Có nhiều người cho rằng: niềm vui không thể đi đôi với niềm tin. Chỉ có ăn chay hãm mình: TN 2-C51
Có nhiều người cho rằng: niềm vui không thể đi đôi với niềm tin. Chỉ có ăn chay hãm mình mới là sống đạo. Chỉ khi nào chấp nhận những hy sinh gian khổ thì mới có công phúc. Còn vui tươi hớn hở không phải là thái độ trọng kính đối với Thiên Chúa. Quan niệm sai lầm này khiến họ sống đạo một cách khô khan, nhăn nhó và phục vụ Chúa với nét mặt sầu thảm.
Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy hoàn toàn khác hẳn. Dấu chỉ tiệc cưới Cana cho hay Thiên Chúa muốn chúng ta sống vui tươi, hồn nhiên và trong sáng, bởi VÌ cái tin mà Ngài đem đến không phải là tin buồn, tin sầu, nhưng là một tin vui, tin mừng. Và nếu chúng ta thực sự sống niềm tin ấy, thì khuôn mặt chúng ta sẽ rạng lên nét vui mừng. Đúng như một câu danh ngôn đã bảo:
- Un saint triste, triste saint. Một ông thánh buồn, là một ông thánh đáng buồn vậy.
Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng để gặp gỡ Đức Kitô chúng ta không cần phải là người thoát tục, trở nên như các thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ và trở thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta theo gương Chúa Giêsu nhập thể.
Và để có thể thực hiện ơn gọi làm người, thì cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi ngày. Càng biết sống sâu đậm các nhân đức tự nhiên ấy, chúng ta càng trở nên giống Chúa Giêsu làm người.
Đó là nền tảng vững chắc đầu tiên của ơn gọi Kitô hữu, bởi vì nếu thiếu các nhân đức nhân bản này, người tín hữu sẽ mất quân bình, dễ trở thành cuồng tín và lệch lạc. Trước khi trở thành người Kitô hữu, thì chúng ta phải là người, theo đúng ý nghĩa của nó.
Ngoài ra dấu chỉ của tiệc cưới Cana còn cho chúng ta biết rằng của cải trần gian và các tiện nghi vật chất chúng không có gì là xấu xa và nguy hại. Chúng chỉ xấu xa và nguy hại khi làm cho chúng ta đánh mất chất người, biến chúng ta trở thành ích kỷ độc ác và bất công.
Thật ra chỉ có con người là đáng chê trách, chứ không phải là của cải. Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ mọi người phải biết sử dụng đúng đắn tất cả những ơn sủng Thiên Chúa ban cho. Kẻ ít người nhiều, ai cũng nhận được một số ơn sủng tuỳ theo sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Cần phải tận dụng tất cả các ơn sủng đó, để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân. Chính các ơn sủng này làm thành sự phong phú của cộng đoàn dân Chúa.
Tóm lại ý thức được những ơn Chúa ban, chúng ta hãy biết tận dụng để phục vụ Thiên Chúa trong anh em, theo mẫu gương của Đức Kitô.
Hai người bạn trẻ cử hành đám cưới tại Cana, họ là những người vô danh nhưng đã trở nên bất tử: TN 2-C52
Hai người bạn trẻ cử hành đám cưới tại Cana, họ là những người vô danh nhưng đã trở nên bất tử trong Phúc Âm bởi vì Chúa Giêsu là khác trong đám cưới của họ. Bất cứ cặp hôn phối nào cũng ghen tỵ với họ. Câu chuyện này được kể bởi thánh Gioan đã được tuyên bố với chúng ta trong lễ nghi phụng vụ, có một ý nghĩa rộng lớn hơn là sự hợp nhất của một người nam và một người nữ Do Thái vào hai mươi thế kỷ trước.
Bài đọc thứ I ngày hôm nay của tiên tri Isaia đã dọn sẵn cho chúng ta ý nghĩa rộng lớn hơn này. Bài đó được đặt nền tảng trên hình ảnh yêu thích của Thiên Chúa trong Cựu Ước như là vị hôn phu của dân Người. Vị tiên tri nói: “Như một thanh niên kết hôn với một trinh nữ, Đấng sáng tạo ngươi sẽ kết hôn với ngươi, như là một chú rể vui hưởng nơi cô dâu thì Thiên Chúa của các ngươi sẽ vui hưởng nơi các ngươi”. Câu chuyện Cana đã nhắc lại hình ảnh này là biểu tượng tỏ hiện Giao Ước mới và đời đời giữa Chúa và dân của Người.
Hôn nhân của xã hội ngày hôm nay được xem như là một hợp đồng mà nó được trói buộc bởi luật. Theo cái nhìn của Thiên Chúa, hôn nhân là một Giao Ước mà nó được trói buộc bởi tình yêu, sắp xếp của Phúc Âm ngày hôm nay làm cho chúng ta nghĩ rằng Giao Ước của Thiên Chúa với chúng ta là một Giao Ước của tình yêu trung thành giống như của những đôi vợ chồng dâng hiến cho nhau.
Chi tiết của câu chuyện Phúc Âm tỏ lộ cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa thì quảng đại và phong nhiêu. Gần đó có sáu chum đá, mỗi chum chứa được mười lăm đến hai mươi lăm thùng nước khoảng sáu trăm lít. Chúa Giêsu đã hướng dẫn cho những người giúp việc đổ nước đầy tới miệng. Cana là một thành phố nhỏ, có lẽ đó chỉ có khoảng năm mươi khách bao gồm cả môn đệ của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, những người khách không những đã có đủ uống mà còn dư thừa, vì tới gần sáu trăm lít rượu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu giống như thế. Theo Thần học, Cana có quan hệ với lễ Hiển Linh. Ý nghĩa của lễ Hiển Linh là dân ngoại cũng như dân Do Thái đều được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu đủ để bao gồm tất cả mọi người trong Giao Ước mới của Người.
Rượu mới ở Cana không chỉ phong nhiêu mà nó còn tuyệt hảo nữa. Người quản tiệc sau khi nếm rượu đã nói với chú rể: “Anh đã giữ rượu ngon cho tới giờ này?” Thiên Chúa cũng sẽ giữ rượu ngon cho chúng ta trong kỷ nguyện Kitô giáo một loại rượu ngon và phong phú trong Giao Ước mới của Người.
Sự hiệp nhất thật sự của Thiên Chúa và dân Người đã chờ đợi khoảnh khắc ở bên kia tiệc cưới Cana. Do lời khẩn cầu của Mẹ Maria khiến Chúa Giêsu bắt tay vào những biến cố đời sống công khai của Ngài, giờ của mầu nhiệm Vượt Qua và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu đã mở rộng vòng tay của Ngài trên thánh giá để âu yếm chúng ta bằng một tình yêu phong phú và quảng đại, tình yêu ấy lớn đủ để bao gồm toàn thể nhân loại. Đó là khoảnh khắc sự hiệp nhất của chúng ta.
Chúng ta đổi mới quan hệ tình yêu của chúng ta khi cử hành Thánh Thể. Tại Cana Chúa Giêsu chuyển đổi nước thành rượu. Trong khi cử hành Thánh Lễ Người đã biến bánh và rượu thành Thịt và Máu Người như để tưởng nhớ lại sự chết và sự Phục Sinh của Người. Trong tiếng đọc của Linh mục chúng ta nghe những lời của Đức Kitô: “Đây là chén Máu Ta, Máu Giao Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người…”.
Kể từ ngày đẹp trời ấy tại Cana, mỗi tiệc cưới sẽ nhắc nhở chúng ta về tình yêu phong nhiêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và mỗi đôi hôn phối sẽ làm cho chúng ta nghĩ đến sự trung thành của Thiên Chúa. Trên hết, chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành là một Giao Ước mới, là sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa và những người khác trong Giáo Hội.
Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm: TN 2-C53
Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích “tượng trưng" sâu xa: Sự kiện ấy là một “dấu chỉ”. Nó có một “ý nghĩ" ẩn giấu.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê.
Khi Gioan viết những từ "ngày thứ ba" ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại "ngày vinh quang" của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 - 17,23 - 20,19; Lc 9,2-18 - 33-24, 7; Cv 10,40).
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Trong phần đầu Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá...mà không cho biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu... đó là "Mẹ Người "!
Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi." Đức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến"
Giờ của Đức Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 - 8,20 - 13,1 - 16,25 - 16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh quang: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian" (Ga 17,l-5). Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người được "nâng lên" về mặt thể xác và một cách tưởng tượng... đó là sự sống lại, Người được "nâng lên" bên hữu Chúa Cha... và đó là sự tuôn đổ của Thánh Linh cho các tín hữu... (Ga 3,14 - 8,28 - 12,32 - 17,11 - 17;13 - 17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá "hữu thể" sâu xa của Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người. Người nói rằng "Giờ của Người" chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa. Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
Bề ngoài kiểu nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành. “Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: "Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm theo" (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.
Giờ đây, chính Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo". Ở đó, đang thiếu rượu... và có lẽ, nào ai biết được, "tình yêu' cũng thiếu... Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: "Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta "không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó... Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: “Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo".
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)
Không một chi tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.
Chúng ta thử hiểu một nửa chữ thôi...
"Sáu chum đá... Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.
“Dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!
"Họ đổ đầy tới miệng...". Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong "dấu chỉ" đầu tiên này, quả thật là điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!
“Rượu”... Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v...) Trái nho là một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người". Các thời đại của Đấng Mêsia được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: "Đức Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu nồng"(Isaia 25,6; A-mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3 1., 12; Diễm ca 2,4 v.v...)
Vả lại chúng ta chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ "rượu'” mầu nhiệm được róc ra. Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người... trong sự chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: "Từ nay Thầy không còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc của Cha Thầy”.
Phúc thay cho những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.
Mỗi lần bạn uống được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một "dấu chỉ" về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.
Ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”.
Sự lầm lẫn này có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng "tân lang" đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).
Chúng ta thấy ở đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana...". Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta". Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!
Một truyền thống lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta "sự ngỏ lời tình yêu” nóng bỏng như một đam mê của người si tình: "Người ta sẽ không còn gọi em "cô gái bị bỏ rơi" nhưng người ta sẽ gọi em là "cô gái được yêu thích", người ta sẽ gọi xứ sở của em là "Tân nương của Ta"... Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em" (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien 16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2 - 22,17 v.v...).
Vả lại như bạn đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân nương thật sự là người "phụ nữ" mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang tính tượng trưng sâu sắc: 'Thưa Bà!". Tân nương của Thiên Chúa, chính là Israel chờ đợi "giao ước mới" khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa. Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là "con gái của Israel" và khuôn mặt của Giáo Hội". Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn... Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô... trong khi vui cũng như trong lúc buồn!
Chúng ta sống trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra... Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn rượu nữa!". Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu thương cho đến cùng" (Ga 13,1).
Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống "hôn nhân" hay cuộc sống "độc thân". Tuy nhiên chúng ta chớ nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa - Tình Quân. Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn, vợ chồng bạn là "dấu chỉ", nghĩa là "bí tích", "sự biểu lộ" của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn "không có tình yêu”, bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được "dấu chỉ" của tiệc cưới Cana, điều đó chẳng cần thiết hay sao?
Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
Bên ngoài tính giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người... các môn đệ đã bắt đầu bước vào đức tin... "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người".(Ga 1,14).
1. Từ một tiệc cưới làng quê… đến những tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người.
Chúa nhật trước chúng ta đã chú ý đến bài tường thuật của Mátthêu về ba nhà đạo sĩ, một bài rất: TN 2-C54
Chúa nhật trước chúng ta đã chú ý đến bài tường thuật của Mátthêu về ba nhà đạo sĩ, một bài rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Bài tường thuật của Tin Mừng Gioan về tiệc cưới ở cana mở đầu cho "Cuốn sách về các Dấu chỉ" cũng giống như vậy. Và như A. Marchadour cảnh giác, chắc chắn rằng qua câu chuyện được kết cấu như thế, "tốt hơn ta nên, từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế nào. Thánh Gioan là người vốn thích nhìn từ một sự việc cụ thể đích thực để nhận ra ý nghĩa thần học tiềm ẩn, cột làm cho lịch sử có được nét sáng giá hơn" (L’Evangile de Jean, Centurien, 1992, tr. 55).
Việc giới thiệu các nhân vật và quan hệ hỗ tương của họ là chìa khoá thứ nhất dẫn vào lối đọc ý nghĩa biểu tượng của trình thuật này.
+ Thực vậy, các nhân vật mà người kể chuyện nói đến là "Đức Giêsu", "thân mẫu Đức Giêsu", các "môn đệ" Người, rồi ở phần tiếp của đoạn văn có người "quản tiệc" và "tân lang".
+ Theo A. Marchadour nhận xét, tất cả những nhân vật này, đều được giới thiệu quy chiếu về Đức Giêsu: thân mẫu Người, các môn đệ Người. Các môn đệ sẽ không có vai trò chủ động nào, nhưng lại quan trọng, đồng thời là chứng nhân của cảnh tượng và là những con người được biến đổi: cuối chuyện các ông trở thành những con người có lòng tin (Sđd.)
+ Còn chính tân nương sẽ không có vấn đề gì hết.
- Một chìa khóa khác đó là sự lặp đi lặp lại từ "tiệc cưới" ở đầu bản văn (c.1.2) rõ ràng là có ý làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của câu chuyện, tiệc cưới chỉ là cái khung để lồng những biểu tượng ấy.
Qua khắp cả Kinh Thánh, từ sách tiên tri Ô-xê cho đến sách Nhã Ca, Thiên Chúa luôn được trình bày như tân lang của dân Người là Israel. Giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và Israel là một giao ước hôn nhân, nghĩa là bền chặt, không thể tiêu huỷ được; giao ước ấy dựa trên nền tảng là tình yêu trọn vẹn và hỗ tương. Chính Tân Ước cũng thường xuyên sử dụng chủ đề này.
Chính chủ đề này được quảng diễn ở đây, trong bài tường thuật của thánh Gioan. Bên kia buổi lễ cưới của những cặp vợ chồng trẻ ở cana, thánh sử muốn hướng tầm nhìn của ta vào cảnh khai trương một cuộc lễ khác, cho những tiệc cưới khác: Lễ cưới của Thiên Chúa với dân Người trong Đức Giêsu Kitô Con Người, mà các ngôn sứ đã loan báo.
