Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14-C Bài 1-50 Hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 10, 1-9 {hoặc Lc 1-12. 17-20}: "Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. "Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi'. {"Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này". Bảy mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".} - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------
Nếu bây giờ tôi đặt câu hỏi: có khi nào chúng ta đã nghĩ tới bổn phận truyền giáo, bổn phận: TN 14-C1
Nếu bây giờ tôi đặt câu hỏi: có khi nào chúng ta đã nghĩ tới bổn phận truyền giáo, bổn phận làm việc tông đồ hay chưa ?
Chắc hẳn có người sẽ trả lời: Việc tông đồ, việc truyền giáo là bổn phận của các linh mục và tu sĩ, còn chúng tôi lăn lóc giữa đời, bận rộn với trăm công nghìn việc, còn thời giờ đâu đề nghĩ tới chuyện ấy.
Dĩ nhiên, sứ mạng chính yếu của các linh mục và tu sĩ là hoạt động tông đồ, dẫn đưa mọi người trở về cùng Chúa. Tuy nhiên, là người giáo dân, chúng ta cũng có bổn phận phải góp phần vào công cuộc trọng đại ấy.
Thực vậy, tin mừng hôm nay cho thấy ngoài mười hai tông đồ, Chúa Giêsu còn chọn thêm bảy mươi hai môn đệ và sai họ đi từng hai người một, đến những nơi chính Ngài sẽ tới. Ngài bảo các ông: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù sống bằng bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta vẫn có thể và phải góp phần vào công cuộc truyền giáo. Chúng ta có thể và phải là người tông đồ ngay chính giữa lòng cuộc đời của mình. Vậy chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào ? Tôi xin thưa hãy truyền giáo bằng chính cuộc sống đạo đức và yêu thương của mình, bởi vì nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên một tin mừng sống động, một phản ảnh trung thực của Đức Kitô.
Trước hết bằng một cuộc sống đạo đức.
Tục ngữ Việt Nam đã bảo: cái nết đánh chết cái đẹp. Vẻ đoan trang thùy mị của chúng ta sẽ là một mối duyên ngầm, chinh phục được cảm tình của người khác. Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác. Đứng trước gương sáng của chúng ta, kẻ độc ác nhất cũng phải xúc động và đặt lại vấn đề. Có những người trở lại chỉ vì thấy một em nhỏ ngoan ngoãn, lễ độ và siêng năng tới nhà thờ tham dự thánh lễ. Có một thanh niên được mọi người yêu quí vì anh ta lịch sự, sẵn sàng giúp đỡ những người chung quanh bất cứ việc gì. Anh ta không phải chỉ tỏ ra mình là người công giáo, mà hơn nữa, anh ta còn sống niềm tin của mình. Nói cách khác, anh ta đã sống đạo và người ta có thể bảo: Hình ảnh Đức Kitô luôn phảng phất nơi anh ta..
Tiếp đến bẵng một cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương.
Thực vậy, bằng một đời sống đạo đức, chúng ta trở nên tông đồ của Chúa giữa lòng cuộc đời. Tuy nhiên, tinh thần đạo đức ấy phải được biểu lộ ra bên ngoài bằng những lời nói, những việc làm của chúng ta.
Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều cơ hội để dẫn đưa những kẻ lầm đừng lạc lối trở về cùng Chúa, để cứu vớt những linh hồn đang chìm sâu trong tội lỗi. Bằng lời nói chia sẻ và cảm thông, chúng ta có thể làm cho người khác khỏi cô đơn chán nản. Bằng lời nói an ủi và khích lệ, chúng ta có thể làm cho người khác khỏi bi quan tuyệt vọng. Bằng lời nói chân thành và xây dựng, chúng ta có thể làm cho người khác thoát khỏi chốn bùn nhơ tội lỗi. Bằng lời nói khuyên răn nhủ bảo, chúng ta có thể làm tông đồ cho Chúa trong gia đìnhminh cũng như trong môi trường mình đang sống. Có nghĩa là ở khắp mọi nơi.
Tinh thần đạo đức còn phải được biểu lộ qua những cử chỉ, những việc làm của chúng ta. Mấy người bạn tụ họp và trao đổi những câu chuyện thiếu đứng đắn, nếu bấy giờ có được thái độ nghiêm túc, chúng ta sẽ làm cho họ phải dừng lại. Khi người khác bài bác tôn giáo, chúng ta không được phép yên lặng, vì yên lặng khi phải nói là một tội cũng nặng như nói khi phải yên lặng. Trái lại, chúng ta hãy lên tiếng bênh vực đức tin, dù có làm mất lòng bè bạn. Trong trường hợp này, chúng ta không sợ ai cả, mà chỉ sợ một mình Thiên Chúa, như lời thánh Cyprianô: Hãy sợ Thiên Chúa và rồi chúng ta sẽ chẳng còn phải sợ một ai cả.
Một cô y tá có thể truyền giáo bằng thái độ ân cần, bàng nụ cười cảm thông, bằng ánh mắt khích lệ, bằng cử chỉ sẵn sàng giúp đỡ những người đau yếu. Và như vậy, chúng ta có thể dùng những hành động bác ái yêu thương để cảm hóa người khác, vì bác ái yêu thương là dấu chỉ chắc chắn nhất giúp người khác nhận ra khuôn mặt Đức Kitô.
Nếu không phải là một trong số mười hai tông đồ, thì ít nữa chúng ta cũng phải là một trong số bảy mươi hai môn đệ. Sứ mạng truyền giáo không phải chỉ là sứ mạng dành riêng cho linh mục và tu sĩ, nhưng còn là bổn phận chung của mỗi người chúng ta. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ địa vị nào, làm bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta cũng có thể và phải góp phần vào công cuộc truyền giáo, bằng một đời sống đạo đức và nhất là bằng những hành động bác ái yêu thương.
Ở Pêru có một loại cây rất ngộ nghĩnh, người ta bản xứ gọi nó là “cây làm mưa”. Lá nó hút hơi nước trong không khí, rồi nhỏ xuống như những giọt sương mai. Vì thế, chung quanh nó mặt đất lúc nào cũng ẩm ướt. Và trời càng nóng, thì nó càng nhỏ xuống nhiều nước.
Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên như một cây làm mưa hữu ích cho những người chung quanh đang khô khan. Bằng đời sống đạo đức, chúng ta hút lấy ơn sủng của Chúa, để rồi bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta gieo vãi ơn sủng ấy cho những người chung quanh.
Chúng ta sống đức tin, để rồi nhờ đó chúng ta làm cho đức tin sống lại trong tâm hồn người khác. Đồng thời, khi làm cho người khác sống đức tin, thì đức tin của chúng ta sẽ trờ nên mạnh mẽ hơn. Cũng vậy, muốn được hạnh phúc, thì chúng ta hãy cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc. Niềm hạnh phúc chúng ta làm cho người khác sẽ trở lại với chúng ta và làm cho chúng ta được hạnh phúc hơn.
Vào năm 1980, có một tuần báo nọ bên Hoa Kỳ đã đăng tải một sự cố sau đây: Một người: TN 14-C2
Vào năm 1980, có một tuần báo nọ bên Hoa Kỳ đã đăng tải một sự cố sau đây: Một người vừa mua hàng trong siêu thị xong, trở lại xe mình thì ngạc nhiên nhìn thấy một tờ giấy để lại nằm ngay trên chỗ ngồi của người lái, trên đó có những dòng chữ viết vội như sau:
Thưa ông bà, tôi có ý định đánh cắp chiếc xe này, nhưng khi nhìn thấy lời chào chúc của ông bà gắn nơi tay lái: “Bình an của Chúa ở cùng bạn”, thì tôi bỗng dừng lại và suy nghĩ. Ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc tôi là nếu tôi đánh cắp chiếc xe này thì chắc chắn ông bà mất xe và không có sự bình an, tôi đây cũng sẽ không có sự bình an. Đây là lần đầu tiên tôi bước vào nghề ăn cắp xe.
Xin chúc ông bà và cho cả tôi nữa sự bình an của Chúa. Chúc ông bà lái xe an toàn và lần sau xin nhớ khóa cửa xe.
Ký tên: Người sắp trở thành kẻ trộm xe.
Câu chuyện nhỏ này làm chúng ta chú ý đến một trong những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi sai họ ra đi truyền giáo đến trước những nơi mà Chúa sẽ đi qua để chuẩn bị cho Chúa đến: “Vào nhà nào chúng con hãy chúc: Bình an cho tất cả mọi người trong nhà này".
Chỉ một khẩu hiệu dán nơi tay lái chiếc xe: “Cầu chúc bình an” mà bỗng tác động biến đổi ý định xấu của một người không làm việc xấu xa nữa, thì thử hỏi nếu những đồ đệ của Chúa, chính chúng ta đây, nếu chúng ta thực sự trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa cho anh chị em, và không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi mà còn là tác nhân sống động mang sự bình an của Chúa đến cho anh chị em xung quanh mà ta thường gặp hằng ngày ; nếu chúng ta thực hiện được điều này thì thử hỏi ta có thể đóng góp phần tích cực của mình cho sự bình an của anh chị em nơi môi trường chúng ta sinh sống biết là chừng nào.
Lời Chúa dạy cho các đồ đệ chúc “bình an cho nhà này” là tiếng vang trước cho lời chúc bình an của Chúa Giêsu Phục sinh trước khi sai các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa: “Bình an cho chúng con”. Chắc chắn khi nghe những lời chúc của Đấng Phục sinh: “Bình an cho chúng con”, các tông đồ nhớ lại lời dạy trước lúc Phục sinh của Chúa, khi Chúa sai các ngài đi thực tập trước công việc truyền giáo mà các ngài sẽ chu toàn sau biến cố Phục sinh: “Vào nhà nào, chúng con hãy cầu chúc: bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.
Chúa Phục sinh ban sự bình an thật cho các tông đồ, để các ông ra đi và đến phiên các ông, các ông cũng sẽ cầu chúc như Chúa đã chúc: “Bình an cho nhà này”. Các ông nói như Chúa đã nói, làm các công việc và những việc lạ như Chúa đã làm, hay đúng hơn theo như lời Chúa nói là hơn cả những gì Chúa đã làm nữa: “Bình an cho chúng con. Bình an cho nhà này”.
Ước gì mỗi người chúng ta được thật sự lãnh nhận ơn bình an của Chúa, ơn bình an mà Chúa đã phải chết trên thập giá để thực hiện cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Ước gì mỗi người chúng ta trước hết lãnh nhận ơn bình an đó của Chúa và để cho ơn bình an, ơn cứu rỗi thánh hóa, biến đổi chúng ta để rồi chúng ta có thể nói và làm như Chúa đã nói và làm “Bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.
Người truyền giáo phải là kẻ nói những lời bình an, thực hiện những sự bình an, trao ban sự bình an của Chúa cho anh chị em. Chúng ta cần kiểm điểm lại lời nói và việc làm của mình xem có phải là lời nói và việc làm như Chúa hay không ? Đó là “Bình an cho anh chị em. Bình an cho nhà này”.
Chúng ta hãy đến lãnh nhận ơn bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an của Thầy”, để rồi chúng ta cũng có thể trao sự bình an đó cho anh chị em xung quanh.
Bà Tôrôtê đã nhận định thật hay về cuộc đời của một người sống theo lý tưởng như sau: Ai: TN 14-C3
Bà Tôrôtê đã nhận định thật hay về cuộc đời của một người sống theo lý tưởng như sau: Ai mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít, và do đó, người đó trước sau vẫn y nguyên như vậy, không có gì thay đổi và có rất ít cả thể để tìm gặp kẻ đó đang tìm kiếm. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì. Để gặp được điều ta tìm kiếm thì điều kiện phải có là biết từ bỏ hoàn toàn, lừng chừng thỏa hiệp nửa vời sẽ mang đến tàn phá mà thôi.
Nếu những dòng diễn tả trên diễn tả đúng cho cuộc sống theo lý tưởng nào đó thì nó lại càng đúng hơn nữa cho cuộc sống của người đồ đệ của Chúa mà bài Phúc âm hôm nay muốn nhắc lại cho chúng ta một vài đặc điểm.
Khi Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, đặc điểm nổi bật nhất dĩ nhiên phải là sự từ bỏ, để lại đàng sau nhiều điều, nếu không muốn nói là tất cả mọi điều, để chỉ có Chúa và sự công chính của Chúa trước hết. Ai muốn mang theo mọi sự với mình thì sẽ để lại rất ít. Rất ít có cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Người sống ích kỷ muốn mang theo tất cả mọi sự cho mình thì sẽ để lại rất ít, nhất là khi chết rồi thì chẳng còn gì và sẽ có rất ít cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Sẽ có rất ít cả thể để theo Chúa cho đến cùng, để sống trọn vẹn cuộc đời theo Chúa.
Chúa Giêsu ý thức rõ ràng cuộc đời của môn đệ gặp nhiều thử thách. Ngài sai các ông ra đi như chiên vào giữa sói rừng, nhưng Chúa vẫn đòi hỏi môn đệ phải có thái độ từ bỏ những an toàn của con người và do con người tạo ra, đó là tiền, bao bị, giầy dép và liên lạc xã giao thường tình. Chúa sai các ngài ra đi với lời căn dặn: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là những điểm nói lên sự an toàn của con người, do con người tạo ra và Chúa muốn cho những đồ đệ của Ngài ra đi làm những công việc của Ngài, không ỷ lại vào những sự an toàn của con người, do con người tạo ra.
Thật là những lời khuyên, những mệnh lệnh, xét theo thường tình con người thì rất là ngược đời, nếu không muốn nói là không khôn ngoan chút nào hoặc không thể thực hiện được. Nhưng Chúa Giêsu giõng dạc thay đổi nhằm đến một thái độ từ bỏ, không ỷ lại vào những sự an toàn của cuộc sống.
Một nhà truyền giáo tương lai sắp sửa lên đường viết thơ cho vị giám mục như sau để hỏi về những điều cần thiết cho cuộc sống của mình trước khi lên đường đến nhận nhiệm sở, nhà truyền giáo đó hỏi:
- Có xe để di chuyển không ? - Nhà ở có máy lạnh không ? - Có người giúp nấu cơm cho ăn hay không ? - Trong nhà có tủ lạnh hay không ? - Có tiền lương mỗi tháng bao nhiêu ? - Có được đi nghỉ hè mỗi năm không ? v.v…
Dĩ nhiên nhà truyền giáo đó muốn cho mình mọi sự an toàn trước khi dấn thân. Nhà truyền giáo đó đã nhận được thơ trả lời rất nhanh của vị Giám mục yêu cầu đừng đến làm việc truyền giáo nơi giáo phận của ngài nữa.
Phải chăng, chính bản thân chúng ta cũng dễ dàng bị cám dỗ bởi những đòi hỏi tiện nghi vật chất cho cuộc đời theo Chúa của mình. Muốn có thật nhiều thì rốt cuộc chẳng có bao nhiêu. Đó là về thái độ sống của người đồ đệ của Chúa.
Về nội dung sứ điệp rao giảng thì sao ? Chúa Giêsu căn dặn các đồ đệ trong bài Phúc âm hôm nay: “Vào nhà nào chúng con hãy nói bình an cho nhà này”. Lời này loan báo trước lời chúc bình an của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi Chúa Phục sinh hiện ra cho các ông và sai các ông ra đi mang bình an của Chúa đến cho mọi người. Lúc đó, Chúa hiện ra cho các môn đệ và nói: “Bình an cho các con”.
Được huấn luyện, được thực tập trước để rao giảng sự bình an cho anh chị em mình, nên chắc chắn khi ban bình an cho các môn đệ, các môn đệ sẽ hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa về hệ quả của lời chúc bình an này mà Chúa đã phải chết trên thập giá để mang đến cho các ông.
Nhận sự bình an của Chúa, các môn đệ được sai đi chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Nhưng nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình và những điều trần tục, những sự an toàn ích kỷ này thường là những điều gây chia rẽ, xung đột, bất hòa giữa cá nhân với nhau, đó là nói trên bình diện nhỏ và nếu nói trên bình diện lớn thì sẽ gây chiến tranh giữa các quốc gia.
Nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình thì làm sao có thể chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em được. Ai muốn mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít và rất ít để tìm gặp điều mình mong muốn. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì cả.
Lời Chúa hôm nay còn muốn nói với chúng ta nhiều điều khác nữa, nhưng ít ra trong giây phút này chúng ta hãy xét mình lại về hai điểm vừa được gợi ra cho chúng ta đó là:
Thái độ từ bỏ mọi sự để theo Chúa không ỷ lại vào sự an toàn của con người, nhưng cần nghĩ đến sự quan phòng chăm sóc của Chúa cho đời sống của mình. Và điểm thứ hai là chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tâm hồn chúng ta, để chúng ta có được đầy tràn sự bình an của Chúa, qua đó chúng ta có thể chia sẻ sự bình an ấy cho anh chị em. Chúng ta đến cử hành thánh lễ và trong thánh lễ trước khi chúng ta đón nhận Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta được mời gọi nhớ lại lời hứa bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an, bình an mà thế gian không thể ban cho”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sự bình an này và gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Chúa nhật hôm nay Giáo Hội mời gọi mọi người hãy: TN 14-C4
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Chúa nhật hôm nay Giáo Hội mời gọi mọi người hãy đưa mắt nhìn đồng lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới. Thế giới có khoảng sáu tỉ người, mà những người tin Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới nhưng người Công giáo chỉ có không tới 3/o. Có thể là đất nước Việt Nam chúng ta gần 80 triệu người, mới có khoảng trên 10 triệu người Công giáo. Vẫn còn biết bao người chưa biết Chúa. Có thể là giáo phận, nhưng cũng có thể là khu xóm, gia đình, nơi chúng ta sinh sống, làm việc… Vậy ai là thợ gặt trong cánh đồng lúa ấy?
Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng, nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng không phải chỉ dành riêng cho nhóm 12 là các tông đồ, nhưng cho số đông những người theo Chúa. Đối với chúng ta hôm nay, việc rao giảng Tin Mừng cũng không phải là bổn phận của một số thành phần nào trong Giáo Hội như Giám mục, linh mục hay tu sĩ, nhưng là bổn phận của những người tin theo Chúa, tức là của mọi người và mỗi người đã lãnh Bí tích Rửa tội. Như vậy, thợ gặt là tất cả chúng ta.
Thật vậy, ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, từ khi được làm con Chúa, khi được gia nhập vào Giáo Hội, người Kitô hữu được trao cho một chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao cho một cây nến sáng được châm lửa, được thắp sáng từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô là ánh sáng. Anh sáng ấy đến thế gian để chiếu rọi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng soi cho người khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa: người lãnh Bí tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh sáng chân thật. Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho những người chung quanh bằng cách sống trong ánh sáng.
Như vậy, ngay từ lúc được rửa tội, ngay từ lúc tiếp nhận ánh sáng, thì người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng lãnh nhận sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô hữu là đèn sáng, là người được sai đi, sai đi thực hiện công trình của Chúa đến từng người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt màu da, tiếng nói, tín ngưỡng, địa vị xã hội… Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn nguy hiểm, thì người Kitô hữu càng được sai đi ; ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền ấy càng khẩn thiết, như Chúa đã nói: “Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói”, bởi vì “Những người mạnh khỏe không cần thầy thuốc, chỉ những ai bệnh tật mới cần”. “Ta không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời những người bất lương ăn năn trở lại”.
Tuy nhiên, công việc rao giảng không chỉ là của con người nhưng là của chính Chúa, Ngài là chủ và là người quản lý. Chính vì vậy nên khi sai các môn đệ đi rao giảng Ngài không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho các môn đệ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả. Phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người. Việc sống tử tế này không chỉ đối với những người có hoàn cảnh và điều kiện tốt, nhưng là một đòi hỏi cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu Việt Nam chúng ta đang sống trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn và chưa lấy gì làm sáng sủa của đất nước. Đây cũng là điều chúng ta đặc biệt lưu ý hôm nay.
Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có tên là “Đại Dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế ?”. Nhà đạo diễn đã trả lời: “Điều người ta mong đợi ở các người Kitô Việt Nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”.
Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi người Kitô chúng ta.
Có người đã nói lên một sự thật đau lòng như sau: “Chữ tử tế” bây giờ chỉ thấy ở miệng những người có tuổi hoặc những người hơi xưa. Thời bây giờ mấy ai còn thì giờ để luận bàn những chuyện xa xôi ấy”. Thật là một lời cảnh báo đáng cho chúng ta suy nghĩ. Người tử tế dường như đã trở thành loại người quí hiếm trong xã hội. Và khi lòng tử tế đã trở thành quí hiếm thì dĩ nhiên là những hành động không tử tế chút nào lại càng gia tăng với cấp số nhân. Đọc báo chí hàng ngày chúng ta thấy đầy dẫy những hành động không chút tử tế ấy.
Sống cho tử tế, sống cho ra người là điều cần thiết và quan trọng cho cá nhân cũng như xã hội. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Tử tế thực sự không phải là có tiền hoặc muốn là có được ngay. Nó cũng phải được học hành, được dạy dỗ, được tập luyện, kế thừa và gìn giữ. Tử tế như hoa thơm, hoa đẹp, không thể thiếu được của cuộc đời.
Một người bạn của đạo diễn Trần văn Thủy, trước khi chết vì bệnh ung thư đã nói: “Tôi chả có gì phải hối tiếc vì chúng ta đã sống tử tế với nhau”. Lời phát biểu gợi cho chúng ta niềm vui ngập tràn của 72 môn đệ Chúa sau khi đã hoàn thành công tác được giao phó. Đó là niềm vui của các tông đồ chân chính, là niềm vui của những ai dám sống tử tế trong một xã hội không lấy gì làm tử tế và đó chẳng phải là niềm vui của những người Kitô chúng ta sao?
Xã hội chúng ta đang xuống cấp về mọi mặt, nhất là mặt đạo đức, đó là thực tế không thể chối cãi. Nhưng “Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Tất cả những điều chia sẻ trên đây mong ước gợi lên cho mọi người một suy nghĩ: trước khi nghĩ đến những công việc truyền giáo to lớn rầm rộ, chúng ta cần chú ý đến những việc nhỏ bé đơn giản, đó là thắp một ngọn nến, tức là thắp một tia hy vọng cho người tuyệt vọng, mang bình an cho người đau khổ, mang tình yêu đến cho người bị bỏ rơi… chúng ta làm được những việc đó không ?
Một vị vua hoặc ông chủ tịch của nước Việt Nam chúng ta muốn sang thăm một nước nào đó: TN 14-C5
Một vị vua hoặc ông chủ tịch của nước Việt Nam chúng ta muốn sang thăm một nước nào đó thì phải làm gì đây – vị vua hoặc ông chủ tịch nước sẽ cử sứ giả hoặc đại sứ sang nước đó báo tin cho họ hay.
Cũng thế Tin Mừng hôm nay mà chúng ta vừa nghe cho thấy Chúa Giêsu muốn đến các thành, các nơi mà Chúa định đến nên Chúa đã làm hai việc là chọn 72 môn đệ làm sứ giả cho Ngài, và trao cho các ông nhiệm vụ đến đó loan báo Tin Mừng bình an của Chúa.
Với việc tìm hiểu đoạn Tin Mừng này chúng ta sẽ nhận ra Chúa muốn nói gì với mỗi người chúng ta trong thế giới hôm nay.
Chúa Giêsu quyền năng đã biết trước và nhận thấy rõ số người sẵn sàng đón nhận Chúa rất nhiều. Nhiều đến nỗi mà Chúa đã ví họ như cánh đồng lúa trổ bông chín vàng mà lại có ít thợ gặt. Vì thế cho nên Chúa mới nói: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” và Chúa đề nghị các môn đệ hai nhiệm vụ:
Nhiệm vụ thứ nhất là cầu nguyện. Thiên Chúa là ông chủ của mùa gặt, Thiên Chúa có quyền quyết định những ai được vào Nước Trời. Vì thế, Chúa kêu gọi các môn đệ cầu nguyện để xin Thiên Chúa khơi lên trong lòng con người tinh thần làm môn đệ Chúa, sẵn sàng làm sứ giả của Chúa.
Nhiệm vụ thứ hai là “Hãy ra đi loan báo Tin Mừng bình an”. Cầu nguyện chưa đủ nhưng còn phải lên đường ra đi loan báo Tin Mừng bình an. Trước khi đi Chúa Giêsu căn dặn rất kỹ:
Hành trang phải nhẹ tênh: không túi tiền, không bao bị, không giày dép để thực sự trở nên nghèo khó như Chúa Giêsu. Công việc thì cấp bách nên đừng chào hỏi ai dọc đường. Đến nơi đâu thì đầu tiên phải nói lời chào thân thiện “Bình an cho nhà này”. Đây không phải là bình an mà thế gian ban tặng dựa trên của cải vật chất, danh vọng… nhưng là bình an mà bài đọc I tiên tri Isaia đã loan báo Thiên Chúa sẽ ban cho Giêrusalem: “Này Ta đổ hòa bình tuôn xuống thành đô khác nào dòng sông cả, khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ…”. Bài đọc II cho biết: Bình an đó là chính Đức Kitô đã đến trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc khổ nạn thập giá, dẫn đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Một thái độ phải có là khiêm tốn, siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu. Một công việc phải làm là chữa lành bệnh tật những người ốm đau. Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui là “Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em”. Tuy nhiên, cũng phải đón nhận sự tự do từ chối của người ta nhưng cũng phải loan báo cho người ta biết rằng “Nước Thiên Chúa đã đến gần”.
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là câu chuyện cách đây hơn 2000 năm, nhưng thử hỏi đến lúc này Tin Mừng đã có bao nhiêu người được đón nhận.
Thế giới có trên 6 tỷ người mà những người tin vào Thiên Chúa chỉ mới có 1 tỷ, và cũng có những người có đạo nhưng không sống đạo. Riêng tại Á Châu, trong 100 người thì còn hơn 97 người chưa biết Chúa. Và chúng ta phải suy nghĩ lời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu là “Một điều thật bí ẩn là tại sao Đấng Cứu Thế sinh ra tại Á Châu, mà cho tới bây giờ phần lớn châu lục này vẫn không biết Người”. Thử nhìn ra trong khu xóm hoặc xung quanh chúng ta, còn bao nhiêu người chưa biết Chúa. Chắc chắn là đông như cánh đồng lúa chín mà Chúa đã nhìn thấy trước rồi phải không.
Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu “Hãy trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng bình an” cho mọi dân tộc, đặc biệt là dân tộc Á Châu vẫn luôn vang dội trong tâm hồn mỗi chúng ta, và càng khẩn thiết hơn khi bước vào ngàn năm thứ ba. Cùng với Hội thánh chúng ta “Hãy ra khơi” trở nên những sứ giả loan báo Tin Mừng bình an. Trong giới hạn của đất nước Việt Nam chúng ta, Chúa sẽ mời gọi mỗi người đi loan báo Tin Mừng mỗi cách khác nhau.
Thông thường chúng ta nghĩ việc loan báo Tin Mừng chỉ dành cho các Giám mục, Linh mục, Phó tế và tu sĩ nam nữ, mà quên đi rằng ngay từ lúc lãnh nhận Bí tích Rửa tội mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng bình an rồi.
Cầu nguyện mỗi ngày và đóng góp quỹ truyền giáo hằng năm vào lễ “Khánh nhật truyền giáo”.
Sống chứng nhân nơi mình đang sinh sống , làm việc trung thực trong mọi hoàn cảnh, chia sẻ những khó khăn, nếu có thể được thì thăm viếng an ủi, đem tình thương và bình an cho những người ốm đau bệnh tật, nghèo khổ và cô đơn…
Nếu thực hiện được như thế thì chúng ta đã và đang loan báo Tin Mừng bình an rồi đó và tên của chúng ta đã được Chúa khắc ghi.
Chung quanh chúng ta còn nhiều người chưa biết Chúa, chúng ta phải sống làm sao để nên như sứ giả loan báo Tin Mừng bình an cho mọi người. Điều đó, Chúa Giêsu vẫn đang nhắc nhở mỗi người chúng ta nhất là khi tham dự thánh lễ là lúc chúng ta đón nhận bình an từ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu ở lời chào đầu lễ của chủ tế, rồi chúng ta lại trao bình an đó cho nhau lúc “chúc bình an” và cuối thánh lễ chủ tế xướng lên “lễ xong chúc anh chị em ra đi bình an” đó là lúc chúng ta nhận sứ mạng mang bình an đó cho mọi người.
Ước gì lời Chúa hôm nay qua việc Chúa chọn 72 môn đệ làm sứ giả cho Ngài là động lực nhắc nhở mỗi người chúng ta một lần nữa “Hãy trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng bình an”.
Bốn mươi năm sau khi rời bỏ trại giam Auschwitz, nhà văn Ý Primo Levi vẫn còn mang hình: TN 14-C6
Bốn mươi năm sau khi rời bỏ trại giam Auschwitz, nhà văn Ý Primo Levi vẫn còn mang hình xăm với con số của ông khi ở đó. Khi người ta hỏi ông tại sao không xóa nó đi, ông đáp: “Tại sao tôi phải làm thế ? Không có nhiều trong chúng ta được đưa vào thế giới để làm nhân chứng”. Alexander Solzhenitsyn nói rằng ông vẫn còn bốn mảnh vải dùng để vá mạng con số mà người ta phát cho ông khi còn trong nhà tù. Ông không phải là người duy nhất đem chúng ra khỏi trại giam. Không xấu hổ về những điều đó, ông nói: “Trong một số gia đình, chúng được phô bày ra như những thành tích”.
Thánh Phaolô cũng
không xấu hổ vì những dấu tích mà ông mang trên mình ông vì Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, ông bình thản lôi kéo sự chú ý về những dấu tích ấy (Bài đọc 2). Ông nói với những tín hữu Galát: “Những dấu tích trên người tôi là những dấu tích của Đức Kitô”. Bằng từ “dấu tích”, ông không có ý nói đến những dấu thánh như Padre Pio và những người khác cho rằng mình được in dấu thánh. Ông muốn nói đến những dấu tích, vết thẹo mà những gian lao, bệnh tật, sự đánh đòn, ném đá còn để lại trên thân thể của ông. Đó là những sự trả giá cho việc ông phục vụ Đức Kitô.
Điều thú vị hơn nữa là sự kiện Đức Giêsu giữ lại dấu đinh và vết đóng đâm trên thân thể phục sinh của Người. Người ta có thể hy vọng Người làm mất hết mọi dấu tích để chứng tỏ rằng mọi sự đã qua cả rồi, đã ở sau lưng Người, và bởi vì Người đã không muốn làm cho các tông đồ khó xử vì họ đã bỏ rơi Người hoặc những người trực tiếp hay gián tiếp có trách nhiệm gây ra các dấu tích ấy”.
Nhưng Đức Giêsu đã không tháo bỏ mọi thương tích. Người đã giữ chúng lại. Đối với Người những vết tích ấy không làm cho Người xấu hổ hoặc bối rối. Chúng là những chứng cứ sống động của tình yêu Người, là những dấu chỉ hữu hình và hùng hồn một tình yêu chân thật phải trả giá như thế nào. Chúng giống như những huy hiệu danh dự, hoặc những huy chương chỉ sự lỗi lạc mà khó khăn lắm người ta mới giành được. Chúng vẫn là những thương tích nhưng chất độc đã bị trừ khử, và vì thế không còn làm tổn thương. Bởi vì các thương tích của Đức Giêsu vẫn còn thấy rõ trên thân thể Phục sinh của Người, chúng đã trở thành suối nguồn hy vọng cho tất cả chúng ta, đặc biệt cho những người đã chịu đau khổ và vẫn đang còn đau khổ.
Rất nhiều lần chúng ta muốn che giấu những thương tích của chúng ta. Chúng ta muốn giấu kín những tổn thương của qúa khứ. Và cả khi bên ngoài của chúng ta đã lành lặn, chất độc thường vẫn còn lại, và do đó còn gây thương tổn. Nếu chúng ta yêu, chúng ta phải sẵn sàng chịu thương tích. Tuy nhiên, điều đó không giúp cho chúng ta đạt đến mục đích cao cả, nếu vì thế mà chúng ta bị đầu độc bởi sự cay đắng và lòng thù hận. Sự cay đắng là điều tệ hại khủng khiếp. “Người ta có thể sống qua những gian khổ lớn lao nhưng chết bởi những cảm nghĩ đắng cay”. (Solzhenitsyn)
Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho: TN 14-C7
Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa.
Bắc Ailen là một đất nước mà hai khối dân Công giáo và Tin lành thù ghét nhau và nhiều lần bắn giết nhau. Vào một dịp lễ Giáng sinh, một linh mục Công giáo đi sang bên kia đường để đến thăm một mục sư Tin lành. Vị mục sư rất cảm động, đón tiếp vị linh mục rất niềm nở. Ít lâu sau vị mục sư cũng sang bên kia đường để thăm vị linh mục. Tình thân giữa hai người ngày càng thắm thiết hơn. Tuy nhiên một vài tín đồ lớn tuổi thì nổi giận. Họ tìm đủ cách để cấp trên của Giáo Hội thuyên chuyển vị mục sư ấy đi nơi khác.
Vị linh mục và vị mục sư trên chỉ làm điều mà tất cả các môn đệ Chúa Giêsu phải làm, đó là làm những sứ giả của bình an và hòa giải trong một xã hội có nhiều chia rẽ.
Bình an không phải là một cái gì tiêu cực do không có chiến tranh và thù hận. Nó đòi phải có tinh thần cởi mở, tình huynh đệ, lòng khoan dung, thiện chí và ước muốn hòa giải. Nó buộc chúng ta đi đến với người khác. Nó giúp chúng ta gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc cố chấp.
Trước lúc rước lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quí giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ.
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng: TN 14-C8
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy !” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên “Đã thấy !”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Anh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên !” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Keller kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Đã qua 2000 năm những lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù ; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticanô II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng qủa quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “ra đi”.
Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ỉ, chúng chỉ chiếu sáng”.
Tôi xin được trích một phần của bản nhạc "Eleanor Rigby" từ thời 1966 của ban nhạc Beatles: TN 14-C9
Tôi xin được trích một phần của bản nhạc "Eleanor Rigby" từ thời 1966 của ban nhạc Beatles:
Ôi, hãy nhìn những con người cô đơn: Eleanor Rigby đang lượm những hạt gạo ở trong nhà thờ sau một đám cưới, và sống trong mơ mộng... Những người cô đơn đến từ đâu vậy? Những người cô đơn ở đâu vậy?
"Eleanor Rigby" đã làm một phần của phong trào âm nhạc hiện thời mà có thể giúp cho người nghe không thể nào mà không mủi lòng, và nó đã gây ảnh hưởng rất nhiều cho giới trẻ. Bản nhạc đó vẫn còn đánh vào tim đen của con người. Nó vẫn còn đặt ra một câu hỏi, "Thế nào là một con người hoàn thiện?" Nhìn xung quanh, chúng ta thấy rất nhiều người đang phải đương đầu với nhiều vấn đề. Tận thâm tâm của mỗi người đều đang dâng lên một câu hỏi, "Đi đâu để tìm một cuộc sống hạnh phúc?" "Ai có thể chỉ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc?" Không ai giàu có mà mãn nguyện cả. Người nghèo phải chiến đấu để mà sống. Còn những người thuộc vào cấp trung lưu thì có cả đến ngàn cuốn sách đã ghi về cuộc sống buồn chán của họ. Nếu thật sự cả ba giới trong xã hội đều là như vậy thì con người có thể nào tìm được hạnh phúc không?
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta một đầu mối quan trọng cho câu hỏi ở trên. Thánh Luca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã chọn 72 tông đồ và sai họ đi vào các thành để chuẩn bị cho dân chúng ở đó đón tiếp Ngài. Nhiệm vụ của họ chính là nói cho dân chúng biết Chúa Giêsu đang đến với một sứ mạng cao cả. Chúa Giêsu được sai đến từ Thiên Chúa. "Hãy chữa những người bệnh tật", và nói cho người ta biết rằng "Nước Thiên Chúa đã đến gần," Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ (Lc 10:9). Đồng thời Chúa Giêsu cũng căn dặn các tông đồ những điều các ông nên làm và không nên làm. Các tông đồ ra đi và thâu lượm được nhiều kết quả, và các ông thuật lại cho Chúa Giêsu, "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỉ cũng phải khuất phục chúng con" (Lc 10:17). Chúa Giêsu trả lời họ, "Anh em chớ mừng vì quỉ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời" (Lc 10:20). Phần đầu tiên của câu Phúc Âm vừa rồi không có gì khó hiểu cả. Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ của Ngài rằng đừng sống dựa vào những cái vinh dự mau qua. Cái vinh dự trừ quỉ hoặc làm được những phép lạ này nọ, đó chính là điều mà con người chúng ta thường hay bám vào. Chúng ta thường bám vào những cái gì là vinh quang chóng qua ở đời này.
Phần thứ hai không phải là một điều dễ hiểu khi Chúa Giêsu nói tên các con được ghi ở trên trời.
"Các Mối Phúc Thật", như các bạn đã biết đó là những lời mở đầu của Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu, là một danh sách ngắn những điều thỏa nguyện. Đáng tiếc thay, rất nhiều người đi tìm hạnh phúc mà không phải đi theo lối của các mối phúc thật. Vấn đề là ở chỗ họ đã quá tập trung vào những cái không được làm cái này cái nọ mà đã đưa đến việc kết luận là những điều Chúa Giêsu thì chỉ là mơ hồ và không thể nào đạt nổi. Họ có thể quên hoặc không biết rằng sứ điệp của Chúa Giêsu không phải là, "Nếu con yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ, và đưa má bên kia, thì con sẽ được hạnh phúc." Ngược lại, những người được chúc phúc và hạnh phúc sẽ yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ họ, và đưa má bên kia. Nói một cách khác, không phải, "Nếu anh đã có vợ, và nếu anh không đi ngoại tình thì anh là người được hạnh phúc." Nhưng là, "Nếu anh đã có vợ và sống dựa trên Lời Chúa, anh là người hạnh phúc, và anh sẽ không đi theo người đàn bà khác."
Mối phúc thứ nhất trong 8 Mối Phúc Thật là phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó. Điều đó có nghĩa là những ai có tinh thần nghèo khó mà biết rằng mình thiếu thốn. Khi họ nhận biết được điều đó, họ phải biết cậy trông vào Chúa để nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó bởi vì họ sẽ tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể làm cho lòng họ được thỏa nguyện.
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%: TN 14-C10
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.
Đức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Đức Giêsu cần vào.
Đưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm. Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở, vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn, vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty... Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
Đâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau, phải có khả năng nâng con người lên Đấng Tuyệt Đối.
Đâu là đóng góp của người được sai hôm xưa? Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến. Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm. Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Đấng Cứu Độ?
Đức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào? Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu. Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo. Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Đức Giêsu, và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những nét đặc biệt của mẹ Têrêxa Calcutta, khiến cả thế giới mộ mến?
Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công cho dân tộc Việt Nam, người tông đồ cần có những đức tính căn bản nào? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; Không: TN 14-C11
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; Không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.
Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép.
Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau.
Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác.
Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.
Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè, thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối.
Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Gợi Ý Chia Sẻ
Muốn trở thành tông đồ cho người trẻ hôm nay, theo ý bạn, cần có những điều kiện gì?
Satan và sự ác vẫn hoành hành trên thế giới và trong từng tập thể. Chúng ta phải làm gì để chống lại? Bạn có thấy bóng dáng của Satan trong đời bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
(c.1) "Sau đó": sau khi vào làng Sa-ma-ri và bị dân làng từ chối tiếp đón (9:51-53), Đức Giêsu tiếp tục cuộc hành trình của Ngài lên Giêrusalem để chịu nạn, chịu chết, được phục sinh và lên trời.
"bảy mươi hai": theo sự giảng dạy của Do Thái giáo có bảy mươi hai quốc gia trên thế giới (Kh 10:2-31). Luca có thể muốn ám chỉ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội cho toàn thể nhân loại sau khi Đức Giêsu ra đi.
"từng hai người một": Các môn đệ được sai đi từng hai người một để giúp đỡ nhau và cũng để làm chứng lẫn cho nhau về những gì họ kể lại (Đnl 19:15, Mt 18:16).
(c.3) "chiên con giữa bầy sói": cho thấy trước các thừa sai sẽ không có phương tiện tự vệ khi gặp những sự hung dữ nơi các xứ xa lạ, và cũng nhắc lại lời tiên tri của Isaia rằng chiên con sẽ nằm bên sói dữ (Is. 11:6, 65:25)
(c.4) Vì sự cấp bách, các thừa sai của Đức Giêsu phải tự do với của cải vật chất, không đem theo gì cả, và cũng không để bị chi phối bởi những tục lệ chào hỏi thông thường.
(c 17) "ma quỉ": nhắc lại quyền năng của Đức Giêsu trên ma quỉ tại Galilê (8:26-39). Đức Giêsu trao cho bảy mươi hai môn đệ quyền trừ ma quỉ tương tự như đã cho Nhóm Mười Hai (9:1-2).
(c.19) "rắn rết, bọ cạp": là những hiện thực của sự dữ trong cuộc sống Palestine (Cvtđ 28:1-6)
(c.20) "tên anh em được ghi trên trời": các môn đệ đã được lãnh nhận phần thưởng cứu chuộc.
Một Điểm Chính
Các môn đệ đã thành công trong sứ mệnh đi rao giảng vì họ là khí cụ của ân sủng Thiên Chúa: TN 14-C12
Các môn đệ đã thành công trong sứ mệnh đi rao giảng vì họ là khí cụ của ân sủng Thiên Chúa. Đó là lý do thực sự để các ông vui mừng.
Suy Niệm
Đức Giêsu mời tôi rao giảng Tin Mừng của Ngài như thế nào trong thế giới ngày hôm nay? Đâu là những trở ngại tôi đang gặp? Tôi cần những gì để vượt thắng những trở ngại này?
Đã bao giờ tôi cảm thấy như một chiên non đi giữa sói dữ chưa? Tôi đã học được kinh nghiệm gì chăng?
Sứ mạng của ki-tô hữu hôm nay là rao giảng Đức Yêsu bị đóng đinh thập giá đã phục sinh, Ngài: TN 14-C13
Sứ mạng của ki-tô hữu hôm nay là rao giảng Đức Yêsu bị đóng đinh thập giá đã phục sinh, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, người ta sẽ biết được Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Thập giá trở thành biểu tượng của Đấng chịu đóng đinh, và rao giảng về thập giá là rao giảng về tình yêu nhập thể.
