Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và: TN 2-C101
Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và mặn nồng là điều ai cũng ước mong khi bước vào đời sống hôn nhân - gia đình. Nói về chữ tình thì có lẽ tình hôn nhân đứng hàng đầu so với các thứ tình nhân loại khác như tình mẫu tử, phụ tử, bằng hữu... Đức Bênêđictô XVI đã nhận định: "Tình yêu này, tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được, có vẻ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu hầu như mờ nhạt đi" ( TĐ Thiên Chúa Là Tình Yêu số 2 ).
Tình yêu hôn nhân được đề cao không nguyên chỉ vì người ta thoáng nhận ra nét đẹp là sự hết lòng và tính vô cầu nơi tình yêu này mà còn thấy được tầm quan trọng của nó là làm nên gia đình vốn là tế bào của xã hội. Quả thật lịch sử minh chứng rằng ở đâu mà tình yêu hôn nhân bị hạ giá thì ở đó đời sống xã hội dễ bị xuống cấp, bất ổn và nền đạo đức dễ bị băng hoại. Thánh Tông đồ dân ngoại đã dùng tình yêu đôi lứa làm dấu chỉ cho tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Nhiều Ngôn sứ như Hôsê, Isaia cũng dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. " Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo người sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Chúa ngươi thờ" ( Is 62,5 ).
Con Thiên Chúa đã làm người, chào đời trong một mái gia đình. Khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng và trong lần đầu tiên thể hiện quyền năng, Chúa Giêsu đã cứu giúp một đôi tân hôn khỏi bẽ mặt trước quan khách trong một tiệc cưới. Qua bài tường thuật của tin mừng thánh Luca về phép lạ hóa nước thành rượu ngon của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana chúng ta có thể rút ra đôi điều nhận định về đời sống hôn nhân gia đình:
- Luôn có đó nhiều sự kiện hay biến cố dù không mong vẫn cứ đến, dù chẳng muốn vẫn cứ xảy ra. Đã tổ chức tiệc cưới thì việc chuẩn bị rượu cách đủ đầy và có dư là điều như tất yếu. Với người Do Thái thời bấy giờ thì đây là chuyện hẳn nhiên, vì theo phong tục tập quán thì tiệc cưới có thể kéo dài từ ba đến bảy ngày. Tiệc cưới tại Cana có thể nói là đám tiệc không nhỏ. Chúng ta có thể luận suy điều này vì có người quản tiệc và số lượng chum nước dùng cho việc thanh tẩy ( sáu chum nước, mỗi chum khoảng tử 80 dến 120 lit nước ). Tiệc lớn, ắt gia đình phải khá giả. Nhà khá giả thì chuyện chuẩn bị rượu cho khách không phải là chuyện quá sức và dĩ nhiên ít khi bị xao lãng. Thế mà tiệc chưa tàn thì rượu đã hết !
Từng hỏi nhiều đôi hôn nhân chung sống từ muời, hai muơi năm trở lên rằng các bạn đã bất hòa với nhau bao nhiêu lần, thì được câu trả lời là đếm không hết. Lại hỏi tần suất những lần mà những chuyện không như ý lớn nhỏ xảy ra là bao nhiêu, thì được trả lời là khoảng trên dưới một tuần một lần. Quả thật khi đã chung sống, chung mâm, chung nhà, chung... thì khó tránh được sự "chung đụng" do nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía này hoặc phía kia. Nhìn nhận hiện thực cuộc sống để rồi chủ động tìm cách giải quyết, khắc phục, nghĩa là để duy trì và phát triển sự mặn nồng của tình yêu.
- Ngoài nỗ lực của bản thân người trong cuộc là đôi bạn thì rất cần đến sự giúp đỡ của người thân và cả những người hữu quan miễn là họ vốn có tầm lòng và sự bén nhạy với các tình huống. Tấm lòng và sự nhạy bén của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana thì chúng ta đã rõ. Không kể Chúa Giêsu, có lẽ khách dự tiệc hôm ấy đang ở cao trào của tiệc vui vì tình trạng " ngà ngà say", nên dường như chẳng có ai phát hiện sự cố thiếu rượu. Với tấm lòng nhạy bén, Mẹ Maria đã nhận ra sự cố này để rồi đến xin Chúa Giêsu ra tay can thiệp, cứu giúp.
"Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng". Sự thường người ngoài cuộc thì dễ có sự bình tâm để nhìn nhận vấn đề hơn. Tuy nhiên người ở ngoài này phải có cái tâm, cái tình và cái nhìn cách nào đó như tình người trong cuộc, nghĩa là xem như chuyện của mình. Để cho tình yêu hôn nhân vững vàng trước những sóng gió bễ đời, thì sự góp phần của mẹ cha, ông bà, thân bằng quyến thuộc là điều đáng trân trọng và đáng cầu mong. Xin đừng quên vai trò thiết yếu và hữu hiệu của người Mẹ đã nhận nhân loại chúng ta làm con khi Người đứng dưới chân thập giá năm nào ( x.Ga 19,26-27 ). Đến với Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được Mẹ dẫn đến với Giêsu, Con của Mẹ là Đấng mà không có sự gì là không thể làm được.
- Đã yêu thì không chờ cơ hội cũng chẳng đợi đến thời đến buổi. Dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang, nhưng vì yêu thương Chúa Giêsu đã ra tay giáng phúc cho đôi tân hôn hôm ấy. Dù đã cùng với các môn đệ lánh riêng một nơi để nghỉ ngơi thế mà trước đoàn lũ dân chúng đông đảo như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu đã tiếp tục giảng dạy họ nhiều điều ( x. Mc 6,30-34 ). Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải làm ngay hôm nay những gì ở trong tầm tay. Thiên Chúa là Tình Yêu và với Người thì mọi sự đều là hiện tại. Đã yêu hay sẽ yêu thì chưa hẳn là yêu. Động từ yêu cần phải luôn ở trong thì hiện tại.
- Sự kiện Chúa Giêsu làm cho sáu chum nước tức là khoảng sáu đến bảy trăm lít nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng khiến chúng ta nhận ra một quy luật của tình yêu đó là phải nhiều và mặn nồng hơn mãi. Có lẽ nhiều đôi bạn như chưa nhận thức đủ quy luật này. Tương tự như sự học, chuyện tình yêu như con thuyền đi dòng nước ngược. Không tiến thì ắt lùi.
- Để mặn nồng trong tình yêu thì lời căn dặn của Mẹ Maria quả là rất đáng lắng nghe và tuân giữ: "Người bảo gì thì hãy làm theo". Thực thi lời Chúa dạy là điều tất yếu, nếu muốn vẹn chữ tình. Xin chớ dong dài luận lý trước mệnh lệnh Chúa truyền nếu chúng ta đã tin nhận Người là Đấng toàn tri và nhân hậu vô cùng. Vẫn có đó nhiều lứa đôi than vãn rằng con cầu xin mãi mà Chúa chưa ban cho gia đình ấm êm, thuận hòa. Trong nhiều lý do thì thường có lý do này là họ vẫn mãi cố chấp biện minh cho mình mà không thực thi điều Chúa phán trong lương tâm hay qua sự hướng dẫn của các mục tử hay qua sự khuyên bảo của những người khôn ngoan và đầy thiện ý.
- "Hãy đổ nước đầy các chum !" Đây là nước dùng cho việc thanh tẩy theo tục lệ của người Do Thái thời bấy giờ. Tập tục lúc bấy giờ, khi dùng bữa người Do Thái không ngồi trên ghế mà nằm nghiêng giữa sàn nhà. Vì thế việc rửa chân tay không chỉ mang tính lễ nghi thanh tẩy theo truyền thống mà còn để giữ vệ sinh cho sàn nhà, nơi các thực khách nằm mà dùng bữa. Để giữ sự mặn nồng tình yêu thì Chúa Giêsu lại ra lệnh làm một việc của sự thanh tẩy. Điều này nhắc nhớ chúng ta sự thật này: những bất hòa, bất ổn trong tình yêu hôn nhân gia đình thường có nguyên nhân là lỗi hay tội của ai đó hay của cả đôi bên. Thanh tẩy tâm hồn là điều cần thực hiện liên lĩ. Thanh tẩy không nguyên chỉ để cho tâm hồn mình trong sáng, tinh sạch mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu thương.
Tu thân -Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ. Cái nhìn của người xưa vẫn chưa hề lỗi vậy.
Con người sống trên trần gian ngoài cơm áo gạo tiền, danh vọng địa vị, vậy còn có điêù gì làm thoả: TN 2-C102
1/ Con người sống trên trần gian ngoài cơm áo gạo tiền, danh vọng địa vị, vậy còn có điêù gì làm thoả mãn cho cuộc sống nữa hay không? Chắc chắn là có. Bởi những cái mau qua của trần thế không bao giờ đem đến hạnh phúc thật cho con người. Điều mang đến hạnh phúc đích thực cho con người là chính Chúa. Vì thế Chúa chính là nguồn vui của con người, như lời Thánh Vịnh đã nói: "Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con." (Tv 43.4) Vì Chúa là sự hoan lạc, cho nên nơi đâu có sự hiện diện của Chúa, thì nơi đó niềm vui cùng với hạnh phúc sẽ dâng trào.
2/ Trang Tin mừng trong thánh lễ hôm nay sẽ là bằng chứng nói lên niềm vui bắt nguồn từ Thiên Chúa:
Trong khung cảnh tiệc cưới tại Cana, ta thấy Chúa Giêsu đã đem niềm vui đến cho gia đình chủ hôn và những người dự tiệc rất nhiều: Trước hết bằng sự hiện diện trong tiệc cưới để chia vui với gia đình chủ hôn, thì Chúa Giêsu đã làm tăng thêm niềm vui cho gia đình này. Thứ đến, niềm vui ấy còn được nhân rộng hơn, không những cho gia đình chủ hôn, mà còn cho Mẹ Maria, các Tông đồ và những thực khách dự tiệc, khi Chúa đã làm dấu lạ hoá nước thành rượi ngon, để nối dài niềm vui cho hết mọi thành phần đang tham dự bữa tiệc hôm nay. Chắc chắn những ai tham dự bữa tiệc có một không hai này, họ rất cảm phục và vui sướng trước việc tốt lành mà Thiên Chúa đã thực hiên cho họ.
3/ Việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu đó là biển hiện thời của Đấng Thiên Sai:
Trong thời hạnh phúc ấy: nước mắt sẽ thay cho tiếng cười, tang chế đau khổ sẽ biến thành niềm vui, mọi người sẽ được Thiên Chúa tiếp đãi bữa tiệc trong Vương quốc của Ngài. Vì thế thật ý nghĩa khi Tiên tri Isaia đã báo trước thời của Đấng Thiên Sai như sau:" Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon..... trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,và tấm màn trùm lên muôn nước."(Is 25.6)
4/ Hình ảnh muôn dân được Thiên Chúa quy tụ trên Núi thánh để tiếp đãi bữa tiệc, hay là hình ảnh tiệc cưới tại Cana sau khi Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon, đó là dấu chỉ báo trước"Giờ" Đức Giêsu sẽ đến sau này. "Giờ" Đức Giêsu đến là "Giờ" gì? Đó không phải là giờ Chúa tiếp tục đãi dân chúng bữa tiệc với thịt béo và rược ngon. Và đó cũng không phải là lúc Chúa Giêsu lại làm dấu lạ hoá nước thành rượu ngon nữa. Nhưng "Giờ' Chúa Giêsu đến đó là thời gian để Chúa quyết định hoàn tất chương trình cứu độ Chúa Cha đã trao phó. "Giờ" đó chính là lúc Chúa phải đổ máu để rửa sạch tội lỗi con người. "Giờ" đó chính là lúc Chúa phải hy sinh để cứu sống con người.
Nếu như trong nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, máu các con dê, bò được rẩy lên mình những người nhiễm uế để họ được thanh tẩy, thì trong giờ hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra sẽ mạng lại hiệu lực cho muôn người rất nhiều. Vì nhờ Máu hy sinh của Chúa, nhiều người sẽ được thanh tẩy lương tâm đen tối, nhờ đó "nhiều người được tha tội".
Nếu như dấu lạ hoá nước thành rượu Chúa đã làm tại tiệc cưới Cana đem lại rất nhiều niềm vui cho nhiều người, thì trong "Giờ" hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra đem lại niềm vui trọn vẹn đích thực cho hết mọi người. Niềm vui trọn vẹn đích thực đó là niềm vui vì được Chúa Cứu Độ, được ơn Cứu Độ. Vì thế, chén rượu mà Đức Giêsu cầm trên tay để chúc tụng Thiên Chúa trong bữa tiệc Vượt Qua trước lúc Chúa chịu chết, đó chình là chén Máu Chúa đổ ra để cứu độ con người. Chén Máu đó là chén Máu của niềm vui, chén Máu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
5/ Ngày hôm nay khi mỗi lần chúng ta đến dâng thánh lễ, đó cũng là thơì gian chúng ta đang chứng kiến "Giờ" hy sinh của Đức Giêsu. Giờ hy sinh của Chúa trong thánh lễ không phải là thời gian của quá khứ, nhưng là "Giờ" hiện tại; "Giờ" thánh hoá chúng ta; "Giờ' đem đến hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta.
Vậy khi đang sống trong môi trường quá ồn ào, bởi vì người ta đang chạy đua với nhau để tìm kiếm:ảnh hưởng, tiền bạc, lợi nhuận, danh vọng, địa vị, thú vui ...... Sống trong môi trường như thế, là người Công giáo chúng ta còn cảm thấy "Giờ" của Chúa còn cần thiết cho cuộc sống nữa hay không? Nếu cảm thấy "Giờ" của Chúa không còn cần thiết, thì đó là sự sai lầm và nguy hiểm nghiêm trọng cho đời sống chúng ta. Chính cái sai lầm và nguy hiểm ấy, nó sẽ lôi kéo chúng ta ra khỏi Bàn tiệc hạnh phúc mai sau trong Vương quốc Thiên Chúa. Còn một khi chúng ta tin rằng "Giờ'của Chúa luôn cần thiết cho cuộc sống, luôn luôn đem lại giá trị cho con người đó là niềm vui hạnh phúc mai sau, thì chúng ta hãy cùng tham dự vào "Giờ" hồng phúc này. Phải gắn liền đời sống với "Giờ" Vượt qua của Chúa hằng ngày trong Thánh lễ, vì "Giờ" Vượt qua của Chúa đó là "Giờ" thánh, "Giờ" biến đổi chúng ta để được nên một vơí Ngài.
Khi ý thức tầm quan trọng "Giờ" cứu độ của Đức Giêsu: mỗi người chúng ta trong cuộc sống hãy"bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng ta". Đến bàn thờ Thiên Chúa để được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, để "nâng chén mừng ơn cứu độ" mà Chúa ban cho chúng ta. Vì hôm qua, hôm nay và mãi maĩ: chỉ có Chúa chính là niềm vui đích thực của đời ta. Amen.
Sau khi kêu gọi và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ,: TN 2-C103
Sau khi kêu gọi và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ, là cùng môn đệ đi ăn cưới ở Ca-na. Và tại tiệc cưới này, Chúa lại làm một việc đặc biệt không ai ngờ nữa, là qua sự can thiệp của Đức Maria, Chúa đã biến nước lã thành rượu ngon. Đây là phép lạ đầu tay của Chúa Giêsu, phép lạ đầu tiên Chúa làm khi công khai rao giảng Tin Mừng. Phép lạ này có ý nghĩa thế nào và dạy chúng ta những bài học gì ?
Trước hết, ý nghĩa trực tiếp của phép lạ là một sự chữa lành. Mỗi lần chữa bệnh tật thân xác cho người ta, Chúa Giêsu đều nghĩ đến bệnh tật của linh hồn. Ở đây, khi cứu vãn tình yêu hôn nhân của con người. Đôi vợ chồng kia hôm nay đang yêu nhau tha thiết, nhưng tình yêu của họ sẽ kéo dài được bao lâu ? Hay rồi cũng như rượu đang nửa chừng thì hết, tình yêu của họ sẽ sớm khô cạn ? Giữa những bất trắc của tình vợ chồng, sự bất trung thật đáng sợ. Chúa Giêsu muốn cứu vãn tất cả. Ngài muốn cứu vãn lòng trung thành chung thủy trong cuộc sống hôn nhân.
Như vậy, sự có mặt của Chúa Giêsu ở tiệc cưới này mở màn cho hôn nhân một kỷ nguyên mới, nghĩa là trang sử mới của chế độ bí tích hôn nhân Ki-tô giáo đã bắt đầu. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới: đã được chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các tông đồ. Bí tích hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Từ nay hôn nhân phải nhất phu nhât phụ, hôn nhân phải bất khả phân ly, hôn nhân phải được Chúa chúc phúc và Hội Thánh chứng nhận.
Điều quan trọng thứ hai của phép lạ này là sự can thiệp của Đức Maria. Đức Mẹ đã phát hiện ra sự thiếu rượu và nỗi bối rối lo lắng của chủ nhà, của đôi tân hôn, và Đức Mẹ đã can thiệp. Ở đây chúng ta thấy có hai lời của Đức Mẹ, hai lời ấy bổ sung cho nhau và rất đầy ý nghĩa. Lời thứ nhất hướng về Chúa Giêsu để cầu xin: "Họ hết rượu rồi". Lời thứ hai hướng về các người giúp việc để đưa họ đến với Chúa và làm theo ý của Chúa: "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo". Mẹ không ép Chúa làm phép lạ và Mẹ cũng chẳng có quyền đó. Phép lạ Ca-na là do quyết định cuối cùng của Chúa Giêsu, nhưng chắc chắn có sự đóng góp, can thiệp của Mẹ Maria, một người mẹ nhạy cảm và từ ái. Nói rõ hơn, phép lạ Ca-na Chúa Giêsu đã làm theo ý mẹ mình để minh xác đã đến "giờ" mẹ có một sứ mệnh đặc biệt đối với Chúa và đối với nhân loại.
Đối với chúng ta hôm nay, nhìn những đôi tân hôn tươi cười bước đến nhà thờ, nắm tay nhau công khai hứa trọn đời yêu nhau, ai lại không vui, ai lại không cảm động.Niềm vui ấy lại được củng cố thêm bằng bữa tiệc vui, khi bà con hai họ và bạn bè nâng ly chúc mừng đôi tân hôn được tràn đầy hạnh phúc. Nhưng niềm vui ấy có khi nào lụi tàn không ? Tàn lụi khi hạ ly xuống, khi bước xuống xe hoa, sau một vài tuần hay sau vài năm ? Câu hỏi đó không thừa với thời nay khi mà rất nhiều gia đình, trong đó có gia đình Công giáo, sau một thời gian chung sống đã cạn chén rượu tình thương.
Trong niềm tin, người Ki-tô hữu biết rằng: Đức Maria vẫn ở với loài người, vẫn chia sẻ niềm vui và nỗi lo lắng của con người. Mẹ là Đấng chuyển cầu cho những ai trong hoàn cảnh khốn cùng, lo âu, đau khổ. Mẹ thưa với Chúa về mọi nhu cầu cần thiết của từng người và tình trạng của từng gia đình lên Chúa Giêsu: "Họ hết rượu rồi", nghĩa là gia đình họ đang gặp đau khổ, có nguy cơ tan rã. Đó là tư tưởng mà Kinh Thánh thường dùng để nói lên tình trạng đau khổ của mọi người. Nhưng muốn có rượu ngon phải tuân thủ một điều kiện tiên quyết: "Người bảo gì thì cứ làm theo". Đó là lời Đức Mẹ nói với những người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na. Đó cũng là lời Đức Mẹ nói với nhân loại ở mọi nơi, mọi thời. Đó là điều kiện không thể thiếu để lời chuyển cầu của Đức Mẹ đạt kết quả. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn trong gia đình.
Còn đối với giới trẻ, chưa lập gia đình hay sắp lập gia đình, cần biết: hôn nhân liên hệ đến hạnh phúc cả một cuộc đời, nên cần phải được chuẩn bị cẩn thận. Tạo nên một gia đình, một tổ ấm cho suốt cuộc đời quả thực là một việc hết sức quan trọng và khó khăn. Các bạn đừng bao giờ bồng bột, hấp tấp, vội vàng trong việc hệ trọng này, để rồi khi về với nhau thì: giai đoạn đầu: hai người nhìn nhau mà no. Giai đoạn hai: hai người nhìn nhau mà ngáp. Giai đoạn ba: nhìn chén dĩa bay. Hay cuộc sống gia đình trở thành một bi hài kịch, bi hài kịch của Pát-can, cũng gồm ba giai đoạn: giai đoạn đầu: chàng nói nàng nghe, nàng nói chàng nghe. Giai đoạn hai, chàng nói chàng nghe, nàng nói nàng nghe. Giai đoạn ba: cả hai cùng nói, hàng xóm nghe.
Vậy muốn cho đời sống hôn nhân mai ngày trở nên "dễ thở", nếu không được là thiên đàng hạ giới, ít là không phải địa ngục trần gian, các bạn phải chuẩn bị cẩn thận và chu đáo. Việc cần thiết trước khi lập gia đình là học hỏi: học hỏi để biết mình và biết người. Hai người xa lạ khác biệt nhau, nhưng rồi sẽ chung sống với nhau, bổ túc cho nhau: hai mà phải nên một: "Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai". Chuẩn bị là đối thoại, là trao đổi ý kiến để đi đến mẫu số chung về cuộc sống mai sau. Chuẩn bị là cầu nguyện, cầu nguyện sóng đôi, để tìm hiểu, để đi dần đến mầu nhiệm hôn nhân của bí tích mà hai người sẽ trao và sẽ nhận trước bàn thờ Chúa.
Chúng ta cầu nguyện cho gia đình chúng ta hôm nay, cho tất cả các gia đình, và cầu nguyện cho nhau.
Cana bây giờ là một làng cách Nadarét 6km về phía đông bắc, nhô cao trên nó là gác chuông của: TN 2-C104
Cana bây giờ là một làng cách Nadarét 6km về phía đông bắc, nhô cao trên nó là gác chuông của một ngôi nhà thờ dòng Phanxicô. Nhà thờ này đã được xây dựng để kỷ niệm "dấu chỉ" đầu tiên trong bảy dấu chỉ mà Tin Mừng Gioan mô tả cho chúng ta. Như đã biết, "dấu chỉ" là từ mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng để gọi tên các phép lạ Đức Giêsu làm: chúng như bằng chứng cho thấy một ý nghĩa sâu xa hơn so với hành vi kỳ diệu và gây kinh ngạc mà Đức Giêsu hoàn tất. Nơi trình thuật "dấu chỉ" Cana, chúng ta thấy ý nghĩa sâu xa là ý nghĩa về Đấng Mêsia. Như câu chuyện rất giàu tính biểu tượng của chúa nhật tuần trước (các chiêm tinh gia), kết cấu trình thuật của Gioan hôm nay cũng khuyên chúng ta từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế nào, trái lại hãy theo Gioan mà lẩy ra ý nghĩa thần học sâu xa tiềm ẩn trong một sự việc cụ thể. Trong câu chuyện duy mình ông kể, cũng thấy xuất hiện Đức Maria, mà Tin Mừng thứ tư không bao giờ nói rõ tên, một chỉ nêu tước hiệu: "thân mẫu ĐGS" (được nhắc tới 4 lần trong bản văn này). Các sách ngoại/ngụy kinh, bao giờ cũng với một chút tò mò hay tưởng tượng, cho chúng ta biết sở dĩ Đức Giêsu tham dự bữa tiệc cưới này vì Đức Maria là dì của chú rể.
1. Dấu chỉ tiệc cưới
Chìa khóa thứ nhất dẫn vào lối đọc ý nghĩa biểu tượng của trình thuật là việc lặp đi lặp lại ngay từ đầu chữ "tiệc cưới", một chữ vốn đã giàu ý nghĩa tiên trưng ngay từ Cựu Ước. Chìa khóa thứ hai là việc quy chiếu các nhân vật và hành động của họ về Đức Giêsu: "thân mẫu Người", "các môn đệ Người".
Đang giữa tiệc cưới thì sự cố xảy ra. "Thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: Họ hết rượu rồi. Đức Giêsu đáp....". Ta hãy dừng lại một chút trên cuộc đối thoại có phần lạnh lùng này giữa Đức Giêsu với mẹ Người, đặc biệt trên câu nói gây lúng túng đã khiến các nhà chú giải và nhà thần học đổ không biết nhiêu mực: "Chuyện đó can gì đến bà và tôi". Thật thế, câu nói có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy như đã được thốt lên với âm điệu nào, nhưng có lẽ nó chẳng có ý bày tỏ sự bực mình mà chỉ diễn tả thái độ chống đối theo quy tắc lịch sự đông phương là không muốn dấn thân vào một hành động đề nghị. Tước hiệu "bà" chẳng phải là dấu xa cách lạnh lùng song là một cách gọi nhằm nêu bật vai trò của Đức Maria, Eva mới. Rồi đây nó sẽ được dùng lại với Mẹ một lần nữa trong cảnh cuối cùng bên thập giá ("Thưa bà, này là con bà").
Thoạt tiên, từ chối làm theo yêu cầu của thân mẫu, Đức Giêsu chỉ nhằm cho thấy điều kiện cần thiết để Người can thiệp, tức "giờ" của Người, còn chưa đến. Đối với Gioan, "giờ" tiêu biểu là giây phút trọng đại, lúc Đức Kitô chịu tử nạn và được tôn vinh để trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại, để "ban rượu Giao ước mới" (Mt 26,27). Như thế, cử chỉ Người sắp thực hiện phải được coi như một "dấu chỉ", nghĩa là như một mũi tên chỉ về kết cục vinh quang. Đức Giêsu không muốn làm một dấu lạ ngoạn mục để vừa lòng mẹ mình hay giải quyết một khó khăn thường nhật cụ thể. Qua các hành vi quyền phép và kỳ lạ của mình, Người chỉ muốn trao ban mạc khải về mầu nhiệm thần linh tối hậu của mình thôi. Chính dưới ánh sáng đó mà Đức Maria hiểu ngay ý nghĩa đích thật trong câu trả lời xem ra tiêu cực của Đức Giêsu, thành thử đã không do dự nói với các kẻ giúp việc: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo".
Lúc ấy, trước đôi mắt sửng sốt của mọi người, xảy ra "dấu chỉ" lớn: sáu chum đá, mỗi chum đựng từ 80 đến 120 lít đã biến thành rượu nho thượng hạng đến độ khiến viên quản tiệc phải kinh ngạc thán phục. Chúng ta chớ nên quên rằng tiệc cưới trong Kinh Thánh là một biểu tượng lớn về Đấng Mêsia, về thời mêsia, như được xác nhận qua cảnh đẹp như tranh của "bữa tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế" đã được Isaia phác họa (25,6) và như được xác nhận bởi chính Đức Giêsu trong dụ ngôn Tiệc cưới của mình (Mt 22,1-14). Quả thế, Đấng Mêsia đã luôn được trình bày như hôn phu của dân Người, và rồi đây Khải huyền Gioan cũng nói vậy qua hình ảnh thời danh là tiệc cưới giữa Con Chiên và Giêrusalem. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, chính TC cũng được trình bày như hôn phu: "Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho TC ngươi thờ" (Is 62,4-5).
2. Dấu chỉ rượu ngon
Nhưng sự dư thừa rượu nho "làm phấn khởi lòng người" (Tv 104,15) còn là một biểu tượng khác của thời mêsia theo các ngôn sứ (Am 9,13-14; Hs 14,7; Gr 31,12), đến độ truyền thống Do thái giáo đã mô tả thời Đấng Mêsia đến như sau: bấy giờ mỗi cây nho sẽ có ngàn cành, mỗi cành sẽ có ngàn chùm, mỗi chùm sẽ có ngàn quả, mỗi quả sẽ sản xuất được 460 lít rượu nho! Do đó, rõ ràng là qua tất cả diễn tiến của trình thuật, "dấu chỉ" tiệc cưới Cana muốn chuyển cho chúng ta một sứ điệp thần học: Đức Kitô là "rượu ngon" và là "rượu cuối cùng", nghĩa là hồng ân tuyệt hảo của Chúa Cha. Và chính Đức Maria, người "đàn bà" hoàn hảo, Eva mới, giới thiệu Đức Kitô cho chúng ta trong sứ mệnh cứu thế của Người, trong "giờ" long trọng của Người, nguồn suối hân hoan và sức mạnh giải phóng khỏi mọi cái cũ. Việc nước hóa thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê thành thử tượng trưng cho việc Luật cũ chuyển qua Luật mới, Giao ước mới đậm đà như rượu thay thế cho Giao ước cũ đã nên nhạt phèo.
Các chương tiếp theo trong Gioan sẽ lần lượt cho thấy các kiểu thay cũ đổi mới như thế: việc sinh lại bởi ơn trên tiếp sau việc sinh ra từ lòng mẹ (Ga 3), việc thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật thay thế việc thờ phượng ở Giêrusalem hay Garizim (Ga 4), Bánh Hằng Sống thay thế cho manna thời Xuất hành (Ga 6), Mục tử nhân lành thay thế các mục tử giả hiệu (Ga 10), Sự Sống Thật tiếp sau sự sống tự nhiên (Ga 11)...
Tâm điểm của bản văn hôm nay do đó là chính Đức Kitô, nhưng Đức Maria cũng ở bên cạnh Người với niềm tin trong suốt và toàn diện, xác tín rằng cần "làm theo tất cả những gì Người bảo". Và "bà" sẽ lại xuất hiện đúng vào "giờ" của Người, dưới chân thập giá, sẵn sàng đón nhận lời cuối cùng của Con, sẵn sàng "làm theo những gì Người bảo" trong giây phút quyết định đối với tương lai của mình, tương lai làm mẹ Giáo Hội. Chính qua đó mà Đức Maria trở nên gương mẫu của tín hữu đích thật, như điệp ca tuyệt vời của phụng vụ Anh giáo sau đây: "Hỡi đấng mang Lời vĩnh cửu, nghe Lời vĩnh cửu, thực hành Lời vĩnh cửu, Bà là người trung tín và xót thương, hãy ngợi khen Chúa đi nào!".
Vậy là cuối cùng, Vương quốc mới, Đấng cứu độ chung quyết đã xuất hiện. Hết rồi những nghi thức bất toàn, những tập quán cũ kỹ, những lề luật trói buộc. Đức Kitô đã mang đến hân hoan, tự do, an bình. Vậy tại sao có biết bao kitô hữu vẫn bằng lòng với sự trói buộc phi lý của quyền lực nghịch đạo, vẫn cam chịu sống trong nỗi bất an vì sợ thế gian không "ban phép", "cho quyền", vẫn buồn bã hay khiếp nhược chấp nhận thân phận bị khống chế của tôn giáo và lẳng lặng xót thương cho ách nô lệ của anh em? Họ hãy noi gương người tín hữu Rumani sau đây:
Lúc ấy, trong một buổi học tập chính trị, tay diễn giả vô thần lên tiếng thóa mạ Đức Kitô, gọi Người là tên bịp bợm. Ông ta nói: "Phép lạ Cana chỉ là trò ảo thuật của Giêsu. Tôi có thể làm lại việc ông đã làm!". Thế rồi diễn giả huơ huơ tay trên một ly nước để sẵn trên bàn. Đang lúc ai nấy chăm chú nhìn bàn tay của ông, thì một viên hóa chất bé tí từ trong tay áo ông rơi nhẹ vào ly và nước hóa nên đỏ thẫm. Vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt. Diễn giả đắc chí: "Thấy chưa, ông Giêsu cũng chỉ lợi dụng lúc người ta sơ ý để bỏ một chất gì đó vào các lu nước thôi!". Bấy giờ một Kitô hữu lên tiếng: "Xin ông vui lòng uống ly rượu đó!" - "Xin lỗi! Không thể được! Đây là một chất độc!"
Người tín hữu liền mạnh dạn nói: "Với rượu của Người, Đức Giêsu đã cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc! Còn với rượu các ông, các ông đã đầu độc chúng tôi!"
Có lắm lúc quý vị không thể giữ cho một ai đó im lặng được. Chẳng hạn, một người bạn lần đầu: TN 2-C105
Có lắm lúc quý vị không thể giữ cho một ai đó im lặng được. Chẳng hạn, một người bạn lần đầu tiên lên chức bà ngoại. Chúng ta thậm chí không kịp hỏi thăm đứa con gái đang mang thai của bà. Ngay khi ngồi vào bàn cùng với chúng tôi ở nhà hàng, bà đã reo lớn tiếng thông báo rằng: "Ôi! tôi đã lên chức bà ngoại rồi đấy!" Những người ngồi ở các bàn khác quanh chúng tôi đều mỉm cười, có người vỗ tay, có người thì nói lớn: "chúc mừng bà ngoại!" Bạn tôi không những vui mừng, mà còn thấy nhẹ nhõm, vì con gái bà rất khó thụ thai. Đối với ai cũng thế, những tháng ngày chờ đợi dường như dài vô tận.
Hôm nay cũng có một lời loan báo đầy hoan hỉ như thế trong bài đọc của ngôn sứ Isaia. Niềm vui này diễn ra sau một khoảng thời gian dài chờ đợi. Phần đầu của sách ngôn sứ Isaia (chương 1-39) nói đến một dân tộc đang lưu đày. Bây giờ chúng ta đang ở phần sau của cuốn sách đó, được gọi là phần thứ ba của sách ngôn sứ Isaia (chương 40-55), lúc này dân tộc Dothái đang mong mỏi được trở về Giêrusalem, quê hương của mình. Vị ngôn sứ tựa như một thành viên trong gia đình, loan báo đầy hân hoan, nhưng không chỉ như niềm vui của một đứa trẻ ra đời, mà còn là niềm vui từ việc tái sinh của một dân tộc đã bị hủy diệt.
Một xứ sở đã từng mang tiếng là "Đồ bị ruồng bỏ!" và "Phận bạc duyên đơn." Nhưng nay, dân tộc này đang được tái sinh và họ sẽ được gọi bằng tên mới: "Ái khanh lòng ta hỡi!" và "Duyên thắm chỉ hồng". Vị ngôn sứ làm tôi nhớ đến một người bạn, một người mới lên chức bà, vì ngài không thể giữ tin vui đó cho chính mình, bởi lẽ "vì lòng mến Giêrusalem, tôi sẽ không nín lặng..." Lời công khai tin vui của bạn tôi lan ra khắp những người xung quanh trong nhà hàng. Niềm vui cho dân Dothái cũng vậy. Những ai biết đến nỗi gian truân trước đó của "bà ngoại" và gọi bà là "Đồ bị ruồng bỏ!" và "Phận bạc duyên đơn", thì bây giờ họ sẽ thấu hiểu được những điều Thiên Chúa đã thực hiện cho dân Dothái, đồng thời biết được mối tương quan mới giữa dân tộc này với Thiên Chúa.
Dân tộc này hiểu rằng họ bị lưu đày vì đã phạm tội thờ các thần ngoại. Do đó, một sự trở về từ miền lưu đày là niềm vui mừng còn hơn được trở về nhà. Lúc bấy giờ, đó chính là dấu hiệu họ được tha thứ và được giao hòa với Thiên Chúa. Những tên mới được ban cho họ sẽ mạc khải một mối tương quan mới và mật thiết với Thiên Chúa.
"Thiên Chúa của Cựu Ước" là Đấng nào? Ngôn sứ Isaia đã phác họa rất rõ ràng. Trong câu cuối của bài đọc một, ông nói đó chính là: "Đấng tác tạo ngươi". Như thể Thiên Chúa đã thực hiện công trình của Người cách đây rất lâu. Nhưng Thiên Chúa không chỉ dựng nên dân này. Mà, cả khi họ phạm tội thì Thiên Chúa cũng đã đem họ trở về với Người, không phải vì miễn cưỡng, mà vì tình yêu nồng thắm của tình nghĩa phu thê. "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ." Đó chẳng phải là ngôn ngữ trong hôn nhân sao? Nhờ thế, chúng ta có thể thấy được lý do bài đọc một hôm nay được liên kết với bài Tin mừng, tiệc cưới Cana.
Có những âm hưởng của việc cử hành trong bối cảnh của bài Tin mừng hôm nay, và suy cho cùng đó là một tiệc cưới. Đó là nơi chốn và cơ hội mà thánh Gioan đã cho mọi người biết được Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai, tại một tiệc cưới. Vì đã nghe bài đọc một của ngôn sứ Isaia, nên khi bước sang lời tường thuật của thánh Gioan tại tiệc cưới Cana, chúng ta nhớ đến hình ảnh của một Thiên Chúa giữ lời giao ước với dân Người. "Ngươi được gọi: "Ái khanh lòng ta hỡi" và xứ sở ngươi nức tiếng là "Duyên thắm chỉ hồng."
Rõ ràng thánh Gioan không chỉ đơn thuần kể cho chúng ta biết về việc Đức Giêsu cung cấp dồi dào rượu cho đôi tân hôn trong tiệc cưới tại Cana. Bối cảnh gia đình nhỏ bé này làm nổi bật lên một ký ức lớn hơn về toàn bộ dân tộc Israel, một dân tộc có mối tương quan không chặt chẽ với Thiên Chúa. Trong khi đó, Thiên Chúa lại đang thực hiện những gì ngôn sứ Isaia đã hứa khi xưa, chính Thiên Chúa đã đi bước trước để thiết lập giao ước vững bền với một dân tộc. Vì thế, một tiệc cưới là nơi phù hợp để loan báo việc Đức Giêsu bước vào công khai trong đời sống của dân tộc Israel. Chàng rể đã đến để công bố cô dâu là "Duyên thắm chỉ hồng."
Hãy nhớ rằng, ở chỗ khác ngôn sứ Isaia cũng đã hứa: "Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế" (Is 25,6). Nhưng tiệc cưới Cana không không chỉ là một tiệc cưới tại miền quê nhỏ bé. Đức Giêsu là chủ nhà trong một đám cưới giữa Thiên Chúa với dân của Người và Đức Giêsu chính là người cung cấp "rượu ngon." (Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người, nhưng Người cũng cho chúng ta cái nhìn sơ lược về cánh chung, lúc đó chúng ta sẽ được dự yến tiệc với Thiên Chúa và với nhau - "trên núi này.")
Tin Mừng theo thánh Gioan không có trình thuật về việc thiết lập Bí tích Thánh Thể. Nhưng trình thuật này là một "Tin Mừng có tính Thánh Thể" rất cao với những ám chỉ về Thánh Thể xuyên suốt trình thuật. Thánh sử đúc kết câu chuyện Cana bằng câu nói: "Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người". Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận hôm nay là một trong những dấu lạ Đức Giêsu tiếp tục tặng ban. Lời tiên tri của ngôn sứ Isaia được ứng nghiệm khi chúng ta họp nhau "trên núi này" và chúng ta được thết đãi "rượu ngon" để cùng uống. Đức Giêsu không chỉ là chủ nhà trong tiệc cưới Cana hay trong Bữa tiệc Thánh Thể, nhưng Người chính là của ăn và của uống cho chúng ta.
Cách đây hai tuần chúng ta đề cập rằng: lễ Hiển Linh đã mở ra một chuỗi những tỏ hiện của Đức Giêsu: trước đó là chính lễ Hiển Linh, tiếp theo là lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa tuần vừa qua và hôm nay sự xuất hiện của Đức Giêsu tại Cana. Trong tiệc cưới, thánh Gioan cho chúng ta biết: Đức Giêsu "bày tỏ vinh quang của Người" cho các môn đệ, và họ "đã tin vào Người." Đó chính là một kết thúc có hậu cho câu chuyện hấp dẫn, và còn hơn thế nữa... Khi nghe câu chuyện này, liệu chúng ta có thấy vinh quang của Đức Giêsu hay không?
Chúng ta thường dùng từ "vinh quang" để nói về sự nổi tiếng của một người, có được là từ những hành động ngoạn mục. Chúng ta cũng nói những điều tương tự như: "một bữa ăn tuyệt vời làm sao!" để khen một đầu bếp. Nhưng trong Kinh Thánh, vinh quang ám chỉ phẩm chất bên trong của một người hoặc quyền năng làm cho người khác tỏ lòng kính trọng. Vinh quang là thuộc tính phù hợp nhất với Thiên Chúa tựa như ngày nay chúng ta chúc tụng ca khen Thánh Thể, "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời."
Phép lạ tại Cana đã mạc khải về phẩm chất bên trong và căn tính đích thực của Đức Kitô. Phép lạ đó cũng giúp chúng ta nhìn thấy sự tỏ hiện vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Thánh Gioan hứa còn nhiều vinh quang hơn nữa sẽ đến và sẽ có nhiều "dấu lạ" khác để biểu lộ vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Chúng ta sẽ rảo qua Tin Mừng theo thánh Gioan với ân sủng bên trong mà phép rửa mang lại cho chúng ta - tất cả những con đường dẫn đến vinh quang đều được tỏ lộ nơi Đức Kitô trên thập giá. Vì thế, ở đoạn kết ở tiệc Cana, khi trình bày việc Đức Giêsu tỏ lộ vinh quang của Người cho các môn đệ, thì thánh Gioan hướng chúng ta đến cuộc khổ nạn khi "giờ" của Đức Giêsu đến.
Lm Jude Siciliano, OP
Chuyển ngữ: Anh Em HV. Đaminh Gò Vấp Nguồn vietcatholic.org
(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới, có thân mẫu Đức Giê-su. (2) Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. (4) Đức Giê-su đáp: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con? Giờ của Con chưa đến. (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (6) Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. (7) Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. (11) Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
2.Ý CHÍNH:
Đức Giê-su và các môn đệ đã cùng với Mẹ Ma-ri-a đến tham dự một bữa tiệc cưới tại thành Ca-na: TN 2-C106
Đức Giê-su và các môn đệ đã cùng với Mẹ Ma-ri-a đến tham dự một bữa tiệc cưới tại thành Ca-na miền Ga-li-lê. Bữa tiệc mới được nửa chừng thì rượu sắp hết. Mặc dù chưa tới Giờ hành động, nhưng do lời Mẹ Ma-ri-a cầu bầu mà Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon. Qua dấu lạ này Đức Giê-su biểu lộ quyền năng hầu giúp các môn đệ mới đi theo tin Người là Đấng Thiên Sai.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1-2:
+Có thân mẫu Đức Giê-su: Tin mừng Gio-an 2 lần nhắc đến Đức Ma-ri-a trong thời gian Đức Giê-su ra giảng đạo: Lần đầu khi Đức Giê-su bắt đầu đi thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Đức Ma-ri-a đã hiện diện trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na và đã can thiệp khiến Đức Giê-su làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon, dù chưa đến Giờ của Người. Lần hai nhắc đến việc Đức Ma-ri-a đứng dưới chân thập giá trong cuộc tử nạn của Đức Giê-su, để hiệp công cứu độ loài người.
-C 3-5:
+Thiếu rượu: Người Do thái vẫn thường ăn uống tiết độ. Nhưng trong dịp cưới xin, họ lại hay uống quá chén. Vì thế bữa tiệc cưới này mới nửa chừng thì đã hết rượu.
+Chuyện đó can gì đến Bà và Con?: Đây là một kiểu nói Do thái nhằm từ chối một sự can thiệp không đúng lúc (x. 2 Sm 16,10).
+Giờ của Con chưa đến: Đức Giê-su không làm gì trước Giờ của Người (x. Ga 7,30). Ở đây có ý nói rằng: tuy Giờ được tôn vinh chưa đến, vì Người chưa trải qua cuộc tử nạn và phục sinh, nhưng ngay bây giờ Người muốn biểu lộ Giờ ấy cho các môn đệ thấy hầu tin vào Người, qua dấu lạ Người sắp thực hiện.
+“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”: Trực giác khiến Đức Ma-ri-a tin cậy chắc chắn Đức Giê-su sẽ can thiệp, nên đã căn dặn gia nhân hãy làm theo lệnh Người truyền. Câu này nhắc lại lời Pha-ra-on vua Ai Cập vào thời tổ phụ Gia-cóp và Giu-se xưa: “Cứ đến với Giu-se. Ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55).
-C 6-8:
+Sáu cái chum đá dùng vào việc thanh tẩy: Theo phong tục Do thái, người ta thường để những cái chum đựng nước trong sân trước hay sân sau nhà mỗi khi có đám tiệc, để khách mới đến có thể rửa tay rửa mặt theo tục lệ thanh tẩy trước khi dùng bữa (x. Mt 15,2). Ở đây có 6 chum đá, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng 40 lít, tức vào khỏang từ 80 đến 120 lít nước !
+“Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng: Đức Giê-su ra lệnh cho gia nhân đổ đầy nước vào sáu cái chum đá. “Đổ đầy tới miệng” cho thấy ơn Chúa được ban cho đôi tân hôn cách dư đầy. Với khoảng 600 lít rượu thì cả làng sẽ được uống no nê thỏa thích!
-C 9-11: +Dấu lạ đầu tiên: Dấu lạ là một việc làm khác thường, diễn tả một điều thiêng liêng đang ẩn dấu. Dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Ca-na này để tỏ bày vinh quang và quyền năng của Đức Giê-su trước các môn đệ (c 11b), giúp các ông vững tin vào Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 2,11c).
4.CÂU HỎI:
1) Qua việc nhắc đến Đức Ma-ri-a vào lúc đầu và cuối thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giê-su, thánh Gio-an muốn nói gì về vai trò của Đức Giê-su và thân mẫu Người trong công trình cứu độ?
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau: “Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm và trang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40x50 cm, bên trong có thiết kế ánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi: “Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã bằng lòng theo ý của chồng tôi. Giờ đây, sau mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình tôi và các khách đến thăm ngôi nhà của chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu như sau: “Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi !”. Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngồi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên: “Mỗi lần đến đây, lúc nào tôi cũng có cảm giác trong nhà chị chan hòa sự bình an”... Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của các người khách đều được nâng cao ! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa !”.
3.SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giê-su dù chưa tới Giờ bày tỏ quyền năng, nhưng nhờ lời Đức Ma-ria cầu bầu, Người đã làm dấu lạ biến nước lã thành rượu ngon, để bày tỏ quyền năng giúp các môn đệ mới theo nhận biết, tin Người là Đấng Thiên Sai như Tin Mừng Gio-an đã kết luận: “Những điều đả được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Ngoài ra, phép lạ đầu tiên này cũng cho thấy ơn cứu độ do Đức Giê-su thực hiện có Mẹ Ma-ri-a hiệp công và bắt đầu từ việc xây dựng hạnh phúc của gia đình tín hữu.