2. Từ nước của luật cũ... đến rượu nho của giao ước mới.
Càng chú ý đọc bài tường thuật này, người ta càng thấy rõ góc độ biểu tượng này.
- Gioan đã đặt biến cố vào "ngày thứ ba". Có phải coi biểu xác định thời gian vắn vỏi được nói ở đây, theo J.B. Michaud hiểu, là muốn đưa về mạc khải mà Gioan có ý nói đến ở 1, 51 chăng? Nói cho đúng, theo như X. Léon-Dufour, há người ta chẳng đọc thấy ở đây ý hướng của người kể chuyện là rnuốn cho câu chuyện này có liên hệ với những biến cố vĩ đại của lịch sử thánh cũng xảy ra vào "ngày thứ ba" như: hiến tế Isaac, trong St 22,4, Chúa hiện ra trên núi Sinai trong Xh 19, 11 đấy sao? Việc "xác định ngày tháng" này có lẽ muốn loan báo "một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giao ước" (Lecture de l'Evangile selon Jean, cuốn 1, tr. 222). Sau cùng, như A. Marchadour gợi ý, phải chăng việc ghi chú "ngày thứ ba" như thế muốn gợi nhớ lại biến cố Phục sinh, ngày thứ ba lúc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang, và lúc ấy các môn đệ đã tin.
- “Họ hết rượu rồi”, lời nói này của "thân mẫu Đức Giêsu" bỗng dưng khiến người ta phải chú ý.
+ Ta đừng quên rằng rượu nho là đồ uống trong ngày lễ, nhất là lễ cưới thường kéo dài nhiều ngày nên phải lo dự trữ sao cho đủ rượu nho cũng là biểu tượng các tiệc cưới mang tính thiên sai giữa Thiên Chúa với dân Israel mà các ngôn sứ hằng ca ngợi và trông đợi.
+ Sự cố thiếu rượu là điểm khởi đầu câu chuyện. Tác giả không quan tâm đến lý do của sự thiếu rượu cho bằng ý nghĩa biểu tượng của sự kiện đó: nỗi khốn khó và lòng dân Israel trông đợi ân huệ Chúa ban.
+ Chính Đức Maria "thân mẫu Chlía Giêsu" - Gioan luôn dùng từ này để gọi Đức Maria - có sáng kiến báo cho Đức Giêsu biết nhà đám thiếu rượu.
- "Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con". Câu trả lời là khá bí ẩn.
+ Trước hết Đức Giêsu xưng hô với mẹ Người không phải bằng tiếng "má" (imma), tương đương với tiếng "ba” (abba), mà lại dùng tiếng "Bà".
Ta đừng coi đây như một lời lẽ thiếu kính trọng nào đó, cũng đừng coi đó là một lúc bực mình bột phát. Kiểu gọi Đức Mẹ như thế ở đầu Tin Mừng Gioan và một lần nữa ở cuối Tin Mừng, khi ở trên Núi Sọ thiết tưởng nên được đặt ở một bình diện tương quan khác với bình diện của đời thường và của gia đình.
+ Rồi phần tiếp theo của câu trả lời càng củng cố điều ta vừa nói ở trên: "Chuyện đó can gì đến Bà và con". Đó là một kiểu nói Do Thái nhằm từ chối một sự can thiệp chưa hợp thời, chưa đúng lúc, đồng thời cho thấy có sự hiểu lầm giữa người nói và người nghe. Các dịch giả và các nhà chú giải Kinh Thánh thì cố gắng lựa lời để làm dịu đi vẻ cứng cỏi của kiểu nói này. Như A. Marchadour gợi ý, cách trả lời của Đức Giêsu, phải chăng là "tạo một khoảng cách: Chúa muốn thúc giục thân mẫu Người đi xa hơn, vượt lên chức năng làm mẹ theo huyết nhục, để sinh ra làm người môn đệ nữa" (Sđd, tr. 56).
- "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo", Đức Maria nói ngay với những gia nhân. Hưởng ứng lời kêu gọi của con, Đức Maria đã vượt khoảng cách để trở thành người môn đệ đầu tiên.
Mấy lời trên đây mà bài tường thuật đặt vào môi miệng Đức Maria chứa chất biết bao ký ức xa xăm về Kinh Thánh:
+ Nó gợi nhớ lời vua Pharaô nói với dân Ai Cập đến xin lương thực: "Hãy đến cùng Giuse, Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (St. 41,55). Hình ảnh Đức Maria mờ nhạt đi trước Đấng đang làm ứng nghiệm những lời tiên tri loan báo, một Giuse mới đang cho dân ăn, đưa dân từ thiếu thốn đến sung túc.
+ Nó gợi nhớ lời đáp lại của dân Chúa trước đề nghị của Giao Ước khi tụ họp ở núi Sinai: "Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo" (Xh. 19.8). Ở đây, ngay lúc khởi đầu Giao ước mới, thánh sừ đặt vào môi miệng Đức Maria lời tuyên xưng đức tin của dân đượlc tuyển chọn. Thánh sử giới thiệu Ngài là hình ảnh của Israel mới.
Bài tường thuật tiếp tục "Ở đó, có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái". Thật là kỳ lạ, thay vì những vò đất nung hay những bình da người ta dùng đựng rượu trong tiệc cưới Cana, và những bình ấy chắc hẳn đã cạn hết rượu rồi, thì Đức Giêsu lại bảo những người giúp việc đổ đầy nước vào các chum đá vốn không đựng rượu, mà đựng nước dùng vào việc "thanh tẩy theo thói tục người Do Thái". Và chính từ những cái chum đá đổ đầy nước "tới miệng" này (chừng 700 lít) mà các gia nhân sẽ múc rượu ngon ra, thứ rượu ngon hơn rượu đãi lúc đầu, "người quản tiệc" xác nhận như vậy.
Việc nước hóa thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê tượng trưng cho Luật cũ chuyển qua Luật mới. Rượu nho của thời đại cứu thế thay thế cho nước của giao ước đầu tiên.
3. Từ khởi đầu các dấu lạ … đến “Giờ" thực hiện.
- Bài tường thuật về tiệc cưới Cana mở đầu "Sách các dấu lạ" sẽ kết thúc ở 12,50, để từ đó sẽ khởi đầu "Sách về Giờ của Đức Giêsu".
+ Thánh sử lưu ý: chúng ta đang ở vào thời kỳ "khởi đầu các dấu lạ". Khi làm "dấu lạ" đầu tiên này, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các người thân của mình biết thân thế và sứ mệnh của Người. Cana đánh dấu bước thứ nhất trên con đường đức tin của các môn đệ: "Các môn đệ đã tin vào Người".
Nhiều "dấu lạ" khác sẽ theo sau: hóa bánh ra nhiều (Ga 6), chữa người mù bẩm sinh (Ga 9), cho Ladarô sống lại (Ga 11) sẽ triển khai mạc khải ban đầu kia và góp phần làm nên những chặng đường trong hành trình đức tin của các môn đệ. + Nhưng "Giờ Người chưa đến", Đức Giêsu tuyên bố như thế. Giờ nhiệm mầu ấy sẽ đan xen cả giờ khổ nạn, giờ được tôn vinh, lẫn giờ tràn đầy ơn ban của Chúa Thánh Thần. Để rồi trong ánh sáng rạng ngời của mầu nhiệm Vượt qua, mọi ý nghĩa đều được sáng tỏ và các môn đệ sẽ trở thành những con người gắn bó hoàn toàn với Đức Giêsu, nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
+ Về phần "thân mẫu Chúa Giêsu", Người "ở đó" để chứng kiến dấu lạ khai mào Giao ước mới: "Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con?", cũng như Người sẽ "ở đó, gần thập giá” (19,25) lúc "Giờ" đóng ấn Giao ước mới trong máu, sẽ điểm, lúc ấy, Đức Giêsu sẽ nói với thân mẫu Người rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà". Thân mẫu Đức Giêsu có mặt lúc "khởi đầu" thì Người sẽ có mặt khi "hoàn tất" (cf. 19,30: “Thế là đã hoàn tất").
- Bài tường thuật này được viết sau biến cố Phục sinh.
A. Marchadour kết luận: "Phép lạ ở Cana, được viết cho các tín hữu đọc, vì họ là những người đã có kinh nghiệm về niềm tin Chúa phục sinh là đã đoạn tuyệt với Do Thái giáo. Kết cấu câu chuyện cho ta thấy rõ điều đó. Mở đầu và kết luận đặt người đọc trong bối cảnh phục sinh... Toàn bộ bài tường thuật mô tả việc chuyển từ Do thái giáo sang Kitô giáo được thực hiện như thế nào trong Đức Giêsu.
Thân mẫu Đức Giêsu có mặt ở đó có nghĩa là nhờ Người mà lễ hội giao duyên giữa Thiên Chúa và loài người trở thành khả dĩ. Người dẫn đưa Israel mới (mà các gia nhân ở đây là biểu tượng) đến cùng Đức Giêsu. Nhưng khi nói với gia nhân: Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo", thì chính Người lại đóng vai người phụ nữ, hình ảnh Israel mới phải phục tùng con mình. Rượu vừa nhiều vừa ngon ám chỉ rằng thời đại Đấng Cứu Thế vui như ngày hội đã bắt đầu và từ nay rượu sẽ không bao giờ thiếu. Một giáo phụ tự hỏi: "Người ta đã uống cạn chăng? Không, vì hiện giờ chúng ta vẫn còn uống" (Sđd, tr. 58).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Rượu nho mới"
(G. Bessière, trong “Dieu si proche. Năm C", DDB, trg 83-84).
Đức Giêsu có mặt trong tiệc cưới mừng cho tình yêu của cặp trai gái làng Cana. Người sắp làm phép lạ đầu tiên trong tiệc vui này. Bài tường thuật của thánh Gioan về tiệc cưới ấy dọi một tia sáng vào quá khứ của Israel, vào tương lai của Đấng Chúa sai đến và vào đời sống của Giáo Hội.
Thời Môsê, Êlia, Êlisê, Thiên Chúa đã làm những dấu lạ để củng cố sứ mệnh của các vị ấy thế nào, thì Người cũng sắp chứng thực sứ mệnh của Đức Giêsu như vậy khi cho Người thực hiện những tiệc lạ lùng: đó chính là những "dấu chỉ". Trong Kinh Thánh, rượu nho thường là biểu tượng ơn khôn ngoan do Lời Chúa ban cho. Rồi đây Đức Giêsu sẽ là Người được ban tặng ơn ấy một cách dồi dào và triệt để.
Đức Giêsu hóa nước thành rượu trong sáu chum đá dùng cho nghi thức thanh tẩy mà người Do Thái vốn tuân giữ rất cặn kẽ; chi tiết này ám chỉ rằng Đức Giêsu sắp mang đến một sự canh tân cho Do Thái giáo. Lúc ấy, ở đó có sáu cái chum: số sáu được coi như con số không hoàn toàn muốn chỉ tỏ rằng quá khứ phải nhường chỗ cho một tương lai mới.
Sách các Ngôn sứ thường ví dân được tuyển chọn như một hôn thê bất trung, bội tín. Nên với sự hiện diện của Đức Giêsu, bây giờ là lúc những tiệc cưới giữa Thiên Chúa và nhân loại đã dứt khoát bắt đầu. Đây là những tiệc cưới mà "Giờ" chưa đến: tiệc của rượu nho trong bữa Tiệc ly và của máu trên thập giá, tiệc Thánh Thể, trung tâm đời sống của Giáo Hội vẫn tiếp tục ca tụng thứ rượu nho của những tiệc cưới đời đời.
Đức Giêsu chính là rượu nho được Thiên Chúa ban một cách hào phóng là là giao ước luôn luôn mới.
2. Vương quốc mới được khai trương
Ta phải vượt lên Cana là buổi lễ ở làng quê hôm đó để có thể nắm bắt được những luồng tư tưởng lớn của các ngôn sứ vẫn xuyên suốt lịch sử Thánh. Phải tìm lại những dấu chỉ của giao ước là tất nhiên là những tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Việc Đức Giêsu khởi sự làm những dấu lạ, rõ ràng loan báo vương quốc mới, triều đại của Đấng Mêsia. Ngày ấy được ngôn sứ Isaia mô tả là ngày mà Chúa toàn năng sẽ khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn đầy thịt cùng các món hảo hạng với rượu ngon nổi tiếng... Ngày ấy người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng trông đợi" (Is 25, 9).
Vương quốc mới được khai trương Đấng cứu độ được loan báo và được hứa cuối cùng thì cũng đã có mặt đây rồi. Đã hết rồi những lề luật khắc khe, những nghi thức thanh tẩy được tượng trưng bằng sáu cái chum, một con số nói lên sự bất toàn. Từ nay những cái đó không còn giá trị nửa. Phải nhường chỗ cho một giao ước tình yêu; với giao ước đó; Thiên Chúa trở nên rất gần gũi, gần gũi đến độ trở nên một người ở giữa chúng ta. Phải nhường chỗ cho những niềm vui của tiệc cưới và cho thứ rượu nho mới của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đến làm đảo lộn những tập quán, phá bỏ những truyền thống và không quan tâm đến những thói vụ luật.
Phương Tây có thành ngữ thật hay: “sauver la face” (save face) mà hai cách dịch tiếng Việt: TN 2-C55
Phương Tây có thành ngữ thật hay: “sauver la face” (save face) mà hai cách dịch tiếng Việt “giữ thể diện”,“gỡ thể diện” đều không chính xác. Cứu và giữ, gỡ hay đi đôi với nhau,nhưng cứu vẫn khác. Thuật ngữ trong môn bóng đá diễn tả đúng nhất động tác và kết quả của phản xạ cản được đường bay mười mươi vào thẳng lưới của trái bóng: cứu một bàn thua trông thấy! Không có sự can thiệp, thì chắc chắn đã bị mất thể diện . Cho nên “cứu” (để ‘giữ”) thể diện, mới là thích hợp.Còn khi đã thua, việc có thể “gỡ” được hay không,lại là vấn đề khác.