Khám phá kho tàng qua thập giá Đức Yêsu
Một đời vất vả lam lũ rao giảng Tin Mừng, công trạng của Phaolô rất to lớn, nhưng Phaolô nói: “ước gì tôi không hãnh diện về điều gì khác ngoài thập giá Đức Yêsu, Chúa tôi”. Với người đánh giá mọi sự theo giá trị phàm trần, thập giá chỉ là một cây gỗ, có gì mà hãnh diện? Cái chết ô nhục trần trụi trên thập giá, có gì đáng tự hào? Phaolô hãnh diện vì thập giá, không phải vì đó là một cây gỗ, nhưng Ngài hãnh diện vì Con Người đã chết trên thập giá, Đức Yêsu- Đấng yêu thương con người đến chấp nhận cái “chết treo thập giá trần trụi ô nhục”.
“Đức Yêsu chết treo thập giá”, dạy Phaolô và con người của mọi thời đại rất nhiều bài học. Ai sống trên đời mà không ham sống lâu, không ham giầu sang, không ham được trọng vọng? Có nhiều người khi bị nghèo, không được trọng vọng, không quyền cao chức trọng, thì than thân trách phận, làm như thể cuộc đời họ không còn ý nghĩa gì nữa. Cái hiểu biết sai lầm này, làm chính đương sự không hạnh phúc, và cũng làm những người thân cũng như những người sống với họ, bị ảnh hưởng. Có biết bao gia đình tan hoang vì một trong hai vợ chồng đã có quan niệm sai lạc như vậy.
Hãnh diện vì thập giá Đức Yêsu, là hãnh diện vì mình chỉ là người trần nhưng được Thiên Chúa yêu thương vô cùng, vì Thiên Chúa nhập thể đã yêu con người đến chết trên thập giá. Con người đối với Thiên Chúa thật đáng quý biết bao. Nếu chính Thiên Chúa còn quý trọng con người đến độ chết cho con người, nghĩa là con người có giá trị thực sự trước Thiên Chúa, thì con người cũng phải biết yêu thương kính trọng nhau. Thập giá Đức Yêsu, là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Hãnh diện vì thập giá, là hãnh diện vì mình được yêu, là hãnh diện vì mình nhận thức được chân lý, biết được giá trị đích thực của cuộc đời.
Rao giảng Nước Thiên Chúa trong mọi tình huống
Đức Yêsu đã sai gởi không chỉ nhóm 12, nhưng Ngài còn sai 72 môn đệ đi rao giảng về Nước Thiên Chúa nữa. Sứ điệp rao giảng là “Nước Thiên Chúa đến gần”. Qua cái chết và sống lại của Đức Yêsu, “nước Thiên Chúa” đã đến và đang đến.
Đâu là cách hành xử của người ra đi rao giảng Tin Mừng? Không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép; không chào hỏi ai dọc đường! Người rao giảng Tin Mừng, chẳng có gì đáng giá ngoại trừ chính sứ điệp rao giảng. Người rao giảng Tin Mừng, chỉ lo lắng sao cho Tin Mừng được loan báo, và không bận tâm về những điều không cần thiết như lương thực, quần áo, giầy dép. Những việc chào hỏi dọc đường có thể làm người có sứ mạng quên mất công việc chính yếu của họ. Việc rao giảng Tin Mừng, quan trọng và khẩn thiết hơn tất cả những việc xã giao, chào hỏi. Những gì ngăn trở cho việc rao giảng, phải được bỏ đi.
Với những người được rao giảng, phải như thế nào? Với những người tiếp đón các ngài, các ngài chúc bình an và loan báo cho họ biết “Nước Thiên Chúa đến gần”; với những người không tiếp đón các ngài, các ngài giũ cả bụi chân lại nhưng vẫn loan báo “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Môn đệ của Đức Yêsu rao giảng tin mừng Nước Trời trong mọi trường hợp, lúc thuận lợi cũng như những lúc bất thuận lợi, lúc được đón nhận cũng như lúc bị từ chối.
“Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình an…”. Bình an hệ tại thái độ nội tâm của con người, tuỳ thuộc thái độ của người đó có sẵn sàng đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa hay không. Phaolô và các tông đồ, khi đi rao giảng các Ngài bị bắt bớ tra tấn, nhưng các Ngài vẫn có sự bình an đích thực. Sự bình an mà Đức Yêsu hứa ban cho các môn đệ của Ngài, và thế gian không thể cướp đi được. Những yếu tố bên ngoài, ảnh hưởng đến con người, nhưng không thể làm một người “theo Chúa” mất bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Khi nói về thập giá, điều gì gợi lên trong đầu bạn? Nói thật với lòng mình, bạn thấy “thập giá” có ích lợi gì không? 2. Bình an là gì? Theo bạn, đâu là điều kiện để có bình an thực sự? 3. Một ki-tô hữu có được trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng không? Cung cách hành xử cho những người được sai đi loan báo tin mừng “Nước Thiên Chúa”, có áp dụng đối với các ki-tô hữu không? Tại sao?
- Bài đọc I (Is 66,10-14c): Khi dân do thái đang vừa trở về từ chốn lưu đày, ngôn sứ Isaia loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban bình an và hạnh phúc tràn trề cho họ. - Đáp ca (Tv 65): Ca tụng những phúc lành của Thiên Chúa. - Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20): Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi loan báo Tin Mừng. - Bài đọc II (Gl 6,14-18): Thánh Phaolô loan báo những phúc lành mà Thập giá Chúa Giêsu ban cho các tín hữu.
Minh họa
- Mille images 67 C - "Ngài sai họ đi từng hai người một" (Lc 10,1)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi như những sứ giả: TN 14-C14
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi như những sứ giả của sự bình an và hạnh phúc. Ngày nay Chúa cũng sai chúng ta như thế. Nhưng muốn là những sứ giả của bình an và hạnh phúc thì trước tiên chúng ta phải có bình an và hạnh phúc trong lòng chúng ta. Đó là hai ơn rất quý mà chúng ta hãy xin Chúa ban trong Thánh lễ này.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta chỉ lo đến phần rỗi của riêng mình mà không nghĩ đến việc cứu rỗi người khác.
- Trong cuộc sống chung đụng với người khác, chúng ta chưa thực sự là những người mang lại bình an và hạnh phúc cho họ.
- Chúng ta chưa được như Thánh Phaolô, biết sung sướng hãnh diện vì Thập Giá Đức Kitô.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 66,10-14c)
Vua Cyrus nước Ba Tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân do thái hồi hương. Trong bầu khí phấn khởi vui mừng đó, ngôn sứ Isaia nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ ban phúc lành cho dân. Điều đáng lưu ý là phúc lành quý giá nhất chính là ơn bình an: "Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông".
2. Đáp ca (Tv 65)
Tv này reo mừng Thiên Chúa và ca ngợi về những ơn lành của Ngài.
3. Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20)
Đoạn Tin Mừng này đã được Phụng vụ cắt bớt khúc giữa (cc 13-16), để chỉ còn lại hai phần chính: Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (cc 1-12), và các môn đệ rao giảng xong trở về kể chuyện cho Ngài nghe (cc 17-20)
a/ Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:
- Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
- "Từng nhóm hai người": Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
- "Hãy cầu xin": Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là "cầu xin". Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
- "Như chiên non vào giữa sói rừng": Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
- "Đừng chào ai dọc đường": việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
- "Bình an cho nhà này": đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là "con cái của sự bình an". Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
- "Cứ ở lại nhà ấy": gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình. - "Ăn uống của người ta cung cấp cho mình": sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình). - "Thợ đáng trả lương": đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18 ; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18). - "Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy": Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27). - "Hãy chữa lành các bệnh nhân": đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến. - "Phủi bụi chân": người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ. - Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
b/ Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Chúa Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời ("tên các con được ghi trên trời")
4. Bài đọc II (Gl 6,14-18)
Trong đoạn thư này gởi tín hữu Galata, Thánh Phaolô chia xẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô:
- Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người - Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô - Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài.
IV. Gợi ý giảng
1. Những kẻ mang bình an
Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là "Bình an cho nhà này". Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa.
Bắc Ai Len là một đất nước mà hai khối dân Công giáo và Tin lành thù ghét nhau và nhiều lần bắn giết nhau. Vào một dịp lễ Giáng sinh, một Linh mục công giáo đi sang bên kia đường để đến thăm một Mục sư Tin Lành. Vị Mục sư rất cảm động, đón tiếp vị Linh mục rất niềm nỡ. Ít lâu sau Vị Mục Sư cũng sang bên kia đường để thăm vị Linh mục. Tình thân giữa hai người ngày càng thắm thiết hơn. Tuy nhiên một vài tín đồ lớn tuổi thì nổi giận. Họ tìm đủ cách để cấp trên của Giáo Hội thuyên chuyển vị Mục sư ấy đi nơi khác.
Vị Linh mục và Vị Mục sư trên chỉ làm điều mà tất cả các môn đệ Chúa Giêsu phải làm, đó là làm những sứ giả của bình an và hòa giải trong một xã hội có nhiều chia rẻ.
Bình an không phải là một cái gì tiêu cực do không có chiến tranh và thù hận. Nó đòi phải có tinh thần cởi mở, tình huynh đệ, lòng khoan dung, thiện chí và ước muốn hòa giải. Nó buộc chúng ta đi đến với người khác. Nó giúp chúng ta gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc cố chấp.
Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc "Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em". Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau". Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc "Chúc anh chị em ra về bình an". Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ.
2. Mênh mông lúa đồng
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: "Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: "Đã thấy !" Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: "Đã thấy !"
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên !" Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Kener kết luận: "Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
Đã qua 2000 năm nhưng lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít" (Lc 10,2). Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù ; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: "Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói" (Lc 10,3) (…)
"Ra đi" chứ không phải "ở lại", đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định: "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo" (TG 2). Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết: "Không một ai trong những người rin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc" (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là "Ra đi".
Ra đi đem "bình an" đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phao lô đã phải thốt lên: "Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1Cr 9,16). Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: "Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng". (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
3. "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít"
Catherine de Hueck Doherty làm việc trong một quán bar ở Mahattan. Đến 4 giờ sáng, cô nói lời tạm biệt với các khách uống rượu. Một người hỏi:
- Cô đi đâu ? - Tôi phải đu Nhà thờ dự Thánh lễ, vì hôm nay là Chúa nhật. - Thế cô là người công giáo hả ? - Đúng vậy.
Nhiều người trong đám khách rất ngạc nhiên vì không ngờ Catherine có thể vừa là một người công giáo ngoan đạo vừa làm việc tại một nơi phức tạp như vậy. Vài tuần sau, một người trong đám khách trở lại nói với Catherine: "Cô đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. Cô có thể vừa sống đạo tốt vừa làm việc ơ một nơi như thế này, thì tại sao tôi không thể !" Và người ấy đã trở lại nhà thờ.
Lần khác, Catherine đang trên đường tới trạm xe điện ngầm thì gặp một bà cụ. Bà cụ mở lời "Cô có vui lòng nói chuyện với tôi giây lát không ?" Cô vui vẻ nhận lời. Hai người đã nói chuyện với nhau trong suốt chặng đường. Sau đó hai người còn kết thân với nhau và Catherine thường xuyên tới thăm viếng bà cụ cho tới ngày bà cụ qua đời.
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít". Một kitô hữu có ý muốn làm thợ gặt như cô Catherine thì không bao giờ thiếu dịp để gặt lúa cho Chúa.
4. Mảnh suy tư
Tông đồ là kẻ được sai đi.
Vì thế làm tông đồ rất khác với làm chuyên viên. Làm chuyên viên thì cần phải có tài năng. Còn làm tông đồ thì chỉ cần đi theo lệnh Chúa sai, đến với người Chúa sai mình đến, và mọi việc khác hầu như Chúa sẽ làm tất cả.
5. Chuyện minh họa
a/ Đi giảng
Ngày kia, thánh Phanxicô Assadi nói với một thày dòng: "Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo." Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi: "Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà !" Thánh Phanxicô đáp: "Chúng ta đã giảng đạo rồi đó ! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao ?"
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ.
b/ Khuôn vàng thước ngọc
"Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe ; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe".
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người". Giờ đây chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa Cha cho Nước Chúa mau trị đến.
- Chúc bình an: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng bảo mỗi kitô hữu chúng ta hãy làm sứ giả của bình an. Chúng ta hãy thật lòng chúc bình an cho nhau.
VI. Giải tán
Anh chị em thân mến. Môn đệ Chúa là những sứ giả của bình an. Chúng ta hãy ra về và mang bình an đến cho tất cả những người chúng ta sẽ gặp gỡ.
Một mình tác giả Tin Mừng Luca nói tới cuộc sai phái thứ hai gồm bảy mươi hai môn đệ (10,1-12) sau cuộc sai phái thứ nhất chỉ gồm mười hai ông (9,1-6). Con số 12 tông đồ tượng trưng 12 chi tộc của dân mới của Thiên Chúa là Hội Thánh. Còn con số 72 tượng trưng 72 quốc gia trên thế giới theo sách Sáng Thế chương 10 bản văn Hy Lạp. Có lẽ Luca có ý ám chỉ sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội sau khi Đức Giêsu đã rời khỏi các môn đệ.
Quả thật, ban đầu các môn đệ được chỉ dẫn đừng đi về phía dân ngoại (Mt 10,6). Nhưng trước khi rời khỏi các ông, Đức Giêsu đã sai các ông đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (xem Mt 28,16-20).
Các môn đệ được phái đi trước vào tất cả các thành nơi mà chính Đức Giêsu sẽ đến (Lc 10,1). Điều đó cho thấy các môn đệ được phái đi không phải để rao giảng về mình nhưng để chuẩn bị cho chính Đức Giêsu đến. Họ được phái đi từng hai người một. Hai người chứng sẽ có giá trị pháp lý. Họ sẽ làm chứng về Đức Giêsu và về Nước của Thiên Chúa.
Họ được khuyến cáo xin chủ mùa gặt sai thợ gặt lúa về (c.2). Tại sao không xin để có nhiều người xung phong ra đồng gặt lúa về? Lý do vì Nước của Thiên Chúa phải do chính Chúa làm chủ và điều khiển nhân sự.
Các môn đệ không được ảo tưởng về mình và về việc mình làm. Họ ở trong tình trạng không khác bầy chiên giữa sói rừng (c.3), họ không thể tự bảo vệ nên cần hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa là chủ mùa gặt, về mọi điều cần thiết. Họ được khuyến cáo đừng dừng lại để chào hỏi ai dọc đường (c.4), điều đó cho thấy tính cấp bách của nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Bình an mà các môn đệ trao tặng xem ra là một quà tặng cụ thể có hồn như một nhân vật. Ý niệm về bình an của Kinh Thánh ở đây là ý niệm về lời Thiên Chúa không chỉ là sứ điệp nhưng cách nào đó, là hiện thân của ngôi vị và quyền năng của chính Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia nói: "Lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó" (55,11). Vậy các môn đệ không chỉ chuyển giao sứ điệp mà còn mang lại quà tặng của Thiên Chúa. Họ là thừa tác viên được ưu đãi mang quà tặng tới những người họ được phái đến, cho nên tác viên về quà tặng thiêng liêng xứng đáng được chăm sóc về nhu cầu thể lý như lời tông đồ Phaolô nhắn nhủ dân thành Galát rằng: "Người được học Lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với Người dậy dỗ mình (6,6)".
Vì công bố Tin Mừng là công bố chính lời Thiên Chúa nên không thể coi như việc chuyển giao sứ điệp loài người mà thôi; người được công bố lời Chúa cũng không thể đón nhận hoặc không đón nhận tùy ý. Ai không đón nhận Lời Thiên Chúa kể như không đón nhận chính Thiên Chúa, với hậu quả không thể lường được. Đức Giêsu ví những thành đã từng nghe Người giảng mà không hoán cải để đón nhận chính Thiên Chúa, thì số phận của những thành ấy có khác chi thành Xođom xưa.
Bài Tin Mừng hôm nay trở nên đề tài thời sự với Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đang họp tại Roma (tháng 4/98). Trước thiên niên kỷ thứ ba đang tới, các Đức Giám Mục tại phần đất này của thế giới đang muốn duyệt lại cách thức loan Tin Mừng cho các dân tộc Á Châu. Không thể đốt giai đoạn. Như dân tộc Do Thái xưa, các dân tộc Á Châu cần được chuẩn bị trước khi loan báo cho họ biết về ơn cứu độ do Đức Giêsu mang lại.
MỌI DÂN TỘC ĐỀU CHUNG MỘT NGUỒN GỐC
Công Đồng Vatican 2 khẳng định rằng: "mọi dân tộc đều thuộc về một cộng đoàn cùng chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã cho toàn thể nhân loại sinh sống trên khắp mặt địa cầu. Họ lại có cùng một mục đích tối hậu là Thiên Chúa, Đấng vẫn hằng giải rộng sự quan phòng, chứng tích lòng nhân hậu, và ý muốn cứu độ cho hết mọi người... Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điều khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên, Giáo Hội rao giảng Chúa Kitô, Đấng "là đường, sự thật và sự sống" (Ga 14,16), nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình." (Thời Đại Ta, 1-2).
Chẳng bao lâu nữa, ta sẽ được hưởng kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu hướng dẫn ta đến với các dân tộc Á Châu vượt xa những hướng dẫn của Công Đồng Vatican 2. Nhưng ngay với bản tuyên ngôn Thời Đại Ta, người Công Giáo đã có thể mạnh bạo sống chan hòa với mọi người bất kể họ thuộc tôn giáo nào. Đó xem ra là điều mà Công Đồng Vatican 2 muốn thấy được thể hiện khi khẳng định rằng mọi dân tộc trên khắp mặt đất đều cùng chung một nguồn gốc và nhắm cùng một mục đích tối hậu là Thiên Chúa. Đó cũng xem ra là điều mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II muốn giao cho Giới trẻ phong trào Hiệp Nhất Thế Giới thể hiện năm 1985 khi nói với họ: "Tương lai ở trong tay các bạn. Thiên niên kỷ thứ hai sẽ kết thúc như thế nào và thiên niên kỷ mới sẽ khởi sự ra sao cũng ở trong tay các bạn. Các bạn đừng thụ động nhưng hãy đảm nhận lấy trách nhiệm được giao. Trong mọi lãnh vực hiện đang mở ra cho các bạn ngay nơi thế giới đang cần chỗi dậy về đời sống thiêng liêng từ sâu thẳm" (Tông thư cho giới trẻ, 31 tháng 3, 1985).
CHUNG MỘT MỤC ĐÍCH TỐI HẬU
Lạ lùng, giới trẻ tại Á Châu không phân biệt tôn giáo, văn hóa, chính trị và chính kiến, đã tỏ ra bén nhạy với lời kêu gọi hiệp nhất thế giới, mặc dầu đó là điều đòi họ phải lội ngược dòng. Người ta thấy sự bén nhạy đó được biểu lộ nơi nhiều dự viên của Đại Hội Liên Hoan Giới Trẻ được tổ chức tại Manila ngày 4 tháng 4, 1993. Gần 5,000 người trẻ đến từ 21 quốc gia gồm Nhật Bản, Miến Điện, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Hong Kong, Đài Loan, Macao, Pháp, Italia, và dĩ nhiên Phi Luật Tân là nước chủ nhà. Họ đến và đã tích cực ủng hộ phong trào hiệp nhất thế giới. Họ vui vẻ liên hoan với những lời ca tiếng hát, với những màn kịch câm, những vũ điệu và nhất là những kinh nghiệm nói lên quyết tâm lội ngược dòng để xây dựng thế giới hiệp nhất. Công trình xây dựng này dựa trên những dự án cụ thể trên ba con đường rõ nét là: (1) đi ngược lại tính ích kỷ thường gây nên chết chóc; (2) đi ngược trào lưu duy vật chất, và (3) hội nhập văn hóa; tức là nhập vào nền văn hóa của người khác như bước đường dẫn tới thế giới hiệp nhất.
Chàng Joel và nàng Marie còn 12 ngày nữa là cưới nhau. Họ đứng trên sân khấu để chia sẻ kinh nghiệm ngược dòng của họ. Chàng nói: "Thiên Chúa ở địa vị trên hết giữa hai chúng tôi. Trước tiên chúng tôi phải vâng lời Ngài thay vì theo ý riêng..." Nàng: "Trong sạch đòi chúng tôi phải yêu nhau không vì lợi ích riêng cá nhân... Theo gương Đức Maria, hai chúng tôi phải duy trì tình bạn suốt thời gian hứa hôn, không hành xử như đã vợ chồng".
Chàng Noel tích cực góp phần xây dựng nền văn minh tình thương bằng cách cổ võ nền kinh tế chung hiệp thay vì nền kinh tế thương mại. Noel bán đồ ăn cầm tay chạy như tôm tươi dành 1/3 lợi tức cho người nghèo, 1/3 cho việc huấn luyện người cho thế giới hiệp nhất, 1/3 cho việc phát triển kinh doanh.
Cô Aminah là tín đồ Hồi Giáo gốc miền nam Phi Luật Tân. từ ngày lên Manila học, cô và các bạn Kitô vượt mọi thành kiến đẻ kết thân với nhau trong phong trào hiệp nhất thế giới.
Bạn Kaori từ Nhật Bản nói: "Tôi không phải là tín đồ Kitô. Tôi là một Phật Tử. Tôi chưa được biết nhiều về phong trào Hiệp Nhất Thế Giới. Đây là lần đầu tiên tôi đến Phi Luật Tân dự Liên Hoan Giới Trẻ. Tôi thấy xây dựng thế giới hiệp nhất là điều khả thi. Đây là lần đầu tiên tôi kinh nghiệm thế nào là hiệp nhất và cảm thấy điều đó khắp nơi trong Đại Hội này. Đây quả là khởi đầu của đời sống hiệp nhất đối với tôi và tôi thực tình muốn sống như vậy."
Bạn Net từ Thái Lan nói: "Ngay từ ngày đầu tôi đã được đánh động. Cha mẹ tôi ngỏ ý không muốn cho tôi tới dự vì ngại thiếu tiện nghi và những khó khăn về di chuyển. Nhưng tôi muốn thấy yêu thương được diễn tả nên đã vượt khỏi những khác biệt về văn hóa. Thường cuời không phải là điều tự nhiên đối với tôi, nhưng ở đây tôi không thể không cười. Hôm qua tôi thấy ai cũng mệt lử, mặc dầu vậy, họ vẫn ráng diễn tả tình thương giữa nhau. Tôi cũng ra sức làm như vậy. Và tôi đã nhường nhà tắm cho người khác khi đến lượt tôi... Tôi còn muốn nán lại lâu hơn nữa để mang tinh thần yêu thương và hiệp nhất về chỗ các bạn và gia đình tôi ở Thái Lan".
Đoạn Tin Mừng này đã được Phụng vụ cắt bớt khúc giữa (cc 13-16), để chỉ còn lại hai phần chính: Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (cc 1-12), và các môn đệ rao giảng xong trở về kể chuyện cho Ngài nghe (cc 17-20)
1. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:
- Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
- “Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
- “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
- “Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
- “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
- “Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
- “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
- “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).
- “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18 ; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).
- “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).
- “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.
- “Phủi bụi chân”: người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.
- Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
2. Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)
B. ... NẨY MẦM.
1. Truyền giáo là bổn phận của tất cả mọi tín hữu không trừ ai. Thực ra, người tín hữu VN chỉ mới lo giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo.
2. Việc đầu tiên người truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Đây là điều mà chúng ta hay quên.
3. Điều thứ hai người truyền giáo phải lưu ý là: cái họ cần có hơn là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
4. Việc làm chính của người truyền giáo là “chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất của người ta.
5. “Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép.(Lc 10,4)
Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì ? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lênh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...
Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi “ra một cuộc lữ hành” ? Nhưng lạy Chúa, khó quá, vì nơi con: Đã quen rồi bóng râm của tiện nghi, an toàn. Đã quen rồi đôi giày của danh vọng. Đã quen rồi chiếc đồng hồ kế hoạch. Đã quen rồi bao bị của bằng cấp, bạc tiền.
Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con (Hosanna)
6. “Các con chớ vui mừng vì các tà thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời”: sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, tôi cũng rất vui. Tôi vui vì những thành công đó, tôi vui vì được người ta khen ngợi, tôi vui vì đã phục vụ… Chúa Giêsu nhắc tôi một niềm vui lớn hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau.
7. “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em di như chiên con vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép” (Lc 10,3-4)
Vị phán quan đã tuyên án tử hình cho một tốp thanh niên công giáo nhất quyết không chối bỏ đức tin. Bản án này được dành cho họ nhằm ngăm đe những người công giáo khác.
Họ đã tiến ra pháp trường, không như kẻ chiến bại nhưng với gương mặt hiền từ của những kẻ chiến thắng, chờ lãnh nhận triều thiên vinh hiển Nước Trời.
Chúa sai các môn đệ đi, như bầy chiên con đi vào giữa bầy sói mà chẳng có gì để phòng thân ngoài Thánh Thần Tình yêu và lòng tin tuyệt đối vào sức mạnh của Thiên Chúa.
Chúa cũng sai con đi. Nhưng Chúa ơi, làm sao con có thể đi được một khi vai còn chất nặng đủ thứ, chân còn bị ràng buộc đủ điều. Con sợ, rất sợ phải đánh đổi những thứ ấy cho một tương lai đầy bất ổn.
Xin ban Tình yêu và sức mạnh của Người cho con. Ôi lạy Chúa. (Epphata)
Hình ảnh lúa chín đầy đồng và thợ gặt rất thân thương với hơn 80% người dân Việt Nam từ ngàn xưa. Đức Giêsu đã phác họa một phong cảnh tương phản giữa cánh đồng lúa chín vàng mênh mông bát ngát với mấy người thợ gặt ít ỏi.
Mùa gặt quá thiếu thợ, còn gì xót xa đau khổ bằng ! Đức Giêsu đã đau xót biết chừng nào trước cảnh đồng lúa chín rũ rượi, gục ngã, cũng như trước đoàn chiên bơ vơ không có người chăn chân chính. Người đã thúc giục chúng ta hãy khẩn nài chủ ruộng là Thiên Chúa sai thợ đến gặt lúa.
Lúa chín đầy đồng của Đức Giêsu là gì ?
Đó chính là nhân loại đang sống trong bầu khí ô nhiễm tội lỗi, trong tình trạng ngột ngạt của tử thần, dưới ách quỷ dữ như chó sói săn đuổi cấu xé đàn chiên. Thế giới có hàng tỉ người là hàng tỉ cây lúa chín đang bị muôn thú cướp phá, giày xéo.
Riêng tại Á Châu, trong số ba tỉ năm người mới chỉ có một trăm mười triệu tín hữu Công Giáo, tính theo tỷ lệ là 2,6%. Như vậy, cứ một trăm cánh đồng lúa chín, mới có 2,6 cánh đồng có thợ gặt, còn 97,4 cánh đồng bị bỏ hoang. Chưa kể toàn bộ cánh đồng đã bị bỏ hoang mãi cho đến thế kỷ thứ XVI mới có thợ gặt. Đặc biệt, thánh Phanxicô Xaviê không chỉ là thợ gặt mà là máy gặt hiện đại. Nếu Á Châu đã được phúc có nhiều máy gặt hiện đại như thánh Phanxicô, Mẹ Têrêxa Calcutta, chắc chắn, Á Châu bây giờ đã trở thành những đồng lúa thơm lành đầy thợ gặt của Thiên Chúa.
Lạy Chúa xin sai nhiều thợ gặt đến, nhất là những máy gặt hiện đại để Thánh Thần Chúa đến canh tân bộ mặt Á Châu.
Từ ngày 19/04 đến 15/05/1998, Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu lần đầu tiên họp tại Rôma, có hơn 158 vị đại diện hàng Giám Mục Á Châu và một số Giám Mục đại diện các châu lục khác, cùng với một số chuyên viên, tất cả hơn hai trăm ba mươi vị dưới quyền hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tất cả sáu trăm Giám Mục, mười bốn Hồng y và hơn một trăm mười triệu tín hữu Công Giáo đang cầu nguyện hướng lòng mong chờ xin “Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ sai đến Á Châu những thợ gặt và nhất là những máy gặt hiện đại lãnh sứ mạng yêu thương phục vụ của Ngài đến tại Á Châu nghèo đói tinh thần và vật chất, được sống và sống dồi dào” (Ga. 10,10).
Điều cần thiết chúng ta phải sống thế nào trở nên thợ gặt, trở nên máy gặt ?
Bài đọc I chỉ cho ta thấy Isaia đã làm gì để trở nên máy gặt cho dân Do Thái. Ông thấy dân được thoát cảnh lưu đầy khỏi Babilon về. Nhưng họ rất buồn nản, tuyệt vọng trước quê hương điêu tàn và đền thánh bị phá hủy. Isaia đã an ủi, khích lệ và loan báo Tin Mừng cho họ biết: “Thiên Chúa không bỏ rơi họ, Ngài sẽ tỏ quyền lực giúp họ”. Đây là lời Chúa phán: “Này Ta đổ hoà bình xuống Thành Đô, khác nào sông cả, khiến của cải của dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các con sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền âu yếm con thơ, Ta sẽ vỗ về các con như vậy”. Thấy thế, lòng họ đầy hoan lạc, thân hình nên tươi tốt như đồng xanh”
Bài đọc II: Thánh Phaolô đã trở nên máy gặt cho chư dân, nhờ sống mầu nhiệm thập giá, Ngài đã làm cho họ trở nên tạo vật mới, sống bình an trong lòng thương xót của Chúa. Ngài nguyện xin Đức Giêsu ban cho lòng trí họ được tràn đầy ân sủng.
Như vậy, muốn trở nên thợ gặt, máy gặt của Chúa, chúng ta phải sống mầu nhiệm thập giá, cầu nguyện và loan báo Tin Mừng của Chúa, an ủi những ai sầu khổ, khích lệ kẻ thất vọng, âu yếm nâng niu những ai yếu đuối, để lòng thương xót, ân sủng và bình an của Chúa làm cho họ nên tạo vật mới, nên công dân trong Thành Đô của Chúa.
Đặc biệt bài Tin Mừng cho thấy một sáng kiến của Đức Giêsu đã dùng nhóm nhỏ đi loan báo Tin Mừng. Chúa chọn bảy mươi hai người, rồi chia ra từng nhóm hai người để sai đi các nơi. Các nhóm này không phải là một tổ chức cho bằng một sự sống… Họ chia sẻ sự sống của Chúa, của những người chung quanh và của nội bộ nhóm.
Trước hết, là cuộc sống của họ là chia sẻ những băn khoăn thao thức của Chúa, Đấng sai họ đi, tâm tư thao thức được diễn tả trong lời sai đi: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt ít”… Chúa cũng cho họ thấy: “Ta sai các con đi như chiên ở giữa sói rừng…”. Sói mạnh hơn chiên… Vì thế các ông sẽ tuyệt đối tựa nương vào sức mạnh siêu nhiên của Đấng sai mình… Thứ đến, họ chia sẻ cuộc sống thực tế của những người trong nhà như chữa bệnh tật cho họ, cùng ăn uống với họ. và nâng tâm hồn họ lên, bằng cách nói cho họ biết Nước Thiên Chúa ở gần bên họ…
Sau cùng, nhìn vào sinh hoạt nội bộ của những người trong nhóm, ta thấy một bầu khí thanh thoát, vui tươi … Kể lại cho nhau nghe những gì xảy ra cho họ. Nội dung họp nhóm của họ không phải là tranh luận về quan điểm này nọ, đúng sai, mà là chia sẻ kinh nghiệm của nhau trong tâm tình khiêm tốn, kính trọng tin tưởng nhau, và sẵn sàng lắng nghe lời Chúa dậy bảo. (Trích bài giảng CN. XIV năm C của Đức Cha Bùi Tuần. 1989)
Lạy Chúa, mọi người Kitô hữu đều được Chúa sai đi gặt lúa. Xin cho chúng con biết đem bình an và lời Chúa đến mọi gia đình để lời Chúa trở nên sự sống đời đời cho họ.
“Bấy giờ Chúa Giêsu sai các ông đi, cứ từng hai người một”.
Ngày xưa, khi có dịp tiếp xúc với các vị giáo sư ngoại quốc, có lần tôi đã hỏi họ nghĩ gì về các: TN 14-C18
Ngày xưa, khi có dịp tiếp xúc với các vị giáo sư ngoại quốc, có lần tôi đã hỏi họ nghĩ gì về các sinh viên Việt Nam ? Và họ đã trả lời:
- Nếu xét về phương diện làm việc cá nhân, một sinh viên Việt Nam thường giỏi hơn một sinh viên những nước khác. Thế nhưng, nếu xét về phương diện làm việc tập thể, một nhóm sinh viên Việt Nam lại thua xa một nhóm sinh viên những nước khác.
Lời nhận xét này đã làm cho tôi suy nghĩ. Sở dĩ như vậy là vì sinh viên Việt Nam thiếu tinh thần cộng tác và đoàn kết với nhau.
Từ đó, chúng ta nhận thấy sự chia rẽ và phân hóa dường như là một căn bệnh đã thấm sậu vào đầu óc của người dân Việt Nam.
Đó cũng là điều dễ hiểu, bởi vì sống dưới những chế độ nô lệ khắc nghiệt, “ một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày”, người ta luôn nghi ngờ, không còn tin tưởng vào nhau và nhiều khi sự giả dối đã trở nên như một vũ khí tự vệ của kẻ yếu trước người mạnh. Phải luồn lách, phải khôn lỏi thì mới được sống còn.
Căn bệnh chia rẽ và thiếu cộng tác này đã xuất hiện trên nhiều lãnh vực.
Trước hết, trên lãnh vực quốc gia. Chúng ta không có được những công trình kiến trúc qui mô đòi hỏi một thời gian xây dựng lâu dài. Chúng ta cũng không có những công trình văn hóa đồ sộ, đòi phải có nhiều người cộng tác để cùng nghiên cứu và biên soạn chẳng hạn như một quyển bách khoa tự điển. Chúng ta có đoàn kết, thì mới chỉ đoàn kết trong chiến tranh, còn một khi hòa bình trở về, chúng ta lại chia rẽ trong việc xây dựng đất nước: nào nam bắc, nào già trẻ, nào bè phái và phe nhóm.
Tiếp đến, trên lãnh vực xã hội. Chúng ta cũng thiếu tin tưởng và cộng tác với nhau. Một công ty, một xí nghiệp mới được thành lập thật tốt đẹp, nhưng rồi chỉ một thời gian sau liền sụp đổ không kèn không trống, chỉ vì người ta đã gian lận, đã chấm mút, đã biển thủ công quỹ..
Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta cũng ghi nhận được những mầm mống chia rẽ và phân hóa. Tôi xin lấy một thí dụ cụ thể là chính giáo xứ của chúng ta. Ôn lại lịch sử từ khi thành lập cho đến nay, chúng ta phải chua xót mà nhận ra rằng đã có những biến cố không mấy tốt đẹp xảy ra: nào địa phận nọ và địa phận kia, nào vùng này vùng khác.
Sự chia rẽ và phân hóa cũng có mặt trong chính gia đình, một cộng đồng tình yêu vừa nhỏ bé lại vừa lý tưởng nhất, để rồi đã xảy ra những cãi vã, những đánh đập, như tục ngữ đã bảo:
- Chồng giận, vợ giận thì dùi nó quăng.
Từ những sự kiện ấy, chúng ta đi vào chủ đích của Chúa Giêsu khi Ngài sai phái các môn đệ cứ từng hai người một, là để các ông hiệp lực và cộng tác với nhau.
Vậy sự cộng tác sẽ đem lại những hậu quả nào ?
Trước hết, đó là sự sáng suốt.
Thực vậy, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Hai cái đầu thì bao giờ cũng hơn một cái đầu.
Cái nhìn của người trong cuộc thường chủ quan và phiến diện, nhưng cái nhìn của người ngoài cuộc sẽ vô tư và khách quan hơn, như tục ngữ cũng đã bảo:
- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Tiếp đến, đó là sức mạnh.
Thực vậy, tục ngữ Việt Nam đã bảo:
- Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
- Hợp quần gạy sức mạnh.
Tự sức riêng, có nhiều việc chúng ta không thể nào làm nổi vì thiếu phương tiện, thiếu khả năng. Nhưng nếu được nhiều người cộng tác, chắc chắn công việc sẽ tiến triển một cách mau chóng và đem lại những thành quả tốt đẹp, như một câu danh ngôn đã xác quyết:
- Chim có đàn cùng hót, tiếng hót mới hay.
Hơn thế nữa, thân phận của người tông đồ là thân phận của một con chiên giữa bày lang sói, nếu biết cộng tác với nhau, chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn và thử thách. Bẻ một chiếc đũa thì dễ, chứ bẻ cả một bó đũa thì rất khó.
Sau cùng, đó là sự an ủi khích lệ trong những lúc mệt mỏi và chán nản, đồng thời nhờ kinh nghiệm của người khác, chúng ta sẽ dễ dàng tiếp thu những cái hay cái đẹp.
Thực vậy, tục ngữ cũng cho hay:
- Học thày không tày học bạn.
Nhờ tinh thần ganh đua, chúng ta sẽ tiến mau và tiến mạnh, bởi vì:
- Thua trời một vạn, không bằng thua bạn một ly.
Hay như thánh Augustinô cũng đã nói:
- Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không ?
Ngoài ra, nhờ tình yêu thương trong sự cộng tác chân thành, chúng ta sẽ dễ đem Chúa đến cho người khác, bởi vì lúc bấy giờ họ sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi mỗi chúng ta.
Và như vậy, chính sự đoàn kết và cộng tác sẽ là phương tiện đem lại hậu quả tốt cho việc tông đồ:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.
Hơn bao giờ hết, tình thương và sự cộng tác là điều kiện cần thiết cho người tông đồ hôm nay, bởi vì:
Nói đến các trường đại học nổi tiếng tại thủ đô Mannila Phi Luật Tân , người ta không thể nhắc đến đại học Atadio của Linh mục Dòng Tên. Đây là một trong những trường cung cấp rất nhiều nhân tài cho nước Phi Luật Tân và di nhiên là đa số học sinh và sinh và sinh viên của đại học này đầy là thành phần khá giả trong xã hội.
Dưới chân trường học nằm trên một ngọn đồi này là một khu lao động nghèo mà có lẽ nhiều người không biết đến, và trong cái xóm nghèo nàn ấy có một cộng đoàn tu sĩ mà có lẽ nhiều người không biết đến, đó là cộng đoàn các tiểu đệ Charles De Foucaul, đa số các tu sĩ sống ở đây là người Việt Nam hoặc từng sống ở Việt Nam.
Một hôm, một Linh Mục Dòng Tên người Mỹ là giáo sư đại họcAtadio tình cờ đi lạc vào trong cái khu lao động ấy, điều làm cho ông ngạc nhiên là trong cái khu nghèo nàn đó lại có một người Bỉ, đây là một tiểu đệ đã sống ở Việt Nam gần 30 năm và đã bị trục xuất sau năm 1975. Sau một hồi trao đổi với nhau, vị linh mục người Mỹ mới hỏi người Bỉ như sau: Ông làm gì ở đây? Người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, tôi nấu ăn, tội giặt quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu lao động này.
Nghe thế vị linh mục người Mỹ như có vẻ tiếc rả sự hy sinh lãng phí của người Bỉ. Ông nói về mình như sau: Còn tôi, tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình. Tôi đi đây đi đó, tôi đào tạo những người hữu ích cho xã hội.
Cuộc gặp gỡ và đối thoại trên đây giữa hai vị tu sĩ trong Giáo Hội, có lẽ cho chúng ta thấy được một số những khía cạnh khác nhau trong công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Vị Giáo su người Mỹ trên đây là điển hình có một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo trong xã hội trên khắp thế giới, từ thành thị cho đến thôn quê, từ học đường cho đến các xưởng, từ đất Kinh đến miền thượng nơi nào cũng có những nhà truyền giáo ngày đêm hăng say truyền giáo và hoạt động. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động và rao giảng, thì cũng có những nhà truyền giáo sống giống như chứng nhân Tin mừng.
Việc tiểu đệ Charles De Foucaul người Bỉ trên đây có lẽ là tiêu biểu của không biết bao nhiêu nhà truyền giáo âm thầm lấy cuộc sống chia sẻ của mình như một chứng từ cho Nước Chúa. Tựu trung tích cực hoạt đồng hay âm thầm sống chứng nhân, cả hai hình thức đều có chung một sứ mệnh, đó là làm chứng cho Đức Kitô và mở mang và mở mang Nước Chúa. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một đòi hỏi sơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã đề ra cho các đồ đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin mừng. Ngài nói với các ông: “ Các con đường mang theo túi, tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường”. Như vậy, một cuộc sống siêu thoát một cuộc sống không lệ thuộc vào những của cải trần gian này, đó là biểu hiện tiên quyết của những chứng nhân Nước Trời.
Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương xứ sở của mình để đến một vùng đất xa lạ. Ra đi thiết yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi con người ích kỷ của mình để đi đến với tha nhân trong tinh thần hòa giải, yêu thương, phục vụ quên mình. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh mà Đức Giêsu trao ban các môn đệ khi Ngài nói: “ Vào nhà nào trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này”. Hiện diện với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông, tha thứ, đó là sự ra đi đích thực của nhà truyền giáo.
Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Điều đó có nghĩa là Giáo Hội phải thể hiện ý muốn của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo, nước của công lý, nước của hòa bình, nước của yêu thương, nước đó phải được tìm thấy trong Giáo Hội của Đức Kitô. Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu chúng ta tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó cũng có nghĩa là những giá trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống của chúng ta.
Người tín hữu Kitô sẽ chỉ là người có tên gọi, có danh nghĩa mà không có thực chất nếu cuộc sống của họ chưa thực sự là một chứng nhân của Nước Trời. Trong một xã hội nếu chỉ có những lời lẽ rêu rao và những khẩu hiệu rỗng tuếch thì con người chưa đạt được những thực tại của Nước Trời, hơn bao giờ hết người tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn, đó là trở thành những điểm tựa đáng tin cậy, những chứng từ sống động của những thực tại Nước Trời.
Chúng ta sẽ phải sống như thế nào để những người xung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ như các người Do thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải thốt lên: “ Xem kìa, họ thương nhau là dường nào”.Kitô giáo thiết yếu là một sức sống, sức sống ấy chính là Đức Giêsu Kitô, và sống đạo là sống bằng chính sức sống của Chúa Giêsu và truyền đạt sức sống ấy cho mọi người xung quanh. Chúng ta hãy xin Chúa mở rộng tâm hồn để đón nhận sức sống ấy và chia sẻ sức sống ấy với tất cả mọi người qua mọi thế hệ.
