Mừng Kính ngày Chúa Giêsu chịu phép Thanh Tẩy nhắc nhớ ngày mỗi người trong chúng ta lãnh: TN 1-C51
Mừng Kính ngày Chúa Giêsu chịu phép Thanh Tẩy nhắc nhớ ngày mỗi người trong chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy. Chúng ta cần lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy trong khi Đức Kitô không cần vì Ngài là Đấng vô tội. Ngài lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy với ước muốn tự nguyện hơn là lí do thanh tẩy tội lỗi để gia nhập Giáo Hội.
Tự nguyện
Ngài tự nguyện xuống trần gian để giao hoà, gắn bó, liên kết nhân loại với Chúa Cha. Ngài lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy vì muốn đồng hoá chính mình với nhân loại, tự nhận mình là một thành phần của tập thể nhân loại. Nhân loại cần Thanh Tẩy để trở nên trong sáng. Chính Ngài là ánh sáng nhưng tự đồng hoá với chúng sinh nên cùng chịu Phép Rửa như chúng sinh lãnh nhận. Vì thế Ngài trở nên Ánh Sáng cho trần gian và những ai bước theo Ngài sẽ không đi trong u tối nhưng bước trong ánh sáng sự thật, công lí, bình an và hy vọng.
Thứ hai Ngài muốn chia sẻ thân phận con người như chúng ta. Ngài xuống trần trở thành một trong chúng ta, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Ngài nhận Phép Rửa biểu lộ tâm tình khiêm nhu thể hiện qua hành động. Gioan sửng sốt thốt lên sao Ngài xin con thanh tẩy cho.
‘Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm Phép Rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm Phép Rửa cho anh em trong Thánh Thần’ Mc 1,8.
Việc làm trên chứng tỏ Đức Kitô muốn có được cùng cảm nghiệm như mỗi người chúng ta trải qua trong sinh hoạt thường ngày về tất cả các phương diện sinh hoạt tôn giáo, mối liên hệ tình cảm xã hội và sinh hoạt chung trong cộng đoàn.
Thứ ba, Đức Kitô tự nguyện lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy để Chúa Cha mặc khải vinh quang qua Ngài. Tỏ cho thế gian biết Ngài là Con Thiên Chúa và là Chúa. Các đại tiên tri và các vị ngôn sứ từng tiên báo về Con Người. Tiên đoán này ứng nghiệm khi Đức Kitô nhận Phép Rửa từ Gioan, vừa bước lên khỏi giòng sông, tầng trời mở ra và tiếng sấm.
‘Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con’ câu 10.
Công thức chung
Chúng ta nhận Phép Rửa theo công thức ‘ta rửa con nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần’. Chúng ta được Thanh Tẩy trong Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, Chúa cũng nói với mỗi người
‘Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con’
Chúng ta chịu thanh tẩy để thuộc về Chúa, nhận Chúa là Cha và ta là con. Con đáng hưởng lời nói ngọt ngào, yêu thương. Xưa Đức Kitô đại diện nhân loại nhận lời nói yêu thương nơi Chúa Cha. Mỗi khi ta làm việc tốt lành, thực hiện thánh ý chúng ta cũng nhận lời ngọt ngào, yêu thương. Là con cái Chúa chúng ta xứng đáng hưởng ơn thừa tự, lãnh nhận sự sống đời đời dành cho con cái. Bí Tích Thanh Tẩy liên kết chúng ta với Đức Kitô, trở thành dân riêng, dân được hưởng gia nghiệp là nước trường sinh. Trong nước này không còn phân biệt tự do hay nô lệ mà tất cả đều liên kết với Đức Kitô (Ga. 3,28).
Trong Bí Tích Thanh Tẩy chúng ta nhận lãnh Thánh Thần khi được xức dầu thánh để trở thành: linh mục, tiên tri và vương đế muôn đời. Ba nhiệm vụ quan trọng thể hiện ba cách sống để thực hành trọn đời. Ơn linh mục gắn liền với chuyên tâm cầu nguyện; ơn tiên tri thông báo lời khôn ngoan, khuyên người làm lành lánh dữ; ơn vương đế chính là tự làm chủ lời nói, hành động của chính mình. Làm tròn ba nhiệm vụ trên chính là sống tinh thần Bí Tích Thanh Tẩy.
Đấng thánh
Có bao giờ bạn kinh nghiệm sống chung với thánh nhân trong cùng mái ấm gia đình. Bạn thực đang sống với vị thánh trong gia đình nhưng không nhận ra. Cháu bé mới được thanh tẩy là thánh đó. Cháu mới gia nhập Giáo Hội Chúa và cháu là thiên thần của Chúa, thánh thiện, tinh tuyền, không tì ố, không vết nhơ, đơn sơ, hiền lành, dễ thương, dễ mến và luôn cười tươi ngay cả trong giấc ngủ cũng mỉm cười. Cháu thay đổi lối sống gia đình bạn. Từ ngày có cháu mọi sinh hoạt trong gia đình thay đổi. Thời khắc thay đổi, không còn tự tiện đi sớm về khuya, ít diễu nơi phố chợ. Nhạc kích động, tiếng ồn chào tạm biệt đi ra ngoài cửa sổ nhường chỗ cho nhạc nhẹ, êm đềm, lời hát ru con. Khói thuốc thôi không làm chủ phòng khách nhưng bay lơ lửng ngoài hành lang. Nếu có bất bình thì cũng nhỏ giọng, thì thào với nhau hơn là to tiếng. Thời gian coi phim giảm bớt. Lớn hơn chút trong nhà góc nào cũng thấy trò chơi trẻ nhỏ. Sau giờ làm việc tránh la cà nơi phố chợ nhưng mau mắn về nhìn gặp vị thánh cỏn con trong nôi đang ngủ. Đầu óc cả cha lẫn mẹ ngày đêm đều hướng về đấng thánh nhỏ trong nhà. Tất cả những điều này do tự nguyện, tự chủ, không bị ai ép buộc. Tất cả vì tình thương. Người người đều cảm nghiệm được niềm vui và tâm tình tạ ơn rạng rỡ trên khuôn mặt mọi người trong nhà. Mái ấm gia đình, tình thương đùm bọc, bình an và hạnh phúc thật đang hưởng là thành quả của tình yêu Đức Kitô muốn đem lại cho trần gian.
Lối sống tốt hơn, gia đình bình an hơn, con tim yêu mến nhiều và cảm thông trong mọi hoàn cảnh. Ai làm được ngoại trừ thánh nhân. Tái sinh trong Chúa chúng ta cũng được Chúa đón nhận như cha mẹ yêu thương đón nhận con mình.
Để mạc khải tình yêu cho muôn loài, Con Thiên Chúa đã làm người. Để bày tỏ tình yêu đến cùng: TN 1-C52
Để mạc khải tình yêu cho muôn loài, Con Thiên Chúa đã làm người. Để bày tỏ tình yêu đến cùng với con người, Thiên Chúa chọn con đường đồng thân với nhân loại. “ Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”( Ga 1,14 ). Không chỉ mang lấy kiếp người, Con Thiên Chúa còn mang vào chính bản thân phận tôi đòi, phận tội nhơ của con người. Xếp mình vào đoàn dân đang tự nhận là tội nhân đến với Gioan Tẩy Giả trên bờ sông Giođan là một hành vi thật khó lý giải theo sự luận suy của lý trí. Con tim có lý lẽ của nó. Và chúng ta chỉ có thể hiểu động thái chịu phép rửa của Chúa Giêsu bằng con tim. Tuy nhiên, dưới ánh sáng lời mạc khải qua các bài đọc Thánh lễ Chúa chịu phép rửa, chúng ta có thể nhận ra mục đích của Đấng Cứu Độ khi để cho Gioan làm phép rửa trên bờ sông Giođan.
1.Tự nguyện liên đới với mọi người để yêu thương hết mọi người:
Hai từ liên đới gợi mở cho ta hình ảnh gắn liền đai lưng với nhau. Nói đến chung lưng đấu cật là nói đến những hoàn cảnh khó khăn, gian khổ cần vượt qua. Chính vì thế không ai lại nói liên đới trong những thành công hay chung lưng trong những hoàn cảnh thuận lợi. Hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất của con người có thể nói là khi gặp phải các sự dữ. Có những sự dữ do khách quan như thiên tai hay địch họa. Có những sự dữ lại do chủ quan là do bản thân tự gây ra cho chính mình. Dưới cái nhìn đức tin thì chỉ có một sự dữ đáng gọi là dữ, đó là tội lỗi. Các sự dữ khác chỉ có thể làm hại sự sống đời này, còn tội lỗi thì có thể làm thiệt hại cả sự sống đời này và cả sự sống mai sau.
Dù là Đấng vô tội, dù là Đấng ngàn trùng chí thánh, Chúa Giêsu vẫn muốn đồng phận với nhân loại chúng ta trong kiếp tội nhân. Khởi đầu bằng việc chung hàng với đoàn người tội lỗi và điều này đã làm đẹp lòng Chúa Cha: “Này là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” ( Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 1,22 ). Trong quá trình rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không ngại ngần đến với những người tội lỗi và đồng bàn với họ, bất chấp những lời xầm xì của nhiều người nhóm biệt phái và luật sĩ ( x. Lc 5,29-32; 15,1-2 ). Người còn tự nguyện đứng về phía những người nghèo, những người bất hạnh, cô thế, kém phận, dĩ nhiên vẫn không từ chối lời mời của những người quyền quý, lớn vai hay nhiều vế trong xã hội ( x. Lc 7,36-50 ). Tất cả những sự việc ấy nói lên rằng Chúa Cứu Thế muốn bày tỏ tình yêu với hết mọi người.
2. Đi xuống tận cùng đáy sâu thân phận tội lỗi của kiếp người để nâng mọi người lên:
Tự dìm mình dưới dòng sông Giođan để cho thánh Gioan Tẩy giả làm phép thanh tẩy là quyết định khởi đầu của Con Thiên Chúa làm người khi công khai rao giảng Tin Mừng. Và điểm đến của quyết định ấy là cái chết trong phận một phạm nhân trọng tội. Con Chiên tinh tuyền của Thiên Chúa đã cúi mình xuống trước một Giuđa đã rắp tâm phản bội Thầy, trước một Phêrô lát nữa đây sẽ chối bỏ Thầy và trước cả nhóm môn đồ còn lại, vốn tham sinh, úy tử cách ích kỷ, sẵn sàng bỏ Thầy để giữ lấy mạng sống riêng mình. Người cúi xuống là để nâng con người lên.
Thiên Chúa không muốn bất cứ một ai trong nhân loại phải hư mất. Đấng Cứu độ đã đi xuống tận cùng của cảnh kiếp tội nhân. Và giờ đây không một ai, không một tội nhân nào là không có thể được tha thứ và cứu sống. Một tuơng lai tràn trề hy vọng đang mở ra cho từng người, cho toàn thể nhân loại. Nói như Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận: “ Không một thánh nhân nào là không có một quá khứ ( quá khứ lỗi lầm ), vì thế, chẳng có một tội nhân nào mà chẳng có một tương lai”. Sự khả thể đang mở ra với nhân loại khi Đức Giêsu tự nguyện đồng phận với kiếp tội nhân của con người. Và điều khả thể này đã hiện thực cách rõ ràng với người tử tội bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa: “ Ta bảo thật với anh: Ngay hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta” ( Lc 23,43 ).
Vấn nạn đặt ra cho chúng ta hôm nay và mãi mãi:
- Không được phép ngã lòng về bản thân mình cho dù ta đang trong hoàn cảnh bi đát hay tồi tệ thế nào. Không một ai là ngoài tình thương của Thiên Chúa. Không gì có thể tách lìa chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện liên đới với chúng ta cho đến cùng ( x. Rm 8,38-39 ). Không một ai, không một tình trạng nào vượt quá quyền năng vô biên của Thiên Chúa, Đấng mà không có sự gì là không thể ( x.Mt 19,26 ), chỉ trừ người phạm đến Chúa Thánh Thần, tức là cố tình không đón nhận tình yêu cứu độ. Thiên Chúa có thể làm được mọi sự nhưng Người vẫn tôn trọng tự do của con người, một món quà vô giá mà Người đã ban cho nhân loại. Mọi sự đều là có thể cho người luôn biết hy vọng và nỗ lực vươn lên trong niềm tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa.
- Không được phép thất vọng về bất cứ một ai cho dù họ đang bê bối hay đáng chúc dữ dường nào. Biết bao người thời Chúa Giêsu rất đáng và đã bị Người chúc dữ thế mà vẫn được Người xin Chúa Cha tha thứ vì họ lầm chẳng biết ( x. Lc 23,34 ). Con người là hữu thể đang chuyển thành ( L’homme c’est l’ être en devenir ). Chính vì thế, điều mà ta cần loại bỏ, cần xóa đi, đó là những định kiến của ta về tha nhân. Giữ mãi thành kiến không tốt về tha nhân là ta đang đóng đinh anh em mình bằng những chiếc đinh ác tâm, vô tình. Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét ( x. Mt 7,1-5 ). Xin đừng quên chính khi đóng đinh tha nhân bằng định kiến là ta tự đóng đinh số phận của mình. Lời kinh nguyện duy nhất Chúa Giêsu dạy, nhắc nhớ chúng ta về sự liên đới với tha nhân như là một trong những điều kiện tất yếu để đón nhận hồng ân của Cha trên trời:“Lạy Cha chúng con…”(Mt 6,9-15 )
Mừng mầu nhiệm Chúa chịu phép rửa là tán dương tình thương của Chúa, một tình thương vô biên và diệu kỳ. Mừng mầu nhiệm Chúa chịu phép rửa là phấn khởi và tích cực dưỡng nuôi niềm hy vọng vào Thiên Chúa giàu lòng xót thương, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Thiên Chúa đã nên hữu hình nơi Đức Kitô, Đấng không chỉ “không bẻ gãy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói”, mà còn “mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” ( Is 42,3; 7 ), Đấng đầy tràn Thánh Thần và đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó ( x. Cvtđ 10,38 ). Mầu nhiệm Chúa chịu phép rửa lại còn thôi thúc chúng ta tích cực đón nhận tha nhân để giúp nhau hoán cải, đổi mới và thăng tiến. Khoanh tay đứng nhìn hay cam chịu thúc thủ trước sự dữ là một thái độ “phỉ báng” hành vi cúi mình chịu phép rửa của chúa Kitô trên dòng sông Giođan. Ước gì được một lần trong đời, ta thầm nghe được lời Chúa phán: “Này là con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha”, khi ta biết yêu thương nhau bằng con đường đi xuống (như nghĩa của từ Giođan).
Đến nay tôi hãy còn nhớ hồi còn nhỏ đi học ở giáo lý, và khi bàn đến Phép Rửa của Đức Giêsu: TN 1-C53
Ðến nay tôi hãy còn nhớ hồi còn nhỏ đi học ở giáo lý, và khi bàn đến Phép Rửa của Ðức Giêsu, chúng tôi đã hỏi ông thầy giảng lúc bấy giờ: “Thưa thầy, tại sao Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa mà lại còn phải chịu phép rửa sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả”
Trước khi nghe câu trả lời của ông thầy của chúng tôi năm xưa, chúng ta thử nhìn lại con người của Gioan Tẩy Giả: Ðó là một người mặc áo lông lạc đà, có nét mặt khắc khổ và nghiêm nghị, đi khắp đó đây trong vùng ven sông Gio-đan và loan báo sứ điệp đầy phẩn nộ của Thiên Chúa: «Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách chạy trốn khỏi cơn thịnh độ của Thiên Chúa sắp giáng xuống trên đầu các ngươi? Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây rồi. Bất cứ cây nào không sinh hoa quả tốt, đếu bị đốn đi và quăng vào lửa !” (Lc 3,7+9). Thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng sự thịnh nộ của Thiên Chúa nhiều hơn là lòng nhân hậu của Người. Theo thánh nhân, người ta chỉ có thể tránh thoát được án phạt nghiêm minh và nặng nề của Thiên Chúa bằng sự sám hối tội lỗi và quay trở về cùng Thiên Chúa, qua phép rửa của ông tại bờ sông Gio-đan như dấu hiệu của lòng sám hối.
Nhưng điều đó có liên quan gì đến Ðức Giêsu?
Ông thầy giảng ngày xưa của chúng tôi đã trả lời cho câu hỏi đó một cách rất khéo léo, theo ông: Dĩ nhiên, là Con Thiên Chúa, Ðức Giêsu không cần chịu phép rửa sám hối. Phép rửa đó đối với Người chỉ có giá trị như một sự bày tỏ lòng khiêm nhường công khai. Nhưng trọng tâm của biến cố Chúa chịu phép rửa là việc Chúa Cha công khai thừa nhận Ðức Giêsu «Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta rất hài lòng về Người !” (Mt 3,17). Thật ra, điều quan trọng đối với ông thầy giảng xưa kia của chúng tôi là việc chứng minh Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, còn sứ điệp của Gioan Tẩy Giả và phép rửa sám hối của ông xem ra không đóng vai trò quan trọng đối với cái hình ảnh về Ðức Giêsu.
Và những đứa học trò chúng tôi đã hài lòng với câu trả lời đó trong một thời gian rất lâu. Một cách thành thật, có lẽ chính các bạn khi nghe thế chắc cũng đồng ý với chúng tôi, và không còn thắc mắc gì nữa về ngày lễ Chúa Chịu Phép Rửa hôm nay.
Nhưng rồi trong suốt thời gian học thần học, khi chúng tôi có dịp tìm hiểu về Ðức Giêsu Na-da-rét hơn; khi chúng tôi tập nghiên cứu và đào sâu ý nghĩa của bản văn có tính cách lịch sử và phê phán nhiều hơn, và khi chúng tôi tìm hiểu nguồn gốc cũng như truyền thống của Kinh Thánh một cách lịch sử hơn, bấy giờ câu trả lời ngày xưa của ông thầy giảng là chưa đủ, tức nếu coi biến cố Chúa Chịu Phép Rửa tại bờ sông Gio-đan chỉ có giá trị như một kiểu bày tỏ công khai sự khiêm tốn và chỉ có được ý nghĩa khi có tiếng từ trời phán ra mà thôi.
Vì thế, hôm nay tôi muốn mời các bạn, chúng ta cùng hướng tầm nhìn của chúng ta về thánh Gioan Tẩy Giả và phép rửa thống hối của ông nhiều hơn. Trước hết, thánh Gioan Tẩy Giả là ai? Sứ điệp của ngài là gì? Phép rửa của ngài có giá trị thế nào?
Mặc dầu, về mặt lịch sử, chúng ta biết rất ít về nhân thân của Gioan Tẩy Giả, nhưng dựa theo nguồn sử liệu Do-thái và lương dân, chúng ta cũng có thể nêu lên được vài nét về sứ điệp và cách hành xử của thánh nhân.
Chúng ta biết rằng giữa thời gian vào các năm 167 trước công nguyên với cuộc nổi dậy của anh em Ma-ca-bê-ô, và năm 70 sau công nguyên với cuộc cuộc chiến tranh Do-thái và hậu quả là việc tàn phá đền thờ Giê-ru-sa-lem, cho đến năm 135 sau công nguyên với cuộc nổi dây của người Do-thái do Bar Kochbar cầm đầu, thì ở thung lủng Gio-đan đã có rất nhiều phong trào rao giảng sự sám hối kèm theo phép rửa. Mục đích của các phong trào sám hối đó là kêu gọi toàn dân hãy quay trở về với Thiên Chúa Gia-vê. Bởi vì theo các vị rao giảng sự sám hối đó, sở dĩ nền chính trị của dân tộc Do-thái bị rơi vào tình trạng tồi tệ và suy thoái như vậy, tức cả đất nước bị nằm dưới ách đô hộ tàn bạo của đế quốc Roma, là vì dân tộc đã xa lìa Thiên Chúa và không còn tuân giữ các giới răn của Người nữa. Vì thế, nếu toàn dân không sám hối và quay trở lại cùng Thiên Chúa Gia-vê – đó cũng là sứ điệp của các Tiên Tri -, thì sẽ không thể tránh khỏi được án phạt tiêu diệt của Thiên Chúa được.
Giữa các vị giảng thuyết sự ăn năn sám hối đó, Gioan Tẩy Giả là người quan trọng và có ảnh hưởng mạnh nhất. Khiến cho cả những tầng lớp lãnh đạo tôn giáo cũng như chính trị phải kiêng nể. Nhưng việc thánh nhân chỉ trích thẳng thắn và gắt gao bạo vương Hê-rô-đê An-ti-pa về tội loạn luân công khai của y (x. Mc 6,18) đã khiến cho thánh nhân phải trả bằng một giá quá đắt là chính mạng sống mình. Ðối với Gioan Tẩy Giả, dấu hiệu của sự sám hối là việc chịu phép rửa tại sông Gio-đan. Ðể cho Gioan Tẩy Giả; người đã được Thiên Chúa sai đến; rửa tội cho, có nghĩa là để cho chính Thiên Chúa biến đổi mình. Và chỉ những ai chịu phép rửa đó, mới có được cơ may thoát khỏi được án phạt tiêu diệt của Thiên Chúa. Phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả là điều tối cần duy nhất. Và trong thực tế: Toàn dân đã kéo về bờ sông Gio-đan để được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho.
Còn việc Ðức Giêsu đã để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho là một biến cố lịch sử, nghĩa là một điều đã thực sự xảy ra. Nhưng tại sao Người lại làm như vậy? – Ðức Giêsu luôn giữ một mối quan hệ chặt chẽ với môi trường sống Do-thái của Người. Vâng, Người có một quê hương và một nơi « chôn nhau cắt rốn” cụ thể. Người luôn gắn bó với dân tộc của Người, luôn gắn bó với lịch sử và với tôn giáo của dân tộc. Ðức Giêsu là một người Do-thái thực sự, nói tiếng nói của dân tộc Do-thái, tinh thông lịch sử dân tộc. Người suy tư và hành động, cảm xúc và hy vọng, v.v… hoàn toàn như tất cả mọi người Do-thái khác, và cũng như họ, Người luôn đặt nặng hạnh phúc dân tộc lên hàng đầu.
Vì thế, đối với Ðức Giêsu, những phong trào sám hối và làm phép rửa của dân tộc Người không phải là điều xa lạ. Và Người không hề coi thường hay dửng dưng trước niềm tin của các đồng bào của Người. Người không sống ngoài lề cộng đồng đức tin. Người đã quan tâm tới phong trào của Gioan Tẩy Giả một cách đặc biệt, vì chắc chắn Người đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả là một con người hoàn toàn đặc biệt và đồng thời cũng rất đánh giá ông. Người đã phải cảm phục trước sứ điệp nghiêm chỉnh và chân chính của Gioan Tẩy Giả và vì thế Người đã để cho ông làm phép rửa cho: Người muốn liên đới với dân ! Bởi vì Ðức Giêsu rất quan tâm tới hạnh phúc của dân tộc Do-thái của Người – và đó cũng là điều dễ hiểu – nên Người đã xếp hàng với đoàn người đông đảo, những người muốn tránh cho dân khỏi án phạt tiêu diệt của Thiên Chúa. Người đã hòa mình vào với đoàn dân chúng, những người hoàn toàn tự nguyện sám hối và quay trở về cùng Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, trong Lễ Chúa Chịu Phép Rửa của người Kitô giáo chúng ta, chúng ta còn cần phải có những bước tới gần Ðức Giêsu hơn nữa, chứ không chỉ dừng lại ở biến cố lịch sử, hầu cho việc chấp nhận phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả nơi Ðức Giêsu không mất đi những giá trị đặc biệt của nó.
Ðối với tôi, một câu viết trong bài Tin Mừng hôm nay có một giá trị rất quan trọng: « Cùng với toàn dân, Ðức Giêsu cũng đã chịu phép rửa” (Lc 3,21). Cùng với toàn dân ! Ðức Giêsu không bao giờ đòi hỏi luật trừ cho mình, nhưng Người cùng hòa mình và hành động liên đới với mọi người. Người không xuất hiện như một người cạnh tranh với Gioan Tẩy Giả, nhưng như một thính giả đầy kính trọng và hứng thú lăng nghe sứ điệp của ông. Và cả về sau nữa, khi Người còn bày tỏ sự liên đới của mình với toàn dân một cách tuyệt căn hơn, qua cái chết trên thập giá. Vâng, qua cái chết đau thương và ô nhục trên thập giá Ðức Giêsu đã bày tỏ sự liên đới tột cùng của Người, chẳng những với dân tôc Do-thái mà còn với toàn thể nhân loại tội lỗi. Vậy, Phép Rửa của Ðức Giêsu là hành động liên đới với dân tộc của Người ! Ðối với sự liên đới cùng tận của Người với dân tộc tội lỗi, đối với sự liên đới vô cùng sâu thẳm của Người với chúng ta, qua cái chết trên thập giá, giờ đây chúng ta cùng dâng lời cảm tạ ơn Người qua hy lễ Thánh Thể: Hy lễ tạ ơn ! Amen.
Đứng trước câu hỏi: ỡNgười ta phải thực sự trở thành một người Kitô hữu như thế nào?ữ có lẽ sẽ: TN 1-C54
Ðứng trước câu hỏi: «Người ta phải thực sự trở thành một người Kitô hữu như thế nào?» có lẽ sẽ có người bảo rằng, để tìm ra câu trả lời đâu có gì khó khăn: Người ta phải cùng với người đỡ đầu mang trẻ sơ sinh đến nhà thờ để Cha Sở rửa tội cho, thế là đứa trẻ trở thành người Kitô hữu! Dĩ nhiên, một ngày nào đó đứa bé còn phải tự tuyên xưng lời hứa Rửa Tội của mình, tức ngày em Rước Lễ lần Ðầu và ngày em chịu Phép Thêm Sức. Nhưng theo nguyên tắc thì một khi đã được rửa tội, người ta trở thành một Kitô hữu, và hoàn toàn thuộc về Giáo Hội, với tất cả quyền lợi và trách nhiệm kèm theo.
Thế nhưng, ở đây người ta sẽ khó tránh được sự phản đối: Một câu trả lời như vậy thì thật quá đơn sơ và dễ dàng! nếu vậy, thì người ta chỉ là một Kitô hữu theo nghĩa hành chánh dân sự, một Kitô hữu với tấm giấy chứng chỉ Rửa Tội, chứ không phải là một Kitô hữu thực thụ đúng theo ý muốn của Ðức Giêsu, mà nhân danh Người chúng ta đã được lãnh nhận Phép Rửa!
Vâng, qua lễ nghi của Phép Rửa Tội được thực hiện trong lòng Giáo Hội, Ðức Giêsu ban cho đứa bé một cuộc sống mới. Tuy nhiên, cuộc sống đó không phải là một sự chiếm hữu chắc chắn và đương nhiên, một cách dễ dàng được: một lần là xong, nhưng nó cần phải được nỗ lực mỗi ngày để duy trì và để phát huy không ngừng qua những thực hành cụ thể trong cuộc sống. Chúng ta thư đưa ra một ví dụ nho nhỏ: Đức tin hay cuộc sống đức tin của chúng ta cũng tương tựng như một hạt giống vừa nảy mầm; nhưng mầm non đó chỉ sống sót và rồi đâm hoa kết quả được khi được khi người ta nỗ lực săn sóc phân bón, vun tưới, v.v... Đúng vậy, người ta chỉ thực sự trở nên một Kitô hữu đúng nghĩa, khi người ta biết ra sức bảo vệ đức tin của mình, biết sống đúng với những đòi hỏi của Bí tích Rửa Tội, tức biết sống theo tinh thần bác ái của Tin Mừng. Vì thế, một câu nói được áp dụng ở đây là: Thật ra, qua Bí tích Rửa Tội anh trở thành một người Kitô hữu, nhưng giờ đây vì Bí tích Rửa Tội, anh hãy trở thành người Kitô hữu thực sự! Anh hãy trở thành đúng với danh xưng «Kitô hữu» của anh! Người ta cần phải hiểu điều đó trong bối cảnh Phép Rửa của Ðức Giêsu!
Nhưng điều gì đã thực sự xảy ra trong Phép Rửa của Ðức Giêsu?
Chúa Thánh Thần đã công khai ngự xuống dư tràn trên Người và làm cho Người đủ khả năng để chu toàn sứ mệnh Chúa Cha đã giao phó cho Người, là:
• loan báo Tin Mừng giải thoát và ơn Cứu Rỗi, • dẹp tan mọi quyền lực của sự ác, • hy sinh mạng sống mình cho phần rỗi nhân loại.
Trọn cuộc sống và toàn bộ mọi hành động của Ðức Giêsu là do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Ðúng vậy, chính Chúa Thánh Thần tác động trong Ðức Giêsu và ban cho Người mọi quyền lực, để mọi hành động của Người đều mang lại hiệu quả sung mãn. Ðức Giêsu sống hoàn toàn bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chính điều đó cũng đã tương tự xảy ra trong Phép Rửa của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Nhờ Ðức Giêsu, Ðấng Tẩy Giả thực sự, Chúa Thánh Thần ngự xuống tràn đầy trên người tân tòng, chiếm hữu trọn vẹn con người anh và tác động trong anh, để anh - nếu không chống lại Người – có thể thực hiện được cuộc sống Kitô hữu của mình, một cuộc sống hoàn toàn theo sát dấu chân Ðức Giêsu; nói cách khác: Anh lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa, suy niệm và đưa ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày, hay nói đúng hơn: đem áp dụng Lời Chúa vào trong các hoàn cảnh đa phức của sự thiện và sự ác trong chính mình và trong cuộc sống của mình! Như thế, anh loại bỏ sự ác trong chính mình và trong cuộc sống của mình. Anh được giải thoát khỏi quyền lực của sự ích kỷ.
Chỉ khi nào người Kitô hữu thực sự sống Phép Rửa của mình như thế trong tinh thần môn đệ Ðức Kitô, khi anh sống trong Thánh Thần của tình yêu, chứ không phải trong xác thịt của sự ích kỷ, bấy giờ anh sẽ thực sự trở thành một Kitô hữu chân chính; bấy giờ, khi phải đối mặt với sự ác, anh sẽ là «người khỏe mạnh hơn», giống như Ðức Kitô vậy!
Nhưng trong Phép Rửa của Ðức Giêsu còn có gì khác xảy ra nữa?
Thiên Chúa Cha đã công khai tuyên nhận Người: «Con là Con yêu dấu của Ta, Ta đã chọn Con!» Chúa Cha đã công bố Ðức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là Ðấng luôn hiệp nhất trọn vẹn với Người: Trong suốt cuộc đời của mình - từ khi làm người cho đến khi chết - cả trong khi phải gánh chịu mọi đau khổ đến cùng cực và bị bỏ rơi trên thập giá.
Ðiều đó cũng xảy ra trong Phép Rửa của chúng ta: Thiên Chúa tuyên nhận Người là Cha của chúng ta, gọi chúng ta là con cái của Người, yêu thương chúng ta, chứ không hề bỏ rơi chúng ta - cả khi bên ngoài xem ra Người bỏ rơi chúng ta – dù cho bao sự thất trung và sa ngã của chúng ta; Thiên Chúa vẫn yêu thương, chứ không bao giờ bỏ rơi chúng ta, dĩ nhiên không vì sự bất phục tùng của chúng ta, nhưng do sự vâng phục của Ðức Giêsu. Tiếng nói có này của Thiên Chúa được đáp trả bằng tiếng nói có của chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô và nhờ Ðức Giêsu Kitô; sự vâng phục của chúng ta là dấu chỉ sự hiệp nhất của chúng ta với Thiên Chúa.
Ðối với con người tân thời ngày nay, hai tiếng «vâng lời» xem ra xa lạ và lạc hậu, lỗi thời và bất xứng, bởi vì họ nghĩ rằng họ đã thoát ly khỏi Thiên Chúa, đã tự giải thoát khỏi Người, không cần đến Người nữa, sẽ có thể làm chủ vũ trụ mà không cần đến Thiên Chúa, sẽ có thể tạo nên một vũ trụ hoàn toàn theo ý riêng của mình.
Nhưng điều đó có nghĩa gì? Sau cùng chẳng phải đó là kế hoạch của Thiên Chúa, Ðấng đã ban cho con người mọi khả năng và bây giờ Người muốn con người sử dụng các khả năng đó sao? Nhưng nếu Thiên Chúa đã ban cho con người các khả năng, thì cuối cùng điều đó có nghĩa là con người - với tất cả mọi khả năng và ý muốn của mình – không được phép xa lìa thánh ý của Thiên Chúa và sự hiệp nhất với Người; đàng khác, tự bản chất là một tạo vật, con người cũng không thể làm được chuyện đó đối với Ðấng Tạo Hóa của mình.
Do đó, không bao giờ có sự thoát ly khỏi Thiên Chúa. Nhưng nếu có ai vẫn quan niệm như thế, thì tự lừa dối mình, và sự lừa dối đó sẽ gặt hái được hoa quả đau thương trong nhiều nơi và nhiều trường hợp của cuộc sống người đó. Việc hiểu rõ được điều đó và tìm cách sống theo, là nguyên nhân làm cho một người trở thành một Kitô hữu đícht thực.
Tất cả những điều đó người ta có thể tóm tắt lại trong lời nói của Giáo phụ Tertulian: «Qua cuộc sống người ta trở thành người Kitô hữu, chứ không phải qua việc sinh đẻ». Dĩ nhiên, điều đó không phủ nhận hình ảnh đẹp của Phép Rửa như được tái sinh qua nước và Chúa Thánh Thần. Ðiều Giáo phụ Tertulian muốn nói, là: Người ta không trở thành Kitô hữu qua một biến cố tự nhiên như việc sinh đẻ, nhưng qua diễn biến của một cuộc sống sám hối và cải thiện, dĩ nhiên được khởi đầu với Bí tích Rửa Tội.
Vậy, Phép Rửa Tội là một lời kêu gọi chúng ta cần phải sống như những người đã được lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Ðức Giêsu, tức: Cùng với Ðức Kitô chết cho tội lỗi và cùng với Người sống cho Thiên Chúa. Sự diễn tiến của cuộc sống đó sẽ kết thúc qua ơn Rửa Tội với lời sáng tạo thứ hai của Thiên Chúa: Này đây, Ta sẽ làm mới lại mọi sự! Ðó chính là lúc tất cả chúng ta trở thành những Kitô hữu thật, những con người hoàn toàn được tràn đầy Chúa Thánh Thần, hoàn toàn được Thiên Chúa chấp nhận và kết hiệp cùng Ðức Kitô. Amen.
Hôm nay, chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Đức Giêsu vô tội, nhưng đã gánh tội trần: TN 1-C55
Hôm nay, chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Đức Giêsu vô tội, nhưng đã gánh tội trần gian. Đức Giêsu vô tội, nhưng đã tự hoà mình với các tội nhân để chia sẻ thân phận của họ. Đức Giêsu vô tội, nhưng Ngài vẫn đến xin Gioan làm phép Rửa, một phép Rửa chuẩn bị cho mọi người bước vào thời đại cứu thế. Khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa, "Trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu", và có tiếng từ trời phán: "Con là con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha". Đây thực là một mạc khải về Chúa Ba Ngôi: Cha - Con - Thánh Thần, một đời sống thông hiệp, liên kết sâu xa.
"Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa" (Lc 1,16). Gioan Tẩy giả đã công bố về phép Rửa của Đức Giêsu, khi chính Đức Giêsu lại hạ mình để lãnh phép Rửa của Gioan như bất cứ một người Do Thái nào khác vào thời bấy giờ. Đây là phép Rửa mà mỗi kitô hữu lãnh nhận để được tha thứ tội lỗi, trở nên những con cái Thiên Chúa, đồng thời là thành viên trong đại gia đình tình yêu của Thiên Chúa – Giáo hội. Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa đã làm nên đời sống Kitô giáo đích thực.
Trong Thánh Thần tức là được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đạt đến sự viên mãn của Đức ái. Chúa Thánh Thần là nguyên lý sống, hoạt động, tăng trưởng. Người làm cho đời sống Kitô giáo được viên mãn. Nhờ Người, đời sống Kitô giáo trở nên một đời sống vui tươi và ân sủng. Kitô hữu là người sống nhờ Chúa Thánh Thần, tức là tràn đầy "tình yêu và chân lý". Chúng ta được mời gọi sống trong Thánh Thần khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Phải chăng chúng ta đang sống và lớn lên trong Chúa Thánh Thần, Đấng là nguyên lý sự sống, tình yêu và viên mãn đời kitô hữu.
Khi Đức Giêsu lãnh phép Rửa, trời mở ra, tức là giữa Thiên Chúa và con người có một mối thâm tình mới. Không còn rào cản giữa trời và đất. Rào cản mà tội lỗi đã dựng nên nay được phá bỏ nhờ tình yêu. Từ nay con người diện đối diện với Thiên Chúa. Tuy là thân phận tội lỗi, nhưng Thánh Thần đã thắp lên trong con người ngọn lửa mới, ngọn lửa thiêu đốt những hẹp hòi, xấu xa; ngọn lửa xua tan bóng đêm của tội lỗi; ngọn lửa sưởi ấm những cõi lòng lạnh băng. Phép Rửa trong lửa mà Đức Giêsu thực hiện nơi mỗi kitô hữu đã khơi nguồn một tình yêu mới, một lối sống bác ái mới, một cuộc giải thoát mới. Như thế, khi lãnh phép Rửa trong lửa, chúng ta được mời gọi để sống một tình yêu mới, một lối sống mới, và một tự do của con cái Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta đang sống mầu nhiệm phép Rửa trong Thánh Thần và trong lửa ?
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa là dịp để chúng ta cùng suy nghĩ về phép Rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa của mình.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa là dịp để chúng ta chiêm ngưỡng "một vinh quang hạ mình", Đức Giêsu tự hòa mình với các tội nhân, để đưa họ thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Lạy Chúa, Mỗi ngày trong đời sống của con là ngày của Chúa. Ngày của ân sủng, ngày của Tình Yêu Chúa. Như thế, thì con phải sống và đón nhận mỗi ngày của con như một ngày của Chúa. Làm sao biến đổi những chuỗi ngày phàm trần của con thành những ngày của Chúa.
Lạy Chúa, chỉ có Ngài mới cho con bí quyết đó được mà thôi. Để con có thể yêu thương cuộc sống thường nhật như dòng thời gian gửi đến. Yêu thương đến nỗi biến đổi mỗi ngày của con thành một ngày hồng ân có điểm tới là Chúa. Tình yêu đó chỉ có Ngài mới ban cho con được mà thôi.
Khi niềm hi vọng xa tầm tay, con người rơi vào khủng hoảng. Những cuộc khủng hoảng lớn nhỏ: TN 1-C56
Khi niềm hi vọng xa tầm tay, con người rơi vào khủng hoảng. Những cuộc khủng hoảng lớn nhỏ đang vò nát tâm hồn nhân loại. Bởi đấy, hơn lúc nào, con người cần lắng nghe và dồn hết tâm lực đi tìm niềm hi vọng đích thực. Niềm hi vọng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng giải thoát nhân loại bằng sức mạnh Thần khí.
ĐI TÌM NIỀM HI VỌNG
Cuộc vui hôm nay đang cuốn hút con người vào một cơn lốc vô định. Yêu cuồng sống vội. Thực tế, “lối sống vô luân và những đam mê trần tục” (Tt 2:12) tố cáo sự trống rỗng lớn lao trong tâm hồn con người hôm nay. Nói khác, hạnh phúc không có nền tảng. Cuộc vui không tương lai. Chỉ Đức giêsu mới cống hiến cho nhân loại một nền tảng vững chắc cho niềm hi vọng con người. Là Kitô hữu, “chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” (Tt 2:13) Đó là lý do tại sao chúng ta phải “sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.” (Tt 2:12)
Tại sao Đức Giêsu có thể trở thành niềm hi vọng cho chúng ta ? Trước hết, “Người quyền thế hơn ông Gioan Tẩy giả trong việc đánh đuổi những lực lượng xấu xa,” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:687) cội nguồn mọi thất vọng và tuyệt vọng. Sức mạnh Người thể hiện rõ ràng nơi phép rửa đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Khác với ông Gioan, “Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa.” (Lc 3:16) Có gì mạnh bằng Thánh linh và lửa ? Chính vì thế, niềm hi vọng đó được bảo đảm tuyệt đối. Tương lai chắc chắn sẽ là ơn cứu độ. Thực vậy, “Người cứu chúng ta nhờ phép Rửa ban ơn tái sinh và đổi mới do Thánh Thần thực hiện.” (Tt 2:3:5) Như thế, niềm hi vọng đó chính là lời Thiên chúa hứa đã được thực hiện trong cái chết và sự phục sinh của Người.
Sở dĩ Người có thể thực hiện được công trình lớn lao đó vì “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu.” (Lc 3:22) Thánh linh chính là hồng ân cánh chung Thiên chúa gởi đến như một bảo đảm cho công cuộc cứu độ thành công hoàn toàn. Vào thời cánh chung, Thánh Thần sẽ đổ tràn hồng ân sáng tạo và ngôn sứ cho Dân Thiên chúa. Thánh Thần ngự xuống Đức giêsu để hoàn thành thánh ý Thiên chúa: giải thoát những ai bị Satan cầm buộc và rao giảng Tin mừng cho người nghèo khổ.
Công cuộc đó bắt đầu “khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa” (Lc 3:21) để “tỏ ra tình liên đới với ông Gioan trong việc loan báo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990: 687) Đúng hơn, từ giây phút đó, Đức giêsu hoàn toàn thay thế ông Gioan. Vì chỉ có Người mới mạc khải tất cả kế hoạch cứu độ.
Kế hoạch đó bắt đầu khi “trời mở ra” (Lc 3:21) và “hình dáng chim bồ câu ngự xuống trên Người.” (Lc 3:22) “Biểu tượng ngôn sứ và cánh chung này cho biết Thiên chúa thực hiện một cuộc mạc khải. Một cuộc thần khải hiển nhiên cho tất cả những ai có con mắt đức tin.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:687) Bồ câu là biểu tượng cho niềm hi vọng con người muốn yêu thương, sinh sống và hiệp nhất với Thiên chúa. Hôm nay những niềm hi vọng này được thực hiện nơi Đức giêsu. Quả thế, trong Thánh linh, Người đã phá sập những trở ngại sự sống và đã chỗi dậy từ cõi chết để về bên hữu Thiên chúa. Đúng như lời hứa, Người đã sai Thánh linh ban sự sống đến cho những ai cầu khẩn danh Người.
