tính xây dựng. Nếu chống đối hay tỏ thái độ bất thân thiện thì lại càng khó chập nhận, hòa giải, tha thứ. Các môn đệ của Chúa Giêsu đã không tránh được những khuyết điểm này dù đã đi theo Chúa và học nơi Người biết bao bài học về nhẫn nhục, khoan dung, tha thứ và nhân ái. Chúa nói rõ: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình,vác thập giá hàng ngày mà theo” (Lk 9:23). Từ bỏ chính mình phải chăng có nghĩa là dứt khoát khước từ ý riêng, từ bỏ mọi đam mê danh lợi và vui thú bất chính để thực thi nhửng đòi hỏi của Phúc Âm về công bình, bác ái, nhẫn nhục, chịu đựng lẫn nhau, yêu thương và tha thứ cho nhau như Chúa đã thương yêu và tha thứ cho chúng ta? Chắc chắn chúng ta không thể làm tôi hai chủ là vừa muốn theo Chúa, muốn hưởng hạnh phúc Nước Trời, laị vừa muốn sống theo những khuynh hướng xấu của bản năng và chạy theo những quyến rũ của văn hóa sự chết đang bành trướng trong xã hội quá đề cao hưởng thụ vật chất, chối bỏ mọi giá trị của Phúc Âm sự Sống mà Chúa Giêsu đã rao giảng và trả giá bằng chính sự sống của mình. Nói thế có phải là quá lý tưởng, quá lý thuyết, khó thực hiện hay không? Nếu cho là quá thì chúng ta phải thực tế hiểu thế nào về điều Chúa đòi hỏi là “phải bỏ mình đi và vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa “ ? phải chăng đó là điều kiện đòi hỏi để được cứu rỗi ? Trong cuộc sống trên trần thế này, có thành công nào mà không đòi phải cố gắng, phải trả giá thích đáng ? Một học sinh muốn thành đạt trong học vấn, muốn có bằng cấp cao để có danh lợi mai sau trong cuộc sống, thì bây giờ không thể lười biếng, trốn học hay bỏ học ngang để rong chơi, phung phí thời giờ vào những việc vô ích.
Biến cố 9/11 ở New York và Washington còn sống động kinh hoàng trong tâm trí của mọi người Mỹ. Về một phương diện, chúng ta lên án hành động khủng bố man rợ này vì nó hoàn toàn vô luân, không biện minh được về mặt đạo đức. Nhưng mặt khác, chúng ta phải kinh ngạc về sự cuồng tín của những tên khủng bố đó. Chúng biết trước hậu quả là chúng sẽ chết, bỏ lại tất cả người thân và của cải, nhưng chúng vẫn chấp nhận cái chết vì tin rằng chúng sẽ được gặp “Thượng Đế” nhanh chóng nhất bằng cách “tử đạo” đó như chúng đã được nhồi sọ và tin tưởng sai lầm.
Phần chúng ta, những người không cuồng tín nhưng tin có Chúa thật, tin có đời sống vĩnh cửu mai sau, thì liệu chúng ta có dám chấp nhận những đòi hỏi của Chúa Giêsu về “bỏ mình đi và vác thập giá theo Chúa”mỗi ngày không ?
Nếu ta coi nhẹ đòi hỏi này để rồi vẫn tự cho mình sống thái độ "hàng hai” thì quả thực chúng ta xứng đáng nghe lời cảnh cáo này của Chúa: “ Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lk 9:62)
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có nhiều loại người đi theo Chúa.
Hạng người thứ nhất: “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà không nghĩ tới công sức phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giêsu bảo: “ Trước khi theo ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả.” Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giêsu, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giêsu khen những người biết đánh giá cao hết sức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.
Hạng người thứ hai được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa biết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời mời gọi theo Chúa.
Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:
Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá yêu thương anh, do đó, không để anh thực hiện ý nguyện.
Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: “ Yêu anh hả ! Thật thế sao ?”. Và ông bày cho anh một bí mật củaYoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy tới than khóc thảm thiết.
Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.
Trước sự ngạc nhiên của xác “chết”, các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: “ Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng ta sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta.” Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách, vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Kitô. Chúa Giêsu đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đá chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Kitô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Kitô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng cao cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.
Hạng người thứ ba còn lừng khừng chưa dứt khoát. Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ. Đối với hạng người này Chúa Giêsu không bảo “ Hãy theo ta” cũng không bảo “ hãy trở về”, nhưng Ngài bảo “ Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm.” Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ân vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.
Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa: “ chúng ta nhận ơn Chúa cách vô ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo”.
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy TN 13-C29 Web
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
----------------
Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.
Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.
Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.
Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.
Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không? 2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất? 3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa? 4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?
Đoạn văn này mở đầu cho phần thứ ba của phúc âm Lc: hành trình lên Giêrusalem (9,51 đến: TN 13-C30
1. Đoạn văn này mở đầu cho phần thứ ba của phúc âm Lc: hành trình lên Giêrusalem (9,51 đến 19,28). Mục đích của cuộc hành trình này còn được định rõ 2 lần nữa sau này (13,22 và 17,11). Cho dù giá trị lịch sử được gán cho khung cảnh mà Lc xử dụng ở đây là thế nào đi nữa, ý hướng của Lc đã rõ ràng: 10 chương này (đa số được cấu thành bởi những đoạn văn của riêng phúc âm thứ ba, trong đó Lc đã tập hợp những dữ kiện và lời nói tương đương với nhau) có nội dung là hướng về cuộc hành trình lên Giêrusalem, và như thế là hướng về cuộc khổ nạn của CGS. Đây là “khởi đầu của cuộc tử nạn” (Calvin). Bản văn này gồm hai phần khác biệt nhau: thái độ vô tâm của một làng Samaria (cc. 51-56) và những đòi hỏi của sứ vụ tông đồ (cc. 57-62).
2. Giọng văn long trọng của câu 51 rõ ràng biểu thị hai điều: trước tiên, thời gian mà Chúa Cha ban cho Con Ngài để thực hiện công trình tại thế của Ngài sắp kết thúc và việc CGS ra đi đã gần kề. Sứ vụ tại thế của CGS được lồng vào trong việc kiện toàn thời gian (Mc 1,15; x. Gal 4,4), đưa tới việc hoàn thành nước TC. Nước Trời sẽ được hoàn tất nhờ việc analempsis, siêu thăng hay về trời của CGS. Trong hy ngữ của TƯ, danh từ “ana lempsis” này chỉ xuất hiện ở đây, nhưng động từ của nó được xử dụng (đặc biệt trong các văn phẩm của Lc) để chỉ việc nhắc lên trời (Cvsđ 1,2.11.22; 10,16), ngoài ý nghĩa thông thường là: đón lấy, mặc lấy (Cvsđ 20,13.14; Eph 6,13). Chính bản LXX cũng dùng động từ này để chỉ việc Elia được cất về trời (2V 2,9-11); sự kiện này có thể được móc với việc nhiều thủ bản nhắc đến Elia trong câu 54 (x. Nguyễn Thế Thuấn).
Tiếp đến, ý định của CGS trở lên Giêrusalem là một quyết định quan trọng. CGS ý thức rõ ràng Ngài phải chịu đau khổ và chịu chết trong thành thánh, và theo Lc, Ngài đã hai lần loan báo cuộc khổ nạn của Ngài (9,22 và 9,44-45). Nhưng phúc âm vẫn thường ít chú trọng đến tâm lý cũng như trạng thái tâm hồn của CGS, ở đây lại nhấn mạnh rằng CGS không dấn thân trên con đường đưa tới cái chết một cách bộp chộp hay thản nhiên như một cách nhàn du đi theo con đường đã vạch trước. Câu văn diễn theo từng chữ là: Ngài rắn khuôn mặt lại. Vẫn biết từ ngữ “khuôn mặt” là một đặc ngữ Hy bá ám chỉ cả con người, nhưng không được phép hiểu từ ngữ này theo ý nghĩa là Lc cho thấy CGS biến đổi diện mặt bị xúc động mạnh. Nhưng “rắn khuôn mặt lại” có nghĩa là bày tỏ một quyết tâm dùng can đảm để vượt qua nỗi sợ hãi. Ở đây Lc đã khơi mào cho thấy những đau khổ đầu tiên của cơn hấp hối mà CGS sẽ phải chịu ở Giêtsimani (22,39-46).
Thành ngữ “CGS rắn khuôn mặt lại khi lên Giêrusalem” xem ra cũng ám chỉ đến bài ca thứ ba về Người tôi tớ của Giavê. Bài ca đó có nói: “Chúa Giavê đến cứu giúp tôi, vì thế tôi không còn cảm thấy bị lăng nhục. Vì thế tôi trơ mặt ra như đá; tôi biết rằng tôi sẽ không phải xấu hổ” (Is 50,7). Qua sự tương cận này, Lc đồng hóa CGS với Người tôi tớ của Giavê mà ông đã ám chỉ trong cuộc Biến Hình (9,35). Như thế cuộc hành trình lên Giêrusalem là khởi điểm của công cuộc hiến tế của Người-tôi-tớ Giavê.
Vậy CGS đi lên Giêrusalem với tư cách là Người-tôi-tớ, là vị ngôn sứ, là Đấng thiên sai, đại diện TC viếng thăm dân Người và ban cho họ đầy tràn ân sủng. Vì thế, Lc đã dùng ngôn ngữ long trọng: “Ngài sai phái bộ đi trước Ngài” (c.52). Rất có thể khi xử dụng một ngôn ngữ long trọng như thế, Lc đã muốm ám chỉ đến lời tiên tri thiên sai của ngôn sứ Malakia: “Này đây Ta sẽ sai phái sứ giả của Ta, để người đó dọn sạch đường trước mặt Ta. Và vị Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ bất ngờ đi vào thánh điện của Ngài” (Mal 3,1). Nhưng ở đây có một sự chuyển dịch ý nghĩa: chính CGS là Giavê và các sứ đồ là các sứ giả. Và thực sự, như sẽ thấy trong chương 19, cuộc hành trình của CGS lên Giêrusalem sẽ chấm dứt bằng việc Ngài long trọng đi vào đền thờ để xua đuổi những kẻ buôn bán và để giảng dậy ở đó (19,45-48).
3. Nhưng những sứ giả đi trước CGS không chỉ có một nhiệm vụ biểu trưng. Cụ thể hơn họ có phận sự tìm kiếm lương thực, và sắp xếp chỗ ở cho Ngài. Biện pháp này thật là cần thiết cho cả đoàn người đi theo CGS. Chúng ta không thể đánh giá được tầm quan trọng của đoàn tùy tùng này và xem ra không chắc gì trong ngày Chúa khởi hoàn vào Giêrusalem (19,29-40) đoàn người này được tăng số bởi những kẻ hành hương lên Giêrusalem để dự lễ vượt qua, vì ngày lễ trọng đại này còn quá xa. Nhưng chắc hẳn đoàn tùy tùng này, ngoài 12 môn đồ và các bà đạo đức ra, còn có cả một số cảm tình viên, trong đó CGS sẽ chọn lấy 72 người mà Ngài sẽ sai đi rao giảng (10,1-30).
4. Giữa người Do thái và người Samaria, có những xung khắc trên bình diện quốc gia và trên bình diện tôn giáo. Người Samaria là miêu duệ của các bộ lạc Đông Á đến định cư này vào thời vương quốc phương bắc của người Do thái bị người Assyria chiếm đóng (722) và cũng là miêu duệ của những thổ dân bản xứ. Họ đã theo đạo Giavê của dân Do thái, nhưng họ đã xây dựng đền thờ riêng cho họ trên núi Garizim, và họ còn khác với dân Do thái về nhiều điểm trên bình diện tôn giáo (x. 2V 17,24-41). Người Do thái khinh dể người Samaria, xem họ như người nửa lương nửa giáo và tránh tiếp xúc với họ (Gio 4,9). Nhiều lần, vì thù ghét giữa hai dân tộc đã có những cuộc tấn công lẫn nhau. Khi người Samaria nghe biết CGS lên Giêrusalem họ chống đối Ngài ra mặt và từ chối tiếp đón Ngài. Thật vậy, nếu đã từ lâu người Samaria nuôi dưỡng một lòng thù ghét đối với người Do thái, thì họ còn đặc biệt ác cảm những lữ hành đi lên Giêrusalem, bởi vì những người này mặc nhiên chối bỏ phụng tự trên núi Garizim.
Phải chăng CGS chỉ tìm cách đi qua xứ Samaria để lên thẳng Giêrusalem ? Chúng ta có thể nghi ngờ điều đó, vì nếu thế thì Ngài chỉ cần vài ngày đường là đi đến thành thánh - điều này hoàn toàn trái ngược với cuộc hành trình dài dòng tường thuật trong những chương 9-19. Phải chăng Ngài cũng muốn rao giảng Tin mừng cho người Samaria ? Không ai biết rõ, nhưng điều này xem ra ít phù hợp với lời khuyên răn của CGS (x. Mt 10,5) là “đừng đi vào trong một làng nào của xứ Samaria cả”. Dẫu sao đi nữa, sự việc một làng xứ Samaria từ chối không cho một đoàn người xứ Galilea hành hương Giêrusalem (c. 53) trú ngụ là điều phù hợp với những gì chúng ta biết về thành kiến của người Samaria và người Do thái đối với nhau. Và đúng với những lời giáo huấn của Ngài đã trao ban cho các môn đệ (9,5), CGS không mấy để ý đến sự kiện này (thái độ vô tâm của người Samaria) và ra đi nơi khác (c.56), nhưng cũng không quên khiển trách 2 anh em Giacobe và Gioan ("con của sấm sét” theo Mc 3,17) về sự bất bình và nóng giận của họ (c.55). Họ đã không muốn khiến lửa từ trời xuống sát phạt những dân lành kém hiếu khách đó sao (c.54).
Trước đó chưa bao lâu, Gioan, dù đã hoàn toàn ý thức về phẩm chất cao cả của người sứ đồ - nhưng một cách hẹp hòi - đã có một lối cư xử mà CGS phải sửa sai (9,49-50). Và sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba (theo Mc 10,35-40), Chúng ta thấy hai anh em Giacobê và Gioan nẩy ra một tham vọng thái quá về chỗ đứng của họ trong vương quốc sắp tới. Trong cuộc biến hình vừa mới đây (9,28-36), Elia đã hiện ra với họ, và có thể họ nhớ lại rằng đã hai lần, theo lệnh của vị ngôn sứ, lửa từ trời đã xuống đốt cháy những binh sĩ vua Ochozias sai đến (2V 1,9-12). Dầu sao, đối với CGS, khi Ngài đến gần loài người, Ngài chỉ muốn mang lại ân sủng của TC mà thôi (Gio 3,17; 12,47). Nay chưa phải lúc thi hành việc phán xét, mà chỉ mình TC mới có quyền chứ không phải con người, cho dù là sứ đồ đi nữa.
5. Ba câu chuyện ngắn ngủi tiếp theo trong các câu 47-62 có lẽ thực sự đã do Lc tập hợp lại (2 câu chuyện đầu được thu tập trong Mt 8,19-22 chuyện thứ ba là của riêng Lc) vì cùng trả lời cho một vấn đề: làm thế nào để theo CGS ? Rất có thể cả ba câu chuyện xảy ra lúc bắt đầu lên đường một chỗ nào đó (Mt đặt chúng vào lúc CGS sắp vượt qua biên Galileêa để đến Gađara). Điều quan trọng là không phải con người của các nhân vật trong câu chuyện; vì người ta nhận thấy rằng Lc không nói rõ ràng một ai trong hai người đó trở nên môn đồ của CGS. Điều quan trọng chính là giáo huấn mà CGS ban ra vào dịp này. CGS đặt ra ba đòi hỏi cho kẻ muốn trở nên môn đệ Ngài.
a/ Phải từ bỏ mọi an toàn (cc.57-58). Một kẻ vô danh đầu tiên hứa hẹn theo CGS bất cứ nơi đâu. Có lẽ người ta trông chờ CGS nói trắng ra hay mạc khải cho người đó mục đích tối hậu của cuộc sống Ngài: Giêrusalem và cuộc khổ nạn. Nhưng CGS đã trả lời cho anh ta rằng Con Người không có nhà ở đâu hết và cuộc sống Ngài cũng không an toàn bảo đảm bằng cuộc sống của con thú rừng. Thành ngữ: “không có chỗ ngả đầu”, gợi lại việc trú ngụ ở Belem (2,7) và củng cố thêm ấn tượng mà các sách phúc âm cho thấy về cuộc sống lang thang và bấp bênh của CGS.
Ở đây cũng như nhiều chỗ trong các sách phúc âm, CGS tự gán cho mình tước hiệu Con Người. Thành ngữ này khi thì chỉ con người xét như là một phần tử của nhân loại (đây là ý nghĩa mà CƯ thường dùng) khi thì ám chỉ nhân vật mầu nhiệm mang lấy tư cách thẩm phán tối cao của thời cánh chung mà Đn 7,13 và sách Hê-nóc nói đến (đây là ý nghĩa mà CGS xử dụng để tự gọi mình) (khi tự coi mình như là Con Người, CGS đã chọn tước hiệu thiên sai ít liên hệ nhất với quốc gia chủ nghĩa và niềm hy vọng thiên sai chính trị của người Do thái). Như thế CGS nhấn mạnh một điểm tương phản mà có lẽ kẻ đối thoại không nhận ra, đó là nét tương phản giữa bản chất đích thực của Ngài và cuộc sống Ngài đang theo, mà mối hiềm thù của những dân làng Samaria vừa mới cho một ví dụ.
Thân phận của một môn đồ cũng là thân phận của Thày mình: ngoại kiều và lữ hành trên mặt đất này (1P 2,11). Cả hai đều không có một nơi trú ẩn bảo đảm (theo thư Do thái 13,14: “không có thành trì lâu bền"). Theo CGS tức là chấp nhận băng mình vào những khó khăn của cuộc sống.
b/ Phải xem tất cả đều là phụ tùy trước bổn phận cấp bách rao giảng Tin mừng. Kẻ đối thoại thứ hai không tự ý xin nhưng CGS ra lệnh cho anh ta theo Ngài. Người đó tự biện giải bằng cách nói mình tự phải chôn cất cha mình trước đã. Điều này không nhất thiết có nghĩa là cha anh ta vừa mới chết, như đa số nhà chú giải thường hiểu (bởi vì tại xứ Palestine, việc chôn cất một người chết phải thực hiện ngay trong ngày nên khó mà nghĩ rằng CGS đã không đồng ý cho người được gọi triển hoãn vài giờ trong trường hợp ấy. Đúng hơn, người ấy thoái thác là vì muốn đợi cho cha mình, chắc chắn đã cao niên, chết đi đã rồi mới có thể đến theo CGS. Đó là một trì hoãn mà CGS từ chối).
Làm thế, CGS khẳng định rằng những bổn phận nhân loại là phụ tùy đối với những đòi hỏi của Nước Trời. Ngài không cho rằng những bổn phận gia đình là không đáng kể (x.Mt 15,3-9; 1Tm 5,8), nhưng trong trường hợp có xung khắc, thì những đòi hỏi của Nước Trời phải ưu vượt tất cả. Có một sự ưu vượt tối khẩn và quan trọng, “hầu mọi kẻ làm cha dưới đất khỏi ngăn trở Đấng tối cao và Cha mọi người được toàn quyền trên mọi sự” (Calvin). Đây cũng là tư tưởng mà Chúng ta tìm thấy trong câu 14,26 (và trong đoạn song song nhưng có vẻ nhẹ hơn: Mt 10,37) nơi mà CGS nói rằng tình yêu đối với Chúa phải vượt quá tình yêu tha nhân và tình yêu chính mình, và trong trường hợp có tranh chấp giữa trung thành với Chúa và trung hiếu với tình cảm nhân loại, thì chính tình yêu Chúa phải vượt lên trên hết cho dù phải xảy ra một sự cắt đứt do bởi hận thù.