“…Và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: Cứ đến vơi ông Giuse. Ông bảo gì,các ngưoi hãy làm theo” (St 41,55). Bàn thua khủng khiếp có thể đẩy nền văn minh Ai Cập lùi hàng trăm năm, đã được Giuse gỡ cho một cách ngoạn mục, vì đó là ý muốn và chương trình của Thiên Chúa.
“ Khi thấy thiếu rượu,…thân mẫu người nói với gia nhân: Người bảo gì,các anh hãy làm theo” (Ga 2,5). Bàn thua trông thấy có thể biến hôn lễ Cana thành trang tóc,buồn phiền, nếu Đức Maria đã không ra tay cứu giúp.
Trong cuộc họp báo chiều 08.01.2010, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho biết, người lao động nhận lương kỷ lục năm 2009 là 216 triệu đồng một tháng (# 144.000 usd/năm). Thưởng Tết Canh Dần cao nhất 389 triệu đồng, thấp nhất chỉ 30.000 đồng (Người Lao Động 09.01.2010). Ăn nên làm ra,lương ao,thưởng cao đã đành, mà những công ty vốn nhà nước lỗ hàng ngàn tỷ đồng, cũng lãnh lương cao, tiền thưởng ngất trời. Đây hẳn một kỷ lục Guinness. Người ta giật mình khi so sánh mức lương đó,với lương của tổng thống Pháp (114.000 USD/năm) và tổng thống Nga (84.000 USD/năm). Bàn thua chẳng những không ai muốn cứu, mà còn chủ tâm bán độ, cấu kết với nhau,với cái tâm đen tối hiểm ác,để làm cho đất nước tan hoang và nhờ đó mà an tâm “đục nước béo cò”. Và người ta chống chế, tìm cách bịt những lỗ hỗng khổng lồ ấy,bằng việc bịt miệng những kẻ nói sự thật, những kẻ muốn đưa cả bàn tay và con tim chận những bàn thua trông thấy. Một cách chữa thẹn hiểm ác, là gây ra những tội phạm thượng tày trời,như ở Đồng Chiêm. Hãng Huyndai-Vinashin chưa biết xử lý cả triệu tấn xỉ đồng (hạt nix) gây ô nhiễm không khí,nguồn nước và môi trường sống của hàng chục ngàn người dân Khánh Hoà, bị kịch liệt chỉ trích bao lâu nay, đã được cứu khỏi bàn thua trông thấy, khi có nguyên cả bộ trưởng môi trường vào tận nơi giải quyết. Kết quả là chỉ mấy ngày sau, công ty đóng tàu nầy ngang nhiên nhập về 20 ngàn tấn hạt nix độc hại nữa. Dân chúng ngậm bồ hòn! Câm nín trước sự ác, bất cứ vì nguyên do gì, hoặc bao che tội ác, đều là đồng loã và khuyến khích tội ác,sự dữ.
Ở đất nước Việt Nam, hằng ngày,hằng giờ diễn ra một cuộc chạy đua quyết liệt, mà ‘vận động viên” là người nghèo, còn đích vô tận là giá cả tất cả mọi mặt hàng. Người nghèo chạy đứt hơi theo người giàu: sữa tăng giá, trẻ nhà giàu uống mỗi tháng bạc triệu, con nhà nghèo nhịn được (vì phải nhịn, bởi giá một hộp sữa bằng cả tháng công lao động của cha mẹ chúng); nhưng thuốc thì không thể không mua khi ốm đau và điều nghịch lý là người giàu ăn no uống đủ vệ sinh tốt, rất ít khi đau ốm,trong khi người nghèo đói suy dinh dưỡng, vệ sinh kém, lại ốm đau liên miên. Sữa tăng giá, thuốc men tăng giá, xăng dầu tăng giá, vì vàng tăng giá. Nói chi thịt cá, mà ngay nắm rau, bó hành cũng tăng giá. Người giàu không thèm trả giá. Họ muốn thoát nỗi ám ảnh cha mẹ họ một thời xếp hàng năn nỉ cả ngày trời, để mua được cây kim,sợi chỉ, cân gạo. Liên tiếp những bàn thua cho người nghèo. Ai thèm quen tâm việc người khác sống chết thế nào. Mặc cho nỗi cơ cực cay đắng của người nghèo, mà phương tiện sinh sống ngày càng bị hạn chế, bó hẹp lại, chỉ để mát mặt người giàu. Bên cạnh những chiếc xe hàng trăm ngàn,hàng triệu “đô”, những chiếc “cần câu cơm” cũ kỹ, xấu xí sẽ rất phản cảm,vì thế chúng hãy biến đi. Rượu người nghèo chỉ có thế và nay đang cạn, sẽ hết. Họ đang thua trông thấy. Tội ác đủ loại,đủ lứa tuổi, ngày càng dã man, vô đạo và cuộc sống xô bồ,dâm ô, gương mù gương xấu đang dìm những thế hệ trẻ xuống bùn nhơ. Những bàn thua cố tình, vì xã hội càng tha hoá trụy lạc,thì những tay hoạt đầu càng có cơ vơ vét, tham ô. Ai sẽ đưa ánh mắt, chìa bàn tay, cứu giúp người nghèo, kẻ bị áp bức?
Đức Maria,bằng tiếng thưa “xin vâng”, đã cứu nhân loại khỏi một bàn thua trông thấy, bàn thua nầy nữa sẽ kéo nhân loại tiếp tục chìm trong đêm đen tội lỗi và sự chết. Bằng cuộc sống nhân đức của Mẹ, Đức Trinh Nữ Maria đã dạy cho nhân loại giữ sạch mành lưới, không để cho Satan và mưu ma chước qủy công phá và ghi bàn. H. Engelmann,một linh mục Công giáo người Đức thuật lại: một ngày nọ, ngài hìn thấy một bức hoạ Đức Trinh Nữ Maria treo ở một chỗ danh dự trong văn phòng của Field Marsal Hindenburg,một tín đồ Tin Lành phái Luther. Thấy vị linh mục không dấu nổi sự ngạc nhiên, Hindenburg nói:” Tôi nhìn thấy nơi Đức Trinh Nữ sự hiện thân của những nhân đức con người cần thiết cho cuộc sống của tôi”. Có thể mơ tới một định nghĩa tốt đẹp hơn về những gì Đức Maria mang đến cho thế giới nầy chăng? Với một thế giới hoàn toàn bị bỏ mặc cho kiêu căng ích kỷ, Đức Maria sự khiêm hạ của máng cỏ Bê-lem. Với một thế giới bị tiền tài và tham lam ngự trị,Mẹ nhắc lại sự khó nghèo ở Nazaret. Với một thế giới bị méo mó xuyên tạc, bất lương, Đức maria mang đến chân lý và sụ đơn sơ thẳng thắn. Với một thế giới ngày càng chai sạn vì hận thù mỗi ngày, Mẹ lập lại những bài học dịu dàng hoà nhã của Mẹ. Với một thế giới ô uế và hão huyền, Mẹ đã đưa ra chứng từ về đức trinh khiết của Mẹ. Với một thế giới già nua, Đức Maria mang đến sự tươi trẻ vĩnh viễn của Mẹ (trích “I Lost The Faith”, - Tôi đã mất đức tin - H.Engelmann, trg.91).
Bảy năm được mùa bội thu của Ai Cập cũng là những năm ân huệ dồi dào Chúa ban cho chúng ta trong cuộc đời. Nếu không biết lợi dụng để tích trử cho đầy kho lẫm linh hồn, thì khi đói kém xảy ra, với những cám dỗ thử thách không chỉ xảy đến,kéo dài trong chốc lát hay trong thời gian ngắn,mà liên tục và kéo dài chí ít cũng không thua thời gian nhận ơn sủng, chúng ta sẽ tàn vong. Những lúc ấy hãy nhớ: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Những lúc ấy chỉ còn cách duy nhất là kêu cầu Mẹ Maria, để Mẹ giúp cứu cho không chỉ một bàn thua trông thấy,mà cả sự sống đời đời. Muốn vậy, phải luôn nuôi dưỡng lòng sùng kính Mẹ, để có Mẹ làm người thủ thành, thì chúng ta tin tưởng vững vàng sẽ chiến thắng Satan và tội ác. Hơn thế nữa, chúng ta góp phần vào chiến thắng của Giáo Hội.của Nước Trời.
Chúng ta vẫn muốn lập lại cho nhau câu nói của Padre Piô:” Đây là di chúc và tài sản ta để lại: HÃY YÊU MẾN ĐỨC TRINH NỮ VÀ HÃY LÀM CHO MỌI NGƯỜI YÊU MẾN MẸ. Hãy luôn lần chuỗi Mai Khôi” (Di chúc thiêng liêng của Thánh Pio Pieltrelcina). Với Mẹ,không còn lo gì thiếu rượu nồng cho cuộc sống Kitô hữu!
Ngày nay hiện tượng “ăn cơm trước kẻng” khá phổ biến trong dân gian, nhất là bên Âu Mỹ: TN 2-C56
Ngày nay hiện tượng “ăn cơm trước kẻng” khá phổ biến trong dân gian, nhất là bên Âu Mỹ. Người ta không còn tin tưởng vào nghi thức cưới hỏi nữa. Ðúng hơn, họ quá tin tưởng khoái lạc sẽ đem lại hạnh phúc cho con người. Nếu đúng thế, tại sao ngày nay ly dị đạt tới mức độ kỷ lục như vậy ?
Ðứng trước tình hình hiện nay, có lẽ cũng không nên quy trách hoàn toàn cho giới trẻ. Ðúng hơn, phải nhận nghi thức hay luật lệ phần nào đã đánh mất nội dung và ý nghĩa đích thực. Tất cả chỉ còn là nước lã. Cuộc sống hôn nhân tẻ ngắt và buồn chán, không còn hấp dẫn nổi giới trẻ nữa. Cần phải có một cuộc canh tân thực sự mới đem lại cho hôn nhân một sức sống mới. Nhờ đó, gia đình mới hạnh phúc.
Nếu Chúa đã biến nước thành rượu trong tiệc cưới Cana, Chúa cũng có thể canh tân và biến đổi cuộc sống hôn nhân hôm nay. Cuộc canh tân đó dựa trên nền tảng tình yêu, một thực tại bắt nguồn từ Thiên Chúa. Tình yêu là động lực phát xuất niềm vui và hạnh phúc thực sự. Nhờ đó hôn nhân có sức mạnh vượt trên mọi thử thách.
Còn cuộc vui nào lớn hơn tiệc cưới Cana ? Tiệc cưới rất trang trọng và diễm lệ, vì được đón chào cả Chúa Giêsu, Mẹ Maria, anh em họ hàng và các môn đệ, nhưng không kém vẻ thân mật gia đình. Các ngài đến chung vui với đôi hôn phối tới phút chót. Hiện diện như thế, các ngài đã chia sẻ tận tình niềm vui lớn lao đó. Niềm vui càng tăng lên khi biến nước thành rượu ngon “khi khách đã ngà ngà.” (Ga 2:10)
Phép lạ đã vượt qua giới hạn một tiệc cưới. Không phải chỉ vì cứu vãn danh dự của cô dâu chú rể hay chủ tiệc, nhưng còn để “bày tỏ vinh quang của Người.” (Ga 2:11) Tất cả ý nghĩa của “dấu lạ đầu tiên” (Ga 2:11) nằm ở chỗ đó. Không phải nhu cầu đám cưới đã thúc bách Ðức Giêsu hành động, nhưng là đức tin của Mẹ Maria, Thân mẫu Người. Mẹ chỉ vỏn vẹn loan báo một sự kiện, chứ không xin gì cho chính mình.
Dĩ nhiên, chưa đến “giờ” Chúa Giêsu hành động. Mẹ biết, nhưng không hề đáp lại, chỉ lẳng lặng nói với gia nhân: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo.”(Ga 2:5) Câu nói cuối cùng của Mẹ lại được đặt trong khung cảnh tiệc cưới, một cuộc vui lớn nhất và sâu xa nhất của con người. Thái độ trầm tĩnh qua những lời đó đã đủ để Ðức Giêsu hành động. Ðức Mẹ biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra sau lời chứa chất đầy tin yêu đó.
Ở đây, Ðức Mẹ đã hành động ngược hẳn với thái độ của những kẻ thách thức Chúa Giêsu dưới cây thánh giá. Họ đòi Chúa bước xuống khỏi thánh giá như một dấu chỉ cho họ tin. Bình thường ai cũng cần dấu lạ mới tin. Trái lại, Mẹ Maria cho thấy đức tin làm nảy sinh dấu lạ. Ðức tin đòi chúng ta phó thác hoàn toàn nơi quyền năng đầy tình thương của Chúa. Ðức tin không đòi con người phải hành động mù quáng hay làm những việc anh hùng. Trái lại, đức tin luôn chứng tỏ qua thái độ tín thác khiêm cung. Ngược lại, một thái độ kiêu ngạo luôn làm con người tưởng mình có thể hành động thay thế Thiên Chúa. Phép lạ hay dấu chỉ là công việc đặc biệt thuộc về Thiên Chúa mà thôi.
Ðức Maria và các môn đệ đã tin như thế. Chỉ những ai tin mới có thể nhìn thấy chính con người Ðức Giêsu Kitô đã làm được những phép lạ, chứ không phải một thứ thần thông hay ma thuật nào. Nhưng Người đã không thi hành quyền năng ấy một cách ồn ào hay biểu hiện một cách phi thường ngoạn mục. Trái lại, Người kín đáo thi thố quyền năng, đến nỗi người quản tiệc cũng không biết rượu từ đâu ra. Chỉ có các gia nhân mới thấu hiểu ngọn nguồn. Bởi đâu họ được diễm phúc ấy ? Có lẽ chính địa vị thấp kém và hoàn cảnh nghèo hèn đã khiến họ có cơ hội gần Chúa và tham dự vào những việc Chúa làm để tạo nên dấu chỉ hôm nay.