Một cơ quan thăm dò dư luận ở phương Tây vừa mới công bố một cuộc điều tra về vấn đề tín ngưỡng tại 15 nước Tây phương, trong đó có Mỹ và Nhật Bản. Kết quả cho thấy Mỹ là nước mà dân chúng mê tín nhất và tin vào Chúa nhiều nhất. Khi hỏi “có tin ở Thượng đế không ?” thì 95% người Mỹ trả lời “có”, còn ở Châu Âu là 75% và Nhật Bản là 39%. Cuộc điều tra còn cho thấy phụ nữ tin vào Chúa và ma quỉ nhiều hơn nam giới.
Như thế thì bi quan hay lạc quan ? nếu nhìn tổng thể và sâu rộng hơn thì một người Kitô hữu thức thời, có tinh thần trách nhiệm cao, chắc chắn không thể lạc quan về tình hình đạo công giáo trên thế giới ngày nay. Với nhận xét này, chúng ta suy nghĩ thế nào về những gì Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay ?
Vẫn biết rằng, khi xuống thế làm người, một phần nào đó, Chúa Giêsu bị hạn chết trong không gian và thời gian, nhưng quyền năng của một Ngôi Vị Thiên Chúa nơi Ngài đâu có bị giảm sút. Thế mà, thay vì sống trăm tuổi hay trường thọ hơn nữa để có đủ thời giờ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân thì Ngài lại chỉ sống có 33 năm và dành vỏn vẹn có 3 năm để đi giảng đạo. Thêm vào đó, Ngài còn nhớ đến mấy ông quê mùa, dốt nát phụ giúp công việc truyền đạo khi chọn 12 tông đồ và 72 môn đệ. Kết quả là sau 20 thế kỷ, nhân loại nay đã trên 6 tỷ người mà mà chỉ có 1 tỷ rưỡi Kitô hữu. Tại sao Chúa Giêsu không dùng quyền phép bắt nhân loại theo đạo cả mà phải nhờ đến con người phụ giúp và còn dạy phải xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt truyền giáo ?
Trước hết, vì hành động với con người nên Chúa phải sử dụng đường lối và phương pháp phù hợp với con người. Nghĩa là với quyển năng Chúa có thể hành động theo cách thức của Ngài, nhưng Ngài không làm vì con người còn phải chịu lệ thuộc vào những điều kiện có giới hạn, đang sinh sống trong một xã hội trần thế lắm ràng buộc, đầy thiếu sót.
Thứ đến, Chúa muốn những kẻ tin theo Ngài phải là những con người có tự do dân chủ, những thợ gặt tình nguyện, chứ không phải là những tên nô lệ hay tù nhân. Do đó, Nước Chúa hay Giáo Hội của Ngài phải là một tập thể bao gồm những phần tử biết làm chủ lấy đời mình để có thể tin tưởng, yêu mến hết tình, chứ không tập hợp những kẻ sợ sệt hay những cái máy vô hồn được điều khiển.
Cuối cùng, Chúa muốn mọi tín hữu phải thâm tín rằng việc rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa là công việc của con người, chứ không phải để mặc Chúa lo toan, định liệu cả. Vì thế, khi Chúa Giêsu bảo chúng ta xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, điều đó chứng tỏ Chúa muốn trao cho chúng ta trách nhiệm là phải lo lấy phần rỗi của mình và của anh em nữa.
Nếu mỗi người chúng ta đều hiểu thông suốt được như thế thì chúng ta phải hết sức cảm ơn Chúa vì Ngài dành cho chúng ta cái vinh dự lớn lao là được cộng tác với Ngài trong công cuộc cứu nhân độ thế. Và nếu ¾ nhân loại ngày nay chưa nhận biết Chúa thì lỗi đó không phải do Chúa kém quyền năng, mà là do mỗi người công giáo chúng ta thiếu trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa trong việc mở mang Nước Chúa, từ chối vinh dự làm con hiếu thảo biết tha thiết đến việc của Cha trên trời. Như thế, sứ mạng truyền giáo là một sứ mạng quan trọng và cấp bách. Cho nên, sứ giả của Chúa phải mau mắn đem Tin mừng đến tận tay người nhận sớm hết sức có thể, không được để vương vãi hay trì trệ dọc đường vì ham việc trần thế hơn việc cứu rỗi anh em.
Nói khác đi, người làm việc tông đồ là phải vội. Vội vì Chúa, vội vì phần rỗi của anh em, vội vì thời giờ Chúa ban cho mỗi người quá ngắn ngủi và vô cùng quí giá. Sự nôn nóng này của kẻ làm con Chúa biểu lộ một cuộc tranh đấu quyết liệt với tà thần để cứu cho được các linh hồn về cho Chúa. Do đó, người rao giảng Tin mừng không thể hành động như kiểu của những kẻ ăn không ngồi rồi, của những viên chức ngoại giao viếng thăm rườm rà, của những kẻ trà dư tửu hậu. Trái lại Chúa muốn con cái của Ngài phải nhanh tay lẹ mắt trong công việc cứu rỗi thiêng liêng như con cái thế gian hăng say mưu cầu lợi ích, chớp thời cơ làm giàu cho mình. Cuộc sống, việc làm, mơ ước, tình yêu, giải trí tất cả đang bủa vây chúng ta khiến chúng ta càng ngày càng sao lãng, quên mất phần rỗi của mình và của anh em. Hãy nhớ rằng phần rỗi của ta gắn liền với phần rỗi của anh em. Nếu ta không lo lắng cứu vớt người khác thì chẳng có ai thương tình cứu giúp ta cả.
Theo kinh nghiệm của các linh mục hướng dẫn anh chị em dự tòng cho biết: Ngoài lý do trở lại đạo vì hôn nhân, có rất nhiều người khác đã trở lại vì một người bạn công giáo tốt, hoặc vì thấy lối sống của một người công giáo nào đó đã làm cho họ phải suy nghĩ và trở lại.
Như vậy, ngoài ơn Chúa ra thì bước đầu trở lại của người ngoài công giáo thường là do tác động của người giáo dân chứ không phải của Giám mục hay Linh mục. Điều này dễ hiểu bởi vì: do bị giới hạn trong một nơi chốn và công việc, các Giám mục, linh mục không có dịp và không có điều kiện để đến với mọi người trong các môi trường. Trong khi đó, vì cuộc sống, người giáo dân có thể có mặt khắp nơi và có thể tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội. Do đó, chính người giáo dân mới là người đầu tiên giới thiệu Đức Kitô cho anh chị em của mình. Bài Tin mừng hôm nay nói đến vai trò ấy của người giáo dân.
Thánh Luca không chỉ nói đến nhóm 12 tông đồ, nhưng còn kể đến con số 72 môn đệ, con số biểu tượng nói lên ý nghĩa toàn thể dân Chúa đều có trách nhiệm truyền giáo. Và bất cứ thánh lễ nào cũng được kết thúc bằng lệnh truyền: hãy đi gieo rắc bình an.
Vấn đề cần suy nghĩ là: Sự hiện diện của chúng ta, nhưng người giáo dân trong các môi trường có phải là sự hiện diện của người môn đệ Chúa, của người được sai đi rao giảng Tin mừng không ? Và mỗi người chúng ta có ý thức rằng mình cũng là người được Chúa sai đi làm chứng cho Người hay không ?
Có thể có những anh chị em nghĩ rằng: chỉ vật lộn với cuộc sống cơm áo thôi cũng đã đủ mệt rồi còn tâm trí đâu, thời giờ đâu mà truyền giáo.
Nhưng thưa quí ông bà và anh chị em.
Việc rao giảng Tin mừng không quá khó như ta tưởng. Và dù ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể thi hành sứ mạng này được. Chẳng hạn với hoàn cảnh sống khó khăn vất của các gia đình hiện nay thì chính thái độ can đảm đón nhận cuộc sống trong niềm cậy trông và phó thác, chính sự lương thiện trong công việc làm ăn, không vì nồi cơm của mình mà đạp đổ chén cơm của của kẻ khác, không vì đồng tiền mà ta chấp nhận giết chết lương tâm, giết chết nhân phẩm của mình. Tất cả những điều ấy sẽ trở thành những lời rao giảng Tin mừng có sức thuyết phục người khác mãnh liệt hơn những bài giảng hùng hồn của các linh mục ở trong nhà thờ.
Chỉ có điều là chúng ta có muốn và có dám biến đời mình thành một lời rao giảng Tin mừng hay không mà thôi ?
Thánh Phanxicô Xaviê hồi còn là sinh viên ở trường đại học Paris, đã nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài là một nhà truyền giáo ở Ấn Độ. Một trong những lá thư của Ngài từ Ấn Độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư: “ Nơi đây, nhiều người không trở nên Kitô hữu được, chỉ vì lý do là không có ai sẵn sàng đảm nhận việc dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường ở Châu Âu và kêu gọi những người thợ đến thu hoạch mùa ở Ấn Độ”.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Chúa sai đi từng nhóm hai người, nghĩa là như một cộng đoàn làm việc chung với nhau. Con số bảy mươi hai nhắn đến chi tiết nơi chương 10 sách sáng thế, ám chỉ tất cả các dân nước trên mặt đất. Những lời dặn dò của Chúa thật củ thể. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực thi chỉ thị truyền giáo là điều quan trọng hơn. Thời đại thay đổi, những hành động cụ thể của mỗi người cũng thay đổi, nhưng tinh thần hành động Chúa Giêsu đề cho các môn đệ không hề thay đổi.
Những câu đầu của Tin mừng hôm nay: “ Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít ! Anh em hãy ra đi” nhắc nhở chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo, đó là nhận thức nhu cầu của những người chung quanh, đưa nhu cầu đó vào lời cầu nguyện và sẵn sàng để được Chúa sai đi thi hành sứ mệnh.
Ước gì đó cũng là tâm tình của chúng ta khi ý thức về sứ mệnh truyền giáo: “ Lạy Chúa, này con đây. Chúa muốn con làm gì, xin hãy phán, con xin lắng nghe”
Đời nhà Tống có một vị quan tên là Nhiêu Thư rất tài bắn cung. Một hôm có ông lão bán dầu đi qua thấy Nhiêu Thư đang bắn, liền đứng lại xem. Thấy Nhiêu Thư bắn mười phát trúng hất chín, thì gật gù và mỉm cười. Nhiêu Thư hỏi ông lão: “ Nhà ngươi cũng biết bắn cung sao ? Ta bắn chưa được giỏi phải không ?”
Ông lão đáp: “ Không thể gọi là gỏi, chẳng qua là quen tay thôi.”
Nhiêu Thư lại hỏi: “ Nhà ngươi dám khinh ta không bắn giỏi sao ?”
Ông lão bình tĩnh trả lời: “ Cứ xem tôi rót dầu thì biết”.
Nói xong, ông lão lấy một cái bầu đặt xuống đất, với đồng tiền có lỗ đặt nơi miệng bầu, ông dùng một cái môi, từ từ rót dầu qua đồng tiền, rót hết cả bình bầu mà chẳng vương tí dầu nào ra ngoài. Thế rồi ông nói: “ Tôi cũng chẳng tài giỏi gì, chỉ là quen tay thôi”.
Thành công là một liều thuốn bổ, vì giúp con người phấn khởi để tiếp tục công việc. Tuy nhiên, thành công cũng có thể là liều thuốc độc, vì đẩy con người đến chỗ kiêu kăng tự mãn.
Tin mừng hôm nay cũng nói đến sự thành công của bảy mươi hai môn đệ. Thật thế, công cuộc truyền giáo của các ông đạt được nhiều thành quả: chẳng những lời rao giảng của các ông đạt được đón nhận mà các ông còn thắng được cả quyền lực Satan. Bởi thế, chẳng lạ gì khi các ông trở về với tâm trạng vui mừng và hãnh diện. Sự thành công đó khích lệ các ông vững bước theo Chúa hơn, nhưng cũng có thể đưa các ông đến chỗ tự mãn mà quên rằng tất cả đều có bàn tay Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ: “ Các con chớ vui mừng vì ma quỉ phải khuất phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi ở trên trời”. Tên đã được ghi ở trên trời cũng có nghĩa là đã thuộc vào hàng ngũ Thiên Chúa, nhờ đó được nghe những điều các Tiên tri và vua chúa hằng ao ước được nghe mà không được.
Tuy nhiên, danh phận làm con cũng đòi buộc người môn đệ khiêm nhường chấp nhận những gì họ làm được đều do quyền năng của Thiên Chúa, và nếu có vui mừng, thì hãy vui mừng vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn mà thôi.
Ước gì đó cũng là tâm tình của chúng ta khi gặp thành công, và ngay cả khi gặp thất bại, để trong mọi sự, chúng ta luôn biết qui hướng về Chúa là niềm vui hạnh phúc đích thực của chúng ta.
Tôi quen biết một tử tội sắp bị hành quyết, người mẹ đã thôi thăm viếng. Từ niên thiếu anh ta: TN 14-C24
Tôi quen biết một tử tội sắp bị hành quyết, người mẹ đã thôi thăm viếng. Từ niên thiếu anh ta chẳng có ích chi cho gia đình ngoài những đau buồn. Anh ta đã từng vào tù ra khám nhiều lần, sống hoàn toàn ích kỉ, mọi người xa lánh dần, cuối cùng chỉ còn người mẹ theo đuổi. Anh quá hư hỏng, xì ke ma tuý, trộm cắp, lập bè kéo đảng và chơi bời. Một lần anh ta đích thân giết người, cướp của, bị bắt quả tang, lãnh án tử hình. Bố anh ta cũng là người tàn bạo, bỏ nhà ra đi biệt tăm lúc anh mới mười tuổi. Nhiều năm trời bà mẹ một mình thăm nuôi con. Bà phải lặn lội quãng đường vài chục cây số để đến nhà tù hàng tháng. Bà chẳng giàu có chi, lâu ngày cạn kiệt kinh tế.
Tuy nhiên bà vẫn cố gắng sống trọn tình làm mẹ, đều đều tiếp tế và đưa những tin tức về gia đình, thân nhân, xóm làng. Bà muốn trực tiếp kể cho con nghe chứ không qua thư từ, người đưa tin hay các nhân viên khám đường. Cho nên khi nghe nói bà thôi thăm viếng, tôi hiểu ngay tai hoạ khủng khiếp sắp đổ xuống thân phận anh. Bởi lẽ các bà mẹ là kẻ cuối cùng thất vọng về con. Tôi cũng nhận ra rằng mọi liên hệ khác với gia đình qua bà mẹ cũng đã chấm dứt. Chẳng còn tin tức gì từ thế giới bên ngoài, và cũng chẳng ai được biết cuộc sống của anh trong nhà giam nữa. Có chăng chỉ vài tờ báo cũ hoặc từ chiếc TV nhỏ trắng đen của nhà tù. Do kinh nghiệm nhiều năm làm tuyên uý, tôi biết các bà mẹ luôn gắn bó với con, dù nó có phạm tội. Các bà luôn ở bên con những lúc khó khăn nhất, để an ủi, chăm sóc, đến nỗi người ngoài mất kiên nhẫn giùm, nói: “Bỏ quách đi cho rồi! Đeo đẳng mãi làm chi cho khổ”. Nhưng thực tế chẳng bà mẹ nào làm điều đó. Tôi hy vọng mình không quá lạc quan về các bà, nhưng điều phải công nhận là tình yêu của họ dành cho con thật mãnh liệt và độc đáo.
Dân tộc Israel luôn lâm vào vòng khốn quẫn. Họ là một quốc gia nhỏ bé, vây quanh bởi các đế quốc thù địch. Nhiều lần họ đã bại trận, bị tàn phá và bị bắt đi lưu đày, làm tôi thiên hạ. Họ cần sức mạnh và quyền lực để khôi phục. Cho nên họ quan niệm Thiên Chúa, Đấng bảo vệ họ, thuộc phái nam. Đúng là một ước mơ hợp lý. Bởi lẽ phái nam có nhiều sức mạnh. Đức tính cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Dân tộc nào cũng cần đến đức tính đó, cho nên dân Israel luôn quan niệm Thiên Chúa là Cha để bảo đảm hạnh phúc cho mình. Còn thực tế thì Thượng Đế vô hình đâu thuộc phái nào?
Dầu vậy, trong bài đọc một hôm nay, tiên tri Isaia lại so sánh Thiên Chúa với người mẹ: “Các ngươi sẽ được nuôi nấng bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông và nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền yên ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”. Đối với những tù nhân, việc mô tả Thiên Chúa như người cha không giúp đỡ được mấy. Người cha thường nghiêm khắc, hay đánh đòn, hay trừng phạt con và làm cho chúng sợ hãi. Nhà tù chính là hình ảnh người cha mà các con thường có trong đầu óc. Duy chỉ có người cha yêu thương theo lời Chúa Giêsu mới có thể mang lại an ủi cho những linh hồn cần giúp đỡ, mở rộng tầm nhìn của chúng ta khi cầu nguyện. Ngoài ra, nếu nhấn mạnh nam tính nơi Đức Chúa Trời như trong Cựu ước, có thể gây thiệt hại cho lòng đạo đức của tín hữu. Bởi nó giới hạn quan niệm của chúng ta về Thiên Chúa. Thực ra Thiên Chúa là một mầu nhiệm không ai hiểu thấu, không một biểu tượng nào có thể diễn tả đầy đủ về Ngài. Trong cơn khốn cùng, dân Israel cần một sự tái sinh, cần một nền tự do độc lập, tiên tri Isaia đã đưa ra hình ảnh một phụ nữ đau đớn sinh con, ngõ hầu nói lên Thiên Chúa đang hành động như vậy để cứu vớt tuyển dân. Điều này thật cảm động, cho biết Thiên Chúa yêu mến dân Do Thái biết ngần nào. Đất nước của Isaia phải nhìn vào hình ảnh này để sửa chữa lỗi lầm, từ bỏ tà thần, phản bội và bắt đầu một cuộc sống mới tự do, trung tín. Đây cũng là bài học lớn cho các tín hữu ngày nay. Với lòng yêu thương nhất mực, Thiên Chúa cũng muốn giải cứu chúng ta khỏi mọi ràng buộc, tù túng và câu lệ vô lý. Chúng ta phải được tự do tiếp cận Thiên Chúa trong chân lý và lẽ phải. Thờ phượng Ngài với cương vị một người con chứ không phải nô lệ. Mọi ràng buộc bởi tội lỗi phải bị phá bỏ, Thiên Chúa của Isaia hôm nay không cao sang và trừu tượng, nhưng là một bà mẹ dễ gần gũi. Bà đau đớn sinh con và săn sóc hết tình yêu mến. Thiên Chúa cũng vậy đối với dân tộc Israel và với chúng ta, Ngài không thể lãnh đạm hay quên lãng sau ngần ấy vất vả? Quan niệm Thiên Chúa là một bà mẹ gây nên nhiều an ủi cho các linh hồn đau khổ vì những gian truân cuộc đời.
Bài đọc 2 nói rõ hơn công lao giải cứu của Thiên Chúa qua Đức Kitô Giêsu. Sau nhiều kinh nghiệm, thánh Phaolô kêu lên: “Thưa anh em, ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì nữa ngoài thập giá Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” Thiên Chúa đã cho Phaolô cảm nghiệm cuộc đời của ông vô tích sự nếu không nhờ thập giá. Nó mang lại bình an, hạnh phúc và tin tưởng cho ông: “Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới”. Như vậy đối với Phaolô điều an ủi và có giá trị duy nhất là đau khổ của Đức Giêsu, qua đó Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi ràng buộc tội lỗi. Cũng như người mẹ qua đớn đau mà sinh ra một người con đầy sức sống và hy vọng. Thế giới cũ bị cột chặt vào Ađam và luật Môsê. Một thế giới mới được sinh ra từ cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Như vậy Chúa Giêsu là Ađam mới và nhân loại sẽ tìm thấy nơi Ngài một dòng giống mới, đó là Hội Thánh. Cho nên mọi tín hữu phải được Hội Thánh sinh ra để có sự sống mới và phải hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Giêsu. Nơi các tín hữu, con người cũ phải bị loại bỏ để mặc lấy Đức Kitô. Từ “mặc” ở đây mang nhiều ý nghĩa, trước hết là công nghiệp của Ngài. Chúng ta mặc lấy công nghiệp của Chúa Giêsu để nên công chính. Điều này tự thân chúng ta không làm được, nhưng phải nhờ Đức Kitô “mặc” cho trước tôn nhan Thiên Chúa để trở nên thánh thiện. Sau đó Ngài mặc cho tước vị làm con, ngõ hầu hưởng bình an và lòng thương xót. Cuối cùng “mặc” lấy lối sống của Ngài. Lối sống hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Vì thế, Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem để chịu thương khó (Lc 9,51), sự thương khó ấy nảy sinh bình an, ơn cứu độ cho nhân loại.
Cho nên thánh Luca, tiếp theo bài Tin Mừng tuần trước, kể lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời. Đây là đoạn Phúc Âm đặc biệt, chỉ có thánh Luca ghi lại. Chúng ta nhớ tuần trước Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ: “Hãy theo Ta”, bất chấp những khó khăn riêng tư của từng người. Tuần này, Ngài chỉ định 72 ông đi trước Ngài vào rao giảng trong các thành và làng mạc mà Ngài sẽ tới. Họ sửa soạn tinh thần dân chúng cho sứ vụ của Chúa Giêsu. Với cánh đồng thế giới mênh mông 12 tông đồ không đủ. 72 cũng còn quá ít, thợ gặt luôn luôn thiếu thốn, cho nên Chúa thôi thúc các môn đệ cầu xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt. Thực ra, thời Chúa Giêsu không thiếu nhân viên trong đền thờ Giêrusalem và trên toàn cõi đất Giuđêa; nhưng thợ gặt chính hiệu thì hiếm. Thợ gặt Nước Trời lại càng hiếm hơn. Chúa sai họ đi từng đôi để làm chứng cho sự thật và bày tỏ tình bác ái. Vì theo luật Môsê, sự thật được nói lên bởi hai nhân chứng và tình bác ái trong cộng đoàn. Họ không được miễn trừ khỏi những nguy hiểm, trái lại luôn gặp gian nan và bách hại: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
Điều kiện đầu tiên rao giảng có hiệu quả là nghèo khó: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị và giày dép”, đời sống của các nhà truyền giáo hơn hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh chân lý này; càng dùng những phương tiện giàu có càng không hiệu quả. Thánh Đaminh, thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh Têrêsa thành Calcutta là những nhà truyền giáo vĩ đại, nhưng chỉ bằng phương tiện khó nghèo. Chúng ta hô hào truyền giáo bằng xa hoa thì nhất định thất bại, bởi lẽ trong tận đáy lòng con người sự thật và nhân đức hằng tiềm ẩn, mỗi khi gặp thiên thời địa lợi là nảy mầm, sinh hoa trái. Tựa như chiếc đàn gặp người nghệ sĩ tài ba sẽ phát những âm thanh du dương. Khó nghèo, khiêm nhường gặp Lời Chúa tức thời sinh hiệu quả. Những nhà truyền giáo ưa thích giàu sang và tiện nghi không thể kiếm được linh hồn thiên hạ.
Điều kiện thứ hai là khẩn trương rao giảng Tin Mừng: “Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là dấu vết còn lại của các nhà rao giảng thời thánh Luca, các vị ưa la cà trong các hành trình giảng đạo, chọn ở lại những nơi giàu sang, phú quý và được người ta tiếp đón hẳn hoi. Còn khi gặp nơi nghèo khó thì họ vội vàng đi ngay. Thói tục này ngày nay vẫn tồn tại và nhiều khi tệ hại hơn. Trong nhiều giáo xứ, các tín hữu thường phàn nàn không được cha xứ lưu tâm lui tới, bởi họ nghèo khó không có chi để tiếp đón các ngài. Ngược lại, những nơi giàu sang thì được ưu ái hơn. Âu cũng là chuyện thường tình! Nhưng người tông đồ phải vượt qua khó khăn này thì công cuộc truyền giáo mới hy vọng kết quả. Khẩn trương rao giảng còn đòi hỏi nhiều đức tính khác như tiết kiệm thời gian, tiền bạc cho giáo dân, hy sinh tài đức vì Tin Mừng, tính khoa học trong công việc…
Điều thứ ba Chúa căn dặn là đem bình an của Ngài cho những dân tộc và linh hồn biết đón nhận. Thứ bình an này khác với an toàn thế gian. Nó tồn tại ngay cả trong gian nan thử thách hay hiểm nguy tính mạng. Các thánh đã từng kinh nghiệm và gọi nó là an bình nội tâm. Bình an của Chúa Giêsu không chi lay chuyển nổi. Bởi được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Tính bền vững của nó không hệ tại bảo đảm vật chất mà là sự trung tín của Chúa Giêsu, tức sự hiện diện của triều đại Thiên Chúa trong linh hồn mình. Những ai được hưởng bình an này luôn bày tỏ vui tươi trong cuộc sống, bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Họ làm gì cũng thành công và lôi cuốn nhiều linh hồn đến với mình. Họ như ngọn đèn cháy sáng lôi cuốn thiêu thân. Các thánh lập dòng có thể là một ví dụ. Tuy nhiên, không phải mọi người đều chấp nhận bình an của Đức Kitô. Thực tế có rất nhiều linh hồn từ chối, bởi thứ bình an này đòi hỏi nhiều điều không thích hợp với xác thịt con người. Chúa Giêsu căn dặn: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân, chúng tôi cũng xin trả lại các ông”. Nghĩa là họ đã bị kết án rồi, bởi không nghe lời Thiên Chúa.
Các môn đệ ra đi và làm đúng như Chúa Giêsu chỉ bảo. Kết quả thật lớn lao. Các ông hoan hỷ trở về thuật lại. Chúa khen các ông mà nói: “Thầy đã trông thấy Satan từ trời rơi xuống như tia chớp”. Tức thế lực địa ngục đã bị các ông đập tan. Nước Thiên Chúa bắt đầu hiển trị. Còn mơ ước nào cho việc truyền giáo đẹp đẽ hơn? Giả tỉ 72 môn đệ làm theo ý riêng thì kết quả chắc chắn không như vậy. Nhưng ngày nay chúng ta vẫn chưa học được kinh nghiệm, vẫn ưa thích huynh hoang, rùm beng.
Tóm lại, sợi chỉ đỏ xuyên suốt các bài đọc hôm nay là: Dù thế giới có bị tan nát, lưu đày như số phận của dân Do Thái và thành thánh Giêrusalem trong bài đọc 1, thì vẫn còn hy vọng. Bởi lời tiên báo cứu vớt của ngôn sứ Isaia. Lời này được thực hiện khi Chúa Giêsu sai các tông đồ và môn đệ đi rao giảng Nước Trời và bình an của Ngài. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được hạnh phúc ấy nên nói: “Thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi và tôi đối với thế gian, nhờ thánh giá Chúa Giêsu Kitô”. Mọi tín hữu cũng sẽ cảm nghiệm như thánh nhân, nếu chúng ta biết hết lòng theo Chúa không chần chừ và tháo lui. Thế giới sẽ thoát vòng kiểm toả của Satan. Thiên đàng chắc chắn thuộc về mọi linh hồn. Amen.
Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giê-su huấn luyện đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài: TN 14-C25
Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giê-su huấn luyện đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài, Tin Mừng Luca còn nói tới số 72 môn đệ được Ngài sai đi. Người ta thường ví ơn gọi của 12 môn đệ với ơn gọi tông đồ của hàng giáo phẩm và giáo sĩ, là những người thường được huấn luyện đặc biệt có trường lớp để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su. Và ví ơn gọi của 72 môn đệ với ơn gọi tông đồ của giáo dân, là những người được huấn luyện ở trình độ phổ thông để làm tông đồ.
Đấy cũng là một cách hiểu khá hợp lý. Thực ra, bất kỳ người Ki-tô hữu nào một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, đều được Đức Giê-su mời gọi tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại. Vì thế, việc cứu độ nhân loại không phải là công việc dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là nhiệm vụ của bất kỳ người Ki-tô hữu nào, dù là giáo dân, đạo gốc hay tân tòng. Bài Tin Mừng hôm nay là một dịp nhắc nhở người giáo dân nhiệm vụ tông đồ hay cứu thế của mình. Đặc biệt những Ki-tô hữu đã có từng được đào tạo để làm tông đồ trong các chủng viện hay tu viện, mà nay lại đứng trong hàng ngũ giáo dân. Những người này thường được Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt hơn những giáo dân khác.
2. Sứ mạng của Đức Giê-su còn bao nhiêu việc phải làm
Hễ nói tới câu Tin Mừng «Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về», chúng ta thường nghĩ ngay tới cánh đồng truyền giáo, làm như Giáo Hội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là truyền giáo. Thực ra, Đức Giê-su đến là để cứu chuộc nhân loại, mà trong đó việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng chỉ là một phần, và chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cứu thế của Đức Giê-su. Nhiều khi người Ki-tô hữu quá quan tâm đến phương tiện này mà quên đi mục đích của nó, nghĩa là lấy chính việc loan báo Tin Mừng làm mục đích của việc tông đồ. Mục đích của Giáo Hội cũng như của Đức Giê-su không phải là loan báo Tin Mừng, mà là cứu nhân loại, không chỉ đời sau mà còn cả đời này nữa. Cứu nhân loại là làm cho nhân loại hay con người thoát khổ và hạnh phúc hơn. Loan báo Tin Mừng chỉ một trong những phương tiện phải làm để đạt được mục đích cứu độ đó.
Ý thức lại vấn đề như vậy, chúng ta thử tự hỏi: chúng ta đã quan tâm tới vấn đề cứu độ con người như Đức Giê-su chưa? Một cách cụ thể, chúng ta đã làm gì để những người chung quanh ta bớt đau khổ và hạnh phúc hơn? Sự hiện diện của ta, với tư cách người Ki-tô hữu hay tập thể Ki-tô hữu, có làm cho gia đình ta, những người chung quanh ta, xã hội ta đang sống bớt khổ đau và hạnh phúc hơn không?
Thế giới và xã hội con người hiện nay còn biết bao tội lỗi, đau khổ, bất công. Sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su chưa thực hiện được bao nhiêu, và còn biết bao việc phải làm. Nhưng có được bao người muốn dấn thân tiếp nối sứ mạng của Ngài? Việc thì nhiều mà nhân sự thì ít. Người Ki-tô hữu, dù là giáo dân hay giáo sĩ, có nghe thấy lời mời gọi tha thiết của Ngài không? Và nếu muốn tiếp tục sứ mạng của Ngài, chúng ta phải làm gì?
3. Trình tự những việc phải làm của người môn đệ Đức Giê-su
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sai 72 môn đệ đi. Hãy coi lại xem Ngài truyền bảo họ những gì. Có những điều chính yếu được xếp theo trình tự thời gian mà cũng có thể là theo thứ tự quan trọng như sau:
1. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép»: ý nói đừng quá lo toan về những nhu cầu vật chất, mà hãy chú tâm vào sứ mạng của mình. Việc này được đề cập đến đầu tiên, ắt nhiên là một điều rất quan trọng. Muốn cứu rỗi người khác mà lại quan tâm đến những nhu cầu vật chất của mình, vốn đòi hỏi rất nhiều tâm trí và năng lực của mình, thì còn đâu tâm trí và năng lực để cứu rỗi người khác?
2. «Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường»: ý nói sứ mạng khẩn cấp, cần tập trung thì giờ và năng lực vào sứ mạng của mình. Ngoài nhu cầu vật chất, còn những nhu cầu cá nhân khác, cũng cần phải dẹp bớt để tập trung thì giờ và năng lực vào việc cứu rỗi con người.
3. «Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”»: ý nói phải quan tâm tới sự bình an, thoải mái cho người mình gặp. Sự bình an, không phải sống trong lo âu, sợ sệt… về tinh thần cũng như thể chất là điều mà người môn đệ Chúa cần phải quan tâm thực hiện đầu tiên cho mọi người mình được sai đến. Đây là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của mọi người sống trong trần thế.
4. «Hãy chữa những người đau yếu trong thành»: ý nói hãy quan tâm đến đau khổ và hạnh phúc của mọi người, và cứu giúp họ trong khả năng của mình. Người môn đệ của Chúa cần phải quan tâm đến những nhu cầu hết sức cụ thể của con người. Phải cảm thông với niềm vui nỗi buồn, với hạnh phúc và đau khổ của mọi người, đồng thời phải cứu khổ và tạo điều kiện hạnh phúc cho họ một cách hữu hiệu.
5. Và sau cùng mới là «nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”»: ý nói là phải loan báo Tin Mừng cho họ, tức nói với họ về Thiên Chúa, về nhu cầu tâm linh, về những gì thiêng liêng.
Ta thấy trình tự trên thật là hợp lý. Người chung quanh ta có được ta quan tâm tạo bình yên và thoải mái cho họ, thì họ mới dám đặt niềm tin tưởng vào ta, và mới có điều kiện thoải mái để nghe ta nói những chuyện xem ra có vẻ ít thực tế hơn đối với đời sống của họ. Thế mà rất nhiều khi người Ki-tô hữu lại làm ngược lại trình tự mà Đức Giê-su đã đề nghị. Chúng ta lo loan báo Tin Mừng trước, và coi những việc đáng quan tâm hàng đầu kia vào hàng thứ yếu. Chính vì thế mà việc loan báo Tin Mừng của chúng ta trở thành thiếu thực tế, kém hữu hiệu, nên không được đón nhận bao nhiêu từ nhiều thập kỷ nay tại Châu Á. Do đó, chúng ta cần phải sửa lại quan niệm về cách làm tông đồ của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Công Đồng Vatican II nhắc nhở người Ki-tô hữu phải nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường mình sống nên tốt đẹp hơn một cách hữu hiệu. Xin giúp con xét lại xem sự hiện diện của con đã biến cải môi trường con sống tới mức độ nào? Có làm cho những nơi mà con hiện diện tốt đẹp và hạnh phúc hơn không? Xin cho con biết quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trước đã, trước khi loan báo nó ra để người khác cùng sống theo. Xin giúp con biết yêu thương để quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người chung quanh con, và biến con trở nên một đấng cứu thế nho nhỏ trong môi trường nhỏ bé con đang sống, là gia đình con, là môi trường nghề nghiệp của con, khu xóm của con, v.v… Amen.
Đọc qua đoạn Kinh thánh trên đây không ít người cảm thấy dường như Lời Chúa chẳng dính dấp gì đến cuộc sống của mình. Những lời nhắn nhủ “đừng mang gì đi đường, không mang bánh mang bị, không mang tiền mang dép” có lẽ chỉ dành riêng cho các môn đệ Đức Kitô trước khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thế nên có thích hợp hay chăng chỉ là thích hợp cho các nhà thừa sai truyền giáo, chứ như dân thường thì e lệnh truyền trên đây không có một chút ý nghĩa nào !
Cũng có người thắc mắc: “Tại sao khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không nghĩ rằng nếu không được đón tiếp thì họ sẽ lấy của gì để ăn, lấy nhà đâu để ở? Thế nên cần phải có chút ít tiền để phòng thân chứ. Rồi nếu như phải ngủ bờ ngủ bụi, mà có chiếc áo che thân thì tốt biết mấy. Tại sao Đức Giêsu lại bảo đừng mang tiền, mang bị, hay mang bánh, mang áo? Tại sao Chúa không phòng xa để giải quyết những trường hợp bất ngờ?”
Nhưng đâu phải Chúa Giêsu không biết nghĩ xa. Ngài dư biết sẽ có thành đón tiếp và cũng có thành chối từ. Chính Ngài đã từng căn dặn thành nào không đón tiếp thì hãy rũ bụi chân lại để tố các chúng đã hẹp lòng và bất cập với Tin Mừng đấy chứ.
Chúa Giêsu biết sẽ có những người đóng cửa lòng, không đón nhận các môn đệ của Ngài. Nhưng ý tưởng chính toát lên từ lời căn dặn của Chúa Giêsu chính là sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời – sứ mạng đưa bình an đến cho các xóm làng – là một điều cấp bách. Đây là việc chung mà cộng đoàn các tông đồ phải khẩn trương thi hành chứ không được chậm trễ vì lỉnh kỉnh các vật dụng cá nhân.
Nói cách khác, ý của Chúa Giêsu là các môn đệ phải biết đặt sự nghiệp chung, lợi ích của Nước Trời trên bao bị, giầy dép, tiền bạc, áo xống. Việc rao giảng Tin mừng phải là công tác quan trọng, cần thiết và cấp bách hơn tất cả mọi lợi ích riêng tư.
Sống trong một tập thể hay cộng đoàn, nếu người ta chỉ biết đòi hỏi được đáp ứng các nhu cầu hay lợi ích cá nhân, tập thể hay cộng đoàn đó sẽ bị tổn thương nếu không muốn nói là có nguy cơ sụp đổ. Người hay đòi hỏi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tìm được niềm vui và hạnh phúc chân thật.
Kẻ gặp được niềm vui và hạnh phúc trong một cộng đoàn không phải là người được cộng đoàn dành cho nhiều ưu đãi, lợi lộc, hay địa vị, song là người biết sống dấn thân với cộng đoàn và cho cộng đoàn.
Người biết nghĩ đến ích chung, tha thiết với việc công sẽ là người đáng được tôn trọng và dễ dàng hoà hợp với tha nhân. Trái lại kẻ chỉ tìm ích riêng sẽ gây nên tình cảnh “khó sống” cho mọi người chung quanh. Họ không thể là môn đệ đích thật của Đức Kitô. Bởi vì người môn đệ đích thật sẽ không cứ lo tìm kiếm, bao bọc, chở che cho sự sống riêng mình, nhưng là dám đánh mất sự sống mình vì Nước Trời và vì tha nhân.
Người ta kể trong thời Chiến Quốc, khi quân nước Tề sang đánh nước Lỗ, lúc đến chỗ biên giới, bỗng thấy một người đàn bà, tay bồng một đứa bé, tay kia đang dắt đứa khác lớn hơn. Thấy quân giặc kéo tới, bà ta vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống và bồng đứa bé kia lên, rồi chạy trốn vào núi.
Viên tướng nước Tề thấy lạ bèn cho lính đuổi theo bắt lại và hỏi: “Tại sao bà lại ẳm thằng lớn mà bỏ thằng nhỏ?” Người đàn bà thưa: “Đức nhỏ là con tôi, còn đứa lớn là con anh tôi. Vì quân lính kéo tới nhanh quá, lượng sức không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại.”
Tướng nước Tề ngạc nhiên: “Con với mẹ là tình máu mủ ruột thịt rất gần. Nay bỏ con mình thì như cắt ruột mà cứu lấy con anh thì nghĩa là sao?” Người đàn bà trả lời: “Con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì biết tính làm sao. Tôi không thể nào sống mà chịu mang tiếng vô nghĩa giữa làng giữa xóm được.
Viên tướng nước Tề vội cho dừng quân lại và sai người về tâu với vua: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Vì quân ta vừa mới đến chỗ biên cương đã thấy con mụ đàn bà nơi xó rừng còn biết đặt tình riêng trên nghĩa công , thì huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Nên xin vua cho rút quân về.”
Vua Tề cho là đúng và đồng ý lui quân.
Thế đó, một quốc gia, một cộng đoàn hay một gia đình sẽ rất vững chắc khi có những con người biết nghĩa đến kẻ khác, dám hy sinh quyền lợi riêng tư cho sứ mạnh và sự nghiệp chung. Không một sức mạnh nào của kẻ thù mà lại không chùn bước trước sức mạnh của đoàn kết yêu thương.
Hình ảnh của người mẹ bỏ rơi đứa con mang nặng đẻ đau của mình để cứu đứa con của người anh nhắc tôi về hình ảnh của một người Cha “bỏ rơi” người Con yêu dấu của mình để cứu vớt kẻ khác: Hình ảnh của một Thiên Cbúa đã dứt lòng hy sinh mạng Con, đến nỗi người Con đó phải thốt lên trong đau đớn tột cùng: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con,” một tiếng kêu xé lòng Cha. Nhưng chính nhờ sự hy sinh đó mà nhân loại đã được ơn giải thoát.
Thiên Chúa đã dâng hiến chính tình yêu giữa Cha và Con vì sự sống và hạnh phúc chung của toàn nhân loại. Thiết tưởng không có một tình yêu hay sự hy sinh nào lớn hơn tình yêu và hy sinh của Thiên Chúa.
Và tình yêu mời gọi đáp trả tình yêu. Thiên Chúa gọi mời bạn và tôi đáp trả tình yêu bằng cách sống như Ngài trong sự hiến dâng chính mình cho lợi ích của tha nhân và cộng đoàn.
Cách cụ thể, ta hãy cùng tự vấn: “Tôi có vì nghĩa công mà hy sinh ích riêng chưa? Tôi đã làm được gì cho giáo xứ? Tôi sẽ làm những gì cho cộng đoàn ? Tôi đã dấn thân cho ích lợi của đất nước và dân tộc chưa?
Trả lời bằng những quyết tâm chân thành là ta đang trở nên những người môn đệ chân chính của Đức Kitô rồi đó.
Vào mồng 8 tháng Bảy, Giáo Hội cử hành Chúa Nhật XIV Thường Niên, Phúc Âm của thánh lễ này được trích từ sách Luca chương 10:1-12; 17-20, là trình thuật việc Đức Yêsu sai 72 môn đồ Ngài đi giảng Tin Mừng Nước Trời.
Chúng ta thấy Đức Yêsu đã tuyển chọn và kêu gọi 12 người theo Ngài tiên khởi mà các tác giả Phúc Âm gọi là các Tông Đồ (Apostles). Các vị này là đại diện cho 12 chi họ, hay chi tộc Nhà Israel. Về sau, một trong 12 vị này là Yuđa Iscariốt đã phản bội Thầy, nộp Thầy cho "quân dữ" để lấy một số tiền nhỏ, rồi thay vì ăn năn sám hối như đồng bạn mình là Phêrô, đương sự đã đi treo cổ tự tử thảm thương. Ông Mathias đã được Nhóm Mười Một bầu chọn nhằm lấp vào chỗ trống này.
Ngoài ra Nhóm Mười Hai, Đức Yêsu đã thành lập nhóm đông đảo các môn đồ, hay môn đệ (disciples), chắc hẳn bao gồm cả các phụ nữ đạo hạnh, tốt lành...
