Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa Giêsu nói với Phêrô rằng: - Hãy ra khơi và thả: TN 5-C1
Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa Giêsu nói với Phêrô rằng:
- Hãy ra khơi và thả lưới.
Và chúng ta đã thấy được phản ứng tức thời của Phêrô. Ông nói: - Thưa Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả lưới.
Qua lời nói này, chúng ta thấy được thái độ của Phêrô. Ông không tranh luận và bàn cãi với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì thế mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Đồng thời, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các ông đã làm lụng vất vả suốt đêm, tuy nhiên các ông đã làm lụng như thế nào ?
Tôi xin thưa:
- Các ông đã làm lụng một mình.
- Và kết quả ra làm sao ?
Tôi xin thưa:
- Chỉ là một con số không.
Với chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc một mình, có nghĩa là chúng ta quá ỉ vào sức riêng, quá cậy dựa vào tài năng của mình, để rồi thất bại sẽ làm cho chúng ta bực bội và thất vọng. Trái lại, với tâm tình cầu nguyện và tin tưởng, chúng ta hãy mời Chúa cùng làm với chúng ta và chúng ta sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Hay như Thánh vinh đã nói:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà, Thợ nề vất vả chỉ là uổng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trông, Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Và chính Chúa cũng đã xác quyết:
- Không có Thày, các con không thể làm gì được.
Tiếp nối đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ cá lạ lùng ấy, các môn đệ đã đi từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô đã quì xuống dưới chân Chúa và thưa lên với Ngài:
- Lạy Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Phải chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ cõi lòng khiêm nhường của ông, khiến chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên đội trưởng:
- Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.
Chúa Giêsu không những đã không rời xa Phêrô, trái lại Ngài đã yêu thương và dành cho ông một sứ mạng:
- Từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.
Và Phúc âm đã kết thúc: các ông cho thuyền vào bờ, rồi sau đó đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi này đã nói lên tất cả. Các ông đã trở thành những mẫu gương sáng chói cho muôn đời noi theo, bởi vì qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi sự, bước theo Chúa trên dấu chân của các ông.
Lời Chúa phán với các ngư phủ bên bờ hồ Tibêriade ngày xưa vẫn còn vang vọng tới chúng ta cho đến hôm nay:
- Các con hãy ra khơi và thả lưới.
Vâng theo lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị tông đồ đã đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm, thực hiện những hành động bác ái yêu thương hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Riêng chúng ta thì sao ? Là những người dân ở hậu phương, chúng ta có bổn phận phải yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến bằng lời kinh cầu nguyện, bằng đời sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải cũng như bằng chính tiền bạc vật chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái được những thành quả tốt đẹp, và bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó, cũng sẽ trở nên những người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội ? Chúng ta có thực sự muốn ra khơi và thả lưới hay không .
Chúa Giêsu là một người đã sinh ra ở trần gian thì Chúa chỉ có thể sống ở trần gian một thời: TN 5-C2
Chúa Giêsu là một người đã sinh ra ở trần gian thì Chúa chỉ có thể sống ở trần gian một thời hạn nào đó, và chúng ta đã biết là 33 năm, rồi Chúa đã về trời. Nhưng đạo lý của Ngài, sự nghiệp của Ngài, cần phải được duy trì và loan truyền khắp nơi, nên Chúa phải nghĩ đến chuyện tuyển chọn những người cộng tác, để ở với Ngài, đi theo Ngài, tham dự vào sinh hoạt của Ngài, tiếp thu giáo huấn của Ngài và chứng kiến các việc Ngài làm… để sau này trở thành những người tiếp tục duy trì và truyền bá công cuộc cứu độ mà Ngài đã khởi đầu.
Chính vì thế khi bắt đầu công khai giảng dạy, chúng ta thấy việc trước hết Chúa làm là kêu gọi một số môn đệ. Những môn đệ đầu tiên đó là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Các ông này đã đi theo Chúa nhưng chưa một ai quyết định dứt khoát bỏ mọi sự đi theo luôn. Nên theo Chúa được một thời gian các ông lại trở về nghề nghiệp cũ là chài lưới đánh cá. Vậy là các ông chưa hiểu ơn gọi và sứ mạng cao cả Chúa muốn trao phó cho các ông.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa lại kêu gọi các ông và nói cho các ông biết sứ mạng quan trọng Chúa muốn trao phó. Để các ông vững tin vào Chúa, Chúa đã cho các ông chứng kiến một phép lạ, và qua phép lạ này các ông sẽ hiểu sứ mạng của mình hơn. Phép lạ này xảy ra vào quãng đầu cuộc đời công khai giảng dạy của Chúa Giêsu, tức là khoảng đầu năm 28, xảy ra ở bờ hồ Tibêria, gần Bếtsaiđa, quê hương của bốn tông đồ đầu tiên. Đó là phép lạ Chúa Giêsu cho các môn đệ bắt được nhiều cá.
Hồ Tibêria còn được gọi là hồ Ghennêxarét, có nhiều cá. Người ta thường đánh cá về đêm. Nhưng đêm ấy, các tông đồ đã thả lưới thâu đêm mà không bắt được gì cả. Nghề đánh cá có nhiều may rủi, cay cực. Nghề đánh cá phải chấp nhận sống giữa thiên nhiên với cuồng phong bão tố sóng cả. Phải chấp nhận sống bồng bềnh trên chiếc thuyền tròng trành tối ngày. Cuộc sống phải lấy đêm làm ngày là chuyện thường. Các môn đệ cũng thế, sau một đêm vất vả nhọc mệt mà chẳng được gì. Giờ đây các ông ngồi giặt lưới, rũ lưới, rồi đợi chờ chiều tối thuận tiện sẽ lại ra khơi.
Nhưng giữa lúc ấy Chúa bảo: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Các ông vâng lời Chúa ngay và bắt được rất nhiều cá quá sức mong tưởng, là hai thuyền đầy đến nỗi gần chìm. Dù các tay chài thiện nghệ đến đâu cũng phải kinh ngạc và công nhận đó là phép lạ. Một điều này thôi cũng đủ minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng quyền phép vô cùng. Trước phép lạ tỏ tường này, Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Từ nay các anh sẽ là người thu phục người ta”, nghĩa là những người có sứ mạng đi thu họp người ta để đưa vào Nước Thiên Chúa. Thế là từ lần kêu gọi này các ông quyết định dứt khoát từ bỏ mọi sự đi theo Chúa để thực thi sứ mạng đó. Bài Tin Mừng này rất phù hợp với khẩu hiệu của đại hội giới trẻ Công giáo toàn cầu tổ chức tại Manila, Philippin, từ ngày 10 đến 15 tháng một năm 1995. Khẩu hiệu duy nhất của đại hội do chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn là “Như Cha đã sai Thầy đi thế nào, Thầy cũng sai chúng con đi như vậy”. Đức Giáo Hoàng đã dùng lời Chúa Giêsu làm khẩu hiệu như một lời hô hào gửi đến giới trẻ Công giáo toàn cầu, và cũng cho tất cả mọi Kitô hữu nữa.
Đức Kitô được Chúa Cha sai đến trần gian để công bố và thiết lập Nước Trời. Đức Kitô đã hoàn thành sứ mạng đó. Và trước khi về trời Ngài lại trao sứ mạng đó cho các tông đồ: “Các con hãy đi khắp nơi giảng dạy cho muôn dân”. Các tông đồ đã đóng vai trò chài lưới người. Các ngài đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các tông đồ, hiểu theo sát nghĩa, đã có biết bao người hiến thân làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Nhưng hiểu một cách rộng rãi, tất cả chúng ta đều là tông đồ của Chúa. Điều này Công đồng Vaticanô II đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: mỗi Kitô hữu là một tông đồ của Chúa. Tất cả chúng ta đều được Chúa truyền phải làm mọi cách để chinh phục người ta về cho Chúa.
Người giáo dân thực thi mệnh lệnh này có hiệu quả hơn các linh mục, tu sĩ. Bởi vì các linh mục, tu sĩ đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất. Vậy anh chị em hãy suy nghĩ, hãy cố gắng hơn nữa, để đời sống của anh chị em, cách giao tiếp, gặp gỡ của anh chị em vừa làm chứng cho Chúa, cho đạo, vừa là động lực lôi kéo hay thúc đẩy người ta đến với Chúa.
Riêng các bạn trẻ, các bạn cũng hãy sẵn sàng muốn được sai đi xây dựng Nước Trời. Đối với phần đông giới trẻ Công giáo hiện nay, Nước Trời được nhìn như một cuộc sống hạnh phúc phần xác và phần hồn. Muốn dấu chỉ của Nước Trời được nhìn thấy trong cuộc sống, các bạn trẻ hãy cố gắng làm sao để cái tốt, cái đẹp của Nước Trời được thể hiện ngay trong đời sống cá nhân và gia đình các bạn. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng sống được như thế thì Nước Trời đang ở giữa chúng ta.
Cả ba bài đọc của Chúa nhật V Mùa thường năm C đều qui về một đề tài chính là “Thiên Chúa: TN 5-C3
Cả ba bài đọc của Chúa nhật V Mùa thường năm C đều qui về một đề tài chính là “Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi con người”. Ngài không để cho những yếu hèn của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng Ngài ban hồng ân tràn đầy và một biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp: “Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Lời này xưa kia Chúa đã nói cho thánh Phêrô, nhưng không những cho Phêrô mà thôi, mà còn cho tất cả mọi tín hữu là những kẻ tin nhận Ngài. Ngài kêu gọi từng người một với những khả năng, nhất là với những khuyết điểm, những bất toàn để rồi Ngài biến đổi họ trở thành những kẻ làm chứng cho Ngài.
Nơi bài đọc 1 chúng ta nhận thấy rằng, trước khi kêu gọi vị tiên tri, hoặc trước khi kêu gọi một ai đến theo Chúa thì Thiên Chúa đến với người đó, cho họ được cảm thấy Ngài, được cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài trong đời sống người đó và ban ơn thánh như than hồng cháy đỏ trong thị kiến để thanh tẩy và biến đổi đương sự vừa được gọi trở thành hữu dụng hơn.
Khởi đầu của ơn gọi là kinh nghiệm sống động về ơn Chúa, là những lúc nói được là sốt sắng nhất. Lúc khởi đầu, người được gọi còn sốt sắng trong ơn gọi, vì còn cảm thấy như gần gũi Thiên Chúa, sống bên cạnh Ngài. Nhưng rồi trong cuộc đời theo Chúa có những thử thách đen tối, điều quan trọng là đương sự được gọi còn trung thành với ơn Chúa ban, và đây là trường hợp của thánh Phaolô tông đồ như được gợi lại nơi bài đọc 2 của thánh lễ Chúa nhật V mùa thường.
Thánh Phaolô đã được gọi sau rốt, nhưng không vì công nghiệp và tài năng của ngài, mà vì tình thương nhưng không của Thiên Chúa. Lúc đó ngài đang đi lùng bắt những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trên đường tiến về Damas, nhưng rồi Chúa đã tìm đến Phaolô, từ đó Phaolô đã không bất trung với ơn Chúa đến độ thánh nhân đã viết và chúng ta đọc lại trong thơ của ngài như sau: “Ơn Chúa đã không trở thành vô ích nơi tôi, nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay”.
Nơi bài Phúc âm trích từ Phúc âm thánh Luca, chúng ta cũng quan sát thấy cùng một kinh nghiệm tôn giáo về ơn gọi đã xảy ra, đó là việc Chúa thực hiện một phép lạ để rồi nhờ phép lạ này mà Phêrô nhận ra sự hiện diện của Chúa và thốt lên: “Thưa Thầy, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”.
“Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”. Trước nhan Thiên Chúa ai là người vô tội hoàn toàn ? Thiên Chúa tìm và kêu gọi con người, Ngài không để cho những yếu đuối của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng ban hồng ân tràn đầy để biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp.
“Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Thật, kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa Đấng trọn tốt trọn lành, và đồng thời cho con người vừa được gọi ý thức về thân phận yếu hèn tội lỗi của mình không xứng đáng được gọi, nhưng vì Chúa đã trấn an Phêrô và từ đó không bao giờ ngưng trấn an những kẻ Ngài gọi: “Đừng sợ, con sẽ là kẻ đánh cá người”.
Ơn Chúa sẽ biến đổi người đồ đệ, nhưng liệu chúng ta có đủ sức can đảm đi đến cùng để cho ơn Chúa biến đổi cuộc sống mình hay không ? Liệu chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Ơn Chúa không trở thành vô ích nơi tôi hay không ? Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay, như là tông đồ của Chúa, mặc dù tôi đã là kẻ tội lỗi, bắt bớ những tín hữu của Chúa.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày những phản ứng khác nhau của con người phàm tục khi: TN 5-C4
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày những phản ứng khác nhau của con người phàm tục khi đối diện với Đấng Thiên Chúa thánh thiêng qua con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Con người do kinh nghiệm dạn dày của một đời dấn thân vào mọi khoảnh khắc thăng trầm của cõi nhân sinh, đã từng vào sinh ra tử nơi những trận tuyến dữ dội nhất của xã hội loài người, đã nếm trải mọi vinh nhục của lòng dạ người đời. Có lẽ đầy xác tín và sẽ mãi bám chặt lấy kinh nghiệm bản thân theo góc độ có thể định hình. Đó có thể là một thế giới quyến rũ, một nhân loại hồn nhiên mở ra những khả năng vô hạn cho công trình xây xây nên một địa đàng tương lai. Đó có thể là một đấu trường dữ dội nơi sàng lọc các giá trị, nó ưu đãi cho sức mạnh của trí tuệ, của thế lực, của vật chất. Đó có thể là một bãi tha ma, một đống đổ nát điêu tàn của mọi ước mơ, nơi chôn vùi mọi giá trị hão huyền, mọi toan tính thành tâm thiện chí, mọi khát vọng công bằng, hòa bình, yêu thương, để cuối cùng trơ ra một thế gian trần trụi, chết chóc, tanh hôi, một mảnh vườn hoang vô chủ, một mảnh đất màu mỡ mọc lên đủ mọi thứ gian tà ác độc. Đó là một thế giới đã bị nguyền rủa. Đó là một nhân loại đã bị nhiễm độc không còn hy vọng tìm ra lối thoát.
Đức Giêsu đến đề nghị giải pháp của Người cho một thế giới mới, một nhân loại mới dựa trên nền tảng của giá trị Tin Mừng. Công cuộc Người dự định là qui tụ cộng đoàn nhân loại đã được phục hồi những giá trị nhân bản và tâm linh nguyên thủ qua quá trình hoán cải để hình thành một thể chế mới họa theo mẫu cộng đoàn Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Đó là một thể chế của Thiên Chúa, hay đúng hơn một gia đình của Thiên Chúa là nơi để yêu thương, để trao ban và đón nhận yêu thương không còn mức độ, không còn giới hạn và theo một chu kỳ vô tận.
Phản ứng của con người ra sao trước kế hoạch của Đức Giêsu?
Thưa, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Chúng tôi đã vất vả suốt đêm, rõ ràng là rất tự tin, rất xác tín nơi kinh nghiệm và hiểu biết của mình mà không bắt được gì cả. Liệu công cuộc và nỗ lực của Thiên Chúa có sinh được kết quả gì hơn những cố gắng của nhân loại không ? Nhân loại đã có thừa mứa tiện nghi, cuộc sống đã và còn tiếp tục tự lập, tự mãn trên đà tiến khoa học kỹ thuật. Lời giảng của Chúa liệu sẽ đem đến điều gì đáng ước mơ hơn những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đang thụ hưởng ? Đường hướng của Chúa liệu có thay đổi được cục diện giống gần như đã được cài đạp, đã được chương trình hóa của thế giới, của nhân loại hay không ?
“Nhưng vâng lời Thầy, chúng tôi sẽ thả lưới”. Kể cả khi không còn lựa chọn nào khác, con người vẫn tỏ ra miễn cưỡng, không mảy may tin tưởng, hy vọng nơi công cuộc thực hiện nhân danh Chúa. Thế nhưng, để rồi xem Đức Giêsu có kế hoạch của Người. Là Thiên Chúa, hơn ai hết, hơn mọi trí tuệ của phàm nhân, Người tiên liệu tất cả mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, mọi khí hậu, mọi chuyển vận của cuộc đời và của con người, để chương trình yêu thương và cứu độ của Người phải nhất thiết thành tựu và thành tựu mỹ mãn.
Không cần thiết nữa, bất cứ một lý do thối thoát nào như trường hợp của ngôn sứ Isaia: “Khổ thân tôi vì miệng tôi ô uế”, hay như ông Simon Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ có tội”. Thái độ hợp tình hợp lý nhất có lẽ là con người nên khiêm tốn nhập cuộc vào kế đồ đại nghĩa của Đức Giêu, như cung cách của thánh Phaolô: “Tôi có gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”.
Đó là phản ứng thuận ý trời hơn hết để có được những mẻ cá lạ lùng.
Bài Tin Mừng hôm nay có tên gọi truyền thống là “mẻ cá lạ lùng” qua việc Chúa gọi Simon: TN 5-C5
Bài Tin Mừng hôm nay có tên gọi truyền thống là “mẻ cá lạ lùng” qua việc Chúa gọi Simon từ kẻ “lưới cá” Ngài đã làm cho ông trở nên kẻ “lưới người”. Qua hành trình ơn gọi ta thấy Chúa thử thách Simon, ông tin tưởng cậy trông vào Chúa và cuối cùng Chúa đã thương chọn ông trở thành tông đồ của Ngài.
Hôm nay là Chúa nhật V Mùa thường niên tôi xin kính mời quí ông bà anh chị em cùng với tôi lần mở lại trang Tin Mừng để tìm hiểu về hành trình ơn kêu gọi của mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
Phúc âm kể lại: đang khi Simon giặt lưới, tranh thủ nắng để phơi lưới, thế mà Đức Giêsu lại bảo ông bỏ việc riêng đó mà chèo thuyền ra xa bờ một chút để Ngài rao giảng. Rõ ràng đây là một thử thách nhắm đến tinh thần vâng phục, nhưng mới chỉ là thử thách lần đầu, phải bỏ mình.
Rồi khi giảng xong, Ngài lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới. Đây là thử thách thứ hai ta thấy nặng ký hơn lần đầu. Vì Đức Giêsu không biết gì về nghề chài lưới, thế mà lại bảo Simon là một người chuyên về nghề chài lưới, chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Đây là một điều vô lý hết sức: “Múa rìu qua mắt thợ”. Thả lưới cả đêm mà không bắt được một con cá nào. Thả lưới ban ngày làm gì có cá. Nhưng Simon lại phải bỏ mình “vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới, chứ ai khác thì… còn khuya !”
Quả thật, vì nể Thầy, Simon thả lưới. Cuối cùng các ông đã bắt được rất nhiều cá đến nỗi hầu như rách lưới. Đến lúc này Simon rất mệt vì đã vất vả suốt đêm, mà giờ này cá quá nhiều, một mình không làm gì được. Ông phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ ông. Đây là thử thách thứ ba Chúa đòi hỏi Simon phải bỏ mình sống tương quan liên đới với anh em. Nhưng qua những lần thử thách, Simon đặt niềm tin vào Thầy thế nào ?
Trước hết, nhờ kinh nghiệm sống thân mật bên Thầy mấy tuần trước đó, Simon đặt hết tin tưởng vào Thầy: ông ra khơi thả lưới.
Lòng tin và sự vâng phục của Simon được tưởng thưởng tức khắc. Nhờ quyền năng phi thường Chúa Giêsu chỉ cho Simon phải thả lưới chỗ nào để chắc chắn bắt được nhiều cá.
Một mẻ cá như thế, giữa ban ngày, ngay mẻ lưới đầu tiên, sau một đêm tốn công vô ích ; đối với những ngư phủ rành nghề, quả là một việc khác thường.
Sau đó, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.
Simon đã từng chứng kiến phép lạ ở Cana, nhưng phép lạ này có liên quan mật thiết tới cá nhân ông, khiến ông bị xúc động mạnh. Ông thấy Thiên Chúa hiện diện ngay bên ông khiến ông có thể cảm nghiệm, sờ được. Bài đọc 1 cũng cho ta biết: ngày xưa Isaia khi nghe Chúa gọi, khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa ngự trên ngai lửa, đã la hoảng lên:”… khốn thân tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi nhơ bẩn, mà mắt tôi đã thấy Giavê.
Simon cũng kinh hãi ông quỳ xuống chân Thầy và nói “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !”, nhưng Chúa Giêsu bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Như vậy, nhờ vào lòng tin và vâng phục Phêrô đã được Chúa tuyển chọn. Qua Bí tích Rửa tội đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Như thế, mỗi người chúng ta sống ơn gọi của mình như thế nào ?
Đối với những người sống trong bậc gia đình phải chu toàn trách nhiệm của mình là nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Khi nói đến vấn đề giáo dục con cái ngày nay là một vấn đề rất khó khăn, chắc chắn rằng cha mẹ sẽ gặp nhiều thử thách. Vì thế, trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải biết vượt qua những thử thách đó và thêm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cách riêng, những người đang theo đuổi ơn gọi sống đời tận hiến, bài Phúc âm mời gọi chúng ta hãy lạc quan tin tưởng vào tình yêu của Đức Kitô, sống tốt giây phút hiện tại của mình. Kiên trì vượt qua thử thách, thêm tin tưởng vào Chúa. Vì hành trình ơn gọi của mỗi người không do một mình chúng ta thực hiện, nhưng luôn có Chúa cùng đồng hành với ta.
Một mình Phêrô không bắt được gì cả ; nhưng có Chúa giúp, Phêrô đánh được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan Vianney khi còn là chủng sinh đã học hành rất chậm. Ngày kia, một cha giáo vâng lời bề trên địa phận đến khảo hạch xem Vianney có đủ khả năng làm linh mục hay không ? Tuy đã cố gắng học hành chăm chỉ, nhưng Vianney vẫn không trả lời được bất cứ câu hỏi nào cho trôi chảy. Tức giận, vị giáo sư đập bàn và nói “Vianney, anh thật dốt đặc như một con lừa ! Với một con lừa như anh, thử hỏi Hội thánh sẽ hy vọng làm được gì đây ?” Sau một giây suy nghĩ, Vianney khiêm tốn và bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, theo ý con: ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm của con lừa mà đánh bại được 3000 quân Philitinh. Vậy thì với cả một con lừa như con, chẳng lẽ Thiên Chúa lại không làm được việc gì hữu ích hay sao ?
Quả thật, con lừa Vianney của Thiên Chúa đó sau này không những đã trở thành cha sở họ Ars, mà còn là một người nhân đức thánh thiện, làm ích rất nhiều cho Chúa và các linh hồn.
Qua tấm gương của cha Vianney, ngài đã sống trọn vẹn ơn gọi của ngài. Ước mong mỗi người chúng ta cũng xem lại việc sống ơn gọi trong bậc sống của mình và khi gặp thử thách xin cho chúng ta biết tin cậy vào sự quan phòng của Chúa.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa: TN 5-C6
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng. Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: Anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì. Vianney khiêm tốn trả lời: Thưa cha, này xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao ? Quả thật con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà con được tôn phong làm bổn mạng của các cha sở.
Hôm nay Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng “vì lời Thầy con sẽ thả lưới”. Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa mà nói: Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi. Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo hội.
Có một điểm gì đó rất gống nhau giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để cho Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đặc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhường.
Thưa thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết, nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới. Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa. Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại nhiều hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người. Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin. Thực vậy, qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa noi Đức Kitô và đã tin vào Ngài. Đồng thời, chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Kitô, Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa.
Hôm nay, Chúa đã trấn an Phêrô: Đừng sợ, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta. Quả thật ngay sau lúc đó, các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Ngài. Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào. Sau khigặp Chúa, Chúa đã hướng dân ông kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới, ông cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ông không phải là thành quả vàng son, mà là chính Chúa mà thôi.
Phêrô và các bạn đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Chán nản, mệt mỏi, các ông: TN 5-C7
Phêrô và các bạn đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Chán nản, mệt mỏi, các ông không đánh cá nữa và đi giặt lưới. Cho dù đã làm hết sức mình, con người vẫn có thể gặp thất bại. Người học sinh luyện thi rất chăm chỉ, nhưng rồi thi vẫn rớt. Vận động viên thể thao cố gắng chơi hết sức mình, vậy mà lại thua. Cha mẹ đã làm tất cả để giáo dục con cái nên người tốt lành, thế mà chúng lại làm người xấu. Hầu hết chúng ta đều có khi gặp thất bại như thế.
Khi Phêrô và các bạn bị thất bại, Chúa Giêsu có thể trách các ông: các anh đã hành nghề bao nhiêu năm trời rồi, thế sao đánh lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào hết vậy ? Nhưng Ngài đã không trách. Tại sao ? Vì Ngài thông cảm với các ông. Đã cố gắng hết mình rồi mà vẫn thất bại, điều đó làm các ông đau khổ lắm rồi. Không cần trách móc để các ông càng thêm đau khổ. Thất bại đã là một vết thương, không cần xát muối vào cho nó càng xót xa thêm.
Điều người ta cần khi bị thất bại là có ai đó vẫn tin mình, an ủi mình và khuyến khích mình vươn lên. “Thất bại không phải là mằm dưới, mà chỉ là đang đứng ở dưới mà thôi.” Vả lại, thành công là gì ? Thành công không phải là tất cả. Ta có thể thành công cãi thắng một cuộc tranh luận, nhưng rồi bị mất một người bạn. Ta có thể thành công trong cuộc tranh dành một địa vị cao hơn, nhưng sau đó, mối tương quan với đồng nghiệp trở thành lạnh nhạt hơn. Hương vị của ly rượu thành công có thể rất ngọt ngào ngây ngất ngay lúc đó, nhưng về sau hầu hết đều cạn dần và cuối cùng là trống rỗng.
Chúa Giêsu không trách Phêrô và các bạn, nhưng Ngài không cho các ông cứ ở đó mãi để gậm nhấm nỗi chua cay. Ngài khích lệ các ông làm lại: hãy chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới… Emerson nói rằng mỗi người chúng ta đều có một tiềm năng to lớn, giống như một căn phòng, một vòi nước chưa bao giờ được mở ra. Cần có ai đó chỉ cho ta biết tiềm năng đó và khuyến khích chúng ta mở ra: hãy chỗ ra chỗ nước sâu và thả lưới.
Chúa Giêsu biết Phêrô yếu đuối và tội lỗi, nhưng Ngài cũng biết ông có khả năng làm được những việc to lớn. Ngài không kích thích chổ yếu đuối tội lỗi của ông, nhưng khích thích đúng vào tiềm năng của ông. Nhờ được kích thích, các ông đã thả lưới và bắt được nhiều cá. Sau đó, các ông còn hăng hái bỏ mọi sự để theo Ngài thả lưới bắt người.
Con người thường thất bại. Nhưng con người cần có người tin tưởng và khuyến khích để lại vươn lên. Vì từ thành công đến thất bại chỉ là một bước. Nhưng từ thất bại đến thành công là cả một con đường dài.
Ban đêm là lúc thuận tiện để đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô: hãy chèo ra: TN 5-C8
Ban đêm là lúc thuận tiện để đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô: hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới…Có lẽ ông đã vặn lại: Bộ anh khùng hả ? Anh muốn cho tôi thành trò cười của thiên hạ sao ? Đả thả lưới suốt đêm mà không bắt được một con cá nào, thì làm sao mà bắt được nữa khi trời đã sáng.
Nhưng vì người nói câu đó lại là Chúa Giêsu, nên Phêrô đã không vặn lại như thế. Ông cũng trình bày quan điểm của mình: Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng liền sau đó, vì “vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”.
Đối với Phêrô, lời nói của Chúa Giêsu không như lời nói của người khác, vì nó có uy tín mà lời nói của bất cứ ai khác đều không có. Bởi thế, nếu Chúa Giêsu đã bảo, thì cho dù tình thế có vô vọng bao nhiêu đi nữa, cho dù ông đã mệt mỏi bao nhiêu đi nữa, và cho dù người ta có thể nhạo cười bao nhiêu đi nữa, Phêrô cũng vẫn vâng theo.
Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Tin vào lời Ngài, ông đã thử làm điều bất khả. Sau này chúng ta lại thấy ông tin vào lời Chúa Giêsu mà bước đi trên mặt biển.
Chúa Giêsu chẳng những bảo ông thả lưới bắt cá, mà còn bảo ông làm môn đệ, chia sẻ sứ mạng của Ngài. Phêrô có đức tính gì mà được Ngài mời gọi như vậy ? Đức tính thứ nhất và quan trọng nhất Chúa Giêsu thấy nơi Phêrô là tin vào lời Ngài. Còn đức tính thứ hai là khiêm tốn.
Câu chuyện Tin mừng hôm nay không chỉ là chuyện về đánh cá, mà còn là chuyện về lòng tin tưởng. Vì Phêrô tin tưởng vào lời Chúa Giêsu, nên Ngài chẳng những bảo ông thả lưới lại một lần nữa, mà còn kêu gọi ông lãnh nhận một sứ mạng quan trọng hơn, đó là “từ nay con sẽ là người thu phục người ta.
Mọi Kitô hữu chúng ta cũng đều được Chúa mời gọi như Phêrô. Và điều quan trọn nhất Ngài chờ đợi nơi chúng ta, đó là phải tuyệt đối tin tưởng vào Ngài.
Theodore Roosevelt đã từng nói, "Người đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc: TN 5-C9
Theodore Roosevelt đã từng nói, "Người đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến cho người khác con đường tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây sát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng."
Không biết trong đầu của Roosevelt đã có ai là thần tượng hay không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một ngư phủ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước Thiên Chúa: Thánh Phêrô, một con người thuộc giới lao động. Đây là một người ở "trong trận chiến, xây sát bằng nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm lỗi và luôn gặp những trắc trở, hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại." Hơn hết, đây là một người biết thế nào là "thất bại" và "chiến thắng."
Thánh Phêrô là một người đã từng ngã đi ngã lại. Ngài đã từng phải cảm nghiệm hết cái thất bại này đến thất bại nọ. Thí dụ, một lần Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ Ngài về câu hỏi người ta nói Chúa Giêsu là ai? Sau cùng, Ngài đã hỏi chính các môn đệ Ngài nghĩ Ngài là ai? Thánh Phêrô đã nhanh nhẩu đáp ngay, "Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống." Câu trả lời này của Thánh Phêrô đã làm cho Chúa Giêsu hài lòng về ông. "...Anh thật là có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16:15 & 17). Sau đó, Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để diễn tả sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Sứ mệnh đó chính là phải chịu đau khổ và chịu chết. Chính ngay sau khi nghe điều đó, Thánh Phêrô đã vấp ngã. Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng, "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Và Chúa Giêsu đã quay lại bảo ông, "Satan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16: 22-23).
Khoảng một thời gian sau đó, trên núi biến hình, Thiên Chúa đã ban cho Thánh Phêrô thêm một món quà đặc biệt nữa: đó là được nhìn thấy Maisen và 'lia đàm đạo với Chúa Giêsu. Câu truyện đó là để chứng thực về điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài về sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Lúc đó Thánh Phêrô đã phản ứng ra sao? Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng họ có thể ở trên núi và xây nhà dựng cửa.
Một thời gian sau lần đó nữa, Thánh Phêrô đang ở trên thuyền với các môn đệ khác. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên nước đến với họ. Chúa Giêsu đã kêu Thánh Phêrô đến với Ngài. Thánh Phêrô đã ra khỏi thuyền và khi ông rời mắt khỏi Chúa Giêsu thì một tí nữa là ông bị chết chìm.
Trong những giờ phút cuối cùng trước giờ tử nạn của Chúa Giêsu tại nhà Tiệc ly, chính là giây phút cực kỳ khó hiểu đối với Thánh Phêrô khi ông nhìn thấy Thầy mình rửa chân cho các môn đệ. Một việc làm của các đầy tớ. Không hiểu được ý nghĩa của việc làm đó, Thánh Phêrô đã lên tiếng, "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Tuy nhiên, khi ông hiểu được việc làm của Chúa Giêsu thì chính ông lại còn muốn Chúa Giêsu không những rửa chân của ông mà còn cả mình ông nữa (Gn 13:8-9).
Chúa Giêsu đã muốn Thánh Phêrô ở với Ngài trong vườn Ghétsimani với Ngài, thế nhưng ông đã ngủ.
Chúa Giêsu đã dạy dỗ về lòng tha thứ và không được dùng bạo động. Thế nên trong khi bị quân dữ bao vây, chính Thánh Phêrô đã cầm kiếm và vung văng để một tên lính phải bị chém đứt tai. Một lần nữa, Thánh Phêrô đã hành động như là ông chưa nắm được ý nghĩa đích thực của những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Sau cùng, cái giờ phút tệ bạc nhất đó là chính Thánh Phêrô đã mạnh dạn thề thốt cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì ông cũng sẽ không bỏ Chúa Giêsu. Thế nhưng, trong sân Philatô, ông đã sợ hãi mà chối Chúa đến ba lần, không phải với những người có chức quyền gì, mà là những đứa đầy tớ thấp hèn (Mt 26:35, 70, 72, 74).
Chúa Giêsu đã gọi Thánh Phêrô là đá. Tuy nhiên đó là một viên đá cứ rơi lên rớt xuống. Hết lần này đến lần khác, ngài đã phải cúi mặt xuống ăn năn. Đó là một con người đã phạm hết lỗi lầm này đến lỗi lầm khác, thế nhưng sau cùng đã trở nên Tông Đồ Cả., Trong cuộc bách hại bởi quân Rôma, Thánh Phêrô chính là người đã liên kết và gìn giữ Hội Thánh. Đó là thời gian mà Giáo Hội tiên khởi đã bị giết chết cả hàng ngàn người. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, chính Thánh Phêrô đã đứng ra và giảng dạy. Sau khi Chúa Giêsu không còn hiện hữu một cách thể lý nữa, nhưng những người tàn tật và mù lòa vẫn còn tiến đến, và chính Thánh Phêrô đã chữa cho họ được khỏi.