Nhưng hơn tất cả mọi người, nhờ niềm tin, Ðức Maria biết Con Mẹ có khả năng làm phép lạ. Niềm tin đó mạnh đến nỗi, dù Chúa có “tỉnh bơ” trước lời cầu xin của Mẹ. Nghe Con trả lời, đáng lẽ Mẹ phải cảm thấy xa lạ, vô duyên và bực bội như “búa tạ” giáng trên đầu. Thực ra, trong cuộc sống bên nhau hơn ba chục năm trời, Mẹ biết đó chỉ là một cách diễn tả thân mật giữa Mẹ Con. Tiếng nói sâu xa của hai con tim đã tạo nên sự đồng cảm sâu xa. Người ngoài làm sao hiểu nổi ? Bằng chứng, sau khi nghe những lời cứng rắn đó, Mẹ vẫn nói như Mẹ và Con đã hiểu thấu đáo ý nhau: “Người bảo gì, các anh cứ làm.” (Ga 2:5) Kết quả đúng như Mẹ mong ước.
Sở dĩ có kết quả như thế, không phải vì Mẹ giỏi tâm lý, nhưng vì Chúa Thánh Linh lên tiếng trong Mẹ. Chúa Giêsu đã nhận ra điều đó, nên thi hành ngay, mặc dù giờ thi hành sứ mệnh cứu độ chưa đến. Thế là, nhờ Chúa Thánh Thần, Mẹ đã được vinh dự đón nhận dấu lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai của Con. Còn gì sung sướng hơn khi biết dấu lạ đó đã làm cho các môn đệ tin vào Chúa. Nếu Mẹ không tin, làm sao họ có thể thấy được dấu lạ mà tin. Niềm tin đã sinh ra niềm tin.
Nếu có niềm tin như Mẹ, chúng ta cũng sẽ thấy Chúa Giêsu đang chuẩn bị một đại tiệc trong Nước Chúa. Bằng chứng, những dấu lạ lớn nhỏ đang xảy ra hằng ngày. Quan trọng là có đủ niềm tin để đọc thấy ý nghĩa của những dấu chỉ đó hay không. Nếu có đủ, chúng ta có thể bước theo Chúa, cùng Mẹ và các môn đệ để khám phá những điều lớn lao hơn trong Giao ước đã được ký kết trong Máu Người. Người kêu gọi chúng ta khám phá cuộc sống hằng ngày để nhận thấy những dấu chỉ sự hiện diện của Người. Tham dự một hôn lễ, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị một hôn lễ khác – hôn lễ kết hiệp Thiên Chúa với nhân loại.(x. Lời Chúa Cho Mọi Người, 2005:420)
Muốn canh tân thế giới, chúng ta phải bắt đầu từ niềm tin. Không có niềm tin, không thể hy vọng Thiên Chúa biểu lộ quyền năng ban sự sống của Người. Có lúc nào thế giới cần được tái sinh và canh tân như hôm nay ? Vậy mà, niềm tin đang phai mờ và tàn lụi trong tâm hồn nhân loại ! Muốn tìm một sức mạnh canh tân và tái sinh nhân loại, trước hết phải nỗ lực cầu xin Thiên Chúa ban Thần Khí, vì “Thần Khí như một thứ rượu nồng sẽ khiến chúng ta quên đi những quy tắc sáo mòn và những tín điều hẹp hòi của chúng ta.” (Lời Chúa Cho Mọi Người, 2005:420) Chúa Giêsu không dùng nước bình thường, nhưng là thứ nước đã đổ vào sáu chum theo thói tục Do thái dùng vào việc thanh tẩy. Chúa muốn canh tân não trạng của những người đã sống lâu năm trong nghi thức đạo đức vô hiệu lực và đầy giả tạo đó.
Tôn giáo đích thực không bao giờ đồng hóa với những nghi thức như thế. Người Do thái lo lắng thanh tẩy khỏi những điều ô uế. Họ đặt tất cả niềm hy vọng canh tân nơi các nghi thức. Nhưng họ đã thất bại. Chính Thần Khí chủ động trong việc canh tân, chứ không phải nghi thức. Nghi thức chỉ là phương tiện. Nhưng muốn Thần Khí khởi động việc canh tân vô cùng cần thiết đó, cần phải tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô. Không có Người, không thể có Thần Khí.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy hiện diện trong cuộc sống hôn nhân của chúng con hôm nay. Xin hãy ban sức mạnh Thánh Thần để tình yêu chúng con luôn được đổi mới và sinh hoa trái tốt đẹp là hạnh phúc cho chúng con và gia đình. Amen.
Con người là một tuyệt phẩm của Thiên Chúa sáng tạo. Nhưng con người đã dùng tự do đánh mất: TN 2-C57
Con người là một tuyệt phẩm của Thiên Chúa sáng tạo. Nhưng con người đã dùng tự do đánh mất vẻ đẹp nguyên tuyền thưở ấy, thưở E-đen, nơi Thiên Chúa thích đùa vui với con người . Những tưởng Thiên Chúa bỏ đi công trình của Ngài, nhưng không, Ngài không “ruồng bỏ”, nhưng Ngài “tái lập một giao ước mới vững bền”, vì lòng thương của Ngài ngàn thu…
Tiên tri Isaia khẳng định một niềm hy vọng cho con người tội lỗi:
“Chẳng ai còn réo tên ngươi: "Đồ bị ruồng bỏ!" Xứ sở ngươi hết bị tiếng là "Phận bạc duyên đơn." Xứ sở ngươi nức tiếng là "Duyên thắm chỉ hồng." Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. 5 Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể”.(x. Is 62, 1- 5)
“Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới người về”. Con người được Chúa đem lòng sủng ái, và thiết lập hôn ước”. Ôi còn hạnh phúc nào hơn! Thân phận bụi tro trong xác hay chết của con người, được Thiên Chúa dủ lòng xót thương, được Ngài đoái mắt tới, và biến đổi thành “hiền thê” của Ngài -“như cô dâu là niềm vui cho chú rể”.
Nhớ lại biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa trên sông Jordan, và toàn cảnh hôm ấy, không ai quên được có một Thiên-Chúa-làm-người đang cúi đầu nhận phép rửa của Gioan, và trời mở ra Thiên Chúa Cha phán: “Đây là con ta yêu dấu, rất đẹp lòng ta”.(Lc.3,22)
Và nhớ lại phép rửa tội của mỗi người, chúng ta cũng có thể tin một toàn cảnh tương tự, và tin là “Thiên Chúa đang hôn phối với chính đương sự”. Cuộc hôn phối kỳ diệu giữa Thiên Chúa chí thánh chí thiện và một con người phàm hèn, tưởng đơn giản chỉ với một khế ước “tôi từ bỏ ma quỷ và các việc của nó, Tôi tin Thiên Chúa, tin Chúa Giêsu, tin Chúa Thánh thần, tin Giáo Hội …”, nhưng lại là một giao ước vững bền tới ngàn thu. Ấy vậy, cũng có thể nói “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Quả thật, giáo lý dạy rằng, chúng ta chỉ được lãnh nhận bí tích rửa tội có một lần, mà hiệu quả cả đời. Suy tư nầy, nhắc nhớ mỗi người chúng ta rằng, chúng ta đã được Thiên Chúa sủng ái, và đã cưới chúng ta về, qua bí tích rửa tội, nhờ máu thánh Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta trở nên con yêu dấu của Cha, trong một nghĩa nào đó, chúng ta trở nên hiền thê chung thủy của Thiên Chúa. Ôi! Vinh dự lắm thay!
Mỗi lần tham dự Lễ Cưới, xin hãy nhớ đến cuộc hôn nhân kỳ diệu của chính mình: Thiên Chúa đã cưới tôi! Tôi là hiền thê của Ngài. Tôi phải chung thủy với Ngài. Vì “sự gì Thiên Chúa dã liên kết, loài người không được phân ly”.
Thư Thánh Phaolô lại nhắc đến một cuộc hôn phối kỳ diệu thứ hai: Hôn Phối của Chúa Kitô và Hội Thánh, trong Chúa Thánh Thần. Nếu mỗi người cùng được Thiên Chúa hôn Phối qua bí tích rửa tội, thì cùng là anh em trong một nhiệm thể Chúa Kitô. Vì chính Đức Giêsu cũng bằng lòng nhận phép rửa như một tội nhân trong nhân loại. Và hơn thế nữa, Chúa Giêsu như “tân lang” của Thiên Chúa Cha gửi đến để cùng với “tân giai nhân” vĩnh thệ một hôn ước mới, và hôn ước ấy được ký bằng chính Máu thánh của Ngài. Tân giai nhân, người đã kết hiệp với Chúa Giêsu, cũng trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi sự và nhất là đồng tế lễ đời mình với lễ tế thập giá của người mình yêu mến trên thập giá của mình mỗi ngày. Việc tế lễ ấy, mỗi người một cách theo như phân định của Thánh Thần theo ơn gọi của Thiên Chúa Cha. Vì thế “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12, 4-7).
Vâng “chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người”. Chính Chúa là căn tính duy nhất, là mối dây duy nhất mở đường cho lòng thủy chung của một hôn ước thánh thiện giữa Chúa Kitô và Hội Thánh Người, giữa mỗi thành phần, mỗi nhiệm thể, trong cùng một nhiêm thể.
Bài Tin Mừng đề cập đến cuộc hôn nhân kỳ diệu thứ ba: cuộc hôn nhân của nam nữ. Chúa Giêsu hiện diện trong bữa tiệc cưới tại Cana. Và chính trong tiệc cưới nầy mạc khải cho chúng ta nhiều điều quí giá:
-Sự hiện diện của Chúa làm cho hôn nhân tự nhiên nâng lên hàng bí tích. Vì hôn nhân công giáo không được phép dừng lại ở cấp độ tự nhiên, nhưng phải được Chúa chúc phúc, chúa ban ân sủng thì hôn nhân tự nhiên ấy mới duy nhất, bền vững- theo nghĩa đơn hôn và vĩnh hôn của giáo lý dạy. Ân sủng Chúa ban là việc Chúa biến nước lã thành rượu ngon, Chúa biến những ngày nhạt nhẻo thành nồng ấm, Chúa biến những âu lo thành nỗi vui mừng, Chúa biến những chán chường thất vọng thành hoan lạc hy vọng… Có Chúa trong đời sống hôn nhân công giáo, có thể nói là có bình an và hạnh phúc. Vì thế, hãy giữ Chúa Giêsu luôn tham dự tiệc cưới của mình, bữa tiệc cả đời người.
-Nước lã thành Rượu ngon trong hôn phối của Chúa Kitô và Hội Thánh Người là chính chén rượu nho trở thành Máu Thánh Chúa Giêsu. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua việc rước lấy Mình Thánh, Máu Thánh Ngài, làm cho cuộc hôn nhân của Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài luôn luôn tràn đầy sức sống, và cũng là sức sống riêng cho mỗi tâm hồn.
-Luôn có sự hiện diện của Mẹ Maria trong cuộc hôn phối của mỗi người với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với đời sống gia đình. Mẹ luôn quan tâm, nhạy cảm đến đời sống tâm linh cũng như vật chất của mỗi người, và nơi nào, lúc nào mẹ cũng nhắc nhở chúng ta tuân giữ lời Chúa dạy “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (Ga 2,5)
-Ơn Chúa làm cho tất cả các cuộc hôn phối đều sống chung thủy với lời kết ước. Chung thủy với Bí tích rửa tội, chung thủy với Hội Thánh và chung thủy trong đời sống vợ chồng. Việc chung thủy ấy bao gồm cả việc lớn nhỏ, trong không gian, thời gian.
Đem bài học Lời Chúa hôm nay vào cuộc sống, tôi nhớ câu chuyện nhỏ:
Một cháu bé hỏi bà:
-Bà ơi, sao suốt đời bà chỉ là một gánh chè thuộc lòng những đường dài lối tắt, những ngỏ hẻm hang cùng….
-Bà đã hôn phối với gánh chè nầy rồi con ạ. Thấy nhỏ bé thế đấy, mà nhờ chung thủy với nó, nó đã giúp bà chung thủy với chồng con,với giang sơn nhà chồng đấy con ạ.
Vâng tình yêu hôn phối của chúng ta đối với tình yêu Thiên Chúa, tình yêu Chúa Giêsu, tình yêu Hội Thánh, tình yêu hôn nhân vợ chồng cũng đòi buộc chúng ta ‘trung tín trong từng việc nhỏ như vậy”.
Thảo nào, có người thích nói đùa, “tôi đã hôn phối với vợ tôi, hôn phối luôn với chiếc răng khểnh của nàng”.
Nếu hiểu hôn phối là chung thủy, theo cách nào đó, thì, hôn phối với Chúa Kitô, cũng là hôn phối với, và tôn trọng, yêu thương cả những con người đau khổ, xấu xí, hèn hạ nhất của Ngài, mà tưởng mình không yêu được.
Lạy Chúa, tai tiệc cưới Cana, Chúa đã nhắc cho chúng con rằng, chúng con đã được Thiên Chúa sủng ái và cưới mỗi người chúng con trong cuộc hôn phối thần linh vĩnh cửu của Ngài, nhờ Đức Giêsu Kitô, qua Hội Thánh Công Giáo. Xin cho các đôi vợ chồng biết nhận ra cuộc sống vợ chồng là hình ảnh của những cuộc hôn phối kỳ diệu màThiên Chúa đã thiết lập để luôn tạ ơn Chúa và cùng khấn nguyện cho “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.” A men
Về đoạn văn Ga 2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana mở ra một: TN 2-C58
Về đoạn văn Ga 2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana mở ra một phân đoạn mới (gọi là “Sách các dấu lạ”, ch. 2–12) hoặc khép lại một bài tựa mang tính tường thuật (1,19–2,12)?
Chúng tôi chọn đặt truyện Cana vào cuối bài tựa tường thuật. Trong ch. 1, sau Bài Tựa (1,1-18), tác giả giới thiệu gương mặt vị Tẩy Giả, vị chứng nhân, “bạn của chàng rể” (3,29), người ban phép rửa để “Người [= Đức Giêsu] được tỏ ra cho dân Ít-ra-en” (1,31). Sứ mạng của Gioan là bày tỏ chân tính thiên sai của Đức Giêsu. Vì lý do này, Anrê và một môn đệ nữa đã đi theo Thầy (1,35-40). Anrê lại đi gặp Simôn và bảo: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (1,41); chuyện cũng như thế đã xảy ra với Natanaen (1,45-51). Tất cả kết thúc tại Cana, với việc chính Đức Giêsu tỏ vinh quang ra (2,11).