-Hãy mời Chúa Giê-su đến nhà: Trong Tin mừng, những ai đón nhận Đức Giê-su đến nhà đều nhận được những ơn lành hồn xác. Chẳng hạn: Đức Giê-su đến thăm gia đình ông Si-mon và đã chữa cho bà nhạc mẫu của ông khỏi cơn sốt nặng (x. Mt 1,29.31); Người cũng đến nhà ông Gia-ia để phục sinh con gái của ông vừa chết nằm trên giường (x. Mc 5,22.38-43); Người đến dự tiệc tại nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu và đã chữa lành cho một người mắc bệnh phù thủng (x. Lc 14,1-4); Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu để biến ông từ một kẻ tham lam trở thành người lương thiện, là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham. (x. Lc 19,8-10); Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để mở lòng hai ông tin vào Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức “bẻ bánh” (x. Lc 24,13-32)... Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp đỡ đôi tân hôn.
-“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”: Cuộc sống của mỗi người cũng như của gia đình chúng ta không thiếu những bất trắc và sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết mời Chúa đến nhà, Người sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, với điều kiện là chúng ta phải làm theo lời dạy của Mẹ Ma-ri-a: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Mỗi gia đình tín hữu có thể mời Chúa Giê-su đến nhà qua việc thiết lập bàn thờ Chúa trong gia đình và tổ chức giờ kinh tối hằng ngày. Trong giờ kinh tối, các thành viên gia đình cùng nhau nghe Lời Chúa phán và cầu nguyện cho nhau, động viên nhau thực hành lời Chúa bằng cách ứng xử lịch sự tế nhị với tha nhân. Mỗi sáng khi vừa thức dậy, mỗi người chúng ta hãy dành một giây phút dâng lên Chúa một lời cầu nguyện để xin giúp thực thi ý Chúa trong ngáy.
-“Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ”: Ngày nay Chúa Giê-su vẫn đang đứng ngòai gõ cửa. Những ai mở cửa đón Chúa, thì Người sẽ vào nhà kẻ ấy, sẽ dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa chung với Người (x Kh 3:20). Vậy ngay hôm nay chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa vào nhà linh hồn hầu nhận được ơn cứu độ của Chúa hay không?
4.THẢO LUẬN: Một người kia có dịp nghỉ hè tại nhà một bạn thân. Sau kỳ nghỉ đã viết thư cám ơn bạn ấy. Trong thư có đoạn nhận xét về gia đình của bạn mình như sau: “Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự: Cách bài trí trong nhà bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫu ăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của từng thành viên trong gia đình bạn trước các bữa ăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an ở trong ngôi nhà của bạn: Các thành viên đều quan tâm săn sóc lẫn nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu hay những lời chỉ trích nói hành người vắng mặt trong ngôi nhà của bạn”... Còn gia đình của chúng ta hiện nay có những phẩm chất đạo đức như gia đình trong câu chuyện trên hay không?
5.NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ ngay thật không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con luôn có sự hiện diện của Chúa, thể hiện qua việc trưng bày bàn thờ và các tranh ảnh đạo trong nhà, nhất là qua cách ứng xử lịch sự tế nhị giữa các thành viên gia đình. Xin cho gia đình chúng con luôn biết nghe lời Mẹ Ma-ri-a để thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
- LẠY CHÚA. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những kẻ đói nghèo bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng về Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ có khả năng chu toàn sứ mệnh làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.
Phép lạ trong Tin Mừng Gio-an được gọi là dấu lạ, để nói lên những ý nghĩa phong phú việc làm: TN 2-C107
Phép lạ trong Tin Mừng Gio-an được gọi là dấu lạ, để nói lên những ý nghĩa phong phú việc làm của Chúa Giê-su. Nếu vậy thì phép lạ Cana phải là đề tài suy niệm phong phú dành cho chúng ta. Chúng ta đã mừng biến cố Hiển Linh của Chúa Giê-su qua sự kiện các nhà chiêm tinh đến bái lạy Người, rồi qua việc Chúa Cha giới thiệu Người khi Người lãnh nhận phép rửa của Gio-an, và hôm nay Người biểu lộ quyền năng Thiên Chúa và “bày tỏ vinh quang của Người” qua phép lạ đầu tiên ở tiệc cưới Cana.
Dấu lạ Cana nói lên nhiều hình ảnh. Trong bài suy niệm này chúng ta thử coi dấu lạ Cana như một cuộc biến đổi của nhân loại cũng như của mỗi người chúng ta trong mối tương quan với Thiên Chúa. Trong một tiệc cưới, có nhiều người: cô dâu chú rể, cha mẹ họ hàng, quan khách, người giúp việc… Nhưng tất cả đều liên quan tới cuộc hôn nhân của hai người. Cũng như Chúa Giê-su, Đức Mẹ, các môn đệ Chúa có mặt trong tiệc cưới, chúng ta cùng với anh chị em hiện diện trong tiệc cưới giữa “cô dâu” nhân loại với “chàng rể” Thiên Chúa. Tiệc cưới Cana có sự hiện diện đầy ý nghĩa của Chúa Giê-su và Đức Mẹ. Đó cũng là sự hiện diện của các Ngài trong thế giới và trong Giáo Hội cho đến ngày tận thế. Chúa Giê-su vẫn tiếp tục vai trò “biến nước thành rượu ngon”. Mẹ Ma-ri-a vẫn thi hành vai trò dẫn dắt chúng ta, bảo chúng ta hãy làm bất cứ điều gì con của Mẹ dạy. Còn chúng ta có thể đóng những vai trò khác nhau, có thể chúng ta là nước cần được biến thành rượu, có thể chúng ta là những gia nhân cộng tác vào việc biến đổi của anh chị em, có thể chúng ta là “các môn đệ đã tin vào Người”.
Một hình ảnh khác cũng nói lên một chiều kích của ơn cứu độ thực hiện cuộc biến đổi kỳ diệu của nhân loại, đó là theo lời Chúa Giê-su, các gia nhân đã múc nước “đổ đầy tới miệng chum”. Đổ đầy tới miệng chum là hình ảnh Chúa cho chúng ta thấy ơn cứu độ thật phong phú. Chẳng vậy mà thánh sử Gio-an đã diễn tả Chúa Giê-su như là “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Gio-an 1:16). Rồi khi nước đã trở thành rượu thì phải là “rượu ngon”. Rượu ngon do ơn cứu độ của Chúa Giê-su đã làm ngất ngây Thiên Chúa với nhân loại trong một tương quan tình yêu mới. Hiểu và sống như thế là chúng ta cảm nhận mình thật được diễm phúc sống trong tiệc cưới Cana của Giáo Hội và say tình yêu của Thiên Chúa rồi!
Đối với Năm Đức tin này, có lẽ lời ghi chú của thánh sử Gio-an ở cuối câu chuyện thật là ý nghĩa đối với chúng ta: “Các môn đệ đã tin vào Người” (Gio-an 2:11). Canh tân và củng cố đức tin vào Chúa Giê-su là một trong những mục tiêu chính của Năm Đức tin. Sứ điệp của tiệc cưới Cana phù hợp với mục tiêu ấy, mời gọi chúng ta nhìn lại đức tin của mình vào Chúa Giê-su và ơn cứu độ của Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Người bảo gì, các anh cứ làm theo”. Lời khuyên của Mẹ Ma-ri-a là một thách đố cho mỗi người chúng ta. Nếu Chúa Giê-su bảo chúng ta phải cố gắng bỏ đi một tính xấu, hoặc một thói quen không tốt, liệu chúng ta có làm theo hay không? Nếu Người dạy chúng ta hãy làm hòa với một người họ hàng hay một người cùng sở làm, chúng ta có can đảm để đi bước trước không? Nếu Chúa mong chúng ta đến gặp gỡ Người nơi tòa giải tội để Người trả lại sự tự do và trong trắng cho chúng ta, chúng ta có mau mắn đến hay lần lựa? Nếu Chúa muốn chúng ta mỗi ngày dành cho Người dăm bảy phút thôi để đọc, suy niệm và cầu nguyện một đoạn Kinh Thánh, chúng ta có đủ quảng đại để làm cho Người vui lòng không?
Chúng ta cũng có thể thi hành phận sự của những “gia nhân” trong tiệc cưới. Ơn cứu độ sung mãn dành cho mọi người. Chúng ta giúp người khác chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Công việc chúng ta là cứ múc nước đổ cho đầy, còn biến nước thành rượu là quyền năng của Chúa. Múc nước đầy tới miệng chum, đó cũng là một đóng góp của chúng ta vào cuộc tân truyền giáo của Giáo Hội như Năm Đức tin mong muốn.
Đám cưới ở Do Thái là một dịp vui mừng. Thay vì tuần trăng mật, thì họ tổ chức tiệc tùng kéo dài: TN 2-C108
Đám cưới ở Do Thái là một dịp vui mừng. Thay vì tuần trăng mật, thì họ tổ chức tiệc tùng kéo dài cả tuần lễ. Vì thế số lượng rượu phải được tính toán cẩn thận kẻo bị thiếu hụt. Và sự kiện này lại xảy ra ở Cana, một thành phố nhỏ năm giữa Nadarét và biển hồ Tiberiat, là quê hương sinh trưởng của Nathanael, là nơi Chúa cho con của một sĩ quan gần chết được khỏi bệnh. Dù sao thì bữa tiệc hôm ấy không còn một giọt rượu nào, mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria lại có mặt ở đó, vì có lẽ là chỗ bà con họ hàng.
Bấy giờ người ta chưa biết gì về uy quyền của Chúa, họ chỉ nhận ra Ngài là một người thợ mộc chân thành, không tiếng tăm. Nhưng mấu chốt là nơi Mẹ Ngài. Các bà mẹ thường nhìn thấy những điều cần thiết. Huống chi là Đức Mairia. Mẹ ân cần thưa lên với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi. Bên ngoài, câu nói này có vẻ như xa vời, nhưng bên trong là cả một lời van xin thầm kín, không nài ép nhưng đầy lòng tin tưởng. Trông thâm tâm, Mẹ nghĩ rằng có lẽ con mình sẽ giúp được gì cho họ, chứ chưa hẳn đã là một phép lạ. Cũng vì tin tưởng, Mẹ đã rỉ tai các gia nhân: Hễ Ngài dạy sao thì cứ làm như vậy.
Sau những lời thưa trình của Đức Mẹ, Chúa Giêsu trả lời một cách hững hờ: Tôi với bà có liên can gì. Câu trả lời hàm ý một sự chối từ. nhưng ở đây, một lần nữa, qua lòng tin nổi bật của Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã ra tay cứu giúp đôi tân hôn bằng một phép lạ lẫy lừng.
Sau này, Chúa cũng làm như vậy trong trường hợp người đàn bà xứ Canaan, ở đó Chúa tuyên bố Ngài không đến cho dân ngoại, nhưng cũng vì đức tin của bà mà Chúa đã ban phép lạ. Phải chăng Chúa Cha muốn Đức Kitô làm pháp lạ, theo lời Mẹ Maria cầu xin. Vì thế Công đồng Vat. II đã nói: Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Ngài chỉ xuất hiện vào lúc đầu trong tiệc cưới Cana. Mẹ đã động lòng trắc ẩn và nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ. Chúa Giêsu đã khai mạc bằng phép lạ của Ngài.
Thực vậy, sau những lời trao đổi giữa hai mẹ con, mà không một ai để ý đến. Khách khứa, thì bận ăn bận nói. Chúa Giêsu đến gần các gia nhân và bảo họ: Hãy múc nước đổ đầy 6 chiếc chum bằng đất vốn đựng nước để ráy. Mỗi chum khoảng từ 60-80 lít. Các gia nhân đã lập tức vâng nghe, không ai trong họ đã phản đối, hay nghĩ thế này thế khác. Sự vâng phục này đã là một dịp tốt đưa đến phép lạ.
Dưới khía cạnh tín lý, biến cố này chứng tỏ rằng Mẹ Maria có một sứ mạng đặc biệt. Sứ mạng này gồm có sự bầu cử và trung gian của Mẹ cho loài người trước tôn nhan Chúa. Thế nhưng, chúng ta có biết chạy đến với Mẹ, nhất là trong những giờ phút tăm tối và u buồn, để xin Mẹ bầu cử và nâng đỡ hay không?
Thánh Gioan mô tả Đức Maria như người đã tham gia vào lúc Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ của Người: TN 2-C109
Thánh Gioan mô tả Đức Maria như người đã tham gia vào lúc Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ của Người (ở Cana), và rồi vào cuối sứ vụ ấy (trên núi Canvariô). Vì thế Đức Maria liên kết với toàn bộ sứ vụ của Người. Người ta chỉ cần nhìn vào Tin Mừng để thấy rằng Mẹ luôn có mặt vào những lúc quan trọng của cuộc đời Người.
Trong lúc Truyền Tin, sứ thần hỏi Mẹ có muốn trở thành Mẹ của Đấng Cứu Chuộc không. Mẹ đã dẹp qua một bên những dự tính của Mẹ và đáp lại đề nghị của Thiên Chúa bằng tiếng “xin vâng” quảng đại. Một đôi khi tác vụ có ý nghĩa là sẵn sàng đặt những kế hoạch của chúng ta qua một bên và đáp lại lời kêu gọi bằng cách giúp đỡ một tay.
Trong lúc đi Thăm Viếng, Mẹ chủ động có sáng kiến. Khi nghe bà Elizabeth, một bà chị họ lớn tuổi đang chờ ngày sinh con, Mẹ đã thăm viếng bà, ở lại với bà cho đến khi đứa bé được sinh ra. Tác vụ một đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến, khi nhìn thấy một nhu cầu và khi đáp ứng nhu cầu đó.
Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại. Có những lúc, tác vụ có nghĩa là nhận ra một nhu cầu và biết rằng chúng ta không thể xử lý một mình.
Vì thế chúng ta cần đưa đến cho những người khác. Nhưng, không phải là đổ trách nhiệm cho người khác.
Trong suốt đời sống công khai, Đức Giêsu luôn được đám đông vây quanh. Đức Maria không biết Người ra sao. Mẹ sợ người ta bắt Người đi. Là một bà mẹ, Mẹ cảm thấy bắt buộc phải giải cứu. Mẹ đã hiểu sai hoàn cảnh. Người luôn chủ động. Người có một việc phải làm và có thể tự mình xử lý. Tác vụ có thể gồm cả việc phạm sai lầm và cảm nghiêm bị sai hỏng, thất bại. Nhưng điều đó không do thiếu quan tâm mà do thiếu hiểu biết.
Trên Núi Canvariô, Đức Maria đứng dưới chân thập giá nhìn Đức Giêsu chết. Dù Mẹ rất muốn cứu Người, nhưng một cách tuyệt vọng, Mẹ không có khả năng làm được điều đó. Một đôi khi trong tác vụ, chúng ta không thể làm được điều gì. Vì thế tác vụ của chúng ta giống như Đức Maria đứng dưới chân thập giá. Một sự hiện diện thinh lặng chịu đựng. Và sự hiện diện chịu đựng và trấn an là cả một thế giới cho người đau khổ. Nó cứu người ấy khỏi viễn cảnh đau buồn phải chết một mình và bị bỏ rơi.
Dù chỉ là những cái nhìn thoáng qua. Nhưng một hình ảnh nổi bật của Đức Maria là một người ân cần tận tuỵ. Trên nhiều phương diện, một bà mẹ điển hình. Đức Maria là một kiểu mẫu của tác vụ. Nhưng vai trò của Mẹ phải luôn luôn được nhìn trong tương quan với vai trò của Con Mẹ. Vai trò của Mẹ giờ đây là vai trò của một người mẹ chăm sóc cho những người đi theo Đức Giêsu.
Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều ở trong tác vụ: đối với những người khác, hoặc ở trong gia đình, hoặc trong một cộng đoàn rộng lớn hơn. Ngay cả công việc chúng ta làm cũng có thể được coi như một tác vụ và một phục vụ. Torng lúc các bà dường như có ơn đặc biệt hơn, tất cả chúng ta đều có khả năng làm tác vụ.
Tác vụ phải có nghĩa là ban tặng những sự vật (như ở tiệc cưới Cana), nhưng thường là sẵn sàng ban tặng chính mình. Chúng ta phải sẵn sàng đón nhận thất vọng, hiểu lầm, thất bại, sự bất lực. Nhưng điều duy nhất chúng ta phải sợ là sự thờ ơ. Những kỹ năng đặc biệt không cần thiết. Vào cuối mỗi ngày, cái còn đọng lại là tình yêu thương. Tác vụ là một sự biểu lộ của tình yêu.
Trong tác vụ, điều chúng ta làm giống việc làm của các gia nhân ở tiệc cưới Cana. Họ chỉ là những người thừa hánh của Đức Giêsu. Họ múc nước đã hoá thành rượu và đem đến cho khách dự tiệc. Kể từ đó, những thừa tác viên của Đức Kitô đã rút ra từ cùng một suối nguồn. Họ chia sẻ những ơn lành của Đức Giêsu cho Giáo Hội người và cho thế giới. Từ sự viên mãn của Người, chúng ta tiếp tục đón nhận và chia sẻ.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúng ta thường nghĩ rằng sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian là hiến thân cứu độ nhân: TN 2-C110
Chúng ta thường nghĩ rằng sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian là hiến thân cứu độ nhân loại để cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau và chỉ có chừng ấy mà thôi, ngoài ra, Ngài không còn bận tâm nào khác.
Thật ra không phải thế, vì ngoài việc tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho con người được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa Giêsu còn thiết tha đem lại hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.
Chính vì xem việc đem lại hạnh phúc đời nầy cho con người là điều quan trọng và cần thiết nên Chúa cứu thế đã đến tham dự tiệc cưới tại Cana để chúc lành cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc. Việc nầy xem ra quan trọng đối với Chúa Giêsu nên Ngài không chỉ đi một mình mà cùng đi với Đức Mẹ và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được nhân lên.
Thế rồi, điều bất ngờ đã xảy ra, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Thật là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày đau khổ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng mọi người.
Trước tình thế đó, Mẹ Maria chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài cứu vãn. Thế là mặc dù giờ chưa đến, Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu với số lượng lớn không ai ngờ: đến những sáu chum nước lã được hoá thành rượu thật ngon để đem lại niềm vui và hạnh phúc chan hoà cho mọi người.
Phép lạ đầu tay vào lúc khởi đầu sứ vụ đã được Chúa Giêsu thực hiện nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho cô dâu chú rể cũng như cho khách dự tiệc tại Cana cho thấy Ngài rất quan tâm đem lại hạnh phúc cho người khác. Nhiều phép lạ khác được Chúa Giêsu thực hiện sau nầy cũng không ngoài mục đích đó.
Cũng vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Naim mà Chúa Giêsu đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin.
Cũng vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho chị em Matta, Maria ở Bêtania đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giêsu đã cho Ladarô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui.
Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Emmau đang sống trong sầu đau tuyệt vọng, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, giảng giải kinh thánh cho các ông, làm cho lòng các ông bừng cháy lên niềm vui và hi vọng vào Đấng cứu thế. (Lc 24, 32)
Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng... cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không chỉ muốn mang lại hạnh phúc và niềm vui cho một số người Ngài đã từng gặp đây đó trên đất Do-Thái năm xưa, Ngài còn muốn dành điều ấy cho hết mọi người.
Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu sống mà thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giêsu đã nhóm lên ngọn lửa yêu thương trên mặt đất: "Thầy đã đến ném lửa (tình thương) vào mặt đất và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên" (Lc 12, 49) và Ngài không ngừng kêu gọi mọi người chung tay góp sức xây dựng một thế giới mà mọi người đều được sống trong yêu thương: "Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con".
Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một việc làm đạo đức, bác ái và cao đẹp chẳng khác gì cho người đói ăn, cho người khát uống, cho người đau bệnh được thuốc men.
Là kitô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Chúa Giêsu để xây dựng niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng cách khơi bùng lên ngọn lửa tình yêu mà Chúa Giêsu đã mang xuống thế gian, tức là quyết tâm sống theo luật yêu thương của Ngài, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và giáo xứ chúng ta được chan hoà hạnh phúc.
Đó cũng là con đường nên thánh, là chìa khoá thiên đàng của mỗi người chúng ta.
Con người thường mong Chúa làm phép lạ. Ai cũng muốn nhìn thấy phép lạ. Kẻ cần phép lạ để: TN 2-C111
Con người thường mong Chúa làm phép lạ. Ai cũng muốn nhìn thấy phép lạ. Kẻ cần phép lạ để tin. Kẻ muốn có phép lạ để củng cố lòng tin. Xem ra phép lạ đối với phần đông nhân loại là những chuyện khác thường, những chuyện kinh thiên động địa. Phép lạ là những biến cố xảy ra ngoài tự nhiên tựa như con lừa của Baal biết nói tiếng người. Con gà mái gáy giữa ban ngày. Xem ra phần đông nhân loại đang cần những phép lạ tương tự như vậy rồi mới có thể tin vào sự hiện diện của Chúa.
Thực ra, Thiên Chúa không làm phép lạ để những sự kiện xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Phép lạ đúng nghĩa là Ngài làm cho nó trở lại với trạng thái ban đầu tạo dựng. Ngài làm phép lạ để cho những sự kiện được diễn ra bình thường, không gây xáo trộn. đi sai tới quy luật tự nhiên.
Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa đã nhìn thấy mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp. Ngài đã đặt để những quy luật tự nhiên để muôn loài thọ tạo được lớn lên và phát triển hầu đạt đến đỉnh cao của sự sung mãn. Thế nhưng, tội lỗi đã đi vào thế gian. Tội lỗi đã phá huỷ những trạng thái tốt lành ban đầu, gây xáo trộn cho muôn loại tạo dựng. Sự dữ là nguyên nhân gây nên những xáo trộn trong thế gian. Vì lẽ đó, Thiên Chúa vẫn tiếp tục can thiệp vào thế gian để đưa mọi sự trở về với tình trạng tốt lành ban đầu của tạo dựng.
Phúc âm kể lại rằng có một lần Chúa Giêsu đang ngủ trên con thuyền có các môn sinh. Biển lặng tư bề. Bỗng sóng gió nổi lên như muốn nhận chìm con thuyền. Các môn sinh hốt hoảng. Kẻ cầm chèo. Kẻ giữ buồng. Kẻ chạy tới kêu cầu Chúa. Trong cơn bẫn loạn đó, Chúa đã đứng dậy đe gió biển im lặng. Ngài đã làm phép lạ trước mắt các môn sinh là truyền lệnh cho biển trở về với trạng thái ôn hoà.
Trong suốt ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã chữa lành biết bao người bất hạnh đang bị sự dữ hoành hành. Họ đang bị đau khổ bởi cơn đau của thể xác. Họ đang bị đau khổ bởi nỗi bất hạnh, bởi tai ương dịch bệnh hay ngụp lặn trong thất vọng bởi phải chia ly người thân. Chúa đã làm phép lạ bằng việc xua trừ sự dữ. Chúa chữa lành họ để giúp thân xác họ trở về với tình trạng nguyên tuyền ban đầu. Chúa giúp họ trở về với cuộc sống bình thường như bao người khoẻ mạnh khác.
Hôm nay trong tiệc cưới Cana, tiệc rượu đang diễn ra êm xuôi. Mọi người đều vui vẻ với chén rượu, với nụ cười hân hoan. Tiệc sẽ mất vui nếu thiếu rượu. Tiệc sẽ dở dang nếu rượu dự trữ không đủ cho đến khi tàn tiệc. Tiệc dở dang cũng đồng nghĩa niềm vui không trọn vẹn. Chúa đã làm phép lạ để tiệc rượu diễn ra bình thường. Không gián đoạn bởi thiếu rượu. Chúa đã làm phép lạ để tiệc vui được tiếp diễn đến nỗi người quản tiệc cũng không hay biết. Khách dự tiệc vẫn tiếp tục cuộc vui. Người người vẫn nâng ly rượu mừng trong tiếng cuời, tiếng hoan hô chúc tụng. Xem ra ai cũng thoả mãn với chén rượu nồng nàn. Đôi tân hôn hôm nay đã có một niềm vui trọn vẹn. Ngày hôn lễ được diễn ra một cách êm xuôi. Gia đình họ thật hạnh phúc. Hạnh phúc vì có Chúa và Mẹ Maria cùng hiện diện trong gia đình họ. Hạnh phúc vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria mà Chúa đã ban cho gia đình một niềm vui trọn vẹn trong ngày thành hôn.
Ngày hôm nay nhiều gia đình đang đổ vỡ. Có biết bao gia đình đang bị xáo trộn bởi cơm chẳng lành canh chẳng ngọt. Có biết bao gia đình đang ly tán bởi "ông ăn chả, bà ăn nem". Có biết bao gia đình rượu ngon đã cạn chỉ còn đọng lại một chút rượu lạnh nhạt và chua cay. Thiếu rượu nồng của tình yêu nên dẫn đến đổ vỡ, nghi kỵ, hiểu lầm và ghen tương. Ngày hôm nay nhiều gia đình đang bất hoà vì đói nghèo, túng cực. Nhiều gia đình đang thất vọng bởi công việc làm ăn chẳng thuận buồm xuôi gió. Nhiều gia đình đang thiếu tình yêu, thiếu thốn tiền bạc, thiếu cả sự cảm thông và tha thứ đã gây nên biết bao xáo trộn trong các gia đình.
Ước gì mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta cũng biết mời Chúa đến trong gia đình của mình. Hãy dành cho Chúa một vị trí xứng đáng trong gia đình chúng ta. Hãy dâng gia đình cho Chúa. Nếu có Chúa hiện diện, Ngài sẽ tiếp tục gìn giữ gia đình chúng ta trong an bình hạnh phúc. Và trên hết mọi sự, hãy biết sống theo lời dặn của Mẹ Maria: "Người bảo gì anh em hãy làm như thế". Sống theo lời Chúa, gia đình sẽ không thiếu niềm vui, không thiếu rượu ngon của hạnh phúc yêu thương. Sống theo Lời Chúa thể hiện qua sự phó thác tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, và nhất là luôn sống đạo tình thương, mỗi người hãy biết mến thương nhau như chính mình. Nếu mình muốn có hạnh phúc hãy làm cho gia đình mình hạnh phúc. Nếu mình muốn được mọi người tôn trọng hãy biết đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
Dấu lạ Cana, dấu lạ đầu tiên ( Ga 2, 11 ) Đức Giêsu thực hiện trong tm theo Thánh Gioan, loan: TN 2-C112
Dấu lạ Cana, dấu lạ đầu tiên ( Ga 2, 11 ) Đức Giêsu thực hiện trong tm theo Thánh Gioan, loan báo sự thay thế giao ước cũ vốn được đặt nền trên Luật Môsê, bằng giao ước mới đặt nền trên tình yêu đích thực ( 1, 14 – 17 ) mà rượu mới do Đức Giêsu ban tặng chính là biểu tượng.
Câu chuyện dấu lạ Cana là một câu chuyện có tính phác hoạ chương trình. Những gì câu chuyện này muốn nói sẽ chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cảnh Đức Giêsu hoàn tất công trình của Người trên thập giá.
Đám cưới được coi là biểu tượng của giao ước trong đó Thiên Chúa là Hôn Phu của dân ( x. Hs 2, 16 – 25; Is 1, 21 – 23; 49, 14 – 26; Gr 2; Ed 16… ). Ý tưởng về một giao ước mới thời đại Mêsia, xuất hiện trước hết từ sự thất bại của giao ước cũ ( x. Gr 31, 33 – 34; 33, 14 – 22; Ed 36, 22 – 32 ). Đám cưới tại Cana, trong đó ta không thấy tác giả sách Tin Mừng nói gì về cô dâu và chú rể, là hình ảnh của giao ước cũ không còn tình yêu nữa. Đức Giêsu, vị Hôn Phu mới, hiện diện trong đám cưới này và loan báo sự thay thế của một giao ước mới sẽ xảy đến vào “giờ” của Người ( 2, 4).
“Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự” ( cc. 1 – 2 ). Thân mẫu Đức Giêsu được tác giả giới thiệu trong câu chuyện không phải bằng tên riêng của Bà, mà là qua mối tương quan của Bà với Đức Giêsu. Trong tất cả Tin Mừng theo Thánh Gioan, tác giả sẽ không gọi tên riêng của Bà bao giờ. Thân mẫu thuộc về đám cưới, tức là thuộc về giao ước cũ. Đức Giêsu và các môn đệ không thuộc về đám cưới, họ là những khách được mời. Vậy Đấng Mêsia đi vào trong đám cưới xưa cũ, đi vào trong dân đang sống với giao ước cũ, trong tư cách một vị khách được mời.
“Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi” ( c. 3 ). Rượu là yếu tố không thể thiếu được trong đám cưới thời ấy. Nó là biểu trưng cho tình yêu giữa chú rể và cô dâu. Trong đám cưới vốn là biểu tượng của giao ước cũ này, mối tương quan tình yêu giữa Dân và Thiên Chúa không còn nữa. Chính ở hoàn cảnh bi đát đó, có sự can thiệp của thân mẫu Đức Giêsu. Nhưng Bà chỉ nói cho Người biết tình hình hết rượu thôi.
Thân mẫu Đức Giêsu là một nhân vật đặc biệt trong câu chuyện. Bà vừa là người của đám cưới vừa là người rất thân cận với Đức Giêsu, vị khách được mời tham dự. Bà không được gọi bằng tên riêng. Đức Giêsu không thưa với Bà là mẹ, Bà cũng chẳng gọi Đức Giêsu là con. Đức Giêsu có một mối tương quan về nguồn gốc với Bà, nhưng không lệ thuộc Bà. Trong câu chuyện đám cưới/giao ước này, Bà thuộc về giao ước cũ, nhưng lại nhận biết Đấng Mêsia và đặt niềm hy vọng tin tưởng nơi Người. Bà chính là hình ảnh của những người Israel luôn trung thành với Thiên Chúa và luôn hy vọng vào những lời Thiên Chúa hứa.
Vậy sự can thiệp đầu tiên của thân mẫu Đức Giêsu là việc trình bày hoàn cảnh đáng buồn của giao ước cũ: “Họ hết rượu rồi”. Mặc dù thuộc về đám cưới, nhưng thân mẫu Đức Giêsu vẫn giữ khoảng cách với giao ước cũ này khi nói “họ hết rượu” thay vì nói “chúng tôi hết rượu”. Bà biết rất rõ rằng Thiên Chúa của giao ước là Tình Yêu và Thành Tín ( Xh 34, 6 ), và rằng tình yêu của Người không bao giờ vơi cạn ( x. Gr 31, 3 ). Bà trình bày với Đức Giêsu về tình trạng bi thảm của hoàn cảnh với hy vọng Người sẽ thực hiện một điều gì đó. Điều đó là gì, Bà không biết, nhưng Bà biết rất rõ sự thiếu thốn của Israel.
“Đức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi ? Giờ của tôi chưa đến” ( c. 4 ). Câu trả lời của Đức Giêsu có ngầm ý cho thân mẫu biết về sự cần thiết phải cắt đứt với giao ước cũ. Đức Giêsu nói cho thân mẫu hay rằng giao ước cũ đã thất bại rồi, Người sẽ không khôi phục giao ước ấy, nhưng sẽ thiết lập một giao ước mới. Công trình của Người sẽ không đặt cơ sở trên những thiết chế cũ, mà sẽ là một thực tại hoàn toàn mới mẻ. Đàng khác, Người cũng khẳng định rằng thực tại mới ấy được nối kết với một thời điểm trong tương lai, với “giờ của Người” ( 7, 30; 8, 20; 12, 23. 27; 17, 1 ), tức là giờ vượt qua của Người. Nói cách khác, Israel đích thực nhận thấy tính cách bi thảm của hoàn cảnh mình đang sống và trình bày hoàn cảnh đó với Đức Mêsia. Đức Mêsia sẽ khai mở một thời đại mới của tình yêu và hoan lạc, nhưng thời điểm và cách thức mà Đức Mêsia sẽ thực hiện chưa được tỏ lộ. Đức Giêsu khẳng định rằng Người độc lập với tình trạng của giao ước cũ và rằng giao ước mới sẽ được thiết lập vào giờ của Người.
“Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” ( c. 5 ). Do lời của Đức Giêsu, thân mẫu/Israel đích thực hiểu rằng giao ước cũ đã thất bại và rằng Đấng Mêsia sắp thực hiện giao ước mới. Vì thế, thân mẫu dặn các gia nhân, tức là những người cộng tác với Đấng Mêsia ( x. 12, 26 ), phải trung thành phục vụ giao ước mới đó.
Đến đây, câu chuyện bị ngắt quãng với việc trình bày về sự hiện diện của những cái chum dành vào việc thanh tẩy: “Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước” ( c. 6 ). Tác giả mô tả khá kỹ: ông nói rõ số lượng ( 6 cái, chứ không phải 7 ), chất liệu ( bằng đá ), sức chứa ( 80 hoặc 120 lít mỗi chum ), cho ta cảm tưởng về những thực tại nặng nề, bất động ( được đặt ở đó ). Chức năng của mấy cái chum này là “dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái”. Đáng chú ý là tác giả không nói rằng các chum này có nước bên trong. Thực ra, các chum này sẽ phải được đổ đầy theo lệnh của Đức Giêsu. Vậy đó là những cái chum rỗng. Sự thanh tẩy mà Luật đòi hỏi chỉ là cái bề ngoài, không hữu hiệu, không thực chất, không còn là phương thế đích thực để thiết lập mối liên hệ với Thiên Chúa. Hệ thống tôn giáo mà những người Do Thái đang thực hành không còn nội dung thực nữa: nó chỉ còn cái vỏ trống rỗng bề ngoài. Chính Luật đã gây ra tình cảnh bi đát đương thời, trong đó thay vì rượu tình yêu lại là những cái chum trống rỗng, nặng nề và bất động.
“Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” Và họ đổ đầy tới miệng” ( c. 7 ). Ra lệnh đổ nước đầy các chum, Đức Giêsu có ý nói rằng Người sắp thực hiện cuộc thanh tẩy đích thực. Tuy nhiên, cuộc thanh tẩy này sẽ không tuỳ thuộc chút nào vào Luật, vì những cái chum này sẽ không bao giờ chứa đựng rượu mới mà Người sắp ban tặng: nước biến thành rượu ở bên ngoài chum, sau khi đã được múc đem đi. Đức Giêsu bảo đổ nước đầy các chum chỉ để cho thấy những gì mà giao ước cũ là hình ảnh thì bây giờ sắp được trở thành hiện thực, nhưng độc lập với Luật cũ. Luật không thể thanh tẩy, nhưng Đức Giêsu sẽ thực hiện điều đó, không phải bằng nước rửa bên ngoài, mà là bằng rượu mới thấm vào bên trong lòng người.
“Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc". Họ liền đem cho ông” ( c. 8 ). Ông quản tiệc có trách nhiệm tổ chức tiệc và xử lý những vấn đề nảy sinh, thế nhưng ông không biết gì về tình trạng thiếu rượu. Ông là hình ảnh của các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đương thời, chẳng bận tâm gì đến tình cảnh thực của dân. “Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu ( mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết ), ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” ( cc. 9 – 10 ). Nước lã đã hoá thành rượu ngon khi được múc ra khỏi chum, chứ không phải khi còn ở trong chum. Rượu ngon ấy được đem đến cho người quản tiệc, tức là cho hàng lãnh đạo hệ thống tôn giáo Do Thái, nhưng họ không biết rượu từ đâu ra. Đức Giêsu không dùng bạo lực chống đối hàng ngũ lãnh đạo; trái lại, Người ban cho họ cơ hội nhận biết rằng tình trạng của giao ước cũ là bi đát và cần thiết phải đón nhận ơn huệ mới thời Mêsia.
Nhưng người quản tiệc “gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Trong lời khiển trách của người quản tiệc, có hai điều quan trọng: ông khẳng định sự ngon hơn hẳn của rượu mới và ông tỏ ra kinh ngạc vì rượu mới này ngon hơn rượu cũ. Người quản tiệc nhận ra rằng thời đại mới đã khác hẳn thời kỳ trước đây ( đến bây giờ ), nhưng ông không chấp nhận sự thay đổi. Đối với ông, cái cũ phải tốt hơn; ông không có khả năng hiểu được tại sao cái tốt hơn lại có thể đến sau. Ông là hình ảnh của hàng lãnh đạo tôn giáo Do Thái không nhận thấy cần phải thay đổi tình cảnh theo hướng tốt hơn và thực chất hơn. Ông công nhận rượu mới ngon hơn, nhưng chẳng bận tâm giải thích, vì đối với ông, cái gì xảy đến sau không phải là cái quyết định, mọi sự đều phải là cái tiếp nối quá khứ. Ông không hiểu rằng rượu mới này thuộc về một trật tự khác hẳn. Ông không nhận ra sự hiện diện của Đấng Mêsia.
Như thế, có thể nói, ông quản tiệc là hình ảnh đối nghịch với hình ảnh thân mẫu Đức Giêsu. Thân mẫu Đức Giêsu là tượng trưng cho Israel nhận biết Đấng Mêsia; ông quản tiệc là tượng trưng cho những người Do Thái không chú ý đến Đức Giêsu, không cảm thấy cần Người và không nhận biết thực tại mới mẻ của ơn huệ Mêsia mà Người thực hiện. Thân mẫu / Israel đích thực nhận ra tình trạng bi đát của thiết chế cũ và khao khát thay đội. Các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái lại kinh ngạc vì có cái gì đó thay đổi. Họ nhất quyết coi cái thiết chế không còn sức sống mà họ lãnh đạo ấy là thực tại không cần thay đổi. Bề ngoài họ vẫn giữ giao ước nhưng bên trong thì trống rỗng, như sáu cái chum nặng nề được đặt giữa tiệc cưới kia.
Sáu cái chum được đặt giữa tiệc cưới chính là hình ảnh của Luật. Mấy cái chum đó là yếu tố chia tách hai khối người và hai cách hành xử. Thân mẫu, người được xác định căn tính qua mối liên hệ nguồn gốc với Đức Giêsu, là hình ảnh của những người mở ra cho tương lai và những lời hứa của Thiên Chúa. Ông quản tiệc, người tổ chức bữa tiệc và xử lý các vấn đề của bữa tiệc, tức là người được xác định căn tính qua mối liên hệ của ông với bữa tiệc đang diễn ra, lại là hình ảnh của một thế lực hiện tại khép kín trong quá khứ và không mở ra với tương lai. Đức Giêsu hoạt động trong khung cảnh cụ thể đó: một bên là những người Israel đang mong đợi Người và bên kia là khối những người lãnh đạo lo bảo vệ hệ thống cai trị dân. Nhóm thứ nhất sẽ nhận biết Người là Đấng Mêsia, còn nhóm thứ hai sẽ tìm cách thủ tiêu Người. Bên cạnh hai nhóm ấy là những “gia nhân”, những kẻ cộng tác với Người và làm theo mọi lệnh truyền của Người.
Cuối sách Tin Mừng, trên thập giá, vào giờ của Người, Đức Giêsu sẽ thiết lập giao ước mới bằng máu của Người và sẽ tỏ rõ vinh quang tròn đầy của Người. Đó sẽ là lần thứ hai và cũng là lần sau cùng Đức Giêsu ngỏ lời với thân mẫu Người trong Tin Mừng theo Thánh Gioan. Tại đó, Israel đích thực sẽ hoàn toàn đi vào cộng đoàn giao ước mới, cộng đoàn được tràn đầy Thần Khí của Đức Giêsu:
“Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà. "Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh". Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: "Tôi khát !" Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất !" Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” ( 19, 26 – 30 ).
Cảm thông là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Cảm thông liên quan lòng trắc ẩn và lòng thương TN 2-C113
Cảm thông là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Cảm thông liên quan lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Đó là biết quan tâm, yêu thương và chia sẻ với người khác. Chúa Giêsu đã cảm thông nên mới “chạnh lòng thương” những con người khốn khổ mà Ngài gặp ở bất cứ nơi nào ( x. Mt 9, 36; Mt 14, 14; Mt 15, 32; Mt 18, 27; Mt 20, 34; Mc 1, 41; Mc 9, 22; Lc 7, 13 ), và Ngài cũng dạy chúng ta phải như người Samari mà biết xót thương tha nhân ( x. Lc 10, 29 – 37 ).
Như vậy, biết cảm thông là một nhân đức, vì cảm thông có liên đới với các nhân đức và các đức tính khác. Người biết cảm thông tha nhân là người của Thiên Chúa, vì người đó noi gương Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương ( x. Is 49, 10; Is 54, 10 ), là Đấng từ bi và nhân hậu ( x. 2Sb 30, 9; Tv 103, 1 và 8; Tv 111, 4; Tv 145, 8; Gc 5, 11 ).
TẠI SAO CẦN CẢM THÔNG ?
Ngôn Sứ Isaia bộc bạch: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, Ơn Cứu Độ của thành rực lên như ngọn đuốc” ( Is 62, 1 ). Rồi ông cho biết rằng “muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi bằng tên mới là tên miệng Đức Chúa đặt cho” ( Is 62, 2 ).
Thật là hạnh phúc vì được chính Thiên Chúa cảm thông mà thương xót, đồng thời còn được là “ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa cầm ở tay” ( Is 62, 3 ). Vì thế, chẳng ai còn dám tru tréo là “đồ bị ruồng bỏ !”, ngay cả xứ sở cũng không còn bị tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Nhưng lại được ưu ái gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi ! Xứ sở ngươi nức tiếng là duyên thắm chỉ hồng” ( Is 62, 4 ). Tại sao ? Vì người đó được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở người đó. Kinh thánh ví “như tài trai sánh duyên cùng thục nữ” khi Đấng tác tạo sẽ cưới người đó về, và “như cô dâu là niềm vui cho chú rể”, người đó cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ( Is 62, 5 ).
Chắc hẳn chẳng còn niềm vui nào lớn lao hơn và tột đỉnh như vậy. Vậy thì im lặng sao được, thế nên phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu ! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh ! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” ( Tv 96, 1 – 3 ).
Chúc tụng và tôn vinh như vậy cũng chưa đủ, vì lời nói phải đi đôi với việc làm. Tác giả Thánh Vịnh kêu gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi các dân các nước, dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan” ( Tv 96, 7 – 9 ). Tiếp theo là phải loan truyền cho người khác cùng hưởng niềm vui có Chúa: “Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” ( Tv 96, 10 ).
Làm gì cũng phải nhờ ơn Chúa, như Đức Kitô đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ). Nhưng có nhiều loại ơn, và mỗi người được nhận theo khả năng của mình: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” ( 1Cr 12, 4 – 7 ). Vấn đề là “vì ích chung”. Vì thế, khi chúng ta được ơn này mà người kia không có thì đừng cho là mình giỏi, được ơn gì đó là để phục vụ chứ không phải để hãnh diện mà kiêu căng, trách nhiệm tăng theo số ơn nhận được. Ngược lại, nếu mình không được ơn mà người khác được thì đừng ghen tỵ mà đố kỵ. Phải rất tỉnh táo để mà khiêm nhường và cảm thông.
Thánh Phaolô phân tích rạch ròi: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” ( 1Cr 12, 8 – 10 ). Tất cả đồng quy một mối: “Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” ( 1Cr 12, 11 ).
Thế thì chẳng ai có thể vênh vang tự đắc hoặc biện hộ cho mình bằng bất kỳ lý do gì. Người nào cũng có bổn phận riêng theo ơn mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Mười nén, năm nén hay một nén không là để kèn cựa nhau, mà là để nâng đỡ nhau, cảm thông nhau, và xót thương nhau theo gương Đại Sư Giêsu.
CẢM THÔNG ĐỂ LÀM GÌ ?
Chắc chắn cảm thông là để phục vụ: Phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân. Khi dạy về bài học phục vụ, chính Chúa Giêsu xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mt 20, 28 ). Phục vụ là phải “chịu thiệt”, vậy mới khó, chứ ai cũng có thể “chỉ tay năm ngón” – người tài thì điều khiển khéo léo, người kém tài thì điều khiển vụng về, nhưng người ta vẫn có thể ra lệnh và “sai bảo”.
Một lần nọ, Đức Giêsu và Thân mẫu được mời dự tiệc cưới tại Cana, miền Galilê, các môn đệ cũng được mời. Tiệc đang “nóng”, khách đang “hưng phấn” thì rượu bia không còn. Đi mua thì không kịp, vì thời đó phải đi bộ xa lắm, phương tiện liên lạc không dễ. Như ngày nay, người ta chỉ cần phóng xe đi trong vòng vài phút hoặc “nhấn nút alô” là xong ngay, khỏi cần tính toán nhiều cho nhức đầu.
Khi thấy họ thiếu rượu, Đức Mẹ đã cảm thông gia chủ và thấy thương họ, nên nói nhỏ với Con Trai: “Họ hết rượu rồi, con ơi !” ( Ga 2, 3 ). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến mẹ con mình ? Giờ của con chưa đến” ( Ga 2, 4 ). Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn đi nói với gia nhân: “Con Trai tôi bảo gì thì các anh cứ việc làm theo nhé !” ( Ga 2, 5 ). Con nói gì thì nói, Mẹ cứ bảo người ta theo ý Mẹ. Điều đó chứng tỏ Mẹ Con rất thông cảm và hiểu nhau, luôn “ăn ý” với nhau, đồng thời cũng chứng tỏ Đức Tin của mẹ quá mạnh mẽ và vững vàng.
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng 80 hoặc 120 lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” ( Ga 2, 7 ). Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” ( Ga 2, 8 ). Họ liền đem cho ông mà cũng không thắc mắc gì hết.
Khi người quản tiệc nếm thử thì thấy là rượu. Các chum đổ đầy nước mà giờ hoá thành rượu. Lạ thật ! Không ai biết rượu từ đâu ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết. Mà không phải rượu thường, đó lại là thứ rượu hảo hạng, vừa ngon và vừa mạnh “đô” lắm. Ôi chao, cứ đổ đồng mỗi chum là 100 lít, vị chi là 600 lít. Lượng rượu nhiều như thế này có mà vừa bán vừa cho, chứ uống làm gì hết ! Ông quản tiệc không hiểu ra làm sao, mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” ( Ga 2, 10 ). Chú rể cũng lắc đầu, bó tay, nhưng hẳn là anh chàng này thích thú và vui mừng lắm.