Tin mừng của Phúc Âm là ơn thánh vẫn hằng luôn ban xuống cho chúng ta. Ơn thánh của Chúa hằng luôn hiện hữu ở giữa chúng ta, ở đây, ngày hôm nay trong buổi tụ họp này. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là, "Làm sao chúng ta thể hiện công việc ấy ngay? Làm sao nó có thể trở thành một cái gì đó hơn là một ý tưởng suông?" Ở tại chỗ này, tài liệu Thánh Phêrô để lại có thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta có thể thấy được Thánh Phêrô đã làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa gần gũi là một tiến trình lớn lên của cuộc sống chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy trong Thánh Phêrô một tiến trình lớn lên kèm theo sự chỗi dậy của những lần ngã qụy; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại; Simon Phêrô có lòng nhiệt thành. Ông có lòng đạo đức cao siêu. Khi thánh nhân bị ngã, thì ngài luôn biết chỗi dậy.
Nếu bạn chỉ biết ngồi ở trong căn phòng của mình và đóng cửa lại, thì những tài năng của bạn sẽ bị chôn vùi và không được phát triển. Nếu vậy, thì bạn gìn giữ chính bạn để làm cái gì? Bây giờ chính là lúc chúng ta sống. Đây chính là lúc mà Thiên Chúa đang hiện diện bên bạn, và Ngài uốn nắn bạn để trở thành người môn đệ tốt đẹp. Chúng ta không cần phải lo ngại sẽ bị thất bại. Những người mà cố gắng để làm những việc có giá trị, và rồi bị thất bại thì chắc chắn được hưởng niềm vui lớn lao hơn là những người không cố gắng để làm bất cứ chuyện gì cả.
Cũng như Thánh Phêrô, chúng ta phải có một tiến trình lớn lên kèm theo sự đứng lên sau những lần ngã quỵ; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại.
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng. Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập: TN 5-C10
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.
Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần phải chăm nom.
Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.
Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi. Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người."
Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Nghe theo tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả không ngờ: có khi nào trong đời, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của Simon không?
Theo ý bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là khó bỏ hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp. Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào: TN 5-C11
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp. Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay. Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này lại lọt vào cặp mắt của Đức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông. Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng và thấy một số phép lạ Ngài làm. Đôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường, nên Đức Giêsu rất tự nhiên xuống thuyền của Simon, và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu. Đây thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá thì đánh cá ban ngày cũng uổng công. Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất vả. Lưới đã được giặt và đem phơi...
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác, kinh nghiệm về sức mạnh của Lời Đức Giêsu. Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa cho mẹ vợ ông. Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Điều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp. Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn. Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho ông. Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa. Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Đấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông, thì Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng. Ngài mở đời ông sang một trang mới:
"Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta." Không phải bắt để làm chết như bắt cá, nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Đức Giêsu: kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin, kinh nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ, kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Đức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại. Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ. Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác. Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có nhiều người đi lễ, nhưng ít người nghe được tiếng mời gọi cộng tác của Đức Giêsu. Bạn có thấy vai trò quan trọng của giáo dân trong Hội Thánh không? Họ có thể làm gì và phải làm gì?
Cuộc đời Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả mà không được gì. Bạn đã làm gì để giữ vững niềm tin trong giai đoạn ấy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Sử dụng từ "lời Thiên Chúa" ở đầu đoạn Tin Mừng cho thấy là việc Đức Giêsu gọi những người: TN 5-C12
Sử dụng từ "lời Thiên Chúa" ở đầu đoạn Tin Mừng cho thấy là việc Đức Giêsu gọi những người đánh cá và việc họ đáp lại lời gọi đều là những cơ hội để việc rao giảng Tin Mừng được hữu hiệu.
Giữa hai chiếc thuyền đánh cá, Đức Giê-su chọn chiếc thuyền của ông Phê-rô. Việc đó ám chỉ ông sẽ lãnh đạo Hội Thánh sau này. Tuy nhiên các bạn của ông sẽ luôn luôn ở đằng sau ông để sẵn sàng hỗ trợ ông.
Chiếc thuyền của ông Phêrô được coi như biểu tượng của Giáo Hội. Đức Giêsu xuống thuyền để giảng dạy dân chúng và từ chiếc thuyền của Phêrô, tức là Giáo Hội, Ngài vẫn còn đang tiếp tục giảng dạy cho toàn thể nhân loại.
Trả lời Đức Giê-su, ông Si-mon đã chí lý nói lên những khó khăn khi không bắt được con cá nào. Đúng vậy, ban đêm là thơì gian tốt nhất để thả lưới mà còn chẳng bắt được con cá nào, thì ban ngày dù có tiếp tục cũng vô ích mà thôi.
Mẻ cá lớn bắt được là hình ảnh rất nhiều dân tộc được nghe rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
Đổi cách xưng hô từ "Thưa Thầy" thành ra "Lạy Chúa" ông Phêrô đã nhận ra Đức Giêsu không phải chỉ là một rabbi thông thường.
"Từ nay" là một thành ngữ thánh Lu-ca sử dụng để nói về sự khởi đầu của thời đại cứu rỗi.
Một Điểm Chính
Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy cùng với Người đem sứ điệp cứu rỗi đến cho toàn thể nhân loại. Hành trang duy nhất chúng ta cần có khi đáp lại lời gọi của Người, đó là hãy đặt niềm tin vào Người.
Suy Niệm
Chúng ta sẽ đáp lại thế nào khi Chúa Giê-su đến chiếc thuyền của chúng ta và bảo chúng ta hãy thả lưới bắt cá?
Chúng ta có sẵn sàng bỏ lại mọi sự như các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an để thi hành những gì Chúa mời gọi chúng ta không?
Chúa Giê-su muốn hiểu như thế nào khi Người nói với ông Phê-rô "Đừng sợ"? Tại sao Người nói như thế? Chúng ta sợ điều gì?
Cả hai cột trụ của Giáo Hội, Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đều được Chúa gọi, tuy dưới hình: TN 5-C13
Cả hai cột trụ của Giáo Hội, Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đều được Chúa gọi, tuy dưới hình thức khác nhau nhưng cùng đều bằng phép lạ. Hôm nay Chúa kêu gọi các môn đệ đầu tiên, Ngài làm phép lạ cho các ông thấy -lúc này Chúa đang tại thế-, nên khi Ngài kêu gọi, các Ông đã vội vã theo Ngài. Còn khi kêu gọi Thánh Phaolô -lúc bấy giờ Chúa đã về trời-, tuy Ngài quật Saolô (tên thật của Thánh Phaolô) té khỏi ngựa, rồi làm cho Saolô mù mắt, sau đó Ngài sai một môn đệ của mình tên là Nakhania, đến gặp, và chữa cho Saolô sáng mắt ”…Ông đứng dậy và chịu phép rửa…”.
Giá của một linh hồn rất cao, nó đòi hỏi cá nhân đó phải thay đổi gần như là hoàn toàn não trạng hiện có của họ, rồi chính bản thân người đó sẽ gặp biết bao nhiêu phiền não, chống đối, từ thân nhân, họ hàng v.v… khi họ muốn thay đổi tín ngưỡng. Trong lúc Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu độ, không trừ một ai. Muốn được như vậy, chỉ có phép lạ mới giải quyết được. Vậy ai, và bằng cách nào để kêu gọi người khác tin theo Chúa, để họ được lãnh nhận đức tin, phù hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Thần học định nghĩa rằng phép lạ phải hội đủ ba yếu tố: con người, vật chất, và Thần Linh. Vậy khi muốn phép lạ xảy ra chúng ta đã có yếu tố thứ nhất: chính đương sự là yếu tố đó. Hai yếu tố còn lại thì sao ? Nữ Tiến sĩ Hội Thánh, Têrêsa Avilla với ý tưởng tuyệt vời khi dạy rằng Chúa không có tay, chân, miệng, lưỡi nào khác ngoài chính tay, chân, miệng, lưỡi của từng người tín hữu chúng ta. Nói cách khác Thiên Chúa cần chúng ta hợp tác để Ngài có thể kêu gọi những người chưa biết Chúa. Ngài muốn yếu tố Thần Linh được chúng ta lãnh nhận để thi hành sứ mạng vô cùng cam go này.
Theo tôi hiểu, không biết có được bao nhiêu người, tự nhiên đến gặp Cha Xứ rồi nói rằng “Thưa Cha con thấy người Công Giáo sống tốt lành quá nên con xin theo đạo, cho con được rửa tội”. Thông thường người ta tự trở lại đạo hoặc do họ xin được những ơn đặc biệt, họ thề khấn, hoặc do hôn phối. Ngoài ra là do công lao của các nhà truyền giáo (nói chung), đáng kể nhất là do chính các đoàn thể, và các giáo dân (riêng lẻ) nhiệt thành. Phải chăng đây là câu trả lời cho thói quen chúng ta khi nghĩ rằng mình cứ sống, giữ đạo đàng hoàng là đang làm công việc truyền giáo ! Muốn kêu gọi người khác, hôm nay Chúa phải làm ba động tác: 1/ Lên tận thuyền gặp các người đánh cá; 2/ Làm phép lạ cho họ thậy; 3/ Kêu gọi.
Muốn giới thiệu Thiên Chúa với người khác, trước hết chúng ta phải ra đi, phải tiếp cận với họ. Nhưng muốn làm điều được này -tôi gọi đây là phép lạ-, chúng ta phải có ơn Chúa, mới dám can đảm lên đường. Tiếp đến là phần khó khăn nhất: làm phép lạ. Chỉ khi nào nhận thức được rằng Chúa đang làm phép lạ trong ta, bấy giờ mình mới có thể làm phép lạ cho người khác được: đó là hy sinh thời gian và vật chất. Muốn cày xới, chuẩn bị cho một mảnh vườn tâm hồn nào đó được sẵn sàng, để Thiên Chúa có thể gieo xuống hạt giống đức tin, là một điều cực kỳ khó khăn, nó đòi hỏi nhiều yếu tố, cũng như sẽ gặp vô vàn thách đố.
Tóm lại, Chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa chỉ có thể thành công khi mỗi người Kitô hữu đều cộng tác tích cực với Ngài, như xưa Chúa phải sai Nakhania đến để chữa lành và rửa tội cho Saolô, ngày nay Chúa cũng sẽ cùng một phương cách như thế. Thiên Chúa chỉ có thể sử dụng tay, chân, miệng lưỡi của từng người chúng ta. Để giới thiệu Ngài với người khác, đòi hỏi một quá trình hy sinh, cố gắng miệt mài, nhiều khi rất lâu dài. Ước chi mỗi tín hữu đều nhận ra rằng cuộc đời mỗi người là những chuỗi phép lạ chồng chéo lên nhau, từ đó nhận thức mình có bổn phận đem phép lạ đó đến cho những anh em chưa may mắn biết Chúa. Thật hết sức công bằng khi điều chúng ta nhận lãnh nhưng không, chúng ta phải trao lại điều đó một cách nhưng không cho anh em mình. Thiên Chúa đang chờ để tuôn đổ phép lạ của Ngài trong chúng ta, nếu như bạn và tôi sẵn lòng ra đi, đem phép lạ đó đến cho những người chưa biết Ngài. Một lợi thế mang tính quyết định -theo kinh nghiệm bản thân-, một hành trang bắt buộc phải có, đó là Đức Trinh Nữ Maria, và tràng chuỗi Mân Côi bách chiến, bách thắng.
Trên bờ hồ Ghennêxarét, thánh sử Luca ghi lại một bức tranh thật sinh động. Một đám người rất: TN 5-C14
Trên bờ hồ Ghennêxarét, thánh sử Luca ghi lại một bức tranh thật sinh động. Một đám người rất đông chen lấn để có thể đến gần Chúa Giêsu hầu nghe lời Người giảng dạy. Đây phải chăng là chủ ý của Luca cho chúng ta thấy, động lực khiến Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác với Người trong sứ vụ rao giảng Tin mừng xuất phát từ việc nhận thấy một đoàn người đông đảo ham muốn lắng nghe Lời Chúa, một đoàn lũ khao khát tiếng nói của Thiên Chúa? Và phải chăng khi Chúa dùng mẻ cá lạ lùng, Luca còn cho chúng ta thấy vai trò thuyền trưởng của Phêrô khi ông được Chúa giao phó lèo lái con thuyền Giáo hội mà hôm nay, Chúa dùng chính con thuyền đánh cá của ông, ngồi vào chính chỗ của ông để dạy dỗ dân chúng? Chúng ta cùng tìm hiểu.
Trên hành trình rao giảng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu hầu như có mặt khắp nơi từ Nam chí Bắc của đất nước Paléttin. Ngày hôm nay, nơi Người dừng chân để rao giảng là bờ hồ Ghennêxarét và chính nơi đây, Người kêu gọi các môn đệ đầu tiên mà đặc biệt là vai trò của thánh Phêrô. Chúng ta có thể thấy, đây chính là địa điểm lý tưởng để Chúa Giêsu thi hành sứ vụ. Thật vậy, với những gì mà Luca miêu tả, chúng ta dễ hình dung đây là một bến thuyền mà mỗi khi thuyền cập bến, không ít những con người đến đây để trao đổi buôn bán. Sau một đêm miệt mài với công việc, Phêrô cùng các bạn chài giờ đây đang giặt lưới, khâu lại những chỗ lưới bị thủng để chuẩn bị cho chuyến ra khơi vào ngày hôm sau. Ông đâu có biết rằng hôm nay ông sẽ dũ bỏ tất cả để theo Chúa trước mẻ cá lạ lùng Chúa thực hiện cho ông và các bạn chài quê ông.
Chỉ một câu ngắn gọn, thánh Luca cho chúng ta thấy trước hình ảnh thật sống động của cơ cấu giáo hội mà Chúa Giêsu sẽ lập sau này. Thật vậy, nếu chiếc thuyền mà ngày hôm nay Chúa ngồi trên đó để giảng dạy tượng trưng cho con thuyền giáo hội, thì Chúa Giêsu chính là chủ của con thuyền và người lèo lái con thuyền không ai khác chính là người ngư phủ dày dạn kinh nghiệm Simon Phêrô.
Lời giảng dạy của Chúa Giêsu cùng với những gì người chỉ dạy đã khiến cho Phêrô - một ngư phủ nhiều kinh nghiệm- hoàn toàn phó thác, tin tưởng nơi Người. Nếu ở trong nghề, chúng ta mới thấy lòng can đảm của Phêrô khi nghe theo lời của một người mà ông biết chẳng biết tý gì về nghề biển là Chúa Giêsu- một dân quê đồi núi. Khi Chúa Giêsu đề nghị ông chèo ra chỗ sâu thả lưới, ông trả lời Chúa: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Thưa thánh Phêrô, ngài hoàn toàn xứng đáng lãnh nhận vai trò “đầu tầu” trước câu trả lời chất phác và hoàn toàn tin tưởng phó thác cho “ông chủ thuyền” là Chúa Giêsu.
Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô cũng giống như bao vị ngôn sứ khác như ngôn sứ Isaia hay thánh Phaolô sau này đều sợ hãi trước quyền năng của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu ngày xưa ngôn sứ Isaia vì trông thấy Giavê Thiên Chúa ngự trên cao, đã sợ hãi thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất. Vì tôi là người môi miệng ô uế mà mắt lại xem thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh” (Is 6,5); thánh Phaolô sau nàytự nhận mình là kẻ hèn mọn nhất trong số các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ vì đã bách hâi đạo thánh Chúa thì Phêrô ngày hôm nay cũng sợ hãi và thốt lên vội vã: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
Không cứ gì Ngôn sứ Isaia, không cứ gì Phêrô hay Phaolô, mà hết thảy nhân loại đều bất xứng khi đứng trước quyền năng và lời mời gọi của Thiên Chúa. Và, cũng chính vì nhận thấy sự bất toàn yếu đuối nơi mình mà Isaia, Phêrô và Phaolô mới nhận ra điều mà thánh Phaolô sau này thú nhận, ngài có làm gì thì cũng là do ơn Thiên Chúa mà thôi để rồi trong suốt cuộc đời, các ngài hăng hái ra đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa, lấy mạnh sống mình để làm chứng cho tình yêu và lòng trung thành với ơn Thiên Chúa kêu mời.
Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, Chúa Giêsu cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta “ra khơi” để rao giảng tình yêu của Thiên Chúa cho hết mọi người. Hãy quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi và mau mắn ra đi rao giảng, làm chứng cho nước Chúa. Hãy tin tưởng phó thác tất cả trong tay Chúa. bởi vì tất cả đều do Thiên Chúa ân ban, chúng ta chỉ là công cụ nhỏ bé mà Chúa dùng để đem về cho Chúa những mẻ cá ngập thuyền, một mùa lúa bội thu. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta có dám từ bỏ mọi sự, có dám “cá cược” với Chúa như Phêrô xưa: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”?
Phụng vụ lời Chúa hôm nay bàn về việc Chúa kêu gọi loài người và việc loài người đáp trả. Bài: TN 5-C15
Phụng vụ lời Chúa hôm nay bàn về việc Chúa kêu gọi loài người và việc loài người đáp trả. Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a ghi lại việc Chúa gọi ông làm ngôn sứ. Bài trích thư thánh Phao-lo gửi tín hữu Co-rin-tô bàn đến việc Chúa gọi Phao-ô trở lại. Còn bài Phúc âm nói về việc Chúa gọi Phê-rô làm tông đồ. Mặc dầu cả ba vị: I-sai-a, Phao-lô và Phê-rô nhận được ơn Chúa gọi để thi hành những sứ vụ khác nhau, họ đều trải qua những kinh nghiệm thiêng liêng giống nhau, làm họ thức tỉnh.
Trước hết họ ý thức về sự hiện hiện thánh của Chúa. Thứ hai họ ý thức về tội lỗi và cái bản chất bất xứng của họ để làm việc Chúa trao phó. Vì thế mà ngôn sứ I-sai-a mới thốt lên: Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh (Is 4:5). Còn Phao-lô khi được Chúa gọi thì bào chữa: Tôi không xứng đáng được liệt kê vào số các tông đồ, vì đã ngược đãi đạo thánh của Chúa (1Cr 15:9). Đến lượt thánh Phê-rô, thả lưới suốt đêm mà không bắt được gì. Khi nhìn thấy mẻ lưới đầy cá do kết quả của quyền năng Chúa, cảm thấy mình bất xứng liền thốt lên: Lạy Chúa xin xa tránh con, vì con là kẻ tội lỗi (Lc 5:8). Tuy nhiên cả ba vị đều chấp nhận lời Chúa kêu gọi, vì xác tín rằng mình đã được tha thứ. Họ đặt tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa và xác tín vào quyền năng biến đổi của Chúa.
Sau khi miệng lưỡi được thanh tẩy, I-sai-a sẵn sàng lãnh nhận sứ mệnh: Lạy Chúa, vâng con đây, xin sai con đi (Is 6:8). Thánh Phao-lô xác nhận ơn Chúa ở với mình khi viết: Nay tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không ra vô hiệu (1Cr 15:10). Còn thánh Phê-rô thì bỏ hết mọi sự mà theo Chúa (Lc 5:11). Cái mẻ lưới đầy cá do quyền năng Chúa vẫn còn có công hiệu cho tới ngày nay tại bờ hồ Ti-bê-ri-a nếu xét về phương diện làm ăn buôn bán. Một tiệm ăn bên bờ hồ Ti-bê-ri-a có một món cá gọi là cá thánh Phê-rô. Họ rán món cá tươi thơm ngon bắt được tại biển hồ nước ngọt Ti-bê-ri-a. Nếu ai có dịp đi du lịch thăm Đất thánh, mà tới bờ hồ phải tìm ăn món cá này cho bằng được để mà ghi nhớ kỷ niệm.
Việc Chúa gọi không làm thay đổi cá tính của I-sai-a, của Phao-lô và Phê-rô. Chẳng hạn Phê-rô vẫn còn theo đường lối loài người. Khi Chúa bảo: Người sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết. Phê-rô liền can ngăn Chúa. Phê-rô vẫn còn cậy sức mình. Khi Chúa bảo đêm nay một trong các ông sẽ chối Thày mình. Phê-rô liền quả quyết là không bao giờ chối Chúa. Phê-rô cũng còn nóng tính đến độ khi quân dữ xông đến toan bắt Chúa, ông liền rút gươm chém đức tai một viên đày tớ. Tuy nhiên bây giờ họ hiểu được Chúa có thể dùng những người yếu đuối và tội lỗi để hoàn thành chương trình cứu độ của Người. Điều gì còn thiếu xót nơi họ, Chúa sẽ bổ túc và bù đắp.
Một số người Ki-tô giáo khi ý thức về tội lỗi mình thì tự ý miễn trừ cho mình những việc hoạt động tông đồ hay những việc phục vụ dân Chúa. Họ nghĩ rằng Chúa không gọi họ làm việc tông đồ. Họ cho rằng việc tông đồ là thuộc phạm vi linh mục và tu sĩ nam nữ. Đọc lịch sử Giáo hội, ta thấy khi Chúa muốn để lại một cái ấn tượng sâu xa về quyền năng của Ngưòi, Chúa không ngần ngại dùng những phương thế khác thường, nghĩa là dùng quyền năng Chúa biến đổi họ tức thời, như Chúa đã biến đổi Phao-lô, người bách hại đạo Chúa trở thành người hăng say rao giảng tin mừng Phúc âm, Ma-đa-lê-na một người gái điếm thành thánh, Au-gus-ti-nô một thanh niên truỵ lạc trác táng thành thánh giám mục. Vì thế mà có những người ghen với ba vị thánh này vì họ được cả hai: đời này và đời sau.
Trên đây là những tấm gương đáp trả quyết liệt lời Chúa mời gọi cách rõ rệt. Còn đối với đa số quần chúng, đức tin của ta được phát triển một cách từ từ tiệm tiến, khiến ta khó nhận ra sự khác biệt. Nói cách khác, lời Chúa mời gọi đến với ta không qua một khúc quanh rõ rệt chín mươi độ như Phao-lô, Ma-đa-lê-na hoặc Au-gus-ti-nô. Chúa đi vào đời ta một cách âm thầm lặng lẽ và ta chấp nhận và tiếp tục nhận ra đường lối Chúa mỗi ngày một chút. Việc đáp trả tiếng Chúa mời gọi tuỳ thuộc vào việc mỗi người cộng tác với ơn Chúa. Bản tính loài người là yếu đuối mỏng giòn, nhưng khi Chúa gọi ta làm việc nọ chuyện kia, Người sẽ ban đủ ơn để ta thi hành sứ vụ.
Truyện kể về một đưá bé đi học giáo lý thấy cô giáo dậy về Chúa Giêsu quyền năng có thể lấy: TN 5-C16
Truyện kể về một đưá bé đi học giáo lý thấy cô giáo dậy về Chúa Giêsu quyền năng có thể lấy ba ngón tay nâng nổi cả và trời đất. Với đầu óc khoa học thời mới, nó nghĩ trong bụng: làm sao như vậy được, vì không thể đứng trong trời đất mà nâng trời đất lên được. Thế là nó bèn về hỏi bố:
- Bố ơi, vậy Chúa Giêsu đứng ở chỗ nào mà nâng nổi cả và trời đất?
Ông bố bí quá không biết trả lời sao liền át họng con:
"Thì đứng ở đầu bố mày chứ còn ở đâu nữa".
THẦN RUỒI BÃI RÁC HÔI THỐI
Câu trả lời trong lúc ông bố bí để át họng con thực ra lại rất đúng. Chúa đứng ở đầu mình chứ còn ở chỗ nào bây giờ. Nghĩa là thấy Chúa đứng ở trong óc trong tim mình, do con mắt nhìn. Đó là con mắt của niềm tin. Có niềm tin thì thấy được Chúa toàn năng và hằng hữu. Nhưng quả là nhiều người tin đạo không dễ dàng thấy được như vậy, mà chỉ thấy Chúa chẳng ăn thua gì, chẳng ăn nhập gì tới đời sống, và lời Chúa xem ra chỉ là đồ giổm!
Người Do Thái khi thấy Chúa xuất hiện làm một số phép lạ thì họ cũng coi thường thôi, cho là thứ giổm, bảo là Chúa lấy quyền của quỉ Ben-giê-bút mà trừ quỉ. Mà Ben-giê-bút là một loại thần giổm, vì chỉ là thần ruồi nhặng ở bãi rác hôi thối bẩn thỉu, nào có gì đáng kể.
Quả thực, khi gặp quá nhiều đau khổ, sự dữ xem ra có mãnh lực tuyệt đối lấn lướt chế ngự mọi sự, con người đâm ra hồ nghi và coi thường Chúa. Giữa những công việc nhàm chán hằng ngày, Chúa như bị tan biến mất hút, không còn một chút uy lực nào cả. Con mắt của cuộc sống nhiều lúc bị bưng lại không còn có sức nhìn lên để thấy mở tới một chân trời nào hơn nữa. Thay vì con mắt mở rộng như Nguyễn Khánh Hòa trong lời thơ:
Con mắt nhìn lên trời cao xanh ngắt
Con mắt nhìn xuống biển rộng bao la
Con mắt nhìn gần quên điều nhỏ nhặt
Con mắt nhìn xa chợt thấy quê nhà.
thì lại chỉ thấy:
Con mắt nhìn lên khói đen mù mịt
Con mắt nhìn xuống khỉ vượn lên ngôi.
Con mắt nhìn gần bầy nhầy túi thịt,
Con mắt nhìn xa bỗng lạnh cả người.
PHÉP LẠ CỦA CON MẮT NHÌN
Trong năm phụng vụ có nhiều mùa khác nhau, mà mùa nào xem ra cũng có nhiều sinh hoạt: nào là mùa Vọng, Mùa Giáng sinh, Mùa Chay, Mùa Phục Sinh, thành thử ra người theo đạo cứ bận suốt. Đúng là ăn cơm nhà Chúa múa tối ngày. Nhưng có một mùa khá dài mà bị gọi là Mùa Thường Niên, nên xem ra cũng thường thường vậy thôi. Thực ra phải gọi là Mùa Chúa Thánh Thần Hiện Xuống mới đúng, vì là những Chúa Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần. Đây là mùa thể hiện Linh Thao đúng nghĩa nhất: gặp gỡ Chúa qua mọi sự, mọi người, mọi chuyện, qua những tầm thường hằng ngày, qua bổn phận không tên. Là Mùa Chúa hiện ra, trong nhà mình, nơi mình làm việc. Là mùa thấy được phép lạ. Vì Chúa đã nói rõ: Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Mọi ngày chứ không phải chỉ những dịp lễ đặc biệt.
Thánh Lê Thị Thành là vị thánh nữ duy nhất của Việt Nam đã thể hiện được con mắt niềm tin thấy Chúa hiện ra qua những gì xem ra tầm thường hằng ngày. Đây là một đoạn từ sách Đường Nở Hoa Lê Thị Thành, trang 71:
"Năm 19 tuổi, cô Lê Thị Thành đã lập gia đình với anh Nguyễn văn Nhất thuộc xã Thôn Đồng xứ Phúc Nhạc, và sinh con đầu lòng đặt tên là Đê. Vì thế Bà được gọi là Bà Đê theo tục lệ của xứ Phúc Nhạc lấy tên con trưởng mà gọi tên cha mẹ.
Gia đình sinh sống bằng nghề làm ruộng, dệt chiếu và nuôi tằm kéo tơ như đa số dân trong làng và vùng đất Kim Sơn Phát Diệm. Với nếp sống cần cù và gương mẫu, ông bà được cả làng thương mến, vì chẳng bao giờ thấy hai ông bà cãi nhau hay gây chuyện với người khác, chỉ biết nhịn nhục và thương người.
Nhìn qua cảnh gia đình bà Lê Thị Thành thì nhiều người sẽ nghĩ rằng có gì đặc biệt đâu, gia đình nào mà chả thế. Cũng những vất vả làm ăn, những khó khăn phải vượt qua, những bổn phận phải chu toàn. Nhưng có điều khác chứ: mình có quyền biến nhà mình thành hỏa ngục hay thiên đàng.
Thánh Lê Thị Thành đã làm biết bao phép lạ, không thể kể hết được. Phép lạ hằng ngày. Cứ tưởng tượng coi: bỗng chốc nhà mình trở thành vườn địa đàng, hoa nở từ trong ra ngoài, tràn lan mọi ngóc ngách. Vậy không phải là một phép lạ lớn lao sao?
Mà đường nở hoa đơn giản lắm: tin Chúa đang có mặt trong nhà mình, thế thôi. Và chỉ cho chồng con cũng thấy như vậy. Với con mắt đức tin này mẹ Lê Thị Thành đã biến gia đình thành một thiên đàng hạnh phúc. Đó là ơn gọi của bậc sống gia đình. Sống bí tích hôn nhân có nghĩa là như vậy. Vì nơi nào có Chúa thì nơi đó chính là Thiên Đàng rồi chứ có cần phải tìm mãi đâu xa.
Và Mẹ Lê Thị Thành đã làm phép lạ biến những bổn phận tầm thường hằng ngày thành phi thường theo mẫu sống của Mẹ Maria tại Na-gia-rét. Chính Chúa toàn năng biến đổi mọi sự và chuyển dòng nhựa sống làm cho cây gia đình xanh tươi trổ sinh hoa trái."
Quả là Thánh Lê Thị Thành đã làm quá nhiều phép lạ, còn phải tìm chứng liệu ở đâu nữa! Đây là một vài phép lạ điển hình:
TIN VUI HOA NỞ TRONG NHÀ
Thánh Lê Thị Thành đã làm hoa hồng nở rộ, và rắc hoa hồng xuống cho đàn con của mẹ bây giờ. Mọi nẻo đường đều nở hoa. Từng bước chân đi là từng bước nở hoa.
Hoa nở trong bếp với bàn tay lam lũ thức khua dậy sớm lo cho chồng con từng miếng cơm, từng ngụm nước, từng manh áo.
Hoa nở lúc cho con bú mớm, mẹ không những chuyển cho con dòng sữa tươi ngọt bùi của mẹ, mà còn cho con hơi thở tình yêu, qua lời ru ca dao êm mát, dòng sinh mệnh dân tộc vẫn chuyển qua bao thế hệ với đầy vinh nhục, để con biết yêu quê hương, biết mình có cội có nguồn, có tổ có tiên.
Hoa nở trong nhà với lam lũ nuôi tằm, dệt chiếu, đan hoa đan chữ, đan dệt cuộc đời.
Hoa nở ngoài ruộng với mồ hôi nhễ nhãi "chồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa" mà còn trông nhiều bề.
Hoa nở ngoài đường với những chén cơm cho người nghèo đói và dấn thân hết mình cho xứ đạo, liều lĩnh hỗ trợ các linh mục tu sĩ trong thời bị cấm cách.
Hoa nở trong buổi kinh đêm, lúc cảm nghiệm được chữ tình từ nguồn sinh lực làm nở hoa.
Tất cả đều có thể nở hoa, vì Thánh Lê Thị Thành biết nhìn và thấy được Chúa Tình Yêu đang có mặt, đang là sinh lực bật lên hoa lá. Những nụ hoa góp lại thành cảm nghiệm tròn dâng và niềm vui xốn xang rộn rã trong tim, như tâm tình của Tagore trong Lời Dâng:
"Chẳng rõ từ thuở nào xa xôi, khi gặp mặt, Người lại đến gần như thế. Mặt trời, sao đêm chẳng thể che kín hình Người nên tôi vẫn thấy chân dung. Biết bao buổi sáng, biết bao buổi chiều, tôi nghe tiếng chân đi lại. Thiên sứ Người sai ra đi lẻn vào tim tôi, rồi bí mật gọi tên. Không hiểu hôm nay vì sao đời lại xốn xang, rộn rã. Nguồn vui lâng lâng nhẹ lướt qua tim. Dường như đã đến lúc dừng tay nghỉ việc. Trong không gian phảng phất hương vị mơ hồ lan tỏa từ hình bóng Người ngào ngạt"
Tin Mừng theo thánh Máccô đặt câu chuyện Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên vào ngay buổi: TN 5-C17
Tin Mừng theo thánh Máccô đặt câu chuyện Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên vào ngay buổi đầu sứ vụ của Ngài: Ngài đã gọi bốn anh em Phêrô, Anrê, Gioan và Giacôbê (Mc1,16-20) trước khi Ngài trừ quỉ và chữa bệnh ở Capharnaum (1,21-34). Còn trong Tin Mừng thứ ba, thánh Luca lại muốn đặt việc Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên vào sau một loạt những phép lạ (Lc 4,31-41).