Lời Đức Yêsu nói: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về", chúng ta không nên hiểu theo nghĩa hẹp rằng Ngài muốn chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội có thêm nhiều linh mục! Quả thực Ngài muốn điều này, nhưng ý định của Ngài không chỉ giới hạn vào ơn gọi đó.
Mỗi người Công giáo đều có một ơn gọi từ Thiên Chúa – ơn gọi trở nên "thợ gặt" cho đồng lúa đã chín vàng của Vị Chủ Mùa. Công Đồng Vaticanô đệ nhị đã mời gọi mọi tín hữu tham dự cách đầy đủ, trọn vẹn, và tích cực vào phụng vụ và sứ mệnh của Hội Thánh. Đó là một ơn gọi. Trước Công Đồng Chung quan trọng này, trong Thánh Lễ, linh mục cử hành làm mọi động tác, đọc mọi lời cầu, chỉ chú giúp lễ mới được thưa lại đôi lần bằng tiếng La-tinh mà chú bé bỏng ấy chẳng hề hiểu ý nghĩa, còn giáo dân thì phải giữ im lặng hoàn toàn. Duy một mình linh mục đọc kinh "Lạy Cha CHÚNG TÔI ở trên trời", giáo dân không được phép đọc "Lạy Cha CHÚNG TÔI..." Bây giờ, các Kitô hữu không còn hiện diện trong các buổi phụng tự một cách thụ động, như thể cái xác vô hồn, bất động, "chầu rìa" nữa.
Người giáo dân tham dự tích cực Thánh Lễ Misa, tức Thánh Lễ Bàn Thờ; tuy nhiên việc tham dự ấy sẽ không trọn đủ cho tới khi họ tham dự Thánh Lễ Cuộc Đời, tức tham gia vào sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội trong cuộc sống thường nhật của mình.
Chức linh mục được truyền phép là cốt yếu cho Hội Thánh. Điều ấy không thể đổi thay. Nhưng Thánh Linh qua Công Đồng nay mời gọi mọi người Công giáo trở nên các thành viên có trách nhiệm của Giáo Hội. Không còn chuyện để cho linh mục "độc diễn", làm mọi sự một mình. Không còn chuyện các tín hữu sợ hãi bày tỏ lòng tin của mình nơi công sở hay ở bất cứ chỗ nào khác. Giáo dân lãnh nhận sứ mệnh rao giảng Phúc Âm Chúa Kitô, qua các lãnh vực truyền thông đại chúng, như báo chí, phát thanh, hay hướng dẫn các buổi cầu nguyện cho các nhóm sống đức tin cơ bản tại cộng đoàn, tại nhà v.v...
Sự thật là hết thảy chúng ta đều được kêu gọi, đặc biệt qua Bí tích Thêm Sức, trở nên những tín hữu Công giáo tích cực, nhập cuộc, trách nhiệm và dấn thân.
Cuộc sống con người trên trần gian không gì quý hơn sự bình an: nội giới cũng như ngoại giới: TN 14-C28
Cuộc sống con người trên trần gian không gì quý hơn sự bình an: nội giới cũng như ngoại giới, cá nhân cũng như xã hội. Có lắm tiền nhiều của nhưng thiếu bình an cũng chẳng sung sướng gì! Có tình song không có bình an cũng chỉ là đau khổ ê chề! Có quyền cao chức trọng mà chẳng có bình an thì cũng không có hạnh phúc.
Khi Chúa Hài nhi giáng sinh tại Bêlem, ca đoàn Thiên sứ đồng ca chúc: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. (Lc 2:14)
Sau khi Phục sinh, mỗi lần hiện ra với các tông đồ Đức Chúa Giêsu đều chào chúc: “Bình an cho các con!”. Và trước khi về trời, Chúa còn hứa: “Thầy để lại cho chúng con sự bình an mà thế gian không ban được”.
Đó là chính chủ đề của phần ngôn lễ hôm nay mà hội thánh muốn nhắc lòng chúng ta hướng đến: nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã diễn ta một cảnh thái bình thịnh trị tuyệt vời Chúa tuôn đổ xuống thành Giêrusalem bằng những hình ảnh thật đẹp như: giòng sông, thác lũ, bú sữa... người mẹ nâng niu con thơ trên đầu gối, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và nẩy nở như hoa cỏ đồng nội và các tôi tớ Chúa sẽ nhận biết bàn tay của người đã thực hiện những điều kỳ diệu.
Tiếp đến bài Phúc âm, Luca thuật lại việc Chúa tuyển chọn 72 môn đệ và sai đi truyền giáo ở các thôn làng và thành thị với lời huấn dụ: “Vào nhà nào chúng con hãy cầu chúc “bình an cho nhà này”, nếu ở đó có ai đáng hưởng sự bình an, thì sự bình an sẽ ở với họ, bằng không sự bình an sẽ trở về với chúng con”.
Quý độc giả thân mến, sự bình an là một báu vật vô giá của Thiên Chúa, chính Ngài là nguồn mạch bình an. Thiên Chúa chỉ ban sự bình an cho những ai có tâm hồn trong sạch, khiêm hạ và biết tín thác vào sự quan phòng của Ngài cũng như cho những người thiện tâm xây dựng hòa bình.
Năm 1980, một tờ báo nọ có đăng một câu truyện lạ.
Một người đi chợ đậu xe trước cửa nhà hàng. Mua đồ xong trở ra xe, thì thấy một tấm giấy để trên chỗ ngồi với hàng chữ như sau:
“Thưa bác, tôi định ăn cắp xe của bác. Khi đang nổ máy, sắp trộm xe lái đi, tôi nhận thấy một tấm giấy gắn trên cửa xe, với hàng chữ: Bình an cho bạn. Tôi dùng tay lại, và suy nghĩ. Tôi lý luận rằng: Nếu tôi ăn cắp xe của bác, chắc chắn bác sẽ mất bình an. Và tôi cũng sẽ cảm thấy giao động. Nếu ăn cắp xe của bạn thì đây sẽ là lần đầu tiên tôi đi làm cái nghề này. Vậy, bình an cho bạn và bình an cho tôi. Lần sau khi đi chợ, bác nhớ khóa xe cẩn thận.
Ký tên:
Người dự tính ăn trộm
Câu chuyện lạ trên đây giúp chúng ta hiểu lời Chúa phán hôm nay trong Phúc âm: “Khi vào nhà nào, trước tiên các con hãy chúc bình an cho nhà đó. Nếu nhà nầy có con cái của sự bình an, thì sự bình an của các con chúc sẽ đậu trên người ấy, bằng không, sự bình an sẽ trở về với các con.”
Người định ăn trộm kia phải là con cái của sự bình an, là một người có tâm hồn đoan chính, nên tấm bảng: “Bình an cho bạn”, đã mang lại sự bình an cho anh ta.
Nhưng sự bình an của Đức Kitô mà Ngài dạy các môn đệ hãy chúc cho người khác, là thứ bình an nào ? Đức Kitô muốn nói gì, khi Ngài nói “Bình an cho các con?”
Thưa: Khi Kinh thánh dùng chữ bình an, thì sự bình an nầy có thể có 4 nghĩa.
Bình an theo nghĩa thứ nhứt, là nghĩa quân sự, tức là không có chiến tranh. Trên bình diện quốc gia, không có cuộc huynh đệ tương tàn. Trên bình diện quốc tế, không có việc nước nầy sát phạt nước kia. Bình an quân sự là nghĩa thứ nhứt.
Nghĩa thứ hai là nghĩa cá nhân. Khi chúng ta nói: “Hôm nay tôi cảm thấy tâm hồn thoải mái an hòa, đó là sự bình an cá nhân.
Nghĩa thứ ba là nghĩa tôn giáo. Kinh thánh dùng tiếng bình an, theo nghĩa tôn giáo nầy để chỉ một sự liên hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta. Khi nói: “Tôi được bình an với Chúa”, chúng ta chỉ sự bình an theo nghĩa thứ ba.
Sau hết, Kinh thánh dùng tiếng bình an để chỉ một trạng thái của thiên hạ trong đó mọi người được an hòa với Thiên Chúa, với những người chung quanh và với chính mình.
Đó là sự bình an của Đức Kitô. Đó là sự bình an mà Đức Kitô muốn nói khi Ngài phán:
“Thầy để lại sự bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” (Gn 14:27)
Trong thánh lễ, linh mục nhắc lại sự bình an đó trước khi rước lễ. Sự bình an nầy chính là sự thể hiện Nước Chúa trên trần gian, mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.. dưới đất cũng như trên trời”.
Đó chính là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đem đến cho mọi người trong thiên hạ đời bấy giờ. Đó là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta mang đến cho mọi người trong thiên hạ hôm nay.
Ví dụ sau đây làm cho chúng ta hiểu được sứ điệp của Chúa hôm nay hơn chăng? Khi có cơn gió lớn miền nhiệt đới thổi trên Thái Bình Dương, người ta gọi là cơn tố (Typhon), nếu là thổi trên Đại Tây Dương, người ta gọi đó cơn Bão (hurricane).
Trong một cơn bão như vậy, thì có một trung tâm. Chính giữa trung tâm đó, có một nơi mà người Mỹ gọi là con mắt của cơn bão (eye of the hurricane). Trong khi ở chung quanh, cơn bão thổi lên ầm ầm, thì vùng trung tâm, tức là vùng con mắt, hoàn toàn yên lặng. Người đứng giữa trung tâm, ngước mắt lên, sẽ thấy trời quang mây tạnh, thấy mặt trời chói sáng, cảnh vật yên tĩnh như chẳng có việc gì xảy ra.
Con mắt hay là trung tâm của cơn bão là một hình ảnh Chúa muốn mặc cho mỗi thánh lễ, chẳng hạn thánh lễ Chúa nhựt hôm nay. Trong khi thế giới chung quanh chúng ta, biết bao những cơn bão tố xảy ra. Nào là cướp bóc, nào là nổi loạn, nào là chém giết lẫn nhau... thì trong thánh lễ giờ này, chúng ta được vui hưởng sự bình an của Đức Kitô, trong tình yêu thương của những người đồng đạo, đồng cảnh đồng thuyền...
Nhưng Chúa không muốn chúng ta ở lại giữa trung tâm của cơn bão tố. Sau khi thánhlễ hoàn tất, Chúa muốn cho chúng ta dấn thân vào trong giông tố, chia sẻ sự bình an của Chúa trong gia đình, trong cộng đoàn, trong toàn thế giới.
Chúng ta hãy thưa với Chúa như lời kinh Hòa bình rằng:
“Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...
“Vào nhà nào, các con hãy chúc bình an cho nhà đó.”
Bài Phúc Am Chúa Nhật XIV Mùa Thuòng Niên Năm C hôm nay lại càng cho chúng ta thấy rõ chiều huóng của thời điểm Mùa Thuòng Niên Hậu Phục Sinh, một thời điểm Giáo Hội tuỏng nhớ Mầu Nhiệm Chúa Kitô không tỏ mình ra cho dân Do Thái, nhất là cho các tông đồ như thời điểm Hậu Giáng Sinh nữa, mà là tỏ mình ra cho chung nhân loại qua nhân chứng của mình là Giáo Hội. Đó là lý do chúng ta thấy, sau các Lễ Trọng mở màn cho Mùa Thuòng Niên Hậu Phục Sinh liên quan đến Sự Sống Thần Linh, như Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, Lễ Chúa Ba Ngôi, thực tại và là nguồn mạch sự sống, và Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bí tích sự sống, Giáo Hội đã chọn đọc những bài Phúc Am theo Thánh Luca theo chiều huóng Giáo Hội chứng nhân này.
Không phải hay sao, Chúa Nhật XII Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C hai tuần trước chúng ta đã chia sẻ bài Phúc Am về chủ đề cốt lõi của người môn đệ nhân chứng là ở niềm tin “Thày Là”, Chúa Nhật XIII tuần trước về chủ đề tinh thần của người môn đệ nhân chứng là ở thái độ “theo Thày”, và Chúa Nhật XIV hôm nay về chủ đề vai trò của người môn đệ nhân chứng là ở sứ mạng “ra đi”. Đó là lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Am theo Thánh Luca đoạn 10 hôm nay, Giáo Hội chỉ muốn nhấn mạnh đến việc truyền giáo, từ câu 1 đến câu 9, hơn là đến hậu quả và thành quả truyền giáo, từ câu 10 đến 12 và từ câu 17 đến 20, phần được để trong ngoặc không buộc phải đọc. Tuy nhiên, trong 9 câu Phúc Am chính yếu cho Chúa Nhật XIV Mùa Thuòng Niên Năm C hôm nay, chúng ta thấy một số điều Chúa Kitô nói và làm khiến người đọc hay người nghe thắc mắc không ít và muốn biết Người thực sự có ý nói gì và dạy gì? Chẳng hạn như những điều sau đây.
1. Tại sao Chúa Giêsu lại “chọn thêm 72 người nữa”, chẳng lẽ 12 vị tông đồ chưa đủ hay sao, hoặc là tại các tông đồ không đủ tài đức, chẳng hạn hai trong các vị đã đòi sát hại người ta như bài Phúc Am lần trước đề cập tới, hay có lúc các vị còn đầu óc trần tục, tỏ ra muốn phân tranh với nhau về ngôi thứ (xem Lk 9:46-48)?
Lý do tại sao Chúa Giêsu “chọn thêm 72 người nữa” đã được Người cho biết ngay câu mở đầu những gì Người muốn nhắn nhủ các vị trước khi các vị ra đi thi hành sứ vụ thừa sai của mình, đó là câu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Ngài”. “72 người nữa” này chính là nhóm thợ gặt tiên phong được sai đi gặt lúa cho chủ ruộng vậy. Ở đây, chúng ta nên lưu ý là Phúc Am Thánh Mathêu ở toàn đoạn 10 lại cho biết là Chúa Kitô đã chọn và sai 12 tông đồ đi, với những lời tương tự, tuy dài hơn và chi tiết hơn, những gì Người căn dặn “72 người nữa” trong Phúc Am Thánh Luca hôm nay. Ở đây, trong chính cái mâu thuẫn giữa hai trình thuật Phúc Am có vẻ khác nhau và nghịch nhau này, chúng ta lại thấy chứng cớ rõ ràng cho thấy nhu cầu truyền giáo cần thêm nhiều thợ gặt. Ở chỗ, theo Phúc Am Thánh Mathêu, Chúa Kitô đã sai 12 tông đồ đi, sau đó, theo Phúc Am Thánh Luca, Người còn “chọn thêm 72 người nữa” cũng để sai các vị đi. Tóm lại, việc truyền giáo chẳng những là trách nhiệm của hàng giáo phẩm kế thừa các thánh tông đồ, mà còn của tất cả những ai mang danh môn đệ Chúa Kitô nữa vậy.
2. Tại sao Người lại sai các vị môn đệ này đi từng cặp “hai người một”, chẳng lẽ thành phần “72 người nữa’ này toàn là những người mới chưa hề ở với Người, lại là thành phần còn trẻ trung và ngây ngô lắm hay sao?
Lý do tại sao Chúa Kitô sai “72 người nữa” này ra đi từng cặp “hai người một” là vì, ngay sau khi truyền cho các vị: “Các con hãy ra đi”, Người liền báo cho các vị biết trước những gì bất hạnh chắc chắn sẽ xẩy ra cho các vị, chứ không giấu diếm, đó là số phận của các vị: “như chiên giữa sói rừng”. Như thế, các vị cần phải đi đôi với nhau “hai người một”, mục đích trước hết là để nâng đỡ nhau, như truòng hợp “hai môn đệ đi về làng Emmau” (Lk 24:13) với tâm trạng hoang mang buồn nản về biến cố Thày mình đã tử nạn mà lại nghe là Người đã phục sinh. Chính nhờ “ở đâu có hai ba người họp lại vì danh Thày, Thày sẽ ở giữa họ”, như Người quả quyết với các tông đồ trong Phúc Am Thánh Mathêu ở đoạn 18 câu 20, mà Người đã thực sự đến tỏ mình ra cho cặp môn đệ hai người này, làm cho các vị đã hoàn toàn nhận ra Người. Bởi vậy, qua hình ảnh “hai người một” được sai đi này, chúng ta lại càng thấy được ý Chúa Kitô muốn việc truyền giáo chẳng những là của mọi thành phần, cả giáo phẩm lẫn giáo dân, mà còn là một việc làm chung nữa, vì đó là việc Người tiếp tục tỏ mình ra cho thế gian, qua mối hiệp nhất của thành phần môn đệ của Người.
3. Tại sao Người lại sai các môn đệ này “đi trước Người đến các thành và các nơi Người sẽ tới” để làm gì, trong khi chính bản thân Người đã từng đi nhiều nơi và đã gặp chống đối, phủ nhận; chẳng lẽ đây là phương cách mới mẻ Người muốn sử dụng để thử nghiệm xem việc Người tỏ mình ra có công hiệu hơn hay chăng?
Lý do tại sao Chúa Kitô sai các môn đệ “đi trước Người đến các thành và các nơi Người sẽ tới” là vì mục đích của việc Giáo Hội truyền giáo, hay thừa sai truyền giáo, là để dọn đuòng cho thế gian có thể nhận biết Chúa Kitô để họ được sự sống đời đời. Thật ra, khi sai hai phái đoàn thừa sai đi truyền giáo bấy giờ, phái đoàn thứ nhất là 12 tông đồ và phái đoàn thứ hai thêm “72 người nữa”, Chúa Kitô chưa tỏ hết mình ra, do đó, các môn đệ của Người, với vai trò như hừng đông báo trước mặt trời công chính đang lên, cần phải dọn lòng trước cho dân Do Thái đang trông đợi Đấng Thiên Sai đến biết rằng, sẽ có một “Đấng đến sau tôi song cao trọng hơn tôi”, như vị tiền hô của Người đã thực hiện trong Phúc Am Thánh Gioan đoạn 1 câu 30. Thế nhưng, kể cả sau khi Người đã tỏ hết mình ra qua cuộc Vuọt Qua của Người từ tử giá đến phục sinh rồi, tức đã giải thoát con người “vuọt qua sự chết mà vào sự sống” (Jn 5:24) rồi, như ở vào thời điểm Giáo Hội chúng ta đang sống đây, các vị thừa sai Thời Tân Ước vẫn phải tiếp tục làm việc dọn đuòng này, vì chung loài người vẫn chưa nhận biết Chúa Kitô. Đó là ý nghĩa làm nên thành phần chứng nhân Chúa Kitô, thành phần làm cho thế gian nhận biết Chúa Kitô, chẳng những qua lời rao giảng của mình mà còn qua chính tinh thần sống đạo của mình nữa. Một khi thế gian nhận biết Chúa Kitô qua họ, không phải là họ đã thực sự “đi trước Người đến các thành và các nơi Người sẽ tới” hay sao?
4. Tại sao Người cho các môn đệ này biết Người sai họ “đi như chiên giữa sói rừng” mà lại bảo họ “đùng chào hỏi ai dọc đuòng”, một thái độ chẳng những dễ làm mất cảm tình với người ta mà lắm khi còn khiến cho người ta ghét bỏ mình nữa?
Ở đây Chúa Kitô chỉ bảo các vị thừa sai “đùng chào hỏi ai dọc đuòng” thôi, chứ đến nơi nào rồi thì Người lại dặn các vị hãy chào chúc “bình an cho nhà này”. Như thế, lý do tại sao Chúa Kitô bảo các vị “đùng chào hỏi ai dọc đuòng”, theo tôi, là vì “dọc đuòng” đây liên quan đến vấn đề ngoại giao, vấn đề vận động, trong khi đó, Người không muốn việc loài người nhận biết chân lý, nhận biết Người chỉ vì nể nang nhau, cảm tình với nhau, hay vì bất cứ một lý do nào đó trần tục, để rồi, như một ngôi nhà xây trên cát, khi bão tố tới liền sụp đổ tan tành, như Người đã khẳng định ở Bài Giảng Trên Núi trong Phúc Am Thánh Mathêu đoạn 7 câu 25 và 26. Chính vì ý thức được vấn đề liên hệ “dọc đuòng” có vẻ nguy hại hơn là sinh lợi này mà, hơn ai hết, Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã tuyên bố với Kitô hữu Côrintô ở Bức Thư Thứ Nhất, đoạn 1 câu 17 thế này: “Chúa Kitô đã không sai tôi làm phép rửa, mà là rao giảng phúc âm, tuy nhiên, không phải bằng lời lẽ khéo léo kẻo thập giá của Chúa Kitô mất hết ý nghĩa của mình”.
5. Tại sao Người còn bảo các vị “đừng mang theo túi xách, bao bị, giầy dép” là những thứ tùy thân tối thiểu và tối ư cần thiết cho một cuộc hành trình, chẳng lẽ đó là cách háy nhất trong việc kéo chú ý của người ta và dễ đánh động lòng người nhất hay sao?
Lý do tại sao Chúa Kitô bảo các vị môn đệ thừa sai “đừng mang theo túi xách, bao bị, giầy dép” là vì Người muốn nhấn mạnh đến tinh thần hoàn toàn dấn thân quên mình của các vị, một tinh thần không thể thiếu để các vị có thể hoàn thành một sứ mệnh cao cả, một công cuộc của Thiên Chúa. Luật độc thân linh mục nơi Giáo Hội Công Giáo Latinh không phải đã được qui định theo chiều huóng này hay sao? Nếu các vị thừa sai còn lo đến hay chỉ để ý đến những thứ phụ thuộc và lặt vặt, không sớm thì muộn, các vị chắc chắn sẽ trở thành, như Chúa Kitô quả quyết ở cuối bài Phúc Am tuần trước: “cầm cầy mà còn quay trở lại thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”, một Nước Thiên Chúa Người đã dứt khoát kêu gọi các tông đồ ở Bài Giảng Trên Núi trong Phúc Am Thánh Mathêu đoạn 6 câu 33 là phải được tìm kiếm trước hết và trên hết, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho sau. Quả thực, trong bài Phúc Am hôm nay, Chúa Kitô đã đề cập đến những thứ khác sẽ được Thiên Chúa lo liệu cho các vị thừa sai chỉ chuyên tâm rao giảng Nước Thiên Chúa, khi Người nhắc đến sự kiện các vị sẽ được tiếp đãi và ăn uống xứng với công lao của các vị.
6. Tại sao sau khi Người bảo các môn đệ cứ ăn uống những thứ người ta dọn cho rồi dặn các vị tiếp “đừng đi nhà này sang nhà khác”, phải chăng Người có ý nói với các vị rằng hễ ai có cảm tình với mình, tiếp đãi mình tử tế thì ở, bằng không thì hãy dũ áo “phủi bụi chân” ra đi?
Trước hết, chúng ta nên lưu ý, Chúa Kitô không bảo chỉ ở cố định nguyên một nhà và đừng đi nhà khác. Và lý do tại sao Chúa Kitô bảo các môn đệ thừa sai “đừng đi nhà này sang nhà khác” không phải là vì và chỉ vì được họ tiếp đãi tử tế, hơn là vì nhà ấy đã tin tuỏng các vị, một niềm tin mới chớm nở nên cần phải được củng cố thêm cho vững vàng hơn nữa. Bởi thế, ở đoạn Phúc Am không buộc đọc hôm nay, Người có đề cập đến truòng hợp ngược lại, truòng hợp hễ ở đâu không tiếp rước các vị thì các vị hãy phủi bụi ra đi. Thật vậy, việc “đừng đi nhà này sang nhà khác” liên quan đến niềm tin chân chính hơn là đến tình cảm cá nhân tự nhiên, như truòng hợp Chúa Kitô được Phúc Am Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 4 từ câu 40 đến 41, truòng hợp Người đã ở lại 2 ngày với một dân làng Samaritanô, một dân làng đã nghe lời của người phụ nữ trong họ về loan báo cho họ biết rằng chị đã được gặp một vị tiên tri ở bờ giếng Giacóp. Việc Người ở lại với dân làng Samaritanô này là để niềm tin gián tiếp của họ nơi Người được trọn vẹn hơn. Đó là lý do Phúc Am Thánh Gioan thuật lại thái độ của dân làng ngoại lai này trước và sau thời gian Chúa Kitô ở với họ thế này. Trước khi gặp Người thì “nhiều người Samaritanô ở làng đó tin tuỏng Người vì chứng từ của người phụ nữ”; để rồi sau khi được thực sự đích thân ở với Người rồi thì: “Nhờ những lời Người nói nên nhiều người khác đã tin tuỏng. Vì họ nói với người phụ nữ rằng: ‘Chúng tôi tin tuỏng không phải do lời chị thuật lại nữa. Chính chúng tôi đã nghe và chúng tôi biết rằng vị này thực sự là Đấng cứu thế’”.
7. Tại sao Chúa không đề cập đến chủ đề cần phải rao giảng trước, chủ đề “Nước Thiên Chúa đã đến”, mà lại nói đến chủ đề cuối cùng sau tất cả những điều khác, nhất là sau khi nói với các vị “hãy ăn những thứ người ta dọn cho”, làm như phải ăn rồi mới nói, theo kiểu có vay có trả vậy?
Lý do tại sao Chúa Kitô không đề cập đến chủ đề “Nước Thiên Chúa đã đến” trước hết mà sau hết, là vì con người cần phải sửa soạn đàng hoàng rồi mới có thể lãnh hội được chân lý. Mà điều kiện thiết yếu để con người có thể nhận ra sự thật đây là gì, nếu không phải là một tâm hồn bằng an, một tâm hồn chẳng những khao khát và tìm kiếm chân thiện mỹ của một kẻ thiện tâm: “bằng an duói thế cho người thiện tâm” (Lk 2:14), mà còn là một tâm hồn không bị chi phối bởi tình cảm hay tư lợi, là những gì vốn làm cho con người không thể nhận ra chân thiện mỹ, trái lại, qua hoàn cảnh bất hạnh trên đời, tâm hồn bình an này còn có thể nhờ đó nhận ra chân thiện mỹ nữa. Tuy nhiên, một bình an như thế con người trần gian không thể nào tìm thấy được ở trên cuộc đời ô trọc này, ngoại trừ thứ bình an Chúa Kitô để lại cho thành phần môn đệ của Người, như được Phúc Am Thánh Gioan ghi nhận ở đoạn 14 câu 27, và quả quyết với các vị ở đoạn 16 câu 33 thế này:
“Các con sẽ tìm thấy bình an nơi Thày. Trên dương gian các con sẽ gặp khốn khó. Nhưng hãy can đảm lên! Thày đã thắng thế gian”. Phải, cần phải có thứ bình an Chúa Kitô ban cho các môn đệ sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (xem Jn 20:19,26), con người mới có thể nhận biết Người, chấp nhận Người và theo Người. Đó là lý do, ngay mở đầu những gì Người nói về việc truyền giáo, Người đã căn dặn các vị thừa sai môn đệ của Người biết các vị cần phải làm sao cho người ta biết lắng đọng đã: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’”. Nếu bình an của thành phần môn đệ thừa sai làm cho người thiện tâm nhờ đó có thể sẵn sàng và dễ dàng chấp nhận Tin Mừng “Nước Thiên Chúa đã đến”, thì quả thực tác động chào chúc mở đầu này của họ đã cho thấy rất xác thực bản chất chứng nhân của họ là thành phần được Chúa Kitô “sai đi trước Người đến các thành và các nơi Người sẽ tới”.
Tóm lại, qua những gì Chúa Giêsu dạy 72 môn đệ đi truyền giáo trong bài Phúc Am hôm nay, tuy hợp với truòng hợp của các vị ấy bấy giờ, lúc Chúa Kitô chưa hoàn toàn tỏ mình ra, chúng ta cũng thấy được một điều hết sức chân thật này, đó là đã là Lời Chúa thì là tất cả những gì không bao giờ qua đi, vì chính những lời Người dạy cho 72 môn đệ ấy vẫn còn nguyên giá trị để áp dụng cho cả thời Giáo Hội hiện đại nữa trong việc tông đồ truyền giáo vậy.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại việc Đức Giê-su sai 72 môn đệ đi truyền đạo và Ngài đã dặn dò các ông làm thế nào cho việc truyền giáo có kết quả.
Cách đây vài ba chục năm, các từ “việc truyền giáo” ( mission ), “nhà truyền giáo” ( missionary ) còn rất quen thuộc với chúng ta. Ra đi đến những vùng đất xa lạ để truyền đạo vẫn là ước mơ, là lý tưởng của nhiều thanh niên Âu Tây. Họ muốn tiếp bước Phan-xic-ô Xa-vi-ê, Matteo Ricci, Alexandre de Rhodes ( Đắc Lộ ) ... bỏ lại tất cả tài sản, đời sống tiện nghi, người tình xinh đẹp... đến với các dân tộc chậm tiến như Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam... để loan báo Tin Mừng, đem ánh sáng văn minh và văn hoá phương Tây cho các dân tộc ấy.
Ngày nay các từ đó bị đổi nghĩa, lý tưởng đó bị nghi ngờ, công cuộc đó bị phản đối. Người ta nhân danh tự do tín ngưỡng, nhân danh nền văn hoá dân tộc để bài bác các nhà truyền giáo. Người ta vặn hỏi: các nhà truyền giáo là ai mà dám ép buộc người ta theo đạo của mình, dám quả quyết: “Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi” ( “Hors de l’ Eglise, pas de Salut” )?
Nhiều Ki-tô hữu không nghĩ gì đến bổn phận loan báo Tin Mừng nhưng khoán trắng việc truyền giáo cho các linh mục, tu sĩ, coi họ là những nhà truyền giáo chuyên nghiệp. Ki-tô hữu không ngờ rằng tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa tội đều là những môn đệ của Đức Giê-su, đều được Ngài sai đi như 72 người trong bài Tin Mừng hôm nay, đều có nghĩa vụ truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội, bản chất của Ki-tô hữu ( x. Cđ. Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Ad Gentes và Sắc lệnh về hoạt động tông đồ giáo dân Apostolicam Actuositatem ). Vì thế hôm nay chúng ta muốn dành ít phút để suy nghĩ về nhiệm vụ truyền đạo của mình trong hoàn cảnh hiện nay.
Nhà truyền giáo thời nay
Năm nay là Năm Quốc Tế Đối Thoại giữa các nền văn minh, điều đó nhắc nhở chúng ta tôn trọng sự khác biệt chính đáng của mọi người trong lĩnh vực tôn giáo. Quyền tự do để tin hay không tin theo một tôn giáo nào là quyền căn bản của con người. Chúng ta không thể nhân danh bất cứ ai, dù là Thiên Chúa, hay bất cứ điều gì, như là nền văn minh hay một ý thức hệ nào đó, để bắt ép người khác theo đường lối ( đạo ) của mình. Từ đó, chúng ta cũng cần phải tôn trọng niềm tin của anh chị em theo các tôn giáo khác như Phật giáo, Hồi giáo, Cao Đài... như Công Đồng Vatican II đã yêu cầu trong Tuyên Ngôn về Tự do Tôn giáo. Khi đến tham quan một ngôi chùa, một thánh thất hay một cơ sở tôn giáo nào đó, người Ki-tô hữu chúng ta cần giữ thái độ nghiêm trang, ăn mặc đứng đắn để biểu lộ lòng tôn kính Đức Phật cũng như các bậc thần linh, thánh hiền trong các tôn giáo đó. Hơn nữa, nếu chúng ta tin rằng, Thiên Chúa là Cha chung của mọi người thì chúng ta có thể gặp các vị ấy trong Nhà Cha trên trời.
Truyền giáo ngày nay không chỉ là rao giảng những điểm giáo lý của Hội Thánh Công giáo nhằm đưa người ta đến bí tích Rửa tội để theo đạo của mình và hành đạo như mình. Nhưng, trước hết, truyền giáo là giới thiệu Đức Giê-su và Tin Mừng của Ngài, cho người nghe tự khám phá Đức Giê-su để yêu Ngài và con đường tình yêu của Đức Giê-su để đi theo con đường đó. 72 môn đệ được Đức Giê-su sai đi chính là để chuẩn bị cho Đức Giê-su, giới thiệu Đức Giê-su.
Hơn nữa, họ được sai đi không phải để tranh luận về sự ưu việt của đạo mới so với đạo Do Thái. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta đã tốn giờ, tốn sức tranh cãi với tín đồ các tôn giáo khác. Nhưng càng tranh luận, người ta càng quyết tâm bảo vệ sự ưu việt của tôn giáo mình theo. Đức Giê-su không dạy chúng ta làm như thế, dù chúng ta vẫn ý thức rằng Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất và con đường cứu độ của Ngài là con đường ngắn nhất, an toàn nhất để đưa tất cả về trời như Ngài đã xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” ( Ga 3, 13 ). Sự ưu việt của Ki-tô giáo được biểu lộ qua chính đời sống của các môn đệ, qua những hành động đầy quyền năng như chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ..., được các ông thực hiện nhân danh Đức Giê-su, như những bảo chứng của Tin Mừng.
Hơn nữa 72 môn đệ hôm nay cũng không được lệnh để rửa tội như các tông đồ trong lệnh truyền sau này ( x. Mt 28, 19 – 20; Lc 24, 47 – 48 ). Quả thật, nếu chúng ta tin Đức Giê-su là đường, là sự thật, là sự sống, là tình yêu, thì bất cứ ai tôn trọng sự thật, bảo vệ sự sống của mình hay của người khác một cách chính đáng, yêu thương một cách chân thành và trong sáng đều là những người đang đi theo con đường của Đức Giê-su, đang theo “đạo” của Ngài, dù có thể họ chưa bao giờ được rửa tội. Chúng ta đừng quá bận tâm đến bí tích rửa tội bằng nước mà chúng ta muốn thực hiện cho họ. Chúng ta hãy để ý giúp họ gặp gỡ và đi theo Đức Giê-su để được rửa bằng lửa khát khao Ngài trong lòng họ.
Ngoài ra, chúng ta cũng chẳng đủ sức để dạy giáo lý và rửa tội theo cách truyền giáo cổ điển, dù chúng ta vẫn cố gắng thực hiện việc ấy hằng ngày. Dân số nước ta hiện nay có hơn 80 triệu người, trong đó có khoảng 5.300.000 tín hữu Công giáo và mỗi năm có chừng 20.000 người lớn được rửa tội để theo đạo. Với cách truyền giáo cổ điển, chúng ta phải mất trên 3.500 năm để rửa hết số đồng bào còn lại. Nhưng lúc ấy, dân số nước ta có lẽ đã lên đến vài trăm triệu ! Rồi nhìn vào cánh đồng bao la Á Châu với hơn 3.500 triệu người, trong đó mới chỉ có khoảng 100 triệu người Công giáo thì công việc truyền giáo của chúng ta quả thật là khó tưởng tượng nổi ! Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II mời gọi chúng ta hãy “ra khơi” thả lưới để bắt thật nhiều “cá người” về cho Chúa Giê-su chứ đừng bằng lòng ngồi yên trên bờ để thỉnh thoảng giật lên được vài con cá nhỏ ( x. Tông thư Khởi đầu thiên niên kỷ mới, ngày 6.1.2001 ). Nếu mỗi tín hữu Ki-tô chúng ta biết gắn bó với Đức Giê-su để trở thành chứng nhân sống động của Tin Mừng, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được nhiều kết quả truyền giáo lạ lùng như anh em Công giáo Nam Triều Tiên đang làm hiện nay.
Để đạt hiệu quả truyền giáo
Nếu truyền giáo là loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Ngài thì hiệu quả truyền giáo cũng phát sinh từ việc Ki-tô hữu gắn bó với Đức Giê-su và sống Tin Mừng của Ngài. Đức Giê-su là Thiên Chúa hằng sống, hôm qua, hôm nay và mãi mãi để cứu độ chúng ta. Ngài đang sống trong tất cả để giúp cho mọi người, mọi vật nghe được sứ điệp tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngài nhắc nhở các môn đệ hôm nay “đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” và “đừng sợ hãi như chiên ở giữa bầy sói”, vì Ngài sẽ hoạt động trong các ông cũng như trong mọi người các ông gặp gỡ.
Nhiều người chúng ta hình như gắn liền việc truyền giáo với tài năng truyền giảng của riêng mình hoặc với các phương tiện vật chất như lương thực, tiền bạc, quần áo, thuốc men, việc làm, v.v... Người ta tưởng rằng cứ mở được nhiều trường học với các lớp tình thương, cứ mở các phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí, cứ đi thăm những trại phong và phân phát quà tặng hoặc bố thí cho người nghèo... là làm chứng cho Tin Mừng, là rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Những việc ấy tuy cần thiết cho một số hoàn cảnh nào đó, nhưng tác nhân chính yếu dẫn đến thành công trong việc truyền giáo phải là Đức Giê-su mà người truyền giáo cần gắn bó. Chính vì quên điều đó nên nhà truyền giáo không phát huy được sức mạnh kỳ diệu của Đức Giê-su qua những hành động, có thể gọi là phi thường, để người ta cảm nghiệm được sự ưu việt của Tin Mừng.
Chẳng có mấy người dám khoe với Đức Giê-su như 72 môn đệ xưa kia: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả đến ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” ( Lc 10,17 ). Dù Đức Giê-su đã cho các môn đệ nhiều quyền năng phi thường và ân sủng đặc biệt để chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, tha thứ tội lỗi, tác động đến vạn vật, v.v... nhưng rất nhiều môn đệ ngày nay không dám làm những điều đó, không tin rằng mình có những quyền năng đó, chỉ vì họ cậy dựa vào những phương tiện vật chất và tinh thần của chính mình. Họ đã không thực sự gắn bó với Đức Giê-su để Ngài chuyển thông sự sống kỳ diệu của Ngài cho họ, và vì thế, họ không thực hiện được điều Ngài yêu cầu và cũng không minh chứng được sự ưu việt của Tin Mừng.
Tôi xin chia sẻ một cảm nghiệm về quyền năng của Đức Giê-su. Hôm nay mùng 4 tháng 7 năm 2001, vào ngày này năm trước, tôi nhận được thư của Chị Tổng Phụ Trách Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp An-na Nguyễn Thị Thanh kèm theo 1 triệu đồng xin Lễ Tạ Ơn vì đã giúp cho 2 bệnh nhân đăc biệt của Dòng được khỏi bệnh cách lạ lùng. Tuy nhiên, tôi đã gửi lại số tiền vì hiểu rằng chính Đức Giê-su mới là người thực hiện việc đó.
Một trong hai bệnh nhân là chị Tuyết Nhung, 45 tuổi. Dù tuổi đời chưa cao, nhưng vì bệnh tật, đã sống như một người tàn phế. Chị bước đi rất khó khăn vì bị bệnh viêm tắc động mạch chân và mỗi ngày phải hút máu bầm. Chị còn bị ung thư ở ngực với những khối u nổi rõ. Chúng tôi đã cùng suy niệm về việc “Sống mầu nhiệm Nhập Thể với Chúa Giê-su Thánh Thể” trong suốt tuần tĩnh tâm của Dòng.
Sáng 18.6.2000, chị tới xin tôi cầu nguyện cho chị. Tôi cũng chẳng biết đọc kinh gì ngoài một kinh Lạy Ơn Đức Chúa Thánh Thần, Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh và nhắc chị hãy chú ý đến Đức Giê-su đang sống động trong chị. Chị cảm thấy một sức nóng kỳ diệu tác động trong con người chị.
Hai ngày sau, khi tôi trở về nhà, chị gọi điện thoại báo tin cho tôi rằng những khối u trên ngực đã biến mất, đôi chân nặng nề phải mất vài giờ xoa bóp mỗi ngày, bây giờ thật nhẹ nhàng. Chị không những đi lại bình thường mà còn có thể lên xuống cầu thang nhanh nhẹn. Chị em trong Dòng hết sức ngạc nhiên.
Sau đó, chị chia sẻ kinh nghiệm gắn bó với Đức Giê-su cho một chị lớn tuổi khác sắp đi mổ bướu cổ ở Trung Tâm Ung Bướu vì bác sĩ đã lên chương trình mổ. Chị này cũng được Đức Giê-su chữa lành đến nỗi bác sĩ phải quyết định hủy cuộc giải phẫu đó. Hai chị em vui mừng chạy như bay xuống những bậc cầu thang ở Trung Tâm Ung Bướu để trở về Nhà Dòng và đã chia sẻ kinh nghiệm sống động về quyền năng của Đức Giê-su cho rất nhiều người khác và họ đã tin vào Ngài.
Để kết luận, tôi muốn xin các bạn cùng cầu nguyện với Chúa Giê-su:
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giê-su, xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh nhân.
Xin cho chúng con nói về Chúa như nói về một người yêu với tất cả lòng say mê. Xin cho chúng con nói về Chúa như một Đấng giải thoát để giúp anh em đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin cho chúng con nói về Chúa như Thiên Chúa toàn năng để giúp anh em cảm nghiệm được những điều phi thường trong cuộc sống hàng ngày.
Xin cho chúng con nói về Chúa với tất cả niềm vui vì tin rằng tên mình đã được ghi trên trời. Amen.
Có một linh mục người Mỹ thuộc dòng Tên, giảng dạy tại một trường đại học Công giáo nổi: TN 14-C32
Có một linh mục người Mỹ thuộc dòng Tên, giảng dạy tại một trường đại học Công giáo nổi tiếng tại Phi Luật Tân. Ngày kia, tình cờ vị linh mục này đi vào một khu xóm lao động nghèo nàn và gặp một tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ. Sau một hồi trao đổi, linh mục người Mỹ đã hỏi tu sĩ người Bỉ như sau: Anh ở đây làm gì vậy. Tu sĩ người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu xóm lao động này. Nghe thế vị giáo sư người Mỹ có lẽ như tiếc rẻ cho sự hy sinh lãng phí ấy, nên mới nói về mình như sau: Tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình, tôi đi đây đi đó, tôi đào ạo những con người hữu ích cho xã hội.
Qua cuộc đối thoại này, có lẽ chúng ta thấy được những khía cạnh khác nhau của việc truyền giáo trong Hội Thánh. Vị linh mục người Mỹ trên đây là điển hình cho một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo của Hội Thánh trên khắp thế giới, từ thành thị đến nông thôn, từ học đường đến công sở. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động rao gảing thì cũng có những nhà truyền giáo âm thầm, sống như những chứng nhân. Tựu trung, hoạt động hay sống âm thầm, cả hai hình thức đều có chung một sứ mạng, đó là làm chứng cho Đức Kitô và nước của Ngài. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một đòi hỏi giống nhau, đó là làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát.
Đây là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã đề ra cho các môn đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin Mừng. Ngài nói với các ông: Các con đừng mant theo túi tiền, bao bị, áo xống, giày dép và đừng chào hỏi ai dọc đường. Một cuộc sống siêu thoát, không lệ thuộc vào của cải trân gian, đó là biểu hiện tiên quyết cho chứng nhân Nước Trời.
Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương của mình để đến những miền đất xa lạ, nhưng chủ yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi con người ích kỷ của mình để đến với tha nhân trong tinh thần hoà giải, yêu thương và phục vụ. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh Chúa truyền: Vào nhà nào trước tiên các con hãy nói: bình an cho nhà này. Hiện diện giữa tha nhân, hiện diện với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông và tha thứ, đó chính là sự ra đi đích thực của nhà truyền giáo. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu, tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó có nghĩa là những giá trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống giữa chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để những người chung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ như những người Do Thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải kêu lên: Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào.
Bằng lời nói và nhất là bằng cuộc sống dạt dào yêu thương, chúng ta hãy trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Địa lý giáo phận Long Xuyên chúng tôi là một vùng rộng lớn đồng bằng sông Cửu Long. Đâu cũng là đồng ruộng. Bốn mùa được nhận ra từ cây lúa. Ngày lúa chín là lúc rất cần kịp thời thu hoạch. Nếu không gặt về, lúa chín bỏ đó, thì kể như mất mùa.
Kinh nghiệm nông thôn trên đây dẫn tôi vào lời Chúa Giêsu phán xưa: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về. Chính anh em hãy ra đi” (Lc 10,2-3).
Lời Chúa trên đây ám chỉ việc truyền giáo. Cánh đồng lúa là cánh đồng truyền giáo. Thợ gặt là những người truyền giáo. Ra đi truyền giáo là ưu tư bức xúc của Chúa Giêsu.
Vâng lời Chúa, tôi bước vào cánh đồng truyền giáo. Tôi thấy một cảnh mênh mông bát ngát. Tôi nhận ra hai vùng khác nhau. Một vùng đợi chờ giới thiệu Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa. Một vùng mong mỏi tái truyền giáo cho những người gọi là biết Chúa, nhưng biết không đúng và sống đạo không đúng.
Cả hai vùng đều đặt ra những vấn đề rất phức tạp. Một trong những điều tôi cho là rất khó giải quyết, đó là tính dễ thay đổi, tính dễ biến chất của bao người theo tôn giáo. Xin phép đưa ra vài thí dụ:
Hãy nhớ lại nước Do Thái thời Chúa Giêsu và các tông đồ. Hồi đó phong trào trở lại đi theo Chúa Giêsu là rất phấn khởi. Nhưng nay còn gì đâu, nơi dân Do Thái, trên đất nước Do Thái. Mà đó chính là nơi Chúa Cứu thế và các tông đồ đã truyền giáo và đã đổ máu ra.
Rồi hãy nhớ lại những giáo điểm thời thánh Phaolô. Hồi đó các giáo điểm đó rất phát triển về công giáo. Nay các nơi đó đang là đất của tôn giáo khác.
Rồi hãy nhìn vào mấy nước Âu châu. Trước đây, Hội Thánh tại những nước đó rất sốt sắng. Họ đã gởi bao người của mình đi các nơi xa xôi, để truyền giáo. Nay các nước đó đang rơi vào cơn khủng hoảng ghê gớm: Số người giữ đạo giảm mau. Số người đi tu bớt hẳn.
Rồi hãy nhìn vào nhiều gia đình Việt Nam trong nước và ở ngoài nước. Cách hiểu đạo và cách giữ đạo giữa thế hệ lớn tuổi và thế hệ nhỏ tuổi đang làm nên khoảng cách.
Còn bao nhiêu phức tạp khác nữa do chuyển biến của xã hội và con người về mặt tâm lý, văn hoá, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, môi trường. Tất cả đều tác động đến tâm thức tôn giáo.
Được sai đi truyền giáo giữa một tình hình đầy diễn biến như thế, chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Đến đây, tôi xin phép kể một sự kiện đã xảy ra cho tôi, hy vọng có thể gợi ý cho anh chị em trên đường truyền giáo.
Năm 1975, tôi được thụ phong Giám Mục, theo sự bổ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Cho dù tình thế là rất khó khăn, tôi vẫn nghĩ rằng: Chúa chọn tôi và sai tôi đi để truyền giáo. Truyền giáo là ưu tư lớn nhất của tôi.
Một đêm, trong chiêm bao, tôi một mình lặng lẽ đi giữa một cánh đồng lúa mênh mông. Bỗng, tôi nhìn thấy xuất hiện một người từ bờ ruộng đàng xa bên trái tôi. Người lạ đó dần dần bước tới gần tôi. Khi gặp, tôi nhận ra ngay người lạ đó chính là Chúa Giêsu.
Ngài hiền từ, uy nghi, gần gũi. Ngài cầm tay tôi, dẫn tôi qua một con đường dài. Rồi hai người cùng vào phố. Ngài đưa tôi vào một bệnh viện lớn. Ngài dắt tôi đi thăm từng phòng, từng giường bệnh nhân. Tôi rất xúc động, cảm thương những người đau bệnh.
Tôi quay sang hỏi Ngài. Nhưng Ngài đã biến mất. Tôi tỉnh lại. Và lập tức tôi hiểu bài học Chúa Giêsu muốn dạy tôi về việc truyền giáo.
Bài học đó gồm hai điểm chính: Một là gặp gỡ Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa Giêsu, bước theo Chúa Giêsu, đồng hành với Chúa Giêsu. Hai là yêu thương bác ái đối với mọi người, nhất là với người đau khổ.
Hai điểm đó cũng đã được được ghi trong Phúc Âm bằng nhiều lời dạy: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
“Thần Linh Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18).
Với những lời Chúa dạy trong Phúc Âm, và với những hình ảnh đầy cảm động gây ấn tượng trong tôi do chiêm bao đêm đó, tôi ra đi truyền giáo và tái truyền giáo.
Gặp gỡ Chúa Giêsu, và thực thi yêu thương bác ái, đó là những khởi đầu, mà tôi cho là rất cần thiết, rất quan trọng, rất căn bản trong việc truyền giáo.
Tiện đây, tôi cũng xin chia sẻ một điều riêng tư. Đó là đang khi tôi cố gắng truyền giáo và tái truyền giáo cho những người khác, thì chính bản thân tôi cũng được Chúa thường xuyên tái truyền giáo, bằng nhiều cách. Một trong những cách Chúa dùng để tái truyền giáo người môn đệ Chúa, là Chúa gởi thánh giá đến. Thánh giá đủ loại, đặc biệt là sự yếu đuối về mọi mặt. Đây là điều tôi cảm thấy cần phải nói ra, để những ai dấn thân vào việc truyền giáo hãy xác tín: Mình phải rất khó nghèo, rất khiêm tốn, rất từ bỏ.
Tôi vẫn nghĩ rằng: Chúng ta, dù là ai, cũng vẫn chỉ là tiếng kêu bên ngoài, như thánh Gioan Baotixita đã tự nhận. Còn Lời nói bên trong vẫn là Chúa Giêsu. Chính Ngôi Lời nói trong lòng ta mới là yếu tố quyết định. Vì thế, chúng ta phải rất gắn bó với Chúa Giêsu. Chỉ Ngài là đường, là sự thực và là sự sống. Chỉ Ngài là Đấng cứu độ chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta hiểu thêm những gì Chúa Giêsu đã dạy về truyền giáo.
Chúa nhật thứ XIV thường niên ngày 8 tháng 7 năm 2001
Đức Cha G.B. BÙI TUẦN
12 môn đồ được sai đến cùng dân Israel; ngoài ra CGS còn sai thêm 72 môn đệ khác nữa. Đối: TN 14-C34
1. 12 môn đồ được sai đến cùng dân Israel; ngoài ra CGS còn sai thêm 72 môn đệ khác nữa. Đối với giáo hội sơ khai, thật là cực kỳ quan trọng khi thấy ngoài 12 tông đồ còn có một nhóm khác nữa cũng có trách vụ truyền giáo. Ngoài nhóm 12, còn có những người khác cũng được gọi là tông đồ, chu toàn sứ mệnh CGS.
Việc chọn con số 72 (hay 70) liên hệ với con số 72 (hay 70) dân tộc làm nên nhân loại theo bảng thống kê dân số của thánh kinh (Stk 10) CGS và sứ điệp Ngài nhắm đến toàn thể nhân loại. Các tiến sĩ luật nhắm đến toàn thể nhân loại. Các tiến sĩ luật xác tín rằng lề luật trước tiên được ban cho mọi dân, nhưng chỉ Israel chấp nhận lề luật đó. Thời thế mạt mới thực hiện tốt chương trình nguyên thủy của TC.
CGS chỉ định các sứ giả và qua đó cho họ một sứ mệnh chính thức; sứ mệnh đó có tính cách pháp lý. Ngài sai đi từng hai người, vì họ phải hành động với tư cách chứng nhân. Ở Israel khi hai nhân chứng cùng nhất trí một vấn đề, thì chứng tá của họ có giá trị và được chấp nhận về mặt pháp lý (Đnl 19,15; Mt 18,16). Nhưng ngoài quan niệm pháp lý đó, chắc hẳn việc sai từng hai người còn có lý do này nữa là việc truyền giáo không phải là việc của một cá nhân riêng rẽ, mà phải là việc của một tập thể, dù tập thể đó còn phôi thai. Một môn độ không thể tự hào đã quán triệt sứ điệp Kitô giáo và tự hào có thể phản ảnh trọn vẹn sự phong phú của nó. Việc rao giảng Tin mừng không thể là một độc quyền mà cần phải có sự cộng tác của anh em. Nhóm 12 rao giảng cùng một Đức Kitô. Phaolô lại đối nghịch với Phêrô; 4 tác giả là sứ giả Tin mừng bất khả phân ly.
Các môn đệ đi trước CGS (nghĩa tự nguyện: đi trước mặt Ngài), như là phát ngôn viên hoặc sứ giả có trách nhiệm chuẩn bị cho Ngài đến. Họ đến mỗi làng, xóm trớc Ngài. Họ chỉ hoạt động trong phạm vi xứ Palestine, dù đã vượt biên giới Galilea. Các ranh giới sẽ xóa đi, sau khi CGS về trời.
Lúa chín thì nhiều. Nhân loại được so sánh với mùa gặt cần được chất vào kho lẫm Nước TC. Cánh đồng truyền giáo đang trải dài trước mắt CGS ở Palestine chỉ là khởi đầu của một cánh đồng, của một mùa gặt còn vĩ đại hơn, bao gồm toàn thế giới. CGS biết số người sẵn sàng trở lại rất nhiều. Trước công việc lớn lao và cấp bách đó, chỉ mới có một ít thợ gặt. TC là chủ mùa gặt. Ngài có quyền quyết định những gì liên hệ đến vụ mùa. Việc thu nhận vào nước TC là công việc và ân huệ của Ngài. Chính Ngài kêu gọi các môn đệ. Vì thế CGS kêu mời mọi người cầu nguyện để TC khơi lên trong con người tinh thần làm môn đệ, để họ cộng tác giúp nhiều người được vào nước TC, bằng cách hiến thân hoàn toàn cho Người. TC muốn chúng ta xin Ngài ban ân sủng. Lời cầu xin gởi thêm thợ gặt duy trì trong các tông đồ và môn đệ ý thức này: là họ đã được TC gọi và sai đi. “Chính nhờ ân sủng của TC mà tôi được như bây giờ” (1Cor 15,10). “Cho nên kẻ trồng là gì, người tưới cũng chẳng là gì, chỉ Đấng làm cho mọc lên, là TC... vì chúng tôi chỉ là cộng sự viên của TC; anh em là thửa đất, là lâu đài của TC. Tôi đã đặt nền móng ...Chiếu theo ân sủng TC đã ban” (1Cor 3,7-10).
2. “Hãy đi” chữ này diễn tả việc sai phái, sứ mệnh, đồng nghĩa với xuất phát, lên đường và hành động. Cuộc chuẩn bị thật kỳ lạ, chỉ tóm lại trong tiếng “hãy đi”. Đây là chữ cốt yếu, quan trọng nhất, vì là do chính CGS sai phái. Cái tôi của Ngài điều hành mệnh lệnh và sứ mạng Ngài uỷ thác. Quyền năng TC là cơ sở của cái tôi đó, đồng thời dõi theo và nâng đỡ các sứ giả.
Các môn đệ không được trang bị như người đời thường làm. Họ được sai đi như chiên con giữa sói rừng, không có vũ khí tự vệ, như người nghèo không nơi nương tựa. Họ nghèo khó thực sự vì không bao bị, túi tiền, giày dép. Mà sự khó nghèo là điều kiện để vào nước TC (6,20). Đó cũng là dấu hiệu giúp nhận ra các giảng viên nước Trời. Các môn đệ phải luôn nhìn đến sứ mệnh của mình. Không gì có thể làm họ xao lãng được.
Đừng chào ai dọc đường. Lời khuyên này không có ý biến các môn đệ thành con gấu thô lỗ, không biết một chút lịch sự tối thiểu trong việc giao tiếp với mọi người, nhưng nhằm đề phòng các môn đệ tránh xa những câu chuyện tầm phào vô bổ, thường thấy trong xã hội cận đông thời CGS. Việc tận hiến hoàn toàn cho sứ mệnh không thể nối kết với những lời chào hỏi dài dòng và phức tạp này. Trong Lc, tất cả các sứ giả đều vội vã: Maria, các mục đồng, Philipphê (Cvsđ 8,30).
Chính CGS và ba trình thuật ghi lại việc gọi các môn đệ, đã làm nổi bật các đức tính của người môn đệ: không tự vệ, dịu dàng khi gặp ác cảm, không nhà ở, nghèo khó, hiến thân hoàn toàn cho sứ mệnh rao giảng nước TC. Các nhân vật nòng cốt của việc rao giảng ơn cứu độ là CGS, nhóm 12 tông đồ và 72 môn đệ.
3. Phương pháp truyền giáo thật khiêm tốn và đơn giản. Giảng viên Tin Mừng đi vào từng nhà. Việc truyền giáo lan rộng trong thành phố bắt nguồn từ việc gặp gỡ tại gia. Bình an cho nhà này, là lời chào thăm và quà tặng. Lời rao giảng bắt đầu với đức tính nhã nhặn, lễ độ. Một lời khuyên của các thày Rabbi: “Bạn hãy là người đầu tiên chào hỏi mọi người”. Bình an mà sứ giả ơn cứu độ đem đến không chỉ gồm sự thoải mái gói ghém trong lời chào hỏi thường nhật (tiếng hy bá là shalôm, hiện nay vẫn còn dùng ở Israel), nhưng al ơn cứuđ ộ vào thời gian sau hết. Các sứ giả thực hiện tốt sứ mệnh CGS, như đã chép: “TC đã sai lời Ngài đến bên con cái Israel loan báo Tin mừng bình an nhờ Đức Giêsu Kitô (Cvsđ 10,36).
Các lời chào hỏi ban tặng điều chúng ta biểu lộ, khi gặp người TC đặt để lãnh nhận ơn cứu độ, để làm con của sự bình an. CGS giáng trần đem hòa bình đến cho những người TC yêu. Bình an ngự trên Ngài và thuộc về riêng Ngài, vì Ngài là: “hoàng tử của bình an” (Is 9,5), là Đấng để lại bình an và ban bình an (Gio 14,27). Bình an và thánh linh là những ơn cứu rỗi lớn lao của thời sau hết. Dù không có ai mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu rỗi hoặc tỏ ra xứng đáng, thì các lời chào đó sẽ vô hiệu: sự bình an sẽ trở về với những sứ giả. “Chính Ta đã tự thề hứa: ơn cứu rỗi phát xuất tự miệng Ta, chẳng bao giờ trở lại mà không sinh hiệu quả” (Is 45,23). Lời chào hỏi không phải là một kiểu nói đơn giản, mà là lời có sức mạnh tạo điều mà nó đã loan báo.
Món quà mà người giảng viên đem đến sẽ làm phát sinh nơi con cái của sự bình an, lòng hiếu khách. Nhà đầu tiên tiếp đón môn đệ sẽ là nơi cư ngụ của họ. Các con hãy ở lại nhà đó. Đừng đi nhà này sang nhà nọ. Công việc chính của sứ giả là rao giảng nước TC; còn sự thoải mái riêng tư, cách người ta đón tiếp, săn sóc không đáng quan tâm. Người hay thay đổi chỗ ở cho thấy: đối với họ, giá trị tối thượng không phải là lời Chúa, mà là sự tiện nghi, thoải mái của họ. Nếu thay đổi nơi ăn chốn ở, họ nghĩ sai và làm người ta nghĩ xấu về người đầu tiên đã tiếp đón họ.
Môn đệ hãy ăn uống các thứ người ta mang đến. Chớ lo nghĩ mình là gánh nặng của thân chủ. Đừng để những lo lắng trần tục ảnh hưởng hay làm cản trở sứ mệnh của mình. Điều môn đệ lãnh nhận, không phải là quà bố thí, do đức ái gây ra, nhưng là thứ lương bổng cân xứng với những gì to lớn quí giá mà người môn đệ đã đem đến. “Thợ thì đáng lãnh lương” (1Tm 5,18). “Một khi chúng tôi đã gieo vãi những của thiêng liêng cho anh em há lại là điều quá quắt lắm sao ?” (1Cor 9,11). Nhưng đồng thời môn đệ hãy vui lòng chấp nhận những gì người ta dâng, đừng bao giờ đòi hỏi chi hơn nữa.
4. Hoạt động của các môn đệ là truyền giáo trong các nhà và các thành. Thành nào tiếp đón họ chứng tỏ thành đó có dự kiến tối. Môn đệ phải thực thi điều mà vì đó họ được sai đi. Hãy ăn những gì người ta dọn cho. Đừng bận tâm suy nghĩ xem các thức ăn có tinh sạch xét theo lề luật hay không. Hình như Lc đã hiểu lời đó như thế, dù không được CGS nói theo nghĩa đó. Được tự do lương tâm như thế rất quan trọng trong việc truyền giáo cho dân ngoại. “Nếu có người ngoại nào mời anh em dự tiệc... anh em hãy ăn những gì người ta dọn, đừng có gạn hỏi vì cớ lương tâm” (1Cor 10,27).
Việc chữa lành các bệnh nhân chuẩn bị người ta đón nhận ơn cứu độ mà các môn đệ loan báo, phải xác quyết qua các phép lạ đó ơn Cứu độ đã bắt đầu. Đi đôi với việc làm là lời rao giảng: Nước TC gần đến. Việc CGS đến chứng tỏ Nước TC đang đến. Vì thế CGS nói: “Nếu Ta lấy tay TC mà trừ quỉ Nước TC đã ở giữa các ngươi” (11,20). Nước TC đang ở giữa các ngươi (17,21). CGS là Nước TC.
Việc gì sẽ xảy ra, nếu có thành không tiếp đón các môn đệ ? Họ phải công khai long trọng tuyên bố: đoạn tuyệt và bỏ rơi thành đó. Người Do thái phủi bụi chân khi từ một xứ ngoại đạo bước vào thánh địa Palestine. Điều đó cho thấy không có sự hiệp thông giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón tiếp các sứ giả Đức Kitô gởi đến, thì không được hiệp thông với dân Chúa, không nhận ra giờ trọng đại vừa mới khai mào: các thành chống đối lời TC, phải biết rằng Nước TC đã đến gần và giờ phán xét đang đe dọa chúng. Các giảng viên chưa công bố Nước TC đã đến nhưng gần đến. Hãy lo hoán cải kẻo không kịp.
Ai từ chối đón nhận lời loan báo Nước TC và đóng kín lòng mình không tiếp nhận chính CGS, người đó tự chuốc cho mình án phạt. Kết quả đó còn kinh hoàng hơn án phạt đã giáng xuống thành Sođôma. Lỗi lầm của kẻ từ chối đón nhận CGS và các ơn huệ của Nước TC thì lớn hơn lỗi lầm của dân Sôđôma. Lời rao giảng của các sứ giả đem đến hồng ân cao cả nhất và tùy theo quyết định của lương tâm mỗi người mà đem đến ơn cứu độ hay án phạt.
5. Khi đi truyền bá phúc âm về, chỉ một điều được 72 môn đệ để ý trong suốt cuộc truyền giáo: uy quyền trên các quyền lực ma quỉ. Ngay cả ma quỉ cũng vâng phục họ. Không chỉ các bệnh tật bị chế ngự, không chỉ có con người ngoan ngoãn nghe lời Chúa. Điều quan trọng hơn hết là sự thần phục của các thần lực satan. Họ trở về lòng đầy vui sướng, vì đã cảm nghiệm Nước TC đã thực sự bắt đầu trong CGS. Họ coi Ngài như là Chúa; chính khi đọc tên Ngài mà họ chiến thắng ma quỉ, nhờ Chúa, sức mạnh các sứ giả đã chế ngự các quyền lực, thần lực đã từng hoành hành trong thế gian.
Việc Nước TC chiến thắng các quyền lực Satan được biểu lộ rõ rệt qua sự kiện các môn đệ có quyền trừ quỉ. Ta đã thấy Satan trời rơi xuống như chớp. Không chắc CGS nói đến một thị kiến Ngài đã có, vì không khi nào Ngài kể lại một kinh nghiệm như thế. Đứng hơn đây là một kiểu nói gợi hình (như ở 10,15) về việc các môn đệ trừ quỉ thành công. Dù sao, CGS như muốn xác quyết rằng việc chiến thắng satan là một sự kiện cảm kích. Cuộc chiến thắng này là kết quả tiền trưng của việc CGS chết trên thập giađ và sống lại vinh quang: “Chính bây giờ thế gian này bị phán xét. Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài” (Gio 12,31).
6. Nhóm 72 môn đệ đã thông phần vào việc CGS chiến thắng Satan. Tuy nhiên điều đó có giá trị với nhóm 72 cũng có giá trị với những ai cộng tác với Ngài. Họ có quyền lực trên rắn rết và bò cạp. Kinh thánh xem các vật xảo quyệt này là khí cụ của quyền lực satan. Đấng Cứu thế thiên hạ trông đợi sẽ giải phóng khỏi sự kềm kẹp của: rắn rít, bò cạp và thần dữ. Nhờ các thiên thần TC che chở, Đấng Messia bước đi trên rắn rít, nghiền hát sư tử và khủng long (Tv 91,13). Khi sai phái nhóm 72 đi, CGS đã ban cho họ quyền lực đó. Họ không còn bị quyền lực satan khống chế, thống trị, nhưng được nước TC điều hành cai quản. Chính là nguồn gốc bài ca chiến thắng bài ca khải hoàn của Phaolô: “Nhưng trên hết mọi sự sống, chúng ta toàn thắng rực rỡ nhờ đấng đã yêu mến chúng ta; vì tôi thâm tín rằng dù là sự chết hay sự sống, dù là thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai hay quyền năng, dù là thiên đỉnh hay cực lạc, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của TC trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Rm 8,37-39).
Nhưng còn một lý do vui mừng nữa, khác với lý do quyền uy trên các thần dữ và việc sụp đổ ách thống trị Satan, đó là việc Nước TC đang bắt đầu. Nguyên nhân khiến các môn đệ vô cùng vui sướng, đó là việc họ được chọn lựa và tiền định sống đời sống vĩnh cửu. Các thành thời thượng cổ giữ lại sổ danh sách các công nhân của họ. Ai được ghi tên trong số đó, sẽ có quyền hưởng thụ mọi lợi lộc của thành. Trên trời cũng có các sổ như thế: những kẻ được TC chọn đều được ghi tên trong đó: chắc hẳn sổ đó là sách hằng sống (x. Tv 69,29; Xac 32,23-33; Is 4,3; 56,5; Đn 12,1; Kh 3,5; 13,8;...). Nguyên nhân vui mừng vượt trên mọi nguyên nhân chính là có thể tham dự vào Nước TC, có thể đón nhận cuộc sống vĩnh cửu và trở thành viên mãn trong cộng đoàn TC.
KẾT LUẬN
CGS đòi hỏi nhóm 72 những điều Ngài đã đòi hỏi ở nhóm 12 (9,1-6). Đó cũng là những yêu sách, đòi hỏi ở các nhà truyền giáo mọi thời đại rao giảng bình an của Đấng Messia, và loan báo Nước TC đang đến, trong tinh thần dịu hiền và nghèo khó, phục thiện, bất vụ lợi, chịu đựng mọi thiếu thốn bất an. Chính với giá đó mà Satan đã bại trận và các nhà truyền giáo thấy tên mình được ghi trên trời. Các điều kiện tông đồ truyền giáo này thuộc về chính bản chất của Kitô giáo, vì chúng phản ảnh chính con người và hành động của CGS.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi yêu cầu đừng mang bị, mang xách, giày dép, phúc âm nói cho chúng ta biết các điều kiện cốt yếu của việc truyền bá phúc âm. Hãy sống khó nghèo, khiêm tốn, hèn yếu. Chúng ta luôn bị cám dỗ công việc được thành công dễ dãi, ngay cả trong việc rao giảng lời chúa. Chúng ta thường khích lệ một CGS xuống khỏi thập giá. Một Đức kitô chiến thắng các lời châm biếm, nghi ngờ của thính giả hơn Đức Kitô chịu đóng đinh. Một Đức Kitô như thế không cần được rao giảng.
2. Một giáo hội giàu sang không còn là giáo hội rao giảng Đức Kitô nữa. Ngày xưa, vì chế nhạo, bộ đội đã mặc cho CGS áo cẩm bào và đội triều thiên vương giả. Phải chăng hôm nay chúng ta cũng cư xử như họ, khi chúng ta mặc cho Đức Kitô các tước hiệu sức mạnh, quyền năng ? Có lẽ qua đó chúng ta muốn tôn thờ Con TC: nhưng chúng ta đã lột mặt nạ này để thay một thứ mặt nạ khác.
3. “Ngài sai họ từng hai người”. Bên cạnh tôi, đến lượt người anh em phải có thể loan báo Đức Kitô, theo cách của họ, khác với cách của tôi. Chính trong tinh thần đối thoại, trao đổi như thế mà tôi đề cập đến một vị TC, Đấng đã chấp nhận đối thoại với loài người đến độ đã biến thành một người trong nhân loại.
4. “Bình an cho nhà này”. Đó phải là tiếng tập họp mọi tín hữu trong bất cứ nơi nào hơn ở hoặc họ đến, để công bố Nước TC đã đến gần. Người đọc câu đó biểu lộ sự kính trọng đối với chủ nhà, đối với những người tiếp đón mình. TC có nhiều “con cái bình an” ở khắp nơi. Những vạ tuyệt thông, những thập tự quân và các tư tưởng cố chấp giết chết các “con cái bình an” đó, thay vì mạc khải cho họ biết họ là con cái bình an, thay vì tập họp và giúp họ nhận biết nhau, biến đổi tình huynh đệ câm nín của họ thành một hy lễ tạ ơn (eucharistie). Bình an cho nhà này, cho ngôn ngữ, tập tục, văn minh, truyền thống, giá trị, nghi lễ, quá khứ và hoài bão của nhà đó. Bình an cho nhà này cho những ai mong chờ được phúc âm mạc khải.
5. 72 môn đệ đã chấp nhận sứ mệnh truyền giáo. Họ lên đường bất chấp mọi nguy hiểm, bất an. Và đã hân hoan trở về. Tất cả chúng ta dù đang ở địa vị nào trong giáo hội, đều sai phái như 72 môn đệ đó. Tất cả chúng ta, mỗi người mỗi cách, phải làm chứng về tình yêu của Chúa Cha đối với mọi người, tình yêu mà chúng ta đã cảm nghiệm nhờ trung gian của Đức Kitô, Đấng đã biến đổi đời sống chúng ta. Phải can đảm chấp nhận sứ mệnh truyền giáo của đời Kitô hữu, bất chấp mọi nguy hiểm, bất định, và phải rao giảng Đức Kitô bằng cuộc sống gương mẫu của chúng ta, bằng cách sống như những môn đệ trung thành của Đức Kitô.
6. Các người chung quanh chúng ta sẽ tin vào sứ điệp chúng ta trong mức độ chúng ta loan báo sứ điệp đó với tinh thần dịu hiền, vô vụ lợi, hoàn toàn phục vụ tha nhân, phó thác vào bàn tay quan phòng vủa TC. Họ sẽ tin vào giá trị chứng tá của chúng ta khi họ thấy chúng ta sống “từng hai người”, nghĩa là khi chúng ta yêu thương nhau, cộng tác với nhau cách chân tình, không ganh tị và tiên kiến. Chính các Kitô hữu đầu tiên ở Antiokia đã sống như thế, và do đó đã gây một cảm tưởng tốt thật sâu xa nơi các người đồng hương, đến nỗi họ phải thán phục thốt lên: “Hãy xem họ yêu thương nhau chừng nào !”
Chủ đề: Chúng ta có sứ mệnh đem bình anh đến cho thế gian.
Năm 1980, có một tạp chí trong nước đăng câu chuyện ngộ nghĩnh sau. Có một người kia đậu xe: TN 14-C35
Năm 1980, có một tạp chí trong nước đăng câu chuyện ngộ nghĩnh sau. Có một người kia đậu xe phía bên ngoài lối đi một cửa hàng rộng lớn, khi quay trở ra lấy xe thì thấy trên ghế ngồi đằng trước có một mẫu giấy ghi: “Thưa ông hoặc Bà quí mến, tôi đã tính ăn cắp chiếc xe hơi này, nhưng tình cờ đọc thấy tấm bảng gắn trên xe có lời cầu chúc “Bình an cho quí bạn”. Câu này khiến tôi phải dừng lại suy nghĩ. Tôi tin chắc nếu tôi ăn cắp chiếc xe này thì hẳn ông hoặc bà sẽ không còn được bình an, và chính tôi cũng chẳng được an bình nữa, vì đây là lần “ra nghề” đầu tiên của tôi. Vì thế “Bình an cho quí bạn” và cho cả tôi nữa. Hãy lái xe cẩn thận và lần sau nhớ khoá xe cho kỹ lưỡng”. Dưới mẫu giấy ký tên “Người đáng lẽ ra đã là một kẻ trộm cắp”.
Câu chuyện ngộ nghĩnh trên minh hoạ cho lời giáo huấn khá kỳ lạ Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Khi vào bất cứ nhà nào, nếu ở đó có người yêu chuộng bình an thì sự bình an của các con sẽ ở lại trên kẻ ấy, bằng không, sự bình an sẽ trở lại với các con”. Áp dụng lời này vào câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng tấm bảng gắn trên xe có đề câu “Bình an cho quí bạn” đã đem lại bình an của Chúa Kitô cho kẻ đang dự tính ăn cắp xe kia. Tên ăn trộm này yêu chuộng an bình nên sự bình an của Chúa Kitô đã ở lại trên anh ta.
Điều này gợi ra cho chúng ta một câu hỏi. Theo chúng ta, “Bình an của Chúa Kitô” có nghĩa là gì? Đâu là nội dung hàm chứa trong câu nói đó?
Khi Thánh Kinh dùng từ ngữ Bình An, nó thường bao gồm bốn ý nghĩa. Trước hết hiểu theo nghĩa quân sự bình an ám chỉ tình trạng không có chiến tranh giữa các dân tộc, chẳng hạn chúng ta thường nói “các dân tộc sống trong bình an”. Thứ đến hiểu theo nghĩa từng cá nhân, Bình an chỉ trạng thái an ổn của từng người, chẳng hạn chúng ta nói “Chúng tôi sống an bình với nhau”. Thứ ba, Kinh Thánh dùng từ ngữ Bình an theo nghĩa tôn giáo để chỉ mối tương giao thực sự giữa Chúa và chúng ta, chẳng hạn chúng ta nói: “Chúng tôi được bình an trong Chúa”. Cuối cùng, Kinh Thánh dùng từ ngữ Bình An để ám chỉ tình trạng trong đó mọi người trên trái đất sống an hoà với Chúa với láng giềng và với chính mình. đây là sự “Bình an Chúa Kitô”. Đây chính là sự bình an Chúa Giêsu nói đến khi Ngài tuyên bố: “Ta để lại bình an cho các con, Ta ban sự bình an của Ta cho các con” (Ga 14;27). Mỗi khi cử hành thánh lễ vị linh mục đều nhắc lại những lời này. Sự bình an này không là gì khác ngoài sự thực hiện Nước Chúa trên Trái đất, “Nước” mà chúng ta vẫn thường khấn cầu trong Kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyện…. Nước Cha trị đến”. Và đây cũng là sự bình an mà Chúa Giêsu truyền bảo các môn đệ Ngài mang đến cho đồng loại của họ, cũng như Ngài truyền chúng ta mang đến cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúng ta phải là những khí cụ mang bình an của Chúa Giêsu đến từng người trong mọi dân tộc trên trái đất này.
Ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn Chúa Giêsu muốn chúng ta làm điều đó thế nào.
Khi có những cơn bão từ vùng nhiệt đới có vận tốc trên 75 dặm/giờ (tức trên 100km/giờ) thổi tới trên biển Thái Bình Dương, thì người ta gọi là cuồng phong, còn nếu thổi tới trên biển Đại Tây Dương thì người ta gọi là Bão biển. Để có được khái niệm về một cơn bão biển, chúng ta hãy tưởng tượng đến một cái đĩa nhựa (Frisbee) với một cái lỗ ở trung tâm. Nào bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng chiếc đĩa (Frisbee) này càng lúc càng to lên cho đến khi đường kính lên tới 100 dặm (160 km), và cái lỗ ở giữa cũng sẽ rộng lên tới 10 dặm (16km). Rồi chúng ta làm cách nào xoay cái đĩa ấy đạt đến tốc độ 100 dặm (160 cây số) một giờ. Hình ảnh cơn bão biển cũng giống như thế đó. Điều thú vị là ngay giữa trung tâm cơn bão biển – có thể so sánh với phần ngay giữa cái lỗ ở trung tâm chiếc đĩa nhựa (Frisbee) - vẫn tuyệt đối yên tĩnh. Ngay cả giữa lúc gió gào thét lên tới tốc độ 100 dặm (160 cây số) một giờ, thì nơi trung tâm này vẫn chẳng hề có tí gió nào cả. Nếu quí vị đứng ngay giữa trung tâm cơn bão biển mà nhìn lên. Quí vị sẽ thấy bầu trời xanh lơ và mặt trời rực sáng.
Trung tâm của bão biển là một hình ảnh thật đẹp mô tả nội dung của bữa tiệc thánh mà Chúa Giêsu muốn diễn tả, bữa tiệc mà mỗi Chủ nhật chúng ta cùng quây quần chia xẻ với nhau. Chung quanh chúng ta thế giới đang gào thét khác nào những cơn bão táp cuồng nộ: người thì la ó, kẻ khác cắp trộm, nhóm này phản loạn, nhóm kia cướp bóc, nước này giao tranh tiêu diệt nước kia…. Tuy nhiên nơi bàn tiệc Chúa, mọi sự đều yên tĩnh. Ngước nhìn lên chúng ta chỉ trông thấy bầu trời xanh và ánh mặt trời sáng rực. giống như chúng ta đang ở giữa nhìn lên “bình an của Chúa Kitô”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải chỉ là trạm tiếp ứng sức mạnh tạm thời cho chúng ta thôi, giống như nơi trung tâm bình an của cơn bão biển ấy chỉ tồn tại khoảng 1 giờ đồng hồ, thì bàn tiệc Chúa cũng chỉ kéo dài khoảng 1 tiếng đồng hồ như thế. Chúa Giêsu không hề có ý định muốn chúng ta lưu lại mãi ở chốn yên tĩnh vùng trung tâm cơn bão biển, mà Ngài muốn chúng ta xông pha trở lại vào giữa cơn bão đang hung hãn thổi. Ngài muốn chúng ta từ bàn tiệc Chúa bước vào giữa dòng bão táp trần gian để chia xẻ với mọi người sự bình an của Chúa Kitô mà chúng ta cảm nghiệm từ nơi bí tích Thánh Thể. Nói cách khác, Ngài muốn chúng ta là khí cụ gieo rắc bình an của Đức Kitô cho tất cả thế gian.
Tóm lại, Thánh Kinh nói cho chúng ta biết về bốn loại bình an: bình an giữa các dân tộc, bình an giữa chúng ta với nhau, bình an với Chúa và cuối cùng là bình an của Chúa Kitô tức tình trạng mọi người trên thế gian sống an hoà với Chúa, với láng giềng và với chính mình.
Loại bình an sau cùng này, tức bình an của Đức Kitô chẳng là gì khác ngoài việc thực thi nước Chúa trên trần gian. Để thực hiện sự bình an này, Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác con người, và Ngài đã truyền cho các môn đệ gieo rắc bình an này cho đồng loại của họ, cũng như Ngài truyền cho chúng ta mang bình an này đến cho mọi người sống chung quanh chúng ta. Và sáng hôm nay đây chúng ta cùng cầu xin Chúa Giêsu đổ tràn trên chúng ta sự bình an này; “Lạy Chúa xin hãy biến thành khí cụ bình an của Chúa, để con gieo yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu hy vọng vào nơi tuyệt vọng, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi)
Các bạn đã nghe nói về Helen Keller, một người vừa mù vừa điếc. Tuy nhiên cô là một người: TN 14-C36
Các bạn đã nghe nói về Helen Keller, một người vừa mù vừa điếc. Tuy nhiên cô là một người có học vấn cao. Một chiều kia sau bài diễn thuyết, cô mời thính giả đặt câu hỏi, có người hỏi cô; ‘Thưa cô Keller. Nếu cô được phép ước một điều, cô sẽ ước điều chi?”
Đây là một phụ nữ chưa bao giờ nghe được tiếng nói, chưa bao giờ thấy được khuôn mặt người thân thương, cô chỉ tiếp xúc với thế giới bằng xúc giác, chúng ta tưởng rằng chắc cô sẽ ước được thấy hay được nghe. Không, cô trả lời: “Tôi sẽ ước Hoà Bình cho thế giới”
Chúa Giêsu muốn nói gì với hai chữ “Bình An”? Người không nói rằng đó chỉ là vắng bóng chiến tranh hay không ồn ào. Đúng hơn, Hoà Bình, theo ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là không lo âu, sức khoẻ tốt, được an toàn và hài lòng với cuộc sống, có nghĩa là được mọi hồng ân vật chất và thiêng liêng Thiên Chúa ban cho dân Người.
Sự an toàn và an tâm ấy chúng ta thấy trong bức tranh dễ mến. Isaia phác hoạ trong bài đọc thứ nhất: “Người con nhỏ trong lòng người Mẹ”. Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô mặc dầu trong tù ngục, Người cũng chúc cho chúng ta sự bằng lòng trọn vẹn mà chúng ta nói tới nơi đây.
Vị linh mục nói cũng như lời này khi đem Chúa Kitô cho bệnh nhân hoặc người già cả và khi Ngài khởi sự bí tích xức dầu bệnh nhân.
Bình an bao gồm tất cả những gì Chúa Giêsu muốn ban: sự chữa lành thân xác và tâm hồn, Lời giảng dạy khôn ngoan của Người, sự hiện dịên đầy đủ an ủi của Người, nhất là cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Người được lập lại trong Thánh lễ.
Bạn thấy chúng ta cầu xin Bình an nhiều lần trong thánh lễ. Tội lỗi là thù nghịch của Bình an. Sự chết của Chúa Giêsu tái diễn trên bàn thờ này xoá bỏ tội lỗi, giúp chúng ta xa tránh tội lỗi. Bạn hãy chú ý lời cầu nguyện “xin đừng chấp tội lỗi chúng con. Nhưng xin nhìn đến Đức tin của Hội Thánh Chúa, và ban cho chúng con Bình an và hợp nhất của Nước Cha”
Sau đó vị Linh mục đọc: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thày để lại Bình an cho các con, Thày ban Bình an của Thày cho các con, xin đừng nhìn đến tội lỗi chúng con” rồi Ngài nói thêm: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em” Sau đó chúng ta được mời gọi tỏ bày một dấu chỉ Bình an cho nhau. Bắt tay, cúi đầu với một lời chúc Bình an hay ít ra hướng lòng chúng ta đến với người lân cận.
Trong kinh nguyện Thánh Thể III chúng ta kêu cầu; “Lạy Chúa, xin cho của lễ hoà giải này đem lại Bình an và ơn cứu độ cho toàn thể thế giới”. Bạn lắng nghe vị linh mục tiễn biệt: “Anh em về Bình an’
Vâng, Thánh lễ là một lễ Bình an, một dấu chứng Bình an, một nguồn mạch Bình an, một giao ước Bình an. Ước gì mọi nhà, mỗi con tim trên thế giới nghe lời chúc của Chúa Kitô “Bình an cho nhà này”
Còn nhớ cách đây hơn ba năm, tại giáo phận Sài-gòn, ngày 30.6.2001, cùng trong một ngày, xảy ra: TN 14-C37
Còn nhớ cách đây hơn ba năm, tại giáo phận Sài-gòn, ngày 30.6.2001, cùng trong một ngày, xảy ra hai biến cố trọng đại: Buổi sáng tại Nhà Thờ Đức Bà ( Chánh Tòa Sài-gòn ), Đức Tổng Giám Mục Gio-an Bao-ti-xi-ta Phạm Minh Mẫn ( lúc đó Đức Cha chưa nhận tước vị Hồng Y ), chủ sự Lễ phong chức Linh Mục cho 18 thầy thuộc Đại Chủng Viện Thánh Giu-se Sài-gòn. Buổi chiều, khoảng 17 giờ, Đức Cha Louis Phạm Văn Nẫm, Giám Mục phụ tá giáo phận Sài Gòn qua đời tại tòa Tổng Giám Mục Sài-gòn.
Hai sự kiện quan trọng đối nghịch nhau: một là vui mừng, còn một là đau thương, lại xảy ra cùng một ngày, khiến tôi suy nghĩ: Lễ phong chức Linh Mục là khởi đầu cho cả một đời hiến tế, khai mạc cho cả một Thánh Lễ dài, không phải lễ dâng trên bàn thờ, nhưng là lễ hiến dâng cuộc đời. Thánh Lễ Cuộc Đời ấy sẽ kết thúc cùng với sự kết thúc cuộc đời của mỗi người trong cái chết. Đã là Thánh Lễ Cuộc Đời, lễ vật Thiên Chúa đòi hỏi không phải là tạo ra thật nhiều của cải vật chất, không phải tìm hư danh, tư lợi. Nhưng Thánh Lễ cuộc đời là chính cuộc đời của mỗi một người làm Lễ vật. Đó là một đời gắn bó với Chúa Ki-tô, sống Lời Người dạy, nỗ lực làm chứng nhân cho Người, phục vụ Nước Trời.