Thánh Gioan cho biết rằng đây là dấu lạ đầu tiên mà Đức Giêsu đã làm để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Các môn đệ quá đỗi ngạc nhiên, nhưng nhờ vậy mà các đệ tử đã tin vào Đại Sư của mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết cảm thông và yêu thương mọi người, nhất là những con người khốn khổ nhất, để chúng con xứng đáng được Ngài xót thương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
Tối thứ sáu ngày 18.1.2013, khi tôi chuẩn bị đi tập hát, ông Tuấn Caritas Giáo Xứ đến nhận mấy: TN 2-C114
Tối thứ sáu ngày 18.1.2013, khi tôi chuẩn bị đi tập hát, ông Tuấn Caritas Giáo Xứ đến nhận mấy bao quần áo. Ông Tuấn kể tôi nghe: Có một em bé 2 tuổi, gia đình người lương, ở thôn Lập Phước, Chi Họ Giuse, Giáo Xứ Hiệp Đức, mổ tim ở Bệnh Viện Trung Ương Huế về, nhưng tình trạng đang quá xấu, biết cách nào giúp đỡ bồi dưỡng cho em đây. Tôi vội ngồi xuống máy, gửi Email kể ngay cho cha Quang Uy ở DCCT Sàigòn…
Đi tập hát, tôi cũng kể với anh chị em ca đoàn về trường hợp trên. Chị Huệ ca viên xác nhận đúng thế, vì ở gần nhà chị. Ngày mai là lễ giỗ mãn tang của cha cố Phêrô Nguyễn Hữu Nhường, chánh xứ và hạt trưởng của chúng tôi, tôi đề nghị anh em ca đoàn làm một hy sinh góp quà cho bé như lễ vật cầu cho linh hồn cha cố.
Sáng nay, sau Thánh Lễ giỗ, anh chị em ca đoàn đã kín đáo bỏ vào túi quà. Tổng cộng được 1 triệu 70 ngàn đồng. Họ cẩn thận bỏ vào bì thư rồi hai người cùng tôi đến thăm cháu bé và gia đình.
“Đến xem nơi Người ở” mới biết, hai vợ chồng trẻ Dương Minh Hà, 24 tuổi, và Văn Thị Linh, 21 tuổi, có được đứa con trai đầu là Dương Triều Vũ, 2 tuổi. Cháu bé bị bệnh tim bẩm sinh tứ chứng Fallot. Bà ngoại cháu kể: “Tay chân miệng tím ngắt, khó thở, không lớn… từ lúc mới sinh. Cháu đã được một bác sĩ Công Giáo tại bệnh viện Huyện can thiệp và giới thiệu về Bệnh Viện Trung Ương Huế để mổ tim. Chi phí ca mổ tim được một xơ ở Huế can thiệp xin hỗ trợ. Vì bệnh tình nặng và ca mổ khó, bệnh viện đã cho cháu nằm một tháng trong phòng Hồi Sức Nội, và khi ra viện với nhận xét của bác sĩ là tạm ổn. Về nhà, tình trạng của cháu có vẻ như dần xấu đi, lồng ngực căng lên, mắt như lồi ra, thở khó, tay chân co rúm, luôn phải săn sóc trong vòng tay mẹ”.
Hai vợ chồng trẻ không có nhà riêng, ở chung với mẹ vợ, nhà hẹp, chật chội, nóng bức. Ba của bé, anh Hà làm nghề bốc gạch lên xe, quần quật cả ngày có khi chỉ kiếm được một trăm ngàn, có ngày thất nghiệp ở không. Chị Linh 21 tuổi, dành hết thời gian cho bé bệnh từ hai năm nay. Cuộc sống lứa đôi quả là gặp quá nhiều trắc trở, thử thách.
Ra về, lòng tôi miên man suy nghĩ về bài Tin Mừng Tiệc Cưới Cana và hình ảnh gia đình mới thăm. Vợ chồng Hà – Linh là người lương, nhưng họ cũng đã kết ước với nhau lời yêu thương chung thủy theo hôn nhân tự nhiên. Đứa con trai đầu lòng được sinh ra hẳn là niềm vui to lớn cho đôi vợ chồng trẻ, và cho cả hai gia tộc. Bất hạnh thay, đứa con bị tim bẩm sinh là một thử thách nặng nề cho đôi lứa. Rượu nồng ngày cưới nhau, tình nồng ngày khởi đầu trang sử tình yêu nay có còn nồng thắm ?
Linh, mẹ cháu bé nói: “Từ khi sinh cháu ra, tụi con chỉ biết ôm nhau mà khóc mãi thôi chú à !”… “Được giúp đỡ mổ tim cho cháu là tụi con mừng hết lớn. Nay mổ tim rồi, một mình ba nó đi làm bữa được bữa không, không biết lấy đâu mà bồi dưỡng cho cháu. Mỗi ngày mỗi tệ hơn. Đã vậy, còn nghe nói phải mổ lại lần nữa. Sức cháu đâu mà mổ nữa !?!”
Toàn cảnh Cana đang tái hiện trong tôi.
“Họ hết rượu rồi”. Vâng, ở đây cũng có đôi vợ chồng trẻ sắp hết rượu rồi. Hoặc là tình yêu của họ đang có nguy cơ nhạt phai đi bởi sức nặng của trách nhiệm, của thử thách quả là quá lớn. Thu nhập hằng ngày không đủ thấm vào đâu cho việc chính đáng phải chi mà không sinh ra ưu phiền chán nản mới lạ !
“Người bảo gì các anh hãy làm theo”. Ở đây, cũng có những gia nhân của người quản tiệc mà Mẹ bảo hãy làm theo lời Chúa dạy. Không ai khác hơn, đó chính là chúng tôi, chúng ta, những người cùng sống với nhau trong cuộc đời, có bổn phận sẻ chia phận người với nhau.
“Hãy đổ nước lã vào các chum”. Ở đây, hình như có nhiều hơn sáu chum đang vơi: chum hạnh phúc, chum niềm vui, chum hy vọng, chum tiền bạc, chum sức khỏe, chum gạo mắm, chum áo quần, chum cảm thông, chum an ủi và nhất là chum niềm tin. Hình ảnh anh chị em ca đoàn bỏ tiền vào túi quà cho cháu bé làm tôi liên tưởng đến việc “đổ nước lã vào chum”. Vì quả thật những tờ giấy bạc 10 ngàn, 20 ngàn, 50 hay 100 ngàn cũng chỉ như là nước lã, cũng chẳng giá trị gì, nếu không được tham dự vào phép lạ của Chúa, để Chúa biến thành rượu nồng, thành cơm bánh, thành hạnh phúc, thành niềm vui, thành niềm ủi an, thành niềm hy vọng cho người đang đau khổ, cho người “hết rượu”.
Tôi thầm cảm tạ ơn Chúa vì đã ban cho anh chị em ca đoàn một chút chạnh lòng thương, một chút hy sinh chia sẻ. Việc của chúng ta là “đổ nước lã vào chum”, và tôi tin tưởng rằng, việc còn lại là việc của Chúa: “Biến nước lã thành rượu thơm nồng”. Cũng vậy, việc của chúng ta là vâng lời Chúa dạy mà yêu thương người như Chúa đã yêu, cho người chén nước lã cầm hơi, còn việc của Chúa là biến tình yêu của chúng ta, biến chén nước lã nhạt nhẽo nên sức sống, nên niềm vui, hạnh phúc cho cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cộng tác vào phép lạ tình yêu của Chúa, bằng việc vâng lời Chúa dạy mà yêu thương và sẻ chia ít là một chén nước lã cầm hơi cho người, cho đời thôi cơn khô khát. Amen.
Tài liệu của US Census Bureau năm 2010 cho biết, tỉ lệ ly dị trung bình của nước Mỹ là khoảng: TN 2-C115
Tài liệu của US Census Bureau năm 2010 cho biết, tỉ lệ ly dị trung bình của nước Mỹ là khoảng 50%, tiểu bang đi đầu là California 60%, mà Quận Cam là vùng có tỉ lệ ly dị cao nhất, gần 70%.
Từ nhiều năm trở lại đây, tỉ lệ lập gia đình trong dân số Hoa Kỳ ngày càng giảm, trong khi con số ly dị từ các cặp vợ chồng đó ngày một tăng lên. Cứ ba cặp đôi nào vượt qua được các thử thách và quyết định đi tới hôn nhân, thì chỉ một trong số đó sẽ giữ được mái ấm của mình. Với tỉ lệ ly dị cao tới gần 70% giữa các đôi vợ chồng ở Quận Cam, có thể nói rằng những đứa trẻ nào ở Quận Cam, mà có được cả ba lẫn mẹ để thưa chào trước khi đi học hay khi về nhà, là những đứa trẻ may mắn.
Tóm lại, cứ 10 cặp vợ chồng ở Quận Cam ( Orange County ) thì 7 cặp sẽ kết thúc trong sự tan vỡ. Theo khảo sát thì ba cặp còn lại, cũng nghĩ tới việc ly dị nhưng họ không biến ý nghĩ đó thành hiện thực. Trong cuộc sống hiện đại, khi thời gian là vàng bạc, con người dường như quyết định mọi thứ nhanh chóng hơn, kể cả việc chấm dứt đời sống vợ chồng. Khi nghĩ tới việc ly dị như một phương án, để kết thúc cho mọi khó khăn trong đời sống gia đình, thiết nghĩ một chút thời gian để nói chuyện với nhau, có thể giữ bạn lại ở bên phía 30% may mắn của các cặp vợ chồng ở Quận Cam ( Thiên An, báo Người Việt ).
Hôm nay, Thánh Gioan mời gọi chúng ta đi dự tiệc cưới Cana cùng với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các tông đồ tân tuyển. Tiệc cưới diễn ra ban đầu suôn sẻ, nhưng bất ngờ xảy ra sự cố ngoài dự trù.
Khi đôi tân hôn đang còn nôn nóng, chờ đợi mời nhau chén rượu hợp cẩn, khi những lời chúc phúc trăm năm hạnh phúc, chưa kịp biến thành hiện thực, thì bất ngờ mối lo âu, hốt hoảng đã vội len lỏi ập đến, như kẻ trộm âm thầm giữa đêm khuya. Tiệc cưới sắp hết rượu !
Không Chúa, “hết rượu rồi !”
Đại tiệc đang hồi cao trào, náo nhiệt, tưng bừng, nhưng Mẹ Maria luôn quan tâm, luôn lắng nghe và luôn thấu hiểu tình trạng con cái, khi gia nhân lo lắng, băn khoăn, loáng thoáng xầm xì hết rượu. “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi" ( Ga 2, 3 ).
Thiên hạ vẫn nghĩ rằng, hạnh phúc hôn nhân được gầy dựng, duy trì và phát triển do chính hai vợ chồng, cùng góp công, góp sức. Điều đó đúng đắn, nhưng thực sự chưa đủ để hôn nhân bền vững tồn tại. Bởi vì khuynh hướng hưởng thụ cá nhân đang được thế giới văn minh đề cao cổ võ, có thể gây tổn thương trầm trọng đến mái ấm. Nếu cứ đua nhau đi tìm thú vui, tình cảm riêng tư, không còn biết chia ngọt, xẻ bùi với bạn đời, không còn gắn kết chặt chẽ với nhau trong tình yêu nữa, thì đổ vỡ hôn nhân là điều tất nhiên. Đó chính là lúc “Họ hết rượu rồi !” báo hiệu nguy cơ chia tay, ly hôn, ly dị.
Tình cảm đôi lứa, tình yêu hôn nhân, tình nghĩa vợ chồng rồi cũng sẽ phai nhạt dần theo năm tháng, cũng sẽ sứt mẻ vì nhàm chán, vì va chạm, vì bất hòa, bất đồng, nhất là vì mỗi người tôn thờ cái bụng, tôn thờ cái tôi vĩ đại. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thấm thía cảm nghiệm: “Em ơi, lửa tắt, bình khô rượu ! Đời vắng em rồi, vui ( say ) với ai ?” Lửa tình, yêu thương đã tắt ngúm, rượu nồng, nghĩa thắm cũng đã cạn kiệt, niềm vui đã biến mất, hạnh phúc đã cao chạy xa bay. Còn tiếc nuối chi nữa mà níu kéo nhau ?
Mặc dù Chúa Giêsu luôn hiện diện, luôn kiên nhẫn trông ngóng, chờ đợi bên ngoài ngưỡng cửa tổ ấm, người ta vẫn lạnh lùng, không hề ân cần, vồn vã kính trọng mời Chúa bước vào. Không hề muốn Chúa đến thăm viếng, chia sẻ. Đó chính là tình trạng “vô thần thực dụng,” như Đấng Đáng Kính Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, đề cập về Điều Răn Thứ Nhất. Không hề muốn Chúa can thiệp vào đời sống hôn nhân, hoặc riêng tư, thì cuộc đời vợ chồng sẽ đương nhiên mau chóng trở nên nhàm chán, trơ trẽn, nhạt nhẽo, vô vị, trống rỗng, thiếu thốn, phá sản, như bình rượu cạn khô.
Có Chúa, “rượu ngon” tràn đầy
Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi ! " Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết ( Ga, 7 – 9 ).
Khi trân trọng mời Chúa vào nhà, thì Người sẽ biến đổi cuộc hôn nhân đang đóng băng, sắp tan vỡ, trở thành bền vững, ấm áp, nồng nàn nghĩa tình. Chồng cần mẫn, rộng lượng, quảng đại, trung tín, có trách nhiệm với mái ấm, biết hy sinh cho vợ con, không say sưa chè chén, không đam mê đỏ đen, không lăng nhăng phù phiếm. Vợ đằm thắm biết nhẫn nhục, biết vun đắp, không đay nghiến, không nhỏ nhen, chấp chiếm, vạch lá tìm sâu. Con cái ngoan ngoãn, biết vâng lời cha mẹ, ông bà, thầy cô, trở nên hiểu đễ, chăm chỉ học hành. Không còn ai sống theo ý riêng, ích kỷ, vun quén bản thân, lạnh lùng, ơ hờ, bất cần người khác, mà thân thương, gắn bó, đoàn kết, hòa hoãn, chin bỏ làm mười, cùng nhắc nhủ nhau noi gương Thánh Gia, chung sức xây dựng gia đình hạnh phúc bền bỉ. Cũng đừng quên sứ điệp của Mẹ Têrêsa Calcutta: “Hãy luôn mỉm cười với nhau !” để tình yêu hôn nhân, gia đình luôn cập nhật và canh tân.
Chúa đến thăm gia đình, sẽ thân ái trao tay những tặng phẩm vô giá, lòng nhân ái, lòng thương xót, nghĩa phu thê, tình mẫu tử, tình phụ tử, lòng hiểu thảo, đức khiêm nhường, lòng khoan dung, tha thứ, hy sinh, quên mình, bỏ mình, vác thánh giá của nhau. Tất cả những nhân đức ây mới có điều kiện nảy nở, phát triển, khi đón nhận Chúa vào nhà, đồng thời có sức miễn nhiễm và đề kháng mãnh liệt với những thách đố hiện đại, như xung khắc, ích kỷ, hưởng thụ, ly thân, ly dị.
Có Mẹ săn sóc, bảo hiểm tổ ấm
Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo." ( Ga 2, 5 ). Lời Mẹ dặn vô cùng quan trọng để gìn giữ hôn nhân bền vững. Hãy lắng nghe Người dạy bảo qua Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa chính là ngọn đèn soi bước chúng ta đến bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu.
Mỗi khi thánh lễ hôn phối vừa chấm dứt, các đôi tân hôn thường theo mỹ tục, dẫn nhau đến dưới bàn thờ Mẹ, phó dâng cho Mẹ đời sống hôn nhân mới mẻ. Mẹ chẳng bao giờ nỡ chối bỏ làm ngơ. Mẹ luôn ân cần chăm sóc con cái, y như khi xưa ở Nazareth, Mẹ chu toàn tình mẫu tử với Hài Nhi Giêsu.
Gia đình Thánh là mẫu gương sáng chói rạng ngời cho hôn nhân. Hơn nữa, Thánh Gia đã bao phen cơ cực, như Mẹ phải sanh con nơi hang đá bò lừa, hôi hám, giá lạnh, như Thánh Giuse phải vội vã đem gia đình di tản lánh nạn, âm thầm vượt biên, hòng thoát khỏi bàn tay khát máu của vua Hêrôđê. Do vậy, không ai hiểu những thách đố cay nghiệt của đời sống hôn nhân bằng Mẹ. Vậy hãy chạy đến Mẹ hằng ngày, hằng giờ, để được Mẹ an ủi, chở che, bảo hiểm mái ấm khỏi mưa sa bão táp hư hao, bầm dập.
Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương, hưởng thụ, nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước ! Đôi tân hôn mới ý thức rằng phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt !
Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tàng đạo đức chưa được sử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui ( Đường Hy Vọng, 464 )
Lạy Chúa Giêsu, con xin chân thành mời Chúa đến thăm gia đình chúng con, ở lại với chúng con luôn mãi, để thánh hóa cuộc hôn nhân chúng con, tựa như của lễ hiến dâng lên Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria nhân từ, xin Mẹ luôn quan tâm chăm sóc, chở che, vỗ về gia đình chúng con, khỏi bão tố, ba đào, cho tình yêu đôi lứa chúng con bển vững và thăng hoa, đẹp lòng Thiên Chúa. Amen.
Dấu lạ, hay gọi khác đi ở một biên độ rộng hơn – phép lạ, là những điều, những sự việc xảy ra ngoài TN 2-C116
Dấu lạ, hay gọi khác đi ở một biên độ rộng hơn – phép lạ, là những điều, những sự việc xảy ra ngoài khả năng của con người, là một phạm trù mà ai ai cũng hơn một lần ao ước. Tại sao vậy ? Có lẽ vì chính bản thân nhân loại bất toàn. Cho nên, khi đối diện thực tế cuộc sống đầy đắng cay, khắc nghiệt. Những sự kiện, những tình huống xảy đến ngoài tầm kiểm soát, vượt ra khỏi khả năng giới hạn của họ. Khi ấy, hơn bao giờ hết, họ luôn mong chờ dấu lạ, hay phép lạ xảy đến với mình.
Dấu lạ thực ra thể hiện khát vọng, ước mơ của con người. Ước mơ là điều mà con người khao khát vươn tới, ước ao đạt được. Ước mơ đẹp hay xấu tùy thuộc vào ý định của chủ thể. Phần lớn ước mơ đẹp nói lên hoài bão hướng thiện của nhân loại. Ước mơ xấu chẳng qua là sự đòi hỏi ích kỉ vì tham vọng bản thân.
Ước muốn điều tốt lành cho tha nhân bao giờ cũng là một ước mơ thánh thiện. Ước muốn của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana hôm nay là một điển hình. Chính sự tinh tế, nhạy bén và lòng nhân hậu của Mẹ, đã khiến Mẹ bộc bạch niềm mơ ước của mình với Đức Giêsu. Mẹ nhìn thấy niềm vui tột đỉnh, và hạnh phúc dạt dào của đôi tân lang, tân nương trẻ trong ngày đại lễ. Mẹ muốn làm một việc gì đó, giúp cho cuộc vui của họ được kéo dài, được trọn vẹn. Lòng trắc ẩn đã thúc đẩy Mẹ can đảm ngỏ lời với Con Thiên Chúa: “Họ hết rượu rồi” ( Ga 2, 3 ). Đáp lại mơ ước của Mẹ, có thể nói là một sự hụt hẫng lớn lao: “Thưa bà, chuyện đó có can gì đến bà và con ? Giờ của con chưa đến” ( Ga 2, 4 ).
Phải, trên thực tế, đó đúng không phải là chuyện của thực khách được mời. Và tình huống của họ cũng gọi là vô cùng “nguy ngập”. Tìm đâu ra rượu trong lúc dầu sôi lửa bỏng thế này ? Muốn cũng phải mất hàng phút sau may ra mới chạy kịp. Mẹ ngỏ lời vì biết Con Mẹ có thể thực hiện được. Mẹ ngỏ lời vì Mẹ tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Con Mẹ. Mặc dầu đón nhận câu trả lời không đúng nhịp, vậy mà Mẹ vẫn bình tĩnh nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” ( Ga 2, 5 ).
Vâng, và niềm tin đã chiến thắng. Sự vâng phục là điều kiện đủ. Nhìn lại những trang Phúc Âm, dường như Đức Giêsu luôn “thua cuộc” trước những niềm tin sắt đá của con người. Nhân tố quyết định phép lạ xuất hiện cũng là niềm tin. Niềm tin chính là chìa khóa mở toang cánh cửa mầu nhiệm của phép lạ. Chỉ cần tin thôi, chỉ cần tin Thiên Chúa quyền năng luôn yêu thương và chăm sóc mình, cuộc đời của thế giới chắc chắn sẽ khác. Chỉ cần biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa trên từng tạo vật, cuộc đời của mỗi người chắc chắn sẽ khác.
Lạy Chúa, đã bao lần con hằng ước mơ, những ước mơ đẹp và cả những ước mơ không lành mạnh. Thế nhưng, dù đẹp hay xấu, thực tế vẫn có những ước mơ… không bao giờ là hiện thực. Ước chỉ để mà ước, mơ chỉ để mà mơ, chi bằng mở rộng lòng đón nhận ? Phải chăng niềm tin của con còn yếu kém, vì con còn hoài nghi, ngờ vực ? Phải chăng trái tim con quá tham vọng, ích kỉ ?
Dòng thời gian qua đi, kéo trôi tất cả những mơ ước của con, thành hay không thành sự cũng vậy. Nỗi khát khao trông đợi về nó cũng phai lạt dần. Con chợt nhận ra, chỉ có một ước mơ duy nhất, chỉ cần một ước mơ vĩnh cửu, đó chính là thi hành mơ ước của Thiên Chúa.
Hãy sống cho ước mơ của Chúa, hãy sống cho mơ ước của Ngài. Đó chính là ước mơ đẹp nhất. Cho người nghèo khỏi khổ, cho người bệnh được chữa lành, cho người tội lỗi được hoán cải, cho thế giới được bình an… chẳng phải đều là những ước mơ đẹp cả hay sao ?
Thế nhưng tại sao thế giới vẫn nghèo đói, chiến tranh và loạn lạc ? Tại sao vẫn luôn có bạo hành, chém giết, hận thù ? Và phải chăng Thiên Chúa ước mơ cuộc đời con khốn đốn ?
Xin giúp con, thay vì ngồi chờ đợi phép lạ, hãy trở nên phép lạ cho tha nhân. Đó cũng chính là khi, Thiên Chúa gửi mơ ước của Ngài cho con…
Chúa Nhật 2 QN.C (Is 62, 1-5; 1Cor 12, 4-11; Ga 2, 1-12)
Dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có viếng thăm Nhà Thờ Cana. Nơi đây cách Nagiarét 7km: TN 2-C117
Dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có viếng thăm Nhà Thờ Cana. Nơi đây cách Nagiarét 7km về hướng Bắc. Một vùng nông thôn nằm giữa Nazarét và biển hồ Tibêria, ngày nay gọi là Kefr Kenna. Cana cũng là quê hương của Tông đồ Nathanael (Batôlômêô).
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước thành rượu hảo hạng (Ga 2,1-12). Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân: “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng. Chúa Giêsu còn thực hiện một phép lạ khác tại Cana: chữa lành cho con một sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4,46-54).
Từ chỗ dừng xe, phải leo lên một đoạn dốc cao, hai bên có nhiều quày hàng bán quà lưu niệm vui vẻ mời chào.Chúng tôi thấy một ngôi Thánh đường có hai tháp, biểu tượng cho đôi lứa và một vòm ở giữa tượng trưng sự tận hiến của đơn vị gia đình.
Bên trong Thánh đường, người ta đặt chum rượu của thời Chúa Giêsu một cách cung kính ở ngay Cung Thánh. Những chum đá dưới bàn thờ cũng như ở tầng hầm có từ thế kỷ V. Chum có hình dáng như chum đá tại tiệc cưới Cana ngày xưa. Nơi đây như trình bày đặc ân mà Chúa muốn dành phép lạ đầu tiên để thánh hóa tình yêu lứa đôi và kiện toàn thể chế gia đình bền vững. Có một chum đá to được trưng bày trang trọng cho khách tham quan ngắm nhìn; đây là 1 trong 6 chum đá của phép lạ Cana được các nhà khảo cổ tìm thấy.
Có nhiều đoàn hành hương đã cử hành nghi thức lập lại lời hôn ước cho những cặp vợ chồng tại Nhà thờ Cana. Có những đoàn chọn Cana để kỷ niệm ngày thành hôn. Xin Chúa chúc lành cho hạnh phúc lứa đôi tại nơi này thì thật là ý nghĩa.
Chúng tôi quỳ gối đọc kinh, cầu nguyện cho những người sống đời đôi bạn được hạnh phúc, tín trung.
Phía trước Nhà thờ có nhiều quày bày bán quà lưu niệm. Những chai rượu Cana là quà mừng cho người thân bạn bè được du khách ưa chuộng nhất. Rượu nho sản xuất tại Cana. Ai cũng mua vài chai làm quà tặng quý giá như rượu chính phẩm được Chúa làm phép lạ năm xưa.
1. Phép lạ đầu tiên
Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng. Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.
Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể.
Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.
Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẻ cho cô dâu chú rể, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Người mà rượu là biểu tượng như lời Thánh Vịnh 109: “Rượu ngon làm phấn khởi lòng người”. Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng. Chúa Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10). Rượu Chúa Giêsu cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Luật Môsê được thay thế bằng chất lượng Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn mới (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn còn bị thiếu nữa. Có một thứ rượu tuyệt hảo được ban tặng bởi Tân Lang đích thực là Chúa Giêsu. Ơn Cứu Độ chính là niềm vui trọng đại. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.
Trong Tin Mừng Gioan, có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Tin Mừng theo Thánh Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.
Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó. Chẳng hạn:
- Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa tự giới thiệu: “Ta là bánh hằng sống” ( Ga 6 ).
- Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian”(Ga 9 ).
- Sau khi cho Ladarô sống lại, Chúa tự nhận: “Ta là sự sống lại và là sự sống” ( Ga 11 ).
2. Ý nghĩa phép lạ Cana
- Phép lạ Cana xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu Ước, để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa đối với dân Israen, các Ngôn Sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới với dân của Ngài. Thiên Chúa là chú rể. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Giuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà. Chủ đề của bài đọc I là cuộc phục hưng Giêrusalem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân Ngài. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mêsia, niềm vui dạt dào như rược tiệc cưới Cana.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana mở màn cho hôn nhân Kitô giáo một kỷ nguyên mới. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới. Chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các Tông Đồ. Bí tích Hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Dựa trên học thuyết của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô, ca tụng tình yêu chồng vợ cao đẹp như tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Giáo Hội là hiền thê (Ep 5,22-33), Giáo Hội khẳng định “Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa hai người được rửa tội lên hàng bí tích” (Giáo Luật # 1055). Từ nay, hôn nhân có đặc tính là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly; hôn nhân được Chúa chúc phúc và được Giáo Hội chứng nhận.
- Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon”. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người ví mình là chú rể, là tân lang. Chúa Giêsu ví giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ. Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rể lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môsê. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rể thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu Ước thành rượu Tân Ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
- Tiệc cưới Cana là biểu tượng Tiệc Cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui Ơn Cứu Độ cho con người.Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh Hằng Sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
3. Hãy đến với Mẹ Maria
Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.
Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25- 27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.
Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo...”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta. (2013)
Chứng minh thư là điều bắt buộc phải có trong sinh hoạt hàng ngày nhất là những người làm công: TN 2-C118
Chứng minh thư là điều bắt buộc phải có trong sinh hoạt hàng ngày nhất là những người làm công việc nơi giới hạn cho công cộng hoặc du lịch đó đây. Không giấy chứng minh sẽ bị từ chối cho vào cửa và đôi khi còn gặp phiền hà, rắc rối đến bản thân như bị tình nghi, câu lưu, bắt giữ. Trước khi chứng minh thư được cấp phát người làm đơn xin phải thoả một số điều kiện đòi hỏi của nơi xin. Nếu không có đủ giấy tờ chứng minh đon sẽ bị từ chối.
Mục đích chính của chứng minh thư là để bảo vệ lẫn nhau, bạo vệ an toàn cho đại chúng vì thế thiếu chứng minh được quá khứ sẽ bị từ chối cho vào. Chứng minh thư có nhiều dạng khác nhau. Đơn giản chỉ là một vài số mật mã hay pha trộn giữa chữ và số hay chỉ một câu nói đúng cũng có thể được chấp nhận cho vào. Phức tạp hơn là những chứng minh thư đòi phải có dấu in chỉ tay hay hình ảnh và kèm theo chử kí. Trường hợp quan trọng hơn nữa có khi phải có hai ba loại chứng minh thư khác nhau mới đủ điều kiện cho vào. Thiếu một trong những thứ đó thì phải dừng chân tại chỗ hay ra về. Đời sống càng ngày càng trở nên phức tạp hơn nên chứng minh thư cũng đòi hỏi nhiều chi tiết hơn và cũng phức tạp hơn. Ngoài viêc hình ảnh, chữ kí, còn có thêm việc in chỉ tay, chụp hình con ngươi mắt và trong tương lai còn có ghi cả giọng nói trong chứng minh thư để việc nhận dạng dễ dàng hơn.
Chứng minh bằng giọng nói là điều chúng ta mừng kính ngày hôm nay. Sau khiThánh Gioan ban phép rửa nơi sông Giođan, Đức Jêsu vừa ra khỏi nước có tiếng phán từ trời cao.
Đây là Con yêu dấu củaTa, Ta hài lòng về Người Mt 3,17
Tiếng nói từ trời cao xác nhận Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Tiếng nói đó cũng mặc khải cho nhân loại một tin mừng đó là Con Thiên Chúa xuống thế làm người và ở giữa chúng ta như lời thiên thần ca vang mùa Giáng Sinh vừa qua.
Thân xác Đức Kitô giờ đã về trời nhưng thiên tính và nhân tính Ngài còn tồn tại nơi trần gian qua lời Chúa và qua Bí Tích thánh của Giáo Hội. Lắng nghe tiếng của Đức Kitô chính là lắng nghe tiếng Chúa nói qua Con chí ái của Ngài là Đức Kitô. Chúng ta tin Thiên Chúa dậy dỗ con người qua người Con làm hài lòng Thiên Chúa; mà người Con làm hài lòng Thiên Chúa không ai khác hơn là chính Đức Kitô. Đức Kitô làm hài lòng Thiên Chúa vì Ngài không nói, không dậy những gì theo í riêng mà nói và dậy những gì Ngài nhận từ Thiên Chúa.
Đức Kitô Con Thiên Chúa xuống trần gian để chia xẻ nhân tính của nhân loại và qua Đức Kitô chúng ta được thông phần chia xẻ thiên tính của Thiên Chúa. Làm thế nào chúng ta được hưởng đặc ân ấy? Thưa qua bí tích thanh tẩy chúng ta được thanh tẩy nhờ vào Danh Chúa Cha, Danh Chúa Con và Danh Chúa Thánh Thần. Nhờ thế mà chúng ta được chia sẻ thiên tính của Thiên Chúa, biến chúng ta thành con yêu dấu của Thiên Chúa, chia sẻ thiên tính của Đức Kitô. Qua bí tích thanh tẩy chúng ta được chia sẻ cả nhân tính lẫn thiên tính của Đức Kitô và cùng chia sẻ sứ mạng mang Tin Mừng đến cho muôn dân của Đức Kitô. Chúng ta cũng được chia sẻ lời phán từ trời cao trở thành con chí ái của Thiên Chúa.
Chia sẻ xứ mạng của Đức Kitô qua việc học hỏi giáo huấn của Ngài và thực hành điều Ngài dậy qua hai cách. Thứ nhất chúng ta học vâng lời Chúa Cha như chính Đức Kitô vâng lời Chúa Cha. Thứ hai chúng ta chia sẽ sứ mạng rao giảng Tin Mừng như Đức Kitô làm trong thời gian tại thế. Chia sẽ Tin Mừng qua phục vụ người khác. Làm như thế là làm rạng Danh Chúa nơi trần thế. Danh Chúa rạng tỏ qua tiếng nói phán ra từ trời cao. Danh Chúa còn được toả sáng, lan rộng qua việc phục vụ tha nhân của kẻ tin vào Ngài.
Là con cái sự sáng chúng ta không cần lăn tay, chụp hình chứng minh thư. Chứng minh thư của con cái Chúa là phục vụ tha nhân qua yêu thương. Dấu chỉ mang tính toàn cầu này được toàn thể nhận biết qua phục vụ trong yêu thương và dấu chỉ này còn là căn tính dẫn vào thiên đàng
Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuơ tạo thiên lâp điạ. Mt 25,34
Chúng ta cầu xin ơn hiểu cặn kẽ hơn bí tích thanh tẩy của mình và đáp trả lại lời mời gọi trở thành con chí ái của Chúa Cha.
Bài đọc1: Is.62:1-5: Người chồng sẽ vui mừng vì vợ.
Bài đọc 2: 1Cr.12:4-11: Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người qui định.
Phúc âm: Ga.2:1-12: Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo.
SUY NIỆM:
Một phụ nữ kể về việc trang trí nội thất của gia đình. Mọi việc trang hoàng đều được vợ chồng đồng: TN 2-C119:
Một phụ nữ kể về việc trang trí nội thất của gia đình. Mọi việc trang hoàng đều được vợ chồng đồng ý. Bỗng một hôm chồng bà tự ý bảo người thợ treo ảnh Chúa Giêsu vào chỗ trang trọng nhất trong nhà. Bà không bằng lòng, cố hết sức thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn khăng khăng.
Đang lúc hai vợ chồng cãi nhau, bà sực nhớ lời Chúa Giêsu: “Ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác. Ta cũng sẽ nhìn nhận kẻ ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt.10:32).
Thế là bà chịu theo ý chồng. Và từ đó Chúa Giêsu luôn ban cho gia đình bà an vui hạnh phúc, đến nỗi một người bạn sau khi ngắm bức ảnh đã thốt lên: “Lúc nào tôi cũng thấy gia đình chị yên vui. Ấn tượng mạnh nhất tác động trên bạn bè khách khứa chúng tôi là mỗi khi nhìn lên ảnh Chúa Giêsu, tâm hồn chúng tôi luôn được nâng cao….”
Và bà đã kết luận: “Theo thiển ý tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà chắc bạn sẽ được biến đổi hoàn toàn”.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện cưới của đôi tân hôn. Họ biết mời Chúa , Đức Mẹ và các môn đệ vào nhà dự tiệc. Nhờ đó, qua sự lưu tâm chăm sóc cầu bầu đặc biệt của Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên tại Cana miền Galilê.
Lễ cưới là một lễ quan trọng thật sự cho mọi người trên khắp thế giới. Tại Palestine, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Đường đi càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Hồi đó vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng vui vẻ, quả thực là kỷ niệm vô cùng đặc biệt trong cuộc đời. Hòa với niềm vui con người, Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Tuy nhiên có vấn đề trục trặc xảy ra.
Trong bữa tiệc của người Do Thái, rất cần phải có rượu. Chính các thầy Do Thái cũng nói: “Không rượu thì không vui”. Đó không phải là vì người ta nghiện rượu. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều rất xấu hổ. Nhưng ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng: thiếu thức ăn, thức uống trong tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Hôm nay nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời cầu nguyện của Đức Mẹ xin Chúa Giêsu là lời cầu xin đầy khiêm tốn, nhất là Mẹ nhận lại lời đáp ứng dường như có vẻ cứng cỏi của Chúa Giêsu: “Thưa bà, chuyện đó có can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến”. Thế nhưng Đức Mẹ đã từ bỏ mình, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp nan giải của gia chủ. Cuối cùng, chẳng những do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua mọi thế hệ, Kinh Thánh được loan truyền cho mọi người thấy Chúa làm phép lạ là do lời Mẹ cầu bầu.
Bài suy niệm trên đây giúp chúng ta học được rất nhiều điều quí giá:
-Trước hết là sống với Đức Kitô: Như đôi tân hôn trong ngày đại lễ, họ đã đón nhận vị thượng khách đến nhà, chúng ta cũng hãy đồng hành với Đức Kitô trong mọi sự. Đón nhận Đức Kitô qua bí tích Thánh Thể, qua sự kết hợp thiêng liêng. Từ đó ánh quang phục sinh của Chúa sẽ lan tỏa trong mọi hành vi của cuộc sống thường nhật. Không những chúng ta mời Đức Kitô đến tham dự tiệc cưới mà còn mời Ngài tham dự bất cứ yến tiệc nào trong cuộc đời. Chúng ta mời Chúa đến chỉ huy mọi công trình vĩ đại đã vậy, mà còn mời Ngài giúp đỡ cả những công việc khác nữa. Chính Ngài sẽ hoàn hảo mọi sự trong ngoài cho đời sống chúng ta. Xưa kia Chúa cũng đã biến đổi các tâm hồn và thường làm phép lạ trong các gia đình: Người chữa bà mẹ vợ thánh Phêrô khỏi bệnh (Mc.1,31). Cho con gái ông Giairô sống lại (Mc. 5, 41). Chữa lành bệnh nhân nhà người biệt phái (Lc. 14,4). Chúa biến đổi anh thu thuế Giakêu (Lc. 24,30). Chúa mở mắt tâm hồn cho hai môn đệ làng Emmau v.v...
- Sau nữa chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ Maria. Nghĩa là phải cầu xin với lòng tin tưởng. Lịch sử ơn cứu độ đã chứng minh điều đó: Bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi; bởi đức tin đại quân ngoại bang phải rút lui; bởi đức tin thành Giêricô xụp đổ. Nhờ đức tin, mà người mù được sáng, què được đi, kẻ phung được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Đức Maria hôm nay tin vững chắc rằng: “Người bảo gì cứ làm theo”.
Tắt rằng, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện trong đời sống chúng ta qua những nỗi buồn vui sướng khổ. Đó là ân huệ ở tiệc cưới trần đời này và là hạnh phúc đời đời ở tiệc cưới đời sau trên thiên quốc. Có Chúa chúng ta không còn sợ hãi, không còn thiếu thốn, mà Ngài còn là con tầu êm ái đưa ta về quê trời.
Bạn và tôi, chúng ta thường xuyên vẫn nhận được những thiệp mời đi ăn cưới. Đôi khi mỗi năm: TN 2-C120
Bạn và tôi, chúng ta thường xuyên vẫn nhận được những thiệp mời đi ăn cưới. Đôi khi mỗi năm đến 4 hay 5 đám cưới. Cưới con, cưới cháu, cưới con cháu của bạn bè, của người thân. Và mỗi lần như vậy chúng ta đều thấy mình trở thành quan trọng và là người đem lại niềm vui và hãnh diện cho kẻ khác: “Sự hiện diện của ông/bà, của anh/chị, của cô, chú, bác là niềm vui và hãnh diện cho gia đình chúng tôi”. Và: “Sự hiện diện của ông/bà, của anh/chị, của cô, chú, bác tăng thêm phần long trọng trong bữa tiệc”.
Một người tầm thường như chúng ta đây mà sự hiện diện còn là một niêm vui và hãnh diện cho đôi tân hôn và gia đình hai họ, phải hiểu làm sao trong tiệc cưới tại Cana hôm đó khách được mời là Đức Maria, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài. Có thể nói, tiệc cưới hôm đó là một tiệc cưới vô tiền khoáng hậu. Tiệc cưới duy nhất dưới vòm trời này có được những khách mời danh dự như vậy. Nhưng rồi, tiệc đang vui mà bỗng trở nên buồn. Mất mặt qúa. Tiệc cưới mà lại thiếu rượu: “Họ hết rượu rồi!” (Gio 2:30. Nhưng câu hỏi được nêu lên ở đây là: “Tại sao Chúa và Mẹ Maria lại đi dự tiệc cưới?” Và: “Tại sao bữa tiệc hôm đó lại hết rượu?”
Tại sao Chúa đi dự tiệc cưới?
Xét về mặt con người bình thường thì Chúa đi dự tiệc cưới hôm đó hẳn là gia chủ có họ hàng thân thiết, hoặc ít nhất cũng là chỗ quen biết. Do đó, việc Chúa, Đức Mẹ, và các môn đệ của ngài được mời tham dự có thể hiểu là vì ngài là người trong dòng họ, hoặc chỗ quen biết.
Nhưng dưới ánh sáng Tin Mừng, và qua cặp mắt tâm linh, thì việc Chúa Giêsu tham dự tiệc cưới hôm đó ở Cana không chỉ thuần túy mang ý nghĩa xã hội. Nó nói lên ý nghĩa của một ơn gọi cao qúi, được thiết lập, chúc phúc và sự quan phòng của chính Thiên Chúa. Đó là ơn gọi hôn nhân gia đình. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ đầu hết, Thiên Chúa đã xe duyên, kết tóc cho con người qua ơn gọi hôn nhân. Biến cố vườn Diệu Quang năm nào khi Adong một mình cô đơn và đã khiến Thiên Chúa tạo dựng cho ông một người bạn đường, một người tương trợ ông bằng chính xương thịt của ông: “Phen này, nàng là xương của xương tôi, thịt của thịt tôi” (Sáng Thế 2:23). Adong đã sung sướng nhìn ra hình ảnh của mình qua dung mạo của người nữ mà Thiên Chúa đã mang đến và giới thiệu cho ông.
Một ơn gọi mà hơn 90% nhân loại trên mặt đất được kêu mời để tham dự. Một ơn gọi, một đời sống mà thiếu nó sẽ không có sự nối dài của nòi giống. Sẽ không có nhân loại, không có xã hội, và cũng không có Giáo Hội. Chính Đức Kitô khi vào trần gian cũng đi qua ơn gọi này. Ngài được sinh ra trong một gia đình làm con Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria. Và chính ngài hôm nay lại đến tham dự một tiệc cưới để cầu phúc và chung vui với niềm vui của người thân đã mời mình. Cũng do chính trong sự hiện diện của ngài, của Mẹ Maria, của các môn đệ ngài, ngài đã một lần nữa xác nhận cái giá trị cao cả của hôn nhân. Và như để minh xác một lần nữa điều mà Thiên Chúa đã làm khi xưa trong vườn Diệu Quang cho Adong và Evà vẫn còn giá trị và phải được tôn trọng: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly” (Mat 19:6).
Không phải vô tình, và cũng không phải rỗi giờ mà một Thiên Chúa mặc xác phàm đã đến và tham dự một tiệc cưới.
Tại sao hết rươu?
Có thể là hôm đó có đông thực khách, mà toàn là những thực khách biết uống, thí dụ, các tông đồ đi theo Chúa hôm đó chẳng hạn. Thêm 12 ông cộng với Chúa là 13. Mười ba đàn ông cộng thêm với những đàn ông khác cho nên rượu cạn mau là điều không khó hiểu. Cũng có thể là rượu hôm đó ngon nên được chiếu cố kỹ vì thế chóng hết. Nhưng cũng có thể là chủ nhà không dư giả lắm nên chỉ mua vừa đủ mà khách mời lại nhiều nên hết rượu nửa chừng.
Nhưng nếu tiệc cưới chỉ là dấu chỉ của một ơn gọi cao qúi, ơn gọi hôn nhân, thì rượu đây không chỉ là chất uống làm cho say, làm cho nồng nàn và thi vị bữa tiệc mà là tình yêu đốt cháy để nối kết và hòa tan hai tâm hồn và hai thân xác nên một. Và sự thiếu rượu lại cũng chỉ là một cái cớ để Thiên Chúa nhắc nhở cho con người rằng dù là trong yêu thương họ vẫn cần đến Chúa, và cũng cần có mặt của Thiên Chúa. Vì tình yêu mà họ dành cho nhau chỉ là một sự chia sẻ của tình yêu Thiên Chúa. Vì: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Jn 4:8).
Chúa Giêsu có nhiều cơ hội và hoàn cảnh để thực thi phép lạ, nhất là phép lạ đầu tiên để chinh phục lòng tin của các môn đệ ngài, nhưng ngài đã chọn môi trường hôn nhân gia đình để thực hiện phép lạ này.
Trước hết ngài muốn cho nhân loại biết rằng ơn gọi hôn nhân gia đình có một vị trí quan trọng trongchương trình cứu độ của ngài.
Tiếp đến, qua các môn đệ đầu tiên, ngài muốn cho Giáo Hội sau này được hướng dẫn bởi các tông đồ là những người có mặt trong buổi tiệc hôm đó, phải có trách nhiệm vun trồng, thăng hoa và gìn giữ ơn gọi cao cả này.
Và sau cùng, dù là ơn gọi gia đình, ơn gọi tu trì, tất cả chỉ có thể tồn tại và phát triển do tình yêu. Một tình yêu dâng hiến, phục vụ và quên mình. Một tình yêu kín múc và xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa.
Phải hết rượu thì Thiên Chúa mới có cớ để bày tỏ tình yêu và quyền năng ngài.
Ngài bảo gì hãy làm như vậy
Đây là cốt lõi của ý nghĩa ơn gọi. Dù là tận hiến, dù là hôn nhân, nếu ngài bảo gì mà chúng ta không làm thì sẽ không bao giờ có phép lạ. Nước lã hóa nên rượu ngon chỉ xẩy ra sau khi những gia nhân đã kín nước và đổ đầy các chum. Tình yêu dâng hiến, tình yêu trao ban, tình yêu phục vụ trong gia đình, trong Giáo Hội chỉ được biến đổi và chuyển vào trái tim, vào tâm hồn mỗi chúng ta, khi chúng ta chịu khó vất vả múc và đổ đầy nước vào những cái chum, cái vò tâm hồn và trái tim mình. Chỉ sau khi đó, Thiên Chúa mới đến, và tình yêu ngài mới thánh hiến và biến đổi những vất vả, những hy sinh, những giọt nước mắt của chúng ta thành niềm vui và hoan lạc là hoa trái của tình yêu đích thực.
Nhưng ngài bảo gì? Dĩ nhiên, là bảo chúng ta đổ đầy nước vào các chum nước. Nhưng không hẳn là nước, vì tình yêu không được biến đổi từ nước. Nó là những nhẫn nhục, chấp nhận, thứ tha, tế nhị, và tôn trọng nhau là những ly nước đang chờ biến thành rượu nồng của tình yêu. Tình yêu không có hy sinh là thứ tình yêu lừa dối, giả tạo. Tình yêu mà không có hy sinh là thứ tình yêu tẻ nhạt, một thứ rượu xoàng chỉ làm choáng mắt những kẻ đã say.
Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và các môn đệ ngài đi ăn cưới. Tất cả đã nói lên rằng ơn gọi hôn nhân gia đình là một ơn gọi cao trọng, đáng cả Thiên Chúa và Giáo Hội quan tâm và tôn trọng.
Mẹ Maria và các gia nhân đã cộng tác để tạo điều kiện cho Chúa thực hiện phép lạ đem lại hạnh phúc cho đôi tân hôn, nhắc nhở một điều hết sức cần thiết cho cuộc đời hôn nhân là chúng ta không thể thiếu vắng bóng dáng và lời cầu xin của Đức Mẹ. Ngoài ra, cuộc sống hôn nhân là một bữa tiệc không bao giờ được thiếu rượu tức thiếu tình yêu. Đời sống hôn nhân càng dài, tức bữa tiệc càng dài thì càng cần nhiều rượu, tức nhiều tình yêu mà nó chỉ có thể được cung cấp do nguồn tình yêu khôn tả của Thiên Chúa, và do đó, phải đặt giá trị hôn nhân, giá trị tình yêu trong Chúa, vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.
Các tác giả 4 Sách Phúc Âm đều kể lại nhiều phép lạ Chúa Giê-su đã làm trong thời gian 3 năm thi: TN 2-C121
Các tác giả 4 Sách Phúc Âm đều kể lại nhiều phép lạ Chúa Giê-su đã làm trong thời gian 3 năm thi hành sứ vụ công khai của Người trên mảnh đất Pa-lét-tin. Phép lạ nào cũng có hai ý nghĩa chính: một là hành động cứu độ con người; hai là dấu chỉ bày tỏ vinh quang của Chúa Giê-su và của Thiên Chúa.
Phép lạ Chúa Giê-su biến nước thường thành rượu ngon trong Tiệc Cưới Ca-na cũng mang hai ý nghĩa ấy. Nhưng trong tường thuật của Tin Mừng Gio-an thì ý nghĩa thứ hai được đề cao hơn ý nghĩa thứ nhất. Chính Thánh Gio-an đã khẳng định điều ấy: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người.”
Chúng ta hãy đọc các bài Sách Thánh của Thánh Lễ hôm nay để hiểu và đón nhận ý nghĩa ấy.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 62, 1- 5): Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem.
1 Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc.2 Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho. 3 Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay. 4 Chẳng ai còn réo tên ngươi: "Đồ bị ruồng bỏ!" Xứ sở ngươi hết bị tiếng là "Phận bạc duyên đơn." Xứ sở ngươi nức tiếng là "Duyên thắm chỉ hồng." Vì ngươi sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. 5 Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11): Đặc sủng tuy nhiều nhưng chung một gốc.
4 Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. 8 Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. 9 Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. 10 Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. 11 Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 2, 1-11): Tiệc Cưới Ca-na.
1 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. 2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. 3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: "Họ hết rượu rồi." 4 Đức Giê-su đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến." 5 Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
6 Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. 7 Đức Giê-su bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. 8 Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho ông.9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại 10 và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ." 11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.12 Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Is 62, 1- 5) là những lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a nói về cảnh huy hoàng của thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Thiên Chúa thực hiện cuộc biến đổi thành Giê-ru-sa-lem và dân Ít-ra-en một cách kỳ diệu. Giê-ru-sa-lem sẽ huy hoàng, Ít-ra-en sẽ trở nên xinh đẹp được Thiên Chúa yêu thương và trở thành tân nương của Người.
à Trong đoạn Is 62,1-5 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa có một tình yêu lạ lùng và tuyệt diệu đối với Giê-ru-sa-lem và dân riêng của Người. Tình yêu ấy đã biến đổi hoàn toàn thân phận của Giê-ru-sa-lem và số phận của Ít-ra-en. Giê-ru-sa-lem và Ít-ra-en là mỗi cộng đoàn, mỗi con người tôn thờ Thiên Chúa.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11) là đoạn văn “bất hủ” của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về các ơn, các đặc sủng dồi dào, phong phú và muôn hình vạn trạng của Thần Khí Thiên Chúa tức của Chúa Thánh Linh. Đó là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn đức tin, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định thần khí, ơn nói các tiếng lạ và ơn giải thích các tiếng lạ.
à Qua đoạn thư 1 Cr 12,4-11 trên, chúng ta nhận ra Thần Khí Thiên Chúa là Đấng vừa quyền năng vô biên, vừa yêu thương vô bờ bến đối với Cộng Đoàn Hội Thánh. Vì là Đấng quyền năng vô biên nên Người có đủ mọi ơn, có đủ thứ đặc sủng. Vì yêu thương Hội Thánh vô bờ bến nên Người rộng tay ban phát các ơn, các đặc sủng của Người cho con cái Hội Thánh. Những người nhận ơn, những kẻ được phân phát đặc sủng không phải là vì họ đạo đức thánh thiện mà là vì quyền năng vô hạn và tình yêu không tính toán của Thần Khí. Ơn hay đặc sủng được ban không phải cho riêng những người nhận được ơn hay đặc sủng ấy, mà là cho cả Cộng đoàn, cho hết mọi người đang cần đến ơn hay đặc sủng ấy để củng cố và tăng cường lòng tin yêu, để được giải thoát khỏi bệnh hoạn, tật nguyền hay cảnh tăm tối trong tâm hồn và để được chứng kiến hoạt động hết sức kỳ diệu của Chúa Ngôi Ba mà ca tụng vinh quang của Thiên Chúa!
3.1.3 Bài Tin Mừng (Ga 2, 1-11) là bài tường thuật vắn gọn, đơn sơ về phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” của Chúa Giêsu trong khung cảnh một tiệc cưới ở Ca-na. Đây là phép lạ đầu tiên mà Ngôi Hai Thiên Chúa thực hiện, khởi đầu cho một giai đoạn của phép lạ, của chuyện kỳ diệu do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa thực hiện giữa và cho con cái loài người chúng ta!
à Qua đoạn Phúc Âm Ga 2,1-11 này, Chúa Giê-su đã bộc lộ “chân tướng” và “tấm lòng” thần linh của mình. Vì thế phép lạ Ca-na có nhiều ý nghĩa:
- Trước hết “làm phép lạ” là việc làm vượt khả năng của con người.
- Kế tiếp “làm phép lạ” để cứu giúp con người trong cơn khốn khó hầu đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người (cụ thể là đôi tân hôn, gia chủ và quan khách) thì chỉ có các thần linh tốt lành thánh thiện mới làm. Các thần dữ, nếu có thể làm phép lạ, thì chúng chỉ làm để lừa gạt người nhẹ dạ hòng lôi cuốn người ấy vào vòng kiềm tỏa của chúng mà thôi.
- Sau cùng “làm phép lạ” đầu tiên trong/cho một tiệc cưới Chúa Giê-su còn muốn gửi cho chúng ta hai sứ điệp quan trọng khác: một là Chúa Giê-su muốn báo hiệu sự hiện diện tràn đầy niềm vui của Nước Trời giống như Tiệc Cưới mà Người khai trương trong trần gian này. Thánh Kinh luôn dùng Tiệc Cưới để diễn tả cuộc gặp gỡ và sự kết hợp hân hoan và lâu bền giữa Thiên Chúa và con người; hai là Chúa Giê-su tỏ lòng ưu ái đặc biệt đối với các cặp vợ chồng và đời sống hôn nhân. Thánh Kinh cũng luôn dùng hôn nhân và Tình Yêu Vợ Chồng để diễn tả mối tương quan “độc hữu” giữa Thiên Chúa và con người.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có ba phần liên kết chặt chẽ với nhau:
Phần thứ nhất: Chúa Giê-su là thần linh tốt lành và quyền năng, là Thiên Chúa yêu thương và toàn năng. Người dùng quyền năng để thể hiện lòng yêu thương và đáp ứng mọi nhu cầu chính đáng của con người.
Phần thứ hai: Chúa Giê-su xuất hiện công khai để khai mở một Triều Đại Mới, và thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa giữa loài người. Trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy niềm vui và hoan lạc tràn đầy như rượu bia ê hề trong Tiệc Cưới vậy!
Phần thứ ba: Chúa Giê-su làm phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” cho/trong tiệc cưới là Người chúc lành, thánh hóa, nâng cấp mọi giao ước hôn nhân của con người, mọi thực tại của đời sống gia đình.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa vĩ đại và gần gũi yêu thương dân riêng Người khi giao việc giải thích Luật Chúa cho một số người được tuyển chọn cho công việc hệ trọng ấy; Sống với Chúa Giê-su Ki-tô là Lời và là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để nói Lời Yêu Thương, Lời Cứu Độ; Sống với Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh của các Sấm Ngôn, là Thần Khí của các Ngôn Sứ mọi thời đại!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi quyết tâm thực hiện ba việc này:
Việc thứ nhất: Tôi luôn tin tưởng và phó thác con người và cuộc sống của tôi cho Chúa Giê-su Ki-tô. Nhất là trong những lúc khó khăn, thử thách, trước những nhu cầu chính đáng, tôi chỉ chạy đến với Chúa Giê-su mà không tìm đến hay cậy dựa vào bất cứ một quyền lực hay thần linh nào khác (tử vi, bói toán, bùa ngải, cầu cơ, tướng số…).
Việc thứ hai: Tôi luôn cảm tạ ngợi khen Chúa Giê-su Ki-tô vì Chúa đã khai mở một Triều Đại Mới, và thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa trong trần gian và đã đưa tôi vào trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy. Được sống trong hân hoan, tôi sẽ tích cực đóng góp công sức của mình vào việc mở rộng Nước Chúa trong các tâm hồn, gia đình và môi trường chung quanh.
Việc thứ ba: Tôi luôn cảm tạ ngọi khen Chúa Giê-su Ki-tô vì Chúa đã chúc lành, thánh hóa, nâng cấp cuộc hôn nhân của vợ chồng tôi và mọi thực tại của đời sống gia đình tôi. Để đáp lại lòng yêu thương và sự chăm sóc của Chúa Giê-su, tôi luôn trân trọng lời cam kết trong thánh lễ hôn phối và xây dựng gia đình tôi thành một “Hội Thánh nhỏ”, một “Hội Thánh tại gia” sáng ngời đức tin và đức ái.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI
5.1 «Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước được phúc khám phá và chiêm ngưỡng đức công chính của Thiên Chúa hiển hiện nơi Hội Thánh và con cái Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục và linh mục, để các ngài được ơn khôn ngoan và ơn hiểu biết mà giảng dậy và trình bày Mầu Nhiệm của Thiên Chúa cho các tín hữu và lương dân.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người sống hiệp nhất yêu thương nhau, vì cùng tin thờ một Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: "Họ hết rượu rồi.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trên toàn thế giới biết noi gương bắt chước Mẹ Ma-ri-a mà quan tâm đến nhu cầu của tha nhân và cầu xin Chúa Giê-su Ki-tô can thiệp giúp đỡ những người thiếu thốn phần hồn phần xác. Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Vào cuối năm 1997 sang đầu năm 1998, phim Titanic được trình chiếu khắp nơi và thu hút rất: TN 2-C122:
Vào cuối năm 1997 sang đầu năm 1998, phim Titanic được trình chiếu khắp nơi và thu hút rất đông người. Phim diễn lại cuộc đắm tàu Titanic năm 1912 với truyện tình mùi mẫm giữa nàng Rose 17 tuổi vừa đẹp vừa sang và chàng nghệ sĩ Jack Dawson hào hoa mà nhà nghèo. Con tàu này được dựng rất tốn công tốn của, lớn nhất thế giới vào thời điểm đó, dài bằng ba sân banh, cao 12 tầng, và chứa được 2200 hành khách. Ngày 10 tháng 4 năm 1912, tàu Titanic khởi hành chuyến đầu tiên từ bến Southampton của vương quốc Anh đang dẫn đầu thế giới về hàng hải thời đó. Và để tỏ nét hãnh diện hơn, tàu ghé nước Pháp chơi ở cảng Cherbourg và nước Ái Nhĩ Lan ở cảng Queenstown, rồi lên đường vượt Đại Tây Dương để đi Nữu Ước. Chuyến đầu tiên mà cũng là chuyến cuối cùng. Đúng là con tầu định mệnh!
Câu chuyện được chính bà Rose là nhân chứng còn sống sót kể lại khi bà đã 101 tuổi vào năm 1996. Đêm 14 tháng 4 năm ấy là một đêm không trăng sao, biển cũng thật lặng. Bên ngoài trời lạnh tới độ đông nước, nhưng bên trong tàu Titanic là cả một thiên đường vui chơi đầm ấm, nhất là ở khu vực hạng nhất. Mọi người hân hoan và hãnh diện được có mặt trên chuyến tàu lịch sử đầy kiêu hãnh của loài người này, vì tàu được đóng với một kỹ thuật cao độ khiến không thể nào chìm được.
Vào khoảng 9g30 tối, mọi sinh hoạt trên tàu vẫn bình thường, mặc dù hai nhân viên nhận tin là Jack Phillips và Harold Bride cho biết có nhiều băng sơn nhỏ trôi lềnh bềnh. Một số tàu khác cũng cho biết như vậy, nhưng điều đó ăn thua gì với con tàu vĩ đại này. Tàu Mesaba báo tin khẩn cấp rằng có băng sơn lớn ngay trên hướng tàu Titanic. Vào lúc 11g30 gần nửa đêm thì Frederick Fleet trên đài kiểm báo bỗng trông thấy một khối băng sơn sừng sững ngay trước mặt, liền hốt hoảng báo tin cho thuyền trưởng Smith. Nhưng mọi sự đã quá muộn. Mọi nỗ lực bẻ tay lái đã không hiệu quả gì nữa. Mười phút sau, khối băng sơn đã đụng mạnh vào thành tàu, rạch ra một khe dài cả 60 thước. Thế là nước bắt đầu ùa vào.
Điều bất hạnh nhất lại cũng nằm ở niềm kiêu hãnh quá lố. Vì nghĩ rằng tàu không thể nào chìm được nên trên tàu chỉ có 20 chiếc thuyền phao, không cách nào cứu nổi trên 2 ngàn người. Thế là thuyền trưởng ra lệnh chỉ có đàn bà và trẻ em được xuống thuyền mà thôi. Con số này vào khoảng 700 người.
Con tàu bắt đầu chìm dần. Cảnh hốt hoảng la hét hỗn loạn xảy ra thật rùng rợn. Nhưng một cảnh cảm động là dàn nhạc vẫn tiếp tục chơi để tạo sự bình tĩnh cho những người còn lại. Đám người này mang tinh thần trách nhiệm và tự trọng, không hốt hoảng tìm cách chạy thoát theo bản năng sinh tồn. Theo những nhân chứng kể lại, Bà Straus nhất định không chịu xuống thuyền phao. Bà nói: "Tôi không thể nào xa cách chồng tôi. Chúng tôi đã sống với nhau, thì chúng tôi cũng sẽ cùng chết với nhau".
Các ống khói tàu đã bắt đầu sập xuống. Sau hai tiếng đồng hồ uống sặc nước biển, con tàu bị bể bụng gẫy ra làm hai dựng đứng lên rồi lao xuống vực thẳm thành ngôi mộ khổng lồ chôn sống 1500 người.
Sau nhiều năm dò kiếm tốn công tốn của, ngôi mộ khổng lồ này đã được tìm thấy năm 1986 dưới đáy Đại Tây Dương. Nhóm người của tiến sĩ Robert Ballard với sự hợp tác của nhóm người Pháp của Jean Louis Michel đã tìm cách khám phá được chính xác mọi chi tiết như vốn được tả lại do những người sống sót.
TIN VUI NÀO TỪ DẤU CHỈ TITANIC?
Đúng là tàu Titanic xô phải tiềm long. Mà cũng có thể là một diễn tả của cuộc đắm tàu của con người vào ngàn năm mới như kiểu con tàu Titanic từ lục địa cũ Âu Châu sang tân thế giới.
Tin Vui tuần này cũng cho thấy một cuộc đắm tầu khác: đám cưới Cana bị mất mặt với họ hàng quan viên tám họ vì hết rượu, vì tổ chức "bông sô lủng". Bình thường thì đám cưới nào mà chẳng tính toán cẩn thận. Yêu nhau và lập gia đình thì ai mà chẳng xếp đặt tính toán kỹ lưỡng để xây được nhà hạnh phúc. Vậy mà vẫn hụt, vẫn vỡ, vẫn bị đắm tàu. May mà Đức Giêsu và mẹ Ngài cũng được mời có mặt tại đó. Trong lúc mọi người chưa biết phải giải quyết ra sao thì Đức Maria đã can thiệp: Người bảo sao thì cứ làm như vậy. Thế là những gì lãng nhách vô vị như nước lã đã trở thành rượu ngon, những gì đã phai nhạt nhàm chán trở thành thắm tươi tình nồng.
Trên mạng lưới điện toán, một lời bình phẩm thật sâu sắc: "Đêm 14 tháng 4 năm 1912, vào lúc 11g40, chiếc tàu lớn nhất thế giới do tay loài người làm ra đã xô vào băng sơn ngay giữa Đại Tây Dương. Hai giờ bốn mươi phút sau, tàu chìm hoàn toàn. Thế giới Tây Phương cũng từ chuyện đó mà thay đổi mãi mãi. Đầu óc con người thay đổi. Lòng tự mãn tàn lụi. Cơ cấu và đẳng cấp xã hội thay đổi. Kỹ thuật trở thành mối hoài nghi. Con tàu Titanic đã bắt đầu cả chuỗi những biến cố mà kết luận chưa thể thấy được."
PHÚT TỊNH TÂM
Ai mà chả cảm thấy cuộc sống mình có những lúc thực sự đắm tầu. Mọi tính toán coi như vô ích khi đụng chạm đến thực tế. Mọi tự mãn của con người vào cuối thế kỷ này có nhiều điều bất ổn. Đó là lúc một số người muốn giơ chân đạp Thiên Chúa như những tòa nhà "chọc" trời, tự xô vào tiềm long.
Hình ảnh những phút cuối cùng trên tầu Titanic thật hãi hùng nhưng cũng thật cảm động. Mọi người hướng về Đấng Toàn Năng với niềm tin phó thác tuyệt đối, và mọi người cùng với tiếng vĩ cầm như chuyển được nhịp tim và tiếng lòng hát lên bài ca bất hủ đã từng được chuyển sang lời Việt, nhạc của Brun: Tin Cậy Mến.
1. Chúa sinh nên muôn vàn loài, lòng con kính tin.
Mắt con chưa xem được Ngài, lòng con hằng vững tin.
Ôi Chúa sinh nên lòng con.
Con quyết tuân theo luật Ngài.
Cúi xin cho con ngày ngày, càng thêm lòng kính tin.
2. Chúa ơi con mong tìm Ngài, lòng con khát khao.
Khấn luôn luôn trên đường đời, hằng cậy một Chúa thôi.
Theo Chúa uy nghi Toàn Năng,
tâm trí con luôn vững vàng.
Cúi xin cho con ngày ngày, càng thêm lòng ước trông.
3. Chúa thương con muôn vàn trùng, lòng con mến yêu.
Trái tim con không hề ngừng, một điệu đàn biết ơn.
Cây giá nêu cao tình thương,
Ôi Chúa yêu thương con nhiều.
Cúi xin cho con ngày ngày, càng thêm lòng mến yêu.
Nhiều người đàn ông có chút máu men, rất thích đoạn Tin Mừng này. Bởi đoạn Tin Mừng này, nói: TN 2-C123
Nhiều người đàn ông có chút máu men, rất thích đoạn Tin Mừng này. Bởi đoạn Tin Mừng này, nói về rượu, và cho người ta uống “xoải mái”. Nhưng nên nhớ, uống thoải mái theo khả năng của mình, chứ không phải uống để say xỉn đâu đấy. Nhưng hôm nay chúng ta không nói về rượu, mà nói về một chuyện khác: Đó là nhân cách làm người. Đám cưới! Đó là một sự kiện vui trong xã hội xưa cũng như nay. Đó là một tổ chức tốt. Đánh dấu một sự kiện quan trọng của một đời người. Chúa Giêsu đã đến để chúc lành cho đám cưới này. Ngài có mặt, nhẹ nhàng và lịch sự. Ngài ngồi nói chuyện với những người chung bàn. Ngài không đứng dậy hát hỏng bài nào. Bởi Ngài biết sự hiện diện của Ngài thôi đã là quá đủ để góp thêm niềm vui cho gia tộc. Không có ai dám ép hay khích Ngài phải lên hát tặng cô dâu chú rể một vài bài như một số nơi ngày nay đang xảy ra. Rồi bỗng Đức Mẹ tiến đến bên cạnh. Thì thầm vào tai Chúa: “Họ hết rượu rồi”.
Gia đình nhà đám đang gặp hoàn cảnh khó khăn rồi đây. Không còn rượu cho họ uống nữa, thì tai tiếng chết. Họ nói cho đầy tai. Coi chừng, với những chú bợm rượu, có khi còn gây gổ nữa, có khi còn rút tiền lại, mừng ít thôi. Không thể làm ngơ được. Là người đàng hoàng, tư cách, thì khi có thể, phải giúp đỡ họ, giúp một cách tận tình đến nơi đến chốn. Chúa bảo gia nhân lấy nước, đổ đầy những chum không để trước cửa. Họ vâng lời, làm ngay. Ngài bảo đem cho chủ tiệc nếm. Lạ lùng! Sáu chum nước trở thành sáu chum rượu. Tha hồ mà uống.
Nhìn vào đó, ta chợt khám phá ra, lòng quảng đại của Chúa bao giờ cũng tràn trề, hơn lòng con người chúng ta tưởng; lúc nào Chúa cũng cho dư thừa. Mấy lần Chúa hóa bánh ra nhiều, cũng đã củng cố thêm cho chân lý ấy. Chúa muốn con người được vui. Chúa muốn tạo điều kiện cho con người được vui. Nhưng phải giữ cho được niềm vui. Chứ đừng vui quá, rồi lại đánh mất niềm vui. Niềm vui quá đã khi ấy, lại trở thành nỗi buồn tê tái. Có rất nhiều khi, còn trở thành tai họa cho bản thân mình và cho người khác.
Đức Mẹ có mặt, nhưng lúc nào Mẹ cũng đoan trang ẩn khuất. Bằng trái tim tinh tế, và vô cùng nồng nàn. Mẹ đã nhận ra được sự thiếu sót của gia đình. Nguy hiểm đến nơi. Mẹ thấy sự lo lắng và bối rối chưa muốn nói ra của họ. Cho nên, Mẹ đã lẹ làng cứu giúp. Mẹ biết phải nhờ vả ở đâu, và ai là người duy nhất có thể cứu giúp được. Mẹ đã đến với Chúa. Lặng lẽ và thầm kín. Chẳng kể công bi bô, cũng chẳng khoe mẽ lắm điều. Thế mới thấy, Chúa và Mẹ, có một nhân cách làm người thật đáng bắt chước.
Gợi ý suy niệm
1- Bạn đi ăn cưới, với mục đích gì? 2- Đã có lần nào, bạn giúp đỡ người khác, rồi đi kể công với mọi người?
Đoạn Tin Mừng vừa nghe không nói rõ là tiệc cưới của ai, nhưng chắc chắn là của một người trong TN 2-C124:
Đoạn Tin Mừng vừa nghe không nói rõ là tiệc cưới của ai, nhưng chắc chắn là của một người trong họ hàng thân thiết với Chúa, vì người ta thấy có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ.
Theo tục lệ của người Do Thái, thì đám cưới thường kéo dài tới 7 ngày. Dĩ nhiên khách được mời không bắt buộc phải ở lại dự tiệc suốt 7 ngày. nhưng số người ở lại cho tới hồi kết thúc có lẽ không ít, nên xảy ra nạn thiếu rượu. Thiếu rượu nửa chừng trong một tiệc cưới quả là một tai hoạ. Danh dự của đôi tân hôn có thể bị thương tổn. Như thế, chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi lo âu và cảnh chạy đôn chạy đáo của nhà đám. Đức Maria, mẹ của Chúa Giêsu, với sự nhạy cảm và tinh tế của một người phụ nữ, hẳn đã nhận ra được những sự lục đục diễn ra ở hậu trường của tiệc cưới và hiểu được nỗi khốn quẫn của nhà đám. Dù sao thì Mẹ Maria đã là người đầu tiên lên tiếng về tình trạng này: họ không còn rượu nữa.
Một nhận định vô tư về tình hình hay còn hàm chứa một lời cầu xin? Có thể đây chỉ là một lời tỏ bày, báo động với Chúa Giêsu về nỗi quẫn bách của nhà đám, không nhất thiết Mẹ Maria phải xin một phép lạ. Điều quan trọng hơn ở đây là Mẹ Maria đã đặt Chúa Giêsu trước tình trạng quẫn bách của con người. Nhưng người đọc không thể không sửng sốt trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Này bà, đối với tôi và bà, nào có việc gì. Một câu trả lời xem ra có vẻ cứng cỏi và xa vắng. Các nhà chú giải cắt nghĩa rằng trong một số trường hợp, câu nói này khá thông thường trong các giới Do Thái, và trong ngôn ngữ Hy Lạp, thì có nghĩa là: việc gì đến bà. Câu trả lời cua Chúa Giêsu ngụ ý cho thấy hai người, Người và mẹ Người không ở trên cùng một bình diện. Hành động của Người sẽ vượt lên trên rất xa điều Mẹ Maria có thể nghĩ đến. Tiếng bà dùng ở đây để chỉ Mẹ Maria không hề có nghĩa bất kính, mà chỉ là một kiểu xưng hô theo tập tục của của người Hy Lạp.
Như thế giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria có một sự khác biệt trong tầm nhìn. Đối với Chúa Giêsu phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người được thực hiện là theo ý định của Cha Người. Sau cùng phép lạ đã xảy ra, cơn khốn quẫn của nhà đám được giải quyết một cách dư dật quá lòng mong muốn, sáu chum nước lã, mỗi chum chứa hai hoặc ba thùng, biến thành một loại rượu ngon. Nước lã biến thành rượu ngon. Thế nhưng nếu lưu ý chúng ta sẽ thấy, phép lạ đã không diễn ra chỉ bằng một lời phán, nhưng đã khởi sự từ việc nhận ra sự khốn quẫn của người khác, từ công lao khó nhọc của các gia nhân gánh đầy mấy chum nước.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận, dù là trong phép lạ, thì sự tham gia cộng tác của con người cũng vẫn là điều cần thiết.
Đức Giêsu sống một thời gian dài ở Nadarét, như một người bình thường, một người thợ làm vất vả TN 2-C125
Đức Giêsu sống một thời gian dài ở Nadarét, như một người bình thường, một người thợ làm vất vả mới có đủ lương thực sống. Sau ba mươi năm trời, nghe tin Gioan làm phép rửa thống hối tại sông Giordan, Đức Giêsu được thúc đẩy để đi chịu phép rửa, rồi Ngài được Thánh Thần dẫn vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện, Ngài thấy sứ mạng và bắt đầu ra đi rao giảng, thu tập các môn đồ. Hôm nay Tin Mừng cho thấy Ngài xuất hiện ở tiệc cưới Cana.
Đức Maria tin vào Con mình
Đức Maria cảm thông với đôi tân hôn và những người trong gia đình: nếu hết rượu giữa chừng, người ta sẽ đàm tiếu, và gia đình nghèo này làm sao vượt qua được? Đức Maria nói với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Tại sao Đức Mẹ lại nói với Đức Giêsu? Như thể Đức Mẹ hiểu phản ứng của Đức Giêsu trước những hoàn cảnh như vậy!
Hãy đặt mình vào trường hợp những người ở bên Đức Giêsu và Đức Mẹ lúc đó: họ hiểu gì? Có lẽ họ chẳng hiểu gì! Có thể có người nghĩ: “bà này vô duyên! Họ hết rượu thì kệ họ, con bà làm gì được!” Và Đức Giêsu đã trả lời Đức Mẹ như vậy: “Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi?”. Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn nói với những người giúp việc: “Ngài nói sao cứ làm như vậy”. Đức Maria hiểu Đức Giêsu hơn bất cứ ai, dường như Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ làm một cái gì đó để cứu gỡ cặp hôn nhân và gia đình trong cảnh khốn cùng này. Quá tuyệt thái độ của hai người hiểu nhau ở đây.
Đức Giêsu đã làm điều Ngài đã làm. Phải chăng vì Đức Mẹ, hay cứ bình thường Ngài phản ứng như vậy? Có thể không vì Đức Mẹ, nhưng Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ phản ứng trước hoàn cảnh như vậy: Ngài vẫn động lòng trước nỗi khổ của con người.
Các môn đồ tin vào Đức Giêsu
Những người giúp việc biết nước đã biến thành rượu. Người chủ tiệc không biết rượu từ đâu có, nhưng các người giúp việc thì biết. Chắc là những người giúp việc ngạc nhiên và thán phục Đức Giêsu.
Ngài là người của Thiên Chúa, vì đã làm được việc phi thường. Các môn đồ đã tin vào Ngài. Ở vào thời điểm này, chưa có ai biết Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì người Do Thái tin Thiên Chúa là Đấng duy nhất, họ chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa là Ba Ngôi chỉ được mặc khải nhờ Đức Giêsu sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết mà thôi.
Niềm tin và sự hiểu biết của các tông đồ mỗi ngày mỗi tăng, và cũng có những khủng hoảng như khi Đức Giêsu mặc khải “mình Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống”. Một số môn đồ bỏ đi vì thấy lời của Đức Giêsu chói tai quá (Ga.6, 60.67). Cuộc khủng hoảng cao độ nhất là biến cố Đức Giêsu bị giết trên thập giá. Sau khi Đức Giêsu sống lại, nhờ ơn của Thánh Thần các tông đồ đã nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể.
Hồng ân và đặc sủng đều do Thánh Thần
Thánh Phaolô cho biết, tất cả đều do Thánh Thần, ngay cả hồng ân đức tin: “không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà lại không do Thánh Thần” (1Cor.12, 3).
Tất cả đều từ Thiên Chúa mà đến, đều do một Chúa, đều nhờ Thánh Thần. Ơn phục vụ, ơn khôn ngoan, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định các thần, ơn ngôn ngữ, ơn giải thích, v.v… tất cả đều từ Thiên Chúa, đều do Thánh Thần mà có.
Ơn sủng Thiên Chúa đang bao trùm chúng ta. Chúng ta hiện hữu, ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc, sức khỏe, học hành, hiểu biết, v.v…. tất cả đều bởi Thiên Chúa, đều do Thánh Thần. Chúng ta đang sống trong tình yêu. Hãy nhận biết điều đó, để hạnh phúc và cảm tạ Thiên Chúa.
Chính nhờ Đức Giêsu mà chúng ta có tất cả. Đức Giêsu là qùa tặng qúy nhất mà Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta, thì Ngài còn gì với chúng ta nữa! Thiên Chúa là quà tặng qúy nhất mà mỗi người chúng ta có, và không ai có thể tước mất được. Tạ ơn Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có kinh nghiệm về hai người hiểu nhau không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó nếu có thể được.
2. Bạn có kinh nghiệm (tin) Thiên Chúa yêu bạn, và sẽ làm điều tốt nhất cho bạn không? Bạn có kinh nghiệm “muốn gì Thiên Chúa cũng chiều” bạn không? Xin chia sẻ nếu có thể được.
3. Điều gì quý nhất với bạn? Bạn hay cầu nguyện để được điều gì nhất? Bạn có hay cầu nguyện xin Chúa ban cho bạn điều bạn cho là qúy nhất không? Nếu không thì tại sao?
4. Bạn có kinh nghiệm “khủng hoảng đức tin” không? Làm sao bạn vượt qua được?
Chúa mến chuộng dân Người. Không những Người sinh xuống thế làm người để ở với chúng ta, TN 2-C126
Chúa mến chuộng dân Người. Không những Người sinh xuống thế làm người để ở với chúng ta, Người còn chia sẻ với chúng ta trong mọi niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống hằng ngày. Đó là niềm an ủi và hi vọng của chúng ta. Như hôm nay, Người và Mẹ Người cùng đến dự tiệc cưới.
Tiệc cưới Cana hết rượu phải đối mặt với thất bại và bất hạnh. Nhìn vào tình hình thế giới đầu năm nay ta thấy không khác gì một đám cưới hết rượu. Ta cũng đang đối mặt với thất bại và bất hạnh. Không dám nói với Chúa vì tình hình tồi tệ này là hậu quả của việc ta đã không vâng nghe Lời Chúa, không thực hành Lời Chúa. Ta chỉ còn biết nhờ Đức Mẹ đệ đạt lên Chúa tình trạng thiếu thốn của ta, giống như Người đã đệ đạt nỗi thiếu thốn của đám cưới Cana.
Thưa Mẹ, chúng con đã hết rượu. Thế giới hôm nay đã hết rượu tự do dân chủ. Chúng con chỉ còn thứ nước lã nhạt phèo những lời hứa hẹn suông. Thế giới hôm nay đã cạn hết rượu tài nguyên phong phú. Trái đất chỉ còn là thứ nước lã khô cằn. Rừng cây bị đốn ngả nghiêng. Khoáng sản bị khai thác đến tận cùng. Cả đến bầu khí quyển cũng bị thương tổn nặng nề. Thế giới đã hết rượu hoà bình. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh. Chiến tranh nóng dẫn đến chiến tranh lạnh, mở sang chiến tranh khủng bố và miên man với chiến tranh kinh tế. Thương trường trở thành chiến trường khốc liệt. Thiên hạ đã quá chén uống cạn nguồn tài chính nên thế giới hôm nay phải đối mặt với đói nghèo.
Đất nước chúng con đang thiếu rượu. Những người cầm quyền đã uống quá chén quyền lực nên tự do dân chủ chỉ còn là nước lã hứa hẹn nhạt thếch. Những nhóm lợi ích quá chén tham lam nên đa phần dân chúng phải uống thứ nước lã nghèo khổ, túng thiếu. Xã hội chẳng còn một giọt rượu đạo đức, chỉ còn thứ nước lã giả dối, cá nhân, ích kỷ và hưởng thụ.
Cả đời sống tu trì của chúng con cũng đang thiếu rượu trầm trọng. Chúng con không tích trữ đủ rượu lý tưởng nên vào đời tu, thay vì tìm Chúa, chúng con lại biến Chúa thành phương tiện để tìm những thứ khác. Chúng con thiếu rượu yêu mến nên cuộc sống tu trì trở nên bế tắc, giờ kinh giờ lễ trở nên gánh nặng thay vì niềm vui. Thiếu thứ rượu quên mình vì Chúa nên chúng con quên Chúa vì mình. Đã cạn rượu tu đức nên thay vì vào tu viện để tìm quên mình nhưng không biết từ lúc nào chúng con chỉ biết đòi hỏi. Rượu bác ái huynh đệ chưa đủ dùng mà chúng con lại quá chén nên thay vì xây dựng chúng con lại tàn phá cộng đoàn, thay vì nâng đỡ anh em, chúng con lại xét nét bắt bẻ nhau, thay vì quan tâm để giúp nhau thăng tiến, chúng con lại lườm nguýt chành choẹ nhau. Đi tu để thuộc trọn vẹn về Chúa, nhưng hình như chúng con đang thuộc về thế gian. Đi tu để chiến đấu với Ác thần nhưng hình như chúng con đang tùng phục nó. Chúng con đã hết rượu xin Mẹ cầu khẩn Chúa cho chúng con.
Chắc chắn Đức Mẹ sẽ nói với Chúa. Nhưng Đức Mẹ vẫn quay lại dặn dò chúng ta: “Người bảo gì, các con cứ việc làm theo”. Sau cùng, Đức Mẹ đưa ta trở lại cốt lõi của vấn đề, đó là trở về với Chúa, phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa ta mới giải quyết được bế tắc của thế giới, của xã hội, của cộng đoàn và của chính bản thân ta.
Hãy xem Chúa bảo ta làm gì. Thật lạ lùng, Chúa bảo các gia nhân múc nước đổ đầy các chum đựng nước rửa chân tay. Sao thế nhỉ?
Múc nước là công việc tầm thường nhất. Qua đó, Chúa muốn bảo chúng ta đừng lo toan những chuyện đội đá vá trời, hãy làm những việc tầm thường nhất, những việc ai cũng chê bỏ, những việc bổn phận hằng ngày. Rượu là bữa tiệc lớn. Nước lã là công việc tầm thường hằng ngày đến chán ngấy. Thế nhưng Chúa bảo chúng ta muốn có rượu ngon ngày lễ trọng, hãy làm những công việc tầm thường, nhàm chán hằng ngày, những việc âm thầm chẳng ai biết đến.
Múc nước là công việc vô ích nhất. Vì tiệc đã gần tàn, người ta đã rửa chân rửa tay từ khi mới vào. Chúa muốn ta làm những việc xem ra vô ích vì Chúa chỉ muốn một điều là ta vâng lời. Vâng lời trọng hơn của lễ. Ý Chúa mới là quan trọng. Công việc chỉ là ta thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chính thánh ý đem lại niềm vui và hạnh phúc.
Múc nước là việc phục vụ khiêm nhường nhất. Dùng để rửa chân tay cho khách. Chúa muốn chúng ta biết quan tâm đến người khác trong những điều nhỏ nhặt nhất. Trong bài Sách Thánh, Thánh Gioan buộc ta phải cầu nguyện cho người anh em lầm lỗi: “Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy”. Như thế, chúng ta không chỉ xin rượu cho bản thân mà còn phải xin rượu cho nhau nữa. Và Thánh Gioan khích lệ ta cầu xin, hãy “mạnh dạn cầu xin vì Chúa sẽ nhậm lời khi ta xin điều hợp ý Chúa”.
Múc nước là việc làm không thể thiếu trong bữa tiệc. Nước rửa chẳng có giá trị gì nhưng lại không thể thiếu. Những việc tầm thường ta làm không đáng kể, nhưng góp phần xây dựng cộng đoàn và xây dựng chính bản thân mình khi ta làm vì Chúa, vì anh em. Khi ta làm mọi việc tầm thường theo ý Chúa, Chúa sẽ làm cho những tầm thường, nhạt nhẽo trở thành thứ rượu ngon cho thế giới, cho cộng đoàn và cho bản thân ta.
Lạy Chúa, xin ban cho thế giới rượu mới bình an và thịnh vượng. Xin ban cho quê hương Việt Nam rượu ngon tự do, dân chủ và hạnh phúc. Xin ban cho Giáo hội Việt Nam rượu đức tin, hiệp nhất và phát triển. Xin ban cho Đan viện chúng con rượu mới thinh lặng cầu nguyện và huynh đệ bác ái. Xin ban cho mỗi người chúng con rượu mới sốt sắng, yêu mến và chỉ tìm một mình Chúa là hạnh phúc đích thực của chúng con. Amen.
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cùng với TN 2-C127
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cùng với Chúa Giêsu sống những ngày (đầu sứ vụ công khai). Thánh Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người biết: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian” (Phụng vụ Năm A); tiếp đến có ba môn đệ là: Anrê, Phêrô và Philipphê đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo người (Phụng vụ Năm B); có đồ đệ, thầy trò Đức Giêsu đi dự tiệc cưới, tại đây phép lạ đầu tiên xảy ra tại tiệc cưới Cana, khiến nước hóa thành rượu, nhờ sự can thiệp của Rất Thánh Trinh Nữ Maria, (Phụng vụ Năm C). Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, với đức tin sống động, tinh tuyền và kiên vững, chỉ cho chúng ta nguồn gốc của một trong những dấu chỉ, và thực tại của nó, mà chúng ta sẽ được tham dự trong tương lai, nếu chúng ta làm “tất cả những gì Chúa Giêsu, Đấng là Tình Yêu Vĩnh Cửu (biểu tượng của rượu) dạy bảo. Lời dẫn vào Thánh lễ: “Lạy Chúa, toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh, Lạy Chúa Trời cao cả” (Lời nhập lễ). (“Hãy ca ngợi Chúa bằng một khúc ca mới, hỡi hoàn vũ, hãy ca ngợi Chúa, hãy ca ngợi Chúa, tôn vinh danh thánh Người”.) (Tv. 95)
Theo Thánh Maximus, Giám mục thành Turin thì Rượu mà Đức Giêsu hóa từ nước thành, chính là Rượu mới của niềm vui đích thực.
Bởi Vị Thiên Chúa theo Phúc Âm mô tả đã được mời đến dự tiệc cưới. Như thế, Con Thiên Chúa đã đi dự tiệc cưới, và bằng sự hiện diện của mình, Ngài đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành Rượu. Ngài đã đến dự đám cưới, theo luật cũ, để chọn trong dân ngoại một người vợ sẽ luôn luôn giữ mình đồng trinh. Ngài không sinh ra từ cuộc hôn nhân của loài người như Kinh Tin Kính chúng ta đọc: “Được sinh ra mà không phải được tạo thành”. Ngài đi đến đám cưới, không phải để tham dự một bữa tiệc vui vẻ như bao nhiêu bữa tiệc. Ngài đến để mạc khải một điều kỳ diệu thực sự, hết sức đáng ngưỡng mộ. Ngài đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho rượu ngon nồng. Và khi mọi thực khách đang dự tiệc, bỗng thiếu rượu, Đức Maria, Mẹ Ngài đã nói với Ngài: "Họ hết rượu rồi." Chúa Giêsu, dường như trả lời với vẻ không vui cho lắm: "Hỡi bà, bà muốn tôi điều gì? "... khi trả lời: "Giờ của con chưa đến", chắc chắn đây là lúc Ngài loan báo giờ vinh quang của Ngài nơi cuộc Thương Khó, hoặc chính máu Ngài là rượu đổ ra để trao ban sự sống, và ơn cứu độ cho nhiều người. Mẹ Marie xin một đặc ân hiện tại, còn Chúa Giêsu, Ngài lại chuẩn bị trao ban niềm vui muôn thủa trong tương lai. Tuy nhiên, Thiên Chúa nhân lành đã không ngần ngại trao ban những điều nhỏ mọn cho con người, trong khi chờ đợi những điều lớn xảy đến.
Đức Maria, người mẹ diễm phúc, vì Mẹ là Mẹ thật của ConThiên Chúa, nên Mẹ đã biết trước ý định của Con Mẹ, và thấy trước được điều gì sẽ xảy đến. Đó là lý do tại sao sau khi Mẹ yêu cầu Đức Giêsu, Con Mẹ, Mẹ nhận được câu trả lời: “Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi”; Mẹ vẫn căn dặn những gia nhân quản tiệc cưới hãy làm bất cứ điều gì Con Mẹ yêu cầu: “Người bảo sao cứ làm như vậy”. Người mẹ thiêng liêng của Chúa Giêsu chắc chắn biết rằng lời chỉ trích của Con Mẹ và Mẹ thấy Con Mẹ, một Vì Thiên Chúa đã không giấu được sự bất bình của một người đàn ông giận dữ nhưng chứa đựng một mầu nhiệm của lòng từ bi cao cả... Vì tiếp theo là nước trong chum bỗng nhiên bắt đầu nhận được sức thánh hóa để có thể chuyển màu sắc, lan tỏa hương vị của một thứ rượu ngon lành, và cùng một lúc thay đổi hoàn toàn bản chất của nó, nước đã hóa thành rượu. Và việc chuyển đổi nước thành một chất khác cho thấy sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa, quyền năng, bởi không ai, ngoại trừ người tạo ra từ không có gì ra nước, có thể chuyển đổi nước thành một cái gì đó khác tức là rượu.
Chúng ta đang tiếp tục hành trình sống của mình trong Năm Đức Tin, tưởng cũng nên nhắc lại Mầu nhiệm Năm Sự Sáng: Thứ Hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Như vậy là Chúa nhật này, chúng ta xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa, tức là xin ơn Đức Tin.
Thật vậy, khi chiêm ngắm tiệc cưới Cana, nước hóa thánh rượu, loan báo hồng ân mà Chúa Giêsu thực hiện ngay trong Bí tích Thánh Thể và ghi nhớ giờ hiến dâng trên cây Thánh Giá, giờ Chúa trao ban chính thịt máu mình làm của nuôi nhân loại.
Tại Cana, Mẹ Maria đã hiện diện và can thiệp vào trong tiệc cưới. Vào giờ trên Thánh Giá; giờ Chúa Giêsu cử hành tiệc cưới với Giáo hội; Mẹ Maria cũng ở đây trong lúc chúng ta cầu nguyện; Giờ phút này đây, Mẹ cũng hiện diện để giúp đỡ chúng ta sống ơn gọi làm người, dâng hiến đời sống chúng ta hầu mưu ích cho tha nhân.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta xin Mẹ dạy ta học yêu mến Chúa Giêsu, Vị Hôn Phu của Giáo hội mãi mãi và yêu mến Giáo hội, Hiền thê của Chúa Giêsu.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, chúng ta cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết để ý đến nhu cầu của anh em; đồng thời cùng nhau thành tâm cầu nguyện cho tất cả mọi người nam cũng như nữ, những người phục vụ Tin Mừng biết sống khiêm nhường phục vụ trong đời sống hàng ngày; và nhất là cầu cho những ai có trái tim khép kín biết mở ra với tha nhân.
Trời có lúc mưa lúc nắng, lúc trong lúc mờ. Đời có lúc thăng lúc trầm, lúc buồn lúc vui. Tình TN 2-C128
Trời có lúc mưa lúc nắng, lúc trong lúc mờ. Đời có lúc thăng lúc trầm, lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt, lúc thắm lúc phai.
Nghe sao có vẻ cải lương quá! Ấy thế mà tính chất cải lương kia lại cứ xuất hiện trong cuộc sống con người, nhất là trong cuộc đời hôn nhân. Không hiểu sao người ta hay ngâm nga: “Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở. Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.” Phải chăng bắt đầu thề ước là bắt đầu xót xa? Ngày lên xe hoa thì cũng chính là ngày ra chiến trận? Mà trong trận chiến này, nếu không khéo, có ngày sẽ bị thương vong.
Đám cưới tại làng Cana mới bắt đầu mà đã có chuyện. Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì còn đâu mặt mũi tân gia. Không chừng cô dâu chú rể sẽ phải lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào mà không cho biết trước. Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương.
Thiếu rượu thì mất vui. Đám cưới mà không vui thì có hơn gì đám ma. Với lại truyền thống xưa nay của dân tộc là “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi.” Vậy mà khi khách chưa say, chất cay đã cạn. Bao nhiêu choé rượu sắm sẵn đều hết sạch. Bẽ mặt mất thôi! Chắc hẳn gia chủ lẫn tân lang và tân nương đang trải qua một phen bối rối, hốt hoảng ghê lắm. Biết tìm đâu ra rượu bây giờ?