Theo thánh Luca, Đức Giêsu đã hoạt động một mình trong thời gian đầu tiên (Lc 4,14-44). Ngài đã giảng dạy ở Nadarét, ở Capharnaum. Người ta "thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài." (Lc 4,22). Người ta "kinh ngạc về giáo huấn của Ngài, bởi vì lời Ngài là lời có uy quyền." (Lc 4,32). Ngài đã quát bảo quỉ ô uế và bắt nó xuất ra (4,35). Ngài cũng đã quát bảo cơn sốt và nó đã lui khỏi bà mẹ vợ của ông Simon (4, 39). Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh nhân khác bằng cách đặt tay (4,40). Thời gian hoạt động đầu tiên của Ngài còn là thời gian dành cho cô tịch và cầu nguyện (4,42). Đức Giêsu ý thức về nhiệm vụ của mình: "Tôi còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì Tôi được sai đi cốt để làm việc đó." (4,43). Đức Giêsu không dừng lại ở một nơi nào, Ngài muốn đi khắp nơi trong nước Palestine, và Ngài biết mình cần có những người cộng sự trước cánh đồng mênh mông đó.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cảnh đám đông chen chúc bên Đức Giêsu để nghe Lời Thiên Chúa. Ngài đứng bên bờ hồ. Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ, các ngư phủ đang giặt lưới sau một vụ ra khơi đánh cá. Để dễ giảng cho đám đông, Ngài lên một chiếc thuyền, chiếc của ông Simon. Ngài yêu cầu ông cho thuyền ra xa bờ một chút, rồi từ đó Ngài giảng dạy đám đông. Chúng ta thấy rõ Đức Giêsu đã quen biết ông Simon. Cách Ngài gặp ông trong đoạn Tin Mừng này thật tự nhiên. Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông, chắc Simon đã có lần được nghe Đức Giêsu giảng và thấy một vài phép lạ Ngài làm. Ông có thiện cảm đối với Ngài, và ngược lại Ngài cũng "để ý" đến ông, dù Ngài biết ông đã có gia đình. Chúa gọi những người Chúa đã quen biết qua mối liên hệ trong đời thường. Chính qua những cuộc gặp gỡ trên bước đường rao giảng mà Chúa tìm thấy những cộng sự viên do Cha sai đến. Ơn gọi bắt đầu bằng sự quen biết, bằng tương giao giữa Chúa và tôi, giữa tôi và Chúa.
Chúa Thử Ông Simon
Sau khi giảng xong, Đức Giêsu bảo ông Simon chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simon có thể đưa ra nhiều lý do xác đáng để từ chối lời yêu cầu của Đức Giêsu, "Thưa Thày, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì" chắc phải chờ hôm khác. Có những ngày chẳng thấy bóng một con cá nào. Kinh nghiệm của dân chài chúng tôi cho thấy có thả lưới nữa cũng vô ích. Vả lại, bây giờ, chúng tôi đã mệt nhoài sau một đêm vất vả. Lưới đã được giặt và đem phơi Simon có thể nghỉ như vậy và từ chối lời gợi ý của Đức Giêsu. Thậm chí, ông còn có thể nghĩ rằng Thày Giêsu đã đi quá phạm vi của mình. Chuyện bắt cá ở chỗ nước sâu không thuộc về nội dung của bài giảng, cũng không phải là nghề chuyên môn của Thày Giêsu, vốn làm nghề mộc. Có cần phải vâng lời không?
Simon đã vâng lời. Ông đã tin vào lời mời của Đức Giêsu: "Nhưng dựa vào lời Thày, tôi sẽ thả lưới." Ông thả lưới chỉ vì ông tin vào lời của Thày. Chắc ông đã có một kinh nghiệm nào đó về sức mạnh của lời này: lời giảng đầy uy quyền (4,32), lời đuổi quỷ (4,35), lời có uy quyền và uy lực (4,36), lời chữa bệnh (4,39). Thế nên, giờ đây, Simon sẵn sàng làm một điều, tuy không phải là phi lý, nhưng lại vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm nghề nghiệp, vượt trên cả sự mệt mỏi của thân xác.
Tin vào Lời Chúa đòi hỏi một sự từ bỏ cái lý luận rất vững chắc xét theo kiểu người đời, để sống cái mong manh của Thiên Chúa trong một niềm tin không lay chuyển. Tin vào Lời Chúa đòi ra khơi buông lưới một lần nữa, lúc đã mệt nhoài. Ơn gọi của Simon được lớn lên nhờ đón nhận và vượt qua những thử thách của niềm tin.
Chúa Tỏ Mình Cho Ông Simon
Mẻ cá lạ là phương tiện để Đức Giêsu tỏ mình, là sự đáp trả của Ngài trước niềm tin của ông Simon. Nhiều cá đến nỗi hầu như lưới bị rách (c.6), hai thuyền đầy cá gần chìm (c.7). Simon và những người trong thuyền của ông đã phải cầu cứu sự trợ giúp từ thuyền của Gioan và Giacôbê (c.10).
Điều mà tôi đã vất vả tìm kiếm thì không được gì. Bây giờ tôi không phải vất vả tìm kiếm mà lại được dư dật. Dư dật tràn trề là dấu hiệu cho thấy bàn tay quảng đại của Thiên Chúa: rượu đầy 6 chum lớn ở Cana, bánh hoá nhiều còn dư để nuôi dân chúng.
Trước mẻ cá lạ lùng, bất ngờ, vượt quá điều trí khôn có thể nghĩ, Simon thấy ngay mình đang sống trong một bầu khí linh thánh. Ông chợt nhận ra Đức Giêsu trong một ánh sáng rạng ngời, và với ánh sáng đó, ông cũng chợt nhận ra bản thân. "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi." Xin tránh xa con vì con biết Ngài là ai: Ngài là Đấng có quyền năng của Thiên Chúa. Xin tránh xa con vì con biết con là ai: một tội nhân trước Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Trong đời tôi, Chúa cũng có lần cho tôi một kinh nghiệm chói loà, khiến tôi kinh ngạc, ngây ngất. Ngài cho tôi gặp Ngài và gặp bản thân, sau một lần tôi vượt qua chính mình, gạt bỏ những dụ phóng riêng tư, những tính toán khôn khéo, để buông mình sống theo ý Chúa.
Chúa Gọi Ông Simon
Đứng trước việc Chúa tỏ mình, Simon và các bạn của ông cảm thấy run sợ. Họ nhận ra khoảng cách lớn lao giữa bản thân mình với Đấng Thánh. "Đừng sợ", đó là lời trấn an thường gặp trong Cựu Ước và đặc biệt trong Tin Mừng Luca (1,13.30; 2,10; 5,10; 8,50; 12, 7.32). Sau lời trấn an là lời trao sứ mạng: "Từ nay về sau, con sẽ đi bắt người ta." Cuộc đời ông Simon như được chia làm hai phần: bắt cá và "bắt" người, ngư phủ và tông đồ. Bây giờ mối quan tâm của ông Simon không phải là cá mà là con người. Một cuộc đời mới đang mở ra trước mắt ông. Ông không thấy rõ con đường mình sắp đi, cũng không thấy có gì bảo đảm cho tương lai. Ông cũng chưa rõ phải giải quyết chuyện gia đình như thế nào. Nhưng phép lạ vừa rồi lại khiến ông vững tâm trước lời mời của Đức Giêsu, lời quyền năng, lời thực hiện những gì đã nói.
Trong niềm tín thác vô bờ vào Thày Giêsu, Simon đã bước một bước quyết định: "Sau khi đưa thuyền vào bờ, họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài." Bỏ mọi sự, bỏ cả những điều mà mình yêu mến và vẫn còn yêu mến: gia đình, cha mẹ, vợ con, thuyền bè và biển cả. Bỏ vì được cuốn hút bởi một tình yêu lớn hơn. Bỏ là để đi theo một Người và cùng với Người đó phục vụ cho nhiều người.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay nổi bật lên khuôn mặt ông Simon. Chúng ta nên nhớ ông Simon là một ngư phủ, không có học thức cao và đã lập gia đình. Ông giống như một giáo dân bình thường ở một họ đạo gần vùng biển. Chẳng ai dám nghĩ tới đời ông có thể rẽ sang một hướng mới. Ay thế mà chuyện ấy lại xảy ra cho ông. Ông trở thành Đá Tảng cho toà nhà Hội Thánh. Hội Thánh được xây dựng trên những ông đánh cá ở hồ Galilê, và đã đứng vững suốt 20 thế kỷ. Phép lạ đó lớn gấp ngàn lần phép lạ bắt được nhiều cá. Vậy đoạn Tin Mừng hôm nay không chỉ dành cho linh mục, tu sĩ, mà dành cho mọi giáo dân. Ai cũng phải sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, xuyên qua những biến cố bình thường hay lạ lùng của cuộc sống hàng ngày. Ai cũng phải vui lòng để Chúa đưa mình đi vào hướng mới, khác với những lối mòn quen thuộc. Và nhất là ai cũng phải mau mắn bỏ mọi sự mà theo Chúa. Bỏ mọi sự chính là đặt mọi sự dưới Chúa và sử dụng mọi sự trong Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Vâng theo Lời Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả bất ngờ. Có khi nào trong đời bạn, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của ông Simon không?
2. Theo ý bạn, bỏ mọi sự như ông Simon có khó không? Điều gì đối với bạn là khó bỏ hơn cả?
Luca đặt phép lạ mẻ cá lạ lùng nầy vào một khung cảnh rất đông người: "Dân chúng chen: TN 5-C18
Luca đặt phép lạ mẻ cá lạ lùng nầy vào một khung cảnh rất đông người: "Dân chúng chen nhau lại gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng lời của Thiên Chúa". Luca có ý cho tất đám đông chứng kiến phép lạ nầy.
Mẻ Cá Lạ Lùng.
Phép lạ mẻ cá lạ lùng đi kèm theo những lời giảng dạy để tăng thêm uy tín cho những lời Chúa vừa nói.
Phép lạ nầy nói lên rằng, kết quả tốt đẹp của cuộc sống không chỉ do sự cố gắng của con người: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không được gì hết!"
"Nhưng vì lời Thầy, tôi sẽ thả lưới": Đây là một phép lạ của lòng tin của Phêrô . Trước khi làm một phép lạ, Chúa Giêsu thường đòi hỏi lòng tin . Một người trong nghề như Phêrô biết phải đánh cá khi nào và chỗ nào thì mới có cá. Mặt trời đã mọc, trời đã sáng, nước thì trong, làm gì mà bắt được cá; hơn nữa lại ở gần bờ, làm gì có cá mà bắt ! Vì thế, hơn ai hết, Phêrô là người nhận ra phép lạ đầy thuyết phục đó, nên ông đã quì xuống trước mặt Chúa mà nhận ra thân phận hèn yếu của mình.
"Lạy Thầy,xin tránh xa con vì con là người tội lỗi." Phêrô khiêm tốn nhận ra sự bất lực của mình , nhận ra khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người phàm hèn: "Xin tránh xa con vì con là người tội lỗi":như thế có nghĩa là Chúa là Đấng tốt lành và đầy quyền năng. Chúa liền an ủi ông: "Đừng sợ hãi".
Tác dụng của mẻ cá lạ lùng.
Mẻ cá lạ lùng đó đã có tác dụng lớn: "Bây giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người". Các Tông Đồ đi theo Chúa vì tin ở Người. Nền tảng ơn gọi của họ là đức tin . Những ai bước theo Chúa Kitô cũng phải thấy rõ điều nầy . Không tin thì làm sao mà từ bỏ và dấn thân được ?
Trong đời sống kitô hữu , vì tin, nên tôi đã từ bỏ những gì ? Suy nghĩ cho kỹ, tôi thấy là kitô hữu hay là tu sĩ, cho đến nay tôi chưa bỏ gì bao nhiêu, trái lại tôi lại chỉ nhận thêm mà thôi:nhà cửa, cơm ăn áo mặc,học hành, danh dự, lòng thương yêu kính trọng của mọi người kể cả sự sống của tôi nữa . "Ai muốn theo Ta,hãy từ bỏ": Lời Chúa đã thành sự thật nơi các Tông Đồ, nơi các thánh, nhưng chưa thành sự thật nơi tôi.
"Họ bỏ mọi sự mà theo Người":Chuá nói với tôi rằng, điều kiên đầu tiên để theo Chúa là từ bỏ , nhất là từ bỏ mình . Mỗi ngày, tôi có rất nhiều dịp để từ bỏ, để chia sẻ , nhưng tôi đã bỏ qua hay tránh né . Thế mà tôi lại tự cho mình là người bước theo Chuá Kitô ! Đời sống kitô hữu, đời tu nơi tôi chỉ là ăn theo, chưa có gì tích cực bao nhiêu . Vì vậy trong thực tế, tôi chưa hẳn đã là người bước theo chúa Kitô .
Phép lạ mẻ cá lạ lùng hôm nay với những hậu quả của nó nơi các Tông Đồ, đang cật vấn tôi, cật vấn cách sống của tôi .
Nhưng vì lời Thầy , tôi sẽ thả lưới.
Vì lời Thầy, nghĩa là dựa vào lời Thầy, hay tin vào lời Thầy .Lời nói của Thánh Phêrô trên đây cũng đang cật vấn tôi: Tôi đang hoạt động, nhiều khi một cách vô tình , chỉ dựa trên sự khó nhọc suốt đêm của mình, ít dựa vào sức mạnh của Chúa, Đấng đang ngự trong tôi. Cho nên khi thất bại thì tôi buồn và thất vọng; khi thành công, tôi lại lấy làm hảnh diện làm như đó là do công lao của mình. Thật ra trong đời sống Tông Đồ, chúng ta gieo, nhưng Chuá mới làm cho hạt giống lớn lên; chúng ta gieo, nhưng chính Chuá mới làm cho con người thay lòng đổi dạ. Kết quả là do Chúa, còn chúng ta chỉ là những dụng cụ vô ích. Suy nghĩ đó đưa đến một hệ luận quan trọng: Trong đời sống tông đồ của người kitô hữu cũng như của người tu sĩ linh mục, những lao công vất vả của con người phải đi đôi với lời cầu nguyện và việc sống kết hiệp với Chúa.
Vì vậy khi tôi lo cho cuộc sống trần thế hay làm việc tông đồ, tôi không được quên chỗ đứng quan trọng của Chuá trong đời tôi.
Tin vào quyền năng của Chúa.
Chuyện kể rằng, có một thanh niên kia thích trò mạo hiểm. Anh mang một chiếc dù nhà binh đến đứng bên bờ một vực thẳm, tính chơi cho thỏa chí mạo hiểm của anh. Chẳng may anh trượt chân , rơi vào vực thẳm. Tình cờ anh nắm được nhánh cây xìa ra. Thật hú vía, tuy chưa hết nguy hiểm, nhưng như thế nầy thì còn hy vọng được cứu thoát.
Ngước mắt nhìn lên, anh không thấy ai cả; nhìn xuống, anh choáng váng mặt mày vì vực thẳm quá sâu. Anh biết không thể nắm mãi cành cây; bây giờ chỉ biết cầu nguyện: " Lạy Chúa xin cứu con. Con xin làm bất cứ điều gì Chúa muốn." Bỗng có tiếng từ trời vọng xuống: "Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi Ta cứu, Ta muốn biết con có tin Ta sẽ làm được việc nầy không ?" Anh trả lời: "Lạy Chúa con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu con được mà. Cứu con ngay đi Chuá ơi! Con mỏi tay lắm rồi!". Chúa nói: "Được rồi, nếu con tin thì hãy buông tay ra". Chàng thanh niên vẫn nắm chặt cành cây chứ không chịu buông; rồi chàng ngóc đầu lên bờ vực và la lớn: "Có ai trên đó, cứu tôi với!"
Giả sử chúng ta ở trong trường hợp đó thì ai trong chúng ta dám buông tay ? Đức tin của ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng Chúa trong những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống chúng ta không ?
Chúa có chủ trương chọn những người tài giỏi hơn người, đạo đức hơn người để kêu gọi họ làm: TN 5-C19
1. Chúa có chủ trương chọn những người tài giỏi hơn người, đạo đức hơn người để kêu gọi họ làm việc cho Ngài không? Tại sao?
2. Khi làm công cho ai, bạn phải làm những công việc người ấy giao như thế nào? Bạn làm theo ý bạn hay theo ý người ấy? Việc ấy là việc của người ấy hay là của bạn? Ai là người chủ chốt lo cho công việc ấy nhất? Người ấy hay là bạn?
3. Bí quyết để thành công khi làm công việc của Chúa là gì? Bạn nên dành phần cho Ngài và chờ đợi Ngài hành động, hay bạn làm tất cả?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa thường kêu gọi những kẻ tự thấy mình hèn mọn
Trong ba bài đọc, ta thấy có 6 người được Thiên Chúa kêu gọi: I-sai-a (bài đọc 1), Phao-lô (bài đọc 2), và 4 tông đồ Si-mon, An-rê, Gio-an và Gia-cô-bê (bài Tin Mừng). Đặc điểm chung của 4 người này là người nào cũng tự thấy mình nhỏ bé, yếu đuối, hèn mọn. I-sai-a thì thấy mình là người môi miệng ô uế, Phao-lô thì thấy mình hèn mọn nhất trong các tông đồ. Còn Simon, điển hình cho 4 tông đồ trong bài Tin Mừng thì tuy đã đánh cá suốt đêm không thành công, thế mà vẫn sẵn sàng nghe lời Đức Giêsu, người mà ông mới chỉ biết là một «thầy giảng đạo», chẳng phải là người chuyên môn trong nghề đánh cá. Nếu không khiêm nhường, thì ông sẽ phản ứng: «Tôi chuyên nghiệp đánh cá mà đánh suốt đêm còn chẳng được con nào, Thầy biết gì mà đòi chỉ cho tôi!».
Thiên Chúa thích kêu gọi những người tự thấy mình hèn mọn yếu đuối, để họ trở thành một công cụ tốt, ngoan ngùy dưới tay của Ngài. Và chính khi sử dụng những người như thế, Ngài mới có thể biểu lộ quyền năng và sức mạnh của Ngài. Nếu sử dụng những người tài giỏi, mọi người sẽ nghĩ rằng sự thành công đó là do tài trí và sức mạnh của con người chứ không phải do quyền năng của Ngài. Chính người được Ngài dùng cũng có thể tự hào như vậy.
2. Công việc của Chúa, hãy để phần nào cho Ngài tự lo liệu
Khi Ngài kêu gọi ai làm công việc của Ngài, thì Ngài vẫn muốn Ngài là chủ công việc, và Ngài mong muốn người cộng tác với Ngài chỉ hành xử như một công cụ trong tay Ngài. Ngài không muốn người ấy tự coi mình như chủ nhân trong công việc của Ngài. Ngài muốn công việc của Ngài phải được tiến hành theo đường lối và phương cách của Ngài, vốn rất khác với đường lối và phương cách của con người.
Rất nhiều người làm công việc của Chúa, nhưng lại đưa cái tôi của mình vào đó nhiều quá. Họ muốn công việc của Chúa phải được thực hiện theo cách thức của họ, theo chiều hướng của họ, thậm chí họ muốn biến công việc của Chúa thành công việc của chính họ, do họ làm chủ. Họ muốn rằng sau khi hoàn thành, mọi người nhìn đều vào đó mà nể phục họ, tôn vinh họ. Vì thế, trong công việc ấy, Chúa chỉ đóng một vai trò phụ thuộc, còn họ mới đóng vai trò quan trọng và chính yếu. Do đó, làm công việc của Chúa mà họ phải lo lắng và sợ sệt đủ điều, nào là lo sợ bị thất bại, sợ nguy hiểm, sợ mình không trung thành, sợ vượt quá sức mình, v.v Họ sợ đủ thứ! Vì họ đã coi việc ấy như hoàn toàn của mình. Họ làm như Chúa hoàn toàn đứng ở bên ngoài công việc ấy, và vô trách nhiệm đối với công việc của Ngài.
Những người như vậy, thực ra không phải là sốt sắng nhiệt thành với việc của Chúa, cho bằng một mặt là muốn quan trọng hóa mình, muốn thay thế Chúa, dành phần của Ngài trong công việc, để tìm vinh danh cho mình, mặt khác là không tin tưởng và cậy trông vào tình thương, sức mạnh và quyền năng của Chúa. Họ quên rằng họ đang làm công việc của Chúa chứ không phải của mình, nên họ chiếm hết phận vụ và trách nhiệm của Chúa trong đó.
Bài Tin Mừng cho ta thấy: nhiều khi con người đã nỗ lực hết sức mà vẫn vô ích: Si-mon vất vả đánh cá suốt đêm mà chẳng được gì. Nhưng khi để Chúa hướng dẫn, làm chủ công việc, thì sự thành công trở thành hết sức lớn lao: Si-mon làm theo đề nghị của Chúa, mặc dù nếu xét theo kinh nghiệm tự nhiên của ông thì có làm như thế cũng vô ích. Nhưng ông đã làm theo và đã được một mẻ cá hết sức lớn.
Công việc tông đồ, việc mục vụ, giáo dục, đào tạo, bác ái, mưu ích lợi cho tha nhân, cũng như những công việc của chính mình, bằng cách này hay cách khác, đều tương tự như việc đánh cá của Si-mon. Nếu ta đừng xen quá nhiều ý riêng của mình vào, mà hãy để Chúa làm chủ, để Ngài hướng dẫn, mình chỉ là người thừa hành thánh ý của Ngài thôi, thì sẽ dễ đi đến thành công.
3. Hãy ý thức sự yếu hèn, bất lực của mình và hoàn toàn cậy trông
I-sai-a, Phao-lô, và các tông đồ trong ba bài đọc hôm nay, đều nhận thấy mình là kẻ yếu đuối, tội lỗi, bất xứng, không chỉ trước mặt Chúa, mà còn trước công việc Chúa giao phó nữa. Nhưng trong thực tế, các ông đã làm nên những việc vĩ đại, và trở nên những vị thánh lớn, không phải vì các ông tài giỏi trong những công việc các ông làm cho bằng các ông ý thức được sự bất lực và dốt nát của mình, nên hoàn toàn để Chúa hành động. Khi làm việc của Chúa, hãy để cho Chúa thấy rằng đó là công việc của Ngài chứ không phải việc của ta. Hãy dành cho ngài quyền quyết định tối thượng trong tất cả những công việc ấy, ta chỉ là người thừa hành, là dụng cụ, và hãy cố gắng đem hết tâm lực để làm công việc thừa hành ấy. Và sau khi đã làm hết mình thì hãy tự nhủ: tôi chỉ là một người đầy tớ vô ích (xem Lc 17,10), không tự hào, không cậy công. Đừng làm một điều gì theo ý riêng, theo kinh nghiệm hay sự khôn ngoan của cá nhân mình. Đó là bí quyết thành công khi làm những công việc của Chúa.
Đối với công việc của Chúa, người càng tự hào thì càng thất bại, và càng khiêm nhượng thì càng thành công. «Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên», càng cậy vào sức riêng mình thì càng thất bại nặng nề, càng tin tưởng vào tình thương, quyền năng và sức mạnh của Chúa thì càng thành công vẻ vang. Sự thành công vĩ đại của I-sai-a, Phao-lô và các tông đồ của Đức Giêsu trong công việc Chúa đã chứng minh điều đó.
NGUYỆN:
Lạy Cha, xin cho con biết tín thác vào Cha trong mọi công việc, nhất là những công việc của Cha, những công việc mà Cha kêu gọi con làm cho Cha. Cho con biết tín thác vào Cha trong cả những công việc con chỉ làm cho cá nhân con, cho gia đình con. Xin cho con biết nỗ lực hết sức khi làm mọi công việc, làm như thể thành công hay thất bại là hoàn toàn tùy thuộc vào con. Nhưng sau khi đã cố gắng hết sức mình, thì lại phó thác tất cả mọi sự cho Cha, như thể tất cả đều tùy thuộc vào Cha. Xin cho con vừa biết nỗ lực vừa biết cậy trông trong tất cả mọi công việc con làm. Amen.
Chúa Giêsu có nhiều cách để kêu gọi các Tông đồ. Trong bài tin mừng hôm nay, Simon và: TN 5-C20
Chúa Giêsu có nhiều cách để kêu gọi các Tông đồ. Trong bài tin mừng hôm nay, Simon và các đồng nghiệp sau một đêm trường vất vả mà không bắt được con cá nào, thân xác mệt nhọc, tâm hồn bải hoải, thế mà sau khi nghe theo lời chỉ dẫn của Chúa, các ông đã thả lưới bắt được rất nhiều cá đến nỗi lưới các ông hầu bị rách.
Qua phép lạ nhãn tiền này, Simon rất đỗi kinh ngạc và trong khoảnh khắc đã nhận ra Thầy là ai và mình là gì, để từ nay trong ơn gọi của mình, ông không còn lầm tưởng rằng mình đóng vai trò chính, tài năng mình là tác giả của những thành công vẻ vang, là trung tâm vũ trụ... vì vất vả suốt đêm mà đâu có được gì đâu. Mà từ nay Thầy sẽ là quyền năng, là động lực thúc đẩy, là hướng đạo, là thành công' còn con là dụng cụ trong tầm tay Thầy, cần luôn nhìn lên Thầy, lắng nghe mệnh lệnh của Thầy, và vâng lời thi hành ngay cả khi không hiểu nổi những yêu sách của Thầy.
Chỉ trong ánh sáng của sự thật về mình này nơi Phêrô, Chúa mới dám ký thác cho Ngài một ơn gọi vơi sứ mạng mới: Con sẽ chinh phục người ta, thay vì lưới cá là nghề của con, nay lưới người là sứ mạng Thầy trao cho con, để nhân danh Thầy, con sẽ đi chinh các linh hồn.
Sau khi lãnh nhận ơn Thánh Linh trong ngày Hiện Xuống, Phêrô và các tông đồ đã đánh ngay được một mẻ lưới lạ lùng, có đến ba ngàn người trở lại (Act 241). Phêrô chinh phục người ta trong danh Thầy, trong sức mạnh và quyền lực của Thầy chứ không phải của mình. Phêrô ra đi theo sứ mệnh của Thầy, để đặt tay làm kẻ chết sống lại, người mù được mở, người què đi được (Act 3:6), và ngay cả qua chiếc bóng của Ngài đổ trên ai cũng được lành... với những phép lạ ngoại thường này, Ngài luôn nhớ đến mẻ cá lạ lùng tại hồ Gennesaret và việc nhận ra tội lỗi của mình hôm đó' nhưng bây giờ Ngài không còn xin Thầy xa con ra, mà hãy đến gần con để qua Thầy và nhờ Thầy con mang lại những kết qủa tốt đẹp do việc vâng lời Thầy và phó mình cho quyền lực Thần Khí của Thầy hướng dẫn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng muốn trao cho mỗi người chúng ta một sứ mạng đánh lưới các linh hồn cho Chúa nên Chúa đã nói: "Đừng sợ , từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta." Trong việc mở nước Chúa, ngãng trở chính vẫn là bản thân mỗi người chúng ta, chúng ta có đủ thứ và đủ lý do để sợ: nào là sợ thất bại, sợ mất uy tín, sợ khổ, cả ngay khi chưa làm gì đã sợ rồi! Nhiều khi sự lo sợ đến từ ý thức tự ti cho rằng mình bất tài bất lực. Ôi cả trăm thứ sợ khác nhau chiếm đoạt tâm trí chúng ta và chúng ta ỷ vào đó để không muốn làm gì, để cứ bình thản sống cho mình và sống ích kỷ đến độ làm cho đời mình ta nghèo nàn' hoặc đôi khi lại nghĩ rằng việc mở nước Chúa là sức mệnh của các Cha, các Sơ, các vị truyền giáo... để bào chữa cho sự thái độ hờ hững, dửng dưng của mình.
Như Phêrô, chúng ta yếu hèn thật, vì cứ tự sức lực riêng của chúng ta thì vất vả cực nhọc suốt đời cũng chẳng đưa được linh hồn nào về cho Chúa, đến ngay cả linh hồn mình cũng không nắm chắc được phần rỗi! Nhưng chính sự bất lực đó lại là điều kiện thích thuận cho quyền năng cao cả của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta mà không sợ bị ngộ nhận. Vậy là ai đi nữa: công nhân nơi xưởng thợ, chủ nhân nơi bàn giấy, học sinh nơi trường học hay trường đời, linh mục nơi bàn thờ, tu sĩ nơi phục vụ, Chúa đều muốn mỗi người chúng ta nên tông đồ cho Chúa, nên dụng cụ, nên lời nói, nên cử chỉ thân thiện nên tấm lòng hiền từ của Chúa ban phát cho các linh hồn, và soi dẫn những con chiên lạc, chỉ cho họ đường về nhà Chúa. Đừng sợ thiếu tài, thiếu cộng tác viên, thiếu phương tiện, thiếu thì giờ... mà hãy tin vào Chúa, cầu nguyện với chúa, sống mật thiết với Ngài và nhất là dám để Chúa dẫn đưa thuyền đời mình vào chương trình cứu độ các linh hồn, và can đảm từ bỏ mọi sự để theo Chúa chinh phục thế giới như Phêrô và các tông đồ. Đó là sứ mệnh của mỗi người chúng ta trong ơn gọi làm con Chúa.
Chủ đề; Sự kin trì cộng thm ơn Cha trợ gip sẽ trở thnh sức mạnh vô địch.
Nhiều năm trước đây, tại Nashville thuộc tiểu bang Tennessee, một bà mẹ cho ra đời một bé gái: TN 5-C21
Nhiều năm trước đây, tại Nashville thuộc tiểu bang Tennessee, một b mẹ cho ra đời một b gi non thng nhỏ tí xíu. Sau đó ít lâu, cô bé bị sưng phổi, rồi bị sốt ban đỏ. Cuối cng b lại bị thm bệnh sốt bại liệt khiến một chn của b bị thương tổn nặng v bn chn co quắp vo trong. Khi được 5 tuổi, chu b phải đi khập khễnh trn những thanh kim loại gắn vo chn, trong khi những trẻ cng tuổi khác nô đa chạy dỡn v nhảy dy. Ln 11 tuổi, cơ b tật nguyền ny yu cầu đứa em gái đứng canh cửa cho cơ tập luyện đi bộ m khơng cần đến thanh kim loại nâng đỡ. Cơ khơng muốn cho bố mẹ bắt gặp cô đang tập đi bộ vịng vịng m khơng cĩ thanh sắt chống đỡ. Rịng r suốt một năm trời, cơ b tiếp tục m thầm tập đi bộ như thế. Nhưng rồi một ngy nọ, cơ bỗng cảm thấy cĩ lỗi trong việc dấu diếm ny. Nn cơ đ thổ lộ cho bc sĩ của cơ biết cơng việc cô đang lm. Bc sĩ vơ cng ngạc nhin. Ơng đồng ý cho cơ tiếp tục nhưng chỉ trong những khoảng thời gian ngăn ngắn m thơi. Tuy nhin một qung thời gian ngắn đối với cơ b hồn tồn khc với quan niệm của bc sĩ. Vì ngồi qung thời gian dnh cho việc tập luyện đi bộ khơng dng thanh chống, cơ b tật nguyền ny cịn thm vo những quảng thời gian cầu nguyện nữa.
Để rt ngắn cu chuyện, cuối cng cơ b đ đi bộ được m hồn tồn khơng cần dng đến cc thanh chống nữa.
Cu chuyện trn ph hợp tuyệt hảo với bi Phc m ngy hơm nay. Nĩ lm nổi bật chủ điểm m chng ta cần nghe đi nghe lại, cần quan tm suốt cả cuộc đời. Đĩ l; Sự kin trì l một trong những sức lực hng mạnh nhất trần gian.
Phrơ v cc bạn ông đ đánh cá thâu đm m chẳng thnh cơng. Nếu Cha Gisu đ khơng truyền bảo họ tiếp tục thả lưới thì cĩ lẽ ngy hơm ấy kể như cơng toi. Nhưng Cha Gisu thuyết phục họ thử thm lần nữa. Họ nghe theo v điều xảy ra sau đó chúng ta đều đ r. Chính nhờ sự thử thm lần cuối ấy tạo nn khc biệt giữa thnh cơng v thất bại. Cu chuyện của Phrơ v cc bạn ơng cịn lm nổi bật một chủ điểm nữa đó l: khi Cha Gisu bắt đầu tham dự vo sự việc, thì lập tức sự việc ấy sẽ được đổi thay. Những lần buơng lưới trước đó – có lẽ từ 20 đến 30 lần suốt đm ấy các môn đệ đ lm một mình. Nhưng lần cuối cng, Cha Gisu bắt đầu can dự vo, thì sự tình quay hẳn 180 độ. Việc diệu kỳ xảy ra đ vượt qu ước mơ của họ.
Chng ta hy ghi nhớ điều ấy v trở lại cu chuyện cơ gi miền Nashville. Điều gì đ xảy đến với cơ cũng l những điều đ xảy đến cho Phrơ v bạn b ơng. Điều kỳ diệu ny vượt xa mọi niềm mơ ước to bạo nhất của cơ. Khơng những cơ cĩ thể đi bộ khơng cần dng đến thanh chống m cịn cĩ thể chạy nữa. V cơ đ chạy, chạy, chạy hồi. Vo năm 16 tuổi, cơ b kỳ diệu ny được tuyển chọn đi dự đại hội Olympic ở Nelbourne, Australia. V cơ đ đoạt huy chương đồng trong mơn chạy tiếp sức 400 mt nữ, rồi 4 năm sau, tại đại hội Olympic ở Roma, cơ trở thnh người phụ nữ đầu tin trong lịch sử đoạt được ba huy chương vng trong cc môn điền kinh.
V cơ gi diệu kỳ ny chính l nữ vận động vin Wilma Rudolph. Cơ trở về qu hương trong sự tiếp đón nồng nhiệt của dn chng. Họ chăng hoa kết đn cho đón cô, v cơ được tổng thống Kennedy tiếp kiến thn mật. Sau đó cô được trao giải thưởng Sullivan v được xếp hng đầu cc vận động vin khơng chuyn của cả nước. Wilma Ruđolph l tấm gương sống động về sức mạnh của lịng kin nhẫn. Cơ l một thí dụ dẫn chứng cho năng lực v tiềm lực của tinh thần con người. Cuộc sống của cơ minh chứng rằng khơng cĩ tật nguyền no d lớn lao khủng khiếp đến đâu, có thể chống cự được lịng kin trì v lời cầu nguyện. Nếu Cha muốn thì sự kết hiệp giữa lịng kin trì v lời cầu nguyện sẽ đem lại kết quả vượt mọi mơ ước lớn lao nhất của chng ta, chẳng khc gì kết quả diệu kỳ đ xảy đến cho Phrơ v cc bạn của ơng vậy.