Từ hai sự kiện trọng đại ấy chỉ nội trong một ngày, tôi nghiệm được như thế. Tôi đọc lại Lời Chúa trong Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay. Tôi thấy Lời Chúa dạy tôi nhiều điều ý nghĩa hay lắm. Chúa nói: “Thầy sai các con ra đi như chiên con ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, giày dép, bao bị... Đến bất cứ nơi đâu, các con hãy nói thế này: “Bình an cho nhà này”. Chúng ta hãy xác tín rằng, tất cả mọi người, dù là Linh Mục, Tu Sĩ hay Giáo Dân, đều có chung một Ơn Gọi xuất phát từ Chúa Ki-tô, đó là được sai đi sống chứng nhân cho Tin Mừng ở giữa cuộc đời này.
Nhưng Chúa Giê-su nói về cuộc sai đi này như thế nào ? Chúa nói: “Thầy sai các con đi như chiên con ở giữa sói rừng”. Cuộc ra đi, vào đời làm chứng cho Chúa, làm chứng cho Tin Mừng của Người, không phải là những bước chân êm ái, càng không bao giờ là lụa là gấm vóc. Nhưng đó là khó khăn, là chống đối, là “chiên ở giữa sói rừng”... Những tưởng đầy những khó khăn giăng mắc như vậy, Chúa sẽ bảo chúng ta mang theo vũ khí, mang theo gậy gộc và tất cả những gì cần thiết để đề phòng. Nhưng không ! Chúa dạy các môn đệ làm những điều ngược lại: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này”.
Hình như Lời Chúa có sự mâu thuẫn ? Vì một người xem ra không hề có bình an, ngược lại, bị vây bọc bởi những nguy hiểm đến nỗi “như chiên con ở giữa sói rừng”, vậy mà lại lên tiếng chúc “bình an cho nhà này”. Như Vậy bình an mà Chúa muốn nói đây là bình an như thế nào ? Làm sao lại có thể trao ban bình an, trong khi bản thân chẳng có bình an ?
Hóa ra, hành trang để giữ người môn đệ trong đời sống Đức Tin không phải là tiền của, hay bất cứ thứ vật chất nào, nhưng là “sự bình an”, một thứ bình an trong tâm hồn. Đó chính là sự bình an nội tâm. Đó là ơn bình an của tâm hồn biết tín thác cho Chúa, biết đặt trọn sự sống và cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa. Đó là thứ bình an sâu lắng, là tất cả sự chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, vì muốn tháp nhập thập giá đời mình vào Thập Giá Chúa Ki-tô. Đó là bình an cho dù bên ngoài, nơi thân xác vẫn có đó rất nhiều đau khổ, rất nhiều thử thách, gian lao... Đó là thứ bình an nội tâm cần thiết vô cùng cho những tâm hồn thuộc về Chúa Ki-tô, những tâm hồn muốn làm môn đệ Chúa. Bình an ấy giúp họ ngày đêm miệt mài để “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”, và Lời của Người lan tỏa, dẫu có phải chịu cảnh khốn cùng, nguy hiểm như “chiên con ở giữa sói rừng” đi nữa.
Bởi vậy, bình an trong tâm hồn mới có thể giúp ta giữ vững Đức Tin, giúp ta mạnh mẽ sống đời sống chứng nhân Tin Mừng. Vì nếu lòng mà thiếu vắng ơn bình an, ta không thể đứng vững trước những khó khăn, nhiều lúc tưởng chừng vùi lấp mình trong đau khổ. Vì nếu không có bình an trong nội tâm, chính lúc bản thân bị chìm trong đau khổ, thì tuyệt vọng có nguy cơ chiếm đoạt ta. Bởi vậy, chỉ có Thiên Chúa là Nguồn Bình An đích thực của ta. Hãy cậy dựa vào Chúa, xin Người ban cho ta bình an trong tâm hồn. Hãy chiêm ngắm Thập Giá Chúa Ki-tô để học nơi Người bài học của sự vâng phục và đón nhận. Để như Chúa Ki-tô, lòng ta cũng sẽ bình an và nhờ đó có thể trao ban bình an cho anh chị em. Vì nếu không có bình an nơi Thiên Chúa và như Chúa Ki-tô, nhiều lúc tưởng như cuộc đời vùi ta trong đau khổ, sẽ dễ làm ta nghi nan, nguy hiểm hơn, dễ mất Đức Tin.
Bởi thế, tôi thấy Lời Chúa Giê-su hôm nay thấm tận hồn tôi. Lời ấy giúp tôi bình tĩnh vượt qua mọi khốn khó bằng sự bình an trong tâm hồn. Mọi nỗi khốn khó nói riêng, mọi vui buồn của đời sống nói chung, dệt nên cuộc đời của mỗi người. Đặc biệt, đó là sức sống muôn đời đối với người Ki-tô hữu. Vì thế tôi coi đó là Thánh Lễ nối dài suốt đời người. Và tôi gọi đó là Thánh Lễ Cuộc Đời của tôi. Nếu bạn luôn bình an chấp nhận cuộc đời của mình như những hoa trái cần thiết, tiến dâng lên Chúa, cuộc đời của bạn cũng chính là Thánh Lễ quý giá vô cùng.
Bởi thế, không phải chỉ có 18 Linh Mục của Giáo Phận Sài-gòn, hay bất cứ Linh Mục nào, hoặc Đức Cha Louis Phạm Văn Nẫm, tôi đã đề cập trong phần đầu của bài suy niệm này, mới là những của lễ. Nhưng là tất cả những ai trung thành theo Chúa, sống đời sống chứng nhân cho Tin Mừng bằng sự bình an trong tâm hồn mà Chúa ban cho mỗi một người. Từ những gì đã suy niệm, bạn và tôi hãy vui lên, hãy đón nhận thập giá đời mình, để cùng Chúa Ki-tô, dâng lên Thiên Chúa hiến lễ là chính cuộc đời chúng ta.
Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào bất cứ nhà nào, trước tiên nhãy nói: "Bình an cho nhà này !" Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đến đậu trên người ấy ; bằng không, thì bình anh đó sẽ quay về với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông." Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đom còn được xử khoan hồng hơn thành đó."
Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con." Đức Giê-su bảo các ông: "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời."
***
Chỉ có mình thánh Lu-ca ghi lại việc sai phái bảy mươi hai môn đệ đi trước sửa soạn cho chức: TN 14-C38
Chỉ có mình thánh Lu-ca ghi lại việc sai phái bảy mươi hai môn đệ đi trước sửa soạn cho chức vụ của Chúa Giê-su. Điều này phù hợp với việc Chúa kéo dài cuộc hành trình trên đường về Giê-ru-sa-lem. Công tác của họ chỉ trong một thời gian hạn định, nhưng trong lời huấn thị đưa ra cho họ, Chúa Giê-su đã đưa ra những nguyên tắc căn bản áp dụng cho mọi thời. Trước hết Ngài tỏ cho biết lý do của sự lựa chọn họ: đó là vì cánh đồng lúa gặt thì lớn mà thợ gặt thì ít quá. Trước khi thế gian nhận được sứ điệp họ mang tới, họ và những người kế vị họ phải tha thiết cầu nguyện với Chúa mùa gặt sai thợ đến. Đó là một lời cầu nguyện mà mọi kẻ phụng sự Chúa Ki-tô phải dâng lên tự đáy lòng mình. Lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa sẽ khiến chúng ta cố gắng hoàn thành công tác mau chóng hơn, và muốn được vậy cần phải có đông công nhân hơn.
Đối với người Do-thái, số bảy mươi hai là số biểu tượng. Đó là số các trưởng lão đã được lựa chọn để giúp đỡ lãnh tụ Mô-sê, với phận sự điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong sa mạc. Đó là số thành viên của Hội đồng quốc gia. Nếu số bảy mươi hai chỉ đoàn thể nào trong hai đoàn thể đó thì họ cũng là phụ tá cho Chúa Giê-su. Số đó cũng được coi như số các nước trên thế giới lúc bấy giờ. Lu-ca là người có tầm mắt quốc tế, có lẽ ông đang nghĩ đến một ngày mà mọi nước trên thế giới sẽ nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su, như ông đang yêu mến Ngài vậy.
Đoạn Kinh Thánh cho ta biết mấy điều hết sức quan trọng về người truyền đạo cũng như thính giả.
Người giảng đạo khi ra đi phải sẵn sàng chờ đợi sự hiểm nguy "như chiên giữa bầy muông sói", nhưng họ cũng đừng để cho lòng bối rối vấn vương vào những sự thế tục. Sứ giả cần lên đường cách nhẹ nhàng.
Người giảng đạo cần phải chú tâm vào bổn phận của mình, đừng phí thì giờ vào những nghi lễ lạt lẽo vô vị, nhưng phải ra đi như những con người được thúc giục bởi một động lực cao cả "Người ấy không được chào ai dọc đường" điều này nhắc lại điều lời tiên tri Ê-li-sa bảo tên đầy tớ Giê-kha-đi đi giúp cho bà ân nhân đất Su-nêm khi đứa con đã chết: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi ! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại." (2V 4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự nhưng là người của Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều nhỏ nhặt đang khi những việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.
Người giảng đạo không nên làm việc để kiếm tư lợi. Người ấy nên ăn những món người ta dọn cho mình, không nên đi từ nhà này qua nhà khác cố ý tìm nơi dễ chịu hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Chẳng bao lâu sau khi được thiết lập Hội Thánh đã có những hạng người ăn bám. Cuốn "Giáo lý của mười hai tông đồ" được viết khoảng năm 100 SC (Sau Chúa) là cuốn sách về trật tự của Hội Thánh đầu tiên. Trong thời đó có những tiên tri đi lang thang từ thành này sang thành khác. Sách đã qui định rằng, nếu vị tiên tri nào muốn ở lại nơi nào lâu hơn ba ngày mà không có việc làm thì kẻ ấy là tiên tri giả, và nếu tiên tri nào xưng mình ở trong Thánh Linh mà xin tiền hay xin thức ăn thì kẻ ấy là tiên tri giả. Người thợ đáng lãnh tiền công, nhưng đầy tớ của Đấng chịu đóng đinh không thể là một kẻ say mê lạc thú.
Ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, người ki-tô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời thi hành sứ mệnh "Vậy Hội Thánh nhân danh Thiên Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Ki-tô, Đấng giờ đây đang thiết tha mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi của Người được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng và quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa Giê-su một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình. (Ph 2,5). Họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Ngài sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến. Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa Giê-su cộng tác vào cùng một công việc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người." (TĐ33).
Đức Ki-tô muốn thông ban cho các môn đệ lòng can đảm trong việc tông đồ nên khi Ngài nói "Ta sai các con" điều mà thánh Gio-an Kim Khẩu chú giải: "Điều này đủ cho các ngươi được can đảm, điều này làm cho các ngươi được tin tưởng." Các sứ giả được can đảm vì ý thức rằng mình được Thiên Chúa sai đi, như sau này Phê-rô giải thích rõ ràng cho Thượng Hội Đồng ông hành động như thế nhân danh Đức Giê-su Na-da-rét, "vì dưới gầm trời này không có danh nào khác khiến người ta được cứu rỗi." Rồi thánh Grêgôriô Cả thêm vào để giải thích câu huấn thị của Chúa: Đừng mang bao bị giầy dép, đừng chào hỏi ai dọc đường. Người rao giảng phải đặt niềm tin vào Chúa tới độ dầu không trang bị cho mình những nhu cầu để sống, vẫn xác tín rằng sẽ không thiếu ; thật thế, nếu Ngài bận tâm cho những sự thế tục, Ngài không thể ban phát chung quanh Ngài những sự trên trời. Truyền giáo đòi hỏi một sự hiến thân bao gồm sự từ bỏ, thế nên thánh Phê-rô là người đầu tiên thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất ở Cửa Đẹp Đền Thờ: "Vàng bạc thì tôi không có." Thánh Ambrôsiô thêm vào "không phải để phô trương sự nghèo khó, nhưng đúng hơn để vâng phục lệnh Chúa, dường như Ngài muốn bảo anh: Thấy tôi là một môn đệ của Đức Ki-tô mà anh lại xin tiền à ? Chúng ta có thể cho anh ta cái gì còn có giá trị hơn vàng bạc nữa: quyền năng hành động nhân danh Chúa. Tôi không có cái mà Chúa Ki-tô không cho tôi, nhưng tôi có cái mà Ngài cho tôi: nhân danh Chúa Giê-su thành Na-da-rét anh hãy dậy mà đi." Do đó, việc truyền giáo đòi hỏi phải siêu thoát của cải vật chất, cũng như phải luôn luôn mau lẹ sẵn sàng vì công việc cấp bách …
"Đừng chào hỏi ai dọc đường" Thánh Ambrosiô tự hỏi "Sao lại thế? Chúa lại bỏ qua một việc xã giao thường tình ? Nhưng phải để ý Chúa không bảo đừng chào ai nhưng bảo đừng chào ai dọc đường, không thừa đâu!
Khi tiên tri Ê-li-sa sai tên đầy tớ đi cứu giúp đứa con bà góa gằng để cây gậy của vị tiên tri trên đứa bé đã chết, ông cũng ra lệnh đừng chào hỏi ai dọc đường: Ông có ý bảo phải mau mau cứu bé sống lại, đừng để chậm trễ vì những người cùng đi đường với mình. Như thế không phải bỏ qua hết phép lịch sự xã giao, nhưng hạn chế những gì ngăn trở để việc phục vụ được mau lẹ ; Khi Thiên Chúa đã bảo, điều gì thế tục phải tạm thời để qua một bên, chào hỏi nhau là tốt, nhưng tốt hơn là thi hành cho mau điều Chúa dạy vì chậm trễ có thể trở nên vô ích …
Về phần thính giả, lời Chúa hôm nay dạy rằng nghe lời Thiên Chúa là một trách nhiệm lớn. Người ta sẽ chịu phán xét theo những gì mình đã may mắn biết được. Chúng ta không chấp trách trẻ con điều mà chúng ta kết án người lớn, chúng ta tha thứ cho người man ri những thái độ, hành động mà nếu xảy ra nơi người văn minh thì bị trừng phạt. Trách nhiệm là mặt trái của đặc ân. Chối bỏ lời mời của Thiên Chúa là một tai họa. Ở một phương diện thì mỗi lời hứa của Chúa có thể thành lời buộc tội cho người nào nghe đến. Nếu người ấy tiếp nhận các lời hứa đó thì quả thật đó là sự vinh hiển nhất, nhưng nếu người ấy xén bỏ đi, thì một ngày kia, lời ấy sẽ là chứng cớ nghịch lại cùng người ấy vậy.
Bảy mươi hai môn đệ trở về với vẻ mặt sáng rỡ vì những chiến thắng đã dành được trong danh Chúa. Ngài nói với các ông một câu khó hiểu: "Ta thấy Xa-tan bị tấn công và Nước của Thiên Chúa xuất hiện." Nó có thể có nghĩa là Chúa Giê-su biết rằng nhát đòn tử thương đã giáng xuống Xa-tan và các quyền lực của nó, tuy rằng chiến thắng cuối cùng của Xa-tan có thể còn trì hoãn lâu.
Nhưng câu đó cũng có thể là lời cảnh cáo cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo Xa-tan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã bị ném ra khỏi trời. Có thể Chúa Giê-su ngụ ý cùng bảy mươi hai môn đệ rằng: "Các ngươi đã thu gặt được nhiều thắng lợi, hãy giữ mình kẻo sinh kiêu ngạo …"Chúa Giê-su luôn luôn cảnh cáo các tôi tớ Ngài về tội kiêu ngạo và quá tự tín. Quả thực họ được Chúa ban cho mọi quyền phép, nhưng vinh hiển lớn nhất của họ là được ghi tên vào sổ trên trời. Có một điều mãi mãi là sự thật, ấy là vinh hiển lớn nhất của con người không phải là những gì mình đã làm được, mà là những gì Chúa đã làm cho mình. Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã giúp con người giảm bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào khác trong y khoa. Một hôm có người hỏi James Simpson: "Ông cho điều gì là khám phá lớn nhất của ông ?" và mong đợi câu trả lời rằng: "Thuốc mê", vì chính ông là người đã khám phá ra môn thần dược này. Nhưng Simpson đã trả lời rằng: "Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giê-su, Chúa cứu chuộc của tôi." Tính kiêu ngạo đã cản đường lên thiên đàng, nhưng đức khiêm nhường là thông hành để được gặp Chúa.
Chúa sửa sai thái độ của các môn đệ khi chỉ cho các ông lý do thật đã vui là niềm hy vọng đạt nước thiên đàng chứ không trong quyền năng làm phép lạ, khi Người giao sứ mạng này cho các ông. Trong dịp khác, Chúa cũng cho một bài học tương tự (Mt 7,22-23). Trước mắt Chúa, thi hành ý Ngài quan trọng hơn là phép lạ.
- Is 66:10-14c: (12) ĐỨC CHÚA phán như sau: Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. (13) Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về
- Gl 6:14-18: (14) Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. (15) Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới
TIN MỪNG: Lc 10: 1-12.17-20
Đức Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng (// Mat 11, 20-24)
(1) Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. (2) Người bảo các ông:
«Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (3) Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (4) Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. (5) Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: «Bình an cho nhà này!» (6) Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. (7) Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. (8) Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (9) Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: «Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông». (10) Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: (11) «Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần». (12) Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó».
«Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời»
(17) Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: «Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con». (18) Đức Giê-su bảo các ông: «Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. (19) Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. (20) Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời».
Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
Ngoài 12 tông đồ, còn có 72 môn đệ được Đức Giê-su sai đi tiếp nối sứ mạng của Ngài. 72 môn: TN 14-C39
Ngoài 12 tông đồ, còn có 72 môn đệ được Đức Giê-su sai đi tiếp nối sứ mạng của Ngài. 72 môn đệ đó tượng trưng cho ơn gọi nào trong Giáo Hội?
2. Tình hình nhân sự trong việc tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su trên thế giới hay trong xã hội chúng ta đang sống như thế nào? Khi ý thức điều ấy, bạn có nghe thấy Đức Giê-su mời gọi bạn làm gì không?
3.Để làm tông đồ, tức tiếp tục công việc cứu thế của Đức Giê-su, chúng ta phải làm gì? Chúng ta đã làm gì? Có gì cần sửa chữa trong quan niệm của chúng ta?
Suy tư gợi ý:
1. Ơn gọi làm tông đồ giáo dân
Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giê-su huấn luyện đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài, Tin Mừng Luca còn nói tới số 72 môn đệ được Ngài sai đi. Người ta thường ví ơn gọi của 12 môn đệ với ơn gọi tông đồ của hàng giáo phẩm và giáo sĩ, là những người thường được huấn luyện đặc biệt có trường lớp để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su. Và ví ơn gọi của 72 môn đệ với ơn gọi tông đồ của giáo dân, là những người được huấn luyện ở trình độ phổ thông để làm tông đồ.
Đấy cũng là một cách hiểu khá hợp lý. Thực ra, bất kỳ người Ki-tô hữu nào một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, đều được Đức Giê-su mời gọi tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại. Vì thế, việc cứu độ nhân loại không phải là công việc dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là nhiệm vụ của bất kỳ người Ki-tô hữu nào, dù là giáo dân, đạo gốc hay tân tòng. Bài Tin Mừng hôm nay là một dịp nhắc nhở người giáo dân nhiệm vụ tông đồ hay cứu thế của mình. Đặc biệt những Ki-tô hữu đã có từng được đào tạo để làm tông đồ trong các chủng viện hay tu viện, mà nay lại đứng trong hàng ngũ giáo dân. Những người này thường được Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt hơn những giáo dân khác.
2. Sứ mạng của Đức Giê-su còn bao nhiêu việc phải làm
Hễ nói tới câu Tin Mừng «Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về», chúng ta thường nghĩ ngay tới cánh đồng truyền giáo, làm như Giáo Hội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là truyền giáo. Thực ra, Đức Giê-su đến là để cứu chuộc nhân loại, mà trong đó việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng chỉ là một phần, và chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cứu thế của Đức Giê-su. Nhiều khi người Ki-tô hữu quá quan tâm đến phương tiện này mà quên đi mục đích của nó, nghĩa là lấy chính việc loan báo Tin Mừng làm mục đích của việc tông đồ. Mục đích của Giáo Hội cũng như của Đức Giê-su không phải là loan báo Tin Mừng, mà là cứu nhân loại, không chỉ đời sau mà còn cả đời này nữa. Cứu nhân loại là làm cho nhân loại hay con người thoát khổ và hạnh phúc hơn. Loan báo Tin Mừng chỉ một trong những phương tiện phải làm để đạt được mục đích cứu độ đó.
Ý thức lại vấn đề như vậy, chúng ta thử tự hỏi: chúng ta đã quan tâm tới vấn đề cứu độ con người như Đức Giê-su chưa? Một cách cụ thể, chúng ta đã làm gì để những người chung quanh ta bớt đau khổ và hạnh phúc hơn? Sự hiện diện của ta, với tư cách người Ki-tô hữu hay tập thể Ki-tô hữu, có làm cho gia đình ta, những người chung quanh ta, xã hội ta đang sống bớt khổ đau và hạnh phúc hơn không?
Thế giới và xã hội con người hiện nay còn biết bao tội lỗi, đau khổ, bất công. Sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su chưa thực hiện được bao nhiêu, và còn biết bao việc phải làm. Nhưng có được bao người muốn dấn thân tiếp nối sứ mạng của Ngài? Việc thì nhiều mà nhân sự thì ít. Người Ki-tô hữu, dù là giáo dân hay giáo sĩ, có nghe thấy lời mời gọi tha thiết của Ngài không? Và nếu muốn tiếp tục sứ mạng của Ngài, chúng ta phải làm gì?
3. Trình tự những việc phải làm của người môn đệ Đức Giê-su
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sai 72 môn đệ đi. Hãy coi lại xem Ngài truyền bảo họ những gì. Có những điều chính yếu được xếp theo trình tự thời gian mà cũng có thể là theo thứ tự quan trọng như sau:
1. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép»: ý nói đừng quá lo toan về những nhu cầu vật chất, mà hãy chú tâm vào sứ mạng của mình. Việc này được đề cập đến đầu tiên, ắt nhiên là một điều rất quan trọng. Muốn cứu rỗi người khác mà lại quan tâm đến những nhu cầu vật chất của mình, vốn đòi hỏi rất nhiều tâm trí và năng lực của mình, thì còn đâu tâm trí và năng lực để cứu rỗi người khác?
2. «Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường»: ý nói sứ mạng khẩn cấp, cần tập trung thì giờ và năng lực vào sứ mạng của mình. Ngoài nhu cầu vật chất, còn những nhu cầu cá nhân khác, cũng cần phải dẹp bớt để tập trung thì giờ và năng lực vào việc cứu rỗi con người.
3. «Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”»: ý nói phải quan tâm tới sự bình an, thoải mái cho người mình gặp. Sự bình an, không phải sống trong lo âu, sợ sệt… về tinh thần cũng như thể chất là điều mà người môn đệ Chúa cần phải quan tâm thực hiện đầu tiên cho mọi người mình được sai đến. Đây là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của mọi người sống trong trần thế.
4. «Hãy chữa những người đau yếu trong thành»: ý nói hãy quan tâm đến đau khổ và hạnh phúc của mọi người, và cứu giúp họ trong khả năng của mình. Người môn đệ của Chúa cần phải quan tâm đến những nhu cầu hết sức cụ thể của con người. Phải cảm thông với niềm vui nỗi buồn, với hạnh phúc và đau khổ của mọi người, đồng thời phải cứu khổ và tạo điều kiện hạnh phúc cho họ một cách hữu hiệu.
5. Và sau cùng mới là «nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”»: ý nói là phải loan báo Tin Mừng cho họ, tức nói với họ về Thiên Chúa, về nhu cầu tâm linh, về những gì thiêng liêng.
Ta thấy trình tự trên thật là hợp lý. Người chung quanh ta có được ta quan tâm tạo bình yên và thoải mái cho họ, thì họ mới dám đặt niềm tin tưởng vào ta, và mới có điều kiện thoải mái để nghe ta nói những chuyện xem ra có vẻ ít thực tế hơn đối với đời sống của họ. Thế mà rất nhiều khi người Ki-tô hữu lại làm ngược lại trình tự mà Đức Giê-su đã đề nghị. Chúng ta lo loan báo Tin Mừng trước, và coi những việc đáng quan tâm hàng đầu kia vào hàng thứ yếu. Chính vì thế mà việc loan báo Tin Mừng của chúng ta trở thành thiếu thực tế, kém hữu hiệu, nên không được đón nhận bao nhiêu từ nhiều thập kỷ nay tại Châu Á. Do đó, chúng ta cần phải sửa lại quan niệm về cách làm tông đồ của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Công Đồng Vatican II nhắc nhở người Ki-tô hữu phải nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường mình sống nên tốt đẹp hơn một cách hữu hiệu. Xin giúp con xét lại xem sự hiện diện của con đã biến cải môi trường con sống tới mức độ nào? Có làm cho những nơi mà con hiện diện tốt đẹp và hạnh phúc hơn không? Xin cho con biết quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trước đã, trước khi loan báo nó ra để người khác cùng sống theo. Xin giúp con biết yêu thương để quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người chung quanh con, và biến con trở nên một đấng cứu thế nho nhỏ trong môi trường nhỏ bé con đang sống, là gia đình con, là môi trường nghề nghiệp của con, khu xóm của con, v.v… Amen.
- Lm Augustine, SJ Đọc Tin Mừng Lc. 10, 1-12.17-20
(1) Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. (2) Người bảo các ông:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (3) Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (4) Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. (5) Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này !" (6) Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đến đậu trên người ấy; bằng không, thì bình an đó sẽ quay về với anh em. (7) Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. (8) Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (9) Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông". (10) Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: (11) "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần". (12) Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơđom còn được xử khoan hồng hơn thành đó".
(17) Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con". (18) Đức Giêsu bảo các ông: "Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. (19) Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. (20) Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời".
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Một cậu bé 15 tuổi ngồi bên cạnh bố là người đang lái xe ngang qua một phi trường tí hon tại - TN 14-C40
Một cậu bé 15 tuổi ngồi bên cạnh bố là người đang lái xe ngang qua một phi trường tí hon tại một thị trấn thuộc tiểu bang Ô-hai-ô (Ohio) của Hoa Kỳ, thì thình lình một phi cơ đang bay thấp mà người lái không còn kiểm soát được nữa, chúi mũi xuống đường. Thấy thế cậu bé hét lên: "Bố ơi, bố ơi! Dừng lại ngay!"
Vài phút sau, cậu bé lôi chàng phi công ra khỏi chiếc máy bay ngộ nạn. Đó là một chàng sinh viên 20 tuổi đang tập cất cánh và hạ cánh máy bay lên xuống. Chàng thanh niên ấy đã tắt thở trong tay cậu bé.
Vừa về tới nhà, cậu bé liền chạy lại ôm má vừa khóc vừa nói: "Mẹ ơi! Anh ấy là bạn con! Anh ấy chỉ mới có 20 tuổi!" Cậu bé rơi vào một cơn khủng hoảng tâm thần nên không ăn uống gì. Cậu liền vào phòng, đóng cửa lại và leo lên giường nằm.
Điều khiến cậu bé rơi vào cơn khủng hoảng là vì chính cậu đang cố công dành lấy bằng lái may bay cho bằng được sang năm ở tuổi 16. Cậu đi làm ngoài giờ ở một tiệm tạp hóa, kiếm được đồng nào liền dốc hết vào việc học tập lái máy bay. Bố mẹ cậu rất lo lắng về hậu quả của thảm kịch nói trên. Họ nghĩ thảm kịch ấy có thể gây hại không nhỏ cho con mình. Ông bà chưa rõ cậu bé 15 tuổi này còn dám tiếp tục học lái may bay nữa không. Nhưng ông bà đã nhất trí để cho cậu bé tự do quyết định về vấn đề đó.
Những đức tính của Chúa Giêsu
Hai ngày sau tấn thảm kịch nói trên, mẹ cậu mang bánh bích qui bà mới nướng lên cho cậu ăn. Bà nhìn vào ngăn kéo bàn học của con và thấy có một tập vở mở trang. Đó là tập vở cậu bé còn giữ lại từ hồi thơ ấu. Ngay ở trang đầu bà đọc thấy hàng chữ hoa: "ĐỨC TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU". Kế đến, bà thấy con mình liệt kê những đức tính sau đây:
- Chúa Giêsu không hề phạm tội.
- Chúa Giêsu khiêm nhường và nâng đỡ người nghèo.
- Chúa không ích kỷ
- Chúa sống rất gần gũi với Thiên Chúa Cha là Cha của Người
Bà hiểu ngay con bà cũng biết theo gương Chúa Giêsu để cầu nguyện mỗi khi phải quyết định điều gì quan trọng. Thế là bà quay về phía con mà hỏi:
- Con quyết định thế nào về vấn đề học bay?
Cậu bé liền nhìn vào mắt mẹ mà trả lời:
- Thưa mẹ, con hy vọng rằng mẹ và bố sẽ hiểu cho con, nhưng với ơn Chúa giúp, con sẽ phải tiếp tục học bay.
Người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng
Cậu bé đó chính là Neil Armstrong ngày 20.7.1969 đã trở thành người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng.
Câu chuyện kể lại cho thấy con người của Đức Giêsu đã ảnh hưởng không nhỏ trên Neil Armstrong. Ngay từ thời thơ ấu, cậu đã biết chiêm ngưỡng cuộc đời Đức Giêsu. Rồi khi gặp gian nan thử thách, cậu đã không quên cậy dựa vào Đức Giêsu để lãnh lấy trách nhiệm cho tương lai đời mình.
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về những con người như Neil Armstrong, mà Thầy Giêsu chỉ định và sai đi cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Thầy sẽ đến (c.1). Những người ấy là loại người nào? Tại sao Thầy Giêsu chọn con số bảy mươi hai? Họ phải trở nên những con người như thế nào khi Thầy sai họ đi? Họ có đạt được điều Thầy chờ đợi nơi họ chăng?
Chỉ có thánh Luca ghi lại cuộc sai phái các môn đệ đợt hai này sau cuộc sai phái thứ nhất (Lc 9,1-6) liên quan tới Nhóm Mười Hai. Tác giả có thể dành cho đợt hai một ý nghĩa đặc biệt về sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội sau khi Đức Giêsu đã ra đi. Con số bảy mươi hai, theo các thầy ráp-bi của Do Thái giáo, chỉ về toàn cầu theo sách Sáng Thế chương 10 của bản văn Hy Lạp. Các môn đệ "được sai đi trước" (c.1) để chuẩn bị cho việc rao giảng thay vì đảm đang chính việc rao giảng. Họ được phái đi cứ từng hai người một để việc họ làm chứng về Đức Giêsu và về Nước Thiên Chúa mang tính cách chính thức (x. Mt 8,16). Nước Thiên Chúa phải do chính Thiên Chúa làm chủ. Do đó các môn đệ được cổ võ cầu nguyện để chính chủ mùa gặt sai thợ gặt đi gặt lúa về (c.2)
Tránh mọi ảo tưởng
Các môn đệ phải tránh mọi ảo tưởng. Trong thực tế họ phải kể mình như những con chiên ở giữa sói rừng nên phải hoàn toàn cậy dựa vào Chúa về tất cả những điều họ cần. Một số những điều Đức Giêsu căn dặn Nhóm Mười Hai (9,1-5) cũng được nhắc lại ở đây. Những người được sai đi phải ý thức về tính cấp bách của Tin Mừng, nên họ không được dừng lại thăm hỏi người này người kia vì đó là việc thường tốn phí nhiều thời giờ theo phong tục người Trung Đông.
Tin Mừng được công bố chính là Lời của Thiên Chúa. Lời đó không thể được kể như sứ điệp mà loài người có thể nhận hoặc khước từ tùy ý. Mọi người đều phải đối diện với ngày phán xét để nhận ra trách nhiệm của mình đối với Lời của Thiên Chúa.
Tên họ được ghi trên trời
Khi bảy mươi hai môn đệ đi sứ vụ trở về, họ lấy làm lạ về quyền lực đã được ban cho họ nhân danh Thầy Giêsu. Chính họ đã trừ được quỉ khỏi những người chúng ám. Như vậy là họ cùng với Thầy Giêsu đẩy lui được quyền bá chủ của quỉ thần trên mặt đất này. Thầy Giêsu xác nhận điều đó là đúng khi nói "Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống." (c.18). Nhưng Thầy có ý đặt các môn đệ trong viễn tượng cánh chung với cuộc chiến thắng cuối cùng chính Thầy sẽ mang lại (Ga 12,31; Rm 16,20). Các môn đệ cần phải nhìn xa thấy rộng theo viễn tượng đó. Họ phải tránh cái nhìn thiển cận khiến họ dừng lại ở vinh quang và quyền lực trần thế mà quên rằng họ phải theo Thầy Giêsu lên Giêrusalem cho tới đỉnh Can-vê trước đã. Thầy khuyến cáo họ chỉ nên mừng vì tên họ đã được ghi trên trời mà thôi (c.20).
Toàn Giáo Hội được sai đến với toàn thế giới
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bảy mươi hai môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai phái Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít" (Lc 10,2). Bài Tin Mừng cũng hàm ý cho thấy việc tông đồ không phải chỉ là việc giới hạn giữa mười hai môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu sai phái đi. Đó là việc của toàn thể Giáo Hội như sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy (số 863). Toàn Giáo Hội được sai đến với toàn thế giới. Mọi thành viên của Giáo Hội đều được dự phần vào cuộc sai phái chung đó tuy mỗi người mỗi khác. "Chính ơn gọi Kitô hữu tự bản chất đã là ơn gọi để làm tông đồ" theo lời Công Đồng Vaticanô II (Hoạt Động Tông Đồ, số 2). Thực ra mọi hoạt động của Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa Kitô nhằm trải rộng vương quyền của Chúa Kitô trên khắp mặt đất, đều được gọi là việc tông đồ.
"Chính Đức Kitô được Chúa Cha sai đi là nguồn suối cũng như nguồn gốc của toàn thể công cuộc tông đồ của Giáo Hội" (Hoạt Động Tông Đồ, số 4). Việc tông đồ của các thừa tác viên có chức thánh cũng như của các Kitô hữu giáo dân, mang lại kết quả là do họ sống gắn bó với Đức Kitô. Việc tông đồ mang những hình thức rất khác nhau do những ơn gọi khác nhau và những hồng ân khác nhau từ Chúa Thánh Linh. Nhưng đức ái luôn là linh hồn của mọi việc tông đồ, nhất là đức ái phát sinh do Thánh Thể.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn hiểu thế nào về lời Chúa Giêsu nói rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít" (c.12)? Thợ gặt không những chỉ về các thừa tác viên có chức thánh mà còn chỉ về mọi thành phần Dân Chúa. Riêng bạn làm thế nào đáp ứng được điều Chúa chờ đợi nơi phần đóng góp của bạn? Hay coi biết bao người chung quanh bạn cần được nghe hoặc được làm chứng về Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong ngày sau hết? Nhưng để được cứu thì ngay trong hiện tại họ đã phải sống như thế nào?
2. Tập vở của cậu bé Neil Armstrong trong câu chuyện nói trên có ghi một số những ĐỨC TÍNH của Chúa Giêsu, bạn có thể kể thêm một số những đức tính khác của Chúa Giêsu chăng? Để giới thiệu Chúa Giêsu với người thời nay, bạn nghĩ có những đức tính nào của Chúa Giêsu được người thời nay chú ý nhất?
Năm 1980, một tờ báo nọ có đăng một câu truyện lạ. Một người đi chợ đậu xe trước cửa nhà hàng: TN 14-C41
Năm 1980, một tờ báo nọ có đăng một câu truyện lạ.
Một người đi chợ đậu xe trước cửa nhà hàng. Mua đồ xong trở ra xe, thì thấy một tấm giấy để trên chỗ ngồi với hàng chữ như sau:
“Thưa bác, tôi định ăn cắp xe của bác. Khi đang nổ máy, sắp trộm xe lái đi, tôi nhận thấy một tấm giấy gắn trên cửa xe, với hàng chữ: Bình an cho bạn. Tôi dùng tay lại, và suy nghĩ. Tôi lý luận rằng: Nếu tôi ăn cắp xe của bác, chắc chắn bác sẽ mất bình an. Và tôi cũng sẽ cảm thấy giao động. Nếu ăn cắp xe của bạn thì đây sẽ là lần đầu tiên tôi đi làm cái nghề này. Vậy, bình an cho bạn và bình an cho tôi. Lần sau khi đi chợ, bác nhớ khóa xe cẩn thận.
Ký tên:
Người dự tính ăn trộm
Câu chuyện lạ trên đây giúp chúng ta hiểu lời Chúa phán hôm nay trong Phúc âm: “Khi vào nhà nào, trước tiên các con hãy chúc bình an cho nhà đó. Nếu nhà nầy có con cái của sự bình an, thì sự bình an của các con chúc sẽ đậu trên người ấy, bằng không, sự bình an sẽ trở về với các con.”
Người định ăn trộm kia phải là con cái của sự bình an, là một người có tâm hồn đoan chính, nên tấm bảng: “Bình an cho bạn”, đã mang lại sự bình an cho anh ta.
Nhưng sự bình an của Đức Kitô mà Ngài dạy các môn đệ hãy chúc cho người khác, là thứ bình an nào ? Đức Kitô muốn nói gì, khi Ngài nói “Bình an cho các con?”
Thưa: Khi Kinh thánh dùng chữ bình an, thì sự bình an nầy có thể có 4 nghĩa.
Bình an theo nghĩa thứ nhứt, là nghĩa quân sự, tức là không có chiến tranh. Trên bình diện quốc gia, không có cuộc huynh đệ tương tàn. Trên bình diện quốc tế, không có việc nước nầy sát phạt nước kia. Bình an quân sự là nghĩa thứ nhứt.
Nghĩa thứ hai là nghĩa cá nhân. Khi chúng ta nói: “Hôm nay tôi cảm thấy tâm hồn thoải mái an hòa, đó là sự bình an cá nhân.
Nghĩa thứ ba là nghĩa tôn giáo. Kinh thánh dùng tiếng bình an, theo nghĩa tôn giáo nầy để chỉ một sự liên hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta. Khi nói: “Tôi được bình an với Chúa”, chúng ta chỉ sự bình an theo nghĩa thứ ba.
Sau hết, Kinh thánh dùng tiếng bình an để chỉ một trạng thái của thiên hạ trong đó mọi người được an hòa với Thiên Chúa, với những người chung quanh và với chính mình.
Đó là sự bình an của Đức Kitô. Đó là sự bình an mà Đức Kitô muốn nói khi Ngài phán:
“Thầy để lại sự bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” (Gn 14:27)
Trong thánh lễ, linh mục nhắc lại sự bình an đó trước khi rước lễ. Sự bình an nầy chính là sự thể hiện Nước Chúa trên trần gian, mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.. dưới đất cũng như trên trời”.
Đó chính là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đem đến cho mọi người trong thiên hạ đời bấy giờ. Đó là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta mang đến cho mọi người trong thiên hạ hôm nay.
Ví dụ sau đây làm cho chúng ta hiểu được sứ điệp của Chúa hôm nay hơn chăng? Khi có cơn gió lớn miền nhiệt đới thổi trên Thái Bình Dương, người ta gọi là cơn tố (Typhon), nếu là thổi trên Đại Tây Dương, người ta gọi đó cơn Bão (hurricane).
Trong một cơn bão như vậy, thì có một trung tâm. Chính giữa trung tâm đó, có một nơi mà người Mỹ gọi là con mắt của cơn bão (eye of the hurricane). Trong khi ở chung quanh, cơn bão thổi lên ầm ầm, thì vùng trung tâm, tức là vùng con mắt, hoàn toàn yên lặng. Người đứng giữa trung tâm, ngước mắt lên, sẽ thấy trời quang mây tạnh, thấy mặt trời chói sáng, cảnh vật yên tĩnh như chẳng có việc gì xảy ra.
Con mắt hay là trung tâm của cơn bão là một hình ảnh Chúa muốn mặc cho mỗi thánh lễ, chẳng hạn thánh lễ Chúa nhựt hôm nay. Trong khi thế giới chung quanh chúng ta, biết bao những cơn bão tố xảy ra. Nào là cướp bóc, nào là nổi loạn, nào là chém giết lẫn nhau... thì trong thánh lễ giờ này, chúng ta được vui hưởng sự bình an của Đức Kitô, trong tình yêu thương của những người đồng đạo, đồng cảnh đồng thuyền...
Nhưng Chúa không muốn chúng ta ở lại giữa trung tâm của cơn bão tố. Sau khi thánhlễ hoàn tất, Chúa muốn cho chúng ta dấn thân vào trong giông tố, chia sẻ sự bình an của Chúa trong gia đình, trong cộng đoàn, trong toàn thế giới.
Chúng ta hãy thưa với Chúa như lời kinh Hòa bình rằng:
“Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...
“Vào nhà nào, các con hãy chúc bình an cho nhà đó.”
Muốn Hội thánh được phát triển, việc tông đồ đi làm chứng cho Chúa, để tập họp thêm nhiều: TN 14-C42
Muốn Hội thánh được phát triển, việc tông đồ đi làm chứng cho Chúa, để tập họp thêm nhiều người vào Hội thánh, không phải chỉ là việc của một số giáo sỹ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với chủ chăn của mình. Do đó, Luca đã cho chúng ta nhận thức về việc tông đồ của Hội thánh như sau:
1/ Mọi Kitô hữu phải làm tông đồ cho Chúa: qua hình ảnh Chúa chọn 70 (72) môn đệ:
Luca ghi điều này để nói lên:
a- Mọi người được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy đều là môn đệ của Chúa (Mẹ Têrêsa 28,19). Vì con số 70 (theo bản tiếng Hy-bá) hay số 72 (theo bản tiếng Hy lạp) là con cháu của Noe sau trận lụt Hồng Thủy (xem St 10), mà lụt đại hồng thủy là hình ảnh Bí Tích Thánh Tẩy.
b- Một mình Môsê (môn đệ Chúa) điều hành Israel không nổi, ông nghe nhạc phụ: chọn lấy 72 kỳ lão để tiếp tay với Môsê.
Vậy 72 môn đệ theo Luca có ý nói:
Chúa không chỉ chọn 12 môn đệ (giống nòi Do Thái, các con ông Giacóp làm môn đệ của Ngài mà thôi. Nhưng Ngài còn muốn chọn môn đệ từ các dân tộc khác, sau khi họ lãnh bí tích Thánh Tẩy.
