Một người mẹ đã quyết định truyền dẫn lòng tự tin vào những người con của bà sớm bao nhiêu: TN 1-C1 FB
Một người mẹ đã quyết định truyền dẫn lòng tự tin vào những người con của bà sớm bao nhiêu có thể. Sau khi bà được người con đầu lòng, và tên nó là Matthêu, bà hỏi đi hỏi lại nó rằng, "Tại sao mẹ yêu con?" Bà đã dạy cho nó phải trả lời mỗi khi bà hỏi câu đó là, "Bởi vì con là Mátthêu." Sau khi đứa con thứ hai ra đời, nó tên là Lillian, bà cũng dùng một chiêu thức lập đi lập lại câu hỏi, "Tại sao mẹ yêu con?" Lillian không cần suy nghĩ và ngần ngại trả lời ngay, "Bởi vì con là Mátthêu."
Tại sao Thiên Chúa lại yêu tất cả các bạn, nào là Mátthêu, Lillian, Roberts, Mary, Alice...? Bởi vì bạn là bạn! Bạn là con Chúa trong Chúa Giêsu.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca nói cho chúng ta về biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, "Có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3:22). Điều này gợi lên một câu hỏi thách đố đó là: Bạn có thể nào vượt qua khỏi những cách thức suy nghĩ quá quen thường nhật của mình để lắng nghe lời Thiên Chúa nói với bạn, "Con là Con yêu dấu của Cha" không? Bạn có thể nào phá đi cái hàng rào "người lớn" của bạn và trở nên như một trẻ nhỏ để tin tưởng tuyệt đối vào lời hứa của Thiên Chúa chăng?
Trong một lớp Thánh Kinh dành cho người lớn, vấn đề được bàn đến vào ngày hôm đó là việc cầu nguyện. "Hãy xin, thì sẽ được", thầy giáo đã trích lời này từ trong bài giảng trên núi của Chúa Kitô. Sau đó, thầy giáo hỏi các học sinh trong lớp rằng các em có cầu nguyện hằng ngày không? Một học sinh đã giơ tay trả lời rằng em cầu nguyện để được khỏe mạnh. Một người đàn bà trả lời, "Tôi cầu nguyện cho được hạnh phúc." Một vài người khác thì cầu nguyện cho được ơn cứu độ ở đời sau. Tuy nhiên, một bà cụ già vẫn cứ lắc đầu lia lịa với những câu trả lời mà bà nghe được. Khi đến phiên của bà, bà đã nói, "Việc cầu nguyện rất đơn giản. Tôi tin Chúa, và tôi cầu nguyện xin Chúa cũng tin tôi."
Tuy nhiên, bạn có thấy không! Vấn đề không phải là chỗ mình cố gắng để thay đổi ý định của Thiên Chúa về bản thân của mình! Ngài đã tin tưởng ở bạn! "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Gn 1:1). Chính Ngôi Lời đã nhập thể làm người để mặc khải cho chúng ta về tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đối với con người. Các bạn đã có trong trí của Thiên Chúa ngay từ ban đầu. Các bạn là một trong những thành phần của công cuộc sáng tạo để đem nó đến chỗ viên mãn trong Nước Tình Yêu của Ngài.
Cho dù là bạn có gặp khó khăn gì trong giây phút hiện tại, cho dù là bạn có gặp những nỗi gian truân gì mà bạn không được người khác thông cảm, bạn hãy tin tưởng rằng sự hiện diện của bạn trên trái đất này được Thiên Chúa quan phòng cách đặc biệt.
Bạn đừng tầm thường hóa công trình kiệt tác của Ngài bằng cách là các bạn tự đặt mình vào khuôn đúc của cuộc sống. Đừng hạn chế cuộc sống của mình vào một khuôn khổ nào cả. Bạn hãy biết chấp nhận chính mình! Hãy vui mừng hân hoan vì bạn là bạn.
Một đứa bé đi học về và đến nói với bố mình, "Thầy giáo con nói là tối mai sẽ có một cuộc họp giữa phụ huynh và thầy giáo tại trường học". Ông bố lại hỏi lại: "Bố có cần phải đi không?". "Con nghĩ là họ sẽ mong có sự hiện diện của bố," đứa con trả lời lại, "bố biết không, đây là cuộc họp nhỏ bao gồm thầy giáo, hiệu trưởng, bố và con."
Hôm nay, xin đề nghị các bạn làm một cuộc họp nhỏ, sớm bao nhiêu có thể, giữa Thiên Chúa và chính bạn. Bạn hãy nghe lời Chúa Giêssu nhủ bảo hôm nay và trở thành một em bé. Hãy đàm thoại và tin tưởng vào Thiên Chúa, hãy lắng nghe lời Ngài, "Con ơi, con là con của Cha. Con là con rất yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha. Cha tin tưởng ở nơi con." Hãy cảm nghiệm tình yêu của Ngài. Hãy dìm mình vào trong sự hiện diện của Thiên Chúa, và cảm nghiệm được sự vượt qua cái biên giới đóng khung mà nó đã kéo bạn xuống.
Hãy để cho tất cả những lo lắng phiền muộn trôi đi! Hãy tin tưởng vào lời phán quyết của Chúa và đừng sợ hãi gì. Hãy tin tưởng vào Chúa và hãy xây dựng cuộc sống của mình bằng cách này và bạn sẽ cảm nghiệm được một cuộc sống đầy đủ và tràn ra cho những người chung quanh.
Bạn có thể trở thành nhà giảng thuyết hiệu lực nhờ sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Để trở thành cha mẹ tốt, người vợ và chồng tốt, người hàng xóm tốt, hãy biết dùng cái nguyên liệu mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng bạn. Bạn cần phải tin tưởng vào cái nguyên liệu đó. Nó sẽ ban cho bạn sức mạnh, hy vọng và trang bị cho bạn biết phục vụ người khác trong sứ mệnh Chúa Giêsu đã truyền dạy.
Hãy phó mình cho Thiên Chúa như một em bé. Hãy lắng nghe lời Ngài như một người con ngoan thảo. Nếu bạn tin tưởng vào Chúa thì một sự việc lạ lùng sẽ xảy ra. Đó là bạn sẽ biết kính trọng tất cả mọi người, và bạn sẽ biết phải sống với mọi người ra sao.
Các Kitô hữu ở thế kỷ đầu thật hết sức bối rối trước sự kiện Đức Giêsu lãnh phép rửa của Gioan: TN 1-C2
Các Kitô hữu ở thế kỷ đầu thật hết sức bối rối trước sự kiện Đức Giêsu lãnh phép rửa của Gioan.
Tại sao Ngài lại đến với Gioan như một môn đệ để chịu phép rửa, nhằm bày tỏ lòng sám hối? Ngài có cần sám hối không nếu thật sự Ngài vô tội?
Đã có bao câu trả lời cho vấn nạn này.
Chúng ta chỉ cần nhìn ngắm Đức Giêsu bên bờ sông Giođan. Ngài đứng xếp hàng cùng với dân tộc của Ngài. Ngài trà trộn với những tội nhân muốn sám hối. Ngài chấp nhận dìm mình xuống cùng một dòng sông. Có ai nhận ra Ngài là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian không?
Đấng thánh thiện lại khiêm nhu đứng bên kẻ tội lỗi. Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Hành vi đầu tiên công khai của Đức Giêsu lại là một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút...
Ngài chỉ là một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan tăm tiếng.
Nhìn Đấng Cứu Độ cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là đồng hành và liên đới.
Đồng hành với người khác đòi tôi phải đi chậm lại.
Liên đới với người khác đòi tôi nhỏ bé đi.
Đồng hành đòi tôi có chung một tâm tình với người khác.
Đấng vô tội nếm được cái ray rứt của tội nhân và cảm được nỗi khát khao đổi đời của họ. Đức Giêsu đã đồng hành với con người cho đến chết. Ngài đã chia sẻ thân phận của người nghèo, người khổ đau, người bị bỏ rơi, bị thất bại, bị kết án và cả thân phận khắc khoải của tội nhân.
Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm đồng hành.
Thiên Chúa tập làm người để hiểu được con người. Ngài cúi xuống để nâng con người lên.
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn gặp gỡ Cha trong tư cách là Con. Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này mà Ngài cảm thấy được Thánh Thần tràn ngập, và tự thâm tâm, Ngài nghe rõ tiếng của Cha. Cha âu yếm gọi Ngài là Con và phong Ngài làm Mêsia:
"Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con."
Từ hôm nay, Đức Giêsu hiểu rằng giờ lên đường đã điểm. Thời gian ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc.
Cha ban Thánh Thần để ủy thác cho Ngài một sứ mạng.
Đức Giêsu đã trải qua một kinh nghiệm tuyệt vời...
Sông Giođan, nơi Ngài gắn bó với tội nhân, với dân tộc, đã trở nên nơi Ngài gắn bó với Cha trong Thánh Thần.
Nơi đi xuống cũng là nơi đi lên.
Nơi Ngài được sai đến cũng là nơi Ngài đang hiện diện.
Chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần. Phép Rửa này có đưa chúng ta lên đường phục vụ không?
Mỗi ngày, ta có lại thấy mình được Cha sinh ra không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Càng lúc con người càng cảm thấy mình không thể sống lẻ loi. Sống là đồng hành, liên đới với người khác. Bạn nghĩ gì về khả năng sống với và sống cho người khác của bạn?
Khi Đức Giêsu cầu nguyện thì Thánh Thần ngự xuống và Cha ngỏ lời với Ngài. Có khi nào bạn được một kinh nghiệm tương tự như Đức Giêsu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari. Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con, để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi. Ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người, và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
Theo các nhà chú giải, Chúa Giêsu đã hạ mình xuống, chấp nhận thân phận tội nhân để xin Gioan: TN 1-C3
Theo các nhà chú giải, Chúa Giêsu đã hạ mình xuống, chấp nhận thân phận tội nhân để xin Gioan Tiền hô làm phép rửa. Thế nhưng, cũng chính nhờ đó, Ngài đã thánh hóa nước và ban cho nước một hiệu quả kỳ diệu đó là trao ban ơn sủng. Hay nói cách khác, chính nhờ đó Ngài đã thiết lập bí tích Rửa tội.
Đồng thời trong lúc tự hạ mình xuống như vậy, Ngài đã được Chúa Thánh Thần tấn phong, như lời tiên tri Isaia đã xác quyết:
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.
Hơn thế nữa, chính trong lúc tự hạ mình xuống như vậy, Ngài đã được Chúa Cha nâng lên qua lời truyền phán:
- Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Với chúng ta cũng vậy, kể từ khi lãnh nhận dòng nước thanh tẩy, chúng ta cũng đã được Chúa Cha nhận làm con cái Ngài.
Để hiểu được tình trạng của chúng ta, trước và sau khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, cũng như để hiểu được ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của địa vị làm con cái Chúa mà bí tích Rửa tội đem lại, thiết tưởng chúng ta nên đọc lại câu chuyện về ông Maisen trong Cựu ước.
Thực vậy, lúc bấy giờ Pharaon vua Ai Cập ra lệnh giết hết các trẻ nam của người Do thái, vì sợ rằng họ sẽ sinh sôi nảy nở ra nhiều và trở nên một thế lực chính trị hùng mạnh. Có một phụ nữ Do Thái, sinh được một con trai. Bà lén nuôi đứa bé trong một thời gian, nhưng cảm thấy không ổn. Và thế là bà bèn làm một chiếc thúng, trát nhựa, rồi đặt đứa bé nằm trong đó và thả trôi theo dòng nước.
Rất may có một nàng công chúa xuống tắm, nghe thấy tiếng trẻ khóc trong đám lau sậy, bèn sai nữ tì xuống vớt. Nàng công chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi và đặt tên cho là Maisen, nghĩa là được vớt lên khỏi nước.
Trước khi được vớt lên khỏi nước, Maisen sẽ phải chết và nếu có sống thì cũng chỉ là sống một kiếp nô lệ đọa đày. Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Maisen trở thành con của nàng công chúa, có một cuộc sống an nhàn trong hoàng cung…
Với chúng ta cũng thế, trước khi lãnh nhận dòng nước rửa tội, chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội nguyên tổ. Còn sau khi lãnh nhận dòng nước Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và được quyền thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Thế nhưng để xứng đáng với địa vị cao cả này, chúng ta phải làm gì ? Tôi xin thưa:
- Chúng ta phải làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách vâng theo thánh ý của Ngài.
Thực vậy, thế nào là một người con ngoan trong gia đình ? Một người con ngoan trong gia đình chắc chắn không phải là người con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là người con mau mắn vui vẻ vâng theo những lời chỉ dạy của chạ mẹ.
Nếu Đức Kitô đã được Chúa Cha tuyên phong: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, thì chắc hẵn Ngài luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, nhìn vào cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Trong suốt quãng đời công khai, Ngài hằng băn khoăn để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ngài đã từng nói với các môn đệ: - Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai ta. Ngay cả trước khi ra đi chịu chết, nỗi băn khoăn ấy vẫn còn được thể hiện: - Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén đắng này cho Con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Thánh Phaolô đã diễn tả về thái độ này như sau: - Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Với chúng ta cũng vậy, để trở thành người con yêu dấu của Chúa, chúng ta cũng phải chu toàn thánh ý Ngài ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh, nhất là luật yêu thương của Phúc âm, cũng như qua giáo huấn của Hội Thánh. Có chu toàn thánh ý Chúa giữa lòng cuộc đời, thì trong ngày sau hết, chúng ta mới được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã từng tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
Trong sinh hoạt của Giáo Hội, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa vừa là một kết thúc, vừa là một: TN 1-C4
Trong sinh hoạt của Giáo Hội, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa vừa là một kết thúc, vừa là một mở đầu. Kết thúc trong Mùa Giáng sinh và bắt đầu Mùa thường niên. Hôm nay với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội bắt đầu tuần thứ nhất Mùa thường niên.
Trong cuộc đời của Chúa Giêsu thì biến cố Chúa Giêsu đến lãnh phép rửa của Gioan tẩy giả nơi sông Giócđan cũng là một kết thúc và là một mở đầu. Kết thúc cho quãng đời sống ẩn dật âm thầm và bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, thực hiện chương trình mà Chúa Cha đã trao phó cho.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là một biến cố mạc khải quan trọng và ta có thể nói đây là mạc khải đầu tiên công khai không những về thực thể, về sứ mạng của Chúa Giêsu, nhưng còn là một mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một người đứng xếp hàng giữa bao tội nhân thống hối đến lãnh phép rửa thống hối của Gioan để chuẩn bị đón nhận ơn cứu rỗi không phải chỉ là một người phàm trần đơn thuần, nhưng lại là Con Thiên Chúa, Con Thiên Chúa nhập thể làm người: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Đó là lời mạc khải của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu Kitô, lời mạc khải long trọng và công khai cho nhiều người trong lúc đó nghe được, đồng thời cũng chính lúc đó Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu như bài Tin Mừng tường thuật lại.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được vén mở cho con người, để rồi sau này chính Chúa Giêsu sẽ giảng dạy thêm cho các đồ đệ trong nhiều dịp khác nhau, mà dịp kết thúc cuối cùng cũng liên quan đến phép rửa là phép rửa trọn hảo của Chúa Giêsu, đó là phép rửa trong Chúa Thánh Thần khi Chúa Phục sinh ra lệnh cho các tông đồ: “Chúng con hãy đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, dạy dỗ họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Nơi phép rửa chuẩn bị của Gioan, Chúa Giêsu đã vén mở cho dân chúng nhìn thấy trước phép rửa trong Thánh Thần mà Ngài sẽ thiết lập và truyền cho các môn đệ thi hành. Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa bằng nước nơi sông Giócđan của Gioan tẩy giả, Ngài bước lên và tràn đầy Chúa Thánh Thần, nhưng Chúa Thánh Thần và Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải trong biến cố khởi đầu này.
Nhìn vào bài tường thuật chúng ta vừa đọc trên, chúng ta có thể lưu ý đến một chi tiết đầy ý nghĩa khác nữa, đó là chi tiết được tác giả Phúc âm diễn tả bằng từ ngữ “Trời mở ra”. Từ ngữ này nhắc nhớ đến hình ảnh Kinh Thánh Cựu ước nơi thánh vịnh, chúng ta đọc thấy lời nguyện cầu tha thiết sau đây: “Lạy Chúa, xin hãy xé trời ra mà ngự xuống trên trần gian này”. Nơi sách tiên tri Isaia, ngài đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, tại sao Ngài không xé trời mà ngự xuống với chúng con trên trần gian này. Dân Israel cũng như mọi thành phần trong dân chúng chắc chắn đều biết lời cầu nguyện này của tiên tri Isaia và đã cầu nguyện như vậy, qua đó nói lên tâm hồn khao khát ơn cứu rỗi, khao khát Đấng Thiên sai, Đấng Thiên Chúa Cha sai xuống để cứu rỗi con người.
Lời cầu nguyện trên nói lên nỗi khát vọng của con người muốn gặp được Thiên Chúa, của một con người cảm thấy thân phận mình yếu hèn cần đến sự trợ lực của Thiên Chúa. Người Việt Nam chúng ta trong cơn khốn cùng cũng thường kêu lên: “Trời ơi, hãy xuống mà xem”. Như thế, chi tiết trời mở ra trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là một chi tiết mạc khải quan trọng, đó là đã đến lúc Thiên Chúa nhận lời cầu xin của Con Người: “Đây là Con Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Thiên Chúa trọn vẹn Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần đã đáp lại khát vọng của con người, Ngài sai Con Một Ngài xuống trần làm người để thực hiện chương trình cứu rỗi, dẫn đưa nhân loại trở về cùng Ngài, trở về trời.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc lại cho con người nhớ rằng, con người khao khát cần đến Thiên Chúa, khao khát được cứu rỗi và Thiên Chúa đáp lại khao khát này trong Chúa Giêsu Kitô Con Ngài, nơi một con người không phải là con người tầm thường đã đến nhận phép rửa của Gioan nơi sông Giócđan, mà nơi một con người vừa là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
Yếu tố thứ hai của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, đó là Chúa Thánh Thần ngự xuống cũng mang một ý nghĩa sâu xa. Khởi đầu sách Sáng Thế khi bắt đầu công cuộc tạo dựng, Thánh Thần Chúa đã bay lượn là là trên mặt nước, và trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu. Dĩ nhiên, bay lượn xuống trên Chúa Giêsu, chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới mà Chúa Giêsu thực hiện và phép rửa là điểm khởi đầu của công cuộc tái tạo nên mới trong Chúa Thánh Thần.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban cho ta được ơn biết lắng nghe Lời Chúa, sống vâng phục với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Nếu thánh Gioan tẩy giả sống trong thế giới chúng ta, có lẽ ông sẽ được mời tham gia vào chương: TN 1-C5
Nếu thánh Gioan tẩy giả sống trong thế giới chúng ta, có lẽ ông sẽ được mời tham gia vào chương trình “tìm người thân”. Người ta sẽ tìm cách bắt ông nói về bản thân ông, về thời thơ ấu, tổ tiên, và những lý do khiến ông rao giảng. Nhưng có lẽ ông sẽ hướng những kẻ nói chuyện với ông về Đấng mà ông đã đến để giới thiệu cho người ta biết, Đấng mà ông “không xứng đáng cởi dây dép”.
Gioan là một trong những người nói năng mạnh mẽ và có sức thu hút. Ông nói thẳng. Ông lay động những thói quen, thức tỉnh những kẻ ngủ mê. Trước “… màn ảnh truyền hình của ông…”, Chúa Giêsu say mê sứ điệp của con người đã gây nên bao nhiêu vấn nạn và bao nhiêu tranh cãi. Gioan có lý: “Hãy hoán cải, hãy quay về với Thiên Chúa. Hãy sinh hoa quả hoán cải. Mọi cây không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi. Ai có hai áo thì hãy chia sẻ với kẻ không có”.
Nối gót toàn thể dân chúng, Chúa Giêsu quyết định chịu phép rửa: Ngài sẽ không trở về Nagiarét nữa. Ngài đang đứng trước một tiếng gọi cần phải đáp lại ngay. Ngài đáp lại một lời mời gọi trực tiếp của vị ngôn sứ cuối cùng.
Phép rửa của Gioan là một hành vi công khai. Chấp nhận để ông rửa cho tức là dấu ta chấp nhận lời ông kêu gọi và quyết định thay đổi để tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu tham gia công việc hoán cải của dân Ngài. Khi chịu phép rửa, Ngài muốn nói với chúng ta rằng Ngài đã nhận lấy thân phận làm người của chúng ta, rằng Ngài đã nhập thể trong một lịch sử, lịch sử của một dân tộc “cứng đầu cứng cổ”, một dân tộc tội lỗi cần được Thiên Chúa hoán cải, cần quay về với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng muốn nói về mình cho dân tộc của Ngài. Ngài đến trà trộn với những kẻ bé mọn, yếu kém, những kẻ nhận mình là tội lỗi. Ngài tự xưng giống những kẻ xung quanh Ngài mọi đàng. Ai có thể ngờ rằng con người giống như mọi con người ấy lại là Đấng Mêsia được mong chờ ? Đấng Mêsia mà dân chúng hình dung là người chiến thắng, oai phong, có kẻ hầu người hạ bao quanh và được kính nể bởi quyền uy của mình? “Và dân chúng vẫn chờ mong…”
Khi trở thành một người trong chúng ta, Chúa Giêsu biểu lộ quyền uy của Ngài một cách khác với cách mà người Do thái vẫn tưởng. Chính bằng sự hiền từ, kiên nhẫn, khiêm nhượng, bằng việc phục vụ những kẻ bé nhỏ, những kẻ bị bỏ rơi, mà Ngài thiết lập vương quốc của Ngài.
“Chúa Giêsu cũng lãnh nhận phép rửa, và, đang khi Ngài cầu nguyện”. Hậu quả lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Chúa Cha tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa và ủy thác cho Ngài sứ vụ cứu thế. Nếu Chúa Giêsu được nhìn nhận là Con, cả chúng ta nữa, chắc chắn chúng ta cũng được tham dự vào địa vị làm con với Ngài và chúng ta sẽ luôn luôn có thể tin tưởng vào lòng nhân hậu của Chúa Cha để được đón nhận như là con cái thực sự. Chúng ta cũng có thể tự coi mình như em và môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ có thể tham dự vào sứ vụ của Ngài là bênh vực kẻ nghèo, loan báo Tin Mừng, chữa lành những con tim bị đời gây thương tích.
Là Kitô hữu đã được rửa tội, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Đấng mà Gioan loan báo. Chúng ta phải sẵn sàng nói với những kẻ nghe chúng ta: “Đấng mà các bạn tìm kiếm, Ngài sẽ làm phép rửa cho các bạn trong thần khí, chúng tôi chắc chắn về điều này. Ngài sẽ cho các bạn biết tình yêu của Chúa Cha. Hãy hoàn toàn tin tưởng mà đến với Ngài. Ngài sẽ đem đến cho các bạn những gì các bạn chờ mong. Hãy liên lỉ tìm kiếm Ngài, không phải vì lương thực có thể hư nát nhưng vì lương thực tồn tại cho cuộc sống vĩnh viễn”.
Phép rửa của Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta về phép rửa tội của chính chúng ta. Có nhiều lễ: TN 1-C6
Phép rửa của Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta về phép rửa tội của chính chúng ta. Có nhiều lễ nghi mà người ta có thể giữ trong Giáo Hội. Nhưng tất cả những lễ nghi này đều trở nên mờ nhạt, khi so sánh với ân sủng cơ bản đối với tất cả: Phép Rửa rội. Khi chúng ta đứng trước ngai tòa Thiên Chúa, thì những lễ nghi khác không còn quan trọng nữa. Phẩm giá của chúng ta sẽ chỉ tùy thuộc vào một điều mà thôi – mức độ chúng ta sống ơn phép rửa tội của chúng ta.
Lễ nghi của phép rửa tội là một lễ nghi tuyệt đẹp. Khi lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta được chính thức nhận một tên, và được đón tiếp vào gia đình của dân Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện thật đáng yêu được đọc lên cho chúng ta. Thân thể chúng ta được ghi dấu thánh giá, dấu hiệu tình yêu của Đức Kitô đối với chúng ta. Nước được đổ xuống trên chúng ta. Nước là biểu tượng của sự tẩy rửa, chúng ta được tẩy rửa khỏi tội lỗi. Nhưng đặc biệt hơn, nước còn là biểu tượng của sự sống. Trong phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống không thể chết được của Thiên Chúa.
Cơ thể chúng ta được xức dầu thánh không chỉ một lần, mà đến hai lần. Giống như cơ thể của các vận động viên được bôi một lớp dầu, để mang lại cho họ sức khỏe trong cuộc tranh tài. Cũng vậy, chúng ta được xức dầu thánh, để ban cho chúng ta sức mạnh, trong cuộc đấu tranh không thể tránh khỏi, nhằm chống lại sự dữ. Và cũng giống như các vị vua, các ngôn sứ, và các linh mục đã được xức dầu, và do đó, đánh dấu rằng họ trở thành những người rao giảng của Thiên Chúa đối với cộng đồng. Cũng vậy, chúng ta được xức dầu, để trở nên những sứ giả của Đức Kitô, trong thế giới này.
Thân thể của chúng ta được phủ lên một chiếc áo trắng tinh, đó là dấu hiệu bên ngoài của nhân phẩm người Kitô hữu. Chúng ta được trao cho một cây nến, được thắp sáng từ ngọn nến Phục sinh, mang ý nghĩa ánh sáng quý giá của đức tin. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng kỳ diệu nơi Con của Người.
Những gì diễn ra trong lần Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa, cũng xảy ra cả cho chúng ta nữa. Thiên Chúa kêu gọi đích danh chúng ta. Người nói với mỗi người chúng ta “Con là con trai yêu dấu của Ta”, hoặc “Con là con gái yêu dấu của Ta”. Và thần khí Chúa đáp xuống trên chúng ta, để giúp chúng ta sống đời sống của một Kitô hữu, và để tham gia vào sứ vụ của Đức Giêsu.
Từ quan điểm thiêng liêng, phép rửa tội là một điều vĩ đại nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Được lãnh nhận phép rửa tội là được kitô hóa, nghĩa là được trở nên giống như Đức Kitô. Nhưng điều này không xảy ra một cách tự động, như là kết quả của việc được lãnh nhận phép rửa tội. Người ta phải học hỏi ý nghĩa của việc trở nên một người Kitô hữu là gì, và phải lớn lên trong ý nghĩa này. Đây là công việc của cả một đời người. Đến cuối cuộc đời, người ta hỏi một vị thánh, xem ngài đã là người kitô hữu chưa, thì ngài đáp lại chưa.
Trong Giáo Hội, có nhiều ơn gọi. Nhưng ơn gọi quan trọng nhất vượt lên trên tất cả các ơn gọi, phổ biến đối với tất cả những người đã được chịu phép rửa tội, đó là ơn gọi mà chúng ta đã được đón nhận vào lúc rửa rội – ơn gọi trở thành người môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ơn gọi cốt lõi. Tất cả những ơn gọi khác trong Giáo Hội đều phải được coi như liên hệ với ơn gọi này.
Chúng ta tổ chức thật lớn ngày sinh nhật của mình. Cũng vậy, chúng ta nên cử hành ngày lễ rửa tội của chúng ta một cách long trọng, bởi vì đó là ngày mà chúng ta được sinh ra làm con cái Thiên Chúa. Mỗi khi vào nhà thờ, và lấy nước thánh làm dấu, là chúng ta đang tự nhắc nhở mình về phép rửa tội của chúng ta, và tự cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép rửa tội. Sống theo ơn gọi của phép rửa tội, là sống tư cách người môn đệ của Đức Giêsu.
Hiện nay, Giáo Hội rất bận tâm với những ơn gọi. Nhưng ở đây, ơn gọi được hiểu theo một cách: TN 1-C7
Hiện nay, Giáo Hội rất bận tâm với những ơn gọi. Nhưng ở đây, ơn gọi được hiểu theo một cách rất giới hạn. Một cách cơ bản, chúng ta đang nói về ơn gọi trở thành linh mục. Đây là một ơn gọi quan trọng, nhưng không phải là ơn gọi quan trọng nhất trong Giáo Hội.
Ơn gọi đầu tiên và quan trọng nhất, phổ biến đối với tất cả những người đã được rửa tội, đó là ơn gọi trở thành người Kitô hữu, hoặc ơn gọi làm người môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ơn gọi cốt lõi. Tất cả những ơn gọi khác trong Giáo Hội đều phải được coi như liên hệ với ơn gọi này. Khi được rửa tội, chúng ta đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu “Hãy đến, hãy đi theo Ta”. Nói cách khác, chúng ta tiếp nhận ơn gọi trở nên người môn đệ của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là có nhiều người được rửa tội đã sống không khác biệt gì, so với người không được rửa tội. Nếu họ thực hành lòng tin của họ, thì đó lại thường là một lòng tin không trưởng thành, dựa trên cách thực hành thường lệ, không dứt khoát. Điều cần thiết là tin tưởng với sự hiểu biết ; và đi theo Đức Kitô bằng lòng tin của cá nhân mình.
Lần kia, Đức Hồng Y Newman đã hỏi cộng đoàn của ngài “Việc trở thành một người Kitô hữu tạo ra sự khác biệt gì trong lối sống hằng ngày của chúng ta?”. Câu kết luận là “Tôi e rằng hầu hết chúng ta cứ tiếp tục làm những gì chúng ta đã làm, nếu chúng ta cho rằng đạo Công giáo không hơn gì một câu chuyện ngụ ngôn”.
Ơn gọi làm người Kitô hữu bao gồm cái gì ? Theo những lời trong Tin Mừng, thì ơn gọi làm người Kitô hữu là một tiếng gọi trở nên “muối đất, ánh sáng thế gian”. Đạo Công giáo nói về lối sống như thế nào, chứ không chỉ nói về lòng tin vào điều gì. Không nên có sự phân biệt giữa sinh hoạt tôn giáo và những hoạt động hằng ngày. Lòng tin phải được chuyển thành hành động. “Đừng ngại loan báo điều mà bạn tin tưởng, trừ phi bạn hành động một cách phù hợp”.
Với tư cách là người Kitô hữu, chúng ta đóng một vai trò rất tích cực trong thế giới. Chúng ta có những thứ để hiến tặng, những thứ mà thế gian cần đến một cách tuyệt vọng, mặc dù không phải lúc nào thế gian cũng đón nhận. Chúng ta không nên e ngại hoặc biện hộ về vai trò của chúng ta. Điều này cần đến một lòng can đảm và sự gan dạ nào đó.
Việc đi theo Đức Kitô nghĩa là gì đối với người bình thường ? Điều này có nghĩa là trở nên một người Kitô hữu ngay tại nơi bạn sinh sống, và ngay trong nghề nghiệp mà bạn chọn lựa. Có nhiều cách thức để phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Lời mời gọi trong trường hợp đầu tiên không phải dành cho vai trò làm tông đồ, mà là vai trò làm người môn đệ của Chúa.
Chắc hẳn là nếu không bao giờ nghe được tiếng gọi của Đức Giêsu, thì chúng ta sẽ có một cuộc sống dễ dãi hơn. Nhưng liệu chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc hơn và liệu chúng ta có được sống nhiều hơn thế nữa chăng ? Đức Giêsu nói “Thầy đến để anh em được sống và sống dồi dào”. Tin Mừng đưa ra cho chúng ta một lối sống chính đáng hơn và sâu xa hơn cho cuộc sống của chúng ta. Và Tin Mừng gieo vào trong tâm hồn chúng ta những hạt giống của sự sống đời đời.
Ơn gọi làm người Kitô hữu tạo ra viễn tượng về một cuộc sống cao cả hơn và trong sạch hơn trước mặt chúng ta. Đồng thời, ơn gọi này còn thông truyền cho chúng ta sự hy sinh và phục vụ người khác. Ơn gọi này mở rộng những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Đó không phải là công việc chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu nữa. Khi lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta được đón nhận vào một cộng đoàn của những kẻ tin.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép rửa tội. Mỗi khi vào nhà thờ, và lấy nước thánh làm dấu, là chúng ta đang tự nhắc nhở mình về phép rửa tội của chúng ta, và tự cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép rửa tội ấy.
Trong một số quốc gia, là một người Công giáo tức là mắc một trọng tội. Ông bà Moran bị kết: TN 1-C8
Trong một số quốc gia, là một người Công giáo tức là mắc một trọng tội. Ông bà Moran bị kết án là người Công giáo. Thay vì từ chối trách nhiệm, cả hai ông bà đều thừa nhận điều này một cách cởi mở, và họ chuẩn bị đương đầu với những hậu quả. Họ bị đưa ra tòa, để bị xét xử trước một bồi thẩm đoàn. Vốn đã bỏ đạo, nên tất cả những người trong họ hàng của hai ông bà đều mong muốn cứu thoát họ khỏi bị tù tội hoặc tệ hơn thế nữa. Vì thế, họ thuê một luật sư, để biện hộ cho hai ông bà khỏi phải chịu trách nhiệm. Lời bào chữa của ông ta ngắn gọn như sau:
“Hai thân chủ của tôi bị cáo buộc là người Công giáo. Mục đích của tôi là muốn chứng tỏ rằng trên thực tế, hai ông bà không phải là như vậy, mặc dù họ có thể cứ khăng khăng tự nhận một cách can đảm rằng mình là người Công giáo. Các sự kiện đều đi ngược lại hai người. Và tôi cần phải nói rằng, trường hợp này cần phải xét xử dựa trên các sự kiện.
“Tôi xin nói rằng: Hai ông bà Moran đều có lối sống tốt đẹp, chăm chỉ làm việc. Tôi biết chắc chắn rằng cả hai người chưa bao giờ bị lôi cuốn vào bất cứ việc làm nào phi pháp. Họ là những người đáng kính, theo bất cứ tiêu chuẩn nào.
“Người ta có thể thán phục nhiều điểm trong cuộc sống của họ. Họ là những con người chân thành. Và người ta có thể thán phục sự trung thành của họ, về việc tuân thủ các lễ nghi bên ngoài trong tôn giáo của họ, như tham dự thánh lễ và các phép bí tích. Trên thực tế, tôi cho rằng họ là những người Công giáo chỉ trên danh nghĩa. Họ tham dự thánh lễ vào sáng Chủ nhật, và là những người rất sốt sắng về mặt này. Nhưng điều này vẫn chưa đủ.
“Ông Giêsu đã nói trong Tin Mừng, và tôi xin trích dẫn “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai”. Rõ ràng rằng từ bối cảnh này, ông Giêsu ý muốn nói hoa quả là “những hành động tốt đẹp”. Tôi e rằng trong trường hợp của ông bà Moran, hoa quả không đơn giản là điều đó.
“Tôi không tìm được chứng cứ nào trong cuộc sống của họ, hoặc trong thái độ của họ, rằng họ sống theo những lời rao giảng của ông Giêsu một cách nghiêm túc. Chẳng hạn, liệu có bất cứ người nào có thể nghiêm khắc buộc tội hai thân chủ của tôi về bất cứ mối quan tâm đặc biệt nào đối với người nghèo khổ, đau yếu, kém may mắn hoặc bị khinh miệt chăng ? Tôi cho rằng không hề có một chút chứng cứ nào xác nhận cho một lời buộc tội như vậy. Họ đã không hề làm gì nhiều hơn bất cứ người nào trong chúng ta. Trên thực tế, họ lại còn làm ít hơn, so với một số người nào không bao giờ mơ tưởng đến việc tự nhận mình là người Công giáo.
“Tuy nhiên, đây đúng là mẫu người, mà chính ông Giêsu đã thực hiện theo cách thức của ông ta, để giúp đỡ mọi người, khi ông ta còn tại thế. Và ông ta còn tuyên bố dứt khoát rằng những kẻ đi theo ông ta sẽ bị xét xử, không phải vì số lần họ cầu nguyện, hoặc những hành động thờ phượng mà họ tham dự, nhưng là do cách họ đáp ứng những nhu cầu của những người như vậy.
“Các môn đệ đầu tiên của ông Giêsu đều là những tông đồ nồng nhiệt, mà ông ta sai đi để biến đổi thế giới. Họ sẽ không thừa nhận rằng hai ông bà Moran thuộc về cùng nhóm của họ đâu”.
(Đến đây, ông Moran nhảy dựng và la lên: “Nhưng chúng tôi đều là người Công giáo”).
“Thưa ông Moran, tôi chưa nói xong. Tôi xin đưa ra để quý tòa xem xét rằng hai thân chủ của tôi không phải là người Công giáo theo ý nghĩa thực sự – theo ý nghĩa dành cho những người mà đối với họ, người hàng xóm của họ phải được thương mến như chính bản thân họ vậy. Tất cả lỗi mà họ phạm phải, đó là họ đã tự lừa dối mình, và đó không phải là một tội nặng. Do đó, tôi yêu cầu bãi bỏ lời cáo buộc chống lại hai thân chủ của tôi, bởi vì thiếu chứng cứ rõ rệt”.
Sau đó, thẩm phán tuyên bố “Bồi thẩm đoàn sẽ rút lui, để xem xét lời phán quyết”.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép rửa tội. Khi lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta được đón nhận lời mời gọi trở nên những môn đệ của Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi mà chúng ta đều có thể hỏi là: Nếu trở thành người Công giáo là một trọng tội, thì liệu đã có đủ chứng cứ trong cuộc sống của tôi, để đảm bảo cho một niềm tin chưa ?
Hai tiếng sứ mạng nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi: TN 1-C9
Hai tiếng sứ mạng nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo – nói chung là mọi hữu thể – đều có sứ mạng:
- Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất.
- Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người.
- Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân hủy những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi “Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng ?”
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói “Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân”.
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang: TN 1-C10
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.
Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ.
Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.
Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.
Đấng xóa tội trần gian, lại hòa mình trong đoàn người tội lỗi.
Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông sám hối.
Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.
Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người.
Chính thái độ tự hủy tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta.
Vâng, chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hóa thân làm kiếp phàm nhân:
Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.
Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân.
Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn mục ngay trước mắt con người,
Người đã muốn nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận từ Cha: “Mọi sự của Cha là của Con”.
Người đã muốn chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa: “Phàm là con cái thì chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết nhục với chúng ta”.
Người đã muốn chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách”.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu: Một tình yêu vui lòng tự hủy để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng anh em trỗi dậy cùng bước về nhà Cha.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế là cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giocđan, chúng ta hiểu được thế nào là hiệp thông: Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này mà Người cảm nhận được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: “Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
Ngày nay, chúng ta đã chịu phép rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi hiệp thông thân mật với Ba Ngôi chí thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một tình yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tinh yêu cứu thế !
Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa. Thế nhưng, chúng ta có cảm: TN 1-C11
Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa. Thế nhưng, chúng ta có cảm thấy hạnh phúc khi được làm con cái Chúa hay không ? Chúng ta có lấy Chúa làm chọn lựa căn bản, làm cùng đích của cuộc đời hay không ? Nói đến điểm này, tôi nhớ lại câu chuyện giữa chàng thanh niên và thánh Philipphê Nêri như sau: Ngày kia, chàng thanh niên đến khoe với thánh nhân: mừng quá cha ơi, con vừa mới đậu vào đại học. Thánh nhân bèn hỏi: Rồi sao nữa ? Con sẽ tốt nghiệp. Rồi sau nữa ? Con sẽ làm thẩm phán, ra ứng cử và biết đâu con sẽ làm tổng thống. Rồi sao nữa ? Thì chết, chứ còn làm sao. Nhưng thánh nhân vẫn hỏi tiếp: Rồi sao nữa ? Chàng thanh niên không trả lời được. Chính cách đặt câu hỏi của thánh nhân cho chúng ta thấy cùng đích của cuộc là gì nếu không phải là làm con cái Chúa. Và chọn lựa căn bản trong đời sống làm con Chúa là gì nếu không phải là chọn chính Chúa. Khi nói chọn Chúa thì không có nghĩa là phải đi tu, phải từ bỏ những chọn lụa khác. Ai đang yêu thì cứ yêu cho thật chân thành, nhưng phải làm sao cho tình yêu ấy trở nên thanh cao. Ai học tập vẫn cứ tiếp tục học tập, nhưng phải làm sao cho việc học tập ấy trở nên nghiêm túc. Ai buôn bán vẫn cứ tiếp tục buôn bán, nhưng phải làm sao cho việc buôn bán ấy trở nên công bằng. Một khi đã chọn Chúa, thì trong mọi việc chúng ta hãy làm trước sự hiện diện của Ngài, như lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Dù ăn, dù ngủ, dù làm việc gì, anh em hãy làm vì danh Đức Kitô. Hay nói cách khác, chúng ta hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, chẳng hạn như hiền lành, khiêm nhường, yêu thương anh em, kể cả những kẻ thù địch… Làm con cái Chúa như thế đòi hỏi rất nhiều cố gắng và hy sinh. Thế nhưng, chúng ta phải đi cho tới cùng, bởi vì chịu phép rửa tội không phải chỉ là chuyện đổ nước xong rồi thôi, nhưng là chấp nhận dìm mình trong sự chết của Đức Kitô để rồi giống như Ngài từ cõi chết sống lại thế nào, chúng ta cũng phải đứng dậy trong sời sống mới như vậy. Một phép rửa như thế, chúng ta không phải chỉ chịu một lần thay cho tất cả, nhưng phải chịu mỗi ngày trong suốt cuộc đời.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau thinh lặng trong giây lát để nhớ lại bí tích rửa tội đã lãnh nhận và tự hỏi: Tôi có cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc vì được làm con cái Chúa hay không ? Tôi có sống xứng đáng địa vị cao cả ấy không ?