Còn có những lý do khác khiến phải đi theo chiều hướng này. Có thể kể ra hai lý do: 1) Cách tính các ngày làm thành một tuần. “Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình” (1,29). “Hôm sau ông Gioan lại đứng đó” (1,35). “Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê” (1,43). Cuối cùng, “ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền Galilê” (2,1). Đây đúng là một tuần, và tiệc cưới đã xảy ra vào ngày thứ bảy. 2) Cần ghi nhận việc tác giả tích lũy các danh hiệu Kitô học. Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (1,29.36), “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (1,33), là “Rabbi” (1,38.49), là “Đấng Mêsia” (1,41), là “Con Thiên Chúa, vua Ít-ra-en” (1,49). Rõ ràng các danh hiệu này là một tổng hợp việc mạc khải mầu nhiệm Đức Kitô. Điểm tới của cụộc tỏ mình này là Cana: “Đức Giêsu tỏ vinh quang của Người” (2,11). Việc Đức Giêsu tỏ mình ra tương ứng với việc các môn đệ đáp lại: “Và các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Tới đây, cộng đoàn các môn đệ gồm những người tin đã thành hình; Đức Giêsu có thể bắt đầu đời sống công khai.
II. BỐ CỤC
Bài tường thuật được giới thiệu như là một “dấu lạ”, nên có thể tìm bố cục theo cách cấu trúc cổ điển của các phép lạ. Nhưng chúng ta có thể tìm ra bố cục theo cấu trúc đồng tâm sau:
Phần tường thuật (2,1-3); Các đối thoại (2,4-8): Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu, Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn, Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn; A’= Phần tường thuật (2,9-11).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Ngày thứ ba (1): Chi tiết thời gian này có mục đích nối kết phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu với núi Sinai (Xh 19,1.10-11.16) và cuộc Phục Sinh (Ga 2,19-22; x. 7,30; 8,20…)1.
Như thế, Cana một đàng là phiên bản của những gì đã xảy ra tại núi Sinai, đàng khác, là một lời tiên báo mào đầu cho mạc khải tối hậu phát xuất từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
- tại Cana miền Galilê (1a và 11a): Khi ghi lại một chi tiết địa lý, tác giả TM IV thường cũng nhắm một lý do thần học.
- Có tiệc cưới: Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần (ba ngày: trường hợp một quả phụ tái giá). Khung cảnh tiệc cưới nối kết câu truyện Cana với đề tài quen thuộc trong Cựu Ước: hôn lễ của Đấng Mêsia với Dân Người. Gioan Tẩy Giả sẽ giới thiêïu Đức Giêsu là chàng rể (3,29). Trong TMNL, Đức Giêsu tự coi mình là chàng rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34), và đã mô tả Nước Trời như một tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng, sách Kh cũng vận dụng tới đề tài này để diễn tả sự kết thúc thời hiện tại và sự khai mở thời tương lai (Kh 19,7-9; 21,2; so với Ep 5,22tt). Theo tập tục, chính chàng rể cung cấp rượu (x. c. 10).
- có thân mẫu Đức Giêsu: Đức Trinh Nữ được giới thiệu là “thân mẫu Đức Giêsu”, rồi ở c. 4, Đức Giêsu lại gọi mẹ là “bà”. Một sự cố tương tự lại xảy ra trên Núi Sọ trong Ga 19,25-27; như vậy, câu truyện Núi Sọ có những điểm chung với câu truyện Cana. Có thể coi hai câu truyện này làm nên một thứ cấu trúc “đóng khung”.
- Họ hết rượu rồi (3): Người ta đã muốn coi lời này chỉ là ghi nhận một sự kiện. Tuy nhiên, có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó.
- Thưa bà (gynai) (4): Một người Do-thái gọi mẹ là ’immâ, “mẹ của con”. Vì thế danh hiệu “bà” (gynê; femme, woman) được Đức Giêsu dùng mà gọi Đức Maria có vẻ kỳ lạ. Trong thực tế, Đức Giêsu cũng sử dụng danh xưng ấy để gọi các phụ nữ khác trong TM IV (4,21: bà Samari; 20,13: bà Maria Mácđala) và trong các TMNL (Mt 15,28; Lc 13,12).
- Chuyện đó can gì đến bà và con? (4): dịch sát: “Giữa tôi và bà, nào có việc gì?” (NTT). Đây là cách diễn tả quen thuộc trong văn chương Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít để diễn tả sự ưng thuận hoặc bất thuận giữa hai hoặc nhiều người. Chỉ có văn cảnh mới giúp thấy rõ các sắc thái của mỗi trường hợp.
- Giờ của con chưa đến (4): Nếu quan tâm tới ý nghĩa của thuật ngữ “Giờ của Đức Giêsu” theo TM Ga, và tới giá trị biểu tượng của rượu, chúng ta sẽ thấy rõ. “Giờ của Đức Giêsu” là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh; còn rượu tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1).
- Rượu (3): Cựu Ước, truyền thống Do-thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta các ý nghĩa của “rượu”.
* Thời thiên sai và cánh chung:
Các ngôn sứ nói rằng khi Thiên Chúa quy tụ con cái tản mác lưu đày về và cho họ được định cư, rượu và các sản phẩm khác sẽ được ban cho họ dư dật (Am 9,13; Ge 2,24; Gr 31,12; Ge 2,19-16). Rượu này lại có phẩm chất rất tốt (Hs 14,8; Is 25,6; Dcr 9,17). Rượu và sữa được tặng không (Is 55,1). Trong Hs 2,21-22 và Is 62,5, sự phì nhiêu của hoa mầu ruộng đất được ghép vào hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Cuộc hôn nhân này tượng trưng Giao Ước mới ký kết với con cái Ít-ra-en, được quy tụ về (Ge 31,8-10.31-37). Có hai bản văn trực tiếp mang tính thiên sai, St 27,28-29 và St 49,10-12: Thời đại thiên sai được mô tả bằng một giọng văn đầy hình ảnh: “rượu mới dồi dào” (St 27,28); muốn buộc con lừa, Đấng Mêsia chỉ có dây nho; muốn giặt áo, Người chỉ có rượu; và rượu làm cặp mắt Người ngời sáng (St 49,11-12).
Trong Diễm ca, “rượu” được dùng 8 lần để tượng trưng tình yêu nồng nàn của đôi nam nữ (Dc 1,2-4; 2,4; 4,10; 5,1; 7,3-10; 8,2).
* Rượu và Lời Thiên Chúa:
Trong Cựu Ước, Luật Môsê (hoặc Lời Thiên Chúa) được đặt trong quan hệ với rượu, trong hai đoạn: Gr 23,9 và Cn 9,25. Sự Khôn Ngoan đã dọn tiệc và mời khách, thật ra là Luật Môsê. Theo truyền thống Kinh Thánh, vị hiền nhân là người suy gẫm và đào sâu Torah. Và rượu của sự Khôn Ngoan là Luật Thiên Chúa. Trong Hc 24,17, sự Khôn Ngoan lại tự ví mình với một cây nho (x. Ga 15,1). Như vậy, ta có chuỗi các khái niệm: Torah = Khôn Ngoan = cây nho = rượu.
* Rượu là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích:
Trong Tân Ước: x. Mt 5,17.21-22.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44. Các TMNL ví giáo huấn của Đấng Mêsia với rượu mới, Đức Giêsu là chàng rể của lễ cưới thiên sai. Rượu mới tượng trưng cho Tin Mừng của Người, Mạc khải của Người; rượu này không thể pha trộn với rượu cũ của Do-thái giáo (Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39).
* Giá trị biểu tượng của rượu Cana:
Trong thần học Gioan, Lời của Đức Giêsu là “Sự Thật” (Ga 8,31-32; 18,37; 17,8.14.17..), và điều quan trọng là Lời này được đồng hóa với chính Đức Giêsu: “Thầy là Sự Thật” (14,6; x. 8,32-26). Tin Mừng của Đức Kitô được nhập thể cách rõ ràng nhất nơi bản thân và trong những biến cố liên hệ tới bản thân con người đang loan báo Tin Mừng này, là Ngôi Lời làm người: “Thầy là ánh sáng, bánh ban sự sống, sự sống lại, sự sống...”. Vậy, Lời của Đức Kitô là Mạc khải của Người, Tin Mừng của Người.
Chúng ta nói “rượu” tượng trưng Lời Đức Kitô là do những nhận định sau:
1) Cặp mẫu Sinai – Cana:
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do-thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan (1,19-2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với chóp đỉnh là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người.
2) Động từ “giữ” (c.10):
Người quản tiệc nói với tân lang: “... Còn anh, anh lại giữ (Hl. tetêrêkas) rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. Động từ “giữ” là động từ tiêu biểu của từ vựng Gioan khi đề cập đến Lời–Điều răn của Đức Giêsu, và Lời này là Lời của Chúa Cha. Tác giả Gioan đã dùng động từ ấy theo nghĩa này ít ra 25 lần (8,51-52; 14,23; 15,20; 17,6; Kh 3,8 / Kh 3,10 / 14,24 / 1 Ga 2,5 = 8,55 / Kh 1,3; x. 22,7.9 / Kh 2,26 / 1 Ga 2,3; 3,22.24; 5,3 / Kh 12,17 / Kh 14,12. Lưu ý: Mc chỉ dùng 1 lần (Mc 7,9); Mt 3 lần (Mt 27,36.54; 28,4); Lc 1 lần (Cv 15,5).
3) Nước thanh tẩy của tập tục Do-thái:
Rượu Đức Giêsu ban lại lấy từ nước đựng trong các chum dùng vào “việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái” (c. 6). Nước này không phải là nước phàm tục, mà là nước dùng trong nghi lễ, để thanh tẩy các thực khách (x. Mc 7,2-5; Mt 15,2; Lc 11,38-39). Chính nước này được Đức Giêsu biến thành rượu. Điều này có nghĩa là kể từ nay, “việc thanh tẩy” không còn được nối kết với việc giữ Luật Môsê nữa (tượng trưng bằng nước trong sáu chum), mà là với việc giữ Tin Mừng của Đức Kitô, giữ Lời của Người (tượng trưng bằng rượu ngon).
Thật ra, đây là giáo lý của tác giả Gioan về việc “thanh tẩy”. Các môn đệ được “thanh tẩy” nhờ Lời Đức Giêsu đã loan báo cho họ (15,3). Sứ điệp mạc khải của Đức Kitô là Sự Thật có thể giải thoát các môn đệ khỏi nô lệ tội lỗi (8,32.34-36). Người nào ở lại trong Đức Giêsu, bằng cách đón nhận Tin Mừng của Người (Ga 15,7; 1 Ga 3,6) thì không phạm tội nữa, mà được thánh hóa (1 Ga 3,6). Lời Đức Giêsu giống như một hạt giống (1 Ga 3,9; x. Lc 8,11; 1 Pr 1,23; Gc 1,18; 1 Cr 4,15). Nhờ tác động của Lời, người môn đệ có thể thắng sự dữ và ít sa vào tội lỗi hơn (1 Ga 2,14). Đây là cách Đức Giêsu “xóa bỏ tội trần gian” (1,29): Người “thanh tẩy” con người bằng Lời Sự Thật của Người.
4) Rượu Cana, biểu tượng của mạc khải cánh chung của Đức Kitô:
Rượu Cana không những là hình ảnh của Lời mạc khải của Đức Giêsu, mà còn diễn tả chiều kích cánh chung của Lời này, trong tư cách là Lời tối hậu và vĩnh viễn.
Chẳng hạn Ga 1,45: Philípphê nói với Natanaen: “Đấng mà Sách Luật Môsê và các Ngôn Sứ nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét”. Từ Môsê và các Ngôn sứ, ta chuyển qua Đức Giêsu. Đây là điều đã được nói ở 1,16-17. Dấu lạ Cana là một sự chuẩn nhận mang tính ngôn sứ cho niềm chờ mong cánh chung xoáy vào con người Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu ra lệnh đổ các chum “đầy tới miệng” (c. 7), điều đó không chỉ có nghĩa là đổ nhiều tối đa, nhưng đặc biệt có nghĩa là “hoàn toàn”. Sau Đức Kitô, không còn có chuyện “còn nữa”, “sau đó” hoặc “thêm nữa”. Lời Người làm đầy mức Mạc khải. Lời Người là “nguồn sung mãn” (1,16). Tuy nhiên, sự sung mãn của Đức Kitô được thêm vào cho một mức độ có trước (x. Dt 1,1). Rượu Người cung cấp được lấy từ nước của Do-thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Nhiệm cục Luật Môsê bị vượt quá về chất lượng bởi Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn “mới” (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (Hl. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; Hl. to elassô).
Những gì xuất hiện tại Cana là như hình ảnh của một mở đầu, thì được kiểm chứng trong TM IV bởi những mẩu đối thoại khác, trong đó nhắc lại sự cao trọng của Đức Giêsu và những ân ban của Người, so với những nhân vật hoặc những định chế của Cựu Ước: hơn Giacóp (4,12), Môsê (5,46; 6,32-35), Abraham (8,58), Đền Thờ (2,19-21; x. 4,21-23), Gioan Tẩy Giả (1,26-33), như Gioan đã tuyên bố (3,29-30): “... Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi (Hl. elattousthai; từ này cùng một ngữ căn với elassô, 2,10)”.
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại “cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Gioan sử dụng 4 lần thuật ngữ “cho đến bây giờ” (Hl. eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Người, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
5) Quan hệ giữa rượu Cana với “ngày thứ ba” và “Giờ của Đức Giêsu”:
Cuối cùng, các thuật ngữ “ngày thứ ba” (c. 1) và “Giờ của Đức Giêsu” đưa lại cho dấu lạ Cana một ý nghĩa cánh chung: cả hai thuật ngữ quy hướng về những biến cố cuối đời của Đấng Cứu thế, về cuộc Khổ Nạn quang vinh của Người.