Những người có chức thánh (12 môn đệ) còn cần được giáo dân (70 hay 72) cộng tác như các vị kỳ mục xưa giúp Môsê, như thể Hội thánh mới phát triển.
2/ Môn đệ đi làm chứng cho chân lý: Hình ảnh "Chúa sai từng hai người":
Theo luật Do Thái: "Một điều gọi là chân lý có giá trị, phải có ít nhất là hai người chứng (Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đón định do miệng hai, ba nhân chứng (xem Mathieu 18,16), mục đính là để tập họp dân về cho Chúa, vì thế, sắc lệnh về chức vụ và đời sống các Linh mục số 04 trong Cộng Đồng Vaticanô dạy: "Dân Thiên Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống (Chân lý) Lời này phải được đặt biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các Linh mục".
Nhất là người Linh mục của Chúa phải sống ý nghĩa"hai người đi".
Mến Chúa và yêu Ngài (Mt 22,34). Làm trước và dạy sau (Mc 6,30). Phá hủy và xây dựng (Ger 1,10). Đau khổ và vinh quang (Lc 24,26). Nô lệ và làm chủ (Mc 9,35). Lãnh nhận và dâng hiến (Mc 10,28t). Dùng giá trị đời này để quy về giá trị đời sau. (Lc 19,9).
Sống được như trên là đi dọn chổ tâm hồn đồng loại cho Chúa đến nơi Ngài định để Ngài ban phát ơn cứu độ. (Lc 10,1b).
3/ Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt: (Lc 10,2a).
Thợ gặt ít:
Suốt 03 năm Chúa chọn và huấn luyện các môn đệ (12 người). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn có 11 người được Ngài sai đi (đạt 91,67%, coi như đạt 92%). Đây là về lượng, còn về phẩm, trong số các kẻ Chúa sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (xem Mt 28,16-17).
Thế nhưng qua 20 thế kỷ, nay còn tệ hơn nữa:
Về lượng may ra nay đạt 1% số người Kitô hữu để được Chúa sai đi!
Về phẩm nay nhiều kẻ mang danh có đạo lại không tin Chúa!
Lúa chín đầy đồng:
Cách đầy 20 thế kỷ, có lúa chín đầy đồng, tức là có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm chân lý; nhưng nay chỉ thấy người khao khát đi tìm tiền của, danh vọng, hưởng thụ! Nên giả như có thợ đi gặt, cũng không có lúa mà gặt !?? Do đó, tình trạng thiếu thợ gặt lại còn trầm trọng hơn nữa, mà không có "thợ gặt" thì lại càng "thiếu lúa chín"!!!
Rõ ràng, người mang danh có đạo thua xa người vô thần. Vì người vô thần là kẻ xác quyết chỉ có hạnh phúc đời này nên họ ra sức xây dựng Thiên Đàng trần thế. Trong khi đó, nhiều người có đạo lại không chọn có lựa nào cho dứt khoát, bởi vì họ là người sống đạo "hồ nghi!".
4/ Muốn làm tông đồ, phải được sai đi:
Chúa phán: "Các con hãy xin chủ ruộng sai người đi gặt lúa"(Lc 10,2b). Cụ thể là Thánh Phaolô là một biệt phái bất nhiệt tình thờ Chúa theo luật Môsê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa (xem Cv 9,4). Nhưng khi ông được Chúa chộp lấy, lúc ấy ông mới ý thức về việc tông đồ Chúa trao cho Hội Thánh, ông nói: "Làm sao tin Đấng mà người ta không được nghe, làm sao mà nghe nếu không có người rao giảng, làm sao rao giảng nếu người ta không được sai đi" (Rm 10,14-15).
5/ Càng ở hiền càng gặp dữ:
Chúa phán: "Ta sai các ngươi như chiên vào giữa sói!" (Lc 10,3). Niềm tin "ở hiền gặp lành" chỉ có thề hiểu trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng:"Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều kẻ ghét mình, cuối đời vẫn thấy cô đơn!". Ta cứ nhìn thẳng vào Chúa Giêsu: ai không hơn Ngài? ai thánh thiện bằng Ngài? ai thương người bằng Ngài? Thế mà Ngài làm tông đồ cho Chúa Cha chưa được 03năm, chính những kẻ thụ ơn Ngài đã giết Ngài! Trên Thập Giá, Ngài nhìn xuống mọi kẻ thân thuộc đều trốn mất, chỉ còn lại những kẻ chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, Cha im lặng! Đến nỗi Chúa Giêsu phải thốt lên: "Lạy Chúa Trời tôi, sao Chúa bỏ tôi" (Mt 27,46).
Phaolô đã ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông nói: "Ước gì tôi đừng có vênh vang nói một điều gì, trừ phi là Thập Giá của Chúa chúng ta" (xem bài đọc 2: Gl 6,14t).
6/ Hãy sống nghèo:
Chúa phán: Đừng mang tiền, bao bị, giầy dép" (xem Lc 10,4a). Nghĩa là phải giống Chúa Giêsu: "Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta; đã trở nên nghèo khó, để nhờ sợ nghèo khó mà ta trở nên giàu có" (2 Cr 8,9).
Người tông đồ mỗi ngày sống bằng:
Ai cho gì dùng nấy, nên đừng lang thang đi kiếm chác! (Lc 10,7).
Chính Chúa là gia nghiệp đời mình! (Tv 15 (16),5).
7/ Việc Tông đồ là việc đi cấp cứu:
Chúa phán: "Đừng chào hỏi ai dọc đường" (Lc 19,48). Khi Êlisa sai đầy tớ mình là Ghêkhaji, cầm gậy của ông chạy mau về nhà bà lớn thành Shunem để đặt lên xác con bà, cho bé hồi sinh, vì việc cấp bách, Êlisa dặn tên đầy tớ: "Đi đừng chào hỏi ai" (xem 2 V 4,18-37). Như vậy không giảng Tin Mừng là phạm tội giết cả xác hồn người ta! (Cv 20, 24-27).
8/ Việc tông đồ luôn phát sinh sự bình an:
Chúa nói: "Vào nhà nào, chúng con hãy nói: "Bình an cho nhà này, nếu ở đó có con cái của sự bình an, thì bình an của các con chúc sẽ đậu lại trên nó, bằng không sự bình an sẽ trở về với các con" (Lc 10,5-6). Như vậy, ai đi làm Thiên Đàng là đem lại sự bình an cho môi trường sống và bình an trở về với chính mình, như Lời Chúa nói: "Lời từ miệng Ta phán ra, sẽ không trở lại với Ta cách hư luống, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và sinh hoa kết quả" (xem Is 55,10-11). Do đó, Thánh Phaolô nói: "Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảngTM" (1 Cr 9,16).
9/ Loan báo về giá trị nước Thiên Chúa:
Như ngôn sứ Isaia nói: "Các ngươi sẽ được bú no nên sữa an ủi, vinh quang từ đó ứa trào ra, vì đây là nguồn bình an trào ra như dòng sông cả, nguồn phúc vinh như thác lũ đổ xuống, các ngươi sẽ được nâng nui như mẹ hiền bồng con thơ" (xem bài đọc 1: Is 66,11-14).
Trong bối cảnh dân Do Thái thoát khỏi thời nô lệ Babylon, dân Chúa đã được hồi hương tái thiết lại Đền thờ Giêrusalem, Đền thờ này trở thành chứng từ về Thiên Chúa toàn năng, đầy lòng thương xót, muốn phúc lộc từ trời xuống tràn ngập cung điện. Giêrusalem trở thành người Mẹ hiền với bầu sữa căng đang chờ đón đứa con đến bú mớm! (xem bài đọc 1). Nhưng lời ngôn sứ Isaia chỉ thể hiện trọn vẹn vào thời Đức Kitô từ cõi chết sống lại. Do đó, người môn đệ Đức Kitô phải là những Isaia mới loan báo cho muôn dân biết về thành Giêrusalem mới (Hội thánh), hầu đưa cả loài người vào Hội thánh, vì Chúa muốn toàn thể trái đất quỳ lạy tôn thờ Chúa, và reo vui vì được Chúa cứu độ (Tv 65: ĐC).
10/ Phó thác công việc tông đồ cho Chúa:
Chúa Phán: Khi gặp chống đối, hãy rũ bụi chân ra khỏi thành đó" (Lc 10,11).
Đó là cử chỉ người Do Thái từ miền dân ngoại trở về quê Do Thái. Vậy kẻ nào chống đối lời giảng của môn đệ Chúa, nó là dân ngoại, hãy phó thác nó cho Chúa, vì Chúa Giêsu hay sang vùng dân ngoại rao giảng dù không hợp với quan điểm sống đạo của luật Môsê.
11/ Hình phạt cho kẻ bất tín:
Ai không nghe lời của Hội thánh rao giảng thì tội nặng hơn bọn đĩ điếm ở Sôđôma -mặc dù Chúa đã trút lửa đốt thành này- Bởi vì kẻ giết Chúa còn được Chúa cầu nguyện cho: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm" (Lc 23,34). Nhưng Ngài không cầu nguyện cho kẻ không nghe lời Hội thánh rao giảng: "Lạy Cha, Con không cầu xin cho thế gian, là kẻ không tin vào Con do Cha đã sai đến với chúng" (Ga 17,19).
12/ Niềm vui đích thực của người môn đệ:
Khi các môn đệ trở về báo cáo lại cho Chúa: "Nhờ Danh Ngài mà ma quỷ đã lụy phục họ,Chúa Giêsu nói thêmcho các môn đệ về sự thất bại của ma quỷ về lời giảng của họ: "Ta đã thấy Satan như chớp nhoáng từ trời sa xuống!" Là Ngài muốn gợi lại hình ảnh trong Isaia 14,12-13:
Lucifer (mang ánh sáng) chỉ hành tinh Venus (Sao mai). Vì kiêu ngạo nên đã bị quăng xuống vực thẳm. Tuy nhiên các môn đệ chớ mừng chỉ vì quỷ đã lụy phục họ, nhưng hãy mừng vì tên của họ được ghi trên trời. Có tên ghi trên trời nghĩa là những kẽ công chính được cứu độ (xem Kh 3,5). Mà làm sao có tên ghi trên trời được, nếu các môn đệ không thi hành điều mình loan báo! Bởi vì, cho dù họ có nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm phép lạ, mà họ lại không thi hành ý Cha trên trời, thì trước toà Chúa phán xét, họ bị kết án đã làm những điều gian ác! (Mt 7,21).
Vì thế, Thánh Phaolô tự nhắc nhở mình: "Coi chừng tôi làm thầy dạy người khác, chính tôi lại bị thải" (1 Cr 9,27).
Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi như những người mang bình an, ơn chữa lành và tin mừng cứu: TN 14-C43
Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi như những người mang bình an, ơn chữa lành và tin mừng cứu độ đến cho mọi người. Chúng ta phải có những ân sủng này thì chúng ta mới có thể chia sẻ cho người khác được. Hướng lên Chúa, chúng ta nài xin Người ban xuống cho chúng ta:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa ban cho chúng con bình an mà thế gian không thể cho được.
Chúa chữa lành những vết thương gây ra bởi tội lỗi chúng con. Chúa giúp chúng con biết mở tâm trí để đón nhận tin mừng cứu độ.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Is 66,10-14c
Được viết sau cuộc lưu đày từ Babylon trở về, bài đọc vẽ nên một bức tranh rực rỡ của phúc lành Thiên Chúa sẽ được ban tặng cho thành đô Giêrusalem và cho dân cư ở đó.
Bài đọc 2 : Gl 6,14-18
Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng đời sống người Kitô hữu là trở nên giống Chúa Kitô. Chính thánh Phaolô đã mang trên mình ngài những dấu tích thập giá của Đức Kitô. Tin Mừng: Lc 10,1-12.17-20
Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi.
MANG THEO BÌNH AN
Khi Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi, Người căn dặn các ông rằng câu đầu tiên họ nói khi bước vào bất kỳ nhà nào là: “Bình an cho nhà này” vì họ là sứ giả của thiện chí và bình an. Không thể làm được điều gì nếu không có sự bình an.
Vào một buổi sáng lễ Giáng Sinh tại Bắc Ailen, vào lúc cao điểm của cuộc xung đột, một linh mục Công giáo đã đi băng qua đường đến địa hạt của nhà thờ Tin Lành, để chúc vị mục sư và cộng đoàn một ngày lễ Giáng Sinh vui vẻ. Vị mục sư đã tiếp đón vị linh mục cách thân tình, trao đổi cho nhau những lời chúc mừng và sau đó đã có một cuộc viếng thăm đáp lễ. Tuy nhiên, một vài người lớn tuổi trong nhà thờ Công giáo đã phản ứng giận dữ và dùng các biện pháp để trục xuất vị mục sư ra khỏi giáo xứ.
Hai vị giáo sĩ trên cảm thấy mình phải làm những gì mà Chúa muốn họ làm, tức là trở nên công cụ bình an và hoà giải trong một xã hội bị chia cắt và xung đột.
Bình an không phải là thái độ tiêu cực. Không chỉ là việc không còn kẻ thù và chiến tranh. Bình an là thái độ tích cực. Bình an bao hàm thái độ cởi mở, tình bằng hữu, lòng khoan dung, thiện chí, lòng mến khách và hoà giải. Bình an đưa chúng ta đến được với mọi người xung quanh. Bình an giúp ta vượt qua các rào cản về sự ngờ vực, sợ hãi, định kiến và cố chấp.
Hoạt động cho sự bình an nghĩa là chào đón mọi người đến với ta, dẫu cho đó là những kẻ làm ta khó chịu hay bất đồng ý kiến với ta, những người gây cho ta đau khổ. Con đường đến với bình an là chấp nhận mọi người với bản chất thật của họ, với cả sự yếu đuối và giới hạn của họ. Chúng ta cần phải đem bình an đến không chỉ nơi bạn bè của ta mà còn mang đến nơi chính kẻ thù của ta.
Trước lúc Hiệp lễ, chủ tế thường đọc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.” Món quà quý giá nhất mà Chúa ban cho chúng ta đó là bình an của Đức Kitô, bình an mà thế gian không thể ban tặng. Và sau đó linh mục mời gọi ta "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau." Đôi tay chúng ta dang đến với người anh em bên cạnh cũng chính là đôi tay chúng ta lãnh nhận Chúa Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Đến với Thánh lễ để chúng ta lãnh nhận phúc lành từ Chúa. Nếu tất cả những gì chúng ta nhận được không gì khác hơn ngoài sự bình an, có nghĩa là chúng ta đã sử dụng thời gian đó một cách hữu ích. Chúng ta phải sẵn sàng chia sẻ những gì chúng ta đã nhận được. Kết thúc một trận đá banh hay một bộ phim, chúng ta đứng dậy và đi về, kết thúc thánh lễ không như thế. Kết thúc thánh lễ, chúng ta được sai đi. Đã lãnh nhận bình an của Đức Kitô, giờ đây chúng ta được sai đi như những sứ giả của sự bình an đó đến với mọi người.
Nếu muốn trở thành những sứ giả bình an có hiệu quả, chúng ta phải có ba điều cần thiết sau: Trước tiên, sự an bình trong chính nơi tâm hồn của ta. Thứ đến, là ước muốn được chia sẻ bình an đó với mọi người. Cuối cùng, mọi người cũng có ước muốn được đón nhận bình an đó từ chúng ta.
Mùa gặt rất lớn. Cơ hội để chia sẻ hoà bình, kiến tạo hoà bình thì rất nhiều. Có thể chúng ta không luôn luôn thành công, vì phải có ít là hai người mới có thể tạo ra sự bình an. Mối nguy hiểm lớn nhất là chúng ta để cho người khác lấy mất đi sự bình an trong ta. Điều này xảy ra khi chúng ta trở nên giận dữ, thù địch, thất vọng, căm thù khi người khác không đáp lại cách tử tế với chúng ta.
Chúng ta phải chấp nhận rằng, không phải lúc nào sự bình an của chúng ta cũng đều được chấp nhận. Nó có thể quay ngược trở lại với ta như là tiếng vọng của chính giọng nói ta. Nhưng ít là chúng ta đã cố gắng. Trong một thế giới bị tàn phá bởi hận thù, giận dữ và căm hờn, chúng ta bị thách đố sống ơn gọi trở nên dấu chỉ của tình yêu để liên kết mọi người với nhau và chữa lành những vết thương.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Là những người được Thiên Chúa kêu gọi trở nên nhân chứng cho Chúa Kitô trong một thế giới lãnh đạm thờ ơ, chúng ta cầu xin cho chúng ta có sự can đảm và tâm tình phó thác.
Xướng: Cầu nguyện cho Giáo Hội được tiếp tục trung thành với sứ mạng của Chúa Giêsu đã uỷ thác cho: loan Tin Mừng đến khắp cùng thế giới.
Xướng: Cầu nguyện cho các Kitô hữu trở nên những nhân chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người bằng lời nói và việc làm.
Xướng: Cầu nguyện cho các tổ chức xã hội để họ phấn đấu trở nên những công cụ xây dựng hoà bình và hoà giải.
Xướng: Cầu nguyện cho những ai đang đau khổ, để họ cảm nghiệm được rằng bước theo Chúa Kitô, họ không còn chịu đau khổ một mình nữa.
Chủ tế: Lạy Chúa nhân từ, xin giúp chúng con đặt tình yêu mến làm nền tảng cho đời sống. Để tình yêu của chúng con với Chúa được diễn tả bằng sự say mê làm những điều tốt đẹp cho anh chị em. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giê-su đã long trọng tuyên bố và đã sai 72 môn đệ đi loan báo: TN 14-C44
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giê-su đã long trọng tuyên bố và đã sai 72 môn đệ đi loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến”! Thế mà chưa tới 10% dân số Việt Nam nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa sau hơn 500 năm Tin Mừng được rao giảng và đón nhận trên mảnh đất quê hương này. Suy nghĩ về sự kiện trên, chúng ta sẽ có thêm động lực để dấn thân vào công cuộc loan báo Tin Mừng cho đồng bào thân yêu của chúng ta. Trước hết chúng ta cần kiểm điểm chính bản thân về lối sống Đạo “kém hiệu quả” của mình; kế đến là trang bị cho mình một hành trang cần thiết; và cuối cùng là hăng hái và dũng cảm lên đường loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” cho những người chung quanh!
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Is 66,10-14c: Nay Ta đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả. 10 Đức Chúa phán thế này: “Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, 11 để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.
12 Vì ĐỨC CHÚA phán như sau: Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. 13 Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về. 14 Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc, thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh. ĐỨC CHÚA sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết”.
(2) Bài đọc 2: Gl 6,14-18: Tôi mang trên mình những dấu tích của Chúa Giê-su.
14 Thưa anh em, ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. 15 Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. 16 Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Ít-ra-en của Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người.
17 Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giê-su 18 Thưa anh em, nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho thần trí anh em được đầy tràn ân sủng. A-men.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 10,1-12.17-20: Bình an của anh em ở lại với người ấy
1 Một hôm, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông: 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! " 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông." 10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: 11 "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến.
17 Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con." 18 Đức Giê-su bảo các ông: "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào? (1) Bài đọc 1 (Is 66,10-14c) là những lời của ngôn sứ I-sai-a nói tiên tri về những việc Thiên Chúa sẽ thực hiện cho thành thánh Giê-ru-sa-lem là nơi Thiên Chúa ngự và cho dân Ít-ra-en là dân riêng của Gia-vê.
Qua đoạn Sách Is 66,10-14c chúng ta thấy Thiên Chúa đối xử yêu thương như thế nào đối với những người con của Chúa và với Giê-ru-sa-lem, nơi có ngai tòa của Chúa. Người tuôn đổ muôn hồng ân. Người âu yếm chăm sóc như người mẹ hiền chăm sóc con thơ.
(2) Bài đọc 2 (Gl 6,14-18) là những lời tâm tình của Thánh Phao-lô về niềm hạnh phúc được rao giảng Thập Giá của Chúa Ki-tô và được vác thập giá ấy trong đời sống tâm linh và truyền giáo của ngài.
Trong đoạn thư gửi tín hữu Gl 6,14-18 chúng ta khám phá ra thập giá của Chúa Giê-su Ki-tô là niềm tự hào của Thánh Phao-lô, là nguồn ơn cứu độ của hết mọi người.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20) là những lời nhắn nhủ của Chúa Giê-su nói với 72 môn đệ mà Người sai đi loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã gần” cho các làng mạc mà Chúa sẽ đến sau. Không chỉ loan báo bằng lời nói mà phải bằng cả thái độ và cách sống nữa. Có thể nói đó là hành trang cần thiết cho người loan báo Nước Trời. Cụ thể là một tinh thần cảnh giác và khôn ngoan (chiên giữa bày sói); là lối sống khó nghèo (không mang túi tiền, bao bị. giầy dép); là tâm tình cầu phúc cho người khác (bình an cho nhà này); là cách sống đơn sơ giản dị (ăn những gì người ta dọn cho); là tinh thần phục vụ (chữa lành những người đau yếu) và khiêm tốn (chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời).
Qua Bài Phúc Âm Lc 10,1-12.17-20 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là một bậc Thày siêu hạng, vì Người đã cặn kẽ chỉ bảo từng ly từng tý cho các môn đệ là những người được giao sứ mạng loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã đến”.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến"
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Xin đề nghị cách thực thi Sứ Điệp Lời Chúa của Chúa Nhật XIV Mùa Thường Niên hôm nay là điều chỉnh cách chúng ta sống cho phù hợp với sự kiện trọng đại là “Triều Đại Thiên Chúa đã đến”. Cụ thể là sống trong/dưới Triều Đại ấy và loan báo Triều Đại ấy cho những người chung quanh.
Sống trong/dưới Triều Đại của Thiên Chúa là đón nhận Tình Yêu và sự Chăm Sóc của Thiên Chúa (bài đọc 1). Cũng là đón nhận và chia sẻ Thập Giá của Chúa Ki-tô (bài đọc 2). Loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” (bài Tin Mừng) là làm cho những người chung quanh nhận biết và đón nhận Vương Quyền Yêu Thương của Thiên Chúa, bằng lời nói, việc làm và cách sống cụ thể của chúng ta. Để hoàn thành sứ vụ một cách đẹp lòng Chúa và hiệu quả chúng ta cần có một tinh thần cảnh giác và khôn ngoan, một đời sống khó nghèo và tâm tình cầu phúc cho người khác, một cách sống đơn sơ, phục vụ và khiêm tốn.
Mỗi người hãy xét mình xem đã sống và thực hiện đến đâu nội dung giáo huấn của Lời Chúa?
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” - Lạy Thiên Chúa là Chúa muôn loài muôn vật, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã khai mở Triều Đại của Chúa trong trần gian để đón nhận hết mọi người vào trong Vương Quốc Tình Yêu ấy. Xin Chúa cho chúng con biết đón nhận và sống trong/dưới Triều Đại của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 “Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về”- Lạy Thiên Chúa là Chúa của Ít-ra-en, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã yêu thương và chăm sóc chúng con như mẹ hiền yêu thương và chăm sóc con thơ. Xin Chúa cho chúng con biết đón nhận tình yêu và sự chăm sóc yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến” - Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì chúng con đã được Con Cha sai đi như 72 môn đệ xưa, Xin Chúa cho chúng con can đảm thi hành sứ mạng mà Chúa đã giao cho chúng con, là loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” cho đồng bào Việt Nam hôm nay.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Tuần tự theo sát bài đọc, chúng ta nhấn thêm vào mấy khía cạnh bản văn. Sứ mạng truyền giáo: TN 14-C45
Tuần tự theo sát bài đọc, chúng ta nhấn thêm vào mấy khía cạnh bản văn. Sứ mạng truyền giáo là khẩn thiết, vì lúa chín cần có những thợ gặt. Phải xin Chủ mùa sai thợ gặt đến. Sự truyền bá sứ điệp Phúc Âm giữa nhân loại gặp phải sức chống đối thù nghịch. Sứ giả Phúc Âm phải dốc toàn sức vào công việc tông đồ, không để bị vướng mắc bởi những quyền lợi vật chất và những quy ước xã giao (lời chào hỏi nói đến trong bài Phúc Âm ám chỉ nghi thức đông phương rườm rà làm mất thời giờ). Sứ điệp mang đến cho thế giới tin mừng bình an vì Nước Trời gần tới. Phúc thật cho nhà nào tiếp đón tông đồ của Phúc Âm. Vô phúc cho nhà nào từ chối sứ điệp vì trí óc và tâm hồn nhiễm khuynh hướng xấu.
Bài đọc gợi ý một số câu hỏi.
1) Chúa sai họ, từng toán hai người một, đi trước Người đến mọi thành thị nơi chốn Người định đến.
Tại sao Chúa muốn cần đến những sứ giả? Tại sao Thiên Chúa không tỏ mình ra cho người ta? Dễ lắm, nếu được thế nhiều sự việc sẽ trở nên giản dị. Việc thiết lập Giáo Hội sẽ chẳng còn cần thiết, mỗi lương tâm sẽ đặt trước một sự lựa chọn rõ rệt và có trách nhiệm. Sở dĩ Thiên Chúa mặc lấy tính nhân loại trong con người Đức Giêsu và nói với con người qua Giáo Hội, vì Thiên Chúa tôn trọng quyền tự do của con người. Đức Giêsu Người-Chúa đã trở nên Thiên Chúa mà không xâm phạm bất cứ quyền tự do nào Người gặp thấy. Giáo Hội, một định chế vừa nhân bản vừa thần linh, phải có thần tính mà không xâm phạm bất cứ quyền tự do nhân loại nào trong thế giới mà Giáo Hội có sứ mạng cứu rỗi. Chúa muốn cần có những sứ giả bên cạnh nhân loại, bởi vì điều Giáo Hội đòi hỏi ở người ta là tự do đón nhận đức tin.
Sứ giả đức tin phải ý thức sáng suốt về vai trò mình. Đối với bản thân cũng như đối với người khác, phải tránh ràng buộc Phúc Âm vào những quyền lợi thế tục. Sứ giả đức tin không tìm kiếm trong Phúc Âm những quyền lợi thế tục, không rao giảng Phúc Âm như một giá trị hay một hệ thống văn minh. Điều ấy là phụ, tự nó sẽ đến. Những gì là thế tục, tài chính, kinh tế, đều không phải là công việc của người tông đồ.
2) Hãy chữa lành những bệnh nhân.
Đã có một thời gian ngắn các tông đồ làm những việc chữa lành bệnh nhân như là những dấu chỉ, những điều lạ, để hậu thuẫn cho công việc rao giảng. Tuy nhiên sự chữa lành Phúc Âm đề nghị với mọi người ở một tầm cao khác. Sự rao giảng Phúc Âm phải gây ra trong người ta một ý thức có hai mặt: ý thức mình đau ốm, nghĩa là có tội – và ý thức mình được cứu rỗi nhờ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Từ quan điểm kép, Phúc Âm làm phát sinh mâu thuẫn bởi lẽ con người khó mà nhìn nhận rằng mình tội lỗi – và ơn cứu độ Phúc Âm đề nghị là sự chữa lành bằng thập giá, phương thức ấy khiến con người vấp phạm. Hạnh phúc thay kẻ nào đón nhận Phúc Âm.
Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rảo khắp: TN 14-C46
Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.
Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestien để rao giảng Tin Mừng. Đồng thời, Ngài cũng đã chọn lựa và sai phái các môn đệ ra đi, để tiếp tay với Ngài trong sứ mạng cao cả ấy.
Tuy nhiên những cố gắng ấy dường như không đáp ứng nổi với nhu cầu khẩn thiết, vì thế mà Chúa đã nói:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ tới gặt lúa.
Trải qua dòng thời gian, lời xác quyết này vẫn còn là một sự thật, bởi vì ngày hôm nay con số những người tin nhận Chúa mới chiếm được 30%, và riêng những người Công giáo thì mới chỉ được có 17% dân số trên thế giới.
Đồng thời qua lời xác quyết ấy, Chúa cũng muốn kêu mời chúng ta hãy trở nên là những người thợ gặt của Chúa. Có nghĩa là, chúng ta cũng hãy góp phần vào việc truyền bá đức tin, làm cho Giáo hội được phát triển. Dĩ nhiên chúng ta có rất nhiều phương pháp để rao giảng Tin Mừng.
Chẳng hạn bằng việc ra đi như các tông đồ các vị thừa sai, bằng việc cầu nguyện như các vị tu sĩ trong dòng kín… Thế nhưng, hôm nay tôi muốn giới thiệu tới quí ông bà một phương pháp mà mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải thực hiện, đó là truyền giáo bằng chính đời sống, bằng chính gương sáng của chúng ta.
Để hiểu được hậu quả tốt đẹp mà phương pháp này đem lại, tôi xin kể hai mẩu chuyện nho nhỏ.
Mẩu chuyện thứ nhất đó là có một người Tin Lành, nghe tiếng cha Vianney là một người đạo đức thánh thiện, bèn tìm đến xứ Ars để kiểm tra sự thật. Sau khi ra về, người ta hỏi ông đã thấy được những gì, thì ông trả lời:
- Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người.
Và sau đó thì ông đã trở lại với Giáo hội Công giáo.
Mẩu chuyện thứ hai đó là có một người khô khan nguội lạnh, tình cờ đi ngang qua nhà thờ, ông thấy một cô bé đang dẫn mấy em nhỏ vào nhà thờ. Ông đứng quan sát và rồi đã đi theo cô bé. Thấy nét mặt trang nghiêm và sốt sắng của cô bé khi cầu nguyện, ông đã thực sự xúc động, và rồi cuối cùng, ông cũng đã trở về cùng Chúa.
Với hai mẩu chuyện này chúng ta thấy được sức cảm hóa của gương sáng như thế nào. Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
- Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói:
- Gương sáng chính là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức lôi cuốn và thuyết phục người khác.
Đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta chính là một thứ ánh sáng cần thiết cho xã hội như lời Chúa đã phán:
- Các con là ánh sáng thế gian. Bởi vì nhờ các việc chúng ta làm mà người khác sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, để rồi cũng sẽ tin nhận Ngài.
Giữa một thế giới đã xa lìa Thiên Chúa, đang chìm dần vào sa đọa và tội lỗi, thì chúng ta có bổn phận phải thắp lên một ngọn lửa, chứ đừng ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Và ngọn lửa chúng ta thắp lên là gì ? Tôi xin thưa đó chính là đời sống gương mẫu của mỗi người chúng ta.
Bà Tôrôtê đã nhận định thật hay về cuộc đời của một người sống theo lý tưởng như sau: Ai mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít, và do đó, người đó trước sau vẫn y nguyên như vậy, không có gì thay đổi và có rất ít cả thể để tìm gặp kẻ đó đang tìm kiếm. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì. Để gặp được điều ta tìm kiếm thì điều kiện phải có là biết từ bỏ hoàn toàn, lừng chừng thỏa hiệp nửa vời sẽ mang đến tàn phá mà thôi.
Nếu những dòng diễn tả trên diễn tả đúng cho cuộc sống theo lý tưởng nào đó thì nó lại càng đúng hơn nữa cho cuộc sống của người đồ đệ của Chúa mà bài Phúc âm hôm nay muốn nhắc lại cho chúng ta một vài đặc điểm.
Khi Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, đặc điểm nổi bật nhất dĩ nhiên phải là sự từ bỏ, để lại đàng sau nhiều điều, nếu không muốn nói là tất cả mọi điều, để chỉ có Chúa và sự công chính của Chúa trước hết. Ai muốn mang theo mọi sự với mình thì sẽ để lại rất ít. Rất ít có cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Người sống ích kỷ muốn mang theo tất cả mọi sự cho mình thì sẽ để lại rất ít, nhất là khi chết rồi thì chẳng còn gì và sẽ có rất ít cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Sẽ có rất ít cả thể để theo Chúa cho đến cùng, để sống trọn vẹn cuộc đời theo Chúa.
Chúa Giêsu ý thức rõ ràng cuộc đời của môn đệ gặp nhiều thử thách. Ngài sai các ông ra đi như chiên vào giữa sói rừng, nhưng Chúa vẫn đòi hỏi môn đệ phải có thái độ từ bỏ những an toàn của con người và do con người tạo ra, đó là tiền, bao bị, giầy dép và liên lạc xã giao thường tình. Chúa sai các ngài ra đi với lời căn dặn: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là những điểm nói lên sự an toàn của con người, do con người tạo ra và Chúa muốn cho những đồ đệ của Ngài ra đi làm những công việc của Ngài, không ỷ lại vào những sự an toàn của con người, do con người tạo ra.
Thật là những lời khuyên, những mệnh lệnh, xét theo thường tình con người thì rất là ngược đời, nếu không muốn nói là không khôn ngoan chút nào hoặc không thể thực hiện được. Nhưng Chúa Giêsu giõng dạc thay đổi nhằm đến một thái độ từ bỏ, không ỷ lại vào những sự an toàn của cuộc sống.
Một nhà truyền giáo tương lai sắp sửa lên đường viết thơ cho vị giám mục như sau để hỏi về những điều cần thiết cho cuộc sống của mình trước khi lên đường đến nhận nhiệm sở, nhà truyền giáo đó hỏi:
- Có xe để di chuyển không ?
- Nhà ở có máy lạnh không ?
- Có người giúp nấu cơm cho ăn hay không ?
- Trong nhà có tủ lạnh hay không ?
- Có tiền lương mỗi tháng bao nhiêu ?
- Có được đi nghỉ hè mỗi năm không ? v.v…
Dĩ nhiên nhà truyền giáo đó muốn cho mình mọi sự an toàn trước khi dấn thân. Nhà truyền giáo đó đã nhận được thơ trả lời rất nhanh của vị Giám mục yêu cầu đừng đến làm việc truyền giáo nơi giáo phận của ngài nữa.
Phải chăng, chính bản thân chúng ta cũng dễ dàng bị cám dỗ bởi những đòi hỏi tiện nghi vật chất cho cuộc đời theo Chúa của mình. Muốn có thật nhiều thì rốt cuộc chẳng có bao nhiêu. Đó là về thái độ sống của người đồ đệ của Chúa. Về nội dung sứ điệp rao giảng thì sao ? Chúa Giêsu căn dặn các đồ đệ trong bài Phúc âm hôm nay: “Vào nhà nào chúng con hãy nói bình an cho nhà này”. Lời này loan báo trước lời chúc bình an của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi Chúa Phục sinh hiện ra cho các ông và sai các ông ra đi mang bình an của Chúa đến cho mọi người. Lúc đó, Chúa hiện ra cho các môn đệ và nói: “Bình an cho các con”.
Được huấn luyện, được thực tập trước để rao giảng sự bình an cho anh chị em mình, nên chắc chắn khi ban bình an cho các môn đệ, các môn đệ sẽ hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa về hệ quả của lời chúc bình an này mà Chúa đã phải chết trên thập giá để mang đến cho các ông.
Nhận sự bình an của Chúa, các môn đệ được sai đi chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Nhưng nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình và những điều trần tục, những sự an toàn ích kỷ này thường là những điều gây chia rẽ, xung đột, bất hòa giữa cá nhân với nhau, đó là nói trên bình diện nhỏ và nếu nói trên bình diện lớn thì sẽ gây chiến tranh giữa các quốc gia.
Nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình thì làm sao có thể chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em được. Ai muốn mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít và rất ít để tìm gặp điều mình mong muốn. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì cả.
Lời Chúa hôm nay còn muốn nói với chúng ta nhiều điều khác nữa, nhưng ít ra trong giây phút này chúng ta hãy xét mình lại về hai điểm vừa được gợi ra cho chúng ta đó là:
Thái độ từ bỏ mọi sự để theo Chúa không ỷ lại vào sự an toàn của con người, nhưng cần nghĩ đến sự quan phòng chăm sóc của Chúa cho đời sống của mình. Và điểm thứ hai là chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tâm hồn chúng ta, để chúng ta có được đầy tràn sự bình an của Chúa, qua đó chúng ta có thể chia sẻ sự bình an ấy cho anh chị em. Chúng ta đến cử hành thánh lễ và trong thánh lễ trước khi chúng ta đón nhận Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta được mời gọi nhớ lại lời hứa bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an, bình an mà thế gian không thể ban cho”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sự bình an này và gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Vào những năm sau 1975 cho đến giữa thập niên 90 thế kỷ trước, với chế độ bao cấp kinh tế: TN 14-C47
Vào những năm sau 1975 cho đến giữa thập niên 90 thế kỷ trước, với chế độ bao cấp kinh tế, việc chia chác công điểm và lúa má diễn ra thật bi hài: một năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” chẳng đủ chống chọi miếng ăn đến ngày giáp hạt, cho dù tiết kiệm đến đâu, sau khi đã độn thêm vài phần ngô khoai. Lúa gặt làm gì có để mót và cũng chẳng ai cho phép mót. Sau hai mươi năm đổi mới, giá gạo vẫn cao nhưng nước ta đã có dư để xuất khẩu nhiệu triệu tấn mỗi năm, vươn lên hàng thứ hai về xuất khẩu lúa gạo. Chẳng còn ai buồn đi mót nữa, vì một công mót được dăm ba kí-lô lúa, với giá mươi ngàn đồng, thua thu nhập của bất cứ loại công nhật nào.
MÓT, tuy vậy, là một “nghề” có niên đại rất xa xưa, là công việc mà nhờ đó Bà Rút hiền thục chịu thương chịu khó và hiếu thảo với mẹ chồng, đã gặp Ông Booz và trở thành Bà Tổ của Chúa Giê-su. Bài đọc hôm nay Chúa Giê-su nhắc các môn đệ xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, để kịp thu hoạch vụ mùa bội thu và ghi cho các môn đệ nguyên cả một danh mục và kim chỉ nam cho việc đi truyền giáo. Thợ gặt – ngày nay được thay bằng máy móc đủ chủng loại, những máy liên hợp giải phóng tối đa sức lao động của con người, trong khi năng suất tăng hàng chục, thậm chí hàng trăm lần – tất nhiên là cần, nhưng biết bao bông lúa đẹp, chắc, vô tình bị bỏ sót lại, mà chẳng có ai đoái hoài việc thu lượm. Do vậy, đất dụng võ của thợ mót ngày càng rộng lớn và cần thiết !
Ngày nay, với đà công nghiệp hóa và chạy đua trong cuộc mưu sinh cũng như thoả mãn những đòi hỏi tiện nghi, các nhà máy, các khu công nghiệp vươn những chiếc vòi như bạch tuộc để hút về phục vụ nó gần như tất cả những người trẻ tuổi, kể cả đang sinh sống ở những vùng nông thôn hiền hòa vô sự. Họ bị cuốn hút vào cái guồng máy khổng lồ, không còn được làm chủ giờ giấc của mình, không còn được làm chủ sở thích công việc. Trầm uất là cái giá phải trả cho cuộc chạy đua không có điểm dừng này.
Song điều đáng lo ngại nhất là đạo đức và gia đình. Mỗi khi nghe những đứa trẻ đọc những câu trong sách giáo khoa: “Bố tan ca đêm; Mẹ vào ca sáng…”, ta không khỏi thấy nhói lên trong lòng một nỗi đau, một sự lo ngại, khi mà gia đình đang bị ly tán một cách vô tình nhưng hợp pháp. Hạnh phúc lứa đôi và gia đình sẽ như thế nào, khi mà chồng “tan ca đêm”, thì vợ “vào ca sáng” ? Những thời giờ dành cho nhau, ở bên nhau để âu yếm, tâm sự, chia sẻ tình yêu và xây dựng gia đình dần dần chỉ còn trong kỷ niệm và trong…giấc mơ !
Phụng Vụ, tham gia đời sống Mục Vụ với cộng đoàn là nỗi thèm muốn, song dần dà gần như bất khả kháng. Xa Lời Chúa và xa Mình Máu Chúa, lại gần gũi với các đồng nghiệp nam nữ cùng ca kíp, khi tâm hồn mệt mỏi cô đơn, cần có tri kỷ, liệu họ sẽ giữ hạnh phúc gia đình, sự chung thủy và linh hồn được bao lâu ? Vai trò “thợ mót” lúc này mới cần đến !
Người thợ mót qúy trọng từng bông lúa, có thể rất chắc, cũng có thể nhiều hạt lép. Những bông lúa bị bỏ lại, chừa ra do vô tình, phải được quan tâm và chăm sóc như hoặc hơn những bó lúa, những hàng lúa, những cánh đồng lúa bạt ngàn. Đó là những con chiên lạc ( Lc 15, 4 – 7 ). Đó là những đồng bạc bị đánh rơi ( Lc 15, 8 – 10 ). Chúa quý trọng như và hơn chín mươi chín con chiên ngoan ngoãn, như và hơn cả kho bạc an toàn, bởi vì giá trị vô cùng của một cuộc đời và của một linh hồn, bởi vì giá trị không gì sánh được của một người con do Chúa vô cùng nhân hậu tạo thành và yêu thương. Vì thế, Chúa đòi hỏi các “thợ mót” phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho những bông lúa rơi sót này: chăm chút hơn, cho họ cảm nhận sâu xa tình yêu của Chúa đối với họ qua chính tình yêu thương và ân cần nhiệt tình của chúng ta; không buộc họ phải theo một thời khóa biểu do ta ấn định, mà phải sẵn sàng để mời đón họ những lúc họ thu xếp được giờ rỗi rảnh và thoát được áp lực công việc.
Tóm lại, họ phải cảm nhận được tình thương thật sự nơi chúng ta, chỉ vì họ và chúng ta là con cùng một Cha và vì chúng ta muốn quan tâm chia sẻ và giúp đỡ họ. Các anh chị em chúng ta – nhất là những kẻ dò dẫm đi tìm Chúa – phải thấy được nơi chúng ta một chỗ cho anh chị em dừng chân nghỉ ngơi, tin cậy và được cảm thông an ủi, sẵn sàng nghe mọi tâm sự buồn vui của họ. Đó đã là những bài Giáo Lý hết sức giá trị và hiệu quả. Người Thợ Mót phải thấy hạnh phúc thật sự khi được phục vụ anh em mình. Tuyệt nhiên không được khó chịu, bực bội, tỏ ra mệt mỏi, miễn cưỡng hoặc thất hẹn.