Đời sống công khai của Chúa Giê-su bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3:21). Mặc dầu: TN 1-C12
Đời sống công khai của Chúa Giê-su bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3:21). Mặc dầu phép rửa mà Chúa lãnh nhận không phải là bí tích rửa tội, nghĩa là không để được tha tội vì Người không có tội, phép rửa đó cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Phép rửa đánh dấu cái sứ mệnh công khai của Người trong việc rao giảng và chữa lành. Còn đời sống người Ki-tô giáo cũng bắt đầu bằng Phép Rửa tội. Trong nước Rửa tội, ta trở nên người mới với đời sống mới. Bí tích Rửa tội vừa là việc kết thúc vừa là việc khởi đầu. Bí tích Rửa tội kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và bắt đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cái chết và phục sinh của Chúa, nghĩa là nhờ Bí tích Rửa tội, người tín hữu chết đi cho tội lỗi, để được sống lại với Chúa trong ơn thánh. Đó là ý nghĩa của lời Chúa nói với Ni-cô-đê-mô: Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy nước Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Và rồi Chúa thiết lập bí Tích Rửa tội: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh thần (Mt 28:19).
Bí tích Rửa tội là một biến cố lớn trong đời sống người tín hữu, bất kể khi rửa tội, người ta đã khôn lớn hoặc còn nhỏ dại. Hoặc là ta được rửa tội khi còn tuổi măng sữa, hay khi đã lớn khôn lớn, ta cần đem ý nghĩa vào việc rửa tội. Nếu được rửa tội khi đã khôn lớn, ta phải có xác tín về đức tin và về đạo. Nếu được rửa tội lúc còn nhỏ dại, ta phải phê chuẩn cái đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ta không thể cậy dựa và tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Nhiều người tưởng được rửa tội là là đã đi tới cuối đường và đã đạt đích. Thực sự không phải thế. Khi mà hạt giống đức tin được vun trồng trong đời sống, ta phải nuôi dưỡng, chăm sóc, nếu muốn cho đức tin được tăng trưởng, và sinh hoa kết quả thiêng liêng. Phép rửa tội mới chỉ gieo vãi hạt giống đức tin. Các bí tích kế tiếp mới làm cho người ta trưởng thành và mang lại kết quả.
Bí tích Rửa tội không phải là cái giấy thông hành để được vào Nước trời. Người ta có thể chứng minh có tất cả các giấy chứng chỉ: chứng chỉ rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức, cưới hỏi.. Tuy nhiên chưa chắc người ta đã sống đức tin và trưởng thành trong đức tin. Ta có thể chịu Phép rửa tội lâu năm, nhưng đời sống vẫn không có gì thay đổi, vẫn khô khan, nguội lạnh và làm biếng việc lành. Tại sao lại như vậy? Có lẽ tại vì người ta làm việc đạo một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ, hay mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ trong việc giữ đạo.
Cái tiến trình đức tin của ta được đi tuần tự như sau: Người tín hữu chấp nhận đức tin khi chịu phéo Rửa tội. Họ phê chuẩn đức tin khi chịu phép Thêm sức. Họ làm mới lại đức tin khi đến tòa Cáo giải. Họ lặp lại lời cam kết đức tin khi đi dự thánh lễ. Nếu đức tin của ta là cái gì có tính cách chân thật, ta phải giữ lời cam kết khi chịu phép Rửa tội một cách vững chắc bằng việc thực hành. Đó là cái tiến trình của đức tin luôn được đổi mới. Lời cam kết đức tin khi chịu phép Rửa tội không phải là một lần. Mỗi ngày đòi ta phải làm mới lại lời đáp trả đức tin. Và mỗi lời đáp trả không phải là một việc tách biệt riêng rẽ, nhưng là một phần trong toàn bộ cái tiến trình đổi mới đức tin.
Sau ba mươi năm sống ở Nazareth -một nơi không có gì đáng nói cả-, hôm nay thế giới được diễm: TN 1-C13
Sau ba mươi năm sống ở Nazareth -một nơi không có gì đáng nói cả-, hôm nay thế giới được diễm phúc nhìn thấy Đấng Thiên Sai bắt đầu cuộc đời rao giảng ngắn ngủi của mình. Cũng như tất cả các biến cố trong chương trình cứu độ, hôm nay Thiên Chúa đã chuẩn bị hết sức tinh vi, độc đáo khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Jordan. Hãy cùng tìm hiểu bối cảnh, ý nghĩa và hệ lụy của nó đối với từng người chúng ta.
Theo luật thời bấy giờ: không ai được giảng thuyết trước công chúng nếu chưa đủ ba mươi tuổi. Vài tháng trước, Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện kêu gọi mọi người ăn năn thống hối, và phép rửa được xem như là dấu chỉ đầu tiên cho sự thay đổi đời sống luân lý của mỗi người. Hôm nay Chúa Giêsu -sau vài tháng (vì Chúa sinh sau Gioan 6 tháng)- cũng đến để nhận phép rửa từ Gioan, như bao nhiêu người Do Thái tốt lành khác, dù Ngài là con người y như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài không hề có tội nên không cần phải ăn năn thống hối, nhưng Ngài đã thể hiện lòng khiêm tốn, và yêu thương chúng ta tột độ; vì lợi ích cho chúng ta. Bởi thế khi Ngài tự hạ mình để chịu phép rửa, Ngài chấp nhận toàn bộ tội lỗi của nhân loại, Ngài đại diện cho tất cả tội nhân trên thế giới này, để mọi người được trở nên công chính. Ngài là Đấng trung gian để hòa giải giửa nhân loại phạm tội và Thiên Chúa cao cả.
Dù là anh em họ, nhưng Gioan Tẩy Giả không biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Gioan một lần vui sướng khi còn ở trong bụng mẹ, lúc Bà Maria đến thăm, và Gioan đã được Chúa xoá cho tội nguyên tổ). Mãi cho đến khi được Thánh Linh báo cho biết Gioan mới nhận ra Đấng Cứu Thế. Lạ lùng hơn cả là: bỗng nhiên các tầng trời mở ra, và có Thần Khí như chim bồ câu đậu xuống trên mình Ngài. Có tiếng phán rằng:”Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Một quang cảnh sống động chưa từng thấy ! Hơn cả quang cảnh ngày một vị đại Hoàng đế đăng quang. Mà còn hơn thế, hôm nay là ngày hội lớn cho toàn nhân loại. Ngày Đấng Cứu Thế chính thức, công khai rao giảng nước Thiên Chúa. Có ba điểm cần nhấn mạnh đến trong biến cố lịch sử trọng đại hôm nay.
Thứ nhất, như Gioan Tẩy Giả tuyên bố:”Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. Như vậy, khi dìm mình xuống nước Ngài đã thánh hóa nước, biến nó trở thành phương tiện, để nhờ đó (qua Bí Tích Thanh Tẩy mà Chúa thiết lập sau này) con người có thể trở về với cội nguồn của mình, vết tì ố của tội tổ tông được xóa bỏ, con người được trở thành một tạo vật mới, được quyền làm con Thiên Chúa và thừa hưởng gia nghiệp vĩnh cữu của Ngài.
Thứ hai, Ngài đến để kiện toàn lề luật, do đo, ngoại trừ những luật lệ Ngài muốn điều chỉnh, còn lại Ngài luôn luôn tôn trọng lề luật, Ngài tuân giữ nghiêm chỉnh như bất kỳ một người Do Thái đạo đức nào -dù Ngài không nhất thiết phải làm như thế-. Điều này đáng làm cho chúng ta lưu ý về những giới luật của Hội Thánh Công Giáo. Thường thì chúng ta chỉ tập chú vào mười điều răn, và nghĩ rằng giữ mười điều răn là tốt rồi. Điều này rất đúng, nhưng chưa đủ. Vì Giáo Hội muốn chúng ta hoàn hảo, nên nhắc nhở những điều hệ trọng cần thiết, nếu Giáo Hội không nhắc nhở, giải thích, không bao giờ chúng ta tự hiểu cho đúng được cả. Vì ngày xưa Chúa ban lề luật (mười điều răn) qua Maisen. Nhưng Chúa Kitô đến để ban ân sủng và chân lý. Do đo, Ngài đã thiết lập những Bí Tích để chuyển thông ơn Thánh; cũng như để giải thích, dạy dỗ chân lý: Ngài dùng Hội Thánh Công Giáo vừa là công cụ, vừa là phương tiện, vừa là phương thế. Bởi vậy chúng ta chớ coi thường những điều răn, những giáo huấn của Hội Thánh. Nếu ngày xưa Chúa Cứu Thế còn phải tôn trọng lề luật, thì hôm nay chúng ta cũng phải tuân giữ giới luật của Giáo Hội một cách đàng hoàng.
Thứ ba, Đấng Cứu Thế tinh tuyền, vô tội đã tự đồng hoá mình với người tội lỗi, để cứu chuộc nhân loại. Còn những con người yếu đuối, tội lỗi như chúng ta ? Bản tính nhân loại của Con Thiên Chúa được nối dài xuyên qua yếu tố con người trong các Bí Tích. Do đó chúng ta không cần phải tìm đâu xa xôi, vì chính Thiên Chúa đã hiện diện ngay trong Giáo Hội của Ngài, cụ thể nhất là trong các Bí Tích. Có điều chúng ta có đủ can đảm, khôn ngoan nhận ra mình là người có tội hay không ! Có dám ăn năn thống hối để tìm đến với các Bí Tích hay không !
Tóm lại, trong ngày Chúa chịu phép rửa ở sông Jordan hôm nay, đúng là ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại, ngày Chúa công khai rao giảng về ơn cứu độ, hé mở cánh cửa Thiên đàng. Ngài muốn nhắc nhở chúng ta một điều: hãy giảm bớt tính vô ơn, bù vào đó bằng sự cảm kích đối với những việc Ngài đã làm cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta nhận thức rõ về cuộc đời: chỉ là một khoảnh khắc chuyển tiếp; là một cuộc hành trình ngắn ngủi -như cuộc đời rao giảng ngắn ngủi của Ngài- tiến về tương lai vinh quang mà Ngài đã dành được cho chúng ta. Nếu thật sự nhắm đến đích điểm của sự sống vĩnh cửu đó, chúng ta thấy rằng Chúa đã chịu muôn vàn đau khổ để nhân loại được vui sướng. Từ đó chúng ta sẽ cảm thấy những gian truân ở đời này, những khổ đau mà chúng ta đang gánh chịu, sẽ không nặng nề lắm; nếu so với hạnh phúc chung cuộc -mà Chúa đang chờ đón chúng ta- chỉ là những chuyện tầm thường.
Cái trớ trêu của một con người lên ngôi lãnh đạo người khác lại mở đầu ngai vàng của mình một: TN 1-C14
Cái trớ trêu của một con người lên ngôi lãnh đạo người khác lại mở đầu ngai vàng của mình một cách hết sức đơn sơ, im lặng không đèn, không loa, không lọng. Đức Giêsu Kitô đã khai mạc sứ vụ công khai của Ngài bằng câu:"Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến" ( Mt 4, 17 ). Chúa mời gọi con người, nhân loại đi vào vương quốc của Ngài bằng sự khiêm nhượng và đơn sơ. Đây là mẫu gương để từng người và mỗi người noi gương bắt chước Ngài.
CHÚA MỞ ĐẦU SỨ VỤ KHÔNG KÈN LOA, LỘNG, TRỐNG:
Nếu trở về bên dòng sông Giorđan khi Chúa Giêsu đến để xin Gioan làm phép rửa con người sẽ hết sức ngạc nhiên và không khỏi khâm phục vì rằng Chúa sắp hàng cùng với lớp lớp tội nhân, chờ lượt mình được Gioan Tẩy Giả dìm vào nước làm phép rửa, cầu xin thống hối. Mở đầu một sứ mạng lớn lao, sứ vụ loan báo nước trời nhưng Chúa Giêsu không đọc diễn văn, chẳng trương cờ xí, không có rạp che, chỉ có nước chảy, ánh nắng, gió thổi và lá cây kêu xào xạc. Chúa đi vào hàng của nhiều người tội lỗi, khiến người bên cạnh không có ơn soi sáng không thể nhận ra đây là vị vua cứu Chúa, vị vua hòa bình. Chúa Giêsu có một thái độ, cung cách rất khiêm nhượng, nên Chúa Cha yêu thương Ngài, vì thế, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên đầu Ngài và như thế, Chúa Giêsu đã đội vương miện bằng Chúa Thánh Thần.
Trong ngày đăng quang lãnh nhận sứ vụ của Ngài, Chúa Giêsu đã không cần có người xác nhận chức vị của Ngài mà chính Chúa Cha từ trời đã minh chứng rằng:" Chúa Giêsu là người con chí ái đẹp lòng Chúa Cha". Điều này cho nhân loại thấy rằng cung cách và thái độ đơn thành, khiêm cung của Chúa Giêsu đã làm Chúa Cha hài lòng về Ngài.
CHIỀU SÂU CỦA VIỆC CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA:
Với vẻ bề ngoài, Chúa Giêsu giống như mọi người và người ta đã lầm tưởng, ngộ nhận Gioan Tẩy Giả là Đấng mêsia, còn Chúa Giêsu nhân loại vẫn chưa nhận ra Ngài. Cung cách, Chúa Giêsu xếp hành với đám tội nhân chỉ ra rằng Chúa muốn đồng hóa với những con người bị loại trừ, bị người đời cho là tội lỗi vì Ngài hoàn toàn không có tội. Chúa Giêsu muốn đồng hóa với những con người tội lỗi để cứu chuộc họ.Chịu phép rửa trong dòng sông Giorđan, Chúa Giêsu đi vào việc hoán cải của toàn dân. Chịu phép rửa, Chúa Giêsu muốn dậy nhân loại, Ngài đã chấp nhận kiếp làm người, khước từ vinh quang( Philip 2, 7 ), Ngài đã đi vào lịch sử của dân tộc Do Thái, một dân cứng đầu cứng cổ, cần phải được cải hóa, cần phải trở về với Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài cũng muốn cho mọi lớp người nhận ra Ngài là Đấng đã tự đồng hóa với những con người nhỏ bé, những con người bị xã hội loại bỏ, những con người mà thiên thần đã hát vang lên trong đêm giáng sinh:"…Bình an dưới thế cho người thiện tâm". Chúa đến, Chúa đăng quang, lãnh đạo không giống con người suy tưởng, mà Ngài đã sống tự hạ, phục vụ những kẻ bé nhỏ, chính khi phục vụ, cảm thông và chia sẻ với những kẻ khó, bần cùng là lúc Ngài thiết lập vương quyền của Ngài.
Hình ảnh phép rửa của Gioan Tẩy Giả bên dòng sông Giorđan là tiên trưng cho bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập. Ở đây ta thấy có một sự nghịch lý lớn lao, sự cúi mình của Con Thiên Chúa làm người, xin Gioan làm phép rửa tội trong nước sông Giorđan: có cả Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện cũng muốn nói cho nhân loại rằng mọi Kitô hữu khi được rửa tội, họ cũng được xóa sạch tội khiên và trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa vì mọi Kitô hữu sẽ được mời gọi phải sống khiêm nhu, dịu hiền, bác ái của Thầy mình( Bài đọc I ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xin Gioan làm phép rửa trong dòng nước sông Giorđan để làm gương hoán cải cho mọi người chúng con, xin cho chúng con luôn biết sống bí tích rửa tội mà chúng con đã lãnh nhận.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao Chúa Giêsu lại xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình? 2. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả khác với phép rửa của Chúa Giêsu như thế nào? 3. Bạn hiểu gì về bí tích rửa tội ?
Bài Tin Mừng này cho ta biết về người làm phép rửa và người được làm phép rửa: 1. Người làm phép TN 1-C15
Bài Tin Mừng này cho ta biết về người làm phép rửa và người được làm phép rửa:
1. Người làm phép rửa là Gioan Tẩy giả: lời giảng và hoạt động của ông đã khiến ông nổi tiếng, đến nỗi dân chúng nghĩ rằng ông chính là Đấng Messia. Gioan đã khiêm tốn thanh minh ông không phải là thế, và còn giới thiệu cho họ biết Đấng Messia thực sắp đến sau ông và cao trọng hơn ông nhiều.
2. Người được làm phép rửa là Đức Giêsu. Chính Thiên Chúa (chim câu, tiếng từ trời) giới thiệu Ngài:
- Ngài là Con của Thiên Chúa (“Con là con của Cha”)
- Là Đấng Messia mà Tv 2 và ngôn sứ Isaia đã tiên báo (Kiểu nói “Con là con của Cha” là tước hiệu Isaia dùng để nói về Đấng Messia ; kiểu nói “Hôm nay Ta sinh ra con” là của Tv 2 cũng nói về Đấng Messia).
B.... nẩy mầm.
1. Ngày tôi lãnh nhận bí tích Rửa Tội cũng là ngày tôi được Thiên Chúa nói “Con là con của Cha. Ngày hôm nay Cha sinh ra con”.
- Tôi cảm tạ Chúa vì đã ban cho tôi thân phận cao quý.
- Nhưng đồng thời tôi cũng tự vấn xem tôi đã làm cho Cha hài lòng chưa.
2. Ngày lễ hôm nay nhắc một điều rất quan trọng mà chúng ta thường quên, đó là ý thức và sống ơn gọi cao cả mà mình đã lãnh nhận ngày được rửa tội: chúng ta đã được làm con của Chúa và là con của Giáo Hội. Phép Rửa đâu phải chỉ là một lễ nghi mà còn là khởi đầu một thân phận mới hẳn và sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời. Ta phải vui mừng hãnh diện vì được làm con Chúa và con Giáo Hội và ta phải sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
3. “Đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra”: “Trời mở ra” là kiểu nói hàm ý được thông giao với Thiên Chúa, được Thiên Chúa mặc khải. “Trời mở ra” cho Đức Giêsu khi Ngài đang cầu nguyện. Vậy nếu tôi muốn được “trời mở ra” cho tôi thì tôi cũng phải đi vào cầu nguyện.
4. Tại bịnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã ! ”Cô bé dịu dàng đáp: “Ồ, nếu bác làm cho cháu ngủ, xin để cháu cầu nguyện đã.” Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. ”Bây giờ cháu đi ngủ được rồi."
Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện lần đầu tiên sau 30 năm khô khan. Ai biết sức mạnh nào nơi cô bé đã khơi dậy niềm tin nơi người lớn tuổi hơn mình ? (Góp nhặt)
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật với giai đoạn
VietCatholic (Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa)
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Xái Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật với giai đoạn: TN 1-C16
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật với giai đoạn Ngài rao giảng công khai: sau thời gian sống với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu đi rao giảng. Việc đầu tiên Ngài làm là lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả ở sông Giođan. Như thế, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là gạch nối giữa mùa Giáng sinh với mùa Thường niên: Chúng ta đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố giáng sinh và hiển linh. Kể từ hôm nay chúng ta sẽ cùng sống với Ngài qua các biến cố của đời rao giảng.
Trong dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, và tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống xác nhận Ngài là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó cũng chính là thân phận kitô hữu của mỗi người chúng ta: chúng ta cũng đã lãnh nhận phép rửa, cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Vậy chúng ta cũng hãy noi gương Chúa Giêsu mà cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
* Do bí tích Rửa tội, chúng ta đã được nhận là con của Chúa. Nhưng chúng ta chưa sống xứng đáng với danh nghĩa ấy.
* Dù là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã sống như một Người Tôi Tớ hạ mình phục vụ mọi người. Còn chúng ta, chúng ta không thích hạ mình, không ưa phục vụ.
* Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngược lại chúng ta hay sống theo ý riêng.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 42,1-4.6-7):
Ngôn sứ Isaia được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt nên đã hiểu Đấng Messia tương lai là một Người Tôi Tớ. Ông đã mô tả Người Tôi Tớ trong 4 bài thơ. Đoạn được phụng vụ trích đọc hôm nay nằm trong bài thơ thứ I:
* Đó là người được Thiên Chúa tuyển chọn và Thiên Chúa rất hài lòng.
* Người đó rất hiền lành và dịu dàng: "không lớn tiếng, không nở bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói".
* Sứ mạng của Người Tôi Tớ là: a/ Tái lập công bình; b/ nên ánh sáng cho muôn dân; c/ giải thoát những người khốn khổ.
2. Đáp ca (Tv 28):
Bài thơ này ca tụng Thiên Chúa uy phong. Sự uy phong của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài thống trị các sức mạnh của thiên nhiên: Ngài ngự trên những ngọn thuỷ triều, tiếng Ngài vang rền trên sóng nước.
Chính Thiên Chúa uy phong ấy sẽ tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng Messia của Ngài trong biến cố phép rửa.
3. Tin Mừng (Lc 3,15-16.21-22):
Bài Tin Mừng này cho ta biết về người làm phép rửa và người được làm phép rửa:
1. Người làm phép rửa là Gioan Tẩy giả: lời giảng và hoạt động của ông đã khiến ông nổi tiếng, đến nỗi dân chúng nghĩ rằng ông chính là Đấng Messia. Gioan đã khiêm tốn thanh minh ông không phải là thế, và còn giới thiệu cho họ biết Đấng Messia thực sắp đến sau ông và cao trọng hơn ông nhiều.
2. Người lãnh nhận phép rửa là Chúa Giêsu. Chính Thiên Chúa (chim câu, tiếng từ trời) giới thiệu Ngài:
* Ngài là Con của Thiên Chúa ("Con là con của Cha")
* Là Đấng Messia mà Tv 2 và ngôn sứ Isaia đã tiên báo (Kiểu nói "Con là con của Cha" là tước hiệu Isaia dùng để nói về Đấng Messia; kiểu nói "Hôm nay Ta sinh ra con" là của Tv 2 cũng nói về Đấng Messia).
4. Bài đọc II (Cv 10,34-38):
Dân Do Thái có quan niệm hẹp hòi cho rằng Thiên Chúa là Chúa riêng của họ, và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa được dành riêng cho họ. Vì thế, khi thánh Phêrô rửa tội cho ông Cornêliô một người thuộc dân ngoại, một số người Do Thái đã thắc mắc.
Thánh Phêrô biện minh rằng ông đã làm như thế cũng chỉ là theo đúng sứ mạng của Chúa Giêsu:
* Trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, Ngài đã được Thiên Chúa tấn phong làm Đấng Messia: "Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Ngài".
* Sứ mạng Messia của Chúa Giêsu là mang Tin Mừng cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, vì thế nên "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người". Phêrô còn nói: "Thiên Chúa không tây vị ai. Nhưng ở bất cứ xứ nào ai kính sợ Người và thi hành sự công chính đều được Người đón nhận".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Mỗi người đều có sứ mạng
Hai tiếng "sứ mạng" nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo - nói chung là mọi "hữu thể" - đều có sứ mạng:
* Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất
* Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người
* Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân huỷ những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi "Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng?"
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói "Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân".
2. "Con yêu dấu"
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua phép rửa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa. Về phần Chúa Giêsu, Ngài đã được khen là "Con yêu dấu của Cha".
Thế nào là một người "con yêu dấu"?
* là biết ý của cha mình: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
* và luôn làm theo ý cha mình: Chúa Giêsu nói "Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta". Trong vườn Cây Dầu, sau khi đơn thành tỏ cho Chúa Cha biết Ngài rất sợ chén đắng của cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói tiếp ngay "Nhưng xin đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha".
Nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thì chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
3. "Nếu..."
Nếu tôi là dân Do Thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Chúa Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Giođan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi, chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai. Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến". Rửa xong, tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu Thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xảy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu Thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dạy: "Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con". Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở với tôi.
Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu Thế, tôi sẽ tự đắc hô to: Đấy, tôi nói có sai đâu. Ngài đến đây nè... Rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do giàu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng "Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ". Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng, để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu Thế: dù phải chặt đầu, ông vẫn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
Còn Chúa Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: "Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế". Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong dòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu xin cho chúng con biết kính nhường nhau. Đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm kitô hữu cho Đấng Cứu Thế. Chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời. (Linh mục Vũ Khắc Nghiêm, "Xây nhà trên đá" Năm A)
4. Tình yêu cứu thế
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.
Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ.
*
Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.
Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.
Đấng xoá tội trần gian, lại hoà mình trong đoàn người tội lỗi.
Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông "sám hối".
Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.
Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người.
Chính thái độ tự huỷ tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta.
Vâng, chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hoá thân làm kiếp phàm nhân:
* Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.
* Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân.
* Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn mục ngay trước mắt con người,
Người đã muốn nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận từ Cha: "Mọi sự của Cha là của Con".
Người đã muốn chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa: "Phàm là con cái thì chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết nhục với chúng ta" (Dt 2,14).
Người đã muốn chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: "Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách"(Dt 2,18).
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là Tình Yêu: Một Tình Yêu vui lòng tự huỷ để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một Tình Yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một Tình Yêu chấp nhận cúi xuống để nâng anh em chỗi dậy cùng bước về nhà Cha.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giođan, chúng ta hiểu được thế nào là Hiệp Thông: Chính trong giây phút Hiệp Thông sâu đậm này mà Người cảm nhận được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: "Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3,22).
Ngày nay, chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi Hiệp Thông thân mật với Ba Ngôi Chí Thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một Tình Yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tình Yêu Cứu Thế!
Lạy Chúa, trong con mắt Chúa chúng con là tất cả. Xin cho chúng con luôn nhìn anh em bằng cái nhìn của Chúa, và yêu thương anh em chúng con bằng tình yêu trọn vẹn của Người. Amen. (TP)
5. Chuyện minh họa
Ở một nước kia có luật cấm đạo. Hai vợ chồng kia bị bắt đưa ra tòa vì tội là Kitô hữu. Người chồng tên là Moran.
Để cứu vợ chồng này khỏi tội, luật sư đã hùng hồn đọc bài biện hộ mà đại ý như sau:
* Hai thân chủ của tôi bị kết tội là Kitô hữu. Tôi xin chứng minh rằng sự thật không phải là thế.
* Họ có một cuộc sống đàng hoàng, siêng năng làm việc, không hề gian tham trộm cắp, không làm thiệt hại ai điều gì, không xích mích gì với hàng xóm... Như thế họ là những con người tốt, những công dân tốt. Không có gì sai trái.
* Ngày Chúa nhật họ đi dự lễ, ở nhà họ có bàn thờ và thường đọc kinh trước bàn thờ, họ đeo ảnh Thánh giá... Chính vì những biểu hiện bề ngoài này mà họ bị kết tội là Kitô hữu. Nhưng những biểu hiện bề ngoài ấy không đủ để kết luận họ thực sự là kitô hữu.
* Chính Thánh Kinh của Kitô giáo đưa tiêu chuẩn để xác định ai là kitô hữu thật: "Cứ xem quả thì biết cây" (Mt 7,15); Mà hoa quả chứng minh ai là kitô hữu là những việc bác ái yêu thương, như một câu Thánh Kinh khác: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau" (Ga 13,35). Nếu căn cứ vào những tiêu chuẩn này để xét, thì tôi dám khẳng định rằng thân chủ của tôi chắc chắn không phải là kitô hữu: mọi người đều không thấy họ có chút quan tâm nào đến những người nghèo, những người khổ sở, những người già yếu...; mỗi khi có cuộc lạc quyên để giúp thiên tai, hoạn nạn, họ cũng đóng góp nhưng chỉ đóng góp cho có với người khác chứ thực sự ít hơn mọi người khác.
* Vì những bằng chứng trên, tôi xin quý tòa hãy hủy bỏ tội danh Kitô hữu của thân chủ tôi.
Toà tạm ngừng để nghị án. Sau đó Tòa kết luận: Tội danh Kitô hữu không được thành lập. Hai vợ chồng Moran được tự do! (FM)
6. Bài giảng được gán cho Thánh Hippolite (+ 236)
Nếu Chúa chìu theo lời ngăn cản của Gioan mà không chịu phép rửa thì chúng ta đã bị mất mát biết bao điều quan trọng.
Trước đó các tầng trời bị đóng chặt, chúng ta không ai có thể đến được quê hương trên trời. Sau khi xuống thấp tận đáy, chúng ta không còn có thể trở về trên cao. Nhưng Chúa Giêsu đã chịu phép rửa. Không phải một mình Ngài chịu phép rửa, mà Ngài còn canh tân con người cũ và ban lại cho nó thân phận làm dưỡng tử của Thiên Chúa. Bởi thế lúc đó "trời mở ra". Các thực tại hữu hình được giao hòa với những thực tại vô hình; các phẩm trật trên trời hớn hở vui mừng, dưới đất thì bệnh tật được chữa lành...
7. Suy nghĩ về phép rửa
Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa Tội trong Nhà thờ.
Chúng ta được rửa bởi tất cả mọi biến cố xảy ra trong đời:
* Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn: đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta khỏi những gì là gian trá và vô dụng.
* Chúng ta được rửa bởi những khổ đau, buồn rầu: đó là những dòng nước u ám nhưng có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
* Chúng ta được rửa bởi niềm vui: đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
*Chúng ta được rửa bởi tình yêu: đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa dưới ánh nắng mặt trời.
Phép rửa là một hạt giống, cần phải nẩy mầm trong suốt cả đời sống.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy chúng ta cùng nguyện xin Người:
1. Chúa Giêsu đã tự hạ / đến xin ông Gioan làm phép rửa / hấu chỉ lối khiêm nhường cho người Kitô hữu học đòi bắt chước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết noi gương Chúa Giêsu mà phục vụ tha nhân trong yêu thương và khiêm nhường.
2. Chúa Giêsu đã dùng phép rửa mà thánh hóa nhân loại / và mở cửa cho những người thống hối trở về / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho kẻ có tội biết từ bỏ đời sống tội lỗi / mà quay trở về nẻo chính đường ngay.
3. Đức Kitô là ánh sáng muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho hết thảy mọi người đang đi tìm Chúa.
4 Đức Kitô là nguồn hy vọng của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tìm đến Chúa khi gặp gian nan thử thách / để được Người nâng đỡ ủi an.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã được Chúa Trời tuyển chọn, Chúa không nỡ nghiền nát cây lau đã gãy, cũng chẳng nỡ dập tắt tim đèn còn cháy. Xin cho tất cả chúng con cũng biết noi theo lòng nhân hậu của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước Kinh Lạy Cha: Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Vậy, cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
VII. GIẢI TÁN
Thánh lễ đã hết, anh chị em lại trở về cuộc sống bình thường. Anh chị em hãy cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
Chúng ta đang ở bên dòng sông Giođan- nơi Gioan Tẩy Giả rao giảng, kêu gọi mọi người sám: TN 1-C17
Chúng ta đang ở bên dòng sông Giođan- nơi Gioan Tẩy Giả rao giảng, kêu gọi mọi người sám hối, nhận phép rửa để được ơn tha thứ. Thế nhưng, chúng ta thấy rằng điều quan trọng không chỉ nằm ở việc ông Gioan rao giảng, mọi người tuôn đến lãnh nhận phép rửa,… mà đó còn xảy ra một sự kiện hết sức trọng đại: Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác đi vào dòng sông Giođan để lãnh nhận phép rửa từ chính tay ông Gioan Tẩy Giả. Điều này có ý nghĩa gì?
Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa không chỉ là bước khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng mà Chúa sẽ thực hiện sau này; biến cố chịu phép rửa cũng không chỉ là việc Chúa Giêsu được Gioan Tẩy Giả giới thiệu mà đó còn là một sự kiện xuất phát từ chính Thiên Chúa được minh chứng bằng những việc lạ lùng.
Thánh Luca ghi lại sau khi chịu phép rửa và đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì “trời mở ra”. Đây có thể nói là hình ảnh sống động diễn tả việc Thiên Chúa -qua một thời gian dài cắt đứt liên lạc với nhân loại, nay qua Chúa Giêsu Thánh tử Chí ái - Người đã nối lại mối giây liên hệ đó với dân Người. Thật vậy, ngay từ khi Ađam phạm tội, cửa trời dường như đóng lại. Kể từ đó, con người hầu như không dám nhìn mặt Thiên Chúa, vì nếu nhìn là chết. Và như thế giữa con người và Thiên Chúa như có một đám mây ngăn cách đến nổi ngôn sứ Isaia đã phải thốt lên: “Lạy Chúa, ước gì Chúa xé mây trời ngự đến với chúng con”.
Sự kiện Chúa Thánh Thần ngự xuống cũng là một sự kiện lạ lùng. Thánh sử Luca còn ghi rõ là “Chúa Thánh Thần dưới hình dáng của chim bồ câu” nhằm cho thấy một hình ảnh hữu hình, mắt phàm có thể thấy được. Bên cạnh đó chúng ta còn thấy rằng nếu như ngày xưa, Thánh Thần của Giavê Thiên Chúa như chim bồ câu, bay là là trên mặt nước để khai mở công trình sáng tạo, thì nay Người cũng ngự xuống trên Chúa Giêsu để khai mở công trình cứu chuộc - điều sẽ được thực thi bởi Ngôi Hai Thiên Chúa.
Mở đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mêsia cách công khai khi từ trời có tiếng phán: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Mượn thánh vịnh 2 câu 7, Tin mừng cho chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu đã được tấn phong làm Đấng Mêsia để thi hành sứ mệnh rao giảng Tin mừng giữa cộng đoàn dân Chúa. Phép thánh tẩy mà Chúa Giêsu đón nhận khi Ngài dìm mình vào dòng sông Giođan và bước lên khỏi bờ là hình ảnh sống động nhằm loan báo một phép rửa khác của Ngài khi Ngài bị chìm sâu trong cái chết và chỗi dậy trong Phục sinh.
Trình thuật về phép rửa còn là một trình thuật Thần hiện, nhắc nhớ trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa hiện hiện với dân Người có khác chăng chính ở chỗ cuộc Thần hiện bên dòng sông Giođan loan báo một sự hiện diện lâu dài của Người Con Chí Thánh của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại khi viếng thăm dân Người.
Trình thuật về phép rửa còn là một trình thuật về tự hạ và tôn vinh. Thật vậy, mặc dù vô tội, và vì công trình cứu độ, Chúa Giêsu đã hoàn toàn tự hiến để liên đới với nhân loại không chỉ trong thân phận của một con người bình thường như bao người khác mà còn trong tội lỗi của nhân loại nữa. Chính vì thế, Ngài đã được Chúa Cha chuẩn nhận và được Chúa Thánh Thần tấn phong. Như thế, điều thú vị ở đây chính là chỗ nơi Chúa Giêsu tự hạ thì cũng chính là nơi Người được tôn vinh.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa không chỉ nhắc nhớ mỗi người chúng ta về bí tích Thánh tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận để làm con Thiên Chúa, làm con Giáo hội; mà đó còn là dịp để chúng ta nhìn lại thân phận yếu hèn tội lỗi của mình để xin Chúa gia tăng ân sủng của Người, giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, con cái Giáo hội ngọ hầu mỗi người trong chúng ta luôn ý thức để làm đẹp ngôi nhà của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.
Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa / Baptism of the Lord
Lời Chúa cho hôm nay: CON LÀ CON CỦA CHA
* You are my beloved Son *
Gioan Tiền hô là tiếng kêu trong hoang địa và tin vui của ông là ta có thể nhìn vào Đức Giêsu: TN 1-C18
* BÀI ĐỌC 1: Isaia 40,1-5; 9-11= Gioan Tiền hô là tiếng kêu trong hoang địa và tin vui của ông là ta có thể nhìn vào Đức Giêsu và noí: “Đây là Chúa của anh”.John the Baptism is the voice in that wilderness, his good new is that we can look at Jesus and say: “Here is your God”.Isaiah so beautifully writes: “the glory of the Lord shall be revealed.
* BÀI ĐỌC 2: Titô 2,11-14; 3,4-7= Đức Giêsu đã tới sông Giôđan, Ngaì đã bắt đầu cuộc hành trình trở laị với Chúa Cha trong vinh quang./ Jesus went down into the waters of the Jordan, he began a journey.. returned to the Father in glory.
* TIN MỪNG (Gospel) Luca 3, 15-16, 21-22= Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa. Lửa là hình ảnh trong Kinh Thánh chỉ sự hiện diện cuả Chúa Thánh Thần./ He will baptize you in the Holy Spirit and in fire, fire is biblical image which points to the presence of God, here it could indicate the Holy Spirit’s purifying and sanctifying.
A- Bạn và tôi cùng Cảm Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Trong bài Tin Mừng, ông Gioan trả lời cho dân chúng rằng: “Tôi làm phép Rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng có quyền thế hơn tôi…Ngươì sẽ làm phép Rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.” Ông Gioan muốn nói đến phép Rửa trong ngày lễ Hiện Xuống, Ngài không phải dụng cụ, nhưng Ngài hiện diện cụ thể. Nước chỉ là dấu chỉ bề ngoài, còn Lửa tác động thanh luyện bên trong tâm hồn do Chúa Thánh Thần đang hành động trong Tín hũu và Giáo hội. Tôi chia sẻ những canh tân tâm hồn cho Năm Mới? (Hành đaọ)
“I am baptizing you in water, but.. who is mightier than I…He will baptize you in the Holy Spirit and in fire. (Lc. 3, 16)
2/ Luca nói về sau khi Đức Giêsu chịu phép Rửa như sau: “…đang khi Ngươì cầu nguyện thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu.” Việc Chúa cầu nguyện dạy cho Tín hữu luôn gặp gỡ Chúa Cha như Người và chim bồ câu là hình dáng bên ngoài mà Thánh Thần muốn cho bạn thấy sự hiện của Ngaì trong moị người. Kễ việc làm của Chúa Thánh Thần trong Gíao hội?(Học đạo)
“Jesus was at prayer, the skies opened and the Holy Spirit descended on Him visible form like a dove…” (Lc. 3, 21-22)
3/ Sách Tiên tri Isaia hôm nay kêu gọi: “Hỡi kẻ loan báo Tin Mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng cho thật mạnh, cất tiếng lên, đừng sợ…Kìa Thiên Chúa các ngươi…” Chúa đến cứu độ là một niềm vui cho mọi Tín hữu, nên tôi cần mạnh dạn tung hô Chúa cho mọi người biết Ngài bằng chính đời sống, bằng cách ăn nết ở, nhất là can đảm nói sự thật và công bình trong mọi lúc. Nói việc làm cho Gia đình và cộng đoàn hiệp nhất? (Tu luyện)
“lift up your voice with strength, fear not to cry aloud when you tell Jerusalem… Here is your God!” ( Isaia 40, 9)
4/ Bài đọc 2, thánh Phaolô nói về sự yếu đuối của ta như sau: “Vì lòng thương xót, nên người đã cứu chúng ta nhờ phép Rửa ban ơn Thánh Thần để chúng ta được tái sinh và đổi mới". Chúa đã cứu bạn nhờ phép Rửa tội để bạn là người Tín hữu hôm nay trong Giáo hội và Xã hội. Vì thế mỗi người đã được một ơn đặc biệt khác nhau để phục vụ mọi người. Chuyện kể giúp một Tín hữu được ơn gọi trở laị.(Sùng đạo)
“Because of His mercy, He saved us through bath of rebirth and renewal by the Holy Spirit.” ( Titô 3, 5 )
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God’s Word )
…NGƯỜI SẼ LÀM PHÉP RỬA CHO ANH EM TRONG THÁNH THẦN VÀ LỬA. (Luca 3, 16)
… He will baptize you in the Holy Spirit and in fire.
Vatican II: Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo hội và trong tâm hồn các Tín hữu như ngự giữa bàn thờ. (GH# 4)
Gương Mẹ Maria: Nếu mọi người biết mở lòng ra cải thiện và sám hối làm hòa, để noi gương và bắt chước Mẹ lắng nghe, suy niệm và đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống, thì nhân loại sẽ có bình an. (Gioan Phaolô VI)
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để thực hành Lời Chúa: ( So what am I doing / For Action)
a/ Tôi quyết tâm đổi mới bằng cách cầu nguyện thật nhiều để Sống và xin Chúa Thánh Linh thanh tẩy tâm hồn.
b/ Bạn hãy chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống Gia đình và Công đoàn.
D- Tôi cầu nguyện với Lời Chúa và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
Lạy Cha! Đức Giêsu đã dạy con cầu nguyện sau khi Ngài chịu phép Rửa. Xin Cha dạy con biết cầu nguyện luôn để lắng nghe ý Cha dạy bảo trong đời sống Tín hữu nhiều cảm dỗ nguy hiểm như tiền tài, vật chất, xác thịt quyến rũ chóng qua hôm nay.
Lời hay ý đẹp: CHÚA KITÔ CÓ THỂ BIẾN THỬ THÁCH ĐAU KHỔ THÀNH CHIÊN THẮNG VINH QUANG
“ Christ can transform painful trials into glorious triumphs” Pt Huyền Đồng
Chắc bạn thắc mắc lắm khi nghe nói: “Một sứ điệp được ban hành trên một dòng sông: TN 1-C19
Chắc bạn thắc mắc lắm khi nghe nói: “Một sứ điệp được ban hành trên một dòng sông”, bởi có bao giờ Đức Thánh Cha đến bờ sông nào để ban hành bất cứ sứ điệp nào? Nếu có, đa số các văn kiện đều được ban hành tại thành Vatican. Đôi khi Đức Thánh Cha cũng ra khỏi Vatican để ban hành một văn kiện nào đó liên quan tới một Giáo Hội địa phương nào đó, Chẳng hạn Tông huấn Giáo Hội tại Á châu được ban hành tại An Độ. Nhưng vẫn không phải là ban hành trên một dòng sông, theo nghĩa là Đức Thánh Cha ra một bờ sông, rồi đứng trên bờ sông đó mà ban hành. Vậy chắc chắn sứ điệp mà chúng ta đang đề cập phải nói tới một điều gì khác hơn và có một nội dung khác hơn?!
Tôi muốn nói đến SỨ ĐIỆP VỀ ƠN HIỆP THÔNG TRONG BÍ TÍCH RỬA TỘI. Sứ điệp này còn cho ta những hiểu biết về một giá trị cao cả: hiệp thông để được sống. Đó không là một sứ điệp thông thường do Đức Thánh Cha ban hành. Nhưng chính Chúa Giêsu đã trực tiếp ban hành bằng hành động nơi chính bản thân Người, khi nhận phép rửa của Gioan trên dòng sông Giođan, đó là ơn hiệp thông hoàn hảo: hiệp thông với con người và hiệp thông với Thiên Chúa. Qua bài Tin Mừng hôm nay, ta biết điều đó.