Thấy được tình cảnh oái oăm của tân gia, Mẹ Maria đến gặp Con mình và nói: “Họ hết rượu rồi.” Đây là lời cầu cứu hay câu mẹ trách con vì đã đem theo mấy ông môn đệ nên mới làm cho người ta hết rượu? Nhưng nếu là câu trách thì tại sao Mẹ lại bảo các người hầu: “Ngài có bảo gì, hãy làm theo”? Câu này hàm chứa một cái nhìn tiên tri là Chúa Giêsu sẽ ra tay để làm một điều gì đó.
Chắc rằng trong suốt 30 năm sống bên Đức Giêsu, Mẹ đã thấy rõ quyền năng và tình nhân ái bao la của con mình đối với những kẻ sa cơ hoạn nạn. Thế nên hôm nay, khi thấy gia đình tân hôn bị rơi vào trường hợp éo le nan giải, Mẹ đã tìm đến với Chúa để xin Ngài ra tay. Nhưng, có một vấn đề khác: nếu như trước đó Đức Giêsu đã từng cứu giúp những người khốn khó thì tại sao vị Thánh Sử lại bảo đây là “dấu lạ đầu tiên”?
Theo văn mạch của Thánh Gioan thì đó là phép lạ đầu tiên mà “Chúa Giêsu đã làm tại Cana xứ Galilê.” Thế ra, có thể Ngài đã từng làm dấu lạ ở nơi khác, ví dụ như tại Nazaret, nhưng tại Cana thì đó là lần đầu. Ngoài ra Thánh sử Gioan cũng nhấn mạnh trong câu kết luận rằng Chúa Giêsu đã làm dấu lạ này “để tỏ vinh quang của Ngài cho các môn đệ,” những người vừa mới đáp trả lời mời gọi bước theo Ngài được mấy hôm.
Như vậy trước đó, có thể Đức Giêsu đã từng làm dấu lạ, không phải để tỏ vinh quang, nhưng chắc là âm thầm và qua tay Mẹ Maria. Phải chăng Chúa Giêsu đã từng nhờ Đức Mẹ làm trung gian để đem cái này, chuyển cái kia cho những người cùng khốn gian nan, nên Mẹ biết rõ quyền năng và tình thương của Chúa mà chạy đến cầu cứu? Phải chăng, dù là mẹ, Đức Maria vẫn từng làm theo ý Con, và đã thấy người ta nhận được biết bao ân phúc phi thường.
Cho nên trong giờ phút cam go của gia đình có đám, Mẹ đã kêu cầu Đức Giêsu. Và sau đó, Mẹ đã nhắn nhủ các lời khuyên phát xuất từ một lòng tin tưởng vững vàng vào tình yêu tha nhân nơi Con mình. Ngài không thể không chạnh lòng thương xót trước nỗi thống khổ của con người. Và đây cũng là lời nhắn nhủ đầy kinh nghiệm của Đức Maria, người đã từng làm theo lời Chúa và thấy bao kết quả tươi đẹp trong đời.
Ngài có bảo gì thì cứ làm theo. Lời nói biểu lộ lòng xác tín Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp. Mẹ Maria biết chắc Ngài sẽ đáp lời Mẹ xin. Thế mới thấy quyền phép nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ hiệu năng dường nào. Không phải là Chúa Giêsu đã từng nói: “Giờ con chưa đến” sao? Vậy mà “Giờ con đã đến” vì lời Mẹ xin. Giáo hội đã có lý khi đưa vào kinh Cầu Đức Bà lời nguyện: “Đức Bà có tài có phép. Cầu cho chúng con” là vậy.
Các Thánh cũng công nhận rằng chẳng có sự gì Mẹ xin cùng Thiên Chúa mà không được. Thánh Antôn từng nói: “Vì Đức Maria là Mẹ, nên lời cầu xin như có sức truyền dạy trước toà Chúa Giêsu. Do đó, khi Mẹ xin gì thì không lẽ Chúa Giêsu lại không nhậm lời.” Thánh Ricarđê viết rằng: “Hễ Con quyền phép vô cùng thì Con cũng làm cho Mẹ vô cùng quyền phép. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng Con của Mẹ quyền phép vì bản tính Ngài là Thiên Chúa. Còn Đức Mẹ có quyền phép là nhờ ơn Chúa ban; nghĩa là Thiên Chúa quyền phép vô cùng, phán một lời liền có hết mọi sự. Còn Đức Mẹ quyền phép vô cùng, xin một tiếng liền được hết mọi sự.”
Nhờ có Mẹ can thiệp mà Chúa Giêsu đã cứu tiệc cưới tại làng Cana khỏi cảnh bẽ mặt ê chề. Nhờ lời cầu xin của Đức Mẹ mà giờ giải cứu con người khỏi kiếp khổ đau của Chúa Giêsu đã điểm. Nhờ sự khích lệ bảo ban của Mẹ mà con người biết cộng tác với Con Thiên Chúa để mang lại niềm vui của ơn phúc đầy tràn đến muôn tâm hồn.
Hôm nay, giữa trần thế, có biết bao gia đình “sắp hết rượu.” Lắm cõi lòng đã mất hẳn niềm vui. Nhiều cuộc tình đã rơi vào bế tắc. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” không còn nữa. Làm sao cứu vãn đây?
Nếu đời có Mẹ, người ta sẽ gặp được ơn Chúa. Mời Mẹ đến với gia đình, chẳng bao giờ Mẹ để cho rượu nồng tình thắm bị cạn khô.
Thế nên, hỡi tất cả các gia đình, mới hay cũ, đang an hoà hạnh phúc hay trắc trở lao đao, hãy cậy nhờ và phó thác cho Mẹ Maria. Chắc chắn với Mẹ và qua Mẹ, Chúa Giêsu sẽ tỏ mình ra nơi gia đình anh chị em.
Không phải tình cờ mà Đấng Cứu Thế lại tỏ vinh quang của mình trong một cuộc hôn nhân. Không phải tình cờ mà vinh quang đó lại liên kết âm hưởng với sự hiện diện của Đức Maria. Trái lại, tất cả đã diễn ra trong cùng một mạc khải của Tin Mừng: gia đình có Mẹ là gia đình có Chúa; gia đình có Chúa là gia đình luôn có tình yêu tràn đầy và niềm vui dạt dào.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ đi dự một đám cưới ở làng Cana TN 2-C129
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ đi dự một đám cưới ở làng Cana và làm phép lạ cho nước biến thành rượu.
Đây là phép lạ đầu tiên trong 7 phép lạ mà Phúc Âm của Gioan kể lại. Gioan gọi là “dấu chỉ đầu tiên”, một bài học bằng việc làm để giúp ta hiểu một mầu nhiệm.
Sau khi được Gioan ban phép Rửa - Đề tài bài Phúc Âm tuần trước- Chúa Giêsu đã kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Họ là Anrê, Gioan, Phêrô, Philiphê và Nathanael. Và hôm nay, Chúa dẫn cả nhóm đi ăn cưới tại làng Cana, cách Nagiaret khoảng 14 cây số, trong một gia đình quen thân, vì có cả Đức Mẹ cũng đến tham dự.
Chúng ta chú ý đến hai điểm mà Phúc Âm nói đến là: Giờ của Chúa và dấu chỉ của Chúa.
1. “Giờ của Ta chưa đến”. Có thể rằng trong những ngày dài, những đêm khuya khoắt sống bên cạnh Mẹ dưới mái nhà Nagiaret, Chúa Giêsu đã tỏ cho Mẹ hay về sứ mạng tương lai của mình.
Ngài cho Mẹ hay, Ngài sẽ sống với người nghèo khó, đem tình thương vỗ về ấp ủ, đem Chúa đến cho họ, giúp họ hoán cải cuộc sống tăm tối trở nên như một bửa tiệc cưới. Hôm nay, Đức Mẹ thấy con đem cả nhóm đồ đệ đến dự một đám cưới bình dân, chắc Đức Mẹ nghĩ rằng Giờ con tỏ quyền năng đã đến. Vì thế, với con mắt quán xuyến, với một giác quan nhạy cảm của người phụ nữ, Đức Mẹ biết nhà đám đang bối rối vì rượu đã cạn. Đức Mẹ không ngần ngại đến nói với Chúa, “Con nè, nhà này hết rượu”. Một câu nói đơn sơ trong tình mẹ con. Một câu nói đầy tin cậy như một lệnh truyền. Chúa Giêsu trả lời: “Giờ con chưa đến”, nghĩa là giờ tỏ vinh quang của Con chưa điểm. Mặc dầu thế, vì Mẹ đã xin thì con làm, Mẹ đã muốn thì Mẹ được như ý.
Mẹ là người tín hữu đầu tiên đã tin vào Chúa và lòng tin làm nên phép lạ, mặc dầu Giờ của Chúa chưa đến. Chúng ta thấy Đức Mẹ hành động cách tự nhiên, quả cảm. Mẹ bảo người giúp việc: “Thầy bảo sao hãy làm đúng vậy”.
Và phép lạ đã xảy ra.
2. Dấu chỉ của Rượu. Gioan trình bày các phép lạ của Chúa như những dấu chỉ, những mạc khải bằng việc làm. Phép lạ đó ám chỉ và mạc khải 3 điều:
Trước hết, đó là dấu chỉ quyền năng của Thiên Chúa. Xưa Chúa phán một lời từ cõi hư vô vạn vật xuất hiện, nay biến hóa sự vật đã có, nước hóa rượu, nào có khó gì!
Thứ đến, phép lạ mạc khải rằng Chúa đến khởi đầu một cuộc giao duyên mới: cuộc giao duyên giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Tiệc cưới hôm nay báo hiệu một tiệc cưới mới. Phaolô ví tình yêu liên kết đôi vợ chồng với tình yêu liên kết Chúa Giêsu và Giáo hội (Eph. 5, 25).
Phép lạ hôm nay cũng ám chỉ tình thương của Chúa đối với những ai sống trong bậc vợ chồng. Chúa tham dự tiệc cưới để thánh hóa hôn nhân. Ngày nay, nhiều cuộc hôn nhân cũng thiếu rượu của một mối tình khắng khít vĩnh cửu. Văn hào Taine nói mỉa mai: “Người ta tìm hiểu nhau 3 tuần, yêu nhau 3 tháng, cãi lộn 3 năm rồi chịu đựng nhau 30 năm… để con cái lại trở về cái vòng lẩn quẩn!”
Hôm nay, Chúa đến dự lễ cưới, biến nước lã nên rượu ngon, để thánh hóa hôn nhân. Có Chúa gia đình mới có hạnh phúc, cuộc sống tẻ nhạt biến thành rượu nồng.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một số người cho rằng Chúa Giêsu đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần TN 2-C130
Một số người cho rằng Chúa Giêsu đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng đáng bận tâm.
Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa Giêsu còn thiết tha đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.
Sự kiện xảy ra tại tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến tham dự tiệc cưới tại Cana cốt để đem lại niềm vui cho cô dâu chú rể và chúc lành cho họ được trăm năm hạnh phúc. Chúa Giêsu xem đây là điều quan trọng nên Người không chỉ tham dự một mình mà cùng đi với Mẹ Maria và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được tăng lên.
Thế rồi, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Đây là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày rầu rĩ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng khách dự tiệc.
Trước tình thế đó, Mẹ Maria tìm đến với Chúa Giêsu để xin Người cứu vãn. Thế là mặc dù “giờ của Người” chưa đến (Ga 2,4), Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ đầu tay, hoá nước thành rượu ngon với số lượng dư dật để đem lại niềm vui cho mọi người.
Sự việc nầy cho thấy hạnh phúc đời nầy của con người là mục tiêu quan trọng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Sau nầy, Chúa Giêsu thực hiện nhiều phép lạ khác cũng không ngoài mục tiêu đó.
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Na-in nên Chúa Giêsu đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin. (Lc 7,11-17)
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho hai chị em Mác-ta và Maria ở Bêtania đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giêsu đã truyền cho Ladarô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui. (Ga 11, 32-43)
Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Em-mau đang sống trong ưu phiền thất vọng, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, đem lời kinh thánh sưởi ấm tâm hồn sầu muộn của các ông. (Lc 24, 32)
Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng... cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn, nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt nền trên tình yêu thương huynh đệ.
Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giêsu không ngừng kêu gọi mọi người hãy yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." (Gioan 13, 34).
Người cũng báo trước cho mọi người biết rằng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc chỉ dành riêng cho những ai yêu thương phục vụ người khác, đồng thời cảnh báo rằng khổ hình đời đời trong hỏa ngục là hậu quả phải đến cho những kẻ không sẵn sàng cứu giúp những người khốn khổ quanh mình. (Mt 25, 31-46)
Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giêsu.
Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui.
Người bảo gì anh em hãy làm như vậy”. Nói thì vậy, nhưng để có thể làm theo Lời Chúa cũng đòi TN 2-C131
“Người bảo gì anh em hãy làm như vậy”. Nói thì vậy, nhưng để có thể làm theo Lời Chúa cũng đòi hỏi phải vượt lên biết bao trở ngại mới có thể thực hiện được như Lời Người đã nói. Vì làm theo Lời Chúa có khi rất nhạt nhẽo như nước lã, cũng có khi thật cay đắng như chén rượu. Làm theo Lời Chúa có khi phải bỏ lại đằng sau những tình nghĩa ruột thịt. Làm theo Lời Chúa có khi phải mang gánh nặng của thập giá cho đến suốt dọc dài cuộc đời. Làm theo Lời Chúa có khi phải đi trên con đường chông gai, gian truân . . .
Có một người phụ nữ đã gọi điện thoại cho tôi. Chị ấy nói rằng: “Cha ơi, con mới đi khám thai. Bác sĩ nói thai nhi dị dạng! Bây giờ phải làm sao cha ơi!”. Đây có phải là thánh ý Chúa hay không? Có lẽ là không. Bởi vì Chúa luôn làm mọi điều tốt đẹp.
Nhưng quả thực thai nhi bị khiếm khuyến không hoàn hảo như bao thai nhi khác. Và có lẽ ở điểm này mà Chúa mời gọi hãy can đảm vì Chúa mà đón nhận đứa con tật nguyền chăng? Suy nghĩ một lát và tôi đã khuyên: “Thiên Chúa luôn có kế hoạch cho từng con người sinh ra. Hãy để cho Chúa dẫn dắt theo ý Ngài”.
Năm nay, Giáo hội mở ra năm đức tin như một thông điệp gửi đến nhân loại: “năm đức tin hãy sống điều Chúa dạy”. Năm đức tin mời gọi chúng ta hãy đặt lại niềm tin của mình vào Thiên Chúa. Một Thiên Chúa hiện hữu, sống động trong cuộc đời chúng ta. Ngài luôn tác động trên chiều dài lịch sử nhân loại và trên từng cuộc đời con người. Ngài là một Thiên Chúa quyền năng và giầu tình thương, thế nên hãy tín thác cuộc đời cho Chúa.
Có một câu chuyện kể rằng:"Nửa đêm thình lình phát hỏa dữ dội trong một căn nhà, mọi người hốt hoảng ùa chạy ra sân để thoát nạn. Sau khi cả nhà ra sân, ông bố mới thấy còn thiếu thằng út lên ba. Trong cơn lo sợ, ông đang định chạy vào trong nhà để kiếm con, thình lình nghe thấy tiếng la hét trên lầu, ông ngước nhìn lên thấy đứa con trai út đang mở cửa sổ phòng ló đầu kêu cứu... Ông bố mừng rỡ hô lớn:
- Con ơi! hãy nhảy xuống đi, bố đỡ con ở dưới này! Nhưng đứa bé hoảng sợ la lên:
- Bố ơi, khói mù mịt con không nhìn thấy bố! Ông bố tiếp la lớn:
- Con không nhìn thấy bố ... nhưng bố nhìn thấy con!
Thế là cậu bé đã an tâm nhảy vào bàn tay rắn chắc vững vàng của người cha. Chỉ cần niềm tin “bố nhìn thấy con” đã cho đứa bé nghị lực để lao ra giữa khói lửa mịt mù.
Quả là, đức tin có thể chuyển núi dời non. Đức tin sẽ giúp con người chiến thắng mọi khó khăn vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Đức tin sẽ mang lại cho con người bình an tâm hồn ngay trong những thử thách gian truân.
Hôm nay tại tiệc cưới Cana, những người giúp việc đã được nghe Mẹ Maria nói trước: “Người bảo gì các anh hãy làm như vậy”. Họ đã tin và đã làm theo lời Chúa. Họ đã được như ý. Rượu nồng tình yêu đã đổ chan chứa nhờ tin vào quyền năng của Chúa. Nếu không có đức tin, có lẽ họ đã thầm nghĩ: “đổ nước lã vào chum và múc ra chẳng khác nào đánh lừa thực khách hay sao?”. Nhưng không, họ đã tin. Niềm tin đã tạo cho họ sức mạnh để có thể làm theo Lời Chúa ngay như chuyện không thể làm được. Niềm tin giúp cho họ mạnh dạn, vui tươi khi tuân hành theo Lời Chúa.
Cuộc đời con người không thiếu những gian truân, có khi còn đi đến bế tắt. Cuộc đời con người không thiếu những đêm dài tuyệt vọng. Nhưng, niềm tin vào Thiên Chúa quyền năng sẽ giúp chúng ta can đảm vượt qua. Và nhờ ơn Chúa, nhờ bám vào Chúa chúng ta sẽ vượt thắng tất cả.
Nhìn lại những trang tin mừng, chúng ta cũng gặp biết bao niềm vui của các bệnh nhân nhờ tin vào Chúa mà được khỏi bệnh. Nhìn lại những trang tin mừng, chúng ta cũng thấy thái độ của các tông đồ cũng hoàn toàn thay đổi từ nhút nhát đến kiên cường. Từ trốn tránh đến dám ra làm chứng cho Chúa sau khi các ông đã tin vào Chúa phục sinh.
Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” Niềm tin của chúng ta chỉ cần đơn sơ như cậu bé tin rằng: ”Con không nhìn thấy Cha nhưng con biết Cha nhìn thấy con!”. Vậy con xin phó thác để nhảy vào tay Cha để con “Sống là sống cho Cha và chết là chết cho Cha.”
Xin Chúa là Đấng chúng ta tin thờ luôn an ủi, che chở và gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy. Amen.
Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng TN 2-C132 Lượng
Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một cặp thất bại, phải ly dị nhau.
Với bối cảnh đó, tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta hãy tái khám phá giá trị và ý nghĩa thiêng liêng cao quý của đời sống hôn nhân, qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Và qua đó, cho chúng ta một bài học quá rõ ràng: ở đâu có sự hiện diện của Chúa và Mẹ thì niềm vui và hạnh phúc ở đó tràn đầy.
Thật vậy, câu chuyện Tin mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.
Nếu trong đám cưới ngày xưa đã từng hết rượu, thì sống trong đời hôm nay, có biết bao nhiêu lần chén hạnh phúc của chúng ta đã vơi đi, hay đã cạn hết rồi. Men của tình yêu, của niềm vui, của sự thành công, của sung túc không còn. Ngay cả khi tất cả những điều ấy phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương, bằng máu mới có được… Vậy mà chỉ sau một biến cố nào đó, đã mất hết, đã cướp hết, mình hoàn toàn trắng tay, chỉ để lại trong lòng nỗi cô đơn dằn xé, nỗi chán chường đến mức bạt nhược… Những lúc như thế, mỗi người chúng ta cần lắm một lời van xin của Mẹ đến với Chúa “Họ hết rượu rồi”, để Chúa an ủi và ban nghị lực, ban đức tin giúp ta có thể vượt qua những đắng cay cồn cào ấy.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và trong cuộc đời của mình hay không?
Hôm nay, chúng ta đã thấy rõ rồi đó, dù bảo rằng “Giờ của con chưa tới” và đám tiệc còn hay hết rượu thì chẳng có liên quan gì đến chúng ta cả Mẹ ơi, thế nhưng, phép lạ vẫn cứ xảy ra thật. Chúa đã biến nước thành rượu thật. Không chỉ thành rượu, mà còn là rượu ngon. Và đám cưới không chỉ cứ tiếp tục vui, mà còn vui hơn.
Vì thế, chúng ta có thể xác quyết rằng: Lời cầu nguyện của Đức Mẹ là lời hiệu nghiệm và có uy lực. Lời đó mang lại giá trị cho đời sống chúng ta. Nó cho thấy Đức Mẹ có quyền năng trong lời chuyển cầu của mình. Lời chuyển cầu hiệu nghiệm và uy lực ấy rất cần cho chúng ta, vì nó mang lại giá trị cho đời sống, mang lại hạnh phúc cho con người, mang lại những phép lạ lớn lao tưởng chừng như không thể xảy ra. Vì thế, khi tôn thờ Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cũng hãy yêu mến Đức Mẹ. Hãy tâm sự với Đức Mẹ, hãy bày tỏ cuộc đời mình với Đức Mẹ. Vì chúng ta thâm tín rằng, chính trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã trối Mẹ cho Gioan, và Gioan cho Mẹ. Đấy là lúc chúng ta trở thành con cái Mẹ, lẽ nào Mẹ lại không nhận biết những nhu cầu để giúp đỡ chúng ta sao?. Ngày xưa khi còn tại thế, lời cầu của mẹ đã hiệu nghiệm đến thế, huống chi bây giờ Mẹ đang tột cùng vinh hiển bên cạnh Con Mẹ. Mẹ đang vinh hiển, tràn đầy uy quyền, nắm giữ kho báu ân sủng của Con Mẹ, Mẹ lại tiếc với chúng ta sao?. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người TN 2-C133
Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
1.- Ngữ cảnh
Về đoạn văn Ga 2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana mở ra một phân đoạn mới (gọi là "Sách các dấu lạ", ch. 2–12) hoặc khép lại một bài tựa mang tính tường thuật (1,19–2,12)?
Chúng tôi chọn đặt truyện Cana vào cuối bài tựa tường thuật. Trong ch. 1, sau Bài Tựa (1,1-18), tác giả giới thiệu gương mặt vị Tẩy Giả, vị chứng nhân, "bạn của chàng rể" (3,29), người ban phép rửa để "Người [= Đức Giêsu] được tỏ ra cho dân Ít-ra-en" (1,31). Sứ mạng của Gioan là bày tỏ chân tính thiên sai của Đức Giêsu. Vì lý do này, Anrê và một môn đệ nữa đã đi theo Thầy (1,35-40). Anrê lại đi gặp Simôn và bảo: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia" (1,41); chuyện cũng như thế đã xảy ra với Nathanaen (1,45-51). Tất cả kết thúc tại Cana, với việc chính Đức Giêsu tỏ vinh quang ra (2,11).
Còn có những lý do khác khiến phải đi theo chiều hướng này. Có thể kể ra hai lý do: 1) Cách tính các ngày làm thành một tuần. "Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình" (1,29). "Hôm sau ông Gioan lại đứng đó" (1,35). "Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê" (1,43). Cuối cùng, "ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền Galilê" (2,1). Đây đúng là một tuần, và tiệc cưới đã xảy ra vào ngày thứ bảy. 2) Cần ghi nhận việc tác giả tích lũy các danh hiệu Kitô học. Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" (1,29.36), "Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần" (1,33), là "Rabbi" (1,38.49), là "Đấng Mêsia" (1,41), là "Con Thiên Chúa, vua Ít-ra-en" (1,49). Rõ ràng các danh hiệu này là một tổng hợp việc mạc khải mầu nhiệm Đức Kitô. Điểm tới của cụộc tỏ mình này là Cana: "Đức Giêsu tỏ vinh quang của Người" (2,11). Việc Đức Giêsu tỏ mình ra tương ứng với việc các môn đệ đáp lại: "Và các môn đệ đã tin vào Người" (2,11). Tới đây, cộng đoàn các môn đệ gồm những người tin đã thành hình; Đức Giêsu có thể bắt đầu đời sống công khai.
Vậy có thể coi đây là Dẫn nhập bằng một dấu lạ lịch sử: Truyện Tiệc cưới Cana kết thúc phần Dẫn nhập và đưa vào "Sách các dấu lạ của Đức Giêsu", nên có thể gọi là đoạn văn "làm cầu".
2.- Bố cục
Bài tường thuật được giới thiệu như là một "dấu lạ", nên có thể tìm bố cục theo cách cấu trúc cổ điển của các phép lạ. Nhưng chúng ta có thể tìm ra bố cục theo cấu trúc đồng tâm sau:
A = Phần tường thuật (2,1-3);
B = Các đối thoại (2,4-8):
Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu, Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn, Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn;
A'= Phần tường thuật (2,9-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ngày thứ ba (1): Chi tiết thời gian này có mục đích nối kết phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu với núi Sinai (Xh 19,1.10-11.16) và cuộc Phục Sinh (Ga 2,19-22; x. 7,30; 8,20...).
Như thế, Cana một đàng là phiên bản của những gì đã xảy ra tại núi Sinai, đàng khác, là một lời tiên báo mào đầu cho mạc khải tối hậu phát xuất từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
- tại Cana miền Galilê (1a và 11a): Trong Tân Ước, thành này chỉ được Ga nhắc tới (x. cả 21,2). Thông thường người ta nghĩ đến Khirbet Qana, cách Nadarét 15 cây số. Đây là nơi hẻo lánh, không mấy quan trọng.
- Có tiệc cưới: Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần (ba ngày: trường hợp một quả phụ tái giá). Khung cảnh tiệc cưới nối kết câu truyện Cana với đề tài quen thuộc trong Cựu Ước: hôn lễ của Đấng Mêsia với Dân Người. Trong TM IV, Gioan Tiền Hô sẽ giới thiêu Đức Giêsu là chàng rể (3,29); còn trong các TMNL, Đức Giêsu tự coi mình là chàng rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34), và đã mô tả Nước Trời như một tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng, sách Kh cũng vận dụng tới đề tài này để diễn tả sự kết thúc thời hiện tại và sự khai mở thời tương lai (Kh 19,7-9; 21,2; so với Ep 5,22tt). Theo tập tục, chính chàng rể cung cấp rượu (x. c. 10).
- có thân mẫu Đức Giêsu: Đức Trinh Nữ được giới thiệu là "thân mẫu Đức Giêsu", rồi ở c. 4, Đức Giêsu lại gọi mẹ là "bà". Một sự cố tương tự lại xảy ra trên Núi Sọ trong Ga 19,25-27; như vậy, câu truyện Núi Sọ có những điểm chung với câu truyện Cana. Có thể coi hai câu truyện này làm nên một thứ cấu trúc "đóng khung".
- Họ hết rượu rồi (3): Người ta đã muốn coi lời này chỉ là ghi nhận một sự kiện. Tuy nhiên, có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó.
- Thưa bà (gynai) (4): Một người Do Thái gọi mẹ là 'immâ, "mẹ của con". Vì thế danh hiệu "bà" (gynê; femme, woman) được Đức Giêsu dùng mà gọi Đức Maria có vẻ kỳ lạ. Trong thực tế, Đức Giêsu cũng sử dụng danh xưng ấy để gọi các phụ nữ khác trong TM IV (4,21: bà Samari; 20,13: bà Maria Mácđala) và trong các TMNL (Mt 15,28; Lc 13,12). Dù sao, đối chiếu với Ga 19,25-27, danh xưng này không thể có một ý nghĩa tiêu cực. Rất có thể qua tiếng "bà" (E. Farahian đề nghị dịch trong tiếng Ý là "signora"), Đức Giêsu đề ra một cách công khai hơn để gọi mẹ ruột của mình tại nơi công cộng. Ngoài ra, với từ ngữ này, chắc chắn ở bình diện biểu tượng, có một gọi ý đến cuộc tạo dựng: Đức Maria xuất hiện ra như là Evà mới, hoặc hơn nữa, như là đại diện của dân Israel, hoặc tốt hơn nữa, như là Israel đích thật.
- Chuyện đó can gì đến bà và con? (4): dịch sát: "Giữa tôi và bà, nào có việc gì?" (NTT). Ti emoi kai soi (Hp: mah-li wâlâk): Đây là cách diễn tả quen thuộc trong văn chương Hy Lạp, Rô-ma và Sê-mít để diễn tả sự ưng thuận hoặc bất thuận giữa hai hoặc nhiều người. Chỉ có văn cảnh mới giúp thấy rõ các sắc thái của mỗi trường hợp.
- Giờ của con chưa đến (4): Nếu quan tâm tới ý nghĩa của thuật ngữ "Giờ của Đức Giêsu" theo TM Ga, và tới giá trị biểu tượng của rượu, chúng ta sẽ thấy rõ. "Giờ của Đức Giêsu" là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh; còn rượu tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến "Giờ" Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1).
- Rượu (3): Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta các ý nghĩa của "rượu".
* Thời thiên sai và cánh chung:
Các ngôn sứ nói rằng khi Thiên Chúa quy tụ con cái tản mác lưu đày về và cho họ được định cư, rượu và các sản phẩm khác sẽ được ban cho họ dư dật (Am 9,13; Ge 2,24; Gr 31,12; Ge 2,19-16). Rượu này lại có phẩm chất rất tốt (Hs 14,8; Is 25,6; Dcr 9,17). Rượu và sữa được tặng không (Is 55,1). Trong Hs 2,21-22 và Is 62,5, sự phì nhiêu của hoa mầu ruộng đất được ghép vào hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Cuộc hôn nhân này tượng trưng Giao Ước mới ký kết với con cái Israel, được quy tụ về (Ge 31,8-10.31-37). Có hai bản văn trực tiếp mang tính thiên sai, St 27,28-29 và St 49,10-12: Thời đại thiên sai được mô tả bằng một giọng văn đầy hình ảnh: "rượu mới dồi dào" (St 27,28); muốn buộc con lừa, Đấng Mêsia chỉ có dây nho; muốn giặt áo, Người chỉ có rượu; và rượu làm cặp mắt Người ngời sáng (St 49,11-12).
Trong Diễm ca, "rượu" được dùng 8 lần để tượng trưng tình yêu nồng nàn của đôi nam nữ (Dc 1,2-4; 2,4; 4,10; 5,1; 7,3-10; 8,2).
* Rượu và Lời Thiên Chúa:
Trong Cựu Ước, Luật Môsê (hoặc Lời Thiên Chúa) được đặt trong quan hệ với rượu, trong hai đoạn: Gr 23,9 và Cn 9,25. Sự Khôn Ngoan đã dọn tiệc và mời khách, thật ra là Luật Môsê. Theo truyền thống Kinh Thánh, vị hiền nhân là người suy gẫm và đào sâu Torah. Và rượu của sự Khôn Ngoan là Luật Thiên Chúa. Trong Hc 24,17, sự Khôn Ngoan lại tự ví mình với một cây nho (x. Ga 15,1). Như vậy, ta có chuỗi các khái niệm: Torah = Khôn Ngoan = cây nho = rượu.
* Rượu là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích:
a) Truyền thống Do Thái giáo:
Rượu còn được coi như là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích: Vị này được người ta chờ mong như một vị thầy chuyên môn về Luật Môsê (x. Targ Dc 8,12). Còn khi bản Midrash St R 98,9–49,11 nói rằng Đấng Mêsia "... giặt áo mình trong rượu" (St 49,11), điều này có nghĩa là Người sẽ viết lại những câu Luật cho người nhà mình, tức sẽ đề nghị những ý nghĩa và lối giải thích Torah. Còn Người giặt "áo choàng trong máu của nho", có nghĩa là Người sẽ sửa chữa các lối giải thích sai lạc.
b) Tân Ước: x. Mt 5,17.21-22.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44. Các TMNL ví giáo huấn của Đấng Mêsia với rượu mới, Đức Giêsu là chàng rể của lễ cưới thiên sai. Rượu mới tượng trưng cho Tin Mừng của Người, Mạc khải của Người; rượu này không thể pha trộn với rượu cũ của Do Thái giáo (Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39).
* Giá trị biểu tượng của rượu Cana:
Trong thần học Gioan, Lời của Đức Giêsu là "Sự Thật" (Ga 8,31-32; 18,37; 17,8.14.17..), và điều quan trọng là Lời này được đồng hóa với chính Đức Giêsu: "Thầy là Sự Thật" (14,6; x. 8,32-26). Tin Mừng của Đức Kitô được nhập thể cách rõ ràng nhất nơi bản thân và trong những biến cố liên hệ tới bản thân con người đang loan báo Tin Mừng này, là Ngôi Lời làm người: "Thầy là ánh sáng, bánh ban sự sống, sự sống lại, sự sống...". Vậy, Lời của Đức Kitô là Mạc khải của Người, Tin Mừng của Người.
Chúng ta nói "rượu" tượng trưng Lời Đức Kitô là do những nhận định sau:
1) Cặp mẫu Sinai – Cana:
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan (1,19-2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với chóp đỉnh là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào "ngày thứ ba".
"Ngày thứ ba" của Cana tương ứng hoàn toàn với "ngày thứ ba"của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào "ngày thứ ba", thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào "ngày thứ ba"; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người.
2) Động từ "giữ" (c. 10):
Người quản tiệc nói với tân lang: "... Còn anh, anh lại giữ (HL. tetêrêkas) rượu ngon cho đến mãi bây giờ". Động từ "giữ" là động từ tiêu biểu của từ vựng Gioan khi đề cập đến Lời–Điều răn của Đức Giêsu, và Lời này là Lời của Chúa Cha. Tác giả Gioan đã dùng động từ ấy theo nghĩa này ít ra 25 lần (8,51-52; 14,23; 15,20; 17,6; Kh 3,8 / Kh 3,10 / 14,24 / 1 Ga 2,5 = 8,55 / Kh 1,3; x. 22,7.9 / Kh 2,26 / 1 Ga 2,3; 3,22.24; 5,3 / Kh 12,17 / Kh 14,12. Lưu ý: Mc chỉ dùng 1 lần (Mc 7,9); Mt 3 lần (Mt 27,36.54; 28,4); Lc 1 lần (Cv 15,5).
3) Nước thanh tẩy của tập tục Do Thái:
Rượu Đức Giêsu ban lại lấy từ nước đựng trong các chum dùng vào "việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái" (c. 6). Nước này không phải là nước phàm tục, mà là nước dùng trong nghi lễ, để thanh tẩy các thực khách (x. Mc 7,2-5; Mt 15,2; Lc 11,38-39). Chính nước này được Đức Giêsu biến thành rượu. Điều này có nghĩa là kể từ nay, "việc thanh tẩy" không còn được nối kết với việc giữ Luật Môsê nữa (tượng trưng bằng nước trong sáu chum), mà là với việc giữ Tin Mừng của Đức Kitô, giữ Lời của Người (tượng trưng bằng rượu ngon).
Thật ra, đây là giáo lý của tác giả Ga về việc "thanh tẩy". Các môn đệ được "thanh tẩy" nhờ Lời Đức Giêsu đã loan báo cho họ (15,3). Sứ điệp mạc khải của Đức Kitô là Sự Thật có thể giải thoát các môn đệ khỏi nô lệ tội lỗi (8,32.34-36). Người nào ở lại trong Đức Giêsu, bằng cách đón nhận Tin Mừng của Người (Ga 15,7; 1 Ga 3,6) thì không phạm tội nữa, mà được thánh hóa (1 Ga 3,6). Lời Đức Giêsu giống như một hạt giống (1 Ga 3,9; x. Lc 8,11; 1 Pr 1,23; Gc 1,18; 1 Cr 4,15). Nhờ tác động của Lời, người môn đệ có thể thắng sự dữ và ít sa vào tội lỗi hơn (1 Ga 2,14). Đây là cách Đức Giêsu "xóa bỏ tội trần gian" (1,29): Người "thanh tẩy" con người bằng Lời Sự Thật của Người.
4) Rượu Cana, biểu tượng của mạc khải cánh chung của Đức Kitô:
Rượu Cana không những là hình ảnh của Lời mạc khải của Đức Giêsu, mà còn diễn tả chiều kích cánh chung của Lời này, trong tư cách là Lời tối hậu và vĩnh viễn.
Chẳng hạn Ga 1,45: Philípphê nói với Nathanaen: "Đấng mà Sách Luật Môsê và các Ngôn Sứ nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét". Từ Môsê và các Ngôn sứ, ta chuyển qua Đức Giêsu. Đây là điều đã được nói ở 1,16-17. Dấu lạ Cana là một sự chuẩn nhận mang tính ngôn sứ cho niềm chờ mong cánh chung xoáy vào con người Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu ra lệnh đổ các chum "đầy tới miệng" (c. 7), điều đó không chỉ có nghĩa là đổ nhiều tối đa, nhưng đặc biệt có nghĩa là "hoàn toàn". Sau Đức Kitô, không còn có chuyện "còn nữa", "sau đó" hoặc "thêm nữa". Lời Người làm đầy mức Mạc khải. Lời Người là "nguồn sung mãn" (1,16). Tuy nhiên, sự sung mãn của Đức Kitô được thêm vào cho một mức độ có trước (x. Dt 1,1). Rượu Người cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Nhiệm cục Luật Môsê bị vượt quá về chất lượng bởi Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn "mới" (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là "ngon (tốt)" (HL. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassô).
Những gì xuất hiện tại Cana là như hình ảnh của một mở đầu, thì được kiểm chứng trong TM IV bởi những mẩu đối thoại khác, trong đó nhắc lại sự cao trọng của Đức Giêsu và những ân ban của Người, so với những nhân vật hoặc những định chế của Cựu Ước: hơn Giacóp (4,12), Môsê (5,46; 6,32-35), Abraham (8,58), Đền Thờ (2,19-21; x. 4,21-23), Gioan Tẩy Giả (1,26-33), như Gioan đã tuyên bố (3,29-30): "... Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi (Hl. elattousthai; từ này cùng một ngữ căn với elassô, 2,10)".
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại "cho đến mãi bây giờ" (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ "cho đến bây giờ" (HL. eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
5) Quan hệ giữa rượu Cana với "ngày thứ ba" và "Giờ của Đức Giêsu":
Cuối cùng, các thuật ngữ "ngày thứ ba" (c. 1) và "Giờ của Đức Giêsu" đưa lại cho dấu lạ Cana một ý nghĩa cánh chung: cả hai thuật ngữ quy hướng về những biến cố cuối đời của Đấng Cứu thế, về cuộc Khổ Nạn quang vinh của Người.
Yếu tố "rượu" cũng có một vai trò trong chiều hướng cánh chung này. Chúng ta nói rằng "rượu" tượng trưng cho Sự Thật Phúc Âm đã được Đức Giêsu rao giảng, và đã nhập thể nơi chính bản thân Ngôi Lời nhập thể. Thế nhưng lời cuối cùng của sứ điệp này, nghĩa là việc mạc khải hoàn toàn về chân tính của Đức Kitô, chỉ nên rõ khi Đức Giêsu đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). "Vào ngày ấy", các môn đệ biết rằng Đức Giêsu bằng Cha Người trong thần tính (14,20a; x. 10,31-33; 5,18), và Người liên kết họ với Người trong sự hiệp thông với Cha Người (14,20b). Đây là ngày xảy ra Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa và loài người để tiếp nối và hoàn tất Giao Ước cũ.
Sau Phục Sinh, Tôma nhận biết Đức Giêsu là "Đức Chúa và Thiên Chúa" của ông (20,28); nơi Người, được thực hiện lời hứa thường được các Ngôn sứ nhắc lại: "Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".
Trong thời của mầu nhiệm Phục Sinh ấy, Mạc khải không còn được truyền đạt bằng dụ ngôn hoặc hình ảnh nữa (16,25). Nay đã được Thánh Thần hướng dẫn (16,13-14), các môn đệ không còn dám hỏi: "Người là ai?" nữa (21,12; x. 16,23). Kể từ nay, các ông biết Người là "Đức Chúa, Kyrios" (21,12).
Lời Phúc Âm (được tượng trưng bằng rượu Cana) nay rực sáng lên nơi Đức Kitô quang vinh.
- Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo (5b): Có lẽ Đức Maria không hiểu những lời Đức Giêsu nói. Mẹ cũng giống như những người khác trong TM IV, ở tại một bình diện hết sức cách biệt với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định.
- Mỗi chum chứa được khoảng hai hoặc ba thùng (6. NTT): Một metrêtês (mesure) khoảng 40 lít (Hp: êpah, éphah).
- Người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (9c): Dọc theo TM IV, ý tưởng này: 'không biết nguồn gốc Đức Giêsu và Vương quốc của Người (x. 18,36)' tái xuất hiện dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: 3,8; 4,10; 6,41; 9,29.30; 7,26-27 (x. 19,9).
Đức Giêsu vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người khi xảy ra biến cố Khổ Nạn–Chết–Sống lại (x. Ga 7,33-35; 8,21-23; 23,36; 16,5.28). Đây sẽ là một mạc khải vĩ đại có sức soi sáng các tín hữu và làm cho những kẻ không tin phải bẽ mặt (1,51; 2,18-19; 3,11-15; 5,17.20; 6,62; 8,28; 12,32; 14,19-20).
- Còn gia nhân đã múc nước thì biết (9d): Câu này không chỉ là một ghi nhận về sự kiện. Các "gia nhân" là những người đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9).
Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa cho người giữ các điều răn của Người (14,21). Như vậy, Đức Giêsu tỏ mình ra cho ai yêu mến Người bằng cách đưa Lời Người ra thực hành. Người sẽ cùng với Chúa Cha đến lập cư nơi người ấy (14,23). Ai yêu mến Đức Kitô là gia nhân đích thật của Người, Chúa Cha sẽ "quý trọng" (tôn vinh) kẻ ấy (12,26).
Ba thành ngữ sau đây liên hệ với nhau: "phục vụ Đức Kitô – Vâng theo Lời Người – Đức Kitô tỏ mình ra". Ai "phục vụ" Đức Giêsu, "vâng theo điều răn của Người" (và ngược lại), Đức Kitô sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Gia nhân ở Cana đã chứng nghiệm điều trên rõ ràng. Họ được biết "rượu ngon" (= một phương diện của thực tại Đức Kitô) "từ đâu đến", chính là vì họ đã vâng lời Đức Giêsu mà múc nước đổ đầy các chum. Thánh Gioan có nói: "Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người" (1 Ga 2,3).
Trong TM IV, hai viễn tượng lịch sử và thần học thường lồng vào nhau. Như vậy, các câu 7c, 8d, 9d đã giới thiệu các "gia nhân" ở Cana như là điển hình cho đời "phục vụ–vâng lời" mà Đức Kitô đòi hỏi trong Giao Ước mới (x. Ga 13,34; 15,14).
- ông gọi tân lang lại và nói...(9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại "cho đến mãi bây giờ".
Trong TM Ga (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm "bạn của tân lang" (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. "được sai đi trước": c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30).
Sách Khải huyền cũng ca tụng lễ cưới của Chiên Con với Giêrusalem mới (19,7-8; 21,2).
Vì tác giả TM trình bày Dấu lạ Cana phỏng theo những truyền thống về Núi Sinai, ta có thể nhớ rằng Giao Ước Sinai đã được trình bày dưới biểu tượng hôn lễ kể từ nền văn chương ngôn sứ (x. Hs 2,16-25; Is 50,1; 54,4-8; 62,4-5; Gr 2,1-2; 3,1-13...). Trong khối Tân Ước có trước Ga, ta có thể kể ra: Mt 22,1-14; 25,1-13 (Các dụ ngôn về Nước Trời như tiệc cưới); Mc 2,18-20 (Đức Giêsu tự giới thiệu như là "Chàng Rể"); 2 Cr 11,2; Ep 5,25-33 (Đức Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền Thê).
Loại hình ảnh biểu tượng này được dùng rất phổ biến trong truyền thống Do Thái giáo. Chính thánh Âutinh đã viết: "Hôn phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của Đức Chúa hiện thân...".
- Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này (11a): Nhiều nhà chú giải (C.K. Barrett; Olsson) ghi chú rằng tác giả TM coi phép lạ Cana không những như là dấu lạ "đầu tiên", mà còn như điển hình của các dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện. Bởi vì Người đã viết: "Tautên epoiêsan archên tên sêmeiôn Iêsous..." (NAB: Jesus did this as the beginning of his signs; TOB: Tel fut... le commencement des signes de Jésus; NTT: Dấu lạ đầu hết này, Đức Giêsu đã làm...). Từ ngữ archê (khởi đầu, bắt đầu) gây ra một số khó khăn; vì thế người ta đã đưa vào những dị bản, chẳng hạn prôtên (= thứ nhất).
Dường như trong Ga, từ archê không có nghĩa là khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, như trong Lc (3,23; Cv 10,37), cũng không phải là lời rao giảng của Gioan Tiền Hô trong hoang địa (Mc 1,1), thậm chí cũng không phải là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Nhưng từ ấy có nghĩa là khoảnh khắc chính xác mà Đức Giêsu bắt đầu tỏ mình ra cho các môn đệ (x. Ga 15,27; 16,4; 1 Ga 1,1-3). Vậy việc mạc khải tiệm tiến của Đức Giêsu khởi sự tại Cana miền Galilê, và được tiếp tục dọc theo sách Tin Mừng (x. Ignace de la Potterie). Origiênê gọi dấu lạ Cana là "prohêgoumenon sêmeion", một dấu chỉ "ưu việt". Zerwick & Grosvenor giải thích: "such was the first of the signs that Jesus did; Jesus did this as his initial sign".
Vậy rượu mới ở Cana không chỉ là "dấu lạ đầu tiên", mà cũng còn là "điển hình", "nguyên mẫu" (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm "bày tỏ" vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của "ngày thứ ba", của "Giờ của Đức Giêsu", nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người.
- và bày tỏ vinh quang của Người (11b): Động từ "bày tỏ" (HL. phaneroô; manifester; make clear/visible, show) cũng là động từ tiêu biểu của từ vựng Ga. Tác giả ưu tiên dùng động từ này để nói về "mạc khải" (x. Ga 1,31; 2,11; 3,21; 7,4; 9,3; 17,6; 21,1; 1 Ga 1,2; 2,19; 3,2; 4,9).