Trong câu trả lời, CGS dùng chữ “chết” với cả hai ý nghĩa vật lý và thiêng liêng (như trong Gio 5,21-29; Eph 2,1...): những ai mà cuộc sống đã không được đổi mới nhờ đức tin thì không phải là những người sống thực sự với Chúa.
Dầu vậy rất có thể là trong thực tế, câu trả lời của CGS ít cứng cỏi hơn câu thánh Lc kể lại (và Mt 8,22). Từ nguyên thủy, có lẽ có một lối chơi chữ của người Aram giữa “Mâtâ” (làng) và “metâ” (chết) với ý nghĩa là: “những người dân làng sẽ liệu chôn cất cha anh”, vì người ta bắt buộc phải chôn cất những tử thi không có thân nhân mai táng (giả thiết của Batiffol). Trong khi, dịch từ Aram qua Hy ngữ, truyền khẩu có thể đã làm mất lối chơi chữ đó và hiểu đó là những kẻ chết (hơn là những người dân làng) chôn cất kẻ chết. Một giả thuyết khác (M.Black) cho rằng trong bản Aram nguyên thủy có một lối chơi chữ giữa tiếng methinin (không dứt khoát) và tiếng mithin (chết, số nhiều). Theo giáo thuyết này, CGS đã có thể truyền lệnh cho kẻ được gọi hãy để việc chôn cất lại cho những kẻ không thể dấn thân vì nước Trời, những người không dứt khoát. Cho dù có giả thuyết nào đi nữa, hai bản văn chính lục và linh ứng này của Mt và Lc vẫn chỉ nói là kẻ chết chôn kẻ chết và cuối cùng những bản văn này là mẫu mực đức tin cho chúng ta.
c/ Phải quay lưng lại với quá khứ và nhìn về đàng trước (cc. 61-62). Như người đối thoại đầu, người thứ ba tự ý xin đi theo CGS. Điều kiện tiên quyết mà ông ta đặt ra gần giống điều kiện của Elise (1V 19,19-21) hơn nữa động từ “từ giã” (epitrephô) cũng có thể áp dụng cho của cải như trong 14,33 .
Câu trả lời chủ CGS như là một châm ngôn, mà nền văn chương thời cổ cho chúng ta nhiều ví dụ: “người cầm cày mà không khom lưng xuống thì dễ cày trật lất” (Pline). Để vạch một đường cày cho đúng không được quay mặt lui. Ở đây, người ta cũng nhớ lại lúc Elise đang cày thì Elia gọi ông.
Câu trả lời của CGS có ý nghĩa như câu trả lời trước nhưng tổng quát hơn. Theo CGS thì phải dứt khoát với quá khứ. Không những phải cắt đứt những ràng buộc cũ với gia đình mà còn phải từ bỏ nỗi lo lắng giữ lại tất cả gia sản những giá trị và kinh nghiệm luân lý mà quá khứ đã cho ta đạt được. Để trở nên thích hợp với Nước Trời, phải từ bỏ tất cả quá khứ (x.Ph 3,8). Và trong cuộc sống mới, phải có một con tim không chia sẻ, phải bước đi mắt nhìn về phía đằng trước (x. Ph 3,13), nghĩa là nhìn vào Đấng đi trước là CGS Kitô (Do thái 12,1-2).
KẾT LUẬN
Người ta có thể từ chối làm môn đồ CGS vì những thiên kiến tôn giáo: đó là trường hợp người xứ Samaria. Nhưng người ta cũng có thể từ chối lời mời gọi làm môn đồ bởi quá bận tâm đến sự an toàn, đến những tình cảm nhân loại hoặc đến quá khứ của mình: đó là trường hợp của ba người được gọi trong phần thứ hai của bản văn (dầu vậy nên nhớ rằng tác giả Tin mừng mô tả ba ơn gọi ấy dưới quan điểm những đòi hỏi của CGS, chứ không nói đến việc họ từ chối hay chấp nhận). Trong cả ba trường hợp CGS chỉ đưa ra lời mời gọi, chứ không bức bách tự do của họ bằng đe dọa hay trừng phạt, hứa hẹn hay ân thưởng. Cả trình thuật này đều qui chiếu về con người của CGS. Thiếu vắng Ngài là đau khổ lớn lao nhất, ở với Ngài (cho dù là phải lên Giêrusalem để chết với Ngài ở đó) là phần thưởng cao quí, tuyệt hảo.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Lc là tác giả phúc âm nói về lòng tốt lành và xót thương của TC. Vậy làm sao đoạn này có cung giọng đặc biệt cứng cỏi khắt khe đến thế ? Chính là vì ở đây Lc khơi mào một giai đoạn mới trong đời CGS, Ngài phải từ bỏ Galilê để “lên Giêrusalem”. Đối với Chúa Kitô đây là một bước tiến dứt khoát, một quyết định trọng đại cho cả cuộc sống Ngài: vẫn ở lại Galilê là kéo dài cuộc sống dễ dãi với những thành công đầu tiên, là bị khuất phục bởi cơn cám dỗ trở nên Đấng Thiên Sai trần thế, thần tượng của dân chúng và “tự định đoạt cuộc đời”. Cương quyết lên Giêrusalem chính là cụ thể chấp nhận ý muốn Chúa Cha: thí mạng sống Ngài; chính là cắt đứt với quá khứ để dấn thân vào một tương lai bấp bênh phù hợp với ý định Chúa Cha. Trong văn mạch này đừng có lấy làm ngạc nhiên vì Chúa đưa ra rõ ràng và có thể nói là nhẫn tâm, những đòi buộc khẩn thiết của Tin mừng đối với những ai muốn theo Ngài phục vụ Nước TC. Trong cuộc sống người Kitô hữu cũng như trong lịch sử của giáo hội, có những lúc cần phải từ bỏ sự an toàn xưa nay để trung thành với Chúa và với sứ mệnh.
2. Lúc con trẻ Giêsu được dâng trình tại đền thánh, bà ngôn sứ già Anna, sau khi đã thấy CGS, “mở miệng nói về con trẻ cho tất cả những ai mong chờ ơn công cuộc giải phóng Giêrusalem” (Lc 2,38). Chính lời này được thực hiện vào lúc CGS hoàn tất sứ mệnh. Vì CGS lên Giêrusalem là để “giải phóng Giêrusalem”, để phá hủy Giêrusalem của CƯ, của nô lệ, và để mạc khải một Giêrusalem mới, Giêrusalem trên trời, Giêrusalem của TƯ. Với hoàn toàn tự do và tự nguyện, CGS dấn thân vào tiến trình giải phóng dân TC, một cuộc giải phóng chỉ được hoàn tất với cuộc khổ nạn, chết và phục sinh của Ngài theo ý định nhiệm mầu của Chúa Cha.
3. Giáo hội hôm nay, và trong giáo hội mỗi Kitô hữu đều được mời gọi “theo CGS”, tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Ngài, lên Giêrusalem với Ngài. Dù Chúng ta không luôn luôn thấy rõ những từ bỏ mà cuộc đăng trình này đòi buộc; dẫu vậy chúng ta được đảm bảo về cùng đích, về ý nghĩa tối hậu của sứ mệnh chúng ta: đó là chúng ta sẽ được “cất đi”, “được siêu thăng”, “được tôn vinh” với Chúa Kitô. Vì thế chúng ta vững chắc cậy trông và có thể thẳng thắn dứt khoát lên đường. Cho dù tương lai có thể khó khăn và đầy đau khổ, chúng ta vững tin vào tình yêu Chúa Cha, vào lời trung tín của Ngài, vào chiến thắng cuối cùng. Cho dù hoàn cảnh có nguy biến, niềm xác tín nội tâm vẫn kiên vững và việc dấn thân có thể không lung lay. Nếu mãi mãi do dự, trì hoãn quyết định lên đường đi Giêrusalem, thì đó là không sống phù hợp với thái độ của CGS. Sống như thế là không sống với Tin mừng, sống thiếu đức tin và đức cậy.
4. Giáo hội, kẻ có sứ mệnh mạc khải CGS và sứ điệp của Ngài, vẫn không được những người Samaria hiện tại đón tiếp và các sứ đồ hôm nay vẫn bị loài người tiếp tục chối từ. Ước gì các sứ đồ ấy không vấp phải cám dỗ như Giacôbê và Gioan dùng “biện pháp mạnh” để rao giảng Tin mừng, biến Tin mừng thành một loại tuyên truyền, một thứ tẩy não, thành những lời ngăm đe sát phạt hay hăm dọa tình cảm. Chỉ có một bạo lực CGS làm ngơ cho, đó là bạo lực của các đối thủ đóng đinh Ngài trên thập giá. Vì Tin mừng là Tin mừng giải phóng và phải được con người tự do đón nhận, cho dù sứ giả Tin mừng có phảo chịu bất cứ hậu quả nào.
Chủ Đề: Bí quyết để khỏi ngoái đầu lại là biết dán chặt mắt vào Chúa Giêsu.
Vào năm 1924, ở nước Anh, Eric Liddell là vận động viên chạy nhanh nhất trong môn chạy 100 mét.: TN 13-C31
Vào năm 1924, ở nước Anh, Eric Liddell là vận động viên chạy nhanh nhất trong môn chạy 100 mét. Mọi người đều hy vọng anh sẽ đoạt được huy chương vàng vào đại hội Olympic tổ chức tại Paris cùng năm đó. Nhưng đùng một cái xảy ra một chuyện làm mọi người đều ngỡ ngàng tức bực. Số là lịch thi của đại hội Olympic sắp xếp môn thi chạy 100 mét vào đúng ngày Chủ nhật. Eric nghĩ rằng việc tuân thủ chặt chẽ ngày dành riêng để phụng sự Chúa không cho phép anh thi chạy vào ngày Chủ nhật. Vì thế anh đành từ chối thi môn này. Vừa nghe tin Eric từ chối thi đấu môn chạy 100 mét, lập tức, khắp nơi, mọi người đều tìm cách gây sức ép trên anh. Ngay cả hoàng tử xứ Waless cũng cố gắng thuyết phục anh vi phạm tiếng nói của lương tâm. Đến khi thấy Eric vẫn cứ nhất mực không chịu đổi ý, báo chí Anh Quốc bèn gọi anh là tên phản bội. Tuy nhiên, Eric vẫn khăng khăng không chịu làm ngược với xác tín của mình.
Thế rồi Eric đến gặp các huấn luyện viên và đề nghị với họ để cho một vận động viên trong nhóm thế chàng trong môn chạy 100 mét, và chàng sẽ thế chỗ cho vận động viên đó chạy 400 mét, dù rằng trước đó chàng chưa bao giờ chạy thi ở cự ly này. Để rút ngắn câu chuyện, chúng ta biết rằng không chỉ Eric đã đoạt huy chương vàng ở cự ly 400 mét, mà vận động viên chạy thay cho anh cũng đoạt được huy chương vàng ở cự ly chạy 100 mét. Vậy là thay vì chỉ đoạt được một huy chương vàng, các vận động viên Anh Quốc lại đoạt được đến hai huy chương vàng về môn chạy.
Vài năm sau đại hội Olympics đó, Eric lại làm cả thế giới sửng sốt khi anh đến sống ở Trung Hoa trong vai trò một thừa sai. Về sau nàng con gái từng yêu anh cũng đi theo anh. Họ lấy nhau và sinh được ba đứa con kháu khỉnh.
Thế rồi, thế chiến thứ hai đã xảy ra. Khi Nhật Bổn nhảy vào cuộc chiến, Eric liền gởi vợ con về Gia nã Đại. Ít lâu sau, quân Nhật xâm lăng Trung Hoa, Eric bị bắt giam vào một trại tập trung của Nhật. Tại đây anh tiếp tục công việc mục vụ của mình ở giữa đám tù nhân. Vài năm sau, Eric đã anh dũng chết tại trại tập trung này. Sau khi anh qua đời, vợ anh liền thu gom mọi thứ thư từ mô tả hành vi anh hùng của chồng mình lúc còn ở trong trại. Bà đọc thấy có hai lá thư của hai người nọ kể rằng chỉ nhờ Eric mà họ đã không tự sát.
Năm 1980 có người đưa ý kiến dựng một cuốn phim về Eric và đại hội Olympic năm 1924. Khi nghe thế, vợ của Eric, lúc bấy giờ đang sống tại Toronto lên tiếng: “Ai mà còn để ý tới một biến cố xảy ra cách đây lâu như thế về một anh chàng không chịu thi chạy vào ngày Chủ nhật chỉ vì khư khư tuân thủ niềm xác tín Kitô hữu của mình?”. Và khi cuốn phim ra mắt khán giả thì có đến hàng triệu khán giả đã chăm chú theo dõi, cuốn phim mang tựa đề Chariots of Fire (chuyến xe chở lửa) đó không chỉ phá kỷ lục về bán vé mà còn đoạt được giải Hàn Lâm năm 1982 nữa.
Câu chuyện về Eric Liddell góp phần làm sáng tỏ thái độ dứt khoát mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Phúc Âm hôm nay khi Ngài tuyên bố: “Kẻ nào tra tay vào cày rồi mà còn ngoái cổ lại đằng sau thì chẳng xứng đáng với nước Chúa”. Eric Liddell đã không bao giờ ngoái cổ lại đằng sau.
Một khi đã quyết định theo Chúa Giêsu là anh cứ nhắm thẳng đằng trước mà bước tới chứ không hề ngó lại phía sau nữa, dù phải đối diện với áp lực khủng khiếp của quần chúng, dù bị gọi là tên phản bội tổ quốc của mình.
Bí quyết nào giúp Eric đủ can đảm để không bao giờ nhìn lại phía sau? Bí quyết nào giúp anh trung thành với Chúa Giêsu dù phải chịu đương đầu với thử thách nặng nề? Bí quyết ấy nằm trong lời mô tả sau đây của vợ Eric khi bà trả lời phỏng vấn của tờ báo Toronto Star (Ngôi sao Toronto). “Ngày nào anh ấy cũng dành giờ đầu tiên trong ngày - thường là rất sớm - để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và sắp đặt công việc trong ngày”. Đó chính là bí quyết giúp Eric có được can đảm, giúp cho anh trung thành với Chúa Giêsu, anh là mẫu người luôn biết cầu nguyện. Anh có khả năng tra tay vào cày mà không bao giờ ngoái cổ lại, vì mỗi sáng anh đều gặp Chúa Giêsu trong giờ cầu nguyện.
Cũng trong năm 1982 khi cuốn phim Chariots of Fire đoạt giải thưởng Hàn Lâm, thì đồng thời trên tập san Reader’s Digest xuất hịên một bài báo viết về một nữ nhân viên điều hành quảng cáo người công giáo rất thành công trong nghề nghiệp, nhưng lại cảm thấy cuộc đời thật trống rỗng. Một buổi sáng nọ, trong buổi ăn sáng chung với anh bạn cố vấn tiếp thị, chị tâm sự với anh về nỗi trống rỗng của mình. Anh bạn đồng nghiệp liền nói: “Chị có muốn lấp đầy nỗi trống trải đó không?” Chị trả lời: “Dĩ nhiên là có” Anh ta nhìn thẳng vào chị và trả lời: “Vậy chị hãy bắt đầu mỗi ngày bằng một giờ cầu nguyện”. Lập tức chị nhìn anh ta rồi đáp: “Anh không đùa tôi đấy chứ ! Tôi mà làm nổi điều đó chắc là tôi khùng quá!” Anh bạn mỉm cười nói tiếp: “Đây chính thực là điều tôi đã từng nói với chị cách đây 20 năm trước. Đoạn anh còn nói thêm đôi điều khiến chị ta thực sự phải suy nghĩ chẳng hạn: “Chị hãy cố gắng đem Chúa vào trong cuộc sống của chị, nếu không thì cuộc sống của chị sẽ chỉ gần gần Ngài thôi”.
Người phụ nữ ấy rời khỏi nhà hàng lòng đầy hoang mang. Phải bắt đầu cầu nguyện mỗi buổi sáng à? Mà lại phải bắt đầu cầu nguyện những một tiếng đồng hồ à? Quả là khó quá sức! Tuy nhiên vào sáng hôm sau chị lại thử bắt đầu, và mãi đến hôm nay chị vẫn còn giữ thói quen ấy. Chị thú nhận thoạt tiên điều ấy không dễ dàng bởi vì có những buổi sáng lòng chị tràn đầy an bình vui vẻ, nhưng cũng có những buối sáng lòng chị chả cảm thấy gì ngoại trừ sự uể oải mệt mỏi. Nhưng vào những ngày cảm thấy mệt mỏi, uể oải này, chị nhớ lại lời anh bạn cố vấn tiếp thị kia: “Sẽ có những lúc tâm trí chị không vào thẳng được cung điện của Chúa, tức là chị đang ở trong phòng chờ đợi của Ngài. Tuy nhiên dù cho chị ở ngoài phòng chờ đợi thì Chúa vẫn đánh giá nỗ lực đợi chờ của chị. Điều quan trọng chính là việc dấn thân kia”.
Câu chuyện về Eric Liddell và chị nhân viên điều hành quảng cáo trên nêu cho mỗi người chúng ta một thách đố. Chúng ta không thể nào nghe các câu chuyện trên mà không cảm thấy tự đáy lòng phát ra lời mời gọi phải thực hành một điều gì tương tự như thế trong cuộc sống của chính mình. Nếu chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc tập trung đưa mắt nhìn vào Chúa Giêsu, trong việc tra tay vào cày mà không ngoái nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng thì có lẽ chúng ta hãy nghiêm chỉnh xét xem đã đến lúc cần phải thực hiện sự dấn thân hằng ngày cho Chúa Giêsu. Chúng ta dấn thân như thế nào đây? Mỗi người tự trả lời lấy câu hỏi này. Theo cách thức riêng của mình, nhưng tựu trung phải thi hành một điều gì đó như anh bạn cố vấn tiếp thị nọ có nói: “Điều quan trọng chính là sự dấn thân”.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện quen thuộc:
“Lạy Chúa xin dạy con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đang thi hành ý muốn của Chúa”. Amen
Người Mỹ đầu tiên được phong thánh là Thánh Frances Cabrini. Theolore Maynard có kể một: TN 13-C32
Người Mỹ đầu tiên được phong thánh là Thánh Frances Cabrini. Theolore Maynard có kể một câu chuyện cảm động về đời sống của Thánh nhân trong cuốn sách tựa đề: “Thế giới quá nhỏ bé”. Ông kể về một trong những đệ tử của Thánh France: Chị Ancilla đã chết tháng 5 năm 1884, trong số những người mộ mến chị Ancilla có một thiếu phụ trẻ đang chết dần vì bệnh lao phổi, với hy vọng được chữa khỏi. Bà xin được giúp khiêng quan tài của chị Ancilla tới phần mộ. Mỗi bước đi Bà cảm thấy trong người khỏe hơn, và khi từ nghĩa trang trở về, Bà được hoàn toàn bình phục.
Phép lạ này rất hợp với Lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Hãy để cho kẻ chết chôn kẻ chết”? Chúa Giêsu có ý nói gì? Chúa không cấm người thanh niên chôn cất cha mình cho xứng đáng. Chúa muốn làm nổi bật sự khác biệt giữa Tin Mừng đem lại sự sống và tin buồn về cái chết trần gian cho kẻ không tin. Hơn nữa, người thanh niên này có thể tìm cách thoái thác việc theo Chúa, nại lý do đợi cha mình chết và chôn táng cha mình xong. Không có cái gì được phép cản đường chúng ta thi hành điều Chúa Giêsu đòi hỏi.
Quả thật, việc chôn cất kẻ chết là một việc thiện. Chúa Giêsu đã tham dự vài đám tang, con trai Bà quả phụ thành Naim, con gái ông Jairô. Mỗi họ đạo là một gia đình. Mỗi tín hữu trong họ đạo là anh em với nhau trong Chúa Kitô. Khi có ai trong họ đạo qua đời, mỗi người trong họ đạo phải cảm thấy như người anh em mình qua đời. Chúng ta phải cố gắng tham dự đám tang. Bạn muốn có người cầu nguyện cho bạn, tham dự Thánh lễ cho bạn. Bạn hãy cầu nguyện và tham dự thánh lễ cho người chết trong họ đạo của Bạn. Có nơi hầu như cả họ đạo đi đưa xác, cũng có nơi chỉ có những người trong gia đình và họ hàng.