Tất cả bắt nguồn từ việc “Người cầu nguyện.” (Lc 3:21) Nhờ lời cầu nguyện đó, Đức giêsu đã múc được tất cả sức mạnh cứu độ toàn thể nhân loại. Chúa Cha đã công khai mạc khải tất cả bản chất sức mạnh đó khi phán với Người: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.” (Lc 3:22) Quả thực, nếu không là Con Thiên chúa, chắc chắn Đức giêsu sẽ không thể thực thi được chương trình cứu độ của Thiên chúa, một chương trình bao trùm toàn thể vũ trụ và nhân loại. Từ khi được công khai tấn phong làm Đấng Mêsia, Đức giêsu “bắt đầu thi hành sứ mệnh giữa dân Chúa.” (Kinh thánh Tân Ước 1995:265) Đây là tột đỉnh mạc khải về Đức giêsu. Mạc khải này sẽ chiếu sáng toàn thể niềm hi vọng Kitô hữu.
NHÌN VÀO THỰC TẾ
Thế giới hôm nay thuộc về ai tràn đầy niềm hi vọng. Tự bản chất, Kitô hữu phải là một người mang niềm hi vọng vào thế giới. Càng sống ơn gọi Kitô hữu, càng tràn đầy niềm hi vọng. Kitô hữu có sứ mệnh công bố cho mọi người biết Đức Kitô chính là niềm hi vọng của toàn thể nhân loại.
Con đường đưa Đức Kitô vào thế giới hôm nay xuyên qua đối thoại. Quả thực, nhân dip kỷ niệm 60 năm thành lập phong trào Focolare, ĐGH Gioan Phaolô II viết: “Những đoàn viên Focolare đã biến mình thành những tông đồ đối thoại, con đường cổ võ sự hiệp nhất sáng giá nhất: đối thoại trong Giáo hội, đối thoại đại kết, đối thoại liên tôn, đối thoại với những người vô tín.” (Zenit 7.12.2003) Nhờ đối thoại, chúng ta có thể gặp gỡ mọi người. Nội dung gặp gỡ bao giờ cũng là niềm hi vọng. Trong niềm hi vọng đó, Lời Chúa có thể thẩm thấu vào tận con tim mỗi người.
Trước tình hình thế giới đầy biến động hôm nay, nếu không bình tĩnh đối thoại, Kitô hữu không thể làm cho con người thời đại lắng nghe Tin mừng cứu độ. Giữa lúc mọi người bận bịu với nhiều chương trình lớn nhỏ khác nhau, người ta vẫn thấy thiếu vắng “nguyên lý nền tảng hiệp nhất mọi kế hoạch và hành động.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7.12.2003) Nói khác, nhân loại cần một luồng sinh khí mới, một linh hồn đem lại cho mọi công cuộc hôm nay một giá trị đích thực. Hơn lúc nào, “các tín hữu phải khẩn trương tái cam kết đáp ứng những thách đố trong công cuộc Tân Phúc âm hóa.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7.12.2003) Có thế, Kitô hữu mới thấy niềm hi vọng vươn lên giữa những đổ nát hôm nay.
Đông Ca-mê-lô” là tên một cuốn phim, trong đó nêu bật cuộc đối đầu liên tục giữa vị linh mục và: TN 1-C57
“Đông Ca-mê-lô” là tên một cuốn phim, trong đó nêu bật cuộc đối đầu liên tục giữa vị linh mục và ông thị trưởng. Xem ra hai bên lúc nào cũng hoạt động sát cánh bên nhau để phục vụ công ích, nhưng lúc nào cũng bảo vệ quan điểm của mình: một bên là niềm tin Công giáo, một bên là ý thức hệ vô thần. Một trong những cảnh trong đó dường như ông thị trưởng muốn thỏa hiệp với tôn giáo, đó là cảnh ông lén lút đưa đứa con mới sinh đến nhà thờ xin vị linh mục rửa tội. Nhưng đến khi đặt tên thánh cho con ông lại đưa ra một cái tên là Sta-lin.
Cũng như ông thị trưởng trên đây, ngày nay có nhiều người Công giáo đưa con mới sinh đến nhà thờ xin linh mục cử hành bí tích rửa tội mà không hiểu ý nghĩa tôn giáo cũng như các cam kết mà bí tích này đòi hỏi. Nói khác đi, người ta trở thành Ki-tô hữu mà không sống cho đến cùng niềm tin tôn giáo của mình. Ông thị trưởng trên đây cũng có thể nhìn vào bí tích rửa tội như nhiều người ngoài Ki-tô giáo. Họ xem nghi thức này như một thứ ma thuật, bùa chú, có hiệu năng bảo vệ con người khỏi nghịch cảnh và bất hạnh trong cuộc sống. Nhiều người khác cũng có thể nhìn vào bí tích này như một thứ mê tín dị đoan cần phải loại bỏ. Vậy đâu là ý nghĩa đích thực của bí tích rửa tội ?
Chúng ta hãy trở lại dòng sông Gio-đan bên Pa-lét-tin, nơi Chúa Giêsu đã đến dìm mình trong nước. Tại đây, Gio-an Tẩy Giả đã lôi kéo được đông đảo dân chúng đến nghe giảng và tỏ dấu sám hối bằng cách dìm mình trong nước. Chúa Giêsu cũng chen lẫn trong đám đông ấy để xin Gio-an thanh tẩy cho Ngài. Nhưng là một người không vương tội lỗi, Chúa Giêsu đến dìm mình trong nước không phải để thể hiện sự sám hối. Ngài muốn nói lên một ý nghĩa khác, đó là loan báo cái chết và phục sinh của Ngài: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết. Trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại. Đây cũng là ý nghĩa bí tích rửa tội. Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội, chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được sinh lại làm con cái Thiên Chúa và gia nhập vào Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội coi bí tích rửa tội như một cuộc tái sinh: người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Tôi thấy một số người không mừng sinh nhật ngày họ sinh ra vào đời, nhưng mừng ngày họ được chịu phép rửa tội. Thiết nghĩ điều này rất hay, rất đúng, vì đây mới là ngày trọng đại, cao quý, như Đức Giáo hoàng Pi-ô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nhân ngày kỷ niệm rửa tội của ngài: “Ngày cha chịu phép rửa tội là ngày cao quý nhất của đời cha. Cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quý nhất của đời các con”.
Nhờ phép rửa tội, chúng ta được mang tước hiệu Ki-tô hữu. Ki-tô hữu là người có Đức Ki-tô. Mỗi Ki-tô hữu là một Đức Ki-tô thứ hai. Mỗi Ki-tô hữu là một nối dài của chính Đức Ki-tô. Đó là tước hiệu cao cả của chúng ta. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè mà phải luôn chiếu tỏa trong từng giây phút của cuộc sống.
Nhưng tôi xin phép hỏi: Phải chăng nhiều người trong chúng ta đã là Ki-tô hữu một cách miễn cưỡng ? Đức tin chưa phải là niềm vui sống mà chỉ là một mớ những ràng buộc khiến chúng ta cảm thấy nặng nề, khó khăn ? Ngoài những ràng buộc của luân lý Ki-tô giáo và gánh nặng của những sinh hoạt đạo giáo, biết đâu nhãn hiệu Ki-tô lại không là đầu mối của biết bao kỳ thị, thiệt thòi trong cuộc sống của chúng ta ? Chúa Ki-tô đã mang lại cho chúng ta cuộc sống mới của những người con Thiên Chúa, cho dầu cuộc sống ấy có thể tạo ra nhiều ràng buộc, có thể đòi hỏi nhiều hy sinh và chiến đấu, có thể gây nên những phiền toái, thua thiệt…nhưng đó là giá để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Có thể nói đó là một ước mơ của người Ki-tô. Bình thường có một ước mơ để theo đuổi, đó là sức mạnh giúp người ta có thể thành công và kiên trì trong cuộc sống. Thì trong đời sống đức tin cũng thế, xem ra người Ki-tô cũng theo đuổi một ước mơ. Chẳng hạn: ngay từ khi còn nhỏ, thánh Đông Bốt-cô đã ước mơ được chăm sóc và hướng dẫn các trẻ em lang thang nơi đầu đường xó chợ. Cả cuộc đời ngài đã cống hiến để ước mơ ngày trở thành hiện thực. Mục sư Lu-thơ Kinh cũng đã từng ước mơ một ngày nào đó con cái của những người nô lệ da đen sẽ ngồi đồng bàn với con cái của những chủ nhân da trắng. Cả cuộc đời ông là một cuộc tranh đấu cho đến khi ngã gục, để thực hiện ước mơ ấy. Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta cũng đã có lần ước mơ được lên tới cổng thiên đàng. Nhưng khi thấy thánh Phê-tô không cho những người khốn khổ cùng được vào thiên đàng, thì mẹ đã trở lại trần gian để tranh đấu cho tới khi nào những người cùng khổ cũng được vào thiên đàng.
Đâu là ước mơ của chúng ta ? Đâu là động lực khiến chúng ta tiêu hao tất cả cuộc sống ? Đâu là lẽ sống của đời chúng ta ? Đó là một cuộc sống đúng danh nghĩa người Ki-tô. Đó là hạnh phúc nước trời. Đây chính là ước mơ, là động lực, là lẽ sống của đời chúng ta.
Trước khi bước vào đời sống công khai đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đến xin: TN 1-C58
Trước khi bước vào đời sống công khai đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đến xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình tại sông Giorđan. Ngài hòa nhập với dòng người đến nhận phép rửa, không phải để xin ơn tha tội vì Ngài là Đấng trong sạch vô cùng, nhưng Ngài nêu gương khiêm hạ cho mọi người; đồng thời thánh hóa nước để thanh tẩy trong phép Rửa tội mà Ngài sẽ thiết lập.
Sau khi được kéo ra khỏi nước và đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu thấy” trời mở ra và Thánh Thần hiện hình giống như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,21-22). Đấy là lời Chúa Cha tuyên phong Đức Giêsu là Đấng Messia để ra đi rao giảng Tin mừng cứu độ. Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Rửa tội để tha tội cho chúng ta. Mọi người đã được chịu phép Rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu vô cùng cao quí. Vì thế, mỗi Kitô hữu phải sống cho xứng với hồng ân được mang danh Chúa Kitô, được sát nhập vào Chúa Kitô. Mọi người phải lo chu toàn sứ vụ của mình đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với mọi người, để đời sống của chúng ta phải được ca ngợi là chứng nhân trung thành của Chúa, có một đời sống “nội thánh ngoại vương”.
I. CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
1. Phép rửa tại sông Giorđan
Chúng ta đang ở bên bờ sông Giorđan, nơi Gioan Tẩy giả rao giảng, kêu gọi mọi người sám hối, nhận phép rửa để được ơn tha thứ. Thế nhưng, chúng ta thấy rằng điều quan trọng không phải chỉ nhằm ở việc ông Gioan rao giảng, mọi người tuốn đến lãnh nhận phép rửa,… mà đó còn xẩy ra một sự kiện hết sức trọng đại: Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác đi vào dòng sông Giorđan để lãnh nhận phép rửa từ tay ông Gioan.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa không chỉ là bước khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng mà Chúa sẽ thực hiện sau này; biến cố chịu phép rửa cũng không chỉ là việc Chúa Giêsu được Gioan Tẩy giả giới thiệu mà đó còn là một sự kiện xuất phát từ chính Thiên Chúa được minh chứng bằng những việc lạ lùng như việc trời mở ra và việc Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự trên Người cùng với lời tuyên phong của Chúa Cha.
Đời sống công khai của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3,21). Mặc dầu phép rửa mà Chúa lãnh nhận không phải là bí tích rửa tội, nghĩa là không để được tha tội vì Người không có tội, phép rửa đó cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Phép rửa đánh dấu cái sứ mệnh công khai của Người trong việc rao giảng và chữa lành. Người chịu phép rửa để thánh hóa nước để trở thành chất thể trong bí tích rửa tội do Người thiết lập.
2. Chúa Giêsu được tấn phong
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên ý tưởng một cuộc lễ phong vương. Ngày xưa khi một vị hoàng vương được tôn lên làm vua thì họ phải trải qua một cuộc phong vương gồm ba sự việc:
Phải tắm rửa sạch sẽ. Phải được xức dầu. Phải được tôn phong làm vua.
Hôm nay khi sắp ra giảng đạo để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Chúa Giêsu cũng được tấn phong làm vua qua ba nghi lễ như sau:
Trước tiên Người chịu phép rửa của Gioan dưới sống Giorđan như một dấu ăn năn sám hối, mặc dầu Người là con chiên trong sạch.
Sau đó, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người”(Cv 10,38b; Is 61,1), để trở nên Đấng Thiên Sai:”Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”(Cv 10,38c).
Cuối cùng, Người đã được Chúa Cha công nhận là Vua Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, như Tin mừng Luca viết:”Khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,22).
3. Dấu chỉ Bí tích Rửa tội.
Câu hỏi tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép rửa ? Các thánh sử đưa ra nhiều khía cạnh như Matthêu (3,14-15), Luca (3,21) hay Gioan (1,31-34). Các thánh giáo phụ còn đưa ra nhiều lý do khác, ví dụ Chúa chạm đến nước để thánh hóa nước và làm cho nước được thần lực tẩy xóa tội lỗi trong Bí tích Rửa tội…
Chúa Giêsu xin đến rửa, không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Người chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Người, và cuộc đời này chỉ hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã và là số phận bi đát nhất, tệ hại nhất.
Chúa Giêsu đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Rửa tội cho những kẻ theo Người bằng việc đích thân Người xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng cao đẹp hơn tất cả các vị trước với lời rao giảng của chính Người để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Người đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho Bí tích Rửa tội.
II. HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI.
Khi Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình trong nước không phải là để thanh tẩy Người vì Người không vương tội lỗi, Người muốn nói lên một ý nghĩa khác, đó là loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.
Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào sự chết và sống lại của Người. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng. Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15).
Đó chính là ơn siêu nhiên, “ơn thánh hóa”, “ơn sủng của sự công chính hóa” mang lại các nhân đức đối thần và luân lý, cùng các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).
Ngày được chịu phép rửa tội là một ngày trọng đại, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta. Đức Giáo hoàng Piô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nhân ngày kỷ niệm rửa tội của Ngài:”Ngày chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời Cha. Cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời các con”.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, một hồng ân cao quí Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nên có một vài cảm nghĩ về phép Rửa tội.
Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa tội trong nhà thờ. Chúng ta được rửa bởi tất cả các biến cố xẩy ra trong đời:
Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn: đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta khỏi những gì gian trá và vô dụng.
Chúng ta được rửa bởi những đau khổ, buồn rầu: đó là những dòng nước u ám nhưng chỉ có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
Chúng ta được rửa bởi niềm vui: đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
Chúng ta được rửa bởi tình yêu: đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa dưới ánh nắng mặt trời.
Phép rửa là một hạt giống, cần phải nảy mầm trong suốt cả đời sống. (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C, tr 119)
III. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI ?
Tất cả những người chịu phép rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu cao quí mà chính thánh Phaolô đã gọi lần đầu tiên ở Antiochia:”Barnabê và Saulê đến thành Antiochia. Hai người gặp dân chúng trong nguyện đường và dạy dỗ nhiều người. Chính ở Antiochia lần đầu tiên, những tín hữu được gọi là Kitô hữu”(Cv 11,26)
Nhờ phép rửa tội, chúng ta được mang tước hiệu là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Đức Kitô, được mang danh Chúa Kitô. Kitô hữu là một Kitô khác (Alter Christus). Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao cả của chúng ta. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè mà phải luôn chiếu tỏa từng giây phút của cuộc sống.
Truyện: Kitô là gì ?
Sau đệ nhị thế chiến, tại một vùng mỏ than bên Anh, người ta hỏi tụi con nít:
- Kitô là gì ?
Chúng trả lời:
- Là một tiếng chửi thề.
Điều tra ra mới biết người lớn ở vùng này dùng từ Kitô để chửi thề.
Ở Việt nam, trước giải phóng, có một hãng bột giặt lấy tên Kitô mà đặt cho một loại sản phẩm của họ, cũng như một hãng mì ăn liền lấy tên Phật Tổ để đặt tên cho mì chay họ sản xuất Vậy mà người Công giáo lẫn Phật giáo chẳng thấy ai phản đối. Trong khi đó, ở Pháp, hồi cuối thập niên 50, hãng phô-mai sản xuất loại “con bò cười”, trước tiên gọi nó là “con bò cầu nguyện” (La vache qui prie), đã bị các Kitô hữu kiện, vì đã nhạo báng tôn giáo.(Thiện Cẩm, Trái chín đầu mùa, tr 13)
Kitô hữu phải là người mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài như thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu Rôma:”Anh em hãy mặc lấy Chúa Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”(Rm 13,14). Mặc lấy Chúa Kitô là trở nên chính Chúa Kitô để có thể nói:”Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20).
Một người đàn bà quan sát người ta phân phát quần áo cũ cho người lang thang ngoài đướng phố. Thình lình một ý tưởng đến với bà: Nếu mang áo quần của người khác, gầy dép của người khác, thì mình sẽ như thế nào ? Và từ đó bà khám phá ra ý nghĩa của Kitô giáo. Kitô hữu là người mang giầy của người khác: giầy của Chúa Kitô. Họ đi đến nơi mà Chúa Giêsu muốn đến và làm những gì Ngài muốn thực hiện. Và đó cũng là ý nghĩa của việc muốn trở thành Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay.
Khi mang giầy của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy dễ chịu đến mức độ nào ? Và đôi giầy làm tôi khó chịu ở chỗ nào ? Mỗi đặc tính đều có một động lực bên trong. Xin hãy để cho Chúa Kitô là động lực đó. Mỗi hành động đều có một ý nghĩa chính. Xin hãy để cho Đức Kitô là ý nghĩa chính đó (Henry Drummond).
Định nghĩa trên nghe cũng hay hay. Dùng những từ như: việc mặc lấy, mang lấy giầy của Chúa Kitô, để diễn tả phần nào thực thể người Kitô là ai, việc dùng từ như vậy, không diễn đạt hết thực thể của người Kitô. Người Kitô không phải chỉ là là kẻ mang giầy của Chúa mà phải là chính Chúa Kitô, Ngài như thế nào, chúng ta phải như thể ấy.
Khi nói về Kitô hữu, sử gia Tertullianô viết: “Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa.
Câu:”Kẻ muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường” .
IV. SỨ VỤ NGƯỜI KITÔ HỮU.
Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tôn phong để đi rao giảng Tin mừng cứu độ. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Thiên Sai, mà dân tộc Israel hàng ngàn năm mong đợi.
Đức Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo. Mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi:”Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với những anh em không cùng tín ngưỡng” ?
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu phép rửa không thể không nhắc nhở chúng ta nhớ đến sứ vụ của người Kitô hữu. Nhờ Bí tích Rửa tội chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa, được hưởng gia tài vĩnh cửu của Thiên Chúa và nhất là cùng được sai đi đến với mọi người. Không việc làm gì cụ thể khác hơn là chúng ta học theo mẫu gương của Đức Giêsu và thực thi sứ mạng rao giảng Tin mừng, để nối tiếp công việc của Ngài.
Là con cái Thiên Chúa quả là một hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Nhưng chúng ta phải làm gì để Chúa Cha được hài lòng ? Nếu Bí tích Rửa tội được cử hành cần đến nước thì cuộc sống người Kitô hữu cũng cần được gội rửa trong nước để trở nên thanh sạch và bắt đầu cuộc sống mới, trở nên con người mới thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa. Muốn được như vậy mọi suy nghĩ, lời nói, và hành động của chúng ta phải phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, hơn là ý riêng của mình, và hãy để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt như Đức Giêsu.
Truyện: Nội ngoại đồng nhất.
Có hai người bộ hành đi đường xa mệt nhọc, đêm đến phải vào ngủ trong một cái miếu nổi tiếng là có ma quái. Một người là Kitô hữu tin tưởng vào sự che chở của Chúa nên không chút sợ hãi. Trái lại, người bộ hành không phải Kitô hữu lại cảm thấy lo sợ, nên đã đề nghị với người bạn cho mình mượn Thánh giá đeo cổ.
Quả thực, đêm đó yêu tinh xuất hiện, nó lần mò đến từng người, sờ vào cổ người Kitô để sát hại. Con yêu tinh mới thốt lên:”Người này có trong mà không có ngoài”, nghĩa là người này là Kitô đích thực, dù không đeo một dấu hiệu nào.
Sang người bộ hành kia, con yêu tinh chạm đến Thánh giá trên cổ người ấy mà nói:”Người này có ngoài mà không có trong”, nghĩa là người này tuy mang Thánh giá, nhưng không phải là Kitô hữu đích thực.
Chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta thi hành các bổn phận đạo đức, chúng ta mang trên mình nhiều hình ảnh của Chúa và Đức Mẹ, nhưng liệu tâm hồn chúng ta có đích thực là tâm hồn Kitô hữu không ? Hay có lẽ chúng ta chỉ có cái bên ngoài hào nhoáng của thời trang, mà bên trong lại trống rỗng (Mỗi ngày một tin vui, tr 119).
Chúng ta thường gọi vua Đavít là thánh vương. Người Á đông cũng gọi các vua đạo đức thánh thiện là “thánh vương” như vua Văn, vua Vu thời xưa. Người ta lấy câu nói của Vương Dương Minh làm châm ngôn cuộc sống của các vị ấy:”Nội thánh, ngoại vương”, bên trong là vị thánh, bên ngoài là một ông vua.
Người Kitô hữu được tham dự vào chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiệu một tâm hồn luôn liên kết với Thiên Chúa Tình yêu. Ước gì mọi tư tưởng, mọi hành động của chúng ta đều là một thể hiện của niễm tin sâu xa của đời sống đạo đích thực, chân thành và không giả dối.
Ở đời, khi người ta dựng vợ gã chồng cho con cái thường chọn nơi môn đăng hộ đối; khi chọn bạn: TN 1-C59
Ở đời, khi người ta dựng vợ gã chồ ng cho con cái thường chọn nơi môn đăng hộ đối; khi chọn bạn mà chơi thì cũng chọn người hiền. Bình thường ai cũng chọn cái tốt cái hay. Không ai lại chọn cái xấu cái dở bao giờ.Thiên Chúa là Đấng Thánh. Nếu Người vào đời mà liên đới với những bậc Thánh Hiền, với những Người Công Chính thì chẳng ai phản đối. Nhưng không, Chúa Giêsu đã gắn bó thân phận mình với loài người tội lỗi.Trước khi bắt đầu công cuộc rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ thật lạ lùng là Người tới bên bờ sông Giođan và xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Đây là sự hạ mình sâu thẳm của Đấng Thánh và là một cuộc gặp gỡ lịch sử Cưụ ước - Tân ước. Biến cố không chỉ loan báo trước cuộc khổ nạn của Đức Giêsu mà còn loan báo về sự phục sinh vinh quang của Người.
1. Khiêm hạ thẳm sâu
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Đức Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạng gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái, hayyarden, có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc, chảy qua biển hồ Galilê và cuối cùng đổ vào Biển Chết. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestin, sông Jordan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: Khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông. Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này, khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan, các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Jordan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Jordan...” (Gr 12:5; 49:19; 50:44) qua Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êliđeo xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel (chương 47) diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó.
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Đức Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Đức Giêsu. Ngài là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Ngài là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài” sao lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình để được chịu thanh tẩy?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của con Thiên Chúa làm người !
2. Cuộc gặp gỡ lịch sử
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.
Cuộc gặp gỡ này không phải là một cuộc tranh cãi dành ưu thế, nhưng thật thú vị tuyệt vời khi cả hai đại biểu đều khiêm nhường đón nhận nhau trong sứ vụ. Đức Giêsu từ tốn bước xuống dòng nước Giođan và xin Gioan làm phép rửa cho mình.Gioan hân hạnh xin Đức Giêsu rửa cho mình vì ông nhìn thấy đây mới chính là nhân vật ban phép rửa trong Thánh Thần như ông đã loan báo.
Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mơ ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Đức Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với niềm hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha.
Cuộc gặp gỡ giữa hai Đấng tại sông Giođan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo hội chọn làm khởi điểm cho mùa thường niên là mùa phụng vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng tin mừng của Chúa Giêsu.
Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần khí và nước, giữa Tân ước và Cựu ước.Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí tích Rửa tội của Chúa Giêsu, chúng ta nhận đước ấn tín của Chúa Thánh Thần, trở nên con cái Thiên Chúa.
3. Hãy nhớ mình đã đuợc Thanh Tẩy
Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan là một sự hạ mình sâu thẳm, một sự khiêm nhường cao cả đã làm cho cửa trời mở ra, ân sủng tuôn đổ, ơn cứu độ được trao ban và lan truyền. Mỗi người Kitô hữu qua bí tích rửa tội, được thần linh ngự xuống, được nghe tiếng Chúa Cha vang dội: này là con yêu dấu của Ta, Ta đặt trọn vẹn yêu thương trên con. Tâm hồn mỗi người trở nên Đền Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tới ân huệ cao trọng mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nhờ Phép rửa của Người. Phép Rửa tội là cửa đưa chúng ta vào sự sống mới, vào Nước trời. Đó là bí tích đầu tiên của luật mới. Đó cũng là bí tích Chúa đã trao lại cho Giáo hội cùng với Tin mừng khi Người truyền cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” ( Mt 28,19). Vì thế, Thánh Tẩy là bí tích của đức tin, làm cho loài người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa và được ơn làm nghĩa tử, khởi đầu cuộc sống mới trong Đức Kiô. Do vậy, trong nghi thức tiếp nhận, Giáo hội luôn hỏi người dự tòng: “Con xin gì cùng Hội Thánh ?”. “Thưa, con xin đức tin”. “Đức tin mang lại điều gì cho con ? ”. “ Thưa, sự sống đời đời”. Và trước khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng xác nhận công khai từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin trước mặt cộng đoàn.
Người Kitô hữu được thánh hiến cho Thiên Chúa, đi vào đời sống hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Ý thức ân huệ cao trọng này để mỗi người chúng ta xây dựng đền thờ tâm hồn mình xứng đáng cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị bằng một đời sống công chính, đạo đức, trong sạch. Ước mong mỗi tín hữu chúng ta luôn nhớ mình đã được xức dầu, được mặc áo trắng tinh tuyền, được trao nến sáng Phục sinh, được thanh tẩy trong nước và Thánh Thần để sống xứng đáng mỗi ngày với ân huệ đã lãnh nhận.
Đọc đoạn trích từ Isaiah mà không nghe những âm hưởng của một Messiah-Handel (Handel: TN 1-C60
Đọc đoạn trích từ Isaiah mà không nghe những âm hưởng của một Messiah-Handel (Handel, George Fideric, 1685 – 1759, nhà soạn nhạc người Anh, sinh ở Đức) thì quả là khó. Những vần thơ trác tuyệt này từ “đoản khúc vỗ về” của Isaiah buông xuống lời chào mừng thính giác. Sự khổ đau đã trải qua và kết thúc. Tất cả những cấm đoán đã chìm vào quá khứ. Ở đây không có “đổ máu và hăm dọa” từ Thiên Chúa, chỉ có những lời dịu dàng êm ái và hình ảnh của đám mục đồng tụ tập chăm sóc đàn cừu. Thiên Chúa không quên họ và không quay lưng lại với họ.
Nhưng có một thử thách. Có thể uy quyền và sự thưởng phạt gợi ý rằng một lần nữa người bênh vực quyền lợi của Israel chống lại kẻ thù của họ. Nhưng trong tương lai sẽ giành rất ít chiến thắng áp đảo và Israel bị đánh tơi bời khắp nơi bởi những sức mạnh siêu cường tham chiến chẳng hạn như Ba tư, Hy Lạp và cuối cùng là những người La Mã. Sự vỗ về an ủi của Thiên Chúa là ý nghĩa hồi sinh một dân tộc chứ không phải một thực thể chính trị. Có lẽ dòng dài nhất trong đoạn trích là lời yêu cầu Israel (dưới cái tên Zion và Jerusalem) hành động như một người đưa tin mang đi tin tức tốt lành. Và chúng ta có thể sử dụng một số tin lành vì nó đôi khi có thể như nguồn cung cấp tóm lược. Nhưng những tin lành ấy ở đây là một điều gì đó đơn thuần và uyên thâm: nơi đây là Thiên Chúa của các bạn!
Trong một thế giới mà niềm tin nơi Thiên Chúa đối với nhiều người khó vươn cao, món quà vô giá mà chúng ta có thể cho đi là tuyên xưng Thiên Chúa trong một chừng mực nào đó khả tín, an ủi, hân hoan. Việc tuyên xưng Thiên Chúa trong thời đại của chính chúng ta phải vượt lên trên những gì là phương châm và xảo ngôn. Nó không được phép phân chia và chối bỏ hoặc thực hiện bạo lực bằng bất cứ cách nào, mà phải đưa ra hy vọng, khuyến khích và mục đích ý nghĩa. Đó là sứ mệnh của Chúa Giê-su và nó đã gây ra những cuộc bút chiến, tranh luận và những mối bất đồng cuối cùng dẫn đến cái chết của Người. Nhưng việc tuyên xưng đó hôm nay ít gây tranh cãi, bất đồng.
Cái thiện và lòng nhân từ bác ái tiềm ẩn kết quả mang danh vì Chúa Giê-su, sự biểu lộ tuyệt đối ân sủng của Thiên Chúa là ai. Cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người là để tất cả có thể lãnh nhận ơn cứu độ. Tốt hơn hết, sự cứu rỗi mà Người mang đến cho chúng ta là điều gì đó mà chúng ta thụ hưởng hoặc để mà chúng ta có quyền thế. Nếu nó là như vậy, chúng ta chắc chắn sẽ trở nên kiêu căng, ích kỷ với thái độ của chúng ta có thể khinh thường những ai mà ngỡ rằng những người đó hèn mọn tâm hồn. Nhưng đó là món quà và phải được chấp nhận vì như thế bằng một sự thú nhận khiêm nhường của sự yếu đuối và lỗi lầm để sống theo như hình ảnh của Thiên Chúa mà chúng ta được tạo dựng. Đây không phải là ngõ tắt lối rẽ bởi bất kỳ ý nghĩa nào vì Chúa giê-su dạy chúng ta một đường lối thích hợp để sống một cuộc sống thánh thiện. Một cuộc sống hoàn toàn thay đổi là một báo hiệu tốt lành mà chúng ta thực sự đón nhận món quà của Người vào tâm hồn mình và đáp lại hồng ân ấy. Một cuộc sống hân hoan và thánh thiện là cách tốt nhất mà chúng ta có thể gửi đến Thiên Chúa với lòng tri ân. Sự kiện Chúa Giê-su chịu phép rủa từ đôi tay của Gio-an Tẩy giả là cội nguồn của tình trạng hoang mang bối rối và mối quan tâm đối với những Ki-tô hữu đầu tiên. Phép rửa của Thánh Gio-an là một trong những ăn năn hối cải. Chúa Giê-su cần gì để trở nên vô tội, đã chịu phép rửa như vậy? Mỗi trong bốn tác giả viết Phúc âm, mỗi người đã kể câu chuyện này một cách khác nhau trong một nỗ lực để giải thích điều này. Thánh Lu-ca đã che giấu sự việc mà phép rửa đã chạm vào tay của Thánh Gio-an và thậm chí đã phát biểu rằng ông đã bị chặn lại.
Nhưng có một khía cạnh khác đối với phép rửa, chẳng hạn sự kết nạp và soi sáng. Chúa Giê-su đã chia sẻ những trải nghiệm loài người của chúng ta và đối với Người phép rửa là bước ngoặt trong cuộc đời của Người – không quay trở lại sau này. Điều này được thực hiện một cách rõ ràng bởi sự kiện mà Chúa Giê-su cầu nguyện sau khi chịu phép rửa. Một điểm duy nhất được hình thành bởi Thánh Lu-ca. Trong Tim Mừng của Thánh Lu-ca, Chúa Giê-su luôn tìm thấy trong lời cầu nguyện những điểm khắt khe trong cuộc sống của Người. Tiếng nói của Thiên Chúa đã làm bản chất và sứ mệnh của Chúa Giê-su hiển nhiên đối với Người. Từ điểm này hướng tới cái nhìn của Người tập trung vào Jerusalem, thành phố định mệnh của Người. Và Gio-an Tẩy giả đưa ra lời gợi ý nhẹ nhàng ý nhị về điều gì đó thật xa xôi, vì bởi phép rửa của Người, cuộc đời và cái chết của Chúa Giê-su sẽ mở ra quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Phép rửa của chính mỗi chúng ta góp phần vào sứ mệnh của Chúa Giê-su và một con đường xa hơn nữa để “được cứu rỗi”. Đó là lời kêu gọi trước tình mộn đệ, phục vụ và sự sống trong mối giao hòa với ý nguyên của Thiên Chúa.
Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, Tin Mừng hôm nay nói đến câu chuyện một dòng sông,: TN 1-C61
Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, Tin Mừng hôm nay nói đến câu chuyện một dòng sông, dòng sông Jordan, nơi Con Thiên Chúa bước xuống để xin vị tiền hô của mình ban phép rửa.
So với Cửu Long mênh mang thuyền qua lại, Jordan có thể chỉ là một con kênh. Sánh với Hồng Hà cuồn cuộn nước mênh mông, Jordan không hơn không kém một con lạch. Ví với Dòng Hương dùng dằng những mộng mơ, Jordan có thể được gọi là con lạch nhỏ. Dòng sông ấy có những chỗ thật hẹp; đứng bên bờ nầy, thậm chí, không mấy khó khăn khi ném một hòn cuội sang bờ bên kia.
Ấy thế, khởi đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã chọn cho mình dòng nước ấy; ở đó, Ngài đã bước xuống. Ngài không vung gậy ra oai xẻ đôi lòng biển như một Môisen phép tắc, cũng không dũng mãnh như một Giosuê trực chiến Giêricô khiến nước Jordan dựng đứng như bức tường thành. Nhưng như bao người khác, Con Thiên Chúa lặng lẽ sắp hàng đợi đến phiên mình xin được nhận phép Rửa.
Ôi, Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng cho Cửu Long tưới mát để đồng bằng Nam bộ cò bay thẳng cánh; Đấng cho Hồng Hà bốn mùa phù sa sữa mẹ để delta miền Bắc thêm màu mỡ xanh tươi; Đấng cho Hương Giang như không chảy lãng mạn gọi hồn thơ... lại chọn cho mình một con hói nơi một xứ không tên không tuổi trong một châu lục đông người ít của, nghèo thật nghèo... để chịu phép rửa, đánh dấu những chuỗi ngày thi hành sứ vụ Chúa Cha trao.
Các bạn có biết, nguyên cái tên gọi Jordan cũng đã nói lên ý nghĩa của nó. Dòng sông Jordan còn có thể được gọi là dòng sông Đi Xuống. Jordan, tiếng Do Thái đọc là yar-dane, nghĩa là đi xuống. Từ rặng Hermon cao ngất (2,814m), ở độ cao 520m, Jordan mải đi xuống những 220 cây số, dừng ở biển hồ Huleh rồi Galilee, cuối cùng đổ ra Biển Chết với độ thấp mặt nước là 394m so với mực biển. Đây hẳn là một trong những chỗ thấp nhất của địa cầu. Con Thiên Chúa khập khễnh lần từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất ấy… không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Ôi, thẳm sâu thay sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Đấng vô tội lại chen vai thích cánh với hạng phàm phu; Đấng ba lần thánh lại lục tục nối đuôi phường tục tử… như để nói với những người đương thời cũng như đang nói với mỗi chúng ta, những con người tội lỗi yếu hèn, “Đừng sợ, bạn ơi, tôi đang đứng bên cạnh bạn!”.
Ngài không đứng tách riêng hay đặt mình trên những tội nhân, nhưng liên kết với họ. Một sự liên kết tới mức bị coi như một tội nhân, chịu hành xử như một người gây nên tội ác và cuối cùng, lãnh lấy hình án của một tội phạm. Để từ nay, mỗi người chúng ta dù có bất xứng đến đâu, dù có yếu hèn đến mấy vẫn tin chắc, đã có Ngài bên cạnh, luôn cảm thông, luôn tha thứ và biện hộ thay. Mỗi chúng ta có quyền hy vọng vào lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót của một vị Thiên Chúa quyền năng và đời đời yêu thương.
Rồi cũng từ dòng sông định mệnh ấy, Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã bước lên. Trời phải ngẩn ngơ, đất phải bàng hoàng, thần khí Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài với sự chứng giám của Chúa Cha cũng là Đấng luôn ở bên cạnh Ngài, “Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con!”. Cũng từ đó, mỗi người trong nhân loại bất luận ở đấng bậc nào, không thành vấn đề sắc tộc màu da, người Trung hay Nam, hoặc từ miền Bắc xa xôi; cũng không tính đến hiện trạng lành thánh hay tội lỗi đến mức nào... qua phép Rửa, chúng ta nên một trong Đức Giêsu, lãnh nhận cùng một Thánh Thần và đang cùng lắng nghe một tiếng nói, “Con là con yêu dấu của Ta!”.
Trong Đức Giêsu và qua Ngài, chúng ta, những người con được Thiên Chúa yêu thương cũng hãy ước mong cho nhau học biết lắng nghe những cung giọng nhẹ nhàng nhưng thật mạnh mẽ ấy, “Đừng sợ, bạn ơi, tôi đang đứng bên cạnh bạn! Bạn là con yêu dấu của Chúa Cha!”. Chớ gì những lời nồng ấm ấy hằng vọng ngân trong mọi ngõ ngách của tâm hồn bạn, ngõ ngách của tâm hồn tôi. Ước mong sao trong mọi tình huống cuộc đời, tiếng nói yêu thương ấy vẫn không ngừng tặng trao mỗi người những âm hưởng có sức làm cho sống.
Nhưng thưa các bạn,
Hẳn không dễ gì chúng ta nghe được những lời trìu mến ấy trong một thế giới đầy những tiếng la hét gây thoái chí, “anh thật bình thường, chị không hơn ai”. Những tiếng nói tiêu cực nhưng ầm ĩ và dai dẳng ấy cứ vang đi vọng lại đến mức làm cho một ai đó tin vào chúng cách dễ dàng. Đó là cái bẫy to lớn, cái bẫy tự hạ giá chính mình, và đó cũng là kẻ thù lớn nhất của một đời sống làm con Chúa, bởi lẽ nó đi ngược với tiếng nói thiêng liêng bên trong đang ngỏ với chúng ta ngày mỗi ngày, “Đừng sợ, bạn ơi, tôi đang đứng bên cạnh bạn! Bạn là con yêu dấu của Chúa Cha!”.
Vậy chớ gì khi mừng kính Chúa Giêsu chịu phép Rửa, mỗi người chúng ta cảm nhận rằng, Ngài đang ở gần chúng ta hơn chúng ta tưởng. Ngài đang ở gần chúng ta khi chúng ta mạnh mẽ, lúc chúng ta yếu đuối; buổi thành công, cũng như hồi thất bại; phút sa ngã cũng như thời đứng lên; những ngày nắng ấm, những chiều giông bão… đã luôn luôn có Ngài bên cạnh, để rồi mỗi người quyết tâm ra khỏi chính mình, ra khỏi những ích kỷ, dứt bỏ những khuynh hướng xấu, đoạn tuyệt với tội lỗi… hầu cất bước tìm về với Ngài. Ngài sẽ băng bó, Ngài sẽ chữa lành, sẽ vác trên vai, sẽ rửa gội thương tích và đem chúng ta về lại trong tình yêu thương của Chúa Cha.
Vậy mà bạn có biết, chính khi chúng ta vừa đặt chân xuống dòng nước để tìm lên ngọn nguồn, thì Đức Giêsu, dòng nước cứu độ ấy đã ôm chầm lấy chân chúng ta. Ôi, kỳ diệu thay, tình yêu thương và lòng thương xót từ ái của Thiên Chúa.
Mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta được diện kiến thánh nhan Ngài, Ngài sẽ đến với chúng ta; với lòng sạch tội, chúng ta đón nhận Ngài, và lòng bên lòng, Ngài lại sẽ thì thầm… thỏ thẻ với linh hồn, “Đừng sợ, bạn ơi, tôi đang đứng bên cạnh bạn! Bạn là con yêu dấu của Chúa Cha!”, Amen.
Châu Á là vùng thường hay có bão lụt. Các trận bão lụt lớn trong các năm qua tại Philippines: TN 1-C62
Châu Á là vùng thường hay có bão lụt. Các trận bão lụt lớn trong các năm qua tại Philippines và Trung Quốc khiến cho hàng chục ngàn người phải thiệt mạng. Hình ảnh các cuộc tàn phá do nước lụt gây ra khiến cho người ta dễ đồng hóa nước với chết chóc và quên rằng nước cũng là nguyên lý của cuộc sống mới, của sự thanh tẩy và tái sinh, bởi vì nước là nguyên lý của sự sống. Sự thật này được Giáo Hội nhắc nhở chúng ta qua các bài đọc lễ hôm nay.
Phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận trong tình liên đới trọn vẹn với loài người chúng ta là hình ảnh bí tích Rửa Tội trao ban cho chúng ta cuộc sống mới, cuộc sống làm con cái Thiên Chúa. Isaia chương 40 loan báo Thiên Chúa giải phóng dân Israel khỏi cảnh sống lưu đày bên Babylon, sau khi thành Giêrusalem bị vua Babylon đánh chiếm và tàn phá thành bình địa năm 587 trước Tây lịch. Dân Israel bị đày sang Babylon, 50 năm sau đó, vua Cyrus cho họ trở về quê cha đất tổ tái lập quốc gia, xây lại thành thánh và đền thờ. Tin vui của cuộc xuất hành thứ hai trong lịch sử Israel ấy được tiên tri Isaia loan báo qua một vài hình ảnh biểu tượng và kiểu cách đặc thù của ông. Sự kiện Thiên Chúa để ý xót thương dân Ngài được diễn tả qua kiểu nói: Hãy nói với con tim của Thành Giêrusalem". Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh "nói với con tim" là kiểu nói diễn tả tình yêu thương và mối liên hệ hôn nhân. Thiên Chúa đối xử với dân Israel dân Ngài như một vị hôn phu âu yếm, to nhỏ với hôn thê của mình. Nếu trong cuộc xuất hành đầu tiên Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng than khóc của dân Ngài, thì giờ đây, trong cuộc giải phóng thứ hai này, Ngài nghiêng mình xuống trên dân Israel với tất cả lòng dịu hiền, thương mến. "Nói với con tim của Giêrusalem", như thế có nghĩa là Thiên Chúa Tạo Hóa, giờ đây lại mở rộng bàn tay nhân từ ôm ấp lấy Israel với tất cả lòng thương mến.