Yếu tố “rượu” cũng có một vai trò trong chiều hướng cánh chung này. Chúng ta nói rằng “rượu” tượng trưng cho Sự Thật Phúc Âm đã được Đức Giêsu rao giảng, và đã nhập thể nơi chính bản thân Ngôi Lời nhập thể. Thế nhưng lời cuối cùng của sứ điệp này, nghĩa là việc mạc khải hoàn toàn về chân tính của Đức Kitô, chỉ nên rõ khi Đức Giêsu đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). “Vào ngày ấy”, các môn đệ biết rằng Đức Giêsu bằng Cha Người trong thần tính (14,20a; x. 10,31-33; 5,18), và Người liên kết họ với Người trong sự hiệp thông với Cha Người (14,20b). Đây là ngày xảy ra Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa và loài người để tiếp nối và hoàn tất Giao Ước cũ.
Sau Phục Sinh, Tôma nhận biết Đức Giêsu là “Đức Chúa và Thiên Chúa” của ông (20,28); nơi Người, được thực hiện lời hứa thường được các Ngôn sứ nhắc lại: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi”.
Trong thời của mầu nhiệm Phục Sinh ấy, Mạc khải không còn được truyền đạt bằng dụ ngôn hoặc hình ảnh nữa (16,25). Nay đã được Thánh Thần hướng dẫn (16,13-14), các môn đệ không còn dám hỏi: “Ngài là ai?” nữa (21,12; x. 16,23). Kể từ nay, các ông biết Người là “Đức Chúa, Kyrios” (21,12).
Lời Phúc Âm (được tượng trưng bằng rượu Cana) nay rực sáng lên nơi Đức Kitô quang vinh.
- Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo (5b): Có lẽ Đức Maria không hiểu những lời Đức Giêsu nói. Mẹ cũng giống như những người khác trong TM IV, ở tại một bình diện hết sức cách biệt với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định.
- Mỗi chum chứa được khoảng hai hoặc ba thùng (6. NTT): Một metrêtês (mesure) khoảng 40 lít (Hp: êpah, éphah).
- Người quản tiệc ... không biết rượu từ đâu ra (9c): Dọc theo TM IV, ý tưởng này: ‘không biết nguồn gốc Đức Giêsu và Vương quốc của Người (x. 18,36)’ tái xuất hiện dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: 3,8; 4,10; 6,41; 9,29.30; 7,26-27 (x. 19,9).
Đức Giêsu vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người khi xảy ra biến cố Khổ Nạn–Chết–Sống lại (x. Ga 7,33-35; 8,21-23; 23,36; 16,5.28). Đây sẽ là một mạc khải vĩ đại có sức soi sáng các tín hữu và làm cho những kẻ không tin phải bẽ mặt (1,51; 2,18-19; 3,11-15; 5,17.20; 6,62; 8,28; 12,32; 14,19-20).
- Còn gia nhân đã múc nước thì biết (9d): Câu này không chỉ là một ghi nhận về sự kiện. Các “gia nhân” là những người đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9).
Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa cho người giữ các điều răn của Người (14,21). Như vậy, Đức Giêsu tỏ mình ra cho ai yêu mến Người bằng cách đưa Lời Người ra thực hành. Người sẽ cùng với Chúa Cha đến lập cư nơi người ấy (14,23). Ai yêu mến Đức Kitô là gia nhân đích thật của Người, Chúa Cha sẽ “quí trọng” (tôn vinh) kẻ ấy (12,26).
Ba thành ngữ sau đây liên hệ với nhau: “phục vụ Đức Kitô – Vâng theo Lời Người – Đức Kitô tỏ mình ra”. Ai “phục vụ” Đức Giêsu, “vâng theo điều răn của Người” (và ngược lại), Đức Kitô sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Gia nhân ở Cana đã chứng nghiệm điều trên rõ ràng. Họ được biết “rượu ngon” (= một phương diện của thực tại Đức Kitô ) “từ đâu đến”, chính là vì họ đã vâng lời Đức Giêsu mà múc nước đổ đầy các chum. Thánh Gioan có nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1 Ga 2,3).
Trong TM IV, hai viễn tượng lịch sử và thần học thường lồng vào nhau. Như vậy, các câu 7c, 8d, 9d đã giới thiệu các “gia nhân” ở Cana như là điển hình cho đời “phục vụ–vâng lời” mà Đức Kitô đòi hỏi trong Giao Ước mới (x. Ga 13,34; 15,14).
- ông (người quản tiệc) gọi tân lang lại và nói...(9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”.
Trong TM Ga (3,25-30), Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm “bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. “được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn ông Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30).
Sách Khải huyền cũng ca tụng lễ cưới của Chiên Con với Giêrusalem mới (19,7-8; 21,2).
Vì tác giả TM trình bày Dấu lạ Cana phỏng theo những truyền thống về Núi Sinai, ta có thể nhớ rằng Giao Ước Sinai đã được trình bày dưới biểu tượng hôn lễ kể từ nền văn chương ngôn sứ (x. Hs 2,16-25; Is 50,1; 54,4-8; 62,4-5; Gr 2,1-2; 3,1-13...)2. Trong khối Tân Ước có trước TM Ga, ta có thể kể ra: Mt 22,1-14; 25,1-13 (Các dụ ngôn về Nước Trời như tiệc cưới); Mc 2,18-20 (Đức Giêsu tự giới thiệu như là “Chàng Rể”); 2 Cr 11,2; Ep 5,25-33 (Đức Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền Thê).
Loại hình ảnh biểu tượng này được dùng rất phổ biến trong truyền thống Do-thái giáo, chẳng hạn: Đức Giavê là Hôn Phu, còn Israel là Hiền Thê (Mekiltà của R. Ismael về Xh 19,17; Môsê là phù rể (Mekiltà của R. Ismael về Xh 19,17; Đnl 3,12–10,1 (các kinh sư nói chung); núi Sinai được sánh với loan phòng (Dc 8,5.1: R. Simon b. Halafta, khoảng 190); lời tuyên xưng đức tin do toàn dân phát biểu (“mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo”: Xh 19,8; 24,3-7) tương đương với tiếng “xin vâng” đóng ấn sự kết hợp giữa hai vợ chồng (Lv R 6,5–5,1; 20,10–16,1; Ac R, Lời Tựa, 33; Dc R 3, 11.2).
Chính thánh Âutinh đã viết: “Hôn phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của Đức Chúa hiện thân...” 3.
- Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này (11a): Nhiều nhà chú giải (C.K. Barrett; Olsson) ghi chú rằng tác giả TM coi phép lạ Cana không những như là dấu lạ “đầu tiên”, mà còn như điển hình của các dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện. Bởi vì ngài đã viết: “Tautên epoiêsan archên tôn sêmeiôn Iêsous...” (NAB: Jesus did this as the beginning of his signs; TOB: Tel fut ... le commencement des signes de Jésus; NTT: Dấu lạ đầu hết này, Đức Giêsu đã làm ...). Từ ngữ archê (khởi đầu, bắt đầu) gây ra một số khó khăn; vì thế người ta đã đưa vào những dị bản, chẳng hạn prôtên (= thứ nhất).
Dường như trong Gioan, từ archê không có nghĩa là khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, như trong Lc (3,23; Cv 10,37), cũng không phải là lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa (Mc 1,1), thậm chí cũng không phải là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Nhưng từ ấy có nghĩa là khoảnh khắc chính xác mà Đức Giêsu bắt đầu tỏ mình ra cho các môn đệ (x. Ga 15,27; 16,4; 1 Ga 1,1-3). Vậy việc mạc khải tiệm tiến của Đức Giêsu khởi sự tại Cana miền Galilê, và được tiếp tục dọc theo sách Tin Mừng (x. Ignace de la Potterie). Lm Origiênê gọi dấu lạ Cana là “prohêgoumenon sêmeion”,một dấu chỉ “ưu việt” (prééminent). Zerwick & Grosvenor giải thích: “such was the first of the signs that Jesus did; Jesus did this as his initial sign”.
Vậy rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu lạ đầu tiên”, mà cũng còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người.
- và bày tỏ vinh quang của Người (11b): Động từ “bày tỏ” (Hl. phaneroô; manifester; make clear/visible, show) cũng là động từ tiêu biểu của từ vựng Gioan. Ngài ưu tiên dùng động từ này để nói về “mạc khải” (x. Ga 1,31; 2,11; 3,21; 7,4; 9,3; 17,6; 21,1; 1 Ga 1,2; 2,19; 3,2; 4,9).
Còn ý nghĩa của từ “vinh quang” (Hl. doxa) được rút từ Cựu Ước. Theo nghĩa đen, từ Híp-ri kabôd hàm chứa một ý tưởng về “trọng lượng” (động từ kabêd: cân nặng). Theo nghĩa bóng, từ này có nghĩa là “trọng (quan trọng, trọng đại)”, nghĩa là giá trị, tầm quan trọng của một hữu thể, sự tôn kính mà hữu thể ấy gợi ra; tóm, là bản tính, bản lĩnh (nhân cách) của kẻ ấy, dù kẻ ấy là ai.
Thế mà trong truyền thống Cựu Ước, Đức Chúa (Yhwh) mạc khải “vinh quang” của Ngài ra bằng những biểu lộ bên ngoài của chính bản thân Ngài, nghĩa là xuyên qua “những việc vĩ đại”, “những việc kỳ diệu” (= phép lạ) được thực hiện trong cuộc Tạo dựng và trong Lịch sử Dân Ngài (x. Tv 19/18B,2; Ds 14,21.22; Xh 14,18; 16,7; 24,25t; 29,43; 40,34; 1 V 8,10t...). Con người có thể hiểu rõ hơn Đức Chúa là ai hoặc “vinh quang” của Ngài là thế nào, khi suy nghĩ về sự tỏa rạng của bản thân Ngài trong công cuộc tạo dựng và trong lịch sử Dân Thiên Chúa tuyển chọn.
Tại Cana, Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên như một biểu lộ đầu tiên về “vinh quang” của Người, một khởi đầu cho công cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Người. Các tông đồ có hiểu gì chăng ?
| Trước Phục Sinh, và chính xác hơn, vào ngay ngày các môn đệ được chứng kiến dấu lạ Cana, dĩ nhiên các ông không thể hiểu thấu bí mật sâu xa của chân tính Đức Kitô. Các ông không thể nắm được tính siêu việt của chân tính này. Cứ cho đi là niềm tin của các ông được khơi lên bởi một phép lạ–dấu chỉ, thì muốn hợp lý, nên suy ra là cũng như đối với ông Natanaen, niềm tin ấy có đối tượng là tư cách Mêsia của Đức Giêsu (x. Ga 1,47-50; rồi 7,31; 10,41-42; 12,37-42).
| Sau Phục Sinh, Hội Thánh được soi sáng trọn vẹn về mầu nhiệm Đức Giêsu. Thế là khi nhớ lại những gì đã xảy ra tại Cana, tác giả Gioan (cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu) đã hiểu rằng, ngay ở dấu lạ đầu tiên này, Đức Giêsu đã bắt đầu tự mạc khải ra như “Hôn Phu thần linh của tiệc cưới thiên sai”, tiệc cưới của Giao Ước mới, trong đó sẽ được chứng thực “ngày thứ ba” của Phục Sinh, khi “Giờ của Đức Giêsu” đã đến (x. Ga 14,20).
Phụng Vụ lễ Hiển Linh chú giải thật đúng hình ảnh biểu tượng mang tính ngôn sứ của Cana, khi hát lên Điệp ca của Thánh ca Benedictus: “Tân Nương là Giáo Hội, ngày hôm nay được phối hiệp cùng Đức Kitô, vị Lang Quân thống trị Nước Trời... Nước hóa rượu ngon, làm vui lòng thực khách”.
- Các môn đệ đã tin vào Người (11c): Trong TM IV, đề tài “đức tin” là đề tài căn bản. Động từ “tin” (Hl. pisteuô) có 3 cách dùng:
- tin “ai” (Hl. pisteuein tini) nghĩa là chấp nhận lời người ấy là thật: 2,22; 4,21-50;
- tin “vào ai” (Hl. pisteuein eis tina) hàm ý gắn bó với người ấy: 2,11; 3,16.18.36; 4,39;
- tin “vào danh ai” (Hl. pisteuein eis to onoma tinos): đây là cách diễn tả hoàn hảo nhất về đức tin. Tác giả Gioan là người duy nhất đã dùng cách này trong Tân Ước (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13; 3,23). Đây là sự gắn bó với một người theo nội dung của tên người ấy. “Tin vào danh Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18) có nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là “Con Một Thiên Chúa”.
- Sau đó (meta touto...) (12a): Một vài tác giả (J.H. Bernard; A. Feuillet) nghĩ rằng, trong ngôn ngữ Gioan, công thức meta touto (= sau việc ấy; après quoi) có ý nhắm tạo ra một liên hệ lô-gích giữa những gì đi trước và những gì tiếp sau, y như thể đoạn sau là một hậu quả hoặc một minh họa mới của đoạn trước. Tác giả đã dùng 4 lần, luôn luôn trong quan hệ với Đức Giêsu (Ga 2,12; 11,7-11; 19,28). Ý nghĩa rất gần với ý nghĩa của “tauta (hoặc touto) eipôn” (= “khi đã nói những điềøu ấy xong”; hoặc: “sau khi đã nói những điều ấy”) (Ga 7,9; 9,6; 11,18.43; 13,21; 18,1; 20,20-22).
Còn thuật ngữ meta tauta (= sau các biến cố ấy) thì khác: nó chỉ đóng vai trò chuyển mạch về văn chương thôi, một chuyển mạch không xác định, giữa hai đoạn (Ga 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 13,7; 19,38; 21,1).
Vậy, tương quan giữa 2,1-11 và 2,12 là thế nào? Phần tiếp của c. 12 sẽ cho thấy.
- Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum (12bc): Ở đầu bài tường thuật, Đức Trinh Nữ Maria ở một bên, Đức Giêsu và các môn đệ ở một bên, như là hai nhóm đến dự tiệc cưới theo những nẻo đường khác nhau. Nhưng đến cuối bài, Đức Trinh Nữ, các anh em và các môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ra như một nhóm duy nhất siết chặt quanh Người. Chắc hẳn tác giả muốn nói rằng họ đã xích lại gần nhau nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, mà Đức Trinh Nữ (c. 5) và các môn đệ (c. 11) đã chứng tỏ. Hơn nữa, trên bình diện đức tin, không có khác biệt giữa bà con họ hàng (thân mẫu và các anh em) và các môn đệ.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Phần tường thuật (1-3):
Chi tiết thời gian “ngày thứ ba” đánh dấu tuần lễ khai mạc hoạt động của Đức Giêsu; nhưng chi tiết này cũng nhắc lại những sự kiện lớn thuộc lịch sử cứu độ xảy ra vào ngày thứ ba: Đức Chúa tỏ mình ra cho Dân Ngài vào ngày thứ ba trên núi Sinai (Xh 19,10-11; x. 19,16). Nhưng dựa vào Hs 6,2, chi tiết “ngày thứ ba” còn có liên hệ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu (“theo lời Kinh Thánh”: Lc 24,46 và 1 Cr 15,4). Có thể nói tác giả Gioan minh nhiên thiết lập quan hệ giữa “ngày thứ ba” và “sự chết-sự sống lại” của Đức Giêsu (x. 2,19-22). Trong TM Ga, công thức “ngày thứ ba” cũng liên hệ với “Giờ của Đức Giêsu” (x. 2,1-4): đây là kiểu nói để gọi ba biến cố Khổ Nạn – Chết – Sống lại của Đấng Cứu thế, coi như một thực tại duy nhất (x. 2,4; 7,30; 8,20; 13,1...).
“Tại Cana miền Galilê” (1a và 11a): Đây là một chi tiết địa lý, nhưng hẳn cũng có một lý do thần học. Những người Pharisêu hỏi Nicôđêmô: “Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả!” (7,52). Đấy là điều người ta gọi là “sự mỉa mai thần học của Tin Mừng IV”: Cho đến nay, người ta vẫn cho rằng không thể có một ngôn sứ xuất thân từ miền Galilê; thế mà, bây giờ tại Cana miền Galilê, lại xảy ra cuộc tỏ mình đầu tiên của Vị Ngôn sứ siêu đẳng, Đức Giêsu Nadarét, Đấng được nói đến trong Luật Môsê và các Ngôn sứ (Ga 1,45). Vị Ngôn sứ cánh chung (x. Ga 6,14) xuất thân từ Nadarét, thôn làng mà người ta cho rằng không thể có gì tốt phát sinh từ đó được (Ga 1,46).
Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần (ba ngày: trường hợp một quả phụ tái giá). Thân mẫu Đức Giêsu có đến dự: tác giả không gọi tên bà ra, tương tự như ở 19,25-27: Rõ ràng tác giả quan tâm đến vai trò của Đức Trinh Nữ được diễn tả ra bằng các danh hiệu “thân mẫu Đức Giêsu” và “bà” hơn là đến tên thật của bà. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh – Do-thái giáo, Dân Ít-ra-en thường được hình dung như một “phụ nữ” (x. Is 52,2; Dcr 9,9). Do đó, ta có thể hiểu lý do khiến Đức Giêsu nói với thân mẫu như thế (“Thưa bà”): Đức Giêsu coi thân mẫu chính là hiện thân Dân Ít-ra-en đã tới thời viên mãn. Ta có thể nói rằng từ ngữ “bà” trong TM Ga tương ứng với hình ảnh “thiếu nữ Sion” được TM Lc gán cho Đức Maria (Lc 1,28; x. Dcr 2,14).
Tác giả TM ghi nhận là sự cố đầu tiên khởi đầu hoạt động công khai của Đức Giêsu là một tiệc cưới. Ngoài việc ghi lại một sự kiện, hẳn tác giả muốn vận dụng hình ảnh “tiệc cưới” nhằm nhắc lại giao ước của Thiên Chúa với Dân Ngài, và đặc biệt gợi tới sự thể hiện cánh chung, khi Thiên Chúa ký kết giao ước với toàn thể nhân loại. Sâu sắc hơn nữa, hình ảnh lễ cưới nhắc lại giao ước của Đấng Mêsia với Dân Người (x. Hs 2,16-25).
Đang giữa tiệc cưới thì hết rượu …
* Các đối thoại (4-8)
(1) Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu
Thân mẫu Người nói: “Họ hết rượu rồi” (3). Có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó. Chỉ có điều là bản văn không đủ rõ để có thể kết luận rằng Đức Maria đã xin một phép lạ (x. Ga 4,47; 11,3.21-22). Nhưng phải trợ giúp thế nào thì bà cũng không rõ. Bà không xin rõ ràng một phép lạ. Có lẽ bà có biết sứ mạng thiên sai của Con mình; nhưng bà có thể chờ đợi phép lạ như chuyện hết sức tự nhiên chăng? Vả lại, hẳn là quá đáng nếu Đức Maria dám xin một phép lạ, lại là phép lạ đầu tiên, để chỉ kéo dài một lễ hội trong làng? Có lẽ ở đây, với tấm lòng vừa đầy sự chú tâm ân cần vừa đầy cảm thương của người phụ nữ, Đức Maria đã kêu đến Đức Giêsu, mà mơ hồ hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ làm “một điều gì đó”, rằng Người sẽ can thiệp cách nào đó, mà Mẹ cũng chẳng biết thế nào cả.
Bằng câu nói “Chuyện đó can gì đến bà và con?” (4), Đức Giêsu từ chối không làm “phép lạ” mà Người gán cho Thân mẫu là có ý xin. Nhưng Đức Giêsu lại liên kết điều Thân mẫu xin (cho có rượu) với thuật ngữ “Giờ” khiến độc giả ngờ ngợ là ở đây có những biểu tượng.
“Giờ”ø của Đức Giêsu là Giờ Khổ Nạn – Phục Sinh, là khoảnh khắc tối hậu trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra; còn rượu, theo truyền thống Do-thái giáo và các Giáo Phụ (vd: thánh Âutinh), tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). Thân mẫu Người nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất (như chẳng hạn, Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thân mẫu nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn-Phục Sinh. Đó là điểm khác biêït giữa Đức Giêsu và Thân mẫu Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất. Đây là một đặc điểm của lời Đức Giêsu rao giảng, mà TM IV minh họa rõ ràng (Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thật ra, tác giả không nói rõ ràng ý nghĩa của “rượu” (x. ngược lại Ga 2,21; 7,39), nhưng ông có gợi ý để ta coi “rượu” là biểu tượng của Lời Đức Kitô, của Mạc khải, của Luật mới mà Đức Giêsu mang lại, của Tin Mừng của Người.
Đây không phải là một cách giải thích mới. Nhiều Giáo Phụ đã coi “nước” trong các chum ở Cana là hình ảnh của Lề Luật và các Ngôn sứ, được Đức Giêsu biến đổi bằng Tin Mừng của Người4. Thánh Âutinh đã viết: “Đức Kitô đã giữ rượu tốt nhất lại cho đến bây giờ, điều ấy có nghĩa là Tin Mừng của Người” 5. Trong số các nhà chú giải hiện đại, Bultmann khẳng định: “Rượu không liên hệ tới một ơn nào của Đức Kitô nói riêng, nhưng đúng hơn tới ơn là chính Đức Giêsu, trong toàn vẹn bản thân của Người, tới Đức Giêsu trong tư cách là Đấng mạc khải...” 6.
Trong thực tế, Cựu Ước, truyền thống Do-thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta nhiều ánh sáng.
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do-thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan (1,19–2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với chóp đỉnh là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người. Động từ “giữ” (“giữ rượu”) cũng là động từ tiêu biểu của truyền thống Gioan khi nói về Lời – Điều răn của Đức Giêsu. Đàng khác, các chum đựng nước thanh tẩy theo tập tục Do-thái tượng trưng Luật Môsê bất toàn (chỉ có sáu chum), giờ đây đựng rượu tuyệt hảo, có thể giải thích đó là Tin Mừng, là Lời của Đức Kitô: Người “thanh tẩy” con người bằng Lời Sự Thật của Người. Đức Giêsu cho thấy Luật của Người có sự hoàn hảo khi bảo tôi tớ đổ các chum “đầy tới miệng” (c. 7).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (Hl. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; Hl. to elassô).
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại “cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Gioan sử dụng 4 lần thuật ngữ “cho đến bây giờ” (Hl. eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Người, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
(2) Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Dù bị Đức Giêsu từ chối, dù không hiểu các ý định của Con, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (c. 5b). Câu này khiến ta nghĩ đến lời của Pharaô: “Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55). Chúng ta còn nghĩ đến các câu nói của các vị trung gian trong Cựu Ước nói lên lập trường của mình để mời gọi toàn dân chọn Đức Chúa: Tùy hoàn cảnh, vị trung gian ấy có thể là một vị ngôn sứ (Er 19,3-8; 24,3-8 [Môsê]; Gr 42-43,4 [Giêrêmia]), một vị vua (2 V 23,1-3 [Giôsigiahu]; 2 Sb 15,9-15 [Axa]), một thủ lãnh (Gs 1; 24,1-28 [Giôsuê]; Nkm 5,1-13 [Nơkhêmia]; 1 Mcb 13,1-9 [Simon]), một tư tế (Er 10,10-12; Nkm 9-10 [Êdơra]), một thiên thần (Lc 1,26-28 [Gabriel]). Vị này đóng vai trò sứ giả giữa Đức Chúa và các anh em mình (Đnl 5,5). Vị này mời gọi chọn lựa, nhưng bắt đầu bằng việc nhận lấy cho mình những yêu cầu của Đấng mà ngài đại diện, để làm gương (x. Gs 24,15; Nkm 5,10). Do bản văn Cana gần với bản văn Sinai, chúng ta thấy Thân Mẫu Đức Giêsu có vai trò như Môsê: so sánh Ga 1,3-5 với Đnl 5,5, để rồi tại Sinai, ân ban Lề Luật đã được trao tặng sau khi Dân đã tuyên xưng đức tin; và tại Cana, ân ban rượu mới (biểu tượng của Luật mới được Đức Giêsu mang đến) đã được báo trước và tạo cơ hội cho xảy ra nhờ đức tin của Đức Maria được thông truyền cho các gia nhân.
(3) Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Đức Giêsu đã bảo những người hầu bàn hai câu: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi” và: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (c. 7). Các gia nhân không nói một lời, họ vâng lời thật chính xác, họ “giữ” đúng các lời Đức Giêsu truyền. Trước tiên, họ “làm đầy”, đưa đến mức hoàn hảo, những gì còn vơi, những gì chưa hoàn hảo, trong truyền thống cũ. Kế đó, họ múc nước từ những chum đá (tượng trưng Luật cũ bất toàn) đưa cho ông quản tiệc để được chứng thực (nước đã hóa thành rượu hảo hạng). Đấy chính là dấu lạ.
* Phần tường thuật (9-11)
Khi nếm nước đã biến thành rượu, “người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (9c)”, vì ông khơng “làm” các lời Đức Giêsu truyền, ông không “giữ” lời Người. Nhưng “còn gia nhân đã múc nước thì biết” (9d), bởi vì họ đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9). Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (14,21; x. 14,23; 12,26).
“Người quản tiệc mới gọi tân lang lại và nói...” (9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”. Trong TM IV (3,25-30), Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm “bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. “được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay, Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30). Xem thêm Kh 19,7-8; 21,2.
Và tác giả kết luận: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này” (11a): Rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu lạ đầu tiên”, mà cũng còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người. “Các môn đệ đã tin vào Người” (11c), nghĩa là gắn bó với Người ấy, trong khi chờ đợi một ngày nào đó sẽ tin “vào danh Người”, nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là “Con Một Thiên Chúa”.
Sau đó, “Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum” (12bc). Cha M. Thurian (+1996) đã viết: “Đến cuối bài tường thuật, Đức Maria và các môn đệ làm thành cộng đoàn thiên sai, hiệp nhất trong niềm tin vào Con Thiên Chúa đến biểu lộ vinh quang của Người; đó chính là nòng cốt của Giáo Hội đang vây quanh Đức Chúa của mình, mà lắng nghe Lời Người và thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Đức Maria hiện diện với cộng đoàn Giáo Hội này và ta có thể tưởng tượng ra Đức Kitô đang nhìn nhóm vây quanh mình mà nói: ‘Đây là Mẹ tôi và đây là anh em tôi ; bất cứ ai thực hiện ý muốn của Cha tôi trên trời, thì người ấy là một người anh em, một người chị em, và một người mẹ đối với tôi’ (x. Mt 12,49 và //)” 7.
+ Kết luận
Được mời đến Cana dự tiệc cưới, Đức Giêsu đã đến trong tư cách người bạn, có các môn đệ cùng đi theo. Thân mẫu Người cũng được mời dự tiệc. Tại đây, Người đã thực hiện “dấu lạ đầu tiên”: biến nước thành rượu ngon để cứu chữa một đám cưới. Đối với tác giả Gioan, người đã viết trong Lời Tựa của Tin Mừng: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1), thì “khởi đầu các dấu lạ” này, nghĩa là các việc kỳ diệu có chức năng chứng thực cho tư cách Mêsia của Người, chính là cách tỏ bày trong thời gian vinh quang vĩnh cửu của Người. Tác giả ghi lại “dấu lạ” này để chúng ta tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để chúng ta tin chúng ta có sự sống đời đời nhờ danh Người (x. Ga 20,30-31).