Trong kinh nguyện Thánh thể chúng ta lặp lại lời nguyện này: “Xin nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại”. Vâng, họ là anh chị em chúng ta, không phải bằng máu mủ loài người, mà bằng Máu Chúa Kitô. Chúng ta thuộc về một gia đình. Hãy bày tỏ điều này bằng việc tham dự đám tang của họ.
1. ĐỨC GIÊ-SU KHÔNG CÓ ĐẦU ÓC KỲ THỊ ĐỊA PHƯƠNG VÀ TÔN GIÁO
Năm 931 trước công nguyên, Nước Do Thái bị chia cắt làm hai do hai vua cai trị: nước Ít-ra-en: TN 13-C33
Năm 931 trước công nguyên, Nước Do Thái bị chia cắt làm hai do hai vua cai trị: nước Ít-ra-en ( gồm vùng Ga-li-lê ở miền Bắc và Sa-ma-ri ở miền Trung ) và nước Giu-đa ở miền Nam ( vùng Giu-đê ). Đến năm 721, nước A-xi-ri xâm chiếm nước Ít-ra-en, bắt một phần dân chúng đi lưu đày, và đưa các dân ngoại bang đến định cư tại Sa-ma-ri ( x. 2 V 17, 24 – 41 ). Vì thế, dân tại Sa-ma-ri trở thành một dân tạp chủng, và tôn giáo của họ trở thành một thứ “hòa đồng tôn giáo”. Do quan niệm tôn giáo khác nhau và do tính bất bao dung tôn giáo, nên dân Do Thái thuần chủng và dân Sa-ma-ri tạp chủng tẩy chay nhau, thù ghét nhau, tạo nên rất nhiều căng thẳng. Dù sau đó đất nước đã thống nhất, nhưng người Do Thái khi đi lại giữa Ga-li-lê và Giu-đê thì thường đi vòng quanh thay vì đi xuyên qua vùng Sa-ma-ri, vì họ không muốn giao thiệp với người Sa-ma-ri.
Thế nhưng Đức Giê-su không hề có đầu óc kỳ thị đó, Ngài sẵn sàng đi xuyên qua Sa-ma-ri. Trong bài Tin Mừng, ta thấy Ngài sai vài môn đệ đi trước để chuẩn bị đến một làng ở Sa-ma-ri. Nhưng làng ấy nặng đầu óc kỳ thị địa phương không chịu đón tiếp phái đoàn Do Thái này. Điều này khiến các ông Gia-cô-bê và Gio-an nổi giận.
Qua bài Tin Mừng ta thấy: Đức Giê-su không có đầu óc kỳ thị địa phương hoặc tôn giáo. Ngài chủ trương đến với mọi người, mọi dân tộc, mọi vùng, chứ không riêng gì một vùng hay một hạng người nào. Điều này đáng làm gương cho chúng ta. Hiện nay, trong Giáo Hội Việt Nam, tại nhiều vùng, ta vẫn thấy có não trạng kỳ thị địa phương do chính sách chia để trị thời Pháp thuộc để lại. Nhiều Giáo Phận hay Giáo Xứ không chấp nhận Giám Mục hay Linh Mục không phải là người địa phương của mình đến cai quản. Họ cố tranh đấu để Giám Mục hay Cha Xứ của mình phải là người thuộc địa phương của mình... ( Xin phép lược bớt một ý nhỏ ). Trong gia đình, nhiều cha mẹ không chấp nhận cho con mình lập gia đình với người thuộc địa phương khác, và đối xử với những con dâu hay con rể khác địa phương với mình một cách kỳ thị rõ rệt.
Ngày xưa, Giáo Hội Việt Nam đâu có đầu óc kỳ thị như vậy: Các Đức Cha Nguyễn Bá Tòng và Hồ Ngọc Cẩn đều là người miền Nam nhưng lại ra miền Bắc cai quản Giáo Phận Phát Diệm và Bùi Chu. Cách đây khoảng 3 thập niên, Đức Cha Nguyễn Kim Điền là người Vĩnh Long nhưng lại làm Tổng Giám Mục Giáo Phận Huế một cách rất tốt đẹp. Sự kỳ thị địa phương trong Giáo Hội quả là một thứ rối đạo trong thực hành, đi ngược lại tinh thần yêu thương và đại đồng của Đức Giê-su.
2. MUỐN THEO CHÚA, PHẢI TỪ BỎ BẢN THÂN VÀ MỌI SỰ
Bài Tin Mừng cho biết, khi về Giê-ru-sa-lem lần này, Đức Giê-su biết trước Ngài sẽ phải chịu rất nhiều đau khổ và cuối cùng phải chết một cách nhục nhã, thê thảm. Nhưng Ngài vẫn nhất quyết lên đường theo tiếng gọi của Cha Ngài. Đức Giê-su đã đi theo tiếng gọi của Chúa Cha một cách dứt khoát, đầy tự nguyện và mau mắn như thế đấy, đó cũng là thái độ của Ngài suốt cả cuộc đời đối với lời mời gọi của Chúa Cha. Ngài đã từ bỏ bản thân, kể cả mạng sống mình, một cách thật trọn vẹn.
Việc đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa đòi hỏi ta phải từ bỏ chính bản thân, tức cái tôi ( cá nhân cũng như tập thể ) mà ta hằng yêu quí nhất, và tất cả mọi người mọi sự khác, cho dù ta yêu quí đến đâu. Tuy nhiên, hai chữ ”từ bỏ” ở đây không nên hiểu theo nghĩa đen, vì từ bỏ bản thân sẽ dẫn đến cái chết, từ bỏ cha mẹ sẽ thành bất hiếu, và từ bỏ mọi người thân của mình sẽ mang tiếng vô tình bạc nghĩa. Thiên Chúa muốn chúng ta phải biết tôn trọng bản thân ( như điều răn thứ 5 đòi hỏi phải biết tôn trọng, bảo vệ mạng sống và sức khỏe của chính mình ) và yêu thương quí mến tất cả mọi người, nhất là cha mẹ cùng những người thân yêu nhất của mình ( như điều răn thứ 4 đòi hỏi phải thảo kính cha mẹ, đối xử tình nghĩa với người thân ). “Từ bỏ” ở đây chỉ có nghĩa là không bao giờ dành ưu tiên cho những đối tượng đó hơn Thiên Chúa, không bao giờ đặt nặng những nhu cầu hay mệnh lệnh của những đối tượng đó hơn nhu cầu hay mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Khi đã dành ưu tiên cho Thiên Chúa hơn tất cả mọi người mọi sự, và đặt nhu cầu và mệnh lệnh của Thiên Chúa trên tất cả mọi nhu cầu hay mệnh lệnh khác, kể cả nhu cầu của chính bản thân mình, thì ta sẽ sẵn sàng làm mọi sự để lo cho nhu cầu và mệnh lệnh của Thiên Chúa. Nhưng điều cản trở ta nhất khiến ta không thể dành ưu tiên như thế cho Thiên Chúa, chính là bản thân ta, với những nhu cầu và ham muốn của ta. Nhu cầu và ham muốn của ta là danh vọng, quyền lực, tiền bạc, lợi lộc và các thứ thú vui đủ kiểu. Khi ta gắn bó với bản thân ta, với những nhu cầu và ham muốn của ta, ta sẽ dễ dành ưu tiên cho chúng hơn chính Thiên Chúa và những nhu cầu hay mệnh lệnh của Ngài.
Tuy nhiên, khi đã quyết định từ bỏ bản thân và mọi sự để theo Chúa, ta có thể trở nên khôn khéo kiểu thế gian, biết tìm cách thỏa hiệp hay tương nhượng giữa nhu cầu, ham muốn của mình với nhu cầu, mệnh lệnh của Ngài, để cả đôi bên cùng có lợi. Khôn khéo hơn nữa, ta còn biết nhân danh Thiên Chúa, nhân danh những nhu cầu và mệnh lệnh Thiên Chúa để đề cao bản thân mình, để thực hiện một cách tế nhị những nhu cầu hay ham muốn của mình, để thăng tiến bản thân trong Giáo Hội cũng như xã hội. Đó chính là “dùng đạo tạo đời”, lợi dụng tôn giáo, niềm tin tôn giáo của mọi người để tạo thế lực, quyền bính và tiền bạc. Khôn khéo như thế thì trên danh nghĩa, ta vẫn có vẻ làm lợi cho Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, ta đang làm suy đồi Giáo Hội của Ngài.
Do đó, Đức Giê-su yêu cầu những người theo Ngài phải từ bỏ mình bằng cách sống cuộc đời siêu thoát, không gắn bó với những nhu cầu thể chất của bản thân, nghĩa là sống đơn sơ trong nơi ăn chốn ở, trong cách ăn mặc, trong những nhu cầu cá nhân. Khi đã chấp nhận sống đơn sơ như vậy, người theo Chúa sẽ dễ dàng từ bỏ những nhu cầu khác như danh vọng, quyền bính, tiền bạc, và những thú vui trần tục. Có như vậy họ mới dành đủ thì giờ và đầu óc để ưu tiên lo cho Ngài và những nhu cầu của Ngài hay của Nước Trời.
Vì thế, khi có người tỏ ý muốn theo Ngài, Ngài cho biết cuộc đời theo Ngài phải là: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Ngài cũng đòi hỏi kẻ theo Ngài phải dành sự ưu tiên cho những nhu cầu của Ngài hay của Nước Trời hơn tất cả mọi nhu cầu khác: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”. Nếu không thực hiện được như vậy thì không xứng làm môn đệ của Ngài, không đáng làm người loan báo Tin Mừng của Ngài: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”.
Lạy Cha, con đã quyết từ bỏ mọi sự để theo Cha và theo Đức Giê-su. Nhưng khi mang danh là người từ bỏ mọi sự, thì con lại được thế gian bù lại cho con những thứ khác nhiều gấp bội: danh vọng, quyền lực, tiền bạc và cả những thú vui trần tục nữa. Nếu không thường xuyên phản tỉnh thì con lại vô tình bám víu vào những thứ ấy một cách mạnh mẽ hơn trước mà vẫn cứ tưởng mình đã từ bỏ mọi sự. Nhiều khi con còn lợi dụng được cả danh tiếng “theo Chúa” để đạt được những thứ lợi lộc ấy nhiều hơn nữa. Để rồi cuối cùng con bám víu vào những thực tại trần gian này còn hơn cả những người không mang danh theo Chúa nữa. Xin hãy giúp con thường xuyên phản tỉnh để lập lại quyết tâm từ bỏ mỗi ngày, hầu việc theo Chúa của con trở thành đích thực và làm lợi cho Nước Chúa nhiều hơn.
Một thiền sư nổi tiếng đã kể giai thoại sau đây về cuộc đối thoại dí dỏm giữa Đức Phật và ác: TN 13-C34
Một thiền sư nổi tiếng đã kể giai thoại sau đây về cuộc đối thoại dí dỏm giữa Đức Phật và ác thần Mara:
Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Ananda, đệ tử thân tín của Ngài đứng ngoài cửa. Thình lình Ananda thấy Mara xuất hiện, Ananda cứ tưởng rắng Mara bị lạc lối. Nhưng Mara tiến lại gần Ananda và yêu cầu cho được gặp Đức Phật, Ananda ngạc nhiên trước yêu cầu của Mara nên hỏi lại:
- Ngươi còn đứng đây để làm gì ? Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao ? Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì ? Ngươi không biết xấu hổ sao ? Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.
Nghe thế, Mara liền cười ngất: Sao, ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ thù ư ?
Ananda cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng ngài có kẻ thù. Đuối lý, Ananda liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được gặp Ngài. Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận, không thể tiếp hắn được. Nhưng trái với những dự đoán của Ananda, Đức Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara. Ananda hết sức thất vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt tay hắn. Ngài niềm nở: Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không ? Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?
Nhưng Mara im lặng, không trả lời. Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai Ananda pha trà. Ananda bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, thì ta thấy không vui chút nào, nhưng vì đó là lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối được. Trong câu chuyện nghe lỏm giữa Đức Phật và Mara, Ananda nghe Mara thú nhận một cách chản nản như sau:
- Mọi việc diễn ra không tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ. Ngài biết đấy, đóng vai Mara không phải là chuyện dễ, có nói thì nói gian nói dối, cón có làm thì làm điều dữ điều ác. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Nhưng điều làm cho tôi khó chịu hơn cả chính là các môn sinh của tôi. Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động. Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đã đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác thôi.
Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông. Cuối cùng Ngài nói:
- Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao ? Anh không thấy những gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao ? Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi chưa bao giờ thốt ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng tôi và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ. Tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng để đổi chác. Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.
Giai thoại trên cho thấy một nghịch lý trớ trêu nhưng lại là một thực tế bi thảm: môn đệ của ác thần thì toàn nói chuyện nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức Phật lại chỉ mãi mê nghĩ đến chuyện khấn vái và cúng tế để thu nhặt cam chuối và tiền bạc thay vì chuyên tâm tự giác thứ tha. Sự thiếu nhất quán và óc thực dụng này đã bóp méo và làm biến chất không biết bao nhiêu giáo huấn tôn giáo cao siêu ! ( x. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Dấn Thân, Houston, 2003, tr 203.)
Câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh hai môn đệ Đức Giê-su qua trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Gio-an và Gia-cô-bê đã nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thụi rụi cả làng Sa-ma-ri-a chỉ vì dân làng không tiếp đón Thầy của mình.
Thầy trò Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem ngang qua Sa-ma-ri-a. Con đường ngắn nhất để lên Giê-ru-sa-lem là con đường đi ngang qua xứ Sa-ma-ri-a. Dân Sa-ma-ri-a lại thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Gióc-đan, tới tận Giê-ri-cô, băng qua sa mạc Giu-đê-a, trước khi đặt chân vào đền thờ Giê-ru-sa-lem.
Chúa Giê-su trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Sa-ma-ri-a. Ngài đã sai sứ giả Gio-an và Gia-cô-bê đi trước để chuẩn bị với hy vọng dân làng sẽ đón tiếp Thầy trò. Thế nhưng hai môn đệ trở về, lòng đầy căm tức thốt lên lời giận dữ: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu hủy chúng nó không ? Phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Ê-li-a ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy ho” ( 2 V 1, 10-12 ). Chúa đã nặng lời khiển trách, rồi Thầy trò sang làng khác. Không kết án những người Sa-ma-ri-a, Chúa Giê-su đi tới một làng khác, thực hiện đúng như lời đã dạy: “nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con” Hai môn đệ “con cái của thiên lôi” quá đổi ngỡ ngàng về thái độ của Thầy trước sự “vô lễ” của dân Sa-ma-ri-a, họ càng kinh ngạc hơn khi Chúa tuyên bố: “anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào, vì Con Người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu sống”.
Trong não trạng của các môn đệ cũng như nổi khát khao hàng thế kỷ của dân Do thái là mong đợi một Đấng Mét-si-a giải phóng dân tộc, phục hồi sức mạnh trần thế của It-ra-en. Chúa Giê-su thận trọng để không bao giờ đồng hoá với hình ảnh một Đấng Thiên sai đã bị “chính trị hoá”. Chúa khai mở một con đường cứu độ bằng yêu thương, khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục...
Sự kiện Chúa chống lại cám dỗ Sa-tan trong sa mạc là khởi đầu một cuộc đấu tranh cam go và kiên trì kéo dài trong suốt hành trình dương thế. Chúa đã qưở trách Phê-rô khi ông đóng vai trò sa-tan dụng tâm cám dỗ Chúa bỏ con đường cứu độ theo chương trình của Thiên Chúa:”Sa-tan, xéo đi ! vì tâm tư ý nghĩ của ngươi không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài người” ( Mt 8, 32 ). Chúa đã bỏ trốn lên núi một mình khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ hoá bánh ( Ga 6, 5-15). Nhiều lần Chúa từ chối lời yêu cầu một dấu lạ nhãn tiền vì người ta muốn thử tài Ngài ( Mt 12, 38; Mc 8, 11 ) hay để thoả mãn óc hiếu kỳ của người đời ( Lc 23, 8 ). Chúa chẳng bao giờ chấp nhận việc dùng phép lạ để hù doạ hay trừng phạt dân chúng. Ngay cả giây phút bi đát nhất bị quân binh vây bắt, một môn đệ vung kiếm chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế, Chúa liền truyền lệnh: ”Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao ? Người sẽ cấp ngay cho Thầy mười hai đạo binh thiên thần ! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được ?” ( Mt 26, 52-54 ).
Đạo của Chúa là đạo tình thương, bao dung, nhân ái. Tin mừng cứu độ được gửi đến mọi người đặc biệt là những người nghèo và tội lỗi. Hình ảnh người Mục tử bỏ lại 99 con chiên để vất vả ngược xuôi đi tìm con chiên lạc và khi tìm được thì vui mừng vác chiên lên vai, mời mọi người chia sẻ niềm vui ( Lc 15, 4-7 ). Con đường Chúa chọn là con đường yêu thương của vị Mục Tử nhân lành, dám hy sinh cuộc đời và tính mạng cho đàn chiên ( Ga 10, 11 ). Nơi Ngài, sứ vụ Met-si-a và thân phận đau thương của Người Tôi Tớ Gia-vê đã quyện lẫn với nhau, như I-sai-a đã diễn tả trong “Bài ca về Người Tôi Tớ” ( Is 52, 13-53, 12 ). Ngài là người Tôi tớ trung tín của Gia-vê ”bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt”( Is 53, 8 ). “Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng” (Is 53,7) và tuyệt đối từ chối mọi hình thức sử dụng bạo lực.
Hình ảnh Đấng Thiên sai đau khổ nơi Đức Giê-su diễn tả một cách thật hùng hồn điểm độc sáng của Ki-tô giáo: Thiên Chúa của Đức Giê-su không hù doạ hay ép buộc một ai. Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng phẩm giá và tự do chọn lựa của họ. Ngài tình nguyện đồng hành với anh em nhân loại trong cảnh ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và cái chết ( x. sđd tr 217 ).
Chúa Giê-su không muốn sử dụng phép lạ quyền uy để thu phục nhân tâm. Chúa dùng tình thương để cảm hoá lòng người. Chúa Giê-su không xây dựng giáo thuyết trên quyền bính trần thế mà là ở sự từ bỏ và con đường thập giá. Chúa đã chết để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Chúa đã phục sinh để đem lại cho nhân loại cuộc sống viên mãn, nâng con người lên địa vị cao quý con Thiên Chúa.
Bước theo Chúa Giê-su, người tín hữu tìm được lẽ sống, ý nghĩa và cùng đích cho cuộc đời mình. Đó là một cuộc sống tràn đầy yêu thương, bao dung, hướng đến trọn lành .
Xin đừng quá vội vàng lướt qua bài đọc 1, bởi lẽ nó có một tiềm năng to lớn giải thích Thiên Chúa: TN 13-C35
Xin đừng quá vội vàng lướt qua bài đọc 1, bởi lẽ nó có một tiềm năng to lớn giải thích Thiên Chúa luôn can thiệp vào cuộc sống nhân loại; Ngài luôn quan tâm, giáo dục và ban phát hạnh phúc cho từng người. Câu chuyện của bài đọc 1 là về các tiên tri cũng như việc kế thừa ơn ngôn sứ. Ơn này tỏ hiện rõ ràng khi tuyển dân lâm vào các khủng hoảng: Chính trị, luân lý, tôn giáo. Thế giới luôn có khủng hoảng; Hội Thánh, từng gia đình cũng không tránh khỏi thông lệ đó. Ví dụ Irắc vào ngày 30/6 tới đây. Giáo Hội luôn phải vật lộn về vấn đề giáo lý, thần học, giáo sĩ và giáo dân. Gia đình thì về kinh tế, giáo dục và tình yêu hôn nhân. Cho nên chúng ta cần tiếng nói ngôn sứ hướng dẫn.