Hiểu rằng hiệp thông để được sống, ta nhận ra bí tích rửa tội là cả một kho tàng được làm quà tặng quý giá, Chúa Kitô để lại cho Giáo Hội, và Giáo Hội tiếp tục tặng ban cho mỗi người chúng ta.
1. Hiệp thông với con người:
Phép rửa của thánh Gioan là phép rửa “tẩy giả”, nghĩa là phép rửa mời gọi mọi người sám hối, và bất cứ ai tỏ lòng sám hối, đều có thể đến cùng thánh Gioan để nhận phép rửa từ tay ngài.
Chúa Kitô không phải là tội nhân, không phải là người cần đến phép rửa của thánh Gioan. Còn hơn thế nữa, vì nếu phép rửa của thánh Gioan chỉ mới “tẩy giả”, thì chính Chúa mới thật là Đấng sáng lập bí tích rửa tội để tha tội thật, để bất cứ ai lãnh nhận bí tích ấy, đều có được mọi quyền lợi của một Kitô hữu.
Chưa hết, chính miệng thánh Gioan đã từng khẳng định vai trò quan trọng của Chúa Kitô: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.
Cao trọng là thế, Chúa vẫn hạ mình xuống. Trên bờ sông Giođan, Chúa vẫn xếp hàng cùng với dân tộc của mình. Bằng cách ấy, Người đã tự mình đứng chung hàng với tội nhân, để rồi tiếp tục chấp nhận dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ, Người trở nên khiêm hạ và mất hút trong đám đông. Có ai ngờ Đấng vô tội lại tỏ lòng sám hối; Đấng xóa tội trần gian lại cúi mình trước một con người để xin phép rửa; Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước; Đấng có quyền tha thứ lại thực hiện hành vi của người cần được tha thứ.
Qua tất cả những hành vi đó, Chúa dạy ta bài học của sự hiệp thông. Chính trong phép rửa, Thiên Chúa nghiêng mình xuống để hiệp thông với con người. Còn hơn như vậy, Người hiệp thông hoàn toàn với kẻ tội lỗi. Người trở thành một người anh em giữa mọi người.
Bởi thế, phép rửa mà ta lãnh nhận hôm nay cũng sẽ làm cho ta hiệp thông với anh em mình, với những người chia sẻ cùng một đức tin, làm thành Giáo Hội, thân mình của Chúa Kitô.
2. Hiệp thông với Thiên Chúa
Nhưng sứ điệp hiệp thông ấy chưa dừng ở đó. Nó còn cho ta biết một danh dự cả thể mà Thiên Chúa ban tặng loài người: sống trong sự sống của Thiên Chúa. Đây mới là ơn hiệp thông hoàn hảo mà bí tích rửa tội mang lại cho ta. Hiệp thông với Thiên Chúa đến nỗi được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa, để như Chúa Kitô, được làm con Thiên Chúa, thừa hưởng gia nghiệp cùng với Người. Nghĩa là con người phải nhờ Chúa Kitô mới có được giá trị lớn lao.
Chúa Kitô đã mạc khải điều đó sau khi bước lên từ dòng nước Giođan: Một cảnh tượng huy hoàng chưa từng có, một khoảnh khắc vinh hiển đã làm cho Chúa Kitô, một con người tưởng như tầm thường ấy, lại quá sức rực rỡ và diệu kỳ: “Trời mở ra, Thánh Thần Chúa dưới hình chim bồ câu, ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra con’”.
Chính trong phép rửa, Chúa Giêsu đã hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là sự hiệp thông Ba Ngôi, một sự hiệp thông hoàn hảo mà Thiên Chúa dành cho những ai thuộc về Người. Hoàn hảo cho đến mức, từ nay, người lãnh nhận được Chúa thông ban chính sự sống của Người. Đó là sự sống đã được trao ban cho Chúa Kitô từ nơi Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Và Chúa Kitô một khi lập bí tích rửa tội theo ý Thiên Chúa, Người muốn ban chính sự sống ấy cho ta. Vì lẽ đó thánh Phao lô đã không ngần ngại nói rằng: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Ai thuộc về Thiên Chúa, người đó có Chúa Kitô, đúng như danh xưng mà họ được diễm phúc khoác vào: “Kitô hữu”. Và bất cứ ai được chìm trong sự sống của Chúa Kitô, được mang lấy Chúa Kitô trong tâm hồn mình, người đó sống trong sự sống của Thiên Chúa, sự sống mà chính Chúa Kitô đã sống.
Nói như thế hơi khó hiểu. Ta có thể hiểu một cách nôm na thế này: Nếu một ngày nào ta phải sống xa người mẹ yêu quý của mình. Sự xa cách ấy làm ta da diết nhớ. Hình ảnh người mẹ nơi quê nhà cứ hiện rõ mồn một trong từng nếp nghĩ, từng lời nói, và trong sinh hoạt thường ngày của ta… Càng nhớ bao nhiêu, ta càng sống theo ý muốn, theo lời răn dạy, ngay cả những gì mà bà đã từng làm, đã từng nói bấy nhiêu. Cũng có lúc, những hành động của ta, vì sự thương mến ấy, hình như rập khuôn theo những hành động mà bà đã từng thực hiện. Có thể nói, dù xa mẹ, nhưng người mẹ ấy vẫn sống trong sự sống của ta và ta cũng chìm vào trong tất cả nếp sống của bà.
Chỉ là một cách hiểu nôm na, nhưng một ví dụ như thế có thể giúp ta áp dụng để sống lời Chúa trong cuộc sống của mình. Từ đó bạn và tôi nhận thấy, chỉ có một cách duy nhất giúp mình sống bí tích rửa tội để được hiệp thông với Thiên Chúa là mang lấy tâm tư của Chúa Kitô. Nghĩa là mỗi người hãy yêu mến Chúa Kitô nhiều hơn nữa, để nhờ lòng yêu mến ấy, ta sẽ sống như Chúa Kitô dạy, như Chúa Kitô hành động, yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người như Chúa Kitô đã từng yêu. Tắt một lời: sống như Chúa Kitô đã sống. Vì Chúa Kitô sống và hiệp thông hoàn hảo trong Tình yêu Ba Ngôi, cũng vậy, bạn và tôi chỉ có thể hiệp thông để được sống chính sự sống của Ba Ngôi, khi bản thân mỗi người biết mang lấy tâm tư như đã có trong Chúa Kitô.
Sứ điệp về ơn hiệp thông được ban trên dòng sông Giođan là một sứ điệp quang trọng, vì nơi đó Chúa dạy ta bài học của sự hiệp thông trong bí tích rửa tội: Hiêp thông với con người để yêu thương con người hơn. Và hiệp thông với Thiên Chúa để được nhận lãnh chính sự sống của Thiên Chúa và được sống trong sự sống ấy. Có sống ơn hiệp thông hoàn hảo như thế, mới chứng tỏ rằng, ta sống hoàn hảo bí tích rửa tội.
Hôm nay bắt đầu mùa Thường Niên, Giáo hội mời gọi chúng ta đi theo Đức Giêsu trong: TN 1-C20
Hôm nay bắt đầu mùa Thường Niên, Giáo hội mời gọi chúng ta đi theo Đức Giêsu trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Và Đức Giêsu đã khởi đầu sứ vụ bằng việc chịu phép rửa của Thánh Gioan Tẩy giả ở sông Giođan. Biến cố này rất quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu. Hôm nay là ngày Đức Giêsu được tấn phong, được sai đi thi hành sứ vụ Cứu Thế và được Thánh Thần hướng dẫn. Đức Giêsu là Đấng vô tội đã chịu phép rửa để đền bù thay cho tội lỗi con người, Ngài sẵn sàng liên đới với chúng ta để dẫn đưa chúng ta trở về đoàn tụ trong gia đình con cái Thiên Chúa.
1. Đức Giêsu cũng chịu phép rửa:
Bài Tin Mừng được công bố trong thánh lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay có hai phần rõ rệt. Phần đầu nhắc lại hoạt động rao giảng sám hối và việc làm phép rửa của Thánh Gioan Tẩy giả. Đây là phép rửa thể hiện lòng sám hối cho những tội nhân. Còn phần thứ hai của Tin Mừng thuật lại biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Điểm khác biệt với các Tin Mừng Nhất Lãm là ở đây Thánh sử Luca không nhắc đến tên của Thánh Gioan Tẩy giả, người đã làm phép rửa cho Đức Giêsu. Điểm này cho thấy tác giả có ý muốn nhấn mạnh đến sứ vụ của Đức Giêsu đang được bắt đầu và Gioan Tẩy giả phải lui lại đằng sau cho hoạt động rao giảng Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu được bắt đầu.
Khi lãnh nhận phép rửa của Thánh Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu không coi mình là có tội cần phải ăn năn sám hối. Vì như chúng ta đã biết và luôn xác tín qua những bài giáo lý: Đức Giêsu là Đấng vô tội đã gánh lấy tội lỗi nhân loại, Ngài sinh ra làm người trở nên hoàn toàn giống như mọi người, ngoại trừ tội lỗi, Ngài đồng cảm và chia sẻ với mọi nỗi buồn và niềm vui với kiếp người.
Biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa là lời loan báo về phép rửa trong cái chết mà Ngài phải chịu, đó là Mầu nhiệm vượt qua. Bởi lẽ Đức Giêsu đến trần gian để thực thi Thánh ý Chúa Cha, Ngài hạ mình xuống để trao ban cuộc sống của mình cho Thiên Chúa và để đem lại lợi ích cho con người.
Qua việc đứng xếp hàng với dân chúng để được dìm trong nước, Đức Giêsu đã ngõ lời với chúng ta về một cuộc sống tự hạ và khiêm nhường. Tự hạ là quên mình đi để có thể đồng hành với mọi người. Tự hạ là mở rộng tấm lòng để tiếp đón mọi người, kể cả những người nói khác chúng ta, suy nghĩ khác với chúng ta, khác ngôn ngữ, dân tộc màu da, địa vị xã hội thấp kém hơn chúng ta. Tự hạ là theo tiếng Chúa gọi để dấn thân phục vụ con người và xã hội. Tự hạ là đồng hành với người tội lỗi, nhưng không để họ lôi kéo, mà còn biết đỡ dậy những tâm hồn vấp ngã vì tội lỗi.
2. Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu:
Ý nghĩa chính của biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa lại nằm ở những sự kiện lạ xuất hiện sau đó: trời mở ra, Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán ra. Đây là mặc khải rõ ràng về Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Theo thánh Luca, những sự kiện lạ đó chỉ xảy ra khi Đức Giêsu cầu nguyện. Cầu nguyện là đề tài được nhắc đi nhắc lại trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu. Ngài thường cầu nguyện trước khi làm một công việc quan trọng. Ở đây lời cầu nguyện của Đức Giêsu đã có kết quả. Chúa Thánh Thần được ban xuống để hoạt động trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần đã xuất hiện ngay từ khi Ngài còn trong lòng Mẹ sẽ đi suốt cuộc đời Đức Giêsu. Hơn nữa Chúa Thánh Thần là một sức mạnh thúc đẩy Ngài ra đi đến với muôn dân.
Ngày nay việc cầu nguyện cũng rất gái trị trong đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu. Qua cầu nguyện chúng ta được gặp gỡ Chúa và được Chúa Thánh Thần đưa chúng ta đi đến gặp với tha nhân. Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mạnh mẽ trong cuộc đời của người Kitô hữu. Dù thành công hay thất bại, dù đang vui hay sầu muộn và lo lắng mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện thường xuyên hơn để lắng nghe tiếng Chúa.
3. Sứ vụ người Kitô hữu:
Ngày Đức Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tấn phong để ra đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Thiên Sai mà dân tộc Israel hàng ngàn năm mong đợi
“Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” Câu này rõ ràng nói về Mầu nhiệm của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa là bởi vì Ngài luôn tìm kiếm và thực thi Thánh Ý Chúa Cha.
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu phép rửa không thể không nhắc nhở chúng ta nhớ đến sứ vụ của người Kitô hữu. Nhờ Bí tích Rửa tội chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa, được hưởng gia tài vĩnh cữu của Thiên Chúa và nhất là cũng được sai đi đến với mọi người. Không việc làm gì cụ thể khác hơn là chúng ta học theo mẫu gương của Đức Giêsu và thực thi sứ mạng rao giảng Tin Mừng, để nối tiếp công việc của Ngài.
Là con cái Thiên Chúa quả là một niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Nhưng chúng ta đã làm gì để Chúa Cha được hài lòng ? Nếu Bí tích Rửa tội được cử hành cần đến nước thì cuộc sống người Kitô hữu cũng cần được gội rửa trong nước để trở nên thanh sạch và bắt đầu cuộc sống mới, trở nên con người mới thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa. Muốn được như vậy mọi suy nghĩ, lời nói, và hành động của chúng ta phải phù hợp với Thánh Ý của Thiên Chúa, hơn là ý riêng của mình, và hãy để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt như Đức Giêsu
Lạy Chúa Giêsu ! Hôm nay Chúa là Dấng vô tội lại xếp hàng với dân chúng tội lỗi để lãnh nhận phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả. Xin cho chúng con biết hoc theo gương Chúa mà sống yêu thương, đồng hành, gần gũi với con người thời đại hôm nay. Chỉ có như thế chúng con mới loan báo Tin Mừng của Chúa cho ho được. Vì bao giờ cuộc sống cũng cần chứng nhân âm thầm cũng có giá trị hơn lời rao giảng suông. Xin cho chúng con biết tìm kiếm và thực thi Thánh ý Chúa giữa cuộc đời này. Amen
Hôm nay là ngày cuối cùng của mùa Giáng Sinh. Chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo: TN 1-C21
Hôm nay là ngày cuối cùng của mùa Giáng Sinh. Chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội cử hành lễ kính việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa nơi sông Giođan. Cùng với lễ Hiển Linh, lễ Chúa chịu phép Rửa hôm nay và việc Chúa làm dấu lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cưới Cana là ba sự kiện mặc khải rõ ràng về con người của Đức Giêsu. Ngài chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Đồng thời, với việc mừng kính việc Chúa tỏ mình ra nơi sông Giođan, Giáo Hội một lần nữa muốn chứng tỏ với từng người chúng ta rằng: Đức Giêsu đích thực là Đấng ban bình an cho toàn thể nhân loại, như lời sứ thần hát trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Hơn nữa, sau khi lãnh nhận phép Rửa, Chúa Giêsu còn được Chúa Cha long trọng xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Như thế, Đức Giêsu thực sự là người tôi tớ Thiên Chúa hứa, là Đấng mang lại bình an cho muôn dân mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Nầy là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người”. Và thánh Phêrô, trong dịp thanh tẩy cho quan bách quản Cornêliô cũng đã xác nhận điều này, khi tuyên bố: “Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel... ban bố ơn lành và chữa lành mọi người bị quỷ ám”.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em cùng nhìn xem, và học hỏi cách thức Đức Giêsu đem lại bình an cho chúng ta, để rồi tiếp bước Người, từng người chúng ta cũng trở thành khí cụ đem bình an đến cho anh chị em mình như lời kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô: “Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa”.
1. NGƯỜI ĐẶT NỀN CÔNG LÝ:
Trước hết, điều mà người tôi tớ Thiên Chúa thực hiện để có thể đem lại bình an thực sự là thiết lập nền công lý, đem lại lẽ công bình.
Thật vậy, với kinh nghiệm của bản thân trong cuộc sống hàng ngày, hẳn quý ông bà anh chị em cũng nhận ra rằng, tất cả những xô xát, hận thù, thậm chí cả chiến tranh nữa cũng bắt đầu bằng những bất công. Trong gia đình, tôi còn nhớ chỉ cần mẹ đi chợ về chia quà không đều là anh chị em đang từ vui vẻ đã có thể chuyển sang giận hờn, tranh giành nhau. Còn trong xã hội, chính bất công là nguyên nhân gây nên các cuộc cách mạng, thậm chí cả các cuộc chiến tranh. Và để có được sự công bằng, bình đẳng trong cuộc sống, người ta có thể hy sinh cả mạng sống của mình.
Như thế, công bằng chính là nền tảng đầu tiên cho sự bình an. Thật vậy, không thể có bình an, nếu trong cuộc sống của mỗi người, chúng ta còn gây bất công cho bản thân và cho người khác. Thế nhưng, với kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày, chắc hẳn quý ông bà anh chị em đều nhận thấy rằng, chúng ta không thể tạo lập một xã hội công bằng thật sự. Chúng ta thường quá nghiêm khắc với người và quá dễ dãi với bản thân. Cùng một sự việc, chúng ta dễ lên án người khác, trong khi lại dễ dàng tha thứ cho bản thân mình. Chỉ nguyên một điều này thôi cũng đã là bất công. Điều đó, cho thấy công bằng ai cũng muốn, nhưng lại nằm ngoài tầm tay con người. Do đó, Chúa đã hứa sẽ ban cho chúng ta một người đến để thực thi sự công bằng, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Ta ban Thần trí Ta trên Người. Người sẽ xét xử chư dân. Người sẽ không lớn tiếng, không thiên vị ai... Người trung thành đem lại lẽ công bình,... chỉ lo đặt công lý trên địa cầu”.
Lời hứa ấy đã được thực hiện trọn vẹn nơi con người của Đức Giêsu. Ngài là Đấng công bình bởi được đầy Thánh Thần như lời chứng của thánh sử Luca trong bài Tin mừng: “Chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu”. Mặt khác, không những là Đấng đầy Thánh Thần, Đức Giêsu còn là Con Thiên Chúa,và cũng là Thiên Chúa như lời xác nhận của Chúa Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Do đó, Ngài không hề thiên vị ai, như lời thánh Phêrô trong sách Công vụ tông đồ mà chúng ta vừa nghe: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận”.
2. THẦY NHÂN ÁI:
Tuy nhiên, chỉ nguyên công bằng thôi thì chưa đủ để tạo lập sự bình an. Để có bình an thật, chúng ta còn cần đến tình thương, bởi vì “công bằng mà không có bác ái sẽ trở thành vô nhân đạo”. Thật vậy, mặc dù là Đấng Công bình, Đức Giêsu không phải là một vị quan toà nghiêm khắc, nhưng trái lại, Ngài là một người Thầy đầy nhân ái. Ngài luôn chờ đợi sự trở về của chúng ta là những người tội lỗi, như Người Cha chờ đợi đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15, 11-32). Tất cả điều này được ngôn sứ Isaia diễn tả bằng các hình ảnh thật sinh động: “Người sẽ không lớn tiếng,... không ai nghe tiếng người ở công trường. Người không bẻ gãy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Còn thánh Phêrô trong sách Công vụ tông đồ thì xác nhận: “Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám”.
Như thế, với việc lãnh nhận phép Rửa trong sông Giođan, Đức Giêsu một lần nữa được Chúa Cha xác nhận là Con Thiên Chúa, Đấng đến thiết lập nền công lý trong tình thương, và đem lại sự bình an cho toàn thể chúng ta.
Còn chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta vẫn mơ ước bình an, nhưng thực tế, chúng ta vẫn chưa được bình an. Tâm hồn chúng ta vẫn còn đầy những dục vọng, những đam mê, tâm trí chúng ta còn xáo động bởi biết bao những lo lắng cho cuộc sống trần thế này. Có lẽ tôi và quý ông bà anh chị em cũng phải theo bước Đức Giêsu đến dìm mình trong dòng nước sông Giođan, nghĩa là thật lòng sám hối về tất cả những lỗi phạm của chúng ta, để Thánh Thần thanh tẩy tâm trí chúng ta, giúp chúng ta phân biệt đâu là điều chính, đâu là điều phụ, cái gì là vĩnh cửu, cái gì là nhất thời. Nhất là dọn lòng sốt sắng để sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể vào lòng, để nhờ Ngài, chúng ta cũng được bình an trong tâm hồn.
Để rồi khi rời ngôi thánh đường này trở về nhà, tôi và quý ông bà anh chị em có thể chia sẻ và đem lại bình an cho những người chúng ta gặp gỡ ngay trong gia đình, bằng đời sống công bình và yêu thương. Nhờ đó, mọi thành viên trong gia đình đều cảm thấy được thư thái trong mái nhà mình và gia đình chúng ta thực sự trở thành một tổ ấm, và là một ngọn đèn sáng để dẫn đưa mọi người về với Chúa, Đấng ban bình an. Amen.
1) Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
Dân chúng tưởng Gioan Tẩy Giả là Đấng Mêsia. Nhưng ông đã khiêm tốn thanh minh: TN 1-C22
- PHẦN THỨ NHẤT (c. 15-16): dân chúng tưởng Gioan Tẩy Giả là Đấng Mêsia. Nhưng ông đã khiêm tốn thanh minh: Ong chỉ rửa người ta bằng nước và không xứng đáng làm nô lệ của Đấng Mêsia đang đến. Chính Người sẽ tẩy rửa trong Thánh Thần và lửa.
- PHẦN THỨ HAI (c. 21-22): Khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa của Gioan xong, thì một cuộc thần hiện đã xảy ra: Thánh Thần lấy hình chim câu ngự trên mình Người như một nghi thức xức dầu thiêng liêng, phong Người làm Đấng Mêsia. Rồi tiếng của Chúa Cha từ trời vọng xuống xác nhận Đức Giêsu là Con rất yêu dấu, hằng làm đẹp lòng Ngài.
2) CHÚ THÍCH:
- Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gioan: Biết đâu ông chẳng phải là Đấng Mêsia ! Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,15-16):
+ Đấng Mêsia: Chữ Hy lạp CHRIS-TOS nghĩa là “Người được Chúa xức dầu”, tương đương với chữ MÊSIA trong tiếng Do thái. Ở đây dịch là Mêsia vì đang nói với dân Do thái và chữ Mêsia mang ý nghĩa về chính trị cực đoan (x. Lc 22,67; 23.2).
+ Cởi quai dép: Là hành vi của một nô lệ, mà một người Do thái không thể đòi một người giúp việc Do thái cởi quai dép cho mình, vì cả hai cùng là con cháu của Apraham, cùng thuộc về dân riêng được Chúa tuyển chọn (x. Ga 8,33).
+ Làm phép rửa trong Thánh Thần: Trong câu này và trong Cv 1,5; 11,16 Luca phân biệt phép rửa bằng nước của ông Gioan với phép rửa trong Thánh Thần sẽ được khai diễn vào ngày Ngũ Tuần, ngày Thánh Thần hiện xuống. Trong Thánh Thần, không phải bằng Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần không phải là một dụng cụ, nhưng là một sự hiện diện tích cực. Chẳng hạn: Đức Giêsu sau khi được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, đã được Thánh Thần dẫn vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu thử thách (x. Lc 4,1-2).
+ Lửa: Tượng trưng cho tác động thanh luyện mà Chúa thực hiện trong tâm hồn, so sánh với chất nước có tác dụng bên ngoài nhiều hơn (x. Ml 3,2; Dcr 13,9; 1 Pr 1,7). Có lẽ phải hiểu lời này như lời tiên báo ngày lễ Ngũ Tuần. Vì sau này sách Công Vụ thuật lại biến cố Thánh Thần hiện xuống dưới dạng lưỡi lửa, đậu xuống trên các Tông đồ (x. Cv 2,3-4). Hình ảnh này ám chỉ công cuộc thanh luyện của Thánh Thần.
- Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa. Sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con (Lc 3,21-22):
+ Toàn dân: Kiểu nói phổ quát “toàn dân” là đặc điểm Luca hay xử dụng (x. Lc 1,10; 3,7). Qua kiểu nói này, Luca muốn nói lên ơn cứu độ dành cho hết mọi người.
+ Đức Giêsu cũng chịu phép rửa: Người khiêm tốn hòa nhập vào trong đoàn hối nhân đang xếp hàng và xin chịu phép rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả.
+ Đang khi Người cầu nguyện: Luca thường ghi những lời Đức Giêsu cầu nguyện (5,16; 6,12; 9,18.28-29). Cầu nguyện là lúc Người gặp gỡ Chúa Cha (x. Lc 10,21).
+ Trời mở ra: Tin Mừng Máccô viết: “Các tầng trời xé ra” (Mc 1,10). Còn ở đây Luca viết: “Trời mở ra” có tính dịu dàng hơn. Đức Giêsu bắt đấu một kỷ nguyên mới và chấm dứt giao ước cũ. Trời đất giao hòa (x. cv 7,56): Trời không còn đóng nữa mà đã mở ra.
+ Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu: Chim bồ câu là hình dáng bên ngoài mà Thánh Thần mượn khi muốn cho mắt người phàm được thấy. Đây cũng là hình ảnh nhắc lại cuộc tạo dựng thời nguyên thủy (x. St 1,2), báo hiệu một cuộc tạo thành mới. Nhắc lại biến cố Đại hồng thủy, mà chim bồ câu báo trước một thế giới mới (x. st 8,8). Là một hình ảnh tượng trưng nhân loại mới được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái (x. Dc 2,14). Ở đây còn bao hàm ý: Thần Khí xức dầu cho Đức Giêsu (x. Cv 10,38), để tấn phong Người làm Đấng Mêsia (x. Is 11,2; 42,1; Mt 12,18.28).
+ Lại có tiếng từ trời phán: Thiên Chúa nói với Đức Giêsu cách âu yếm như một người cha nói với đứa con thân yêu của mình.
+ “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”: Đây là câu trích trong Thánh Kinh (Tv 2,7; Cv 13,33; Dt 1,5), qua lời này, Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Mêsia và bắt đầu sứ mệnh giữa dân Chúa. Cũng qua câu này, Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Lc 1,35). Con Thiên Chúa là tước hiệu mà nói về mối liên hệ phụ tử nhiệm mầu giữa Thiên Chúa với Đức Giêsu. Tước hiệu Con Thiên Chúa đi xa và sâu hơn tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” (x. Lc 1,32) và Mêsia. Sau này Đức Giêsu còn phải chết vì đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa (x. Lc 22,70-71).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Con là con Cha. - Cha hài lòng về con”.
2) CÂU CHUYỆN 1:
Tại một xứ vùng quê nước Pháp, có một người đàn ông ngoại giáo tên là A-lích. Ông ta khoảng độ ngũ tuần và bị bệnh bất toại, phải nằm liệt giường. Hai ông bà không con không cháu. Mỗi buổi sáng sau khi giúp ông vệ sinh cá nhân và điểm tâm, bà vợ đã đặt ông ngồi trong một chiếc ghế bành ngoài hiên nhà, rồi ra đồng làm mướn kiếm tiền về nuôi ông.
Dù A-lích không phải là người công giáo, nhưng cha sở thỉnh thoảng vẫn đến thăm. Ngài còn động viên các bà đạo đức và các cháu thiếu nhi giáo lý đến giúp đỡ cho ông. Các bà thì lo cơm trưa, các thiếu nhi thì đọc truyện Kinh Thánh cho ông nghe. Mỗi tuần Cha Sở còn mời bác sĩ đến khám bệnh và cho thuốc điều trị bệnh cho ông.
Giáng Sinh năm đó, đột nhiên A-lích thưa với cha sở: “Thưa cha, xin cha cho con được rửa tội để trở thành con Thiên Chúa giống như cha và các giáo dân của cha”. Sau đó, ông đã cho biết lý do xin theo đạo như sau: “Thưa cha, trước đây con không tin Thiên Chúa hay tin bất cứ tôn giáo nào. Nhưng ít lâu nay con thấy cha và anh chị em giáo hữu đối xử rất tốt với con, dù con thấy mình thật chẳng đáng được như vậy. Con nghĩ chắc phải có Chúa, thì Người mới làm cho cha và mọi người sống bác ái yêu thương, tự nguyện giúp con cách tận tình như một người thân trong gia đình, đang khi con chỉ là một người ngoại đạo !”
SUY NIỆM: Có lẽ chúng ta cũng nhận ra Cha Sở và các anh chị em giáo dân Pháp trong câu chuyện trên không làm việc gì lớn lao, mà chỉ làm theo lời Chúa trong Tin Mừng: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Và chính việc làm ấy đã đạt kết quả tốt.
3) CÂU CHUYỆN 2:
Lễ phong vương thường bao gồm 3 nghi lễ như sau: Một là thanh tẩy, gồm có việc tắm rửa và mặc long bào; Hai là xức dầu thơm và đội triều thiên vương miện; Ba là nghi thức xưng tụng và tôn vương của quần thần.
Hôm nay khi sắp ra giảng đạo để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Đức Giêsu cũng được tấn phong làm vua qua ba nghi lễ như sau:
+ Trước tiên Người chịu phép rửa của Gioan dưới dòng sông Giođan (x. c 3,21).
+ Sau đó, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38b; Is 61,1), để trở nên Đấng Thiên Sai: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế” (Cv 10,38c).
+ Cuối cùng, Người đã được Chúa Cha công nhận là Vua Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, như Tin Mừng Luca viết: “Khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).
SUY NIỆM:
+ Ngày lễ hôm nay nhắc nhở ta một điều rất quan trọng mà chúng ta thường quên. Đó là ý thức và sống ơn gọi cao cả mà mình đã lãnh nhận khi được chịu phép rửa tội: Trở nên con của Thiên Chúa. Phép rửa tội không phải chỉ là một lễ nghi, nhưng còn là khởi đầu một cuộc sống mới kéo dài trong suốt cuộc đời. Ta phải vui mừng hãnh diện vì được trở thành con Thiên Chúa.Ta phải sống thế nào để Thiên Chúa có thể hãnh diện xác nhận ta như đã xác nhận về Đức Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
+ Ngày chúng ta chịu phép rửa tội, cũng là ngày chúng ta được Thiên Chúa công nhận: “Con là Con của Cha”. Vậy chúng ta có cảm thấy vinh dự và hãnh diện khi được Chúa Cha nhận làm con, làm dưỡng tử của Ngài hay không ? Chúng ta phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
4) CÂU CHUYỆN 3:
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã !” Cô bé liền đáp: “Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin để cho cháu cầu nguyện đã”. Rồi em ngồi dậy và sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: “Bây giờ cháu có thể bắt đầu ngủ được rồi !”
Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn là gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau thời gian 30 năm không biết gì đến Chúa. Ai biết được sức mạnh nào nơi cô bé đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của mình !
SUY NIỆM:
+ Hôm nay Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người tín hữu chúng ta về những cam kết mà chúng ta đã hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, nhắc nhở ta phải cùng chết với Đức Kitô là sự dứt khoát từ bỏ ma quỉ, những vinh hoa của nó, cùng các đam mê tội lỗi bất chính…để được sống lại một cuộc đời mới làm con Thiên Chúa, đón nhận ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Đức Kitô.
+ Làm chứng cho Chúa không nhất thiết là phải nói về Chúa, nhưng quan trọng hơn là phải thể hiện đức tin. Em bé trong câu chuyện trên không nói gì về Chúa, nhưng chính thái độ cầu nguyện với đầy lòng tin cậy của em đã đánh động tấm lòng khô khan nguội lạnh của bác sĩ giải phẫu cho em. Làm chứng cho Đức Kitô là chiếu sáng bác ái như lời chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5,16).
5) THẢO LUẬN:
Các tín hữu đã được lãnh nhận phép rửa tội để nên dưỡng tử của Thiên Chúa, và có sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho tha nhân. Vậy chúng ta đã sống xứng đáng là con Thiên Chúa chưa ? Chúng ta đã thi hành sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Kitô thế nào ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Chúa Giêsu, qua bài Tin Mừng hôm nay, con rất xúc động khi Chúa là Đấng Thánh mà lại hạ mình đứng vào hàng ngũ những người tội nhân có lòng sám hối để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con biết nhìn thấy những thiếu sót và lầm lỗi của chúng con. Xin cho chúng con đừng làm điều gì cho mình nổi hơn người khác. Xin cho chúng con biết chọn phần ít hơn người khác về quyền lợi, nhưng sẵn sàng dấn thân làm việc phục vụ tha nhân nhiều hơn. Xin cho chúng con nói ít làm nhiều. Nhờ đó, sau này chúng con sẽ được Chúa ban thưởng bội hậu trên Trời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con noi gương Chúa Giêsu là người con yêu của Mẹ: Chúa thường đến với chúng con trong hình ảnh của một người ăn xin: Chúa xin người đàn bà Samari chút nước uống; Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá; Chúa cần đến trọ nhà của ông Giakêu và nhà Bêtania của ba chị em Mátta, Maria, Ladarô; Chúa khát nước khi bị treo trên cây thập tự…Để dựa vào đó mà tuôn đổ hồng ân nhiều lên gấp bội. Lạy Mẹ, xin dạy chúng con biết sẵn sàng đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện đang còn cháy âm ỉ nơi các tội nhân, nơi những người đã lạc xa Chúa lâu ngày. Ước gì chúng con biết nhìn tha nhân bằng ánh mắt thân thương của Chúa, dám tin tưởng vào lòng quảng đại tốt lành của người đời, để hợp tác trong những công việc mang lại công ích, và sẵn sàng khiêm tốn phục vụ những người đang bị đau khổ và bất hạnh.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật: TN 1-C23
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật với giai đoạn Ngài rao giảng công khai: sau thời gian sống với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu đi rao giảng. Việc đầu tiên Ngài làm là lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả ở sông Giođan. Như thế, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là gạch nối giữa mùa Giáng sinh với mùa Thường niên: Chúng ta đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố giáng sinh và hiển linh. Kể từ hôm nay chúng ta sẽ cùng sống với Ngài qua các biến cố của đời rao giảng.
Trong dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, và tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống xác nhận Ngài là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó cũng chính là thân phận kitô hữu của mỗi người chúng ta: chúng ta cũng đã lãnh nhận phép rửa, cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Vậy chúng ta cũng hãy noi gương Chúa Giêsu mà cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
* Do bí tích Rửa tội, chúng ta đã được nhận là con của Chúa. Nhưng chúng ta chưa sống xứng đáng với danh nghĩa ấy.
* Dù là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã sống như một Người Tôi Tớ hạ mình phục vụ mọi người. Còn chúng ta, chúng ta không thích hạ mình, không ưa phục vụ.
* Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngược lại chúng ta hay sống theo ý riêng.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 42,1-4.6-7):
Ngôn sứ Isaia được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt nên đã hiểu Đấng Messia tương lai là một Người Tôi Tớ. Ông đã mô tả Người Tôi Tớ trong 4 bài thơ. Đoạn được phụng vụ trích đọc hôm nay nằm trong bài thơ thứ I:
* Đó là người được Thiên Chúa tuyển chọn và Thiên Chúa rất hài lòng.
* Người đó rất hiền lành và dịu dàng: "không lớn tiếng, không nở bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói".
* Sứ mạng của Người Tôi Tớ là: a/ Tái lập công bình; b/ nên ánh sáng cho muôn dân; c/ giải thoát những người khốn khổ.
2. Đáp ca (Tv 28):
Bài thơ này ca tụng Thiên Chúa uy phong. Sự uy phong của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài thống trị các sức mạnh của thiên nhiên: Ngài ngự trên những ngọn thuỷ triều, tiếng Ngài vang rền trên sóng nước.
Chính Thiên Chúa uy phong ấy sẽ tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng Messia của Ngài trong biến cố phép rửa.
3. Tin Mừng (Lc 3,15-16.21-22):
Bài Tin Mừng này cho ta biết về người làm phép rửa và người được làm phép rửa:
1. Người làm phép rửa là Gioan Tẩy giả: lời giảng và hoạt động của ông đã khiến ông nổi tiếng, đến nỗi dân chúng nghĩ rằng ông chính là Đấng Messia. Gioan đã khiêm tốn thanh minh ông không phải là thế, và còn giới thiệu cho họ biết Đấng Messia thực sắp đến sau ông và cao trọng hơn ông nhiều.
2. Người lãnh nhận phép rửa là Chúa Giêsu. Chính Thiên Chúa (chim câu, tiếng từ trời) giới thiệu Ngài:
* Ngài là Con của Thiên Chúa ("Con là con của Cha")
* Là Đấng Messia mà Tv 2 và ngôn sứ Isaia đã tiên báo (Kiểu nói "Con là con của Cha" là tước hiệu Isaia dùng để nói về Đấng Messia; kiểu nói "Hôm nay Ta sinh ra con" là của Tv 2 cũng nói về Đấng Messia).
4. Bài đọc II (Cv 10,34-38):
Dân Do Thái có quan niệm hẹp hòi cho rằng Thiên Chúa là Chúa riêng của họ, và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa được dành riêng cho họ. Vì thế, khi thánh Phêrô rửa tội cho ông Cornêliô một người thuộc dân ngoại, một số người Do Thái đã thắc mắc.
Thánh Phêrô biện minh rằng ông đã làm như thế cũng chỉ là theo đúng sứ mạng của Chúa Giêsu:
* Trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, Ngài đã được Thiên Chúa tấn phong làm Đấng Messia: "Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Ngài".
* Sứ mạng Messia của Chúa Giêsu là mang Tin Mừng cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, vì thế nên "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người". Phêrô còn nói: "Thiên Chúa không tây vị ai. Nhưng ở bất cứ xứ nào ai kính sợ Người và thi hành sự công chính đều được Người đón nhận".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Mỗi người đều có sứ mạng
Hai tiếng "sứ mạng" nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo - nói chung là mọi "hữu thể" - đều có sứ mạng:
* Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất
* Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người
* Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân huỷ những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi "Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng?"
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói "Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân".
2. "Con yêu dấu"
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua phép rửa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa. Về phần Chúa Giêsu, Ngài đã được khen là "Con yêu dấu của Cha".
Thế nào là một người "con yêu dấu"?
* là biết ý của cha mình: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
* và luôn làm theo ý cha mình: Chúa Giêsu nói "Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta". Trong vườn Cây Dầu, sau khi đơn thành tỏ cho Chúa Cha biết Ngài rất sợ chén đắng của cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói tiếp ngay "Nhưng xin đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha".
Nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thì chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
3. "Nếu..."
Nếu tôi là dân Do Thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Chúa Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Giođan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi, chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai. Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến". Rửa xong, tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu Thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xảy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu Thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dạy: "Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con". Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở với tôi.
Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu Thế, tôi sẽ tự đắc hô to: Đấy, tôi nói có sai đâu. Ngài đến đây nè... Rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do giàu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng "Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ". Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng, để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu Thế: dù phải chặt đầu, ông vẫn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
Còn Chúa Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: "Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế". Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong dòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu xin cho chúng con biết kính nhường nhau. Đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm kitô hữu cho Đấng Cứu Thế. Chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời. (Linh mục Vũ Khắc Nghiêm, "Xây nhà trên đá" Năm A)
4. Tình yêu cứu thế
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.
Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ.
*****
Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.
Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.
Đấng xoá tội trần gian, lại hoà mình trong đoàn người tội lỗi.
Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông "sám hối".
Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.
Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người.
Chính thái độ tự huỷ tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta.
Vâng, chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hoá thân làm kiếp phàm nhân:
* Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.
* Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân.
* Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn mục ngay trước mắt con người,
Người đã muốn nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận từ Cha: "Mọi sự của Cha là của Con".
Người đã muốn chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa: "Phàm là con cái thì chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết nhục với chúng ta" (Dt 2,14).
Người đã muốn chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: "Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách"(Dt 2,18).
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là Tình Yêu: Một Tình Yêu vui lòng tự huỷ để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một Tình Yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một Tình Yêu chấp nhận cúi xuống để nâng anh em chỗi dậy cùng bước về nhà Cha.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giođan, chúng ta hiểu được thế nào là Hiệp Thông: Chính trong giây phút Hiệp Thông sâu đậm này mà Người cảm nhận được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: "Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3,22).
Ngày nay, chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi Hiệp Thông thân mật với Ba Ngôi Chí Thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một Tình Yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tình Yêu Cứu Thế!
Lạy Chúa, trong con mắt Chúa chúng con là tất cả. Xin cho chúng con luôn nhìn anh em bằng cái nhìn của Chúa, và yêu thương anh em chúng con bằng tình yêu trọn vẹn của Người. Amen. (TP)
5. Chuyện minh họa
Ở một nước kia có luật cấm đạo. Hai vợ chồng kia bị bắt đưa ra tòa vì tội là Kitô hữu. Người chồng tên là Moran.
Để cứu vợ chồng này khỏi tội, luật sư đã hùng hồn đọc bài biện hộ mà đại ý như sau:
* Hai thân chủ của tôi bị kết tội là Kitô hữu. Tôi xin chứng minh rằng sự thật không phải là thế.
* Họ có một cuộc sống đàng hoàng, siêng năng làm việc, không hề gian tham trộm cắp, không làm thiệt hại ai điều gì, không xích mích gì với hàng xóm... Như thế họ là những con người tốt, những công dân tốt. Không có gì sai trái.
* Ngày Chúa nhật họ đi dự lễ, ở nhà họ có bàn thờ và thường đọc kinh trước bàn thờ, họ đeo ảnh Thánh giá... Chính vì những biểu hiện bề ngoài này mà họ bị kết tội là Kitô hữu. Nhưng những biểu hiện bề ngoài ấy không đủ để kết luận họ thực sự là kitô hữu.
* Chính Thánh Kinh của Kitô giáo đưa tiêu chuẩn để xác định ai là kitô hữu thật: "Cứ xem quả thì biết cây" (Mt 7,15); Mà hoa quả chứng minh ai là kitô hữu là những việc bác ái yêu thương, như một câu Thánh Kinh khác: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau" (Ga 13,35). Nếu căn cứ vào những tiêu chuẩn này để xét, thì tôi dám khẳng định rằng thân chủ của tôi chắc chắn không phải là kitô hữu: mọi người đều không thấy họ có chút quan tâm nào đến những người nghèo, những người khổ sở, những người già yếu...; mỗi khi có cuộc lạc quyên để giúp thiên tai, hoạn nạn, họ cũng đóng góp nhưng chỉ đóng góp cho có với người khác chứ thực sự ít hơn mọi người khác.
* Vì những bằng chứng trên, tôi xin quý tòa hãy hủy bỏ tội danh Kitô hữu của thân chủ tôi.