Hình ảnh thứ hai, tiên tri Isaia dùng diễn tả tin vui giải phóng khỏi kiếp sống lưu đày là hình ảnh sa mạc. Trong cuộc xuất hành thứ nhất, sa mạc Sinai là nơi Thiên Chúa giáo dục, thanh tẩy và chuẩn bị dân Israel bước vào vùng đất Hứa. Giờ đây sa mạc Syria và sa mạc Giuđa, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm cũng không cản ngăn được đôi bàn tay và con tim thương yêu, trìu mến của Giavê Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ biến chúng trở thành các con đường bằng phẳng, rộng rãi thênh thang, tươi vui chào đón người bị đày trở về quê cũ.
Ngoài các hình ảnh kể trên, tiên tri Isaia II còn dùng thứ ngôn ngữ quân sự và ngôn ngữ du mục diễn tả tình yêu thương bao bọc của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Thiên Chúa đến với sức mạnh, các chiến lợi phẩm đi trước Ngài và cánh tay vững mạnh của Ngài nắm giữ quyền thống trị. Thiên Chúa của Israel, không phải chỉ với đôi tay tượng trưng cho sự bênh đỡ và che chở, mà cả với con tim biểu tượng cho tình yêu thương hiền dịu và cả với đôi cánh tay tượng ttrưng cho sức mạnh và quyền uy của Ngài nữa. Và Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài như một mục tử chăn dắt đoàn chiên, luôn yêu thương chăm sóc và hiện diện bênh đỡ, không khi nào rời.
Cuộc xuất hành thứ ba trong lịch sử cứu độ được Chúa Giêsu Kitô hiện thực qua bí tích Rửa Tội, là bí tích trao ban ơn giải phóng và cuộc sống ấy cho người tín hữu. Qua phép rửa của Chúa Giêsu (Luca 3), nêu bật một vài biểu hiện thần học quan trọng.
Trước khi dầm mình trong nước để lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã trà trộn giữa đám đông dân chúng giống y như mọi người khác, khiêm tốn và chia sẻ với mọi người nhu cầu sám hối và thanh tẩy. Con đường của Chúa Giêsu đi cũng là con đường của tất cả mọi người. Ðây là nét đặc thù diễn tả sâu đậm các hệ lụy của biến cố nhập thể, Chúa Giêsu trở thành người và sống như mọi người, giữa mọi người.
Lời thánh Gioan Tẩy Giả xác định bản chất của bí tích Rửa Tội mà Chúa Giêsu trao ban cho con người gồm hết mọi lễ nghi thanh tẩy của Cựu Ước, bởi vì Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy con người với Chúa Thánh Thần và với lửa. Bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu hiện thực là lửa đốt cháy sự dữ. Nó như lửa luyện lọc và như thuốc giặt thanh tẩy tâm lòng con người như lời tiên tri đã báo trước trong chương 3. Nó như nước tẩy mọi vết nhơ trong tâm hồn con người, trao ban phong phú và sự sống. Và điểm đặc thù nổi bật nhất trong bí tích Rửa Tội Kitô Giáo, là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nguyên lý trao ban sự sống thiêng linh của Thiên Chúa cho con người.
Ðiểm thần học thứ ba là thái độ cầu nguyện của Chúa Giêsu trong khi lãnh nhận phép rửa thanh tẩy. Phúc Âm thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện. Ngài cầu nguyện liên lỉ không những trước mọi biến cố quan trọng trong cuộc đời, mà trong mọi lúc cho đến chết. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cầu nguyện và dạy các ông nhiều điều liên quan tới lời cầu nguyện, là cách thế Chúa Giêsu sống mối dây liên hệ yêu thương hiệp thông với Thiên Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.
Và sau cùng là biến cố Chúa Giêsu được thánh hiến trong sứ mệnh cứu độ ấy. Nó được diễn tả bằng lược đồ giải thích thị kiến, thường được các soạn giả Kinh Thánh dùng đến để trình bày một chủ ý thần học hay một kinh nghiệm thiêng liêng nội tâm. Thị kiến như tường thuật trong Phúc Âm là một lời giải thích biến cố Chúa Giêsu lãnh phép rửa thanh tẩy. Biến cố này minh chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là hiện thân toàn vẹn của Thiên Chúa. Chính trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện, nghĩa là đối thoại thân tình với Thiên Chúa Cha mà Ngài nhận được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã hoạt động trong sứ mệnh cứu độ. Sau này, khi các tông đồ tiếp tục sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu, các ông cũng sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là ơn đầu tiên mà Chúa Giêsu Phục sinh trao ban cho các môn đệ và cho mọi tín hữu sau này qua bí tích Rửa tội.
Trong thư gởi cho Titô, chương 2,11-14 và chương 3,4-7, thánh Phaolô nhắc lại cho chúng ta biết ơn tái sinh mà Chúa Giêsu Kitô đã trao ban cho chúng ta. Ơn thánh Chúa ban giúp chúng ta tái sinh, nghĩa là có được cuộc sống mới và giúp chúng ta tiếp tục canh tân cuộc sống mỗi ngày. Thánh Phaolô khuyên chúng ta biết sống trọn vẹn ơn gọi Kitô bằng cách từ bỏ gian tà, từ bỏ các đam mê xác thịt thế gian, nghĩa là từ bỏ tất cả những gì khiến cho chúng ta xa Chúa và đánh mất đi cuộc sống mới mà Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta qua bí tích Rửa Tội. Muốn được như thế, cần phải sống thanh đạm và công chính giữa thế giới này và nhất là không bao giờ được quên rằng: Ðích điểm cuộc đời chúng ta là được sống bên Chúa Giêsu Kitô và tham dự vào cuộc sống thiêng linh vĩnh cửu rạng ngời với Ngài.
Lời khuyên trên đây của thánh Phaolô rất là tích cực đối với xã hội chúng ta đang sống hiên nay, là một xã hội bị lôi cuốn vào cơn lốc hưởng thụ và tiêu thụ, một xã hội không còn nghĩ đến công lý nữa và không còn biết chừng mực là gì nữa. Tóm lại, phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta ý thức được ơn gọi cao trọng làm con cái Chúa của mình, ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Ơn gọi đó đồng thời cũng bao gồm sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới này. Và chúng ta chỉ có thể hiện thực được nó khi biết cố gắng sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu mà thôi.
Các Kitô hữu thời sơ khai thật bối rối trước sự kiện Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan.: TN 1-C63
Các Kitô hữu thời sơ khai thật bối rối trước sự kiện Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan. Tại sao Ngài lại đến với Gioan như một môn đệ để chịu phép rửa của ông, nhằm bày tỏ lòng sám hối? Ngài có cần sám hối không nếu thật sự Ngài vô tội?
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta nhìn ngắm Đức Giêsu bên bờ sông Gio-đan. Ngài đứng chung hàng với người dân để chờ nhận phép rửa trong nước từ tay Gio-an. Ngài đứng trà trộn với những tội nhân để chờ đến phiên mình. Ngài chấp nhận dìm mình xuống cùng một dòng sông với người tội lỗi. Có ai trong đám đông nhận ra Ngài là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian không? Nếu bạn và tôi cũng ở trong dòng người ấy; cũng đứng chung hàng với Ngài trong ngày hôm ấy, chúng ta có nhìn thấy Ngài không? Có nhận ra Ngài không ?
Đấng thánh thiện lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên kẻ tội lỗi. Đấng xóa tội trần gian, lại hòa mình trong đoàn người tội lỗi. Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông sám hối. Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu: Một tình yêu vui lòng tự hủy thân phận của mình, để cùng sống chết với người mình yêu, một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng người mình yêu trỗi dậy.
Nhìn Đấng Cứu Độ cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là đồng hành và liên đới. Đồng hành với người khác đòi ta phải đi chậm lại, đòi ta phải có chung một tâm tình, một lối suy nghĩ giống người khác. Liên đới với người khác đòi buộc ta phải nhỏ bé đi, phải khiêm hạ trong lối sống và cung cách cư xử.
Hôm nay Đức Giêsu đánh dấu cuộc đời công khai của Ngài bằng một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút... Bên bờ sông Gio-đan, Ngài chỉ là một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan tăm tiếng. Ngài đã cúi xuống, dìm mình trong dòng sông, để nâng con người lên. Ngài tập làm người để hiểu được con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo; khổ đau; bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Ngài muốn gặp gỡ Cha trong tư cách là Con. Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này mà Ngài cảm thấy được Thánh Thần tràn ngập, và tự thâm tâm, Ngài nghe rõ tiếng của Cha âu yếm gọi Ngài là Con: "Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con." Từ hôm nay, Đức Giêsu hiểu rằng: Thời gian ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc và giờ lên đường đã điểm. Lên đường để thực thi công trình Cứu Độ, lên đường để làm theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha,
Hôm nay, Đức Giêsu đã trải qua một kinh nghiệm tuyệt vời bên bờ sông Gio-đan, nơi Ngài gắn bó với tội nhân, với dân tộc, đã trở thành nơi Ngài gắn bó với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Nơi Ngài đi xuống cũng là nơi Ngài bước lên. Nơi Ngài được sai đến cũng là nơi Ngài đang hiện diện.
Ngày nay, chúng ta đã chịu phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần, chúng ta cũng được mời gọi hiệp thông thân mật với Ba Ngôi chí thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường để phục vụ anh chị em quanh ta, nhất là những anh chị em đang cần một tình yêu chia sẻ, nâng đỡ và trao ban trọn vẹn.
***
Lạy Chúa, trong đôi mắt Chúa con là tất cả… Xin ban cho con đôi mắt của Chúa, để con biết nhìn những người xung quanh con bằng cái nhìn của Chúa, biết đến với anh chị em của con bằng tấm lòng yêu thương, như Chúa đã yêu thương con. Amen
(Trong lễ rữa tội 13 trẻ sơ sinh tại tại nhà nguyện Sistine ngày 11/1/2009)
ĐGH. Benedict XVI
Chúng ta có thể nói, Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa giới thiệu chúng ta về sự gần gũi hàng ngày: TN 1-C64
Chúng ta có thể nói, Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa giới thiệu chúng ta về sự gần gũi hàng ngày của một mối tương quan cá nhân với Người. Thật vậy, qua sự dìm mình trong nước sông Giođan, Chúa Giêsu kết hiệp với chúng ta.”
Khi con người được mời gọi vào sự sống vĩnh cửu, thì tội lỗi đã tạo ra một hố thẳm vùi dập chúng ta mãi mãi. Vì thương yêu chúng ta, Thiên Chúa đã nghiên mình xuống, giơ tay ra để lôi kéo chúng ta ra khỏi vực chết, và đưa chúng ta vào ánh sáng. Phép rửa như “là nhịp cầu [Chúa] đã xây dựng giữa chúng ta và Người, là con đường để Người đến với chúng ta […] là ngưỡng cửa của hy vọng, và đồng thời, là dấu chỉ của con đường chúng ta phải hân hoan và hăng hái bước tới để gặp được Người và cảm nhận được Người yêu thương. “Kể từ lúc Chúa Kitô chịu phép rửa và lúc tầng trời mở ra vào cùng ngày ấy, “chúng ta có thể gửi gắm tất cả mọi đời sống mới nẩy nở trong bàn tay Thiên Chúa, Đấng hùng mạnh hơn quyền lực đen tối của thần dữ.”
Khi làm như vậy “chúng ta trả về cho Thiên Chúa những gì đến từ Người." Ngài khẳng định, “một đứa trẻ không phải là quyền sở hữu của cha mẹ, nhưng đã được Đấng Tạo Hóa gửi gấm cho họ chịu trách nhiệm trông nom, một cách tự do và luôn luôn mới mẻ, để họ có thể giúp nó trở nên một đứa trẻ tự do của Thiên Chúa.”
Chính ý thức này có thể giúp cho các bậc làm cha mẹ giữ được sự thăng bằng giữa việc coi đứa bé như thuộc quyền sỡ hữu của mình hay giúp cho chúng có hoàn toàn tự do, và thỏa mãn mọi ý muốn của nó.
Đức Giám Mục thành Rôma nhấn mạnh, “Nếu với Bí Tích này, đứa trẻ sơ sanh mới rửa tội trở nên con nuôi của Chúa, được hưởng tình yêu vô biên che chở và bảo vệ nó, thì nó phải được dậy dỗ để nhận biết Chúa là Cha của nó và biết cách liên hệ với Người bằng một thái độ hiếu thảo của một người con."
Cha Zundel có một nhận định như sau: “sự khiêm nhường nhất của Thiên Chúa là khi Ngài: TN 1-C65
Cha Zundel có một nhận định như sau: “sự khiêm nhường nhất của Thiên Chúa là khi Ngài chấp nhận cho con người dùng ngôn ngữ của mình để nói về Ngài”. Bởi lẽ, ngôn ngữ của con người chúng ta không thể làm diễn tả hết sự thật về Thiên Chúa, đôi khi còn làm méo mó khuôn mặt thật của Ngài nữa. Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, chắc chắn khi người ta thấy Đức Giêsu đứng sắp hàng cùng với đám tội nhân, thì họ sẽ nghĩ rằng Ngài cũng là một tội nhân. Đây cũng là một sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Ngài chấp nhận cho người khác nghĩ sai về Ngài. Nhưng chúng ta thử hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại làm như thế? Thưa vì Ngài yêu thương con người và Ngài muốn làm bạn với hết mọi người. Đây chắc hẳn là mầu nhiệm của tình yêu mà chúng ta chưa hiểu thấu hết được.
Có một câu chuyện kể như sau: Có một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc được mộp phen cười thoả thích. Vị khách già này xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng vào dự tiệc nữa, ông quyết định quay về nhà của mình. Gia nhân của vị quan nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Rồi bất ngờ, vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cố tình té ngã vào vũng nước mà ông cụ đã té trước đó. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa! Sau đó, vị quan lớn đến cầm lấy tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ. Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Hình ảnh và hành động của vị quan lớn trong câu chuyện trên đã minh hoạ cho chúng ta thấy được phần nào về hình ảnh của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng cực thánh mà đã tự “té vào” thế gian để dẫn đưa con cháu Ađam bước vào dự tiệc cưới Thiên đàng.
Khi sinh xuống làm người trong hình dáng của một trẻ thơ yếu ớt, nghèo khổ, thiếu thốn mọi bề, Chúa Giêsu đã trở thành trung gian nối kết trời với đất. Ngài đã từ trời cao bước chân xuống đất thấp đến với con người để con người từ đất thấp bước chân lên trời cao. “Đất với trời giao duyên, Thiên Chúa đến ở với con người”. Rồi hôm nay, khi sắp hàng trong đám tội nhân, Chúa Giêsu đã cất khỏi mọi rào cản, mọi khoảng cách để con người được tự do đến với Thiên Chúa và được Ngài mở rộng vòng tay ôm lấy tất cả.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, nhưng không ai thấy được tình yêu cả. Người ta chỉ có thể thấy được những bằng chứng của tình yêu mà thôi. Và Chúa Giêsu của chúng ta đã để lại cho chúng ta rất nhiều bằng chứng của tình yêu: Xuống trần vì yêu, sống vì tình yêu, làm mọi việc tốt lành vì tình yêu, chết vì yêu và sống lại cũng vì tình yêu. Làm sao kể hết được những việc Chúa Giêsu đã làm để minh chứng cho tình yêu mà Ngài thực hiện trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài. Ngài yêu thương con người bằng chính tình yêu của Thiên Chúa Cha yêu thương Ngài: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Chúa Giêsu làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng nhờ biết Ngài biết ý của Cha mình và Ngài luôn chu toàn mọi sự đúng theo ý Chúa Cha dù mình có “tan nát tấm thân” đi chăng nữa. Ngài đã từng nói với các tông đồ rằng: “lương thực nuôi sống Thầy là làm theo ý của Cha Thầy”. Và trong lúc cô đơn nhất, đau khổ nhất, Ngài vẫn thân thương với Cha: “Xin đừng theo ý Con, nhưng xin làm theo ý Cha”. Đó là tư cách làm Con của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha dù Ngài vẫn là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha của mình.
Để biết được Thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời này, ta phải làm gì? Làm sao biết ta biết được Thánh ý Chúa? Ý Chúa Cha trong cuộc đời chúng ta được thể qua lương tâm ngay lành của chúng ta, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh đặc biệt là Giới Luật Yêu thương, qua 10 Giới răn của Chúa cũng như qua những Giáo huấn chính thức của Hội thánh dạy chúng ta. Khi ra sức thực hành những điều ấy, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa Cha nói với chúng ta rằng: “Con là con yêu dấu của Cha”.
Hãy trở thành những người con yêu dấu của Cha trên trời. Hãy nhiệt tâm sống niềm tin của mình trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống theo gương của chính Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Hãy để cho “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” để chúng ta dám ra khỏi con người của mình, sống liên đới trách nhiệm với mọi người hầu ý Chúa Cha được thể hiện trong trần gian này. Khi hoàn tất sứ mạng cao quý này với lòng nhiệt tâm và yêu mến, chúng ta sẽ được theo chân Chúa Giêsu bước vào tr ời cao hưởng hạnh phúc muôn đời.
Đức Giêsu chuẩn bị thi hành sứ mạng của mình bằng hai việc quan trọng, thứ nhất là đời sống: TN 1-C66
Đức Giêsu chuẩn bị thi hành sứ mạng của mình bằng hai việc quan trọng, thứ nhất là đời sống nội tâm với việc ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc suốt 40 ngày đêm, thời gian đủ dài để suy nghĩ, tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và nền tảng bước vào sứ mạng quan trọng. Thứ hai, Ngài chịu phép rửa sám hối của Gioan như bao nhiêu người dân thường khác.
Biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa đã chấp nhận hoàn toàn sống thân phận con người như chúng ta. Kể từ đây Chúa Giêsu sống như con người chia sẻ và đón nhận kiếp người. Cụ thể là Ngài “cũng chịu phép rửa” như những con ngươi đồng thời với mình chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Đấng cứu thế. Nhưng khác biệt ở đây Ngài chính là Đấng cứu thế.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa là lúc ý định của Chúa Cha muốn giới thiệu Ngài cho nhân loại, Ngài chính là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ và cũng như Ngài thực sự bắt đầu đời sống công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ, Ngài cũng chính là Đấng cứu độ. Ai nghe, tin và sống như Ngài thì được cứu độ.
Dân chúng vẫn còn mơ hồ về Đấng cứu thế, họ lẫn lộn giữa Gioan và Đức Giêsu, lẫn lộn giữa phép rửa của Gioan và Đức Giêsu. Giờ đây Thiên Chúa Cha khẳng định chính thức và công khai giới thiệu cho họ biết Chúa Giêsu mới là Đấng cứu độ. Chỉ nơi Ngài và lãnh nhận phép rửa của Ngài bởi “Thánh Thần và lửa” sẽ mang đến cho chúng ta ơn cứu độ.
Với việc Chúa Giêsu chịu phép rửa và sự giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã hành động như bao con người thiện chí, muốn sám hối quay về với Thiên Chúa. Ngài noi gương cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, sống hoà đồng, chia sẻ, thông cảm và đón nhận giới hạn của nhau. Ngài không phân biệt, khoảng cách hay vạch rõ ranh giới với con ngươi dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Ngài yêu thương và cứu độ chúng ta. Nhìn lên Chúa Giêsu chúng ta hãnh diện vì mình tôn thờ một Đấng đích thực trong đời sống đức tin và hành trình đời người.
Ước gì mỗi ngày chúng ta càng ngày tin mạnh mẽ vào Chúa, luôn tuyên xưng niềm ra bên ngoài cho mọi người xung quanh và làm cho mọi nhận ra rõ ràng rằng Đức Giêsu là Đấng cứu độ, Đấng mang lại bình an và hạnh phúc cho mọi người.
Lạy Chúa, qua bí tích Rửa tội chúng ta được phúc làm con Chúa, xin con luôn biết noi gương Chúa đem ơn cứu độ, bình an và hạnh phúc cho mọi người bằng cách sống giống như Chúa.
Ơn cứu chuộc đã được Thiên Chúa hứa ban cho lòai người và được các Tiên tri nhắc lại nhiều: TN 1-C67
Ơn cứu chuộc đã được Thiên Chúa hứa ban cho lòai người và được các Tiên tri nhắc lại nhiều lần trong thời Cựu ước, đặc biệt là Tiên tri Isaia trong Bài đọc I: Khi Đấng Cứu Thế đến, Người sẽ xét xử các dân cách công bình và đặt công lý trên địa cầu. Muôn dân trông đợi lề luật Người; Người đối xử nhân từ với nhân lọai, mở mắt người mù, giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Lời hứa đó đã được ứng nghiệm rõ ràng nơi Chúa Giêsu. Ngài đã đến trong trần gian. Và việc Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan hôm nay tiên báo trước cái chết của Ngài trên thánh giá: Ngài sẽ dùng máu mình mà rửa sạch tội lỗi thế nhân.
Chính đức Giêsu, Con Chiên Vô Tỳ Tích đã đến dòng sông Giođan cùng với những tội nhân. Ngài tự đồng hóa mình với tội nhân và gánh lấy mọi tội lỗi nhân loại đã xúc phạm đến Thiên Chúa quyền uy vô cùng. Ngài là một con người, với tư cách một người đại diện cho nhân loại, đồng thời Ngài cũng là Thiên Chúa đã dâng mình làm của lễ lên Thiên Chúa Cha mà chuộc lại lỗi lầm của nhân loại. Vì thương chúng ta, Ngài đã không quản việc hóa thân làm người, bỏ đi khoảng cách vốn có giữa vị Thiên Chúa là Tạo Hóa với loài thụ tạo thấp hèn là nhân loại tội lỗi. Ngài làm người để đồng cảm với những nỗi khổ của con người, chia sẻ thân phận mỏng dòn của con người, ngay cả cái chết Ngài cũng không từ nan.
Trong bài Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy rõ: Ý định cứu chuộc lỗi lầm cho con người của Chúa Giêsu được Chúa Cha ưng nhận. Khi để Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình, Chúa Giêsu đã khẳng định vai trò gánh tội thay cho nhân loại và Chúa Cha lúc đó đã phán lời ưu ái với một con người: Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Con đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu là một con người như chúng ta nhưng luôn làm theo ý Chúa Cha và được Chúa Cha ưu ái đặc biệt. Đến lượt chúng ta, những kẻ tin theo Chúa Giêsu rồi cũng sẽ được Chúa Cha gọi tên vào Nước Trời với lời thân ái: hỡi con yêu dấu của ta, các con đã nghe lời Con Chí Ái của Ta, hãy vào hưởng phúc Thiên Đàng đời đời với Chúng Ta.
Vấn đề là loài người có nhận ra tình thương của Chúa Giêsu hôm nay hay chưa, có nhận biết sự cao trọng và cần thiết của Ơn Cứu Chuộc hay chưa? Ơn Cứu Chuộc cần thiết đến độ Ngôi Hai Thiên Chúa thấy cần phải rời bỏ trời cao đến ở với loài người, trở nên bé nhỏ như loài người để giải thóat con người khỏi sự chết đời đời. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài thấy rõ điều gì cần thiết và ích lợi cho chúng ta nhất. Còn loài người chúng ta có khi lại đáp trả lại tấm lòng ưu ái đó bằng sự thờ ơ, từ chối, phủ nhận sự hiện diện của Ngài bằng nhiều hình thức khác nhau! Nhiều người kitô hữu chỉ giữ đạo hình thức, vì luật buộc thôi, chưa tương xứng gì với tình thương hy sinh của Ngôi Hai cứu chuộc! Ngày hôm nay, trong việc đầu tư buôn bán, người ta hay tính toán so đo sao cho: làm ít, lời nhiều. Trong việc giữ đạo, chúng ta không nên so đo tính tóan với Chúa. Chúng ta giữ đạo, đọc kinh, đi lễ không thể chỉ vì cái lợi vật chất, mong ăn nên làm ra, mau giàu có hoặc để khỏi bệnh hoạn yếu đau nhưng phải nhắm mục tiêu xa hơn, chính đáng hơn là phần rỗi linh hồn và hạnh phúc đời đời. Những mục tiêu như sức khỏe, học hành, làm ăn khá tuy cũng cần nhưng chỉ là thứ yếu so với hạnh phúc đời đời. Vì vậy, tuy chúng ta có thể cầu xin cho mình tất cả những thứ đó, nhưng lời cuối cùng khi cầu nguyện là: con sẵn sàng đánh đổi tất cả để được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Vì Chúa Giêsu cũng đã sẵn sàng đánh đổi mạng sống mình trên thập giá cho hạnh phúc của chúng ta. Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, thì chúng ta cũng phải đáp trả lại tương xứng với tình yêu ấy.
Xin Chúa cho chúng con biết nhận ra tầm quan trọng của hạnh phúc đời đời để mọi hoạt động, mọi ước mơ trong cuộc đời này đều nhắm tới gia tài đời sau là hạnh phúc Thiên đàng, nơi Chúa hiển trị.
Đến ngày lễ “Chúa Giêsu chịu phép rửa” có rất nhiều thắc mắc được đặt ra. Thắc mắc vì tư: TN 1-C68
Đến ngày lễ “Chúa Giêsu chịu phép rửa” có rất nhiều thắc mắc được đặt ra. Thắc mắc vì tư tưởng của họ không thể chấp nhận được: Tai sao Chúa Giêsu lại phải chịu phép rửa của Gioan? Chúa là Đấng vô tội là con chiên tinh tuyền, thì lẽ gì cần phải sám hối, cần phải ăn năn. Có rất nhiều ý kiến khác nhau nói về điều này, nhưng hầu như không làm thõa đáng, hoặc chỉ làm hài lòng ở một khía cạnh nào đó thôi. Ở đây không nhằm tìm kiếm xem thế nào? Và vì sao? Nhưng điều quan trọng là chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa qua việc Ngài chấp nhận chịu phép rửa và sứ điệp Ngài muốn gởi đến. Qua bài Tin Mừng chúng ta dễ dàng nhận ra hai hành động cho chúng ta noi theo. Hai hành động không “chỏi” nhau mà lại bổ túc cho nhau cách hoàn hảo; một là biết mình nơi Gioan, hai là hành động hạ mình nơi Đức Giêsu.
1. Biết mình
Khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng thì Gioan đã là người rất nổi tiếng, dân chúng lũ lượt kéo đến với Ngài, họ coi ông như Đấng Messia, Nhưng ông “biết mình” nên đã từ chối và nói: “Không phải ta đâu mà là Đấng khác”, Ông hướng họ tới Đức Kitô. Ta thử suy nghĩ xem, nếu ngài không biết mình chấp nhận mình thì ngài đã xưng mình là Đấng Messia, vì đây là cơ hội và là dịp thuận tiện để lấy lòng tin nơi dân chúng. Nhưng không ! Bổn phận của ngài là đưa tha nhân về với Chúa. Vì giữa Đấng Messia và ngài có một cách biệt qúa lớn “như người đầy tớ không đáng cởi giày cho Chủ”. Hơn nữa, ông còn cho biết: “Phép rửa của ông trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi, Người sẽ rửa các ông trong thánh Thần và lửa”. Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu bên trong như lửa thiêu hủy tất cả. Nhờ có Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu tận đáy lòng và biến đổi tất cả. Gioan nhờ “biết mình” mà ông tự biết “lu mờ” đế Đức Giêsu “Sáng lên”. Chính khi biết mình thì ông lại thấy mình nhỏ bé để lại càng sống phó thác hơn. Cũng chính vì biết mình để nhận ra mình yếu đuối chỉ là không trước mặt Chúa thì ông mới biết quên mình để nhiệt tình rao giảng phúc âm. Cũng chính vì “biết mình” mà ông đã trở thành những ngộn sứ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, và cũng là mẫu gương cho các ngôn sứ ngày nay. Nếu chúng ta biết mình thì sẽ dễ dàng nhận ra mình nhỏ bé để mà chấp nhận người khác. Hơn nữa, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận thánh ý Chúa, và để Thiên Chúa lớn lên trong ta mỗi ngày trên con đường phục vụ.
2. Hạ mình
Hầu như rất nhiếu người thắc mắc: Tại sao Đức Giêsu là Chúa mà lại chịu phép rửa của Gioan. Điều này chỉ có thể giài thích được khi biết lý luận dưa trên tình yêu. Chúng ta không thể hạ mình xuống với một người nhỏ hơn, vì chúng ta chưa đủ yêu họ, vì khi yêu thật thì phải “hy sinh cho người mình yêu”. Hơn nữa Chúa là Chúa cả trời đất, có nơi nào được coi là xứng đáng, có hành động nào được gọi là công bằng, có hành động là phải được. Vì chúng ta chỉ là những thụ tạo, những “con nợ” có gì mà so sánh với tình yêu Chúa được. Nhưng không như ta nghĩ, Đức Giêsu đã hạ mình xuống như người tội lỗi, và yêu thương họ. Vì thế mà Thánh Phaolô đã thốt lên: “Thiên Chúa giống ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi”.
Qua hành động của Đức Giêsu khom người xuống để chịu phép rửa của Gioan, là hành động hạ mình xuống thấp như những người tội lỗi khác. Tuy Ngài vô tội nhưng Ngài đã hòa mình như những người có tội. Ngài không đứng trên họ như người phán xét, mà chấp nhận liên đới để kéo họ lên. Chỉ khi nào mình là người trong cuộc mới hiểu thấu được nỗi thống khổ hoàn cảnh người đó chịu. Chính sự hạ mình đó đã làm cho cả nhân loại thấy được tình yêu cao siêu và vô biên Thiên Chúa đã dành cho con người. Đức Giêsu cũng có thể hoàn toàn đứng hiên ngang như người vô tội, hoặc dùng lời nói hay một quyền phép để cứu ca nhân loại. Nhưng Ngài không làm thế, vì cách đó chỉ như một ân huệ dư thừa ban phát, như một trò chơi chủ tớ. Điều đó hoàn toàn không thể hiện tình yêu mà chỉ khi hành động tự hạ như một người tội lỗi và tột đỉnh là cái chết mới thể hiện được tình yêu vô biên của Ngài dành cho nhân loại, đó mới chính là tình yêu được thể hiện cách sống động và cụ thể. Vì thế, cảm nghiệm được tình yêu Chúa đòi hỏi ta phải biết sống khiêm hạ. Vì mỗi lần khiêm hạ là một lần hy sinh. Mà hy sinh là chấp nhận đau đớn. Vì cuộc thanh tẩy nào cũng có mất mát và đổ máu.
Lạy Chúa xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa để con biết khiêm tôn, biết phó thác, biết chấp nhận hy sinh và cho đi chính con người của mình. Amen
(Isaia 42,1-7; Công vụ Tông đồ 10,34-38; Luca 3,15-22)
Phúc Âm: Lc 3, 15-16. 21-22
"Khi Chúa Giêsu đã chịu phép rửa và đang cầu nguyện thì trời mở ra".
Khi ấy, trong lúc dân chúng đang mong đợi, và mọi người tự hỏi trong lòng rằng: "Gioan có phải là Đấng Kitô không?", Gioan lên tiếng bảo mọi người rằng: "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!"
Vậy khi tất cả dân chúng đã chịu phép rửa, và chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
Suy Niệm:
Tự nhiên chúng ta không thích việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay ông Gioan. Chính ông này khi: TN 1-C69
Tự nhiên chúng ta không thích việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay ông Gioan. Chính ông này khi thấy Chúa đến xin rửa cũng đã bắt đầu từ chối: Vì Chúa là Đấng Công Chính và Cứu Thế lẽ nào còn phải và còn cần phải được rửa? Hơn nữa, Gioan sánh với Chúa là gì mà dám giơ tay dội nước rửa cho Ngài? Nhưng ý nghĩ là loài người của chúng ta không như ý nghĩ của Chúa. Phụng vụ - và đặc biệt phụng vụ Đông phương - đã khám phá ra ý nghĩa của việc Chúa xin chịu phép rửa của Gioan, nên muốn cử hành ngày lễ hôm nay thật long trọng.
Phụng vụ coi lễ này như một phần của mùa Hiển linh, tức là mùa Chúa tỏ mình ra trong việc giáng sinh làm người. Hơn nữa, có thể nói đây là tột đỉnh của việc Chúa Hiển Linh, nên đáng dùng để kết thúc mùa phụng vụ Giáng Sinh, là mùa cử hành mầu nhiệm Chúa tỏ mình ra.
Thoạt đầu Người tỏ mình nơi máng cỏ cho một số mục đồng, rồi Người đã cho Simêon và Anna được bồng ẵm trong đền thờ; Và cho các đạo sĩ từ xa đến thờ lạy. Lớn lên, Người đã hành hương Giêrusalem để bắt đầu khiến các luật sĩ phải kinh ngạc. Nhưng những lần hiển linh này chỉ như những tia sáng vừa lóe ra đã vội tắt đi: chẳng ai biết Đức Giêsu trong 30 năm ở Nadarét đã làm gì và như thế nào...? Mãi cho đến hôm nay, Người đi giữa quần chúng, tiến lên xin ông Gioan rửa cho, và có tiếng từ trời tuyên bố Người là Con chí ái của Thiên Chúa.
Thời gian ẩn thân của Người đã chấm dứt: từ nay Người trở thành nhân vật công khai và được chú trọng nhiều nhất. Lễ Người chịu phép rửa hôm nay không phải là tuyệt đỉnh của việc Hiển Linh sao? Nó bộc lộ con người Đức Giêsu khi đã "trưởng thành". Nó cho chúng ta thấy con người sắp thi hành công cuộc Cứu Thế là ai? Nó kết thúc mùa Giáng sinh vì nó hoàn tất việc Đức Giêsu tỏ mình ra cho chúng ta biết rõ con người của Ngài.
Do đó chúng ta hãy nhờ phụng vụ hôm nay để biết rõ, biết hết về con người sắp sửa đi làm công việc cứu thế. Chúng ta sẽ nhờ các bài đọc Kinh Thánh để hiểu Đức Giêsu thành Nadarét là ai, trước khi quan sát các hoạt động cứu thế của Người mà các Chúa nhật sau đây sẽ kể lại. Chúng ta nhờ các bài sách Isaia chuẩn bị trước để hiểu bài Tin Mừng. Và chúng ta sẽ dùng bài sách Công vụ để biết Đức Giêsu còn là người thế nào đối với chúng ta ngày nay.
1. Này Đây Tôi Tớ Của Ta
Bài sách Isaia là bài mở đầu cho một loạt bốn bài của tác giả nói về Người Tôi Tớ (49,1-6; 50,4-9; 52,13-53,12).
Phần này rất quý trong sách Isaia. Nhà tiên tri loan báo rằng đến thời kỳ đã định, Thiên Chúa sẽ ra tay oai hùng cứu dân nhờ Người Tôi Tớ của Ngài. Ai là người tôi tớ này? Isaia đã không chỉ đích danh Ngài, nhưng đã mô tả Ngài dưới nhiều nét độc đáo để hậu thế có thể nhận ra Ngài khi Ngài xuất hiện.
Đoạn trích hôm nay cho chúng ta biết những nét đầu tiên. Người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã tuyển chọn, nâng đỡ và sủng mộ, sẽ được Chúa tấn phong, không phải bằng dầu thơm như các vua chúa, tiên tri và tư tế trong dân Chúa, nhưng với chính Thần Khí của Chúa. Dĩ nhiên đã có nhiều người nhận được Thần Khí của Chúa để làm công việc của Người từ thời Abraham cho tới nay. Đặc biệt không có Thần Khí của Chúa, các tiên tri đã không thể tuyên sấm. Nhưng khi Isaia viết như trên, ông nghĩ đến lời hứa rằng: trong những ngày ấy, tức là đến thời kỳ sung mãn cứu độ, Thiên Chúa sẽ đổ Thần Trí của Người trên Israen mới và người ta sẽ trở nên dân mới không còn bội phản giao ước nữa. Và như vậy, người Tôi Tớ mà Chúa dùng để làm công việc cứu độ hẳn phải nhận được Thần Trí Chúa trước hết và đầy đủ nhất. Hơn nữa, Chúa sẽ ban Thần Trí cho tôi tớ một cách công khai, thay thế lễ nghi xức dầu mà người ta vẫn coi như là dấu hiệu tấn phong kẻ được Chúa chọn. Chính việc ban Thần Khí công khai và trực tiếp bởi tay Chúa như vậy đánh dấu sự khác thường và trổi vượt của việc tuyển chọn người Tôi Tớ. Không ai trong quá khứ và tương lai được giới thiệu và chứng thực như vậy. Và việc này là dấu chỉ đầu tiên về ưu vị của Người Tôi Tớ trong chương trình cứu độ của Người.
Dĩ nhiên Phụng Vụ hôm nay đã chọn bài đọc này vì điều mà Isaia vừa mô tả, tức là vì việc Thiên Chúa đã ban Thần Trí của Người cho Người Tôi Tớ. Chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu sẽ nhận được Thần Trí như thế nào. Nhưng hơn nữa, Phụng vụ còn muốn chúng ta để ý đến chính danh xưng Người Tôi Tớ trong bài sách Isaia để nhìn Đức Giêsu đến chịu Gioan rửa như là Người Tôi Tớ đích thực của Thiên Chúa.
Isaia trong đoạn văn hôm nay mô tả người Tôi Tớ có sứ mạng làm "rạng phán quyết ra cho các nước", tức là làm cho các dân tộc nhận biết sự xét xử của Thiên Chúa về các việc lành dữ, và về các người tốt xấu. Ngài sẽ hủy sự tội lỗi và thiết lập sự Công chính. Và nói theo tâm lý người dân Cựu Ước thì Ngài sẽ giải cứu người ngay và trừng phạt kẻ dữ. Đặc biệt Ngài sẽ quan tâm đến số phận những người nghèo khó, để kẻ mù được xem, người tù được phóng thích và dân cư bóng tối sẽ được đưa vào nơi sáng láng.
Sứ mạng ấy, Ngài không thi hành bằng võ lực, nhưng theo cách khiêm cung, từ tốn. Ngài không la lối, và lên tiếng to, Sậy đập Ngài không nỡ bẻ; tim đèn leo lét, Ngài không dập tắt. Ngài dùng lẽ thật mà làm rạng phán quyết. Dĩ nhiên Ngài sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng Ngài sẽ không nao núng vì "này lời của Thiên Chúa:
"Chính Ta đã gọi ngươi...
Ta nắm tay ngươi"...
Vinh quang của Ta, Ta sẽ không ban cho người khác".
Tất cả những lời tiên tri ấy đều rất quý. Chúng ta có thể dựa vào mà tìm hiểu con người của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ hôm nay phụng vụ không cần đến những quan niệm phong phú như vậy. Phụng vụ chỉ cần chúng ta lưu ý: Đức Giêsu là người Tôi Tớ đích thực của Thiên Chúa và Ngài đã được Thiên Chúa ban Thần Trí tấn phong làm việc cho các dân tộc. Điều phụng vụ muốn hơn nữa, là danh từ Người Tôi Tớ hãy gợi lên trong đầu óc chúng ta những nội dung cốt yếu của toàn loạt bốn bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Isaia, để không những chúng ta thấy Ngài khiêm nhu, từ tốn như trên vừa nói, mà còn bị đánh đập và giết đi vì tội lỗi của loài người. Chính những tư tưởng này lại càng có ích cho việc hiểu biết Đức Giêsu trong việc chịu phép rửa hôm nay. Quả vậy khi muốn chúng ta biết Ngài là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, luôn luôn phụng vụ ngầm hiểu Ngài là Người Tôi Tớ đau khổ, bởi vì trong sách Isaia không thể biết có người Tôi Tớ mà lại không thấy đó là người Tôi Tớ đau khổ. Quan niệm này sẽ giúp chúng ta dễ hiểu câu chuyện kể trong bài Tin Mừng.
2. Con Là Con Chí Ái Của Ta
Phần đầu cho chúng ta thấy Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Người quyền thế hơn sẽ đến, bởi vì Ngài sẽ không rửa bằng nước, nhưng trong Thánh Thần và lửa. Điều này có nghĩa là phép rửa của Gioan cũng thua kém phép rửa của Đức Giêsu. Một đàng chỉ rửa bằng nước để được ơn tha tội; đàng kia sẽ rửa trong Thánh Thần và lửa, tức là trong ơn thánh hóa và thiêu hủy tội lỗi. Nhưng điều ấy cũng có nghĩa là Đức Giêsu vượt trội hơn Gioan. Ông chỉ là tiền hô cho Ngài. Ông dọn đường để Ngài đến. Chính Ngài sẽ đến rửa trong Thánh Thần và lửa, tức sẽ là công chính hóa người này và thiêu hủy người kia. Ngài đến để xét xử, y như Isaia đã loan báo...
Thế mà khi Ngài đến chúng ta có thấy như vậy đâu. Phần sau bài Tin Mừng nói rõ Đức Giêsu đã đến ở giữa toàn dân. Ngài cũng chịu rửa. Nhưng rồi, đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra, Thánh Thần lấy hình bồ câu đáp xuống và tự trời có tiếng phán ra: "Con là Con Chí Ái Ta, hôm nay Ta đã sinh ra con".
Tác giả Luca đã kể quá vắn tắt. Ông nghĩ rằng ai ai cũng đã biết rõ chuyện Chúa chịu phép rửa của Gioan. Đó là điều đầu tiên các Tông đồ giảng về Chúa Giêsu cho mọi người theo dàn bài tường thuật về Ngài "từ khi chịu Gioan rửa cho đến khi chịu chết sống lại, lên trời và sai Thánh Thần xuống". Luca thấy không cần nhắc lại dài dòng làm gì. Ông viết thật vắn tắt, tức là chỉ giữ lại những nét thật cốt yếu. Do đó những lời ông kể trở nên rất giá trị.
Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã đến ở giữa toàn dân. Ngài đi ở giữa họ. Và họ đến với Gioan để xưng thú tội lỗi và chịu phép rửa. Kẻ đứng ngoài phải liệt Ngài vào hạng tội nhân. Và Ngài muốn như vậy, vì Ngài được sai đến gánh tội thiên hạ, Ngài là Người Tôi Tớ Thiên Chúa muốn mang lấy mọi vết hằn của loài người chúng ta...