Tác giả Diane Bergan trong cuốn Preaching the new lectionary (thuyết giảng về sách các bài đọc mới) cho hay hai tiên tri Êlia và Êlisa có liên hệ trực tiếp với nhau. Êlia có nghĩa: Thiên Chúa của tôi là Đức Chúa. EL = Thiên Chúa, Jah = Đức Chúa. Còn Êlisa nghĩa là Thiên Chúa cứu vớt. Eli =Thiên Chúa, Sha = Cứu vớt. Như vậy căn cước của Êlia nói lên sứ mệnh của ông là kêu gọi dân Israel trung thành với Thiên Chúa khi họ bị các ngẫu tượng dân tộc chung quanh cám dỗ, lìa bỏ Thiên Chúa chân thật mà thờ các tà thần (Idaven, vợ vua Akhát khuyên chồng bắt dân Do Thái thờ thần Baan - Xem 1V18). Vai trò của tiên tri Êlisa là củng cố lòng tin của tuyển dân để Thiên Chúa ra tay cứu chữa (Xem chuyện Êlisa làm mù đạo binh Aram và dẫn chúng đi như dẫn đàn cừu tới thành Samari, cứu Israel thoát nạn - Xem 2V6). Cứ như sứ vụ của hai ngôn sứ này thì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, dẫn đưa và cứu vớt chúng ta, thờ phượng ngẫu tượng là một điều sai trái, sẽ dẫn đất nước đến tai hoạ khủng khiếp. Hệ quả về đường thiêng liêng cũng không thể lường được, tuy nhiên chúng ta thường xuyên coi nhẹ. Ngẫu tượng vật chất vẫn có sức mạnh hấp dẫn nhất. Kể cả đối với những linh hồn tận hiến nhưng thiếu hy sinh.
Câu chuyện Êlia và Êlisa là về việc kế thừa ơn tiên tri. Hiện thời dân tộc Do Thái vẫn khao khát được xem thấy ngôn sứ Êlia trở lại, bởi đó là tiền hô của Đấng Thiên Sai, thời kỳ tự do và an bình. Khi cử hành nghi lễ xuất hành ra khỏi Ai Cập (lễ Seder) người Do Thái kết thúc bữa ăn vượt qua bằng cách mở cửa nhà để tiếp đón Thần Khí ngôn sứ Êlia. Họ cầu nguyện để ông trở lại với ơn huệ bình an và tự do cho thế giới mới. Vào thời tiên tri Êlia (khoảng thế kỷ 9 trước công nguyên), dân Do Thái có rất nhiều ngôn sứ giả, chỉ một mình Êlia là chân thật, trung thành rao giảng sứ điệp mà ông lãnh nhận từ Thiên Chúa. Tuy nhiên sứ mạng của vị tiên tri sắp chấm dứt. Dân Do Thái sẽ thiếu vắng đại diện của Thiên Chúa trong kiếp sống khó nhọc của mình; họ không còn dấu hiệu khả thị Thiên Chúa vẫn hiện diện và che chở đất nước. Chắc chắn dân Israel sẽ rơi vào khủng hoảng lớn nếu tiên tri Êlia không tìm được người kế vị.
Ông đã chọn Êlisa, một nông dân giàu có, chất phác, quê mùa, có phần thô kệch đang cày ruộng với mười hai cặp bò và Êlisa đã mau mắn chấp nhận. Dòng chảy ơn tiên tri không bị bế tắc trong tuyển dân; Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc dân Ngài. Đây là điều chúng ta nên để tâm suy nghĩ. Đừng bao giờ thất vọng nghĩ mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, nhất là trong những gian nan, thử thách nặng nề; trái lại phải luôn đầy lòng tin tưởng và cậy trông. Êlia đặt áo choàng lên mình Êlisa, một cử chỉ tượng trưng: Êlisa sẽ là kẻ kế vị Êlia, ông sẽ thi hành sứ mạng ngôn sứ trong dân Israel. Tuy nhiên quyền kế vị này không phải cha truyền con nối, hay tự động do huyết thống, mà là sự lựa chọn của Thiên Chúa. Êlisa cũng không nhận sứ mạng vì lợi lộc riêng tư, nhưng ngược lại ông phải hy sinh. Điều đó được chứng minh từ việc ông giết cặp bò tốt nhất để làm lễ tế. Sau đó ông đãi dân làng, bạn bè một bữa tiệc thịnh soạn, rồi từ bỏ cha mẹ và tài sản mà đi theo Êlia. Ông phải huỷ bỏ dự phóng đời mình để phục vụ sứ mạng. Phía trước là bất định, hy sinh và bắt bớ. Nhưng Êlisa không do dự. Nói chung, những kẻ theo Chúa phải chấp nhận thái độ hy sinh của một vị tiên tri, một ơn kêu gọi đầy đau đớn và bấp bênh. Bài Phúc Âm sẽ nói rõ hơn về tinh thần đó. Cho nên các từ “theo” và “phục vụ” trong Kinh Thánh có nghĩa đặc biệt, không theo kiểu người ta hiểu thông thường. Nghĩa Thánh Kinh của các từ này bao gồm một sự dấn thân cá nhân, cụ thể, một liên minh trung thành và triệt để với Thiên Chúa. Chúng ta theo Chúa và phục vụ Chúa có nghĩa một tương giao thắm thiết với Ngài, không tháo lui, không chia sẻ, sẵn sàng thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không theo một mớ lý thuyết nhưng theo con người của Đức Kitô. Êlisa hôm nay đã nói với Êlia: “Con sẽ đi theo thầy” và ông đã làm đúng điều mình nói.
Xin lưu ý ơn gọi của Êlisa đến trong lúc ông đang cầy ruộng, tức giữa những công việc hàng ngày. Ơn gọi của Phêrô xảy đến khi ông đang thả lưới, của Môsê khi ông đang chăn chiên cho bố vợ, của Mathêu khi ông đang ngồi bàn thu thuế… Ơn gọi tiêu biểu của mỗi cá nhân là ở trong bổn phận của mình. Chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi đơn giản hoá cuộc sống, thánh hoá môi trường, theo đuổi các lý tưởng cao đẹp, từ bỏ các tính mê nết xấu, xì ke, ma tuý, rượu chè, đĩ điếm… Nước Mỹ sắp cử hành ngày độc lập (4/7), mọi công dân được kêu mời rũ bỏ các hình thức nô lệ, áp bức, bóc lột và tiến đến tự do hạnh phúc. Ngày nay khắp thế giới nơi nào cũng xảy ra chiến tranh và bạo lực, cho nên ơn gọi của Giáo Hội địa phương cũng như toàn cầu là hoà giải và bình an. Từ chối ơn gọi này thì không còn là người môn đệ của Chúa Kitô.
Từ thế hệ này đến thế hệ khác, Thiên Chúa luôn gởi các ngôn sứ đến cho xã hội loài người. Họ can đảm là phát ngôn viên cho Ngài, bỏ qua những tư lợi, họ cổ võ thiện ích chung để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Chúng ta nên ủng hộ tiếng nói ngôn sứ đó, nhưng phải lưu ý điều kiện Kinh Thánh đặt ra, kẻo rơi vào chính trị, phe phái mà phục vụ lợi ích riêng tư. Tôi vừa kết thúc một vòng thuyết giảng bán niên. Tôi đã đi qua nhiều giáo xứ trên đất Mỹ và tôi đã sống với những người thuộc tầng lớp xã hội khác nhau. Ngoài những linh mục, giám mục nhiệt thành, tôi còn gặp những tu sĩ nam nữ và giáo dân. Tôi rất có ấn tượng về công việc tông đồ của họ, nhất là các anh chị em tín hữu không có chức thánh. Giữa những bổn phận của mình, họ còn là những ngôn sứ, các tiên tri, sứ giả của Thiên Chúa và mang chứng tích của Ngài bày tỏ cho những ai lắng tai nghe. Họ chỉ cho chúng ta những suy nghĩ đúng đắn về Thiên Chúa và thái độ yêu thương đối với người khác. Tôi đã gặp được vô số những người bênh vực công lý và hoà bình, những người tình nguyện săn sóc cô nhi quả phụ, già cả, bệnh tật hay di dân, bơ vơ. Thật đáng mừng, chiếc áo choàng tiên tri vẫn còn được liên tục trao tay xuống cho đến thế hệ chúng ta.
Kể từ thời tôi còn là con trẻ, giáo xứ ngày nay đã thay đổi nhiều. Lúc ấy ban phục vụ chỉ gồm có cha xứ, một thư ký, một bà bếp và một nhân viên chạy việc vặt. Ngày nay con số này khá đông, lên đến vài chục người. Họ là những giáo dân làm việc tình nguyện nhiều giờ một tuần, một vài người có lương nhưng đa số thì không. Họ cống hiến những thời gian nghỉ ngơi để phục vụ giáo xứ như săn sóc bệnh nhân, dạy giáo lý tân tòng, hôn nhân, thăm viếng gia đình khó nghèo và neo đơn… Các thánh lễ được tổ chức quy củ hơn và những cuộc hội họp đông đủ hơn. Hội đoàn được thành lập và sinh hoạt đều đặn. Bộ mặt nhiều giáo xứ khởi sắc. Công tác bác ái cũng được giữ vững. “Hãy theo Ta” Chúa kêu gọi và họ đã nghe theo, họ kiểm tra lại nếp sống và sẵn sàng trả giá cho việc theo Chúa của mình. Tuy nhiên chúng ta không thể bằng lòng với số giáo dân tích cực, nhiệt thành ít ỏi, giả tỉ 10%. Cứ như bài Phúc Âm hôm nay thì Chúa Giêsu mong đợi toàn thể chúng ta, mọi tín hữu phải lắng nghe lời Ngài kêu mời và mau mắn trả lời: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường vào một làng Samari để chuẩn bị cho Người đến”.
Nhưng khác với thái độ của Êlisa, ở đây có ba trường hợp xảy ra: 1. Cần đắn đo kỹ lưỡng. 2. Chần chừ vì những lý do xác thịt. 3. Bịn rịn gia đình. Chúa Giêsu trả lời cho cả ba trường hợp là hãy theo Ta và đặt giá trị thiêng liêng lên trên mọi vật chất. Nói cách khác là liều thân vì Nước trời. Theo Ngài lên Giêrusalem là đánh đổi cuộc đời quá khứ để lấy một tương lai mới, tuy vô định, đầy gian nan, bất trắc nhưng tươi sáng và chân thật hơn. Vì có Chúa dẫn đường. Câu chuyện không phải chỉ cho những nhân vật trong Phúc Âm mà cho hết mọi người tín hữu, chúng ta đều được mời gọi theo Chúa; giây phút quyết định là giây phút quan trọng khi nắm bắt được ý nghĩa cuộc sống mỗi người. Công việc tông đồ của tôi phần lớn được thực hiện trong các cộng đồng giáo xứ. Tôi cũng là thành phần của một cơ chế, nhưng chúng ta đừng để cho những cơ chế ấy trói buộc; chúng ta phải được tự do thi hành sứ mạng như Chúa Giêsu đã trả lời cho trường hợp thứ nhất. Ngài không bị ràng buộc bởi bất cứ giới hạn nào. Công tác mục vụ của chúng ta phải uyển chuyển đủ để đáp ứng mọi nhu cầu. Phục vụ trước hết là thờ phụng Thiên Chúa, những điều khác là thứ yếu và có thể thay đổi. Người giáo dân tìm vinh quang Chúa giữa cuộc hành trình lữ thứ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Chúng ta phải được tự do làm chứng cho Chúa Giêsu bất cứ nơi đâu có nhu cầu. Phục vụ người nghèo, cô đơn, ngoài lề, nhưng cũng không loại bỏ những kẻ giàu sang, ương gàn và lãnh đạm. Hôm nay là ngày quyết định và uyển chuyển bởi Chúa Giêsu đã nói: “Hãy theo Ta”.
Tiếng gọi của Ngài không chỉ rõ sẽ được Ngài đem đến nơi đâu với những bổn phận nào! Nhưng chắc chắn là đến với những nhu cầu bác ái. Trong cuộc hội thảo mới đây, một nhân viên đã đưa cho tôi xem bản danh sách những công tác cần làm. Điều này khiến tôi vui mừng vì thấy rõ mục tiêu sắp tới và những phương tiện dẫn chúng ta đến đó. Khi nói: “Hãy theo Ta”, Chúa Giêsu chẳng hề có ý tưởng lừa dối ai, Ngài lo liệu để cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa. Những ai theo Ngài không cần quan tâm đến nhu cầu điều khiển cuộc đời mình. Chính Thiên Chúa sẽ cho nó những cơ hội. Chúng ta nhập cuộc với Ngài trên con đường tiến về Giêrusalem và chúng ta tin chắc Ngài sẽ dẫn chúng ta tới thành công. Chúng ta không được thối lui, bỏ cuộc hay ngoảnh mặt nhìn lại phía sau và hối tiếc những vinh quang vật chất chóng qua. Dù thế nào đi nữa, thánh lễ hôm nay bảo đảm Chúa Giêsu không bỏ rơi các tín hữu trên đường đời. Ngài luôn hiện diện để nâng đỡ mọi người. Chúng ta vừa mừng lễ Chúa Thánh Thần ngự đến, các chúa nhật tiếp theo đươc gọi là sau lễ hiện xuống. Nghĩa là Thần Khí Chúa Giêsu không bỏ mặc giáo dân mồ côi. Nhưng luôn giúp sức để chúng ta luôn can đảm để đáp lời mời gọi: “Hãy theo Ta”. Ước chi mọi tín hữu đều nghe rõ và mau mắn vâng theo, giống như Êlisa trút bỏ mọi sự mà theo Êlia trên con đường ngôn sứ, bất chấp khó khăn gian khổ và tương lai bấp bênh. Vì đã có Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Amen.
Lời hay ý đẹp:
Trong thiên hạ có hai cái khó: Lên trời khó mà cầu cạnh người ta còn khó hơn.
Trong thiên hạ có hai cái đắng: Rễ hoàng liên đắng mà nghèo kiết khốn cùng còn đắng hơn.
Nhân gian có hai cái mỏng: Sương giá mùa Xuân mỏng, thói đời càng mỏng hơn.
Nhân gian có hai cái hiểm: Sông núi hiểm, lòng người càng hiểm hơn.
Biết được cái khó, chịu đựng được cái đắng, quen được cái mỏng, dò được cái hiểm, mới có thể sống an lành.
Có rất nhiều người xin đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn còn xin trở về để giải quyết: TN 13-C36
Có rất nhiều người xin đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn còn xin trở về để giải quyết việc riêng tư của mình cũng như của gia đình, đây không phải là việc xấu nhưng là việc của những người thế gian, đây không phải là việc đáng trách nhưng là cái tâm lo của con người, với đoạn Tin Mừng này, tôi chia sẻ với anh chị em về kinh nghiệm theo Chúa Giêsu của mình:
Chúa Giêsu mời gọi tôi đi làm môn đệ của Ngài, Ngài gọi tôi và tôi đã xác định đó là tiếng nói của Ngài trong cuộc sống của tôi nên tôi đã đi theo, nhưng trên đường đi tôi gặp rất nhiều tiếng gọi khác đó là tiếng gọi của bạn bè kêu tôi đi với họ, đó là tiếng gọi của tiền bạc kêu tôi đi theo nó để được sung sướng hường thụ, đó là tiếng gọi tình cảm tự nhiên của con người mà lắm lúc tưởng chừng tôi đã nghe theo. Tất cả những tiếng gọi ấy đã át mất tiếng gọi của Chúa Giêsu trong lòng tôi, thế nhưng Ngài vẫn đợi chờ và thỉnh thoảng gọi lớn tiếng để thức tỉnh tôi đang nghe theo những tiếng gọi khác, thế là tôi phải chọn lựa giữa hai tiếng gọi: thế gian và Chúa Giêsu.
Nhiều tháng ngày tôi thao thức giữa hai tiếng gọi này và lắm lúc tôi tự biện hộ rằng theo Chúa cũng được mà theo thế gian cũng được, miễn là tôi sống đạo tốt lành giữa đời. Ý nghĩ biện hộ này như con dao hai lưỡi làm tôi sực tỉnh: theo thế gian nhưng sống đạo tốt lành thì chưa thấy vì nó trong tương lai, nhưng ơn gọi tu trì vẫn cứ thôi thúc mỗi ngày một lớn, thế là tôi phớt lờ tiếng gọi của bạn bè, của tiền bạc và của tình cảm mà bước theo Chúa…
Theo Chúa Giêsu là một cuộc chiến đấu lâu dài với những ham muốn của cá nhân, nhưng cuộc chiến đấu này hứa hẹn một cuộc toàn thắng rất hạnh phúc mà chỉ có những ai quyết tâm theo Ngài mới cảm nghiệm được.
Anh chị em thân mến,
Tôi theo Chúa Giêsu để làm môn đệ của Ngài trong thiên chức linh mục, các anh chị em được Chúa Giêsu mời gọi làm môn đệ của Ngài trong đời sống tín hữu, tuy khác nhau về ơn gọi nhưng tôi và anh chị em có một điểm chung đó là chúng ta đều được Chúa Giêsu kêu gọi để làm chứng nhân cho Ngài ở trần gian này.
Mỗi ngày trong cuộc sống, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy sống và làm chứng cho tình thương của Ngài đối với nhân loại. Ngài đã chọn tôi, chọn anh chị em để loan báo sứ điệp yêu thương này giữa thế gian bằng chính cuộc sống bác ái và phục vụ của mình.
Xin Thiên Chúa đừng để một ai trong chúng ta viện lý do để từ chối lời kêu gọi của Ngài, dù lý do ấy rất hợp lý, nhưng xin Chúa ban cho chúng ta hiểu được rằng lời kêu gọi của Ngài càng hợp lý hơn và có ích hơn cho chúng ta và tha nhân.
Bài giảng chủ nhật 13 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Một lần tôi được mời đến nhà một người bạn, đi với anh bạn về đến nhà, anh bạn có vẽ đang vui nên: TN 13-C37
Một lần tôi được mời đến nhà một người bạn, đi với anh bạn về đến nhà, anh bạn có vẽ đang vui nên lớn tiếng gọi vào trong nhà: ba về rồi đây. Nhưng trong nhà không tiếng trả lời. Anh gọi thêm lần nữa, rồi lần nữa, tôi mới nghe tiếng mở cửa nhè nhẹ, và xuất hiện một bé gái thật xinh, khoảng 12 tuổi. Bé nói thật nhỏ nhẹ chào ba mới về, nhìn tôi bé cũng chào thật nhỏ. Ba đứa bé có vẽ ngạc nhiên, anh nhìn và ôm lấy bé, anh hỏi ngay: có việc gì thế con? Khi đó, dường như chỉ chờ có thế, như một cơn nước vở bờ, cô bé khóc thật ngon. Chờ cho cơn xúc động qua đi, người cha mới ôn tồn hỏi con và được trả lời: cô bé chơi với con mèo trong nhà, vô tình con mèo làm ngả bể cái khánh có chiếc huy chương mà anh rất quý. Khi đó tôi mới nhìn thấy trên đầu tủ, chỉ còn chiế huy chương và cái đế trơ trọi. Anh nhìn lên, hơi châu mày một ít, nhưng trở lại bình thường ngay. Anh xem bàn tay cô bé và hỏi con có sao không? Vì mọi việc đã được dọn dẹp thật sạch. Anh chỉ dạy con thật nhẹ, bảo con cẩn thận hơn, vì nếu vật đó rơi trúng thì rất nguy hiểm. Anh bảo cô bé vào mang nước. Khi đó anh mới nhìn và xin lỗi khách, anh nói: tôi rất quý vật đó, nhưng để dạy con trở nên người tốt thì càng quý hơn. Mọi việc sau đó thật bình thường, cô bé hoạt bát hơn, vui hơn.