Toà tạm ngừng để nghị án. Sau đó Tòa kết luận: Tội danh Kitô hữu không được thành lập. Hai vợ chồng Moran được tự do! (FM)
6. Bài giảng được gán cho Thánh Hippolite (+ 236)
Nếu Chúa chìu theo lời ngăn cản của Gioan mà không chịu phép rửa thì chúng ta đã bị mất mát biết bao điều quan trọng.
Trước đó các tầng trời bị đóng chặt, chúng ta không ai có thể đến được quê hương trên trời. Sau khi xuống thấp tận đáy, chúng ta không còn có thể trở về trên cao. Nhưng Chúa Giêsu đã chịu phép rửa. Không phải một mình Ngài chịu phép rửa, mà Ngài còn canh tân con người cũ và ban lại cho nó thân phận làm dưỡng tử của Thiên Chúa. Bởi thế lúc đó "trời mở ra". Các thực tại hữu hình được giao hòa với những thực tại vô hình; các phẩm trật trên trời hớn hở vui mừng, dưới đất thì bệnh tật được chữa lành...
7. Suy nghĩ về phép rửa
Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa Tội trong Nhà thờ.
Chúng ta được rửa bởi tất cả mọi biến cố xảy ra trong đời:
* Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn: đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta khỏi những gì là gian trá và vô dụng.
* Chúng ta được rửa bởi những khổ đau, buồn rầu: đó là những dòng nước u ám nhưng có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
* Chúng ta được rửa bởi niềm vui: đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
*Chúng ta được rửa bởi tình yêu: đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa dưới ánh nắng mặt trời.
Phép rửa là một hạt giống, cần phải nẩy mầm trong suốt cả đời sống.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy chúng ta cùng nguyện xin Người:
1. Chúa Giêsu đã tự hạ / đến xin ông Gioan làm phép rửa / hấu chỉ lối khiêm nhường cho người Kitô hữu học đòi bắt chước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết noi gương Chúa Giêsu mà phục vụ tha nhân trong yêu thương và khiêm nhường.
2. Chúa Giêsu đã dùng phép rửa mà thánh hóa nhân loại / và mở cửa cho những người thống hối trở về / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho kẻ có tội biết từ bỏ đời sống tội lỗi / mà quay trở về nẻo chính đường ngay.
3. Đức Kitô là ánh sáng muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho hết thảy mọi người đang đi tìm Chúa.
4 Đức Kitô là nguồn hy vọng của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tìm đến Chúa khi gặp gian nan thử thách / để được Người nâng đỡ ủi an.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã được Chúa Trời tuyển chọn, Chúa không nỡ nghiền nát cây lau đã gãy, cũng chẳng nỡ dập tắt tim đèn còn cháy. Xin cho tất cả chúng con cũng biết noi theo lòng nhân hậu của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước Kinh Lạy Cha: Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Vậy, cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
VII. GIẢI TÁN
Thánh lễ đã hết, anh chị em lại trở về cuộc sống bình thường. Anh chị em hãy cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa. Biến cố này rất quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu. Quan trọng: TN 1-C24
Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa. Biến cố này rất quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu. Quan trọng không phải là do phép rửa, mà là những gì tiếp theo sau: Khi Chúa Giêsu cầu nguyện, thì Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha”.
Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu. Đây không phải là lần đầu tiên, bởi vì ngay khi thụ thai, Ngài đã được trao ban Thánh Thần. Thế nhưng ở đây, Ngài lại được trao ban, bởi vì một giai đoạn mới đã bắt đầu. Ngài bắt đầu rao giảng nước Thiên Chúa, Như vậy, ở đây được xem như là một lễ tấn phong, công bố Chúa Giêsu là ai, và chính thức thiết lập tư cách làm tròn sứ mạng. Chúa Giêsu là Đấng đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng đã được Chúa Thánh Thần xức dầu. Ngài đã được Thiên Chúa tuyển chọn. Ngài là Đấng Cứu Độ của Thiên Chúa , lãnh nhận trách nhiệm trở thành Tiên Tri của Thiên Chúa và mang đến cho thế giới Ơn Cứu Độ.
Chúng ta nhìn thấy, trong ngày chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã sống một thời điểm đặc biệt trong cuộc đời, đến nỗi chúng ta có thể chia cuộc đời thành hai giai đoạn: Trước và sau khi chịu phép rửa. Trước khi chịu phép rửa, Ngài sống một cuộc sống ẩn dật. Sau khi chịu phép rửa, là cuộc sống công khai.
Chúng ta là những người chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu . Chúng ta cũng được lãnh nhận phép rửa. Phép rửa của chúng ta chắc chắn không giống phép rửa của Chúa Giêsu: Không có chim bồ câu đến đậu trên đầu, không có tiếng nói từ trời vang xuống. Phép rửa của Chúa Giêsu và khung cảnh diễn ra sau đó là những biến cố độc nhất.
Thế nhưng, chúng ta đã được chịu phép rửa đã được Giaon Tẩy Gỉa loan báo: “Ngài sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa”. Chúa Thánh Thần được hứa ở đây không khác với Chúa Thánh Thần đã xuống trên Chúa Giêsu. Chỉ là một. Còn lửa nói ở đây, chính là lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần được trao ban cho các Tông Đồ, 40 ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đã đem lại một hiệu qủa tuyệt diệu. Theo Thánh Phaolô, nhờ phép rửa, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta sinh ra lại và đã đổi mới chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Sinh ra lại và đổi mới, đó là gía trị chính yếu.
Chúng ta đã được sinh ra trong thế giới loài người. Phép rửa làm cho chúng ta sinh ra lại trong thế giới của Thiên Chúa. Chúng ta đã là con cái loài người và là những tạo vật được Thiên Chúa yêu mến; Phép rửa đã làm cho chúng ta giờ đây trở thành những nghĩa tử của Thiên Chúa. Phép rửa tinh luyện chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi thế giới sự dữ, giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của thế giới tội lỗi, đồng thời, biến đổi chúng ta nên mới, thuộc về dân Thiên Chúa, được dành riêng cho cuộc sống vĩnh cửu.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng, phép rửa làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta có thể trở nên con cái bất xứng. Phép rửa ban Thánh Thần, và với Thánh Thần, chúng ta có thể làm việc thiện, việc lành. Thế nhưng, bởi vì chúng ta có tự do, chúng ta có thể chọn sự dữ. Phép rửa làm cho chúng ta trở nên công chính, nhưng điều đó đòi hỏi chúng ta mỗi ngày phải công chính hơn. Là con cái Thiên Chúa, phép rửa đòi chúng ta mỗi ngày phải lớn lên và trưởng thành, có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa.
Vấn đề là làm thế nào chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi làm con Chúa một cách xứng đáng theo gương Chúa Giêsu. Và hãy luôn biết cảm tạ Chúa vì ơn huệ cao qúy này.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:- PHẦN THỨ NHẤT (c. 15-16): dân chúng: TN 1-C25
1) Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
- PHẦN THỨ NHẤT (c. 15-16): dân chúng tưởng Gioan Tẩy Giả là Đấng Mêsia. Nhưng ông đã khiêm tốn thanh minh: Ong chỉ rửa người ta bằng nước và không xứng đáng làm nô lệ của Đấng Mêsia đang đến. Chính Người sẽ tẩy rửa trong Thánh Thần và lửa.
- PHẦN THỨ HAI (c. 21-22): Khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa của Gioan xong, thì một cuộc thần hiện đã xảy ra: Thánh Thần lấy hình chim câu ngự trên mình Người như một nghi thức xức dầu thiêng liêng, phong Người làm Đấng Mêsia. Rồi tiếng của Chúa Cha từ trời vọng xuống xác nhận Đức Giêsu là Con rất yêu dấu, hằng làm đẹp lòng Ngài.
2) CHÚ THÍCH:
- Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gioan: Biết đâu ông chẳng phải là Đấng Mêsia ! Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,15-16):
+ Đấng Mêsia: Chữ Hy lạp CHRIS-TOS nghĩa là “Người được Chúa xức dầu”, tương đương với chữ MÊSIA trong tiếng Do thái. Ở đây dịch là Mêsia vì đang nói với dân Do thái và chữ Mêsia mang ý nghĩa về chính trị cực đoan (x. Lc 22,67; 23.2).
+ Cởi quai dép: Là hành vi của một nô lệ, mà một người Do thái không thể đòi một người giúp việc Do thái cởi quai dép cho mình, vì cả hai cùng là con cháu của Apraham, cùng thuộc về dân riêng được Chúa tuyển chọn (x. Ga 8,33).
+ Làm phép rửa trong Thánh Thần: Trong câu này và trong Cv 1,5; 11,16 Luca phân biệt phép rửa bằng nước của ông Gioan với phép rửa trong Thánh Thần sẽ được khai diễn vào ngày Ngũ Tuần, ngày Thánh Thần hiện xuống. Trong Thánh Thần, không phải bằng Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần không phải là một dụng cụ, nhưng là một sự hiện diện tích cực. Chẳng hạn: Đức Giêsu sau khi được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, đã được Thánh Thần dẫn vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu thử thách (x. Lc 4,1-2).
+ Lửa: Tượng trưng cho tác động thanh luyện mà Chúa thực hiện trong tâm hồn, so sánh với chất nước có tác dụng bên ngoài nhiều hơn (x. Ml 3,2; Dcr 13,9; 1 Pr 1,7). Có lẽ phải hiểu lời này như lời tiên báo ngày lễ Ngũ Tuần. Vì sau này sách Công Vụ thuật lại biến cố Thánh Thần hiện xuống dưới dạng lưỡi lửa, đậu xuống trên các Tông đồ (x. Cv 2,3-4). Hình ảnh này ám chỉ công cuộc thanh luyện của Thánh Thần.
- Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa. Sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con (Lc 3,21-22):
+ Toàn dân: Kiểu nói phổ quát “toàn dân” là đặc điểm Luca hay xử dụng (x. Lc 1,10; 3,7). Qua kiểu nói này, Luca muốn nói lên ơn cứu độ dành cho hết mọi người.
+ Đức Giêsu cũng chịu phép rửa: Người khiêm tốn hòa nhập vào trong đoàn hối nhân đang xếp hàng và xin chịu phép rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả.
+ Đang khi Người cầu nguyện: Luca thường ghi những lời Đức Giêsu cầu nguyện (5,16; 6,12; 9,18.28-29). Cầu nguyện là lúc Người gặp gỡ Chúa Cha (x. Lc 10,21).
+ Trời mở ra: Tin Mừng Máccô viết: “Các tầng trời xé ra” (Mc 1,10). Còn ở đây Luca viết: “Trời mở ra” có tính dịu dàng hơn. Đức Giêsu bắt đấu một kỷ nguyên mới và chấm dứt giao ước cũ. Trời đất giao hòa (x. cv 7,56): Trời không còn đóng nữa mà đã mở ra.
+ Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu: Chim bồ câu là hình dáng bên ngoài mà Thánh Thần mượn khi muốn cho mắt người phàm được thấy. Đây cũng là hình ảnh nhắc lại cuộc tạo dựng thời nguyên thủy (x. St 1,2), báo hiệu một cuộc tạo thành mới. Nhắc lại biến cố Đại hồng thủy, mà chim bồ câu báo trước một thế giới mới (x. st 8,8). Là một hình ảnh tượng trưng nhân loại mới được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái (x. Dc 2,14). Ở đây còn bao hàm ý: Thần Khí xức dầu cho Đức Giêsu (x. Cv 10,38), để tấn phong Người làm Đấng Mêsia (x. Is 11,2; 42,1; Mt 12,18.28).
+ Lại có tiếng từ trời phán: Thiên Chúa nói với Đức Giêsu cách âu yếm như một người cha nói với đứa con thân yêu của mình.
+ “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”: Đây là câu trích trong Thánh Kinh (Tv 2,7; Cv 13,33; Dt 1,5), qua lời này, Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Mêsia và bắt đầu sứ mệnh giữa dân Chúa. Cũng qua câu này, Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Lc 1,35). Con Thiên Chúa là tước hiệu mà nói về mối liên hệ phụ tử nhiệm mầu giữa Thiên Chúa với Đức Giêsu. Tước hiệu Con Thiên Chúa đi xa và sâu hơn tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” (x. Lc 1,32) và Mêsia. Sau này Đức Giêsu còn phải chết vì đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa (x. Lc 22,70-71).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Con là con Cha. - Cha hài lòng về con”.
2) CÂU CHUYỆN 1:
Tại một xứ vùng quê nước Pháp, có một người đàn ông ngoại giáo tên là A-lích. Ông ta khoảng độ ngũ tuần và bị bệnh bất toại, phải nằm liệt giường. Hai ông bà không con không cháu. Mỗi buổi sáng sau khi giúp ông vệ sinh cá nhân và điểm tâm, bà vợ đã đặt ông ngồi trong một chiếc ghế bành ngoài hiên nhà, rồi ra đồng làm mướn kiếm tiền về nuôi ông.
Dù A-lích không phải là người công giáo, nhưng cha sở thỉnh thoảng vẫn đến thăm. Ngài còn động viên các bà đạo đức và các cháu thiếu nhi giáo lý đến giúp đỡ cho ông. Các bà thì lo cơm trưa, các thiếu nhi thì đọc truyện Kinh Thánh cho ông nghe. Mỗi tuần Cha Sở còn mời bác sĩ đến khám bệnh và cho thuốc điều trị bệnh cho ông.
Giáng Sinh năm đó, đột nhiên A-lích thưa với cha sở: “Thưa cha, xin cha cho con được rửa tội để trở thành con Thiên Chúa giống như cha và các giáo dân của cha”. Sau đó, ông đã cho biết lý do xin theo đạo như sau: “Thưa cha, trước đây con không tin Thiên Chúa hay tin bất cứ tôn giáo nào. Nhưng ít lâu nay con thấy cha và anh chị em giáo hữu đối xử rất tốt với con, dù con thấy mình thật chẳng đáng được như vậy. Con nghĩ chắc phải có Chúa, thì Người mới làm cho cha và mọi người sống bác ái yêu thương, tự nguyện giúp con cách tận tình như một người thân trong gia đình, đang khi con chỉ là một người ngoại đạo !”
SUY NIỆM: Có lẽ chúng ta cũng nhận ra Cha Sở và các anh chị em giáo dân Pháp trong câu chuyện trên không làm việc gì lớn lao, mà chỉ làm theo lời Chúa trong Tin Mừng: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Và chính việc làm ấy đã đạt kết quả tốt.
3) CÂU CHUYỆN 2:
Lễ phong vương thường bao gồm 3 nghi lễ như sau: Một là thanh tẩy, gồm có việc tắm rửa và mặc long bào; Hai là xức dầu thơm và đội triều thiên vương miện; Ba là nghi thức xưng tụng và tôn vương của quần thần.
Hôm nay khi sắp ra giảng đạo để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Đức Giêsu cũng được tấn phong làm vua qua ba nghi lễ như sau:
+ Trước tiên Người chịu phép rửa của Gioan dưới dòng sông Giođan (x. c 3,21).
+ Sau đó, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38b; Is 61,1), để trở nên Đấng Thiên Sai: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế” (Cv 10,38c).
+ Cuối cùng, Người đã được Chúa Cha công nhận là Vua Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, như Tin Mừng Luca viết: “Khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).
SUY NIỆM:
+ Ngày lễ hôm nay nhắc nhở ta một điều rất quan trọng mà chúng ta thường quên. Đó là ý thức và sống ơn gọi cao cả mà mình đã lãnh nhận khi được chịu phép rửa tội: Trở nên con của Thiên Chúa. Phép rửa tội không phải chỉ là một lễ nghi, nhưng còn là khởi đầu một cuộc sống mới kéo dài trong suốt cuộc đời. Ta phải vui mừng hãnh diện vì được trở thành con Thiên Chúa.Ta phải sống thế nào để Thiên Chúa có thể hãnh diện xác nhận ta như đã xác nhận về Đức Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
+ Ngày chúng ta chịu phép rửa tội, cũng là ngày chúng ta được Thiên Chúa công nhận: “Con là Con của Cha”. Vậy chúng ta có cảm thấy vinh dự và hãnh diện khi được Chúa Cha nhận làm con, làm dưỡng tử của Ngài hay không ? Chúng ta phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
4) CÂU CHUYỆN 3:
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã !” Cô bé liền đáp: “Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin để cho cháu cầu nguyện đã”. Rồi em ngồi dậy và sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: “Bây giờ cháu có thể bắt đầu ngủ được rồi !”
Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn là gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau thời gian 30 năm không biết gì đến Chúa. Ai biết được sức mạnh nào nơi cô bé đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của mình !
SUY NIỆM:
+ Hôm nay Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người tín hữu chúng ta về những cam kết mà chúng ta đã hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, nhắc nhở ta phải cùng chết với Đức Kitô là sự dứt khoát từ bỏ ma quỉ, những vinh hoa của nó, cùng các đam mê tội lỗi bất chính…để được sống lại một cuộc đời mới làm con Thiên Chúa, đón nhận ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Đức Kitô.
+ Làm chứng cho Chúa không nhất thiết là phải nói về Chúa, nhưng quan trọng hơn là phải thể hiện đức tin. Em bé trong câu chuyện trên không nói gì về Chúa, nhưng chính thái độ cầu nguyện với đầy lòng tin cậy của em đã đánh động tấm lòng khô khan nguội lạnh của bác sĩ giải phẫu cho em. Làm chứng cho Đức Kitô là chiếu sáng bác ái như lời chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5,16).
5) THẢO LUẬN:
Các tín hữu đã được lãnh nhận phép rửa tội để nên dưỡng tử của Thiên Chúa, và có sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho tha nhân. Vậy chúng ta đã sống xứng đáng là con Thiên Chúa chưa ? Chúng ta đã thi hành sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Kitô thế nào ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Chúa Giêsu, qua bài Tin Mừng hôm nay, con rất xúc động khi Chúa là Đấng Thánh mà lại hạ mình đứng vào hàng ngũ những người tội nhân có lòng sám hối để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con biết nhìn thấy những thiếu sót và lầm lỗi của chúng con. Xin cho chúng con đừng làm điều gì cho mình nổi hơn người khác. Xin cho chúng con biết chọn phần ít hơn người khác về quyền lợi, nhưng sẵn sàng dấn thân làm việc phục vụ tha nhân nhiều hơn. Xin cho chúng con nói ít làm nhiều. Nhờ đó, sau này chúng con sẽ được Chúa ban thưởng bội hậu trên Trời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con noi gương Chúa Giêsu là người con yêu của Mẹ: Chúa thường đến với chúng con trong hình ảnh của một người ăn xin: Chúa xin người đàn bà Samari chút nước uống; Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá; Chúa cần đến trọ nhà của ông Giakêu và nhà Bêtania của ba chị em Mátta, Maria, Ladarô; Chúa khát nước khi bị treo trên cây thập tự…Để dựa vào đó mà tuôn đổ hồng ân nhiều lên gấp bội. Lạy Mẹ, xin dạy chúng con biết sẵn sàng đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện đang còn cháy âm ỉ nơi các tội nhân, nơi những người đã lạc xa Chúa lâu ngày. Ước gì chúng con biết nhìn tha nhân bằng ánh mắt thân thương của Chúa, dám tin tưởng vào lòng quảng đại tốt lành của người đời, để hợp tác trong những công việc mang lại công ích, và sẵn sàng khiêm tốn phục vụ những người đang bị đau khổ và bất hạnh.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa sinh ra làm người, là một trẻ thơ bọc tã nằm trong máng cỏ: TN 1-C26
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa sinh ra làm người, là một trẻ thơ bọc tã nằm trong máng cỏ. Đó là biểu hiện của Mầu nhiệm Nhập thể của Lời Thiên Chúa thành xác phàm. Cả những năm tháng sống ở Nadarét, Thiên Chúa làm người sống như mọi người, chôn vùi sự vinh quang của thần tính trong đời thường. Khi bắt đầu xuất hiện công khai để thực hiện sứ vụ Loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã hòa vào dòng người sám hối, xếp hàng chờ được Gioan làm phép rửa, chẳng khác gì chính ngài là tội nhân. Chúng ta thử tìm hiểu hành động trên của Đức Giêsu Kitô có ý nghĩa gì đối với chính Người và đối với chúng ta là những kẻ muốn sống theo Người.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
2.1 Bài đọc 1: Is 40,1-5.9-11: (a) “Sách Isaia là cuốn sách ngôn sứ lớn nhất. Sách gồm ba phần thuộc ba thời kỳ khác nhau. Isaia 40-50 gọi là sách An Ủi, tức Isaia đệ nhị. Công trình của một ngôn sứ thời lưu đầy, loan báo niềm hy vọng cứu độ và sứ mạng mới của dân Chúa” (Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn nhập Cựu ước, trang 28-29).
(b) Is 40, 1-5.9-11: là sấm ngôn của Đức Chúa về sự thay đổi của Ítraen vì thời gian lưu đầy khốn khổ, bị trừng phạt đã hết, nay đến thời Thiên Chúa bộc lộ vinh quang của Người. Vinh quang là sự xuất diện của Thiên Chúa: “Kìa Thiên Chúa các ngươi! Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền…. Như mục tử, Chúa chăn dắt đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt”
(c) Để đón nhận Thiên Chúa khi Người xuất hiện, dân Ítraen phải thực hiện những điều ngôn sứ kêu gọi là: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ biến thành đồng bằng, chỗ gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu”
(d) Mọi người trong chúng ta đều hiểu ý nghĩa của cách nói đầy hình tượng trên. Đó là việc chuẩn bị cho Chúa đến với mình và đến với tha nhân. Cụ thể là chúng ta được mời gọi thay đổi hay điều chỉnh cách suy nghĩ, hành động, lời nói và lối sống của chúng ta vì chúng làm cản đường, không cho Chúa đến được với chúng ta và người xung quanh. Cản trở lớn nhất vẫn là tội lỗi: tội từ chối Chúa, tội phản bội Tình Thương của Người, tội ham mê của cải, sắc dục, và danh vọng thế gian. Rồi đến lòng ích kỷ, hẹp hòi, thái độ thờ ơ, nguội lạnh là những rào cản không cho Chúa đến với chúng ta, không cho Chúa vào sâu trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
2.2 Bài đọc 2: Tt 2,11-14; 3,4-7: (a) Thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ thân tín là Titô về Niềm Hy Vọng (hay Đức Cậy) Kitô giáo: “Chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.”
(b) Sống trong Niềm Hy Vọng ấy, người tín hữu “phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.” Theo kiểu nói của Isaia là trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ biến thành đồng bằng, chỗ gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.
(c) Ngày hồng phúc mà các Kitô hữu trông chờ là “ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” tức là ngày quang lâm, hay ngày đến lần thứ hai của Người. Nói đến “Chúa Giêsu Kitô đến lần thứ hai” có nghĩa là “Người đã đến lần thứ nhất” ở Bêlem, cách nay 2010 hay 2011 năm (2004 + 6-7 năm tính sai). Và ơn huệ của lần đến lần thứ nhất thật vô cùng lớn lao mà không một ai trong chúng ta có nhận thức đầy đủ: “Khi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, biểu lộ lòng từ bi và nhân ái của Người, Người đã cứu chúng ta, không phải vì chúng ta đã làm những việc công chính, mà là vì Người thương xót. Người cứu chúng ta nhờ Phép Rửa ban ơn tái sinh và đổi mới do Thánh Thần thực hiện. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta.”
(d) Có hai điều quan trọng đáng ghi nhận trong câu nói trên của Thánh Phao-lô: (*) Chúng ta được Thiên Chúa cứu không phải do/nhờ việc làm của chúng ta mà do/nhờ Lòng Thương Xót của Chúa; (**) Thiên Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần trên chúng ta. Hai điều này rất quan trọng vì hai lý do: (*) tự thân, đó là những điều quan trọng và (**) người giáo dân Việt Nam chưa quan tâm đủ đến vai trò của Thánh Thần trong cuộc sống đức tin của mình và còn sống đạo nặng tính “trao đổi mua bán” và “lập công” tức ra sức làm việc lành phúc đức hy sinh hãm mình để được Chúa thương cứu vớt. Thật ra thì chúng ta được Chúa thương yêu cứu vớt không phải do việc lành hay công phúc của chúng ta mà do tình thươngh vô vị lợi của Người. Nhưng chúng ta phải ra sức hy sinh hãm mình, làm việc lành phúc đức để thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Thiên Chúa như một người con hiếu thảo.
2.3 Bài Tin Mừng: Lc 3,15-16.21-22: (a) Là tường thuật của Luca về sự kiện Đức Giêsu Nadarét chịu phép rửa trên dòng sông Giócđan, từ tay Gioan Tiền Hô. Nội dung đoạn Tin Mừng này gồm 2 sự kiện (cũng là ý) chính: (*) Dân Do Thái kéo đến với Gioan Baotixita để chịu phép rửa thể hiện lòng sám hối. Nhiều người còn nghĩ rằng Gioan là chính Đấng Mêsia mà Ítraen đang trông đợi. Nhưng để tránh ngộ nhận và bênh vực chân lý, Gioan đã xác định một cách cương quyết và rõ ràng: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”. (**) Đức Giêsu cũng đến chịu phép rửa như những người khác. Người hòa mình vào dòng người sám hối mà không bị “phát hiện”. Chỉ duy có một mình Thiên Chúa Cha biết Người là AI? Và Thiên Chúa Cha đã vừa muốn khẳng định quan điểm của Ngài về Người vừa muốn giới thiệu Người cho nhân loại: “Đức Giêsu cũng chịu phép rửa và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu. Và có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con.”
(b) “Trời mở ra, Thánh Thần xuống dưới hình chim bồ câu, tiếng nói từ trời”: đó là “những kiểu nói theo đúng quy ước” của Thánh Kinh nhằm diễn tả sự xuất hiện (hay tỏ mình) của Đấng Thần Linh Siêu Việt. Riêng trong trường hợp này thì tiếng nói từ trời có nghĩa là Thiên Chúa Cha tin tưởng, hài lòng về Con Một Người là Đức Giêsu trong cách chọn lựa sống và thi hành sứ vụ.
III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
3.1 Đức Giêsu Kitô liên đới với loài người, nhất là với những người có tội:
(a) Đó là ý nghĩa cốt yếu nhất của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. Nếu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa thì Người là Đấng thánh thiện tuyệt đối, không có một chút thiếu sót hay tội lỗi trước mặt Thiên Chúa và loài người. Người không cần phải sám hối chi cả. Nhưng vì Người đã muốn đồng hóa với loài người là những tội nhân nên Người có quyền chọn cách biểu hiện sự đồng hóa hay tình liên đới ấy. Trong khi xếp hàng chờ được Gioan dìm xuống dòng sông, Đức Giêsu còn đồng hóa mình với những người Do Thái chân chính là những người đang nóng lòng trông đợi Đấng Cứu Tinh đến. Dù rằng chính Người là Chúa Cứu Thế, Đức Giêsu cũng sống liên đới với đồng bào mình trong tâm tình chờ đón Đấng Kitô của Thiên Chúa xuất hiện, để giải thoát dân Người khỏi tội lỗi và tình trạng nô lệ thuộc ngoại bang và đưa họ vào trong mối hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
(b) Cách thể hiện tình liên đới với loài người, đặc biệt là với tội nhân của Đức Giêsu đã làm Chúa Cha hài lòng: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con.” Lời tuyên bố ấy xác định quan điểm của Chúa Cha vừa với Chúa Giêsu vừa với chúng ta. Với Chúa Giêsu, để Người vững tin vào nguồn gốc và sứ mạng của Người. Với chúng ta, để chúng ta tin tưởng và noi theo Chúa Giêsu một cách kiên định.
3.2 Kitô hữu sống tình liên đới với đồng loại, đồng bào, nhất là với những người nghèo hèn, tội lỗi:
(a) Thấu hiểu ý nghĩa của Mầu nhiệm Nhập thể nói chung và của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa nói riêng, các Nghị phụ Công đồng Vatican II đã long trọng công bố tình liên đới của người Kitô hữu với con người trong Hiến Chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Lời Mở đầu, số 1).
(b) Nói cách khác là chúng ta “vui với kẻ vui, buồn với kẻ buồn, cười với người cười, khóc với người khóc”. Đó là nguyên tắc cho cách sống tình liên đới của chúng ta với người xung quanh. Nói cụ thể là chúng ta chia sẻ niềm hân hoan trước những thành công của quê hương đất nước, của đồng bào, trong mọi lãnh vực và tỏ lộ nỗi bức xúc, xấu hổ trước những trì trệ, tội ác hoặc tệ nạn của các tầng lớp xã hội Việt Nam hiện nay.
3.3 Quyết tâm cho tuần lễ này: Tôi và gia đình sẽ tập sống hòa mình và thể hiện tình liên đới và tinh thần trách nhiệm cộng đồng đối với bà con trong khu xóm và trong giáo xứ.
Chủ đề: Chúng ta phải hoàn tất sự tái tạo thế giới mà Chúa Cha đã khởi sự kể từ lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Người xưa có một quan niệm về vũ trụ rất ngộ nghĩnh. Họ chia nó thành ba tầng thế giới chồng: TN 1-C27
Người xưa có một quan niệm về vũ trụ rất ngộ nghĩnh. Họ chia nó thành ba tầng thế giới chồng lên nhau giống như ba tầng bánh “ga tô”. Tầng trên cùng là nơi Chúa ngự được gọi là Trời hay Thiên Đàng. Tầng giữa nơi có loài người sinh sống được gọi là thế giới sinh vật, còn tầng chót là nơi con người sẽ đến sau khi chết, được gọi là âm phủ hay thế giới người chết.
Từ khi Adam, Eva phạm tội, tầng giữa tức thế giới sinh vật càng ngày càng trở nên tồi tệ. Vì thế các thánh nhân đã cầu xin Chúa từ Trời ngự đến cứu giúp trần thế hỗn loạn của họ. Chẳng hạn, tiên tri Isaia đã nài xin Chúa ‘Sao Ngài không xé bẩu trời xuống với chúng con?” (Is 64: 1) và tác giả Thánh vịnh cũng kêu cầu: “Lay Chúa, xin hãy xé bầu trời ra và xuống với chúng con” (Tv 144:5)
Chúng ta phải đọc bài Phúc Âm hôm nay trong bối cảnh này,. Bài Phúc Âm mô tả ba biến cố xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Trước hết, là bầu trời mở ra trên Chúa Giêsu, tiếp đến là một con chim bồ câu từ trời xuống bay lượn trên Chúa Giêsu và trên nước. Và cuối cùng là tiếng nói từ trời thốt ra: “Con là Con Ta rất yêu dấu”. Bây giờ chúng ta hãy xét kỹ hơn từng biến cố một.
Trứơc hết là biến cố bầu trời mở ra trên Chúa Giêsu. Theo những điều đã nói ở phần trên chúng ta có thể hiểu rõ ý nghĩ của biến cố này. Lời cầu xin của các thánh nhân đang được đáp trả. Chúa đã xé bầu trời đến trần gian để chỉnh đốn sự hỗn loạn nơi đây. Nói cách khác, việc Chúa Giêsu xuất hiện và chịu phép rửa nơi sông Giodan (Jordan) đánh dấu bình minh của một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại.
Từ đó chúng ta bước sang xem xét biến cố kế tiếp cũng xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Thần Khí Chúa dưới hình một con chim bồ câu từ tầng trời mở toang bay xuống lượn vòng trên Chúa Giêsu và trên mặt nước. Sự kiện này nhắc ta nhớ lại lúc bắt đầu tạo dựng thế giới Thần khí cũng bay là là trên nước giống như vậy. Sách Sáng Thế đã mô tả giây phút oai nghi ấy như sau: “Từ nguyên thuỷ …. Thần lực Chúa chuyển động trên mặt nước. Đoạn Chúa truyền lệnh: “Hãy có ánh sáng - lập tức ánh sáng liền xuất hiện” (St 1: 1-3). Như thế sách Sáng Thế là nền tảng giúp ta hiểu ý nghĩa biến cố thứ hai này. Chim bồ câu bay lượn trên Chúa Giêsu và trên nước là hình ảnh muốn báo cho chúng ta biết sắp có một cuộc tạo dựng mới xảy ra. Chúa sắp sửa tái tạo và canh tân thế giới chúng ta. Ngài sắp sửa thực hiện lời hứa qua môi miệng tiên tri Isaia; “Ta sắp tạo dựng một trái đất mới, những sự việc đã qua sẽ không còn được nhắc nhở nữa…. Trên trái đất mới này chỉ toàn là sự vui mừng và hạnh phúc” (Is 65: 17-16)
Chúng ta hãy tiếp tục xét đến biến cố thứ ba cũng là biến cố sau cùng xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Bầu trời vừa mở ra thì có chim bồ câu lượn là là trên mặt nước và có tiếng nói từ trơi vọng xuống: “Con là Con Ta yêu dấu”. Ý nghĩa của biến cố thứ ba này thật rõ ràng; Chúa Giêsu được xác nhận là Con Thiên Chúa, là “Adam mới”, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới. Khi bình luận về vai trò của Chúa Giêsu được ví như Adam mới trong cuộc tân tạo. Thánh Phalô đã viết cho các tín hữu Côrintô những dòng sau: “Người thứ nhất tức Adam từ đất mà ra, và thuộc về đất, người thứ hai tức Đức Giêsu từ trời mà đến…. chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất - tức Adam cũ - thế nào, thì chúng ta cũng mang hình ảnh con người bởi trời - tức Adam mới – như thế” (1 Cr 15; 47-49)
Tóm lại, ba biến cố xảy ra ngay khi Chúa Giêsu chịu phép rửa mặc khải cho ta biết ba điều:
Trước hết, bầu trời mở ra nói lên việc Chúa từ trời ngự xuống cõi trần chúng ta.
Thứ đến hình chim bồ câu lượn trên nước và trên Chúa Giêsu diễn tả việc Chúa đang bắt đầu một cuộc tạo dựng mới
Và cuối cùng, tiếng nói vọng ra từ trời nhằm mục đích xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa là “Adam mới” trong cuộc tái tạo này.
Từ đó, chúng ta rút ra kết luận thực tiễn sau đây: Chúng ta là công dân của hai thế giới, nghĩa là chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adam thứ nhất lẫn Adam thứ hai, nên chúng ta chia xẻ sự sống với cả hai vị này. Chúng ta từng cảm nghiệm được sức lôi cuốn về mặt xác thịt của Adam thứ nhất và sự thôi thúc tinh thần của Adam thứ hai. Điều này cắt nghĩa được lý do chúng ta thường bị xâu xé về mặt tâm linh. Vì chúng ta vừa bị lôi cuốn làm điều tốt, đồng thời bị lôi cuốn làm điều xấu. Trong thư gởi tín hữu Rôma, chính thánh Phaolô đã nhắc lại sự xâu xé tâm linh này: “Tôi không làm điều tôi muốn, mà lại làm điều tôi ghét” (Rm 7: 15)
Và như thế bài Phúc Âm hôm nay làm nổi bật hai sự kiện. Sự kiện thứ nhất là cách đây hơn 2.000 năm Thiên Chúa đã xuống trần gian, nơi con người Chúa Giêsu để bắt đầu công cuộc tái tạo. Sự kiện thứ hai mà bài Phúc Âm cho biết là mỗi người chúng ta là một phần trong cuộc tái tạo này. Chúa tái tạo chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa tội bằng cách tháp nhập chúng ta vào thân thể Đức Giêsu, Con Ngài. Tuy nhiên, Chúa giao cho chúng ta trách nhiệm hoàn tất việc tái tạo của riêng chúng ta bằng cách chúng ta cầu nguyện và nhận lãnh bí tích đặc biệt là bí tích Thánh Thể mà trong vài phút nữa chúng ta sẽ chia sẻ cùng nhau. Và cuối cùng, chúng ta nên nhớ rằng chỉ khi nào chúng ta kết hiệp với Chúa Giêsu chúng ta mới có thể gọi Chúa là Cha, và đồng thời chỉ khi nào Thiên Chúa là Cha thực sự của chúng ta. Chúng ta mới được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài
Để kết thúc, chúng ta hãy đọc lại lời thánh Phalô nhắn gởi chúng ta trong bài đọc thứ hai hôm nay;
Trong thế kỷ IV, Ariô truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại: Ariô chủ trương rằng Đức Kitô: TN 1-C28
Trong thế kỷ IV, Ariô truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại: Ariô chủ trương rằng Đức Kitô Giêsu không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đến Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này. Cũng vào lúc ấy Hoàng đế Theôđôsiô phong cho Hoàng tử mười sáu tuổi cùng trị vì trên ngôi Hoàng đế với ông. Trong những khách mời trong buổi lễ phong vương, có Đức Giám Mục Amphilocô,. Đức Giám Mục nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về. Hoàng đế giận dữ hỏi: “Ngài không quan tâm đến Hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta đã phong Hoàng tử cùng trị vì với ta sao? vị Giám mục bình tĩnh trả lời: “Tâu Hoàng Thượng, Hoàng Thượng phật ý vì sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với Hoàng tử vì tôi đã không tỏ ra tôn kính Hoàng tử như bệ hạ sao? Vậy Thiên Chúa nghĩ sao về Hoàng Thượng khi Hoàng Thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và đồng hằng hữu với Thiên Chúa dưới danh hiệu Con Thiên Chúa?
Ngày nay có nhiều người, có cả một số người mệnh danh là Kitô hữu đã chối bỏ hoặc nghi ngờ về thiên tính của Đức Kitô. Những người ấy hãy lắng nghe cha trên trời trong bài tin mừng hôm nay; “Con là con yêu quí của Cha. Cha hài lòng về Con”. Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan đánh dấu khởi đầu công khai công việc của Chúa chúng ta là Đấng Cứu Chuộc.
Công cuộc cứu chuộc là hành động của cả Ba Ngôi Thiên Chúa vì chúng ta thấy Chúa Thánh Linh lấy hình chim bồ câu ngự xuống, chúng ta nghe thấy tiếng của Chúa Cha. Biến cố này rất quan trọng nên chúng ta, những người theo Chúa Kitô mừng lễ Chúa Kitô chịu phép rửa bằng một ngày lễ đặc biệt hôm nay, giống như ngày lễ đăng quang của Đức Giáo hoàng hay ngày lễ nhậm chức của Tổng Thống.
Một điểm đặc biệt trong ngày lễ hôm nay mà tôi muốn nhấn mạnh: đó là Cha trên trời hài lòng về Con yêu qúi của Người, Đức Giêsu. Có người Cha nào lại không vui sướng khi con của ông khởi sự một chức vụ quan trọng: Người cha của một bác sỹ, người cha của Tân Linh Mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình. Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Người khoan dung và khiêm tốn như một người “tôi tớ” được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất, vì thế mà Chúa Cha hài lòng về Người.
Bạn và tôi đã được chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời. Khi chúng ta cố gắng để sống Bí tích Rửa tội, khi chúng ta cố gắng thi hành những việc Chúa Cha mời gọi, khi chúng ta cố gắng theo người Con Chí Thánh trong sự vâng phục, khiêm hạ và ân cần, là chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời của chúng ta.
Hãy chú ý những lần chúng ta thưa trực tiếp với Chúa Cha trong Thánh lễ, hợp lòng hợp ý trong lời kinh Chúa Giêsu đã dạy: “Lạy Cha chúng con… ý Cha thể hiện…”
Ước gì Cha trên trời hài lòng với mọi người trong chúng ta. Amen.
Thánh lễ hôm nay chấm dứt mùa Giáng Sinh, kỷ niệm Chúa tỏ mình ra cho loài người: TN 1-C29
Thánh lễ hôm nay chấm dứt mùa Giáng Sinh, kỷ niệm Chúa tỏ mình ra cho loài người như hai lễ Sinh Nhật và Ba Vua. Theo truyền thống lâu đời, người ta trang hoàng đẹp đẽ giếng rửa tội để gợi nhớ bí tích thanh tẩy nơi mỗi tín hữu. Như vậy, ngày lễ hôm nay liên kết chặt chẽ với phép rửa tội của chúng ta. Nghi thức rẩy nước thánh, do đó, được cử hành long trọng trong thánh lễ. Các bài ca Giáng Sinh vẫn tiếp tục được hát. Hội Thánh kính nhớ Chúa Giêsu xuống sông Giođan để được rửa do tay Gioan Tiền Hô. Các bài đọc mang cùng ý nghĩa và thần tính Chúa Giêsu tỏ lộ rõ ràng công khai - suy rộng ra, chúng cũng nói đến phép rửa của mỗi người và tháp nhập họ vào cộng đoàn những kẻ theo chân Chúa Giêsu.
Như vậy họ đã nhập cuộc với Chúa Giêsu, vật lộn với thế gian, xác thịt và ma quỷ, Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa ăn năn thống hối và cầu khẩn ơn tha tội. Nhưng vì lý do nào mà Chúa Giêsu lại phải lãnh nhận phép rửa đó? Ngài có tội hay sao, hoặc Ngài cầu ơn tha thứ? Cả hai lý do đều không đúng. Phép rửa của đạo Do Thái là một nghi thức thủ tục để dân ngoại cải đạo vào tín ngưỡng Israel. Như thế phép rửa của Gioan mang ý nghĩa khác. Nó xoá bỏ mọi ranh giới, đặc ân và loại trừ trên con đường tiến về Thiên Chúa. Tất cả đều bình đẳng, tất cả đều cần ơn tha thứ, tất cả đều là con cái Thiên Chúa, tất cả đều được thâu nhận vào vòng tay yêu thương của Đức Chúa Trời, tất cả đều có quyền tiếp nhận thiên nhan Đấng tối cao. Cho nên qua phép rửa bởi Gioan, Chúa Giêsu mở ra con đường mới, mạc khải Ngài như người Con Yêu Dấu, đại diện cho tất cả nhân loại, không phải riêng cho tầng lớp, giai cấp, quốc gia, tôn giáo nào.