Ray Knoc, một thin ti của cơng ty sản xuất thực phẩm ăn liền Mc. Donal, đ xếp đức kin nhẫn hay kin trì vo hng đầu cc năng lực của con người. Ơng viết như sau: “Khơng cĩ gì trn thế gian cĩ thể thay thế được lịng kin trì. Ti năng ư? Cứ xem cĩ biết bao cá nhân đầy ti năng m vẫn cứ thất bại ! Thin ti ? Thiếu gì thin ti đ khơng được TN thưởng. Gio dục ư? Thế gian đầy dẫy những kẻ vơ dụng cho d họ cĩ học thức. Vậy chỉ cĩ lịng kin trì v cương quyết l vạn năng. Nếu thm vo đó năng lực của lời cầu nguyện nữa thì khơng gì cĩ thể địch nổi.
Như vậy, bi Phc m hơm nay mời gọi chúng ta hai điều:
-Thứ nhất, chng ta phải bắt chước thnh Phrơ v cc bạn của ơng, chng ta phải kin trì nỗ lực sau khi quăng lưới 20, 30 lần, cĩ lẽ Phrơ đ chn nản bỏ cuộc vì khơng bắt được con c no hết, thế nhưng ông đ khơng chịu đầu hng, ơng vẫn tung lưới lần cuối. V chính lần ny phn định giữa thnh cơng v thất bại.
-Thứ hai, chng ta phải mời Cha Gisu can dự vo cc nỗ lực của chng ta. Chỉ sau khi Cha Gisu nhập cuộc thì Phrơ v cc bạn ơng mới đạt được thnh cơng. Khơng chỉ l thnh cơng đơn thuần, m phải nĩi l thnh cơng vượt qu mọi tưởng tượng của họ. Trường hợp kỳ diệu của nữ vận động vin Wilma Rudolph cũng cĩ thể xẩy ra cho bất cứ ai trong chúng ta đang hiện diện ở đây.
Chng ta hy kết thc với lời cầu nguyện của thnh Ignatiơ Loyola. Ngi l một gương mẫu của lịng kin trì v say m cầu nguyện. Xin anh chị em yn lặng hiệp ý cng tơi trong lời kinh “Cầu xin lịng quảng đại” quen thuộc của Ngi:
“Lạy Cha xin dạy con biết sống quảng đại, biết sống phụng sự Cha cho xứng đáng, biết cho đi m khơng tính tốn, biết chiến đấu m khơng sợ bị thương tích, biết lm việc m khơng tìm an nghỉ biết xả thn m khơng tìm một phần thưởng no khc, ngồi việc biết mình đang thi hnh thnh ý Cha. Amen.
Một bạn trẻ vừa tốt nghiệp Trường Ứng viên hành chánh ở Miami Beach, bang Florida có kể câu: TN 5-C22
Một bạn trẻ vừa tốt nghiệp Trường Ứng viên hành chánh ở Miami Beach, bang Florida có kể câu chuyện này: khi anh còn là một tân binh, anh được chỉ định làm bếp, công việc bề bộn khi ông đại tá bước vô, ông hỏi: “Công việc thế nào?”. Khi họ nói với ông là công việc quá bề bộn, ông liền khoác áo công nhân vào và bắt đầu giúp họ. Ông cho họ hiểu rằng một đại tá không quá cao sang, quyền thế đến nổi không giúp họ làm việc bếp núc được, quả nhiên các nhân viên yêu kính người lãnh đạo như thế.
Chúng ta vừa nghe đọc rằng Chúa Giêsu đã đến và giúp một số môn đệ của Người. Họ kiếm sống vất vả, bằng việc lao nhọc chài lưới, họ không bắt được con cá nào. Chúa Giêsu bảo họ thả lưới lần nữa, lạ lùng thay, họ bắt được nhiều cá đến nỗi khẳm hai thuyền. Chúa chúng ta muốn cho họ thấy rằng họ phải chinh phục được nhiều người cũng như họ đã bắt được nhiều cá. Nhưng còn một bài học quan trọng khác trong câu chuyện này là Chúa Giêsu quan tâm đến việc làm của những người theo Chúa. Chúa muốn và sẵn sàng giúp đỡ những ai làm việc vất vả.
Chính Chúa Giêsu đã làm việc vất vả. Là người thợ mộc, người biết thế nào là mệt mỏi, là đói khát. Người cũng biết thế nào là bụi bậm, là lấm lem. Người biết thế nào là chán nản, là lo âu tìm kế sinh nhai.
Đó là lý do Chúa rất quan tâm đến những người làm việc – Nông dân, thợ mộc, người đánh cá, kẻ chăn bò, người thợ trong vườn, trong rẫy, Chúa biết đời sống của họ. Chúa đã sống đời sống của họ. Chúa quan tâm đến các bạn, những người làm việc bằng đôi tay, bằng sức lực.
Ngày nay, nhiều người trong chúng ta phải làm việc bằng trí não hơn là bàn tay, việc đó cũng rất nặng nề và mệt nhọc. Một thơ ký đánh máy thấy đuối sức sau một buổi làm việc, một thợ máy hay một giáo viên cũng thế. Những bác sỹ, tá viên và luật sư có thể mệt mỏi cả tinh thần lẫn thể xác. Chúa Giêsu cũng biết những công việc đó rất mệt nhọc vì Chúa đã làm nhiều việc như thế.
Điều thánh Phaolô tự phụ trong bài đọc hai hôm nay. Chúa Kitô cũng nói về chính Người: “Tôi đã làm việc cực khổ hơn hết thảy mọi người khác”. Lời nguỵên trong bài đáp ca phải là lời cầu nguyện của chúng ta: “Khi tôi kêu cầu, Chúa đã đáp lời tôi, Chúa ban cho tôi sức mạnh”
Hãy lắng nghe lời nguyện trong kinh thánh thể II “Chúng con cảm tạ Chúa vì đã cho chúng con được xứng đáng hầu cận trước tôn nhan Chúa và phụng sự Chúa”
Ít phút nữa các bạn để ý đến vị linh mục rót rượu nho vào chén thánh và thêm vào đó vài giọt nước, rượu giầu sang, mạnh mẽ chỉ những gì Chúa làm. Nước nghèo nàn, yếu ớt chỉ những gì chúng ta làm. Nhưng công việc của chúng ta kết hợp với công việc của Chúa Kitô, dựa vào công nghiệp của Người. Nó trở nên hiệu nghiệm, đáng giá.
Như ông đại tá trong câu chuyện, Chúa Kitô cúi xuống để giúp chúng ta. Xin Thày Chí Thánh cảm hứng chúng ta làm việc - với Người và vì Người. Amen.
Suy niệm bài Tin Mừng này, trong suy nghĩ của tôi vừa có hình ảnh Thánh Phê-rô đi lưới cá: TN 5-C23
Suy niệm bài Tin Mừng này, trong suy nghĩ của tôi vừa có hình ảnh Thánh Phê-rô đi lưới cá, vừa có hình ảnh cuộc sống của mỗi người chúng ta hôm nay. Vì thế tôi đã để Lời Chúa trong bài Tin Mừng dẫn dắt mình suy nghĩ về Giáo Hội trong đời sống Đức Tin, nơi đã từng có mặt của Thánh Phê-rô trong trách nhiệm của một vị Giáo Hoàng tiên khởi, và có mặt của từng người chúng ta.
Nội dung của Lời Chúa được Thánh Lu-ca ghi nhận: Chúa Giê-su thấy có hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ. Người bước xuống một trong hai chiếc thuyền ấy. Đây là một chi tiết mà Thánh Lu-ca đã tinh tế nhận ra. Thánh nhân cho biết: Chiếc thuyền mà Chúa Giê-su bước xuống là thuyền của Thánh Phê-rô. Tôi tự hỏi, có cần phải ghi thêm chi tiết thuyền của Phê-rô hay không, vì nếu không ghi câu này, bài Tin Mừng vẫn đủ ý nghĩa ? Chắc chắn Thánh Lu-ca có một dụng ý nào đó khi ghi lại câu này: “Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-mon”. Thuyền của Si-mon chứ không phải của ai khác !
Vậy xuống thuyền của Phê-rô, Chúa nhắm điều gì ? Hay là thuyền của Thánh Phê-rô đẹp hơn, bảo đảm hơn, chắc chắn hơn ? Tôi không nghĩ đơn giản như thế. Vậy thì phải có một lý do để Thánh Lu-ca nhắm tới trong chi tiết này ? Tôi nghĩ lý do đó chính là Thánh Lu-ca muốn đưa ra một cái nhìn của Đức Tin.
Có lẽ bạn cũng biết, Chúa Giê-su, trong khi đi rao giảng, đã không viết để lưu giữ bất cứ một điều gì. Tin Mừng của Chúa Giê-su được viết sau khi Chúa về Trời mấy chục năm. Đó cũng chính là thời gian các môn đệ của Người nói riêng, và Giáo Hội nói chung, bắt đầu bôn ba tiếp nối bước chân của Thầy trên cánh đồng Truyền Giáo. Các ngài thấy cần thiết phải ghi lại Lời rao giảng của Chúa Giê-su để phục vụ công cuộc rao giảng. Và Tin Mừng ấy cũng được viết cho từng đối tượng mà các môn đệ đang phục vụ. Vì thế Tin Mừng ấy cũng được viết giữa lòng cuộc đời các Ki-tô hữu. Nó chất chứa, nó phản ánh kinh nghiệm sống, cầu nguyện, suy tư của các Ki-tô hữu đầu tiên.
Bởi vậy, khi bạn và tôi đọc hay lắng nghe Tin Mừng ấy, thì không phải đọc, không phải nghe như một câu truyện, nhưng phải khám phá ra những gì bí ẩn chất chứa bên trong, khám phá ra ý nghĩa, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm cầu nguyện và suy tư mà cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi để lại, và chúng ta được vinh phúc thừa hưởng.
Tôi nghĩ Thánh Lu-ca cũng không đi ngoài trường hợp ấy. Những gì thánh nhân viết ra cũng là những gì thánh nhân muốn phản ánh. Những gì chúng ta đọc thấy, cũng là những gì tâm tư của lớp lớp Ki-tô hữu ghi khắc. Quan trọng hơn nữa, một điều quan trọng tuyệt đối: những gì Thánh Kinh cho biết, cũng là những gì Lời Chúa muốn nói với Dân của Người. Suy cho cùng, Thánh Lu-ca dẫu là người trực tiếp ghi chép Tin Mừng, vẫn chỉ là người thụ động trước Thánh Ý của Chúa. Vì thế, từng Lời của Chúa là những giáo huấn mà chúng ta có nhiệm vụ học hỏi và sống. Bởi đó, chi tiết Chúa bước xuống thuyền của Thánh Phê-rô chắc không đi ngoài giáo huấn mà Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta. Đó cũng chính là cái nhìn của Đức Tin mà Thánh Lu-ca mời ta suy niệm.
Con thuyền trên biển cả, vốn là hình ảnh của Giáo Hội. Thánh Phê-rô chính là vị thủ lãnh đầu tiên của con thuyền Giáo Hội ấy. Chính trên con thuyền và nơi thuyền trưởng Phê-rô ấy, Chúa có mặt và vẫn hiện diện để nuôi dưỡng, giáo huấn Dân Người.
Ý nghĩa này quan trọng lắm. Vì ta vẫn biết, vẫn được nhắn nhủ rằng, người Ki-tô hữu hãy chọn Chúa Giê-su là người hướng dẫn cuộc đời mình. Nhưng vấn nạn mà nhiều người đặt ra là: Đúng là phải chọn Chúa làm người hướng dẫn, nhưng có thấy Người đâu ? Giả như đọc Thánh Kinh, đọc Tin Mừng, thì có biết bao nhiêu vấn đề thời sự mà mình không thể tìm thấy trong Thánh Kinh, trong Tin Mừng. Ví dụ: sinh sản vô tính, thụ thai trong ống nghiệm, vấn đề hạt nhân, và nhiều thử nghiệm của phòng thí nghiệm bị coi là vô luân...
Đúng là Chúa Giê-su không có mặt một cách hữu hình. Đúng là Tin Mừng không có sẵn lời giải đáp cho mọi vấn đề thời sự. Nhưng Chúa Giê-su vẫn tiếp tục hiện diện trong lòng Giáo Hội. Cũng ngay giữa lòng Giáo Hội, Người tiếp tục giảng dạy, giáo huấn Dân của Người. Đó là lý do lớn, là lời giải đáp tuyệt vời cho hình ảnh Chúa Giê-su bước vào khoang thuyền của Thánh Phê-rô chứ không phải bất cứ con thuyền nào khác. Đó cũng là ý nghĩa rất đẹp cho con thuyền Giáo Hội, dù biển yên hay sóng nổi, dù thăng hay trầm, Chúa Ki-tô vẫn luôn đồng hành cùng Giáo Hội. Chính Người lèo lái con thuyền mà tay Người tạo ra và chuộc về bằng giá máu của mình.
Đó chính là lý do sâu xa nhất khiến người Công giáo lắng nghe giáo huấn của Giáo Hội, cụ thể là nơi Đức Giáo Hoàng. Tôi nghe giáo huấn của Giáo Hoàng không vì Giáo Hoàng là người thông thái. Đức Pi-ô 12; Đức Phao-lô 6, Đức Gio-an Phao-lô 2... đều được coi là những nhà thông thái. Nhưng Đức Gio-an 23 đâu phải là nhà thông thái nổi bật, vậy mà ngài đã làm nên một cuộc cách mạng vĩ đại trong Giáo Hội với việc triệu tập Công Đồng Vatican 2. Từ đó, tôi càng tin chắc rằng, Chúa Ki-tô vẫn luôn hoạt động.
Lắng nghe các ngài vì trong cái nhìn Đức Tin, tôi thấy Chúa Ki-tô ngự trong lòng Giáo Hội và giảng dạy nhờ môi miệng của Giáo Hội. Đây là một xác tín quan trọng. Vì Có nhiều người tách biệt giữa Chúa Ki-tô và Giáo Hội. Họ vẫn thường la to: “Tôi tin Giê-su, nhưng không tin Giáo Hội. Tôi quý Giê-su nhưng không chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội”. Tách biệt như vậy là sai lầm, là đi ngược chính Thánh Ý của Chúa, vì Chúa Giê-su đã dùng Giáo Hội để cứu độ chúng ta.
Cho nên, ý nghĩ đầu tiên mà tôi đọc trong Tin Mừng hôm nay là: Thánh Lu-ca muốn gieo vào tâm hồn chúng ta những hình ảnh: Giáo Hội vừa là Mẹ, vừa là Thầy yêu thương, dẫn dắt, dạy dỗ, giáo huấn con cái mình là từng người trong chúng ta. Đó cũng là trách nhiệm loan báo Tin Mừng mà Chúa Ki-tô trao cho Giáo Hội. Vì khi chăm sóc con cái mình, chính là lúc Giáo Hội đang thực hiện công tác truyền giáo, có Chúa Ki-tô cùng hoạt động không ngừng.
Khi đọc lại trình thuật ơn gọi các Ngôn Sứ lớn trong Cựu Ước, ta thấy các ngài luôn ý thức thân: TN 5-C24
Khi đọc lại trình thuật ơn gọi các Ngôn Sứ lớn trong Cựu Ước, ta thấy các ngài luôn ý thức thân phận yếu hèn tội lỗi của mình trước sự thánh thiện, cao cả của Thiên Chúa.
Mô-sê, người chăn cừu cho nhạc phụ Giê-trô. Có một lần ông lùa đàn cừu tận núi Kho-rép, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ. Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi. Bị cuốn hút trong khung cảnh hùng vĩ ấy, ông chạy đến để nhìn xem. Khi ông tới gần, một tiếng nói uy nghiêm từ bụi gai tuyên phán: “Chớ lại gần, cởi dép ra vì đất ngươi đang đứng là Đất Thánh”. ( Xh 3, 1 – 5 ).
I-sai-a trong một thị kiến đã nhìn thấy Đức Chúa trong một khung cảnh huy hoàng của Đền Thờ. Ông thốt lên với tất cả nổi kinh sợ: “Khốn cho tôi vì môi tôi nhơ uế, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh” ( Is 6, 1 – 8 ).
Giê-rê-mi-a khi được Chúa gọi ông tìm cớ thoái thác, cũng như trong suốt đời ngôn sứ, đã nhiều lần ông thở ngắn than dài vì sứ vụ mang lại cho ông quá nhiều truân chuyên đau khổ. ( x. Gr 20, 9 ).
Trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay cũng cho thấy, qua phép lạ mẻ cá lạ lùng, hình ảnh Si-mon Phê-rô sắp mặt dưới chân Đức Giê-su thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Phê-rô cảm nhận được khoảng cách giữa mình với Chúa, giữa kẻ phàm trần tội luỵ với Đấng Thánh cao cả. Một người trong nghề như Phê-rô biết phải đánh cá khi nào và chỗ nào thì mới có cá. Bình minh ló dạng, trời sáng tỏ, nước lại trong, làm gì mà bắt được cá; hơn nữa lại ở gần bờ, làm gì có cá mà bắt ! "Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới". Vì thế, hơn ai hết, Phê-rô là người nhận ra phép lạ đầy thuyết phục đó, nên ông đã quỳ xuống trước mặt Chúa mà nhận ra thân phận hèn yếu của mình.
Cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay đều nói đến thân phận yếu đuối, hèn mọn của con người trước Đấng Thánh. I-sai-a thấy môi miệng mình ô uế, Phao-lô thú nhận: “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các Tông Đồ” và Phê-rô xem mình là người tội lỗi.
Các Ngôn sứ, các Tông đồ luôn có tâm trạng kinh hãi đến run sợ. Mà tại sao phải kinh khiếp và run sợ ? Nổi run sợ phát xuất từ cảm nhận cùng một lúc sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và thân phận tội lỗi của mình. Cảm nhận khoảng cách tuyệt đối giữa Thiên Chúa Chí Thánh và con người yếu đuối; giữa sứ vụ trọng đại và thân phận hèn mọn bé bỏng của mình. Ý thức khoảng cách ấy làm cho người ta run sợ đến nổi phải kêu lên “Khốn cho tôi” và tìm đường chạy trốn.
Càng ý thức mình là cát bụi mỏng manh, con người càng hạnh phúc khi biết mình được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn trao sứ vụ. Mặc dù run sợ nhưng được mời gọi giao trọng trách lại là một niềm cuốn hút đến mê say. Như Mô-sê bị cuốn hút bởi bụi gai bốc cháy mà không thiêu rụi. Như I-sai-a mê say sự thánh thiện của Thiên Chúa. Như Giê-rê-mi-a cảm nhận lòng mình nóng bỏng tựa lửa thiêu đốt. Như Phê-rô trở nên người chài lưới người, như Phao-lô làm Tông Đồ Dân Ngoại. Tác giả thánh vịnh đã bày tỏ niềm vinh dự ấy “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm ? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên” ( Tv 8, 5 – 6 ).
Thiên Chúa thích kêu gọi những người tự thấy mình hèn mọn yếu đuối, để họ trở thành một dụng cụ tốt dưới tay Ngài. Chính khi sử dụng những người như thế, Thiên Chúa mới biểu lộ quyền năng và sức mạnh của Ngài. Nếu sử dụng những người tài giỏi, mọi người sẽ nghĩ rằng sự thành công đó là do tài trí và sức mạnh của con người chứ không phải do quyền năng của Ngài. Ngay cả những người được Ngài dùng cũng có thể tự hào như vậy. Đường lối Thiên Chúa, vốn rất khác xa với đường lối loài người.
Rất nhiều người làm công việc của Chúa, nhưng lại đề cao cái tôi của mình. Họ muốn công việc của Chúa phải được thực hiện theo cách thức của họ, thậm chí họ muốn biến công việc của Chúa thành công việc của chính ho. Họ muốn rằng sau khi hoàn thành, mọi người nhìn vào đó mà nể phục họ, tôn vinh họ. Vì thế, trong công việc ấy, Chúa chỉ đóng một vai trò phụ thuộc, còn họ mới đóng vai trò quan trọng và chính yếu. Những người như vậy muốn quan trọng hóa mình, tìm vinh quang cho mình, muốn thay thế Chúa, dành phần của Ngài trong công việc. Họ quên rằng họ đang làm công việc của Chúa chứ không phải của mình.
Lắm khi con người đã hết sức nỗ lực mà vẫn không kết quả. Như Phê-rô vất vả đánh cá suốt đêm mà chẳng được gì. Nhưng khi để Chúa hướng dẫn, làm chủ công việc, thì thành quả lại lớn lao. Phê-rô đã vâng lời. Ông đã tin vào lời mời của Chúa: "Nhưng dựa vào lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Ông thả lưới chỉ vì ông tin vào lời của Thầy. Chắc Phê-rô đã có một kinh nghiệm nào đó về sức mạnh của lời này: “lời giảng đầy uy quyền” ( Lc 4, 32 ), “lời đuổi quỷ” ( 4, 35 ), “lời có uy quyền và uy lực ( 4, 36 ), lời chữa mẹ ông khỏi bệnh” ( 4, 39 ).
Tin vào Lời Chúa đòi hỏi phải từ bỏ kiểu lý luận rất vững chắc xét theo cách người đời, để sống cái mong manh của Thiên Chúa trong một niềm tin không lay chuyển. Tin vào Lời Chúa đòi ra khơi buông lưới một lần nữa, lúc đã mệt nhoài. Công việc tông đồ, việc mục vụ, giáo dục, đào tạo, bác ái, mưu ích lợi cho tha nhân có thể nói đều tương tự như việc đánh cá của Phê-rô. Nếu biết tin vào Lời Chúa, làm theo ý Chúa, không theo ý riêng mình thì dễ mang lại những thành quả tốt đẹp.
Các Ngôn Sứ, các Tông Đồ đều nhìn nhận mình là kẻ yếu đuối, tội lỗi, bất xứng, không chỉ trước mặt Chúa, mà còn trước công việc Chúa giao phó nữa. Nhờ vậy mà càc ngài đã làm nên những việc vĩ đại, và trở nên những vị thánh lớn, không phải vì các ngài tài giỏi trong những công việc làm cho bằng ý thức được sự bất lực và dốt nát của mình, nên hoàn toàn để Chúa hành động. Khi làm việc của Chúa luôn ý thức mình chỉ là người thừa hành, là dụng cụ, và cố gắng đem hết tâm lực để chu toàn. Và sau khi đã làm hết mình thì tự nhủ: “tôi chỉ là một người đầy tớ vô dụng” ( Lc 17, 10 ). Làm theo ý Chúa, không theo ý riêng. Đó là bí quyết thành công khi làm những công việc mà Chúa trao phó.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa chọn Phê-rô, một người đánh cá ít học để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội, có lẽ vì ông nhìn nhận mình yếu hèn tội lỗi với tất cả lòng mến chân thành. Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết tin vào Lời Chúa, biết cậy dựa vào quyền năng của Chúa, luôn mê say công việc của Chúa trao. Amen.
Tại sao Chúa Giê-su chọn bốn môn đệ đầu tiên trong hàng ngũ những người đánh cá ? Ngài có: TN 5-C25
Tại sao Chúa Giê-su chọn bốn môn đệ đầu tiên trong hàng ngũ những người đánh cá ? Ngài có dụng ý gì chăng ? Phải chăng tiêu chí đầu tiên cần cứu xét để tuyển chọn vào đời sống tông đồ là phải dạn dày sương gió, phải sẵn sàng xông xáo giữa biển đời đầy bão tố cuồng phong ?
Có lẽ chính vì đã quen chịu nhọc nhằn trên biển cả, nhiều phen đối đầu với bão táp, thách thức với cuồng phong mà Si-mon và các bạn chài của anh đã “lọt vào mắt xanh” của Chúa Giê-su ? Nhưng trước khi kêu gọi Phê-rô và các bạn chài của anh dấn bước vào công cuộc loan báo Tin Mừng đầy gian khổ, Chúa Giê-su muốn dạy cho các anh bài học vỡ lòng. Ngài truyền cho các anh chèo ra chỗ nước sâu... Dù mệt mỏi và chán nản vì phải lao nhọc suốt đêm mà chẳng được tích sự gì, các anh vẫn vâng lời Chúa Giê-su để ra khơi, để chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Nhờ đó, các anh đã trúng một mẻ cá rất tuyệt vời. Qua đó, các anh học được bài học đầu tiên: “Muốn bắt được nhiều tôm cá, thì hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu”.
CUỘC RA KHƠI CỦA CHÚA GIÊ-SU
Ngự trên ngai Trời mà cứu thế, mà phán dạy loài người, hãy ít ra, dùng các Ngôn Sứ mà phán dạy, thì ‘đỡ khổ’ hơn nhiều. Nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã không làm như thế. Ngài đã rời bỏ bờ bến an toàn và đầy đủ tiện nghi, đã bỏ hết mọi sự lại đằng sau để ra khơi. “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân...” ( Pl 2, 6 – 7 )
Ngài phải mạo hiểm đến chỗ nước sâu nhất: sinh ra trong máng cỏ thấp hèn, đến ngụ nhờ nhà người tội lỗi, hoà mình với những người tội lỗi để xin nhận phép rửa bên bờ sông Gio-đan, chịu chết đau thương tủi nhục giữa những tên gian phi, chịu mai táng trong mồ... Rồi, thay vì yên vị trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mà giảng dạy hoặc ít ra ngồi giảng trong các hội đường vào các ngày sa bát như các ráp-bi Do Thái, Chúa Giê-su đã xông xáo vào khắp hang cùng ngõ hẽm để loan Tin Mừng: trên triền núi, giữa đồng hoang, bên bờ giếng, bên bờ biển, bờ hồ…
CUỘC RA KHƠI CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ 2
Noi gương Chúa Giê-su, vị đại diện của Ngài là Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu vừa nguy hiểm. Qua 25 năm trong triều đại Giáo Hoàng, Ngài đã thực hiện 95 chuyến công du ngoài nước Ý, 140 chuyến công du trong nước Ý ( không tính Rô-ma ), 726 lần thăm viếng trong thành Rô-ma, thăm viếng 130 quốc gia, 604 thành phố. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền Thờ Hồi Giáo cổ kính tại Xy-ri-a vào năm 2001. Tính ra, Ngài đã đi công du 1.400.607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.
Ngài đã “chèo” đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những “miền đất thánh của Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo”, vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, không cho ngài bày tỏ lòng quý mến của ngài đối với quê hương của họ qua việc hôn đất, lại đòi ngài phải xin lỗi họ... ( như trong chuyến tông du tại Hy-lạp vào tháng 5 năm 2001 ), đến cả những nơi mà tính mạng ngài đang bị hăm doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng dấn thân vào những “chỗ nước sâu”, những vũng xoáy, những nơi sóng gió… mà không hề biết sợ là gì, miễn là Tin Mừng được loan báo.
HỘI THÁNH ĐANG MỜI GỌI CHÚNG TA RA KHƠI
Trong Tông Thư Novo Millennio Ineute được công bố vào ngày kết thúc đại năm thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Phao-lô 2 khẩn thiết kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trên khắp thế giới hãy “Chèo ra chỗ sâu” ( Lc 5, 4 ) để thả lưới, vì “một thiên niên kỷ mới đang mở ra trước mặt Hội Thánh như là một biển cả mà chúng ta sẽ mạo hiểm trong đó, cậy dựa vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa” ( số 58 )
Trong dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam triều yết Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 nhân chuyến đi viếng mộ hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô vào ngày 22.1.2002, vị Cha chung của Hội Thánh cũng mời gọi Giáo Hội Việt Nam hãy ra khơi. Ngài ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: “Giáo Hội Việt Nam được mời gọi ra khơi: Tôi muốn khích lệ anh em hãy hết sức quan tâm rao giảng Tin Mừng và truyền giáo...”
Thủ lãnh của chúng ta là Chúa Giê-su đã dấn thân vào chỗ nước sâu như thế, vị lãnh đạo của Hội Thánh là đương kim Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã liên tục ra khơi như thế... thì với tư cách là thân mình, chúng ta không còn chọn lựa nào khác là cùng chèo ra chỗ nước sâu với Chúa Ki-tô, cùng ra khơi với Hội Thánh.
Lạy Chúa, con xin thú lỗi với Chúa là con chỉ muốn bám chặt mặt đất bằng cho yên ổn và chẳng hề muốn ra khơi, vì ra khơi thì nhọc nhằn quá, phải hy sinh nhiều thứ quá mà đời sống lại rất đỗi bấp bênh và dẫy đầy nguy hiểm. Thậm chí con cũng không hăm hở bắt cá trên bờ: Khi có những người tân tòng đến học đạo, con đã hẹn rày hẹn mai mà không sẵn sàng giảng dạy Tin Mừng ngay cho họ. Ước gì đời sống ra khơi của Chúa sẽ là một nhắc nhở không ngừng để con noi theo mà dấn bước. Ước gì tấm gương chèo ra chỗ nước sâu đầy hiểm nguy sóng gió của Đức Thánh Cha là một thôi thúc liên tục thúc giục con lên đường đến với anh em con.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô và các bạn đồng nghiệp của: TN 5-C26
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô và các bạn đồng nghiệp của ông làm tông đồ cho Ngài. Sau khi giảng dạy cho đám đông dân chúng ở bờ hồ Gienesaret Chúa Giêsu đã lên thuyền của Phêrô. Ngài bảo ông hãy thả lưới ra khơi đánh cá. Vâng theo lời Chúa, Phêrô đã thu được một kết quả bất ngờ: lưới đầy cá đến độ muốn rách. Qua mẻ cá dư đầy Chúa ban cho Phêrô nhắc chúng ta nhớ đến ơn gọi của mỗi người Kitô hữu. Chúng ta cũng được Chúa mời gọi hãy ra khơi thả lưới, không phải là đánh cá, nhưng là chinh phục lòng người, rao giảng Lời Chúa để ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa và gia nhập Giáo hội. Đó chính là sứ mạng truyền giáo của chúng ta.
1. Rao giảng Lời Chúa:
Khác với thái độ chối từ Lời Chúa Giêsu rao giảng của những người đồng hương Nagiarét như được ghi lại trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng hôm nay mở đầu với một đám đông dân chúng đang chen lấn nhau đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Điều đó chứng minh rằng Lời Chúa bao giờ cũng có sức thu hút lòng người một cách kỳ diệu. Người ta kéo đến với Chúa chỉ để nghe lời Ngài giảng. Một cách nào đó khi nghe những gì Chúa Giêsu giảng người ta đã thầm công nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đấng giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Vì Chúa Giêsu không rao giảng điều gì khác ngoài lời Thiên Chúa. Ngài chỉ nói với con người về Thiên Chúa và về mầu nhiệm con người. Ngài đến trong thế gian để nói Lời Chúa cho con người bằng chính ngôn ngữ con người. Và kể từ đó cho đến nay, đã trải qua hơn hai ngàn năm những lời Chúa Giêsu rao giảng vẫn còn có giá trị. Ngày nay vẫn còn những con người nhiệt thành tiếp tục đi rao gỉảng Tin Mừng khắp mọi nơi trên thế giới. Khởi đầu là Chúa Giêsu, nhà truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất cho đến các vị tông đồ, các vị thừa sai, rồi đến mỗi người Kitô hữu hôm nay, tất cả mọi người ai cũng được giao cho chung một sứ mạng là hãy đem Lời Chúa đi khắp mọi nơi. Tuy nhiên, không một Kitô hữu nào được phép rao giảng một chân lý riêng nào mà không dựa trên Lời Chúa. Đến lượt người Kitô hữu, chúng ta không thể từ chối sứ mạng cao quí đó mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho Giáo hội và cho mỗi người Kitô hữu khi chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy. Dù không phải là nhà thừa sai, không phải là Linh mục, cũng không phải là một tu sĩ, nhưng chúng ta không được sao nhãng sứ mạng rao giảng Lời Chúa cho người khác. Chỉ khác một điều là mỗi người Chúa ban cho một ơn riêng, có phương thế và trong một phạm vi cụ thể để rao truyền Lời Chúa.
Người tín hữu giáo dân đem Lời Chúa vào cuộc sống, đến những sinh hoạt rất đời thường để làm thăng tiến những vấn đề của xã hội. Chúng ta có môi trường sống riêng để rao giảng Lời Chúa, để đem Chúa vào đời và làm cho đời thấm nhuần Tin Mừng. Có thể nói ơn gọi Kitô hữu bao hàm việc rao giảng Lời Chúa cho tha nhân và sống triệt để những gì mình rao giảng. Như vậy đối với người Kitô hữu cuộc sống và lời nói chỉ là một mà thôi, chúng ta chỉ sống những gì mình nói, và chỉ nói những gì đã thực hành trong cuộc sống.
2. Kitô hữu, người được Chúa kêu gọi:
Chúa Giêsu bận tâm đến chuyện phải có thêm nhiều người rao giảng Lời Chúa. Chính vì thế mà Ngài đã kêu gọi Phêrô và các bạn ngư phủ của ông đi theo Ngài. Tựu chung họ chỉ là những con người rất tầm thường trong xã hội, những anh ngư phủ nghèo nàn, ít học, suốt ngày lam lũ ngoài biển khơi. Nhưng Chúa đã thương kêu gọi họ. Chúa lên thuyền của Phêrô và bảo ông hãy thả lưới bắt cá. Ra khơi là hình ảnh biểu trưng mang ý nghĩa về ơn gọi loan báo Tin Mừng. Không một chút chần chừ, Phêrô đã làm theo lời Ngài. Một mẻ cá phong phú Chúa ban cho Phêrô nằm ngoài sức tưởng tượng của con người. Kết quả thu được thật quá bất ngơ, lưới đầy cá. Cứ tưởng vào ban ngày làm gì bắt được cá. Phêrô đang ở trong tâm trạng buồn chán thất vọng vì suốt cả một ngày vất vả mà chẳng thấy con cá nào. Nào ngờ mẻ cá lạ lùng Chúa Giêsu ban cho ông đã mở ra nhiều vấn đề khác.