Còn ý nghĩa của từ "vinh quang" (HL. doxa) được rút từ Cựu Ước. Theo nghĩa đen, từ Híp-ri kabôd hàm chứa một ý tưởng về "trọng lượng" (động từ kabêd: cân nặng). Theo nghĩa bóng, từ này có nghĩa là "trọng (quan trọng, trọng đại)", nghĩa là "giá trị", "tầm quan trọng" của một hữu thể, "sự tôn kính" mà hữu thể ấy gợi ra; tóm, là "bản tính", "bản lĩnh (nhân cách)" của kẻ ấy, dù kẻ ấy là ai.
Thế mà trong truyền thống Cựu Ước, Đức Chúa (Yhwh) mạc khải "vinh quang" của Ngài ra bằng những biểu lộ bên ngoài của chính bản thân Ngài, nghĩa là xuyên qua "những việc vĩ đại", "những việc kỳ diệu" (= phép lạ) được thực hiện trong cuộc Tạo dựng và trong Lịch sử Dân Ngài (x. Tv 19/18B,2; Ds 14,21.22; Xh 14,18; 16,7; 24,25t; 29,43; 40,34; 1 V 8,10t...). Con người có thể hiểu rõ hơn Đức Chúa là ai hoặc "vinh quang" của Ngài là thế nào, khi suy nghĩ về sự tỏa rạng của bản thân Ngài trong công cuộc tạo dựng và trong lịch sử Dân Thiên Chúa tuyển chọn.
Tại Cana, Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên như một biểu lộ đầu tiên về "vinh quang" của Người, một khởi đầu cho công cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Người. Các tông đồ có hiểu gì chăng?
* Trước Phục Sinh, và chính xác hơn, vào ngay ngày các môn đệ được chứng kiến dấu lạ Cana, dĩ nhiên các ông không thể hiểu thấu bí mật sâu xa của chân tính Đức Kitô. Các ông không thể nắm được tính siêu việt của chân tính này. Cứ cho đi là niềm tin của các ông được khơi lên bởi một phép lạ–dấu chỉ, thì muốn hợp lý, nên suy ra là cũng như đối với Nathanaen, niềm tin ấy có đối tượng là tư cách Mêsia của Đức Giêsu (x. Ga 1,47-50; rồi 7,31; 10,41-42; 12,37-42).
* Sau Phục Sinh, Hội Thánh được soi sáng trọn vẹn về mầu nhiệm Đức Giêsu. Thế là khi nhớ lại những gì đã xảy ra tại Cana, tác giả Gioan (cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu) đã hiểu rằng, ngay ở dấu lạ đầu tiên này, Đức Giêsu đã bắt đầu tự mạc khải ra như "Hôn Phu thần linh của tiệc cưới thiên sai", tiệc cưới của Giao Ước mới, trong đó sẽ được chứng thực "ngày thứ ba" của Phục Sinh, khi "Giờ của Đức Giêsu"đã đến (x. Ga 14,20).
Phụng Vụ lễ Hiển Linh chú giải thật đúng hình ảnh biểu tượng mang tính ngôn sứ của Cana, khi hát lên Điệp ca của Thánh ca Benedictus: "Tân Nương là Giáo Hội, ngày hôm nay được phối hiệp cùng Đức Kitô, vị Lang Quân thống trị Nước Trời... Nước hóa rượu ngon, làm vui lòng thực khách".
- Các môn đệ đã tin vào Người (11c): Trong TM IV, đề tài "đức tin" là đề tài căn bản. Động từ "tin" (HL. pisteuô có 3 cách dùng:
- tin "ai" (HL. pisteuein tini) nghĩa là chấp nhận lời người ấy là thật: 2,22; 4,21-50; 1 Ga 3,23;
- tin "vào ai" (HL. pisteuein eis tina) hàm ý gắn bó với người ấy: 2,11; 3,16.18.36; 4,39;
- tin "vào danh ai" (HL. pisteuein eis to onoma tinos): đây là cách diễn tả hoàn hảo nhất về đức tin.
Tác giả Gioan là người duy nhất đã dùng cách này trong Tân Ước (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13). Đây là sự gắn bó với một người theo nội dung của tên người ấy. "Tin vào danh Con Một Thiên Chúa" (Ga 3,18) có nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là "Con Một Thiên Chúa".
- Sau đó (meta touto...) (12a): Một vài tác giả (J.H. Bernard; A. Feuillet) có lý mà cho rằng, trong ngôn ngữ Ga, công thức meta touto (= sau việc ấy; après quoi) có ý nhắm tạo ra một liên hệ lô-gích giữa những gì đi trước và những gì tiếp sau, y như thể đoạn sau là một hậu quả hoặc một minh họa mới của đoạn trước. Tác giả đã dùng 4 lần, luôn luôn trong quan hệ với Đức Giêsu (Ga 2,12; 11,7-11; 19,28). Ý nghĩa rất gần với ý nghĩa của "tauta (hoặc touto) eipôn" (= "khi đã nói những điều ấy xong"; hoặc: "sau khi đã nói những điều ấy") (Ga 7,9; 9,6; 11,18.43; 13,21; 18,1; 20,20-22).
Còn thuật ngữ meta tauta (= sau các biến cố ấy) thì khác: nó chỉ đóng vai trò chuyển mạch về văn chương thôi, một chuyển mạch không xác định, giữa hai đoạn (Ga 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 13,7; 19,38; 21,1).
Vậy, tương quan giữa 2,1-11 và 2,12 là thế nào? Phần tiếp của c. 12 sẽ cho thấy.
- Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum (12bc): Ở đầu bài tường thuật, Đức Trinh Nữ Maria ở một bên, Đức Giêsu và các môn đệ ở một bên, như là hai nhóm đến dự tiệc cưới theo những nẻo đường khác nhau. Nhưng đến cuối bài, Đức Trinh Nữ, các anh em và các môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ra như một nhóm duy nhất siết chặt quanh Người. Chắc hẳn tác giả muốn nói rằng họ đã xích lại gần nhau nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, mà Đức Trinh Nữ (c. 5) và các môn đệ (c. 11) đã chứng tỏ. Hơn nữa, trên bình diện đức tin, không có khác biệt giữa bà con họ hàng (thân mẫu và các anh em) và các môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phần tường thuật (1-3):
Chi tiết thời gian "ngày thứ ba" đánh dấu tuần lễ khai mạc hoạt động của Đức Giêsu; nhưng chi tiết này cũng nhắc lại những sự kiện lớn thuộc lịch sử cứu độ xảy ra vào ngày thứ ba: Đức Chúa tỏ mình ra cho Dân Ngài vào ngày thứ ba trên núi Sinai (Xh 19,10-11; x. 19,16). Nhưng dựa vào Hs 6,2, chi tiết "ngày thứ ba" còn có liên hệ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu ("theo lời Kinh Thánh": Lc 24,46 và 1 Cr 15,4). Có thể nói tác giả Ga minh nhiên thiết lập quan hệ giữa "ngày thứ ba" và "sự chết–sự sống lại" của Đức Giêsu (x. 2,19-22). Trong TM IV, công thức "ngày thứ ba" cũng liên hệ với "Giờ của Đức Giêsu" (x. 2,1-4): đây là kiểu nói để gọi ba biến cố Khổ Nạn – Chết – Sống Lại của Đấng Cứu thế, coi như một thực tại duy nhất (x. 2,4; 7,30; 8,20; 13,1...).
"Tại Cana miền Galilê" (1a và 11a): Đây là một chi tiết địa lý, nhưng hẳn cũng có một lý do thần học. Những người Pharisêu hỏi Nicôđêmô: "Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả!" (7,52). Đấy là điều người ta gọi là "sự mỉa mai thần học của Tin Mừng IV": Cho đến nay, người ta vẫn cho rằng không thể có một ngôn sứ xuất thân từ miền Galilê; thế mà, bây giờ tại Cana miền Galilê, lại xảy ra cuộc tỏ mình đầu tiên của Vị Ngôn sứ siêu đẳng, Đức Giêsu Nadarét, Đấng được nói đến trong Luật Môsê và các Ngôn sứ (Ga 1,45). Vị Ngôn sứ cánh chung (x. Ga 6,14) xuất thân từ Nadarét, một thôn làng mà người ta cho rằng không thể có gì tốt phát sinh từ đó được (Ga 1,46).
Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần. Thân mẫu Đức Giêsu có đến dự: tác giả không gọi tên bà ra, tương tự như ở 19,25-27: Rõ ràng tác giả quan tâm đến vai trò của Đức Trinh Nữ được diễn tả ra bằng các danh hiệu "thân mẫu Đức Giêsu" và "bà" hơn là đến tên thật của bà. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh – Do Thái giáo, Dân Israel thường được hình dung như một "phụ nữ" (x. Is 52,2; Dcr 9,9). Do đó, ta có thể hiểu lý do khiến Đức Giêsu nói với thân mẫu như thế ("Thưa bà"): Đức Giêsu coi thân mẫu chính là hiện thân Dân Israel đã tới thời viên mãn. Ta có thể nói rằng từ ngữ "bà" trong TM Ga tương ứng với hình ảnh "thiếu nữ Sion" được TM Lc gán cho Đức Maria (Lc 1,28; x. Dcr 2,14).
Tác giả TM ghi nhận là sự cố đầu tiên khởi đầu hoạt động công khai của Đức Giêsu là một tiệc cưới. Ngoài việc ghi lại một sự kiện, hẳn tác giả muốn vận dụng hình ảnh "tiệc cưới" nhằm nhắc lại giao ước của Thiên Chúa với Dân Ngài, và đặc biệt gợi tới sự thể hiện cánh chung, khi Thiên Chúa ký kết giao ước với toàn thể nhân loại. Sâu sắc hơn nữa, hình ảnh lễ cưới nhắc lại giao ước của Đấng Mêsia với Dân Người (x. Hs 2,16-25).
Đang giữa tiệc cưới thì hết rượu...
* Các đối thoại (4-8)
(1) Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu
Thân mẫu Người nói: "Họ hết rượu rồi" (3). Có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó. Chỉ có điều là bản văn không đủ rõ để có thể kết luận rằng Đức Maria đã xin một phép lạ (x. Ga 4,47; 11,3.21-22). Nhưng phải trợ giúp thế nào thì bà cũng không rõ. Bà không xin rõ ràng một phép lạ. Có lẽ bà có biết sứ mạng thiên sai của Con mình; nhưng bà có thể chờ đợi phép lạ như chuyện hết sức tự nhiên chăng? Vả lại, hẳn là quá đáng nếu Đức Maria dám xin một phép lạ, lại là phép lạ đầu tiên, để chỉ kéo dài một lễ hội trong làng? Có lẽ ở đây, với tấm lòng vừa đầy sự chú tâm ân cần vừa đầy cảm thương của người phụ nữ, Đức Maria đã kêu đến Đức Giêsu, mà mơ hồ hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ làm "một điều gì đó", rằng Người sẽ can thiệp cách nào đó, mà Mẹ cũng chẳng biết thế nào cả.
Bằng câu nói "Chuyện đó can gì đến bà và con?" (4), Đức Giêsu từ chối không làm "phép lạ" mà Người gán cho Thân mẫu là có ý xin. Nhưng Đức Giêsu lại liên kết điều Thân mẫu xin (cho có rượu) với thuật ngữ "Giờ" khiến độc giả ngờ ngợ là ở đây có những biểu tượng.
"Giờ" của Đức Giêsu là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh, là khoảnh khắc tối hậu trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra; còn rượu, theo truyền thống Do Thái giáo và các Giáo Phụ (vd: thánh Âutinh), tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến "Giờ" Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). Thân mẫu Người nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất (như chẳng hạn, Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thân mẫu nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đó là điểm khác biêt giữa Đức Giêsu và Thân mẫu Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất. Đây là một đặc điểm của lời Đức Giêsu rao giảng, mà TM IV minh họa rõ ràng (Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thật ra, tác giả không nói rõ ràng ý nghĩa của "rượu" (x. ngược lại Ga 2,21; 7,39), nhưng ngài có gợi ý để ta coi "rượu" là biểu tượng của Lời Đức Kitô, của Mạc khải, của Luật mới mà Đức Giêsu mang lại, của Tin Mừng của Người.
Đây không phải là một cách giải thích mới. Nhiều Giáo Phụ đã coi "nước" trong các chum ở Cana là hình ảnh của Lề Luật và các Ngôn sứ, được Đức Giêsu biến đổi bằng Tin Mừng của Người. Thánh Âutinh đã viết: "Đức Kitô đã giữ rượu tốt nhất lại cho đến bây giờ, điều ấy có nghĩa là Tin Mừng của Người". Trong số các nhà chú giải hiện đại, Bultmann khẳng định: "Rượu không liên hệ tới một ơn nào của Đức Kitô nói riêng, nhưng đúng hơn tới ơn là chính Đức Giêsu, trong toàn vẹn bản thân của Người, tới Đức Giêsu trong tư cách là Đấng mạc khải...".
Trong thực tế, Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta nhiều ánh sáng.
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Ga (1,19–2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với đỉnh điểm là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào "ngày thứ ba".
"Ngày thứ ba" của Cana tương ứng hoàn toàn với "ngày thứ ba"của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào "ngày thứ ba", thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào "ngày thứ ba"; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người. Động từ "giữ" ("giữ rượu") cũng là động từ tiêu biểu của truyền thống Ga khi nói về Lời – Điều răn của Đức Giêsu. Đàng khác, các chum đựng nước thanh tẩy theo tập tục Do Thái tượng trưng Luật Môsê bất toàn (chỉ có sáu chum), giờ đây đựng rượu tuyệt hảo, có thể giải thích đó là Tin Mừng, là Lời của Đức Kitô: Người "thanh tẩy" con người bằng Lời Sự Thật của Người. Đức Giêsu cho thấy Luật của Người có sự hoàn hảo khi bảo tôi tớ đổ các chum "đầy tới miệng" (c. 7).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là "ngon (tốt)" (HL. kalœn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassœ).
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại "cho đến mãi bây giờ" (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ "cho đến bây giờ" (HL. [h]eœs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô xuất hiện.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
(2) Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Dù bị Đức Giêsu từ chối, dù không hiểu các ý định của Con, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (c. 5b). Câu này khiến ta nghĩ đến lời của Pharaô: "Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo" (St 41,55). Chúng ta còn nghĩ đến các câu nói của các vị trung gian trong Cựu Ước nói lên lập trường của mình để mời gọi toàn dân chọn Đức Chúa: Tùy hoàn cảnh, vị trung gian ấy có thể là một vị ngôn sứ (Er 19,3-8; 24,3-8 [Môsê]; Gr 42-43,4 [Giêrêmia]), một vị vua (2 V 23,1-3 [Giôsigiahu]; 2 Sb 15,9-15 [Axa]), một thủ lãnh (Gs 1; 24,1-28 [Giôsuê]; Nkm 5,1-13 [Nơkhêmia]; 1 Mcb 13,1-9 [Simôn]), một tư tế (Er 10,10-12 [Étra]), một thiên thần (Lc 1,26-28 [Gabriel]). Vị này đóng vai trò sứ giả giữa Đức Chúa và các anh em mình (Dnl 5,5). Vị này mời gọi chọn lựa, nhưng bắt đầu bằng việc nhận lấy cho mình những yêu cầu của Đấng mà Người đại diện, để làm gương (x. Gs 24,15; Nkm 5,10). Do bản văn Cana gần với bản văn Sinai, chúng ta thấy Thân Mẫu Đức Giêsu có vai trò như Môsê (so sánh Ga 1,3-5 với Dnl 5,5), để rồi tại Sinai, ân ban Lề Luật đã được trao tặng sau khi Dân đã tuyên xưng đức tin; và tại Cana, ân ban rượu mới (biểu tượng của Luật mới được Đức Giêsu mang đến) đã được báo trước và tạo cơ hội cho xảy ra nhờ đức tin của Đức Maria được thông truyền cho các gia nhân.
Bản văn có một chỗ cắt ngang sau lời khuyên của Đức Maria ("Người bảo gì, các anh cứ làm theo"), để tháp vào một đoạn mô tả giúp hiểu những gì xảy ra sau đó: "Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước" (c. 6). Đoạn văn này cung cấp cho độc giả hai thông tin: a) khối lượng nước khá lớn; b) nghi thức thanh tẩy của người Do Thái. Với hai thông tin này, độc giả sẵn sàng để hiểu khá hơn những gì sẽ xảy đến.
(3) Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Đức Giêsu đã bảo những người hầu bàn hai câu: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi" và: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc" (c. 7). Các gia nhân không nói một lời, họ vâng lời thật chính xác, họ "giữ" đúng các lời Đức Giêsu truyền. Trước tiên, họ "làm đầy", đưa đến mức hoàn hảo, những gì còn vơi, những gì chưa hoàn hảo, trong truyền thống cũ. Kế đó, họ múc nước từ những chum đá (tượng trưng Luật cũ bất toàn) đưa cho ông quản tiệc để được chứng thực (nước đã hóa thành rượu hảo hạng). Đấy chính là dấu lạ.
* Phần tường thuật (9-11)
Khi nếm nước đã biến thành rượu, "người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (c. 9c)", vì ông khơng "làm" các lời Đức Giêsu truyền, ông không "giữ" lời Người. Nhưng "còn gia nhân đã múc nước thì biết" (c. 9d), bởi vì họ đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9). Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa: "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (14,21; x. 14,23; 12,26).
"Người quản tiệc mới gọi tân lang lại và nói..." (cc. 9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại "cho đến mãi bây giờ". Trong TM IV (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm "bạn của tân lang" (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. "được sai đi trước": c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay, Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30). Xem thêm Kh 19,7-8; 21,2.
Và tác giả kết luận: "Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này" (c. 11a): Rượu mới ở Cana không chỉ là "dấu lạ đầu tiên", mà cũng còn là "điển hình", "nguyên mẫu" (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm "bày tỏ" vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của "ngày thứ ba", của "Giờ của Đức Giêsu", nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người. "Các môn đệ đã tin vào Người" (c. 11c), nghĩa là gắn bó với Người ấy, trong khi chờ đợi một ngày nào đó sẽ tin "vào danh Người", nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là "Con Một Thiên Chúa".
"Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít ngày" (c. 12). Câu này là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] đưa sang đoạn sau.
+ Kết luận
Được mời đến Cana dự tiệc cưới, Đức Giêsu đã đến trong tư cách người bạn, có các môn đệ cùng đi theo. Thân mẫu Người cũng được mời dự tiệc. Tại đây, Người đã thực hiện "dấu lạ đầu tiên": biến nước thành rượu ngon để cứu chữa một đám cưới. Đối với tác giả Gioan, người đã viết trong Lời Tựa của Tin Mừng: "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời" (Ga 1,1), thì "khởi đầu các dấu lạ" này, nghĩa là các việc kỳ diệu có chức năng chứng thực cho tư cách Mêsia của Người, chính là cách tỏ bày trong thời gian vinh quang vĩnh cửu của Người. Tác giả ghi lại "dấu lạ" này để chúng ta tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để chúng ta tin chúng ta có sự sống đời đời nhờ danh Người (x. Ga 20,30-31).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Rõ ràng là dấu chỉ tiệc cưới, nếu một đàng phong phú ý nghĩa, thì đàng khác cũng rất dị nghĩa. Tiệc cưới, dấu chỉ tự nhiên của niềm vui và niềm hân hoan, bị đe dọa bởi nỗi buồn do hết rượu. Giao ước giữa người nam và người nữ tự nó rất mỏng giòn, và cũng như mọi thực tại dưới ánh mặt trời, nó bị đe dọa bởi bạo chúa khắc nghiệt là sự chết. Tiệc cưới vẫn là một biểu tượng tích cực: nó gợi tới tình yêu, sự chung thủy, sự phong nhiêu, sự sống. Nhưng nó cũng bị đe dọa bởi nỗi buồn, sự thất trung, sự đau khổ. Bản văn Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
2. Rượu là dấu chỉ của niềm vui của Tin Mừng, của tình yêu, của Thánh Thần, của sinh lực mới tuôn trào ra từ sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui sẽ đưa lễ cưới khỏi nỗi buồn, khỏi sự chán chường do Lề Luật. Và rượu vừa chan hòa vừa hảo hạng. Đời Kitô hữu không bao giờ thiếu rượu là phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, có ai trong chúng ta dám nghĩ rằng mình đã sống được ngang tầm với phúc lành của Thiên Chúa? Ai dám nói rằng tính ích kỷ không bao giờ lấn lướt tình yêu nơi mình? Ai lại không bị thương tích ngày qua ngày do tội lỗi? Do đó, sự trung thành là một ơn ta phải hết lòng cầu xin. Chính ân huệ dồi dào Thiên Chúa ban giúp ta thắng vượt nỗi lo sợ về các giới hạn của đời sống chúng ta. Chúng ta bị dính cứng vào mặt đất, dễ mệt nhọc, bị đủ thứ sự dữ khống chế, chúng ta mỏng giòn và dễ bị tổn thương, nhưng niềm tin vào Chúa sẽ chiến thắng mọi sự dữ và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
3. Có thể nói lời Đức Maria nói với gia nhân ở Cana là "di chúc thiêng liêng của Mẹ" (A. Serra), bởi vì đó là những lời nói cuối cùng của Mẹ được các tác giả Tin Mừng ghi lại. Đức Maria sẽ không nói nữa, nhưng Mẹ đã nói được điều chính yếu. Mẹ đâu có bổn phận mở cửa sổ khi Đức Kitô có vẻ muốn đóng các cửa ra vào! Trong tư cách là "Mẹ" của Hội Thánh, Mẹ cầu nguyện và chuyển cầu để con cái Mẹ thường xuyên mở lòng ra với các lời của Chúa Giêsu, những lời vừa nặng ý nghĩa vừa có sức giải phóng. Đấy là "những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Hôm nay, chúng ta là những gia nhân của các đám cưới, chúng ta có khôn ngoan đủ để đón nhận lời Mẹ đề nghị chăng?
4. Cha M. Thurian (+1996) đã viết: "Đến cuối bài tường thuật, Đức Maria và các môn đệ làm thành cộng đoàn thiên sai, hợp nhất trong niềm tin vào Con Thiên Chúa đến biểu lộ vinh quang của Người; đó chính là nòng cốt của Giáo Hội đang vây quanh Đức Chúa của mình, mà lắng nghe Lời Người và thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Đức Maria hiện diện với cộng đoàn Giáo Hội này và ta có thể tưởng tượng ra Đức Kitô đang nhìn nhóm vây quanh mình mà nói: 'Đây là Mẹ tôi và đây là anh em tôi; bất cứ ai thực hiện ý muốn của Cha tôi trên trời, thì người ấy là một người anh em, một người chị em, và một người mẹ đối với tôi' (x. Mt 12,49 và các bản văn song song)".
Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho con TN 2-C134 Dalat
Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho con người. Do đó, nơi đâu có Chúa hiện diện nơi đó có niềm vui đích thực. Hôm nay, Tin Mừng của thánh Gioan tường thuật việc Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các Tông đồ có mặt trong đám cưới ở Cana để nói lên tình cảm, và đặc biệt đem lại niềm vui cho gia đình nhà đám và chú rể cô dâu. Cũng chính tại đám tiệc cưới, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước lã hóa thành rượu ngon, đem lại hạnh phúc, đem lại vinh dự cho gia đình nhà đám khi nửa tiệc đã hết rượu…
Cái kỳ diệu của bữa tiệc cưới là sự lo lắng của nhà đám khi khách đang vui, đang hưng phấn thì Mẹ Maria đã nhạy cảm nhận ra nhà đám đã hết rượu. Đám tiệc, đặc biệt đam cưới mà hết rượu thì rất phiền bởi vì chủ tiệc và cả nhà đám sẽ mất mặt với quan khách. Mẹ Maria đã thấy trước điều đó. Với tấm lòng nhân hậu của người mẹ, với tình thương dạt dào Mẹ Maria đã gợi ý cho Chúa Giêsu, Con của Mẹ là nhà đám đã hết rượu rồi. Chúa Giêsu đã trả lời với Mẹ:” Giờ của tôi chưa đến “. Thực tế, khi trả lời với Mẹ như thế, Chúa Giêsu không có ý khước từ, nhưng Chúa muốn cho mọi người hay rằng Giờ của Ngài được tôn vinh chưa tới. Tuy nhiên, Mẹ Maria đã hiểu uy quyền của Con Mẹ và Mẹ cũng hiểu Giờ Chúa Giêsu tỏ quyền năng đã đến. Nên, Mẹ đã dặn gia nhân:” Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo “.Với lời xin của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Đó là sự diệu kỳ của lời xin của Mẹ.Mẹ xin thì Con làm và lời xin của Mẹ đã được Chúa thực hiện cách mau chóng. Chúa Giêsu hiện diện trong tiệc cưới để nói lên Thiên Chúa luôn gần gũi với con người, với loài người. Ngài làm cho nước hóa thành rượu ngon để nói lên quyền năng tuyệt đối của Ngài. Xưa khi Chúa tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Ngài đã làm mọi sự từ hư vô mà có. Nay, làm cho nước hóa nên rượu ngon, Chúa đã biến nước lã trở nên rượu hảo hạng.Chúa dự tiệc cưới tại làng Cana để loan báo tiệc Nước Trời mà Người mời gọi nhân loại tới dự tiệc Nước Trời với Ngài trong thời sau hết,
Vâng,bởi vì nhiều khi chúng ta quá bon chen, quá ham mê tìm kiếm của cải vật chất, tìm kiếm tiền bạc, của cải và những danh vọng phù phiếm ở trần gian mà quên đi phải tìm kiếm của cải vĩnh viễn. Tiệc cưới tại làng Cana, có sự tham gia của Mẹ Maria và các tông đồ nói lên rằng Chúa luôn muốn qui tụ mọi người lại trong bàn tiệc Nước Trời miễn con người biết mở lòng ra để đón nhận Nước Chúa. Chúa hiện diện nơi tiệc cưới Cana để chứng tỏ Ngài luôn yêu thương, gần gũi với con người, Ngài đem niềm vui và hạnh phúc đến cho con người bây giờ và mãi mãi.
Qua tiệc cưới Cana, Chúa muốn ám chỉ tình thương của Chúa đến cho những ai sống trong bậc vợ chồng. Chúa thánh hóa đời sống vợ chồng vì chính Chúa thiết lập Bí tích Hôn phối. Rượu nồng là hương vị của tình yêu. Đời sống vợ chồng luôn phải trở nên men muối và sự khiêm nhường của đời sống gia đình sẽ là ánh sáng, là nam châm thu hút mọi người. Nơi đâu có Chúa, nơi đó có niềm vui, có hạnh phúc, có hòa bình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con luôn hạnh phúc, trào dâng niềm vui vì có Chúa ở với chúng con. Xin cho chúng con xác tín sâu xa rằng Chúa hứa với chúng con là sẽ ở với chúng con mọi ngày cho tới tận thế. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ai đã phát hiện ra nhà đám hết rượu ? 2.Dân Do Thái ăn đám cưới trong bao nhiêu ngày ? 3.Cana thuộc xứ nào ? Nước nào ? 4.Mẹ đã nói với gia nhân điều gì ? 5.Chúa đã làm phép lạ cho nước lã hóa ra gì ? 6.Có bao nhiêu chum ? Ước tính bao nhiêu lít ?
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, vì trong TN 2-C135
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, vì trong cả ba lễ này, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Nếu Chúa Nhật lễ Hiển linh, Đức Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại qua Ba Đạo Sĩ nơi ngôi sao lạ, để loan báo ơn cứu độ phổ quát cho muôn dân; rồi Chúa Nhật lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, Thiên Chúa Cha giới thiệu Ngài là Con Yêu Dấu và được Chúa Thánh Thần tấn phong, đây là một cuộc mạc khải về thiên tính và sứ vụ nơi Đức Giêsu, thì đến Chúa Nhật này, Đức Giêsu tỏ vinh quang của Ngài cho mọi người dự tiệc cưới qua dấu lạ đầu tiên, đó là: phép lạ nước lã thành rượu ngon.
Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Tiệc cưới Cana
Tin Mừng hôm nay cho biết, tại làng Cana, miền Galilê có một đám cưới của đôi bạn trẻ. Trong số những khách dự tiệc hôm ấy, có sự hiện diện của Mẹ Maria, Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên. Đây thật là một hồng phúc cho gia chủ và nhất là đôi tân hôn!
Theo văn hóa, phong tục của người Dothái thì nghi lễ thường được được bắt đầu vào lúc mặt trời đã xế bóng. Khi ấy, đôi tân hôn được đưa về nhà mới, nơi họ sẽ ở và sinh sống trong tư cách là vợ chồng. Đến giờ đã định, một cuộc rước linh đình bắt đầu diễn ra. Họ được đưa đi qua các con đường dưới ánh sáng của các ngọn đuốc và có lọng che đầu.
Khi đã về đến nhà, họ ở tại nhà mới của mình và bắt đầu tiếp khách. Thời gian kéo dài khoảng một tuần lễ. Đầu họ đội vương niệm và mặc y phục của lễ cưới. Tuần lễ này có thể nói là tuần lễ vui mừng và hạnh phúc, vì đây là dịp duy nhất của đời người, họ được mọi người kính nể, trọng vọng và trân quý cách đặc biệt.
Trong bầu khí hân hoan đó, người ta không ngại gì tốn kém, và ai nấy ăn uống thoải mái, nào là chén chú chén anh, chén tạc chén thù, chén thương chén nhớ...
Như vậy, rượu dùng để đãi khách là điều hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đám cưới hôm nay niềm vui không được trọn vẹn, vì tiệc đang dang dở thì hết rượu. Đây là điều cấm kỵ trong văn hóa của người Dothái và nỗi tủi nhục ập đến cho gia chủ cũng như đôi tân hôn.
Nhưng, nhờ sự tinh tế, nhạy bén, thấu hiểu và cảm thông của Mẹ Maria, nên Mẹ đã không nỡ để cho gia chủ phải bẽ mặt hổ ngươi, vì thế, Mẹ đã cậy nhờ Đức Giêsu để Ngài cứu nguy cho họ, qua đó, giữ thể diện cho gia chủ!
Khi được Mẹ thông báo, Đức Giêsu cũng một tâm tình như Mẹ mình, nên Ngài đã làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon.
Tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người
Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để mạc khải cho nhân loại biết: giữa Thiên Chúa và dân Người cũng được ví như một tiệc cưới.
Hình ảnh này được ngôn sứ Isaia nhắc đến trong bài đọc I hôm nay:
Dân Israel vốn là một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương, nhưng sự bội ước, bất trung đã làm cho họ phải chịu cảnh nô lệ nơi đất khách quê người, bị chủ nô coi thường, khinh bỉ. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa thì lớn lao hơn cả tội lỗi của con người, nên Người đã cứu dân ra khỏi kiếp lưu đày, thoát khỏi cảnh nô lệ, để từ nay, không còn bị nghe thấy dân ngoại sỉ nhục là: “Đồ bị ruồng bỏ” và xứ sở không còn mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Từ nay, dân Israel thoát ra khỏi lời nguyền khinh miệt, được trở thành một dân tự do trong tiếng vui cười hân hoan. Thiên Chúa và dân Israel được ví như: “... trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo nên ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui của chú rể, ngươi cũng là niềm vui của Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62,5). Như vậy, trong tư cách là hôn phu, Thiên Chúa hằng ân cần chăm sóc, kiêm tâm, nhẫn nại và hết mực yêu thương dân Israel như hôn thê của mình.
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu Kitô được ví như vị hôn phu của Giáo Hội (x. Ep 5,22-23). Hình ảnh này đã được sách Khải Huyền nhắc tới khi đề cập đến tiệc cưới giữa Con Chiên (Đức Kitô) với Giêrusalem trên trời (Giáo Hội) (x. Kh 21,9).
Thật vậy, Đức Kitô đã chọn Giáo Hội làm hôn thê của mình, nên Ngài đã hiến dâng trọn vẹn, ngay cả cái chết trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu Ngài dành cho Giáo Hội.
Sự gắn bó đầy yêu thương này một lần nữa được sáng tỏ trong bài Tin Mừng hôm nay: vì yêu thương, cảm thông và liên đới, nên Đức Giêsu đã làm phép lạ nước lã hóa rượu ngon. Qua sự kiện này, một mặt Ngài bày tỏ quyền năng và vinh quang của mình cho các môn đệ thấy mà tin, mặt khác, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để loan báo một triều đại mới, triều đại của Đấng Thiên Sai, đến để ban phát ân sủng nhằm thay thế cho thời đại cũ vì nó không còn phù hợp.
Như vậy, chúng ta thấy: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy biết xây dựng mối tương quan gia đình trên nền tảng tình yêu.
Vợ chồng yêu thương nhau, cha mẹ yêu thương con cái như khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi; như hình ảnh khăng khít giữa Thiên Chúa và dân Israel, như Đức Kitô hiến mình vì Giáo Hội. Đây là tiêu chuẩn, mẫu số cho mọi người Kitô hữu noi theo.
Tuy nhiên, muốn sống được điều đó, chúng ta cần:
Trước tiên, loại bỏ lối sống ích kỷ, vụ lợi, thực dụng để thay thế vào đó bằng thứ rượu tình thương, độ lượng và hy sinh, liên đới, cảm thông và chia sẻ.
Thứ đến, mọi người luôn biết nghe và thi hành Lời Chúa như những gia nhân trong Tin Mừng hôm nay. Thiên Chúa phải là trung tâm của mọi sinh hoạt trong gia đình. Nếu không có Chúa, niềm vui của chúng ta sẽ hão huyền, phù phiếm, mau qua, chóng hết và không trọn vẹn.
Cuối cùng, mọi nỗi khó khăn, vất vả, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, để nhờ Mẹ, chúng ta đến với Chúa là nguồn cội bình an, là đích điểm hạnh phúc, Ngài sẽ ban cho chúng ta được no đủ và hoan lạc, như xưa Ngài đã nhận lời Đức Mẹ mà cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Cana.
Lạy Chúa Giêsu, đời sống của nhiều gia đình Công Giáo hôm nay bị thiếu rượu yêu thương, liên đới và trách nhiệm. Vì thế, gia đình không còn là nơi tiếp nhận và chia sẻ tình yêu.
Xin cho các gia đình của chúng con biết chọn Chúa làm trung tâm của cuộc sống và cho mỗi người luôn được Lời Chúa hướng dẫn, ngõ hầu chúng con được bình an, niềm vui và hạnh phúc. Amen.
Ngay từ đầu sách Tin Mừng của mình, Thánh Gioan đã tường thuật lại câu chuyện tiệc cưới ở Cana TN 2-C136 Ephata
Ngay từ đầu sách Tin Mừng của mình, Thánh Gioan đã tường thuật lại câu chuyện tiệc cưới ở Cana, trong đó có sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Maria, Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên ( Ga 2, 1-11 ). Đức Giêsu không chỉ tham dự buổi lễ cưới, nhưng còn “cứu nguy cho buổi lễ ấy” bằng một phép lạ hóa nước thành rượu ngon ! Như thế, dấu lạ đầu tiên trong chuỗi những dấu lạ Ngài thực thi để bày tỏ vinh quang, nằm trong bối cảnh của một tiệc cưới, và điều này cho thấy một sự đồng cảm lớn lao Ngài dành cho một gia đình vừa mới khai sinh, nhờ sự thúc dục và quan tâm đầy nét từ mẫu của Mẹ Maria.
Điều này giúp chúng ta nhớ đến sách Sáng Thế, khi Thiên Chúa hoàn thành công trình tạo dựng và các tuyệt tác của Ngài; tuyệt tác đó là chính người nam và người nữ. Nơi đây, Đức Giêsu bắt đầu các phép lạ của mình cũng bằng một tuyệt tác, trong một cuộc hôn nhân, một tiệc cưới giữa người nam và người nữ. Như thế, Đức Giêsu dạy bảo chúng ta rằng tuyệt tác của xã hội là gia đình: người nam và người nữ yêu thương nhau ! Đây chính là tuyệt tác ! Từ lúc diễn ra tiệc cưới ở Cana cho đến nay, đã có rất nhiều thứ thay đổi, nhưng“dấu chỉ” này của Đức Kitô vẫn mãi là một thông điệp có giá trị.
Ngày nay, dường như chẳng dễ để nói về hôn nhân như là một ngày vui, mà người ta kỷ niệm vào những chặng đường khác nhau trong cuộc đời của hai người. Có một sự thật là số lượng người kết hôn với nhau đã giảm đi. Đây là một thực tế: giới trẻ không còn muốn kết hôn nữa. Thay vào đó, tại nhiều nước, con số vợ chồng ly dị gia tăng, và số con cái người ta có trong gia đình thì giảm xuống. Những khó khăn vẫn còn đó, có thể giữa hai người, có thể trong gia đình, đã khiến họ phá vỡ mối dây hôn phối thường xuyên và nhanh chóng hơn, và chính con cái là những người đầu tiên gánh chịu hậu quả. Chúng ta hãy nghĩ đến những nạn nhân đầu tiên, và vô cùng quan trọng đã phải chịu đựng hậu quả nhiều hơn ai hết trong vụ ly dị, đó chính là con cái. Tôi tin rằng chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ về việc tại sao nhiều bạn trẻ không cảm thấy muốn kết hôn. Có phải do lối nghĩ về một nền văn hóa tạm bợ, tất cả đều tạm bợ, chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn ?
Chứng tá thuyết phục nhất của phúc lành hôn nhân Kitô giáo chính là đời sống tốt đẹp của cặp vợ chồng Kitô giáo và của gia đình. Không hề có một cách thức nào tốt hơn để nói về nét đẹp của bí tích! Hôn nhân được Thiên Chúa thánh hóa sẽ giúp bảo vệ mối dây liên kết giữa người nam và người nữ, là loài được Thiên Chúa chúc lành từ khi tạo dựng trời đất; và đây chính là nguồn mạch của bình an, thiện hảo dành cho đời sống lứa đôi và gia đình. Tin Mừng gia đình, Tin Mừng loan báo chính bí tích này chống lại nền văn hóa ly dị…
Anh chị em thân mến, chúng ta đừng sợ mời Đức Giêsu đến dự tiệc cưới! Đừng sợ mời Giêsu đến nhà chúng ta, vì Người luôn ở với chúng ta và che chở gia đình chúng ta. Mẹ Maria, Mẹ của Người cũng thế ! Khi người Kitô hữu kết hôn “trong Chúa”, họ sẽ được biến đổi trong một dấu chỉ hữu hiệu của tình yêu Thiên Chúa. Người Kitô hữu không kết hôn chỉ cho mình, nhưng họ kết hôn trong Chúa vì lợi ích của tất cả cộng đồng và toàn thể xã hội. ( Pr. Lê Hoàng Nam, SJ. dịch, Đức Thánh Cha Phanxicô: Đừng sợ mời Đức Giêsu đến dự tiệc cưới, dongten.net ).
Hiệp ý cùng Đức Giáo Hoàng Phanxicô, kính mong tất cả những đôi tân hôn đều trân trọng kính mời Đức Giêsu đền dự tiêc cưới, cùng với Mẹ Maria và các Tông Đồ, để được quan tâm, giúp đỡ, khỏi lâm vào nỗi khổ tâm “hết rượu.”
Trong hôn nhân, không thiếu xảy ra những hoàn cảnh “hết rượu,” tình yêu phai nhạt như nước ốc, không còn nồng ấm như thuở ban đầu. Gia đình trở nên âm u, lạnh lẽo, không còn tiếng nói huyên thuyên, giọng cười dòn dã, chỉ còn tiếng bấc tiếng chì nặng nhẹ, không còn ánh mắt long lanh dịu dàng, thắm thiết, chỉ còn đôi mắt lườm nguýt, trợn trừng, doạ dẫm, dữ dằn, xa lạ. Khi tình yêu vỗ cánh bay đi, lửa hận tình thù kéo đến, cạn tình ráo máng.
Nhân dấu lạ hoá nước thành rượu, Đức Giêsu muốn nhắn nhủ đến tất cả những đôi hôn phối, làm thế nào xây dựng gia đình hạnh phúc luôn bền vững, trọn hảo.
Tình Yêu
Nếu hôn nhân chỉ dựa trên tình yêu vị kỷ, sắc dục, xác thịt, hưởng thụ, ( Eros ) hay tình yêu bằng hữu ( Philia ) chiếu lệ, hời hợt, đãi bôi, hoặc tình yêu gia đình huyết tộc, cha mẹ, con cái, anh chị em, ( Storge ) thì cũng sẽ dần mai mọt, nhạt nhẽo theo năm tháng. Còn nếu hôn nhân đặt trên nền tảng tình yêu xả kỷ vị tha, dâng hiến, hy sinh, cho đi vô điều kiện, ( Agapé ) theo Đức Giêsu, thì mới tồn tại viên mãn. “Không có tình yêu nào cao cảhơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu của minh” ( Ga 15, 13 ).
Chạy theo tình yêu vị kỷ, con người sẽ không bao giờ thoả mãn, vì sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, ảo ảnh, phù vân, không bao giờ trường tồn, cũng chẳng bao giờ đáp ứng đủ nhu cầu đòi hỏi vô chừng. Chỉ có tình yêu xả kỷ vị tha mới đem lại bình an và hạnh phúc, vì Chúa luôn bù đắp gấp trăm, gấp vạn lần cho đi. “Hãy cho đi, và các ngươi sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc, đầy tràn tóe ra mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy" ( Lc 6, 38 ).
“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương một một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: Tình yêu Chúa đổ vào quả tim con" ( Đường Hy Vọng, số 178 ).
Vâng phục
"Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo." Lời nhắc nhủ của Mẹ Maria chan chứa yêu thương dành cho những người giúp việc phục vụ, đồng thời cũng dành cho tất cả người Kitô hữu, nhất là dành cho các đôi hôn nhân muốn được bình an và hạnh phúc. Bởi chưng “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" ( Tv 119, 105 ). Nghe và thực hành Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, thì tâm hồn sẽ được cảm hoá và biến đổi tốt lành hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, gia đạo bền vững, vợ chồng quan tâm, kính trọng nhau, con cái hiếu đễ, ngoan ngoãn, yên vui, xum vầy.
Đức Giêsu truyền lệnh: "Hãy đổ nước đầy các chum." Họ đổ đầy tới miệng. Không băn khoăn, do dự, nghi ngại, thắc mắc, những người giúp việc mau mắn, răm rắp thi hành, theo như lời Mẹ Maria đã ân cần dặn dò. Lập tức dấu lạ xảy ra. Nước lã bỗng dung biến thành rượu ngon ! Vâng theo Thánh Ý Chúa, kết quả hoàn mỹ, ngoài sức tưởng tượng, không ai có thể ngờ trước được !
Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô căn dặn vợ chồng phải vâng phục, yêu thương nhau với lòng kính mến Chúa. Đó chính là Thánh Ý Chúa, là bổn phận làm chồng làm vợ, là nghĩa vụ giáo dục con cái và trách nhiệm với Thiên Chúa và xã hội.
“Anh em hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Ðức Kitô. Người vợ hãy phục tùng chồng mình, như đối với Chúa: vì chồng là đầu người vợ, như Ðức Kitô là đầu Hội Thánh: chính Người là Ðấng Cứu Chuộc thân thể mình. Và như Hội Thánh phục tùng Ðức Kitô thể nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy… Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ mình như chính thân mình. Ai yêu thương vợ mình, là yêu thương chính mình. Vì không ai ghét thân xác mình bao giờ, nhưng nuôi dưỡng và nâng niu nó, như Ðức Kitô đối với Hội Thánh: vì chúng ta là chi thể của thân xác Người, do xương thịt Người" ( Ep 5, 21-24; 28-30).
Hiệp nhất
Có tình yêu hiến dâng và vâng phục Lời Chúa, hôn nhân mới được Chúa chúc phúc và hiệp nhất, như nước lã tẻ nhạt, tầm thường, vô vị, được Chúa đồng nhất biến thành mỹ tửu đậm đà, độc đáo, thơm ngon. "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc !" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết.”
Chỉ những ai nghiêm túc lắng nghe và thực hành Lời Chúa, mới có thể cảm nghiệm được dấu lạ cả thể đã biến đổi, canh tân và thánh hoá cuộc đời mình lẫn gia đình. Đồng thời vinh quang của Đức Giêsu được dịp biểu hiện công khai với tha nhân.
Hơn nữa, đó là những điều kiện tiên quyết để hiệp nhất gia đình một cách mật thiết và sung mãn nhất. “Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với Mẹ Người, anh em và môn đệ Người.” Khiêm nhu, vâng phục, yêu thương vị tha đã kết hiệp chặt chẽ các thành viên trong gia đình, cũng như đã liên kết Thánh Gia và Gia Đình Mục Vụ mới, gồm Đức Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ, gắn bó, hiệp nhất với nhau làm một, khi cùng đồng tâm xuống Capharnaum rao giảng.
Đây cũng là hình ảnh hiệp nhất giữa Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền. “Vì người được Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi, sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa, ngươi thờ” ( Is 62, 4-5 ).
“Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương và hưởng thụ. Nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng: Phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt. Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tang đạo đức chưa được xử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui" ( Đường Hy Vọng, số 464 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con tình yêu xả kỷ, sẵn sàng cho đi, hiến dâng tất cả cho Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con biết vâng theo Thánh Ý Chúa, qua Lời Chúa và giáo huấn Hội Thánh, để chúng con được bình an, hạnh phúc và hiệp nhất trong gia đình, cộng đoàn, Giáo Xứ và Giáo Hội.
Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ đoái thương những gia đình, những đôi hôn nhân đang còn lạc đường, đắm chìm trong những phù phiếm hưởng thụ, vị kỷ. Khấn xin Mẹ thức tỉnh chúng con đừng sa ngã vào văn hoá tiêu thụ, nô lệ cho tiền tài, của cải tiện nghi và tà thần. Kính xin mời Mẹ và Con Mẹ đến dự đám cưới chúng con và ở cùng gia đình chúng con luôn mãi. Amen.
Tế nhị là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Đó là khả năng nhận thức tinh tế một tình huống và TN 2-C137
Tế nhị là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Đó là khả năng nhận thức tinh tế một tình huống và nói hoặc làm điều thích hợp hoặc tử tế nhất. Một người tế nhị có thể cảm nhận cảm xúc của người khác và nhận biết lời nói hoặc hành động của mình tác động như thế nào đến họ. Người tế nhị luôn được yêu quý, vì họ lịch lãm, khéo léo, tinh tế, khôn ngoan, biết đối nhân xử thế khi giao tiếp.