Những lần Ngài tỏ mình ra trước đây, chưa bao giờ Ngài hạ mình xuống sâu như vậy. Khi sinh ra nơi hang đá máng cỏ, thiên tính đã hạ mình, nhưng còn mặc lấy thân thể một hài nhi dễ thương. Lúc được đưa vào dâng trong đền thờ Simêon vẫn còn chào Ngài là ánh sáng muôn dân. Và hôm ở trong đền thờ hồi 12 tuổi, Ngài đã làm cho nhiều luật sĩ kinh ngạc. Còn hôm nay, ở đây Ngài để người ta coi mình như một tội nhân ở giữa toàn dân tội lỗi. Ngài chia sẻ thân phận khốn nạn nhất của loài người vậy.
Tại sao Ngài làm thế? Chính lúc đó chẳng ai giải thích được. Ngay Đức Giêsu cũng đã từ chối cắt nghĩa cho Gioan hiểu thái độ của Ngài khi ấy. Ngài chỉ hứa sau này sẽ hiểu; còn lúc này cứ làm theo ý Thiên Chúa. Và Gioan đã làm theo ý Ngài và rửa cho Ngài. Nhưng sau này, khi đã được Thánh Thần soi sáng, các tông đồ đã hiểu. Bấy giờ đã có cây Thánh Giá. Đức Giêsu đã bị treo lên như một tội nhân ở giữa những kẻ gian phi. Ngài chịu rửa một lần nữa - và lần này bằng máu - như lòng Ngài ao ước. Nhờ vậy các tông đồ đã hiểu ra ý nghĩa của lần rửa nơi sông Giođan. Hôm ấy Đức Giêsu đã muốn báo trước cuộc tử nạn của Ngài. Có thể nói Ngài đã tập dượt cuộc tử nạn. Ngài đóng vai trò Người Tôi Tớ mang lấy tội lỗi của đồng loại. Ngài là Con Chiên gánh tội thiên hạ. Ngài đã chọn lần xuất hiện công khai với dân chúng để làm công việc này là có tính toán: để tỏ lòng liên kết với nhân loại tội lỗi; để nói với mọi người rằng; Ngài sẽ đưa họ vượt qua khỏi tội khi mang tội của họ trên thân thể của Ngài; để họ biết rằng Ngài được sai đến để xóa tội chứ không phải làm công việc nào khác; để rồi đây họ sẽ thấy Ngài chịu rửa trong máu để ban nước rửa trong Thánh Thần.
Vậy việc chịu rửa hôm nay là hình ảnh về cuộc tử nạn mai ngày thì phải có hình ảnh về việc phục sinh kèm theo vì chẳng bao giờ có tử nạn tách rời phục sinh. Do đó đã có cảnh trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống, và tiếng Chúa Cha tuyên bố từ trời cao: "Con là Con Chí Ái Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con". Theo thánh Phaolô, đây là lời Thiên Chúa nói với Đức Giêsu trong mầu nhiệm phục sinh. Luca là môn đệ của Thánh Thần, hẳn đã phải hiểu theo ý đó; và theo truyền thống của kinh Thánh, đây cũng là công thức Vua Cha quen dùng để Ngôi cho thái tử kế vị trong ngày đăng quang. Luca biết truyền thống này và hẳn đã muốn tuyên xưng Vương quyền của Chúa Giêsu trong Mầu nhiệm Phục sinh.
Nhưng rõ rệt ở đây, ai ai cũng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, vì tiếng từ trời phán ra không mập mờ tí nào. Lời ấy đã đi kèm việc ThánhThần lấy hình bồ câu đã xuống, khiến đó thật là lời tấn phong và việc Thánh Thần ngự xuống là hành vi xức dầu từ trước tới nay trong lịch sử dân Chúa. Và như vậy lời sách Tiên tri Isaia hôm nay đã ứng nghiệm. Đức Giêsu là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa tuyển chọn, sủng mộ và nâng đỡ để làm rạng phán quyết cho các nước tức là đưa các dân tộc khỏi lầm lạc và tội lỗi để được đưa vào nước Chân lý và Thánh thiện. Do đó chưa bao giờ Đức Giêsu tỏ mình ra như hôm nay, vừa công khai vừa với nhiều tước hiệu và những tước hiệu cao quý hơn cả. Chúng ta được biết Ngài là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sủng mộ. Ngài được tấn phong trong Thánh Thần để được xưng tụng là Kitô một cách đặc biệt hơn hết vì chẳng ai được "xức dầu" như Ngài. Vẻ khiêm cung khó nghèo của Ngài chỉ làm chứng Ngài thật là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa mà sách Isaia đã loan báo. Người Tôi Tớ ấy sẽ đau khổ vì tội lỗi loài người đến nỗi bị giết, bị đâm nhưng sẽ được tôn vinh; nên hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu đứng trong hàng ngũ tội nhân và chịu Gioan rửa. Ngài làm trước cuộc tử nạn sau này và do đó Chúa Cha hôm nay cũng báo trước việc Ngài sẽ phục sinh. Và dòng sông Giođan hôm nay chứng kiến những sự kiện này cũng được trở nên hình ảnh về phép rửa tái sinh nhân danh Đức Giêsu chịu chết và sống lại. Do đó nói như nhiều Giáo Phụ đã nói; Đức Giêsu hôm nay xuống dòng sông Giođan là để thành hóa nước thánh tẩy tội nhân sám hối sau này.
Tất cả những ý nghĩa ấy không làm cho ngày lễ hôm nay nên long trọng sao? Chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng?
3. Ngài Thi Ân Giáng Phúc
Bài sách Công vụ hôm nay là mấy câu đầu trong bài diễn từ của Phêrô tại nhà một viên sĩ quan Rôma. Ông đã đến đây theo lệnh Thánh Thần vì Ngài muốn cho cả lương dân cũng được ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Ông thấy rõ: Thiên Chúa không thiên vị ai, nhưng chiếu cố đến mọi người có lòng ngay. Ngài đã sai đến cho tất cả chúng ta một Đấng Giêsu Kitô, đã được Ngài xức dầu bằng Thánh Thần và quyền năng để ngang qua đâu, Đức Giêsu cũng thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị quỷ ma áp bức thống trị.
Dĩ nhiên Phêrô đã ám chỉ đến những lần Đức Giêsu chữa bệnh và xua đuổi tà thần ra khỏi những kẻ bị quỷ ám. Nhưng những phép lạ ấy chỉ là dấu hiệu nói lên sứ mạng của Ngài là cứu nhân loại tội lỗi ra khỏi quyền lực của Satan. Và như vậy, những lời Phêrô nói hôm nay như muốn kéo dài việc hiển linh ở bờ sông Giođan. Ông giới thiệu việc làm của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa. Lời ông nói không những phù hợp với lễ hôm nay mà còn gợi ý, để chúng ta thấy ảnh hưởng của Đức Giêsu Kitô còn kéo dài cho những "người kính sợ Chúa và làm lành" ở mọi thời và mọi nơi, chẳng thiên vị hoặc kỳ thị ai.
Chúng ta vẫn tin như vậy, nhưng cần giục thêm lòng tin mỗi khi đến với Chúa Giêsu Kitô, dặc biệt trong những giờ thánh lễ như bây giờ. Chúng ta sẽ được tiếp xúc với Ngài trong Thánh Thể.
Đây cũng là mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Bánh rượu bề ngoài cũng tầm thường thôi; nhưng lời truyền phép cho chúng ta biết giá trị đã thay đổi rồi. Không có gì giống như trong việc Đức Giêsu chịu phép rửa sao? Hôm ấy bề ngoài Ngài là phận tôi tớ, nhưng tiếng Thiên Chúa đã tuyên dương Ngài là Con Chí Ái cùng lúc với Thánh Thần đã lấy hình bồ câu đáp xuống trên Ngài. Nếu chúng ta đã chấp nhận những lời Thánh Kinh về việc Ngài chịu rửa, thì chúng ta hãy lãnh nhận Thánh Thể với niềm tin mạnh mẽ như thế, để như lời Phêrô nói, Đức Giêsu đi ngang qua sẽ thi ân giáng phúc và cứu chúng ta khỏi quỷ ma áp bức thống trị.
Hơn nữa, rồi ra sau thánh lễ, chúng ta phải theo gương Ngài đi giữa trần gian. Chúng ta cũng có thể làm nhiều việc bác ái thương người! Chúng ta cũng có thể làm nhiều việc bác ái thương người! Và chúng ta cũng có thể xua đuổi ảnh hưởng và áp lực của quỷ ma nếu chúng ta kính sợ Thiên Chúa và làm lành với sự trợ giúp của ơn Ngài. Còn nói gì nữa, khi chúng ta lại muốn như Ngài trở thành Người Tôi Tớ Thiên Chúa sẵn sàng mang các gánh nặng của anh em! Sự thật, có làm như vậy, chúng ta mới tỏ ra đã hiểu việc Chúa Giêsu đã chịu phép rửa hôm nay và đã để cho việc ấy sinh ơn cứu độ cho mình. Cầu chúc chúng ta làm được như vậy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là cao điểm của Mùa Giáng Sinh, bởi mầu nhiệm bản thân Người: TN 1-C70
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là cao điểm của Mùa Giáng Sinh, bởi mầu nhiệm bản thân Người sẽ được mặc khải một cách công khai và rõ ràng hơn cả.
Đấng Cứu Thế chịu phép rửa
Lý trí của con người không muốn đón nhận sự kiện này. Mà ngay cả các thánh sử cũng thế.
Chỉ có Gioan Tẩy giả của Marcô xem ra là chịu làm phép rửa cho Chúa Giêsu (x. 1, 9).
Mat-thêu thì nói Gioan từ chối (x. Mt 3, 17).
Luca xem ra là người tinh tế hơn cả: ông gỡ rối cho Gioan bằng cách nói rằng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì trước đó Gioan đã bị bỏ tù (x. Lc 3, 20).
Ý tưởng của loài người là thế, còn Chúa Giêsu thì “thanh thản” khi cùng với các tội nhân bước xuống dòng sông Gioađan.
Đấng Cứu Thế sống cho đến tận cùng của thân phận con người
Ở đời, chẳng ai muốn gán cho mình nhãn hiệu là “tội nhân” bao giờ, chỉ trừ có Chúa Giêsu.
Chúa đã không từ chối khi sinh vào nhân loại tội lỗi này thì Người cũng đảm nhận cho hết thân phận cùng khốn ấy để cứu độ nó: “Điều gì không được đảm nhận, sẽ không được cứu độ” (Thánh Irênê).
Cả cuộc đời sau này của Người sẽ tiếp tục sống theo chiều hướng đã chọn lựa từ ban đầu, như khi kề cận lân la với những người tội lỗi khiến người đời xầm xì bàn tán.
Nhập thể không bao giờ là việc nửa vời, nhưng phải sống cho trọn, bởi vì Người là con người cứu thế.
Mầu nhiệm thánh giá đã ló dạng.
Đấng Cứu Thế cầu nguyện
Luca là tác giả Tin Mừng duy nhất ghi nhận sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã “cầu nguyện” (3, 21).
Con người cứu thế không thể chỉ lăn xả vào những hoạt động mà thiếu vắng sự cầu nguyện.
Thật đáng ghi nhận sự kiện này: nơi Luca, sứ vụ của Chúa Giêsu khởi đầu với việc cầu nguyện (x. 3, 21), để rồi kết thúc cũng bằng sự cầu nguyện (x. 22, 46).
Và sự cầu nguyện ấy sẽ dàn trải suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, như máu thấm vào da thịt Người và như một “đam mê”: khi chữa bệnh (5, 16), trước khi chọn 12 tông đồ ( 6, 12), khi tiên báo cuộc khổ nạn (9, 18), trước khi biến hình (9, 28-29), và cả trước khi dạy các môn đệ cầu nguyện (11, 1-2). Người đã cầu nguyện cho ông Phêrô (22, 32), Người cầu nguyện cùng Chúa Cha trên núi Cây Dầu (22, 39-46) và trên thánh giá (23, 34.46).
Một điều khác cũng nên ghi nhận: như đã được nói ở Luca 11, 13: Thánh Thần sẽ được ban xuống như là sự đáp trả lại lời cầu nguyện. Trong câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần đã đến sau khi Người cầu nguyện.
Việc Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ là khuôn mẫu cho kitô hữu, nhưng trước hết vì Người là trung gian cứu thế, đồng thời Người cho thấy rằng ơn cứu độ phát xuất từ Thiên Chúa.
Luca là tác giả nhấn mạnh đến đời sống cầu nguyện. Vì thế thiết tưởng chúng ta phải suy nghĩ theo chiều hướng này.
Đấng Cứu Thế được tấn phong
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình dáng bồ câu và có tiếng Chúa Cha phán từ trời: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
Chúa Cha chính thức tấn phong Đức Giêsu làm Đấng Mêxia của muôn dân, theo cung cách của một Đấng cứu đời như đã nói trên.
Sự hiện diện của Ba Ngôi ở đây cho thấy cứu thế là công việc của Thiên Chúa, với sự cộng tác của ba Đấng.
· Is 40,1-5.9-11: (11) Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.
· Tt 2,11-14; 3,4-7: (5) Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. (6) Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta.
· TIN MỪNG: Lc 3,15-16.21-22
Đức Giê-su chịu phép rửa (Mt 3,13-17; Mc 1,9-11)
(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia! (16) Ơng Gioan trả lời mọi người rằng: «Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa».
(21) Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, (22) và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: «Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao người Do Thái lại tự hỏi: «Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia»? Thái độ của: TN 1-C71
1. Tại sao người Do Thái lại tự hỏi: «Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia»? Thái độ của Gioan thế nào? Ta học được gì nơi thái độ ấy?
2. Đức Giêsu vô tội, tại sao Ngài lại lãnh nhận phép rửa của Gioan? Ngài muốn làm gương cho chúng ta? Hay Ngài sám hối thay cho cả nhân loại?
3. Ta có thể bắt chước Ngài trong việc sẵn sàng gánh tội cho người khác, sám hối và sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội thay cho họ?
Suy tư gợi ý:
1. Gioan Tẩy Giả được dân chúng hy vọng là Đấng Cứu Thế
Các ngôn sứ chính thống của Thiên Chúa bắt đầu xuất hiện với Samuel, Êlia, Êlisê trước công nguyên khoản 1000 năm, và kết thúc với những ngôn sứ cuối cùng là Malakhi, Giôen, Giôna… khoảng 350 năm trước công nguyên. Suốt trong khoảng 350 năm đó, dường như không có ngôn sứ nào xuất hiện. Nhưng dân Do Thái tin rằng khi Đấng Cứu Thế đến thì truyền thống ngôn sứ sẽ xuất hiện trở lại (x. Ge 2,28-29). Khi Gioan Tẩy giả xuất hiện, nói năng đúng theo kiểu các ngôn sứ thời xưa, nghĩa là kêu gọi khẩn cấp phải quay trở về với Thiên Chúa để tránh hình phạt đổ xuống. Dân chúng thấy vậy thì vô cùng phấn khởi, họ tin rằng triều đại của Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ thời xưa loan báo đang đến. Rất nhiều người nghi ngờ rằng Gioan chính là Đấng Cứu Thế mà muôn dân hàng trông đợi. Khi thấy nhiều người nghĩ mình như thế, Gioan liền cải chính: «Có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người». Đó chính là lòng thành thật và sự khiêm nhường của ông: hai nhân đức rất căn bản của người Kitô hữu.
2. Phép rửa của Gioan và phép rửa của Đức Giêsu
Gioan kêu gọi mọi người sám hối và chịu phép rửa bằng nước của ông. Nhưng ông tiên báo Đấng đến sau ông sẽ «làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa». Phép rửa bằng nước của Gioan chỉ là một nghi thức và biểu tượng tỏ lòng sám hối để được Thiên Chúa tha thứ. Nó có tác dụng tâm lý, tạo ấn tượng về sự sám hối để giúp người ta giữ được lâu bền thành quả việc sám hối ấy. Đồng thời nhờ sám hối mà tội lỗi họ được Thiên Chúa tha thứ. Còn phép rửa của Đức Giêsu mang tính tích cực và hữu hiệu: chẳng những được Thiên Chúa tha thứ, mà còn lãnh nhận được Thánh Thần và lửa tình yêu để sống thánh thiện xứng đáng là con cái của Thiên Chúa hầu được sống hạnh phúc vĩnh cửu.
Mặc dù phép rửa của Đức Giêsu cao trọng và hữu hiệu hơn của Gioan, nhưng Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của Gioan cũng như bao người tội lỗi khác. Việc này đương nhiên đặt nên nhiều thắc mắc về mặt thần học. Vì nếu ta nhìn nhận Đức Giêsu là hoàn toàn vô tội, tại sao Ngài lại lãnh nhận phép rửa của Gioan? Nếu Ngài vô tội, và việc chịu phép rửa của Ngài chỉ để làm gương, thì rõ ràng việc làm này chỉ mang tính biểu diễn, và có phần nào giả dối, thiếu nền tảng chân lý. Điều này không thích hợp với tư cách của Đức Giêsu! Trong nhiều trường hợp, không thể giải thích việc làm của Đức Giêsu theo kiểu Ngài làm như thế là để làm gương cho chúng ta. Giải thích như thế có phần nào gượng ép và hạ tư cách của Ngài. Làm gương mà không xứng hợp với tư cách của mình thì không được hay lắm!
3. Đức Giêsu đại diện nhân loại, và gánh tội trần gian
Đức Giêsu đến trần gian, để nhập thể, để đại diện cho nhân loại tội lỗi (x. Dt 2,17; 5,1-3) hầu gánh lấy toàn bộ tội lỗi của trần gian trên mình (x. Ga 1,29), và để chấp nhận một hình phạt nào đó xứng đáng hầu đền tội thay cho nhân loại (x. Dt 10,12). Vì thế, mặc dù Ngài vô tội, nhưng một khi đã đại diện cho kẻ có tội, thì Ngài phải mặc lấy tâm tình của kẻ có tội, và hành xử như người có tội trước mặt Thiên Chúa. Tương tự như cha mẹ xin lỗi ai thay cho con cái mình, thì chính cha mẹ ấy phải sẵn sàng hạ mình nhận lỗi trước mặt người ấy. Chẳng những Đức Giêsu tự coi mình là kẻ có tội, mà chính Thiên Chúa cũng coi Ngài – với tư cách đại diện nhân loại tội lỗi – là có tội, nên đã sẵn sàng giáng những hình phạt khủng khiếp xuống trên Ngài.
Khi thấy Gioan làm phép rửa sám hối, Đức Giêsu ý thức sứ mạng gánh tội trần gian của mình, nên đã chịu phép rửa của Gioan để đại diện cho cả nhân loại tỏ lòng thống hối trước mặt Thiên Chúa. Hành động này đã làm động lòng Thiên Chúa Cha, khiến Chúa Cha ban «Thánh Thần xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu» đồng thời công khai xác nhận trước mọi người rằng Ngài chính là Con của mình: «Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con».
4. Gương Đức Giêsu gánh tội và sám hối thay cho người khác
Để cứu nhân loại, Đức Giêsu đã gánh tội trần gian trên mình, đã sám hối và đền tội thay cho nhân loại. Đó cũng là một gương tuyệt vời để chúng ta bắt chước. Chung quanh ta, và ngay cả bản thân ta, có biết bao khuyết điểm, lỗi lầm, tội lỗi. Ý thức bản thân mình tội lỗi để sám hối và sẵn sàng đền tội là một điều tốt. Nhưng khi thấy người chung quanh ta lầm lỗi, phạm tội, mà ý thức được tính liên đới trách nhiệm giữa ta với họ, cũng như giữa con người với nhau, để rồi sẵn sàng sám hối và đền tội thay cho họ, là một nghĩa cử hết sức cao đẹp, mà chỉ những tâm hồn hết sức cao thượng mới làm được.
Ta thấy Đức Giêsu có một ý thức rất mạnh về tính liên đới trách nhiệm trong tình trạng tội lỗi của nhân loại, mặc dù Ngài hoàn toàn vô tội. Ngài ý thức mình cũng như mọi người đều mang trong mình bản tính yếu đuối của nhân loại, và cùng với mọi người sống trong một xã hội có nhiều tội ác và bất công. Dù bản thân mình vô tội, nhưng mình là một thành phần của một cộng đồng xã hội có tội, nên mình có trách nhiệm giải hòa cộng đồng xã hội của mình với Thiên Chúa. Đó là thể hiện tinh thần liên đới và yêu thương đối với xã hội.
Khi mặc lấy tâm tình yêu thương và thống hối thay cho mọi người như Đức Giêsu, thì dù ta có thánh thiện hay vô tội tới đâu, ta vẫn dễ dàng yêu thương, cảm thông và sẵn sàng tha thứ cho những người lầm lỗi chung quanh ta. Ta sẽ không kết án cũng không lên mặt đối với họ. Trái lại, ta sẵn sàng đón nhận mọi khổ đau xảy đến cho mình để đền tội thay cho họ trước mặt Thiên Chúa. Tất cả những đau khổ xảy đến cho ta đều là những dịp quí báu, đều là hồng ân Chúa ban để ta có thể làm một nghĩa cử yêu thương đối với những người tội lỗi. Đó là dùng những đau khổ đó để đền tội thay cho họ. Và tất cả mọi đau khổ của ta đều trở nên có ý nghĩa, đều là dịp để thực hiện tình yêu thương, và đương nhiên có giá trị rất lớn trước mặt Thiên Chúa. Nếu «không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13), thì tương tự, chịu đau khổ, đền tội thay cho người khác, cũng là một hành vi hết sức cao cả. Khi ta thực hiện như thế, tự nhiên ta có khả năng cảm hóa người khác, và nhiều người tội lỗi sẽ nhờ ta mà trở về với Thiên Chúa.
Trong gia đình, việc gánh tội và đền tội thay cho nhau, giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau là chuyện rất bình thường. Nhưng chuyện đó không xảy ra bình thường giữa những người xa lạ với nhau. Tại sao? Vì trong gia đình có tình yêu đích thực và mãnh liệt. Chỉ có tình yêu đích thực và mãnh liệt mới giúp người ta chịu đau khổ, chịu chết để đền tội thay cho nhau.
Thiên Chúa mời gọi ta yêu thương mọi người, kể cả người xa lạ, thậm chí kẻ thù, bằng thứ tình yêu nào? Tình yêu thật sự hay ngoài môi miệng? Tình yêu pha loãng hay đậm đặc? Quả không có gì là khó hiểu khi mọi người đều hết sức ngạc nhiên thấy linh mục Maximilianô Kolbê sẵn sàng chịu khổ hình và chịu chết thay cho một người có vợ có con đang nheo nhóc ở ngoài đời mặc dù ngài chẳng có bà con ruột thịt gì với anh ta. Cha Kolbê đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi mình yêu thương tha nhân bằng một tình yêu đích thực và mãnh liệt. Thiên Chúa có mời gọi bạn, mời gọi tôi như thế không? Bạn và tôi đã đáp lại lời mời gọi ấy thế nào?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu đã làm một hành động thật là tuyệt vời! Ngài luôn ý thức sứ mạng của mình là gánh tội trần gian. Ngài muốn liên đới trách nhiệm với nhân loại trong tình trạng tội lỗi của họ. Ngài sẵn sàng cùng với họ sám hối tội lỗi, cùng chịu đau khổ với họ để đền tội. Ngài đã chấp nhận chết thê thảm trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Xin Cha giúp con có được ý thức, tâm tình yêu thương và lòng dũng cảm như Đức Giêsu, để con cũng biết liên đới trách nhiệm với tội lỗi của những người sống chung quanh con, những người đang cùng sống trong một xã hội với con. Amen.
Có ba dịp Chúa Giê-su tỏ mình là Đấng Cứu độ: Lễ Hiển Linh, Chúa chịu phép rửa của Gio-an: TN 1-C72
Có ba dịp Chúa Giê-su tỏ mình là Đấng Cứu độ: Lễ Hiển Linh, Chúa chịu phép rửa của Gio-an và khi Chúa làm phép lạ đầu tiên tại Ca-na. Mỗi dịp mang một sắc thái riêng biệt, nhưng nhắm cùng một mục đích là giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng cứu độ nhân loại. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại khẳng định của ông Gio-an Tẩy giả về con người và sứ mệnh của Đấng Ki-tô là Chúa Giê-su, trong khi Thiên Chúa Cha trịnh trọng giới thiệu với toàn thể nhân loại Chúa Giê-su là Con yêu dấu được Người sai đi để thực hiện kế hoạch cứu độ. Việc giới thiệu này đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo và ngài còn nói rõ hơn về sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Ki-tô. Còn thánh Phao-lô với cái nhìn thần học, lại nhìn Chúa Giê-su là “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người”.
1. Ông Gio-an Tẩy giả và “tiếng từ trời” nói gì về Chúa Giê-su? (bài Tin Mừng – Lu-ca 3:15-16.21-22)
Nếu ta lấy sự kiện Thiên Chúa Cha (“tiếng từ trời”) giới thiệu Chúa Giê-su là Con yêu dấu Người làm điểm cốt yếu thì việc Chúa Giê-su chịu phép rửa của ông Gio-an chỉ là bối cảnh cho việc giới thiệu. Vậy trước hết ta xét qua bối cảnh khi Chúa Giê-su chịu phép rửa. Thánh Lu-ca đề cập đến tình trạng dân chúng trông đợi Đấng Mê-si-a. Đã bao năm sống dưới kìm kẹp thống trị của đế quốc Rô-ma, người dân Ít-ra-en trông đợi “đấng mê-si-a” đến giải phóng quốc gia và đem lại tự do cho họ. Đó là quan niệm thường tình thời bấy giờ. Ngay cả các Tông đồ cũng nghĩ và một niềm trông đợi như thế (x. Cv 1:6-7). Ông Gio-an biết rõ dân chúng mong đợi như vậy và biết họ lầm tưởng ông với “đấng mê-si-a”, nên ông muốn giải thích cho họ hiểu. Ông lấy chính công việc ông đang làm phép rửa để giúp họ hiểu vai trò và sứ mệnh của Đấng Mê-si-a đích thực. So sánh thân phận ông với thân phận của Đấng Mê-si-a, ông “không đáng cởi quai dép cho Người”. Ông cũng thầm nhắn nhủ dân chúng rằng: nếu anh chị em đã tỏ lòng ngưỡng mộ tôi và việc làm của tôi, thì xin hãy hướng về “Đấng quyền thế hơn tôi đang đến”; tôi là kẻ chỉ đường, còn Người mới chính là con đường và đích tới; tôi làm nghi thức rửa để giúp anh chị em chuẩn bị tâm hồn, còn Người mới có quyền năng và tư cách tha thứ và xóa bỏ tội lỗi anh chị em. Phép rửa Chúa Giê-su sẽ chịu (Mc 10:39) là cuộc Thương khó và cái chết thập giá của Người. Phép rửa ấy được thực hiện dưới tác động và hướng dẫn của Thánh Thần cũng như do lửa yêu mến Chúa Giê-su dành cho Thiên Chúa và anh chị em đồng loại của Người (Ga 15:13). Không biết có bao nhiêu người đã hiểu và chấp nhận sứ điệp ông Gio-an nói về Chúa Giê-su đây?
Tuy nhiên ngay sau “tiếng dưới đất” của ông Gio-an, ta được nghe “tiếng từ trời” của Thiên Chúa Cha quả quyết về sứ mệnh của Chúa Giê-su. Trước hết, “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu” và sẽ dẫn dắt Người qua suốt những năm tháng thi hành sứ vụ cứu độ. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su còn chứng nhận cho lời giải thích của ông Gio-an về Đấng Mê-si-a đích thực như ta vừa thấy ở trên. Còn về “lửa” yêu mến trong Chúa Giê-su thì chính Thiên Chúa Cha đã làm chứng khi Người phán trước toàn thể nhân loại: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con”.
Lời giới thiệu của Thiên Chúa Cha cũng được coi như lời nhắn nhủ và khích lệ Chúa Giê-su trước khi Người lên đường rao giảng Tin Mừng và chữa lành nhân loại. Lời ấy cho thấy Chúa Cha hoàn toàn tin tưởng Con yêu dấu Người chắc chắn sẽ chu toàn sứ mệnh cứu độ thế gian. Thật là một khung cảnh trang trọng, nhưng đơn sơ và đầy ắp tình Cha Con thắm thiết.
2. Cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a về ngày trọng đại Thiên Chúa giới thiệu Đấng cứu độ (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 49:1-5.9-11)
Những gì xảy ra bên bờ sông Gio-đan hôm nay cũng là điều được tiên báo do ngôn sứ I-sai-a trong Cựu Ước và được suy niệm do Tông đồ Phao-lô trong Tân Ước. Vậy I-sai-a đã nhìn thấy gì trong ngày trọng đại này?
Trước hết ngôn sứ báo tin vui cho Giê-ru-sa-lem rằng “thời phục dịch của Thành đã mãn và tội của Thành đã đền xong”. Ngài muốn nhân loại hướng nhìn về trời mới đất mới, đó là Triều Đại Thiên Chúa hoặc thời cứu độ đã đến gần, nói cho rõ hơn, Thiên Chúa cứu độ là Chúa Giê-su Ki-tô đang tới. Liền sau đó, I-sai-a đã tự cho mình là “tiếng hô trong sa mạc” mời gọi mọi người hãy chuẩn bị đón nhận “vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện”. Giê-ru-sa-lem nằm trong tay ngoại bang là hình bóng của một nhân loại đang bị tội lỗi khống chế. Muốn được giải thoát, nhân loại phải làm một cuộc sám hối trở về với Thiên Chúa. Hình ảnh dọn một con đường cho Chúa đến cũng đã được ông Gio-an Tẩy giả lập lại khi ông làm phép rửa bên sông Gio-đan và rao giảng sám hối.
Tiếp đến, ngôn sứ I-sai-a mô tả sứ vụ của “kẻ loan tin mừng” cho Xi-on và Giê-ru-sa-lem. Kẻ loan tin mừng sẽ “trèo lên núi cao, lên Giê-ru-sa-lem, đến các thành miền Giu-đa…, cất tiếng lên cho thật mạnh” để loan báo cho mọi người biết Tin Mừng Thiên Chúa cứu độ. Vậy kẻ loan tin mừng đây là ai? Chắc chắn ta có thể hiểu ngôn sứ muốn nói về Chúa Giê-su và sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Người. Như chúng ta thấy qua những trang sách Tin Mừng, Chúa Giê-su đã đi khắp nơi thực hiện những điều I-sai-a và Cựu Ước nói về Người. Đây cũng là sứ vụ Chúa Giê-su lên đường chấp hành sau khi được Chúa Cha, “tiếng từ trời”, long trọng sai đi. “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Is 61:1). Ngôn sứ I-sai-a đã nhìn thấy trong thị kiến của ngài quang cảnh Thiên Chúa sai Chúa Giê-su đi: “Con là Con yêu dấu của Ta”. Phụng vụ Lời Chúa quả thực đã sắp đặt tuyệt vời các bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng, tuy nhiên không thể bỏ qua bài suy niệm của thánh Phao-lô trong thư gửi ông Ti-tô.
3. Thánh Phao-lô suy niệm về việc Thiên Chúa biểu lộ ơn cứu độ (bài đọc Tân Ước – Ti-tô 2:11-14;3:4-7)
Trước biến cố trọng đại Thiên Chúa giới thiệu Con yêu dấu của Người là Đấng cứu độ, thánh Phao-lô chia sẻ một vài tâm tình về “lòng từ bi và nhân ái của Thiên Chúa”. Ngài gọi Chúa Giê-su là “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ”. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi nhìn Chúa Giê-su là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”, để “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:14.16). Ân sủng ấy đến “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:7) để dạy ta sống cuộc sống mới của con cái Thiên Chúa (Tt 2:12), chết để cứu chuộc ta khỏi tội lỗi, quy tụ ta thành dân Thiên Chúa (Tt 2:14).
Đối với việc Thiên Chúa ban cho ta Ân Sủng vô cùng lớn lao ấy, thánh Phao-lô xác tín đó là vì “Thiên Chúa biểu lộ lòng từ bi và nhân ái của Người”. Ân sủng là quà tặng của Thiên Chúa, dấu chỉ nói lên lòng Thiên Chúa yêu thương ta. Ân sủng Thiên Chúa ban, đó là ơn cứu độ, hay nói đúng hơn, đó là Đấng cứu độ, là “Con yêu dấu” của Người. Động lực khiến Thiên Chúa cứu độ ta không phải từ phía ta, nhưng đơn phương từ phía Thiên Chúa, “là vì Người thương xót”. Người cha đâu nỡ để con cái mình bị hư hỏng, nhưng cố gắng cứu vớt nó. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa muốn làm mọi cách để cứu ta khỏi hư mất đời đời. Do đó, Người đã thực hiện một kế hoạch diệu kỳ “nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta”. Phép Rửa của Chúa Giê-su hay cái chết của Người giúp cho ta được sinh lại với danh phận làm con Chúa. Thánh Thần của Người đổ xuống trên ta để dẫn dắt ta sống lý tưởng làm con Chúa. Nghĩ đến tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện nhờ Chúa Giê-su để cứu độ ta, thánh Phao-lô muốn hiến cả cuộc đời để rao giảng cùng ca ngợi lòng từ bi và nhân ái của Thiên Chúa. Đó cũng là động lực thúc đẩy ngài hăng say trong những hành trình truyền giáo để mang Tin Mừng đến cho anh chị em Dân ngoại. Ngài mong mọi người hãy lắng nghe “lời dạy của Ân sủng” (tức là Chúa Ki-tô), để “từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:12), đồng thời cũng phải tin tưởng và hết sức đáp lại lòng từ bi và nhân ái Thiên Chúa dành cho ta.
4. Sống Lời Chúa
Có lẽ ta không cần thiết phải đặt ra những câu hỏi về sự kiện Chúa Giê-su chịu phép rửa của ông Gio-an, nhưng hãy nhìn vào điểm chính Phụng vụ Lời Chúa muốn trình bày, đó là việc giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng cứu độ trần gian. Diễn tiến bên bờ sông Gio-đan chỉ là khung cảnh của buổi lễ “Sai đi” thật trang trọng, với sự hiện diện của ông Gio-an Tẩy giả, dân chúng, nhất là sự hiện diện và chủ sự của Thiên Chúa Cha, “tiếng từ trời”.
Chúa Giê-su đã đến để loan báo Tin Mừng và tiếp tục dạy dỗ ta. Biến cố Chúa chịu phép rửa hoặc được long trong giới thiệu đã mở đầu cho Mùa Thường niên của niên lịch phụng vụ. Ta sẽ được nghe giáo huấn của Người và chiêm ngưỡng việc Người làm qua Phụng vụ Lời Chúa của các Chúa Nhật và mọi ngày mùa Thường niên. Điều quan trọng là ta có thực sự lắng nghe và thực hành hay không.
Suy nghĩ: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người”. Những lời này của thánh Phao-lô muốn nói gì với tôi? Tôi có thực sự tiếp nhận Ân sủng này như tiếp nhận chính Chúa Giê-su không? Tôi có tâm tình nào trước lòng từ bi và nhân ái của Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Đức Ki-tô chịu phép rửa tại sông Gio-đan và Thánh Thần ngự xuống trên Người, Chúa đã long trọng tuyên bố Người là Con chí ái. Xin cho chúng con là đoàn nghĩa tử được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, hằng bền vững thi hành ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa). Lm. Đaminh Trần đình Nhi
Chủ đề Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế tiếp tục được khai triển qua Phụng vụ Lời Chúa sau lễ: TN 1-C73
Chủ đề Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế tiếp tục được khai triển qua Phụng vụ Lời Chúa sau lễ Giáng Sinh. Đấng Cứu Thế đã được Dân ngoại tiếp nhận, trong khi chính dân Chúa thì lại ơ hờ hoặc chối bỏ. Bài Tin Mừng của Lu-ca hôm nay đưa chúng ta đến suy niệm về chính sứ vụ cứu thế của Chúa Giê-su được khởi đầu qua biến cố Người chịu phép rửa Gio-an. Trong bối cảnh Chúa Giê-su cầu nguyện và quyền năng Chúa Thánh Thần bao trùm trên Người, nghi thức thánh hiến Chúa Giê-su làm Đấng Cứu Thế được diễn ra một cách đơn sơ nhưng vô cùng trang trọng và kết thúc với lời sai đi của Chúa Cha: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:22).
a) Chuẩn bị cho nghi thức “sai đi”
Đoạn Lu-ca 3:15-16 được coi như việc chuẩn bị cho nghi thức “sai đi” của Chúa Giê-su. Trước hết thánh sử nói lên hoàn cảnh và lý do tại sao có việc “sai đi” này. Tâm trạng “trông ngóng” Đấng Mê-si-a chính là hoàn cảnh và lý do. Không phải là đấng mê-si-a như một nhân vật chính trị sẽ xuất hiện để cứu quốc gia Ít-ra-en khỏi ách nô lệ cho đế quốc, nhưng là Đấng Mê-si-a (cũng là Ki-tô) sẽ đến giải phóng nhân loại thoát vòng nô lệ tội lỗi và thiết lập một vương quốc thiêng liêng. Thánh Lu-ca cũng ngầm nói lên sự hiểu lầm này của dân chúng khi họ nghĩ có thể ông Gio-an Tẩy giả là đấng mê-si-a họ đang trông đợi. Thế là ông Gio-an Tẩy giả xuất hiện trong nghi thức và đóng vai trò một người giới thiệu Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người.
Lời giới thiệu của ông Gio-an Tẩy giả tuy ngắn gọn, nhưng hết sức đầy đủ, nói cho chúng ta biết tầm quan trọng của Đấng Cứu Thế đích thực và sứ mệnh của Người. Hẳn ông Gio-an đã thừa biết nhiều người lầm tưởng ông là đấng mê-si-a. Đã nhiều lần ông lên tiếng thanh minh với dân chúng điều ngộ nhận ấy và tiếp tục mời gọi người ta hãy dọn con đường tâm hồn để đón nhận Đấng Mê-si-a đích thực. Nói thẳng và nói thật, đó là bản chất con người ông. Nên ông không ngần ngại bảo dân chúng hãy nhận ra ý nghĩa thực sự của những điều ông đang làm. Ông làm phép rửa, nhưng chỉ đơn thuần là một nghi thức giúp người ta chuẩn bị tâm hồn, trong giới hạn chuẩn bị mà thôi, chứ không thể thay đổi được một thân phận. Nói khác đi, phép rửa của ông chỉ giúp cho người ta đáp lại lời gọi làm con cái Thiên Chúa, chứ không thực sự biến đổi người ta từ tình trạng tội lỗi và thù nghịch với Thiên Chúa trở thành những dưỡng tử của Thiên Chúa. Chỉ có Phép Rửa của Chúa Giê-su, một Phép Rửa khởi đầu với việc rao giảng Tin Mừng và kết thúc bằng cái chết trên thập giá, cùng với “nước và máu” chảy ra từ cạnh sườn Người (Ga 19:34), mới có quyền năng biến đổi thân phận con người chúng ta. Ông Gio-an muốn dùng chính sự khác biệt giữa phép rửa của ông và Phép Rửa của Chúa Giê-su để nói lên sự cao trọng của Đấng Cứu Thế. Phép rửa của ông là rửa bằng nước, cũng như chúng ta rửa tay rửa chân mà không rửa được tâm hồn. Ông Phi-la-tô cũng rửa kiểu ấy trước mặt dân chúng! Còn Phép Rửa của Chúa Giê-su là rửa bằng Máu và Nước chảy ra từ trái tim của Đấng vui lòng hiến thân chịu chết cho bạn hữu (Ga 15:13). Nhất là Phép Rửa của Chúa Giê-su lại được diễn ra trong Thánh Thần, Đấng cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và gọi Người là “Abba” (Rm 8:14-17). So sánh như thế, Gio-an Tẩy giả đã có thể hãnh diện giới thiệu cho thế giới “Đấng quyền thế” đang đến là Chúa Giê-su. Ông còn thành thực đến độ nhận mình không đáng làm đầy tớ của Chúa Giê-su, vì “cởi quai dép” là hành vi chỉ dành cho nô lệ, chứ ngay đến một người Do-thái giúp việc cũng không khi nào phải cởi quai dép cho chủ.
b) Nghi thức thánh hiến và “sai đi”
Sau phần giới thiệu thật ý nghĩa của ông Gio-an Tẩy giả, Chúa Giê-su xuất hiện. Không phải một con người nghênh ngang tiến ra như ta thường thấy trên sân sấu thế gian, nhưng là một con người hòa mình với đám dân chúng mà lại khác biệt dân chúng, Chúa Giê-su đã xuất hiện trong tư thế cầu nguyện. Sấp mình cầu nguyện là việc ta thấy các người sắp lãnh nhận chức thánh hoặc các nữ tu sắp khấn trọn làm trong lễ phong chức hay khấn dòng. Cầu nguyện trước khi làm những quyết định hay công việc quan trọng vẫn là những hình ảnh đẹp nhất về Chúa Giê-su ta thường gặp trong sách Tin Mừng Lu-ca, những lúc Người gặp gỡ Chúa Cha.
Tiếp đến là Chúa Thánh Thần xuất hiện “dưới hình dáng chim bồ câu.” Thánh Thần luôn hiện diện khi Chúa Giê-su thi hành sứ vụ. Thánh Thần giúp Người khởi đầu sứ vụ (4:16-22) và kết thúc sứ vụ của Chúa Giê-su (Ga 19:30), rồi bắt đầu một cuộc tạo dựng mới qua Giáo Hội trong ngày Hiện Xuống (Cv 2:1-13).