Đứng trước Chúa theo Tin Mừng Luca ghi lại Ông sắp mình xuống và thưa rằng:” Lạy Thầy xin tránh xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi”. Ông tiến thêm một bước nữa trong lòng tin ở Chúa. Trước đây vì tin Ngài mà ông đã thả lưới đánh cá và giờ đây cũng vì tin mà ông bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Ông nhận ra quyền năng của Thiên Chúa ở nơi Chúa Giêsu và cũng chân thành nhìn nhận những lầm lỗi khyết điểm của mình trước mặt Chúa là Đấng quyền năng tốt lành. Đó là thái độ mẫu mực cho hết mọi người Kitô hữu khi nghe được tiếng Chúa kêu gọi.
Từ mẻ cá lạ lùng đến ơn kêu gọi tông đồ cũng hết sức lạ lùng. Chúa kêu gọi Phêrô trở thành người chài lưới điêu luyện, từ lưới cá sang lưới người: “Từ nay anh sẽ lưới người như lưới cá”. Như thế Phêrô được Chúa kêu gọi ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, đem Lời Chúa đến cho tha nhân. Ông rất bở ngở trước lời kêu gọi nhưng cũng nhanh nhẹn đáp lại tiếng Chúa. Và ơn gọi của Phêrô cũng chính là ơn gọi của chúng ta
Từ việc Chúa kêu gọi Phêrô chúng ta hiểu thêm về kinh nghiệm ơn gọi. Chúa kêu gọi chúng ta không dựa trên những tiêu chuẩn mà người đời thường đặt ra. Chúa kêu gọi chúng ta một cách nhưng không, không phải Chúa chỉ thích gọi những người học thức, tài giỏi, đạo đức, có địa vị, giàu sang. Chúa chọn người tiếp nối công việc của Ngài chỉ vì Ngài yêu thương người đó. Chính tình yêu thương là động lực để Thiên Chúa làm mọi sự cho con người. Chúa kêu gọi chúng ta ngay trong cuộc sống đời thường, qua những biến cố lớn nhỏ trong đời người, những lúc chúng ta đang vui mừng hạnh phúc, những lúc chúng ta đang chán chường thất vọng và không tin vào ai.
Vì thế người được Chúa gọi phải mau mắn đáp trả. Giống như Phêrô và các bạn đồng nghiệp chúng ta hãy tử bỏ mọi sự để dứt khoát theo Chúa. Thực ra Kitô hữu theo đúng nghĩa là những người thuộc vể Chúa và có Chúa ở cùng. Chính vì Chúa mà người Kitô hữu dám bỏ mọi sự mà người đời xem là hạnh phúc để chỉ đeo đuổi một niềm hạnh phúc duy nhất là hạnh phúc Nước Trời. Cho nên người Kitô hữu cũng không quên nghĩa vụ chia sẻ niềm hạnh phúc mà mình đang tận hưởng cho người khác. Cùng với tất cả những người thiện chí, người Kitô hữu quyết tâm xây dựng Nước Trời khởi đầu ngay tại thế này với mô hình cuộc sống công bằng, yêu thương, huynh đệ và liên đới trách nhiệm.
Ơn gọi người Kitô hữu là sống cho Chúa, tin tưởng tuyệt đối ở Ngài và giúp người khác tin nhận Chúa. Như Phêrô và các ban như phủ của ông, người Kitô hữu được Chúa kêu gọi ra khơi thả lưới đánh cá, nghĩa là chinh phuc lòng người, rao giảng Lời chúa hay loan báo Tin Mừng cho đồng bào ruột thịt. Tuy cách diễn tả có khác nhau nhưng tựu chúng đó là chỉ sứ mạng truyền giáo mà khi nói đến người tín hữu bình dân nào cũng hiểu
3. Ơn gọi Kitô hữu - Sứ mạng loan báo Tin Mừng:
Đọc bài Tin Mừng này trong năm Thánh truyền giáo chúng ta lại được Chúa thôi thúc mạnh mẽ sứ mạng hãy ra khơi loan báo Tin Mừng. Năm nay Giáo Hội Việt Nam kỉ niệm 470 năm đón nhận Tin Mừng ( 1533-2003 ), do đó hướng mọi sinh hoạt và cầu nguyện về sứ mạng làm sao để sống và loan báo Tin Mừng cho người khác trong bối cảnh đấ nước và thế giới ngày nay.
Trong thư chung này Hội Đồng Giám Mục đã trình bày khá chi tiết và rõ nét đường hướng loan báo Tin mừng của cả Giáo Hội Việt Nam cũng như phần việc cụ thể của mỗi Kitô hữu. Sống ơn gọi Kitô hữu ngày nay chính là tìm ra cách thế phù hợp để loan báo Tin mừng. Chúng ta cùng trích một số tư tưởng trong thư chung để suy gẫm, tìm hiểu cách sống ơn gọi Kitô hữu thiết thực và hiệu quả trong bối cảnh hôm nay. Trước hết là hãy trở về với nguồn mạch ơn gọi nơi chính Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, qua việc bắt chước Người: Noi gương Chúa Giêsu Kitô Chúa Giêsu là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất … Để rao giảng Tin Mừng, Ngài đã không biết mệt mỏi đi đến khắp mọi nơi, tiếp xúc với tất cả mọi hạng người, thực hiện rất nhiều việc lạ lùng để làm chứng Nước Chúa đã đến. Xác định rao giảng Tin Mừng theo ý Chúa Cha là lẽ sống (x. Mc 1,38; Lc 4,43) nên Ngài hiến trọn cuộc đời, đến tự nguyện hy sinh cả mạng sống, chấp nhận cái chết tủi nhục trên Thánh Giá để hoàn thành thánh ý Chúa Cha. (TCHĐGMVN, 2003, số 3). Đồng thời, trung thành với truyền thống của Hội Thánh sơ khai. Chúa Giêsu đã thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo Tin Mừng (x. Mc 16,15; Mt 28,19-20). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội Thánh không hiện hữu cho mình nhưng cho con người và với con người. Hội Thánh hiện hữu là để loan báo Tin Mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô (x. Mt 28,19) đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác về lại một mối (x. Ga 10, 52). (TCHĐGMVN, 2003, số 4). Từ đó, Hội Đồng Giám Mục đã đề ra những cách thế phù hợp với những cách sống năng động như cầu nguyện. Nêu gương sống lương tâm công giáo. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống. Người tín hữu giáo dân hãy nỗ lực cùng với đồng bào xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đăc biệt hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng làm chứng về sự hiện diện của Nước Thiên Chúa. Thăm viếng thân hữa các thành viên tôn giáo bạn. Việc thăm viếng các thành viên tôn giáo bạn và nhất là thăm viếng các gia đình cũng như cá nhân ngoài công giáo là trình bày Phúc Âm một cách cụ thể. Thăm viếng để chúc mừng khi vui, an ủi khi buồn, nâng đỡ khi gặp hoạn nạn là những trang Phúc Âm sống động giúp anh chị em ngoài công giáo nhận rõ chân dung Chúa Giêsu Cứu Thế và hiểu biết đạo Chúa một cách chính xác hơn. Và Làm việc bác ái, việc bác ái cụ thể được thấy qua những cứu trợ thiên tai, giúp đỡ người nghèo về mọi mặt. Việc bác ái trong lâu dài phải nhắm đến phát triển toàn diện, giúp người nghèo có một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, vì “Phát triển là tên gọi mới của hòa bình” (x. Progressio Populorum). Những hoạt động xã hội bác ái là những lời rao giảng dễ được đón nhận.
Sau mẻ lưới lạ lùng ở bờ hồ Giênêsaret như thánh Luca kể lại, thì thánh Phêrô sấp mặt xuống: TN 5-C27
Sau mẻ lưới lạ lùng ở bờ hồ Giênêsaret như thánh Luca kể lại, thì thánh Phêrô sấp mặt xuống dưới chân Chúa Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Tự nhiên độc giả thắc mắc: Thánh nhân phạm tội gì to lớn đến nỗi cảm thấy xấu hổ, xin Chúa tha thứ? Không thấy thánh Luca liệt kê những tội đó và có thực thánh Phêrô thuộc hàng ăn chơi khét tiếng như Maria Madalena? Thực tế đây là lần đầu tiên chúng ta đối diện với thánh nhân trong Phúc Âm Luca. Sau khi Chúa Giêsu chữa bệnh sốt rét cho mẹ vợ thánh nhân (4,38) và một vài cuộc hội ngộ khác, chúng ta không thấy Phêrô phát biểu điều chi. Vậy thì tại sao lần này với tất cả chân thành ông van xin Chúa tha tội cho mình? Mà cứ theo não trạng Do Thái, thì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi. Phải chăng ông đã nhận được một mặc khải to lớn?
Nói chi thì cũng là ước đoán. Phêrô trên thực tế cũng như chúng ta hoặc ngàn vạn người khác. Ông đã có gia đình và một người con gái, hàng ngày đi kiếm cơm cho vợ con bằng nghề chài lưới. Tức ông là một người cha, một người chồng lương thiện, cố gắng làm gương sáng cho vợ con và hàng xóm láng giềng, hắng ngày cầu xin cho có đủ sức khoẻ nuôi nấng vợ con, chu toàn trách nhiệm của một kẻ nam nhi, làm chủ gia đình. Ông không thể bị coi như một người xấu, phạm tội ghê gớm. Đa phần chúng ta cũng thế, so sánh với những phạm nhân nổi tiếng của thế giới thì Phêrô chẳng thấm vào đâu, không đáng là một bóng mờ nhỏ xíu trên màn ảnh bạo lực hàng ngày. Tuy nhiên câu nói của ông vẫn còn đó, vang vọng khắp năm châu, bốn biển từ hai ngàn năm qua: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”. Không phải vì Phêrô quá xấu xa, nguy hiểm, nhưng vì so sánh với cái vĩ đại ông vừa thoáng thấy nơi Chúa Giêsu, thì ông quả thật là thân sâu bọ. Ông sợ hãi khi được tận mắt chứng kiến một Thiên Chúa toàn năng đang hiện diện trước mặt. Một luồng sáng vĩ đại, một sự hiển linh chói lọi xuyên qua không gian và thời gian. Trước mặc khải to lớn này ông thấy mình quá nhỏ bé, hèn hạ, không xứng đáng và… vâng, một tội nhân. Có lẽ ông đã theo Chúa nửa vời, chưa đáp trả ơn gọi của Ngài trọn vẹn, chưa toàn tâm toàn ý dấn thân theo Ngài phục vụ tha nhân, chưa thúc giục nước Ngài trị đến bằng các hy sinh của mình. Có lẽ trước mẻ cá lạ lùng trong đời, Phêrô nhận ra Thiên Chúa rộng lượng vô biên mà mình thì bần tiện, bẩn thỉu, hoặc có lẽ đơn giản là ông cảm thấy bóng mình mờ nhạt trong một luồng sáng quá rực rỡ, quá chói loà. Phải chăng cảm nghĩ của Phêrô cũng là cảm nghĩ của mỗi tín hữu, mỗi người chúng ta trước thánh nhan Thiên Chúa, nhất là sau khi rước lễ? Xin cố gắng sống thế nào để chúng ta cũng được hàng ngày cảm nhận như Phêrô! Chỉ có thế mới xứng đáng là kẻ theo Ngài như Phêrô và các bạn tông đồ của ông.
Điều này không phải là ước vọng viển vông, trái lại có thể thực hiện được, nếu chúng ta có tâm tình và nếp sống lương thiện. Mới đây tôi gặp một bà lão 80 tuổi thuộc hệ phái Tin Lành Baptist. Bà từng là nhà truyền giáo ở Phi Châu, chăm sóc các bệnh nhân và những người cùng khổ. Bà và chồng đã xây một bệnh viện tại đó và huấn luyện các dân địa phương thành y tá, bác sĩ để tiếp tục công việc khi họ về hưu, vì tuổi già sức yếu. Năm nay ông bà đã trở về Mỹ nghỉ ngơi nhưng vẫn đọc Kinh Thánh và cầu nguyện hàng ngày. Qua ngần ấy năm công tác bác ái, bà nhận ra một điều: God is so big and we are so puny = Thiên Chúa quá vĩ đại và chúng ta quá nhỏ bé. Ở đây không phải là chuyện giả đò, nó là sự chân thật của một bà già đã quá tuổi bát tuần. Đối diện với sự vĩ đại, mênh mông của Thiên Chúa qua cuộc đời dài, bà cũng cảm nhận giống hệt Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”, “God is so big and we are so puny”. Sau mẻ lưới lạ lùng của Phêrô và các bạn hay sau một cuộc đời hết tâm phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, với những lời cầu nguyện chân thành, những hy sinh nguyện ngắm, người ta đến cùng một kết luận mà bài Tin Mừng hôm nay diễn tả sâu sắc tuyệt vời!
Đó cũng là kinh nghiệm của tiên tri Isaia trong bài đọc 1 và thánh Phaolô trong bài đọc 2. Tất cả đều nói về ơn Thiên Chúa kêu gọi và sự thánh thiện mênh mông của Ngài, sự nhỏ bé của con người. Năm 740 tcn, Isaia mới 20 tuổi, được thị kiến xem thấy đền thờ Giêrusalem huy hoàng. Thiên Chúa ngự trên ngai cao oai phong rực rỡ, tà áo của Ngài bao phủ đền thờ. Các thần sốt mến đứng chầu và la to: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Thiên Chúa các đạo binh là Đấng Thánh, cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa.” Isaia sợ hãi thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người miệng lưỡi ô uế”. Isaia phản ứng lại sự thánh thiện vô biên của Thiên Chúa, giống như Phêrô trong Phúc Âm hôm nay, hoặc bà bạn Baptist của tôi. Thiên Chúa quá vĩ đại và chúng ta quá bé nhỏ. Trước mặc khải của Thiên Chúa, Isaia cảm thấy tội lỗi: “Vì miệng lưỡi tôi nhơ bẩn”. Thiên Chúa trả lời: “Đây, cái này chạm đến môi ngươi, ngươi sẽ được tha lỗi và xá tội”. Ngài thực hiện công việc Ngài thường làm, Ngài dùng con người bình thường của Isaia để làm xướng ngôn viên cho Ngài giữa lòng dân Do Thái cứng cổ và chai lì. Ngài khởi sự lại tiến trình tạo dựng nơi bản thân Isaia, biến đổi ông thành ngôn sứ vĩ đại với tất cả sự yếu đuối, mỏng giòn, giới hạn của một thân phận loài người. Xin nhớ đây chính là Thiên Chúa tạo dựng muôn loài muôn vật từ hư vô. Ngài đã thanh tẩy Isaia, để ông loan báo sứ điệp cho thế giới. Thiên Chúa sẽ nói qua Isaia những điều dân Israel cần nghe. Cho tới hôm nay con người “miệng lưỡi chẳng sạch” đã thành phát ngôn viên của Thiên Chúa can đảm và bền vững. Loài người đã được dạy bảo bao nhiêu tốt lành qua sứ vụ Isaia. Cũng ở trong cảnh ngộ hoàn toàn trùng hợp, Thiên Chúa lựa Phêrô, các tông đồ, thanh tẩy miệng lưỡi, trí lòng, tâm hồn họ và sẽ hoạt động qua các ông. Giống Isaia, các ông biết rõ giới hạn của mình, nhưng vẫn sẵn sàng thưa lại: “Dạ, con đây, xin sai con đi”. Phúc Âm Luca kể: Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người. Năm thánh truyền giáo này chúng ta nói được như vậy không? Hội Thánh Việt Nam dám can đảm như Isaia và các tông đồ không? Xin mọi người cùng suy gẫm và sửa sai.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô ý thức mình được Thiên Chúa chọn: “Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non. Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng ông không cậy vào sức riêng mình mà hoàn toàn dựa vào Thiên Chúa: “Nhưng tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Rõ ràng thánh Phaolô cũng là nhân chứng chính hiệu việc Chúa Giêsu sống lại. Vì Ngài đã hiện ra với ông trên đường đi Damas (câu 35). Và ông cũng nỗ lực rao giảng biến cố này, chịu khốn khổ, tù đày, cuối cùng chịu chém đầu vì danh Đức Kitô. Ơn kêu gọi của Phaolô không thua kém Isaia và Phêrô: “Này con xin đến để làm theo ý Thiên Chúa”.
Xin lưu ý đến cách gọi tên của thánh Luca trong Phúc Âm. Trước mẻ lưới ông Phêrô được gọi bằng Simon, tên cũ của ông. Ông và các bạn làm việc khó nhọc suốt đêm mà không được con cá nào: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không được gì cả”. Tự thân loài người không thể đạt được những cao vọng mà Thiên Chúa đã trù tính cho mình. Khi Simon nhận ra quyền phép Thiên Chúa trong Đức Kitô, ông sợ hãi và được thánh Luca gọi bằng cả hai tên: Simon-Phêrô. Có lẽ thánh sử Luca muốn cho chúng ta hay có một sự chuyển đổi trong con người Phêrô. Từ cũ cho tới mới, từ bác thuyền chài lao động suốt đêm trắng tay cho đến một thủ lãnh thành công với lời hứa trợ giúp của Chúa Giêsu. Khi Phêrô tự thân chài lưới, ông chẳng bắt được chi. Nhưng với đức vâng lời và Chúa Giêsu ở cùng, công việc của ông trở nên hiệu quả không thể tưởng tượng nổi. Cuộc đời ông đã có định hướng và mục tiêu. Cuộc đời mỗi tín hữu cũng vậy, không có Chúa cùng làm việc, chúng ta lao động luống công, nhất là trên cánh đồng truyền giáo. Hội Thánh chỉ thành công nếu có Chúa ở trên thuyền. Đây là kinh nghiệm thực sự đã xảy ra chứ không phải lý thuyết suông. Vì vậy, muốn cho việc truyền giáo trong năm thánh có hiệu quả, chúng ta phải cải tổ nếp sống, mời Chúa Giêsu ngự trị trong các hoạt động của mình. Ngoài ra chỉ là sắp xếp lại các sự kiện đã cũ trong cuộc sống mỗi người. Chẳng phải vô tình mà thánh Luca đã dùng các tên khác nhau mà gọi Phêrô trong những giai đoạn khác nhau.
Từ công đồng chung Vatican II, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy nghĩ nhiều về bài Tin Mừng hôm nay. Quyền năng Thiên Chúa và sự phong phú của ơn gọi mỗi người không thường xuyên xảy ra trong nơi thờ phượng, giờ cầu nguyện mà là ở nơi con người lao động. Các nông gia, thợ thuyền, ngư phủ gặp gỡ Thiên Chúa khi đang vật lộn với công việc của mình. Thiên Chúa gọi chúng ta khi khi làm việc kiếm sống. Thiên Chúa mời gọi mỗi người cộng tác vào chương trình Ngài đã hoạch định cho nhân loại, tức thăng tiến Nước Trời. Tin Mừng hôm nay khuyến khích tín hữu coi lại công việc mình đang thực hiện ở gia đình, nơi làm việc, nhà trường, láng giềng và toàn thể thế giới. Thực sự chúng ta có đang lao động với Thiên Chúa không? Nhiều tín hữu giữ đạo sốt sắng, nhưng không thấy mối liên kết giữa đức tin và những cách thức sinh sống của mình, nhất là ở những nơi làm việc hàng ngày. Đi nhà thờ thì vận áo phụng vụ, ra khỏi thì cởi áo cất đi và cất luôn đức tin của mình vào tủ, sinh hoạt như những người vô đạo, thậm chí còn tệ hơn. Có một sự phân rẽ rõ rệt giữa đức tin và đời sống, thử hỏi làm sao chúng ta có thể trở nên muối men cho nhân loại? Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã từng nhận xét: Thế giời ngày nay cần chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Giêsu hơn thầy dạy. Ngược lại chúng ta ưa làm thầy dạy hơn làm chứng nhân. Tương tự một mục sư Tin Lành nói về Giáo Hội Tây Phương: “There‘s Tremendous prayer but little penance” (nhiều lời cầu nguyện nhưng rất ít việc đền tội). Trong khi Phúc Âm dạy: cầu nguyện, ăn chay và bố thí đi song hành, không tách rời được, việc nọ bổ túc cho việc kia, thiếu một việc là không trọn Phúc Âm.
Cho nên vai trò của người tín hữu rất quan trọng trong thế giới đời thường. Họ cũng đựơc Thiên Chúa kêu gọi làm muối và ánh sáng trong sinh hoạt hàng ngày như các linh mục và tu sĩ. Một tín hữu tốt không nhất thiết phải cầu nguyện nhiều giờ trong thánh đường hoặc sinh hoạt hăng say trong nội bộ đoàn hội. Ơn gọi của họ là làm chứng giữa đời. Họ phải sống thế nào cho thế giới thấy được: Thiên Chúa quá vĩ đại về tình thương, sự thánh thiện và chúng ta quá nhỏ bé bần tiện. Câu chuyện hôm nay xảy ra trên bờ hồ, chỗ có nước, không phải là vô tình, ít ý nghĩa. Thiên Chúa cũng đã kêu gọi chúng ta làm nhân chứng cho Ngài ở chỗ có nước, giếng rửa tội. Chúa Giêsu đã nhìn thấy Phêrô và các bạn sẽ trở thành “những kẻ chài lưới người ta”. Ngài cũng nhìn thấy mỗi linh hồn xin chịu phép thanh tẩy một chứng nhân tương lai cho Phúc Âm của Ngài.
Chúng ta cầu nguyện xin Thiên Chúa cho mình nhận ra sự thánh thiện sáng ngời nơi công việc đời thường và nghe rõ tiếng Chúa mời gọi mỗi người. Thánh Thể là nơi thuận tiện nhất để Chúa Giêsu nghe lời cầu xin của chúng ta: Ôi lạy Chúa, xin biến đổi chúng con thành nhân chứng cho Chúa trong công ăn việc làm, ở học đừơng, gia đình, hè phố và trên thế giới. Amen. Lm. Jude Siciliano, OP.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây TN 5-C28
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người. Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba: Trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại. Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không? 2. Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không? 3. Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa? 4. Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Ịức Giê su bảo các: TN 5-C29
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Đức Giê su bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy 2 thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin mừng, này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4, 2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biền hồ Ga li lê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các Tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Đức Giê su không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Đức Giê su không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Trong Năm Thánh Truyền giáo này, xin Chúa ban cho mỗingười chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giê su, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giê su, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
Đã lâu lắm rồi, “Ra khơi” là một mệnh lệnh ra đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu ra lệnh đó: TN 5-C30
Đã lâu lắm rồi, “Ra khơi” là một mệnh lệnh ra đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu ra lệnh đó.
Tại Việt Nam, từ đầu năm thánh Truyền giáo bắt đầu với lễ Sinh nhật vừa qua, “Ra khơi” được nhiều nơi dùng như một khẩu hiệu phong trào.
Trong nhiều trường hợp, “Ra khơi” chỉ là ra khơi với một địa chỉ khơi khơi, trông trống vậy thôi. Không biết khởi hành từ đâu, không nhắm địa chỉ nào chính xác.
Nhận thức sự kiện đó, tôi xin phép góp vài ý kiến, rút ra từ Phúc Âm và kinh nghiệm truyền giáo.
Góp ý của tôi lần này là về một số ưu tiên trong truyền giáo.
1/ Ưu tiên khởi hành từ nội tâm.
Nội tâm nói đây là một tâm hồn cháy rực lửa mến. Họ mến Chúa yêu người một cách thiết tha. Họ có Chúa trong lòng. Họ có cảm nghiệm về Chúa. Họ đã gặp được Chúa cứu độ giàu lòng thương xót. Một Chúa đã chịu nạn chịu chết và đã phục sinh. Một Chúa là hy vọng và là hạnh phúc của họ.
Từ niềm tin và cảm nghiệm đó, họ thấy việc chia sẻ Tin Mừng là một nhu cầu bức xúc.
Và cũng từ niềm tin và cảm nghiệm đó, họ thấy sự thực quan trọng này: Truyền giáo không chủ yếu là chuyển giao một lý thuyết, mà là chia sẻ một sự sống thiêng liêng có sức biến đổi con người nên người hơn và được trở thành con của Thiên Chúa Tình yêu.
Sự chia sẻ đó được thực hiện qua con đường cầu nguyện, hy sinh, bác ái, và qua những cửa hẹp là tu thân tích đức, âm thầm nêu gương sáng.
Một người với nội tâm vừa kể, dù bị bệnh nằm liệt, cũng vẫn có thể ra khơi. Nội tâm của họ sẽ là máng Chúa dùng, để đổ ơn thánh vào nhiều tâm hồn.
Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux là một nữ tu dòng Kín, không bước ra khỏi nhà dòng vì vâng luật dòng, nhưng lại đã ra khơi truyền giáo. Nhờ nội tâm chị là của lễ tình yêu luôn cháy trong đời tu nhiệm nhặt. Chị “từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa Giêsu”. Chị đã được Hội Thánh tôn phong là bổn mạng các nơi truyền giáo.
Sự kiện Têrêsa rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Nhất là khi chúng ta lao mình vào những hoạt động bề ngoài, ồn ào, nhuộm màu sắc quyền lực, giàu sang, danh vọng.
2/ Ưu tiên cho địa phương mình.
Chúa Giêsu đã làm gương về ưu tiên này. Địa phương gồm nhiều bậc. Từ gia đình, họ hàng, xóm ngõ, cho đến thôn làng, xứ sở.
Trong các bậc của địa phương, Chúa Giêsu tỏ ra gắn bó, phục vụ, để được chấp nhận, để được mến thương. Hình ảnh của Người ăn rễ sâu vào từng cá nhân và tập thể cộng đoàn, như một hình ảnh đẹp, mà Phúc Âm đã diễn tả vắn tắt. “Con trẻ Giêsu, càng lớn lên, càng thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,46). “Ngài được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,51).
Tôi có cảm tưởng là: Đức Kitô được địa phương thương mến, vì Người thương mến địa phương, tôn trọng truyền thống địa phương, chia sẻ các vấn đề thuộc đời sống địa phương.
Thời gian ở với địa phương là 30 năm. Đó là một ưu tiên về thời gian, về hiện diện, về tình nghĩa, về hội nhập.
Tôi coi ưu tiên với những việc như thế là rất cần cho việc truyền giáo.
Thí dụ, tôi được sai tới địa phương này để truyền giáo. Đây là một địa phương không công giáo, nhưng rất sùng đạo. Hằng ngày họ đọc kinh cầu nguyện, hằng tháng ăn chay ngày rằm, thường xuyên bố thí, làm việc từ thiện. Tất cả các sinh hoạt tôn giáo như thế được thực hiện tại gia, không lệ thuộc vào đền thờ, chỉ vâng phục Đấng lập đạo của mình là một người Việt Nam đã từng sống nêu gương đạo đức tại địa phương này.
Đây là một thực tế sống động mang sức mạnh thiêng liêng. Trước thực tế đáng kính này, nếu tôi không được địa phương chấp nhận và mến thương, chắc chắn việc truyền giáo của tôi sẽ thất bại. Còn nếu hôm nay cánh đồng truyền giáo của Tin Mừng được xanh tươi và mở rộng, thì phải nhận vai trò ưu tiên của địa phương là đúng đắn và tích cực.
3/ Ưu tiên tỉnh thức trong Chúa Thánh Thần.
Người truyền giáo là dụng cụ trong tay Chúa. Người truyền giáo là người đầy tớ của Chúa. Một dụng cụ thô thiển. Một đầy tớ bất xứng.
Nên tôi phải biết tỉnh thức lắng nghe ý Chúa. Tôi phải khiêm nhường thực thi ý Chúa.
Chưa nói tới những điều cao siêu mầu nhiệm trong đạo, chỉ nói về những gì là sơ đẳng thuộc nhân bản, tôi cũng cần đến ơn Chúa Thánh Thần, để giữ được sự quân bình và khôn ngoan, xứng với một chứng nhân của Chúu”
Cũng như người nông dân bình thường biết chọn hạt giống tốt, biết dọn đất cho tốt, biết gieo trồng đúng lúc tốt, thì người truyền giáo cũng phải biết những điều sơ đẳng đó, khi gieo hạt giống Tin Mừng.
Cũng như người chài lưới, biết ra khơi lúc nào là tốt nhất, biết thả lưới chỗ nào là có hy vọng nhất, biết cùng làm việc với những ai là an tâm nhất, biết phân biệt các loại cá trong lưới một cách chính xác nhất, thì người truyền giáo cũng phải biết những điều sơ đẳng đó, khi ra đi truyền giáo, khi chọn người cùng đi, khi gặp gỡ đủ thứ người trên đường mình đi.
Đôi khi nhìn thấy một vài nhà truyền giáo mang vẻ đạo đức khắt khe, bức xúc trầm trọng, tôi lại nhớ tới một câu của một cha Sở nói với cậu bé giúp lễ đạo đức quá nặng nề sao đó: “Các nhân đức như thế này của con sẽ đưa con xuống hoả ngục”.
Chúng ta dễ bị cám dỗ khoác vào mình những thứ nhân đức và chứng từ giả tạo, nếu không có ơn Chúa Thánh Thần chỉ dẫn, giúp phân định cái tốt thực cái tốt giả.
Nhất là thời nay, tiền của, hưởng thụ và quyền lực đã hầu như trở thành giá trị cao nhất trong thực tế đời sống. Cả đời sống tôn giáo, thậm chí cả đời sống tu trì cũng bị ảnh hưởng sâu xa. Vì thế, hơn bao giờ hết, việc truyền giáo rất cần nhắm vào chất lượng, hết sức trung thành với Tin Mừng, dưới sự soi dẫn của Thần Linh Chúa Giêsu, Đấng được sai đi do Chúa Cha giàu lòng thương xót, để cứu chuộc chúng ta bằng hy sinh trên thánh giá.
Nối tiếp những gợi ý trên chuyên mục CÙNG TRUYỀN GIÁO của số báo Ephata 152 tuần trước, kỳ này xin đọc lại đoạn Tin Mừng Lc 5, 1 – 11 một lần nữa để cùng suy niệm ở một khía cạnh khác.
Chúng ta thấy các Tông Đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Đức: TN 5-C31
Chúng ta thấy các Tông Đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Đức Giê-su bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy 2 thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng, này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông Đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc.
Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” ( 2 Tm 4, 2 ).
Các Tông Đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các Tông Đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biền hồ Ga-li-lê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các Tông Đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe.
Dù Đức Giê-su không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Đức Giê-su không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Trong Năm Thánh Truyền Giáo 2004 này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp. Lạy Chúa Giê-su, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giê-su, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
Lc biên soạn đoản văn này từ những chất liệu văn chương khác nhau (xem ghi chú của BJ), nhưng: TN 5-C32
1. Lc biên soạn đoản văn này từ những chất liệu văn chương khác nhau (xem ghi chú của BJ), nhưng cách tác giả dùng để tổng hợp chúng lại thành một trình thuật mới, đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa truyền giáo của trình thuật (hay giáo hội học) hơn là phương tiện thần thiêng của nó: trước tiên, phép lạ trở thành một biểu tượng về sự phong phú của Lời Chúa (c.1) do CGS và sau đó là Simon Phêrô (c.5). Lc làm cho độc giả chú ý tới chính công việc tông đồ hơn là điều kiện để làm tông đồ; ông muốn người ta phải tìm xem trước biến cố phục sinh (x. Cvsđ 1,21-22) đã có sứ mệnh và những ràng buộc của công việc truyền giáo. Lời hứa với Phêrô ở đây, ngay từ đầu sứ mệnh công khai của CGS ("từ đây con sẽ là kẻ chài lưới người” c.10) tương ứng với lời uy quyền tại bàn tiệc ly. Khi hoàn tất sứ mệnh của CGS, quyền đó đã được ủy thác cho Phêrô thi hành sau phục sinh ("khi con người trở lại, hãy củng cố anh em con” Lc 22,31-32). Chính mối ưu tư đó đã hướng dẫn Lc trong trình thuật tuyển chọn (6,12-16) và ban sứ mệnh cho nhóm 12 (9,1-6) mà không cần phải ban lại cho họ sau biến cố phục sinh. Tuy nhiên, để họ có thể thi hành tốt bổn phận, Thánh Thần còn phải “mặc cho họ sức mạnh từ trời cao” trước khi họ có thể “làm chứng nhân cho CGS đến tận cùng trái đất” (Lc 24,49; Cvsđ 1,8).
2. Địa vị trọng yếu của Phêrô trong trình thuật cho thấy chủ tâm của Lc, và tác giả còn làm nổi bật (Phêrô) ở nhiều đoạn khác trong phúc âm (x. Lc 45 nghịch với Mc 14,13; Lc 22,31-34; 24,34) địa vị này tương ứng với chức vụ của vị lãnh đạo công việc truyền giáo cho người Do thái, rồi sau đó cho dân ngoại mà tác giả phúc âm đã gán cho Phêrô trong phần đầu của công vụ sứ đồ (chương 1-12).