Vậy thì Chúa Giêsu đánh giá ra sao não trạng cục bộ của chúng ta? Những thái độ quá khích tôn giáo, bè phái, chính trị, dòng triều, bành trướng, loại trừ, khoảng cách giàu nghèo, hố sâu văn hoá, phong tục, tập quán? Người giàu khinh bỉ kẻ nghèo, da trắng tẩy chay da màu, các nước giàu bỏ qua những quan tâm, nhu cầu của các quốc gia chậm phát triển, đảng phái tranh giành quyền lực, thay vì thăng tiến điều kiện sống của công dân? Câu trả lời chắc chắn là Chúa Giêsu đã dìm mình xuống nước để gánh lấy tội lỗi nhân loại, liên đới với chúng ta, nên một với loài người, nhất là những người không có nhân phẩm, bị chà đạp, không có tiếng nói. Ngài hạ mình để chúng ta được nâng lên, biết sống thánh thiện như những người con đẹp lòng Cha Ngài. Mọi linh hồn đều là quý trước mặt Cha, nhưng tội lỗi đã cướp mất danh hiệu cao sang đó. Ngài lên khỏi nước và Thánh Thần tuyên bố Ngài là Đấng được Chúa Cha chọn lựa và sai đi rao giảng mầu nhiệm Nước Trời, chữa lành bệnh tật và hàn gắn những chia rẻ. Thần Khí của Ngài sẽ được ban cho tất cả những kẻ chấp nhận Ngài và khởi sự bừng cháy trong tâm hồn như Gioan tiên báo. Đúng như vậy, nhưng không như Gioan dự kiến, lửa của Ngài thiêu đốt và tẩy sạch. Tinh thần của Ngài đủ nóng để làm tan rã tất cả những bức tường ngăn cách giữa các cá nhân, dân tộc, quốc gia và quốc tế. Nó đánh tan mọi băng giá trong các quan hệ riêng tư, xã hội để chúng ta xây dựng đoàn kết và tha thứ. Nó củng cố trái tim con người để dấn thân thương yêu, bác ái, chống chiến tranh, nghèo đói, vô gia cư, áp bức và tất cả những gì làm thế giới đông cứng, lạnh lẽo.
Đọc kỹ Tin Mừng chúng ta dễ dàng nhận ra một nét thay đổi giữa lời loan báo của thánh Gioan Tiền Hô và phong cách thực sự của Chúa Giêsu. Ơ phần thứ nhất, giọng điệu của thánh Gioan rất mạnh mẽ. Ông chẳng giống ai, ăn vận lôi thôi lếch thếch, lời rao giảng như lửa, kích động người ta ăn năn thống hối và mong chờ. Thiên hạ tưởng chừng ông là Đấng Thiên Sai phải đến để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ đế quốc Rôma: “Hồi đó, dân đang trông đợi, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: Biết đâu ông Gioan chẳng là đấng Mêsia?” Ông Gioan chối phắc và nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi quay dép cho Ngài. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”. Trong Thánh Kinh, lửa mang hình ảnh mạnh mẽ. Lửa thời Môsê đốt cháy bụi gai mà không làm thiệt hại. Lửa thanh luyện con người, tâm hồn, trí tuệ, tư tưởng và ước muốn. Phần lược bỏ Phúc Âm hôm nay, thánh Gioan loan báo Chúa Giêsu dùng lửa để loại thóc lép ra khỏi thóc mẩy: “Tay Người cầm nia, rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thì thu vào kho lẫm. Còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (3,17). Nghĩa là những điều gian ác sẽ bị tiêu diệt, điều lành thánh thì giữ lại. Thánh nhân không nói về cá nhân mà thôi, nhưng còn về cộng đồng, quốc gia, toàn cầu. Hình ảnh thánh nhân dùng rất mạnh, thính giả nghe ông giảng có thể tưởng tượng ngọn lửa đang cháy răng rắc trong tâm hồn. Họ sợ hãi nghe ông kéo nhau xuống sông để chịu phép rửa thống hối. Tuy nhiên nếu sử dụng sai, lửa sẽ gây tác hại khủng khiếp như những nhóm quá khích chúng ta thấy trên thế giới hiện nay. Vậy hãy cầu xin cho ngọn lửa chân thật thiêu đốt trái tim giá lạnh của chúng ta, hun nóng đức tin ươn lười của các tín hữu, ban tinh thần sốt sắng cho các buổi cầu kinh phụng vụ tẻ nhạt, chiếu lệ.
Lửa thật sự đã xuất hiện, nhưng không phải như Gioan dự kiến. Ngài âm thầm tiến tới ông Gioan xin lãnh phép rửa. Thánh Luca tường thuật biến cố này như một ý nghĩ phụ: “Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa và đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra.” Không kèn, không trống, không sấm sét, mây mù như mỗi khi Thiên Chúa xuất hiện trong Cựu ước. Ngài yên lặng bước xuống nước sau hết, tức khi mọi người đã xưng thú tội lỗi mình và chịu phép rửa. Ngài hoàn toàn mang dáng dấp của một linh hồn bình thường, đơn sơ và cầu nguyện chăm chỉ. Chúng ta đã gặp thấy mẫu người này trong Dacaria, Elisabeth, cụ già Simêon, bà Anna, Giuse và Đức Mẹ. Họ miệt mài cầu nguyện trong đền thờ, ăn chay. Họ sống thinh lặng và đựơc Thánh Linh dạy dỗ.
Có nhiều giải thích về ý nghĩa Chúa Giêsu chịu phép rửa. Ý kiến thứ nhất cho rằng Ngài bày tỏ cảm thức mạnh mẽ về tội lỗi và hiệu quả ghê gớm của nó trên số phận con người. Ý kiến thứ hai, Chúa Giêsu cho hay Thiên Chúa tán thành sứ vụ của Gioan trong dân Do Thái. Ý kiến thứ ba Chúa Giêsu tỏ dấu hiệu liên đới với những tâm hồn sống ngoài lề luật. Cái chết của Ngài cứu họ thoát khỏi nô lệ tội lỗi (trong cuộc thương khó Chúa Giêsu đã gọi cái chết của Ngài là một phép rửa). Ý kiến thứ tư, tin rằng Chúa Giêsu là môn đệ của Gioan Tẩy Giả và khi nhận phép rửa, Chúa Giêsu khởi sự sứ mệnh mới. Phép rửa là bước thứ nhất độc lập khỏi ảnh hưởng của Gioan và ra đi giảng đạo riêng. Phần tôi, tôi nghĩ rằng Chúa Giêsu dìm mình trong cùng một dòng nước thiên hạ đã để lại. Ngài thấm ướt bằng chất nước đã đụng chạm tới người ta và tất cả những thứ người ta bỏ lại sau phép rửa của mình. Những thứ chi người ta đã mang xuống sông Giođan? Tôi nghĩ không chỉ tội lỗi, mà còn nhiều thứ khác: Các nỗi đau của cuộc sống, các vật lộn chống lại cái xấu chung quanh mình, những đam mê tiền bạc, sắc dục, những áp bức bất công, khủng bố và những lo sợ hàng ngày! Điều chi làm trái tim họ nặng nề khi bước chân xuống nước? Liệu họ có tin tưởng Thiên Chúa cứu giúp mình thoát khỏi các rắc rối của cuộc sống hiện tại và tương lai không? Đời sống thật lắm nhiêu khê không sao tránh khỏi hoặc lường trước được: Già cả, bệnh tật, tai ương, chết chóc, chiến tranh, hận thù, vu khống. Nghèo cũng là cái khổ, không đủ cơm cho con ăn, không đủ thuốc uống cho mẹ già, không học phí cho con cái, mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ? Chạy cơm gạo ngày hai bữa chưa xong thì còn tâm trí đâu lo việc Nhà Chúa? Làm sao thờ phượng Chúa cho nên? Làm sao tưởng nghĩ về Ngài cho nghiêm chỉnh? Tôi giả dụ, cộng đoàn giáo xứ chúng ta hôm nay cũng bước xuống sông Giođan, chúng ta sẽ có cảm nghĩ thế nào? Mang theo những gì? Liệu chúng ta ước ao Chúa xuống nước với mình? Liên đới với những nhọc nhằn khó khăn trong từng gia đình! Tư tưởng thật lạ lùng, nhưng rất thực tế. Chắc hẳn chúng ta muốn Chúa gánh chịu những nặng nề của kiếp sống trần gian: Đau khổ, bệnh tật, đói nghèo, kỳ thị. Chúa Giêsu không ở xa nhân loại, phán xét từ trên cao - Ngài đã hạ mình cùng loài người, sống kiếp lầm than, gánh chịu lỗi lầm, đả kích và cả đến cái chết nhục nhã tức tưởi như một phạm nhân xấu xa nhất, là để tập hợp chúng ta đợi chờ Thánh Thần và lửa.
Trong Phúc Âm thánh Luca có hai đề tài yêu thích: Chúa Thánh Linh và Cầu Nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện trong những giờ phút quan trọng, như khi chọn các tông đồ, biến hình, trong vườn cây dầu… hôm nay Ngài cầu nguyện để được Chúa Thánh Linh. Ngài hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Chúa Cha trong ý hướng, mục tiêu, sứ vụ và kết thúc đời mình qua Chúa Thánh Thần. Cho nên không lạ gì Chúa Ngôi Ba đã được loan báo trong ngày sinh nhật của Gioan Tiền Hô (1,15). Đức Mẹ mang thai (1,35). Bà Elisabeth ca ngợi lòng tin của Đức Maria (1,41). Thánh Linh thúc đẩy cụ Simêon và bà Anna đến gặp Chúa trong đền thờ Giêrusalem. Thật lạ lùng, hôm nay thánh Luca kết hợp hai đề tài đó trong biến cố Chúa chịu phép rửa: “Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, rồi đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu”. Ở đây thánh nhân cũng giúp luôn độc giả liên tưởng đến chim bồ câu trong tàu ông Noe (St 8,11) khởi sự một trật tự mới của thế gian. Liền sau đó thánh Luca kể: “Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, Người chạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con Giuse” (3,23). Như vậy Thánh Linh đã làm việc toàn thời gian với Chúa Giêsu vì phần rỗi nhân loại. Không cầu nguyện, không xin Thánh Linh, liệu chúng ta có thể sống đời tín hữu đích thực không? Đừng nói chi tu trì, dâng hiến. Thật đáng nghi ngờ những nếp sống không siêng năng, nghiêm chỉnh cầu nguyện. Trong Giáo Hội vai trò của Đức Thánh Linh thật đa dạng, khó mà hệ thống hoá được. Nó bàng bạc, muôn màu muôn vẻ trong Tông đồ công vụ và Phúc Âm thánh Luca. Hai tác phẩm của cùng một người viết. Nhưng tựu trung Thiên Chúa hành động vì phần rỗi loài người. Trong kinh Magnificat của Đức Maria, với Chúa Giêsu sắp sinh ra và quyền năng Chúa Thánh Thần, thế giới tội lỗi với những sinh hoạt, các tiêu chuẩn, các bảo đảm, các đường lối suy nghĩ, hành động, sẽ bị đổ nhào. Quyền lực thế gian khi nghe Chúa Giêsu rao giảng đã giận điên lên và cố gắng dập tắt Chúa Thánh Linh. Họ thành công tạm thời: Giết được Gioan và đóng đinh Chúa Giêsu. Tuy nhiên thành công đó không bền. Họ chẳng thể nào ngăn cản được hoạt động của Thiên Chúa. Thánh Linh của Ngài không thể bị ngăn cản, loại trừ.
Làm thế nào biết được như vậy? Chúa Giêsu lặng lẽ nhập cuộc hôm nay cho chúng ta một bảo đảm. Dĩ nhiên trong lịch sử tuyển dân, Thiên Chúa đã từng ra tay oai hùng, làm những việc kỳ diệu. Nhưng nếu chúng ta trông đợi như vậy, chắc chắn sẽ thất vọng. Chúa Giêsu khởi sự sứ mệnh như một kẻ vô danh, thậm chí đám đông đầy lòng đợi trông cũng không thể nhận ra. Tiếng từ trời phán chỉ Ngài nghe thấy, còn đám đông chẳng cảm thấy chi. Bởi lẽ loài người cần ơn Thánh Linh như lửa thiêu, để đốt cháy những tấm màn che phủ đôi mắt, thanh luyện tâm hồn, ngõ hầu nhìn thấy Chúa đang đi vào từng cuộc đời tin kính - những linh hồn lành thánh, biết thờ phượng Đức Chúa Trời cho phải đạo - nhất là những tấm lòng khiêm cung, nghèo khó. Xin Chúa cho chúng ta nhập hàng ngũ với ho, để được Ngài hướng dẫn, thánh hoá, và yêu thương. Amen.
*** Chúng ta chỉ là chứng nhân của Chúa Giêsu, không phải là kẻ thay thế Ngài. Chính Ngài hoạt động, chúng ta là dụng cụ.
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa - Chọn Tên Gọi & Chọn Tên Thánh.
Phụng vụ lời Chúa của Chủ Nhật hôm nay đánh dấu cuộc đời công khai của Chúa Cứu Thế. Đúng: TN 1-C30
Phụng vụ lời Chúa của Chủ Nhật hôm nay đánh dấu cuộc đời công khai của Chúa Cứu Thế. Đúng ra Ngài đâu cần phải lãnh nhận phép rửa của Gioan, nhưng Chúa Giêsu muốn làm gương cho chúng ta, vì Ngài đã gia nhập vào một gia đình của nhân loại cho nên Ngài muốn làm gương cho nhân loại, phương châm của chúng ta có câu:"Nhập gia tùy tục".
Qua việc Chúa chịu phép rửa hôm nay, cũng nhắc nhở mỗi người trong chúng ta về ơn phép rửa tội của mình. Chúng ta đã được tái sinh để trở nên người mới, trở nên con cái Thiên Chúa.
Qua bí tích rửa tội, mỗi người trong chúng ta đã trở nên người mới, qua những tác động thống hối, những tâm tình yêu mến. Để được như thế, điều đòi buộc mỗi người là phải chết đi cho tội lỗi, chết cho những khuynh hướng xấu của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Hôm nay, dường như GH Mẹ Thánh cũng muốn nhắc nhở con cái nhớ lại phép rửa tội của chính mình mà tăng cường đức tin. Trước kia, cha mẹ đỡ đầu đã thay mặt chúng ta để thề hứa sẽ theo Chúa trọn vẹn và giữ luật Chúa tận tình. Rồi, khi chúng ta có trí khôn, nhất là khi chịu phép Thêm Sức, chính chúng ta đã lập lại lời hứa nầy với tất cả ý thức. Cả cuộc đời của chúng ta là thực hiện lời hứa ban đầu. Ơn Chúa sẵn sàng giúp sức cho chúng ta thực hiện lời hứa ấy. Đôi khi trong thực tế, thực hiện lời hứa phải thiệt thòi, nhưng tâm hồn chúng ta sẽ được thư thái vì được đầy tràn ân sủng của Chúa.
Nhân ngày lễ hôm nay, một vấn đề khác cũng khá thực tế trong cuộc sống liên quan đến vấn đề ‘Chọn Tên Gọi’ và ‘Tên Thánh’ cho con cái trước khi chúng được sinh ra và khi Rửa Tội.
Ngày nay, trước khi con cái được sinh ra, các cha mẹ trẻ thường tìm đọc những sách báo về lịch sử các tên gọi trên thế giới để chọn một tên rất đặc biệt cho con của mình trong tương lai... Ngay cả những lúc chưa biết là sẽ sinh con trai hay con gái thì chọn cả hai tên: trai và gái. Chừng nào.... bác sĩ cho biết chắc chắn là… thì sẽ bỏ một chọn một… hay là vẫn ghi giữ lại cho đứa con kế tiếp như lòng mong ước…
Ngày xưa thì cha mẹ đặt tên cho con thì sợ trùng vào tên của ông bà cô bác trong họ hàng cả bên nội lẫn bên ngoại. Nếu trùng tên của ai đó trong bậc ông bà cô bác lớn tuổi thì sẽ bị cho là “Vô Lễ”. Nếu chẳng may “Lỡ Đặt” rồi mà vì vô tình không biết, sau đó mới khám phá ra thì phải gọi “Trại” tên của đứa con bằng một danh xưng khác như… Tý, Tèo, Cái, Đẹt, Út Một, Út Hai… Nhiều lúc những tên gọi “Trại” để né tránh nầy đứa trẻ phải mang theo suốt cả đời…
Những tên như Tý, Tèo, Cái, Năm, Bảy, Mười… Út… dường như đã biến mất trong thế giới hôm nay và được thay thế bằng những tên nổi tiếng trong giới Minh Tinh Màn Bạc, Ca Sĩ, Thể Thao, Nghệ Sĩ, Người Siêu Mẫu….
Ngoài những tên trong thế giới trên, đôi lúc được một số cha mẹ si mê ái mộ đã chọn và đặt cho con cái của mình khi sinh ra, còn một thực tế khác cũng cần chúng ta suy nghĩ hôm nay. Đó là TÊN THÁNH đặt cho con cái trong ngày được rửa tội đã phần nào bị lãng quên. Vì thông thường phải chọn tên của một vị thánh để đặt cho con trong ngày được rửa tội thì cha mẹ lại quên sót.
Đôi lúc trong thời đại mới nầy, người ta coi thường trong việc chọn tên một vị Thánh để đặt cho đứa bé trước khi rửa tội hay Thêm Sức. Có những người, khi được hỏi là có cần một tên thánh đặt cho đứa bé khi rửa tội hay không? Có những vị đã trả lời một cách thẳng thừng là không cần thiết.
Trong Thẻ Thêm Sức - Confirmation Card - Ngay trên hàng đầu của tấm thẻ nầy, một khoảng trống cần phải điền vào là: “Tên Gọi - hiểu là tên Thánh - khi chịu phép Thêm Sức - Confirmation Name.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, xin cho những nơi mà chúng con hiện diện qua giao tế hằng ngày như: nơi xưởng thợ, ngoài cánh đồng, nơi học đường, hoặc giữa gia đình, mọi người sẽ khám phá nơi chúng con là những chứng nhân của ơn phép rửa tội. Xin cho những ước vọng đặt để nơi con cái khi chọn cho chúng một tên gọi trước khi sinh ra, cũng phải tiềm tàng trong ước vọng của những bậc làm cha mẹ là mong sao cho con cái được nên trọn lành thánh thiện như là vị thánh mà chúng con chọn cho con cái trong ngày chúng được Rửa Tội hay Thêm Sức.
Khi nói đến Phép Rửa là chúng ta liên tưởng đến Nước. Nước được sử dụng trong công việc hằng ngày: TN 1-C31
Khi nói đến Phép Rửa là chúng ta liên tưởng đến Nước. Nước được sử dụng trong công việc hằng ngày như để tắm, giặt quần áo, nấu ăn, nhất là để uống. Cây cỏ và súc vật cũng cần đến nước để sống. Như vậy Nước là sự sống của vạn vật. Nước được dùng trong bí tích Rửa Tội để diễn tả việc thanh tẩy tội lỗi.
Bí tích Rửa Tội là cửa ngõ dẫn con người vào Giáo Hội. Bí tích Rửa Tội không những tha tội Nguyên Tổ mà còn tha những tội riêng đã phạm khi người trưởng thành lãnh nhận. Điều quan trọng hơn nữa là ta trở nên con Chúa. Bí tích Rửa Tội biến đổi con người tội lỗi trở nên trong trắng thánh thiện, một tạo vật mới.
Thánh Gioan được vinh dự làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã khiêm nhượng nhận mình không đáng cởi dây giầy cho Đấng đến sau. Gioan đã hạ mình xuống để cho Chúa được nâng lên. Còn chúng ta thì sao? Nếu có dịp được khoe khoang thì chắc chúng ta sẽ vênh vang coi thiên hạ như rác rưởi, và ngay cả Thiên Chúa chúng ta cũng không coi ra gì.
Môi sen bước xuống nước (Biển Đỏ) để dẫn dân Do Thái về đất hứa. Chúa Giêsu bước xuống nước (sông Gio Đan) để công khai rao giảng Tin Mừng dẫn nhân loại về Thiên Đàng. Vì chính Chúa đã nói: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Nếu chúng ta đi theo đường Chúa đã vạch ra thì không sợ lạc và chắc chắn sẽ tới đích là Thiên Quốc.
Gioan làm Phép Rửa bằng Nước, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để được cứu rỗi. Chúa Giêsu đã dùng Máu của Ngài để tẩy rửa tội lỗi cho nhân loại. Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được hiệp thông vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, được thanh tẩy bởi Máu Thánh và được nuôi dưỡng bằng Thịt và Máu của Ngài trong bí tích Thánh Thể.
Trong mỗi Thánh Lễ, bánh và rượu biến đổi nên Mình Máu Chúa để rồi được chia ra cho mọi người. Chúng ta có biến đổi nên giống Chúa Kitô hơn mỗi khi nhận Mình Máu Chúa và can đảm phân phát Tin Mừng cho người khác như Thánh Gioan đã can đảm rao giảng nước trời, và can đảm nói lên sự thật để rồi phải chịu chém đầu, hay chúng ta ru rú như con dán ngày không dám ló mặt ra ngoài vì sợ cười chê, và cũng không hề biến đổi mặc dầu mang danh là người có đạo mấy chục năm rồi?
Ta tìm Chúa hay Chúa tìm ta? "Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1, 23). Đó là câu Phúc Âm chúng ta mới nghe trong Lễ Giáng Sinh. "Thiên Chúa ở cùng chúng ta": Emmanuel. Hôm nay Chúa đến với Gioan và ở giữa đám đông quần chúng. Chúa đến thế gian để tìm chúng ta và đưa chúng ta về với Chúa. Chúng ta không phải mất tiền của thì giờ để tìm Chúa, vì Chúa đang ở giữa chúng ta. Hãy mở lòng đón nhận Chúa, hãy từ bỏ những thói hư tật xấu để tập những nhân đức tốt lành. Đừng chần chờ nữa vì Chúa đang dang tay chờ đón, dù có tội lỗi thế nào chăng nữa Máu Chúa cũng tẩy sạch mọi vết nhơ của ta.
Lạy Chúa, qua bí tích Rửa Tội Chúa đã biến đổi con nên một con người mới, xin cho con biết luôn đổi mới để trở nên tốt lành hơn mỗi ngày.
Ngôi nhà thờ Đức Bà Cả tại một tỉnh nhỏ đã xây xong, chỉ còn cây Thánh Giá trên chóp đỉnh ngọn: TN 1-C32
Ngôi nhà thờ Đức Bà Cả tại một tỉnh nhỏ đã xây xong, chỉ còn cây Thánh Giá trên chóp đỉnh ngọn tháp chưa hoàn tất. Nhưng dàn ráo không cao đủ. Thấy vậy, một người thợ to lớn vạn vỡ tình nguyện kiệu người thợ hàn trên vai để anh cho thể hàn cây Thánh Giá lên ngọn tháp. Mọi người nín thở đứng dưới nhìn và cuối cùng công việc đã hoàn tất tốt đẹp. Người thợ hàn nhảy xuống khỏi vai người kiệu mình. Rồi người thợ ấy cũng trèo xuống một cách chậm chạp. Khi xuống tới mặt đất, anh cởi áo ra và ôi chao hai vai cũng như cánh tay anh bị phỏng đỏ lừ. Tại vị khi gắn cây Thập Giá thì cây thiếc hàn chảy ra và rớt xuống từng giọt trên vai và hai cánh tay anh thợ cõng. Dù bị phỏng đau đớn, anh cũng không nhúc nhích vì khi nhúc nhích có thể làm anh thợ hàn bị té chết. Phải mất hai tuần lễ sau những vết phỏng trên cánh tay anh mới lành lặn hẳn.
Hôm nay chúng ta cũng gặp một người can đảm và hy sinh không kém anh thợ vạm vỡ là thánh Gioan Tiền Hô. Vì Chúa Cứu Thế mà thánh Gioan mặc áo lông cừu, ăn châu chấu rừng, ra trước công chúng và tuyên bố: "Này Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" và đã không ngớt chỉ trích vua Herode đã phá luật công chính. Ngài thẳng thắn phản đối đến bị lụy vào thân và cuối cùng đã bị chặt đầu vì công lý. Sứ mạng của Ngài là loan báo Đấng Thiên Sai, là làm cho Chúa Giêsu được mọi người biết đến, và tôn nhận Ngài là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi.
Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng về Chúa như thế trước một xã hội không sống theo công lý, không sống công bình: Loạn luân, loạn tình loạn ý, giết hại con trẻ, đồng tình luyến ai, giết êm...
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai. Ngài truyền cho Gioan làm phép rửa cho Ngài. Đây là một phép thống hối giúp ta nhớ đến Phép Rửa tội được Chúa Kitô mời gọi gia nhập Giáo Hội Chúa, mời gọi ta trở thành tông đồ loan truyền Chúa Kitô cho muôn dân nhận biết. Ngài là Đấng Cứu Độ bằng cây Thập Giá, bằng cách sống đạo đức thánh thiện, bằng cách sống đúng tinh thần Chúa, bằng cách chia sẻ tình thân...... Lòng bác ái của chính cuộc sống Chúa cho người khác và cầu nguyện cho chính Chúa được mọi người nhận biết. Đây chính là lúc mà Chúa Giêsu đã chờ đợi cho mọi người nhận biết sự yếu đuối của mình và cần đến sức mạnh của trời cao. Chúa Giêsu không thể đi vào cuộc sống của chúng ta để biến đổi, nhưng cho tới khi chúng tá biết lỗi của mình và cần đến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện để có thể nhận biết và chấp nhận Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp để biến đổi cuộc sống này trở thành một cuộc sống hạnh phúc và bình an. (1.2004).
Hồi thế kỷ IV, Ariô, một ông vua đã dám lợi dụng uy thế của ông trong suốt triều đại trên ngôi vị: TN 1-C33
Hồi thế kỷ IV, Ariô, một ông vua đã dám lợi dụng uy thế của ông trong suốt triều đại trên ngôi vị Hoàng Đế, để truyền bá một lạc thuyết độc hại này là: "Đức Giêsu Kitô không phải là Con Thật của Thiên Chúa". Sau khi băng hà, Thái Tử Theodosiô lên ngôi thế vị vua cha, cũng lại nỗ lực cổ võ và thổi phồng cái tà thuyết lầm lạc của Ariô... Thế rồi, vào dịp Hoàng Đế Theodosiô truyền mở cuộc tiếp tân rất long trọng mừng sinh nhật thứ 16 của Thái Tử Acadiô, Hoàng Đế Theodosiô rất cưng Thái Tử của ông, đến nỗi ông đã đặt Thái Tử ngự trị trên ngai vàng, như một vị Tân Vương, đồng trị nước với ông, và coi Thái Tử như một người bạn đồng hàng.
Trong các thượng khách dự tiệc, có một vị Giám Mục rất thời danh, đó là Đức Cha Anphilocô, sau khi dâng đôi lời chúc mừng, ngài sửa soạn ra về; thì lập tức Hoàng Đế Theodosiô bầng bầng nổi cơn lôi đình, giận dữ quát lớn tiếng với Đức Giám Mục: "Người không chú trọng gì đến Thái Tử cưng yêu của trẫm sao? Ngươi không biết rằng, trẫm đã đặt Thái Tử lên, như người bạn ngang hàng đồng trị nước với trẫm sao?"
Đức Giám Mục đã anh dũng đáp lại: "Tâu Hoàng Đế, ngài tỏ ra phẫn nộ về sự thiếu sót bên ngoài của tôi đối với Thái Tử quí yêu của ngài; bởi tôi đã tỏ ra không tôn trọng Thái Tử như tôi đã kính trọng ngài. Vậy thưa ngài, Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu và toàn năng sẽ phải có thái độ nào đối với ngài, khi ngài đã dám hạ bệ, dám thóa mạ phẩm giá Đức Giêsu Kitô, là Con Một Yêu Dấu, đồng hằng hữu, đồng quyền năng, đồng cấp bậc với Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa chân thật?"
I. CHÚA CHA TUYÊN DƯƠNG CON MỘT NGƯỜI
Hôm nay, nhân ngày mừng kính Mầu Nhiệm Chúa Kitô chịu Phép Rửa, Giáo Hội trưng lại bài sách tiên tri Isaia, lời Thiên Chúa Cha tuyên xưng Con Một Yêu Dấu của Người: "Này là Tôi Tớ mà Ta nâng đỡ, là Người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về Người. Ta ban thần trí Ta trên Người..." Và sau khi ca ngợi lòng nhân từ dịu hiền và trung thành của Chúa Con, Chúa Cha đã tiếp lời tuyên dương: "Ta đặt Con làm giao ước của dân và nên ánh sáng của muôn dân, để Con mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong bóng tối tăm!" (xem Is 42:1-4, 6-7)
Thánh Phaolô cũng đã cao lời tuyên xưng: "Chúa Giêsu thành Nazareth, là Đấng Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng của Ngài mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỉ ám, bởi vì Thiên Chúa hiển ngự nơi Người" (xem Act 10:38).
Mầu Nhiệm Chúa chịu Phép Rửa nêu cho chúng ta thấy tấm gương vô cùng khiêm nhu của Chúa Cứu Thế, Đấng là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, là Con Một Duy Nhất, Chúa Cha sai đến cứu chuộc trần gian, đã không nệ nhập thể, mặc lấy thân phận tôi đòi, đến chịu Phép Rửa bởi Gioan tại sông Jordan như một tội nhân.
Người càng hạ mình xuống, thì Chúa Cha càng tôn vinh Người, nên khi Người vừa ra khỏi nước, các tầng trời liền mở ra và Thánh Thần như hình Chim Bồ Câu ngự xuống trên Người, tấn phong cho Người và tiếng Chúa Cha từ trời tuyên phán: "Con là Con Yêu Dấu của Cha, Con hằng đẹp lòng Cha" (xem Mc 1:11).
II. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ
Hiện trạng của thế giới hôm nay, một chủ thuyết độc hại và nham hiểm nhất là thuyết vô thần, họ chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, chối bỏ Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian và còn biết bao triết thuyết độc hại khác nữa cùng toa rập, trực tiếp hoặc gián tiếp xóa bỏ niềm tin, chối từ tôn giáo; đặt khoa học, đặt tự do và vật chất lên hàng đầu, vượt trên hết tất cả, không khác gì Ariô và Theodosiô, bọn họ đã nỗ lực cổ võ dùng mọi mánh khóe xảo quyệt cách khoa học, để chối bỏ Thiên Chúa, loại bỏ Ngài ra khỏi đời sống con người, tạo nên biết bao đồi phong bại tục như ly dị, phá thai, đồng tính luyến ái, hôn nhân bất hợp pháp; thêm vào đó, còn biết bao sách báo, phim ảnh, màn kịch vô luân, tục hóa tôn giáo: Nào bộ phim the Last Temptation, nhằm xóa nhòa thiên tính Chúa Kitô và kết tội Ngài vô luân, bộ phim Hail Mary nhằm thóa mạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, bộ phim Monsignors, nhằm bôi xấu Giáo Hội Công Giáo...
Mừng Lễ Chúa chịu Phép Rửa, chúng ta cùng nhau dâng lời cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã ban chúng ta, nhất là đặc ân chúng ta đã được trở nên con cái Chúa do việc lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy.
Với danh hiệu là Kitô Hữu, là con cái Thiên Chúa, là người mang Chúa Kitô trong bản thân, người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta hãy tự hồi tâm kiểm điểm, chúng ta đã sống thế nào để cân xứng với danh hiệu diễm phúc ấy? Tha nhân đã thực sự thấy hình ảnh Chúa Kitô, tinh thần Chúa Kitô, giáo lý Chúa Kitô hiển hiện nơi cuộc sống và cách cư xử của chúng ta, khiến tha nhân sinh lòng cảm phục và noi theo bắt chước chúng ta chưa?
KẾT LUẬN
Gioan khi chu toàn sứ mạng là Tiền Hô của Chúa Cứu Thế, đã khiêm tốn tuyên xưng trước mọi người: "Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền năng hơn tôi, tôi không xứng đáng quì xuống cổi giây giầy cho Người!" (Mt 3:11) Trong mọi dịp, ngài luôn đề cao Đấng đã sai ngài, còn ngài thì, luôn ẩn mình đi, che dấu mình đi, trong một châm ngôn bất hủ: "Người cần phải được trổi lên, còn tôi phải hạ xuống!" (Jn 3:30)
Còn chúng ta, chúng ta đã làm thế nào khi chúng ta thi hành Sứ Mạng Tông Đồ, rao giảng và trao ban Chúa Kitô cho các linh hồn?
Khi Chúa Giêsu dìm mình dưới dòng sông Giođan, là lúc các tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần xuất: TN 1-C34
Khi Chúa Giêsu dìm mình dưới dòng sông Giođan, là lúc các tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần xuất hiện, và Chúa Cha lên tiếng. Một cuộc hiển lộ công khai giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người: “Vậy khi tất cả dân chúng chịu phép rửa, và chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Luc 3: 21-22).
Gioan làm phép rửa bên dòng sông Giođan, nhưng chắc chắn một điều là nước sông Giođan không thể rửa sạch tội khiên của những người được rửa. Nước sông ấy cũng không thay đổi gì đối với Chúa Giêsu, Đấng vô tội và là Con Thiên Chúa, vì thế, Gioan đã ngần ngại không dám rửa cho Ngài: “Chính tôi cần được Ngài rửa cho, tại sao Ngài lại đến với tôi” (Mt 3:14). Nhưng Chúa Giêsu đã nói với Gioan rằng Ngài cần phải hoàn tất mọi lề luật, trong đó có phép rửa của chính ông: “Hãy cứ làm như thế bây giờ, vì chúng ta cần phải chu toàn mọi điều Thiên Chúa truyền dậy” (Mt 3:15). Chính do thái độ Ngài khiêm tốn chấp nhận phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu đã làm Chúa Cha vui lòng. Hành động ấy còn mang một ý nghĩa khác, đó là phép rửa mà Ngài sẽ thiết lập sau này.
“Con là Con yêu dấu Cha, Con đẹp lòng Cha” (Lc 3:22). Chúa Cha đã tặng Chúa Con một lời khen bao gồm tất cả mọi vẻ đẹp với một ý nghĩa bao trùm vạn vật, vũ trụ. Đọc Thánh Luca, ta có cảm tưởng như Chúa Con đang đứng đó, giữa tâm điểm của vũ trụ, núi sông hùng vỹ, và giữa thanh thiên, bạch nhật, tiếng Chúa Cha đã vang dội đất trời với sự chứng giám của Thánh Thần. Thiên Chúa Ba Ngôi đã xuất hiện, nhận lấy nhân loại qua từng thời đại được tái sinh trong bí tích Rửa Tội, và hài lòng về công trình sáng tạo cũng như cứu chuộc và thánh hóa của mình: “Con là Con yêu dấu Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Dòng sông Giođan, do đó, là biểu tượng cho một dòng sông tình thương đổ vào biển cả tình yêu Thiên Chúa. Dòng sông đưa nhân loại về với Thiên Chúa, với vĩnh hằng. Nó cũng chính là Đức Kitô, Đấng Thiên Sai.
Nước sông Giođan, vì thế cũng chỉ là biểu tượng cho ân sủng tràn đầy mà Chúa Cha muốn chuyển lưu vào tâm hồn con người. Cùng với ơn thánh hóa của Thánh Thần, tình yêu Thiên Chúa sẽ cuốn trôi quá khứ tội lỗi của con người, và làm bừng lên sức sống mới một cách dồi dào, phong phú. Nước ấy cũng là biểu tượng cho những giọt mồ hôi Con Thiên Chúa sẽ phải đổ ra trên hành trình truyền giáo trong khi chinh phục các tâm hồn. Nó còn là hình bóng những giọt mồ hôi hòa máu qua cơn hấp hối khi Ngài gánh lấy tội thiên hạ trong vườn Cây Dầu. Và là tượng trưng những giọt nước đổ ra từ cạnh sườn Ngài trên thập giá. Trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã khai mở thượng nguồn con sông tình yêu và xót thương mà trải qua mọi thời đại, tất cả những ai dìm mình dưới dòng sông ấy đều được rửa sạch, thánh hóa, và được Chúa Cha yêu thương.
Thiên Chúa Cha vui vì Chúa Con. Ngài cũng sẽ vui khi thấy Chúa Con đưa về cho Ngài những anh em mình, là mỗi Kitô hữu, những người sẽ lãnh nhận quyền làm con Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Tẩy. Những người sẽ hiệp thông với Chúa Cha qua quyền năng Chúa Thánh Thần, và được sống trong dòng sông ân sủng của Ngài.
Chúa Giêsu không những chỉ là một dòng sông, Ngài còn là ánh sáng soi cho muôn dân trên con đường về trời. Ánh sáng soi muôn dân, đó là một trong 5 ý tưởng chính mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã muốn mọi Kitô hữu phải suy niệm khi thêm vào những điều mà Ngài gọi là Mầu Nhiệm Ánh Sáng trong kinh Mân Côi. Ở đó, biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa được coi là biến cố bắt đầu cho những chuỗi ngày hoạt động và truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài là ánh sáng của Chúa Cha, được cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần liên kết giới thiệu với nhân loại.
Nhưng để được gọi là “con yêu dấu của Cha”, và để được xem như những người con “làm đẹp lòng Cha”, người Kitô hữu cũng phải tự dìm mình trong dòng thánh sủng. Dòng sông đã được khai thông qua phép rửa, và được tài bồi do phù sa do cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Một dòng sông không ngừng được khai quang, thánh hóa bởi quyền năng của Thánh Thần.
Nước của dòng sông Giođan mang tính cách gột rửa. Tâm hồn người Kitô hũu khi đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội cũng phải hòa mình vào dòng chính của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa. Họ cần phải để Ngài thanh tẩy. Họ phải can đảm gột bỏ quá khứ, cái quá khứ từng làm họ bị lệ thuộc và nô lệ cho đam mê, dục vọng, và cho quyền lực của Satan. Nhưng điểm quan trọng hơn là khi lên khỏi bờ, được hồi sinh trong ơn Thánh, cũng là lúc họ phải ra đi đem tin mừng đến cho mọi người như dòng sông chuyển lưu phù sa, làm tươi mát, và đem lại hoa mầu cho những lưu vực quanh nó.
Chúa Giêsu chịu phép rửa là để mở màn cho cuộc đời công khai rao truyền lời chân lý. Người Kitô hữu sau khi lãnh Bí Tích Rửa Tội cũng cần bước vào một cuộc sống thân mật và chứng nhân cho tin mừng cứu độ. Vì qua phép Rửa Tội, người Kitô hữu cũng được tham dự vào ơn gọi làm tiên tri, vương giả, và tư tế. Sự gột rửa và rũ bỏ quá khứ là để chuẩn bị họ bước vào một cuộc đời mới, một sứ mạng mới trong đó họ sẽ là những chứng nhân. Và cũng như Chúa Giêsu, họ phải trở nên những dòng sông chuyên chở, và ánh sáng chiếu soi của Tin Mừng giữa thế giới hôm nay.
Ở Hoa Kỳ, ông Bim là chủ một nông trại nuôi bò rất lớn. Ông được mọi người gọi ông là “Ông Bim: TN 1-C35
Ở Hoa Kỳ, ông Bim là chủ một nông trại nuôi bò rất lớn. Ông được mọi người gọi ông là “Ông Bim quảng đại” vì ông rất thương người, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhất là những người nghèo khó bệnh tật.
Ông chỉ có đứa con trai duy nhất. Rủi thay trong chuyến đi nghỉ cuối tuần bị tai nạn xe hơi, làm cho vợ và đứa con một của ông thiệt mạng!
Trong những ngày đau buồn, ông đi lang thang trong nông trại, bỗng ông gặp một đứa bé ăn mặc rách rưới bơ vơ. Ông gọi nó đến hỏi thăm gia cảnh của nó, mới biết nó là đứa trẻ mồ côi, tên là Jimi sống nay đây mai đó nhờ lòng hảo tâm của mọi người. Ông thương đem nó về nuôi và làm chúc thư cho nó:
“Nếu ngày nào tôi chết, tất cả tài sản của tôi sẽ để lại cho Jimi, đứa con nuôi của tôi”. Bạn hữu ông nghe biết thế thì ngạc nhiên hỏi:
-Sao bạn làm thế!
-Vì tôi thương nó. Nó giống con tôi. Tôi nhìn thấy con tôi trong nó.
Chúng ta là con cháu Adong Eva, chúng ta bị mất ơn Chúa do tội nguyên tổ và sống tất tưởi như đứa trẻ mồ côi. Nhưng dù sao chúng ta cũng là hình ảnh đẹp đẽ của Thiên Chúa theo chương trình sáng tạo của Ngài. Rồi qua lời hứa Chúa Cứu Thế nhờ phép rửa tội, chúng ta lại được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa và được làm gia nghiệp khi lãnh nhận muôn vàn ân sủng để rồi chúng ta được sống lại với Đức Kitô trong vinh quang Thiên Quốc. Vì thế vinh dự trọng đại nhất là muôn đời được làm con Thiên Chúa như thứ nhất của Thánh Gioan có chép: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1Jn.3,1).
Qua đó, bí tích Thánh Tẩy là căn nguyên cho tất cả đời sống Kitô hữu, của mọi bí tích, mọi ân sủng mà chúng ta sẽ lãnh nhận cho đến khi lìa cõi thế. Trong Tin Mừng hôm nay có ba dạng phép rửa khác nhau:
1. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả là phép rửa sám hối, giúp người ta ăn năn tội lỗi. Đó là bước đầu của hành trình Đức Tin, như lời Người chứng minh: “Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để thúc giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (Mt. 3,11).
2. Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa tái sinh, ban cho người lãnh nhận một đời sống mới hoàn toàn, như Thánh Phaolo xác quyết: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa… nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô” (Cl. 2,12).
3. Còn phép rửa Thánh Gioan Tẩy Giả làm cho Chúa Giêsu mà Tin Mừng thuật lại hôm nay là phép rửa mặc khải, vì sự việc bày tỏ cho chúng ta biết: Thiên Chúa đã từ trời xuống thế gian, Chúa Thánh Thần bắt đầu cuộc tạo dựng mới, Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Adong mới trong công cuộc tái tạo thế giới.