Sau cùng và cũng là giây phút quan trọng nhất: Lời của Chúa Cha phán: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.” Quả thực là một cuộc thánh hiến đơn sơ nhưng vô cùng trang trọng. Không còn là những lý luận của loài người như ông Gio-an Tẩy giả đã làm. Không phải là những lời hoa mỹ hoặc đao to búa lớn. Nhưng là lời của chân lý, của Đấng là chính Sự Thật khẳng định về căn tính, danh hiệu và sứ mệnh của người được thánh hiến, tất cả đều nằm trong quan hệ với chính Thiên Chúa, Đấng chủ sự nghi thức thánh hiến. Tiếp đến là lời long trọng sai đi: Hôm nay Cha đã sinh ra Con. Nghĩa là đặt Con làm Đấng Cứu độ nhân loại, làm trưởng tử của một nhân loại mới. Thiên Chúa Cha chính thức giới thiệu với nhân loại Mầu nhiệm Đức Giê-su, để từ nay Đức Giê-su sẽ tỏ cho ta biết mầu nhiệm Thiên Chúa và kế hoạch cứu chuộc của Người.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Chúa Giê-su đã được Chúa Cha ban cho tôi để cứu rỗi tôi. Nhưng tôi phải cộng tác với Người, nghĩa là phải tiếp nhận Người và mở lòng để cho tình yêu Người biến đổi con người tôi thành tạo vật mới. Vậy tôi đã và đang cộng tác thế nào với Đấng Cứu Thế của tôi là Chúa Giê-su?
Người ta hỏi một cụ già dân Da đỏ niên tuế bao nhiêu, cụ trả lời: “Tôi mới được sáu tuổi!” Họ cười: “Không thể nào như thế được! Cụ đã ba lần phục vụ trong quân đội rồi!” Cụ trả lời: “Thật mà! Vì từ sáu năm nay tôi mới bắt đầu hoàn toàn được sống như người con cái Chúa sau khi cha thừa sai rửa tội cho tôi.” Còn tôi, tôi đã được rửa tội khi nào? Tôi có thực sự sống làm con cái Chúa không? Tại sao?
Trong cầu nguyện và quyền năng của Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su đã được sai đi. Cũng vậy, tôi được sai đi làm chứng cho Chúa Giê-su và Tin Mừng. Nhưng tôi có thực sự ra đi không, hay vẫn vướng mắc và lẩn quẩn tại chỗ? Những gì đang cầm chân tôi lại? Tôi phải làm gì để dứt bỏ những trở ngại ấy?
“Lạy Cha, con phó mặc con cho Cha, xin dùng con tùy sở thích Cha. Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn. Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả. Miễn là ý Cha thực hiện nơi con và nơi mọi loài Cha tạo dựng, thì lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa. Con trao linh con về tay Cha. Con dâng linh hồn con cho Cha, lạy Chúa Trời của con, với tất cả tình yêu của lòng con. Vì con yêu mến Cha, vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha, thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha, không so đo, với một lòng tin cậy vô biên, vì Cha là Cha của con.”
Lc 3:15-16.21-22: 15 Dân ngong ngóng và mọi người suy tính trong lòng về Yoan: Có khi chính ông là Đức Kitô chăng. 16 Nên Yoan đáp lại với mọi người rằng: "Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước! Sẽ đến Đấng quyền thế hơn ta, ta không đáng cởi quai dép Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần và lửa.
21 Xảy ra là trong khi toàn dân chịu thanh tẩy, và Đức Yêsu cũng chịu thanh tẩy và đang cầu nguyện, thì trời mở ra, 22 và Thánh thần lấy hình dáng thể xác như con chim câu, đáp xuống trên Ngài, và tự trời một tiếng phát ra:Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ
Bài tin mừng Chúa nhật nầy gồm các câu thuộc hai phân đoạn khác nhau trong 3:1-4:13. Câu 3:15-16: TN 1-C74
Bài tin mừng Chúa nhật nầy gồm các câu thuộc hai phân đoạn khác nhau trong 3:1-4:13. Câu 3:15-16 thuộc phân đoạn đầu 3:1-20 nói về sứ vụ rao giảng và hoạt động của Gioan; các câu 3:20-21 thuộc về phân đoạn tiếp theo 3:21-4:13 nói về các biến cố của Chúa Giêsu trước khi Ngài đi rao giảng công khai. Lời rao giảng của Gioan gồm ba đoạn liên tiếp nhau (3:7-9; 10-14; 15-17), và đoạn thứ ba liên quan đến Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ đến theo lời của ông (3:15-17). Sứ vụ của Gioan là loan báo việc Chúa Giêsu đến, và sứ vụ nầy chấm dứt khi ông bị bỏ tù. Tuy nhiên biến cố nầy được tường thuật và đặt trước trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:18-20). Lời tiên báo về Đấng sẽ đến được thực hiện khi Chúa Giêsu đến và chịu phép rửa. Như thế hai phân đoạn 3:15-17 và 3:21-22 liên hệ rất chặt chẽ với nhau.
Loan Báo Về Đấng Thiên Sai (cc. 15-18)
(Xem thêm bài chú giải Chúa Nhật III Mùa Vọng C, Lc 3:10-18).
Dân chúng đặt vấn đề với Gioan về Đấng Thiên Sai. Họ trông đợi đấng thiên sai, và họ nghĩ Gioan là đấng ấy. Động từ prosdokaô, “trông đợi” trong Luca, mang đặc tính cánh chung, và gắn liền với Chúa Giêsu như là Đấng Thiên Sai (3:15; 7:19.20; 8:40; 12:46). Không chỉ dân chúng mà cả Gioan cũng mong đợi. Dân chúng đến thắc mắc với Gioan, trong khi Gioan sai môn đệ đến hỏi trực tiếp Chúa Giêsu (7:19.20).
Sang phần nầy, Luca dùng laos, “dân chúng” (3:15.18) thay vì ochlos, “đám đông” (3:7.10). Có gì khác biệt? - Từ laos, “dân chúng” chỉ dân Israel như là dân Chúa chọn. Họ là những người trông đợi Chúa Giêsu (3:15.18); trong khi ochlos “đám đông” chỉ “con cháu của Abraham” xét theo máu huyết (3:8). Họ cần hối cải qua phép rửa của Gioan (3:7.10). Luca phân biệt rất rõ ràng khi dùng hai từ nầy. Từ “đám đông” mang ý nghĩa rất tổng quát và trung tính. Như “dân chúng”, họ cũng đi theo và lắng nghe Chúa Giêsu giảng dạy (6:17). Tuy nhiên “đám đông” đã đứng bên cạnh các thượng tế trong việc tố cáo Chúa Giêsu (23:4), và họ đã nhận ra tội của mình (23:48). “Dân chúng” thì không như thế. Họ gắn liền với việc phụng thờ Thiên Chúa (1:10), được Thiên Chúa viếng thăm và giải thoát (1:68.77), được thiên sứ báo tin Con Thiên Chúa giáng sinh (2:10.31.32tt). Họ rất gắn bó với việc nghe Chúa Giêsu rao giảng (19:48; 21:38). Họ thường ca ngợi Thiên Chúa (18:43). Các thượng tế và luật sĩ thường sợ “dân chúng” (19:48; 20:6.19), chứ không phải “đám đông”. “Kardia”, “tim”, trọng tâm của đời sống tinh thần, nguồn và nơi phát xuất ý nghĩ, đam mê, ước muốn, tình cảm… Sự trông chờ và ý nghĩ của dân chúng hình thành từ trong con tim của họ.
Đấng Christos, “Kitô”, lúc nầy đối với dân chúng mới là sự nhận dạng khởi đầu. Căn tính của Ngài chỉ được mặc khải toàn vẹn trong cuộc thương khó (24:26.46). Đấng Kitô nầy tỏ mình dần dần cho mọi đối tượng: các mục đồng (2:11), Simêon (2:26); dân chúng (3:15), ma quỉ (4:41), Phêrô (9:20), các luật sĩ (20:41), hội đồng công tọa, các thượng tế (22:67; 23:35), người trộm cướp (23:39). Tuy nhiên không phải ai cũng nhận ra Ngài.
Gioan trả lời cho toàn thể dân Israel, pasin, chứ không chỉ những người hiện diện lúc ấy (c. 16). Câu nầy gồm hai vế đối xứng và tương phản nhau, men…. dé, “Tôi, tôi thanh tẩy anh em bằng nước” - “ Ngài, Ngài thanh tẩy anh em trong Thánh Thần và lửa”. Xen vào giữa hai vế là câu “Ngài quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”. Câu giữa nầy liên kết hai nhân vật chính lại: Gioan và Chúa Giêsu. Với cấu trúc nầy, Luca không nhắm đến sự so sánh giữa hai phép rửa cho bằng sự cao trọng hơn của Chúa Giêsu đối với Gioan; và như là kết quả kéo theo, phép rửa của Ngài cũng cao trọng hơn phép rửa của Gioan. “Đấng quyền thế hơn”, ho ischyoteros, có mạo từ chỉ định, nên đọc và quy chiếu về “Đấng Kitô”, cũng có mạo từ xác định ở câu 15. Gioan muốn chỉ “Đấng Kitô” ấy mà dân chúng mong đợi phải là “Đấng Quyền thế hơn”, chứ không phải là chính ông. “Đấng Quyền thế”, ischyros, trong cựu ước là chính Thiên Chúa (Đnl 10:17; 2 Mac 1:24). “Đấng quyền thế hơn” nầy chỉ biết được là Đấng nào khi quy chiếu lời loan báo nầy về câu 3:22, trong đó Thiên Chúa tuyên bố Chúa Giêsu là “Con Ta” (3:22; Cv 19:4). Phần Gioan, ông cũng “quyền thế” trong sứ vụ. Và quyền nầy chỉ là do sứ vụ lãnh nhận từ Thiên Chúa (3:2). Bởi đó, giữa ông và Chúa Giêsu có một khoảng cách chênh lệch rất lớn, được diễn tả bằng hình ảnh “không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Động từ erchomai, ở thì hiện tại mà chỉ tương lai, mang tính trông chờ thiên sai.
Về việc thanh tẩy, động từ baptizô, “thanh tẩy” trong vế đầu chỉ việc thanh tẩy Gioan thực hiện, ở thì hiện tại và đã trở thành quá khứ khi Chúa Giêsu đến; trong khi đó, việc thanh tẩy mà Chúa Giêsu ban ở thì tương lai đã trở thành hiện tại đối với Luca. Như thế, khi Đấng quyền thế hơn Gioan đến, sứ vụ của Gioan chấm dứt và mọi sự khởi đầu một cách hoàn thoàn mới. Đó thật là một Tin mừng cho toàn dân (3:18).
Phép Rửa của Chúa Giêsu (cc. 21-22)
Bản văn của Luca dựa trên Marcô, tuy nhiên có những khác biệt: - Tên Gioan không được nêu lên, mà tên của Chúa Giêsu (c. 21b); - Dân chúng chịu thanh tẩy đặt song song với việc thanh tẩy của Chúa Giêsu; - Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi Thánh Thần ngự xuống. Có thể giải thích ý hướng của Luca qua các đặc điểm nầy là ông chỉ muốn tập trung bản tường thuật vào Chúa Giêsu mà thôi.
Câu 21 gồm hai vế song song liên kết nhau bằng liên từ kai, “và”. Egeneto dè, “Xảy ra là”, Luca bắt đầu một trình thuật mới về Chúa Giêsu; trước đây ông cũng đã làm như thế khi khởi đầu trình thuật về Gioan (3:2). Giới từ dùng với dative của một động từ ở thể nguyên mẫu chỉ sự xảy ra đồng thời: en tô baptisthçnai = hôti ebaptisthç (BDF, 404,2); nghĩa là khi dân chúng chịu thanh tẩy, Chúa Giêsu cũng chịu thanh tẩy. Xem thêm cách dùng tương tự trong Luca: 8:40; 9:34.36; 11:37; 14:1; 19:15; 24:30; Cv 11:15. Động từ baptizô trong cả hai trường hợp đều ở thì thụ động. Tên “Jçsous” được đặt vào đây để nhấn mạnh. Luca muốn nhấn mạnh là Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng “tội nhân” như dân chúng, và cùng nhận một thanh tẩy như họ; tuy nhiên cách trình bày, “và Chúa Giêsu cũng chịu thanh tẩy”, cho thấy Ngài đứng riêng khỏi nhóm của họ; qua đó ngụ ý là Ngài vẫn khác họ vì Ngài không có tội.
Chi tiết Chúa Giêsu cầu nguyện chỉ có trong Luca. Động từ proseuchomai, “cầu nguyện” ở phân từ hiện tại chỉ sự đồng thời: trời mở ra trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện; tuy nhiên việc cầu nguyện đã bắt đầu trước. Đối với Luca, cầu nguyện là điều kiện để có thái độ thích ứng trước mỗi lần tiếp xúc với Thiên Chúa (3:21); Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi biến hình (9:28tt). “Trời mở ra” thuộc loại văn khải huyền (Êzêk 1:1). Marcô nói là Ngài “đã thấy” (1:10), nghĩa là một thị kiến. Trái lại, Luca mô tả chuyện nầy như một sự kiện lịch sử. Về “trời”, ouranos, trước đây Luca chỉ nói các thiên sứ xuất hiện “trên trời” và “đi khỏi vào trong trời” (x. 2:13.15). Bây giờ “khoảng trời” ấy của Thiên Chúa mở ra. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã làm cho trời mở ra cho trần gian và Thiên Chúa lên tiếng với con người.
Câu 22 gồm hai phần ghi lại hành động của Thánh Thần và Thiên Chúa trên Chúa Giêsu.
Thánh Thần trong “hình dáng xác thể”, sômatikos, ngự xuống trên Chúa Giêsu (c. 22a). Vì mô tả “trời mở ra”như một sự kiện lịch sử, nên Luca cũng mô tả Thánh Thần “trong hình dáng thể xác” để dân chúng có thể thấy được; trong khi với Matthêô và Marcô, chỉ Chúa Giêsu thấy sự kiện nầy thôi trong một thị kiến (Mt 3:16; Mc 1:10). Chúa Giêsu chỉ ban phép rửa “trong Thánh Thần và lửa” (3:16) sau khi Ngài đã lãnh nhận Thánh Thần. Phép thanh tẩy Chúa Giêsu ban liên hệ đến “anh em”, hymas, là toàn thể dân Israel. Luca sẽ xác nhận điều nầy trong Cv 1:15 và 11:6. Thánh Thần được ban khi Chúa Giêsu đã sống lại.
Lời dẫn vào phần hai “Từ trời có tiếng phán ra” (c. 22b) chỉ lời Thiên Chúa sắp nói về Con của Ngài. Câu “Con là Con chí ái Ta”, có hậu cảnh là Thánh vịnh 2:7: “Con là Con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con”, mặc khải điều đã ẩn dấu cho đến lúc nầy. Thiên Chúa đã dùng một trong những tương quan gắn bó nhất của con người là cha-con để diễn tả cách ẩn dụ tương quan của Ngài với Chúa Giêsu, “Con là Con Ta”. Tính từ agapçtos, “chí ái”, chỉ dùng cho Chúa Giêsu mà thôi. Eudokeô, nghĩa của động từ nầy rộng hơn cách hiểu thông thường là “hài lòng”, “well-pleased” xét về mặt tình cảm. Nó bao hàm ý tưởng sự hài lòng về một hành động hay một quyết định. Bản dịch “kẻ Ta đã sủng mộ” (Nguyễn Thế Thuấn) dễ bị hiểu cách khác. Cách dịch nầy hiểu Chúa Giêsu là túc từ trực tiếp. Trong khi đó, nguyên bản là en soi eudokçsa, “trong con Ta hài lòng”. Câu nầy không có ý nói Thiên Chúa hài lòng về Chúa Giêsu trong thâm tình Cha Con cho bằng Ngài hài lòng trong quyết định về Con Một Ngài như là Đấng Thiên Sai. Sự hài lòng nầy bao gồm tất cả con người của Chúa Giêsu và việc Ngài làm theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Câu Mt 12:18 nói diễn giải nhiều hơn về sự hài lòng nầy: “Này tôi tớ Ta, kẻ Ta đã chọn, kẻ chí ái mà hồn Ta sủng mộ, Ta sẽ đặt Thần khí Ta trên Ngài, và Ngài sẽ rao truyền chính đạo cho muôn dân”. Luca dùng động từ nầy thêm một lần nữa trong 12:32, trong đó sự hài lòng nầy đi kèm theo quyết định là “ban Nước Trời cho các ngươi” (12:32). Vậy điều làm Thiên Chúa hài lòng liên quan đến sự cứu độ của con người: Ngài ban Con Một của Ngài cho trần gian được cứu độ.
Lời tuyên bố của Thiên Chúa và hành động ngự xuống của Thánh Thần trong đoạn 3:21-22 kết thúc chủ đề “thanh tẩy” liên kết đoạn nầy với đoạn 3:15-16; đồng thời lời tuyên bố nầy là câu trả lời dứt khoát cho thắc mắc của dân chúng về Đấng Kitô (c. 15). Gioan đã trả lời cho dân chúng, nhưng ông chưa xác nhận cách rõ ràng Đấng đến sau ông là ai. Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa mới thật sự là Đấng Thiên Sai mà dân Israel đã mong đợi từ lâu.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 3:15-16.21-22)
Chúng ta vừa mới mừng lễ Chúa Hiển Linh. Việc tỏ mình của Chúa Cứu Thế tiếp tục trong: TN 1-C75
Chúng ta vừa mới mừng lễ Chúa Hiển Linh. Việc tỏ mình của Chúa Cứu Thế tiếp tục trong hai biến cố khác nữa, là dịp Chúa chịu phép rửa của ông Gio-an và dịp Người làm phép lạ đầu tiên tại Ca-na. Bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca hôm nay rất trong sáng và chúng ta nhận thấy hai cảnh rõ rệt.
- Dân chúng mong đợi và tự hỏi ông Gio-an có phải là Đấng Ki-tô không? Thánh sử Lu-ca ghi lại bối cảnh trước khi Chúa Giê-su tỏ mình. Dân chúng tuốn đến bờ sông Gio-an, nơi ông Gio-an đang rao giảng sám hối và làm phép rửa. Họ đến với niềm mong đợi, mong đợi được gặp gỡ Đấng Ki-tô mà họ nghi ngờ không biết có phải là chính ông Gio-an hay không.
Mong đợi Đấng Ki-tô nào? Có lẽ hầu hết dân chúng đều mong đợi một Đấng Ki-tô đến để giải phóng họ khỏi bàn tay cai trị của người Rô-ma. Chắc hẳn ông Gio-an đã được Thánh Thần soi sáng và hiểu được Đấng Ki-tô không phải là ông vua trần gian đến giải phóng dân tộc, nhưng là Đấng có sứ mệnh giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Vì thế, ông nhân cơ hội này để làm một công hai việc. Trước hết là ông thanh minh với dân chúng rằng tuyệt đối ông không phải là Đấng Ki-tô. Thứ hai, ông muốn họ hiểu cho đúng về sứ mệnh của Đấng Ki-tô họ đang mong đợi. Đấng ấy cao trọng đến nỗi chính ông không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Sứ mệnh của Người không phải là chuẩn bị tâm hồn người ta để lãnh ơn tha tội như ông Gio-an đang làm cho dân chúng (tức là “rửa anh em trong nước”), nhưng “chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!” Đúng vậy, Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô mà ông Gio-an muốn giới thiệu với dân chúng. Người sẽ lấy Thần Khí và lửa tình yêu của Người để xóa bỏ tội lỗi nhân loại. Nói khác đi, ông Gio-an chỉ làm phép rửa, còn chính Chúa Giê-su mới là Đấng tha tội, Đấng cứu độ.
- Thiên Chúa giới thiệu Chúa Giê-su với nhân loại: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Chúng ta vừa nghe ở trên thánh Gio-an nói về Chúa Giê-su trong sứ mệnh rửa sạch tội lỗi trần gian bằng Thánh Thần và lửa. Những điều này đã được xác nhận qua những gì xảy ra sau khi Chúa chịu phép rửa của Gio-an. Đó là Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người, và lửa tình yêu liên kết Thiên Chúa Cha với Người Con yêu dấu. Thánh Thần và lửa tình yêu (yêu Thiên Chúa và yêu nhân loại) sẽ là hành trang để Chúa Giê-su lên đường thi hành sứ mệnh cứu độ trần gian. Lời giới thiệu của Thiên Chúa Cha về Con yêu dấu tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng đầy đủ ý nghĩa về con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Lời giới thiệu “Con là Con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha” cũng là lời gợi ý cho Gio-an Tiền hô giới thiệu Chúa Giê-su với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội lỗi trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi tôi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta đã quen với việc giới thiệu, thí dụ khi có một người xếp mới tại sở làm, hoặc khi chúng ta đến làm ở một chỗ mới và được giới thiệu với đồng nghiệp. Chắc chắn ai cũng muốn gặp được một người xếp tốt hay một đồng nghiệp dễ mến. Hôm nay thánh Gio-an Tiền hô và nhất là Thiên Chúa Cha giới thiệu với chúng ta Đấng Ki-tô, Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúng ta đã biết Người yêu thương chúng ta đến độ chết cho chúng ta được tha thứ tội lỗi. Người mời gọi chúng ta làm môn đệ, bước theo Người và hãy để cho Người lấy Thánh Thần và tình yêu tẩy rửa chúng ta sạch tội lỗi. Đáp lại hay không là hoàn toàn tùy thuộc chúng ta đấy.
Không ai hiểu được thánh Gioan Tẩy Giả rửa tội cho Chúa Giêsu bằng cách dìm Ngài xuống nước: TN 1-C76
Không ai hiểu được thánh Gioan Tẩy Giả rửa tội cho Chúa Giêsu bằng cách dìm Ngài xuống nước hay lấy nước đổ trên đầu Ngài ? Tuy nhiên, nói gi thì nói nhưng việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay ông Gioan tẩy giả cũng nói lên con người khiêm hạ thẩm sâu của Chúa Giêsu. Đấng sẽ rửa người ta trong Thánh Thần và nước lại cúi rạp mình chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả. Vấn đề không phải là dìm hay rửa, hay xối nước lên đầu của Chúa mà nói lên ý nghĩa và giá trị của việc ông Gioan Tẩy Giả làm cho Chúa Giêsu. Tin Mừng nhất lãm đều đồng loạt ghi lại:” Đây là con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người”. Thì ra Chúa Giêsu khi khiêm hạ chịu phép rửa sám hối, Ngài được Thiên chúa Cha tôn vinh.
PHÉP RỬA CỦA GIOAN TẨY GIẢ:
Phép rửa của Gioan đang làm trong dòng sông Giođăng là phép rửa thống hối, dành riêng cho các tội nhân. Đọc Tin Mừng nhất lãm chúng ta sẽ hiểu rõ câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa. Quả thế, cả ba Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca đều diễn tả chi tiết về việc Chúa xếp hàng cùng với đoàn người xin Gioan làm phép rửa cho mình. Chúa Giêsu là Đấng đại thánh, đáng lẽ không cần phải xin Gioan rửa tội cho mình. Gioan cũng hiểu điều đó. Do đó, Gioan đã nói với Chúa Giêsu:” Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa nhưng Ngài lại đến với tôi “. Chúa Giêsu muốn làm như thế để chứng tỏ lòng tuân phục tuyệt đối ý Chúa Cha. Chúa Giêsu là Đấng công chính. Ngài không cần phải được thanh tẩy vì Ngài hoàn toàn trong sạch, thánh thiêng. Chúa Giêsu hoàn toàn làm theo ý Chúa Cha. Do đó, Thiên Chúa đã long trọng tuyên bố Chúa Giêsu là con yêu dấu của Ngài. Người Cha nào cũng sung sướng và hài lòng khi con làm theo ý của mình. Làm được điều này điều nọ không quan trọng bằng việc làm theo ý của Cha khi người hiểu ý của Cha và tuân theo ý của Cha.
PHÉP RỬA TỘI CỦA CHÚA GIÊSU LÀM TA NHỚ LẠI VIỆC RỬA TỘI CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA:
Chúa Giêsu lãnh nhận bí tích rửa tội gợi cho ta nhớ lại phép rửa tội ngày chúng ta được rửa tội. Rửa tội là chúng ta được làm con cái Chúa và con cái của Giáo Hội. Tuy nhiên, chúng ta có trở nên người con dấu yêu và làm hài lòng Thiên Chúa hay không còn tùy thuộc thái độ của con người. Ta có lắng nghe tiếng Chúa, hiểu ý Chúa và làm theo ý Chúa hay không? Đức Giêsu Kitô đã tự hạ, cúi mình thẩm sâu để làm theo ý Chúa Cha. Chiêm ngắm Đức Kitô tự ha là chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu:” một tình yêu sâu thẳm, vô biên”. Tình yêu hiến thân để cứu độ mọi người. Chiêm ngắm Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha nơi dòng sông Giođăng, chúng ta hiểu thế nào là tình yêu hiệp thông:” Con là Con của Cha. Hôm Nay, Cha đã sinh ra con”( Lc 3,22 ). Được rửa trong Chúa Thánh Thần, mỗi người chúng ta trở nên hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi người chúng ta được mời gọi lên đường phục vụ, sống yêu thương và chia sẻ với hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Đức Giêsu, Đấng thánh tuyệt đối lại chịu hóa thân làm kiếp người. Phép rửa của Chúa Giêsu mời gọi mỗi người lên đường phục vụ và chia sẻ Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Được làm con của Chúa, chúng ta liệu có phải là” con chí ái “ của Chúa hoặc được Chúa hài lòng hay không, tất cả đều tùy thuộc xem chúng ta có tìm hiểu ý Chúa và làm theo ý của Ngài hay không ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn yêu mến phép rửa chúng con đã lãnh nhận và luôn luôn tìm ý Chúa, đồng thời thực hiện ý của Chúa. Amen.
Nơi nào có tình yêu, nơi đó phép mầu. Bởi lẽ, khi yêu nhau, chúng ta chỉ mong đem đến cho: TN 1-C77
Nơi nào có tình yêu, nơi đó phép mầu. Bởi lẽ, khi yêu nhau, chúng ta chỉ mong đem đến cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất, không phải để lấy lòng nhưng vì muốn làm cho người mình yêu được hạnh phúc và được vui. Một trong những dấu hiệu của người đang yêu là nôn nóng, chủ động và muốn đi bước trước trong việc mang lại những điều tốt đẹp nhất và niềm vui cho người mình yêu.
Sợi chỉ đỏ xuyên sốt các bài đọc trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều trình bày cho chúng ta thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa dành cho Dân của Ngài qua việc Ngài chủ động và đi bước trước để đến với họ. Ngài như người mẹ luôn bận rộn với đứa con nhỏ của mình vậy. Ngài lập Giao ước với họ (bài đọc 1); Ngài lên kế hoạch cứu chuộc họ và tự nguyện chịu chết để cứu chuộc họ (bài đọc 2); Ngài chạnh lòng thương khi thấy họ bơ vơ như đoàn chiên không người chăn nên Ngài sai các tông đồ đến với họ nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp thiết cho họ (Bài Tin mừng). Trong mọi sự, Thiên Chúa đều đi bước trước và chủ động thực hiện những điều tốt đẹp cho Dân Ngài. Lý do là chỉ vì Ngài yêu thương con người.
Có rất nhiều người ngoại thắc mắc là tại sao người Công Giáo lại đem con của mình để Rửa tội khi nó chưa biết gì. Tại sao không chờ cho đến khi nó lớn rồi tự nó xin được Rửa tội? Họ cho rằng hành động của những bậc cha mẹ như thế là không tôn trọng tự do của con cái mình. Nhưng đó chỉ là lập luận khiếm diện, một sự kết luận hàm hồ. Bởi lẽ, bổn phận của bậc làm cha mẹ là làm những gì tốt nhất có thể cho những đứa con của mình. Cũng như việc cha mẹ thấy con mình đói khát thì lo cho nó ăn uống, hay thấy đó lạnh thì lo mặc ấm cho nó vậy. Chắc rằng không người mẹ nào chờ đứa con chưa biết gì đòi ăn những món nó muốn thì mới cho ăn đâu! Trong đời sống đức tin cũng vậy. Cha mẹ thương con là làm những gì tốt nhất cho nó khi nó chưa có khả năng phân biệt và chọn lựa.
Logic của tình yêu thì rất khác với những logic thông thường, khác với những lý luận thông thường, đôi khi không thể lý luận bằng lời lẽ tự nhiên được. Vì đó là lời nói của con tim nên chỉ có thể nhận ra được bằng tình yêu mà thôi.
Trong Giao ước ở Núi Sinai, nếu theo lý luận tự nhiên thì chưa thể gọi đó Giao ước được. Bởi lẽ, Giao ước đúng nghĩa thì phải có sự thoả thuận của cả 2 bên. Nhưng trong Giao ước Sinai, chỉ một mình Thiên Chúa đơn phương thực thi những điều khoản trong đó. Làm như thế không phải là Thiên Chúa không tôn trọng tự do của con người nhưng vì Dân Chúa trong thời đó còn quá “non trẻ” chưa hiểu hết những điều tốt đẹp trong Giao ước đó, mà Thiên Chúa trong tư cách là người Cha nhân lành Ngài làm những điều cực kỳ tốt lành đó cho con của Ngài. Hay trong Giao ước mới, tại sao Thiên Chúa đòi Con Một của mình phải đổ máu ra để thực thi Giao ước đó mà Ngài phán một lời để tha thứ lỗi tội cho con người? Đâu là sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa? Tất cả những câu hỏi trên đây không thể lý giải bằng những lý lẽ tự nhiên được, nhưng phải được trả lời trong ngôn ngữ của tình yêu.
Tình yêu đúng nghĩa không thể là tình yêu nhìn xuống từ trên cao để ban ơn, nhưng phải là tình yêu cúi mình xuống để nâng người mình yêu lên và làm cho người mình yêu được cùng ở một chỗ cao như mình và nhất là cho họ được tự do hoàn toàn. Những ý nghĩa trọn vẹn cho tình yêu đích thực này đã được thể hiện cách tròn đầy nơi Đức Giêsu Kitô.
Trớ trêu thay, những người lãnh đạo tôn giáo Do thái với những định kiến và những tiêu chuẩn bất công đã từ khước Đức Giêsu và kết án Ngài. Họ coi Đức Giêsu là kẻ phá luật, kẻ gây rối, kẻ phá rào . . . Họ không tiếc lời xét đoán và kết án Đức Giêsu là bạn của quân thu thuế, bạn của người tội lỗi và là người tội lỗi. Họ đang tự phụ và đang đứng ở nơi cao để nhìn xuống và tự cho mình có quyền phán quyết mọi sự. Con tim của họ đã bị điều kiện hoá và trở nên sơ cứng nên không còn có những nhịp đập của tình yêu nữa. Hành động như thế là họ đã tự đào hố chôn mình và làm cho khoảng cách giữa họ và Thiên Chúa trở nên quá xa, xa đến mức không thể nào đến được nữa. Bởi lẽ, con đường đến với Thiên Chúa chính là con đường đến với bản thân và đến với tha nhân.
Hãy tập cho mình có một lòng quảng đại, yêu thương và tha thứ cho người khác. Đừng kết án ai dù cho họ có sai lầm và tội lỗi đi nữa. Những khi anh em mình phạm tội thì hãy coi như họ đang hành động vì không biết và họ là những con người ngây ngô và đáng thương hơn là đáng kết án. Hãy để Chúa có những phán quyết cho họ. Phần chúng ta, hãy tập sống yêu thương và chỉ biết yêu thương vì đó là hành động của những con người khôn ngoan trước mặt Chúa.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 3:15-16,21-22)
Cuộc đời của ông Gio-an Tẩy Giả gắn liền với phép rửa ông thực hiện cho dân chúng tại sông: TN 1-C78
Cuộc đời của ông Gio-an Tẩy Giả gắn liền với phép rửa ông thực hiện cho dân chúng tại sông Gio-đan. Tuy chỉ là một nghi thức đơn giản để kêu gọi người ta hãy bắt đầu hành trình sám hối, chuẩn bị tâm hồn để đón Đấng Mê-si-a, nhưng phép rửa ấy cũng khiến cho dân chúng “trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a!” Để xóa bỏ ngộ nhận này, ông Gio-an đã so sánh tác vụ làm phép rửa của ông với tác vụ làm phép rửa của Chúa Giê-su để minh chứng mình không phải là Đấng Mê-si-a. Như vậy một cách gián tiếp, ông Gio-an cho dân chúng thấy phép rửa mà Chúa Giê-su sẽ thi hành mới là yếu tố nói lên căn tính đích thực của Người. Đúng thế, chỉ có phép rửa bằng Thánh Thần và lửa mới chứng minh Đấng làm phép rửa ấy là Đấng Mê-si-a.
Khi diễn tả sứ mệnh của Chúa Giê-su là “làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”, thánh Gio-an Tẩy Giả muốn nói gì? Trước hết chúng ta hãy trở lại khung cảnh tại sông Gio-đan để chiêm ngưỡng Chúa Giê-su chịu phép rửa của ông Gio-an. Thánh sử Lu-ca cho thấy một bối cảnh “toàn dân chịu phép rửa” nói lên nhu cầu cần sám hối của tất cả nhân loại này. Hôm nay Chúa Giê-su, một người con của nhân loại, có mặt trong số những người chịu phép rửa muốn hoàn toàn chia sẻ với tình trạng tội lỗi của họ. Nhưng con người này lại có một cung cách khác biệt, đó là sau khi lãnh phép rửa, Người đã cầu nguyện. Lãnh nhận phép rửa đã đem Chúa Giê-su vào thế giới nhân loại, còn cầu nguyện đã đưa con người Chúa Giê-su lên với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nói khác đi, khi lãnh nhận phép rửa của Gio-an, Chúa Giê-su đã sống đầy đủ chức phận làm con nhân loại và Con Thiên Chúa. Nếu sứ mệnh của Đấng Mê-si-a là “làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa”, thì còn ai khác ngoài Chúa Giê-su ra, bởi vì chính Người đã được “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu” và chính Người đã được Chúa Cha tuyên dương là “Con yêu dấu của Cha” bởi Người đầy “lửa” mến đối với Chúa Cha?
Thánh Thần và lửa tình yêu là hành trang để Chúa Giê-su thi hành sứ mệnh biến đổi nhân loại và chinh phục họ về cho Chúa Cha. Thánh Thần là tinh thần của Thiên Chúa, còn lửa là mối quan hệ yêu thương giữa những người con trần thế với Cha trên trời. Chúa Giê-su thể hiện tinh thần và tình yêu này trong cuộc sống để làm mẫu mực cho tất cả những ai muốn sống trọn vẹn tình con thảo với Thiên Chúa. Như thế, khi lãnh nhận phép rửa của Gio-an, Chúa Giê-su đã bắt đầu “làm phép rửa” cho chúng ta “bằng Thánh Thần và lửa”, để đồng hành với chúng ta về nhà Cha trên trời. Phép rửa của Chúa Giê-su dành cho chúng ta không chỉ là một nghi thức hữu hình như phép rửa của Gio-an, nhưng hơn thế nữa, còn là một hành trình đức tin biểu lộ một cuộc biến đổi liên tục để trở nên đồng hình đồng dạng với “Con yêu dấu của Cha”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thật là thích hợp với lời kêu gọi của Năm Đức Tin nếu chúng ta xác tín hơn vai trò của Chúa Ki-tô là Đấng Mê-si-a. Phép rửa của Chúa Giê-su (Mác-cô 10:39) là cái chết của Người đã làm cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa. Lãnh nhận phép rửa của Chúa Giê-su, tức Bí tích Rửa tội, mới chỉ là bắt đầu cuộc hành trình về nhà Cha. Chúng ta còn phải tiếp tục sống căn tính con Thiên Chúa bằng cách thể hiện những yếu tố và đòi hỏi của Phép rửa ấy, tức là sống theo tinh thần và lối sống của Chúa Ki-tô cũng như phát huy mối tương quan tình yêu, yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân.
Phép rửa của Chúa Giê-su không chỉ là “nhãn hiệu” Ki-tô hữu dán lên người chúng ta, nhưng là nguyên lý và sức mạnh để chúng ta sống. Chúa Giê-su là trưởng tử của một nhân loại mới sẽ đưa tất cả chúng ta là “đàn em đông đúc của Người” (Rô-ma 8:39) tiến bước trong sự dẫn dắt của Thánh Thần và trong tình yêu trên cuộc lữ hành trần gian, để hết thảy chúng ta được cùng Người thừa kế gia nghiệp của Cha trên trời (Rô-ma 8:17). Vậy chúng ta hãy lên đường để cùng chịu Phép rửa bằng Thánh Thần và lửa với Chúa Giê-su!
Phụng vụ của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa đã kết thúc việc cử hành và mừng lễ Giáng Sinh của Giáo TN 1-C79
Phụng vụ của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa đã kết thúc việc cử hành và mừng lễ Giáng Sinh của Giáo Hội. Thánh lễ này dẫn chúng ta đến ngưỡng cửa của cuộc đời hoạt động công khai của Chúa Giêsu. Ngài khai mạc sứ vụ của Ngài bằng việc lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy Giả trong dòng sông Giođăng. Việc đó nhắc nhở chúng ta rằng Chúa đến cứu độ nhân loại, cứu rỗi con người và giải thoát chúng ta.
Nhìn Chúa Giêsu, Đấng thánh thiện tuyệt đối, Đấng hoàn hảo mọi đàng, lại đứng xếp hàng với đoàn người tội lỗi để xin Gioan làm phép rửa sám hối cho mình. Đấng sẽ làm phép rửa cho mọi người bằng Thánh Thần và lửa, lại xin Gioan dìm mình xuống nước.Thật lạ kỳ, thật kỳ lạ ! Có lẽ chúng ta không khỏi suy nghĩ và đặt nhiều vấn nạn. Tuy nhiên, Đấng thánh, ba lần thánh lại khiêm nhượng xin được chịu phép rửa sám hối lại làm cho chúng ta càng ngưỡng mộ, khâm phục Ngài! Chúa Giêsu mở đầu sứ vụ bằng việc xin được dìm mình, mất hút, tự hủy và hoàn toàn khiêm hạ. Ngài hoàn toàn mất hút trước một Gioan đang tăm tiếng, được biết bao nhiêu người biết tới. Chúa khiêm hạ để liên đới với loài người. Ngài khiêm nhượng để đồng hành với lớp người đói nghèo, tội lỗi đang chờ đón nhận ơn cứu độ.Mầu nhiệm nhập thể cho hay Thiên Chúa tự hủy để nâng con người lên. Chúa làm người để hiểu con người.Lãnh nhận phép rửa cùng với nhiều tội nhân trong dòng sông Giođăng, Chúa Giêsu đã công bố sứ điệp:” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Chúa Giêsu đánh dấu bước khởi đầu cuộc đời dấn thân của Ngài và sứ vụ của Ngài sẽ viên mãn trong Hy tế Vượt qua và Phục sinh của Ngài. Thực sự, Chúa Giêsu đã sinh ra để chết.Nơi Hang đá Máng cỏ đã thấp thoáng bóng Thập giá. Chúa đến trần gian để vâng phục Chúa Cha và làm theo ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã hiếu thảo hoàn toàn với Thiên Chúa Cha. Ngài đã tự hiến chính mình trên Thập giá như của lễ hy sinh hoàn hảo nhất dâng lên Chúa Cha để cứu độ nhân loại và toàn thể thế giới.
Tin Mừng của thánh Luca giới thiệu Chúa Giêsu như đang trên một cuộc hành trình xuyên suốt tiến về Giêrusalem, thành phố thánh. Biến cố Chúa Giêsu được dâng mình trong đền thờ Giêrusalem, và Ông già Simêon nói tiên tri về trẻ nhỏ Giêsu vv…Biến cố Chúa Giêsu lên Giêrusalem lúc 12 tuổi.
Tất cả đều làm nổi bật ý nghĩa lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu sẽ cùng các môn đệ ăn lần cuối cùng ở nhà Tiệc Ly trước khi Ngài đi chịu nạn chịu chết để cứu độ con người, cứu rỗi loài người.
Tin Mừng cho hay, sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Ngài đi vào thâm sâu, thân mật với Chúa Cha với tư cách Ngài là Con của Cha và rồi trời mở ra…Ngài được Thánh Thần tràn ngập, Ngài nghe tiếng Chúa Cha phán:” Đây là Con Ta yêu dấu, Con làm đẹp lòng Cha “ “ Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con “ ( Lc 13, 22 ). Thời gian ẩn dật ở Nadarét 30 năm đã chấm dứt. Ngài phải lên đường. Cuộc hành trình của Ngài rao giảng Tin Mừng và kết nạp các môn đệ đã bắt đầu. Biến cố, Chúa Giêsu chịu phép rửa để Ngài cảm thông với tội nhân, gắn bó với quê hương, dân tộc. Biến cố này được gắn liền với sứ vụ rao giảng của Ngài để với ơn Chúa Thánh Thần, Ngài luôn hiệp nhất với Chúa Cha, và yêu thương, giới thiệu Nước Thiên Chúa cho muôn người. Ngài đã rong ruổi khắp nơi, đã đến với mọi lớp người để băng bó, đem bình an cho họ.
Chúa Giêsu đã cho chúng ta tái sinh làm con Chúa và con của Giáo Hội qua bí tích rửa tội. Chúng ta có mau mắn lên đường loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa không ? Nhà thờ là Giêrusalem, nơi chúng ta hiệp dâng thánh lễ và lãnh nhận các phép Bí tích, chúng ta có làm tròn sứ mạng Thiên Chúa và Giáo Hội trao phó cho chúng ta không ?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mở đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng bằng việc kêu mời con người sám hối và tin vào chính Ngài. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con mạnh mẽ, can đảm loan báo Tin Mừng và dạy con người biết tin vào Chúa, lãnh nhận phép rửa và trở nên con cái Thiên Chúa, con cái của Giáo Hội. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa Giêsu lại xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình ? 2.Phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của Gioan Tẩy Giả khác nhau thế nào ? 3.Chúa Giêsu đã kêu gọi gì khi khai mạc sứ vụ công khai của Ngài ? 4.chúa Giêsu khai mạc sứ vụ đầu tiên vào lúc bao nhiêu tuổi ?
Tham dự phụng vụ hôm nay, Thánh sử Luca mời gọi chúng ta hướng nhìn về Chúa Giêsu, để chúng ta: TN 1-C80
Tham dự phụng vụ hôm nay, Thánh sử Luca mời gọi chúng ta hướng nhìn về Chúa Giêsu, để chúng ta sống giống như Chúa Con, "đẹp Lòng Chúa Cha". Đầu tiên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sống khiêm nhường, sống giống mọi người. Trước khi dìm mình trong nước để nhận lãnh phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã nhập đoàn dân chúng giống y như mọi người, khiêm tốn và chia sẻ với mọi người nhu cầu sám hối và thanh tẩy. Con đường của Chúa Giêsu đi cũng là con đường của tất cả mọi người chúng ta. Chúa Giêsu trở thành người và sống như mọi người, sống giữa mọi người.