Tế nhị là cử chỉ cao đẹp, là sự thận trọng, là loại ngôn-ngữ-không-lời mà ai cũng hiểu được, không cần người khác thông dịch hoặc phiên dịch. Thánh Phaolô khuyên: “Hãy thận trọng trong mọi sự” ( 2Tm 4, 5 ). Và ông Benjamin Franklin có so sánh: “Thiếu thận trọng còn tai hại hơn thiếu hiểu biết”. Đáng sợ quá !
Trình thuật 2V 4, 8-37 là một câu chuyện dài nói về cách giao tiếp tế nhị của người phụ nữ Sunêm và ông Êlisa ( Tranh vẽ Ngôn Sứ Êlisa ).
Một hôm, ông Êlisa đi qua Sunêm, nơi có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông ! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó”. Quả thật phụ nữ này có “thiên nhãn”, có “con mắt thứ ba” rất tinh tường, hơn cả thầy tướng số, vì bà chỉ nhìn dáng người mà biết được Êlisa là thánh nhân của Thiên Chúa.
Và rồi một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông bảo tiểu đồng Giêkhadi đi gọi bà Sunêm. Nó đi gọi bà và bà đến. Ông Êlisa bảo nó nói với bà ấy đừng quá lo lắng bận rộn vì thầy trò ông, và hỏi bà: “Chúng tôi biết phải làm gì cho bà đây ? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà không ?” Bà khiêm nhường trả lời: “Tôi sống yên hàn giữa dân tôi”. Tuy vậy, ông Êlisa nói với tiểu đồng: “Nên làm gì cho bà ấy ?” Giêkhadi đáp: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già”. Ông Êlisa bảo tiểu đồng đi gọi bà ấy. Nó lại đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. Ông Êlisa nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai”. Bà tế nhị nói: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài !” Quả nhiên, sau đó bà ấy có thai, và năm sau, cũng vào độ mà ông Êlisa đã nói, bà hạ sinh một con trai. Cuộc giao tiếp thật đẹp, thận trọng và đầy tính nhân bản, vì cả đôi bên đều tỏ ra rất tế nhị.
Theo thời gian, đứa trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt, nó nói với cha: “Ôi, cái đầu con ! Cái đầu con !” Người cha bảo anh đầy tớ bồng nó về cho mẹ nó. Người tớ trai đem nó về cho bà mẹ. Đứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở trong rồi đi ra. Bà đi gọi chồng và bảo chồng sai đầy tớ với một con lừa cái đến với bà, bà sẽ chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về. Người chồng hỏi tại sao bà lại đi gặp ngài vào ngày hôm đó, vì không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sabát. Nhưng bà bảo ông cứ yên tâm.
Rồi bà cho thắng lừa và nói với anh đầy tớ đưa bà đi, chỉ dừng xe khi bà bảo. Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi Carmen. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với tiểu đồng Giêkhadi ra đón bà Sunêm, hỏi ông bà và cậu bé có được mạnh khoẻ không. Bà bình tĩnh và tế nhị trả lời: “Vâng, mạnh khoẻ cả”. Nhưng khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giêkhadi tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: “Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Đức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết”. Khi ấy, bà nói: “Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu ? Tôi đã chẳng nói là xin đừng đánh lừa tôi đó sao ?”
Ông Êlisa bảo Giêkhadi thắt lưng, cầm gậy của ông mà đi, gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại, rồi đặt gậy của ông trên mặt cậu bé. Mẹ cậu bé nói: “Có Đức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài”. Ông trỗi dậy và đi theo bà. Giêkhadi đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Êlisa và trình ông: “Cậu bé đã không thức dậy”. Khi ông Êlisa tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Sau đó, ông làm động tác “kỳ lạ” lắm: Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. Và điều kỳ diệu xảy ra !
Ông Êlisa gọi Giêkhadi và bảo đi gọi bà Sunêm. Đây là lần thứ ba nó làm theo lời ông Êlisa. Nó đi gọi bà; bà đến với ông, và ông nói: “Bà hãy đem con đi !” Bà đi vào, quỳ dưới chân ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà đem con đi và ra khỏi phòng.
Sau vụ việc này, chúng ta còn được biết thêm về vụ “nồi cháo độc” ( x. 2V 4, 38-44 ). Đúng ông Êlisa là “người của Thiên Chúa”. Nồi cháo đầy độc tố nhưng mọi người ăn lại không chết. Thật kỳ diệu !
Ngôn Sứ Isaia nói: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho” ( Is 62, 1-2 ). Không hạnh phúc nào mà vắng bóng gian khổ, không thành công nào mà không có thất bại. Vinh quang có được là nhờ dày công khổ luyện. đó là điều tất yếu.
Tất cả gian khó đã qua, tủi nhục đã hết: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay” ( Is 62, 3 ). Và từ nay, chẳng ai còn réo tên mà mỉa mai là “đồ bị ruồng bỏ” hoặc mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”, nhưng được trìu mến gọi là “ái khanh”, là “duyên thắm chỉ hồng”. Tại sao ? Vì được Đức Chúa đem lòng sủng ái và lập hôn ước. Hoàn toàn thuộc về Chúa, hạnh phúc biết bao ! Kinh Thánh so sánh: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về; như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” ( Is 62, 5 ). Đó cũng là hình bóng của chúng ta, những người đã được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc bằng Giá Bửu Huyết của Ngài.
Vì thế, chúng ta phải dành trọn cả cuộc đời mà nức tiếng xưng tụng Thiên Chúa, đồng thời còn phải mời gọi người khác cùng hợp lời tán dương. Ngày xưa, tác giả Thánh Vịnh đã không thể cầm lòng nên phải thốt lên: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn. Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là Đại Vương trổi vượt chư thần. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa !” ( Tv 95, 1-3 ).
Nói rồi thôi, hứa rồi quên. Bản chất phàm nhân là thế, và hầu như chúng ta đều có máu của dòng tộc “họ hứa”. Thiên Chúa biết điều đó nhưng Ngài vẫn tế nhị. Chính Ngài đã cảnh cáo dân xưa, và Ngài cũng đang cảnh báo đối với mỗi chúng ta ngày nay: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm. Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán” ( Tv 95, 8-10 ). Người Việt thường nói: “Ăn cây nào, rào cây nấy” hoặc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ý khuyên chúng ta phải biết ơn người khác. Tuy nhiên, tục ngữ là tục ngữ, hay vẫn thấy hay, thích vẫn thấy thích, nhưng quên thì cứ quên, làm ngơ vẫn làm ngơ. Chưa được ơn thì van xin đêm ngày, được tha rồi thì “quên” nói lời cảm ơn, như mười người phong cùi được lành mà chỉ có một người Samari biết trở lại cảm ơn Chúa. Và chúng ta cũng thường đối xử như vậy đối với Thiên Chúa đấy. Thế nhưng Ngài luôn tế nhị, Ngài làm ngơ chứ không phải Ngài không biết !
Đặc sủng tuy nhiều, nhưng chung một gốc, đó là xuất phát từ Thiên Chúa, vì ông Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” ( Ga 3, 27 ). Đó là chân lý muôn thuở, bất biến. Thánh Phaolô phân tích: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” ( 1Cr 12, 4-7 ).
Thánh Phaolô lý giải rạch ròi: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” ( 1Cr 12, 8-11 ). Tôi thế này, bạn thế kia, người khác thế nọ. Không ai giống ai. Đừng tưởng tôi “ngon” hơn người mà khoe mẽ, vênh vang tự đắc. Được ơn mà không làm vinh danh Chúa và không sinh lợi thì còn khốn hơn người khác !
Trình thuật Ga 2, 1-12 là câu chuyện về tiệc cưới tại Cana, một đoạn Kinh Thánh Tân Ước rất quen thuộc. Qua đó, chúng ta thấy được sự tế nhị của Đức Maria trước tình huống khó xử của người khác.
Đức Mẹ và Đức Giêsu cùng dự một tiệc cưới tại Cana, miền Galilê, các môn đệ cũng được mời. Tiệc vui đang lúc cao trào thì có “sự cố” ngoài dự tính của gia chủ: Hết rượu. Đức Mẹ rất tinh ý nên biết nhà đám đang khó xử vì thiếu rượu, Đức Mẹ rất tế nhị nên nói nhỏ với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Thế nhưng Đức Giêsu lại thản nhiên: Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến Mẹ và Con ? Giờ của Con chưa đến”. Mặc dù nghe Con Trai nói vậy, Đức Mẹ vẫn tin tưởng và liền đi nói với gia nhân: “Hễ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.
Tông đồ Gioan cũng là thực khách tại tiệc cưới đó nên cho biết rõ là ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Tính đồng mỗi chum chứa một trăm lít nước, vậy sáu chum là sáu trăm lít.
Đức Giêsu bảo với những người phụ giúp làm tiệc: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” Đã nghe Đức Maria dặn trước, họ liền làm theo mà không thắc mắc gì. Họ đổ nước vào các chum đầy tới miệng. Xong rồi Ngài bảo họ múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông. Người quản tiệc nếm thử thì thấy rượu hảo hạng mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết, ai nấy đều ngạc nhiên. Người quản tiệc liền gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Nói thì nói chứ chú rể cũng biết ất giáp chi đâu, chỉ cười trừ thôi. Hôm đó, chú rể hẳn là người được nhân đôi hạnh phúc.
Đó là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện khi công khai sứ vụ. Cana là ngôi làng nhỏ bé trong miền Galilê nhưng đã được nhiều người biết đến, vì Đức Giêsu đã chọn làm nơi bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Thấy dấu lạ nhãn tiền, các môn đệ đã tin vào Ngài. Lạy Thiên Chúa nhân từ và giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn tin yêu Ngài trong mọi hoàn cảnh, luôn biết tế nhị trong mọi tình huống của cuộc sống để khả dĩ phần nào minh chứng Ngài là Thiên Chúa duy nhất, chí minh và chí thiện. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhật trong lịch sử nhân loại, đó là đám cưới Alexandre TN 2-C138 Luong
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhật trong lịch sử nhân loại, đó là đám cưới Alexandre Đại Đế với Công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định lấy một người châu Á, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim, nhưng ông còn muốn biểu lộ ý chí thống nhất các dân tộc từ đông sang tây. Ông đã hy vọng được một người con nối dõi hai dòng máu đông tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu. Đám cưới được cử hành trong bảy ngày bảy đêm, nơi nơi đều có yến tiệc. Để tăng thêm long trọng, Alexandre cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế Vận Hội được khai sinh từ đó (Lẽ Sống, 1991 tr. 133)
Nhân loại từ xưa đến nay, không có tiệc mừng nào vui mừng lớn lao ăn sâu vào lòng các dân tộc bằng tiệc cưới. Tại sao vậy?
Thưa, vì tiệc cưới chúc mừng một công trình tốt đẹp nhất của loài người, một công trình của tình yêu. Tình yêu là nền tảng tác tạo sinh tồn của loài người. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, con người đã được tạo dựng và được ban cho một quà tặng làm gia nghiệp khổng lồ là cả một vũ trụ mênh mông, chất đầy muôn loài muôn vật rực rỡ muôn màu, lừng hương thơm ngát. Cũng nhờ tình yêu đậm đà trong mình, con người biểu lộ ý chí thống nhất nên một và dâng hiến cho nhau một niềm hạnh phúc dồi dào hơn bất cứ hạnh phúc nào trên trần gian này. Hạnh phúc kết hợp đó càng được bền vững dài lâu nhờ sinh thành con cái bởi chính thịt máu mình, một quà tặng tuyệt vời hơn bất cứ tặng phẩm nào khác. Đó là công trình tốt đẹp nhất mà Thiên Chúa đã thiết lập, đến nỗi nhiều lần Đức Giêsu đã ví nước trời giống như tiệc cưới Hoàng Tử.
Chính vì thế, toàn bộ gia đình thân mẫu Đức Giêsu, Đức Giêsu và các môn đệ đã đến dự tiệc cưới Cana. Cũng chính vì thế, khi thấy thiếu rượu, Đức Mẹ đã vội vã xin con mình cứu giúp, không cần phải để tới lúc quản tiệc và chàng rể kêu van.
Sáu trăm lít nước lã đầy sáu chum đá đã được biến thành rượu ngon tuyệt hảo là một quà tặng đầu tay của Chúa Con ban tặng cho đôi tân hôn, mở màn khai mạc công trình cứu thế. Cũng thế, vũ trụ phong phú được sáng tạo là quà tặng đầu tay của Chúa Cha ban cho đôi tân hôn đầu tiên của nhân loại, đã mở màn cho một cuộc sống hạnh phúc trong cảnh địa đàng. Tại sao món quà sáng tạo và cứu thế được Thiên Chúa ban tặng trước nhất cho đôi tân hôn?
Thưa tân hôn như gốc rễ của cây nhân loại. Cành lá tươi tốt xum xuê, hoa trái thơm tho, ngọt ngào là nhờ gốc rễ hút chất bổ dưỡng dồi dào. Cành lá, hoa trái đèo đẹt, héo tàn là tại gốc rễ hút những chất chua phèn, cằn cỗi. Hôn nhân hấp thụ những nguồn trần tục, dòng dõi bị ô nhiễm bệnh hoạn. Hôn nhân hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ tràn ra từ Thiên Chúa, dòng dõi tốt đẹp, hạnh phúc.
Ban đầu, Thiên Chúa đã đặt hôn nhân là yếu tố cơ bản cho việc tiếp tục phát triển và bảo tồn công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tiếc thay cho đôi vợ chồng đầu tiên đã làm hỏng quà tặng quý báu của Thiên Chúa. Các đôi kế tiếp không còn rượu ngon nữa. Cuộc sống loài người như tiệc cưới hết rượu. Mọi món đều nhạt nhẽo, ôi ỉu. Nguồn vui đã mất. Thiên Chúa đã xa vắng.
Nay tân hôn Cana, Con Thiên Chúa đã đến. Nguồn vui sống lại cho loài người. Mọi món đều đậm đà hương vị.
Không phải hương vị rượu ngon, mà là hương vị tình yêu muôn thuở của Thiên Chúa, như tiên tri Isaia đã diễn tả: “Chẳng ai còn réo tên ngươi: “Đồ chồng bỏ. Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “phận hẩm duyên ôi”. Nhưng ngươi được mệnh danh: “Ái khanh lòng ta hỡi”, và xứ sở ngươi: “cô gái có chồng, vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Người kết hôn cùng xứ sở ngươi”. Như chàng thanh niên lấy nàng trinh nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về” (Bài I). Đấng tác tạo đây chính là Con Thiên Chúa mà nhờ Người muôn vật được tạo thành (Ga. 1,3). Ngươi đây chính là Hội Thánh mà thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh ; như vậy Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy… thánh thiện, tinh tuyền” (Eph. 5, 25-27). Đức Kitô hiện diện trong tiệc cưới Cana chính là để mở màn cho một cuộc hôn nhân muôn thuở giữa Đức Giêsu và Hội Thánh. Người không chỉ tặng cho Hội Thánh thứ nước lã, mà là thứ nước chảy từ Trái Tim Người để thanh tẩy, thánh hóa Hội Thánh, không phải thứ rượu nho thơm ngon, mà chính Máu châu báu Con Thiên Chúa làm cho Hội Thánh nên thánh thiện tinh tuyền, không phải thứ tình yêu dâng hiến hạnh phúc loài người, mà là tình yêu dâng hiến hạnh phúc muôn thuở của Thiên Chúa làm cho Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy.
Hội Thánh muốn được trở nên cô dâu lộng lẫy, thì Hội Thánh phải mời Đức Mẹ đến dự cuộc sống của mình. Mẹ sẽ cầu cứu cho Hội Thánh được thứ rượu ngon mãi mãi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cầu xin Chúa ban quà tặng chan chứa niềm vui cho tiệc cưới Cana. Xin Mẹ đoái thương cầu bầu cùng Chúa cho mọi đôi hôn nhân biết đón nhận những quà tặng sáng tạo và cứu độ của Chúa để làm cho đời sống gia đình họ được ấm no hạnh phúc trong tình yêu nồng nàn và hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ chảy ra từ Thánh Tâm Chúa.
Sau khi chịu phép rửa của Thánh Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai. Ngài rao giảng TN 2-C139
Sau khi chịu phép rửa của Thánh Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai. Ngài rao giảng Tin mừng. Đi liền với lời rao giảng là các phép lạ. Bài Tin mừng hôm nay tường thuật phép lạ Ngài biến nước thành rượu ngon theo lời thỉnh cầu của Đức Mẹ. Đây là phép lạ đầu tiên của Ngài. Qua phép lạ này, chúng ta thấy được những bài học về sự quan tâm: Sự quan tâm của Đức Mẹ; sự quan tâm của Chúa Giêsu và sự quan tâm của các gia nhân.
1. Sự quan tâm của Đức Mẹ
Đi dự đám cưới để chúc mừng hạnh phúc của đôi tân hôn là chuyện bình thường trong cuộc sống. Đặc biệt khi con người có những mối liên hệ: Ruột thịt, họ hàng, bạn bè, làng xóm láng giềng với nhau. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu và Mẹ Maria đi dự tiệc cưới. Chắc chắn gia đình chủ tiệc có liên hệ gì đó với Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Thông thường, những người được mời đến dự tiệc sẽ được sắp xếp ngồi vào chỗ đã chuận bị trước và được gia chủ tiếp đón một cách chu đáo. Đức Mẹ và Chúa Giêsu là khách mời, và có lẽ là khách mời danh dự nên sẽ được sắp xếp vào chỗ ngồi đặc biệt. Nhưng tại sao Đức Mẹ lại biết chủ tiệc hết rượu? Vì Mẹ quan tâm đến gia chủ. Mẹ quan sát và thấy gia chủ bối rối. Mẹ tìm hiểu và thấy họ hết rượu. Đúng như người ta nói: Bác ái là tìm tòi. Tìm sự thiếu thốn của người khác để quan tâm, để giúp đỡ. Giúp đỡ như thế nào đây? Đức Mẹ đã nghĩ đến Chúa Giêsu. Vì Mẹ tin tưởng chỉ có Con của Mẹ mới có thể giải quyết được chuyện này. Thế là Mẹ đã mạnh dạn đặt vấn đề với Chúa Giêsu, Con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi”(x. Ga 2,3). Vai trò của Mẹ là như thế: Cầu bầu. Việc còn lại là của Chúa Giêsu. Mặc dầu, câu trả lời của Chúa Giêsu có vẻ lạnh nhạt: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”(x. Ga 2,4). Nhưng Mẹ vẫn tin tưởng Chúa Giêsu sẽ làm gì đó để giúp đỡ chủ tiệc. Bằng chứng là Mẹ đã bảo những người giúp việc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”(x. Ga 2,5).
Mẹ Maria có mặt ở tiệc cưới Cana là do lời mời của gia chủ, và cũng là do sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, nhiều gia đình đang thiếu thốn cách này cách khác: Thiếu thốn sự quan tâm, thiếu thốn tình yêu, thiếu thốn miếng cơm manh áo, bị bệnh tật…Hãy mời Mẹ về với gia đình, hãy dâng những nỗi khổ, những sự thiếu thốn của gia đình chúng ta cho Mẹ. Mẹ sẽ sẵn sàng cầu bầu cùng Chúa giúp đỡ gia đình chúng ta như xưa Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa giúp đỡ gia đình tiệc cưới tại Cana.
2. Sự quan tâm của Đức Giêsu
Trong suốt 3 năm rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu hằng luôn quan tâm đến mọi hạng người để giúp đỡ, để biến đổi, để chữa lành. Riêng trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Ngài quan tâm đến lời yêu cầu của Đức Mẹ. Khi Mẹ Maria đề nghị Ngài cứu giúp gia tiệc, Chúa Giêsu trả lời cho Mẹ biết “Giờ Ngài chưa đến”(x. Ga 2,4). Mặc dầu giờ chưa đến nhưng do lời thỉnh cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Điều đó chứng tỏ Ngài quan tâm đến Mẹ. Sự quan tâm đó còn được thể hiện qua việc Ngài lối Đức Mẹ cho Thánh Gioan và lối Thánh Gioan cho Đức Mẹ. Từ đó, Mẹ trở thành mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương giúp đỡ chúng ta khi còn sống cũng như khi đã về trời. Vì vậy, Giáo hội thường gán cho Mẹ các tước hiệu như: Đấng bênh vực, Mẹ Phù hộ, Mẹ cứu giúp, Đấng làm trung gian (x. LG 62).
Chúa Giêsu không những quan tâm đến Đức Mẹ mà Ngài còn quan tâm đến chủ tiệc và đôi tân hôn, tức là quan tâm đến đời sống gia đình. Đám cưới là niềm vui lớn nhất trong đời của đôi tân hôn. Chính vì vậy, cả đôi tân hôn và cả gia đình chủ tiệc đều mong muốn có một niềm vui trọn vẹn. Thế mà, không hiểu sao giữa tiệc vui lại hết rượu. Đây là sự cố xảy ra ngoài ý muốn của gia đình và cô dâu chú rể. Vì không muốn họ mất đi niềm vui trọn vẹn, nên Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon để cứu giúp họ. Việc Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới và làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon nói lên sự quan tâm của Ngài đối với gia đình. Đó lá dấu chỉ Ngài sẽ lập Bí tích hôn phối sau này. Bí tích hôn phối được Chúa thiết lập kết hợp người nam và người nữ thành vợ chồng. Đặc tính của bí tích này là đơn hôn và vĩnh hôn. Nghĩa là phải một vợ một chồng và phải sống với nhau cho đến chết.
3. Sự quan tâm của các gia nhân
Thông thường trong các đám cưới, ngoài cha mẹ anh em họ hàng ra còn có những người làng xóm, bạn bè…Họ không phải là khách mời, nhưng là những người đến để giúp đỡ. Họ giúp gia chủ những công việc như: Dựng rạp, sắp đặt bàn ghé, trang trí, nấu nướng, bưng bê mâm cỗ…Tại đám cưới ở Cana, vai trò của những người này hết sức quan trọng. Không những họ làm những công việc trên, mà họ còn đóng góp phần mình trong phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Sau khi đề nghị với Chúa Giêsu, Mẹ Maria bảo họ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (x. Ga 2,5). Và khi nghe Chúa Giêsu bảo đổ đầy nước vào các chum. Họ liền làm đúng như vậy. Sau đó, Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (x. Ga 2,8). Họ cũng làm theo như vậy, và phép lạ đã được thực hiện.
Như vậy, phép lạ hoá nước thành rượu ngon do Chúa Giêsu làm nhưng nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ Maria và sự cộng tác tích cực của các gia nhân.
Trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống gia đình, cần có sự quan tâm, giúp đỡ, cộng tác của những người xung quanh. Đó là sự cộng tác: giữa vợ chồng với nhau; giữa cha mẹ và con cái; giữa anh em ruột thịt; giữa bạn bè; giữa làng xóm láng giềng. Mỗi người Chúa ban cho mỗi khả năng, nếu biết quan tâm, giúp đỡ, cộng tác với nhau chắc chắn sẽ đem lại lợi ích to lớn. Thánh Phaolô trong bài đọc II đã nói: “Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”(1 Cr 12, 9-11).
Cuộc sống cần sự quan tâm. Noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các gia nhân trong bài Tin Mừng, mỗi chúng ta hãy thể hiện sự quan tâm của chúng ta đối với những người xung quanh. Mình giúp người, người giúp mình đó là quy luật của cuộc sống. Để thấy rõ hơn điều đó, chúng ta hãy nghe câu chuyện cảm động sau đây: Một nữ công nhân làm việc tại nhà máy chế biến thịt đông lạnh. Ngày hôm ấy, sau khi hoàn thành công việc, như thường lệ cô đi vào kho đông lạnh để kiểm tra một chút. Đột nhiên, cửa phòng bị đóng và khóa lại, cô bị nhốt ở bên trong mà không một ai biết.
Cô vừa hét khản cổ họng vừa đập cửa với hy vọng có người nghe được tiếng mình mà đến cứu, nhưng vẫn không có ai nghe thấy. Lúc này tất cả công nhân đã tan ca, toàn bộ nhà máy đều yên tĩnh.
Sau 6 giờ chiều hôm ấy, nữ công nhân lạnh cóng người, tuyệt vọng và đau khổ… Đang lúc cô tưởng như không chịu đựng được nữa thì bất ngờ được người bảo vệ đến mở cửa cứu ra ngoài.
Hôm sau, cô gái hỏi người bảo vệ tại sao lại biết mình ở trong đó để đến mở cửa, mặc dù đây không phải khu vực mà ông ấy quản lý.
Người bảo vệ trả lời: “Tôi làm việc ở nhà máy này đã 35 năm rồi. Mỗi ngày đều có mấy trăm công nhân ra ra vào vào. Nhưng cô là người duy nhất mà ngày nào sáng sớm đi làm cũng chào hỏi tôi và buổi tối tan làm lại chào tạm biệt tôi trong khi có rất nhiều người xem như không nhìn thấy tôi vậy! Hôm nay, tôi biết rõ ràng buổi sáng cô có đi làm bởi vì sáng sớm cô còn nói “cháu chào bác!” Nhưng sau khi tan làm buổi chiều, tôi lại không nghe thấy tiếng cô chào: “Tạm biệt bác, hẹn ngày mai gặp lại!” Thế là tôi quyết định đi vào trong nhà xưởng tìm xem xem thế nào. Tôi đi đến những chỗ góc hẻo lánh tìm cô và cuối cùng lại nghe thấy tiếng khóc và tìm thấy cô ở trong kho đông lạnh…”
Hãy luôn khiêm tốn nhã nhặn, yêu thương và tôn trọng những người xung quanh mình bởi vì bạn không thể biết được sự tình gì sẽ xuất hiện vào ngày mai!
(Theo NTDTV, Mai Trà biên dịch)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đến tham dự tiệc cưới ở Cana và Chúa đã cứu gia đình chủ tiệc một bàn thua trông thấy khi làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Ngày hôm nay, nhiều gia đình đang tan nát vì họ thiếu thố đủ thứ: Thiếu tình thương, thiếu sự kính trọng, thiếu sự quan tâm, thiếu niềm tin, thiếu lòng chung thuỷ…Xin Chúa hãy đến với họ để giúp họ như xưa Chúa đã giúp gia chủ và đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana. Amen.
Đám cưới là một nghi lễ rất quan trọng. Chính vì vậy ở Palestine cũng là dịp và cơ hội thật sự TN 2-C140
Đám cưới là một nghi lễ rất quan trọng. Chính vì vậy ở Palestine cũng là dịp và cơ hội thật sự quan trọng của gia đình hai bên, nhất là của đôi bạn trẻ.
Theo luật Do thái, lễ cưới của một trinh nữ phải tổ chức vào ngày thứ tư. Điều này rất thú vị, vì nó cho chúng ta căn cứ để tính lui lại: nếu đám cưới nhằm ngày thứ Tư, thì ngày Chúa Giêsu gặp Anrê và Gioan lần đầu tiên phải là ngày sa-bát, và cả hai đều ở với Ngài trọn ngày đó. Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc.
Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Họ được đưa theo con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng.
Ở Palestine vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu, và lời nói của họ là luật. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Nhưng đã có trục trặc xảy ra.
Trong đám tiệc của người Do thái, rất cần rượu. Các Rabi vẫn nói: “Không rượu thì không vui”. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng bên Đông phương món rượu thật quan trọng.
Thật ra, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn, thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể.
Qua trang Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, ta thấy tiệc cưới Cana hôm nay đã rơi vào cảnh bi đát đến tột cùng: hết rượu. Thế nhưng, đứng trước hoàn cảnh bế tắt đó, Mẹ Maria đã sẻ chia bằng lời của Mẹ gởi đến Chúa Giêsu con Mẹ.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.
Chính vì vậy, Đức Maria đã báo cho Chúa Giêsu biết sự bi đát mà gia đình của đôi tân hôn gặp phải. Và, ta thấy Chúa Giêsu đã bày tỏ quyền năng của Ngài để cứu gia đình mộc mạc này khỏi bị tổn thương nhục nhã. Ngài đã hành động vì lòng ưu ái, tử tế, thông cảm với những người mộc mạc đơn sơ.
Không chỉ có đám cưới này hết rượu, ngày nay có nhiều gia đình, nhiều đám cưới đã biết bao nhiêu lần chén hạnh phúc của chúng ta đã vơi đi, hay đã cạn hết rồi. Ngày hôm nay, tình yêu của gia đình đang ở tình trạng báo động.
Men của tình yêu, của niềm vui, của sự thành công, của sung túc không còn. Ngay cả khi tất cả những điều ấy phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương, bằng máu mới có được… Vậy mà chỉ sau một biến cố nào đó, đã mất hết, đã cướp hết, mình hoàn toàn trắng tay, chỉ để lại trong lòng nỗi cô đơn dằn xé, nỗi chán chường đến mức bạt nhược… Những lúc như thế, mỗi người chúng ta cần lắm một lời van xin của Mẹ đến với Chúa “Họ hết rượu rồi”, để Chúa an ủi và ban nghị lực, ban đức tin giúp ta có thể vượt qua những đắng cay cồn cào ấy.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và trong cuộc đời của mình hay không?
Hôm nay, chúng ta đã thấy rõ rồi đó, dù bảo rằng “Giờ của con chưa tới” và đám tiệc còn hay hết rượu thì chẳng có liên quan gì đến chúng ta cả Mẹ ơi, thế nhưng, phép lạ vẫn cứ xảy ra thật. Chúa đã biến nước thành rượu thật. Không chỉ thành rượu, mà còn là rượu ngon. Và đám cưới không chỉ cứ tiếp tục vui, mà còn vui hơn.
Vì thế, chúng ta có thể xác quyết rằng: Lời cầu nguyện của Đức Mẹ là lời hiệu nghiệm và có uy lực. Lời đó mang lại giá trị cho đời sống chúng ta. Nó cho thấy Đức Mẹ có quyền năng trong lời chuyển cầu của mình. Lời chuyển cầu hiệu nghiệm và uy lực ấy rất cần cho chúng ta, vì nó mang lại giá trị cho đời sống, mang lại hạnh phúc cho con người, mang lại những phép lạ lớn lao tưởng chừng như không thể xảy ra.
Vì thế, khi tôn thờ Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cũng hãy yêu mến Đức Mẹ. Hãy tâm sự với Đức Mẹ, hãy bày tỏ cuộc đời mình với Đức Mẹ. Vì chúng ta thâm tín rằng, chính trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã trối Mẹ cho Gioan, và Gioan cho Mẹ. Đấy là lúc chúng ta trở thành con cái Mẹ, lẽ nào Mẹ lại không nhận biết những nhu cầu để giúp đỡ chúng ta sao?
Ngày xưa khi còn tại thế, lời cầu của mẹ đã hiệu nghiệm đến thế, huống chi bây giờ Mẹ đang tột cùng vinh hiển bên cạnh Con Mẹ. Mẹ đang vinh hiển, tràn đầy uy quyền, nắm giữ kho báu ân sủng của Con Mẹ, Mẹ lại tiếc với chúng ta sao? Chuyện quan trọng là ta có tín thác, có chạy đến bên Mẹ để Mẹ chở che, phù hộ cho ta hay không mà thôi. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa.
Cuộc sống cho ta rất nhiều cơ hội để làm việc thiện. Việc thiện cho gia đình. Việc thiện cho bạn TN 2-C141
Cuộc sống cho ta rất nhiều cơ hội để làm việc thiện. Việc thiện cho gia đình. Việc thiện cho bạn bè. Việc thiện cho xã hội. . . Nhưng điều quan yếu là ta có đủ tình yêu để quảng đại dấn thân hay không? Cơ hội sẽ trôi qua khi chúng ta chỉ lo cho bản thân, sống ích kỷ hưởng thụ để rồi từ chối phục vụ tha nhân.
Tôi đã nhiều lần thấy ở cùng một hoàn cảnh, có người nghĩ phải dấn thân phục vụ, nhưng có người lại thụ động tìm an nhàn cho bản thân. Một thiếu nữ độc thân nói: "Tôi còn đơn thân. Tôi đâu có điều kiện để phục vụ". Một thiếu nữ độc thân khác nói: "Tôi chưa có gia đình, tôi có nhiều thì giờ. Tôi muốn làm việc cho Chúa trong giáo xứ". Một bà mẹ trẻ nói: "Con tôi còn nhỏ. Tôi chỉ có thể đi nhà thờ rồi về ngay. Tôi không có thì giờ làm việc gì trong giáo xứ". Một bà mẹ khác lại nói: "Tôi trông con cũng rảnh. Tôi muốn làm điều gì đó cho Giáo hội”.
Người ta nói “cơ hội chỉ đến một lần”. Hãy nắm bắt cơ hội để phục vụ. Hãy dấn thân một cách quảng đại khi ta có cơ hội. Đừng chần chờ kẻo cơ hội vuột qua lại nuối tiếc. Có người nuối tiếc vì đã không dành thời gian chăm sóc cha mẹ, nay họ không còn lại ân hận. Có người thấy đói mà không giúp, nay người nghèo bên cạnh đã ra đi lại nuối tiếc. Có người khi khỏe mạnh lại chẳng tham gia phục vụ Giáo Hội, khi thời gian trôi qua, sức lực chẳng còn lại thốt lên 2 chữ giá mà trong nuối tiếc.
Chúa Giê-su luôn nắm bắt cơ hội phục vụ. Ngài phục vụ mọi nơi. Ngài phục vụ trong mọi tình huống. Sự phục vụ của Ngài không chờ nơi chốn hay thời gian. Chỉ cần có cơ hội để phục vụ là Ngài luôn sẵn lòng. Đôi bàn tay Ngài luôn sẵn sàng trao ban khi có cơ hội để dấn thân phục vụ. Có thể nói Ngài không bỏ lỡ một cơ hội nào để thể hiện lòng thương xót cho nhân loại khổ đau.
Tại tiệc cưới Cana, dù thời gian chưa đến, thế mà Ngài vẫn đong đầy tình yêu cho buổi tiệc qua việc đong đầy rượu ngon. Ngài đã đến dự tiệc cưới để chúc lành cho đôi hôn phối. Ngài còn trao ban rượu ngon cho niềm vui gia đình được trọn vẹn.
Cuộc đời này sẽ trôi qua. Thời gia trôi qua sẽ không quay trở lại. Hãy tận dụng thời gian hiện tại để biểu lộ tình yêu cho những người chúng ta yêu. Đừng chần chờ. Đừng đợi thời gian. Hãy làm điều gì đó cho anh em trong hoàn cảnh của mình. Hãy dành thời gian cho gia đình. Hãy dùng tài trí, sức lực Chúa ban để mang lại niềm vui hạnh phúc cho tha nhân qua tinh thần phục vụ của chúng ta.
Ước gì lòng Chúa xót thương đã luôn đong đầy trong cuộc đời chúng ta thì chúng ta cũng hãy xót thương anh em của mình trong khả năng Chúa ban. Amen.
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có TN 2-C142
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót, chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động. Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của Người.
Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến ‘ngày thứ ba’ thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhảy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: “Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này, Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ Maria cũng không hiểu rõ chữ ‘Giờ’ tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ. Mẹ mong Con làm một điều gì đó: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy ‘Giờ’ tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành bảy trăm lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: “Họ hết rượu rồi”.
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu Ước thành rượu ngon của Tân Ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria luôn là Đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen.
Trong thời của Chúa Giêsu cũng như cuộc sống hiện nay của chúng ta, rượu là một phần không thể TN 2-C143
Trong thời của Chúa Giêsu cũng như cuộc sống hiện nay của chúng ta, rượu là một phần không thể thiếu của những bữa tiệc mừng. Rượu đem lại niềm vui, tạo bầu khí sinh động. Người xưa nói “Miếng trầu mở đầu câu chuyện”; nhưng thời nay thì dường như “Chén rượu khởi đầu câu chuyện”, vì rượu giúp người ta cởi mở với nhau và dễ dàng giao trao đổi. Niềm vui của buổi tiệc được trọn vẹn khi món ăn đủ và rượu ngon không thiếu. Tin Mừng hôm nay thuật lại một tiệc cưới dở dang hết rượu! Thế nhưng, có thể nói là chỉ hết rượu không ngon, còn rượu ngon sẽ không bao giờ thiếu. Bởi vì:
- Lòng tin và sự Quan Tâm của Mẹ Maria: Ở bữa tiệc cưới tại Cana, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu đã rất chú ý tới nhu cầu của những người khác. Mẹ nhận thấy rằng chủ nhân tiệc cưới không còn rượu để thiết đãi khách nữa. Mẹ hiểu được nỗi khó khăn nan giải này của họ, Mẹ đã đến với Chúa Giêsu và tin chắc chắn Người có thể cứu nguy ở đây. Dù rằng con của Mẹ biểu lộ ngạc nhiên về lời cầu xin, nhưng... Mẹ đã sáng kiến nói với những người giúp việc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5)
- Lòng tin và sự vâng lời của gia nhân: Các gia nhân nghe lời Đức Maria dặn.Vậy họ đã nhiệt tình đổ đầy nước vào sáu chum đá theo lời Chúa Giêsu đề nghị. Có thể những gia nhân cũng không biết Đức Maria và Chúa Giêsu, nhưng họ thực sự đơn sơ vâng lời và cộng tác với các Ngài. Gia nhân múc nước đổ vào chum và mang nước cho chủ tiệc nếm, hơn ai hết, họ biết chắc đó là nước, thế mà họ vẫn một lòng tin vào những lời Chúa Giêsu truyền dạy “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết.)”(Ga 2,8-9) Chúa Giêsu đã biến đổi nước thành rượu, ngon hơn rượu đã phục vụ trước đó.
- Và bởi vì Chúa Giê su tham dự tiệc cưới: Có Chúa Giê su hiện diện ở đó trong tiệc cưới. Người đã thực hiện nhiều hơn một cử chỉ quảng đại đối với đôi tân hôn và gia đình họ. Như vậy, khởi đầu sứ mạng, Chúa Giêsu công bố thời đại mới đã đến, thời mà dân đã nóng lòng chờ đợi, trong bối cảnh của một bữa tiệc cưới mà ở đó rượu ngon không bao giờ thiếu. Từ 6 chum nước dùng vào việc thanh tẩy, con số không trọn vẹn (vì là 7 thiếu 1), nói lên Luật cũ không hoàn hảo, Chúa Giêsu đã dùng để hóa thành rượu ngon, rượu của Giao Ước Mới, giao ước đã vượt qua sự giới hạn của Giao Ước cũ với hình ảnh “Họ đã đổ đầy tới miệng.”(Ga 2,7)
Qua dấu lạ này, Chúa Giêsu khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên lòng nhân hậu kỳ diệu của Thiên Chúa, khởi đi từ bữa tiệc hoàn thành một Giao Ước Mới với dân của Người và với tất cả nhân loại. Tóm lại, đó là bữa tiệc cưới giữa Chúa Giêsu -Tân Lang với nhân loại, trở thành hiền thê của Người. Chúa Giêsu sai gia nhân đưa rượu cho chủ tiệc nếm là việc của một tân lang “...ông mới gọi tân lang lại và nói: Ai ai cũng thết rượu ngon trước...còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ.” (Ga 2, 9-10) Chúa Giê su chính là Tân Lang Tiệc Cưới của Đấng Mê-si-a như lời Gio-an tẩy giả đã làm chứng: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể.” (Ga 3, 28-29) Hình ảnh Tiệc Cưới nói nhiều về Thiên Chúa và về sứ vụ của Chúa Giêsu như chúng ta thấy trong Tin Mừng (Mt 22,2-10. 25,1-3; Lc, 14,8-11. 12, 36).
Ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn tiếp tục được mời dự tiệc cưới với Tân Lang Giêsu trong mỗi Thánh Lễ và vui mừng chuẩn bị đến dự Tiệc Cưới Cánh Chung. Cùng với Mẹ Maria, Mẹ của những kẻ tin, chúng ta mời Chúa Giêsu đến nhà chúng ta, tham dự và chia sẻ với chúng ta trong từng chi tiết của cuộc sống. Có Chúa hiện diện, chắc chắn Chúa sẽ can thiệp, cứu giúp gia đình chúng ta trong những lúc thiếu rượu của tình yêu, của cảm thông, của sự ấm áp...Và có Chúa, chúng ta sẽ có đầy ắp rượu ngon tin yêu.
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Chúa ban thêm đức tin và hướng dẫn chúng con. Xin Chúa ở lại trong chúng con và dạy chúng con biết làm tất cả những gì Người nói với chúng con. Amen.
Sống ở quê hương Nagiarét, Chúa Giêsu cũng chia sẻ với những niềm vui, nỗi buồn của mọi người. TN 2-C144
Sống ở quê hương Nagiarét, Chúa Giêsu cũng chia sẻ với những niềm vui, nỗi buồn của mọi người.Do đó, mọi biến cố xẩy ra xung quanh, nơi làng, nơi những người hàng xóm. Chúa Giêsu đều cảm thông với mọi người để chung chia kiếp sống với con người.Hôm nay, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Trong tiệc cưới này, nhà đám đã dự liệu rượu cho những ngày ăn tiệc, nhưng nỗi khổ là rượu hết. Chúa Giêsu đã trả lại niềm vui cho gia đình nhà đám và không để họ phải xấu hổ đối với các khách mời.
Vâng, đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay là nét rất đẹp của ngòi bút thánh sử thuật lại.Thánh Gioan đã vén mở cho chúng ta thấy con người của Chúa Giêsu.Nên, Tin Mừng của Ngài luôn có ý nghĩa sâu sắc, mặc khải mầu nhiệm con người của Chúa Giêsu. Chẳng hạn, Chúa chữa cho người mù từ thuở bình sinh, nói lên Chúa là ánh sáng thật. Chúa là Bánh hằng sống khi Người làm cho bánh và cá hóa nên nhiều để nuôi sống nhiều ngàn người ăn. Phép lạ Chúa làm cho Lazarô em của Matta và Maria sống lại nói lên Người là Sự Sống. Nước Chúa làm cho trở nên rượu ngon cũng có ý nghĩa nước thanh tẩy, nước tẩy uế và nước từ cạnh sườn của Chúa đổ ra. Sự tế nhị của Mẹ Maria khi thấy nhà đám hết rượu, Mẹ đã can thiệp và can đảm, mạnh dạn thưa với Chúa “ Họ hết rượu rồi “ ( Ga 2,3 ). Câu trả lời của Chúa Giêsu làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, sửng sốt “…Giờ tôi chưa đến “ (Ga,2,4 ). Mẹ của Chúa, chắc chắn chưa hiểu được ý Con của Mẹ. Tuy nhiên, Mẹ luôn tin tưởng Con của Mẹ sẽ làm một cái gì theo lời tế nhi van xin kín đáo của Mẹ. Mẹ đã nói với những người giúp việc:” Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo “( Ga 2,5).Qua sự can thiệp của Mẹ, Chúa làm phép lạ đầu tiên trong sứ vụ công khai rao giảng Nước Trời của Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ vinh quang của Ngài dù giờ tử nạn và phục sinh chưa đến, nhưng Ngài biểu lộ uy quyền để các môn đệ thấy và tin vào Ngài ( Ga 2, 11).Thực vậy, Chúa đã củng cố niềm tin các môn đệ trên cuộc hành trình đi theo Ngài. Đức Giêsu đã hoàn tất những điều Cựu Ước loan báo. Ngài thiết lập thời đại mới, thời Thiên Sai, thời Cứu Thế…Ngài đã làm cho gia đình nhà đám niềm vui trọn vẹn. Với sự tế nhị của Mẹ Maria, những chum nước lã đã được Chúa cho hóa thành rượu ngon,và như thế, niềm vui của mọi người nồng thắm ngọt ngào tình yêu. Ai cũng vui lòng, nhà đám càng được hãnh diện và được nâng cao vị thế trong xã hội.
Lời của Mẹ Maria, chắc chắn ngày nay vẫn nhỏ nhẹ bên tai Chúa Giêsu:” Họ hết rượu rồi “. Chúa luôn yêu thương Mẹ và đồng thời cũng yêu thương mọi người, hằng quan tâm đến mọi người.Chính vì thế, Ngài đã làm cho nhiều mảnh đời nồng ấm trở lại sau những ngày, những tháng, những năm bị thử thách gian nan. Ngài đã làm nóng lên những hoàn cảnh tang thương, những gia đình hầu như sắp đổ vỡ để tất cả những người này trở nên tin yêu hơn, trở nên nồng thắm hơn. Chúa đã làm cho nhiều tâm hồn tan nát, trở lại vững tin hơn, dạt dào yêu thương hơn.
Chúa luôn hiện diện và có mặt trong mọi biến cố của thế giới, của mỗi người.Xưa, Chúa đã hóa nước thành rượu ngon, làm nồng ấm, trả lại sự tươi vui cho nhà đám.Ngày nay, Chúa luôn can thiệp và giúp đỡ con người, đem lại tình thương, sự ấm áp cho thế giới, cho con người, nếu con người biết bám lấy Ngài, biết hướng về Ngài…Thế giới sẽ đẹp, con người sẽ đẹp nếu mọi người cùng chung tay,xây dựng thế giới này thành thế giới biết yêu thương, chân thật và an bình.
Lạy Chúa Giêsu,Chúa đã làm cho nước lã biến thành rượu ngon đem lại sự bình an, vinh dự cho nhà đám và trả lại sự vui tươi cho mọi người.Xin tiếp tục biến đổi tâm hồn mỗi người chúng con để chúng con luôn giữ vững niềm tin và hy vọng.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu ngon tại đâu ? 2.Tại sao Chúa lại trả lời với Mẹ:” Giờ tôi chưa đến ? “. 3.Giờ Chúa nói đây là giờ nào ? 4.” Họ hết rượu rồi”.Đây là lời xin hay là lệnh truyền ? 5.Làm phép lạ cho nước hóa thành rượu ngon, Chúa Giêsu muốn nói lên điều gì ?
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại tiệc cưới tại Cana diễn ra vào “ngày thứ ba”, nghĩa là sau khi TN 2-C145
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại tiệc cưới tại Cana diễn ra vào “ngày thứ ba”, nghĩa là sau khi Chúa Giêsu thu nhận các môn đệ xong, cả thầy lẫn trò cùng nhau dự tiệc cưới: “Ba ngày sau, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới” (Ga 2,1-2).
Ít nhiều, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tiệc cưới. Không phải tiệc cưới của mình, người thân gia đình, thì tiệc cưới của người khác! Nhất là của những người thân quen hay bè bạn, mà chúng ta được mời tới dự. Nên chúng ta dễ dàng hình dung ra cảnh tiệc cưới.