Sau đó tôi cứ suy nghĩ hoài; nếu hôm đó mà có những việc giận dữ, la hét, thì không biết đứa bé sẽ như thế nào? Cho dù món đồ đó anh rất quý, nhưng vì tình thương và biết cách dạy con, nên mọi việc trở nên nhẹ nhàn hơn, chắc chắn đứa bé cũng không để cho tình trạng như thế xảy ra lần nữa.
Chúa Giêsu đòi hỏi những người theo Chúa phải có một tình yêu thật sự, một tình yêu không bị bao phủ bỡi bóng đen gì, tình yêu chỉ đơn thuần là tình yêu. Một người theo Chúa phải biết yêu thương thật sự, để tất cả những việc làm đều phát xuất bởi tình yêu thương đó. Nếu người theo Chúa vì một động lực nào khác thì không xứng đáng. Chỉ có tình yêu thương mới có thể đảm nhận được trách nhiệm của tình yêu và hoàn thành nó một cách tốt đẹp. Chỉ cí tình yêu thương mới có thể bước theo được con đường yêu thương.
Trong cuộc sống đời người, nếu không có tình yêu thương thì không thể sống được, nhưng nhiều khi con người lợi dụng tình yêu, để tìm những mục đích đi ngược lại với tình yêu.
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người trong chúng ta bước theo tiếng gọi của tình yêu thương. Nhưng nhiều khi trong cuộc sống, tình yêu không còn hiện diện, mà chỉ toàn là những lợi nhuận, những tranh chấp, những phô trương, làm sao cho con người của mình được vươn lên còn người khác ra sao thì không cần biết đến. Chính vì thế mà biết bao nhiêu cảnh thương tâm xảy ra, biết bao nhiêu việc không hay xảy ra, nhưng được mệnh danh dưới chiêu bài của tình yêu. Khi đó tình yêu ích kỷ và chiếm hữu đã và đang hoạt động cách mạnh mẽ, làm cho con người chỉ còn biết có mình và những nhu cầu riêng tư của mình. Cái được gọi là tình yêu, chỉ để phục vụ cho sự ích kỷ.
Có khi nào trong cuộc sống, chúng ta nhìn thấy được nhu cầu của người khác, để biết đáp ứng và làm cho họ được hạnh phúc, khi đó chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương. Và nếu chúng ta nghe được những tiếng kêu than mà chúng ta không thể ngồi yên bất động, nhưng biết hành động để cho tiếng kêu than đó trở thành nụ cười tươi nở trên môi. Nếu chúng ta biết từ bỏ đi một chút riêng tư của mình để nhìn thấy được lợi ích chung, cho dù có khi sự từ bỏ đó cũng đau đớn. Nếu chúng ta làm được như thế thì chúng ta đang giống như người cha của cô bé trong câu chuyện, biết` để cho tình yêu lên ngôi và hướng dẫn cuộc sống. Khi đó chúng ta thật sự là môn đệ của Chúa Giêsu, khi đó không còn một động lực nào từ bên ngoài có thể chen vào trong tình yêu thương mà chúng ta đang sống.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết yêu thương thật sự, để trong cuộc sống hằng ngày, mọi việc làm của chúng ta đều phát xuất từ tình yêu thương và có giá trị trước mặt Chúa và mọi người.
Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và Gio-an nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không ?" Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo." Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu."
Đức Giê-su nói với một người khác: "Anh hãy theo tôi !"Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã." Đức Giê-su bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa." Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã." Đức Giê-su bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa."
***
Các việc này chứng tỏ Chúa Giê-su lựa lọc rất cẩn thận những kẻ muốn theo Ngài, và rất thành: TN 13-C38
Các việc này chứng tỏ Chúa Giê-su lựa lọc rất cẩn thận những kẻ muốn theo Ngài, và rất thành thật trong thái độ của Ngài. Ngài có những lời cho ba loại người theo Ngài.
Với hạng người thứ nhất thấy người ta tấp nập đi theo Ngài, anh cũng hớn hở đi theo.
Hạng người: "thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào" mà không nghĩ tới công sức phải phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giê-su bảo: "Trước khi theo Ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả." Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giê-su, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giê-su khen những người biết đánh giá cao hết mức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.
Những lời Chúa Giê-su nói với người thứ hai nghe như ác nghiệt, nhưng thực ra không phải thế.
Được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa chết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời mời gọi theo Chúa.
Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:
Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá thương yêu anh, do đó, họ không để anh thực hiện ý nguyện.
Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: "Yêu anh hả ! Thật thế sao?" Và ông bày cho anh một bí mật của Yoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy lui chạy tới than khóc thảm thiết.
Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.
Trước sự ngạc nhiên của xác "chết", các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: "Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng tôi sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta."
Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách,vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Ki-tô. Chúa Giê-su đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đã chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Ki-tô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Ki-tô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng cao cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.
Những lời Chúa Giê-su phán với người thứ ba bày tỏ một chân lý không ai chối cãi được.
Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ … Đối với hạng người này Chúa Giê-su không bảo "Hãy theo Ta" cũng không bảo "hãy trở về", nhưng Ngài bảo "Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm." Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ân vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.
Người muốn theo Chúa nhưng đặt một điều kiện: từ giã gia đình.
Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa:"Chúng ta nhận ơn Chúa cách vô ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo."(Phan-xi-cô đệ Sa-lê).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem cho dẫu: TN 13-C39:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem cho dẫu Người biết rằng cái chết đang chờ Người tại đó. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu đã trung thành thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha như thế nào. Thời đại hiện nay, lòng trung thành là món hàng đắt giá. Chúng ta hãy nhớ lại những lời cam kết của ta với Chúa Giêsu, chúng ta xin Người tha thứ cho bao lần chúng ta đã vấp ngã, và ban thêm sự can đảm cho ta trong bước đường tương lai.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài ban cho chúng con sức mạnh khi chúng con yếu đuối. Xin Chúa thương xót chúng con.
Ngài ban cho chúng con sự can đảm khi chúng con sợ hãi.
Ngài giúp chúng con trở nên quảng đại khi chúng con bị cám dỗ sống ích kỷ.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: 1 V 19,16b.19-21
Elisa được kêu gọi để nối tiếp sứ vụ tiên tri Elia.
Bài đọc 2 : Gl 5,1.13-18
Mặc dù được liên kết với Đức Kitô và được lãnh nhận ân sủng Chúa Thánh Thần, các Kitô hữu Galát vẫn phải đấu tranh chống lại xác thịt.
Tin Mừng: Lc 9,51-62
Chúa Giêsu từ chối việc trả đũa và chờ đợi sự dấn thân trọn vẹn của các môn đệ.
Bài giảng 1: ĐỪNG TRẢ ĐŨA
Jackie Hewitt, chủ tịch Hội Đồng Cộng Đồng Shankhill, đang lái xe từ Millisle trở về Belfast theo triền dốc Antrim, nơi ông vừa dự lễ tưởng niệm cuộc chiến tranh. Ông lắng nghe bản tin từ đài phát thanh cho biết một quả bom đã dội xuống Shankhill Road (phái Trung thành / vùng Tin Lành), và đã có ba người chết. Mù quáng vì giận dữ, ông nhủ thầm: “Thế đấy ! Chúng ta cần một quả bom dội xuống Falls Road” (Chủ nghĩa dân tộc / vùng Thiên Chúa Giáo).
Khi gần đến thành phố, ông lại nghe tiếp một tin tức phát đi từ radio - tính đến nay đã có bảy người chắc chắn là đã chết. Và ông tự nhủ: “Chúng ta cần hai quả bom dội xuống Falls.” Nhưng khi đến hiện trường, đứng giữa nỗi đau và giận dữ của cộng đồng dân tộc của mình, những suy nghĩ của chính ông luôn ám ảnh ông. “Khi nghe những người khác nói về điều tôi đang suy nghĩ, khiến tôi khiếp đảm.”
Vào thời Chúa Giêsu, người Samari và người Do Thái là kẻ thù của nhau. Vì thế, khi dân thành Samari nghe rằng Chúa Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem, họ đã từ chối tiếp đón Người. Giacôbê và Gioan rất phẫn nộ. Họ đòi trả thù. Họ muốn Chúa Giêsu phải đánh trả lại - và bằng cách nào: khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ toàn bộ ngôi làng.
Đây chúng ta thấy một thí dụ về chủ nghĩa bộ tộc, và đòi hỏi cao nhất ở nơi bộ tộc, đó chính là lòng trung thành tuyệt đối. Bộ tộc của tôi dù đúng hay sai, nó vẫn là bộ tộc của tôi. Đầu tiên là chủ nghĩa bộ tộc nơi những người Samari, bất cứ điều gì mà họ có thể nghĩ về Chúa Giêsu cũng chỉ là tư cách cá nhân, Chúa Giêsu là thành viên của một bộ tộc khác - người Do Thái. Bởi thế, họ chẳng muốn can hệ đến Người.
Thứ đến, chủ nghĩa bộ tộc nơi hai tông đồ. Tư tưởng của họ thái quá. Theo cách suy nghĩ của họ: ai chống đối ta thì không những là kẻ thù của ta mà còn là kẻ thù của Chúa nữa. Lúc này, hai ông phải biết rằng đây không phải là cách thức hành động của Chúa Giêsu. Đối với Chúa Giêsu là sự quan tâm, vấn đề trừng phạt không đặt ra ở đây. Chúa Giêsu không đi vào chủ nghĩa bộ tộc, Người vượt lên trên nó.
Điều này đòi hỏi nhiều hơn về sự can đảm và sức mạnh để không trả đũa hơn là trả đũa. Phong trào đoàn kết là phong trào giải phóng bất bạo động được hình thành trong số những công nhân đóng tàu Gdansk ở Ba Lan trong thời trước đây. Người lãnh đạo của họ, Lech Walesa nói: “Phong trào đoàn kết thành công bởi vì ở mọi lãnh vực đấu tranh cho bất luận vấn đề gì thì cũng nhân đạo nhất, giá trị nhất, và tất cả đều nhằm thay thế cho sự tàn bạo và lòng căm thù. Khi cần thiết, đó cũng là một hoạt động bền bỉ, dai dẳng, không nhượng bộ. Và đó là lý do tại sao cuối cùng chúng ta thành công.”
Để dễ dàng vượt qua đòi hỏi có sự tự chủ cao độ. Chúa Giêsu không tán thành sự nhu nhược. Nếu muốn cảm thấy được yêu và được tôn trọng, chúng ta phải từ bỏ nhu cầu quyền lực. Từ bỏ quyền lực thường bị nhầm lẫn với sự nhu nhược. Kẻ yếu mới cảm thấy cần phải chiến thắng ; còn người mạnh mẽ biết rằng anh ta không phải thắng trong mọi cuộc tranh luận.
Để sống theo lời dạy về bất bạo động và không trả đũa của Chúa Giêsu, đòi hỏi ta có một sức mạnh và một tình yêu đặc biệt. Điều xấu phải bị ngăn chặn, chớ nên làm cho xấu thêm. Chỉ điều tốt mới chiến thắng điều xấu. Tôn giáo có thể chất thêm những mâu thuẫn, nhưng tôn giáo cũng có thể giúp chúng ta vượt qua được những mâu thuẫn. Sự leo thang của điều xấu có thể bị chặn đứng chỉ bởi những người trong sự khiêm nhường của mình, họ đã vô hiệu hoá điều xấu, không cho điều xấu chuyển đi tiếp.
-----------------------------------
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Chúa Giêsu tiến lên Giêrusalem cho chúng ta mẫu gương trung thành với Thiên Chúa và với chúng ta. Chúng ta cùng cầu xin ân sủng đó để chúng ta cũng được trung thành.
Xướng: Cầu nguyện cho các Kitô hữu sống trung thành với ơn gọi đã lãnh nhận trong bí tích Rủa Tội là trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu.
Xướng: Cầu nguyện cho các vị lãnh đạo xã hội biết loại trừ bạo lực và thay thế bằng phương thức ôn hoà.
Xướng: Cầu nguyện cho các đôi vợ chồng luôn sống mãi trong ân sủng trung thành với nhau như lời cam kết trong ngày lễ thành hôn của họ.
Xướng: Cầu nguyện cho chúng ta có được sức mạnh để vượt thắng sự giận dữ bằng tình yêu, và sự dữ bằng điều thiện hảo.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đã cam kết bước theo Chúa, xin cho chúng con đừng quay nhìn lại, nhưng luôn tiến bước trong đức tin, đức cậy và đức mến hầu xứng đáng với Nước Chúa. Chúng con cầu xin …
Trong chuyến đi Huế vừa qua (13-17.6) có một điều làm tôi vui mừng và một điều khác khiến tôi buồn: TN 13-C40
Trong chuyến đi Huế vừa qua (13-17.6) có một điều làm tôi vui mừng và một điều khác khiến tôi buồn rầu và suy nghĩ. Điều làm tôi vui mừng là được nghe và được chứng kiến tận mắt sự kiện có nhiều thanh niên nam nữ dâng mình trong ơn gọi linh mục và tu sĩ. Sự kiện này không chỉ của riêng Huế mà của tất cả các giáo phận Việt Nam hiện nay. Còn điều làm tôi buồn rầu và suy nghĩ là số người Việt Nam Công giáo còn quá ít, số giáo dân của phần đông các giáo xứ thuộc giáo phận Huế chỉ giới hạn ở hàng trăm, rất ít giáo xứ có tới hàng ngàn. Ai trong chúng ta cũng biết dân số Việt Nam khoảng 83-84 triệu người, nhưng chưa có tới 8 triệu là Công Giáo và Tin Lành, tức chưa được 10 % dân số. Tại sao vậy? Phải chăng vì phần đông các Ki-tô hữu Việt Nam, kể cả một số linh mục và tu sĩ nam nữ, chưa theo Chúa một cách dứt khoát và triệt để, như giáo huấn của các bài đọc Thánh Kinh hôm nay?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: 1 V 49,16b.19-21: Ông Ê-li-sa đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a.
16b Khi ấy Đức Chúa phán với ngôn sứ Ê-li-a: “Ngươi sẽ xức dầu tấn phong Ê-li-sa con Sa-phát, làm ngôn sứ thay cho ngươi.
19 Ông Ê-li-a bỏ đó ra đi và gặp ông Ê-li-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng; trước mặt ông Ê-li-sa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa. 20 Ông này liền để bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: "Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông." Ông Ê-li-a trả lời: "Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu? " 21 Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông. (2) Bài đọc 2: Gl 5,1.13-18: Anh em đã được gọi để hưởng tự do.
1 Thưa anh em, chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa. 13 Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. 14 Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 15 Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!
16 Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa. 17 Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. 18 Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 9,51-62: Đức Giêsu nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem. Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.
51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không? " 55 Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56 Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
57 Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo." 58 Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu."
59 Đức Giê-su nói với một người khác: "Anh hãy theo tôi! " Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã." 60 Đức Giê-su bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa." 61 Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã." 62 Đức Giê-su bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (1 V 49,16b.19-21) là bài tường thuật về ơn gọi của ngôn sứ Ê-li-sa. Trước khi được chọn và được gọi, Ê-li-sa chỉ là một người dân cày, tối ngày đi theo đàn bò trên các thửa ruộng. Khi nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa qua ngôn sứ Ê-li-a, Ê-li-sa liền mau mắn và dứt khoát từ giã người thân và công việc đồng áng để đi theo Chúa và thực thi sứ mạng nói Lời Thiên Chúa.
Qua đoạn Sách 1 V 49,16b.19-21 chúng ta thấy cách Thiên Chúa gọi và chọn ngôn sứ Ê-li-sa và cách ngôn sứ ấy đáp lại Chúa như thế nào. Thiên Chúa quan tâm đến việc chỉ định người kế thừa cho Ê-li-a và đã chọn cho ông một môn đệ xứng đáng. Còn Ê-li-sa, người được chọn, cũng hành xử một cách rất đáng kính phục và noi theo: dứt khoát (liền để bò lại), biết ơn (bắt cặp bò giết làm lễ tế), hiếu thảo và chu đáo với bà con ruột thịt (xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã; nấu thịt đãi người nhà).
(2) Bài đọc 2 (Gl 5,1.13-18) là những lời giáo huấn của Thánh Phao-lô về tình trạng tự do của những người đã nhận Phép Rửa nhân danh Chúa Ki-tô và về trách nhiệm của những người ấy là phải sống như những người tự do tức phải sống theo Thần Khí, chứ không được sống theo xác thịt là lối sống của những kẻ nô lệ.
Trong đoạn thư gửi tín hữu Gl 5,1.13-18 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng giải thoát chúng ta khỏi tình trạng nô lệ (đam mê xác thịt, ham hố tiền tài, danh vọng và chia rẽ nhau) và đưa chúng ta vào cảnh sống tự do (thờ phượng Thiên Chúa, sống theo Thần Khí và yêu thương, phục vụ lẫn nhau).
(3) Bài Tin Mừng (Lc 9,51-62) là bài tường thuật của Lu-ca về một số sự kiện đã xẩy ra khi Chúa Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng để chịu cuộc Thương Khó trước khi về Trời. Cuộc hành trình ngang qua một làng Sa-ma-ri nên xẩy ra chuyện người ta không đón tiếp và thái độ muốn “trả thù” hay “trừng phạt” của hai môn đệ thân tín của Chúa Giê-su. Cuộc hành trình kéo dài và là chuyến đi cuối cùng của Chúa Giê-su nên có ba hạng môn đệ tỏ thái độ theo Chúa. Và nhân đó Chúa Giê-su giảng dậy về cách thức của những ai muốn đi theo Người.
Qua Bài Phúc Âm Lc 9,51-62 chúng ta học biết ý muốn và giáo huấn của Chúa Giê-su về người môn đệ đi theo Chúa là phải dứt khoát và triệt để: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu": Trò hay môn đệ phải nên giống Thầy hay Sư Phụ của mình trong từ bỏ và phó thác! "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa": Ưu tiên của người được gọi là lo việc Nước Trời, không bắt cá hai tay! “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa": Thái độ của môn đệ là phải dứt khoát và triệt để khi bước theo sau Chúa và Thầy của mình!
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Ba câu Thánh Kinh trên đều chứa đựng sứ điệp Lời Chúa, nhưng chúng ta chỉ cần chọn một trong ba câu ấy là đủ: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa."
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
3.1 Xin đề nghị cách thực thi Sứ Điệp Lời Chúa của Chúa Nhật XIII Mùa Thường Niên hôm nay là đáp lại tiếng gọi và sự chọn lựa của Chúa, một cách:
(a) dứt khoát và triệt để,
(b) từ bỏ và cậy trông phó thác vào Chúa Quan Phòng.
3.2 Tôi có thái độ dứt khoát và triệt để trong đời sống Ki-tô hữu hay tôi theo Chúa một cách lừng khừng, nửa vời, bắt cá hai tay?
3.3 Tôi yêu thích cách sống từ bỏ, siêu thoát và tin cậy vào Tình Thương và Quyền Năng của Thiên Chúa hay tôi vẫn ham hố của cải, chức quyền, danh vọng, lạc thú và chỉ cậy vào sức mình?