Kế đến, Chúa Giêsu cho thấy việc thanh tẩy là hình bóng của bí tích rửa tội mà chúng ta lãnh nhận. Tuy nhiên, nghi lễ thanh tẩy của Gioan chỉ là việc tỏ lòng sám hối. Lời Gioan Tẩy Giả cho thấy bản chất của bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu trao ban cho con người gồm hết mọi lễ nghi thanh tẩy của Cựu Ước, bởi vì Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy con người với Chúa Thánh Thần và lửa. Bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu hiện thực là lửa đốt cháy sự dữ. Nó như lửa luyện lọc và thanh tẩy lòng con người như lời tiên tri đã báo trước. Nó như nước tẩy rửa mọi vết nhơ trong tâm hồn con người, trao ban phong phú và sự sống. Và điểm đặc thù nổi bật nhất trong bí tích Rửa tội Kitô giáo, là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nguyên lý trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người.
Bên cạnh đó, Phúc Âm Luca cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện (Lc 3, 210. Ngài cầu nguyện liên lỉ không những trước mọi biến cố quan trọng trong cuộc đời, mà trong mọi lúc cho đến chết. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cầu nguyện, đó cũng là cách thế Chúa Giêsu sống mối dây liên hệ yêu thương hiệp thông với Thiên Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.
Và sau cùng là biến cố Chúa Giêsu được thánh hiến trong sứ mệnh cứu độ ấy. Nó được diễn tả bằng lược đồ giải thích thị kiến, thường được các soạn giả Kinh Thánh dùng đến để trình bày một chủ ý thần học hay một kinh nghiệm thiêng liêng nội tâm. Thị kiến như tường thuật trong Phúc Âm là một lời giải thích biến cố Chúa Giêsu lãnh phép rửa thanh tẩy. Biến cố này minh chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là hiện thân toàn vẹn của Thiên Chúa. Chính trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện, nghĩa là đối thoại thân tình với Thiên Chúa Cha mà Ngài nhận được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Đấng đã hoạt động trong sứ mệnh cứu độ. Sau này, khi các tông đồ tiếp tục sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu, các ông cũng sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là ơn đầu tiên mà Chúa Giêsu Phục sinh trao ban cho các môn đệ và cho mọi tín hữu sau này qua bí tích Rửa tội.
Trong thư gởi cho Titô (Tt 2, 11-14; 3, 4-7) thánh Phaolô nhắc cho chúng ta biết ơn tái sinh mà Chúa Giêsu Kitô đã trao ban cho chúng ta. Ơn thánh Chúa ban giúp chúng ta tái sinh, nghĩa là có được cuộc sống mới và giúp chúng ta tiếp tục canh tân cuộc sống mỗi ngày bằng cách từ bỏ gian tà, từ bỏ các đam mê xác thịt thế gian, nghĩa là từ bỏ tất cả những gì khiến cho chúng ta xa Chúa và đánh mất đi cuộc sống mới mà Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta qua bí tích Rửa tội.
Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu quý của Ngài, thì chúng ta hôm nay là những người con của Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải sống theo gương của Chúa Giêsu, để một ngày nào đó, Chúa Cha cũng xác nhận chúng ta là những người con yêu quí giống như Chúa Giêsu vậy. Trong mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm con, rồi mới làm cha làm mẹ. Vậy thì như con cái phải làm vui lòng cha mẹ thế nào, thì chúng ta cũng phải làm vui lòng Chúa như vậy. Rồi các bậc cha mẹ ai cũng ước mong cho con cái mình sống tốt thế nào, thì chính các cha mẹ cũng phải sống tốt như vậy. Nghĩa là phải sống đức tin, sống đạo thật tốt, trung thành với các bổn phận đạo đức, trung thành với bổn phận làm người, sống yêu thương, giúp đỡ tha nhân, làm lành lánh dữ. Và như thế, là chúng ta được sống trong tình Cha con với Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ nhận chúng ta là những người con yêu quí của Ngài.
Như thế, phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta ý thức được ơn gọi cao trọng làm con cái Chúa của mình, ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Ơn gọi đó đồng thời cũng bao gồm sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới này. Và chúng ta chỉ có thể hiện thực được nó khi biết cố gắng sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu sống đẹp lòng Chúa Cha mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống đẹp lòng Chúa Cha, chu toàn bổn phận vì tình yêu mến Chúa và luôn sống thể hiện đức ái cho mọi người, để chúng con trở nên những đứa con ngoan của Chúa. Amen.
Một nhà thần học nọ đã nói: "Mỗi con người khi được sinh ra là người nhưng chưa trở thành người: TN 1-C81
Một nhà thần học nọ đã nói: "Mỗi con người khi được sinh ra là người nhưng chưa trở thành người đúng nghĩa. Vì thế, để được trở thành người đúng nghĩa con người ấy cần phải nổ lực tự đào luyện mỗi ngày ".
Với tư tưởng này chúng ta cũng có thể nói khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội người kitô hữu chúng ta được là con Thiên Chúa nhưng chưa trở thành con Thiên Chúa đúng nghĩa. Do đó, chúng ta cần phải mỗi ngày cùng với ơn Chúa giúp tự đào luyện mỗi ngày để xứng đáng với tư cách làm con Thiên Chúa nhiều hơn. Nói cách khác người kitô hữu chúng ta cần chu toàn tốt sứ mạng được Chúa Cha trao phó.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Ðây là biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần gian này. Qua biến cố này Chúa Giêsu chính thức công khai ra đi rao giảng Tin mừng sau 30 năm sống ẩn dật.
Chúng ta còn nhớ đoạn Tin mừng nói về Chúa Giêsu vào Hội đường Nagiaret để đọc đoạn sách tiên tri Isaia: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa " (Lc 4, 18 - 19). Khi đọc xong Người nói thêm: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21). Do đó, Tin mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho toàn thể nhân loại là sự giải thoát. Giải thoát cho con người khỏi nô lệ của tội lỗi và của sự chết đời đời. Ðó là sứ mạng Người đã nhận từ nơi Chúa Cha. Sứ mạng ấy đã được Người chu toàn hết sức tốt đẹp. Cho nên, hôm nay Chúa Cha chính thức tuyên bố: "Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con" . (Lc 3, 22b)
Chúng ta thử tưởng tượng một gia đình ở vườn muốn đi ra đường lớn phải nhờ qua đất của gia đình phía trước. Ngày nọ, những người trong gia đình đem xây hàng rào tự cô lập mình. Người chủ của gia đình phía trước mới vô năn nỉ xin những ngưỡi trong gia đình này cho phá hàng rào để gia những người trong gia đình này không còn bị cô lập nữa.
Với tình huống này, chắc chắn chúng ta sẽ cho rằng không thể nào có thể xảy ra được. Thế nhưng, đây là hình ảnh minh họa cho Thiên Chúa của chúng ta. Mặc dầu chúng ta từ chối nguồn sống từ Chúa nhưng Chúa vẫn không bỏ chúng ta. Người tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ðó chính là sứ mạng của Chúa Giêsu được Chúa Cha trao cho.
Mỗi người chúng ta dù ở chức phận nào cũng có chung sứ mạng làm sáng danh Chúa trong môi trường sống của mình. Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết chu toàn tốt sứ mạng Chúa trao. Nhờ đó, mỗi ngày chúng ta sẽ trở thành người và người kitô hữu đúng nghĩa hơn.
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: "Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã!" Cô bé, vốn được bà mẹ đạo đức huấn luyện từ nhỏ về thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ, liền đáp: "Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin hãy để cho cháu được cầu nguyện trước đã". Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: "Bây giờ thì bác sĩ có thể cho cháu bắt đầu ngủ được rồi đấy!" Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau 30 năm xa Chúa. Không biết sức mạnh nào ở nơi cô bé yếu đuối kia đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của em!
3.SUY NIỆM:
1) SỐNG NHƯ CON HIẾU THẢO LUÔN LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA CHA:
Ngày lễ hôm nay nhắc nhở ta một điều rất quan trọng mà chúng ta thường hay quên, là cần ý thức và sống ơn gọi đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội: Trở nên con của Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Phép rửa tội không chỉ là một lễ nghi để cử hành, nhưng còn là khởi đầu một cuộc sống mới kéo dài trong suốt cuộc đời người tín hữu. Chúng ta vui mừng vì được tái sinh làm con Thiên Chúa. Ta phải sống thế nào để Thiên Chúa cũng xác nhận chúng ta như đã xác nhận Đức Giê-su: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người" (Mt 3,17).
2) LÀ CÙNG CHẾT VÀ SỐNG LẠI VỚI ĐỨC KI-TÔ:
Hôm nay Hội thánh cũng muốn nhắc nhở các tín hữu chúng ta về những cam kết mà chúng ta đã hứa trong ngày chịu phép rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, diễn tả mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su, Hội thánh nhắc nhở các tín hữu cũng phải chết đi cho những gì thuộc về ma quỉ, thế gian cùng các đam mê tội lỗi bất chính để cùng được sống lại một đời sống mới làm con Thiên Chúa. Chết đi cho các thói hư cụ thể là lọai trừ óc bè phái cục bộ, tính tự cao khi cho mình là hay và chê bai anh em. Từ bỏ những việc làm xấu xa như: tham ô hối lộ, ăn cắp của công, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu... Loại bỏ những ý nghĩ đen tối, những lời nói hành nói xấu, vu oan giáng hoạ, kết án kẻ mình không ưa, nói sai sự thật. Loại bỏ cả những sự tọc mạch, soi mói vào đời tự kẻ khác...
3) NHỮNG CÁCH LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY:
Làm chứng cho Chúa là sứ vụ phát xuất do bí tích rửa tội và Thêm sức. Nhờ Thần Khí của Đức Giê-su Phục Sinh, người tín hữu có bổn phận làm chứng cho Đức Giê-su như sau:
+ Trước hết là sống hiếu thảo với Chúa Cha noi gương Đức Giê-su là Con yêu dấu luôn làm hài lòng Cha (x Mt 3,17), bằng việc kết hiệp qua kinh nguyện hằng ngày, luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha (x Dt 10,9; Mt 26,39), tích cực góp phần xây dựng xã hội mình đang sống ngày một an tòan sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, để dần dần trở thành "Trời Mới Đất Mới" (Kh 21,1-4) theo thánh ý Thiên Chúa.
+ Làm chứng cho Đức Giê-su không nhất thiết đòi chúng ta phải nói về Chúa, nhưng là thực hành đức tin bằng đức cậy, chiếu sáng đức ái qua cuộc sống hòa hợp với mọi người chung quanh.noi gương em bé trong câu chuyện trên, tuy không nói nhiều về Chúa, nhưng chính gương sáng cầu nguyện với lòng tin cậy phó thác của em đã có sức lay động đức tin nguội lạnh của viên bác sĩ giải phẫu cho em.
+ Làm chứng cho Đức Giê-su đòi chúng ta phải thay đổi con người cũ bằng một đời sống đổi mới trong Thánh Thần. như lời thánh Phao-lô: "Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 1-2).
+ Làm chứng cho Đức Giê-su là chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm cho "danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến" (Mt 6,9-10), bằng sự cầu nguyện kết hiệp, bằng thái độ ứng xử thân thiện, lời nói hòa nhã vui vẻ, việc làm phục vụ khiêm tốn, nhất là năng sự thăm viếng chia sẻ cơm bánh và phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi như Lời Chúa dạy: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
4.THẢO LUẬN:
Khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được công nhận là con yêu dấu của Chúa Cha như Đức Giê-su xưa. Người cũng truyền cho các môn đệ phải làm chứng cho Người (Cv 1,8). Vậy ngày nay các tín hữu cần làm chứng cho Đức Giê-su bằng cách nào?
5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Xin cho chúng con đừng cố làm cho mình nổi trội hơn anh em. Xin cho chúng con luôn ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, không la mắng to tiếng với tha nhân. Xin cho chúng con biết chọn phần ít hơn người khác về quyền lợi, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ nhiều hơn cho họ. Xin cho chúng con biết nói ít làm nhiều. Nhờ đó, "hữu xạ tự nhiên hương": Chúng con sẽ chiếu ánh sáng tình yêu của Chúa trước mặt thiên hạ, và qua chúng con, anh em lương dân sẽ nhận biết yêu mến Chúa để cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
X: Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ: Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Ba mươi năm sống tại làng quê Nadarét, Chúa Giêsu đã được cha mẹ yêu thương, nâng đỡ, bao bọc: TN 1-C83
Ba mươi năm sống tại làng quê Nadarét, Chúa Giêsu đã được cha mẹ yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che và nơi gia đình Nadarét, Chúa Giêsu đã học làm người, sống kiếp người ngoại trừ tội lỗi. Rồi, ngày giờ đã tới, một hôm Ngài xếp hàng với các tội nhân, xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Ngài nơi dòng sông Giorđăng. Chúa bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài theo ý Thiên Chúa Cha.Tin Mừng nhất lãm ghi lại: " Đây là Con yêu dấu của Ta.Ta hài lòng về Người ". Chúa Giêsu đã làm cử chỉ rất khiêm hạ là cúi mình xuống để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình và chính khi khiêm hạ, Ngài được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chúng ta hiểu rõ phép rửa của Gioan là phép rửa thống hối, xin ơn tha tội. Phép rửa này dành riêng cho các tội nhân. Bởi vì, khi người ta có tội, khi người ta lỡ phạm tội thì mới cần ơn tha thứ, cần sự sám hối ăn năn. Cả ba Tin Mừng của thánh Matthêu, thánh Máccô và thánh Luca đều thuật lại biến cố đáng ghi nhớ và ấn tượng của Chúa Giêsu chịu phép rửa. Câu chuyện về việc Chúa Giêsu đến xin Gioan Tẩy Giả rửa tội cho mình bên dòng sông Giorđăng được cả ba tác giả kể lại chi tiết thật tỉ mỉ, ấn tượng.Thực tế, Chúa Giêsu là Đấng ba lần thánh, nghĩa là đại thánh, tuyệt thánh không cần phép rửa thống hối của Gioan, nhưng Chúa có thái độ, hành động và cử chỉ khiêm nhu như thế là để làm đẹp lòng Đức Chúa Cha đến nỗi Thiên Chúa đã tỏ mình ra khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa bởi tay Gioan. Khi Ngài lên khỏi nước,trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Từ trời, có tiếng Chúa Cha phán: " Con là Con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về Người " ( Lc 3,22 ).
Thiên Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu bởi vì Ngài hiểu ý của Cha và tuân theo ý của Cha.
Trong biến cố quan trọng và đáng ghi nhớ khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã xức dầu tấn phong Ngài. Ngài là Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Độ nhân loại. Việc tự hạ của Ngài đã được Thiên Chúa tôn vinh. Tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con của Ngài.
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần gian, đến thế giới này với sứ mạng cứu rỗi nhân loại, cứu rỗi con người. Ngài đã được chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại Ngài là Con chí ái của Chúa Cha, và được Chúa Thánh Thần xức dầu để Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ. Người Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô, nên cũng được mời gọi loan báo sứ điệp yêu thương của Chúa Giêsu, vì Đạo của Chúa thiết lập là Đạo yêu thương đúng như bản chất của Chúa là Tình yêu.
Là Chúa, là Đấng đại thánh nhưng Chúa làm gương cho chúng ta qua việc Ngài cúi rạp mình khiêm hạ để Gioan thanh tẩy cho mình. Việc thanh tẩy, xóa tội luôn dành cho các tội nhân. Tuy nhiên, khi Chúa chịu phép rửa Ngài gợi lên cho chúng ta về một phép rửa khác: " cuộc thống khổ và cái chết của Ngài trên thập giá để cứu độ trần gian " đang chờ Ngài. Cuộc thanh tẩy không phải bằng nước của dòng sông Giođăng và được chính Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Ngài, nhưng là bằng lửa và bằng máu của Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc muôn người.Phép rửa của Gioan là tiên trưng cho phép rửa mọi người sẽ lãnh nhận và con người sẽ được thanh luyện bằng chính máu của Chúa Giêsu, được cùng Ngài sống lại trong vinh quang và qui tụ thành một như Chúa thưa với Chúa Cha: " Xin cho mọi người nên một " ( Ga 17, 11).
Là Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Kitô. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Chúa Giêsu tự hạ. Bởi vì khi được rửa tội, chúng ta được nhận Chúa là Cha và mọi người là anh em với chúng ta. Chúng ta được tháp nhập với các Kitô hữu trong Hội Thánh và Khi được Chúa Thánh Thần xức dầu, chúng ta được hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta được mời gọi lên đường phục vụ, cảm thông, chia sẻ và quảng đại đối với mọi người.
Vâng, phép rửa của Chúa Giêsu mở ra một kỷ nguyên mới. Chúa Giêsu là Ađam mới. Ađam xưa sa ngã, cùng với Evà kéo sự chết vào trần gian. Với phép rửa, Chúa Giêsu khai mào một kỷ nguyên tạo dựng mới. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côlôsê đã viết: " Khi anh em chịu phép rửa, anh em được mai táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội ấy, anh em cũng được sống lại với Đức Kitô...Đã có thời anh em bị chết về mặt tinh thần, nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang đến cho anh em cuộc sống mới cùng với Đức Kitô " ( Cl 2, 12-13 ).
Và thánh Phaolô nói tiếp: " Anh em đã được phục sinh để sống cùng với Đức Kitô. Vậy anh em hãy hướng tâm hồn anh em về những sự trên trời...Hãy giữ lòng trí luôn nghĩ đến những sự ở trên trời chứ đừng nghĩ đến những việc ở dưới đất này..." và " Sự sống đích thực của anh em là Đức Kitô và khi Ngài hiện ra thì anh em cũng được xuất hiện với Ngài để chia sẻ vinh quang của Ngài " ( Cl 3, 1-4 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn hoán cải, để chúng con hoàn toàn được Chúa chiếm đoạt và hoàn toàn thuộc về Chúa, để chúng con dám ra đi phục vụ anh em, dám chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh chị em đồng loại. Xin Chúa ban cho chúng con niềm vui, sự phấn khởi hân hoan vì Chúa luôn đồng hành với chúng con.Amen.
- QUA ƠN CHÚA THÁNH LINH - CHÚNG TA THI HÀNH SỨ VỤ
Lc 3, 15 - 16. 21 – 22
Tuần vừa qua chúng ta mừng lễ Hiển Linh, nhưng, lễ hiển linh chưa kết thúc trong phúc âm thánh: TN 1-C84
Tuần vừa qua chúng ta mừng lễ Hiển Linh, nhưng, lễ hiển linh chưa kết thúc trong phúc âm thánh Luca. Vì có 3 mầu nhiệm mừng Chúa hiển linh:- 3 nhà Đạo sĩ đến nhà Chúa Hài Nhi Kitô, - Phúc âm thánh Gioan nói việc Chúa Giêsu làm phép lạ nước hoá thành rượu ở Cana; - Và hôm nay, Thánh Luca nói việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Jordan bởi Gioan Tẩy Giả. Qua đó mạc khải cho chúng ta biết Chúa Giêsu là ai, và sứ vụ của Ngài sẽ ra sao.
Luca không nói đến đám đông quần chúng đến nghe Gioan Tẩy Giả. Chuyện thứ nhất là khi Gioan Tẩy Giả nói "có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến". Theo Luca, Gioan Tẩy Giả có bổn phận dọn đường cho Chúa Giêsu, xong ông ta tránh sang một bên.
Luca viết rất ngắn gọn về phép rửa của Chúa Giêsu. Chắc chúng ta cũng muốn biết thêm ít chi tiết về dịp nầy chứ? Trước đó Luca nói là Gioan Tẩy Giả "đi khắp vùng ven sông Jordan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội". Vậy thì Chúa Giêsu chịu phép rửa ở chỗ nào, để chúng ta có thể xây một đền bia làm kỷ niệm? Gioan Tẩy Giả nói gì để chúng ta có thể dùng lời văn ấy trong kinh phụng vụ? Chúa Giêsu đã nói gì? Trong phúc âm thánh Mátthêu, Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả có nói với nhau (Mt3:13-17).Nhưng, phúc âm của Luca không ghi lại.
Hình như Luca muốn nói đến những vấn đề quan trọng hơn: Đó là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu và có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con của Cha, Cha rất hài lòng về Con". Thánh Luca định nói gì với chúng ta vậy?
Luca nói "Khi người dân chiu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa cùng với họ và khi Ngài đang cầu nguyện..." Trong phúc âm Luca thường nói đến tinh thần cộng đoàn. Chúng ta, những người đã chịu phép rửa, được liên kết với Chúa Kitô và với nhau. Phần đông ở các giáo xứ tôi đã thăm viếng, không có phép rửa tội dành riêng cho "gia đình đặc biệt", mà nhiều gia đình đợi để được rửa tội cùng một lúc. Phép rửa tội là việc của cộng đoàn: chúng ta chịu phép rửa để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu và liên kết với nhau. Chúng ta tụ họp chung quanh Chúa Giêsu nhờ bí tích rửa tội, và nhận được ơn Chúa Thánh Thần để ra đi làm nhân chứng cho Ngài qua lời nói và việc làm. Trong sách Công vụ Tông Đồ, thánh Luca tiếp tục chủ điểm đời sống cộng đoàn này. Luca nói cộng đoàn những người đã chịu phép rửa được Chúa Thánh Thần xuống trên họ trong lúc họ đang cầu nguyện va ra đi loan báo Tin Mừng, bắt đầu từ miền Galilê.
Qua phúc âm Luca, chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu sau khi Ngài chiu phép rửa, "và được Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang địa... rồi chịu quỷ cám dỗ". Chính Chúa Thánh Thần đã giúp Chúa Giêsu trong khi bị cám dổ, Ngài cũng nâng đỡ chúng ta, khi chịu phép rửa tội, để đảm bảo rằng chúng ta trở nên người được Chúa Giêsu yêu dấu và làm đẹp lòng Chúa Cha.
Qua phép rửa và với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta được biết chắc là Thiên Chúa ở với chúng ta, và hoạt động trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được ơn Chúa Thánh Thần dẫn dắt để loan bảo với người khác, nhất là với những người bé mọn nhất trong xã hội là họ cũng là "con yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ loan báo bằng môi miệng, nhưng qua việc làm nữa. Đối với những người chịu đau khổ, lời nói bằng môi miệng không đủ để an ủi họ, mà phải giúp đỡ họ qua cơn đau khổ.
Giả sử hôm nay chưa biết đoạn văn này là của thánh Luca, thì thử hỏi chúng ta có biết đoạn sách này là phúc âm của Luca viết hay không? Vì suốt phúc âm thánh Luca, có vài chi tiết cho chúng ta biết tác giả là Luca.
Thứ nhất, đoạn văn nói về hoạt động của Chúa Thánh Thần, là một chủ điểm khắp phúc âm thánh Luca, và nhất là trong Công vụ Tông Đồ. Thứ hai là, nói về cầu nguyện, một chủ điểm xuyên suốt phúc âm thánh Luca. Chúa Giêsu đang cầu nguyện thì Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Chúa Thánh Thần cũng có mặt trong những lúc quan trọng của đời sống Chúa Giêsu. Như: Khi Chúa Giêsu bị quỷ cám dỗ, Khi trở về Galilê Chúa Giêsu "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy Đức Giêsu trở về miền Galilê" (Lc 4:14). Chúa Giêsu bắt đầu ngay từ đó giảng dạy trong các hội đường (Lc 4:15-30) và loan báo "Thần Khí Chúa ngự trên tôi..." và sau đó loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, người bệnh hoạn, kẻ bị giam cầm, và trả lại tự do cho người bị áp bức.
Chúng ta cũng đã chịu phép rửa trong cùng Thần Khí như đã ngự trên Chúa Giêsu và gởi Ngài đi làm sứ vụ. Lời kinh nguyện mặc khải cho chúng ta biết ơn gọi của chúng ta giống như sứ vụ của Chúa Giêsu là: Đến những kẻ sống bên lề xã hội, cho họ biết là Thiên Chúa yêu mến họ, được tự do ra khỏi những vướng bận, kiềm hãm. Thông qua hành vi cuộc sống đầy thấn khí Chúa Thánh linh trong chúng ta?
Có một số người trong chúng ta làm lay chuyển thế giới qua đời sống Kitô Hữu của họ. Dù vậy, trong những việc nhỏ mọn tầm thường, chúng ta cũng được Thần Khí thúc đẫy để hoạt động một cách thầm lặng hầu che chở "cây sậy bầm dập..." mà theo Isaia nói trong bài đọc 1 quyền uy thế gian không dễ gì nghiền nát nó được.
Bài trích sách Isaia đọc ngày hôm nay có hình ảnh rất dịu hiền, âu yếm. Thiên Chúa nói với người tôi tớ được chọn "chính Ta đã nắm tay người..." Thiên Chúa không gọi chúng ta đi một mình, có Ngài đồng hành với chúng ta: những lúc gặp thử thách, chống đỡ với thế gian. Ngài đã như cha mẹ nắm tay chúng ta như tay đứa con thơ.. Hình ảnh âu yếm ấy trong Isaia là hình ánh mà Luca nói với chúng ta trong suốt phúc âm: Chúng ta đã nhận Thần Khí như Chúa Giêsu đã nhận. Qua Thần Khí đó Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta ra đi phục vụ để đem sự công chính của Thiên Chúa đến cho thế gian.
Chúng ta thường nghĩ là phép rửa xóa tội tổ tông. Nhưng có biết bao điều chứng minh ảnh hưởng của tội lỗi trên chúng ta ở trần gian, từ khi mới sinh ra cho đến suốt đời. Nhưng, Thánh lễ hôm nay mời gọi chúng ta thấy được phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận, đã đem chúng ta vào vòng tay yêu thương của Thiên Chúa.
Cộng đoàn những người đã chiu phép rửa được gia nhập vào sự sống, sự chết, và sự sống lại của Chúa Kitô, được sống đời sống mới trong Thần Khí của Ngài. Trong phép rửa, chúng ta cũng nghe được tiếng nói cho chúng ta biết; chúng ta là "con yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng nghe tiếng nói chúng ta được mời gọi sống đời phục vụ nhân danh Chúa Kitô. Isaia mô tả đời sống phục vụ của chúng ta phải là: không bẻ gẫy cây sậy đang oằn dập, không dập tắt hy vọng nơi những người bị áp bức và tuyệt vọng.
Lm Jude Siciliano, OP
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP -----------------------------------
Biến cố năm 1975 đã làm thay đổi số phận của biết bao nhiêu người trên mảnh đất thân yêu của: TN 1-C85
Biến cố năm 1975 đã làm thay đổi số phận của biết bao nhiêu người trên mảnh đất thân yêu của chúng ta. Bản thân tôi cũng phải đối diện với một tương lai đen tối: các chủng viện đều bị đóng cửa, chẳng ai biết ngày nào mình sẽ được thụ phong linh mục. Với lòng hăng say nhiệt thành của tuổi trẻ, tôi đã sẵn sàng gác sách vở qua một bên, chấp nhận cảnh giãi nắng giầm mưa, sống những tháng ngày lao động vất vả, cực nhọc để chờ thời,...
Đối với một viên sĩ quan trẻ gần nhà tôi thì đây là một thảm cảnh, có thể nói là "lên voi xuống ngựa". Trước đây không lâu anh ta chẳng gì cũng là một anh hùng trên chiến trận. Ai ai cũng phải nể mặt. Trong nhà có người hầu hạ. Ra đường có kẻ đưa người đón. Bây giờ nhiều lúc phải rơi lệ vì sự bất lực của mình. Anh ta không biết phải làm gì để nuôi sống gia đình trong lúc này. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi!...
Thật ra cho đến nay nhiều người vẫn còn sống trong bất hạnh vì họ cố níu kéo những gì thuộc về quá khứ. Lẽ dĩ nhiên không ai phủ nhận họ một thời từng là người có danh có phận, từng làm ông nọ bà kia,.. . Nhưng một biến cố xảy ra giống như giông bão bất chợt. Nước mưa làm trôi đi lớp phấn son trên gương mặt, những vẻ hào nhoáng bên ngoài vuột khỏi tầm tay! Họ không dám nhìn vào chính mình, tìm cách trốn chạy vào trong vỏ ốc của mình. Nếu như hôm nay họ đưa mắt nhìn Đức Giêsu sắp hàng trong đám đông, chờ đợi đến lượt mình chịu phép Rửa, chắc chắn cách sống của họ sẽ thay đổi. Một nguồn an ủi lớn lao sẽ tràn ngập trong tâm hồn họ.
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa đã trở nên giống phàm nhân (Pl 2,7). Ngày lễ Chúa chịu phép Rửa còn làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Đức Giêsu đã xuống thế làm người. Hôm nay Người chấp nhận từ giã cuộc sống âm thầm lặng lẽ tại Nadarét, sẵn sàng đón nhận tội lỗi của chúng ta vào nơi mình, trở thành tội nhân. Qua phép Rửa Người biến đổi chúng ta thành tạo vật mới. Chúng ta tự hỏi: Tôi là ai mà được Thiên Chúa ưu ái đoái hoài tới?
Sau khi chịu phép Rửa Đức Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha. Người luôn kết hợp cùng Chúa Cha trong khi thi hành sứ mạng cứu chuộc con người. Qua đó Người cũng chỉ cho chúng ta làm thế nào để giữ tấm áo trắng ngày chúng ta chịu phép Rửa được luôn luôn tinh tuyền. Mỗi lần chúng ta dùng nước phép để làm dấu Thánh Giá, mỗi lần dâng tiếng hát lời kinh, mỗi lần chúng ta cầu nguyện thì cửa trời sẽ mở ra, chỗ bế tắc trong tâm hồn chúng ta cũng được khai thông. Chúng ta sẽ nghe lời Chúa nhắn nhủ: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".
Phép Rửa nói với chúng ta rằng: Con cái do cha mẹ sinh ra nhưng không hoàn toàn thuộc về cha mẹ, bởi vì chúng ta còn là con cái của Thiên Chúa. Cha ông mình đã nói rất chí lý: "Cha mẹ sinh con, trời sinh tính". Không ai có thể tự nắm giữ vận mệnh của mình. Số phận của mỗi người đã được bàn tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa an bài. Chúng ta tin rằng, con người do Thiên Chúa tạo dựng, mỗi người được Thiên Chúa trao cho một số khả năng và một sứ mạng. Với ơn Chúa giúp con người có thể dùng khả năng của mình để chu toàn sứ mạng đã được giao phó cho mình.
Mỗi biến cố xảy tới là một lời mời gọi chúng ta nhớ đến thân phận của mình sau khi chịu phép Rửa, mời gọi chúng ta nhìn lại con người của mình và canh tân đời sống. Khi ý thức được mình là ai thì chúng ta mới biết sống sao cho phù hơp với ý muốn của Thiên Chúa.
Is 40,1-5.9-11 ; Tt 2,11-14;3,4-7 ; Lc 3,15-16.21-22
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Lc 3,15-16.21-22
(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: Biết đâu ông chẳng phải là Đấng Mê-si-a ! (16) Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa”. (21) Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa. Sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra (22) và Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
2.Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay được chia làm hai phần: Trong phần đầu: dân chúng thắc mắc và nghĩ Gio-an: TN 1-C86
Bài Tin mừng hôm nay được chia làm hai phần: Trong phần đầu: dân chúng thắc mắc và nghĩ Gio-an có lẽ là Đấng Mê-si-a. Nhưng ông đã khiêm tốn phủ nhận điều này và còn giúp họ phân biệt giữa phép rửa bằng nước sông do ông làm khác với phép rửa trong Thánh Thần và Lửa do Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện. Trong phần hai: Khi Đức Giê-su vừa chịu phép rửa do Gio-an thực hiện thì một cuộc Thần hiện đã xảy ra: Chúa Cha giới thiệu Đức Giê-su chính là Người Con độc nhất được sinh ra trước mọi thời gian và được Chúa Cha rất mực yêu quý..
3.CHÚ THÍCH:
-C 15-16:
+Đấng Mê-si-a: Mê-si-a trong tiếng Do thái có nghĩa là Đấng Thiên Sai. Từ Mê-si-a này mang nặng ý nghĩa về mặt chính trị ái quốc cực đoan. Mê-si-a đồng nghĩa với Chris-tos trong tiếng Hy lạp hay Ki-tô tiếng La tinh, nghĩa là “Người được Chúa xức dầu” (x. Lc 22,67; 23.3). Về sau tại An-ti-o-ki-a, lần đầu tiên các tín hữu đã được gọi là Ki-tô hữu, nghĩa là người thuộc về Đức Ki-tô (x Cv 11,26).
5-Câu nào cho thấy Đức Giê-su đã được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mê-si-a?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1.LỜI CHÚA: “Con là Con Cha. Cha hài lòng về Con” (Lc 1,35)
2.CÂU CHUYỆN: SỨC MẠNH CỦA GƯƠNG SÁNG
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã!” Cô bé, vốn được bà mẹ đạo đức huấn luyện từ nhỏ về thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ, liền đáp: “Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin hãy để cho cháu được cầu nguyện trước đã”. Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: “Bây giờ thì bác sĩ có thể cho cháu bắt đầu ngủ được rồi đấy!” Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau 30 năm xa Chúa. Không biết sức mạnh nào ở nơi cô bé yếu đuối kia đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của em!
3.SUY NIỆM:
1) SỐNG NHƯ CON HIẾU THẢO LUÔN LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA CHA:
Ngày lễ hôm nay nhắc nhở ta một điều rất quan trọng mà chúng ta thường hay quên, là cần ý thức và sống ơn gọi đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội: Trở nên con của Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Phép rửa tội không chỉ là một lễ nghi để cử hành, nhưng còn là khởi đầu một cuộc sống mới kéo dài trong suốt cuộc đời người tín hữu. Chúng ta vui mừng vì được tái sinh làm con Thiên Chúa. Ta phải sống thế nào để Thiên Chúa cũng xác nhận chúng ta như đã xác nhận Đức Giê-su: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
2) LÀ CÙNG CHẾT VÀ SỐNG LẠI VỚI ĐỨC KI-TÔ:
Hôm nay Hội thánh cũng muốn nhắc nhở các tín hữu chúng ta về những cam kết mà chúng ta đã hứa trong ngày chịu phép rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, diễn tả mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su, Hội thánh nhắc nhở các tín hữu cũng phải chết đi cho những gì thuộc về ma quỉ, thế gian cùng các đam mê tội lỗi bất chính để cùng được sống lại một đời sống mới làm con Thiên Chúa. Chết đi cho các thói hư cụ thể là lọai trừ óc bè phái cục bộ, tính tự cao khi cho mình là hay và chê bai anh em. Từ bỏ những việc làm xấu xa như: tham ô hối lộ, ăn cắp của công, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu… Loại bỏ những ý nghĩ đen tối, những lời nói hành nói xấu, vu oan giáng hoạ, kết án kẻ mình không ưa, nói sai sự thật. Loại bỏ cả những sự tọc mạch, soi mói vào đời tự kẻ khác…
3) NHỮNG CÁCH LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY:
Làm chứng cho Chúa là sứ vụ phát xuất do bí tích rửa tội và Thêm sức. Nhờ Thần Khí của Đức Giê-su Phục Sinh, người tín hữu có bổn phận làm chứng cho Đức Giê-su như sau:
+ Trước hết là sống hiếu thảo với Chúa Cha noi gương Đức Giê-su là Con yêu dấu luôn làm hài lòng Cha (x Mt 3,17), bằng việc kết hiệp qua kinh nguyện hằng ngày, luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha (x Dt 10,9; Mt 26,39), tích cực góp phần xây dựng xã hội mình đang sống ngày một an tòan sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, để dần dần trở thành “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1-4) theo thánh ý Thiên Chúa.
+ Làm chứng cho Đức Giê-su không nhất thiết đòi chúng ta phải nói về Chúa, nhưng là thực hành đức tin bằng đức cậy, chiếu sáng đức ái qua cuộc sống hòa hợp với mọi người chung quanh.noi gương em bé trong câu chuyện trên, tuy không nói nhiều về Chúa, nhưng chính gương sáng cầu nguyện với lòng tin cậy phó thác của em đã có sức lay động đức tin nguội lạnh của viên bác sĩ giải phẫu cho em.
+ Làm chứng cho Đức Giê-su đòi chúng ta phải thay đổi con người cũ bằng một đời sống đổi mới trong Thánh Thần. như lời thánh Phao-lô: "Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 1-2).
+ Làm chứng cho Đức Giê-su là chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm cho “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” (Mt 6,9-10), bằng sự cầu nguyện kết hiệp, bằng thái độ ứng xử thân thiện, lời nói hòa nhã vui vẻ, việc làm phục vụ khiêm tốn, nhất là năng sự thăm viếng chia sẻ cơm bánh và phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi như Lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4.THẢO LUẬN: Khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được công nhận là con yêu dấu của Chúa Cha như Đức Giê-su xưa. Người cũng truyền cho các môn đệ phải làm chứng cho Người (Cv 1,8). Vậy ngày nay các tín hữu cần làm chứng cho Đức Giê-su bằng cách nào?
5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Xin cho chúng con đừng cố làm cho mình nổi trội hơn anh em. Xin cho chúng con luôn ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, không la mắng to tiếng với tha nhân. Xin cho chúng con biết chọn phần ít hơn người khác về quyền lợi, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ nhiều hơn cho họ. Xin cho chúng con biết nói ít làm nhiều. Nhờ đó, “hữu xạ tự nhiên hương”: Chúng con sẽ chiếu ánh sáng tình yêu của Chúa trước mặt thiên hạ, và qua chúng con, anh em lương dân sẽ nhận biết yêu mến Chúa để cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
Có người gọi Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Kitô khánh thành sứ mạng Thiên Chúa của Ngài ở trần: TN 1-C87
Có người gọi Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Kitô khánh thành sứ mạng Thiên Chúa của Ngài ở trần gian, và được hoàn chỉnh vào lễ Chúa Giêsu chịu phép thanh tẩy. Lễ Chúa chịu phép Thanh Tẩy coi như kết thúc mùa Giáng Sinh, nhưng thực sự Giáng Sinh sẽ kết thúc vào lễ Chúa Giêsu dâng mình vào đền thánh vào ngày 2 tháng Hai.
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 3:15-16, 21-22) cho biết Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài ở Galilée sau khi chịu phép thanh tẩy bởi thánh Gioan Tiền Hô. Nói về sự mong chờ của mọi người (3:15), thánh Luca đã tả quang cảnh thánh Gioan thuyết giảng giống như tình trạng những người Do Thái thành tâm trong khung cảnh Chúa Hài Đồng sinh ra (2: 25-26, 37-38). Thánh Gioan Tiền Hô nói về một nhân vật vĩ đại, cao trọng hơn, có quyền lực thanh tẩy mạnh mẽ hơn thánh nhân nhiều (Lc 3:16; Ga 1:26-27).
Khác hẳn với phép rửa thánh Gioan làm bằng nước, Chúa Giêsu nói phép rửa Ngài làm sẽ bằng ơn Chúa Thánh Thần và Lửa (Lc 3:16). Cộng đồng Kito Giáo sơ khai quan niệm Ánh Sáng Lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần được đổ ra ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Cv 2: 1-4). Theo giáo huấn của thánh Gioan, Thánh Thần và Lửa phải được hiểu là những gì tinh khiết, tinh luyện và trinh trong (Ez 36: 25-27; Ma 3: 2-3).
Tiếng nói phát ra từ trời khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: “Con là Con yêu dấu của Ta, rất đẹp lòng Ta”(Mt 3:17) là một xác quyết rõ ràng Chúa Giêsu thành Nazareth là con-người-thiên-sứ. Đây chính là một tuyên cáo về Tình Yêu của Thiên Chúa đối với tân dân Israel / Do Thái của Chúa. Đó là cách Thiên Chúa đặt tên cho một trách nhiệm cao cả. Nó là một bất ngờ đối với thế giới của những ai hãnh tiến và uy quyền.
Qua phép rửa làm bằng nước sông Jordan bởi thánh Gioan Tẩy giả, chúa Giêsu đã chấp nhận điều kiện và khả năng của loài người, gồm cả đau khổ và sự chết và cách nối kết với Thiên Chúa theo cung cách chúng ta muốn. Người đã giang hai cánh tay ra ở sông Jordan và trên thập giá. Nơi sông Jordan, Chúa đã chấp nhận nhiệm vụ. Trên thập giá, Chúa đã hoàn thành nhiệm vụ. Để cho thánh Gioan làm phép rửa tại sông Jordan, Chúa Giêsu đã xác quyết với thế giới Chúa đến thế gian là để cứu chuộc muôn dân.
CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ TRỞ THÀNH NGÔN SỨ
Khi chúng ta chịu phép rửa trong Chúa Kito là chúng ta được thanh tẩy trong sự chết của Ngài. Phép thanh tẩy của chúng ta là một bí tích công khai, ngôn sứ và vương quyền. Chúng ta chấp nhận sự sống của Giáo Hội và được kêu gọi gìn giữ niềm tin sự sống đó, niềm tin nghĩ đến tha nhân. Niềm tin này là trách nhiệm chung của mọi người, không của riêng ai cả.
Bí tích Thanh Tẩy là tiếng gọi người Kito hữu trở thành ngôn sứ. Cách thức chúng ta sống thế nào là tùy từng người. Cách thức đó có thể không bi thương như những cuộc mạo hiểm của một Isaiah hay một Gioan Tiền Hô. Tuy nhiên nó phải ở trong cùng một truyền thống ngôn sứ vĩ đại là Đức Giêsu Kitô. Để là ngôn sứ chúng tôi cần phải nhập cuộc và hành động; tay chân chúng tôi phải bị dơ bẩn, nghĩa là không trắng muốt, sạch sẽ như những người suốt ngày ngồi trong văn phòng và huởng thụ.
Qua phép Thanh Tẩy, chúng ta có thể trở thành ánh sáng cho tha nhân, như Chúa Giêsu là ánh sáng cho chúng ta và toàn thế giới. Cuộc thanh tẩy của chúng ta sẽ làm cho chúng ta can đảm, tin tưởng và hăng say hồ hỡi. Nó luôn luôn nhắc nhở chúng ta là Tin Mừng cần phải được tuyên xưng bằng hành động để tỏ lòng tri ân vì vẻ huy hoàng, tươi đẹp và ơn phúc của nó.