Vậy, cùng với CGS, Simon là nhân vật chính của trình thuật này: ông được gọi trước là Simon - Phêrô một lần (c.8) vì chỉ về sau (6,14) Simon mới được Chúa đổi tên là Phêrô. Nơi Mt 4,18-22 và Mc 1,16-20 chúng ta thấy cả hai anh em Simon và Anrê cùng thả lưới với nhau. Đây không phải chỉ có mình Phêrô (chính vì cách dùng số nhiều các câu 4,5,6,7) còn những người khác, tác giả chỉ nhắc đến một cách lờ mờ, có thể họ chỉ là những người làm thuê. Hình như Lc tránh gọi tên Anrê, và lời loan báo ơn gọi làm chài lưới người ta, chỉ nhắc đến Simon, không đả động gì đến Anrê, trong lúc Mt và Mc nói đến cả hai anh em Simon và Anrê.
Chiếc thuyền là thuyền của Simon (c.3); chính với Simon mà CGS nói: “Hãy ra khơi” (c.4); và cũng chính Simon đáp lại Ngài (c. 5). Chính Simon còn kêu lên: “Xin thày tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (c.8). Tất cả điều gì làm cho CGS: đón Chúa xuống thuyền thì cũng do Simon làm; tất cả những điều gì CGS làm cũng để làm cho Simon; và tất cả những lời khác là lời của Simon.
Simon cũng làm lu mờ 2 con ông Giebêđe: thuyền của họ cũng được đề cập ở câu 2, nhưng không có nói đến họ. Thuyền của họ còn được nói ở câu 7, còn họ thì được gọi trống là bạn chài của Simon. Tên của họ chỉ được nói đến ở cuối trình thuật, nơi câu 10, như là một sự vớt vát, trong đó giải thích là họ ngạc nhiên như Simon bạn của họ. Lc trì hoãn nhắc đến họ cốt để Simon độc diễn hầu như trong suốt cả trình thuật. Tuy nhiên tác giả cũng nói đến Giacôbê và Gioan ngoại trừ Anrê, chắc hẳn là ba người là nhóm được biệt đãi, là nhóm được mục kích con gái ông Lazarô sống lại (8,51), biến cố biến hình (9,28). Anrê không được gọi tên có lẽ vì ông là bạn chài của Simon là người mà Lc muốn lưu tâm. Vì Lc liệt hai con Giêbêđê vào màn cuối của trình thuật, người ta dễ dàng hiểu rằng tác giả ít bận tâm đến trường hợp và thời gian Chúa gọi họ. Tác giả chỉ thu tóm những gì liên hệ đến lời kêu gọi của CGS và việc mau mắn đáp trả trong một câu kết luận vắn gọn ở cuối trình thuật (c.11).
3. Khi các nhà chú giải đã phân vân trong việc nghiên cứu ý hướng của Lc khi đặt câu chuyện này ở đây. Một số cho rằng mục đích bài tường thuật phép lạ là để giải thích hay “nêu lý do” việc các ngư dân đáp trả lời kêu gọi của CGS: một khi đã chứng kiến sức mạnh phi thường của CGS, họ sẵn sàng tin tưởng vào Ngài. Có lẽ Lc đã làm cho sự mau mắn, mà nhờ đó nhóm dân chài Galilêa trở thành môn đệ. CGS từ lúc khởi đầu sứ mệnh của Ngài, được dễ chấp nhận và dễ hiểu hơn. Chắc hẳn, Lc đã biên soạn theo ý hướng này. Và dù tác giả có những ý hướng khác, thì cũng không nhất thiết phải loại trừ ý hướng này.
Nhưng nhiều nhà chú giải nhìn thấy trong trình thuật này một biểu tượng về giáo hội học: lệnh thả lưới và mẻ cá gợi đến khắp thế giới và thành quả họ sẽ thâu lượm được đối với nhân loại. Có nhiều lý chứng mạnh mẽ xác quyết giả thuyết này. Trước hết sự kiện Lc đã liên kết mẻ lưới lạ lùng này với trình thuật về ơn gọi của các môn đệ. Tiếp đến Lc ưu tư đến vấn đề truyền giáo cũng như lưu tâm đến thuyết phổ quát về ơn cứu chuộc, thường được diễn tả trong phúc âm thứ ba và Cvsđ. Cũng có sự kiện là về sau Gioan đã dùng (ch.21) trình thuật về mẻ lưới lạ lùng này để dẫn đưa vào trình thuật thiết lập chức mục tử tối cao của Phêrô nghĩa là trong bối cảnh có tính cách phi thường về giáo hội - điều này giả thiết rằng trên bình diện truyền khẩu, thì các tác giả khác ngoài Lc đã liên kết cách tự nhiên mẻ lưới kỳ lạ và biểu tượng về giáo hội. Cũng có thể là dụ ngôn về chiếc lưới (Mt 13,47-50) nếu thực sự dụ ngôn này có ý nghĩa về giáo hội, dẽ dàng liên kết chài lưới - giáo hội. Nhưng lý chứng quan trọng nhất là chính CGS liên kết tương quan giữa việc đánh cá và việc chinh phục người ta: trong những bản văn song song của Mt và Mc, sự liên kết này ám chỉ rõ ràng về bản tính giáo hội. Vậy có thể khẳng định rằng tất cả khung cảnh này có thể rất nhiều điểm biểu tượng và là tiền ảnh của sứ vụ tương lai của các tông đồ cũng như sự thành công của sứ mệnh đó.
KẾT LUẬN
Lời CGS kêu mời thật đầy uy quyền, Ngài gọi người Ngài muốn và làm điều Ngài thích. TC cũng đã làm như vậy đối với các tiên tri. Nếu không thì Giacobê và Gioan đưa thuyền lên bờ và từ chối không làm ngư phủ: họ bỏ tất cả. Một sức sống mới tràn đầy trong đời sống của họ. Họ theo CGS với tư cách là môn đệ. Bây giờ họ bước theo CGS như các học trò đi theo thày rabbi để đồng hóa các lời dạy bảo, cách sống của họ. Từ đây điều làm cho các môn đệ tràn đầy sức sống, chính là CGS, Nước TC và việc truyền giáo. Simon đã có một kinh nghiệm về thần tính của TC nơi CGS, ông được nhìn nhận là kẻ chài lưới và được trao nhiệm vụ cứu độ. Thời cứu độ đã bắt đầu: nhận biết ơn cứu độ qua việc thú nhận tội lỗi (1,77). Nước TC được tỏ hiện trong việc tiếp nhận các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chính từ TC mà Giáo hoàng, các giám mục (hàng giáo phẩm) cũng như các linh mục lãnh nhận ơn gọi, trách nhiệm và quyền hành của mình. Các Ngài có nhiệm vụ tiếp tục công việc của Chúa Kitô để rao truyền Lời Chúa và tuyển chọn các môn đệ, giáo sĩ, cũng như giáo dân. Nhờ ân sủng của Chúa, các Ngài là những kẻ chài lưới người.
2. Ơn gọi của những người được thánh hiến phải bắt chước gương của Simon và các bạn đồng nghiệp, từ bỏ tất cả để theo CGS. TC quan phòng sắp đặt mọi ơn gọi trong giáo hội. Điểm then chốt là đáp trả ơn gọi đó một cách quảng đại. Để được vậy, giáo dục đức tính quảng đại trong một gia đình Kitô giáo là một phương thế chuẩn bị tốt nhất. Phêrô đã chuẩn bị tiếng gọi của Chúa bằng sự quảng đại và sẵn sàng giúp đỡ của mình; ông đã cho CGS mượn thuyền để rao giảng; đã ý thức sự bất công của mình trước mặt Chúa.
3. Trình thuật này của Phúc âm nhắc nhở chúng ta rằng việc tông đồ trong giáo hội phải được thực hành trong những điều kiện nào. Lúc Chúa chưa có mặt trong thuyền thì Simon thả lưới cũng không bắt được gì hết. Nhưng khi có CGS, ông bắt được một mẻ lưới kỳ lạ. Đó là mộ ví dụ minh chứng chân lý này là không có Chúa không thể làm gì được (Gio 15,5) với ân sủng Ngài thì không gì là không có thể ("tôi có thể chịu đựng mọi sự trong đấng ban sức mạnh cho tôi” Phil 4,13).
4. Simon nói: “thưa thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết”. Cũng một cám dỗ ấy thường làm ta nản chí. Đó là đêm tối những tình trạng đầy mặc cảm, người ta chỉ thấy mình làm quá sức; một công việc đã gắng hết sức mà hình như không có được một kết quả nào, và người ta đâm ra buồn bực vì những cố gắng bền tâm của mình xem ra vô hiệu. Lúc đó muốn bỏ tất cả: có lẽ có những lúc nào đó người ta mơ đến một mẻ lưới kỳ lạ. Lúc đó hãy biết nghe lời Chúa mời gọi ta ra khơi: Hãy tiếp tục ! Bắt đầu lại ! Và nếu cuối cùng được thành công thì hãy biết khiêm nhượng nhận rằng những cố gắng của ta đã nỗ lực không đáng được thành công ấy, nó vượt quá những cố gắng của ta. Hãy thú nhận như Simon - Phêrô rằng chúng ta là những người tội lỗi và những thành công thu đạt được là do Chúa quảng đại ban phát cho ta.
5. Thuyền của Phêrô chính là giáo hội. CGS vẫn luôn tiếp tục dậy dỗ ta từ trong chiếc thuyền này. Nhất là trong lúc cử hành Thánh lễ, đặc biệt trong phần phụng vụ lời Chúa, cũng chính CGS bây giờ vẫn còn tiếp tục dậy chúng ta.
6. Dù Phêrô là người tội lỗi, CGS cũng chọn làm môn đệ của Ngài. Chúng ta khiêm nhường thú nhận tội lỗi thì Chúa không lìa xa ta. Chỉ có óc bè phái, tưởng rằng mình thánh thiện và không thể chê trách trước mặt TC là dựng nên một hàng rào ngăn cách giữa TC và con người.
Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi: TN 5-C33
Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi tiết hơn bài tường thuật ngắn gọn trong Mt 4,19-22:
- Họ đang giặt lưới để dẹp cất, vì suốt đêm đánh không được con cá nào.
- Chúa Giêsu bảo họ thử đánh một mẻ nữa. Phêrô không tin vào sự thành công, nhưng nễ lời Ngài nên ông thả lưới.
- Một mẻ lưới nhiều cá quá sức tưởng tượng đã khiến Phêrô và các bạn khám phá ra thân phận siêu phàm của Chúa Giêsu đồng thời cũng ý thức thân phận hèn hạ tội lỗi của mình.
- Khi đó Chúa Giêsu lên tiếng gọi họ theo Ngài làm môn đệ. Và họ đã từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, tức là ở nơi sinh sống thường ngày của họ ; Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là trong công việc thường ngày của họ.
Chúa cũng gọi tôi trong sinh hoạt thường ngày và ở môi trường sống quen thuộc. Những tiếng gọi “Hãy theo Ta” thường xuyên vang lên trong khung cảnh bình thường mọi ngày. Nhưng tôi có nghe thấy hay không ?
2. Bắt đầu câu chuyện, Chúa Giêsu “xin” Phêrô một chuyện nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra xa một chút. Cuối câu chuyện, Ngài ban cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá ; và một ơn còn lớn gấp bội, là được làm môn đệ Ngài. Nếu như ban đầu Phêrô đã ích kỷ không “cho” Chúa, thì sau đó ông đâu có được “nhận” những ơn ban to lớn kia.
3. “Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”: mẻ cá lớn là kết quả của sự vâng lời Chúa.
4. Một trung sĩ đang huấn luyện các tân binh: “Các đồng chí hãy nhớ khi một sĩ quan trao cho công việc dù nặng nề đến đâu, bổn phận dù khó khăn đến đâu, các đồng chí luôn phải nhớ tiếng nói cuối cùng.”
Trong lúc các lính mới còn đang ngơ ngác nhìn, ông thêm: “Tiếng đó là: Tuân lệnh.” (Góp nhặt)
5. Khi Phêrô nhận ra thân phận tội lỗi mình và xin Chúa lánh xa, thì chính lúc đó Ngài gọi ông đi theo Ngài. Chúa không chê và không xa lánh người tội lỗi. Ngược lại Chúa còn gọi đến gần Ngài những người ý thức thân phận tội lỗi của mình.
6. “Ông Simon nói: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5)
“… Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên”. Nếu như Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao tôi lại không dám xác tín rằng: Dựa vào Chúa Giêsu, Đấng đã dám hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn ? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì tôi cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi tôi biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là sức riêng của mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết vâng theo lời Chúa, biết dựa vào lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống. (Hosanna)
Cách chúng ta khoảng 1.700 năm, có một người thanh niên quí phái giàu sang đã bán tất: TN 5-C34
Cách chúng ta khoảng 1.700 năm, có một người thanh niên quí phái giàu sang đã bán tất cả tài sản, phân phát cho ngươì nghèo rồi từ giả thân nhân lên đường tìm vào sa mạc. Anh hăm hở đi mãi cho đến khi gặp được một hang động. Anh dừng lại nơi ấy và ở đây sống một mình với Chúa, không còn gì có thể lôi kéo anh ra khỏi nơi trú ẩn này nữa. Đêm ngày anh cầu nguyện trong hang động tối tăm ấy.
Cuộc sống ẩn dật không phải là một nếp sống dễ dãi. Người thanh niên phải trãi qua không biết bao cám dỗ. Anh mơ ước lại được ăn những món ăn ngon, được nằm trên chiếc giường sang trọng với chăn êm nệm ấm. Nhưng sau nhiều tháng ngày chiến đấu, anh đã thắng được tất cả mọi cơn cám dỗ. Giờ đây, anh không còn mơ ước gì nữa, Chúa là tất cả của anh. Người thanh niên này chính là thánh Antôn ẩn tu.
Theo truyền thuyết, một hôm Chúa nói với thánh nhân:
- “Con hãy rời khỏi hang động này vài hôm và tìm đến một thành phố. Tại đó, con hỏi thăm người thợ giày, gõ cửa và xin trú lại nhà ông vài ngày.
Vị ẩn sĩ rất ngạc nhiên về mệnh lệnh của Chúa. Nhưng ngày hôm sau, ngài vâng lời Chúa lên đường về thành. Sau một ngày băng qua sa mạc, thánh nhân đã tìm được nhà của người thợ giày. Nghe tiếng gõ cửa, một người đàn ông ra mở cửa và vui vẻ mời người khách lạ vào nhà. Không cần điều tra lý lịch của người khách lạ, người thợ giày bảo vợ chuẩn bị thức ăn và giường chiếu để tiếp khách.
Vị ẩn tu ở lại với gia đình người thợ giày ba ngày. Ngài đã hỏi thăm về gia cảnh, nghề nghiệp và cuộc sống của người thợ giày. Người thợ giày cũng rất muốn biết về ông khách lạ. Nhưng vị ẩn sĩ đã tìm mọi cách để lẩn tránh những câu hỏi của chủ nhà.
Sau những ngày được gia đình người thợ giày ân cần tiếp đãi, vị ẩn sĩ từ giã và lên dường trở lại chốn ẩn tu của mình, trong lòng không ngừng thắc mắc tại sao Chúa đã sai mình đến ở với gia đình người thợ giày.
Sau khi vị ẩn sĩ yên ổn với cuộc sống quen thuộc của mình, Chúa liền hỏi ngài:
"Con nhận thấy người thợ giày như thế nào?”
Thánh nhân trả lời: ”Ông ta là một người đơn thành quảng đại.Vợ ông sắp sinh một đứa con nữa. Hai vợ chồng rất mực yêu thương nhau. Ông có một tiệm giày nhỏ đủ sống. Ông ta làm việc rất siêng năng. Hai vợ chồng luôn chia sẻ tiền bạc và thức ăn cho những người túng thiếu hơn họ. Hai người có một lòng tin vững mạnh vào Chúa, họ cầu nguyện ít nhất mỗi ngày hai lần. Họ có nhiều bạn. Lại nữa, ông thợ giày là một người khôi hài”.
Chúa chăm chú nghe lời báo cáo của vị ẩ tu và kết luận như sau: "Antôn, con là một người thánh thiện và vợ chồng ông thợ giày cũng là người thánh thiện”.
Bài học của giai thoại trên đây đã được Công đồng Vatican II khẳng định trong số 40 của hiến chế về mầu nhiệm Giáo hội.Công đồng dạy như sau:
"Tất cả mọi Kitô hữu dù ở trong bậc sống hay dịa vị nào cũng đều được mời gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đức ái hoàn hảo”.
Do đó, thánh thiện không phải là đặc quyền của một thành phần ưu tuyển nào. Không nhất thiết phải sống bậc tu trì mới nên thánh thiện, mà ngay cả trong cuộc sống hôn nhân, mọi người đều được mời gọi nên thánh. Chỉ có một sự thánh thiện, nhưng được thực hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Thiết tưởng đó phải là xác tín của những người sống bậc vợ chồng.
Hơn ở đâu khác, cần phải có những đức tính phi thường, một sự can đảm cao độ, một lòng quảng đại sâu sắc, một sự nhẫn nhục kiên cường mới có thể sống trọn nhũng cam kết trong dời sống hôn nhân và gia đình.
Bậc độc thân vẫn luôn là dấu chỉ ưu việt cho những thực tại của Nước Trời. Nhưng trong xã hội ngày nay, bậc hôn nhân lại càng là một chứng tích cao đẹp hơn.
Trong một quyển sách gọi là Phúc âm thánh Phêrô, khi có người hỏi Chúa Giêsu bao giờ Nước Trời đến, Chúa Giêsu trả lời: ”Khi người nam và người nữ nên một”. Nên một trong yêu thương, trong phục vụ, trong xả kỷ hy sinh. Còn gì thánh thiện hơn, còn gì cao quí, còn gì dáng khâm phục hơn?
“Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-mon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.
Giảng xong, Người bảo ông Si-mon: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Si-mon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới." Họ đã làm như vậy, và bắt được nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
Thấy vậy, ông Si-mon Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là lẻ tội lỗi !" Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-mon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-mon, cũng kinh ngạc như vậy. bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-mon: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta." Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
***
Hồ nước lớn danh tiếng tại Ga-li-lê được gọi bằng ba tên: biển Ga-li-lê, biển Ti-bê-ri-át và: TN 5-C35
Hồ nước lớn danh tiếng tại Ga-li-lê được gọi bằng ba tên: biển Ga-li-lê, biển Ti-bê-ri-át và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài 20,8 Km, rộng 12,8 Km. Hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225 mét dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông đúc lắm, nhưng vào thời Chúa Giê-su , có chín thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới mười lăm ngàn dân. Ghen-nê-xa-rét thực ra là tên của một cánh đồng xinh đẹp nằm ở phía tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu nhất.
Tại đây chúng ta đối diện với một khúc quanh trong chức vụ Chúa Giê-su. Lần trước Chúa giảng trong nhà hội, bây giờ Ngài ở tạo bờ hồ. Rồi Ngài sẽ còn trở lại nhà hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa nhà hội đóng lại trước mặt Ngài, thì Hội Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và tòa giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giê-su giảng ngoài đường, bên bờ hồ. Vào dịp này Ngài mượn một chiếc thuyền của một người bạn dùng làm tòa giảng để giảng cho quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban cho bốn người sắp được kêu gọi một bài học cụ thể về tính cách của công tác và sự thành công vĩ đại sẽ đến với chức vụ của họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài đã làm một phép lạ vô cùng kích động, và chúng ta có thể liệt kê các điều kiện để một phép lạ xảy ra:
Có mắt biết nhìn xem:
Chúng ta không cần nghĩ rằng Chúa Giê-su đã dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Ga-li-lê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc cả mặt biển trong một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giê-su đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà các ngư phủ không thấy. Chúng ta cần đôi mắt biết nhìn thấy. Nhiều người đã nhìn nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi nước. Nhiều người đã nhìn trái táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn thấy và đã tìm ra luật hấp lực của trái đất. Nhìn lên bầu trời các nhà thiên văn học tìm thấy nhiều điều hơn là một người thường. Nhìn vào một hàng rào cây cỏ, các nhà thảo mộc khám phá ra nhiều điều kỳ diệu mà một người nông dân thường không nhận ra được.
"Đức Giê-su thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về." (Mt 9, 36-38).
Sau cuộc tiếp xúc với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri ở bờ giếng Gia-cóp, Chúa nói với các môn đệ viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin Mừng: "Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !" Và thánh Gio-an ghi tiếp: "Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở lại với họ, Người ở lại hai ngày . Số người tin còn đông hơn nữa." (Ga 4,35. 39.40) Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những ai biết nhìn xem.
Có tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:
Khi Chúa Giê-su nói thế, dù rất mệt nhọc, Phê-rô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ ngã lòng quá sớm. Trong cuốn hồi ký "Cuộc đời những thành tựu của tôi", nhà tỷ phú Mỹ Henri Ford với biệt danh vua ô tô, đã ghi lại bí quyết thành công của ông: "Những người đầu hàng thường đông hơn những người chiến thắng, không phải họ thiếu tiền của, sự hiểu biết, trí thông minh, lòng ham muốn … Cái họ thiếu là lòng kiên nhẫn." Và ông gọi đó là "nữ hoàng không vương miện của ý chí." Ray Knoe, một thiên tài của công ty sản xuất thực phẩm "mì ăn liền" Me Donald, cũng có cùng một quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu các năng lực của con người, ông viết: "Không có gì trên thế gian có thể thay thế lòng kiên trì. Tài năng ư ? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ thất bại ! Thiên tài ư ? Thiếu gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư ? Thế gian đầy dẫy những kẻ vô dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì và cương quyết là vạn năng. Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì không có gì có thể địch nổi."
Có tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng:
Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc đánh bắt cá, tất cả hoàn cảnh đều không thuận tiện, nhưng Phê-rô nói: "Trong hoàn cảnh như vậy, nhưng nếu Thày bảo thì chúng con xin vâng."
Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giê-su truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Rõ ràng đó là do một quyền phép siêu nhiên khiến Phê-rô cảm thấy mình đang đứng trước sự hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ vẻ sợ hãi như cảm giác của một người đối diện với Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã phán những lời chẳng những đánh tan sự kinh hãi của Phê-rô, nhưng cũng đem lại can đảm cho ông và đồng bạn trong những năm tới: "Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chinh phục người ta."
Ngày nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.
Để kết thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của chân phước Eseriva, sáng lập Opus Dei : "Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi xía vô chuyện ấy ? Tôi phải trả lời ngay cho bạn: Chính Đức Ki-tô ra lệnh cho bạn đó. Ngài bảo bạn phải xin "vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa !" Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm sao được ? Tôi có nhiều việc phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho tôi ! Không, không có ai khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói như thế. Lời mời của Chúa là dành cho tất cả và mỗi người ki-tô hữu. Không có ai được miễn trừ, dầu là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một miễn trừ nào, một là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta kiệt quệ." (Escriva amis de Dieu).
Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng thuyết trẻ, vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu: TN 5-C36
Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng thuyết trẻ, vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội mà Luca là người thuật lại đã bắt đầu như thế. Trong khi mô tả bước đầu này ngài hiểu những chuyến đánh cá người đầu tiên, những bước đầu của Giáo Hội nơi thế giới ngoại giáo. Và chúng ta, làm sao chúng ta không nghĩ đến những đám đông các tín hữu?
Nhưng cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi những ngư phủ nữa. Tin Mừng này là dành cho mỗi một người chúng ta, ngay cả đoạn 10 nổi tiếng mà vì Tin Mừng đó, đoạn này đã được viết: “Từ nay đây là những người mà con sẽ bắt lấy”. Đây là những từ ngữ thật sự đánh trúng những thanh thiếu niên đã trở nên những linh mục và những nhà truyền giáo.
Và có thể đánh trúng những ai trong khi đọc lại trang Tin Mừng của Luca cảm thấy nổi lên sự nản chí: đánh cá ở đâu và như thế nào đây?
Đây chính là mục tiêu của trần thuật này của Luca: niềm tin vào Chúa Giêsu như là phương thuốc chống lại sự nản chí. Trong khi khai mào mùa đánh cá tông đồ lớn lao, Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo đừng nên quên bao giờ: không có Ta, lưới của các con sẽ trống trơn. Chúng ta không luôn luôn thấy rõ chân lý cơ bản này ở vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã dấn thân vào sứ mạng tông đồ, chúng ta lao nhọc ngày đêm mà không làm việc một cách đầy đủ với Chúa Giêsu. Chúng ta bỏ không nghe bài giảng, xao lãng các bí tích, chúng ta hoạt động, chạy vạy và một ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm cật lực một cách vô ích.
Làm phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta muốn thoát ra khỏi một giây phút nghi ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng này. Đây là trang Chúa Giêsu tỏ cho thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta tin cậy vào Ngài. Ngài chọn điều có thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông đồ đầu tiên: nghề nghiệp của họ. Và Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà đưa ra những lời khuyên cho những người chuyên đánh cá, và là những người vất vả qua một đêm nỗ lực nhưng vô ích.
Những nhà chuyên môn trong công tác tông đồ sẽ gặp cảnh này. Cạn kiệt những nỗ lực vô ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho Chúa Giêsu, nghĩa là cho việc cầu nguyện. Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong công tác tông đồ hạn hẹp hơn và không chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay hoặc tìm kiếm những phương pháp khác hơn là chuyên chú cầu nguyện.
Dầu vậy, chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến cho chúng ta lòng nhiệt thành của Phêrô. Là thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc, Chúa Giêsu đã chinh phục ông: “Theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.
Chúng ta sẽ không đưa về những mẻ lưới và những chiếc thuyền đầy cá. Chúng ta không còn ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ đến phép lạ củng cố một niềm tin vừa chớm nở. Nhưng chúng ta biết điều mà con người đã có thể làm cùng với Chúa Giêsu, qua những mẻ lưới truyền giáo lớn. Chúng ta có quyển Công Vụ Tông Đồ, những câu chuyện truyền giáo và những hạnh các thánh để làm sống lại niềm tin của chúng ta. Một mình đức tin, đức tin có thể làm cho chúng ta thành các tông đồ làm việc cật lực nhìn lên Ngài “theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.
Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của ba nhân vật quan trọng nhất của Thán: TN 5-C37
Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của ba nhân vật quan trọng nhất của Thánh Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô. Cả ba đã gặp Chúa trong những biến cố lạ lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc đời cho Ngài. Vậy thì cuộc phiêu lưu ấy như thế nào ?
Đối với Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông trong một thị kiến khác thường. Ông thấy vinh quang Thiên Chúa bằng một cảnh sắc hùng vĩ, với các thiên thần đứng chầu và không ngớt tung hô. Một cảnh tượng uy nghiêm và trang trọng.
Đối với Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ông một cách trực tiếp hơn. Sau khi đã kể lại những người đã được Đức Kitô phục sinh hiện đến, ông cũng cho biết là Đức Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó ông đang bắt bớ Giáo hội, nhưng là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra này đã là một biến cố quan trọng trong đời sống của ông.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bị bắt lấy đang lúc làm việc và đã thấy được quyền năng của Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố đó đã làm cho ông và các bạn ông tin theo Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba cách thức khác nhau để mạc khải, để tỏ lộ mình ra.
Đối với Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh quang. Đối với Phaolô thì Đức Kitô là chủ của sự sống, còn đối với Phêrô, thì Ngài là Chúa của tạo vật. Đối với mỗi vị, Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu hút lại vừa chế ngự. Vừa có vẻ như xa xôi nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng những lời mời gọi mãnh liệt nhất và trong những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với họ như để hoàn thành một cách sung mãn niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn họ.
Đồng thời trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có cùng một phản ứng, vừa bất ngờ lại vừa mạnh mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất xứng và hổ thẹn. Isaia đã kêu lên:
- Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi nhơ bẩn.
Phaolô thì tự thú:
- Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ và không xứng đáng với danh hiệu ấy, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.
Còn Phêrô thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:
- Lạy Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi là kẻ tội lỗi.
Giữa lý tưởng cao cả mời gọi họ và con người yếu đuối của họ có một hố sâu cách biệt, làm cho họ cảm thấy mình bất lực và muốn đẩy Thiên Chúa ra xa. Trước mặt Thiên Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi và xấu hổ. Thế nhưng chính Ngài sẽ hành động để nâng đỡ sự yếu hèn của con người.
Miệng lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng than hồng. Phaolô được biến đổi bởi ơn Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,. thì cảm thấy như được an tâm để dấn thân vào công việc mới. Như thế mỗi người đều được Thiên Chúa tái tạo và chấp nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng và thất vọng nhất. Từ đó họ cảm thấy cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào Thiên Chúa. Nên họ hoàn toàn phó thác, để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài mong muốn nơi họ. Họ chỉ còn biết theo Ngài và tuân phục Ngài.
Để đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì Isaia đã trả lời:
- Này tôi đây, xin hãy sai tôi.
Phaolô thì nói:
- Tôi đã chịu khổ nhọc nhiều hơn những người khác.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe thuyền mà đi theo Chúa Giêsu.
Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin tưởng vì Thiên Chúa chính là tất cả những gì chúng ta muốn và Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên như thế, vì nếu không có Ngài chúng ta không là gì cả.
Cuộc phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải chăng cũng là cuộc phiêu lưu của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều ngả đường.
Vì thế, cần phải chăm chú lắng nghe và tìm hiểu. Có những lúc chúng ta cảm thấy bối rối và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng ngã lòng, bởi vì Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ. Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng từ bỏ và vâng phục Ngài.
Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần giải thích theo nghĩa này nghĩa khác có thể không: TN 5-C38
Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần giải thích theo nghĩa này nghĩa khác có thể không có trong bản văn. Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngược kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ cá nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thầy, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
Chúng ta suy niệm về hai câu:
1) “Hãy ra khơi”
Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thầy ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thời giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong ‘lưới’ của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơ bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin, trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.
2) “Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa”
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì rất thân thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh mục (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Chúa Kitô.
Ý nghĩa của Mùa Thường Niên trong Lịch Phụng Vụ của Hội Thánh là nhằm giúp các tín hữu đi: TN 5-C39
Ý nghĩa của Mùa Thường Niên trong Lịch Phụng Vụ của Hội Thánh là nhằm giúp các tín hữu đi sâu vào nội dung mạc khải của Thiên Chúa. Đồng thời cũng giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về ơn gọi và sứ mạng của mình.
Những Bài Thánh Kinh hôm nay cho ta thấy Thiên Chúa mời và chờ đợi gì ở I-sai-a, Phê-rô, An-rê, Gio-an, Gia-cô-bê, Phao-lô, đám đông người Do Thái và các tín hữu Cô-rin-tô. Họ là những con người đã gặp gỡ Thiên Chúa và nghe lời rao giảng về Người. Họ đã đáp lại lời mời và sự chờ đợi của Thiên Chúa và của Đức Giê-su Ki-tô.
Ngày nay Thiên Chúa cũng mời và chờ đợi ở mỗi tín hữu, cách riêng ở một số tín hữu, lời đáp trả tương tự. Vậy chúng ta sẽ nói gì? làm gì?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Is 6, 1-2a.3-8: Dạ con đây, xin sai con đi.
1 Năm vua Út-di-gia-hu băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. 2a Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. 3 Các vị ấy đối đáp tung hô: "Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa! "
4 Tiếng tung hô đó làm cho các trụ cửa rung chuyển; khắp Đền Thờ khói tỏa mịt mù. 5 Bấy giờ tôi thốt lên: "Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh! " 6 Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. 7 Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: "Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội." 8 Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: "Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta? " Tôi thưa: "Dạ, con đây, xin sai con đi."
(2) Bài đọc 2: 1 Cr 15, 1 -11: Chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy.
1 Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. 2 Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.
3 Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, 4 rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. 5 Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. 6 Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. 7 Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. 8 Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.
9 Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. 10 Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. 11 Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 5,1-11: Các ông bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giê-su.
1 Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.
4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." 5 Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới." 6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! " 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta." 11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Is 6,1-2a.3-8) là đoạn văn mô tả một thị kiến mà ngôn sứ I-sai-a được Thiên Chúa cho thấy về Thiên Chúa. Nhờ đó mà có được hai kết quả tốt lành sau đây: Thứ nhất là I-sai-a ý thức rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả khôn lường, còn ông chỉ là một tạo vật thấp hèn, vô cùng bất xứng với sứ mạng ngôn sứ mà Thiên Chúa muốn giao cho ông. Thứ hai là ông được chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng đáp lại lời mời và sự chờ đợi của Thiên Chúa. Lời I-sai-a: "Dạ, con đây, xin sai con đi" là kết quả kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi I-sai-a.
Trong đoạn Is 6,1-2a.3-8 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng cao trọng và thánh thiện vô cùng, ngự trên ngai tòa uy nghi, chung quanh có các thiên thần đứng chầu và hát ca chúc tụng. Đồng thời chúng ta thấy Thiên Chúa rất gần gũi với con người, quan tâm đến việc giúp đỡ dân Ít-ra-en sống theo Lề Luật của Thiên Chúa nên mới tìm người để sai đến với họ. Lời “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” cho chúng ta thấy điều đó. Một đặc điểm nữa của Thiên Chúa là Người rất tôn trọng sự tự do và tự nguyện của I-sai-a. Thiên Chúa không ép mà chờ ông tự nguyện đáp lại lời mời và sự chờ đợi của Thiên Chúa.
(2) Bài đọc 2 (1 Cr 15, 1 -11) gồm hai ý. Ý thứ nhất là nội dung niềm tin Ki-tô giáo mà các Tông đồ, trong đó có Phao-lô, hằng rao giảng và các tín hữu đã đón nhận. Nội dung đó là Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, đã xuống thế làm người, đã chịu chết để cứu chuộc loài người, đã phục sinh và hiện ra với các Tông đồ và nhiều người, phù hợp với lời Thánh Kinh đã chép về Người. Ý thứ hai là ơn gọi làm Tông đồ và thái độ khiêm tốn của Phao-lô, vì ngài ý thức việc sai trái đã làm trước khi được Chúa hiện ra và biến đổi ngài nên người phục vụ Tin Mừng giữa dân ngoại.