Từ xưa tới nay trong Giáo Hội có một số người hay thắc mắc rằng: "Tại sao Chúa Giêsu lại đến với Thánh Gioan để chịu phép rửa? Vì chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Đấng vô tội.” Có phải vì lý do lời kêu mời rao giảng thống hối của Thánh Gioan mà Chúa Giêsu cảm nhận tội lỗi và giục lòng sám hối ăn năn không?
-Thánh Luca nói việc Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối như dân chúng không phải là nói Ngài thống hối cho mình, vì Người hoàn toàn vô tội, nhưng là để Ngài đền bù thay cho nhân loại. Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là báo trước việc Chúa chịu phép rửa cuối cùng của Người trên Thập Giá (Lc. 12,50) để đền tội thay cho nhân loại. Các Đấng Giáo Phụ nói: Có nhiều lẽ khiến Chúa Giêsu làm như thế. Ngài chịu phép rửa để nêu gương khiêm nhượng cho dân chúng và để khuyến khích họ chịu phép rửa của Thánh Gioan, đồng thời để tỏ sự ưng thuận việc Đấng Tiền Hô đã làm. Sau nữa Ngài xuống nước chịu rửa để thông cho nước sức thiêng liêng mà tắm rửa linh hồn người ta trong phép thanh tẩy Ngài sẽ lập sau này. Cho nên không có kết cấu giữa nghi thức tẩy rửa và sự hiển linh của Ngài. Nghi thức tẩy rửa biểu lộ sự liên đới hoàn toàn giữa Chúa Giêsu và dân chúng. Còn sự hiển linh xảy ra đang khi cầu nguyện.
Sau đây chúng ta cùng nhau suy niệm về sự hiển linh của Chúa Giêsu:
1. “Trời mở ra”: Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời nơi Thiên Chúa đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nói nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng bị cắt đứt. Bởi thế hôm nay là một thời đại mới đã bắt đầu mở màn, mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người được tái lập.
2. “Thánh Thần ngự xuống trên Người”: Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí như đã bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Việc Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giodan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định người làm vị ngôn sứ của thời đại mới.
3. “Con yêu dấu của Cha”: Thiên Chúa chứng thực cho sứ mạng của Đức Chúa Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác. Nhưng Thiên Chúa Cha giới thiệu cho nhân loại về Thiên Tính của Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, khởi sự sứ mệnh cứu chuộc nhân loại.
Như vậy qua bài Phúc Âm hôm nay chúng ta hiểu rõ được giá trị của bí tích rửa tội, chúng ta phải ý thức sống những điều đã được đoan hứa thay cho mình trong lúc chịu Thanh Tẩy, nghĩa là phải thực thi những thỉnh cầu, những lời thề hứa, những đoan nguyền từ bỏ Satan. Chiếc áo trắng Giáo Hội trao cho, chúng ta hiểu rằng mình phải luôn giữ tâm hồn tinh tuyền cho tới ngày Chúa phán xét. Từ sự quí trọng bí tích rửa tội chúng ta phải biết sống xứng đáng với ơn Chúa, đồng thời tích cực tham gia vào việc rửa tội cho người khác bằng lời cầu nguyện, nhất là học biết rửa tội cần thiết cho các linh hồn trong khi nguy tử.
Xin Mẹ Maria luôn trợ giúp cho tính mỏng giòn yếu đuối của con người và che chở trong tà áo Vô Nhiễm của Mẹ để chúng con luôn được thanh tẩy khỏi tội lỗi và những đam mê tật xấu, hầu xứng đáng là nghĩa tử yêu dấu của nước trời.
Câu Lc 3,19 nói đến việc gioan tẩy giả bị tống giam tách biệt đoạn văn liên quan đến Gioan tẩy: TN 1-C36
1. Câu Lc 3,19 nói đến việc gioan tẩy giả bị tống giam tách biệt đoạn văn liên quan đến Gioan tẩy giả khỏi bản văn liên quan đến Chúa Giêsu và qua đó, nó phân biệt hai thời kỳ cứu độ, như nhận xét ở 16,16 sẽ cho thấy: “Cho đến thời Gioan, thì có lề luật và các tiên tri, từ đó trở đi Nước TC được loan báo...”. Và vì thế từ đó về sau con đường mô tả Chúa Giêsu không còn vướng nữa. Sự kiện hai tài tử chính cùng diễn suất chưa có thể hoàn toàn loại bỏ được, nhưng Lc đã cất khỏi sự kiện này tất cả ý nghĩa hiện thực của nó. Theo 3,21-22, Chúa Giêsu chịu phép rửa như một người dân, như bất cứ người Do thái nào khác. Lc loại bỏ tất cả gì có thể làm cho độc giả tưởng rằng Gioan tẩy giả đóng vai trò quan trọng trong biến cố này. Thực vậy, ông đã không nhắc đến tên của vị tiền hô trong lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Điều này rất phù hợp với quan niệm của ông về ý nghĩa cuộc đời vị Tẩy giả. Vẫn theo Lc 16,16, thì Gioan tẩy giả chỉ là một tiên tri thuộc về thời kỳ cổ xưa. Điểm khởi đầu được đánh dấu bằng sứ vụ của Chúa Giêsu, chứ không phải như ở Mc, bởi sự xuất hiện của Gioan tẩy giả.
2. Vì thế Lc không nói ai đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu. Ông chỉ nhắc đến việc Chúa Giêsu chịu phép rửa trong một mệnh đề phụ về thời gian, và đồng hóa phép rửa Chúa Giêsu như phép rửa các người khác (c.21) trong dân chúng. Dân chúng đã được thanh tẩy, sứ mạng của vị tiền hô đã chấm dứt. Vì thế Lc rất ý thức về sự liên đới của Chúa Giêsu với các tội nhân thống hối, nhưng ông không khai triển ý tưởng này. Ông chú tâm vào việc trao ban Thánh Linh, là trung tâm điểm của trình thuật. Đoản văn chúng ta đang nghiên cứu không mô tả phép rửa, nhưng mô tả cuộc thần hiện của phép rửa. (Trong phúc âm thứ tư, phép rửa sẽ không được nhắc tới nữa, Gioan không kể lại phép rửa, và thực sự mà nói, cũng không kể lại cuộc thần hiện của phép rửa, nhưng đã tường thuật rát rõ ràng chứng tá của vị Tẩy Giả tiếp liền sau cuộc thần hiện này).
3. Khi mô tả thần hiện, Lc ghi lại điểm khách quan hơn, có tính cách lịch sử hơn: “Xảy ra là.... thì trời mở ra và Thánh Thần xuống...” Khía cạnh “thị kiến” không còn nữa. Với mục đích ấy, tác giả phúc âm nhấn mạnh đến tính hiện thực bên ngoài của việc Thánh Thần ngự xuống: thay vì chỉ nói “Thánh Thần như chim câu”, ông nhấn mạnh: “Thánh Thần lấy hình dáng thể xác như chim câu”. Tuy vậy, ông vẫn giữ lại dấu chỉ của truyền thống: trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống, lời TC phán. Nhưng sự can thiệp của TC đáp lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thì chỉ có Lc ghi lại thôi. Đối với Lc, cuộc đời Đức Kitô (Lc 5,16; 6,12; 9,18-29; 11,1; 22,32.41.44) là một đời cầu nguyện, trong giây phút đặc biệt đó, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cũng không có gì lạ thường: phải chăng đó là việc chuẩn bị ám hợp nhất đồng thời cũng là lời đáp trả thông thường đối với mối tiếp xúc của TC ? (Trong truyền thống Khải huyền, có các kinh nghiệm chuẩn bị đón nhận sự mạc khải của TC: Đn 2,18; 9,3tt; 10,2-3; Lc 9,28-29; Cv 9,11; 10,30; 22,17).
Nhưng chỉ ghi nhận lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là một đề tài được Lc ưa thích nhất vẫn chưa đủ để giải thích sự có mặt của việc ấy trong biến cố này. Còn có một ý nghĩa sâu xa hơn: theo Lc, lời cầu nguyện của Kitô hữu cốt yếu hệ tại ở việc xin TC ban ơn Thánh Thần. Trong đoạn văn chỉ mình ông ghi lại nơi chương 11,1-13, Lc dạy chúng ta về sự cầu nguyện đích thực và hiệu quả của nó. Phần cuối của đoạn này cho chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan tâm của ông về đề tài trên: “Vậy nếu các ngươi, tuy là ác, còn biết lấy của tất lành làm quà cho con cái, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho ai xin Người” (c.13).
Ta cũng nên chú ý đến mối liên hệ giữa lời cầu nguyện của cộng đoàn với ơn Thánh Thần trong Cv 4,31: “trong khi họ cầu nguyện thì chỗ họ nhóm họp rung chuyển và hết thảy được đầy Thánh Thần”. Điều đó nhắc ta nhớ đến Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2) tiếp theo sau lời cầu khẩn của nhóm tông đồ (Cv 1,13-14), những kẻ đã từng chuyên tâm cầu nguyện. Chính việc chiếm hữu Chúa Thánh Thần qua lời cầu nguyện làm cho các môn đệ của Chúa Giêsu khác biệt với môn đệ của Gioan (Apollos và Phaolô ở Êpheso, Cv 19,1-6). Dưới cái nhìn của Lc, thì việc thông ban ơn thiên sai và thần linh (Chúa Thánh Thần) khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cho việc tuôn tràn phổ quát đã hứa ban cho thời đại cánh chung. Một cách tương tự như thế, ông sẽ mở đầu sách Cv bằng phép lạ Hiện xuống.
4. Trong tâm thức tôn giáo của cộng đoàn sơ khai, có một trào lưu đặc biệt, mà chỉ Lc ghi nhận, đã xem việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa như là việc “xức dầu”, việc hiến thánh Ngài với tư cách “Đấng được xức dầu”. Đó là phương cách mới để diễn tả ý nghĩa phép rủa của Chúa Giêsu như một lễ phong chức của Đấng Thiên sai, họ dựa vào Is 61,1 .
“Các ông biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi từ Galilêa, sau phép rửa Gioan rao giảng, TC đã xức dầu cho Chúa Giêsu , người Nazaret, bằng Thánh Thần và quyền năng như thế nào” (Cv 10,37-38).
“Thánh Thần ngự trên tôi, bởi Người đã xức dầu thánh hiến tôi, đã sai tôi mang Tin mừng...” (Lc 4,18).
Những bản văn như thế nói lên đà tiến của suy tư thần học. Thay vì coi việc xức dầu được thực hiện khi Chúa Giêsu Kitô phục sinh như một số văn bản cổ xưa đã làm (Cv 2,36; 4,27), người ta đã xem việc xức dầu đã được thực hiện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: việc xức dầu đó làm Chúa Giêsu thành Đấng “Messia”, “Đấng Kitô”, Đấng được xức dầu (l'Oint).
Lời nói phát xuất từ trời giải thích rõ hơn điểm này. Đó là lời trích Tv 2, Tv Vương đế (psaume royal) được khoa chú giải Do thái coi như có tính cách thiên sai (psaume messianique). Câu thứ bảy của Thánh vịnh này đề ra một công thức được qui định để thu nhận người nào đó làm con mình: ngày TC giao phó cho vua, Đấng Messia, chức vụ đặt làm người đại diện của mình. Tc tuyên bố từ nay coi vua như con riêng của Ngài ("Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra Con") việc đó nói lên lòng ưu ái của Ngài đối với vua, nói lên ảnh hưởng thế lực và sức phù trợ của Ngài trên ông. Khi áp dụng câu Tv này vào phép rửa của Chúa Giêsu, thì mầu sắc vương đế đã mờ nhạt đi; nhưng đây chính là một lễ phong vương (thánh hiến cho chức vụ quan trọng qua việc thừa uỷ của TC) và lễ phong tước cho thiên sai (theo ý nghĩa tổng quát: giao sứ mạng cứu rỗi).
Câu Thánh vịnh này đặt ra một vấn đề văn bản khó khăn. Tiếng nói phát xuất từ trời được các bản sao ghi lại theo hai cách khác nhau:
1. “Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” 2. “Con là Con Ta, hôm nay Ta sinh ra con” (Tv 2,7).
Các thủ sao khá nhất và hầu hết các thủ sao theo câu thứ nhất; nhưng câu thứ hai, được nhóm thủ sao và giáo phụ đông phương chứng nhận (Justin, Clément, Origène, Diognète, Hilaire, Const, Apost, Audustin) thì rất cổ xưa, có thể đã xuất hiện từ giữa thế kỷ II. Người ta đã thử cắt nghĩa: việc câu hai thay thế câu nhất, coi như nguyên văn hơn, là do ý của những người sao chép muốn hòa hợp bản văn Lc với Tv 2,7 (điều đó có thể đối với Justin, là người hay tìm cách hòa hợp với CƯ; biết đâu các thủ sao khác đã chép lại của ông ta). Ngược lại, việc câu nhất thay thế cho câu hai hình như là do một khuynh hướng hòa hợp mạnh hơn, hòa hợp bản văn Lc với Mc. Cả hai lập trường đều có người ủng hộ. Dù sao, có lẽ những người sao chép đã muốn hòa hợp Lc và Mc hơn là với CƯ. Do đó, chúng tôi chọn hai câu, nghịch với BJ, nhưng đồng ý với TOB, Revised Standard Version, New English Bible, Zurich Version ...
Nếu câu hai là chính trực, điều đó có nghĩa là Lc đã bỏ không muốn ám chỉ đến người tôi tớ Giavê hay Người Con chí ái của Chúa Cha (tức là đến sứ vụ cứu chuộc). Ông tập trung chú ý vào lời sấm phong tước thiên sai và tử hệ thần linh. Ý tưởng tử hệ thần linh được nói qua vế thứ hai của câu thánh vịnh ("Hôm nay Cha sinh ra Con"). Cũng trong ý tưởng đó, sau lời tuyên bố của Tc đây, Lc sẽ đem ngay gia phả Chúa Giêsu vào, gia phả đưa Ngài lên thấu Adam “Con TC”.
Trong Cv 13,33, Tv 2,7 được áp dụng vào việc phục sinh của Đức Kitô: “Và chúng tôi loan báo cho anh em Tin mừng: TC đã thực hiện lời hứa cho cha ông chúng ta bằng cách cho Chúa Giêsu Phục sinh, như lời Thánh vịnh 2: “Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra Con”. Lời xác quyết này trước tiên là một tín điều; và sau này, người ta đã áp dụng câu đó không chỉ vào việc Phục sinh của Chúa Kitô, mà còn vào phép rửa của Ngài nữa.
5. Chúng ta đã thấy tước hiệu “Kitô” (được xức dầu) được đề cao khi nói về phép rửa, trước tiên đã áp dụng cho Chúa Giêsu ngày Ngài sống lại: “Tc đã đặt làm Kitô Chúa Giêsu mà các ông đã đóng đinh” (Cv 2,36; x.4,27). Sự chuyển dịch từ biến cố Phục sinh lui biến cố phép rửa Chúa Giêsu mà (cùng với sứ vụ của Vị Tiền hô) đã tạo nên “khởi đầu của Tin Mừng” (Mc 1,1; Lc 3,23; Cv 1,22; 10,37) cho ta chứng kiến việc khai sinh của một Kitô học tiên khởi. Thật vậy, vào những ngày đầu của Giáo hội, sự sống lại của Chúa Giêsu là khởi điểm quyết định cho đức tin vào thiên chức cao trọng và siêu việt của Ngài. Rồi rất sớm, người ta đã đào sâu cái trực giác phong phú đó. Dưới ánh sáng của Thánh linh nhắc lại trong lòng tín hữu những giáo huấn của Đấng cứu thế và những biến cố trong đời công khai của Ngài (đối tượng của Tin mừng), người ta suy thấy có những đặc quyền siêu việt hoạt động trong chính cuộc sống của Chúa Giêsu: không phải chỉ khi sống lại, nhưng suốt thời gian hoạt động và ngay lúc khởi đầu công trình cứu rỗi, khi chịu phép rửa, Ngài là Đấng Messia và Con Tc. Trong các phúc âm về thời thơ ấu, được soạn thảo về sau và ít “truyền thống” hơn những tước hiệu đó đã được dùng ngay giây phút đầu tiên của đời Chúa Giêsu (nhất là Lc). Như thế, ý nghĩa của việc TC can thiệp vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa được xác định rõ hơn, và bài trình thuật biến cố đã mang một hình thức như chúng ta đang có đây, dưới ánh sáng Phục sinh.
Vừa giảm bớt tính cách khải huyền trong cách trình bày, Lc, sử gia và tác giả phúc âm chuyên về cầu nguyện, đã mặc cho việc thần hiện trong phép rửa ý nghĩa chính yếu theo truyền thống sơ khai: là thánh hiến để bắt đầu sứ vụ, là phong tước thiên sai - Con TC cho Chúa Giêsu. Hình như ông không muốn nói lên mối liên quan với phép rửa của người Kitô hữu, nhưng ông đã nhấn mạnh hơn các phúc âm khác về thực tại tử hệ thần linh của Đức Kitô.
KẾT LUẬN
Ý nghĩa phép rửa của Chúa Giêsu được tỏ bày qua việc thần hiện xảy ra sau đó. Đấy là điểm chính yếu đã làm Lc chú ý; đây cũng là điểm chúng ta phải suy ngắm.
Bước đầu tiên được đời hoạt động của Chúa Giêsu (nối kết Ngài với vị tiên tri cuối cùng và cao cả nhất được các tiên tri) trở thành việc thánh hiến biến Ngài nên đấng thiên sai một cách long trọng: được mặc lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần, vững chắc được tình thân mật đặc biệt và trong tương giao độc nhất với Chúa Cha, từ đây Chúa Giêsu nhận lãnh sứ mạng thực hiện công trình cứu độ, phù hợp với ý định TC đã vạch ra trong Kinh thánh. Ngoài việc mạc khải công việc của Đấng thiên sai, câu chuyện này cũng hé mở cho thấy một mầu nhiệm sâu xa hơn, là mầu nhiệm của chính con người Chúa Giêsu, vị thiên sai - Con TC. Đó chinh là ý nghĩa căn bản được khám phá ra nôi biến cố này từ ban đầu, ý nghĩa đã được làm nổi bật qua cả một mạng lưới đầy hoài niệm Thánh kinh, trong phạm vi bối cảnh Khải huyền (trời mở ra, Thánh Thần xuống, tiếng phán từ trời: đó là khung cảnh am hợp nhất để tỏ cho biết đối tượng của mạc khải trên cao thôi: đối tượng đó là sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, đặt nền tảng trên địa vị Con TC của Ngài).
Được tường thuật vào lúc khai mào sứ vụ Đấng cứu thế, câu chuyện cho thấy là từ nay phải hiểu cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu dưới ánh sáng này (là ánh sáng đi trước vinh quang phục sinh). Và trong ngày đầu tiên ban Thánh Thần, trong ngày Con TC xuất hiện, thời đại cánh chung đã khai trương, thời nước trời hiển trị đã đến.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Một ngày kia, Chúa Giêsu “sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa” khi Ngài sai Thánh Thần xuống trên các tông đồ họp nhau trong nhà hội và qua họ sẽ đổ tràn Thánh Thần xuống trên mọi người. Nhưng trong lúc chờ đợi, Ngài khiêm tốn hạ mình nhận phép rửa của Gioan tẩy giả như một người Do thái tầm thường thời đó. Vinh quang của Ngài phải qua con đường tự hạ. Và chính lì Ngài, Con Một của Chúa Cha, đồng hóa với đám đông không tên tuổi như thế nên Chúa Cha đã làm chứng cho Ngài nơi sông Giodan bằng cách công bố Ngài là Con của Chúa Cha, Đấng Thiên sai được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần. Biến cố này được tiên báo mầu nhiệm vượt qua, như tất cả các mầu nhiệm khác của cuộc đời Chúa Giêsu. Vì thế đối với chúng ta, đây là một giáo huấn về chính bản chất cuộc đời Kitô hữu, vì Kitô hữu nào cũng phải sống mầu nhiệm vượt qua. Cuộc sống Kitô hữu nào cũng là tự hạ và vinh quang. Tự hạ bằng cách chấp nhận phục vụ người khác trong vui tươi và yêu mến, qua cuộc sống hàng ngày. Tự hạ trong cuộc sống tầm thường và buồn tẻ như Chúa Giêsu ở Nazaret. Tự hạ của ý riêng bằng cách biết nhìn nhận lãnh vực của TC trong cách cư xử của mình, tự hạ trong trường kỳ kháng chiến chống lại tính ích kỷ tự nhiên, khuynh hướng thống trị anh em mình, khát vọng bẩm sinh muốn tiện nghi, lười biếng, xa hoa, khoe khoang. Với Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta phải chấp nhận địa vị tầm thường của chúng ta trong một đám đông tầm thường và biến cuộc sống tầm thường đó trở thành đời sống khiêm hạ theo Chúa Giêsu. Nhưng sự tự hạ đó chỉ kéo dài một thời gian thôi, vì một ngày kia, nếu chúng ta sống cuộc sống tầm thường như con cái Cha trên trời, thì Ngài sẽ nói với chúng ta: Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra con và sẽ dẫn đưa chúng ta vào trong cuộc sống vinh quang thân tình vĩnh cửu. Và ngay từ bây giờ, nếu chúng ta cố gắng sống trung thành cuộc sống hàng ngày như con cái của Chúa Cha, thì Chúa Cha sẽ kéo chúng ta lại với Ngài và làm cho chúng ta vững tin cuộc sống tình yêu bằng những lời an ủi, bằng ánh sáng và ơn thánh đủ loại của Ngài. Ngay bây giờ cuộc sống theo gương Chúa Kitô làm cho chúng ta có thể nói với thánh Gioan: “Hãy coi lòng mến Chúa Cha ban xuống cho ta lớn lao dường nào để ta được gọi là con cái TC - vì thực sự chúng ta là thế (1Ga 3,1).
2. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì trời mở ra: giữa con người với TC, một tình thân mới có thể thành hình. Giữa Đức Kitô với TC, không có hàng rào ngăn cách. Điều mới lạ là Chúa Giêsu, tuy vẫn còn dính liền với thế gian, hòa lẫn trong đám tội nhân khi đến chịu phép rửa, lữ khách như họ trên đường về trời đang mở ra, chính Đức Kitô đó có thể trò truyện với TC, Cha Ngài mà không gì cản trở mối hiệp thông. Hàng rào mà tội lỗi dựng nên giữa TC và chúng ta bây giờ đã được vĩnh viễn xóa bỏ, vì có một người luôn luôn ở trước mặt TC. Các tầng trời xưa kia đóng lại vì tội lỗi, bây giờ lại mở ra để tuôn trào Thánh Thần xuống trên một con người biết đón nhận Thánh Thần không hạn chế. Và từ nay, qua con người Giêsu đó, mọi người đều có thể đến cùng Chúa Cha.
3. Chính trong lúc cầu nguyện mà Chúa Giêsu nhận được chứng từ của Chúa Cha và sự tỏ hiện của Chúa Thánh Thần. Đối với chúng ta cũng vậy, cầu nguyện là lúc thuận lợi nhất để gặp Chúa Cha và để lãnh nhận dồi dào hồng ân của chúa Thánh Thần .
Khi suy niệm về biến cố Chúa Giêsu chịu phép Rửa, tôi thấy có một cái gì gần gũi với ý nghĩa: TN 1-C37
Khi suy niệm về biến cố Chúa Giêsu chịu phép Rửa, tôi thấy có một cái gì gần gũi với ý nghĩa của hình ảnh "hoa sen nở trên bùn lầy".
Thực vậy, Đức Kitô là Đấng thánh thiện tuyệt vời, nơi Ngài không hề vương vấn bất cứ vết nhơ nào của tội lỗi, vậy mà Ngài đã làm một chuyện thật lạ lùng và khó hiểu, đó là xin Gioan làm phép rửa cho mình tại sông Giođan.
Bấy giờ Gioan đang kêu gọi người ta chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối ăn năn. Chuyện đó thật bình thường và dễ hiểu đối với con người, bởi vì con người ai mà chẳng có tội. Nhưng Đức Kitô thì có tội lỗi gì mà phải sám hối ăn năn và do đó, Ngài chẳng có lý do để mà chịu phép Rửa.
Thánh Phêrô trong bức thư thứ nhất, có nói một câu thật chí lý: Tội lỗi của chúng ta Ngài đã mang lấy vào thân, hầu đưa lên cây thập giá. Đức Kitô đã không chỉ tha tội và xoá tội cho nhân loại như người ta tha cho một tù nhân, hay như người ta xoá bỏ một món nợ, nhưng Ngài đã gánh vác, đã nhận lấy cho mình mọi hậu quả của tội lỗi.
Sen mọc trên bùn, đã không tránh né cái nhơ bẩn của bùn, trái lại đã thu hút chính cái bùn nhơ đó vào thân mà biến đổi nó thành hoa thơm. Đức Kitô cũng đã mang lấy, cũng đã gánh lấy tội lỗi của loài người, đem nó vào thân thể Ngài, để biến đổi, để gạn lọc, và làm cho nó trở thành hương thơm, trở thành vẻ đẹp. Ngài đã biến đổi trong chính bản thân Ngài tất cả tội lỗi của trần gian, làm cho nó trở thành thánh đức. Đó là ý nghĩa của việc Ngài chịu phép Rửa, bởi vì Ngài đã không chỉ tha tội mà còn thánh hoá nhân loại, không chỉ xoá bỏ tội lỗi con người mà còn làm cho con người tội lỗi trở nên thánh thiện và công chính.
Hay nói khác đi, Con Thiên Chúa làm người không phải chỉ để chuộc tội, tha tội hay đền tội thay cho loài người mà còn mang lấy kiếp người tội lỗi, để biến đổi chúng ta trở thành con Thiên Chúa. Khi Đức Kitô chịu để cho Gioan rửa mình trong nước sông Giođan chính là lúc, hơn bao giờ hết, Ngài ý thức mình đang ngụp lặn, đang chìm sâu dưới dòng nước tội lỗi của nhân loại chồng chất từ thời Adong Eva. Ngài chấp nhận cho tội lỗi ngập đầu ngập cổ mình để rồi biến đổi chính dòng nước tội lỗi ấy thành một dòng sông của tình thương, một nguồn suối của ơn sủng. Ngài quả là một bông sen mọc lên từ chính chỗ bùn lầy, vươn lên từ chính nước ao tù, biến đổi bùn lầy và ao tù ấy trở thành hương sắc.
Nhập thể đối với Đức Kitô không phải chỉ là việc đội lốt người, một cuộc dạo chơi trong xã hội, mà thực sự là một việc hộp nhập, hơn thế nữa, phải nói là một sự dính dấp hoàn toàn đối với thân phận và định mệnh con người, kể cả thân phận tội lỗi và số kiếp tử vong.
Đức Kitô là Đấng thánh thiện, nhưng đã tự ý chấp nhận thân phận tội lỗi của con người với tất cả những hệ luỵ của nó. Bởi đó chấp nhận dìm mình dưới dòng nước Giođan, chính là chấp nhận cái chết. Vì thế, chúng ta mới hiểu được tại sao Đức Kitô lại nói về cái chết của Ngài như một phép rửa. Và hành động chịu phép rửa hôm nay có tính cách quyết định cho cả sứ vụ của Ngài. Đây là một lời tiên tri loan báo ý định dấn thân tới cùng sẽ dẫn đưa Ngài tới cái chết thập giá, thế nhưng cũng chính nhờ đó mà Ngài đã được Chúa Cha tuyên phong: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ: TN 1-C38 FB
Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.
Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50)
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
2. Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
3. Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?
Sự ăn năn sám hối thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng là âm vang của truyền thống Do Thái. Chúng ta: TN 1-C39
Sự ăn năn sám hối thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng là âm vang của truyền thống Do Thái. Chúng ta trích dẫn đoạn văn tuyệt tác Ezêkiel sẽ đọc trong phụng vụ Phục Sinh (thật vậy, việc Chúa chịu phép Rửa tiên báo mầu nhiệm Vượt Qua): “Trên các ngươi Ta sẽ rảy nước trong sạch và các ngươi sẽ được trong sạch… Ta sẽ ban cho các ngươi một tâm hồn mới, một tinh thần mới”. Sự thanh tẩy bằng nước là một chủ đề dễ hiểu, nhưng dẫu sao nguồn mạch phải trong sạch để cung cấp một thứ nước trong sạch. Nguồn thanh tẩy thiêng liêng là Thiên Chúa. Mà tác động của Người không chỉ ít hay nhiều nhắm vào bề ngoài con người. Sự thanh tẩy không chỉ là một sự dội nước đơn giản, nó thấm sâu tâm hồn và thần trí như lửa vào sâu trong vật bị nung đốt để loại bỏ tất cả những gì là cặn bã dơ bẩn. Phép Rửa của thánh Gioan khuyên giục dân chúng cải thiện nếp sống, chuẩn bị tâm hồn để gặp gỡ Chúa Giêsu. Phép Rửa của Đức Giêsu thấm sâu nội tâm, cho chúng ta một tâm hồn đổi mới nhờ ơn Chúa Thánh Linh. Chúng ta có được hai kết luật:
1) Nhờ dấu chỉ nào để trong thế giới ngày nay, nhận biết ai là tiền hô đích thật? Người ta nói rất nhiều về thế giới đang đột biến, đang chuyển mình, từ mọi phía nổi lên những tiếng nói tiên đoán về ngày mai của Giáo Hội. Trên bình diện đức tin, người ta không lầm khi tự hỏi: những “tiên tri” ấy có hướng dẫn đến với Đức Giêsu Kitô không? Tiếng nói của Gioan Tiền Hô hướng dẫn thính gỉa đến với Đức Giêsu. Những “tiên tri” ngày nay hô hào thay đổi thái độ, thay đổi điều kiện sinh hoạt, thay đổi cơ cấu xã hội, v.v… nhưng không hướng dẫn người ta đến với Đức Kitô, nghĩa là không hô hào thay đổi tâm hồn nhờ tác động Chúa Thánh Linh. Xét về bình diện Giáo Hội, tiếng nói của họ chẳng có giá trị loan báo Tin Mừng. Những tiền hô đích thật thì hướng dẫn đến cuộc gặp gỡ thật sự và thân thiết với Đức Kitô.
2) Con là Con chí ái của Ta, được Ta hết lòng sủng mộ. Chúng ta đồng quan điểm với thánh Luca rằng: Tiếng phán của Thiên Chúa trên con người của Đức Giêsu là một biến cố. Trong bối cảnh chung là sự thanh tẩy dân chúng và bối cảnh riêng là lời cầu nguyện của Đức Giêsu, thánh chép sử đặt lời phán của Thiên Chúa như một đoạn kết thúc. Đây là một biến cố có hai diện. Trước hết là một sự tiên báo rõ ràng về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Tiếng phán từ trời cao vọng xuống chính là tiếng nói của Đức Chúa Cha chỉ định Đức Giêsu là Con và Chúa Thánh Linh ngự xuống người ấy mà sau này đức tin sẽ nhận ra là Người –Chúa. Kế tiếp, biến cố cho thấy Đức Giêsu được hưởng trọn vẹn niềm sủng ái của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa chúng ta làm đẹp lòng Thiên Chúa nhiều hay ít tuỳ theo mức độ hiệp thông nhiều hay ít với Người –Chúa là Đấng duy nhất được Thiên Chúa hết lòng sủng ái.
Trong lòng của Hội Thánh, từ xưa tới nay, các tín hữu vẫn cố gắng đi tìm câu trả lời cho vấn đề: TN 1-C40
Trong lòng của Hội Thánh, từ xưa tới nay, các tín hữu vẫn cố gắng đi tìm câu trả lời cho vấn đề “Tại sao Chúa Giê-su lại đến với Gioan để chịu phép rửa?” Lễ rửa của Gioan là để người ta ăn năn sám hối, và chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Vậy tại sao Ngài tự động đến xin chịu lễ rửa này. Trong Hội Thánh đầu tiên, có người gợi ý đầy tình cảm rằng Ngài làm thế nào để đẹp lòng Mẹ Ngài, là người đã năn nỉ xin khuyên Ngài. Nhưng chúng ta cần một câu trả lời đúng đắn hơn.
Trong cuộc đời mỗi người, có những giai đoạn như trục chốt cho cả đời sống xoay quanh. Trong đời sống Chúa Giêsu cũng vậy, thỉnh thoảng chúng ta phải ngừng lại để cố gắng nhìn xem cả cuộc đời Ngài khi còn tại thế. Trục chốt thứ nhất là cuộc thăm viếng Đền Thờ lúc Ngài mười hai tuổi, khi Ngài khám phá mối liên hệ độc nhất của Ngài với Thiên Chúa. Đến lúc Gioan xuất hiện thì Ngài đã ba mươi tuổi. Như vậy, mười tám năm trôi qua, suốt thời gian đó, hẳn Chúa Giêsu đã suy nghĩ và nhận thức ngày càng rõ rệt về sự đặc biệt duy nhất của chính mình Ngài. Nhưng lúc đó Ngài vẫn còn là một người thợ mộc vô danh ở làng Nadarét. Hẳn Ngài biết có ngày Ngài phải rời bỏ Nadarét và ra đi cho một công tác lớn hơn, Hẳn Ngài vẫn trong chờ một dấu chỉ báo hiệu cho ngày đó xuất hiện.
Bấy giờ Gioan xuất hiện, dân chúng kéo đến nghe ông giảng và chịu phép rửa. Trong cả xứ nổi lên một cuộc phục hưng chưa từng có, một phong trào quay về với Thiên Chúa. Khi thấy điều đó, Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã điểm. Không phải Ngài cảm biết tội lỗi và ăn năn, Ngài biết rằng hiện giờ Ngài phải đồng hoá mình với phong trào quay về với Thiên Chúa này. Đổi với Chúa Giêsu, sự xuất hiện của Gioan là một tiếng kêu gọi của Thiên Chúa và hành động, và hành động thứ nhất của Ngài là đồng hoá mình với dân chúng trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng trong lễ rửa của Chúa Giêsu có một sự kiện xảy ra. Trước khi Ngài có thể quyết định về bước quan trọng này, Ngài phải biết chắc mình làm việc phải lẽ; và trong lúc Ngài chịu phép rửa, Thiên Chúa đã phán với Ngài. Xin đừng lầm sự việc xảy ra tại lễ rửa là một kinh nghiệm riêng tư cho Chúa Giêsu. Tiếng nói của Thiên Chúa đã đến với Ngài và tiếng đó xác định rằng Ngài đã có một quyết định đúng. Nhưng hơn thế nữa, chính tiếng đó chỉ cho Ngài thấy tất cả con đường của Ngài. Thiên Chúa đã phán với Chúa Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta.” Câu này gồm hai phần “Con là Con yêu quý của Cha” là câu trích từ Thánh vịnh 2,17 được coi là lời diễn tả về Đấng Cứu Thế hứa ban. Còn câu “Ta hài lòng về con” là một phần của Isaia 42,1, diễn tả người Đầy tớ Đau khổ của Chúa Gia-vê có hình ảnh trọn vẹn trong Isaia 53. Cho nên trong lễ rửa của Chúa Giêsu có rất nhiều ý nghĩa: có ý nghĩa về Nước Trời đã đến vì lúc đó là lúc Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Nước Trời. Cũng có nghĩa là lúc Đức Giêsu được xức dầu tấn phong bằng Thánh Thần để thi hành một sứ mạng trọng đại. Cũng có nghĩa là Ngài đồng hoá với loài người tội lỗi, dầu “vốn không biết tội lỗi nhưng trở nên tội lỗi vì cớ chúng ta” và hạ mình nhận lấy phép rửa của Gioan.
Tiếng từ trời “Con là con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về con “là tiếng nói của ân phúc. Đó là tiếng nói thừa nhận. Còn ân phúc nào lớn hơn là được Thiên Chúa thừa nhận. Aben dâng lễ tế được Thiên Chúa thừa nhận, đó là ân phúc đối với Aben. Ngược lại, sự từ khước tế lễ của Cain là một lời nguyền rủa. Còn ân phúc nào lớn hơn là khi được Thánh Thần đáp đậu và nhận lấy quyền phép từ trên cao.
Chúa Giêsu đã đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu mới là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Thánh Tẩy cho những kẻ theo Ngài bằng việc đích thân Ngài xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ cuối cùng –cao đẹp hơn tất cả các vị trước– với lời rao giảng của chính Ngài để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Ngài đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho bí tích Thánh Tẩy.
Như thánh Luca kể lại cho chúng ta. Ngài kéo dài nghi thức bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện này mang lại hiệu quả là trời mở ra. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa trời mở ra như sau này trời cũng mở ra mỗi khi bí tích Thánh Tẩy được cử hành, vì bí tích Thánh Tẩy không những chứng tỏ việc được tẩy sạch tội lỗi mà còn cho thấy ơn phúc dư đầy trời tuôn đổ xuống cho. Hơn thế nữa, qua việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đến với Chúa Giêsu. Chính Thánh Linh này cũng hướng dẫn Chúa Giêsu trong tất cả các hoạt động của Ngài, trong tất cả các công việc giáo huấn và chữa lành bệnh tật… tượng trưng cho ơn cứu độ từ nay được ban cho nhân loại hầu giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Việc đến của Chúa Thánh Thần tiên báo ơn Chúa Thánh Thần sẽ được ban xuống cho mỗi thụ nhân để nâng lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu trong hình dạng chim bồ câu. Hình ảnh này thật có ý nghĩa khi chúng ta nhớ lại trong Cựu Ước, trong đại nạn Hồng Thuỷ, chim câu được thả ra đã trở về mỏ ngậm lá ô-liu xanh tươi báo hiệu nạn lút đã chấm dứt (St 8,11). Đến trong hình dạng chim bồ câu là đến mang lại bảo đảm sự hoà giải giữa Thiên Chúa và loài người. Đến như vậy là dấu chỉ lòng nhân từ của ơn cứu độ Thiên Chúa ban.
Trong bí tích Thánh Tẩy, lòng nhân từ ấy được thực hiện, Chúa Thánh Thần ngự xuống trong thụ nhân, bằng tác động tế nhị của tình yêu, chiếm hữu toàn diện con người hầu thúc đẩy sự phát triển toàn diện. Chúa Thánh Thần trọng dụng tất cả mọi khát vọng và khuynh hướng chính đáng của mỗi người và với mục đích duy nhất là thúc đẩy mọi điều lành điều tốt hầu đưa đến toàn vẹn. Chúa Thánh Thần đã đánh tan mọi lo âu sợ hãi đè bẹp hoặc khép kín tâm hồn không cho phát triển. Hình ảnh của chim câu đặc biệt được lựa chọn để tránh bỏ mọi phản ứng lo âu sợ sệt này.
Điều kết thúc sự hoàn thành trong lễ rửa của Chúa Giêsu là tiếng phán từ Cha: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” lời tuyên bố thần tính này mang lại quan trọng chủ yếu cho Chúa Giêsu, mặc khải cho loài người chúng ta về thân vị Chúa Giêsu, mặc khải ấy đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin nơi Ngài.
Theo như Phúc Âm kể lại thì lời công bố này chỉ liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên lời công bố ấy vẫn được coi như nguồn gốc của ơn nghĩa tử do bí tích Thánh Tẩy đem lại cho mọi tín hữu. Đức Kitô chỉ được mạc khải là con của Chúa Cha với ý hướng thông ban ơn nghĩa tử ấy cho tất cả mọi người đã liên kết với Ngài bởi niềm tin. Bí tích Thánh Tẩy đặc biệt thực hiện ý định này. Những lời “Con là con yêu dấu của Cha” luôn được vang lên khi có phép Rửa tội, dầu huyền âm này có được nghe không. Do phép rửa của mình Đức Giêsu biết rằng mình đã ban cho mọi tín hữu ơn làm con yêu quý của Cha trên trời.
Đối với Chúa Giêsu, và đối với chúng ta ngày nay, phép rửa là một kinh nghiệm về ân phúc, mà ân phúc liên hệ đến trách nhiệm. Sau khi nhận ân phúc từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu tiếp tục con đường vâng phúc để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa phải liên tục tranh chiến với cám dỗ đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa. Đám đông muốn tôn Chúa làm vua, ngài cự tuyệt. Các môn đệ can ngăn Chúa đi đường thập tự, Ngài khiển trách. Với trách nhiệm được giao cho, Chúa can đảm uống chén đau thương mặc dầu không tránh khỏi trận chiến nội tâm giữa sự vâng phục và khước từ. Nhận lấy ân phúc từ trời là lúc Ngài cam kết vâng phục Thiên Chúa, và thật sự, Ngài đã vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập giá.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải xem Ngài như một mẫu mực. Phép Rửa chúng ta nhận lãnh là dấu hiệu cho thấy qua Chúa Giêsu, chúng ta được Thiên Chúa thừa nhận. Đó là ơn phúc, nhưng không phải để chúng ta an nhiên ngồi hưởng nhưng đi kèm với trách nhiệm. Nói cách khác, phép Thánh Tẩy hay phép Rửa cũng là sự cam kết vâng phục ý muốn của Thiên Chúa và nhận lấy trách nhiệm Ngài trao. Bạn hãy tự vấn lương tâm xem phép Rửa đã ảnh hưởng đến đời sống bạn như thế nào trong hiện tại.
Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi: TN 1-C41
Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức...
Lúc đó vị Tẩy Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ “Đấng đến sau tôi” (x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh viễn biến mất.
MẶC KHẢI THẦN LINH SAU KHI ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA (3,21-22)
Khi toàn dân đều đã chịu phép rửa và khi Chúa Giêsu Kitô đã chịu phép rửa và đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự đến… Trong một câu duy nhất của bản văn Hy Lạp, không có kết cấu giữa nghi thức tẩy rửa và hiển linh. Nghi thức tẩy rửa, biểu lộ sự liên đới hoàn toàn giữa Đức Giêsu và dân chúng, được diễn tả bằng thời quá khứ; sự hiển linh xảy ra đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện (động từ tính hiện tại). Luca cũng không nói gì về nơi chốn của hoạt cảnh về nhân vật Gioan (đã bị giam ngục!). Như thế, ông xóa bỏ những ràng buộc của mặc khải diễn ra nữa. Thiên Chúa đáp lời Chúa Giêsu đang cầu nguyện, mà không tuỳ thuộc vào phép rửa của vị Tiền hô. Như vậy, trong sách Công vụ, đã được loan báo mối liên hệ chặt chẽ giữa việc cầu nguyện của cộng đoàn Kitô và ân huệ của Thần Khí, Đấng ban sức mạnh để làm chứng.