Nhìn vào đám cưới tại Cana trong Tin Mừng hôm nay, ngẫm về những tác động hữu ích do sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Maria, Mẹ Người, trong các hoạt động đời thường của con người chúng ta. Chúa Giêsu và Đức Maria, với địa vị khác nhau, mang theo sự hiện diện của Thiên Chúa mọi lúc mọi nơi. Chúa là chân, thiện, mỹ, Ngài ở đâu, thì có tình yêu, ân sủng và phép lạ ở đó. Như mặt trời chiếu tỏa ánh hào quang, trái đất được có ánh nắng sưởi ấm, vận vật cỏ cây sẽ đơm hoa kết trái. Đồng nghĩa với việc, khi chúng ta để cho Thiên Chúa đến gần chúng ta, sự tốt lành, bình an và hạnh phúc của Thiên Chúa sẽ lớn lên trong chúng ta.
Phương tiện mà Thiên Chúa chọn để hiện diện giữa loài người và tiếp xúc với loài người là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa. Công việc của Thiên Chúa ở giữa thế gian là bản tính con người của Chúa Giêsu và sự hiện diện của Đức Maria. Cô dâu và chú rể tại Cana đã không nghi ngờ gì khi mời Chúa Giêsu và Đức Maria đến dự cưới! Lời mời này có lẽ là do tình thân huyết tộc nào đó.
Chúa Giêsu đã nhận lời mời đến dự tự cưới, vì Chúa ủng hộ mối quan hệ con rất tình người và chân thành của họ. Tính trung thực và tốt lành của gia đình này đã lôi cuốn Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu đã làm cho Thiên Chúa hiện diện trong ngày cưới của họ. “Đây là phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người” (Ga 2,11). Chính tại Cana xứ Galilêa, Chúa Giêsu đã bắt đầu thực hiện các phép lạ phi thường của mình, và ở đó, Đấng Thiên Sai đã mở rộng tâm hồn các môn đệ và thông ban cho họ ơn đức tin qua sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria, người tín hữu đầu tiên.
Và nếu Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã đi ăn cưới, và với sự hiện diện của mình, Người đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành rượu. Người đến đám cưới, không phải đến để ăn một bữa tiệc cho vui như bao nhiêu bữa tiệc khác. Người đến để mạc khải một sự diệu kỳ, đầy ngưỡng mộ. Người đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho gia nhân rượu ngon nồng. Thì sự hiện diện của Đức Maria và của các môn đệ Chúa Giêsu cũng hết sức đặc biệt. Trong tiệc cưới, Đức Maria đã hiện diện không như khách, nhưng như thành viên đóng góp vào biến cố niềm vui. Vì thế Mẹ biết rõ tình trạng thiếu rượu. Hết rượu là mất vui, là đụng chạm đến ý nghĩa của đám cưới. Vì rượu không chỉ cần cho bữa tiệc, nhưng còn tượng trưng cho niềm vui gặp gỡ. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2,3) Trước sự cố này, Đức Giêsu có vẻ không vui khi nói: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2,4).
Tuy vậy, Mẹ vẫn tin tưởng vào Con Mẹ. Giờ của chưa tới, nhưng Mẹ tin rằng, Người có thể “chỉnh giờ” lại. Quả thực, Chúa Giêsu đã hành động: vừa đáp lại lời cầu bầu của Đức Maria để cứu bữa tiệc, vừa mở rộng ý nghĩa của hành động này. Sáu chum nước lớn, vốn dùng để thanh tẩy theo Luật cũ và đức công chính cũ, Người đã làm cho trở nên viên mãn khi hóa nước thành rượu, tượng trưng cho ơn tha thứ, hòa giải và niềm vui, cho đức công chính của Đức Giêsu, mà Thiên Chúa trao ban nhưng không cho loài người và cho mỗi người chúng ta.
Hình ảnh nước biến thành rượu do quyền năng của Chúa Giêsu và sự can thiệp của Đức Maria rất phù hợp với con người và cuộc đời của chúng ta. Hình ảnh “đổ đầy tới miệng” diễn tả sự trọn vẹn và dư tràn. Thực vậy, trong đời ta, trên hành trình theo Chúa trong ơn gọi, có thể có niềm vui đứt đoạn ; hành trình nhạt nhẽo: xin Mẹ để ý nhìn xem, quan tâm nâng đỡ phù hộ, và xin Chúa ban niềm vui làm cho thơm ngon như rượu mới tại tiệc cưới Cana.
“Người bảo gì các anh cứ làm theo” (Ga 2,5). Đây là lời nói cuối cùng của Đức Maria, không chỉ dành cho những người phục vụ tiệc cưới, nhưng còn cho người môn đệ Chúa Giêsu, nam cũng như nữ, thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay. Hãy tin tưởng vào quyền năng trong mọi biến cố cuộc đời. Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, hãy đặt hết tất cả lòng tin vào Chúa, phó thác cuộc đời chúng ta cho Ngài, như lời Đức Mẹ khuyên: “Hễ người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,5). Nước kia lên rượu thơm nồng, ngất ngây trong tiệc cưới tưng bừng. Lời Mẹ dạy dỗ mãi khắc ghi. Nguyện Mẹ dìu dắt mỗi bước đi. Thiên ý xa vời, Mẹ hỡi hãy luôn phù trì.
Thứ hai thì ngắm, Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Canna, ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Amen.
Tại sao một tiệc cưới lớn như thế lại hết rượu? Đãi khách suốt bảy ngày làm sao không sơ sót? Người ta uống rượu nho như ngày nay chúng ta uống bia. Phải dự trù sáu trăm lít mới đủ. Nhưng nhà này là một nhà khá giả, vì thánh Gioan ghi nhận, trước cửa có sáu chum đá để cho khách rửa chân, sao có thể xảy ra vấn đề thiếu sót như thế? Chúng ta hiểu những bữa tiệc cưới bao giờ cũng rầm rộ, công việc đủ thứ, không ai có thể kiểm soát tất cả, mặc dù có ông quản tiệc. Và chính điều này đã khiến cho Đức Mẹ can thiệp.
Chúa Giêsu trả lời bằng một câu khó hiểu đối với chúng ta: “Thưa Bà, việc này can gì đến Bà can gì đến con? Giờ con chưa đến”. Tại sao thưa bà mà không thưa mẹ? Đối với người Do Thái, từ bà phải hiểu như một tước vị trang trọng. Nhà vua, đứng trước triều thần không bao giờ gọi hoàng thái hậu là mẹ, mà luôn gọi bằng bà. Khi thưa như thế, Chúa Giêsu đã nhìn Mẹ Maria như một Đấng có uy quyền, chứ không chỉ là mẹ riêng của mình.
“Việc này can gì đến Bà, can gì đến con? Giờ con chưa tới”. Câu trả lời xem ra như một cách từ chối khá rõ rệt, nhưng tại sao Đức Mẹ lại bảo gia nhân làm theo sự hướng dẫn của Ngài?
Ở đây, chúng ta nhận thấy uy quyền của Đức Mẹ trên Chúa Giêsu. Khi tìm được Chúa Giêsu trong Đền thờ lúc mười hai tuổi, chính Đức Mẹ trách Ngài chứ không phải thánh Giuse. Điều này cho thấy thực quyền của Đức Mẹ. Trong việc thiếu rượu này, chúng ta càng thấy rõ hơn uy quyền của Mẹ. Giờ con chưa đến, nghĩa là Ngài chỉ làm theo ý Chúa Cha, và giờ đó, theo những nhà chú giải Kinh Thánh, là giờ Ngài phải chịu treo trên thập giá, sống lại và lên trời vinh hiển. Giờ con chưa đến, nghĩa là Cha chưa quyết định, nhưng Mẹ muốn thì con vâng lời. Cha có quyền, Mẹ cũng có quyền. Trong cách xưng hô “thưa Bà” của Chúa Giêsu đặt Đức Mẹ vào một địa vị cao cả hơn. Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, nhưng bắt đầu từ nay Mẹ sẽ lãnh nhận một nhiệm vụ quan trọng hơn. Nơi đây Chúa Giêsu tiên báo vai trò tương lai của Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Lúc ấy Ngài cũng gọi Mẹ bằng tiếng Bà trang trọng: “Thưa Bà, Này là con Bà…” Mẹ được giao phó trách nhiệm làm mẹ của đoàn con đông đúc của Ngài thay thế cho Evà là “mẹ chúng sinh”.
Chúng ta có thể tin vào Mẹ Maria, và chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng. Chúng ta có một bà mẹ tuyệt vời như thế, tại sao chúng ta không tin vào Mẹ, không yêu mến Mẹ?
Sau khi trả lời, Chúa Giêsu bước theo Mẹ và bảo gia nhân đổ đầy nước trong sáu chum đá để nước rửa chân cho khách. Họ đổ đầy đến miệng. Ngài bảo đem cho ông quản tiệc nếm thử. Ông này nếm xong, ngạc nhiên vì rượu quá ngon. Ông gọi chàng rể đến và quở trách vì đã để rượu ngon đến giờ cuối mới đem ra. Như thế, Chúa Giêsu đã tặng cho nhà đám gần sáu trăm lít rượu hảo hạng. Thánh Gioan chú thích: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và đã tỏ vinh quang của Người”. Kết quả đầu tiên là “các môn đệ đã tin vào Người”.
Phép lạ này chứng tỏ vinh quang của Chúa Giêsu. Đó là vinh quang của Người Con Một “đầy ân sủng và chân lý”. Vinh quang đây không như vinh quang trần thế mà là hồng ân cứu độ. Chúng ta nhận lãnh ơn này đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài. Chúa Giêsu tặng cho đám cưới một số rượu nhiều như thế để chứng tỏ rằng Ngài là sự sung mãn tuyệt vời. Chúng ta thiếu rượu chăng? Cuộc đời chúng ta tàn héo trong đau khổ hay yếu đuối? Ngài sẽ mang lại niềm vui.
Trong phép lạ nước hóa thành rượu ngon này, chúng ta cũng nhìn thấy một ý nghĩa sâu xa hơn. Ông quản tiệc bảo chàng rể sao lại để rượu ngon đến giờ này có nghĩa là rượu mới ngon hơn rượu cũ. Thánh Gioan muốn cho thấy rằng, Chúa Giêsu đã đến, thời Cựu Ước đã chấm dứt. Ngài khai sáng thời đại của ân sủng. Chúng ta không còn sống dưới ách Lề Luật nữa, chúng ta sống trong tình yêu của Cha trên trời.
Đến dự tiệc cưới, chứng tỏ Chúa Giêsu sống hòa mình với mọi người, chia sẻ niềm vui nỗi khổ của con người, Ngài không tách biệt trong một sự uy nghi biệt lập. Nhưng Ngài đến đâu, niềm vui sẽ tràn đầy. Ngài mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Ngài. Ngài sẽ đãi chúng ta một của ăn tuyệt vời là chính Thịt Máu Ngài. Đây mới là bữa tiệc sung mãn tràn trề.
Hôm nay, Ngài cho chúng ta rượu nho hảo hạng, ngày nào đó, Ngài sẽ cho chúng ta uống chính Máu Ngài, và “niềm vui của chúng ta sẽ trọn vẹn”.
Hôm nay, Ngài là Khách mời đến dự tiệc cưới của chúng ta, ngày mai, Ngài sẽ mời chúng ta vào tiệc cưới của Ngài, Ngài sẽ là tân lang và chúng ta sẽ là cô dâu đáng yêu của Ngài. Ngài là Tình Yêu. Ngài thánh hóa tình yêu của con người. Tình yêu nào không có Ngài sẽ không thể trọn vẹn. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy “sống trong tình yêu của Ngài”.
Chúng ta đã bắt đầu mùa Thường niên từ Chúa Nhật trước. Phụng vụ Lời Chúa mùa Thường niên TN 2-C147
Chúng ta đã bắt đầu mùa Thường niên từ Chúa Nhật trước. Phụng vụ Lời Chúa mùa Thường niên mời gọi chúng ta cùng đi với Chúa Giê-su trên đường Người thi hành sứ vụ: rao giảng Tin Mừng, thực hiện những dấu lạ điềm thiêng và kêu gọi người ta sám hối. Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục chủ đề Hiển Linh với phép lạ Chúa Giê-su biến nước thành rượu tại tiệc cưới Ca-na. Vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa được tỏ ra qua ba biến cố: các hiền sĩ Đông phương đến bái thờ Hài Nhi, Chúa Giê-su chịu phép rửa và Chúa Giê-su làm phép lạ đầu tiên tại Ca-na. Sứ vụ công khai của Chúa Giê-su có mục đích giúp cho con người nhận biết tình yêu cứu độ và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính tình yêu và lòng thương xót ấy đã biến đổi thân phận con người được biểu tượng qua hình ảnh Xi-on và Giê-ru-sa-lem (bài đọc 1), đã hoạt động qua sức mạnh của Thánh Thần (bài đọc 2) và đã đổi mới hôn ước giữa Thiên Chúa và nhân loại (bài Tin Mừng).
Trước khi nói đến ý nghĩa của phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới Ca-na, chúng ta hãy lắng nghe Chúa phán dạy qua ngôn sứ I-sai-a về quyết định đổi mới thân phận con người. Như chúng ta biết, Xi-on và Giê-su-sa-lem là biểu tượng cho nhân loại sẽ được Thiên Chúa cứu độ. Đã có một thời trước mặt Thiên Chúa, Xi-on và Giê-ru-sa-lem mang thân phận “đồ bị ruồng bỏ” và “phận bạc duyên đơn” vì họ đã trót đi theo con đường tội lỗi mà xa lìa Thiên Chúa. Tội lỗi của họ đã cắt đứt mối quan hệ với Thiên Chúa. Đó là hình ảnh nói lên hiện trạng của toàn thể nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Hiện trạng ấy chẳng khác nào một cuộc hôn nhân đổ vỡ giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nhưng tình yêu và lòng thương xót của “chàng rể” Thiên Chúa không để tình trạng này kéo dài mãi. Thiên Chúa muốn hàn gắn và nối lại mối quan hệ này. Giờ đây, qua ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa công bố Người sẽ đi bước đầu để đổi mới “hôn nhân” giữa Người và nhân loại. Người sẽ biểu lộ “lòng sủng ái” với nhân loại tội lỗi và “cưới” nhân loại về để làm “cô dâu” của Người. Người muốn nhân loại là “niềm vui” của Người. Thật là kỳ diệu! Tình yêu và lòng Chúa thương xót sẽ biến đổi nhân loại từ thân phận bị ruồng bỏ trở thành “Ái khanh lòng Ta hỡi” và từ duyên phận đơn bạc trở thành “Duyên thắm chỉ hồng”! Cuộc biến đổi này bắt đầu được thể hiện rõ ràng qua sứ vụ của Chúa Giê-su trên trần gian.
Những điều ngôn sứ I-sai-a tiên báo nay được thể hiện khi Chúa Giê-su lên đường thi hành sứ vụ. Phép lạ Chúa biến nước hóa thành rượu không chỉ là sự can thiệp cứu giúp đôi tân hôn đang gặp khó khăn vì hết rượu cho thực khách, mà nó còn mang ý nghĩa cứu độ áp dụng cho việc Thiên Chúa canh tân mối quan hệ của Người với nhân loại nữa. Rượu biểu tượng cho tình yêu. Theo lối người đời, cách đem rượu đãi khách là “thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn”. Còn đường lối Thiên Chúa thì ngược lại: khi thấy khách ngà ngà, nghĩa là khi thấy tình trạng tội lỗi của loài người ngày càng trở nên tệ hại hơn, thì đó là lúc Thiên Chúa đem rượu ngon ra để cứu độ, để đổi mới hôn ước của Người với họ bằng tình yêu nhập thể là Chúa Giê-su, Con Một Người. Chúa Giê-su là “rượu ngon” Thiên Chúa sai xuống trần gian để cứu vãn hôn ước của Người với nhân loại. Sau khi tường thuật phép lạ, thánh sử Gio-an cẩn thận ghi lại rằng: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người”. Phép lạ đầu tiên có tầm quan trọng đặc biệt. Chẳng lạ gì thánh giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã đặt phép lạ này vào mầu nhiệm thứ hai trong Năm mầu nhiệm Sự Sáng của kinh Mân-côi, vì sau việc rao giảng Tin Mừng và ơn sám hối thì việc làm phép lạ là quan trọng để tỏ ra vinh quang Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Như chúng ta biết, công trình cứu độ không phải là việc của riêng Thiên Chúa Cha, nhưng là với sự hợp tác của Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Con đã xuống thế làm người do quyền năng Thánh Thần. Người được Chúa Cha sai đi rao giảng Tin Mừng dưới sự hướng dẫn của Thần Khí. Sau khi Chúa Giê-su lên trời là giai đoạn hành động của Thánh Thần. Đoạn thư 1 Cô-rin-tô cho chúng ta thấy một số sinh hoạt căn bản của Chúa Thánh Thần nhằm mục đích giúp chúng ta loan báo cũng như đón nhận Tin Mừng cứu độ. Thiên Chúa tiếp tục biểu lộ ơn cứu độ của Người qua những cách hoạt động phong phú của Thánh Thần. Thánh Phao-lô kể ra ba dạng hành động của Thánh Thần: đặc sủng, việc phục vụ và hoạt động. Rồi ngài đưa ra một nguyên tắc chung: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung”. Ích chung ở đây là ơn cứu độ Thiên Chúa dành cho mọi người không trừ ai. Điều ngày có nghĩa là nơi mỗi người chúng ta, Thánh Thần có cách hoạt động riêng, để mỗi người chúng ta cộng tác với Ba Ngôi Thiên Chúa vì ích chung là phần rỗi của chúng ta và của anh chị em. Vậy chúng ta hãy tự xét mình xem: Đâu là đặc sủng Chúa Thánh Thần ban cho tôi? Giảng dạy giáo lý? Lòng tin để làm chứng cho Chúa Ki-tô? Chữa bệnh, nhất là các bệnh tâm lý và bệnh linh hồn? Làm phép lạ bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương? Chắc chắn ai cũng có ít nhất một đặc sủng của Thánh Thần. Quan trọng là ta có sử dụng đặc sủng ấy vì ích chung không?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 2:1-11)
Nếu chúng ta coi việc tạo dựng đầu tiên của Thiên Chúa là một sự lạ lùng thì sự kiện Người sai TN 2-C148
Nếu chúng ta coi việc tạo dựng đầu tiên của Thiên Chúa là một sự lạ lùng thì sự kiện Người sai Con Một đến thế gian để tái tạo tất cả những gì đã mất đi do tội lỗi còn kỳ diệu hơn nữa (xem Lời nguyện sau bài đọc I, Phụng vụ Lời Chúa đêm Canh Thức Vượt Qua). Phép lạ biến nước thành rượu ngon phải chăng là hình bóng ám chỉ công cuộc tái tạo dựng sẽ được Thiên Chúa thực hiện nhờ Ngôi Hai và Thánh Thần của Người? Hiểu như thế, chúng ta có thể tin rằng sở dĩ thánh sử Gio-an ghi lại dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su tại tiệc cưới Ca-na là vì ngài muốn nói rằng đây là khởi đầu công cuộc tái tạo dựng của Thiên Chúa. Đồng thời đây cũng là lý do thánh giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã chọn dấu lạ đầu tiên này làm một trong những Mầu nhiệm Sự Sáng của kinh Mân-côi.
Để hiểu dấu lạ tại tiệc cưới Ca-na ám chỉ việc khởi đầu công cuộc tái tạo dựng, có lẽ chúng ta nên trở lại lịch sử tạo dựng theo sách Sáng Thế. Các nhà thần học không ngần ngại gọi Chúa Giê-su là A-đam Mới và Mẹ Ma-ri-a là E-và Mới. Với tư tưởng này, chúng ta nhận thấy hành động của Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a trong tiệc cưới Ca-na tương phản với hành động của A-đam và E-và trong vườn địa đàng. Như thánh Phao-lô đã dạy, A-đam đưa nhân loại vào vòng tội lỗi, còn Chúa Giê-su thì đến để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Cũng thế, bà E-và đã can dự vào việc làm đổ vỡ chương trình của Thiên Chúa, còn Mẹ Ma-ri-a thì cộng tác với Thiên Chúa để thực hiện kế hoạch cứu độ của Người!
Chúng ta đã hiểu sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su là đem thế giới và nhân loại này trở về với Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ được thực hiện trong lịch sử nhân loại và sẽ hoàn tất khi mọi sự được viên mãn trong Đức Ki-tô. Việc thực hiện ấy xảy ra âm thầm và theo thời gian, giống như hạt lúa, hạt cải và nắm men vẫn hoạt động mà chúng ta không hay biết. Nhưng chắc chắn một điều là chúng đều đem lại kết quả chắc chắn là sự phát triển trọn vẹn. Cũng thế, trong phép lạ Ca-na, nước đã được quyền năng của Chúa Giê-su biến đổi thành rượu ngon. Hình ảnh này áp dụng vào công cuộc tái tạo dựng cho thấy Chúa Giê-su cũng muốn biến đổi mỗi người chúng ta được trở nên giống như Người, để làm một tạo vật mới trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ không còn là nước lạt lẽo vô vị nữa, nhưng là rượu ngon của Tiệc cưới Nước Trời! Các người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na đã vâng lời, làm theo điều Chúa dạy họ. Đơn giản thôi, chỉ là đổ đầy nước vào sáu cái chum. Nhưng hành vi giản dị ấy nói lên sự cộng tác tích cực với kế hoạch của Chúa Giê-su. Để được tái tạo, chúng ta chỉ cần tích cực cộng tác với Chúa Giê-su trong những công việc bình thường hằng ngày. Nhưng sức mạnh của Tin Mừng và Thánh Thần sẽ biến đổi chúng ta dần dần thành một Chúa Ki-tô khác! Chúng ta cũng không quên vai trò của Mẹ Ma-ri-a trong dấu lạ đầu tiên Chúa Giê- su đã thực hiện. Tuy Mẹ âm thầm xin Chúa Giê-su can thiệp, nhưng kết quả do sự cộng tác của Mẹ lại vô cùng lớn lao. Nó đổi mới tình huống hoàn toàn, đem lại niềm vui cho mọi người dự tiệc. Chúng ta có nghĩ rằng cuộc sống chúng ta là một tiệc cưới Ca-na không? Nếu thế, chúng ta đừng quên Đấng có quyền năng làm cho mọi sự biến đổi là Chúa Giê-su, và người Mẹ luôn lo lắng cho chúng ta là Mẹ Ma-ri-a!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Câu kết của câu chuyện Tin Mừng hôm nay (câu 11) quả thực gợi ý cho chúng ta chiêm ngưỡng và suy nghĩ. Thánh Gio-an nói mục đích thực hiện dấu lạ đầu tiên này là để “bày tỏ vinh quang” của Chúa Giê-su, và hiệu quả của dấu lạ này là “các môn đệ đã tin vào Người”.
Vinh quang của Chúa Giê-su chính là thành quả do việc cứu độ của Người đem lại. Chúng ta càng được biến đổi trong công trình cứu độ của Chúa bao nhiêu, thì vinh quang của Người càng sáng lạn bấy nhiêu. Cũng thế, chúng ta càng thêm lòng tin vào Chúa Giê-su bao nhiêu, thì việc ca tụng ngợi khen Chúa là Đấng yêu thương và cứu độ chúng ta càng lớn tiếng bấy nhiêu. Tất cả kế hoạch biến đổi và tái tạo này đều xuất phát từ Lòng Thương Xót của Chúa. Và chúng ta đừng quên mình đang cử hành Năm thánh Lòng Thương Xót đấy!
Năm thứ nhất triều đại Giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông huấn TN 2-C149
Năm thứ nhất triều đại Giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng” (Evangelii Gaudium) vào ngày 24.11.2013. Ba năm sau, Ngài tiếp tục ban hành Tông huấn thứ hai: “Niềm vui của tình yêu” (Amoris Laetitia) vào ngày 19.03.2016. Gần đây nhất, ngày 19.03.2018, năm thứ sáu triều đại Giáo hoàng của Ngài, Ngài tiếp tục ban hành Tông huấn thứ ba mang tên: “Vui mừng và hân hoan” (Gaudete et Exsultate) về việc nên thánh trong thế giới hôm nay. Trong cả 3 Tông huấn đều có dáng vẻ của niềm vui. Đó cũng là sứ điệp của Tin Mừng mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại chúng ta.
Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất loan báo sự xuất hiện của “Đấng Công Chính”, “Vị Cứu Tinh” sẽ đem đến niềm vui cho toàn thể con cái Israel. Sự xuất hiện đó mang đến một giá trị mới cho họ. Từ đây họ sẽ được trân quý như vàng ròng, như kim cương. Họ không còn là nô lệ, là thứ bị lạm dụng… nhưng sẽ là người vợ rất yêu quý, là tân nương được Tân Lang hết lòng sủng ái… Điều mới mẻ trong sứ điệp của Isaia là thay vì Thiên Chúa là niềm vui cho dân thì ngược lại dân cũng là niềm vui cho Thiên Chúa: “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62, 5b). Để từ đây dân chúng thấy rõ ràng giá trị của mình. Kết luận: Thiên Chúa và con người là niềm vui cho nhau. Con người thực sự hạnh phúc khi khám phá ra sự thật đó.
Thánh kinh dùng hình ảnh của rượu là dấu chỉ của niềm vui khi Thiên Chúa thiết đãi dân bữa tiệc có rượu: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon…” (Is 25, 6). Thánh Thi giờ Kinh Sáng Thứ Hai tuần VII Thường niên cũng nhắc đến vai trò của rượu: “Rượu ngon tiết độ Thần Khí Chúa, say ngất hồn thiêng mới đã thèm.” Vì thế rượu còn là biểu tượng của sự ngất ngây trong men tình với Thiên Chúa.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy rõ ràng rượu là dấu chỉ của niềm vui, thiếu rượu là thiếu niềm vui. Đức Mẹ đã thay mặt gia đình để trình bày trước với Đức Giêsu về khó khăn đó: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2, 3). Mẹ đã quan sát và biết chắc việc đó sẽ xảy ra, Mẹ không muốn gia đình này thiếu vắng niềm vui do việc hết rượu, và Mẹ biết chỉ có quyền năng của con mình mới can thiệp được việc này. Và Đức Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu trong một tiệc cưới tại Cana. Điều đó cho thấy Chúa đã quan tâm đến đời sống hôn nhân gia đình của nhân loại, và sẵn sàng can thiệp khi họ gặp khó khăn.
Có rượu là có niềm vui. Hơn thế nữa, rượu này là rượu ngon. Gia đình đã chuẩn bị rượu và rượu của họ vừa thiếu, lại vừa là rượu xoàng (theo lời của ông quản tiệc). Còn Đức Giêsu đã ban cho họ thứ rượu vừa nhiều lại vừa ngon, cũng theo lời ông quản tiệc: “Ai cũng thết rượu ngon trước. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (Ga 2, 10).
Như vậy qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa mang đến niềm vui cho con người và đó là niềm vui sâu xa, đích thực vượt lên trên mọi niềm vui ở thế gian này. Nó là thứ rượu do Đức Giêsu làm chứ không phải do con người làm.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay thật thích hợp trong Năm Gia Đình 2019: Đồng hành với những gia đình gặp khó khăn. Ngay từ đầu Thiên Chúa đã thiết lập định chế Hôn nhân và Gia đình và họ đã thực sự hạnh phúc trong vườn địa đàng. Thế nhưng họ đã thực sự gặp khó khăn khi muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Và hôm nay đây, khi xuống thế làm người, Đức Giêsu đã muốn định chế hôn nhân đó được tái lập lại ở sự kiện công khai xuất hiện đầu tiên của Ngài tại tiếc cưới Cana chứ không phải nơi nào khác. Ngài đã giúp cho gia đình này vượt qua hoàn cảnh khó khăn trong tình thế hết rượu bằng phép lạ đầu tay của Ngài. Như vậy, một lần nữa Ngài khẳng định: có Chúa là có niềm vui, có Chúa gia đình sẽ vượt qua mọi khó khăn.
Khó khăn thực sự của các gia đình hôm nay là không có Chúa, hay nói cách khác Chúa vẫn hiện diện trong gia đình của họ như trong vườn địa đàng thuở ban đầu, như trong tiệc cưới tại Cana, nhưng vì họ muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi gia đình mình hoặc không cần đến thứ rượu của Đức Giêsu.
Họ loại trừ Thiên Chúa như bà Eva vì bị cám dỗ để không còn lệ thuộc vào Chúa nữa. Gia đình gặp khó khăn khi không muốn thờ phượng Chúa vì mất giờ, vì theo đạo Chúa phiền phức quá, vì có một vị thần nào đó hấp dẫn hơn Chúa… Hãy nhớ bà Eva đã bị ma quỷ cám dỗ để bỏ Chúa, trong khi Chúa là Cha đích thực của bà.
Họ không cần đến thứ rượu của Đức Giêsu vì họ đang say trong men rượu do con người làm ra. Rượu đó là rượu của tiền bạc, của ái tình của nhục dục… Còn rượu của Đức Giêsu chính là tình yêu. Gia đình gặp khủng hoảng khi họ không còn yêu thương nhau, mà chỉ lo chuyện tiền bạc, tìm kiếm khoái lạc trong những thỏa mãn thú vui xác thịt, đôi khi dẫn đến công khai thách thức cả gia đình và người bạn đời.
Giáo hội đồng hành với những gia đình gặp khó khăn để mời gọi họ nhớ rằng dù họ có chối từ thì Thiên Chúa vẫn là Cha của họ. Dù họ có đi đâu làm gì, thì ấn tích của Bí tích Rửa tội cũng không phai mờ nơi họ. Thiên Chúa vẫn không bỏ họ. Và để giải quyết khó khăn này, chỉ có cách họ quay trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Và mời gọi những ai đang tìm kiếm những men say từ thứ rượu khác hãy từ bỏ ngay mà trở về với thứ rượu do Thiên Chúa làm, vì nếu họ cứ mãi mê với những thứ rượu do con người làm họ sẽ bị say xỉn không biết đường về hoặc sẽ bị ngộ độc. Chỉ có “rượu ngon tiết độ Thần Khí Chúa, say ngất hồn thiêng mới đã thèm” mà thôi.
Lạy Chúa, xin cho những gia đình gặp khó khăn biết rằng Chúa vẫn hiện diện trong gia đình họ. Và xin cho những gia đình đó biết tìm đến với sự ân cần, tế nhị của Đức Mẹ, vì chắc chắn Mẹ biết và sẽ trình bày tất cả với Đức Giêsu con của Mẹ.
Từ một tiệc cưới làng quê… đến những tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người. Chúa nhật trước TN 2-C150
1. Từ một tiệc cưới làng quê… đến những tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người.
Chúa nhật trước chúng ta đã chú ý đến bài tường thuật của Mátthêu về ba nhà đạo sĩ, một bài rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Bài tường thuật của Tin Mừng Gioan về tiệc cưới ở cana mở đầu cho "Cuốn sách về các Dấu chỉ" cũng giống như vậy. Và như A. Marchadour cảnh giác, chắc chắn rằng qua câu chuyện được kết cấu như thế, "tốt hơn ta nên, từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế nào. Thánh Gioan là người vốn thích nhìn từ một sự việc cụ thể đích thực để nhận ra ý nghĩa thần học tiềm ẩn, cột làm cho lịch sử có được nét sáng giá hơn" (L’Evangile de Jean, Centurien, 1992, tr. 55).
Việc giới thiệu các nhân vật và quan hệ hỗ tương của họ là chìa khoá thứ nhất dẫn vào lối đọc ý nghĩa biểu tượng của trình thuật này.
+ Thực vậy, các nhân vật mà người kể chuyện nói đến là "Đức Giêsu", "thân mẫu Đức Giêsu", các "môn đệ" Người, rồi ở phần tiếp của đoạn văn có người "quản tiệc" và "tân lang".
+ Theo A. Marchadour nhận xét, tất cả những nhân vật này, đều được giới thiệu quy chiếu về Đức Giêsu: thân mẫu Người, các môn đệ Người. Các môn đệ sẽ không có vai trò chủ động nào, nhưng lại quan trọng, đồng thời là chứng nhân của cảnh tượng và là những con người được biến đổi: cuối chuyện các ông trở thành những con người có lòng tin (Sđd.)
+ Còn chính tân nương sẽ không có vấn đề gì hết.
- Một chìa khóa khác đó là sự lặp đi lặp lại từ "tiệc cưới" ở đầu bản văn (c.1.2) rõ ràng là có ý làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của câu chuyện, tiệc cưới chỉ là cái khung để lồng những biểu tượng ấy.
Qua khắp cả Kinh Thánh, từ sách tiên tri Ô-xê cho đến sách Nhã Ca, Thiên Chúa luôn được trình bày như tân lang của dân Người là Israel. Giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và Israel là một giao ước hôn nhân, nghĩa là bền chặt, không thể tiêu huỷ được; giao ước ấy dựa trên nền tảng là tình yêu trọn vẹn và hỗ tương. Chính Tân Ước cũng thường xuyên sử dụng chủ đề này.
Chính chủ đề này được quảng diễn ở đây, trong bài tường thuật của thánh Gioan. Bên kia buổi lễ cưới của những cặp vợ chồng trẻ ở cana, thánh sử muốn hướng tầm nhìn của ta vào cảnh khai trương một cuộc lễ khác, cho những tiệc cưới khác: Lễ cưới của Thiên Chúa với dân Người trong Đức Giêsu Kitô Con Người, mà các ngôn sứ đã loan báo.
2. Từ nước của luật cũ... đến rượu nho của giao ước mới.
Càng chú ý đọc bài tường thuật này, người ta càng thấy rõ góc độ biểu tượng này.
- Gioan đã đặt biến cố vào "ngày thứ ba". Có phải coi biểu xác định thời gian vắn vỏi được nói ở đây, theo J.B. Michaud hiểu, là muốn đưa về mạc khải mà Gioan có ý nói đến ở 1, 51 chăng? Nói cho đúng, theo như X. Léon-Dufour, há người ta chẳng đọc thấy ở đây ý hướng của người kể chuyện là rnuốn cho câu chuyện này có liên hệ với những biến cố vĩ đại của lịch sử thánh cũng xảy ra vào "ngày thứ ba" như: hiến tế Isaac, trong St 22,4, Chúa hiện ra trên núi Sinai trong Xh 19, 11 đấy sao? Việc "xác định ngày tháng" này có lẽ muốn loan báo "một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giao ước" (Lecture de l'Evangile selon Jean, cuốn 1, tr. 222). Sau cùng, như A. Marchadour gợi ý, phải chăng việc ghi chú "ngày thứ ba" như thế muốn gợi nhớ lại biến cố Phục sinh, ngày thứ ba lúc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang, và lúc ấy các môn đệ đã tin.
- “Họ hết rượu rồi”, lời nói này của "thân mẫu Đức Giêsu" bỗng dưng khiến người ta phải chú ý.
+ Ta đừng quên rằng rượu nho là đồ uống trong ngày lễ, nhất là lễ cưới thường kéo dài nhiều ngày nên phải lo dự trữ sao cho đủ rượu nho cũng là biểu tượng các tiệc cưới mang tính thiên sai giữa Thiên Chúa với dân Israel mà các ngôn sứ hằng ca ngợi và trông đợi.
+ Sự cố thiếu rượu là điểm khởi đầu câu chuyện. Tác giả không quan tâm đến lý do của sự thiếu rượu cho bằng ý nghĩa biểu tượng của sự kiện đó: nỗi khốn khó và lòng dân Israel trông đợi ân huệ Chúa ban.
+ Chính Đức Maria "thân mẫu Chlía Giêsu" - Gioan luôn dùng từ này để gọi Đức Maria - có sáng kiến báo cho Đức Giêsu biết nhà đám thiếu rượu.
- "Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con". Câu trả lời là khá bí ẩn.
+ Trước hết Đức Giêsu xưng hô với mẹ Người không phải bằng tiếng "má" (imma), tương đương với tiếng "ba” (abba), mà lại dùng tiếng "Bà".
Ta đừng coi đây như một lời lẽ thiếu kính trọng nào đó, cũng đừng coi đó là một lúc bực mình bột phát. Kiểu gọi Đức Mẹ như thế ở đầu Tin Mừng Gioan và một lần nữa ở cuối Tin Mừng, khi ở trên Núi Sọ thiết tưởng nên được đặt ở một bình diện tương quan khác với bình diện của đời thường và của gia đình.
+ Rồi phần tiếp theo của câu trả lời càng củng cố điều ta vừa nói ở trên: "Chuyện đó can gì đến Bà và con". Đó là một kiểu nói Do Thái nhằm từ chối một sự can thiệp chưa hợp thời, chưa đúng lúc, đồng thời cho thấy có sự hiểu lầm giữa người nói và người nghe. Các dịch giả và các nhà chú giải Kinh Thánh thì cố gắng lựa lời để làm dịu đi vẻ cứng cỏi của kiểu nói này. Như A. Marchadour gợi ý, cách trả lời của Đức Giêsu, phải chăng là "tạo một khoảng cách: Chúa muốn thúc giục thân mẫu Người đi xa hơn, vượt lên chức năng làm mẹ theo huyết nhục, để sinh ra làm người môn đệ nữa" (Sđd, tr. 56).
- "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo", Đức Maria nói ngay với những gia nhân. Hưởng ứng lời kêu gọi của con, Đức Maria đã vượt khoảng cách để trở thành người môn đệ đầu tiên.
Mấy lời trên đây mà bài tường thuật đặt vào môi miệng Đức Maria chứa chất biết bao ký ức xa xăm về Kinh Thánh:
+ Nó gợi nhớ lời vua Pharaô nói với dân Ai Cập đến xin lương thực: "Hãy đến cùng Giuse, Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (St. 41,55). Hình ảnh Đức Maria mờ nhạt đi trước Đấng đang làm ứng nghiệm những lời tiên tri loan báo, một Giuse mới đang cho dân ăn, đưa dân từ thiếu thốn đến sung túc.
+ Nó gợi nhớ lời đáp lại của dân Chúa trước đề nghị của Giao Ước khi tụ họp ở núi Sinai: "Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo" (Xh. 19.8). Ở đây, ngay lúc khởi đầu Giao ước mới, thánh sừ đặt vào môi miệng Đức Maria lời tuyên xưng đức tin của dân đượlc tuyển chọn. Thánh sử giới thiệu Ngài là hình ảnh của Israel mới.
Bài tường thuật tiếp tục "Ở đó, có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái". Thật là kỳ lạ, thay vì những vò đất nung hay những bình da người ta dùng đựng rượu trong tiệc cưới Cana, và những bình ấy chắc hẳn đã cạn hết rượu rồi, thì Đức Giêsu lại bảo những người giúp việc đổ đầy nước vào các chum đá vốn không đựng rượu, mà đựng nước dùng vào việc "thanh tẩy theo thói tục người Do Thái". Và chính từ những cái chum đá đổ đầy nước "tới miệng" này (chừng 700 lít) mà các gia nhân sẽ múc rượu ngon ra, thứ rượu ngon hơn rượu đãi lúc đầu, "người quản tiệc" xác nhận như vậy.
Việc nước hóa thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê tượng trưng cho Luật cũ chuyển qua Luật mới. Rượu nho của thời đại cứu thế thay thế cho nước của giao ước đầu tiên.
3. Từ khởi đầu các dấu lạ … đến “Giờ" thực hiện.
- Bài tường thuật về tiệc cưới Cana mở đầu "Sách các dấu lạ" sẽ kết thúc ở 12,50, để từ đó sẽ khởi đầu "Sách về Giờ của Đức Giêsu".
+ Thánh sử lưu ý: chúng ta đang ở vào thời kỳ "khởi đầu các dấu lạ". Khi làm "dấu lạ" đầu tiên này, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các người thân của mình biết thân thế và sứ mệnh của Người. Cana đánh dấu bước thứ nhất trên con đường đức tin của các môn đệ: "Các môn đệ đã tin vào Người".
Nhiều "dấu lạ" khác sẽ theo sau: hóa bánh ra nhiều (Ga 6), chữa người mù bẩm sinh (Ga 9), cho Ladarô sống lại (Ga 11) sẽ triển khai mạc khải ban đầu kia và góp phần làm nên những chặng đường trong hành trình đức tin của các môn đệ.
+ Nhưng "Giờ Người chưa đến", Đức Giêsu tuyên bố như thế. Giờ nhiệm mầu ấy sẽ đan xen cả giờ khổ nạn, giờ được tôn vinh, lẫn giờ tràn đầy ơn ban của Chúa Thánh Thần. Để rồi trong ánh sáng rạng ngời của mầu nhiệm Vượt qua, mọi ý nghĩa đều được sáng tỏ và các môn đệ sẽ trở thành những con người gắn bó hoàn toàn với Đức Giêsu, nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
+ Về phần "thân mẫu Chúa Giêsu", Người "ở đó" để chứng kiến dấu lạ khai mào Giao ước mới: "Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con?", cũng như Người sẽ "ở đó, gần thập giá” (19,25) lúc "Giờ" đóng ấn Giao ước mới trong máu, sẽ điểm, lúc ấy, Đức Giêsu sẽ nói với thân mẫu Người rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà". Thân mẫu Đức Giêsu có mặt lúc "khởi đầu" thì Người sẽ có mặt khi "hoàn tất" (cf. 19,30: “Thế là đã hoàn tất").
- Bài tường thuật này được viết sau biến cố Phục sinh.
A. Marchadour kết luận: "Phép lạ ở Cana, được viết cho các tín hữu đọc, vì họ là những người đã có kinh nghiệm về niềm tin Chúa phục sinh là đã đoạn tuyệt với Do Thái giáo. Kết cấu câu chuyện cho ta thấy rõ điều đó. Mở đầu và kết luận đặt người đọc trong bối cảnh phục sinh... Toàn bộ bài tường thuật mô tả việc chuyển từ Do thái giáo sang Kitô giáo được thực hiện như thế nào trong Đức Giêsu.
Thân mẫu Đức Giêsu có mặt ở đó có nghĩa là nhờ Người mà lễ hội giao duyên giữa Thiên Chúa và loài người trở thành khả dĩ. Người dẫn đưa Israel mới (mà các gia nhân ở đây là biểu tượng) đến cùng Đức Giêsu. Nhưng khi nói với gia nhân: Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo", thì chính Người lại đóng vai người phụ nữ, hình ảnh Israel mới phải phục tùng con mình. Rượu vừa nhiều vừa ngon ám chỉ rằng thời đại Đấng Cứu Thế vui như ngày hội đã bắt đầu và từ nay rượu sẽ không bao giờ thiếu. Một giáo phụ tự hỏi: "Người ta đã uống cạn chăng? Không, vì hiện giờ chúng ta vẫn còn uống" (Sđd, tr. 58).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Rượu nho mới"
(G. Bessière, trong “Dieu si proche. Năm C", DDB, trg 83-84).
Đức Giêsu có mặt trong tiệc cưới mừng cho tình yêu của cặp trai gái làng Cana. Người sắp làm phép lạ đầu tiên trong tiệc vui này. Bài tường thuật của thánh Gioan về tiệc cưới ấy dọi một tia sáng vào quá khứ của Israel, vào tương lai của Đấng Chúa sai đến và vào đời sống của Giáo Hội.
Thời Môsê, Êlia, Êlisê, Thiên Chúa đã làm những dấu lạ để củng cố sứ mệnh của các vị ấy thế nào, thì Người cũng sắp chứng thực sứ mệnh của Đức Giêsu như vậy khi cho Người thực hiện những tiệc lạ lùng: đó chính là những "dấu chỉ". Trong Kinh Thánh, rượu nho thường là biểu tượng ơn khôn ngoan do Lời Chúa ban cho. Rồi đây Đức Giêsu sẽ là Người được ban tặng ơn ấy một cách dồi dào và triệt để.
Đức Giêsu hóa nước thành rượu trong sáu chum đá dùng cho nghi thức thanh tẩy mà người Do Thái vốn tuân giữ rất cặn kẽ; chi tiết này ám chỉ rằng Đức Giêsu sắp mang đến một sự canh tân cho Do Thái giáo. Lúc ấy, ở đó có sáu cái chum: số sáu được coi như con số không hoàn toàn muốn chỉ tỏ rằng quá khứ phải nhường chỗ cho một tương lai mới.
Sách các Ngôn sứ thường ví dân được tuyển chọn như một hôn thê bất trung, bội tín. Nên với sự hiện diện của Đức Giêsu, bây giờ là lúc những tiệc cưới giữa Thiên Chúa và nhân loại đã dứt khoát bắt đầu. Đây là những tiệc cưới mà "Giờ" chưa đến: tiệc của rượu nho trong bữa Tiệc ly và của máu trên thập giá, tiệc Thánh Thể, trung tâm đời sống của Giáo Hội vẫn tiếp tục ca tụng thứ rượu nho của những tiệc cưới đời đời.
Đức Giêsu chính là rượu nho được Thiên Chúa ban một cách hào phóng là là giao ước luôn luôn mới.
2. Vương quốc mới được khai trương
Ta phải vượt lên Cana là buổi lễ ở làng quê hôm đó để có thể nắm bắt được những luồng tư tưởng lớn của các ngôn sứ vẫn xuyên suốt lịch sử Thánh. Phải tìm lại những dấu chỉ của giao ước là tất nhiên là những tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Việc Đức Giêsu khởi sự làm những dấu lạ, rõ ràng loan báo vương quốc mới, triều đại của Đấng Mêsia. Ngày ấy được ngôn sứ Isaia mô tả là ngày mà Chúa toàn năng sẽ khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn đầy thịt cùng các món hảo hạng với rượu ngon nổi tiếng... Ngày ấy người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng trông đợi" (Is 25, 9).
Vương quốc mới được khai trương Đấng cứu độ được loan báo và được hứa cuối cùng thì cũng đã có mặt đây rồi. Đã hết rồi những lề luật khắc khe, những nghi thức thanh tẩy được tượng trưng bằng sáu cái chum, một con số nói lên sự bất toàn. Từ nay những cái đó không còn giá trị nửa. Phải nhường chỗ cho một giao ước tình yêu; với giao ước đó; Thiên Chúa trở nên rất gần gũi, gần gũi đến độ trở nên một người ở giữa chúng ta. Phải nhường chỗ cho những niềm vui của tiệc cưới và cho thứ rượu nho mới của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đến làm đảo lộn những tập quán, phá bỏ những truyền thống và không quan tâm đến những thói vụ luật.