Trong đoạn 1 Cr 15,1-11 trên, chúng ta khám phá ra nhiều điều: (a) Thiên Chúa là Đấng đã ra tay cứu vớt loài người trong việc gủi Con Một đến trần gian; (b) Chúa Giê-su đã cứu chuộc loài người bằng con đường thập giá; (c) Thiên Chúa rộng lượng vô cùng nên chẳng những không chấp tội Phao-lô mà còn dùng ông vào việc rao giảng Ơn Cứu Độ cho cả người Do Thái lẫn dân ngoại.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 5, 1-11) là đoạn của Phúc âm Lu-ca kể lại hai việc mà Chúa Giê-su đã làm ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét. Việc thứ nhất là Chúa Giê-su giảng dậy cho đám đông. Việc thứ hai là Người làm phép lạ cho các Tông đồ được mẻ cá không thể tưởng tượng nổi. Kết quả là các ông “đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người”
Qua đoạn Phúc Âm Lc 5, 1-11 này chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su sống gần gũi và có sự quan tâm đến nhu cầu của những người chung quanh. Đám đông dân chúng khao khát Lời Chúa và ánh sáng soi đường, thì Chúa ân cần giảng dậy họ. Các Tông đồ đang thất vọng về một đêm lao động không kết quả thì Chúa giúp họ có được mẻ lưới đầy thuyền. Các Tông đồ đi theo Chúa nhưng chưa biết nhiều về Thầy thì Chúa cho các ông chứng kiến một sự kiện lạ lùng ngoài khả năng tự nhiên của con người, để các ông vững tin trong quyết định đi theo Người. Chúa Giê-su quả là một nhà sư phạm, một nhà giáo tuyệt vời, vừa có lòng vừa có tâm lý.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Thiên Chúa mời và chờ đợi I-sai-a tư nguyện làm ngôn sứ (bài đọc 1). Thiên Chúa mời và chờ đợi các tín hữu Cô-rin-tô tin vào Chúa Giê-su qua lời rao giảng của các Tông đồ (bài đọc 2). Chúa Giê-su mời và chờ đợi đám đông và các môn đệ đầu tiên nghe và tin vào Lời Người (bài Phúc Âm).
Vậy sứ điệp của Lời Chúa hôm nay rất đơn giản và dễ hiểu:
hãy tin và đi theo Chúa hoặc
hãy đáp lại lời mời và sự chờ đợi của Chúa.
Những lời mời và sự chờ đợi của Chúa ở hai mức độ khác nhau:
* Một là tin vào Chúa Giê-su là Chúa Cứu Thế và trở thành Ki-tô hữu, như các Tông Đồ và Hội Thánh hằng rao giảng và mời gọi.
* Hai là đáp lại lời mời và sự chờ đợi của Chúa để trở thành ‘ngôn sứ’ của Chúa như I-sai-a hay ‘tông đồ’ của Chúa như Phê-rô, An-rê, Gio-an, Gia-cô-bê và Phao-lô….
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp mà Chúa gửi cho tôi hôm nay, tôi phải xét mình xem tôi được Chúa mời và chờ đợi gì? và tôi đã đáp lại Người như thế nào?
* Nếu Thiên Chúa mời và chờ đợi tôi làm Ki-tô hữu, thì tôi đã đáp lại Người đầy đủ chưa? Tôi là Ki-tô hữu loại nào (1)?
* Nếu Thiên Chúa mời và chờ đợi tôi làm ngôn sứ hay tông đồ, thì tôi đã đáp lại Người đầy đủ chưa? Tôi là ngôn sứ và tông đồ loại nào (2)?
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
* Lạy Thiên Chúa là Đấng Cao Sang và Thánh Thiện vô cùng, Chúa đã phán với I-sai-a: "Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Chúa cũng phán với chúng con hôm nay: "Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Xin Chúa ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều ngôn sứ nhiệt thành, thánh thiện để hơn 80 triệu người dân Việt được nghe và đón nhận Lời Chúa! (3)
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã bảo ông Si-môn: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Hôm nay Chúa cũng bảo chúng như vậy. "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá" có nghĩa là Chúa bảo chúng con hãy dấn thân vào mọi nơi mọi chốn, nhất là những chỗ khó khăn, để làm chứng cho Chúa và giúp người ta trở thành môn đệ Chúa. Xin Chúa hãy ban lòng dũng cảm cho chúng con để chúng con không ngại gian khó trong sứ vụ chinh phục con người thời nay cho Chúa!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã nói với ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta" Hôm nay Chúa cũng bảo chúng con đừng sợ; Chúa cũng giao sứ mạng thu phục người ta cho mỗi người chúng con. Xin Chúa hãy thanh luyện và biến đổi chúng con, để chúng con trở nên tông đồ đích thực của Chúa!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Chúa Thánh Thần, Tin Mừng Lu-ca đã kết luận câu chuyện mẻ cá lạ: “Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Xin Chúa giúp mọi Ki-tô hữu, nhất là các linh mục, tu sĩ nam nữ và tông đồ giáo dân biết hy sinh, từ bỏ để thực thi sứ mạng ‘môn đệ’ và ‘tông đồ’ mà Chúa giao cho họ!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
* Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, ngôn sứ I-sai-a đã thưa với Chúa: “Dạ con đây, xin sai con đi”. Chúng con cũng thưa với Chúa: “Dạ chúng con đây, xin Chúa sai chúng con đi” và xin Chúa đồng hành với chúng con trên cánh đồng Truyền Giáo hôm nay!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 20.01.2007.
……..
Chú thích:
(1) Có lẽ có thể xếp Ki-tô hữu giáo dân thành ba loại: (a) hữu danh vô thực (chỉ có cái tên là người công giáo, còn đời sống thì không có chất công giáo). (b) giữ đạo hình thức và ở mức tối thiểu. (c) sốt sáng nhiệt thành tức mộ đạo, hiểu đạo và hành đạo. (2) Có lẽ có thể xếp các ngôn sứ và tông đồ thời nay thành ba loại: (a) ngôn hành bất nhất (nói và giảng một đàng, còn sống một nẻo). (b) thực thi chức vụ chẳng khác gì công chức Nhà Chúa. (c) sốt sáng nhiệt thành, hết lòng với Chúa và với dân. (3) Đối với anh chị em sống trong các nước và các Giáo Hội khác (Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp…) thì xin đề nghị điều chỉnh tên quốc gia và các con số cho thích hợp với địa phương mình. Địa phương không chỉ được hiểu là quốc gia mà cũng có thể hiểu là giáo xứ, giáo phận.
Có học trò ngoan, đệ tử giỏi là niềm tự hào của những người làm thầy. Vì thế, việc tuyển chọn: TN 5-C40
Có học trò ngoan, đệ tử giỏi là niềm tự hào của những người làm thầy. Vì thế, việc tuyển chọn môn sinh là một trong những chuyện vô cùng quan trọng đối với một người thầy. Chúa Giêsu vẫn biết và công nhận điều đó. Bởi lẽ, Tin mừng theo thánh Luca thuật lại cho chúng ta biết rằng: trước khi tuyển chọn Nhóm 12 Tông đồ, Chúa Giêsu đã thức cầu nguyện suốt đêm với Đức Chúa Cha x. Lc6, 12-16). Nhưng có điều, tiêu chuẩn để Chúa tuyển chọn môn đồ xem ra không giống những người thầy khác. Ngài không dựa trên tiêu chuẩn thông thường như thông minh, học vị cao, tài giỏi, khéo léo, ngoại hình . . . nhưng Ngài lại dựa trên sự đáp trả lời mời gọi: mau mắn, tinh thần sẵn sàng từ bỏ, hy sinh cho người khác, khiêm nhượng để làm theo Thánh ý của Thiên Chúa. Có thể nói, Chúa Giêsu đã làm một sự đột phá trong việc tuyển chọn môn đệ cho mình.
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều xoay quanh vấn đề về ơn gọi của những người được tuyển chọn và sự đáp trả ơn gọi của họ trước lời mời gọi của Thiên Chúa, như Isaia, Phaolô, Phêrô và các bạn chài. . .
Trước hết, chúng ta cùng nhau nhìn lại ơn gọi của Isaia. Ông trở thành tiên tri của Thiên Chúa trong biến cố hết sức đặc biệt: Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong Đền thờ. Qua những hiện tượng đặc biệt như cảnh các thiên thần tung hô, các cửa đền thờ rung chuyển, đền thờ nghi ngút khói v.v. Isaia, biết là có Thiên Chúa đang hiện diện. Cảm giác đầu tiên của Isaia là thấy mình quá tội lỗi khi đứng trước Thiên Chúa thánh thiện. Nhưng khi Thiên Chúa sai một thiên thần thanh tẩy môi miệng và con người củaIsaia rồi, thì ông lại trở nên mạnh dạn, nhiệt tâm và mau mắn đáp lại lời kêu gọi làm ngôn sứ cho Chúa. Chúng ta thấy Isaia dễ thương biết là đường nào! Khi ông nghe Thiên Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” thì ông nhanh miệng đáp lại rằng: “Dạ, con đây, xin sai con đi!”. Chúng ta thấy Isaia là một người tích cực và sẵn sàng trước sứ mạng không dễ dàng chút nào, Sứ mạng làm tiên tri của Chúa!
Kế đến là ơn gọi của Phaolô. Phaolô khiêm tốn nhận mình là tông đồ hạng chót, như “đứa trẻ sinh non” vậy. Nhưng Phaolô nhận ra rằng ơn gọi làm tông đồ của ông đến từ Thiên Chúa. Có nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm tông đồ vì ông đã từng bắt bớ Hội thánh của Chúa. Để trả lời họ, Phaolô mạnh mẽ nói rằng: tất cả những gì ông rao giảng đều là do ông đã lãnh nhận từ giáo huấn của chính Chúa Giêsu. Phaolô cũng chứng mình rằng chính Chúa Giêsu đã chọn ông như đã chọn các tông đồ khác. Quả thật, Phaolô đã trở thành lợi khí của Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc con người. Phaolô đã trở thành Tông đồ nhiệt tâm, làm việc không ngơi nghỉ và không biết mệt mỏi vì phần rỗi của mọi người. Khi “liều lĩnh” kêu gọi Phaolô, Chúa đã thấy được tấm lòng của ông. Và quả thật, Chúa không lầm!
Còn đối với Phêrô, qua mẻ cá lạ làm ông chợt nhận ra Chúa Giêsu không phải chỉ là con người mà còn là Đức Chúa, đồng thời ông ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình. Ông đã thốt lên "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".
Qua câu chuyện về ơn gọi của những nhân vật trong các bài đọc hôm nay, đặc biết là của Phêrô và các bạn chài, chúng ta nhận ra rằng: Ơn gọi đến từ Thiên Chúa: “Không phải các con đã chọn Thầy nhưng Thầy chọn các con và sai các đi và để hoa trái các con tồn tại”. Chúa kêu gọi con người và con người đáp trả. Chúa kêu gọi con người bằng nhiều cách thức khác nhau, nhưng thường thì Chúa hay kêu gọi con người ngay trong hòan cảnh sống hằng ngày của họ, ngay trong những hoàn cảnh rất bình thường. Như Phêrô và các bạn khi ấy đang làm công việc thường ngày là đánh cá. Hoàn cảnh thì bình thường, nhưng ý nghĩa lại đặc biệt: nó khiến con người khám phá một chân lý quan trọng trong cuộc đời. Nó thôi thúc con người làm một cuộc lựa chọn mới mẻ, làm chuyển hướng cả cuộc đời họ. Hôm đó, Phêrô và các bạn đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa Giêsu.
Dù gặp Chúa trong hoàn cảnh đặc biệt hay trong cuộc sống bình thường, hễ gặp được Chúa thì chắc chắn cuộc đời sẽ biến đổi. Chọn lựa của con người chúng ta sẽ đổi mới theo chiều hướng tích cực và tốt đẹp. Cuộc biến đổi lạ lùng của Giakêu, của Phaolô, của Agustinô . . . là một minh chứng. Chúng ta cũng là những người được Chúa kêu gọi để gia nhập vào trong Hội Thánh của Chúa, làm chi thể của Chúa Kitô, làm con cái của Thiên Chúa. Hằng ngày, chúng ta gặp Chúa Giêsu nơi Bàn Tiệc Lời Chúa, nơi Bà tiệc Thánh Thể Chúa, nhưng xem lại coi chúng ta đã có những thay đổi nào rồi. Chúng ta có bỏ bớt đi những thói quen xấu, những tật xấu của con người chúng ta chưa? Chúng ta có biết sống quảng đại, rộng rãi, hiền lành với mọi người chưa? Chúng ta có tích cực trong những công việc mưu ích linh hồn chúng ta như siêng năng lãnh nhận các Bí tích, siêng năng đọc kinh sáng tối trong gia đình chưa? Nếu chúng ta thấy mình vẫn còn chưa có những biến đổi tích cực nào, hay chưa biết từ bỏ một thói tật xấu nào là chúng ta chưa gặp Chúa đó. Mà nếu chưa gặp Chúa thì chúng ta vẫn còn sống trong tội lỗi và trong Bóng tối đó. Vậy, chúng ta hãy lo lắng cho mau được gặp Chúa thật sự, mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời bằng đời sống thánh thiện và tốt lành đối với Chúa, đối với mọi người cũng như đối với chính mình. Amen.
Những lúc gặp khó khăn thử thách, ngay cả đến chán nản tuyệt vọng mà có một ai đó đáng tin: TN 5-C41
Những lúc gặp khó khăn thử thách, ngay cả đến chán nản tuyệt vọng mà có một ai đó đáng tin cậy đến trợ giúp thì chắc hẳn chúng ta sẽ cảm thấy được an ủi biết là dường nào. Với sự trợ giúp ấy sẽ làm cho chúng ta tự tin hơn để tiếp tục công việc của mình. Tự tin vì có được sự trợ giúp.
Các Tông đồ xưa là những người chuyên nghề đánh cá nhưng ngày nọ các ông vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được con nào. Có lẽ lúc ấy các ông sẽ cảm thấy rất thất vọng. Ðúng lúc ấy Chúa Giêsu xuất hiện và bảo Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Si-môn đáp: Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới." (Lc 5, 4 - 5)
Nhờ sự trợ giúp kịp thời của Chúa Giêsu nên các ông đã bắt được một mẻ cá lạ thường. Chính sự tự tin trong Chúa mà các Tông đồ đã không còn chán nản và tuyệt vọng nữa. Ðó là khung cảnh trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay.
Bài đọc 1 trong Thánh lễ hôm nay cho thấy tiên tri Isaia cảm thấy mình nhơ nhớp trước Chúa nhưng nhờ tin tưởng vào Chúa mà ông sẵn sàng đón nhận sứ mạng Chúa trao.
Cũng vậy, chúng ta nhớ Ðavit là một người bé nhỏ nhưng đã chiến thắng được tên khổng lồ Gôliat nhờ ông biết tin vào Chúa. Khi thấy Ðavit, Gôliat đa buông lời mĩa mai: “Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao? " Và tên Phi-li-tinh lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa Ðavít. Tên Phi-li-tinh nói với Ða-vít: "Ðến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú." Ða-vít bảo tên Phi-li-tinh: "Anh mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tôi. Còn tôi, tôi đến với anh nhân danh Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà anh thách thức. Ngay hôm nay Chúa sẽ nộp anh vào tay tôi, tôi sẽ hạ anh và làm cho đầu anh lìa khỏi thân” (1Sm 17, 43 - 46)
Ông bà chúng ta thường nói: Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. Nghĩa là có nhiều việc được thành công bất ngờ do sự can thiệp của trời đất. Cho dù con người có vất vả cách mấy cũng không được như vậy. Ðối với người có đức tin, chúng ta hãy nhớ mọi việc nếu như chúng ta thực hiện dưới sự bảo trợ của Chúa chắc chắn sẽ thành công mỹ mãn.
Sự thành công ấy sẽ làm chúng ta hãnh diện hơn là kiêu ngạo. Hãnh diện và tự tin trong Chúa đó là một trong những điều cần thiết đối với người có đức tin. Muốn được như thế không cách nào khác chúng ta cần phải biết đón Chúa vào ở trong tâm hồn và vào trong gia đình của mình.
Chuyện kể rằng: Tony de Mello, một linh mục Ấn Ðộ, người đã thực hiện chương trình truyền: TN 5-C42
Chuyện kể rằng: Tony de Mello, một linh mục Ấn Ðộ, người đã thực hiện chương trình truyền hình vệ tinh được phát sóng tới 76 trường đại học ở Mỹ và Canada.
Tony lớn lên gần Bombay Ấn độ. Ngày nọ, ở trường trung học về, Tony hỏi cha cho anh đi tu làm linh mục được không? Cha anh nói: “ không được, con là con trai một, cha muốn con duy trì dòng họ”.
Sau 14 năm không có thêm con. Bổng mẹ anh có thai. Khi bà được đưa đếni bệnh viện để sinh. Tony chạy bộ theo. Đến nơi, anh hỏi cha: “Trai hay gái vậy cha?” Cha anh trả lời: “con có em trai”. Tony nói: “Tuyệt vời! Giờ đây con có thể trở thành Linh mục của Chúa”. (x. LMTV, Minh Họa Lời Chúa, Tập 2, trang 98)
Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta cũng mang một ơn gọi, ơn gọi đó không nhất thiết là ơn gọi tu trì như cha Tony De Mello, nhưng là ơn gọi làm con chúa, ơn gọi bước theo chúa và nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời.
Chúng ta đã đáp trả ơn gọi đó như thế nào?
Ngày xưa thánh Phêrô đã biết đáp trả lời mời gọi của Chúa cách chân thành và có thể chia theo 3 giai đoạn.
- Giai đoạn một: Phêrô được em mình giới thiệu với Chúa Giêsu và ông đã ở lại một thời gian với Ngài. Sau đó, có lẽ Chúa để cho ông có thời gian về thăm nhà suy nghĩ, thu xếp việc gia đình.
- Giai đoạn hai: Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đến gọi Phêrô lần thứ hai, cách chính thức. Và từ đó, Phêrô đã bỏ tất cả mọi sự: gia đình, nghề nghiệp, lối sống để bước theo Chúa trên mọi nẻo đường.
- Giai đoạn ba, Chúa gọi Phêrô. Lần này, ông không chỉ bỏ những quyến luyến trần tục và gia quyến mà bỏ cả mạng sống mình để nên giống Thầy mình trong mọi sự, kể cả nên giống trong việc đổ máu mình ra vì Chân Lý.
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa gọi. Lần thứ nhất trong Bí tích Rửa Tội, Chúa mời gọi chúng ta trở nên con cái trong thân thể Ngài là Giáo Hội, cho ta hưởng được nhiều ân huệ đặc biệt qua các Bí tích để giúp chúng ta biến đổi nên xứng đáng là con Chúa. Lần thứ hai Chúa gọi chúng ta, đó là thời gian sống đạo, Chúa tỏ ý Ngài ra trong các bài đọc, bài giảng trong Thánh lễ, trong lương tâm và hoàn cảnh sống mỗi người. Mỗi ngày, mỗi Chúa Nhựt, Chúa mời gọi chúng ta thi hành Lời Chúa trong Phúc Âm và kêu mời chúng ta gắn bó cuộc sống mình với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chúng ta tuy không đi theo Chúa như các Tông Ðồ trên các nẻo đường làng quê Israel xưa nhưng chúng ta cũng nghe Lời Chúa như các ngài và cần đem ra thực hành như các ngài. Và lần thứ ba, chúa gọi chúng ta là lúc chúng ta hấp hối trên giường bệnh, Chúa mời gọi chúng ta đừng tiếc nuối những gì của trần gian: tiền bạc, danh lợi, gia đình và cả mạng sống để theo Chúa cách trọn vẹn và Chúa sẽ ban lại cho chúng ta sau này, một thân xác được biến đổi, được hạnh phúc cả hồn và xác bên Chúa muôn đời.
Ba lần Chúa gọi Phêrô, ba lần Chúa gọi chúng ta trong hành trình theo Chúa, chúng ta đã đáp lại tiếng Ngài như thế nào? Chúng ta có vui mừng vì được Chúa nhận làm con, mà Chúa là vua, chúng ta sẽ là hoàng tử, công chúa trong triều đình thiên quốc. Nếu như chúng ta nhận ra được quyền lợi và địa vị cao sang đó, nhận ra mình được Chúa ưu ái như vậy thì chúng ta hãy vui sướng cao rao Tin Mừng đó cho mọi người xung quanh như tiên tri Isaia trong bài đọc I: khi nhận được cục than hồng từ tay thiên thần đặt trên lưỡi ông thì ông được tẩy sạch bợn nhơ thế tục, trở nên sốt nóng lửa yêu mến Chúa, hăng hái xung phong loan báo Lời Chúa cho đồng bào mình.
Chúng ta hôm nay không chỉ nhận cục than cháy đỏ mà nhận chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là Thiên Chúa mỗi khi Rước lễ. Lúc đó, chính Chúa Giêsu ngự vào lòng chúng ta, tẩy sạch những vết nhơ tội lỗi còn trong con người chúng ta. Ngài cho chúng ta được kết hợp nên một với Ngài, để chúng ta vui một niềm vui với Ngài, ưu tư một iềm ưu tư của Ngài, để chúng ta biết cao rao danh Chúa bằng hành động như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc II. Trước kia, khi Phaolô chưa biết đạo thì ông bắt bớ Hội Thánh, nhưng khi theo đạo rồi thì ông nhiệt thành, bất kể khó khăn bắt bớ, ông rao giảng, tranh luận, biện bác, chấp nhận vất vả không kém gì 12 Tông đồ kia. Ngài làm với hết khả năng chúa ban cho người ta biết Chúa Giêsu mà được ơn cứu độ chứ không bị lầm lạc như ngài trước khi theo đạo.
Ngày nay, người Kitô hữu chúng ta đã học biết rõ ràng về kinh nghiệm ơn gọi và sống đạo của các Ðấng, chúng ta hãy đem ra thực hành chứ đừng nghe suông rồi bỏ. Vì Chúa Giêsu nói: không phải ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa” suông mà được vào Nước Trời. Chỉ những ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành mới được vào Nước Chúa.
Chúa nhật hôm nay, Giáo hội trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu: TN 5-C43
Chúa nhật hôm nay, Giáo hội trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Nhưng trước đó, Người đã thực hiện phép lạ cho họ thấy. Đọc lại câu chuyện này, tôi cảm phục Chúa Giêsu, Người đến để làm thay đổi mọi sự.
Người đến làm thay đổi hoàn cảnh, thay đổi tâm trạng con người và thay đổi luôn công việc của những người đang ở đó. Thật thế, hoàn cảnh của Phêrô đáng thương, ông là một người dân nghèo thứ thiệt, có thể nói cuộc đời ông gắn liền với chiếc thuyền, với cái chày với chiếc lưới, vì suốt ngày ông lênh đênh trên biển hồ để kiếm cá mà sống. “Nghề dạy nghề”, kiếm sống bằng nghề đánh bắt cá, chắc chắn Phêrô thông thạo và hiểu rõ việc mình đang làm. Đối với ông, muốn bắt được cá thì Phêrô phải vất vả trong đêm tối, chèo chống đến chỗ nước cạn hay nước sâu. Thế nhưng đó chỉ là kinh nghiệm nghề nghiệp thôi chứ thực tế hôm nay dù có kinh nghiệm hay vất vả suốt đêm thì ông cũng không bắt được cá ( Lc 5, 4). Còn đối với ông thợ mộc Giêsu kia, Người không có chút kinh nghiệm nào như Phêrô cả, lại bảo Phêrô chèo sang chỗ nước sâu để bắt cá. Nếu như đem so sánh với ngư phủ Phêrô thì ông thợ mộc Giêsu kia thua xa…nhưng ngược lại ông thợ mộc Giêsu nói về thước tấc hay chiều cao, chiều rộng của khúc gỗ, của miếng ván thì có lẽ ông Giêsu giỏi hơn Phêrô là cái chắc, phân biệt gỗ ôliu với gỗ tùng như thế nào là sở trường của ông Giêsu.
Hình như thợ mộc Giêsu đá lộn sân hay chăng? Vậy mà chúng ta thấy ông Giêsu lại dám bảo Phêrô làm theo ý mình. Đây quả là thách đố lớn đối với Phêrô. Đứng trước lời đề nghị này, Phêrô có hai sự chọn lựa: hoặc là dựa vào kinh nghiệm dạn dày gió sương lâu năm của mình, Phêrô sẽ từ chối thẳng thắn đúng với tính tình bộc trực của ông, thậm chí ta không muốn nói Phêrô sẽ nói một bài thật dài để chỉ dạy cho ông thợ mộc Giêsu này chỗ nào là nước sâu, chỗ nào là nước cạn, làm như thế nào thì mới đánh bắt được nhiều cá… Hoặc Phêrô sẽ chọn làm theo lời Ông thợ mộc Giêsu vừa đề nghị, nhưng điều này hơi bị “liều lĩnh”…người ta gọi là “giao trứng cho ác”. Mặc dù có sự giằng co nhưng Phêrô nhanh nhẹn làm theo lời đề nghị vừa rồi: “Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” ( Lc 5, 4). Phêrô đã tin!
Kết quả mà Tin Mừng cho chúng ta thấy thật bất ngờ. Phêrô làm theo ông Giêsu nên được kết quả vượt sức tưởng tượng. Ông Giêsu đã làm thay đổi hoàn cảnh: từ không có cá thành các thuyền đầy ắp cá ( Lc 5, 6 – 8), làm thay đổi tâm trạng từ việc có thể nói người ta có thể bán tính bán nghi trước lời đề nghị, tâm trạng thất vọng thành vui mừng khôn tả: họ phải kinh ngạc ( Lc 5, 9); kết quả này còn làm thay đổi cái nhìn, lối suy nghĩ tầm thường của mọi người đang chứng kiến ở đó. Có một sức mạnh vô hình đang đi vào những con người quê mùa dốt nát, những con người chân chất làm việc suốt trên biển hồ, một sức mạnh làm thay đổi tất cả. Nói cho đúng hơn, chính ông thợ mộc Giêsu đã làm thay đổi những điều đó. Ông Giêsu quả là nhà cách mạng, làm thay đổi cuộc sống của họ.Ông Giêsu có quyền năng trên vũ trụ, trên con người. Ông chính là chủ của những thứ kia.
Về phần mình, trước kết quả to lớn, phi thường này Phêrô thấy như có cái gì không ổn, thấy mình bất xứng, ông đã khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình, nên ông thưa: “xin hãy tránh xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi”. Về phần ông Giêsu, Người đã thấu hiểu nỗi lòng của ông Phêrô, Người muốn Phêrô nghe Người để làm việc lớn lao hơn: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.".
Chúa Giêsu đến gặp Phêrô. Người đến trong cuộc đời Phêrô. Người xuống thuyền Phêrô để giảng dạy cho dân chúng. Người cần Phêrô thì Phêrô đã quảng đại hiến dâng, không từ chối. Người còn muốn Phêrô chèo thuyền ra xa một chút, Phêrô làm theo ngay. Thay vì Phêrô từ chối, Ông Giêsu muốn giảng thì xuống thuyền của người khác đi, mắc mớ gì tới ông mà ông phải làm theo ông thợ mộc Giêsu kia. Thế nhưng Phêrô hoàn toàn làm theo sự sắp xếp đầy quan phòng của ông Giêsu. Quả thật Phêrô là một người tốt, có lòng rộng rãi. Ông có thể nghèo vì cái nghề nghiệp của ông lận đận “ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh” trên biển hồ nhưng ông đúng là một người giàu có về lòng nhân ái không thể nào chê cho được. Chúa Giêsu cần tấm lòng của chúng ta quảng đại như Phêrô.
Chúa Giêsu đề nghị Phêrô chèo thuyền ra chỗ nước sâu để bắt cá. Phêrô cũng đã làm theo và được kết quả vượt tầm hiểu biết của mình. Chúa Giêsu đến trong cuộc đời của Phêrô thì nhờ đó mà ông đã thành công. Như các bạn khác, dựa vào khả năng riêng của mình, ông vất vả suốt đêm nhưng chẳng được gì cả. Kinh nghiệm mấy mươi năm trên biển hồ của Phêrô bây giờ chẳng ăn nhằm gì với quyền năng của Chúa Giêsu cả! Tuy nhiên có Chúa giúp thì Phêrô đã thành công. Lời Chúa có sức mạnh phi thường làm thay đổi tất cả! Hôm nay Chúa đến trong đời Phêrô như một sự kiện lớn lao, sự kiện này là một kỷ niệm mà Phêrô sẽ nhớ đời đời và sẽ còn truyền lại cho thế hệ mai sau nữa. Sự kiện này vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay và người ta sẽ còn nhắc sự kiện này mãi mãi.
Phêrô để Chúa bước vào con thuyền cuộc đời của mình. Có Chúa thì Phêrô thành công. Chúng ta cũng hãy để Chúa bước vào cuộc đời của chúng ta, hãy để Chúa thực hiện cuộc đời chúng ta như ý Người muốn. Chúa ở trong cuộc đời của mình, chúng ta sẽ thành công.
Chúa Giêsu đề nghị Phêrô theo Người để từ nay các ông trở thành những người lưới người ta cho Chúa. Phêrô đã bỏ mọi sự mà mau mắn đi theo Chúa. Phêrô là người chân thành, thẳng thắn và đầy lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu nên kết quả tốt đẹp đã xảy ra trên biển hồ sáng sớm hôm ấy. Giả sử nếu Phêrô không làm theo Lời ông Giêsu thì phép lạ không xảy ra. Hậu quả là Phêrô vẫn không bắt được cá. Tuy nhiên Phêrô đã dám tin tưởng vào ông thợ mộc kia, và Người đã làm thay đổi vận mệnh Phêrô. Từ nay Phêrô trở thành người chày lưới người, chày lưới linh hồn người ta cho Nước Thiên Chúa. Phêrô để Chúa dùng cuộc đời của mình làm phương tiện cho việc truyền giáo của Chúa. Chúa muốn mỗi người chúng ta dâng cho Chúa cuộc đời chúng ta để Chúa làm điều ích lợi cho chúng ta và cho tha nhân nữa. Giáo dân truyền giáo theo bổn phận của người giáo dân. Tu sĩ và giáo sĩ thì chu toàn bổn phận theo phận vụ của mình. Mọi người kitô hữu đều có vị trí và bổn phận của mình trong việc đáp lại lời mời gọi sống làm chứng cho Chúa.
Ngày nay bắt chước Phêrô, nhiều người đã hy sinh dâng cuộc đời mình cho Chúa Giêsu, có người đi theo Chúa trong bậc giáo sĩ, có người đáp trả tiếng gọi trong bậc sống tu sĩ, có người làm chứng nhân trong bậc sống gia đình, và những người khác sống vì tinh thần Tin Mừng…Chúng ta hãy bước theo Chúa và thành tâm sống trọn vẹn trong bậc sống của mình cho Chúa.
Giáo Hội Việt Nam mừng năm Thánh 2010 trong tâm tình cảm tạ Chúa vì Người đã thương ban cho những người có lòng quảng đại, dám từ bỏ quê hương xa xôi, hy sinh cuộc đời để đến truyền giáo tại Việt Nam, dấn thân vào sứ mạng loan báo Tin Mừng. Họ dám quảng đại từ bỏ mọi sự để chỉ lo công việc cho Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết quảng đại làm theo Lời Chúa dạy bảo. Xin Chúa hãy đến trong cuộc đời chúng con và thực hiện những điều Ngài mong muốn. Chúng con xác tín rằng có Chúa trong cuộc đời chúng con, chúng con sẽ bình an và vững bước theo Chúa. Amen.
Trong cuộc sống có những điều xem ra thật nghịch lý: có những em học sinh luyện thi rất chăm: TN 5-C44
Trong cuộc sống có những điều xem ra thật nghịch lý: có những em học sinh luyện thi rất chăm chỉ, nhưng rồi lại thi rớt. Vận động viên thể thao cố gắng tập luyện và chơi hết sức mình, vậy mà lại thua. Có người cần cù lao động suốt cả năm, vậy mà vẫn nghèo. Hay cha mẹ đã làm tất cả để giáo dục cho con cái nên người tốt, nhưng nó lại làm người xấu. Hầu hết chúng ta đều có khi gặp thất bại như thế.
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca tường thuật lại việc Phêrô và các bạn đánh cá đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Các ông chán nản, mệt mỏi, các ông không đánh cá nữa mà đi giặt lưới. Các ông là dân chày lưới chuyên nghiệp vậy mà thất bại trắng tay, không có một con cá để ăn.
Khi Phêrô và các bạn bị thất bại, Chúa Giêsu có thể trách các ông “Các anh nói là dân chày chuyên nghiệp, đã hành nghề bao nhiêu năm trời rồi, thế sao đánh lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào hết vậy? Nhưng ngược lai Chúa Giêsu không hề nói gì. Vì sao vậy? Thưa tại vì Ngài hiểu tâm lý nên đã thông cảm với các ông, vì các ông đã cố gắng hết sức mình rồi mà vẫn thất bại, điều đó đã làm cho các ông đau khổ lắm rồi. Không cần trách móc để các ông càng đau khổ thêm. Thất bại đã là một vết thương, không cần sát muối vào cho nó càng xót xa thêm. Chúa Giêsu quả là bậc thầy về đối nhân xử thế, thật là một người rất tâm lý điều người ta cần khi bị thất bại là có ai đó vẫn tin mình, an ủi mình và khuyến khích mình vươn lên. Thất bại không phải là nằm dưới, mà chỉ là đang đứng ở dưới thôi.