Lạy Chúa Giê-su, chính vì thế mà chúng con say mê làm nghề thợ mót: các vị bề trên có thể phê bình điểm này điều nọ ở các “thợ gặt” - những giáo lý viên các khoá Giáo Lý có tổ chức bài bản. Không ai lục vấn khả năng, trình độ hiểu biết, trình độ sư phạm của “thợ mót”, bởi biết rằng chúng con chỉ có trái tim để yêu mến cảm thông và mong cho anh chị em, qua những bài học chân tình đơn sơ từ môi miệng và lòng trí chúng con, mà nhận ra và gọi Chúa là Cha: ABBA – BỐ ƠI. Chúng con muốn khóc khi nghe anh chị em gọi Chúa như thế, hết sức xác tín, hết lòng kính yêu.
Chúng con chỉ có đôi tai và lòng kiên nhẫn, để nghe và chia sẻ những tâm sự mà anh chị em tỏ bày với chúng con: ngổn ngang và đa đoan, nhưng lại chóng tháo được nút thắt, mà nếu không được gỡ bỏ, thì không chừng sẽ trở thành sợi thòng lòng thít chặt đời họ. Chúa cúi xuống và dạy chúng con cúi xuống mở nút thắt cuộc đời của họ, cho họ.
Hoá ra thật đơn giản: chỉ cần họ nhận ra Chúa là Cha, chỉ cần họ thấy Chúa sinh ra, chịu khổ nạn và sống lại vì họ. Có nghĩa là chỉ cần họ cảm nhận được TÌNH YÊU VÔ BIÊN của Chúa đối với họ, với cuộc đời vây chặt họ bằng sự lạnh lẽo của máy móc công nghiệp, của giá lạnh tình người mà giá trị lắm khi bị cân đong đo đếm bằng kim tiền, của xã giao và nghi ngờ, gian dối, lừa lọc.
An bình là thứ duy nhất mà con người ngày nay thiếu và sẽ thiếu mãi. Tâm tình ấm áp mà Thánh Vịnh 22 sẽ làm con tim họ chan chứa cảm mến và biết ơn, sẽ gắn bó đời họ với lời ca tụng, yêu thương và sống xứng đáng với Ơn Gọi Ki-tô hữu, tức là đáp đền Tình Yêu của Chúa.
Cho nên, trong lòng chúng con luôn dậy lên lời cảm tạ tri ân, vì Chúa đã đoái nhìn và dùng chúng con – dù chỉ là thợ mót - để đem Chúa đến cho anh chị em muốn tìm đến Chúa, mà cuộc sống bộn bề lo toan, mà thời giờ hiếm hoi những lúc rãnh rỗi. Con đem theo những gì khi đến với các anh chị em đó ư ? – Đơn giản lắm: một NỤ CƯỜI TƯƠI LUÔN NỞ TRÊN MÔI, chỉ ở Thiên Đàng và lấy từ Thiên Đàng mới có được. Thật đấy !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI chuyển ngữ và chia sẻ, TCCNĐY số 57
Ôi ngông cuồng ! Ôi rồ dại, rồ dại ! Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại ! Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta. ( thơ Hàn Mặc Tử )
Ngông cuồng và rồ dại. Ai dám bảo, thế đó là thái độ của riêng ta. Ngông cuồng và rồ dại, vẫn có: TN 14-C48
Ngông cuồng và rồ dại. Ai dám bảo, thế đó là thái độ của riêng ta. Ngông cuồng và rồ dại, vẫn có thể là lối sống của nhiều người. Những người “nằm chờ sung rụng”, như truyện kể:
Một phú hộ rất rủng rỉnh tiền bạc, nhất quyết làm chuyến du ngoạn thuyền buồm trên sóng nước, rất hồ thu. Ông chẳng cho ai đi theo. Nhất định lập kỷ lục một mình. Cứ thế một mình rẽ sóng với buồm căng, trên mặt nước. Chẳng may, thuyền bị trục trặc lật úp giữa giòng nước. Ông hụt hẫng, chới với giữa hồ nước sâu. Là tay bơi thuộc loại khá, bị trồi sụt nhưng chẳng muốn ai đến cứu.
Có người trông thấy cảnh lặn hụp bèn tội nghiệp, đến nơi thả phao xuống định cứu vớt. Ông vẫn một mực khước từ, chỉ chờ giờ Chúa đến cứu mà thôi ! Có du thuyền khác thấy vậy, không nỡ bỏ đi, bèn đền gần xốc ông lên định ra tay nghĩa hiệp. Nhưng, ông lại từ chối lòng tốt của người này, nhất định bảo: chỉ muốn chờ Đức Chúa đến xem sao. Lúc sau, có chiếc trực thăng bay ngang thấy thế, cũng thả thang giây xuống bảo ông nắm giây để kéo giúp. Ông cũng lại đẩy thang đi xa, không muốn nhờ vả người nào, chỉ Chúa thôi.
Cuối cùng, nhà triệu phú bỏ xác dưới lòng hồ. Khi lên gặp Chúa ở trên cao, bèn hỏi: Ngài ở đâu sao mãi không đến cứu con ? Chúa trả lời: Cha gửi áo cứu hộ, lại cho du thuyền lẫn trực thăng đến giúp, nhưng con nào có muốn. Vậy con nghĩa Cha phải làm gì cho con đây ? Nghe truyện, chắc hẳn có người sẽ nhận định như các cụ, thuở xưa: Quả thật ở đời, chẳng có dại nào giống dại nào.
Đúng thế. Trình thuật hôm nay cũng đề cập đến một thứ dại. Cái dại chẳng giống ai, của những người với Lời Chúa cứ nghe qua rồi bỏ, chẳng thiết tha gì đến chuyện đưa Lời vào hiện thực. Lời Chúa nhắn hôm nay, nghe chừng đã quen: lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít.”
Rõ ràng, Lời Chúa hôm nay phù hợp với tình hình cuộc sống của Giáo Dân thời tiên khởi. Chỉ là cộng đoàn nhỏ luôn chung sống với cả biển người gồm những dân con ngoài Đạo. Những vị cứ dị đoan mê tín. Cứ tin vào thuyết: định mệnh đã an bài. Vào thời ấy, Hội thánh Chúa cũng tựa như hạt cải nhỏ bé hoặc chỉ như dúm men trong chậu bột lớn, đầy ắp những niềm tin khác biệt, chốn chợ đời. Khác biệt, là điều nằm nơi ảnh hình lúa chín tràn đồng, mà thợ gặt chăm chuyên rao giảng lại ít thấy. Chí ít, là vào thời Đức Ki-tô, người theo chân Chúa thảy đều là thợ gặt quí giá nơi cánh đồng rao truyền, ngập tràn những mong đợi cuộc giảng rao. Cho đi là, dân con nhà Đạo đã có triển vọng và ý thức trở thành thợ gặt trong khả năng / ước muốn của chính mình. Thợ gặt không chỉ là Linh Mục, Tu Sĩ, hoặc Nữ Tu, thôi. Thánh Phao-lô Tông Đồ là ví dụ cụ thể cho sự ngông cuồng, rồ dại của dân con nhà Đạo, rất hiển nhiên.
Sự rồ dại của người nghe Lời Chúa trên đây không phải như nhà triệu phú ở trên, chỉ muốn “đi thuyền trên mặt nước lòng ta”, để rồi chẳng muốn nhận lời mời từ Đức Chúa. Chẳng muốn chấp nhận làm thợ gặt cho cánh đồng đầy lúa chín; dù chỉ với tư cách giáo dân chân phương, thấp hèn. Theo hiểu biết của mọi người, khi đã được thanh tẩy trở thành dân con Đức Chúa, người người đều đã nhận bài sai Chúa ủy thác, sống điều Ngài dạy. Sống và rao truyền Lời chuyên gồm tóm những tin vui. Tin an bình. Vui là vui khi được dạy: hãy khởi đầu hành trình đưa dẫn các người anh, người chị trong cộng đoàn kẻ tin đi về với cuộc sống hài hoà. Hài hòa, là cuộc sống cả với người ở trong cũng như bên ngoài nhà Đạo. Sống hài hoà như thế, đòi mọi kẻ tin biết biến cải cuộc đời mình.
Biến cải, để sống những điều được Chúa nhủ khuyên nơi sách thánh. Nhất định sẽ biến cải, bởi nếu không, tất cả sẽ bị phê bình chỉ trích, như Mahatma Gandhi có lần từng nói: “Tôi sẽ hứng nhận từng giọt vắn giọt dài nơi giếng rửa của Đạo Chúa, nếu tôi thấy được những người trong Đạo biết sống điều Thầy của họ khuyên bảo.”
Đây là điều được Thánh Phao-lô Tông Đồ đã quả quyết khi thánh nhân có thư cho cộng đoàn kẻ tin ở Galát: “Anh chị em hãy cùng nhau trở nên thụ tạo đã đổi mới.” ( Gl 6, 14 – 18 ) Bởi, nếu không biến cải trở thành người đổi mới, thì Bí tích Thanh Tẩy sẽ không còn giá trị là bao. Đạo Chúa không tận cùng ở cuối đường hầm, đầy tăm tối. Nhưng, Đạo của Ngài luôn là đường lối hữu hiệu giúp mọi người men theo biết từ đó đổi mới chính con người mình để thành con người hoàn toàn mới mẻ, vừa thay da đổi thịt. Thay đổi, như lời Đức Ki-tô vẫn khuyến cáo, vào mọi lúc. Người đổi mới sẽ sống cuộc đời trọn vẹn hơn. Trung thực hơn. Sống trọn vẹn và trung thực với lòng xót thương, quan tâm hết mọi người. Sống trong an bình. Sống rất tự do.
Rõ ràng, với trình thuật hôm nay Chúa vẫn nhắc nhở: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị giầy dép…” ( Lc 10, 2 ). Ngài nói thế là bởi vì, sự an toàn đem đến cho mọi người không nhất thiết ở nơi những gì mình đang có, như: tiền tài, nhà cửa, công cuộc đầu tư hay thẻ tín dụng… An toàn không nằm nơi quyền bính, chức vụ hoặc ảnh hưởng mình đang có với người khác. An ninh, an toàn đích thực luôn nằm ở nội tâm mỗi người. Không ai và không hoàn cảnh nào có thể cất nó đi.
Mặt khác, sự an tòan, bình an là cụm từ được lập đi lập lại nhiều lần trong cả 3 bài đọc. I-sai-a thì nói: “Ta sẽ làm cho bình an chảy đến với nó như con sông.” ( Is 66, 12 ). Còn Thánh Phao-lô, thường vẫn chúc: “Bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó.” ( Gl 6, 16 ). Quả là, sự an toàn, bình an sẽ không tùy thuộc tình hình ở ngoài đời. Nhưng, vẫn là thứ bình thản và an vui Chúa cảm nghiệm ở vườn Cây Dầu, khi Ngài cầu nguyện. Và, cũng là an bình thánh Phao-lô dám chia sẻ cùng một thánh giá của Đức Chúa.
Thành thử, công tác và phần vụ Chúa gửi đến với con dân nhà Đạo, vẫn là: “Đem bình an đến chốn u sầu”. Bình an của cuộc sống hài hoà không còn những căng thẳng, giận hờn hoặc tham vọng làm giầu, làm lớn hoặc làm reo. Tức, vừa làm và vừa reo. Reo vang những hời hợt chóng qua nơi tiền của, dục tình hoặc vật chất, vô tri. Lời mời gọi hôm nay Đức Chúa gửi đến với các thợ gặt ở trần gian trong xã hội nhiễu nhương ta đang sống. Đó là lời mời khẩn thiết. Mời ta dấn bước ra đi nhất quyết biến đổi xã hội trần gian thành chốn tràn ngập những giá trị cao quý, của Phúc Âm. Lời mời gọi mà chỉ có ít người biết đáp ứng. Bởi, họ còn vương vấn quá nhiều thứ bịn rịn. Nhiều thứ để lo toan.
Lời mời: “Các con hãy cứ đi !” Và cứ rong ruổi chốn bụi trần. Rong ruổi để đem Chúa đến với mọi người. Hãy cùng nhau đi. Cùng nhau rao truyền Lời Chúa. Cùng sống trung thực Lời Ngài dặn dò, từ ngàn năm. Và, như bẩy mươi hai môn đồ của Ngài lúc trước, ta cũng sẽ ra đi. Đi rồi sẽ trở về, với lòng vui mừng hớn hở, mà nói: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con.” ( Lc 10, 17 ).
Hôm nay cũng thế, khi đã nhận lời mời của Thầy Chí Thánh mà ra đi, ta sẽ gặt hái được nhiều lúa chín. Sẽ hân hoan hát bài ca an bình như người nghệ sĩ khi xưa vẫn hát:
Ngàn lời ca dâng lên say sưa Dù bình minh hay trong đêm mưa Ta hát vang vang ngập muôn lối Gió mát lác đác hương quê êm dâng Có tiếng ríu rít rì rào chào mừng Mừng tự do về trên quê hương... ( Văn Phụng – Ta vui ca vang )
Vâng. Con tim đã đổi mới, thì người người sẽ hát vang lời chào mừng tự do. Tự do và an bình, nay đến với người anh người chị đã chọn lựa theo Chúa ra đi về cánh đồng ngập tràn những lúa chín. Ở nơi đó, không còn những ngông cuồng rồ dại, khi xưa. Nhưng đã vui. Đã an bình. Vì có đổi mới. Có yêu thương, đỡ đần hết mọi người. Trong cũng như ngoài Đạo.
Từ thế kỷ VII, Tin Mừng đã được loan báo tại Trung Hoa. Trải qua hơn chục thế kỷ, các thừa: TN 14-C49
Từ thế kỷ VII, Tin Mừng đã được loan báo tại Trung Hoa. Trải qua hơn chục thế kỷ, các thừa sai không ngớt tìm cách rao giảng Tin Mừng cho nước đông dân nhất thế giới này. Trong nhiều thế kỷ, cuộc truyền giáo bị khựng lại vì những thử thách và bách hại. Có thể nói lịch sử Giáo Hội Trung Hoa (GHTH) trải qua năm giai đoạn. Từ thập niên 1980, cuộc loan báo Tin Mừng lần thứ năm khởi sự. Tới nay GHTH vẫn bị bách hại.
Giữa lúc GHTH đang gặp thử thách lớn lao vì những bách hại của nhà cầm quyền, ÐGH Bênêđictô XVI viết một lá thư cho dân tộc Trung Hoa. Theo linh mục Federico Lombardi, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh, lá thư đó cho thấy tình yêu Đức Kitô “làm cho con người đi vào một chiều kích mới, nơi lòng khoan dung và tình yêu mến đối với cả kẻ thù địch có thể làm chứng tá cho sự thắng thế của Thập giá trên mọi yếu đuối và bất hạnh của con người. Càng trở thành thuần Trung Hoa, GH càng thực sự là chính mình. Đó chính là cốt lõi thông điệp tuyệt diệu, trung thực và cao cả của ÐGH .”[1]
Lá thư của ÐGH quả thực là một Tin Mừng cho người Trung Hoa. Dù bị cấm đoán và bưng bít, giáo dân Trung Hoa cũng vẫn bắt kịp nhịp sống Tin Mừng. Từ xưa tới nay, đã gặp bao nhiêu trở ngại, GHTH vẫn kiên cường. Tin Mừng vẫn tìm mọi cách lọt đến lòng người.
Cuộc truyền giáo ở Trung Hoa đã có một lịch sử lâu dài hơn Việt nam rất nhiều. Tin Mừng đến với họ sớm hơn chúng ta gần 10 thế kỷ. Vậy mà tới nay, giáo dân Trung Hoa cũng chỉ mới khoảng 15 triệu trong số gần 1.5 tỉ dân số. Phải chăng Tin Mừng bất lực ? Bao giờ Nước Thiên Chúa (NTC) mới đến với dân tộc Trung Hoa ?
CÔNG TRÌNH THIÊN CHÚA
Ðứng trước cánh đồng truyền giáo bao la là Á châu, nhất là Trung Hoa, ÐGH Gioan Phaolô II đã hướng tầm nhìn GH Hoàn vũ về miền đất linh thiêng trù phú đó. Nhưng suốt hơn 13 thế kỷ qua, vẫn chưa thấy mùa lúa chín trên cánh đồng truyền giáo Trung Hoa. Phải chăng thực tế không xảy ra như Ðức Giêsu tiên báo ?
Thực ra, “lúa chín đầy đồng” là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của con người. Thiên Chúa mới là chủ sai thợ đến gặt lúa (x. Lc 10:3). Ngay từ thời Chúa Giêsu, GH đã sinh ra trong tình trạng thiếu thốn. Chính Chúa đã phải cảnh giác các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.” (Lc 10:2) Ðó là thân phận GH. Lúc nào GH cũng nghèo túng và thiếu phương tiện thi hành bổn phận. Nhưng càng thiếu thốn và nghèo túng, GH càng được mời gọi đặt tất cả niềm tin nơi Chúa. Cánh đồng không thiếu lúa chín, nhưng chỉ thiếu những người thợ tin Thiên Chúa làm chủ cánh đồng. Chỉ tin như thế, họ mới không phản bội sứ mệnh khi xử dụng quyền lực và phương tiện trần gian. Nhờ niềm tin đó, họ dễ dàng sống khiêm tốn và vâng nghe Chúa Thánh Linh. Khiêm tốn chắc chắn là bí quyết làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng sinh hoa kết quả dồi dào. Chỉ nơi những người có lòng tin, Thiên Chúa mới thi thố tất cả quyền năng tuyệt đối. Người khiêm tốn biết nhường bước và đón chào ông chủ là Thiên Chúa vào vườn nho hay cánh đồng đầy lúa chín.
Cả về phương diện tập thể lẫn cá nhân, vật chất cũng như tinh thần, họ hoàn toàn bị tước đoạt vì NTC. Chúa nói: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” (Lc 10:3) Còn gì nữa đâu mà kiêu ngạo ? Tất cả mọi phương tiện và tương quan xã hội đều phải trở thành xa lạ đối với họ. Chỉ còn một mình họ với Chúa trong công cuộc xây dựng và chiến đấu cho NTC. Như vậy chưa đủ sao ? Khi nghe lời Chúa căn dặn: “Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói,” (Lc 10:3) người môn đệ nào chẳng run sợ ? Run sợ vì lực lượng không cân xứng. Cuộc đối đầu vượt quá tầm sức chiên con. Sao Chúa không sai họ vào giữa đoàn chiên có phải tốt hơn không ? Làm sao chiến thắng lực lượng sự ác lớn như thế ? Nhưng kết quả lại về phần chiên con. Thật bất ngờ ! Rõ ràng sức mạnh không từ môn đệ, nhưng từ Thày. Nếu Thày không là Thiên Chúa, làm sao chiến thắng lớn lao như thế ?!
Chiến thắng lớn lao đó phát xuất từ thánh giá. Trước đây các môn đệ đã từng coi thập giá là biểu tượng cho sự thất bại và là gương mù cho dân ngoại. Nhưng “Thiên Chúa đã tôn vinh Người trên mọi sự …” vì Ðức Giêsu đã “vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.”(Pl 2:8-9) Khi tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha, Người đã khám phá tất cả sức mạnh tình yêu và sự thật cần thiết cho công cuộc giải thoát nhân loại. Bởi đấy, Người đã tìm được niềm vui và cũng trở thành nguồn vui cho mọi người. Khi gặp khổ đau, thập giá và cái chết, Ðức Giêsu đã kiên nhẫn biết chừng nào. Người kiên nhẫn vì tin rằng đó là thánh ý Chúa Cha. Tình yêu Chúa Cha đã khiến Người có sức mạnh phi thường. Không đối lực nào có thể thắng nổi.
Tin tưởng nơi Chúa, người môn đệ sẽ nhận ra tất cả những giới hạn của mình, nhưng đồng thời nhìn thấy những hoa trái lạ lùng do bàn tay Thiên Chúa hành động qua những phương tiện nghèo nàn. Sau một ngày mệt nhọc trong cánh đồng của Chúa, “nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.’” (Lc 10:17) Tất cả đều nhờ sức mạnh Chúa.
SỨ ÐIỆP DUY NHẤT
Dù chỉ là chiên con bị tước lột trần trụi giữa bầy lang sói, người môn đệ vẫn hiên ngang bước theo Ðức Kitô. Không phải lúc nào cuộc hành trình cũng trải đầy hoa hồng. Có nhiều lúc không êm ả chút nào. Những biến cố lớn nhỏ như sóng gió ập đến. Khi gặp thử thách như thế, có những người môn đệ quên cả việc rao giảng Tin Mừng và bẻ cong Tin Mừng theo thời đại và hoàn cảnh, mong thỏa mãn những nhu cầu trần tục. Họ tin vào sức mạnh phương tiện như các tổ chức trần thế. Cố gây sức mạnh bằng cách tăng cường nhân sự, phương tiện, của cải, quyền lực, danh vọng v.v.
Nhưng sức mạnh NTC không đến từ những phương tiện trần thế. NTC không thể biến đổi đến nỗi đánh mất bản chất. Người môn đệ phải có lập trường dứt khoát và rõ rệt. Chính Ðức Giêsu đã minh xác với các môn đệ như thế. Dù được đón tiếp hay không, họ phải nhất quyết rao giảng cho mọi người: “Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần.” (Lc 10:9.11) Không phải vì bầy sói đông quá mà khiếp đảm đến nỗi không dám mở miệng rao giảng NTC nữa. Không thể vì những lực lượng bất hảo hay bất chính đang siết gọng kìm mà không dám tranh đấu để xây dựng NTC. NTC không thể dựa trên bất công, vì bản chất và nền tảng của NTC là công lý. Chính lập trường này làm cho người môn đệ đứng vững và ngẩng đầu hãnh diện trước những thách thức của kẻ thù. Lập trường đó chính Chúa đề ra và củng cố bằng sức mạnh Thánh Linh. Không có Thánh Linh không thể giữ nổi lập trường và sứ điệp duy nhất đó trong mọi hoàn cảnh. Hoàn cảnh rất phức tạp và khắc nghiệt. Hỏa mù vô cùng dầy đặc. Nếu Chúa không đưa ra nguyên tắc và sứ mệnh đó, chắc chắn không ai có thể phá vỡ cơn hỏa mù.
Khi hoạt động trong GH, người môn đệ nhắm biến đổi toàn thể thế giới. Là phần tử GH, họ có sứ mệnh phục vụ NTC, tức là tranh đấu cho công lý, hòa bình, tự do và mọi người biết tôn trọng nhân quyền. Tất cả đều nằm trong kế hoạch Thiên Chúa tối cao nhằm cứu độ muôn dân. Nhiều người muốn đánh lạc hướng khi chủ trương NTC vượt trên trần thế và nhằm xây dựng trời mới đất mới, chứ không phải trần gian. Bởi vậy, họ muốn biến sứ điệp của Ðức Giêsu thành chuyện tư riêng hay cá nhân. Chiều cạnh xã hội của NTC hoàn toàn bị coi thường và quên lãng.
Ngày nay, dù sống trong hoàn cảnh nào, Kitô hữu cần phải nỗ lực cứu Chúa Giêsu khỏi ngục tù cá nhân chủ nghĩa và đem Người trở lại đời sống xã hội.[2] Nếu đặt Chúa Giêsu vào hoàn cảnh văn hóa xã hội thời Người và nhìn sứ mệnh Người trong bối cảnh phục hồi Israel và loan báo “năm đại hồng ân” cho dân Người, chúng ta sẽ thấy rõ sứ điệp Ðức Giêsu hàm ý chính trị. Người muốn triệt để tái cấu trúc mọi cơ cấu xã hội hiện hành trên nền tảng giao ước.[3] Ðể thực hiện công cuộc đó, Người muốn mọi quyền lực trên đời phải mang tính tương đối và nhường bước cho những đòi hỏi của NTC. Có một số người muốn sứ điệp Ðức Giêsu về NTC chỉ thuần túy mang tính tôn giáo và không liên quan tới các cơ cấu chính trị xã hội. Thực ra, Tin Mừng liên quan tới những thực tại sâu xa của trần thế. Bởi vậy, sứ điệp của Chúa Giêsu có một phản ứng rõ rệt đối với một thế giới đầy áp bức và những cơ chế của một trật tự xã hội bất công.[4]
CƠ HỘI PHỤC VỤ
Giáo hội được thành lập để phục vụ NTC, chứ không phải để chiếm chỗ của NTC. Nếu không phục vụ NTC, GH sinh ra để làm gì ? Phục vụ NTC nghĩa là tranh đấu cho xã hội ngày càng “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17)
Chúng ta cần lắng nghe vị Ðại Diện Chúa Kitô nói với GHTH: “Giáo Hội không thể và không được tự đảm nhận chính trường để đem lại một xã hội công bình nhất. Giáo Hội không thể và không được thay thế chính quyền. Tuy nhiên đồng thời Giáo Hội không thể và không đươc ở bên lề cuộc đấu tranh cho công bình. Qua lý chứng, Giáo Hội phải tham gia và phải thức tỉnh năng lực thiêng liêng cần thiết cho công lý ngự trị và thành công. Bao giờ công lý cũng đòi phải hy sinh. Một xã hội công bình phải là thành quả của chính trị, chứ không phải của Giáo Hội. Tuy nhiên cổ võ cho công bình qua những nỗ lực nhằm giúp cởi mở tâm trí và ý chí theo những đòi hỏi của công ích, là điều can hệ đến Giáo Hội cách sâu xa.
Dưới ánh sáng những nguyên tắc không thể đảo ngược này, các vấn đề hiện nay không thể giải quyết qua sự xung đột với các nhà cầm quyền dân sự hợp hiến. Nhưng đồng thời không thể tùng phục những nhà cầm quyền ấy khi họ can thiệp vô lý vào những vấn đề liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Các nhà chức trách dân sự cần nhận thức rõ Giáo Hội luôn dạy các tín hữu trở nên những công dân tốt, tôn trọng và đóng góp tích cực cho công ích của đất nước. Nhưng rõ ràng Giáo Hội cũng đòi hỏi Nhà Nước phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo chân chính và bảo đảm cho những người dân Công Giáo được thi hành đầy đủ niềm tin của mình.”[5]
Hoàn cảnh GHVN cũng tương tự GHTH … Hẳn GHVN thấy rõ tại sao Chúa quan phòng cho GHVN hiện diện trong lòng dân tộc. Thái độ im lặng của HÐGMVN đối với vụ lm Nguyễn văn Lý đã được Nguyễn Minh Triết giải thích: “Việc xét xử ông ta (LM Lý) được Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi.”[6] Những người xu nịnh các GMVN đã trắng mắt ra chưa ? Thái độ im lặng của HÐGMVN có phải là một chứng từ cho NTC như họ vẫn rêu rao không ? Dĩ nhiên, khác với HÐGMVN, Tòa thánh Vatican “bầy tỏ sự bất bình về bản án tù 8 năm với những sự kiện bất thường trong tiến trình xét xử kéo dài không tới một ngày.”[7]
Không những lm Nguyễn văn Lý bị bịt miệng, nhưng cả nước đều bị bịt tai, bịt miệng, bịt mắt. Bằng chứng cuộc biểu tình rầm rộ của đồng bào Tiền Giang suốt hơn 2 tuần lễ qua, có báo nào trong nước dám thông tin cho dân chúng không ? Ngay cả hình ảnh cha Lý bị bịt miệng và tượng Mẹ Sầu Bi bị đập phá cũng chẳng được thông tin cho giáo dân trong nước.
Trước tình trạng thiếu phương tiện truyền thông trong GHVN hiện nay, có người đổ thừa cho Thiên Chúa. Chúa muốn như vậy hay tại con người nhát sợ không dám đứng lên đòi hỏi quyền làm người ? Tình trạng đó do thế lực tước đoạt nhân quyền. Nhân quyền không phải là một thứ ân huệ của nhà nước, nên không thể trình văn thư hay kiến nghị theo chế độ “xin cho.” Nhân quyền là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Chính quyền chỉ có bổn phận bảo vệ quyền ấy. Khi biến nhân quyền thành một ân huệ, nhà nước đã tiếm đoạt địa vị Thiên Chúa. “Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mt 22:21; Mc 12:17; Lc 20:25)
Lạy Chúa, xin cho GHVN biết can đảm phục vụ NTC, để công lý mau ngự trị trên quê hương chúng con. Amen.
Có phải vì ngày nay những hình ảnh như “lúa chín đầy đồng”, “thợ gặt” đã lùi xa vào quá khứ, thuộc: TN 14-C50
Có phải vì ngày nay những hình ảnh như “lúa chín đầy đồng”, “thợ gặt” đã lùi xa vào quá khứ, thuộc một phạm trù xa lạ, mà lời kêu gọi của Chúa Giêsu chẳng còn được mấy ai hiểu và đáp trả? Quả thật, trong nhiều quốc gia phát triển cao, với chỉ năm đến bảy phần trăm dân chúng làm nghề nông, lại được công nghiệp hoá,hiện đại hoá tối đa, thì những khái niệm và hình ảnh ấy chẳng khác nào chuyện cổ tích. Nếu cho phép “cập nhật” hoặc “nâng cấp” Lời Chúa, để may ra người dân Âu Mỹ ngày nay có thể hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay, thì phải nói:”hãy xin chủ ruộng mua sắm thêm nhiều máy gặt liên hợp nữa”. Ngay ở các nước đang phát triển, nơi nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất cao, thì thợ gặt cũng ngày càng hiếm hoi, đến mức trở thành “sao”. Sự thiếu hụt các linh mục - những thợ gặt Nước trời – ngày càng gay gắt và hơn bao giờ hết, linh mục trở thành “sao” và cũng từ đó,không ít vần đề liên quan đã được đề ra tưởng chừng như muốn giải đáp cho việc thiếu hụt nầy. Có thật như thế chăng hay chỉ là những suy nghĩ lệch lạc và ngụy biện. Trong bối cảnh những khủng hoảng về đời sống linh mục những ngày nầy, thiết tưởng nên nhìn gần hơn đời sống của những thợ gặt nầy.
“Sao” qúy, vì thường vượt trội về một chuyên môn nào đó. Ngày nay thường là ở các lãnh vực thể thao và nghệ thuật, như bóng đá, điện ảnh, ca nhạc, không kể những “sao” không có thực tài,nhưng lắm tiền và nhiều tham vọng, được công nghệ giải trí “lăng xê” quảng cáo. Loại ‘sao’ nầy mau rơi rụng và biến mất. Một tính chất chung thường thấy nơi các “sao” là “lắm tài nhiều tật”. Nhiều sao bóng đá xuất thân hàn vi và khi đã thành danh, đã vội hưởng thụ tối đa, để bù đắp một thời sống đói khổ rách rưới trong những khu nhà ổ chuột. Sa đoạ là điều thường nghe tới và không ít “sao” kết thúc cuộc đời quay lại trong cảnh bần cùng,nghiện ngập. Cáo chết ba năm,quay đầu về núi. Những ca sĩ,diễn viên kịch,’sao’ điện ảnh không đủ bản lãnh để đương đầu với cuộc sống xa hoa, trác táng, xô bồ, đã chìm sâu trong ma túy,men rượu mà họ cho là những trợ lực cần thiết, để giải toả áp lực công việc và trầm cảm không tránh khỏi. Không có gì mà không phải trả giá. Càng cao danh vọng, càng dày gian nan. Không ít linh mục đã rơi vào tình cảnh ấy.
Muốn hay không, linh mục là những ‘sao’, vừa do tính chất qúy hiếm,vừa do đặc thù công việc,mà không phải được mua hoặc mua được bằng tài năng, tiền bạc hay chạy chức chạy quyền. Chức linh mục luôn là một ẩn số đối với người ngoài Công giáo và vẫn là một bí ẩn đối với ngay cả các tín hữu Công giáo, gợi lên sự kính trọng, hiếu kỳ,thán phục. Bốn trăm ngàn (400.000) linh mục phụ trách hơn một tỷ mốt (1,1 tỷ) tín hữu, trong khi không được lơ là với hơn gấp năm lần còn lại ngoài Công giáo,nghĩa là mỗi linh mục phải xoay xở lo cho hơn 16.000 người, mà đâu phải cả 400.000 linh mục đều làm mục vụ. Con số thực tế chỉ là hai phần ba, vì bên cạnh các linh mục Dòng, còn rất nhiều vị làm công tác chuyên môn giảng dạy,văn phòng, công tác đặc biệt, hoặc đau ốm,hưu dưỡng. Nếu không có đặc sủng và ơn thánh dồi dào qua bí tích Thánh Thể và chuỗi mân côi,cũng như sự cộng tác từ các thành phần Dân Chúa trong các cộng đoàn, thì “sao linh mục” sẽ mau chóng bị chìm vì áp lực, vì mệt mỏi, khi toàn tâm toàn ý với công việc. Và đó là kẻ hở để cho “ba thù” len loỉ vào, cám dỗ và hạ gục linh mục.
Tuy vậy, nguyên tắc “qúy hồ tinh,bất qúy hồ đa” vẫn phải tuân giữ sát sao và không thể sơ sài chiếu lệ trong khâu tuyển chọn (đầu vào) và đào tạo huấn luyện (đầu ra). Không thể vì thiếu “thợ gặt”, mà chấp nhận những “biến tướng” để có số nhiều, như là truyền chức linh mục cho nữ giới, cho những người đã kết hôn (trừ các ngoại lệ được Toà Thánh xem xét phê chuẩn). Thật đau lòng khi đọc tin: Một cuộc thăm dò mới cho thấy trong 500 linh mục Áo được hỏi, 51% ủng hộ việc truyền chức linh mục cho nữ giới và một đa số áp đảo – 79% - các giáo sĩ ủng hộ việc mở rộng chức linh mục cho những người nam đã kết hôn (CWNews 29.06) và hơn 80% cho rằng Giáo Hội cần xét lại luật độc thân linh mục bó buộc. Điều nầy nhắc ta nhớ lại mới năm trước đây thôi, các linh mục Áo đã phản đối việc Đức Thánh Cha bổ nhiệm một giám mục phụ tá,mà họ cho là bảo thủ. Đáng buồn là không ít giám mục cũng hùa theo. Rõ ràng là phải đặt lại vấn đề huấn luyện đào tạo. Họ coi việc tự nguyện gia nhập chủng viện, làm ứng sinh chức linh mục, như bị bắt thi hành nghĩa vụ quân sự, để rồi không chỉ muốn đặt lại vấn đề sự lựa chọn của mình, mà cả đường lối và truyền thống của Giáo Hội, sao cho hợp tình hợp lý theo ý họ, không cần xét đến tương quan đối thần.
Hai bí tích Truyền Chức và Hôn Phối không hề loại trừ nhau, nhưng lại chỉ song hành và củng cố cho nhau mà thôi. Chức linh mục, đời sống một linh mục làm cho bí tích hôn nhân và đời sống các đôi hôn phối thêm ý nghĩa, giúp họ nhìn vào và vững vàng hơn sống khiết tịnh,chung thủy trong hôn nhân,cũng như ý thức mạnh mẽ hơn,rằng mục tiêu tối hậu của đời sống hôn nhân và gia đình là gia đình thiên quốc, để họ cố gắng nên thánh, xây dựng Giáo Hội, thánh hoá xã hội trần thế, nghĩa là cộng tác vào việc gặt hái đồng lúa Nước Trời. Ngược lại, bí tích hôn nhân - đời sống vợ chồng và gia đình – nơi sản sinh ơn gọi linh mục, là đối tượng để linh mục thể hiện tình yêu phục vụ theo gương Chúa Giêsu. Vì thế, đời sống độc thân tự nguyện không dính dáng gì đến chuyện thiếu hay thừa linh mục, mà gắn liền với sự đón nhận,chấp nhận, trao hiến trọn vẹn tình yêu, không phải cho chức linh mục, hay là việc phục vụ trong chức linh mục,mà là cho Chúa Kitô. Đó không chỉ là truyền thống ngàn năm của Giáo Hội,mà là nhận thức đúng đắn ý nghĩa thần học bí tích sâu xa, theo khuôn mẫu của Vị Linh Mục Thượng Phẩm Cao Nhất, Đấng đã lập ra chính bí tích truyền chức và giao cho những người lãnh nhận bí tích nầy một bí tích khác,trọng đại hơn,trọng đại nhất, trọng đại vô song: Thánh Thể Người, mà chỉ linh mục có được độc quyền đọc lời truyền phép để biến chút bánh,chút rượu nên Thịt và Máu Chúa. Ý nghĩa thần học bí tích ấy, đặc sủng độc quyền ấy không thể không được đáp lại bằng một cuộc sống trao hiến xác hồn trọn vẹn,không giữ lại cho mình,không chia sẻ với riêng một ai khác ngoài Chúa Kitô. Không sống độc thân, thì mới là thiếu trung thực, không trưởng thành và chưa hiểu ý nghĩa của đời sống tận hiến trong chức linh mục. Linh mục phải tự thấy hổ thẹn và bất xứng khi để cho suy nghĩ ấy xuất hiện và làm dao động, dù chỉ một chút. Chẳng khác nào ngoại tình trong tư tưởng.
Một dấu hiệu chỉ ra giá trị, sức mạnh và ảnh hưởng của đời sống độc thân linh mục, chính là sự thù ghét của Satan. Hơn bao giờ hết, chiến thuật ngày nay của Satan là tập trung đánh vào Giáo Hội qua linh mục. Là con người, cũng mang những yếu đuối và vì không trung thành với đời sống gắn bó với Thánh Thể,với cầu nguyện, chay tịnh, lơ là với chuỗi hạt mân côi, chạy theo tiện nghi vật chất, nhiều linh mục đã sa ngã và phạm những tội ác, mà Satan tận tình khai thác, dùng các phương tiện truyền thông do các thế lực xấu xa cung cấp, để tấn công Giáo Hội. Những gì các Vị vi phạm cách nay nhiều thập kỷ, nay được Satan phủi lớp bụi thời gian, đưa ra ánh sáng và dùng chúng để bôi nhọ Giáo Hội và hạ uy tín Đức Thánh Cha. Giáo Hội qùy xuống: một Giáo Hội tinh tuyền thánh thiện, không vết nhơ tội lỗi, nay thấy gương mặt bị bôi tro trét trấu. Giáo Hội ấy nay qùy xuống – theo gương Thầy Chí Thánh, Đầu Giáo Hội,là Đứcc Kitô - để tạ lỗi cùng thế gian,tạ lỗi cùng các nạn nhân và kêu gọi con cái gục đầu sám hối, canh tân. Chính thái độ nầy đã khiến Satan chưng chửng, hụt chân và thất bại trong kế hoạch phá hoại Giáo Hội. Khiêm nhường,thống hối,xin tha thứ là những điều Satan không bao giờ có và chính là “gót chân Achille” đã khiến nó bị hình phạt hoả ngục đời đời.
Được vậy là nhờ đa số áp đảo các thợ gặt vẫn trung tín với bổn phận,vẫn miệt mài phục vụ và nêu gương, vẫn gắn bó với Thánh Thể và lòng tôn sùng Mẹ Maria. Thiên Chúa đã biến tai ương bất hạnh thành điều may mắn tốt lành và nên một dịp thanh luyện sâu xa Giáo Hội của Người. Không có cuộc giải phẩu nào không gây đau đớn,mất mát,hy sinh. Giáo Hội đang trải qua phép rửa mới bằng nước,lửa và máu. Một nhà văn trẻ Việt Nam có một nhận định sâu sắc:” Scandal về một khía cạnh nào đó không hoàn toàn đáng buồn. Nó chứng tỏ ít ra công chúng vẫn còn chưa đánh mất tính hiếu kỳ. Hơi mỉa mai,nhưng chúng ta nên nhìn sự việc theo cách đó” (Đặng Quang Thiều, An Ninh Thế Giới số Tháng 06.2010,trang 17). Satan và các thề lực xấu xa đánh mạnh vào Giáo Hội và các linh mục, vì chúng sợ hãi,thù ghét. Hạ gục được hàng ngũ giáo sĩ, gây nghi ngờ chia rẽ trong Giáo Hội, hạ uy tín Đức giáo tông, làm cho Giáo Hội hết đáng tin: ma qủy tưởng đã hạ “knock out” được Giáo Hội. Chúng không ngờ “gậy ông đập lưng ông”: ngọn đòn chúng quất mạnh vào Giáo Hội quả là thấm thiá, đau đớn,nhưng lại thức tỉnh những người còn mơ màng hoặc mê ngủ trong Giáo Hội. Nó làm cho Giáo Hội tinh tuyền hơn,mạnh mẽ hơn, vững vàng hơn và nhất là làm cho chức linh mục đi vào qủy đạo đúng đắn. Năm Linh Mục do ơn quan phòng của Chúa, như ngón võ đón đỡ và phản đòn, khiến kế hoạch hiểm ác của Satan phải phá sản. Lớp bụi mờ ô nhiễm rơi ra, được rửa sạch, đã trả lại vẻ đẹp rực rỡ nguyên tuyền của Giáo Hội Chúa và của chức linh mục.
Giờ đây,các tín hữu đã có thể mau mắn,nhiệt tình và thanh thản đáp lại tiếng Chúa kêu gọi:”Nầy con đây, lạy Chúa,xin hãy sai con đi”.
Và linh mục sẽ không còn là “ngôi sao cô đơn” nữa!
ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 56
HÃY HÁT LỜI TÌNH YÊU - THÁNH VỊNH 55
NƠI NGƯỜI CON TÌM CHỐN NÁU NƯƠNG
Bài thơ nhỏ bé này, dù vẫn đầy lời nhắc nhở chúng ta về những hiểm nguy trải qua,những lầm than phải chịu, vẫn giữ được một giọng điệu hân hoan dễ thương, được linh hứng từ sự bảo bọc chở che rất dịu dàng của Thiên Chúa,như ngay từ đầu được diễn tả dưới hình ảnh những chiếc cánh mà người ta nương náu. Hình ảnh chốn tựa nương rất dịu dàng nầy ngự trị trên toàn thánh vịnh, trong đó vẫn không vắng những tiếng kêu cứu. Nhưng người ta cảm thấy chỗ ẩn náu cận kề, nơi người ta biết bất cứ lúc nào cũng tìm lại được sự an toàn. Đây là một lời tôn vinh dâng lên Thiên Chúa, Đấng nhân hậu và gần gũi dường bao, hơn là một lời kêu cứu. Không phải là người ta đã hết gặp hiểm nguy.Nhưng lòng tin cậy là điều mạnh mẽ nhất,một ước ao tôn vinh ca ngợi, hơn là tiếng kêu cứu. Thánh vịnh nầy nhắc nhở những kẻ tin luôn đặt trọn niềm cậy tin nơi Thiên Chúa. Mây mù sẽ trôi qua, mọi hiểm nguy sẽ không còn, cần nhất là tin cậy ẩn náu dưới bóng che chở của Thiên Chúa.