Việc hiển linh gồm ba yếu tố: trời mở ra để có được sự thông hiệp giữa thế giới thần linh và con người, Chúa Thánh Thần hiện xuống và tiếng từ trời – Luca sẽ lấy lại những yếu tố ấy một cách kín đáo hơn trong trình thuật lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-6), đối xứng với cảnh hiện tại. Trong Mc 3,10-11, ba yếu tố trên hợp thành một thị kiến chỉ dành cho Chúa Giêsu. Ngược lại, Luca trình bày hai yếu tố đầu như một biến cố khách quan và còn đi tới chỗ thêm “dưới một hình dáng thể xác”. Những lý do có tính cách minh giáo giống như thế dẫn ông đến việc cũng “nói quá” đi ở 24,11-13 để “chứng minh” cho Thêôphilê và những người khác thấy cái thực tại của những gì vốn không diễn tả được.
Trái với những gì xảy ra với Maccô, Thần Khí tiên tri ngự xuống Chúa Giêsu không phải là lần đầu, bởi vì từ khi sinh ra Ngài đã được Thần Khí thánh hiển để phụng sự Thiên Chúa (1,35). Đúng hơn phải nói đây là một cách cụ thể hoá sức mạnh của Thần Khí; cũng thế, Phêrô và các bạn ông, đã được đầy Thần Khí và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,4), lại được như vậy một lần nữa trong những lần bị bách hại đầu tiên (Cv 4,31). Ý nghĩa của biểu tượng chim bồ câu ở Luca không giống như ở các tác giả Nhất Lãm; ngược lại, ý nghĩa những lưỡi như lửa ở Cv 2-3 được giải thích dễ dàng trong mối liên hệ với bối cảnh đó. Dù sao chăng nữa, trong hai trường hợp tiếng “như” biểu lộ sự bất tương xứng giữa hình ảnh của con người và thực tại không thể diễn tả nổi. Tiếp theo đó, Luca sẽ giải thích tới hai lần việc Thần Khí ngự xuống Chúa Giêsu như một việc xức dầu tiên tri để hoàn tất lời sấm của Is 61,1: trong bài giảng khai mạc ở Nagiaret (4,18) và trong một bài diễn từ cuả Phêrô (Cv 10,38).
Tiếng từ trời ở câu 22 nói gì? Trong Matthêu và Maccô- được một vài thủ bản của Luca bắt chước – tiếng nói pha trộn Tv 2,7 và Is 42,1: “Chính Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta rất vui lòng chọn Con”. Trong Luca, tiếng ấy chỉ trích dẫn Tv 2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, như vậy Chúa Giêsu được phong làm Vua Mêsia. Nói với Người ở Ngôi thứ hai, tiếng ấy không chỉ về những nhân vật khác trong trình thuật. Việc chỉ định Ngài là con thực ra không phải là một mặc khải cho Chúa Giêsu vì ngay từ Lc 2,49 Ngài đã từng nói Thiên Chúa như là Cha của mình; việc Chỉ định này cũng không làm độc giả ngạc nhiên, vì đã học biết về tử hệ của Chúa Giêsu ở Lc 1,32-35. Thiên Chúa sẽ một lần nữa chỉ định Chúa Giêsu là Con của Ngài (Lc 9,35); lúc đó sẽ nhắm tới sứ vụ thứ hai và là sứ vụ chót của Người. Rốt cuộc, những lần tôn phong liên tiếp này, mà sẽ đi đến tột đỉnh trong ngày Phục Sinh (Cv 13,33), chứng tỏ rằng vương quyền của Giêsu, Đấng Mêsia, được thực hiện từng giai đoạn.
Dân chúng coi Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài: TN 1-C42
Dân chúng coi Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài nói: ‘không phải ta đâu, mà là Đấng khác’. Vị tiền hô hướng họ tới Đức Kitô. Đó không phải là người ích kỷ, vì người ích kỷ thì vẫn muốn chiếm đoạt tha nhân, nhưng đây là người của Chúa, một người bất vụ lợi đưa đường tha nhân về với Thiên Chúa. Phải, giữa Đấng Messia và Ngài có một sự cách biệt quá lớn lao như người đầy tớ nghĩ mình không đáng cởi giây giày cho chủ mình.
Cả hai phép rửa cũng khác nhau như vậy. ‘Tôi, tôi rửa anh em trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi: Ngài sẽ rửa các ông trong Thánh Thần và trong lửa’. Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu, bên trong, như lửa thiêu huỷ tất cả, như Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu vào tận đáy lòng và biến đổi tất cả.
CON THIÊN CHÚA (3, 21-22)
Những gì xảy ra ở bờ sông Giođan khi Thánh Thần hiện ra và Lời Chúa Cha phán mang hai ý nghĩa:
Trước hết đối với chính Chúa Giêsu đây thêm môt kinh nghiệm lớn cho Ngài cũng như nơi đền thờ lúc Ngài mười hai tuổi. Trời mở ra, đó đâu phải là chỉ là chi tiết bên ngoài, mà trước hết là một hiện tượng tôn giáo thâm sâu. Ánh sáng chan hoà từ bản tính Thiên Chúa tràn lan trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu. Tiếng nói của Chúa Cha đến với Ngài và Thánh Thần trở nên hữu hình qua một biểu tượng; có thể nói là Chúa Giêsu đứng ở giữa.
Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã được nhắc đến danh xưng ở đây: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Điều mà Chúa Cha gọi rõ ràng là ‘Con yêu dấu của Cha’ thì Chúa Thánh Thần đã để hiện ra tỏ tường bằng cách riêng của Ngài. Chúa Giêsu là một trong Ba Ngôi; Ngài biết, Ngài cảm thấy nơi mình con người được lôi cuốn vào luồng lửa của đời sống Ba Ngôi. Ngài thấy hoàn toàn khác với người thường. Ngài là Con độc nhất, ở trong tình yêu duy nhất và đặc biệt Chúa Cha trong sự phong phú vô song và lạ lùng của Chúa Thánh Thần.
Vì thế, chẳng ngạc nhiên gì khi thấy Người Con độc nhất này ưu thắng như vậy, khi thấy Vị phi thường kéo được tất cả về với mình trong tình trạng xuất thần như vậy, khi thấy Ngài được đưa vào sự dồi dào của tinh thần này như ngoài mình, là sa mạc có lẽ người ta sẽ nói Con Thiên Chúa không thể giữ như vậy lâu hơn giưã nhân loại. Chính Ngài, chỉ mình Ngài, được bao quanh bởi cả một đám đông.
Nhưng Đấng Thiên Chúa, cũng hiện diện ở bờ sông Giođan cho họ. Đó là lý do họ nghe tiếng nói. Tất cả phải biết là Ngài đã được cưu mang và đón nhận bởi Cha trên trời: như vậy tất cả những cái Người Con sẽ nói phải được coi như là Lời của Thiên Chúa Cha, tất cả những cái Ngài làm sẽ đầy Thánh Thần Chúa và được Thánh Thần kích động.
Còn Thần khí biểu lộ dưới hình bồ câu bay xà xà: Thần khí phong phú tràn lan trên nước Khởi nguyên và trên Đức Maria cũng là chính Thần khí xuống trên Chúa Giêsu để, bằng quyền năng sáng tạo của mình, biến đổi những lời giảng và các tác vi nhân tính của Chúa Giêsu bằng một thế giới mới, một đời sống mới, một sự sáng tạo mới: thế giới của siêu nhiên, thế giới thần thiêng giữa lòng nhân loại.
Biến cố hãn hữu này sắp được thực hiện đây khi mà Chúa Giêsu mang một hình thức bình dị, đã chọn con đường thông thường của muôn người khác và giao tiếp với các tội nhân.
Sự nâng cao lên khỏi nhân tính này trong sự thanh khiết thần thiêng, sẽ được hoàn thành vào lúc Ngài tự hạ nhận phép rửa thống hối giữa hạng tội lỗi và cho lớp tội nhân.
Rồi đây cả vũ trụ sẽ thấy rằng Đấng bị hạ xuống, được nâng lên và là Đấng tinh tuyền, thánh thiện, Đấng đó đang bước vào dòng sông chất đâỳ tội lỗi để cho những làn sóng tội lỗi đổ tràn trên mình. Lần xuất hiện đầu tiên của Chúa Giêsu trong cuộc đời công khai được thực hiện, coi bên ngoài thì hoàn toàn là âm thầm, ít giá trị, không lôi kéo được chú ý gì mấy. Tuy nhiên, thực sự là đã để lộ ra những cái khác thường và hấp dẫn mà mọi người từ nay phải lưu tâm. Chính Thiên Chúa đã quyết định chọn việc khởi đầu này và chứng nhận sự kiện đó.
Tin Mừng theo Thánh Luca kể lại cho ta giai đoạn đầu, đời sống công khai của Đức Giêsu theo: TN 1-C43
Tin Mừng theo Thánh Luca kể lại cho ta giai đoạn đầu, đời sống công khai của Đức Giêsu theo trình tự sau đây:
1. Gioan Tẩy Giả rao giảng: Các ngươi hãy hoán cải …Ngài đang đến (Lc 3,1 -18). 2. Gioan Tẩy giả bị cầm tù (Lc 3, 19-20). 3. Đức Giêsu chịu phép rửa (Lc 3,21 -22). 4. Gia phả của Đức Giêsu (Lc 3,23-58). 5. Đức Giêsu chịu cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh tại hoang địa (Lc 4,1-13). 6. Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, đặc biệt tại Na-gia- rét (Lc 4,14-30).
Một lần nữa, chúng ta lưu ý rằng, trước hết Luca không tìm cách thông tin cho ta về một chuỗi “sự kiện lịch sử”. Nếu chỉ có Tin Mừng Luca truyền lại, thì ta sẽ không biết “ai” đã làm phép rửa cho Đức Giêsu: vì Luca kể cho chúng ta việc cầm tù Gioan, trước khi cho chúng ta chứng kiến phép rửa của Đức Giêsu, mà trong nghi thức này, Luca cũng không nhác đến vị Tiền hô. Những người thời xưa (cả Luca và mọi kẻ khác) không có quan niệm tân thời như chúng ta về lịch sử. Mục đích của họ không phải là kể ra những sự kiện đơn thuần, nhưng nhằm nói với lương tâm tín hữu.
Đối với họ, ý nghĩa những sự kiện hoàn toàn thuộc về lịch sử. Do đó qua những thể thức văn chương thường được dùng đi dùng lại trong Kinh thánh, thánh sử trình bày phép rửa của Đức Giêsu vừa như một sự kiện lịch sử không thể chối cãi được (do đó có một nền tảng chung với những trình thuật đối chiếu khác), vừa như một “hành động tượng tương” (do dó, có những đặc điểm khác nhau trong mỗi Tin Mừng). Giải thích một sự kiện, không phải là chối bỏ sự kiện đó, mà cho nó là thực và định giá đúng tầm quan trọng của nó. Chẳng hạn, ở đây chúng ta thấy một sự “giải thích" của Luca: “Đức Giêsu khai mở một kỷ nguyên mới”. Giao uỡc cũ đã chấm dứt... Gioan Tẩy giả là một vị đại diện cuối cùng của giao ước cũ. Ong biến mất trước khi Đức Giêsu bắt đầu công trình của Ngài. Sự diễn giải lịch sử như thế là diễn giải đúng theo lãnh vực đức tin, nhưng chúng ta cũng không bị ngăn cản vận dụng trí tuệ để qua các chính sử khác, biết ràng thực ra, sự cầm tù Gioan Tẩy gỉa xảy ra sau đó rất lâu, và thời gian rao giảng của Đức Giêsu đã bị xén bớt rất nhiều (Mc 6,17; Mt 16,3).
Bài đọc phụng vụ Chúa Nhật này đã xếp gần lại những pha cảnh sau đây: 1. Cuộc rao giảng của Gioan (Lc 3, 15-16)... Và 2. Phép rửa của Đức Giêsu (Lc 3, 21 -22) bằng cách bỏ qua các câu trung gian kể lại sự vắng mặt của Gioan. Sự giải thích trên đây đã cho chúng ta hiểu tại sao. Phần chú giải lời rao giảng của Gioan, chúng ta gặp ở Chúa nhật thứ III Mùa Vọng, hôm nay chúng ta bắt đầu bài Tin Mừng dành cho Chúa Nhật này.
Khi toàn dân đã chịu phép rửa.
Kiểu nói phổ quát: "toàn dân" cũng là nét riêng của thánh Luca, mà ông thích dùng (Lc 1,10; 3,4). Luca, vị phát ngôn viên của Thiên Chúa lặp lại ở đây rằng, ơn cứu độ dành cho mọi người và sứ vụ của Đức Giêsu sắp bắt đầu sẽ dành cho tất cả. Kiểu nói này cũng muốn nói lên từ trước đến giờ Đức Giêsu hành động "như mọi người”. Và lúc Người bước ra hoạt động không có gì phân biệt Người với những công dân khác, với "toàn dân". Đó là một người Do Thái tốt lành và tín trung, không cố tách riêng ra khỏi quần chúng Vì mọi người đều xin chịu phép rửa, nên Đức Giêsu cũng xin lãnh phép rửa. Chúng ta lưu ý rằng, từ "toàn dân" này của Luca đúng thực biết bao: đó là đặc điểm mà ông nhấn mạnh và cũng là nét riêng của ông, so với trình thuật của các thánh sử khác.
Lạy Chúa, con nhận được sự mạc khải này, qua "từ" trên đã được linh hứng.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đã hoàn toàn “nhập thể” làm "người" đến độ Ngài làm "như toàn dân". Tôi dùng trí tưởng tượng quan sát Đức Giêsu lẫn trong đám đông một cách vô danh. Ngài đang ở đó trong dãy dài những nam nữ bình thường đang đợi đến lượt mình để nhận phép rửa. Tôi cầu nguyện nhờ suy niệm mạc khải này.
Đang khi Đức Giêsu cầu nguyện.
Cầu nguyện cũng là nét riêng của trình thuật Luca thích minh chứng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đang cầu Nguyện (Lc 5,16 - 6,12 - 9,18. 28.29 - 10,21 - 11,1 – 22,23. 40,46 - 23, 34,46). Tôi cũng có thể ngừng lâu ở chi tiết này, để cầu nguyện.
Vậy thì theo Luca "hành vi đầu tiên" đánh dấu đời sống công khai của Đức Giêsu là cầu nguyện. Đây là việc đầu tiên mà chúng ta thấy Ngài làm với tư cách là một người trưởng thành. Lần đầu tiên nói tới Đức Giêsu bước vào tác vụ của Ngài, lại là nói đến việc Ngài: “đang cầu nguyện". Và trong lúc cầu nguyện đó, Ngài sẽ nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Và khi kể lại giai đoạn đầu của Giáo hội, đến lượt mình, cũng sẽ nhận lãnh Thánh Thần (Cv 1,4-2,1-11). Do đó cầu nguyện là nhường chỗ cho Thánh Thần. Là dọn chỗ trống cho người ngự đến. Là tạo điều kiện cho người xuất hiện. Trong một đoạn khác của Tin Mừng, Luca sẽ nói với ta rằng, điều cần thiết chung nhất phải xin với Chúa, là xin người ban cho "Thần khí của Người" như thế tất cả những cái khác sẽ đến thêm sau. “Chúa Cha ngự trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người" (Lc 11-13). Tôi có cầu nguyện với ý đó không?
Tôi có xin "phép rửa của Thần Khí” không? Theo lời loan báo của Gioan Tẩy giả: Ngài (Đức Giêsu) sẽ rửa các ngươi (sẽ dìm các người) trong Thánh Thần và lửa (Lc 3,16). Theo gương của Đức Giêsu cầu nguyện, tôi đã dành cho cầu nguyện vị trí nào trong đời sống của tôi? Cầu nguyện để “xin Thánh Thần" mà Chúa Cha sẵn sàng ban cho những kẻ kêu xin, có chỗ đứng như thế nào?
Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa.
Trước tiên, sự kiện trên hẳn làm ta dễ thắc mắc. Làm sao Đức Giêsu lại nhận "phép rửa tỏ lòng sám hối”? (Lc 3,3). Làm sao, Ngài không có tội lại cần phải chịu phép rửa? Câu trả lời ở phía sau, trong Tin Mừng này. "Đó là một thứ lửa mà Thầy đã đến để ném vào mặt đất. Đó là một phép rửa mà Thầy sẽ bị dìm xuống, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất (Lc 12,49-50). Phép rửa thật sự của Đức Giêsu, đó là cái chết cứu chuộc của Ngài. Khi xin chịu phép rửa "trong hàng ngũ các tội nhân" và trong suốt cuộc đời Ngài đã chấp nhận thái độ của một "hối nhân", Đức Giêsu đã hoàn toàn liên kết với khát vọng của con người muốn cầu xin Thiên Chúa "cứu rỗi" và thanh tẩy mình. Ngài muốn thay thế cho ta là những tội nhân. Đức Giêsu không đến để lên án thế gian tội lỗi, nhưng để cứu chuộc (Ga 3,17).
Đức Giêsu "cũng chịu phép rửa", nên không đứng từ trên cao xét đoán những yếu đuối đáng thương của tôi. Ngài liên đới với những yếu đuối đó. Phép rửa của Đức Giêsu là mô hình cho phép rửa của các Kitô hữu.
Lúc đó trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người.
Máccô nói: Bầu trời "xé ra" (Mc 1,10). Còn Luca lại viết: Trời "mở ra" không có vẻ gì là ác liệt của lối văn khải huyền cả, có thể nói còn mang tính dịu dàng nữa.
Vâng, Đức Giêsu bắt đầu một kỷ nguyên mới. Giao ước cũ đã chấm dứt. Thời Gioan Tẩy giả hăm dọa nhân loại bằng “cơn thịnh nộ" của Thiên Chúa ("nòi rắn độc" Lc 3,7) cũng đã chấm dứt. Một cuộc giao hòa mới được thiết lập giữa trời và đất. Trời không còn đóng kính nữa, mà đã “mở" ra. Và Thần Khí Thiên Chúa - phần của Thiên Chúa mà ta có thể thông hiệp được, đã được ban cho một người, Đức Giêsu trước khi được ban cách dồi dào cho tất cả những ai chịu "phép rửa trong Thánh Thần": Vào ngày lễ Ngũ tuần và mỗi khi cử hành phép rữa. Tôi dành cho phép rửa của tôi một chỗ đứng nào? tôi dành cho phép rửa của các con tôi vị trí nào? Tôi dành cho Chúa Thánh Thần chỗ đứng nào trong cuộc sống thiêng liêng của tôi? Thánh Thần là Đấng không được biết nhiều ở Phương Tây, là Đấng mà Phương Đông đã bắt đầu mang lại cho chúng ta.
Đức Giêsu chính là "Đấng mà Thánh Thần ngự xuống" (Lc 4,1.4, 14.4,18).
Dưới hình dáng như chim bồ câu.
Đã có nhiều cách giải thích về câu chú thích về "dấu chỉ" dễ cảm nhận này. Phải chăng đó là nhắc lại bồ câu của biến cố Đại hồng thủy, nhằm báo trước một thế giới mới? (St 8,8). Phải chăng đó là tượng trưng cho tình yêu của Thiên Chúa trong sách Diễm ca (Lc 2,14-5,2)? Phải chăng đó là nhắc lại cuộc sáng tạo thế gian mà Thần Khí bay là là trên mặt nước? (St 1,1).
Mỗi cách giải thích như thế, có thể trở nên khởi điểm cho một buổi cầu nguyện. Vâng, một tạo vật mới đang phát sinh. Một nhân loại mà Thiên Chúa không muốn trừng phạt nữa, vì người yêu thương nhân loại hết tình.
Lại có tiếng từ trời phán rằng.
Thiên Chúa nói với Đức Giêsu, một cách âu yếm như cha nói với con, đầy yêu thương.
Con là con của Cha.
Ở đây theo Luca, Đức Giêsu được xưng gọi theo Ngôi thứ hai. Trong khi đó, Mát-thêu kể lại cùng cảnh này, lại dùng Ngôi thứ ba: "Đây là con yêu dấu của Ta" (Mt 3,17). Vậy theo lịch sử cách nói nào là đúng thực? Cả Luca lẫn Mátthêu đều không lưu tâm đến việc đặt câu nói như thế của thời chúng ta. Truyền thống Do Thái từ xa xưa vẫn khẳng định rằng, Thiên Chúa "duy nhất" chỉ nói bằng "một cung giọng duy nhất" (bình luận của Rachi về thập giới: Mười điều răn này được tuyên bố bằng cách chỉ phát ra một lời duy nhất, đó là điều con người không thể hiểu được, Thiên Chúa nói "một lời" và loài người nghe "nhiều lời". Họ hiểu theo nhiều cách.
Ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
Hiển nhiên, Luca diễn giải lời duy Nhất của Thiên Chúa bằng cách trích dẫn ngôn sứ Isaia 42,1 và Thánh Vịnh 2,7. Trích dẫn Kinh Thánh này sẽ được dùng nhiều lần để diễn tả tư cách "là con Thiên Chúa" và việc tái sinh của Đức Giêsu phục sinh, dưới cùng ngòi bút của Luca (Cv 13,33) và của một môn đệ khác của Phaolô (Dt 1,5-5,5).
Nhờ cầu nguyện, chúng ta hãy bước sâu vào mầu nhiệm của Đức Giêsu hôm nay, được sinh ra! Ở đây, không đề cập đến noãn sào của Đức Maria vào lúc đầu thai, cũng không bàn đến việc sinh hạ cậu bé còn quấn tã ở Bê-lem, nhưng lại nói về Đức Giêsu trưởng thành, vào lúc 30 tuổi! Đây là thông điệp cấp bách nhất cho nhân loại ngày nay: con người không thể mồ côi, không là kết quả của "ngẫu nhiên và tất yếu". Nơi Đức Giêsu, nhân loại phát sinh từ một Thiên Chúa thương yêu nó. Đó là ý nghĩa phép rửa của tôi. Tôi sinh ra từ Thiên Chúa.
Do sự chọn lựa của Phụng Vụ, trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được đọc một đoạn giới: TN 1-C44
Do sự chọn lựa của Phụng Vụ, trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được đọc một đoạn giới thiệu lời chứng của Gioan Tẩy Giả và một đoạn nói đến phép rửa của Đức Giêsu. Câu 3,19 tách đoạn nói về Gioan Tẩy Giả với đoạn liên hệ tới Đức Giêsu, để nói về hai thời đại cứu độ. Gioan đã hoàn tất nhiệm vụ Tiền Hô. Bây giờ tới lúc Đức Giêsu thì hành sứ vụ.
II. BỐ CỤC
Đoạn văn có hai phần tách biệt:
1) Lời chứng của Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu (3,15-16); 2) Đức Giêsu chịu phép rửa và cuộcthần hiển (3,21-22).
III. VÀI ĐIỀU CHÚ GIẢI
- Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng được xức dầu”. Ít ra từ đầu thế kỷ ii trước CN, trong Do-thái giáo Paléttina, có kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17) và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2 Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh nhiên qui chiếu về vua Đavít lịch sử như là “đấng được xức dầu” của Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.
- Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là “Đang đến Đấng mạnh hơn tôi”. Tác giả Luca nhấn mạnh đến động từ “đang đến” (Hl. erchetai) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.
- tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ quì xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11). Trong truyền thống kinh sư Do-thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
- phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể Gioan Tẩy Giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ “lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích lại “gió [khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy-lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh, Hl. pneuma) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là Gioan Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời này như loan báo một phép rửa “trong [Thánh] Khí hoặc Thánh Thần và lửa” của Lễ Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức lời Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. cc. 17-18).
- đang khi Đức Giêsu cầu nguyện (21): Đối với tác giả Luca, việc cầu nguyện lấp đầy cuộc đời Đức Giêsu (5,16; 6,12; 9,18.28-29; 11,1; 22,32-41.44), nên vào lúc đặc biệt này, Người cầu nguyện là việc tự nhiên. Nhưng tác giả TM III ghi nhận như thế còn là để nói về mục tiêu của việc cầu nguyện (Lời cầu nguyện của người Kitô hữu chủ yếu hệ tại việc cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần [x. 11,13]), và nói về liên hệ giữa cầu nguyện trong cộng đoàn và ơn Thánh Thần (x. Cv 4,31).
- trời mở ra (21): Người ta chờ đợi vào thời cuối cùng, trời mở ra, vì lâu nay vẫn đóng lại (Is 64,1). Đức Giêsu là nơi Thiên Chúa hiện diện trên mặt đất, là Bết-Ên của giao ước mới (Ga 1,51; x. St 28,17).
- Thánh Thần ngự xuống (22): Đức Giêsu có Thần Khí bởi vì Người đã được cưu mang bởi Thần Khí (1,35) Người sẽ nhận Thần Khí tứ Chúa Cha khi đã được nâng lên bên hữu Cha (Cv 2,33), và bây giờ Người đang nhận Thần Khí. Không phải là Thần Khí chỉ được ban cho Đức Giêsu theo mức độ tiệm tiến, nhưng vào những giờ phút quan trọng trong cuộc đời Người, ta lại thấy Người có Thần Khí một cách mới. Chính Thiên Chúa quyết định về sự biểu lộ này.
Dựa vào truyền thống của cộng đoàn tiên khởi, tác giả Luca coi biến cố Thánh Thần đến trên Đức Giêsu vào dịp Người nhận phép rửa như là việc “xức dầu”, việc Người được tấn phong làm “Đấng được xức dầu” (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Lời nói từ trời xác minh điều này, khi trích Tv 2 mà áp dụng cho Đức Giêsu.
- Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con (22): Đây là c. 7 của Tv 2. Bài này là một Thánh vịnh vương giả được khoa chú giải Do-thái giải thích như là một Thánh vịnh về Đấng Mêsia. Khi áp dụng c. 7 vào phép rửa của Đức Giêsu, đặc điểm vương giả bị mờ nhạt đi; nhưng đây đúng là một lễ tấn phong (ký thác và thừa nhận vào một nhiệm vụ cao cả do Thiên Chúa ủy nhiệm) và là một lễ tấn phong thiên sai (theo một nghĩa khá tổng quát: sứ mạng cứu thế).
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Lời chứng của Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu (15-16)
Theo lời chứng của vị Tẩy Giả, Đức Giêsu không những là “Đấng đang đến”, mà còn là “Đấng mạnh hơn”; Người như là một nhà cải cách đầy lửa, tương tự ông Êlia. Gioan đã so sánh phẩm giá hai nhân vật mà dân chúng có thể lầm: bản thân ông và Đức Giêsu. Ông còn bất xứng hơn một tên nô lệ trong việc phục vụ chủ. Giữa phép rửa ông thực hiện và phép rửa của Đức Giêsu cũng thế: phép rửa của ông chỉ là một phép rửa trong nước, là một nghi thức tượng trưng để giúp diễn tả các tâm tình thống hối; còn phép rửa của Đấng Mêsia là một cuộc tuôn đổ Thánh Thần, có khi chẳng cần rửa bằng nước; và ngay khi nghi thức bên ngoài là một việc rửa bằng nước (phép rửa Kitô giáo), thì cũng vẫn là bên trong tâm hồn mà Thánh Thần đi sâu vào như lửa.
* Đức Giêsu chịu phép rửa và cuộc thần hiển (21-22)
Tác giả TM không nói ai đã ban phép rửa cho Đức Giêsu. Đứng về phương diện văn chương, ngài có thói quen kể xong một truyện rồi mới sang truyện khác: ở cc. 19-20, ngài kết thúc truyện về Gioan Tẩy Giả bằng thông tin là ông này đã bị tiểu vương Hêrôđê bỏ tù. Do đó, khi nói đến phép rửa của Đức Giêsu, tác giả đành im lặng về người ban phép rửa (Không lẽ Gioan ra khỏi nhà tù để ban phép rửa rồi vào tù lại?!). Tuy nhiên, chính bản văn cũng cho thấy là ngài không quan tâm nhiều đến điểm này: ở c. 21, ngài chỉ nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu trong một mệnh đề chỉ thời gian mà thôi, có vẻ như đồng hóa sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa vào sự kiện toàn dân chịu phép rửa. Dù sao, Đức Giêsu đã chịu phép rửa: vậy sứ mạng của vị Tiền Hô đã kết thúc. Chắc chắn tác giả Luca ý thức về tình liên đới của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi hoán cải; nhưng ngài không triển khai ý tưởng này. Ngài hoàn toàn chú ý đến ân ban Thánh Thần, và đặt biến cố này ở trung tâm bài tường thuật. Ngài không mô tả phép rửa, nhưng mô tả cuộc thần hiển. Ngài nhấn mạnh trên tính hiện thực bên ngoài của việc Thần Khí ngự đến: thay vì nói “Thánh Thần, như chim bồ câu”, ngài nhấn mạnh: “Thánh Thần, dưới hình dáng như chim bồ câu”. Quả thật, ngài giữ lại nhiều chi tiết thuộc truyền thống: trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống, tiếng nói từ trời. Nhưng chỉ một mình ngài ghi rằng sự can thiệp của Chúa Cha là để trả lời cho lời cầu nguyện của Đức Giêsu.
“Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”. Lời tuyên bố này đi trước một quãng thời gian quan trọng trong hoạt động, sứ vụ tại Galilê, của Đức Giêsu, như được trình bày trong TM Lc. Và lời tuyên bố ở 9,35 đi trước bài tường thuật về cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cả hai cảnh, lời xác nhận từ trời nêu bật quan hệ của Đức Giêsu với Cha Người, mỗi khi bắt đầu một giai đoạn trong hoạt động trần thế của Người.
+ Kết luận
Được đầy sức mạnh Thánh Thần, được chuẩn nhận trong ý thức về Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa, luôn hiệp thông đặc biệt Cha, Đức Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng bắt tay vào công trình cứu độ, đùng theo chương trình của Thiên Chúa đã được phác ra trong Kinh Thánh.
Được tác giả Lc kể lại ngay tại ngưỡng cửa của sứ vụ công khai của Đấng Cứu Thế, bài tường thuật này cho thấy kể từ nay, phải hiểu cuộc sống công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng này. Với biến cố Thánh Thần được ban xuống, Con Thiên Chúa bước vào cuộc đời nhân loại, ta thấy thời đại cánh chung đã bắt đầu, Nước Trời đã được khai mạc.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Một ngày nào đó, Đức Giêsu “sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần và lửa”. Nhưng trong khi chờ đời, Người phải hạ mình xuống nhận phép rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng phải đi qua mầu nhiệm Vượt Qua. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng là hạ mình và tôn vinh. Hạ mình qua việc vui tươi yêu thương chấp nhận phục vụ kẻ khác. Hạ mình trong tình trạng vô danh và nhàm chán của cuộc sống thường nhật theo gương Đức Giêsu sống tại Nadarét. Hạ mình trong cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại tính ích kỷ tự nhiên, những khuynh hướng muốn thống trị anh chị em, ước muốn tiẹân nghi và xa hoa để sống lười biếng và huênh hoang.
2. Nếu chúng tasống trung thành nếp sống con cái, ngày nào đó chúng ta sẽ được nghe Chúa Cha tuyên bố: “Con là con của Cha”. Rồi Ngài sẽ đưa chúng ta vào trong cuộc sống vinh quang thâm sâu của Ngài; còn trong lúc này, Ngài sẽ ban niềm an ủi, ánh sáng, đủ mọi thứ ân huệ cho chúng ta.
3. Vào lúc Đức Giêsu chịu phép rửa, trời đã mở ra: giữa con người và Thiên Chúa, lại có thể có quan hệ thân tình. Cái hàng rào giữa Thiên Chúa và chúng ta, đã được dựng lên do tọâi lỗi của loài người, này được vĩnh viễn hủy bỏ, bởi vì bây giờ có một người đang thường xuyên diện đối diện với Thiên Chúa. Trời đã đóng lại vì tội lội, nay lại mở ra để Thần Khí đi xuống trên một con người có khả năng đón nhận Người trọn vẹn. Kể từ nay, qua con người tên là Giêsu này, mọi người lại đi tới được với Chúa Cha.
4. Chính là trong khi cầu nguyện mà Đức Giêsu nhận được lời chứng của Chúa Cha và sự tỏ hiện của Thánh Thần. Đối với chúng ta cũng vậy, cầu nguyện là khoảnh khắc ưu tuyển để gặp được Chúa Cha và nhận được dồi dào hơn nữa các ân huệ của Thánh Thần.
Vào Chúa Nhật này, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa trong nước bởi Gioa: TN 1-C45
Vào Chúa Nhật này, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa trong nước bởi Gioan Tẩy Giả, và ngay liền sau đó, được Chúa Thánh Thần ngự xuống và được Chúa Cha chứng nhận: “Con là Con Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Đức Ki tô như một trong ba lễ Chúa Hiển Linh, nghĩa là, biến cố Chúa tỏ mình ra: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi (Mt 2: 11), phép rửa của Đức Giê-su (Lc 3: 21-22; Mt 3: 13-17; Mc 1: 9-11) và dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na (Ga 2: 11).
I s 40: 1-5, 9-11
Bài đọc I gợi lên nguồn gốc nguyên khởi của thuật ngữ “Tin Mừng” được loan báo cho những người lưu đày ở Ba-by-lon.
Tt 2: 11-14; 3: 4-7
Thánh Phao-lô nhắc cho ông Ti-tô nhớ rằng giá trị vô song của phép rửa Ki tô giáo chính là tái sinh và đổi mới người Ki tô hữu trong Chúa Thánh Thần. Lc 3: 15-16, 21-22
Phép rửa của Đức Giê-su là nguyên mẫu phép rửa Ki tô giáo. Chúng ta đã được lãnh nhận phép rửa dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi, “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
BÀI ĐỌC I Is 40: 1-5, 9-11
Sứ điệp an ủi này được gởi đến cho những người lưu đày ở Ba-by-lon khi mà cuộc thử thách đã quá dài lâu đến mức người ta không còn chịu đựng được nữa. Những người lưu đày đầu tiên, sau đó là những đợt lưu đày khác nữa, đã bị dẫn đến đất nước ngoại bang này đã gần năm mươi năm rồi.
1. Bối cảnh:
Ở giữa những người đồng hương lưu đày của mình, một vị ngôn sứ đã đem đến cho những người chán chường thất vọng này một niềm an ủi khi ông hứa với họ cuộc giải phóng sắp đến gần. Người ta không biết một chút gì về vị ngôn sứ, ngay cả tên của ông; vì thế, người ta đặt cho ông một biệt danh là I-sai-a đệ nhị, vì tác phẩm của ông (Is 40-55) được sáp nhập vào tác phẩm của vị tiền nhiệm của ông (Is 1-39). Vào lúc đó, trên chính trường Trung Đông, vua Ba tư, Ky-rô, nổi lên như một thế lực hùng mạnh. Vị ngôn sứ thoáng thấy nơi nhân vật này khí cụ của Thiên Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông quả quyết: Thiên Chúa sắp can thiệp để giải phóng dân Ngài khỏi cảnh đời lưu đày.
2. “Hãy an ủi, an ủi dân Ta”:
“Hãy an ủi, an ủi dân Ta”. Đây là những lời đầu tiên của tác phẩm ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, chính xác được đặt dưới nhan đề “Sách An Ủi”. Diễn ngữ “dân Ta” này chắc chắn đã làm ấm lại lòng của những người lưu đày khốn khổ, họ cứ tưởng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài gì đến họ. Không, họ vẫn luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia đã được Ngài nuông chiều.
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Tâm tư của những người lưu đày không bao giờ ngừng hướng về Thành Thánh. Bị trừng phạt vì tội bất trung dài lâu, điều quan trọng là dân thành được loan báo rằng Thiên Chúa tha thứ tội của dân và Ngài sẽ đích thân dẫn đưa dân trở về quê cha đất tổ.
“Thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu diễn ngữ “gấp hai lần” theo sát nghĩa của từ, nếu chúng ta khảo sát hai cuộc thử thách lớn mà dân thành phải chịu: dân thành bị lưu đày đến Ba-by-lon và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, bị phá hủy hoang tàn. Nhưng diễn ngữ này cũng được hiểu một cách đơn giản như ghi nhận muôn vàn đau khổ mà dân phải chịu.
3. Một cuộc xuất hành mới:
Để trở về cố hương, những người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa (sa mạc Syri-Palestine). Đây sẽ là một cuộc xuất hành mới ở đó Thiên Chúa sẽ lại hướng dẫn dân Ngài và thực hiện cho họ những điều kỳ diệu. Điều quan trọng là phải chuẩn bị tấm lòng đón nhận lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ở nơi những hình ảnh của các câu “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hó thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu”, chúng ta gặp thấy một lời mời gọi hãy thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc của tâm hồn. Các tác giả Tin Mừng sẽ áp dụng cho thánh Gioan Tẩy Giả dung mạo của vị ngôn sứ vô danh này, biệt danh là I-sai-a đệ nhị.
4. Nguồn gốc nguyên khởi của thuật ngữ “Tin Mừng”:
“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao”. Chính ở nơi bản văn này mà các Ki tô hữu tiên khởi đã mượn diễn ngữ “Tin Mừng” để chỉ mặc khải của Đức Giê-su. Chính ở đây mà chúng ta ở nơi tận nguồn thần học về Tin Mừng.
“Tin Mừng” này đòi hỏi phải được loan báo từ trên núi cao để mọi dân trong các thành Giu-đê được nghe, đó là Tin Mừng gì? Thưa, chính Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm và đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn; nhưng ông tô đậm chân dung Đức Chúa vinh thắng khi liên kết Ngài với hình ảnh của người mục tử tận tình chăm sóc đàn chiên của mình: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt”. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài về Đất Hứa, trước hết là Thiên Chúa tình yêu.
Đó là “Tin Mừng” đầu tiên báo trước một Tin Mừng khác dứt khoát hơn, phổ quát hơn: giải phóng những người tội lỗi. Vì thế, đoàn rước khải hoàn mà vị ngôn sứ tưởng tượng không phải loan báo cuộc hành trình của những người được chọn về Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc hay sao?
BÀI ĐỌC II Tt 2: 11-14; 3: 4-7
Ông Ti-tô là một trong số môn đệ và bạn đồng hành của thánh Phao-lô. Ông được ủy nhiệm chăm sóc các cộng đoàn Ki tô hữu thuộc đảo Cơ-rết-ta.
Hai đoạn trích (2: 11-14 và 3: 4-7) mà Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta vào ngày lễ hôm nay, hình thành nên hai bản văn sóng đôi; cả hai là hai phần kết của những lời khuyên mà thánh Phao-lô gởi đến cho ông Ti-tô.
1. Thiên Chúa tình yêu thánh hóa chúng ta (2: 11-14):
Sau một loạt những chỉ thị chính xác liên quan đến những loại tín hữu khác nhau, thánh Phao-lô đưa ra lý do sâu xa về cách ăn nếp ở của người Ki tô hữu: Ân sủng của Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải nên thánh; vì Đức Ki tô đã thanh luyện chúng ta ngõ hầu chúng ta có đủ khả năng làm việc thiện. Vì thế, “chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này”.
Lời khuyên “sống chừng mực” ở đây thật có ý nghĩa, bởi vì thánh Phao-lô ngỏ lời với ông Ti-tô, một người Hy lạp sống ở giữa những người Hy lạp. Đây không là lần duy nhất trong bức thư này thánh nhân ám chỉ đến “đức điều độ” của dân Hy lạp này. Ki tô giáo là chủ nghĩa nhân bản dẫn con người đến vận mạng tương lai, vận mệnh này sẽ được biểu lộ ở nơi vinh quang của Đức Ki tô, “Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta”. Danh hiệu này được ban cho Đức Ki tô thì hiếm dưới ngòi bút của thánh Phao-lô, chung chung thánh nhân dành riêng danh hiệu thần linh này cho Chúa Cha.
2. Thiên Chúa tình yêu tái sinh chúng ta (3: 4-7):
Đoạn trích thứ hai này trình bày một lý do khác về những đòi hỏi của Thiên Chúa: Thiên Chúa đầy lòng yêu thương đã tái sinh chúng ta. “Nhờ phép rửa” Ngài đã tái sinh chúng ta và đổi mới chúng ta trong Chúa Thánh Thần.
Đoạn văn này cùng với vài đoạn văn khác trong các thư của thánh Phao-lô được xem là một trong những chứng liệu xưa nhất liên quan đến phép rửa Ki tô giáo. Đoạn văn này kể ra vài trong số muôn vàn thiên ân của phép rửa: tính nhưng không của ơn cứu độ, mối liên hệ giữa nước và Thánh Thần, muôn vàn ơn ban của Thánh Thần, được thừa hưởng sự sống đời đời. Những thiên ân này làm chứng “lòng nhân hậu và yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại”.
TIN MỪNG Lc 3: 15-16, 21-22
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ hai phân đoạn: phân đoạn thứ nhất (3: 15-16) về phép rửa của Đức Giê-su và phân đoạn thứ hai (3: 21-22) về cuộc hiển linh của Đức Giê-su. Ngoài ra, phân đoạn thứ nhất lấy lại phần cuối của đoạn Tin Mừng Chúa Nhật Mùa Vọng III năm C, ở đó lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả đã được nêu lên. Việc lấy lại này cho phép định vị câu chuyện Chúa Giê-su chịu phép rửa vào trong mạch văn của nó.