Thông thường thì không ai muốn mình là người thất bại, mình phải thành công mới được. Thành công là gì? Thành công không phải là có tất cả. Ta có thể thành công thắng một vụ kiện cáo, nhưng rồi bị mất một người bạn một người lối xóm. Ta có thể thành công trước việc làm ăn buôn bán, nhưng rồi lại mất tình làng nghĩa xóm. Hương vị ly rượu thành công có thể rất ngây ngất ngay lúc đó, nhưng về sau hầu hết đều cạn dần và cuối cùng trống rỗng.
Chúa Giêsu không trách Phêrô và các bạn, nhưng Ngài không cho các ông cứ ở đó mãi để ngâm nhấm nỗi chua cay. Ngài đã kích thích cho các ông làm lại sau lần thất bại “hãy chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”. Các ông đã làm theo lời chỉ dạy của Chúa Giêsu, và đạt kết quả mà các ông không thể ngờ tới, bắt được hai thuyền đầy cá đến gần chìm.
Chúa Giêsu biết Phêrô yếu đuối tội lỗi, nhưng Ngài cũng biết ông có khả năng làm được những việc to lớn. Ngài không hề công kích chỗ yếu đuối của Phêrô, nhưng Chúa Giêsu kích thích đúng vào tiềm năng của Phêrô. Nhờ được kích thích, các ông đã thả lưới bắt được nhiều cá. Sau đó các ông còn hăng hái bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu thả lưới bắt người.
Thật vậy, Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta cũng có nhiều người đang gặp thất bại trong việc làm ăn, đang gặp thất bại trong chuyện gia đình, hay đang gặp khủng hoảng đức tin … họ rất là buồn và đau khổ. Trước hoàn cảnh đó, chúng ta hãy cùng nâng đỡ và chia sẻ với họ là điều rất cần thiết. Ông bà chúng ta ngày xưa đã đúc kết từ kinh nghiệm sống mối tương quan với người khác thật thâm thuý qua câu tục ngữ “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Còn Thánh Phaolô chứng kiến sự chia rẽ của giáo đoàn Rôma, nên ngài nhắc nhủ tín họ “chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12,5). Và chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu biết thông cảm và nếu được chúng ta đến chia sẻ, nói những lời động viên, để người anh chị em chúng ta có đủ nghị lực vượt qua những thất bại. Đôi khi chỉ một cử chỉ quan tâm, thông cảm của chúng ta lại là một động lực giúp cho người khác thoát những thất bại.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có con tim biết cảm thông trước những thất bại, đau khổ của người khác. Xin Chúa cũng thánh hoá môi miệng của chúng con để chúng con biết nói lời yêu thương, nói lời chia sẻ giúp anh chị em chúng con vượt qua mọi khó khăn thử thách. Amen.
Trong thời gian vừa qua, có nhiều thay đổi lớn trên thế giới. Tổng thống Mỹ đã thay đổi, vị tổng: TN 5-C45
Trong thời gian vừa qua, có nhiều thay đổi lớn trên thế giới. Tổng thống Mỹ đã thay đổi, vị tổng thống đã ra đi, ông bỏ lại những người đã từng cộng tác với ông trong công việc. Còn có những vị đang nhiệm, lại phản bội sự tín nhiệm của người dân, nên người dân đòi đem ra trước công lý để xét xử. Như tổng thống của Philipin và tổng thống của Indonésia, người đã từng được nhân dân tín nhiệm và bầu lên, giờ đây cũng chuẩn bị ra trước công lý để trả lời về những việc làm của mình. Còn tổng thống của Nam Tư, ông Milochevich giờ đây dường như trở thành tội phạm, ông đã bị quản thúc tại gia chờ ngày lãnh án. Những người đã từng ủng hộ ông vì lời mời gọi, hứa hẹn, họ từ từ rời xa ông, vì ông chỉ biết phục vụ cho chính mình. Những nhà lãnh đạo trên đã từng kêu gọi mọi người ủng hộ, kêu gọi mọi người đi theo, nhưng người thì bỏ ra đi, người thì phản bội. Những người đi theo những nhà lãnh đạo như thế, họ đành phải tìm một người tốt hơn để phục vụ.
Cách đây hơn 2000 năm. Một nhà lãnh đạo cũng kêu gọi những người theo mình, để phục vụ cho lý tưởng tốt đẹp. Những người môn đệ đầu tiên đã lắng nghe, đã bước theo, đã phục vụ theo lý tưởng mà nhà lãnh đạo đã dẫn dắt. Những môn đệ nầy còn dám chết vì Vị lãnh đạo, dám chết vì lý tưởng mà họ đã được mời gọi để bước theo. Họ nhận thấy: Người lãnh đạo đầy yêu thương, không từ bỏ họ, nhưng luôn ở kề cận bên họ trong mọi trường hợp. Người lãnh đạo không bao giờ phản bội họ, nhưng trái lại luôn trung thành và bảo vệ họ những khi cần thiết. Người lãnh đạo luôn là chân lý để họ bước theo và không bao giờ bị lạc đường. Vị lãnh đạo tuyệt vời đó là Chúa Giêsu. Ngài kêu gọi không bằng lời nói suông, nhưng bằng cả hành động và lời nói. Ngài không chỉ hứa hẹn bằng lời, nhưng bằng cả cuộc sống của Ngài. Nên những môn đệ đầu tiên đã bước chân theo Ngài, theo trong cả sự vâng phục, cả con người và không ngần ngại hy sinh mạng sống
Ngày hôm nay, cho dù đã trãi qua thời gian dài hơn 2000 năm lịch sử, Vị lãnh đạo Tuyệt Vời vẫn còn kêu gọi, những người bước theo Ngài càng đông thêm. Họ nhận thấy Ngài luôn ở kề cận bên họ,luôn bảo vệ họ trong mọi trường hợp, nơi Ngài họ tìm được sự an bình và chân lý, nên họ không cần phải tìm một nhà lãnh đạo nào khác nữa.
Chúng ta là những người được Chúa Giêsu kêu gọi bước theo Ngài,được nhận mệnh lệnh: "Hãy ra chỗ nước sâu và thả lưới" Chúng ta cũng đã từng lắng nghe lời Ngài trong cuộc sống, chúng ta cũng đã từng chứng kiến những mẻ cá lạ lùng. Các môn đệ ngày xưa đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo Chúa. Còn những người môn đệ ngày nay, những người đang ngồi trong nhà thờ này, chúng ta đã phản ứng như thế nào khi chứng kiến những việc trọng đại, khi nghe được tiếng kêu mời?
Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta khó chịu vì những sự việc chung quanh không diễn ra đúng với những gì mình suy tính, định liệu. Có những lúc chúng ta tự hào về kinh nghiệm sống của mình, tự hào về những hiểu biết của mình, để không bao giờ biết lắng nghe ý kiến của người khác, nhiều lúc còn tệ hại hơn, chúng ta tỏ vẻ khinh dể ra mặt. Nếu Phêrô cũng tự hào về kinh nghiệm của mình như thế, thì làm sao ông có thể chứng kiến được mẻ lưới đầy cá như thế. Chính vì chúng ta không biết lắng nghe, không biết hành động theo mệnh lệnh, nên chúng ta chưa chứng kiến được những dấu lạ, và cũng vì thế, chúng ta chưa bước chân theo Ngài thật sự.
Có những lần chúng ta cảm thấy khó chịu vì sự gò bó của cuộc sống, sự ràng buộc của gia đình, sự ràng buộc của trách nhiệm, sự ràng buộc của lề luật sống, và hơn nữa là sự ràng buộc của một người Công Giáo. Chính những điều đó, đôi khi trước mắt, chúng ta cảm thấy khó chịu vì phải thua thiệt, mất mát trong cuộc sống hiện tại. Nhưng nếu chúng ta chịu hồi tâm nhìn lại, cũng chính những lúc đó, chúng ta chứng kiến được mẻ cá lạ lùng trong đời sống: sự may mắn bất ngờ, niềm hạnh phúc bỗng nhiên đến bên mình. Vì đó là lúc chúng ta biết lắng nghe mệnh lệnh và bước theo Ngài. Đó cũng là lúc chúng ta đã bỏ mọi sự, bỏ ý riêng và cả những lợi lộc riêng tư mà sống theo tiếng Chúa kêu mời, nên Ngài vẫn luôn ở bên chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe và bước theo Chúa.
Thiên Chúa có thể làm được mọi sự theo ý Ngài muốn, nhưng Thiên Chúa luôn muốn con người: TN 5-C46
1. Thiên Chúa có thể làm được mọi sự theo ý Ngài muốn, nhưng Thiên Chúa luôn muốn con người cộng tác vào chương trình của Ngài. Các bài đọc và bài Tin Mừng hôm nay đều cho thấy rõ điều đó. Bài đọc 1 (Is 6,1-2a.3-8), Thiên Chúa kêu gọi Isaia làm ngôn sứ ; bài đọc 2 (1Cr 15,1-11) đề cập đến việc Đức Giêsu gọi Phaolô làm tông đồ cho Người và bài Tin Mừng tường thuật lại ơn gọi của Simon Phêrô. Qua 3 ơn gọi này chúng ta nhận ra điều gì ? Thưa đó là Thiên Chúa gọi ai tùy ý Ngài và người được gọi phải có thái độ nhanh chóng đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa gọi ai tùy ý Ngài. Ngài chọn người tông đồ không phải vì người đó tài giỏi, đạo đức, mà chỉ vì Ngài muốn chọn (x. Mc 3,13). Khi ngôn sứ Isaia được chọn, ông đã nhận ra sự yếu kém của mình, chính ông nói: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế”. Còn thánh Phaolô khi nói về ơn gọi của mình, ngài tự thú rằng: “tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ, vì đã ngược đãi Hội thánh của Thiên Chúa”. Còn Simon Phêrô, đã thốt lên trước mặt Đức Giêsu: ”Lại Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”, một con người hèn kém, một ngư dân thất học như vậy, mà được Đức Giêsu chọn làm tông đồ, lại còn là Tông đồ trưởng nữa chứ! Thiên Chúa chọn gọi ai tùy Ngài, và Ngài sẽ ban ơn giúp sức để cho người được gọi làm công việc của Ngài, miễn là người được gọi phải mau mau đáp trả.
3. Chúng ta thấy Isaia, Phaolô và Phêrô tất cả đều mau mắn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, của Đức Giêsu. Mặc dù ngôn sứ Isaia cảm thấy mình bất xứng, nhưng trước lời mời gọi quyết liệt của Thiên Chúa, ông cũng mau mắn đáp lại: ”Dạ, con đây, xin sai con đi”. Phần Phaolô được Chúa gọi đang lúc trên đường đi đến Tarsô để bắt bớ các Kitô hữu, cũng đã ngoan ngoan vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Còn trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Phêrô đại diện cho các tông đồ đầu tiên đã mau mau đáp lời mời gọi của Chúa. Dù đang giặt, phơi lưới, đã bỏ việc đang làm để chèo thuyền cho Chúa giảng dạy… và như cuối đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe: ”Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà đi theo Người”.
4. Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi mọi người chúng ta làm tông đồ. Xưa Đức Giêsu rao giảng chỉ có ba năm, việc rao giảng của Người giới hạn nơi nước Do thái và một ít vùng phụ cận. Giờ đây cũng như thời đã qua và cho đến ngày tận thế Thiên Chúa mời gọi mọi người chúng ta cộng tác để đem Tin Mừng, ơn cứu độ của Người đến cho muôn dân, muôn nước. Dù chúng ta là người giáo dân bình thường hay là linh mục, tu sĩ… nhưng đều có chung ơn gọi duy nhất là ơn gọi Kitô hữu. Tất cả đều được sai đi, như Đức Giêsu đã truyền: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Công đồng Vatican II cũng đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: mỗi Kitô hữu là một tông đồ của Chúa.
Vậy mọi Kitô hữu tuỳ theo bậc sống, môi trường, hoàn cảnh, khả năng của mình đều phải tích cực góp phần xây dựng Hội Thánh, thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Trong xứ đạo người được phân công nhiệm vụ này, kẻ lãnh trách vụ khác. Người trong hội đoàn này, kẻ trong nhóm sinh hoạt khác. Có những người rất nổi nang, nhưng cũng có những người rất âm thầm trong việc tông đồ, nhưng không vì thế mà kém hiệu quả… đó là sự phong phú, đa dạng của việc tông đồ. Điều quan trọng là ta có quảng đại, có dám dấn thân cho việc tông đồ hay không ?
Hãy cảm tạ Thiên Chúa vì chúng ta được biết Ngài là Cha, nhưng còn rất nhiều người chưa biết Thiên Chúa thì sao ? Thưa, họ rất cần chúng ta giới thiệu Đấng toàn năng cho họ, như lời thánh Phaolô dạy: ”Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ?” (Rm 10,14). Chúng ta hãy rao giảng Lời Chúa lúc thuận lợi cũng như khi bất lợi (x.2 Timôthê 4,2).
Isaia, Phaolô và Phêrô và tất cả những ai được chọn đều để được sai đi làm việc cho Thiên Chúa người Kitô hữu cũng được vinh dự như thế. Đức Giêsu đã nói với Phêrô, khi ông bỏ chài lưới mà theo Chúa: ”Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Để đem tha nhân về cho Chúa, chắc Phêrô cũng như các Kitô hữu không cần dùng loại lưới nào, cho bằng những sợi lưới được dệt bằng chính đời sống tốt đẹp của mình. Dân gian ta có câu “trăm nghe không bằng một thấy”, giới thiệu cho bà con lương dân nghe căn bản giáo lý của Đạo là “mến Chúa, yêu người”, rất tốt. Nhưng sẽ có tác dụng tốt hơn khi ta sống ơn gọi của mình qua việc thờ phượng Thiên Chúa cách thành tâm, qua việc sống yêu thương tha nhân bằng những hành động cụ thể, thiết thực. Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II thường nhắc rằng: người thời nay tin các chứng nhân hơn các thầy dạy, nếu họ có đón nhận các thầy dạy, bởi vì những người đó là chứng nhân. Mỗi Kitô hữu hãy cộng tác với ơn Thiên Chúa ban để thành chứng nhân cho Ngài thực sự.
Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, đã lãnh nhận sứ mạng của Chúa Cha là đem đến: TN 5-C47
Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, đã lãnh nhận sứ mạng của Chúa Cha là đem đến cho nhân loại biết Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa khao khát chờ mong con người, Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón chờ con người quay về trong Tình Yêu Thiên Chúa. Để thực thi sứ mạng đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi những con người cùng cộng tác với Ngài, chia sẻ cùng Ngài sứ mạng của Thiên Chúa. Mỗi một con người được kêu gọi là một lịch sử, một cuộc đời, một hoàn cảnh chẳng ai giống ai. Như hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô cộng tác với Ngài.
Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nếu để ý chúng ta thấy Chúa Giêsu như vô tình đến làng chài của Simon rao giảng, vì đông quá nên Ngài phải nhờ thuyền của Simon để rao giảng và Ngài xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút để Ngài dạy dỗ đám đông. Còn Simon là một trong những người đánh cá đang giặt lưới. Có lẽ Simon cũng có để ý đến những lời Chúa Giêsu rao giảng, cũng như để ý đến sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Chúa Giêsu nên khi Chúa Giêsu lên tiếng thì ông đã không từ chối. Như đã nói Chúa Giêsu như vô tình gặp được Simon, nhưng có thật như thế không? “ Tạng phủ con chính Ngài cấu tạo, con nghĩ tưởng gì Ngài đã thấu suốt từ xa ” . Có lẽ Chúa Giêsu đã chọn Simon từ rất lâu rồi trong kế hoạch của Ngài và hôm nay Ngài đến với Simon, kêu gọi Simon. Ngài muốn Simon chia sẻ sứ mạng của Ngài.
Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Simon thật đặc biệt, đặc biệt không có nghĩa là khác thường. Ngài đến với Simon ngay trong chính công việc thường ngày của ông, trong chính nghề nghiệp của ông là nghề đánh cá, trong lúc ông đang thực hiện công việc của ông là đang giặt lưới. Ngài mời gọi ông cộng tác với Ngài và Simon nghe theo Chúa Giêsu, đã chiều theo Chúa Giêsu là chèo ra ra bờ để Chúa Giêsu rao giảng. Ngày hôm nay Chúa cũng đến với mỗi người chúng ta ngay trong chính công việc thường ngày của chúng ta. Ngài cũng nhẹ nhàng kêu gọi chúng hãy cộng tác với Ngài để ơn cứu độ của Thiên Chúa được lan rộng. Những công việc thường ngày của chúng ta như: chăm con, lau nhà, rửa bát, tất tả ngược xuôi để tìm miếng cơm manh áo.... tất cả những việc ấy Chúa muốn chúng ta hãy thực hiện cùng với Chúa, trong sự vui vẻ dâng hiến, “ Hỡi tất cả những ai gánh nặng hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi ” . Chúa kêu gọi Simon làm công việc của Chúa thì Chúa cũng kêu gọi chúng ta làm cho danh Chúa cả sáng, làm lan rộng nước Chúa. Chúng ta cũng làm việc, cũng sinh hoạt nhưng với một tâm thế biết trông cậy phó thác và khi đó chúng ta trở thành những tông đồ của Chúa cách nào đó cho những người xung quanh.
Cuối bài Tin Mừng thánh Luca cho thấy nỗi sợ hãi của Simon khi ông nhận ra ông Giêsu trước mặt mình là ai, là chính Chúa thì ông sợ hãi, sấp mình và nói “ Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi ” . Simon sợ hãi cũng phải thôi vì có ai đối diện với Thiên Chúa mà không phải chết bao giờ, ai đối diện với Thiên Chúa mà không sợ hãi. Tiên Tri Isaia đã nói “ khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà tôi đã thấy Đức Vua, là Chúa các đạo binh ” . Nhưng Thiên Chúa có cách xử của Chúa. Chúa bảo Simon đừng sợ, Chúa sai thiên thần Sêraphim đặt than hồng vào miệng Isaia và nói “ đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội ” . Chúa không chê bỏ con người, cho dù ô uế, tội lỗi nhưng Chúa muốn nâng con người lên để cộng tác với Thiên Chúa. Tuy nhiên Chúa cũng đòi hỏi con người phải nghe theo Chúa như ở đây Chúa Giêsu đòi Simon phải bỏ những kinh nghiệm đã có nghề chài lưới, phải bỏ sự mệt nhọc của một đêm đánh bắt chẳng được con nào, ..... mà nghe theo Ngài. Có như thế thì Thiên Chúa mới có thể thực hiện việc Ngài muốn và làm hoan hỷ lòng người.
Hôm nay Thánh Luca thuật lại ơn gọi của Simon như một chuỗi những tình cờ. Tình cờ gặp Chúa, tình cờ cộng tác với Chúa, tình cờ nhận ra Chúa nhưng cuối cùng ông quyết định bỏ mọi sự mà theo Chúa khi được Ngài kêu gọi ông. Mỗi người Kitô hữu chúng ta trước Thiên Chúa đều nhơ uế, tội lỗi nhưng Chúa thương nâng chúng ta lên làm con cái Chúa thế nên mỗi người chúng ta có bổn phận nhận ra tình yêu đó và đáp lại tình yêu đó bằng một đời sống tốt hơn thánh thiện hơn bỏ đi những ngày ngược xuôi lạc lối. Chúa Giêsu kêu gọi Simon và đã đổi tên cho ông là Phêrô. Nay chẳng những chúng ta được Chúa kêu gọi và cho ta một cái tên mới mà Ngài còn cho ta mang cả danh Ngài nữa là Kitô hữu. Do đó ta hãy quý trọng ơn gọi của mỗi người chúng ta. Hãy làm sáng lên hình ảnh Chúa Kitô nơi mỗi người chúng ta.
Đã mang lấy kiếp người chắc hẳn ai cũng cảm thấy mình có nhiều yếu đuối. Những lúc yếu: TN 5-C48
Đã mang lấy kiếp người chắc hẳn ai cũng cảm thấy mình có nhiều yếu đuối. Những lúc yếu đuối, mềm lòng và không làm chủ được bản thân ta sẽ có những hành vi sai sót, thậm chí tội lỗi. Điều đó thật đáng sợ. Nhưng cái làm cho con người ta đáng sợ hơn hết những người cố tình không chịu nhận ra để sửa đổi. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy hai mẫu gương ý thức được thân phận tội lỗi của mình.
Thứ nhất là tiên tri Isaia. Khi được diễm phúc diện kiến Thánh nhan Thiên Chúa và nhìn lại mình, tiên tri thấy mình hết sức bất xứng. Ông thốt lên: "Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy ĐỨC VUA là ĐỨC CHÚA các đạo binh! "
Thứ hai là thánh Phêrô. Khi biết được Đấng đang nói chuyện và đang làm phép lạ cho mẻ cá lạ lùng ấy chính là Chúa Giêsu ông đã sấp mình xuống và nói: “ Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! "
Khi ý thức được mình là kẻ tội lỗi và bất xứng thì chính lúc ấy hai ông được Thiên Chúa tin tưởng trao cho sứ mạng. Tiên tri Isaia được Thiên Chúa sai đi loan báo Lời của Ngài cho muôn dân. Còn Thánh Phêrô thì Chúa Giêsu bảo: “ Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ thu phục người ta "
Như thế, được làm con Chúa, được làm môn đệ của Chúa không phải do ta xứng đáng. Mà đó chính là ơn ban tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta. Thiên Chúa đã dựng nên ta chắc hẳn Ngài biết rõ ta mỏng giòn yếu đuối như thế nào và Ngài sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta.
Tục ngữ việt nam có câu: “ Đánh kẻ chạy đi chớ ai đánh kẻ chạy lại ” . Do đó, khi lỡ có phạm lỗi hay tội gì ta hãy khiêm tốn và thành tâm trước Chúa.
Có rất nhiều cơ hội giúp ta ý thức về thân phận mình. Trong một năm Phụng vụ có Mùa vọng và Mùa chay là hai mùa đặc biệt Giáo hội dành để kêu gọi ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình. Ý thức để ta biết quay về với đường ngay nẻo chính. Đồng thời, trước mỗi Thánh lễ Linh mục chủ tế cũng kêu gọi ta ý thức về điều đó. Hãy biết tận dụng những cơ hội đó cho thật tốt.
Phêrô nói với Chúa “lạy Thầy xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi.” Chúa nói với Phêrô: “Đừng: TN 5-C49
Phêrô nói với Chúa “lạy Thầy xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi.” Chúa nói với Phêrô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ đi lưới người ta.”
Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình có lần kể về ơn gọi của mình cách đơn sơ dí dỏm như sau: “Tôi rất thích đá banh. Mấy đứa bạn học Tiểu học vừa học vừa đá banh chung với nhau rất là vui vẻ. Rồi từ từ lên lớp trên, lần hồi tụi nó biến đi đâu hết. Hỏi ra tụi nó đi vô học trong Chủng viện. Buồn quá, tôi cũng xin vô Chủng viện để được đá banh với tụi nó. Tôi vô Chủng viện đá banh, rồi tôi đã ở luôn trong đó…”. Câu chuyện trên cho ta thấy: hoàn cảnh Chúa kêu gọi theo Chúa, mỗi người mỗi khác. Đức Tổng Bình thì từ chuyện đá banh. Các môn đệ đầu tiên được kêu gọi, thì sau phép lạ mẻ cá lạ lùng. Tiên tri Amos đang chăn cừu thì Chúa gọi ông. Giêrêmia được gọi lúc còn rất trẻ, nên ông biện hộ mình cà lăm, không biết ăn nói. Chúa gọi Phaolô đang khi ông đang bắt bớ đạo.Thánh Ambrôsiô được kêu gọi khi ông đang làm Thống Đốc miền Liguria va Emilia, Bắc nước Ý đang khi ông vẫn chưa được rửa tội…..
a.Việc đáp lại lời kêu gọi của Chúa (thái độ của các tông đồ):
Trước hết, hãy nói về 4 môn đệ đầu tiên: sau khi giảng xong dân, Chúa bảo Phêrô hãy ra khơi thả lưới bắt cá. Phêrô trả lời là suốt đêm qua, họ thả lưới mà không có con nào; nhưng Thầy bảo, họ sẽ vâng lời mà làm theo. Kết quả lạ lùng, khi kéo lưới lên có rất nhiều cá, họ phải kêu thuyền bạn đến chở giúp; cả hai đầy đến nỗi gần chìm. Phúc Âm ghi rõ như thế. Phêrô và các bạn ngạc nhiên quá, đến nổi Phêrô lắp bắp: lạy Thầy xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi. Phêrô lo sợ, không thể tin nơi mình nữa, nên ông đã vâng phục Chúa..
Ơn gọi của Phaolô: Phaolô đang bắt bớ đạo Chúa. Ông còn xin được xuống Damas để làm cho mạnh tay hơn nhưng trên đường đi Phaolô bị Chúa đánh ngã ngựa. Chúa hiện ra qủơ trách ông: “Saolê, sao ngươi bắt bớ Ta?”. Phaolô hỏi lại: “Nhưng Ngài là ai?” Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ…. Hãy vào thành, ở đó sẽ có người dạy cho ngươi biết phải làm gì. Lúc đó Phaolô bị mù, ông phải nhờ người cầm tay dẫn ông đi. Từ đó Phaolô không còn tin nơi mình nữa và đã hoàn toàn vâng phục Chúa….
b. Thời Giáo hội sơ khai, có một câu định nghĩa về Tông đồ như sau: “Đó là người đã sống với Chúa, đã cùng đồng hành với Ngài và đã biết Ngài cách trực tiếp.” Dựa vào câu định nghĩa trên ta thấy có mấy điểm chung ở các ơn gọi làm tông đồ: họ đã biết Chúa, và vì biết Chúa, họ cũng biết mình chính mình, biết mình bất xứng, nên họ e ngại, lo sợ. Từ chổ e ngại, lo sợ, họ không tin nơi mình nữa, họ chỉ tin nơi Chúa. Bốn môn đệ đầu tiên vì không tin nơi mình, nên họ đã bọ mọi sự mà theo Chúa. Thánh Phaolô cũng thế, sau khi ngã ngựa trên đường đi Damas, ông đã hoàn toàn không tin nơi mình nữa, chỉ tin vào Chúa và vì tin vào Chúa, nên ông hoàn toàn gắn bó mạng sống mình với mạng sống của Chúa. Các tiên tri, các thánh đều cũng tương tợ như thế….
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Ơn gọi của các tông đồ là thế; phần chúng ta, nếu được Chúa mời gọi, ta có mau mắn vâng theo, hay tìm đủ mọi lý lẻ từ chối , viện cớ mình không đạo đức, học kém, không xứng đáng? Ta có nghĩ rằng Chúa kêu gọi chúng ta không phải vì ta xứng đáng, vì thế ta có đủ thiện chí để theo Ngài không, vì Chúa không bao giờ khước từ thiện chí của chúng ta?
* Là người giáo dân bình thường, ta có tin rằng Chúa mời gọi chúng ta làm tông đồ cho chính những người thân chúng ta không?
Cách đây không lâu lắm, chương trình “Chiếc nón kỳ diệu” của Đài truyền hình VTV3 có: TN 5-C50
Cách đây không lâu lắm, chương trình “Chiếc nón kỳ diệu” của Đài truyền hình VTV3 có đưa ra cho khán giả một ô chữ gồm 7 chữ cái, với những lời gợi ý như sau: “ Đây là một điều mà người ta không bao giờ muốn nó xảy ra trong cuộc đời của mình ” . Vâng ! Mặc dù không có một cánh tay nào giơ lên, nhưng có lẽ rất nhiều người trong chúng ta đã biết điều ấy, đó là hai chữ “ Thất bại ” . Đây quả thật là một điều mà chắc chắn rằng không một ai muốn nó đến cho mình bao giơ, dù là trong bất cứ lãnh vực nào: kinh tế, văn hóa, gia đình, sức khỏe, giáo dục, tình cảm, … Nhưng mà rồi dù chúng ta có không muốn đi nữa, và chúng ta cũng đã cố gắng hết sức mình để tránh nó đi nữa, thì dường như nó vẫn không buông tha chúng ta. Tôi đã hy sinh cả cuộc đời của mình, sẵn sàng gánh vác tất cả mọi công việc nặng nhọc: thức khuya dậy sớm, “buôn thúng bán bưng”, chỉ mong sao cho những đứa con của mình trở thành người tốt, sống hiếu thảo hiền lành, vậy mà chúng lại trở thành những người hư hỏng tệ bạc. Mười hai năm ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã cố gắng tối đa; ba năm luyện thi Đại học, tôi đã chăm chỉ hết mình, vậy mà tôi cũng không đạt được điều mà tôi mong muốn. Tôi đã chấp nhận mọi đắng cay hiểu lầm, nhiều khi đưa tay lên mà không còn một giọt nước mắt để chùi, vậy mà tôi vẫn không giữ được người tôi quý mến. Những thất bại tương tự như thế, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần gặp phải trong đời của mình. Và mỗi khi đối diện với thất bại, chúng ta mặc cảm với bản thân của mình là một kẻ vô dụng bất tài.
Chúng ta cảm thấy cuộc đời của mình như thể là đi vào ngỏ cụt của sự chán nản tối tăm. Như vậy thì phải chăng thất bại là một hình phạt khéo léo theo kiểu “ bàn tay thép bọc nhung ” mà Thiên Chúa đã chụp xuống trên con người ? Chắc chắn là không phải như vậy, bởi vì đã có một lần chúng ta đã nghe chính Chúa thổ lộ rằng: “ Không có một người mẹ nào có thể quên được những đứa con mà mình đã cưu mang. Nhưng dù có quên đi nữa, thì phần Ta, Ta cũng sẽ không quên các ngươi đâu ” . Và chính câu chuyện được Thánh Luca thuật lại trong bài phúc âm hôm nay, như thể là một chiếc phao cứu hộ được quăng xuống để cứu những ai đang bị dòng chảy của thất bại cuốn đi. Thánh Luca thuật lại là làm việc thâu đêm suốt sáng. Phêrô đã hàng chục và hàng chục lần quăng lưới xuống biển, nhưng vẫn không bắt được con cá nào. Tất cả thời giờ và sự nỗ lực của họ đã trở thành vô nghĩa. Và giờ đây, họ đang giặt lưới trong thất bại, trong mệt mõi và chán chường. Thế nhưng chính lúc đó, Chúa đã có mặt và ngỏ ý muốn giúp đỡ họ “ Hãy bơi thuyền ra chổ nước sâu mà thả lưới bắt cá ” .
Nếu đây là lời đề nghị của một người khác, thì với tính khí của mình, Phêrô đã quật lại: “ Bạn nghĩ làm sao mà đề nghị với tôi như thế ? Bạn đêm là lúc thuận tiện nhất để đánh cá mà không bắt được con nào, thì làm sao có hy vọng khi trời đã sáng” . Thế nhưng vì đó là lời đề nghị của Chúa Giêsu, Thầy của mình, nên mặc dù Phêrô có trình bày quan điểm của mình là chúng con đã vất vả suốt đêm rồi mà không được, nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới. Và một lần nữa, Phêrô đã làm một điều mà ông không còn muốn làm nữa. Thế nhưng chính lần thả lưới này, ông và các bạn đã nhận được một kết quả vượt quá sự mong đợi của mình: “ lưới hầu như bị rách vì đầy cá, cá nhiều đến độ các thuyền chở nặng gần chìm”.
Thưa anh chị em ! Chúng ta hãy ghi nhớ bài học này: Những gì mà tự sức chúng ta không thể làm được, thì chúng ta có thể làm được nhờ vào sự trợ giúp của Chúa. Và thường thường, chính trong những khi con người mệt nhọc nhất, chán nản nhất; chính trong những khi con người sắp buông tay bỏ cuộc, thì Chúa có mặt và ban ơn cần thiết, để một lần nữa, họ tiếp tục công việc của mình. Chúa đã không cho Phêrô và các bạn ngồi đó để mãi ngậm nhấm nỗi chua cay của thất vọng. Chúa cũng không muốn họ đắm mình trong thái độ than thân trách phận, mà Người hạ mình xuống gợi ý, khuyến khích họ làm lại: “ Hãy chéo ra chổ nước sâu và thả lưới ” . Và chính nhờ việc tin tưởng nơi Lời Chúa, chính nhờ sự can đảm đứng dậy để làm lại một lần nữa công việc mà mình chẳng hy vọng, các ông đã có một kết quả tốt đẹp. Kinh nghiệm trong cuộc sống cũng cho chúng ta thấy điều đó: bao nhiêu lần chúng ta đã tha thứ cho người khác, bao nhiêu lần chúng ta đã nói đi nói lại những điều ấy, làm đi làm lại những cố gắng ấy, vậy mà dường như chưa bao giờ chúng ta đạt được ý nguyện của mình. Với câu chuyện của các tông đồ mà Giáo hội đọc lại cho chúng ta nghe ngày hôm nay, Chúa muốn chúng ta đừng quá thất vọng mà buông trôi cuộc đời của chính mình mỗi khi chúng ta đối diện với thất bại. Chúa không trực tiếp mang thành công đến trao cho chúng ta, mà chính chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng để can đảm vượt qua chính mình để làm lại và làm lại nữa những điều mà mình đã cố gắng. Chính trong sự kiên trì và tín thác vào Chúa đó mà chúng ta sẽ có được những kết quả tốt hơn, bởi vì thành công không phải là “nằm” mà là đang “đứng” ở dưới để chờ chúng ta như một phần thưởng hậu hỉ cho những cố gắng của chúng ta.