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." - Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban Con Một cho chúng con và vì Người đã nêu gương cho chúng con về một cách sống từ bỏ và tin tưởng vào Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết học với Người.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa." - Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban Con Một cho chúng con và vì Người đã dậy dỗ chúng con về ơn gọi và trách nhiệm của các Ki-tô hữu là loan báo Triều Đại của Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng con thấm nhuần giáo huấn của Người, để chúng con thực thi ơn gọi và trách nhiệm của mình là loan báo và làm chứng cho Nước Trời.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." - Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban Con Một cho chúng con và vì Người đã dậy chúng con cách sống dứt khoát, triệt để khi theo Người. Xin Chúa cho chúng con học thuộc và thực hành bài học khó khăn này.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Chúa Giêsu đi vào giai đoạn chót cuộc đời dưới thế của Người. Lần sau cùng Chúa lên: TN 13-C41
Chúa Giêsu đi vào giai đoạn chót cuộc đời dưới thế của Người. Lần sau cùng Chúa lên Giêrusalem, nơi đây sẽ hoàn tất số mệnh Cứu Thế của Người. Chúa quở trách các môn đệ vì các ông muốn áp dụng luật ‘ăn miếng trả miếng’, mong ước lửa trời thiêu hủy ngôi làng từ chối tiếp đón Thầy trò. Một bản văn khác chép thêm một lời phán của Chúa Giêsu: “Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào? Vì Con Người đến không phải để hủy diệt mạng người ta mà để cứu chúng”. Thần khí Chúa không phải là tinh thần thù hận, dẫu cho bề ngoài đủ lý lẽ biện minh cho thù hận. Chúa không ép buộc phải đón tiếp, cũng không thù oán khi bị đuổi khéo. Làng Samaria nói ở đây theo chủ nghĩa địa phương cực đoan, có lẽ sau này cùng với một làng xóm khác đón nhận Tin Mừng Nước Trời. Đối với bất cứ xúc phạm nào, không bao giờ Chúa làm quá để không thể hàn gắn được, Chúa biết lòng người ta hay thay đổi, có thể một ngày nào tâm hồn sẽ mở ra đón nhận ân huệ Thiên Chúa. Sau khi thuật lại cảnh từ chối tiếp đãi, thánh Luca thuật tiếp ba cảnh khác, nêu lên những đòi hỏi của ơn gọi truyền giáo.
1) Cảnh một cho ta thấy Chúa Giêsu tuyên bố minh bạch trước mặt kẻ muốn theo Chúa rằng cuộc sống kẻ ấy chẳng dễ dàng gì. Làm thế, Chúa cho thấy không được giảm giá trị Phúc Âm vì cớ muốn lôi kéo dễ dàng hơn những kẻ nào ngần ngại trước những yêu cầu của Phúc Âm. Không bao giờ Chúa có thái độ cứng cỏi có thể khiến người ta xa lánh, trái lại Chúa thu hút người ta bằng lòng nhân hậu. Tuy nhiên, không bao giờ Chúa giảm bớt tính chất gắt gao của những yêu cầu hàm chứa trong Phúc Âm, trái lại Chúa nhấn thêm bằng những hình ảnh so sánh mà có thể chúng ta cho là thái quá, như câu: “Con Người không có chỗ để gối đầu”. Thái độ ấy tỏ ra Chúa trọng con người vì con người có quyền được biết sự thật và có khả năng đáp ứng yêu cầu.
2) Trong cảnh hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhấn mạnh vào việc phải đáp ứng mau chóng khi Thiên Chúa kêu gọi. Thiên Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta nghe rõ, nhưng đôi khi có thể chúng ta muốn có thời giờ thu xếp công việc làm ăn, lo tích trữ thứ này thứ nọ để ‘phòng hờ’, tóm lại, chúng ta không gấp. Trường hợp ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ, còn gì chính đáng hơn là thu xếp công việc gia đình trước khi dấn thân theo Thầy? Đúng thế, nhưng với điều kiện là không được trì hoãn, tới lúc phải ra đi thì can đảm chia tay những kẻ vô cớ chèo kéo bịn rịn.
3) Trong cảnh ba, Chúa Giêsu bảo kẻ nào muốn theo Chúa phải biết rõ mình muốn gì và chớ có nhìn lại đàng sau. Khi người ta lái xe, người ta cũng phải nhìn vào kính chiếu hậu nữa để tránh tai nạn, nhưng không được luyến tiếc quang cảnh bỏ lại phía sau. Chúa Kitô không muốn các môn đệ theo Chúa mà lòng vấn vương một quá khứ nào đó. Phải quyết tâm theo Chúa, con mắt hướng thẳng về tương lai.
Chúng ta sắp sửa nghe những lời rất gay go nhưng rất quan trọng đến nỗi trước tiên phải hiểu: TN 13-C42
Chúng ta sắp sửa nghe những lời rất gay go nhưng rất quan trọng đến nỗi trước tiên phải hiểu rõ tại sao Chúa Giêsu tỏ ra gay gắt và nóng lòng: “Vì gần đến ngày Chúa Giêsu phải lìa bỏ thế gian nên Ngài quyết định đi Giêrusalem”. “Con đường lên Giêsuralem” chính là con đường tiến về cái chết.
Chúa Giêsu biết điều đó. Ngài đã thấy nổi lên sự chống đối, một liên minh các thù địch đang chờ đợi Ngài trong thành phố “là nơi người ta giết chết các tiên tri” (Lc 13,34). Có lẽ Ngài đã có thể tránh được thảm cảnh trong khi ở lại Galilê, nhưng Ngài không tránh né sứ mạng cứu độ và những hậu quả của nó. Nơi mà Gioan nói Ngài đi “cho đến cùng” thì Luca nói rằng Ngài “quyết định” đi (trong bản dịch nghĩa đen: “Ngài nghiêm mặt lại”).
Cái “quyết định” này cũng phải đánh dấu những người muốn đi theo Ngài. Điều này đặc biệt đúng đối với những “ơn gọi”, nhưng mọi Kitô hữu, theo cách và trong hoàn cảnh của mình, được mời gọi “đi theo Đức Kitô”, nghĩa là sống theo Tin Mừng. Do đó chúng ta có thể làm một cuộc xem lại cuộc sống Tin Mừng bằng cách đi từ những câu trả lời sống động do Chúa Giêsu nói với ba người.
1) Ngươi sẽ không có chỗ trú ngụ.
Một ngày kia, chúng ta la lên hoặc thì thầm lời yêu thương này với Chúa Giêsu: “Con sẽ đi theo Ngài khắp nơi”. Câu trả lời của Ngài làm chúng ta hăng hái. Nếu ở vào lứa tuổi 20, ý tưởng thậm chí ‘không có hang’ chỉ có thể làm cho chúng ta vui thích mà thôi. Tập sinh nào, kẻ tiên phong nào, kẻ trở lại với Tin Mừng nào mà quan tâm đến tiện nghi cơ chứ!
Nhưng cuộc sống sẽ nhẹ nhàng trở nên trói buộc. Biết bao tông đồ sự tiện nghi đã làm cho uể oải! Biết bao Kitô hữu ngần ngại thực hành Tin Mừng bởi vì phải chịu thiếu thốn và nhất là dấn thân vào sự mất an toàn. “Quyết định đi Giêrusalem”, trước tiên đó là nhận thấy rằng chúng ta quá gắn bó với quá nhiều vật dụng, với quá nhiều điều đảm bảo.
- Sau đó thì sao? Chơi trò vô gia cư sao?
- Không, nhưng làm một vòng căn hộ và con tim để đo lường mức độ trưởng giả của chúng ta. Chúng ta sẽ là quan tòa duy nhất, mỗi một người trong chúng ta có những con quỷ tiện nghi riêng.
2) Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết
Đây trước hết là mệnh lệnh không được lần chần. Có biết bao nhiêu lý do làm chúng ta ngồi lại khi người ta đã đứng dậy để đi theo Chúa Giêsu. Nếu chúng ta không đi theo Ngài ngay lập tức, ơn kêu gọi sẽ qua nhanh, nhanh hơn những trì hoãn của chúng ta.
Có những chọn lựa rất khó mà dám đón nhận. Khi tôi nghe la rầy một linh mục không quan tâm đủ đến những cuộc mai táng hoặc người nào đó vừa mới mất, hoặc thậm chí cha mẹ của chính linh mục đó, tôi tự nhủ phải xác minh kỹ những điều đó và trong tinh thần của Tin Mừng hôm nay. Có lẽ đó là sự hờ hững hoặc thiếu vắng tinh thần con thảo, thế thì phải phản đối. Nhưng nếu ngược lại đó là để phục vụ cuộc sống tốt hơn nữa, và đôi khi một cách anh hùng thì sao? Tôi biết một bà mẹ nói với người con làm linh mục: “Đừng quan tâm đến mẹ, con là con trai mẹ hàng ngàn lần khi con hiến thân hơn khi là khi con quan tâm đến mẹ”. Chúng ta đã giết chết những người tông đồ trong khi kéo họ lại phía sau, họ trở nên những người chết bận tâm đến những người chết.
Cũng ý tưởng này trong lời nói khó khăn thứ ba:
3) “Hãy nhìn về phía trước, chứ không phải phía sau, nếu không con không xứng với Nước Trời”.
Có những cách bám víu vào quá khứ rất não nùng hoặc rất sợ hãi mà không phải là những bước tiến quyết định hướng về Giêsusalem! Thay vì nói những lời từ biệt không cùng, trong khi nắm lại những kỷ niệm, môn đệ của Chúa Kitô là kẻ “hướng về phía trước” mà Phaolô đã mô tả: “Quên con đường đã qua và hướng về phía trước, tôi đi đến đích” (Pl 3,13-14).
Chúa Giêsu biết rằng thời gian mình bị cất khỏi thế gian này đã gần đến, đó chính là thời gian: TN 13-C43
Chúa Giêsu biết rằng thời gian mình bị cất khỏi thế gian này đã gần đến, đó chính là thời gian Ngài chịu đau khổ để thực hiện công cuộc cứu độ…
Chính vì thế mà Ngài đã đi lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc hành trình này, Ngài đã sai các môn đệ, là những sứ giả của Ngài đi trước, để chuẩn bị nơi ăn chốn ở tại những nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua. Cuộc hành trình sẽ phải đi ngang qua xứ Samaria. Người Do Thái thì khinh bỉ dân Samaria vì coi họ chỉ là những kẻ lai căng, bỏ mất truyền thống của cha ông, chạy theo những thứ tôn giáo nhảm nhí khi tiếp xúc với dân ngoại.
Còn những người Samaria lại nhìn dân Do Thái với một cặp mắt thù hận, nhất là những người hành hương về Giêrusalem. Bởi vì đối với họ phải thờ kính Thiên Chúa tại Sichem, chứ không phải tại Giêrusalem.
Chính vì mối thù nghịch sâu xa và lâu đời này mà họ đã tỏ ra thờ ơ lãnh đạm cũng như đã không tiếp đón các môn đệ và cả chính Chúa Giêsu. Thái độ này đã làm cho Gioan và Giacôbê tức tối, đến nỗi muốn sai cả lửa trời xuống thiêu rụi họ. Phải chăng sự hiền lành của Phúc âm đã không đem lại kết quả mong muốn ? Thế nhưng Chúa Giêsu đã trách cứ các ông thiếu tinh thần bác ái.
Bài học Chúa muốn nhắn gửi các ông cũng như nhắn gửi mỗi người chúng ta, đó là đừng vội nóng giận, nhưng hãy cư xử một cách nhân từ, kiên nhẫn và yêu thương, bởi vì giận quá mất khôn, hãy lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù, nếu như chúng ta muốn cảm hóa và dẫn đưa họ về cùng Chúa, bởi vì mật ngọt thì chết ruồi, chúng ta có thể giết được nhiều ruồi bằng một giọt mật hơn là bằng cả một thùng dấm chua.
Tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đối thoại với ba người.
Với người thứ nhất, Chúa Giêsu cho biết theo Ngài thì phải long đong vất vả, bởi vì Ngài không có nhà cửa, không có cơ sở và không có một chốn để gối đầu, để ngả lưng. Như thế Chúa muốn nói, để trở thành môn đệ của Ngài, thì phải từ bỏ bản thân, từ bỏ tiền bạc vật chất, nghĩa là phải từ bỏ mọi sự.
Với người thứ hai muốn theo Chúa nhưng lại muốn về từ giã những người thân yêu, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời: Phải dứt khoát lập trường, phải ra đi ngay lập tức, không chần chừ, không lưỡng lự. Bởi vì ai đã tra tay vào cày mà còn quay lại đằng sau thì không xứng đáng với nước trời.
Sau cùng đối với người thứ ba, Chúa Giêsu lên tiếng gọi: Hãy theo Ta. Thế nhưng trước lời yêu cầu rất tự nhiên và rất chính đáng của anh đó là lo chôn cất cho người cha mới qua đời, Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn ngươi hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa.
Như thế, qua những câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta thấy như có vẻ cứng cỏi, nghiêm khắc và đi ngược lại với những thói quen của chúng ta. Thế nhưng đó lại là sự thật, đó lại là sự đòi hỏi của Chúa.
Đứng trước lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải mau mắn đáp trả không chần chừ, không so đo tính toán. Phục vụ Chúa, đó phải là nỗi ưu tư số một, còn ngoài ra, tất cả chỉ là phụ thuộc, chỉ là thứ yếu mà thôi.
Từ xưa tới nay, một trong những điều làm nên sự tôn quý nơi phụ nữ, cũng là một trong những điều con cái ghi nhớ để kính: TN 13-C44
Từ xưa tới nay, một trong những điều làm nên sự tôn quý nơi phụ nữ, cũng là một trong những điều con cái ghi nhớ để kính yêu và báo hiếu, đó là công ơn “chín tháng mười ngày” mang nặng đẻ đau của người mẹ. Đã sinh, ắt phải trải qua những thời khắc đau đớn, chưa kể đến vô số những mệt mỏi, khó chịu trong thời kỳ thai nghén. Tất cả sẽ qua đi, sẽ chẳng mảy may đáng sợ, sẽ chỉ còn là hạnh phúc khi đứa con chào đời. Năm Đinh Hợi nầy – theo quan niệm người Châu Á – được coi là Năm “Lợn Vàng”, sáu mươi năm mới có một, vì thế mà số sinh tăng vọt, chỉ trong ba ngày Tết mà đã có 2.116 cháu bé chào đời !
Duy nhất một điều dễ nhận thấy, đó là từ ít năm qua, nhiều sản phụ không muốn bị… đau khi sinh con, cho nên đã nhờ y học can thiệp bằng phẫu thuật. Theo điều tra ở Việt Nam, thì có đến 70% sản phụ sinh ở bệnh viện các thành phố, đề nghị được mổ. Tất nhiên đó là quyền của các bà các chị ! Nhưng Nhi Khoa trên thế giới và cả ở Việt Nam những ngày vừa qua đã không khuyến khích sinh mổ, bởi vì trẻ sinh mổ sẽ không được hấp thu qua bánh nhau các yếu tố nội tiết, tăng trưởng và cả những vi khuẩn có lợi cho đường tiêu hoá, so với trẻ sinh bằng phương pháp tự nhiên thông thường.
Trong đời sống Đạo, không thể có chuyện không “mang nặng, đẻ đau” !
Số phận của Ki-tô hữu là “vác thập giá mỗi ngày của mình” mà theo Chúa Giê-su và đường tới Nước Trời luôn luôn là “con đường hẹp”, gai chông, vất vả. Không có lựa chọn nào khác. Không thể tránh né. Đòi hỏi của Chúa Ki-tô đối với các môn đệ – đối với mỗi Ki-tô hữu – luôn “khắt khe”, nghiệt ngã và khó hiểu: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” ( Lc 9, 60 ). “Ai tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không hợp với Nước Thiên Chúa “ ( Lc 9, 62 ).
Cả cuộc đời một Ki-tô hữu phải chấp nhận “mang nặng” thập giá của mình, của gia đình mình và cả của tha nhân. Bổn phận của mỗi Ki-tô hữu là phải sinh Chúa Ki-tô – mà mình “mang nặng” – cho gia đình, cho tha nhân, mà không thể trút bỏ trách nhiệm, đau đớn, hy sinh cho bất cứ ai !
- “Dân làng – một làng người Sa-ma-ri-a – không đón tiếp Người”. Lý do: ”Ngưòi đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem“ ( Lc 9, 53 )
“Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết; còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” ( Lc 9, 60 )
“Ai tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” ( Lc 9, 62 )
Bài tình ca đẫm máu hôm nay con hát cho Chúa nghe, là lá thư một người bạn Hồi Giáo của cha Raghedd Aziz Ganni, vị Linh Mục trẻ người Iraq đã bị sát hại dã man ở Iraq cùng với ba Thầy Phó Tế:
Nhân Danh Thiên Chúa Đấng Nhân Hậu, Đấng Hay Thương Xót
Roma, ngày 4 tháng 6 năm 2007
Người anh em Ragheed,
Tôi xin lỗi Bạn, người anh em của tôi ạ, vì đã không ở bên cạnh Bạn khi những tên tội phạm xả súng bắn Bạn và những anh em của Bạn, nhưng những viên đạn đã xuyên thâu thân thể thanh khiết và vô tội của Bạn, cũng đâm thâu con tim và linh hồn tôi.
Bạn là một trong những người đầu tiên tôi quen biết khi tôi tới Roma, trong dãy hành lang của tòa nhà Evangelicum, nơi chúng ta đã làm quen với nhau và đã nhận lấy phần ăn chung nhau trong quán tự phục vụ của đại học. Bạn đã làm tôi ngạc nhiên vì sự đơn sơ, vui vẻ và nụ cười hồn hậu và thanh khiết không rời đôi môi Bạn. Hơn nữa, tôi chỉ có thể hình dung Bạn tươi cười, hạnh phúc, yêu đời. Ragheed đối với tôi là hiện thân của sự ngây thơ, một sự ngây thơ khôn ngoan mang trong con tim những âu lo của dân tộc khốn khổ của mình. Tôi nhớ lại thời gian chúng ta ở trong căng-tin của đại học, lúc mà Iraq bị cấm vận; Bạn đã nói với tôi rằng giá của một phần ăn có thể nuôi sống cả một gia đình Iraq trọn một ngày, như thể là Bạn thấy một cách nào đó mình có lỗi vì ở xa dân tộc đang vị bao vây của Bạn và không chia sẻ được những đau khổ của họ… Và Bạn đã quay về Iraq, không chỉ để chia sẻ với mọi người về mọi khổ đau của họ, mà còn trộn lẫn máu của Bạn vào máu hàng ngàn người dân Iraq chết hằng ngày. Làm sao tôi quên được ngày Bạn thụ phong Linh Mục ở Đại Học Urbana …Lệ dâng tràn mi, Bạn đã nói với tôi: ”hôm nay, tôi đã chết cho tôi”… một câu nói thật nghiệt ngã…
Ngay khi ấy, tôi chưa nắm bắt được đầy đủ ý nghĩa câu nói, hoặc giả tôi chưa coi trọng câu nói như vốn lẽ ra tôi phải làm… Dù thế, hôm nay, qua việc tử vì đạo của Bạn, câu nầy, Bạn thân mến ạ, tôi đã hiểu nó rồi… Bạn đã chết trong tâm hồn và trong thân xác Bạn để sống lại trong Đấng Bạn yêu mến và là Thầy của Bạn và để cho Chúa Ki-tô Phục Sinh trong Bạn, mặc những khổ đau và phiền não, mặc cho những cơn hỗn loạn và khùng điên.
Nhân danh Chúa Sự Chết nào mà chúng đã giết Bạn ? Nhân danh chủ nghĩa ngoại đạo nào mà chúng đã đóng đinh Bạn ?... Chúng có thật sự biết việc chúng đã làm chăng ?
Ôi lạy Chúa, chúng con không xin Người trả thù hoặc phục thù, nhưng xin Người ban cho sự chiến thắng… sự chiến thắng của người công chính trên điều sai trái, sự chiến thắng của sự sống trên sự chết, của sự vô tội trên sự lừa dối xảo trá, của máu hồng trên đao kiếm… Ragheed thân yêu ạ, máu Bạn sẽ không ra vô ích, vì nó đã thánh hóa đất đai của tổ quốc Bạn…và nụ cười đôn hậu của Bạn từ trời cao sẽ tiếp tục chiếu sáng những bóng tối đêm đem và báo cho chúng tôi về những ngày mai tươi sáng hơn…
Tha lỗi cho tôi nhé, người anh em, nhưng khi những người sống gặp nhau, họ cho là có thời giờ thoải mái chuyện trò trao đổi, đi thăm viếng nhau và nói cho nhau nghe những tình cảm và những suy nghĩ… Bạn đã mời tôi sang Iraq… Tôi hãy còn mơ về điều ấy… để đến thăm ngôi nhà, cha mẹ và văn phòng của Bạn… Tôi chưa khi nào tưởng tượng cái mà tôi sẽ đi thăm một ngày nào đó, lại là nấm mộ của Bạn hoặc những câu trong Kinh Coran mà tôi sẽ đọc để linh hồn Bạn được nghỉ yên.