Khi nào chúng ta lần hồi khám phá ra được những đòi hỏi của niềm tin đó, và ở đâu cách thức thống hối dẫn dắt chúng ta tới, khi nào chúng ta biết phân biệt thiện với ác; khi nào chúng ta cố gắng tìm kiếm điều Chúa muốn trong cuộc sống của chúng ta và xin Ngài giúp chúng ta hoàn thành nó; khi nào chúng ta học hỏi thật nhiều hết sức có thể về Thiên Chúa và thế giới của Ngài; khi nào chúng ta đến gần được Chúa, thì –lúc đó- con người mà bầu trời đã mở ra cho Ngài sẽ được tỏ lộ cho chúng ta.
PHÉP THANH TẨY TRONG GIÁO HỘI NGÀY NAY
Ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, việc rửa tội trẻ em đã trở thành tùy nghi. Số hài nhi, trẻ em, thanh niên thiếu nữ và người lớn không rửa tội đang tăng lên. Việc xuống dốc đó là do tình liên đới gia đình bị soi mòn và xa rời khỏi Giáo Hội. Tôi đã từng nghe và biết có những linh mục, những cha xứ thắc mắc và tranh luận về một thực tế là nếu các ngài thấy có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ không có thực hành đức tin thì Giáo Hội có quyền từ chối làm các bí tích, nhất là bí tích thanh tẩy. Đây quả là một vấn nại rất phức tạp.
Tuy nhiên, phải chăng chúng ta không thể một lần nữa, lắng nghe lệnh truyền của sứ mạng rao giảng Tin Mừng là “Rửa Tội, Truyền Giáo và Giáo Huấn” không phải là đợi cho người ta đến với mình mà chúng ta phải đi ra ngoài, thăm hỏi, gặp gỡ, giúp đỡ người ta, ở những nơi mà tình trạng đang bê bối, tội lỗi, áp bức, truy nã, tù tội, bất công, bất chính đang hoành hành? Điều chúng ta cần phải có là nhiệt tình hăng say truyền giáo. Nó không phải là những cái gì ghê gớm. Nó rất bình thường. Đó là công tác truyền giáo hàng ngày, là yêu thương, là thăm viếng kẻ đau yếu, thăm hỏi người tù tội, bênh vực những người bị bạc đãi, bắt bớ, cưỡng đoạt, lên tiếng trước những bất công, bất chính, đòi hỏi công bằng xã hội, tự do tôn giáo…như chính Chúa Giêsu đã làm. Ở Hoa Kỳ tôi đã thấy những giám mục, đức ông –linh mục / giáo dân thì là chuyện bình thường rồi- thường xuyên đi thăm bệnh nhân và tù nhân. PhépThanh Tẩy chính là nền tảng tuyệt đối của những nhiệt tình hăng say ấy. Nó không phải là xum xoe, o bế kẻ quyền thế giàu sang và thế quyền, dù họ là những kẻ chống Chúa và đầu não của tội lỗi, ác quỉ.
Phép bí tích là để dành cho đời sống con người, thanh thiếu niên và người lớn cả nam lẫn nữ, không phải là chúng ta muốn họ làm điều ta muốn, để cho ta được yên thân. Chúng ta có thể nghe văng vẳng bên tai lời Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II kêu gọi chúng ta: “Duc in altum!” Bạn không thể kiếm ra được những người cần bạn nơi những vũng nước quen thuộc và nông cạn!
Tình trạng khó xử phải từ chối ban phép thanh tẩy và những bí tích khác cho những người không thích hợp vì đã không hành đạo trong Giáo Hội, đã được chính Hồng Y Joseph Ratzinger trải nghiệm lúc còn trẻ, nhưng cuối cùng đã được giải quyết. Hãy nghe Ratzinger, nay là Giáo Hoàng Biển Đức XVI trả lời thắc mắc có liên hệ đến chuyện này của một linh mục ở Bressanone tại Bắc Ý, trong một cuộc vấn-đáp công khai với các giáo sĩ của giáo phận vào ngày 6-8-2008. Linh mục Paolo Rizzio, là cha xứ và giáo sư thần học, đã hỏi Đức Thánh Cha một câu hỏi về phép Thanh Tẩy, phép Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu:
“Thưa Đức Thánh Cha, 35 năm về trước, con đã nghĩ là chúng con khởi đầu là một đoàn chiên nhỏ, một cộng đồng thiểu số, ít nhiều ở đâu đó tại Âu Châu; do đó chúng con đã chỉ thi hành các bí tích cho những ai thực sự hành đạo mà thôi. Thế rồi, một phần vì đường lối của triều đại Gioan Phaolo II, con nghĩ là mọi sự rồi cũng được cho qua. Đức Thánh Cha nghĩ sao và cho chúng con ý kiến để thi hành về sau? Đức Thánh Cha có thể gợi ý cho chúng con những đường hướng mục vụ nào phải theo?”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã trả lời câu hỏi này rất thích hợp cho chúng ta về Phép Thanh Tẩy trong ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa:
“Tôi phải nói rằng, tôi đã đi cùng đường với quí cha. Khi tôi còn trẻ, tôi đã khá nghiêm ngặt. Tôi nói: Các bí tích là bí tích của Niềm Tin, và ở đâu không có Niềm Tin, ở đâu Niềm Tin không được thực hành, thì ở đó Bí Tích cũng không thể ban cho được. Và tôi đã thường nói với các cha xứ của tôi khi tôi làm Tổng Giám Mục Munich là: Đây cũng là hai yếu tố, một thì nghiêm ngặt, một thì rộng rãi cởi mở. Thế rồi, với thời gian, tôi cũng đã nhận thức ra là tôi phải bước theo gương Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là người đã rất cởi mở, ngay cả với dân Do Thái / Israel ở bên lề thời bấy giờ. Ngài cũng là Chúa Từ Bi Thương xót và cởi mở -theo như chính quyền thời đó- với những kẻ tội lỗi, vui vẻ chào đón họ và chấp nhận lời mời của họ đến nhà họ ăn cơm tối, lôi kéo họ đi theo về với cộng đoàn của Ngài. (…)
“Do đó, tôi có thể nói là, trong cách dạy giáo lý cho con trẻ, làm việc với cha mẹ là điều tối quan trọng. Đây chính là một trong những cơ hội để tiếp cận với cha mẹ, nó cũng làm cho đời sống đức tin hiện diện nơi người lớn, vì lẽ, đối với tôi, chính họ có thể học hỏi lại niềm tin nơi con trẻ và hiểu rằng nghi thức trọng thể này chỉ có ý nghĩa thực và chính danh nếu nó được cử hành trong một khung cảnh / tình huống của cuộc hành trình cùng với chúa Giêsu, trong tình trạng của đời sống đức tin. Vậy thì, chúng ta phải cố gắng thuyết phục cha mẹ, qua con trẻ, về những nhu cầu cần thiết để chuẩn bị cho cuộc hành trình đó, được biểu hiện bằng cách cộng tác với những mầu nhiệm bí tích và làm cho chúng trở thành đáng mến đáng yêu. (…)
“Tôi có thể nói rằng chắc chắn đây là một giải đáp chưa đầy đủ, nhưng hiểu theo khoa sư phạm thì đức tin luôn luôn là một cuộc hành trình và chúng ta phải chấp nhận mọi hoàn cảnh của xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải mở rộng chúng cho nhiều người hơn để kết quả không phải chỉ là một ký ức hời hợt bề ngoài mà họ đã trải qua mà còn phải làm cho con tim họ rung động thực sự. Trong khoảnh khắc mà chúng ta bị thu hút để tim ta bị xúc động, như cảm thấy một chút xíu về tình yêu chúa Giêsu, một chút ít ước muốn chuyển động theo cùng đường cùng hướng, thì đó là lúc, đối với tôi, có thể nói rằng chúng ta đã thực hiện được một bài dạy giáo lý thực sự. Ý nghĩa chính của việc dạy giáo lý phải là: mang lại ngọn lửa tình yêu của Chúa Giêsu -cho dù nó nhỏ bé- xâm nhập trái tim con trẻ, và qua con trẻ đến với cha mẹ chúng. Vậy là chúng ta đã tái mở cánh cửa niềm tin của thời đại chúng ta rồi đấy.
“Chớ gì lễ Chúa chịu phép Thanh Tẩy hôm nay là lời mời gọi mỗi người trong các bạn nhớ tới những lời hứa của mình khi chịu phép rửa và tái xác nhận niềm tin đó với lòng tri ân. Hãy làm sống lại giây phút nước đổ trên đầu các bạn. Hãy cầu nguyện để ân sủng của phép thanh tẩy của bạn giúp bạn trở thành ánh sáng cho tha nhân và thế giới, cho bạn sức mạnh và lòng quả cảm để làm một cái gì khác thường trên thế giới và trong Giáo Hội.”
“Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, rồi đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con”.
Trong tất cả truyền thống Tin Mừng, trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa luôn được đặt ở đầu sứ: TN 1-C88
Trong tất cả truyền thống Tin Mừng, trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa luôn được đặt ở đầu sứ vụ công khai của Người, và luôn được gắn với một cuộc thần hiện và một lời tuyên bố rất sâu sắc và phong phú về ý nghĩa.
Trong tất cả truyền thống Tin Mừng, trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa luôn được đặt ở đầu sứ vụ công khai của Người, và luôn được gắn với một cuộc thần hiện và một lời tuyên bố rất sâu sắc và phong phú về ý nghĩa.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về cuộc thần hiện và nhất là về ý nghĩa của lời tuyên bố trong cuộc thần hiện ấy. Cách hiểu về cuộc thần hiện ở đây như là một cuộc hiển lộ của Ba Ngôi Cực Thánh ( tiếng của Chúa Cha, hình dáng bồ câu của Chúa Thánh Thần và sự hiện diện của Chúa Con ) là một cách giải thích muộn thời. Về ý nghĩa của lời tuyên phán từ trời, có nhiều cách giải thích: như lời diễn tả ơn gọi ngôn sứ, như lời tôn phong Mêsia Vua, như lời khẳng định về tư cách Con Thiên Chúa, hay như lời diễn tả về vai trò Tôi Trung của YHWH. Nhưng điều quan trọng ở đây là lời giải thích của tác giả Luca về biến cố mà ông tường thuật cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
“Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa”. So với trình thuật Mc 1, 9 ta thấy tác giả Luca đã giản lược những chi tiết của sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và thêm vào một điều quan trọng: Chúa Giêsu cầu nguyện sau khi chịu phép rửa.
Đức Giêsu chịu phép rửa như “toàn dân”. Ngài đi lẫn trong đám đông một cách vô danh. Ngài ở giữa dãy dài những con người nam nữ bình thường đang đợi đến lượt mình nhận phép rửa. Ngài không đứng từ trên cao phán xét những con người đáng thương, nhưng liên đới với hàng ngũ những con người yếu đuối đang khao khát đổi mới tâm linh để đón nhận sự can thiệp cứu độ của chính Thiên Chúa.
Thực ra, có vẻ Thánh Luca không chú trọng đến ý nghĩa tôn giáo của sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa chung với đám đông dân chúng. Ông trình bày phép rửa này như một sự kiện chuyển tiếp, đi từ sự chờ đợi đến một thực tại mới mẻ. Thực tại mới mẻ ấy sẽ xảy đến với việc Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu mà toàn dân vừa được ông Gioan thanh tẩy sẽ là chứng nhân.
“Rồi đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con”.
Trong Luca, hành vi đầu tiên đánh dấu đời sống công khai của Đức Giêsu là cầu nguyện. Lần đầu tiên tác giả nói đến việc Đức Giêsu bước vào sứ vụ công khai, ông mô tả Ngài trong trạng thái “đang cầu nguyện”. Đây là việc đầu tiên Đức Giêsu làm trong Luca với tư cách một con người trưởng thành. Sau này, trong những giai đoạn quan trọng của sứ vụ, Đức Giêsu cũng sẽ cầu nguyện rất nhiều: Lc 5, 16; 6, 12; 9, 18.28.29; 11, 1; 22, 41; 23, 46.
Chính vào lúc Đức Giêsu đang cầu nguyện sau khi đã chịu phép rửa thì trời mở ra. Rõ ràng tác giả Luca không gắn cuộc thần hiện vào với việc Đức Giêsu chịu phép rửa mà là vào với việc Đức Giêsu cầu nguyện.
Thánh Marcô miêu tả “trời xé ra” ( Mc 1, 10 ), một lối nói đậm tính khải huyền, nhấn mạnh sự giao tiếp đã được tái lập giữa Trời và đất sau một thời gian dài thinh lặng ( Is 63, 19 ): “Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan”; xem thêm Ed 1, 1; Kh 4, 1; 19, 11 ). Thánh Luca thì chỉ ghi: “trời mở ra”. Đối với tác giả Luca, sự kiện đó chỉ đơn giản có giá trị dẫn vào cuộc thần hiện: Thánh Thần ngự xuống và có lời tuyên phán từ trời.
“Thánh Thần ngự xuống trên Người”. Điểm căn bản đầu tiên của cuộc thần hiện trong Luca là việc Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu ( chứ không phải là ngự xuống trong Người ). Sự kiện Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu cho thấy: Thánh Thần không được giới thiệu ở đây như là Đấng làm nên một thực tại gì đó bên trong Đức Giêsu, hay là làm thay đổi chính bản thân Đức Giêsu. Giới từ trên này hướng cái nhìn của chúng ta về ý tưởng một cuộc xức dầu đặt làm ngôn sứ và Mêsia.
Cuộc xức dầu này được thực hiện công khai; và như thế, Đấng đã thành thai trong lòng Đức Maria bởi quyền năng Thánh Thần bây giờ được xức dầu tấn phong làm Mêsia một cách công cộng, trước mặt toàn dân vừa được Gioan làm phép rửa, và Thánh Thần hiện diện trong một thể thức thấy được ( “dưới hình dáng chim bồ câu”).
Sự kiện Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu ở đây sẽ không phải là một sự kiện nhất thời và tạm bợ, như đã xảy ra với bà Êlisabét, ông Dacaria hay ông Simêon. Thánh Thần sẽ ở cùng Đức Giêsu trong suốt cuộc đời của Người. Với Thánh Thần, Đức Giêsu sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ ( 4, 1 tt ), sẽ thực hiện các công trình của Người ( 4, 18 ).
Điểm quan trọng thứ hai của cuộc thần hiện: “Và có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con”. Cho đến thời điểm ấy, Thiên Chúa đã gửi đến trần gian các đầy tớ của Người, tức là các ngôn sứ. Nhưng bây giờ, Người gửi đến Con yêu dấu của Người, và sau đó sẽ không còn ai khác nữa ( x. 20, 13 ). Chính Đức Giêsu sẽ nói về mình: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” ( 10, 22 ).
Một cách công khai, trước mặt toàn dân vừa chịu phép rửa của ông Gioan, Đức Giêsu được công bố là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Như thế, ngay tại điểm khởi đầu sứ mạng của Người, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa giới thiệu với toàn dân như là Chúa Con, Đấng luôn làm hài lòng Chúa Cha. Đó là lời xác nhận của chính Thiên Chúa về thực tại đã được thiên sứ Gabriel nói với Đức Maria ( 1, 32.35 ) và là sự thực hiện những sấm ngôn của ông Dacaria ( 1, 67tt ) và ông Simêon ( 2, 29tt ). Khuôn mặt “Đấng quyền thế hơn” trong lời tuyên bố của ông Gioan ( Lc 3, 16 ) đã trở nên cụ thể, và căn tính sâu xa của Người đã được mạc khải một cách rõ ràng.
Đức Giêsu đến trần gian, mang theo một sứ mệnh cao cả chính là gánh mọi tội lỗi trần gian và khai: TN 1-C89
Đức Giêsu đến trần gian, mang theo một sứ mệnh cao cả chính là gánh mọi tội lỗi trần gian và khai mở con đường cứu độ. Ngài tự nguyện trở thành vật hy sinh hòa giải nhân loại với Thiên Chúa vì tội bất tuân. Mở đầu con đường cứu độ là hành trình 3 năm rao giảng, loan truyền cho muôn người nhận biết quyền năng, tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng, Đức Giêsu đã tự nguyện chịu phép rửa sám hối của Thánh Gioan. Người mà muôn dân đang trông ngóng, hy vọng và đợi chờ là Đấng cứu tinh đến giải thoát họ khỏi ách lầm than, thống trị, bóc lột… Trong khi, Thánh Gioan cương quyết khẳng định vị thế của mình: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.” ( Lc 3, 16 ), thì Đức Giêsu cũng như muôn người bước xuống dòng sông Giođan chịu phép rửa…
Tại sao vậy ? Hành động đó nói lên điều gì ? Tại sao Đấng vô tội lại cần phải thanh tẩy. Tại sao Đấng vô tội lại cần được tha tội ? Đó chính là sự bỏ mình đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng. Ngài đã bắt đầu đặt chân trên con đường hủy diệt, từ bỏ để thi hành sứ mệnh của Thiên Chúa Cha.
Con đường làm người thực thụ bắt đầu từ đây. Từ sự tự hủy chính mình. Khi bước xuống dòng sông Giođan, khi chấp nhận cúi đầu đón nhận dòng nước thanh tẩy từ tay Gioan, Đức Giêsu đã tự nguyện cởi bỏ chiếc áo danh phận, để hòa mình với con người, sống làm người, là một con người như mọi người phàm thực thụ. Ngài muốn cúi đầu gánh lấy hết mọi tội lỗi và nỗi khổ đau của nhân loại. Ngài muốn trở nên người như muôn người. Ngài không tách rời thế giới, nhưng hòa đồng như mọi người. Khi chấp nhận khoác trên mình tấm áo nhân loại, Ngài cũng muốn như muôn người, bắt đầu bước vào hành trình làm người, đầy khổ đau…
Nói vậy, hành động sám hối của Đức Giêsu hôm nay, không phải là hành động của một tội nhân, nhưng chính là hành động của người đến gánh lấy muôn tội. Chính bởi hành vi cao cả ấy, đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để rồi Thánh Thần của Ngài xuất hiện với lời ca ngợi: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” ( Lc 3, 22 ).
Phải, ngày hôm nay chính là Đức Giêsu sinh ra trong thánh ý, chính bởi vì sự vâng phục tuyệt hảo. Ngài đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Dấu hiệu trở thành con Thiên Chúa, chính là sự vâng phục. Mỗi người được sinh ra trên thế giới này đều không ngoài thánh ý Thiên Chúa. Mà thánh ý đó là gì ? Chính là muốn cho con người sống và được sống hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng nên thế giới, con người và vạn vật trong đó, tuyệt đối Ngài không muốn cho bất kỳ một thọ tạo nào phải đau khổ. Những thử thách gian nan, lầm than trong cuộc sống chỉ là những phương tiện giúp con người thánh hóa để trở nên linh dược chữa lành trên con đường về quê trời mà thôi. Đau khổ, sự chết, hay vinh hoa phú quí ở trần gian này đều chỉ là tạm bợ, không phải là tất cả, cũng không có giá trị vĩnh cửu… Chỉ có tình yêu và lòng mến mới theo con người đến tận cùng sự sống của mình.
Tội là một điều xấu, chẳng ai ủng hộ và chấp nhận nó. Thế nhưng, không biết mình có tội lại là một điều xấu xa và tệ hại hơn. Can đảm nhìn nhận mình thiếu sót, khiếm khuyết lại là điều khó có thể. Bởi thế, từ việc chân nhận giá trị thật của bản thân, dẫn đến quyết định chấp nhận nó là cả một hành trình. Con đường từ bờ bước xuống sông để đón nhận phép thanh tẩy thì ngắn, nhưng hành trình từ trái tim đến việc thành tâm sám hối lại dài đến vô tận. Bởi thế, mà trên dòng sông Giođan năm ấy và dòng đời hôm nay, có mấy ai bước đến đón nhận thanh tẩy, đón nhận Ơn Cứu Độ ?
Thánh Giođan, vị Ngôn Sứ của Thiên Chúa, đã dùng nước để kêu gọi mọi người sám hối trở về với Thiên Chúa. Ngài đã khẳng khái loan báo một phép rửa lớn lao, vĩ đại hơn của Đấng Cứu Thế. Phép rửa ngài ban cho muôn người hôm nay, lãnh nhận một lần vẫn chưa đủ, nhưng Phép Rửa của Đấng đến sau ngài chỉ cần lãnh nhận một lần là đủ. Bởi đó không phải bằng nước, nhưng là trong Thánh Thần và bằng Lửa, bằng chính tình yêu, sự hy sinh và cả mạng sống của Con Thiên Chúa, nó được trả bằng chính giá Máu của Ngài.
Lạy Chúa, đã bao nghìn năm qua rồi, nhưng phải chăng trên dòng sông cứu độ năm ấy, Ngài vẫn đang chờ đợi từng người đến lãnh nhận ơn cứu độ. Mà dường như, con đường sám hối lại vắng bóng hơn bao giờ hết. Có lẽ nhân loại cho rằng mình vô tội hoặc không còn nhu cầu được tha tội. Không gì nguy hiểm bằng sự tự mãn chính mình, chính bởi vì sự kiêu ngạo này mà nhân loại đã lao vào con đường diệt vong.
Làm thế nào đây, để thế giới có thể bước ra khỏi bức tường chai cứng của trái tim đã bị đóng băng bởi ích kỉ, hận thù và tham vọng ? Tội lỗi là điều làm cho con kinh sợ nhất, mà chỉ có dòng máu cứu độ của Thiên Chúa mới có thể thanh tẩy, chữa lành.
Cảm ơn Ngài đã chịu Phép Thánh Tẩy vì con, cho con. Cảm ơn Ngài đã đi bước trước của hành động khiêm nhường, tự hạ. Xin giúp con nhận ra hành động yêu thương của Ngài trên tất cả mọi sự, để rồi con an tâm sống hạnh phúc trong tình thương cứu độ. Nào có phải chỉ mình con sống ? Nào có phải chỉ mình con làm người ? Nhưng chính Con Thiên Chúa đã sống và làm người với con…
Chúa Giêsu hoàn toàn không hề có tội vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn lãnh nhận Phép Rửa: TN 1-C90
Chúa Giêsu hoàn toàn không hề có tội vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn lãnh nhận Phép Rửa. Ngài để cho Ngôn Sứ Gioan làm Phép Rửa cho Ngài trong dòng sông Giođan vì Ngài muốn nêu gương khiêm nhường cho chúng ta. Khiêm nhường rất cần cho bất cứ ai, vì khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức.
CAN ĐẢM ĐỂ LÀM GÌ ?
Thiên Chúa phán: “Hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” ( Is 40, 1 – 2 ). Chúa rất nhân từ, Ngài nói rõ là “an ủi” và “ngọt ngào khuyên bảo” người khác, chứ Ngài không bảo dùng “quyền” mà “hành” người khác, hoặc dùng “mệnh lệnh” mà “trấn áp” người khác. Lời Ngài rất đáng để chúng ta phải tự nghiêm túc xét lại mình.
Có tiếng hô to: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” ( Is 40, 3 – 5 ). Sa mạc là nơi hoang vu, tĩnh mịch, vắng vẻ. Sa-mạc-tâm-hồn cũng rất cần cho chúng ta, đó là những giây phút tịnh tâm, nhất là những buổi tối, hoặc những ngày cấm phòng. Vì khi ở trong “sa mạc”, chúng ta có thể nhận biết mình rõ hơn, và nhờ đó mà có thể mở đường rộng, vạch đường thẳng, san núi đồi, lấp thung lũng, san bằng chỗ gồ ghề,… để đến với Thiên Chúa và tha nhân.
Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi !” ( Is 40, 9 ). Lên cao và nói to, sống đúng Sự Thật thì không gì phải sợ ai. Chính Đức Kitô vẫn thường xuyên động viên: “Đừng sợ !” ( Mt 10, 26; Mt 10, 28; Mt 10, 31; Mt 14, 27; Mt 17, 7; Mt 28, 5; Mt 28, 10; Mc 5, 36; Mc 6, 50; Lc 1, 13 và 30; Lc 2, 10; Lc 5, 10; Lc 12, 4; Lc 12, 7; Lc 12, 32; Lc 21, 9; Ga 6, 20 ).
Tại sao không sợ ? Ngôn Sứ Isaia cho biết: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” ( Is 40, 10 – 11 ). Muốn “đừng sợ” thì phải có lòng can đảm, muốn can đảm thì phải tập bằng cách tự động viên mình. Hãy hít sâu, nắm chặt hai bàn tay, và thở mạnh, cảm giác sẽ khác hẳn. Nhưng đừng quên hướng về Đức Kitô.
Hãy tự nhủ như tác giả Thánh Vịnh: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi !”, và thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả !” ( Tv 104, 1a ). Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ rất khác biệt, không như bất kỳ thần thánh nào khác: “Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt, cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang. Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng, điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không. Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió” ( Tv 104, 1b – 3 ).
Đoàn tùy tùng của Ngài cũng hoàn toàn kỳ lạ: “Sứ giả Ngài là làn gió bốn phương, nô bộc Chúa là lửa hồng muôn ngọn” ( Tv 104, 4 ). Các việc Ngài làm vô số và không ai khả dĩ hiểu thấu: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng ! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” ( Tv 104, 24 ). Nhận biết Thiên Chúa để chúng ta có thể đủ niềm tin, nhờ đó mà có thể can đảm hơn.
Không sinh vật nào lại không nhờ ân lộc Ngài trao ban: “Này đại dương bát ngát mênh mông, nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng, hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn” ( Tv 104, 25 ). Ngài không chỉ ban cho những điều cần thiết mà còn ban cho những điều vượt ngoài tầm tay của chúng ta, thậm chí Ngài ban cả những điều mà chúng ta chưa biết mở miệng xin: “Ngài ban xuống, chúng lượm về, Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước” ( Tv 104, 28 ). Thế mà nhân loại vẫn vô ơn, bạc nghĩa. Ngay chính chúng ta – những người vinh hạnh làm con cái Ngài – cũng vẫn thường xuyên bội bạc, làm được điều gì nhỏ nhoi đã tưởng mình tài giỏi mà dám vênh vang tự đắc, coi khinh người khác. Chúng ta chỉ là “số không” mà cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”. Đó là ảo tưởng, là kiêu ngạo !
CAN ĐẢM ĐỂ KHIÊM NHƯỜNG
Nhà toán học Pythagore nói rất chí lý: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Là một bác học danh tiếng cả thế giới mà ông thấy vẫn chẳng là gì. Hoặc như Thánh Thomas Aquinas, Tiến sĩ Hội Thánh, thông minh xuất chúng và viết nhiều sách giá trị, đặc biệt là bộ Tổng Luận Thần Học ( Summa Theologiae ), thế mà ngài lại nói: ngài khiêm nhường cho biết: “Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác”. Còn khi người ta hỏi: “Làm thế nào để được cứu độ ?”, Thánh Thomas trả lời ngắn gọn: “Phải khiêm nhường” ( Ảnh trên: kính màu chân dung Thánh Thomas ).
Một hồng ân hiển nhiên mà chúng ta luôn cần thiết là không khí, nhưng chúng ta lại không coi đó là đại ân, hoặc cho đó là điều “dĩ nhiên”, là chuyện tự nhiên. Tác giả Thánh Vịnh phân tích cặn kẽ: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” ( Tv 104, 29 – 30 ). Thế thì sao lại dám kiêu ngạo chứ ?
Thánh Phaolô nói rõ: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” ( Tt 2, 11 – 12 ). Tại sao phải như vậy ? Thánh Phaolô giải thích: “Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện” ( Tt 2, 13 – 14 ). Như vậy, chắc chắn người-hăng-say-làm-việc-thiện là người-của-Chúa, vì Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng thương xót.
Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, Ngài đã “biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại” ( Tt 3, 4 ). Thánh Phaolô nói thẳng, không hề úp mở: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Ngài thương xót, nên Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” ( Tt 3, 5 ). Rõ ràng chúng ta chẳng có thể viện cớ gì để mà biện hộ cho thói kiêu căng của mình. Tất cả là Hồng ân – Hồng ân nối tiếp Hồng ân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” ( Tt 3, 6-7 ).
Trình thuật Tin Mừng được Thánh Luca kể ngắn gọn nhưng súc tích: Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia !
Nghe vậy, ông Gioan trả lời thẳng với mọi người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” ( Lc 3, 16 ). Ngôn Sứ Gioan Tẩy Giả là con người khiêm nhường với câu nói nổi tiếng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Không đáng cởi quai dép chứ đừng nói chi “xách dép”.
Là người đời, nhưng F. Engels cũng đã biết nhận xét tinh tế: “Trang bị quý giá của con người là sự khiêm tốn và tính giản dị”.
Thánh Luca cho biết rằng khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” ( Lc 3, 22 ). Chính Chúa Cha đã công khai xác nhận Đức Giêsu Kitô là Con Yêu Dấu, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Quá minh nhiên, không còn gì khả nghi nữa !
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết sống khiêm nhường và yêu thương để có thể đến với Chúa qua tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
Anh Sanjay Kumar, một thợ điện 42 tuổi đã gánh cha và mẹ trên vai đi suốt quãng đường 216km,: TN 1-C91
Anh Sanjay Kumar, một thợ điện 42 tuổi đã gánh cha và mẹ trên vai đi suốt quãng đường 216km, từ Uttar Pradesh đến thủ đô Delhi, Ấn Độ, để giúp hai vị phụ mẫu thực hiện ước nguyện, ấy là được tắm nước thánh sông Hằng ( Gange ) ở Haridwar. Kumar nói: “Rất nhiều bạn trẻ không hiểu được niềm hạnh phúc được phục vụ cha mẹ. Tôi gánh cha mẹ trên vai để thể hiện sự kính trọng và biết ơn vì họ đã cho tôi được sống trên thế giới này. Đối với tôi, họ chính là những vị thần”.
Cha mẹ của Kumar là ông Lala Ram, 95 tuổi và bà vợ, 80 tuổi đã rất cảm động trước hành động của con trai mình. “Chúng tôi đã cản nó đừng nên làm việc này, nhưng nó không chịu nghe, lại còn quỳ xuống xin phép”. Mẹ anh cho biết. Bất chấp trời mưa to, đường lầy lội, Kumar vẫn gánh cả cha và mẹ cùng lúc trên vai đi một quãng đường khoảng 25 – 30km mỗi ngày. Họ chỉ dừng lại giữa đường để rửa ráy và ăn uống. Mỗi lần dừng lại, Kumar đều quỳ xuống chân cha mẹ và nhận lời chúc phúc của họ. Câu chuyện này lan đi rất nhanh từ làng này sang làng khác. Hàng ngàn người dân đã đến gặp họ để nhận lời chúc phúc từ cha mẹ Kumar ( theo Hindusantimes 3.8.2010 ).
Bài trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay còn giới thiệu một người con hiếu thảo vô cùng hơn nữa. Không ai có thể mường tượng nổi rằng, con một bậc đại vương lại sinh hạ nơi chuồng bò lừa hôi hám, trong đêm đông giá rét, trong sự ghẻ lạnh của thôn xóm. Không ai có thể tin rằng, người con đó hoàn toàn tự nguyện, rời bỏ chốn cao sang, xuống lám thân phận người nghèo nàn, cùng đinh. Thực tế, Cha Người còn uy danh gấp bội vua chúa thế gian. Thế mà Người đã vâng lời nhập thể, để thi hành sứ mạng cứu nhân độ thế.
Vâng lời nhập thể.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài đã tác tạo muôn vật, muôn loài, và nhất là dựng nên con người. Nhưng con người sớm vong ân bội nghĩa, phạm tội, chống báng lại Đại Ân Nhân. Nhưng Tình Yêu Chúa không hề suy giảm, đã cho Con Một xuống thế ở giữa loài người, để cứu thoát khỏi ách phạt muôn đời. Người Con vâng phục và khiêm nhường nhập thế trong cảnh cơ hàn. Thái độ này mới có thề xóa nhòa đi tội bất tuân và kiêu ngạo của tổ tông loài người. Nên ngày Chúa Giêsu giáng sinh trở nên ngày hồng phúc cho toàn thể nhân loại.
Con người thì thường trái lại: “Con vua thì được làm vua, con của sãi chùa thì quét lá đa.” Mặc nhiên công nhận cái tôn ti trật tự đó, hầu như đúng đắn và hợp tình hợp lý, dù rất phi nhân bản và bất công. Nhưng Thiên Chúa không chấp nhận thói đời đó. Ngay bản thân mỗi người, cũng khó thoát ra khỏi tháp ngà của cái tôi bền vững và độc đoán. Khó thoát khỏi những đam mê hưởng thụ, để quan tâm, giúp đỡ, an ủi và chia sẻ với tha nhân
Vâng lời gánh tội trần gian.
Người Con tinh tuyền, chẳng hề nhuốm tội tình nào, nhưng Người cũng sánh vai với dân chúng tội lỗi, xin ông Gioan Tẩy Giả làm Phép Rửa: “Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa” ( Lc 3, 21 ). Khi xin ông Gioan làm phép rửa, Người đồng hành cùng dân Người trên đường sám hối. Người khiêm nhường tự hạ, bên cạnh những kẻ gian manh, dâm ô, độc ác. Đồng thời, Người cũng chính thức gánh nhận tội lỗi loài người, để rồi hóa giải bằng chính cuộc Khổ Nạn sau này. Người chính là con chiên hy tế chuộc tội với Chúa Cha.
Con người thì lại chọn thái độ “mackeno” ( mặc-kệ-nó ) của quan Philatô: Rửa tay vô trách nhiệm. Dửng dưng, vô cảm với tội ác, với gian manh, với thói xấu và với cả sự đau khổ của đồng loại. Cơn cám dỗ này như chứng bịnh hay lây, đang lan tràn như vũ bão trong xã hội thực dụng, khiến cho lương tâm dần trở nên băng giá với đồng loại. Xa nhau, dần coi nhau như thù địch cần loại bỏ.
Gắn bó mật thiết với Chúa Cha
Người luôn cầu nguyện liên lỷ với Thiên Chúa hằng ngày, tỏ ra mối liên kết gắn bó chặt chẽ với Chúa Cha. Ngay khi đi rao giảng sau này, dù mệt nhọc, dù mải mê chăm lo đoàn dân bơ vơ không người yên ủi, Chúa Giêsu vẫn không hề sao nhãng, dành thì giờ chiều tối, để thiết tha cầu nguyện.
Do vậy, vừa lãnh nhận phép rửa xong, Người liền sốt sáng “cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người, dưới hình dáng như chim bồ câu” ( Lc 3, 22 ). Sự kiện này mặc khải cho toàn dân thấy Người chính là Đấng Messia, chính là Ngôi Hai nhập thể. Đấng mà Dân Chúa hằng mong đợi bao lâu.
Con người trái lại thường kiêu ngạo, tự mãn, vô ơn, không hề nhìn nhận Tất cả đều là hồng ân. Nên không cần cầu nguyện, không cần tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa. Vẫn cậy vào sức mình, cậy vào tài năng và may mắn, con ngưới thường hợm hĩnh hãnh diện về bản thân mình, mà không cần biết ân huệ từ đâu ban cho mình…
Con dấu yêu
Với tấm lòng vâng phục, khiêm nhường và câu nguyện, Chúa Giêsu được nhìn nhận xứng đáng là Người Con dấu yêu. “Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là con yêu dâu của Cha; Cha hài lòng về con” ( Lc 3, 22 ).
Người con hiếu thảo là luôn biết vâng phục theo ý cha. Chúa Giêsu luôn làm theo Thánh Ý Cha. Như khi mới 12 tuổi, Người ở lại rao giàng trong Đến Thờ. Người đặt mối tương quan với Thiên Chúa, bên trên tương quan huyết thống. Luôn luôn dành ưu tiên cho Chúa.
Người con yêu dấu luôn làm đẹp lòng cha. Chúa Giêsu chấp nhận cuộc sống bần hàn, chấp nhận bị xua đuổi, bị đố kỵ, ganh ghét, thù địch, vì không hề sống theo ý riêng, không theo bản năng con người, vốn ham sống sợ chết, ham hưởng thụ, ăn ngon, mặc đẹp, vinh thân phì gia. Hơn nữa, Người còn chấp nhận cuộc đời sóng gió, kết thúc bằng cái chết khổ nhục, để thực hiện hoàn hảo công cuộc cứu rổi loài người khỏi chết lầm than.
Người con yêu dấu luôn biết phụng dưỡng cha, hầu chuyện, gặp gỡ, thăm hỏi, tâm sự với cha. Bằng những buổi cầu nguyện liên lỷ và sốt sắng, Chúa Giêsu luôn hiện hữu bên cạnh Chúa Cha.
Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu cùa Ngài: “Vâng lời đến chết !” ( Đường Hy Vọng, 395 ).
Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng, khi suy nghiệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hạ mình chịu mọi sự, ngớ ngẩn, dốt nát, hiểu lầm sâu độc, suốt 33 năm vì yêu chúng ta” ( Đường Hy Vọng, 510 ).
Lạy Chúa Giêsu, Người bắt đầu sứ vụ bằng khiêm tốn nhận phép rửa, xin dạy cho con biết khiêm nhường hối lỗi, để nhận được sự thứ tha của Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con biết vâng lời và khiêm nhường như Mẹ, để xứng đáng lãnh nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, hầu con thêm sức mạnh chống trả các cơn cám dỗ, mà trung thành đi theo Chúa mãi. Amen.
Dơ bẩn thân xác thì phải lấy nước mà rửa. Dơ bẩn tội lỗi, thì phải rửa bằng ơn thánh. Ai không: TN 1-C92
Dơ bẩn thân xác thì phải lấy nước mà rửa. Dơ bẩn tội lỗi, thì phải rửa bằng ơn thánh. Ai không dơ bẩn, thì không phải rửa. Ai không vướng mắc tội đời, thì cũng khỏi phải đến tòa giải tội để được rửa bằng ơn thánh của Chúa Thánh Linh. Vì lúc ấy, Chúa chưa lập bí tích thanh tẩy, cho nên, bằng một việc làm tượng trưng, Thánh Gioan mời gọi mọi người hãy đến bờ sông Jordan. Ai có lòng hối hận ăn năn, nhận mình là kẻ tội lỗi, thì đến với ngài; xuống sông, và bằng một hành động rất biểu trưng, Thánh Gioan sẽ dìm họ xuống nước, bước lên, và thế là họ được sạch. Trong số những người đến đó, có Chúa Giêsu. Nguy hiểm, nguy hiểm quá! Chúa Giêsu cũng có tội bà con ơi. Vì Ngài cũng đến để Gioan làm phép rửa cho. Không có tội, thì rửa làm gì? Đúng! Chúa Giêsu có tội; còn nhiều tội nữa là khác. Nhưng không phải là tội của Ngài, mà là tội của cả nhân loại. Vì Ngài chính là CHIÊN THIÊN CHÚA, Đấng gánh tội trần gian mà lị. Hành động đến với Gioan để chịu phép rửa ấy nhắc nhở chúng ta.
1- Hãy khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi của mình.
Đừng ai tự mãn bảo mình vô tội. Đã là kiếp người, có bước chân nào mà không nhuốm bụi đời. Vả nữa, tội Adong hôm nào đã làm cho con người lúc nào cũng dễ dàng đi xuống băng hoại. Hình ảnh Chúa Giêsu, bước xuống dòng sông, muốn nói cho chúng ta điều đó. Ta đừng nhìn sang người khác, để so sánh với mình. Đừng bảo rằng: “Nhìn ngang và nhìn xuống, mình còn đạo đức hơn ối người”. Có thiếu gì người, khi được nhắc là đi xưng tội, đã thản nhiên nói rằng: “Có tội gì đâu mà phải xưng”. Đấy cũng chỉ là cách trốn chạy chính mình mà thôi. Họ có biết đâu rằng: Họ đang phạm một tội rất lớn: Đó là tội cứng lòng. Cứng lòng là tội nặng nhất, mà Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo. Tội lỗi là một lớp cáu ghét, làm lu mờ và nhơ nhớp khuôn mặt linh hồn. Quá nhiều lớp cáu ghét bám dầy, sẽ làm biến dạng khuôn mặt linh hồn, thành dị dạng và khủng khiếp.
2- Nhận ra tội lỗi của mình, còn phải bước ra và bước tiếp.
Nhận thấy tội lỗi của mình không thôi, chưa đủ. Điều quan trọng cần làm ngay sau đó, là phải bước ra. Nhưng bước ra sao được, khi còn muôn vàn sợi dây cột trói. Bước ra khỏi môi trường, hay gọi cách khác là dịp tội là điều cần thiết. Bước ra rồi, phải bước tiếp về phía Chúa. Tội đời mình đã hằn sâu trong linh hồn, sao mình có thể gội rửa được? Chỉ còn mình Chúa, một mình Chúa thôi, là Đấng duy nhất, có thể rửa sạch được tội đời cho mình. Chúa đã làm gương và còn hơn thế nữa. Chúa đã gặp hẹn ta nơi tòa giải tội, nơi dòng sông của ơn thánh, để rửa hồn ta.
Gợi ý suy niệm
1- Có lúc nào, bạn đã nghĩ mình là người vô tội? 2- Bạn có can đảm tìm đến với Chúa để được rửa sạch linh hồn?
Qua ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi sống hiếu thảo với Chúa Cha noi gương Đức Giê-su: TN 1-C93
Qua ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi sống hiếu thảo với Chúa Cha noi gương Đức Giê-su là Con yêu dấu luôn làm hài lòng Cha.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 3,15-16.21-22
(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: Biết đâu ông chẳng phải là Đấng Mê-si-a ! (16) Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa”. (21) Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa. Sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra (22) và Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay được chia làm hai phần: Trong phần đầu: dân chúng thắc mắc và nghĩ Gio-an có lẽ là Đấng Mê-si-a. Nhưng ông đã khiêm tốn phủ nhận điều này và còn giúp họ phân biệt giữa phép rửa bằng nước sông do ông làm khác với phép rửa trong Thánh Thần và Lửa do Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện. Trong phần hai: Khi Đức Giê-su vừa chịu phép rửa do Gio-an thực hiện thì một cuộc Thần hiện đã xảy ra: Chúa Cha giới thiệu Đức Giê-su chính là Người Con độc nhất được sinh ra trước mọi thời gian và được Chúa Cha rất mực yêu quý..