1. Ý nghĩa phép rửa của Đức Giê-su:
Thánh ký chỉ kể ra một cách ngắn gọn phép rửa của Đức Giê-su, nhưng bằng một cách rất có ý nghĩa: Đức Giê-su ở giữa đám đông dân chúng; Ngài hòa nhập vào dòng người tội lỗi, họ muốn thể hiện cử chỉ ăn năn sám hối. Như họ, Ngài bước vào dòng nước sông Gio-đan để lãnh nhận phép rửa, dấu chỉ bày tỏ lòng sám hối; kể từ giây phút này Ngài bày tỏ ý muốn của Ngài được liên đới với nhân loại tội lỗi. Cử chỉ công khai đầu tiên của Đức Giê-su tự nó đã là một cử chỉ cứu chuộc.
Dường như thánh Lu-ca gợi lên rằng phép rửa của Đức Giê-su kết thúc phép rửa của “toàn dân” (diễn ngữ đặc thù của thánh Lu-ca), như để muốn nói rằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả đã đạt được mục đích của nó: chuẩn bị tấm lòng cho một sứ điệp khác và nhường chỗ cho một sứ vụ đang đến.
2. Lời cầu nguyện của Đức Giê-su:
Khi bước ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su cầu nguyện. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất ghi nhận nét đặc trưng này; thánh ký luôn luôn chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su trong những giờ phút quan trọng hay có tính quyết định (Lc 5: 16; 6: 12; 9: 18, 28-29; 10: 21; 11: 1; 22: 32, 40, 46; 23: 34, 46). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ cũng đang cầu nguyện, thì Chúa Thánh Thần ngự xuống (Cv 2: 1-6).
Khi Đức Giê-su cầu nguyện, thì “trời mở ra”, nghĩa là, một sự thông hiệp giữa thế giới thần linh và con người bởi một cuộc thần hiện kép: Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình dáng chim bồ câu và Chúa Cha tỏ mình ra qua tiếng phán từ trời.
3. Chúa Thánh Thần tấn phong:
“Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su”. Phép rửa trong nước mà Đức Giê-su đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Ki tô giáo. Đức Giê-su, đã hòa mình vào đám đông dân chúng tội lỗi, được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong; vì thế, Đức Giê-su đích thật là “Đấng được xức dầu”, nghĩa là, “Đấng Mê-si-a” theo tiếng Híp-ri, hay “Đấng Ki tô” theo tiếng Hy-lạp. Xưa kia, các ngôn sứ đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong để có đủ tư cách truyền đạt Lời Chúa. Cũng vậy, Đức Giê-su được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm ngôn sứ. Nhưng, phải nói một cách chính xác hơn, Đức Giê-su không đơn giản là một trong các ngôn sứ, được hiểu theo nghĩa “phát ngôn viên của Lời Thiên Chúa”, nhưng Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa tự thân, đã trở thành một phàm nhân.
Quả thật, Đức Giê-su, ngay từ khi thụ thai, được Chúa Thánh Thần ở cùng; Ngài sinh ra bởi phép Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống thầm lặng ẩn dật của Ngài, Chúa Thánh Thần đã không tỏ mình ra một cách rực rỡ. Vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa này đánh dấu khởi điểm sứ mạng của Ngài, Đức Giê-su được đảm bảo rằng Ngài sẽ luôn luôn được Chúa Thánh Thần phù trợ.
Chúa Thánh Thần tỏ mình ra qua một dấu chỉ bên ngoài “dưới hình dáng chim bồ câu”, như sau này, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ tỏ mình ra ở nơi “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” (Cv 2: 3). Như vậy thánh Lu-ca muốn nói rằng Chúa Thánh Thần là một ngôi vị biệt phân với Chúa Cha. Quả thật, phép rửa của Đức Ki tô là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Đức Ki tô như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Ki tô giáo được ban “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Diễn ngữ “dưới hình dáng chim bồ câu” chắc chắn nhắc nhớ những câu đầu tiên của Kinh Thánh trong chuyện tích về cuộc tạo dựng: “thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1: 2). Trên mặt nước của dòng sông Gio-đan một cuộc tạo dựng mới bắt đầu.
4. Chúa Cha thánh hiến:
“Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Đây là câu trích dẫn từ Tv 2, 7, một thánh vịnh phong vương mang chiều kích Mê-si-a tuyệt vời. Vào ngày vua được phong vương, Đức Chúa công bố vị tân vương là “con của Ngài” (“thiên tử”). Thánh Vịnh này ngầm quy chiếu đến sấm ngôn của ngôn sứ Na-than được ngỏ lời cho vua Đa-vít: “Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 13-14).
Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu cũng trích dẫn Tv 2 này, nhưng chỉ trích dẫn vế thứ nhất của câu 7: “Con là con yêu dấu của Cha” mà hai thánh ký liên kết thành một với bản văn của Is 42: 1 về ơn gọi của Người Tôi Trung: “Ta hài lòng về Người”, để loan báo Đấng Mê-si-a vừa là Vua, vừa là Người Tôi Trung: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3: 17) và “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11).
Chỉ một mình thánh Lu-ca trích dẫn trọn vẹn câu 7 của Tv 2, theo đó Thiên Chúa xác nhận rằng Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa”: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Lời công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa này cũng sẽ được vang lên khi trời được mở ra vào biến cố Biến Hình (Lc 9: 35). Chính trên Con Thiên Chúa này mà thánh Lu-ca muốn nhấn mạnh: cuộc thần hiện ngay sau phép rửa là mặc khải công khai, chính thức, về mầu nhiệm của Đức Giê-su, Ngài thật sự là Con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, ngay từ thế kỷ hai, những người phủ nhận Thần Tính của Đức Ki tô đã khai thác vế thế hai của câu trích dẫn này để chủ trương rằng Đức Giê-su chỉ là một con người, con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a, nhận được ơn nghĩa tử (được Thiên Chúa nhận làm con), ơn nghĩa tử này được công bố chính xác bởi những lời này “Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
Tư tưởng của thánh Lu-ca rất khác xa với một viễn cảnh như vậy. Rõ ràng ngay liền sau lời trích dẫn này, thánh ký tường thuật gia phả Đức Giê-su Ki tô, ở đó thánh ký chủ ý lên cho đến A-đam, “con Thiên Chúa” (Lc 4: 38). Đức Giê-su là A-đam mới, được sinh ra từ Thiên Chúa, Ngài là thủ lãnh của một nhân loại mới. Phép rửa của Ngài là một sự khẳng định về một thực tại thần linh thường hằng ở nơi Ngài rồi. Qua phép rửa của chúng ta, nhờ kết hiệp với Đức Giê-su Ki tô, Con Thiên Chúa làm người, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, nghĩa tử của Chúa Cha: “ngày hôm nay, chúng ta được sinh ra”.
Thánh Gioan, vị ngôn sứ cao cả bậc nhất thời cựu ước, từng giới thiệu cho các môn đệ của mình: TN 1-C46
Thánh Gioan, vị ngôn sứ cao cả bậc nhất thời cựu ước, đã từng giới thiệu cho các môn đệ của mình biết Chúa Giê-su là “Đấng mạnh thế hơn Gioan”, Đấng mà Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người” (Mt 3, 16), “là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian, là Đấng đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi vì Người có trước tôi.” (Ga 1,29-30)
Thánh Gioan còn giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng sẽ cử hành một phép rửa vượt xa phép rửa của Gioan: “Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước. Còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Chúa Thánh Thần” (Mc 1, 7)
Thế mà Chúa Giê-su lại đến với thánh Gioan như một người tội lỗi, hòa mình với đám đông những người thu thuế, những người đàng điếm, những tên côn đồ đạo tặc và với bao nhiêu người tội lỗi khác, chăm chú nghe Gioan rao giảng và để chờ đến phiên, bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ thánh Gioan làm phép rửa cho mình.
Tại sao Chúa Giê-su lại hạ mình đến thế? Hành động nầy xem ra không xứng hợp với một Đấng thánh được Thiên Chúa sai đến, không xứng hợp với địa vị cao trọng mà ngay cả thánh Gioan cũng thú nhận là mình không xứng đáng cởi quai dép cho Người, không xứng hợp với Đấng sẽ làm phép rửa cho muôn dân trong Chúa Thánh Thần.
Chúa Giê-su hoàn toàn vô tội thì cần gì phải xin Gioan làm phép rửa cho mình? Vì như thế là không chân thực.
Phải hiểu thế nào về hành động hạ mình quá đáng nầy của Chúa Giê-su?
Chắc chắn Chúa Giê-su đến chịu phép rửa không phải vì những tội lỗi do Người gây ra –vì Người vốn vô tội - nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Cũng thế, Chúa Giê-su chịu khổ hình thập giá không phải vì tội của Người mà vì tội lỗi của thế gian mà Người đã gánh lấy.
Thánh Gioan đã từng giới thiệu Chúa Giê-su là con “Chiên Thiên Chúa” (Gioan 1, 29) được sai đến trần gian để làm chiên đền tội. Người Do-Thái làm lễ xá tội bằng cách đặt tay lên đầu con bò hay dê, trút hết tội mình cho nó, rồi sát tế nó, để nó chết thay cho người tội lỗi. (Lê-vi 8, 14-15)
Thế nhưng “máu của các con bò, con dê không thể trừ khử được tội lỗi” (Do-thái 10, 4) nên Chúa Giê-su đã hiến mình làm Chiên mới, Con Chiên của Thiên Chúa, đến mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân. Chính vì thế mà Người trở thành tội nhân, như lời thánh Phao-lô dạy: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người." (II Cr 5, 21)
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành “hiện thân của tội lỗi” (II Cr 5, 21), nên Chúa Giê-su hòa mình với những tội nhân khác, xin Gioan làm phép rửa cho mình và cùng với bao tội nhân khác tỏ lòng ăn năn sám hối.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành “hiện thân của tội lỗi” nên Chúa Giê-su đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để cứu chuộc loài người tội lỗi, như lời thánh Phê-rô: “Tội lỗi của chúng ta, Người mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành." (1 Pr 2, 21-24)
Hình ảnh Chúa Giê-su vô cùng tốt lành thánh thiện mà lại chen chúc với các tội nhân bên bờ sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa của Gioan là một lời mời gọi mỗi người chúng ta phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng tự phụ của mình để biết thành tâm sám hối những tội lỗi mình đã phạm.
Chúa Giê-su đã mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu thanh tẩy và chịu chết vì chúng ta. Vậy chúng ta hãy thông phần vào công cuộc cứu độ của Chúa và hợp tác với Chúa trong việc cứu chữa các tội nhân.
Những cảnh thiên thai haò quyện với đời sống thơ mông của con người thực ra không còn là: TN -C47
Những cảnh thiên thai hòa quyện với đời sống thơ mộng của con người thực ra không còn là bức tranh của thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Quả thực, Chúa Giêsu đã sống thời gian 30 năm ở làng quê Nagiarét, đã sống trong mái ấm gia đình của cha mẹ Ngài với một đời sống ẩn dật, khiêm nhượng và một cách nào đó không ai biết tới. Hôm nay, mọi người thấy Người xuất hiện trước công chúng, sẵn sàng mở đầu sứ vụ lớn lao mà Cha của Người đã trao cho Người.
Phụng vụ Chúa nhật Chúa Giêsu chịu phép rửa qua ba bài đọc đều nhằm giới thiệu và trình bầy cho nhân loại, cho mọi người thấy Chúa Giêsu được Chúa Cha quý mến. Bài đọc 1, ngôn sứ Isaia giói thiệu Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tuyển chọn, nâng đỡ và quý chuộng, yêu mến. Bài đọc 2, sách Công vụ tông đồ qua lời chứng của thánh Phêrô: Thiên Chúa luôn ở với Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ràng Thiên Chúa Cha luôn yêu thương Chúa Giêsu, lời nói của Chúa Cha trên trời:” Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con “.
Những lời xác quyết của phụng vụ hôm nay trong ba bài đọc lại làm cho nhân loại, làm cho chúng ta ngỡ ngàng, lúng túng khi Chúa Giêsu để cho Gioan làm phép rửa cho mình ở dòng sông Giođăng. Ngài xếp hàng giữa những người tội lỗi như thế Ngài tự hạ mình như một tội nhân trong khi đó Chúa Cha lại tuyên bố:” Đây là Con Ta yêu dấu, Cha hài lòng về Con “, hoặc đã có lần Ngài nói rõ:” Ai trong các ngươi có thể bắt lỗi Ta về việc gì ?”. Nhưng Chúa Giêsu lại là Đấng gánh tội, chuộc tội thiên hạ. Chính Gioan Tẩy Giả đã có lần tuyên bố:” Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian “.Ngài cứu vớt trần gian, tẩy xóa tội lỗi con người, xóa tội con người, gánh lấy tội lỗi con người dù rằng Ngài là Đấng hoàn toàn vô tội. Đây là một cử chỉ hết sức ấn tượng, hết sức nhân từ của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai và cũng là dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy ra trong cuộc đời của Ngài. Các tông đồ là những người gần gũi Chúa, nhưng thực sự, các Ông vẫn chưa hiểu gì về sứ mạng của Ngài. Do đó, đã có sự tranh dành quyền hành xem ai sẽ làm lớn, làm bé trong vương quốc của Chúa Giêsu. Chính hai con của Ông Giêbêđê cũng đã một lần bầy tỏ mong ước một người được ngồi bên tả, một người được ngồi bên hữu Chúa Giêsu trong vương quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã trả lời với hai Ông và bà mẹ của hai Ông rằng việc ngồi bên hữu và bên tả Ngài không thuộc quyền của Ngài nhưng liệu các Ông có uống nổi chén Ngài phải uống và thứ thanh tẩy mà Ngài phải chịu không ? Như vậy là có một cuộc thanh tẩy khác đang chờ Chúa Giêsu: cuộc thống khổ và cái chết của Ngài trên thập giá. Cuộc thanh tẩy không phải bằng nước của sông Giođăng và từ tay của Gioan nhưng bằng chính máu của Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá. Vâng, Chúa chịu thanh tẩy ở sông Giođăng từ tay Gioan Tẩy Giả là dấu chứng nhân loại được tẩy luyện bằng chính máu của Ngài và được sống lại trong vinh quang của Ngài, đồng thời nhân loại và con người được làm con của Chúa và là anh em với nhau.
Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa, việc thanh tẩy không chỉ là một nghi thức bên ngoài nhưng là nó trở thành cuộc sống mới, trở thành nguồn ơn cứu độ cho mọi người. Tội lỗi đã bị đánh bại. Sự sống đã bừng lên và ánh sáng của phục sinh đã tỏa sáng nơi gian trần. Bí tích thanh tẩy mà người Kitô hữu lãnh nhận không chỉ dừng tại đó khi được chịu phép rửa. Nhưng nó kéo dài suốt trong cuộc sống: nó đẩy lùi tội lỗi cá nhân con người nhưng nó còn đẩy lùi tội khỏi nhân loại và khỏi tập thể của cộng đồng nhân loại.Chính vì thế, khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội, làm con của Chúa và con cái của Giáo Hội, người môn đệ Chúa dứt khoát không được thờ ơ, lãnh đạm với những đau khổ của tha nhân: nghèo đói, thiên tai, tội ác, hận thù, ích kỷ. Thờ ơ với những sự khó khăn, những cam go thử thách ở trần gian, người Kitô hữu sẽ không chu toàn lời cam kết khi họ lãnh nhận bí tích thanh tẩy và như thế họ chưa làm chứng được cho Thiên Chúa là Đấng yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn yêu mến các bí tích đặc biệt bí tích thanh tẩy chúng con đã lãnh nhận làm cho chúng con trở nên Con Thiên Chúa và Con của Hội Thánh, và trở thành anh em với nhau. Amen.
Bí tích là gì ? Nhớ lại những này còn thơ bé, hơi bị vất vả để “gặm nhắm” những trang giáo lý: TN 1-C48
Bí tích là gì ? Nhớ lại những này còn thơ bé, hơi bị vất vả để “gặm nhắm” những trang giáo lý trong quyển “Bổn đồng ấu”. Bài học khá gây ấn tượng nhưng cũng hết sức trừu tượng đó chính là loạt bài Bí tích. Bổn đồng ấu dạy rằng: Bí tích là dấu chỉ Chúa Giêsu đã lập để thông ban cho ta ơn bên trong ! dấu chỉ là dấu chỉ như thế nào và ơn bên trong là ơn ra làm sao ? Quá khó hiểu cho đầu óc còn thơ dại.
Lớn lên một chút, được các anh các chị hướng dẫn viên chỉ dạy: bí tích là những dấu chỉ hữu hình nhờ đó chúng ta được lãnh nhận ơn sủng của Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội. Đây là những phương tiện cứu rỗi hữu hiệu mà Chúa Kitô đã thiết lập để ban phát ơn cứu độ của Người trong Giáo Hội là thân thể nhiệm mầu của Chúa. (x. SGLGHCG số 774).
Điều kiện quan trọng để lãnh cách hiệu quả bất cứ bí tích nào, là phải có đức tin, tức là tin có hiệu quả thiêng liêng thật sự của bí tích muốn lãnh nhận hợp pháp trong Giáo Hội. Thí dụ, khi lãnh bí tích Thánh Thể, tức là rước Mình Máu Chúa Kitô, thì phải tin rằng có Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh và rượu nho; nếu không, việc rước Chúa sẽ là vô ích. Cũng vậy, khi đi xưng tội, nếu hối nhân không tin có Chúa Giêsu hiện diện và tha tội cho mình qua tác vụ của một linh mục, dù là bất xứng dưới mắt người đời, thì việc xưng tội sẽ không mang lại lợi ích nào cho hối nhân.
Chính vì thiếu điều kiện đức tin này, nên có người đã nói: tôi được rửa tội rồi mà có thấy mình được “tái sinh” ở chỗ nào đâu, tôi vẫn thấy tôi nguyên vẹn như cũ ! hoặc “sau mỗi mùa chay và tuần thánh, tôi đâu có thấy mình chết đi và được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh như Giáo Hội nói đâu”!
Chỉ có đức tin mới cho phép ta tin có sự đổi mới trong tâm hồn sau khi nhận lãnh bí tích rửa tội, nhờ đó tội nguyên tổ và mọi tội cá nhân được tẩy sạch và đươc tái sinh trong sự sống mới, tức là “mặc lấy Chúa Ktô” như Thánh Phaolô đã dạy (x. Gl 3, 27).
Với những người không tin thì họ không thể lãnh nhận được các bí tích. Với những người không Nhìn vào phép rửa tội làm sao có thể tin được. Với một chút nước và với lời đọc bỗng dưng người ta lại được trở thành con cái Chúa. Thế mới gọi là mầu nhiệm. Sau khi lãnh nhận mầu nhiệm Thanh Tẩy - mầu nhiệm Phép rửa thì người nhận sẽ được ơn của mầu nhiệm ấy để đủ sức sống mầu nhiệm ấy một cách tốt đẹp như lòng Chúa mong muốn.
Phép rửa là cửa đưa vào sự sống và Nước Trời. Đó là Bí tích đầu tiên của Luật mới mà Chúa Kitô hiến cho mọi người để được sống đời đời. Đó cũng là Bí tích Người đã trao cho Hội Thánh cùng với Tin Mừng khi Người truyền cho các Tông Đồ “đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Vì thế, phép rửa là bí tích của đức tin: chính đức tin con người được Thánh Thần soi sáng, bày tỏ để đón nhận Tin Mừng của Chúa Kitô. Vì thế, điều mà Hội Thánh tha thiết mời gọi đó chính là lòng tin, thụ nhân cần có một đức tin chân thật và sống động, để theo Chúa Kitô và bắt đầu hoặc xác định lại lời cam kết trong giao ước mới.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu trước khi bắt đầu sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa cùng với dân sau khi nghe lời của Gioan rao giảng. Hành động của Chúa Giêsu hôm nay như công nhận và công khai lập phép Thanh Tẩy. Hành động này như làm gương cho những ai muốn trở thành con cái Chúa, trở thành chi thể mầu nhiệm của Hội Thánh.
Sau khi nghe giảng, sau khi đón nhận Tin mừng nếu như thì người nghe tin nhận thì họ sẽ nhận nghi lễ thanh tẩy. Nghi lễ thanh tẩy, vừa tượng trưng cho, vừa xác nhận một sự thay đổi đang xảy ra trong tâm hồn những người nghe (Cv 2, 37-41; 16, 34-39). Việc thanh tẩy này là bằng chứng của việc họ đón nhận sứ điệp họ đã nghe, và bằng chứng của việc họ được hiệp nhất với sự chết và sống lại của Đức Kitô. Nhờ Ngài, họ chết đi đối với tội lỗi và được tái sinh vào trong một cuộc sống mới (Cv 8, 12-13; 16, 32-34). Đối với nhiều người trong họ, đây quả thực là một khởi đầu cho một cuộc sống, và một nếp sống mới. Ơn cứu độ là một cái gì đó rất thật đối với họ: họ được giải thoát khỏi một lối sống họ đã quen, và họ kinh nghiệm được ơn cứu độ cả trong việc thay đổi thái độ và trong việc gia nhập cộng đoàn vừa mới được thành lập.
Nghi lễ bí tích đặc biệt nhất là Bí tích Thanh Tẩy là nghi lễ đặt tay. Sách Công vụ kể lại, ngay sau khi Đức Kitô hiện ra lần cuối, một vài người trong các đồ đệ Ngài đã trải qua một kinh nghiệm tôn giáo hết sức sâu sắc làm thay đổi toàn bộ cuộc sống họ. Đó là dịp lễ Ngũ Tuần của người Do thái, nhưng kể từ ngày ấy, lễ này đã thành một lễ của Kitô giáo, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, và cũng là “ngày khai sinh ra Hội Thánh Công giáo”.
Sách Công Vụ cũng cho thấy rằng lúc ấy các môn đệ đang ở trong phòng, họ nghe thấy những tiếng như thể cuồng phong, và họ thấy những lưỡi lửa xuất hiện trên đầu mỗi người. Bỗng họ thấy có một cái gì đó đang thay đổi từ bên trong họ, và họ được đầy tràn một thần khí mới. Đó cũng là thần khí đã thấm đẫm trên Chúa Giêsu. Họ tin rằng đó là Thần Khí Thiên Chúa.
Con người cũng có khả năng đem cho con người niềm hân hoan, hy vọng và can đảm như thế khi họ được chứng kiến những gì đã xảy ra cho thầy họ, vậy ta phải hiểu thế nào về những gì đã xảy ra cho các tông đồ trong những ngày ấy? Con người có thể làm cho các môn đệ diễn tả những gì đang xảy ra cho họ bằng một thứ ngôn ngữ họ chưa hề được nghe chăng? Như thế sự kiện này chắc chắn phải do chính Thiên Chúa và Thần Khí Ngài (xem Cv 2, 1-4).
Điều ngạc nhiên hơn đối với những người đón nhận Tin Mừng là họ có thể trở nên công cụ đem Thần Khí ấy cho người khác. Họ bắt đầu công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu cho tha nhân, và ai đã đón nhận Ngài là Chúa, đều được thánh tẩy trong danh Ngài. Họ sẽ đặt tay trên người ấy và xin cho người ấy được tràn đầy Thánh Thần như họ. Và điều kỳ diệu họ xin đã được chấp nhận. Người ấy sẽ có kinh nghiệm về việc được tràn đầy một Thần Khí mới. Và đôi khi họ còn được ngợi khen Thiên Chúa bằng các thứ tiếng lạ (Cv 19, 4-6). Việc đặt tay này thường xảy ra ngay sau khi Thánh Tẩy, nhưng thỉnh thoảng cũng phải chờ một thời gian (Cv 8, 14-17). Đặt tay chắc chắn là một hành vi bí tích. Vì đó là biểu tượng của một cái gì đó không thể thấy được, của việc Thần Khí đáp xuống trên một con người. Và đó cũng là một biểu tượng phát sinh hiệu quả. Và người ta có thể thấy được hiệu quả ấy trong thái độ của người ấy, và chính đương sự cũng cảm thấy hiệu quả ấy nữa. Vậy ý nghĩa của việc đặt tay chính là việc trao ban Thần Khí, thần khí tình yêu, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, tốt lành, trung tín, hiền lành, và tiết độ (Gl 5, 22-23). Đó còn là một khẳng định rằng Thiên Chúa đã đón nhận họ, vì Ngài đã trao ban cho họ cùng một Thần Khí mà Ngài đã ban cho Chúa Giêsu.
Hôm nay, khi nhận bí tích Thanh Tẩy, Chúa Giêsu được Thần Khí ngự xuống trên Ngài và rồi cũng chính Thần Khí ấy đã ở với Ngài trong mọi nẻo đường, trong mọi hành trình của cuộc đời. Với thái độ, với tâm tình hoàn toàn vâng phục Thánh ý của Chúa Cha, Chúa Giêsu hôm nay được Cha xác nhận: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con. Lời chân nhận của Cha hôm nay sao mà dễ thương quá, sao mà ấm cúng quá ! Cha với con và con với Cha ! Tình cảm giữa Cha và Con không còn khoảng cách nữa. Cha với Con là một. Thiển nghĩ điều mà Thiên Chúa cũng muốn nơi người tin cũng như là điều mà Chúa muốn nơi Chúa Giêsu đó là trở thành con yêu dấu của Ngài.
Nhận bí tích Thanh Tẩy nhưng sống bí tích Thanh Tẩy không phải là chuyện đơn giản. Phải luôn luôn nhờ ơn Chúa Thánh Thần thì ta mới có thể sống mầu nhiệm mà ta lãnh nhận khi chịu phép Thanh Tẩy được. Cũng như Chúa Giêsu, từng giây từng phút trong cuộc đời của Ngài, Ngài luôn kết hợp mật thiết với Chúa Thánh Thần để chu toàn sứ vụ mà Chúa Cha trao phó.
Hôm nay, nhớ lại ngày Chúa Giêsu chịu Thanh Tẩy cũng là dịp chúng ta nhớ ngày chúng ta nhận phép Thanh Tẩy. Mang trong mình phận hèn yếu đuối, dễ chạy theo tà thần, dễ chạy theo những danh vọng trần tục mà đánh mất đi ơn gọi cao quý là trở thành con Chúa cũng như hưởng vinh quang với Ngài. Xin Chúa ban thêm ơn của Thần Khí xuống trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta sống sao cho tròn bổn phận, cho đẹp lòng Thiên Chúa Cha như Chúa Giêsu đã sống.
Thuở tạo dựng, Thiên Chúa dùng Lời quyền năng và Thần Khí của Người mà tác thành muôn: TN 1-C49
Thuở tạo dựng, Thiên Chúa dùng Lời quyền năng và Thần Khí của Người mà tác thành muôn loài muôn vật: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33, 6).
Cho đến ngày, tại dòng sông Gio-đan, Đức Giê-su chịu phép rửa, đang lúc Người cầu nguyện, trời mở ra, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu dấu của Chúa Cha; cùng lúc ấy, hình ảnh chim câu xuất hiện báo hiệu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
Thế là, Ba Ngôi cùng hiện diện và mang lại một cuộc tạo dựng mới.
I. CHUẨN BỊ
Vẫn biết lịch sử cứu độ là cả một lịch sử chờ đợi Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên để đón nhận sự kiện trọng đại này con người cần phải có những chuẩn bị cần thiết. Chính Thánh Gio-an Tẩy giả đã giúp họ.
Đời sống thánh thiện, lời rao giảng mời gọi mời ăn năn thống hối của thánh Gio-an Tẩy giả đã ảnh hưởng đến lòng khao khát mong đợi của dân đối với Đấng Cứu Thế, đã thúc dục họ đón nhận phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối, đến độ có người lầm tưởng thánh nhân là Đấng Cứu Thế (x. Lc 3, 15).
Như vậy, việc đón nhận Thiên Chúa sẽ không xảy ra theo cách ngẫu nhiên tình cờ hay gượng ép, mà khởi đi từ ý hướng ngay lành, sự chân thành xin chịu phép rửa tỏ lòng thống hối ăn năn quay về với Thiên Chúa.
Hơn lúc nào hết, muôn dân thiên hạ và đặc biệt những tâm hồn ngay lành luôn cần những ngôn sứ như thánh Gio-an Tẩy giả đơn sơ, khổ hạnh, sáng suốt… gợi hướng cho họ đến với Thiên Chúa, Đấng là con đường là sự thật và là sự sống.
II. ĐÓN NHẬN
Thiên Chúa đã dùng thánh Gio-an Tẩy giả để chuẩn bị lòng người nên thanh sạch mở lối đón chờ Đấng Cứu Thế.
Do lời giới thiệu của thánh Gio-an Tẩy Giả, nhân loại phải hướng đến Đấng Cứu Thế là Đấng quyền năng sẽ thanh tẩy họ trong Chúa Thánh Thần và trong lửa (x. Lc 3, 16). Đấng ấy, tuy vô tội nhưng đang hòa mình trong dòng người tội lỗi, khiêm tốn nhận phép rửa sám hối của thánh Gio-an Tẩy giả, hầu thống hối thay cho kẻ tội lỗi…
Đến đây, sau giai đoạn thánh Gio-an Tẩy giả chuẩn bị lòng người đón nhận Đấng Cứu Thế, thì chính Đấng Cứu Thế sẽ trực tiếp chuẩn bị cho con người đón nhận sự sống mới trong Thiên Chúa
Đấng Cứu Thế đã khởi sự làm gì để ban cho của con người sự sống mới? Người đã cầu nguyện! Cầu nguyện chính là lúc Đức Giê-su tiếp xúc với Chúa Cha. Khi ấy, trời đã mở ra, có tiếng Chúa Cha giới thiệu công khai Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa; và lúc ấy, Chúa Thánh Thần cùng xuất hiện. Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hoạt động để tái tạo con người. Cuộc tạo dựng mới thật kỳ diệu.
Trong cuộc tạo dựng mới, con người đi vào chương trình của Ba Ngôi Thiên Chúa. Họ được đón nhận phép rửa của Đấng Cứu Thế. Nhờ vậy, họ sẽ dìm mình vào trong sự chết và phục sinh của Chúa Con (x. Rm 6, 4-8), được Chúa Thánh Thần thúc đẩy để kêu lên với Chúa Cha “ Ap-ba Cha ơi!” (x. Gl 4, 6). Từ đó, họ sẽ có những biến chuyển tích cực trong tâm linh và tâhn xác, thể hiện bằng một đời sống mới.
III. SỰ SỐNG MỚI
Được tái tạo, người tín hữu trở nên thụ tạo mới (2Cr 5, 17), thông phần vào bản tính Thiên Chúa (2Pr 1, 4), trở nên thân thể trong Đức Ki-tô (Rm 12, 15), được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6, 19). Nhờ vậy họ sẽ:
Cảm nhận một sức sống bừng lên mãnh liệt. Sự sống tự nhiên trở nên sống động, tràn đầy niềm vui.
Từ bỏ lối sống vô luân, những đam mê trần tục, phản Tin Mừng… của con người cũ, nếp sống xưa…
Chấp nhận sự thanh luyện cần thiết để trở nên người lính giỏi của Thiên Chúa.
Liên tục hoán cải để kịp thời sửa chữa những thái độ và hành vi tội lỗi, hầu luôn nhận ơn tha thứ và bình an.
Làm việc lành, hy sinh hãm mình … hầu khơi lên lòng thống hối cho những người lầm lỗi khuyết điểm…
Dấn thân sống bác ái yêu thương, hòa điều với cộng đồng nhân loại: vui với người vui, khóc với người khóc.
Thân thiện với môi trường thiên nhiên là chính công trình tay Chúa sáng tạo. Liên lỉ cầu nguyện, tiếp xúc với Thiên Chúa xin Chúa thứ tha cho bản thân và nhất là cho những ai tội lỗi khuyết điểm, chối Chúa, chống Chúa hoặc chưa biết Chúa …
Sống công chính, thao thức tìm kiếm thánh ý Chúa trong niềm cậy trông hy vọng và phó thác.
Tích cực loan báo Tin Mừng cứu độ lan tỏa đến khắp cùng bờ cõi trái đất để thế giới cảm nghiệm về ơn cứu rỗi, về tình yêu Thiên Chúa thể hiện tuyệt vời nơi Chúa Giê-su.
Trở nên thụ tạo mới trong cuộc tạo dựng mới, người tín hữu được mời gọi liên tục biến đổi và không ngừng phát triển sự liên hệ với Thiên Chúa. Cùng muôn loài muôn vật, họ ngóng chờ ngày Thiên Chúa bày tỏ vinh quang (x. Rm 8, 19), ngày được Thiên Chúa cứu độ cả thân xác (x. Rm 8, 23).
Trong thân phận con người, Chúa Con khiêm tốn đón nhận phép rửa; trời đã được mở ra, Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện ban cho muôn loài muôn vật một cuộc tạo dựng mới. Được tái tạo, người tín hữu đón nhận chính sự sống được Thiên Chúa phục hồi. Nhờ vậy họ sẽ có những chuyển biến tích cực trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Muôn loài muôn vật đã được tái tạo, nhưng không phải ai cũng nhận ra điều này. Người tín hữu mang trọng trách cùng Thiên Chúa tiếp tục tạo dựng, thể hiện qua việc cảm hóa thế giới bằng gương sáng và đời sống tốt lành của mình.
Chúng ta đã bắt đầu chu kỳ Phụng Vụ Năm C với Chúa Nhật I Mùa Vọng để chuẩn bị mừng: TN 1-C50
Chúng ta đã bắt đầu chu kỳ Phụng Vụ Năm C với Chúa Nhật I Mùa Vọng để chuẩn bị mừng Đại Lễ Chúa Giáng Sinh. Sau Lễ Chúa Giáng sinh là Chúa Nhật Lễ Thánh Gia, tiếp sau là Chúa Nhật Lễ Hiển Linh (Lễ Ba Vua); sau đó chấm dứt Mùa Giáng Sinh. Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật I Mùa Thường Niên với Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa. Năm nay, “Mùa Thường Niên, Phần I” sẽ kéo dài đến Chúa Nhật VI Thường Niên, sau đó sẽ bước vào Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro, để chuẩn bị mừng Đại Lễ Phục Sinh. Sau Lễ Phục Sinh, chúng ta sẽ mừng Chúa Nhật II Mùa Phục Sinh (Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa), rồi Chúa Nhật III, IV, V, VI và VII Mùa Phục Sinh (ở nhiều nơi, Lễ Chúa Giêsu Lên Trời được mừng vào Chúa Nhật VII Mùa Phục Sinh); tiếp theo là Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và chấm dứt Mùa Phục Sinh để bước sang “Mùa Thường Niên, Phần II” với Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi, Chúa Nhật Lễ Mình và Máu Thánh Chúa, và sau đó là Chúa Nhật Thường Niên XI trở đi. “Mùa Thường Niên Phần II” sẽ chấm dứt với Lễ Chúa Nhật Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ, và là Chúa Nhật cuối cùng của Niên Lịch Phụng Vụ của Giáo Hội, để rồi lại bước vào một Niên Lịch Phụng Vụ mới, Năm A.
Như vậy, qua chu kỳ niên lịch Phụng Vụ, chúng ta được sống lại cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần gian với nhiều biến cố khác nhau từ khi Ngài sinh ra, lớn lên, ra đi rao giảng Tin Mừng tình thương, bị khổ nạn, chịu chết trên Thánh Giá, an táng trong mồ, sống lại và lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.
Để chúng ta có thể đọc và sống lại lịch sử ơn cứu độ từ Cựu Ước đến Tân Ước, Giáo Hội đã chia lịch Phụng Vụ thành những chu kỳ Năm A, Năm B và Năm C, với Bài Đọc I thường trích trong Thánh Kinh Cựu Ước, Bài Đọc II trích từ Thánh kinh Tân Ước (Sách Công Vụ Tông Đồ, các Thánh Thư của Thánh Phaolô (14 thư), Thánh Phêrô (2 thư), Thánh Gioan (3 thư), Thánh Giacôbê (1 thư), Thánh Tađêô (1 thư), và Sách Khải Huyền. Bài Phúc Âm trích từ Phúc Âm theo Thánh Matthêu, hoặc Matcô, Luca hay Gioan.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là Chúa Nhật I Mùa Thường Niên. Mùa Thường Niên là mùa để chúng ta sống lại những ngày trong đời sống Công Khai của Chúa Giêsu cùng với những công việc Chúa Giêsu đã làm để rao giảng Phúc Âm tình thương của Ngài như: đến dự tiệc cưới Cana và làm phép lạ hóa nước thành rượu (Gioan 2: 1-11), đi rao giảng các nơi, làm các phép lạ, thăm viếng các gia đình, đến với mọi người, nhất là những người nghèo khó, bệnh tật để an ủi và nâng đỡ họ. Ngài cũng đến với những người tội lỗi, những người thu thuế, những người Biệt Phái để cảnh giác và kêu gọi họ trở về đường ngay nẻo chính; đặc biệt, Ngài gọi một số người để huấn luyện trở thành các Tông Đồ, và chuẩn bị lập Giáo Hội Chúa ở trần gian để tiếp tục công cuộc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho mọi người ở mọi thời đại và mọi nơi.
Chúa Giêsu đã bắt đầu công cuộc rao giảng của Ngài bằng việc đến dòng sông Giordan để chịu Phép Rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả. Đây chỉ là Phép Rửa để dọn lòng thống hối. Thánh Gioan đã ban phép rửa thống hối cho dân chúng trên dòng sông Giordan để dọn lòng dân chúng đón chờ Đấng Cứu Thế. Sông Giordan là con sông chính của nước Do Thái, chảy dọc từ miến Bắc xuống Biển Hồ Tibêriat, rồi tiếp tục chảy xuống Biển Chết. Chỗ Thánh Gioan ban Phép Rửa Thống Hối là “Bêtania bên kia sông Giordan” (Gioan 1: 28) (Bêtania ở đây khác với Bêtania quê hương của chị em bà Matta, Maria và Lagiarô). Phép rửa của Thánh Gioan không phải là Bí Tích Rửa Tội mà Chúa Giêsu đã lập. Phép rửa của Thánh Gioan chỉ là phép rửa thống hối, dọn lòng dân chúng đón chờ Đấng Cứu Thế. Còn Bí Tích Rửa Tội thanh tẩy chúng ta khỏi tội Nguyên Tổ và tội riêng chúng ta phạm (nếu là người lớn). Đây là sự thanh tẩy nội tại của Bí Tích Thanh Tẩy do ơn Chúa Thánh Thần. Lửa nói lên sức thanh tẩy của Chúa Thánh Thần, như trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Công Vụ Tông Đồ 2: 1-4), khi các Tông Đồ đang cầu nguyện thì Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa đậu trên đầu các Ngài, và biến đổi các Ngài trở nên những con người mới, những Tông Đồ nhiệt thành, thông hiểu Lời Chúa để các Ngài rao giảng cho dân chúng. Các em nhỏ mới sinh đều có thể được chịu Bí Tích Rửa Tội để được thanh tẩy khỏi tội Nguyên Tổ. Còn những người lớn thì phải học để hiểu biết đầy đủ về Giáo lý, và phải có lòng thống hối từ bỏ tội lỗi.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 3: 15-16, 21-22) cho chúng ta thấy dân chúng đến chịu Phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả đông đảo và hỏi nhau xem Gioan có phải là Đấng Kitô không. Chính Thánh Gioan đã xác nhận ông không phải là Đấng Kitô. Ông cũng nói cho dân chúng biết ông chỉ rửa trong nước, nhưng Đấng Kitô đến sau ông “sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Chúa Giêsu cũng đến chịu phép rửa của Thánh Gioan để cùng hòa mình với dân chúng và bắt đầu cuộc sống công khai. Chính trong dịp này, “Thánh Thần Chúa đã ngự xuống trên Ngài theo hình chim bồ câu và có tiếng của Chúa Cha xác nhận: Con là con Cha yêu dấu, con đẹp lòng Cha mọi đàng.”
Bài Đọc I (Isaia 42: 1-4, 6-7) ghi lại những lời Tiên Tri Isaia đã tiên báo về Đấng Kitô được Thiên Chúa chọn, và Thánh Thần thánh hiến, sai đi để đem ánh sáng chân lý đến cho mọi dân tộc. Bài Đọc II (Công Vụ Tông Đồ 10: 34-38) ghi lại lời giảng của Thánh Phêrô xác định rõ ràng Chúa Giêsu thành Nagiaret, chính là Ngôi Lời mà Thiên Chúa sai đến để loan báo Tin Mừng cứu rỗi.
Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến và cảm tạ Chúa về ân huệ chúng ta được lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội để trở nên con cái Chúa, và chính thức gia nhập gia đình Giáo Hội Chúa. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta có bổn phận phải sống trung thành với lời hứa khi chịu phép Rửa Tội là từ bỏ tội lỗi, giữ vững Đức Tin và luôn sống xứng đáng là những người con của Chúa. Vì thế, vào cuối lễ nghi Rửa Tội, chúng ta đã nhận lãnh tấm áo trắng và lời nhắn nhủ: “Con đã trở nên một con người mới và đã mặc lấy Chúa Kitô, chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con… Con hãy giữ nó tinh tuyền mãi đến cõi trường sinh.” Sau đó, chúng ta cũng được trao cây nến cháy sáng đốt từ ngọn lửa cây nến Phục Sinh với lời nhắn nhủ: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, con hãy sống như con cái sự sáng để được bền vững trong Đức Tin. Khi Chúa đến, con mới xứng đáng ra đón Người với toàn thể các Thánh trên trời.” Nếu là người lớn, ngay sau khi nghi lễ Rửa Tội, chúng ta lại được chịu Bí Tích Thêm Sức để lãnh nhận đặc biệt ơn Chúa Thánh Thần và có bổn phận “làm chứng về cuộc khổ nạn và Phục sinh của Chúa,” lo chu toàn bổn phận Tông Đồ Giáo Dân: đem Chúa đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ hàng ngày bằng chính đời sống tốt lành của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau và nâng đỡ nhau trong cuộc sống để mọi nơi, mọi lúc, chúng ta luôn sống xứng đáng là con cái Chúa, và đem Chúa đến cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày. Cũng nhớ tiếp tục cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho các vị Chủ Chăn, các Linh Mục trong “Năm Linh Mục” này. Xin Mẹ Maria và các Thánh chuyển cầu cho chúng ta.