Một hôm, tôi đi theo Bạn để mua đồ lưu niệm và quà cho gia đình Bạn hôm trước ngày Bạn về thăm Iraq lần đầu sau năm tháng xa cách. Bạn đã nói với tôi về công việc sẽ làm ở đó. Bạn đã nói cùng tôi: ”Mình mong cho nền tảng bác ái ngự trị trên những người dân trước khi nại đến công lý”. Lúc ấy tôi khó lòng tưởng tượng ra Bạn trong vai “quan toà” Giáo Luật…
Nhưng hôm nay máu Bạn và việc tử vì đạo của Bạn đã lên tiếng, lời phán quyết về sự trung tín và nhẫn nại, về niềm hy vọng vượt mọi khổ đau và về sự sống sót mặc cho cái chết, mặc cho hư không. Người anh em ạ, máu Bạn đổ ra không hề vô ích…và bàn thờ thánh đường của Bạn không phải là điều phù phiếm… Bạn đã giữ trọn vai trò của mình cho đến cùng, với một nụ cười mà không có gì có thể dập tắt được.
Người anh em của Bạn yêu mến Bạn, Adnan Makrani
( Ghi chú: Adnan Makrani là giáo sư Hồi Giáo học tại Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo và Văn Minh, Giáo Hoàng Học Viện Gregoriana, Roma )
Dân Iraq – đúng ra là những tín đồ Hồi Giáo cực đoan – không hoan nghênh cha Ragheed, vì Ngài theo Chúa Giê-su Ki-tô, trung thành với Giáo Hội Công Giáo, tin và giảng dạy Kinh Thánh và nên mối nguy đe doạ đạo Hồi
Bao nhiêu Ki-tô hữu Iraq đã bị kỳ thị, bị bắt cóc, bị giết chết dã man hoặc buộc phải bỏ trốn khỏi đất nước mà họ hằng gắn bó, yêu thương, như cha Ragheed, như các thầy Phó Tế cùng bị sát hại, như bao giáo dân đã nằm xuống. Họ đã sống và chết vì Danh Chúa Ki-tô. Người sống nhìn vào họ để anh dũng tiến lên làm chứng cho đức tin nơi Chúa Giê-su và Tin Mừng Cứu Độ của Người.
Cha Ragheed không do dự hay hối hận vì đã tra tay vào cày: Ngài đã hy sinh tính mạng để nên lễ hiến tế dâng lên Chúa và không một phút ngoái cổ nhìn lui.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI
chuyển ngữ và chia sẻ, TCCNĐY số 56
A. Cảm nghiệm sống và chia sẻ dười sự dẫn dắt của Thánh Linh:
Bài đọc một: 1 Vua 19, 16b.19–21
Ông Ê-li-a ra đi và gặp ông Ê-i-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng, ông Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm: TN 13-C45
Ông Ê-li-a ra đi và gặp ông Ê-i-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng, ông Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa. ( câu 19 )
Câu này cho chúng ta biết: Ông Ê-li-sa hiểu rằng khi ông Ê-li-a tặng ông chiếc áo choàng tức là kêu gọi ông theo Ê-li-a, cho nên ông liền xin thì giờ để từ giã gia đình. Ông này liền bỏ bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông. Chắc chắn Ê-li-sa cần thời gian để chuẩn bị thức ăn cho bữa tiệc linh đình, tạm biệt gia đình: ông Ê-li-sa về bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông. ( câu 20 – 21 )
Chúng ta có từ bỏ ngay mọi sự xấu xa để đáp lại tiếng Chúa mời gọi ? ( Bỏ tham lam tiền bạc, hút thuốc, uống rượu, coi phim ảnh xấu, nhưng có bỏ tự ái, nóng giận, ghen tương, nói hành v.v… ? )
Bài đọc hai: Ga-lát 5, 1.13–18
Anh em đã được kêu gọi để hưởng tự do; nhưng đừng lợi dụng sự tự do để sống theo tính xác thịt, hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. ( câu 13 ). Người Tín hữu sống theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, là thực hiện sự tư do của mình, không theo tính xác thịt. Tự do không phải là phóng túng sống theo bản năng hay cảm giác thúc đẩy, nhưng được can đảm đến với tha nhân để phục vụ họ. Lòng tin không làm giảm bớt tự do; nhưng khai mở mội trường mới cho bác ái hoạt động. Bác ái luôn đòi hỏi hỏi cho tự do một cách đích thực.
Chúng ta luôn sống chiến đấu giữa thiện và ác, giữa thiên đàng và hỏa ngục. Vì tính xác thịt luôn kéo ta làm sự xấu và kích thích những đam mê, còn Thần Khí ( Thánh Thần ) thì trái ngược lại với xác thịt: Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn trái ngược… hai bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. ( câu 17 )
Vậy những việc do xác thịt gây ra là những tội nào ? Thưa là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậỵ ( x. Gl 5, 19 )
Khi đi xưng tôi, chúng ta phải xưng những tội nào ? Chính là những tội đã kể trên, chứ không phải xưng những tội nhẹ đi lễ ngủ gật, hay đọc kinh chia trí…
Tin Mừng: Lu-ca 9, 51–62
Chúa Giê-su nói với người muốn theo Ngài: Con chồn có hang, chim trời có tổ; nhưng Con Người không có chỗ gối đầu. ( câu 57 ) Chúa muốn dạy tôi hãy coi mình như là một con người tầm thường, sống nghèo nàn không có nhà cửa, lúc ra biển, khi lên núi để giảng đạo. Chúa Giê-su cũng kêu gọi quý vị hôm nay; nhưng quý vị còn khất lần: để tôi lo việc nhà đã, Chúa nói:
“Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” ( câu 60 ) Ngài có ý nói cương quyết với chúng ta: hãy dứt khoát với Tham-Sân-Si ( các tật xấu ) như đã nói ở trên là sự chết, để tâm hồn được tự do thảnh thơi theo Chúa. Cũng như Ngài đã nói một người khác: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. ( câu 62 )
Câu chuyện về nóng giận và độc tài của vua nước Pháp Louis XI như sau: Một người kia nuôi két, ông dạy nó nói: “Đả đảo vua Louis XI !” Một hôm đi dạo phố, vua nghe thấy con két la lên: “Đả đảo vua Louis XI”. Lòng tức giận nổi lên, ông về cung điện ra một sắc lệnh Péronne năm 1468, bắt tất cả những con két, con sáo, con nhồng đem vặn cổ hết ! Vua làm nhục nhã cho nước Pháp, dân chúng vô cùng phẫn uất. Sống theo xác thịt nó tại hại như vậy !
C. Chúng ta cùng cầu nguyện và sống cầu nguyện:
Lạy Cha, Đức Giê-su đã gọi: “Anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”. Xin dạy con biết theo Chúa không những từ bỏ của cải danh vọng; nhưng chính là quyết từ bỏ những tật xấu và đam mê của tính xác thịt. Vì nó là kẻ thù nội tại nằm ngay trong con người của con.
Lòng ta tha thiết đượm tình yêu, Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều, Mắt lệ đắm trông: TN 13-C46
Lòng ta tha thiết đượm tình yêu, Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều, Mắt lệ đắm trông miền cách biệt, Phút giây chừng mỏi gót phiêu lưu. ( thơ Thế Lữ )
Phiêu lưu mạo hiểm mòn bước chân, là chuyện đã đành. Phiêu bạt đây đó làm chứng cho Lời của Chúa, đâu nào thấy mỏi. Phiêu lưu lên đường rao truyền Lời Chúa là bổn phận Chúa vẫn kêu mời, từ ngàn xưa.
Trình thuật Lời Chúa hôm nay, mở cho thấy khoảnh khắc rất quan trọng trong cuộc đời Đức Ki-tô. Gần đến ngày Ngài được cất nhắc về cùng Cha, Đức Giê-su cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Với Thánh Lu-ca, Giê-ru-salem là điểm tập trung toàn bộ cuộc đời của Đức Chúa. Toàn bộ tập trung, vì đây là nơi Ngài hoàn thành công trình cứu độ. Và, cũng từ nơi đây, tại Giê-ru-sa-lem, công trình ấy lan rộng khắp nơi, trên thế giới.
Cương quyết lên đường, Đức Giê-su đưa ra mẫu mực và thử thách đến với ta, để ta có thể tham gia công trình và chấp nhận làm mọi việc được ủy thác. Có điều trớ trêu, là khi Ngài lên đường vào làng người Sa-ma-ri, một số người ở đây không tiếp nhận Ngài. Vì, Ngài trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Đi Giê-ru-sa-lem, Ngài nhắm chấm dứt tình trạng đang chia rẽ. Ngài phá đổ mọi rào cản ngăn cách mọi người. Và đi Giê-ru-sa-lem, Ngài đem bình an và hòa giải đến với mọi người.
Tin mừng “lên đường đi Giê-ru-sa-lem”, nhắm thẳng trọng tâm ý nghĩa của Tiệc Thánh hôm nay. Tin Mừng cũng nhằm vào đáp ứng của mỗi người chúng ta khi được Chúa kêu gọi lên đường. Thấy Ngài lên đường, một số người cũng muốn theo. Dĩ nhiên, cũng như chúng ta ở đây hôm nay, nhiều người trong cộng đoàn dân Chúa, chỉ biết theo là đi theo. Chứ không hiểu “lên đường đi Giê-ru-sa-lem” có ý nghĩa gì đối với Đức Ki-tô và đối với người muốn theo Ngài.
Có ba loại người muốn theo Ngài. Và, có lẽ một hoặc hai người trong số này, có thái độ giống như ta, hôm nay. Thành thử, hãy thử xét xem sao, thái độ của những người dự tính đi theo Chúa. Người đầu tiên tuyên bố: “Thầy đi đâu, tôi cũng xin theo !” Nói là nói thế, nhưng những người theo loại này, đâu am tường thực tế Ngài sẽ đối đầu. Và, câu trả lời của Đức Giê-su làm họ không mấy hứng thú. Làm ngôn sứ như Ngài, tức không nhà không cửa, không cả chỗ tựa đầu, thì ai nào dám đi theo.
Người thứ hai, cũng muốn theo. Nhưng, lại nại vào lý do rất chuẩn. Để rồi, cuối cùng cũng bỏ cuộc. Và, thái độ hồi đáp của Chúa thoạt nghe qua, có vẻ nghịch lý. Nhưng đó là điều kiện cho những người muốn theo chân Đức Ngài. Theo chân Đức Chúa, là: hãy để lại mọi sự, bỏ đó mà ra đi loan báo Nước Trời cho mọi người. Ở đây nữa, có thể là cha của người thanh niên trong trình thuật, thật sự đâu đã chết. Nhưng, anh chỉ muốn báo hiếu cho cha xong mới quyết định. Và, đây được coi như lý do chính đáng để khước từ. Và, đây cũng lại là trở ngại khác, cho người quyết tâm không vững.
Trả lời với những người như thế, Đức Ki-tô chỉ muốn coi xem con người chúng ta đặt sự việc nào ưu tiên một trong đời mình. Và, ý của Ngài là: ta được mời gọi dựng xây Nước Trời ở trần gian trước đã. Làm xong việc ấy rồi, mọi việc khác cũng sẽ “bất chiến, tự nhiên thành”. Bởi vì, Nước Trời chính là: thế giới của sự thật. Của lòng xót thương và sự công chính. Của tự do và an bình. Một thế giới nhất định phải xảy đến, với trần gian.
Loại người thứ ba, cũng muốn theo chân Chúa đấy. Nhưng, lại cứ phải quay về từ biệt bạn bè người thân, xong đã. Thái độ này, có nghĩa là: anh chỉ muốn có cuộc sống vui nhộn với bà con bạn bè thôi. Trong khi, trở thành đồ đệ của Chúa đòi hỏi có quyết tâm, và dứt khoát. Không do dự. Lời Chúa kêu mời là lời mời gọi ở đây. Lúc này. Và, lời đáp ứng cũng phải là lờp đáp trả rất tự do vào lúc này. Ngay tại đây. Chứ, đâu có là chuyện xảy đến trong tương lai. Lời Chúa nói về chiếc cày, là ám chỉ lời tiên tri trong bài đọc 1.
Ở bài đọc một, Ê-li-sa đáp ứng lời kêu gọi làm ngôn sứ ngõ hầu tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm là Ngôn Sứ Ê-li-a. Ê-li-sa cũng muốn giã từ cha mẹ. Ông đã về nhà, nhưng để giết bò, đốt cày và rồi tay không đến với thầy mình, là Ê-li-a.
Tin Mừng Chúa nói, không phải để ta hiểu sát nghĩa đen, làm đúng từng chữ như thế. Nhưng, Ngài muốn người nghe suy nghĩ thêm về những điều Ngài đề cập; tức: vật chất, tình cảm và tri thức hiểu biết đều có thể là những rào cản ngăn chặn ta không thể đi theo Chúa một cách vô điều kiện được. Đời người, có quá nhiều thứ để ta vui hưởng, dễ làm mờ nhạt lời mời gọi của Đức Ki-tô. Chẳng bận tâm tham gia, dính dự. Đời người còn quá nhiều chuyện để bận tâm, lo lắng. Vẫn nuối tiếc, nhớ nhiều những chuyện xảy đến trong quá khứ. Vẫn lo ngại không ít về những chuyện sắp xảy đến, trong tương lai. Tất cả những yếu tố kể trên, đều có ảnh hưởng làm cho cuộc sống thêm phức tap, trục trặc. Phần đông nhiều người trong chúng ta, mới chỉ sống có phân nửa cuộc đời. Hoặc đang sống cuộc sống của người khác. Chứ, chưa hẳn là đang thực sự sống cuộc đời của chính mình. Cho riêng mình. Và, đó là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn tín hữu Ga-lát: “Quả thế, anh chị em đã được gọi để hưởng sự tự do”. ( Gl 5, 13 )
Sở dĩ Thánh Phao-lô phải nói lên điều đó, là vì nhiều vị thuộc Giáo Đoàn Ga-lát là những người Do Thái, đã trở lại. Và xem ra, nhiều người trong số ho chỉ muốn quay trở về với lối sống và truyền thống Do Thái giáo, kiểu xưa. Có điều trớ trêu đối với họ, cũng như với nhiều người hôm nay, là: tất cả đã và đang lo sợ. Lo sợ, vì mình đang có tự do.
Tư do đích thực, không phải là thách thức đối với quyền bính. Cũng không phải là tự cho mình có quyền tha hồ chích – hút ma túy; hoặc, được quyền phà khói thuốc vào mặt người khác. Tự do, chẳng phải là thái độ cứ ưỡn ngực tuyên bố: tôi có quyền mở to máy hát làm phiền hàng xóm. Hoặc, đua xe trên đường phố, chẳng kính trọng ai. Chẳng cần san sẻ đường đi với mọi người. Người có tự do đích thực ở đây, là người biết quan tâm đến tha nhân. Biết để ý xem tha nhân có cần mình giúp đỡ điều gì không. Tự do, là biết người thân cô thế cô, đang đau khổ. Là, có thái độ với họ như với nguời anh người chị cùng nhà.
Thánh Phao-lô còn thêm: “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt; nhưng lấy tình thương mà phục vụ lẫn nhau”. ( Gl 5, 13 ) Tự do như thế, không phải là thái độ trốn tránh thực tại cuộc sống. Nhưng, biết giáp mặt, đối đầu cuộc sống. Tự do đích thực, là dám nhận lãnh trách nhiệm chăm lo cuộc sống của chính mình. Và, không đem khó khăn riêng tư đổ lên đầu người khác. Không coi họ như mối oan khiên. Như dê tế thần, chịu hết trách nhiệm. Tự do, còn có nghĩa không đeo bám vào các tiện nghi vật chất bên ngoài, tự như: tiền tài, nhà cửa, chức vụ, các thành công đỗ đạt. Đại loại như thế.
Và, kỳ lạ thay, người có tự do đích thực sẽ làm được những gì mình muốn. Bởi, những điều họ mong muốn chính là: xây dựng thế giới của sự thật. Thế giới biết san sẻ, chăm sóc lẫn nhau. Biết tạo cho nhau sự an toàn và bình an nội tâm. Người có tự do là người tách bạch, không rút đi mọi thứ tốt đẹp của người khác. Vì làm như thế, không phải là san sẻ thị kiến chung. Nhưng, thấy được các khó khăn của người khác để tìm cách giúp đỡ. Và, coi nhẹ các khó khăn mình đang gặp.
Đó chính là thứ tự do ta gặp thấy nơi Đức Ki-tô. Nơi Ê-li-sa. Nơi Thánh Phao-lô Tông Đồ. Và cả thứ tự do ta mới vừa tìm gặp nơi mẹ Tê-rê-xa. Nơi Đức Giám Mục Oscar Romero. Nơi Maximilian Kolbe. Nơi Dietrich Bonhoeffer. Và, nhiều người khác như thế. Tất cả các vị ấy đều nói tiếng “Xin vâng” một cách cách vô điều kiện, với Đức Ki-tô. Với cuộc sống. Tất cả đã cương quyết theo Ngài lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Đã không quay đầu nhìn về phía sau, một khi đã bước chân, ra đi.
Tất cả đều có lòng tha thiết đượm tình yêu. Và lên đường phiêu lưu với Chúa, chưa từng thấy mòn mỏi. Và, ta cũng hãy cùng với các ngài hân hoan hát lời yêu thương thuở trước:
Bước lên đi cùng hướng nơi Quê nhà Hát lên đi, mừng Nước non chan hòa Đời mặn nồng tình người đã thương nhau, dìu nhau Kìa từng đoàn người về vui hát vang Tự do Hôm nay ta đi, vì Núi sông đang chờ Hôm nay ta tin, tin Dân sẽ đươc no lành Kìa Sông núi, còn đang đứng mong chờ Say đắm bao tình thương ngày nay còn vương ( Xuân Lôi – Y Vân Bài hát của người Tự do )
Là con cái Chúa, ta hãy cứ thế mà lên đường. Lên đường đem tình thương đến muôn nơi, như Lời Ngài vẫn dạy. Lời Ngài dạy suốt ngàn năm, không nhạt phai. Không mòn mỏi. Mòn mỏi sao, khi người người đã Tự do. Đã được Chúa yêu thương. Như “cảnh trời xuân luyến nằng chiều”. Chiều Giê-ru-sa-lem. Chiều rất tự do…
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Trước khi đường siêu tốc có thể xây dựng, toàn thể những công nhân phải làm sạch con đường: TN 13-C47
Trước khi đường siêu tốc có thể xây dựng, toàn thể những công nhân phải làm sạch con đường. Đôi khi những cây cối phải được cắt bỏ, những hòn đá phải được di chuyển đi và những ngọn đồi phải được san cho bằng. Bất cứ những cái gì cản trở trên con đường xa lộ đều phải được chuyển đi.
Chúa Giêsu có một điều gì giống như thế, khi Ngài mời gọi mọi người trở nên môn đệ của Ngài. Ngài trông đợi họ chuyển đi tất cả những gì cản trở trong cuộc sống của họ trên con đường theo Người. Lời tuyên bố khó hiểu của Ngài: “Hãy để cho kẻ chết chôn kẻ chết”. Không có nghĩa là Ngài chống đối việc chôn cất những người thân yêu của chúng ta. Một ý nghĩa khi Ngài tuyên bố, có nghĩa là những ai loại bỏ Người thì cũng giống như những người chết kể từ khi họ loại trừ Chúa của sự sống, nhưng đó cũng là cách mà Chúa Giêsu nói, là chúng ta phải quyết định không có gì quan trọng hơn việc trung thành với Người.
Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay miêu tả một thời kỳ của Cựu Ước, qua đó một con người đã phải làm một quyết định. Cái áo choàng của Êlia là một biểu hiệu chức vụ tiên tri của người. Khi ông khoác nó lên cho Êlisa, ngài muốn mời gọi Êlisa kế tục ông như là một tiên tri trong Israel. Êlisa có vẻ do dự mất một lúc. Ông ấy đã nghĩ về cha mẹ của mình. Ông ta đã làm gì? Sự tự do đã cho phép ông làm một quyết định riêng cho chính mình. Một quyết định mạnh mẽ đã bùng cháy bên trong trái tim ông. Ông đã giết bò, chẻ cày ra làm củi để nướng bò. Điều đó có nghĩa là ông đã từ bỏ những gì có ý nghĩa cho đời sống của ông. Ông đã gặp mọi người để từ biệt họ, bỏ mọi sự để đi theo Êlia. Chúng ta phải nói rằng ông đã thiêu cháy cái cầu đằng sau mình.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta làm cùng một công việc như thế để đi theo Người cách cởi mở. Tại phép rửa Ngài đã đặt một áo trắng trên chúng ta. Đó là một biểu tượng có nghĩa chúng ta là một dân mới với một đời sống mới, một đời sống của sự tự do thất. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta phải giải phóng tất cả những chướng ngại để làm viên mãn ơn gọi làm môn đệ của chúng ta nhưng sự tự do là một thực tại phức tạp. Chúng ta sống trong một xã hội tự do nhưng những ngày này chúng ta làm chứng phải chịu đựng sự lạm dụng tự do, xã hội chúng ta đã thần thánh hóa câu, sự”tự do chọn lựa”, điều đó có đúng không khi chọn lựa phá thai, tước đoạt quyền được sống của kẻ khác. Thật sự một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ngày xưa đã tuyên bố như giáo điều;”Sự tự do chọn lựa là nền tảng nhất của con người”. Ông ta sai –một cái sai chết người. Ý kiến của ông ta về sự tự do thì không phải những gì Chúa Giêsu đã dự định cho chúng ta.
Loại tự do mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta là vì tình yêu. Chúa Giêsu không cưỡng bách chúng ta làm môn đệ của Người, dâng hiến cho Người, để yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người. Ngài ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa bởi vì tình yêu mà bị cưỡng bách thì không phải là tình yêu nữa.
Trung thành với những ý tưởng của Chúa Giêsu là Thánh Phaolô, đấng đã dạy chúng ta rằng;”Chúng ta đã được kêu gọi để sống trong sự tự do nhưng không phải sự tự do để tháo thứ cho xác thịt”. Sự tự do tháo thứ này thật sự là một nô lệ. Nếu chúng ta nghiện rượu, chúng ta sống tình dục không hợp pháp, chúng ta tham lam hoặc giận dữ, thì chúng ta không tự do. Những vấn đề nhu cầu không bị chôn vùi đâu. Khi chúng ta cho phép môt thói quen lớn lên, một tính kiêu ngạo hoặc một tính ích kỷ điều khiển chúng ta, chúng ta đang lạm dụng sự tự do của chúng ta. Tội lỗi là một thứ nô lệ và đối đầu với tự do.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta, chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu đã trả một giá đắt cho sự tự do của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng Thánh Giá và sự Phục Sinh của Người, Ngài đã thiết lập sự tự do cho chúng ta”. Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, để với ý chí tự do chúng ta có thể yêu mến Người một cách cởi mở.
Eric Liddle là người chạy đua 100 mét nhanh nhứt của nước Anh trong năm 1924. Tại Thế: TN 13-C48
Eric Liddle là người chạy đua 100 mét nhanh nhứt của nước Anh trong năm 1924. Tại Thế vận hội thể thao Olympic (TVH) mở ở Paris năm đó, mọi người đều mong đợi rằng anh sẽ chiếm được huy chương vàng về cho nước Anh.
Nhưng rồi một việc đã xảy ra làm xôn xao cả trong cũng như ngoài nước. Ban Tổ chức TVH sắp đặt môn chạy đua một trăm thước vào chương trình ngày Chúa nhật. Eric nghĩ rằng luật kiêng việc phần xác, nghỉ ngày của Chúa, không cho phép anh chạy đua ngày Chúa nhật.
Vậy anh quyết định không chạy đua ngày Chúa nhật, dầu việc nầy làm cho anh rất buồn phiền.
Khi tin nầy được loan đi, mọi người sủng sốt. Họ làm áp lực tư bề để buộc anh bỏ ý định , và chuẩn bị chạy đua ngày Chúa nhật. Nhưng Eric đã nói không là khôbg. Thái tử nước Anh cũng đứng ra can thiệp, bắt buộc anh phải chạy đua ngày Chúa nhật theo như chương trình của ban tổ chức.
Trước mọi áp lực, Eric đã nói không là không. Báo chí nước Anh gọi Eric là người phản bội. Nhưng anh cương quyết không làm điều trái với lương tâm tôn giáo của mình.
Sau đó Eric đi gặp các huấn luyện viên và đề nghị để cho một bạn đồng đội chạy đua 100 mét ngày Chúa nhật thay thế, còn anh sẽ chạy 400 mét trong ngày thường, dẫu rằng trước đó chưa bao giờ anh chạy đua 400 mét cả.
Một điều lạ đã xảy đến trước sự ngạc nhiên đến sửng sốt của mọi người. Eric đã thắng cuộc chạy đua 400 mét, rồi anh bạn đồng đội mà anh đề nghị thay anh cũng thắng trong cuộc chạy đua 100 mét.
Ít năm sau Thế vậy hội, Eric lại làm cho cả thế giới ngạc nhiên lần nữa. Anh tình nguyện lên đường sang Trung quốc giúp việc truyền giáo. Cô thiếu nữ người yêu của anh cũng theo anh sang Trung quốc. Với thời gian họ sinh được ba đức con ngoan ngoãn.
Thế rồi Đệ nhị thế chiến bùng nỗ. Nhật bản xua quân xâm lăng Trung quốc. Trước tình thế nguy hiểm, Eric gởi vợ con sang Canada lánh nạn.
Ít lâu sau, anh bị quân Nhật bắt đem đi nhốt tại một trại tập trung. Tại đây, anh tiếp tục làm việc tông đồ giữa các bạn tù. Mấy năm sau, anh đã chết một cái chết thật can đảm và anh dũng tại trại tập trung.
Sau khi Eric chết, vợ anh nhận được hàng trăm bức thư chia buồn, và nói lên lòng can đảm và anh dũng của anh khi bị gian trong trại. It nhứt có hai bức thư của bạn tù nói rằng Eric là lẽ sống duy nhứt của họ trong trại tập trung. Nếu không nhờ sự có mặt của anh trong trại, thì họ đã tự tử chết lâu rồi.
Đến năm 1980 nghĩa là 56 năm sau Thế vận hội Paris nói trên, có người nảy ra ý kiến làm một cuốn phim về Eric và Thế vận hội 1924. Khi hay tin đó, vợ của anh còn sống ở Toronto nói: “Thời bây giờ ai mà còn để ý tới một việc đã xảy ra lâu lắm rồi về một người quyết không chạy đua ngày Chúa nhật vì đức tin người Kitô hữu của mình?
Ấy thế mà cuốn phim nầy tên là Chariots of Fire (Xe hỏa ngục) đã thành công một cách phi thường. Thiên hạ đùng đùng kéo nhau đi xem như nước lụt. Cuốn phim đã giựt giải thưởng điện ảnh (Academy Award) năm 1982.
Câu chuyện Eric giúp chúng ta hiểu được lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay:
“Kẻ cầm cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.”
Eric không bao giờ ngó lại sau lưng. Một khi đã quyết tâm đi theo Chúa, anh luôn luôn nhìn về đàng trước mà tiến bước theo Chúa, không bao giờ nhìn lại đàng sau, mặc cho tất cả mọi người tìm cách gây áp lực. Anh không bao giờ nhìn lại đàng sau, dầu thiên hạ gọi anh là phản quốc.
Đâu là bí quyết của lòng can đảm làm cho anh không bao giờ ngó lại đàng sau? Đâu là bí quyết long trung kiên của Eric đối với Đức Kitô trước những chống đối kinh khủng từ mọi phía?
Đây là câu trả lời mà người vợ của Eric đã nói trong cuộc phỏng vấn với tờ báo Toronto Star: “Eric bao giờ cũng dậy thật sớm, dùng giờ đầu tiên trong ngày để đፊ??c Kinh thánh và cầu nguyện, cùng sắp đặt công việc cho ngày mới.” Đó là bí quyết của lòng can đảm hành đạo và sự trung thành của anh đối với Đức Kitô.
Eric là một người cầu nguyện. Anh đã tra tay vào cày mà không bao giờ ngó lại đàng sau, bởi vì anh tìm gặp Đức Kitô mỗi buổi sáng trong giờ cầu nguyện.
Câu chuyện về Eric Liddle không thể không làm cho chúng ta suy nghĩ. Chúng ta không thể không nghe tiếng Chúa phán bảo trong tâm hồn rằng phải noi gương Eric mà tổ chức cuộc đời mình bằng sự năng tiếp xúc với Chúa trong lời kinh cầu nguyện, nhứt là ban mai sau khi thức dậy và ban tối trước khi đi ngủ.
Nếu chúng ta gặp phải ưu tư phiền muộn, hãy nhìn vào Đức Kitô. Nếu thấy khó tra tay vào cày, mà không ngó lại đàng sau, hãy chạy đến cùng Đức Kitô trong lời kinh cầu nguyện ban sáng cũng như buổi chiều hôm.
Nếu thấy cõi lòng trống rỗng tẻ lạnh như khu rừng hoang, hãy chạy tới cùng Đức Kitô trong lời kinh cầu nguyện, ban sáng cũng như buổi chiều hôm, chúng ta sẽ thấy mình làm được những sự lạ như Eric, bởi vì trong lúc đó, không phải tôi làm việc, nhưng chính Đức Kitô làm việc trong tôi.
Nếu tôi có thể nói được một cách thành thực như thánh Phaolô rằng: “Tôi sống không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi.” (Gal 2:20)
Lúc đó tâm hồn tôi sẽ ấm áp và sẽ không còn sự gì mà tôi không làm được, vì lúc đó, không còn phải tôi hành động, nhưng chính Chúa Kitô hành động trong tôi.
Trên bước đường Chúa đi, nhiều thanh niên muốn theo làm môn đệ Ngài, vì họ muốn theo: TN 13-C49
Trên bước đường Chúa đi, nhiều thanh niên muốn theo làm môn đệ Ngài, vì họ muốn theo gương Ngài khăng khít hơn. Họ cảm phục Ngài đức độ cao dầy, vì giáo huấn trong sáng, vì những phép lạ kỳ diệu, vì sức mạnh việc Ngài thực hiện, và vì dự định quả cảm của Ngài. Họ nôn nóng và tỏ ra sẵn lòng theo Ngài, lên đường với Ngài.
Người thứ nhất.
Anh tỏ ra dứt khoát, hết sức sẵn sàng ‘tôi xin theo Thầy bất cứ Thầy đi đâu’. Anh muốn theo Ngài bất chấp nghịch cảnh, hy sinh tất cả, dù hoàn cảnh nào chăng nữa. Thật là tiếng đáp trả quyết liệt, vô điều kiện.
Nhưng chắc là anh còn ảo tưởng, nên Đức Giêsu khẳng định mạnh mẽ: ‘Chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu’.
Bình thường, ai cũng thích một nơi ăn chốn ở an toàn, thật bảo đảm, nơi họ được tự do định đoạt mọi chuyện, tha hồ thoả mãn nhu cầu riêng, được sống ‘hết sức thoải mái’, muốn làm gì thì làm, còn mặc ai nấy sống. Dù ở nơi tầm thường, dù chỉ là một túp lều tranh sập sệ, nhưng có tự do và thoải mái vẫn hơn.
Nhưng đi theo Chúa Kitô không đem lại cho ta thứ tình cảm an toàn ấy. Đức Kitô vốn lang thang, nay đây mai đó. Ai quyết chí theo và vững tâm phục vụ Ngài ắt phải như Ngài không đóng đô ở đâu cả, không ham lối sống an cư lạc nghiệp. Có tiếng mời gọi, tức khắc cất bước lên đường, dứt khoát cả nội tâm lẫn ngoại giới. Nơi an toàn của ta ở bên kia thế giới. Nơi nương ẩn của ta đặt ở nơi Chúa. Và an bình thư thái thực sự lại thuộc về đời sau.
Không thể như con chồn được: chọn hang sâu hốc hiểm làm nơi an thận bình phận: thù bất nhập, mà an toàn khỏi mọi thời khí độc hại. Cũng không thể như con chim tự làm cho mình một tổ ấm an lành. Bởi vì đời sống luôn có những giông bão nổi lên, tàn phá và làm tan những chòm cây an toàn đã khổ công xây dựng cho riêng mình thay vì cho những người khác. Theo gương Đức Kitô, bước đi theo Ngài, có nghĩa là hiến thân cho con người và sống trong sự bấp bênh.
Người thứ hai
Anh không tự quyết theo Chúa, song được Ngài mời gọi ‘hãy theo Ta’. Anh thưa: ‘xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã’.
Theo đó, vấn đề không chỉ là việc chôn cất cho bằng anh tự cho rằng mình còn phải có trách nhiệm với cha mình và vì tình cốt nhục mình phải ở lại phung dưỡng cha già đến ngày ông mất. Khi ấy anh mới sẵn sàng theo. Điều này cũng tự nhiên thôi; có lẽ, còn thuộc về bản chất tốt của người Công giáo nữa.
Dù sao, ta không thể để song thân lâm cảnh cơ cực. Phải để ý đến anh em và phụ giúp gia đình, bỏ đi như vậy là không được. Vì công cha nghĩa mẹ, phận làm con là phải đáp đền. Tuy hôn nhân là một bí tích, gia đình là cơ cấu do Chúa an bài. Hơn nữa Đức Kitô đã chẳng sống ba mươi năm tại Nagiarét và thánh hoá gia đình đó sao?
Tất cả thật là chí lý, vậy sao Đức Giêsu lại nói ‘để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa’.
Thiên Chúa là Tôn sư tối cao. Ngài đã cất tiếng mời gọi thì phải đáp lại dứt khoát. Yêu sách của Ngài phải được ưu tiên hơn mọi nhu cầu khác. Luật Chúa phải sáng chói hơn hẳn luật con người. Ơn gọi trên cao đòi tha phải tích cực đáp trả vô điều kiện.
Mẹ Ngài trách Ngài: ‘Tại sao con lại làm thế với cha mẹ’. Ngài đã thưa lại: ‘Mà tại sao cha mẹ lại tìm con, cha mẹ không biết là con phải lo công việc Cha con sao?’. Ngài không thể khép vào thế giới bé bỏng Nagiarét nhưng thuộc về vương quốc bao la của Cha Ngài.
Ai muốn rao giảng nước Thiên Chúa ắt phải từ bỏ vợ con và gia đình. Phải có một tâm hồn quảng đại và đôi tay thong dong, không bị ràng buộc bởi bất cứ một trở lực nhân loại nào. Phải hy sinh cái thế giới gia đình, tuy đẹp nhưng nhỏ bé và phấn đấu cho cái vũ trụ lớn lao là nước Thiên Chúa. Lời mời gọi của Chúa Kitô là một lời động viên. Ai đã dứt khoát dấn thân phục vụ Thiên Chúa, không thể để mình dan díu với những gì thuộc thế giới chết chóc được.
Người thứ ba.
Người này xem ra đắn đo hơn. Anh phát biểu sự ưng thuận của anh với điều kiện: ‘Thưa Ngài, tôi xin theo Ngài nhưng cho phép tôi quay về từ biệt gia đình trước đã’. Như vậy, anh ta đã sẵn sàng chưa? Hẳn là chưa. Anh tạm hoãn quyết định của anh. Trước khi dứt khoát, anh còn có việc khác phải làm: anh xin được trở về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn để cáo từ cha mẹ và thân thuộc.
Qua đó, ta thấy có chút mơ mộng và tình cảm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại cách quả quyết: ‘Kẻ vưà tra tay cầm cày vừa ngó lại sau, không xứng đáng với Nước Thiên Chúa’. Ta thấy ngay một lối sắp xếp giả tạo. Theo Chúa Kitô không phải là nhìn lại phía sau mà nhìn phía trước, cứ nhắm Đấng kêu gọi mà tiến bước, cứ dõi theo mục tiêu của con đường ta đi qua. Tình cảm sẽ làm tê liệt. Cứng đầu cứng cổ sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho việc theo Chúa. Chúa là tôn sư, Ngài đòi ta phải hy sinh trọn vẹn, nguyên tuyền và vui vẻ sẵn sàng.
Ai muốn đồng hành với Ngài, phải có quyết định gan dạ và chấp nhận dặm trường. Ai dừng chân ở mỗi khúc quanh để ghi nhớ những hình ảnh vừa đi qua, ngoái cổ nhìn lại, thì chính họ sống bằng quá khứ hơn là tương lai; họ không hề biết dặm trường hiểm nguy. Nếu mỗi chặng đường đều có sẵn một chiếc ghế dài thoải mái, hẳn họ sẽ dừng lại nghỉ ngơi và chẳng đặt vấn đề theo Chúa nữa.
Cần lưu ý nữa là ba đòi hỏi của Đức Kitô thật phù hợp với đời sống gia đình. Với người này, Ngài nói phải từ bỏ cuộc sống an toàn của tổ ấm; với người kia, sẽ chỉ ở lại nhà cho đến lúc anh có thể tự thoát khỏi những ràng buộc mà không phẫn nộ. Và người thứ ba sẽ hành động mà chẳng chú ý gì đến gia đình cả.
Nếu cùng một vấn đề được đề cập tới trong ba câu đáp thì ắt không phải do tình cờ ngẫu nhiên. Cha mẹ và thân thuộc dễ nghĩ rằng mình được quyền định đoạt theo quyền lợi mình. Họ không ngừng phẫn nộ khi một người trong họ nghe theo tiếng Chúa từ bỏ gia đình cất bưóc ra đi. Có nhiều cha mẹ, anh chị em không thông cảm nổi mỗi khi có người con trai hay gái theo tiếng gọi ấy. Nhưng những người con này vẫn đành chấp nhận… Thiên Chúa lớn lao hơn.
Khi Ngài đặt tay trên ai thì người này hoàn toàn thuộc về Ngài. Không có chuyện chia sớt, gây tổn hại. Rõ ràng từ bỏ là ray rứt, chia lìa là khổ đau, Chúa diễn tả minh bạch. Chỉ có một cách giải quyết: Ai muốn đi với Ngài, phải thành tâm theo Ngài. Và dứt khoát chỉ theo một Thày. Đó là lý do môn đệ phải dự phần vào sự đơn độc của Ngài.
Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc: TN 13-C50
Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace). Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.
“Hôm ấy, tôi đang mê mãi bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời. Tôi vội vã đi theo.
Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.
Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé. Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm, Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai. Chân kéo lê trên một quãng đường dài. Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng. Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường. Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước. Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước, Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài. Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông, Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục. Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co. Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi. Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất. Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ. Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi, Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường. Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp. Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước. Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,
Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi”.
Anh chị em thân mến,
Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân. Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp. Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:
Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập gí, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy”. Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu”. Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ”, và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ. Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thất tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy. Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ. Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.
Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi”. Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã. Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa”. Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngòai Nước Trời. Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì. Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.
Ngừoi thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện: “Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã”. Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã. Ông Êlia đồng ý ngay. Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước. Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu hti2 khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau. Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được. Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.
Thưa anh chị em, Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.
Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ. Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi. Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà kh“Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”. Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời. Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy. Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.
Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình. Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa? Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi. Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3,7-13).
Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo. Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn. Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình. Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa. Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.
Việc tham dự tích cưc và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.