3. CHÚ THÍCH:
- C. 15-16:
+ Đấng Mê-si-a: Mê-si-a trong tiếng Do thái có nghĩa là Đấng Thiên Sai. Từ Mê-si-a này mang nặng ý nghĩa về mặt chính trị ái quốc cực đoan. Mê-si-a đồng nghĩa với Chris-tos trong tiếng Hy lạp hay Ki-tô tiếng La tinh, nghĩa là “Người được Chúa xức dầu” (x. Lc 22,67; 23.3). Về sau tại An-ti-o-ki-a, lần đầu tiên các tín hữu đã được gọi là Ki-tô hữu, nghĩa là người thuộc về Đức Ki-tô (x Cv 11,26).
1. LỜI CHÚA: “Con là Con Cha. Cha hài lòng về Con” (Lc 1,35)
2. CÂU CHUYỆN: SỨC MẠNH CỦA GƯƠNG SÁNG
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã!” Cô bé, vốn được bà mẹ đạo đức huấn luyện từ nhỏ về thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ, liền đáp: “Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin hãy để cho cháu được cầu nguyện trước đã”. Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: “Bây giờ thì bác sĩ có thể cho cháu bắt đầu ngủ được rồi đấy!” Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau 30 năm xa Chúa. Không biết sức mạnh nào ở nơi cô bé yếu đuối kia đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của em!
3. SUY NIỆM:
1) SỐNG NHƯ CON HIẾU THẢO LUÔN LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA CHA:
Ngày lễ hôm nay nhắc nhở ta một điều rất quan trọng mà chúng ta thường hay quên, là cần ý thức và sống ơn gọi đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội: Trở nên con của Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Phép rửa tội không chỉ là một lễ nghi để cử hành, nhưng còn là khởi đầu một cuộc sống mới kéo dài trong suốt cuộc đời người tín hữu. Chúng ta vui mừng vì được tái sinh làm con Thiên Chúa. Ta phải sống thế nào để Thiên Chúa cũng xác nhận chúng ta như đã xác nhận Đức Giê-su: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
2) LÀ CÙNG CHẾT VÀ SỐNG LẠI VỚI ĐỨC KI-TÔ:
Hôm nay Hội thánh cũng muốn nhắc nhở các tín hữu chúng ta về những cam kết mà chúng ta đã hứa trong ngày chịu phép rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, diễn tả mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su, Hội thánh nhắc nhở các tín hữu cũng phải chết đi cho những gì thuộc về ma quỉ, thế gian cùng các đam mê tội lỗi bất chính để cùng được sống lại một đời sống mới làm con Thiên Chúa. Chết đi cho các thói hư cụ thể là lọai trừ óc bè phái cục bộ, tính tự cao khi cho mình là hay và chê bai anh em. Từ bỏ những việc làm xấu xa như: tham ô hối lộ, ăn cắp của công, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu… Loại bỏ những ý nghĩ đen tối, những lời nói hành nói xấu, vu oan giáng hoạ, kết án kẻ mình không ưa, nói sai sự thật. Loại bỏ cả những sự tọc mạch, soi mói vào đời tự kẻ khác…
3) NHỮNG CÁCH LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY:
Làm chứng cho Chúa là sứ vụ phát xuất do bí tích rửa tội và Thêm sức. Nhờ Thần Khí của Đức Giê-su Phục Sinh, người tín hữu có bổn phận làm chứng cho Đức Giê-su như sau:
+ Trước hết là sống hiếu thảo với Chúa Cha noi gương Đức Giê-su là Con yêu dấu luôn làm hài lòng Cha (x. Mt 3,17), bằng việc kết hiệp qua kinh nguyện hằng ngày, luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha (x. Dt 10,9; Mt 26,39), tích cực góp phần xây dựng xã hội mình đang sống ngày một an tòan sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, để dần dần trở thành “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1-4) theo thánh ý Thiên Chúa.
+ Làm chứng cho Đức Giê-su không nhất thiết đòi chúng ta phải nói về Chúa, nhưng là thực hành đức tin bằng đức cậy, chiếu sáng đức ái qua cuộc sống hòa hợp với mọi người chung quanh.noi gương em bé trong câu chuyện trên, tuy không nói nhiều về Chúa, nhưng chính gương sáng cầu nguyện với lòng tin cậy phó thác của em đã có sức lay động đức tin nguội lạnh của viên bác sĩ giải phẫu cho em.
+ Làm chứng cho Đức Giê-su đòi chúng ta phải thay đổi con người cũ bằng một đời sống đổi mới trong Thánh Thần. như lời thánh Phao-lô: "Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 1-2).
+ Làm chứng cho Đức Giê-su là chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm cho “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” (Mt 6,9-10), bằng sự cầu nguyện kết hiệp, bằng thái độ ứng xử thân thiện, lời nói hòa nhã vui vẻ, việc làm phục vụ khiêm tốn, nhất là năng sự thăm viếng chia sẻ cơm bánh và phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi như Lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN:
Khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được công nhận là con yêu dấu của Chúa Cha như Đức Giê-su xưa. Người cũng truyền cho các môn đệ phải làm chứng cho Người (Cv 1,8). Vậy ngày nay các tín hữu cần làm chứng cho Đức Giê-su bằng cách nào?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Xin cho chúng con đừng cố làm cho mình nổi trội hơn anh em. Xin cho chúng con luôn ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, không la mắng to tiếng với tha nhân. Xin cho chúng con biết chọn phần ít hơn người khác về quyền lợi, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ nhiều hơn cho họ. Xin cho chúng con biết nói ít làm nhiều. Nhờ đó, “hữu xạ tự nhiên hương”: Chúng con sẽ chiếu ánh sáng tình yêu của Chúa trước mặt thiên hạ, và qua chúng con, anh em lương dân sẽ nhận biết yêu mến Chúa để cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, mới thật sự là Đấng Thiên Sai mà dân Israel đã mong đợi từ: TN 1-C94
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, mới thật sự là Đấng Thiên Sai mà dân Israel đã mong đợi từ lâu.
Lm LG Đặng Quang Tiến
Lc 3:15-16.21-22: 15 Dân ngong ngóng và mọi người suy tính trong lòng về Yoan: Có khi chính ông là Ðức Kitô chăng. 16 Nên Yoan đáp lại với mọi người rằng: "Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước! Sẽ đến Ðấng quyền thế hơn ta, ta không đáng cởi quai dép Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần và lửa.
21 Xảy ra là trong khi toàn dân chịu thanh tẩy, và Ðức Yêsu cũng chịu thanh tẩy và đang cầu nguyện, thì trời mở ra, 22 và Thánh thần lấy hình dáng thể xác như con chim câu, đáp xuống trên Ngài, và tự trời một tiếng phát ra:Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ
Bài tin mừng Chúa nhật nầy gồm các câu thuộc hai phân đoạn khác nhau trong 3:1-4:13. Câu 3:15-16 thuộc phân đoạn đầu 3:1-20 nói về sứ vụ rao giảng và hoạt động của Gioan; các câu 3:20-21 thuộc về phân đoạn tiếp theo 3:21-4:13 nói về các biến cố của Chúa Giêsu trước khi Ngài đi rao giảng công khai. Lời rao giảng của Gioan gồm ba đoạn liên tiếp nhau (3:7-9; 10-14; 15-17), và đoạn thứ ba liên quan đến Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ đến theo lời của ông (3:15-17). Sứ vụ của Gioan là loan báo việc Chúa Giêsu đến, và sứ vụ nầy chấm dứt khi ông bị bỏ tù. Tuy nhiên biến cố nầy được tường thuật và đặt trước trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:18-20). Lời tiên báo về Đấng sẽ đến được thực hiện khi Chúa Giêsu đến và chịu phép rửa. Như thế hai phân đoạn 3:15-17 và 3:21-22 liên hệ rất chặt chẽ với nhau.
Loan Báo Về Đấng Thiên Sai (cc. 15-18)
(Xem thêm bài chú giải Chúa Nhật III Mùa Vọng C, Lc 3:10-18).
Dân chúng đặt vấn đề với Gioan về Đấng Thiên Sai. Họ trông đợi đấng thiên sai, và họ nghĩ Gioan là đấng ấy. Động từ prosdokaō, “trông đợi” trong Luca, mang đặc tính cánh chung, và gắn liền với Chúa Giêsu như là Đấng Thiên Sai (3:15; 7:19.20; 8:40; 12:46). Không chỉ dân chúng mà cả Gioan cũng mong đợi. Dân chúng đến thắc mắc với Gioan, trong khi Gioan sai môn đệ đến hỏi trực tiếp Chúa Giêsu (7:19.20).
Sang phần nầy, Luca dùng laos, “dân chúng” (3:15.18) thay vì ochlos, “đám đông” (3:7.10). Có gì khác biệt? - Từ laos, “dân chúng” chỉ dân Israel như là dân Chúa chọn. Họ là những người trông đợi Chúa Giêsu (3:15.18); trong khi ochlos “đám đông” chỉ “con cháu của Abraham” xét theo máu huyết (3:8). Họ cần hối cải qua phép rửa của Gioan (3:7.10). Luca phân biệt rất rõ ràng khi dùng hai từ nầy. Từ “đám đông” mang ý nghĩa rất tổng quát và trung tính. Như “dân chúng”, họ cũng đi theo và lắng nghe Chúa Giêsu giảng dạy (6:17). Tuy nhiên “đám đông” đã đứng bên cạnh các thượng tế trong việc tố cáo Chúa Giêsu (23:4), và họ đã nhận ra tội của mình (23:48). “Dân chúng” thì không như thế. Họ gắn liền với việc phụng thờ Thiên Chúa (1:10), được Thiên Chúa viếng thăm và giải thoát (1:68.77), được thiên sứ báo tin Con Thiên Chúa giáng sinh (2:10.31.32tt). Họ rất gắn bó với việc nghe Chúa Giêsu rao giảng (19:48; 21:38). Họ thường ca ngợi Thiên Chúa (18:43). Các thượng tế và luật sĩ thường sợ “dân chúng” (19:48; 20:6.19), chứ không phải “đám đông”. “Kardia”, “tim”, trọng tâm của đời sống tinh thần, nguồn và nơi phát xuất ý nghĩ, đam mê, ước muốn, tình cảm… Sự trông chờ và ý nghĩ của dân chúng hình thành từ trong con tim của họ.
Đấng Christos, “Kitô”, lúc nầy đối với dân chúng mới là sự nhận dạng khởi đầu. Căn tính của Ngài chỉ được mặc khải toàn vẹn trong cuộc thương khó (24:26.46). Đấng Kitô nầy tỏ mình dần dần cho mọi đối tượng: các mục đồng (2:11), Simêon (2:26); dân chúng (3:15), ma quỉ (4:41), Phêrô (9:20), các luật sĩ (20:41), hội đồng công tọa, các thượng tế (22:67; 23:35), người trộm cướp (23:39). Tuy nhiên không phải ai cũng nhận ra Ngài.
Gioan trả lời cho toàn thể dân Israel, pasin, chứ không chỉ những người hiện diện lúc ấy (c. 16). Câu nầy gồm hai vế đối xứng và tương phản nhau, men…. dé, “Tôi, tôi thanh tẩy anh em bằng nước” - “ Ngài, Ngài thanh tẩy anh em trong Thánh Thần và lửa”. Xen vào giữa hai vế là câu “Ngài quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”. Câu giữa nầy liên kết hai nhân vật chính lại: Gioan và Chúa Giêsu. Với cấu trúc nầy, Luca không nhắm đến sự so sánh giữa hai phép rửa cho bằng sự cao trọng hơn của Chúa Giêsu đối với Gioan; và như là kết quả kéo theo, phép rửa của Ngài cũng cao trọng hơn phép rửa của Gioan. “Đấng quyền thế hơn”, ho ischyoteros, có mạo từ chỉ định, nên đọc và quy chiếu về “Đấng Kitô”, cũng có mạo từ xác định ở câu 15. Gioan muốn chỉ “Đấng Kitô” ấy mà dân chúng mong đợi phải là “Đấng Quyền thế hơn”, chứ không phải là chính ông. “Đấng Quyền thế”, ischyros, trong Cựu ước là chính Thiên Chúa (Đnl 10:17; 2 Mcb 1:24). “Đấng quyền thế hơn” nầy chỉ biết được là Đấng nào khi quy chiếu lời loan báo nầy về câu 3:22, trong đó Thiên Chúa tuyên bố Chúa Giêsu là “Con Ta” (3:22; Cv 19:4). Phần Gioan, ông cũng “quyền thế” trong sứ vụ. Và quyền nầy chỉ là do sứ vụ lãnh nhận từ Thiên Chúa (3:2). Bởi đó, giữa ông và Chúa Giêsu có một khoảng cách chênh lệch rất lớn, được diễn tả bằng hình ảnh “không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Động từ erchomai, ở thì hiện tại mà chỉ tương lai, mang tính trông chờ thiên sai. Về việc thanh tẩy, động từ baptizō, “thanh tẩy” trong vế đầu chỉ việc thanh tẩy Gioan thực hiện, ở thì hiện tại và đã trở thành quá khứ khi Chúa Giêsu đến; trong khi đó, việc thanh tẩy mà Chúa Giêsu ban ở thì tương lai đã trở thành hiện tại đối với Luca. Như thế, khi Đấng quyền thế hơn Gioan đến, sứ vụ của Gioan chấm dứt và mọi sự khởi đầu một cách hoàn thoàn mới. Đó thật là một Tin mừng cho toàn dân (3:18).
Phép Rửa của Chúa Giêsu (cc. 21-22)
Bản văn của Luca dựa trên Marcô, tuy nhiên có những khác biệt: - Tên Gioan không được nêu lên, mà tên của Chúa Giêsu (c. 21b); - Dân chúng chịu thanh tẩy đặt song song với việc thanh tẩy của Chúa Giêsu; - Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi Thánh Thần ngự xuống. Có thể giải thích ý hướng của Luca qua các đặc điểm nầy là ông chỉ muốn tập trung bản tường thuật vào Chúa Giêsu mà thôi.
Câu 21 gồm hai vế song song liên kết nhau bằng liên từ kai, “và”. Egeneto dè, “Xảy ra là”, Luca bắt đầu một trình thuật mới về Chúa Giêsu; trước đây ông cũng đã làm như thế khi khởi đầu trình thuật về Gioan (3:2). Giới từ dùng với dative của một động từ ở thể nguyên mẫu chỉ sự xảy ra đồng thời: en tō baptisthēnai = hôti ebaptisthē (BDF, 404,2); nghĩa là khi dân chúng chịu thanh tẩy, Chúa Giêsu cũng chịu thanh tẩy. Xem thêm cách dùng tương tự trong Luca: 8:40; 9:34.36; 11:37; 14:1; 19:15; 24:30; Cv 11:15. Động từ baptizō trong cả hai trường hợp đều ở thì thụ động. Tên “Jēsous” được đặt vào đây để nhấn mạnh. Luca muốn nhấn mạnh là Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng “tội nhân” như dân chúng, và cùng nhận một thanh tẩy như họ; tuy nhiên cách trình bày, “và Chúa Giêsu cũng chịu thanh tẩy”, cho thấy Ngài đứng riêng khỏi nhóm của họ; qua đó ngụ ý là Ngài vẫn khác họ vì Ngài không có tội.
Chi tiết Chúa Giêsu cầu nguyện chỉ có trong Luca. Động từ proseuchomai, “cầu nguyện” ở phân từ hiện tại chỉ sự đồng thời: trời mở ra trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện; tuy nhiên việc cầu nguyện đã bắt đầu trước. Đối với Luca, cầu nguyện là điều kiện để có thái độ thích ứng trước mỗi lần tiếp xúc với Thiên Chúa (3:21); Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi biến hình (9:28tt). “Trời mở ra” thuộc loại văn khải huyền (Êzêk 1:1). Marcô nói là Ngài “đã thấy” (1:10), nghĩa là một thị kiến. Trái lại, Luca mô tả chuyện nầy như một sự kiện lịch sử. Về “trời”, ouranos, trước đây Luca chỉ nói các thiên sứ xuất hiện “trên trời” và “đi khỏi vào trong trời” (x. 2:13.15). Bây giờ “khoảng trời” ấy của Thiên Chúa mở ra. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã làm cho trời mở ra cho trần gian và Thiên Chúa lên tiếng với con người.
Câu 22 gồm hai phần ghi lại hành động của Thánh Thần và Thiên Chúa trên Chúa Giêsu.
Thánh Thần trong “hình dáng xác thể”, sōmatikos, ngự xuống trên Chúa Giêsu (c. 22a). Vì mô tả “trời mở ra”như một sự kiện lịch sử, nên Luca cũng mô tả Thánh Thần “trong hình dáng thể xác” để dân chúng có thể thấy được; trong khi với Matthêô và Marcô, chỉ Chúa Giêsu thấy sự kiện nầy thôi trong một thị kiến (Mt 3:16; Mc 1:10). Chúa Giêsu chỉ ban phép rửa “trong Thánh Thần và lửa” (3:16) sau khi Ngài đã lãnh nhận Thánh Thần. Phép thanh tẩy Chúa Giêsu ban liên hệ đến “anh em”, hymas, là toàn thể dân Israel. Luca sẽ xác nhận điều nầy trong Cv 1:15 và 11:6. Thánh Thần được ban khi Chúa Giêsu đã sống lại.
Lời dẫn vào phần hai “Từ trời có tiếng phán ra” (c. 22b) chỉ lời Thiên Chúa sắp nói về Con của Ngài. Câu “Con là Con chí ái Ta”, có hậu cảnh là Thánh vịnh 2:7: “Con là Con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con”, mặc khải điều đã ẩn dấu cho đến lúc nầy. Thiên Chúa đã dùng một trong những tương quan gắn bó nhất của con người là cha-con để diễn tả cách ẩn dụ tương quan của Ngài với Chúa Giêsu, “Con là Con Ta”. Tính từ agapētos, “chí ái”, chỉ dùng cho Chúa Giêsu mà thôi. Eudokeō, nghĩa của động từ nầy rộng hơn cách hiểu thông thường là “hài lòng” về mặt tình cảm. Nó bao hàm ý tưởng sự hài lòng về một hành động hay một quyết định. Bản dịch “kẻ Ta đã sủng mộ” (Nguyễn Thế Thuấn) dễ bị hiểu cách khác. Cách dịch nầy hiểu Chúa Giêsu là túc từ trực tiếp. Trong khi đó, nguyên bản là en soi eudokēsa, “trong con Ta hài lòng”. Câu nầy không có ý nói Thiên Chúa hài lòng về Chúa Giêsu trong thâm tình Cha Con cho bằng Ngài hài lòng trong quyết định về Con Một Ngài như là Đấng Thiên Sai. Sự hài lòng nầy bao gồm tất cả con người của Chúa Giêsu và việc Ngài làm theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Câu Mt 12:18 nói diễn giải nhiều hơn về sự hài lòng nầy: “Này tôi tớ Ta, kẻ Ta đã chọn, kẻ chí ái mà hồn Ta sủng mộ, Ta sẽ đặt Thần khí Ta trên Ngài, và Ngài sẽ rao truyền chính đạo cho muôn dân”. Luca dùng động từ nầy thêm một lần nữa trong 12:32, trong đó sự hài lòng nầy đi kèm theo quyết định là “ban Nước Trời cho các ngươi” (12:32). Vậy điều làm Thiên Chúa hài lòng liên quan đến sự cứu độ của con người: Ngài ban Con Một của Ngài cho trần gian được cứu độ.
Lời tuyên bố của Thiên Chúa và hành động ngự xuống của Thánh Thần trong đoạn 3:21-22 kết thúc chủ đề “thanh tẩy” liên kết đoạn nầy với đoạn 3:15-16; đồng thời lời tuyên bố nầy là câu trả lời dứt khoát cho thắc mắc của dân chúng về Đấng Kitô (c. 15). Gioan đã trả lời cho dân chúng, nhưng ông chưa xác nhận cách rõ ràng Đấng đến sau ông là ai. Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa mới thật sự là Đấng Thiên Sai mà dân Israel đã mong đợi từ lâu.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong: TN 1-C95
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại.
1. Sông Giođan
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển; rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển, có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng Giođan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông.
Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này. Khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Giođan...” (Gr 12,5; 49,19; 50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).
2. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Ngôi Lời Thiên Chúa từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy ?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người !
3. Thời đại ân sủng
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng lời tuyên bố: “Đây là con Ta yêu dấu” và sai phái Thánh Thần hiện xuống dười hình chim bồ câu.
Ba dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
a. Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại ( St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” ( Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là, con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
b. Dấu hiệu 2: Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế viết:Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).
c. Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “ Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu độ con người.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.
Chúa Giêsu không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.
Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đến với mỗi người, ban cho chúng ta cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công trình cứu độ.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
Như chúng ta đã biết: Geoge Wasinhton là vị tướng tài ba và là vị tổng thống đầu tiên của Hoa: TN 1-C96
Như chúng ta đã biết: Geoge Wasinhton là vị tướng tài ba và là vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Thế nhưng, rất ít người biết ông còn là một tấm gương sống động về lòng hiếu thảo đối với người mẹ của mình.
Sau những trận chiến cam go nhất, cũng như giữa những công việc bề bộn và nặng nề nhất của một vị nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành thời giờ về thăm hỏi và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già. Một hôm mẹ đã hỏi ông như sau: Tại sao con dành nhiều thời giờ thăm nom mẹ như vậy? Ông liền trả lời: Thưa mẹ, ngồi bên mẹ để lắng nghe mẹ nói thực không phải là việc mất giờ. Chính sự bình thản và lòng tốt của mẹ dạy con muốn tiếp tục sống.
Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa Đức Kitô với Chúa Cha, cũng như giữa chúng ta với Thiên Chúa. Trước hết là mối liên hệ giữa Đức Kitô và Chúa Cha.
Như chúng ta đã biết Đức Kitô chính là người con duy nhất của Chúa Cha. Vì vâng phục Ngài đã xuống thế làm người để cứu độ chúng ta. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, nỗi ưu tư số một của Ngài là chu toàn thánh ý Chúa Cha, đến nỗi thánh Phaolô đã phải viết: Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chính vì thái độ vâng phục vô điều kiện này, mà hôm nay bên bờ sông Giođan, cũng như mấy năm sau trên đỉnh Taborê, chính Chúa Cha đã tuyên phong Ngài: Này là con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về con. Hãy vâng lời Ngài.
Còn mối liên hệ giữa chúng ta và Thiên Chúa thì sao? Như chúng ta đã biết nhờ công nghiệp tử nạn của Đức Kitô qua dòng nước của bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy xoá khỏi mọi dấu vết tội lỗi, lấy lại được địa vị làm con cái Thiên Chúa. Thế nhưng để xứng đáng làm con cái Ngài, thì chúng ta cần phải vâng phục, cần phải chu toàn thánh ý Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta.
Thực vậy, một người con ngoan sẽ không phải là một người con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại phải là một người con mau mắn vui vẻ tuân giữ những điều cha mẹ chỉ dạy. Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Để xứng đáng làm con cái Chúa, chúng ta cũng phải vui vẻ và mau mắn thực thi thánh ý Ngài. Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười điều răn Ngài truyền cho Maisen trên núi Sinai, qua những điều Ngài truyền dạy trong Kinh Thánh, nhất là qua giới luật yêu thương của Phúc Âm. Cũng như qua những điều Giáo Hội, thay quyền Chúa mà chỉ dạy cho chúng ta.
Thế nhưng, nếu như lúc này Ngài nhìn mỗi người chúng ta, liệu Ngài có thể nói lên như xưa Ngài đã nói với Đức Giêsu bên bờ sông Giođan: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng hay không?
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu Châu, đó là sự kiện con số những người tuyên: TN 1-C97
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu Châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội Công Giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào các Bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghĩa với chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.
Nhìn chung, thế giới Tây phương vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Giođan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵng sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người Kitô hữu được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Anh chị em thân mến,
Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu Thánh Giá trên người, chúng ta làm dấu Thánh Giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo Thánh Giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo Thánh Giá trên người, và ước gì Thánh Giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì Thánh Giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua Thánh Giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chúng ta, đó là giá trị của Tin Mừng.
Đoạn Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện như là vị cứu tinh của thời đại TN 1-C98
Đoạn Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện như là vị cứu tinh của thời đại mới. Gioan lúc này đang làm phép rửa thống hối. Dân chúng đã từng thắc mắc về ông và tự hỏi: Ông có thể là vị cứu tinh của dân tộc, là Đấng Messia từng được mong đợi hay không? Nhưng chính Gion đã trả lời thắc mắc của dân chúng bằng cách giới thiệu Chúa Giêsu trong chính sứ vụ của Người. Đang khi ông chỉ là người làm phép rửa trong nước, thì Chúa Giêsu lại là người làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Lời giới thiệu của Gioan cho chúng ta thấy là thời đại cũ, thời chuẩn bị, thời tìm đường đã chấm dứt và thời mới, thời chính yếu đang đến.
Ở đây Chúa Giêsu đã không chỉ được giới thiệu bởi Gioan mà còn bởi chính Thiên Chúa Cha qua sự kiện siêu phàm: Trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và tiếng phán từ trời. Người ta quan niệm rằng sau khi con người phạm tội thì trời và đất như đóng kín lại với nhau. Thiên Chúa Chúa không còn đi lại gần gũi với dân của Ngài như ngày xưa nữa. Nay với Chúa Giêsu, thì trời không còn khép kín, nhưng đã được mở ra như một điều kiện dọn đường cho Thánh Thần ngự xuống. Hình ảnh gợi lên cho chúng ta lòng mơ ước của dân Chúa vào thời cứu chuộc, thời Thiên Chúa sẽ xé trời mà xuống.
Trong bối cảnh này trời mở ra, tức là giờ khai mạc thời đã được loan báo xưa kia, bây giờ đã đến, một giao ước mới bắt đầu dưới quyền lực của Thánh Thần. Trời không còn đóng kín nữa. Thời của những kỳ công cho dân Chúa lại xuất hiện, mở ra do ý muốn của Thiên Chúa, mà bí ẩn siêu việt của Ngài để thiết lập quan hệ Cha-con với dân của Ngài, điều dân Chúa mong đợi nay đã đến với Chúa Giêsu.
Thánh Luca đã ý nhị đặt Chúa Giêsu ở giữa dân của Người, để Người ở đâu thì có dân của Người ở đó. Chúa Giêsu vô tội nhưng lại ở giữa những kẻ xưng thú tội lỗi mình. Hình ảnh Chúa Giêsu là tôi tớ Giavê, Đấng gánh tội trần gian thật là rõ nét ở đây.
Sau cùng với sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống và tiếng nói xuất phát từ trời: Này là Con Ta yêu dấu. Tất cả đã nói lên một sự tấn phong, công nhận Người là Con Thiên Chúa, cũng như là Đấng cứu thế muôn dân mong đợi, và rồi từ đó, khởi đầu cho sự nghiệp và công trình của Người.
Là Kitô hữu, cùng với bí tích Rửa tội và bí tích Thêm Sức, chúng ta đã thực sự dấn thân để xây dựng một thời đại mới, một trật tự mới, để khuôn mặt Giáo Hội luôn tươi trẻ và công cuộc cứu chuộc của Đức Kitô được luôn tiếp diễn hay không?
Kitô hữu ngày nay biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; nhưng những người ngày xưa như dân TN 1-C99
Kitô hữu ngày nay biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; nhưng những người ngày xưa như dân Bêlem, dân làng Nadarét và cả những người nghe Đức Giêsu rao giảng, đều không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Họ đã đối xử với Đức Giêsu như một con người. Vì thế, khi Đức Giêsu mặc khải Ngài ngang hàng với Thiên Chúa thì Ngài bị người ta kết án tử hình. Đối với người thời đó, không có chuyện Thiên Chúa ba ngôi vị, nên chẳng có chuyện Thiên Chúa nhập thể.
Đức Giêsu là con của Đức Maria ở Nadarét. Ngài đã được sinh trong chuồng chiên cừu ở Bêlem khi cha mẹ Ngài không tìm được chỗ qua đêm. Ngài sinh ra như một người nghèo hèn nhất trong thiên hạ. Không ai biết chân tướng của Ngài. Có lẽ cả Đức Maria và thánh Giuse cũng chỉ biết Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, là người của Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Người ta chỉ biết Thiên Chúa là ba ngôi vị sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài ở Nadarét như tất cả những người Do Thái thời đó. Ngài hành nghề lao động như bao người nghèo. Tin về Gioan con ông Dacaria rao giảng làm phép rửa sám hối đến làng Nadarét, chắc Đức Giêsu không phải là người duy nhất từ Nadarét muốn đi nhận lãnh phép rửa sám hối với Gioan. Có lẽ Ngài đã xin Đức Maria, và được sự đồng ý của Mẹ, Ngài đã lên đường tới sông Giordan. Ngài chờ đợi tới phiên mình. Ngài cũng gục đầu sám hối như bao người. Ngài cảm thấy mình liên đới với con người tội lỗi. Ngài thống hối xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tất cả mọi người. “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian”. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài gánh tội trần gian.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài sống ở Nadarét, vì Ngài không thấy Thiên Chúa muốn Ngài làm điều gì đặc biệt. Với biến cố này, Thiên Chúa thúc đẩy Ngài tới với Gioan để nhận phép rửa sám hối. Sau khi lãnh nhận phép rửa sám hối, Thánh Thần Thiên Chúa đã thúc đẩy Ngài vào sa mạc ăn chay cầu nguyện (Mt.4, 1tt). Ngài cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Đức Giêsu là một người chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, nghĩa là, Ngài cũng chấp nhận “đi tìm ý Thiên Chúa” như tất cả mọi người. Cũng chính trong bầu khí này mà người ta hiểu tại sao Ngài lại bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Ngài làm sai ý của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã chống lại. Đức Giêsu đã chiến thắng.
Đức Giêsu cũng đã phải nhận định xem mình có nên chịu phép rửa hay không, vì Ngài thấy mình đâu có tội lỗi gì để mà phải nhận lãnh phép rửa sám hối. Đức Giêsu đã muốn liên đới với con người, với tội nhân, nên Ngài đã đi nhận lãnh phép rửa. Hành vi này của Ngài, đã được Thiên Chúa chuẩn nhận. “Khi Ngài đang cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim câu. Và có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con’”.
Hành vi Đức Giêsu nhận lãnh phép rửa sám hối, làm đẹp lòng Thiên Chúa. Khiêm tốn, liên đới với người nghèo và người tội lỗi, là cung cách hành xử của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã thực hiện đúng ý Người. Đức Giêsu luôn tìm kiếm ý Thiên Chúa, và một khi thấy thì Ngài thi hành:
Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta (Ga.4, 34),
Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, mà theo ý Cha.
Đức Giêsu luôn tìm kiếm để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Sở dĩ vậy, vì Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người hoàn toàn (Dt.2, 17; 4, 15). Con người không biết nên phải tìm kiếm ý Thiên Chúa, thì cũng vậy Đức Giêsu cũng chia sẻ tính vô tri này của con người, và Ngài cũng phải liên tục tìm biết ý Thiên Chúa.
Khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về chính mình. Đức Giêsu đã nhìn nhận sự thật về chính Ngài, và hơn nữa, Ngài còn tự hạ mình, muốn chia sẻ thân phận của anh em mình vì yêu thương. Hành vi này của Ngài, đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hành vi khiêm tốn, là hành vi chấp nhận sự thật về chính mình, và cũng là hành vi được điều khiển bởi tình yêu. Yêu thương sẵn sàng hy sinh chính mạng sống mình để anh em mình được sống.
Biến cố Đức Giêsu xuất hiện, đã được Giáo Hội nhìn như một biến cố đặc biệt mà Cựu Ước đã loan báo như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; Hỡi kẻ loan tin mừng cho Yêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật lớn … kìa Thiên Chúa các ngươi đang tới”. Nơi Đức Giêsu, người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Chúa đến cách đặc biệt nơi Đức Giêsu.
Biến cố Đức Giêsu cũng đã chi phối và biến đổi đời sống của những người tin Ngài một cách dứt khoát. Đời sống của Kitô hữu phải dọi theo đời sống của chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu luôn chọn ý Thiên Chúa trên tất cả, Ngài luôn yêu thương anh chị em mình. Ngài yêu họ đến độ dám hy sinh chính mạng sống mình cho họ, nói cho họ biết Thiên Chúa yêu thương họ đến cùng khi cho Con Ngài nhập thể, cho dù khi nói như vậy Ngài bị người ta hiểu lầm và giết Ngài. Đức Giêsu là người đã đến sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Xin cho mỗi người chúng ta sống theo gương Ngài, yêu thương và khiêm tốn, để đem hạnh phúc cho những người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chịu phép rửa khi Ngài thấy mình không có tội? 2. “Đức Giêsu cũng đi tìm ý Thiên Chúa như mỗi con người”. Theo bạn, nói như vậy có hạ phẩm giá của Đức Giêsu không? Tại sao? 3. Bạn thấy Đức Giêsu gần gũi hay xa lạ với bạn? Xin bạn chia sẻ.
Biến cố Chúa chịu phép rửa được cả ba sách Tin mừng nhất lãm kể lại. Sự kiện này đánh dấu TN 1-C100
Biến cố Chúa chịu phép rửa được cả ba sách Tin mừng nhất lãm kể lại. Sự kiện này đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Đức Giêsu. Trình thuật cũng tiên báo về bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài.
Một cuộc lễ phong vương trong khiêm hạ.
Ngày xưa, khi một người sắp được tấn phong làm vua, người ta tiến hành nghi thức gồm 3 giai đoạn: Tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm và nghi lễ phong vương long trọng. Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ tiến trình ấy. Đức Giêsu được dìm xuống để tẩy rửa trong dòng sông Giorđan. Ngài được Thánh Thần xức dầu và đậu xuống trên Ngài. Sau cùng Ngài được chính Chúa Cha tấn phong qua lời tuyên bố ‘Đây là Con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng’. Tuy nhiên cuộc phong vương mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc chỉ là hình bóng. Đức Giêsu sẽ thực sự được tấn phong làm Vua khi Ngài được tắm rửa bằng máu đổ ra trên Thập giá, được xức dầu tẩn liệm trong huyệt đá và được Chúa Cha cho Phục sinh để khai mở một triều đại mới, một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên ơn cứu độ.
Các chi tiết mà thánh Luca mô tả trong Tin mừng hôm nay đều mang chở những nội dung rất sâu xa. Trước hết, sự kiện trời mở ra diễn bày sự giao hòa giữa trời và đất. Theo quan niệm Do thái cổ xưa, Thiên Chúa ở tít trên cao và con người ở sâu tận trong vực thẳm dưới đất thấp. Có cả một khoảng cách mênh mông con người không thể vươn tới. Cửa trời mãi khép lại, và con người luôn bị ngập chìm trong bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì vậy trong Cựu ước, chúng ta nghe những lời rên xiết ai oán của dân Chúa vọng lên cao: “Lạy Chúa xin xé trời mà ngự đến với chúng con”. Khi Đức Giêsu thụ tẩy trong dòng sông Hòa giang, bầu trời đã mở toang ra, và đất trời được giao hòa. Đây là hình tượng tiên báo bí tích Thánh tẩy của Tân ước. Một khi được dìm trong máu Đức Giêsu, chúng ta cũng được tẩy sạch mọi tội lỗi và được nâng lên địa vị làm con cái Chúa. Con người từ đất thấp được vươn lên tới trời cao.
Thứ đến, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Đức Giêsu dưới hình chim bồ câu. Tác giả sách Sáng Thế mô tả Thần Khí như là nguyên lý tác sinh vũ trụ: “ Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2). Khi Đức Giêsu sống lại, Ngài cũng hiện ra với các Tông đồ và ‘thổi hơi ban Thánh Thần’ (Ga 20, 22). Như vậy sự hiện diện của Thần khí chứng thực một cuộc tạo dựng mới, đem đến cho con người luồng sinh khí mới để chúng ta được sống sung mãn trong nguồn ân sủng. Chúa Giêsu lãnh phép rửa để khai mở ơn cứu độ. Ngài bắt đầu đi rao giảng Tin mừng, và đây là Tin mừng giải phóng, phục hồi nơi ta sự sống thần linh. Đó chính là sự tái tạo mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua cái chết và sự phục sinh vinh thắng của Ngài.
Cuối cùng, chúng ta nghe câu tuyên bố của Chúa Cha. Lời Thánh vịnh này cũng được lập lại trong đêm Giáng sinh: “Này là Con Ta yêu dấu, ngày hôm nay Ta đã sinh ra Con”. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa cũng thực hiện một cuộc đản sinh mới nơi loài người. Phụng vụ hôm nay là cao điểm và kết thúc mùa Giáng sinh, mùa chúng ta mừng kính việc Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang của Ngài nơi Đức Giêsu. Hài nhi Giêsu đến trần gian để thực hiện thánh ý Chúa Cha, diễn bày sự giao hòa trời đất, và dẫn đưa chúng ta đi vào một tạo dựng mới, phục hồi cho chúng ta phẩm giá được làm con cái Chúa.
Văn hóa xếp hàng.
Ngày nay, xã hội nói nhiều về loại hình văn hóa này. Sự chen lấn xô đẩy, dành giật nhau là những gì chúng ta thấy xảy ra nhan nhản hằng ngày. Người văn minh rất khó chịu khi nhìn vào những cảnh tượng ấy. Nhiều người vẫn còn nhớ thời bao cấp, chúng ta phải xếp hàng rồng rắn có khi cả ngày mới mua được vé xe đò hay mua được vài ba ký lương thực theo chế độ tem phiếu. Nhưng không phải chỉ chúng ta mà hơn 2000 năm trước đây, Đức Giêsu đã từng đứng xếp hàng bên dòng sông Giorđan. Có điều khá lạ lùng, là Ngài đứng chung với những người tội lỗi để xin thụ tẩy theo lời mời gọi của Thánh Gioan tiền hô. Gioan đã từng tuyên bố cho dân chúng: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian”. Thế thì tại sao Con Chiên vô tội ấy lại lặng lẽ đứng xếp hàng, chung với các tội nhân. Đây là một nghịch lý khó hiểu, không phải chỉ đối với Gioan, nhưng còn đối với tâm thức con người thuộc mọi thời đại.
Bài học ở đây không phải chỉ là bài học về ‘văn hóa xếp hàng’, nhưng Đức Giêsu muốn diễn bày một linh đạo sâu xa khi đứng chung với những con người tội lỗi. Ngài tự mang lấy muôn tội của loài người cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Ngài xin được thanh tẩy trong dòng sông, nhưng chính con sông Giorđan ấy mới cần được thanh tẩy. Nơi con người Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra hết nghịch lý này đến nghịch lý khác. Những nghịch lý đó nhằm diễn bày chân trời yêu thương rộng mở mà Đức Giêsu đã khai sáng. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con một, để ai tin Người Con ấy sẽ được cứu độ” (Ga 3, 16). ‘Văn hóa xếp hàng’ mà Đức Giêsu đi bước trước, hàm chứa bài học sâu xa về sự khiêm hạ sâu thẳm. Ơn gọi làm con.
Nhà văn Flannery O’Connor trong tác phẩm “Dòng sông” có viết một câu chuyện hư cấu với nội dung gần giống với câu chuyện chúng ta nghe trong Tin mừng hôm nay. Một giáo sỹ đang giảng đạo cho dân chúng bên cạnh một con sông nhỏ và mời gọi dân chúng sám hối để thụ tẩy. Một dãy người đông đảo đứng xếp hàng nối đuôi nhau để xin ông làm phép rửa. Chú bé Bavel cũng đứng trong dãy người chờ đến lượt mình. Vị giáo sỹ dìm đứa bé xuống nước và làm nghi thức, sau đó xách cổ đứa bé lôi lên khỏi mặt nước và nói: “Này chú bé, lúc nãy chú mày chẳng là cái thớ gì, nhưng bây giờ chú em có giá rồi đấy”. Mọi Kitô hữu chúng ta cũng trở nên có giá vì đã được dìm trong máu cứu độ nơi giếng rửa tội. Chúng ta mang nơi mình giá trị vô song vì được biến đổi hoàn toàn, được lãnh nhận thiên chức trở nên con cái Thiên Chúa. Phẩm giá ưu việt chúng ta có được nhờ vào sự thanh tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội.
Một vị Cha già đã chua chát nhận xét: “Nhiều vị linh mục ngày nay khi được mọi người gọi mình bằng cha, bỗng quên mất đi ơn gọi làm con của mình”. Đây là ơn gọi căn bản và cao quý nhất mà tất cả chúng ta, các Kitô hữu đều được chia sẻ. Cách đây vài thập niên ở Âu Châu, có một phong trào rộ lên đòi tự do một cách vô lối. Nhiều bạn trẻ Công giáo đặt vấn đề tại sao bố mẹ đem tôi đến nhà thờ để rửa tội mà không hỏi ý kiến trước. Họ phải đợi chúng tôi lớn lên, đủ trưởng thành để chúng tôi quyết định về sự tự do chọn lựa của mình. Khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đi thăm viếng mục vụ nước Pháp vào những năm thập niên 80, nhiều người đồng loạt ký tên xin ra khỏi Giáo hội vì não trạng và thái độ mang tính ngụy biện giống như vậy.
Không cần nói đâu xa, ngay tại Việt Nam, không ít Kitô hữu vẫn có tên trong giáo xứ, nhưng cuộc sống của họ cũng giống như những con người vô thần, xa rời hẳn mẹ Hội Thánh. Ở bên Pháp người ta vẫn gọi họ là ‘le croyant mais non-practiquant’, chỉ tin trên lý thuyết còn thực hành thì không. Còn chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta đã sống ơn gọi Bí tích rửa tội như thế nào?
Kết luận
Phụng vụ hôm nay gợi nhắc về ơn gọi cao quý chúng ta đã lãnh nhận nơi giếng rửa tội. Chúng ta nhìn vào gương mẫu Đức Giêsu, một Con Chiên vô tội đã tự hạ, xếp mình ngang hàng với những tội nhân hèn mọn. Về phần chúng ta, chúng ta có đủ khiêm tốn nhận ra những bất toàn nơi con người mình để cố gắng sống thật sung mãn ơn gọi của Bí tích rửa tội hay không? Bí tích thánh thiêng ấy đã ghi ấn tích vĩnh viễn nơi tâm hồn chúng ta, một ấn tích không thể xóa nhòa. Còn lại, chúng ta có bổn phận phải phát huy và sống thật trọn vẹn ơn gọi cao quý này.