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Rõ ràng là dấu chỉ tiệc cưới, nếu một đàng phong phú ý nghĩa, thì đàng khác cũng rất dị nghĩa. Tiệc cưới, dấu chỉ tự nhiên của niềm vui và niềm hân hoan, bị đe dọa bởi nỗi buồn do hết rượu. Giao ước giữa người nam và người nữ tự nó rất mỏng dòn, và cũng như mọi thực tại dưới ánh mặt trời, nó bị đe dọa bởi bạo chúa khắc nghiệt là sự chết. Tiệc cưới vẫn là một biểu tượng tích cực: nó gợi tới tình yêu, sự chung thủy, sự phong nhiêu, sự sống. Nhưng nó cũng bị đe dọa bởi nỗi buồn, sự thất trung, sự đau khổ. Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Đức Kitô biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
2. Rượu là dấu chỉ của niềm vui của Tin Mừng, của tình yêu, của Thánh Thần, của sinh lực mới tuôn trào ra từ sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui sẽ đưa lễ cưới khỏi nỗi buồn, khỏi sự chán chường do Lề Luật. Và rượu vừa chan hòa vừa hảo hạng. Đời Kitô hữu khơng bao giờ thiếu rượu là phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, có ai trong chúng ta dám nghĩ rằng mình đã sống được ngang tầm vời phúc lành của Thiên Chúa? Ai dám nói rằng tính ích kỷ không bao giờ lấn lướt tình yêu nơi mình? Ai lại không bị thương tích ngày qua ngày do tội lỗi? Do đó, sự trung thành là một ơn ta phải hết lòng cầu xin. Chính ân huệ dồi dào Thiên Chúa ban giúp ta thắng vượt nỗi lo sợ về các giới hạn của đời sống chúng ta. Chúng ta bị dính cứng vào mặt đất, dễ mệt nhọc, bị đủ thứ sự dữ khống chế, chúng ta mỏng dòn và dễ bị tổn thương, nhưng niềm tin vào Chúa sẽ chiến thắng mọi sự dữ và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
3. Có thể nói lời Đức Maria nói với gia nhân ở Cana là “di chúc thiêng liêng của Mẹ” (A. Serra), bởi vì đó là những lời nói cuối cùng của Mẹ được các tác giả Tin Mừng ghi lại. Đức Maria sẽ không nói nữa, nhưng Mẹ đã nói được điều chính yếu. Mẹ đâu có bổn phận mở cửa sổ khi Đức Kitô có vẻ muốn đóng các cửa ra vào! Trong tư cách là “Mẹ” của Hội Thánh, Mẹ cầu nguyện và chuyển cầu để con cái Mẹ thường xuyên mở lòng ra với các lời của Chúa Giêsu, những lời vừa nặng ý nghĩa vừa có sức giải phóng. Đấy là “những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Hôm nay, chúng ta là những gia nhân của các đám cưới, chúng ta có khôn ngoan đủ để đón nhận lời mẹ đề nghị chăng? Lm. PX Vũ Phan Long, ofm
Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời "tỏ tình" với loài: TN 2-C59
Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời "tỏ tình" với loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán: "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ".
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương Chúa quá ít.
Vì yêu thương chúng con nhiều, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa.
Yêu thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Is 62,1-5
Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân Do Thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc.
Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa: dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: "Chẳng còn ai réo tên ngươi là 'đồ bị ruồng bỏ', xứ sở ngươi hết bị tiếng là 'phận bác duyên đơn'. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ".
2. Đáp ca Tv 95
Thánh vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa: vui mừng, ca tụng và loan báo "Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm".
3. Bài đọc II 1 Cr 12,4-11 (Chủ đề phụ)
Có nhiều chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô: người có tài thì khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau. Thánh Phaolô nhắc cho họ nhớ: (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần ban; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người; (3) và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chung của Giáo Hội.
4. Tin Mừng Ga 2,1-12
Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là "dấu chỉ đầu tiên" qua đó Chúa Giêsu "bày tỏ vinh quang của Ngài" để cho "các môn đệ tin vào Ngài" (câu 11). Chúa bày tỏ những gì?
Trước hết Ngài cho thấy Ngài là Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Chúa Giêsu.
Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người Do Thái: bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.
Bài tường thuật cũng nói tới "giờ" (Chúa Giêsu nói với Đức Maria: "Giờ con chưa đến"). "Giờ" là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới "giờ" ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tình yêu của Chúa
Trong các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất? Thưa là tình cha mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết "Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình" (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.
Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền.
Thế nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế. Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.
Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất: vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta: "Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu". Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.
Con người là một sinh vật yêu thương: con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.
2. Phép lạ ở Cana
Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi li dị càng ngày càng nhiều; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống chung suốt đời.
Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.
Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin?
3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu
Tin Mừng theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng này, tuy nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà bao trùm cả đời sống mọi người; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.
Việc Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là "dấu chỉ" và còn là "dấu chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài". Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành rượu chỉ tới là gì? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc I: đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc như tiệc cưới: "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ".
Chúa Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài đã biến đổi sự chết thành sự sống.
Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.
4. Hạnh phúc mong manh
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
|||
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động: Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về "Tiệc cưới Cana". Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.
Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến "ngày thứ ba" thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: "Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến" (Ga 2,4). Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ "Giờ" tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy "Giờ" tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để "Các môn đệ tin vào Người" (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: "Họ hết rượu rồi".
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu. Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương. Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ. Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria luôn là đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen. (TP)
5. Đức Maria, gương mẫu của sứ vụ
Tin Mừng thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần: một lần ở Cana lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ. Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Tin Mừng nhất lãm nói rõ hơn về điều này.
Trong biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại "Xin Vâng" theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.
Trong biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến: thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.
Trong biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị: nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được, nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.
Trên đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.
Tất cả chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ: sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức Mẹ và bắt chước Người. (FM)
6. Chuyện minh họa
a/ Con sâu trong tảng đá
Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: "Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ". Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: "Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài." (Trích "Món quà giáng sinh")
b/ Cái nhìn của bậc thánh nhân
Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chỉ Thiên Chúa mới có thể đem lại cho con người niềm vui chân thật và hạnh phúc trọn vẹn. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi thành viên trong đại gia đình này / không chân thành yêu thương và quảng đại nâng đỡ nhau.
2. Trên thế giới ngày nay / tình trạng đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình đang gia tăng đến mức báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn được hạnh phúc và bình an.
3. Gia đình tốt thì xã hội và Giáo hội mới tốt được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình Kitô hữu / luôn quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái của mình.
4. Một trong những điều kiện hết sức quan trọng / đem lại hạnh phúc lâu dài cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là cần tìm hiểu kỹ lưỡng và chuẩn bị chu đáo trước khi kết hôn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho giới trẻ của giáo xứ chúng ta / biết tích cực tham gia các khóa dự bị hôn nhân / trước khi cử hành bí tích Hôn phối.
Chủ tế: Lạy Chúa, nếu không có Chúa ban ơn giúp sức, chúng con không thể làm được việc gì thành công. Vậy xin thương ban ơn trợ giúp để mọi việc làm của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Chúng con cầu xin.
Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng TN 2-C60
Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng hảo hạng, vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể; tuy nhiên những người đồng dự tiệc với Đức Giêsu không hiểu được như vậy. Vì vậy, biến cố Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này đã tác động mạnh mẽ trên những người biết sự việc này. Qua dấu lạ này, người ta và các môn đệ của Đức Giêsu nhận ra Ngài là một con người rất đặc biệt, Ngài là người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến.
“Vạn sự khởi đầu nan”. Đức Giêsu bắt đầu sự nghiệp bằng việc rao giảng. Không biết Ngài rao giảng có thành công hơn những thầy dạy khác trong dân Do Thái không? Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu theo sự thỉnh cầu của Đức Mẹ. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời nhắc nhở Đức Giêsu: “họ hết rượu rồi”.
Đức Maria rất tế nhị, Mẹ biết điều làm cho đôi tân hôn bối rối và không biết giải quyết làm sao. Mẹ biết nếu Đức Giêsu biết điều này, Đức Giêsu có thể làm một cái gì đó cho họ; và Mẹ đã không thất vọng. Qua sự kiện này, chúng ta thấy Đức Mẹ hiểu Đức Giêsu đến độ nào! “Ngài nói sao, các anh cứ làm như vậy”. Đức Giêsu đã can thiệp như Mẹ tiên đoán. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy.
“Qua dấu lạ này, các môn đệ đã tin vào Ngài” (Ga.2, 11). Các môn đệ của Đức giêsu tin Đức Yêsu là ai? Chắc chắn không phải các môn đệ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể vì lúc đó mầu nhiệm cao siêu này chưa được con người nhận rõ. Có lẽ các môn đệ tin Đức Giêsu là Người từ Thiên Chúa, Người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến để yêu thương và giúp đỡ dân. Cho dù người ta có biết có ý thức hay không, Đức giêsu vẫn là Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng, điều này các môn đệ chưa ý thức, chưa biết được vào thời điểm đó. Đức Giêsu cũng là người phải khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ đối với Ngài. Sau này Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?…. Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mt.16, 16).
Đức tin của các môn đệ đối với Đức Giêsu mỗi ngày một lớn dần, nhưng không phải là đồng đều đối với tất cả mọi người. Một số môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy nhiều điều khó nghe, đã bỏ Đức Giêsu không theo Ngài nữa: ”Lời này chướng quá, ai nghe cho nổi……Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu nữa” (Ga.6, 60.66). Khủng hoảng đức tin vào Đức Giêsu lên tột đỉnh với biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, nhưng với biến cố Phục Sinh và những lần hiện ra cho các tông đồ, các môn đệ Đức giêsu tin vào Đức Giêsu mãnh liệt hơn, và biết Ngài là ai rõ ràng hơn sau biến cố Phục Sinh.
Với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Giêsu: Người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa. Cũng với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra Thánh Thần là ai, sau khi đã nhận ra Đức Giêsu là ai, sau khi nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với họ (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13). Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa; Ngài biến đổi lòng người, Ngài giúp con người tin vào Đức Giêsu.
Theo thánh Phaolô, Thánh Thần làm sinh động Hội Thánh qua những ân sủng của Ngài. Tất cả những gì hay tốt con người có, đặc biệt những gì con người đang phục vụ Giáo Hội, đều đến từ Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giảng dậy, ban ơn quảng đại để phục vụ anh chị em mình, ban đặc sủng để chữa bệnh. Thánh Thần ở nơi cung lòng mỗi người (Ga.14, 16; 1Cor.3, 16-17).
Thánh Thần đổi mới mọi sự, đổi mới vận mạng một dân thành: thành Giêrusalem không còn bị ruồng bỏ nữa, nhưng được yêu vì. Cũng chính Thánh Thần biến đổi lòng dạ con người, đưa dẫn con người trở về với Thiên Chúa, đưa con người trở về với anh chị em mình. Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn con người, thánh hóa con người, làm cho con người trở nên dễ yêu dễ thương, trở nên xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is.62, 5).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Bạn có cảm nghiệm những gì xảy tới cho những anh em sống xung quanh, liên hệ mật thiết với bạn, và bạn đã xin Thiên Chúa can thiệp không? Xin chia sẻ nếu bạn có điều này.
Chỉ với phép lạ biến nước thành bánh, đã đủ cho người ta kết luận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể chưa? Tại sao?
Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ.
Phụng vụ Chúa Nhật này nêu bật đoạn Tin Mừng tường thuật dấu lạ đầu tiên của Đức Giê-su: TN 2-C61
Phụng vụ Chúa Nhật này nêu bật đoạn Tin Mừng tường thuật dấu lạ đầu tiên của Đức Giê-su được thực hiện ở tiệc cưới Ca-na.
Theo truyền thống của các Giáo Hội Đông Phương, ba biến cố: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, phép rửa của Đức Ki tô và dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na, hình thành nên ba biến cố Chúa Hiển Linh và được cử hành cùng nhau. Theo truyền thống Tây Phương, năm C là năm duy nhất trong ba năm phụng vụ, tưởng niệm việc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài ở tiệc cưới Ca-na, sau phép rửa của Đức Ki tô và việc các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, như vậy duy trì mối liên hệ giữa ba biến cố, ba cuộc hiển linh đầu tiên mở ra mầu nhiệm của Đức Giê-su là Vua, Con Thiên Chúa, Đấng Mê-si-a.
Is 62: 1-5
Chủ đề của bài đọc I là cuộc phục hưng Giê-ru-sa-lem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân Ngài.
1Cr 12: 4-11
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô rằng muôn vàn ân sủng mà họ hưởng được đều phát xuất từ một Thần Khí duy nhất, Đấng tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi cách vì lợi ích của cộng đoàn.
Ga 2: 1-12
Nhân tiệc cưới ở Ca-na, Chúa Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên: Ngài hóa nước thành rượu, tiên trưng việc hóa rượu thành máu của Ngài, đây sẽ là dấu chỉ Giao Ước mới giữa Thiên Chúa và nhân loại.
BÀI ĐỌC I Is 62: 1-5
Bài thơ này ca ngợi sự phục hưng sắp đến của Giê-ru-sa-lem vào giờ phút khiến lòng người phải nghi ngờ. Sau khi trở về từ Ba-by-lon, những người lưu đày gặp lại thành thánh nghèo nàn, dân cư thưa thớt, dưới ách thống trị của ngoại bang, Đền Thờ hoang tàn đổ nát suốt năm mươi năm qua. Trước tiên họ bắt tay tái thiết đền thờ, nhưng công việc đã phải bị bỏ dỡ vì thiếu tài chánh và vì những chống đối khác nhau. Họ thất vọng vì công việc quá lớn lao và những khó khăn gặp phải.
Một ngôn sứ vô danh, người ta đặt cho ông biệt hiệu là I-sai-a đệ tam, môn đệ của I-sai-a đệ nhị, công bố rằng Giê-ru-sa-lem sắp được phục hưng và tìm lại vinh quang của mình.
1. Sự phục hưng huy hoàng sắp đến:
Phải chăng chính vị ngôn sứ nói hay lời hứa được đặt trên môi miệng của Đức Chúa? Thật khó phân định điều này; một sự luân phiên giữa giọng nói của vị ngôn sứ và giọng nói của Đức Chúa là một trong những nét đặc trưng của bài thơ này. Chung chung, vị ngôn sứ không bao giờ nói ở ngôi thứ nhất, trừ một lần, khi ông biện minh sứ vụ của mình. Qua những gì xảy ra trước đó, chúng ta biết rằng những người hồi hương luôn luôn phàn nàn về việc Thiên Chúa trì hoản phục hưng Thành Thánh và Đền Thờ của Ngài.
Thật kỳ lạ biết bao, vị ngôn sứ vặn lại, sự chậm trể không đến từ Thiên Chúa nhưng từ tội lỗi của các ngươi! Vì tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Ngài vẫn thường hằng. Đó là ý nghĩa của câu thứ nhất mà người ta toan tính gán cho chính Đức Chúa: “Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc”, nghĩa là Giê-ru-sa lem phải được tái thiết trong đức công chính của nó, trong ơn cứu độ của nó. Ở đây đức công chính và ơn cứu độ thì tương đương rất rõ nét.
Vị ngôn sứ ngỏ lời với Thành Thánh, ông loan báo rằng Thành Thánh sẽ được phục hưng trong huy hoàng rạng rỡ; những quốc gia và những vua chúa đã áp bức nó rồi sẽ thấy vinh quang của nó. Người ta thường nhận ra trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ tam, một ý tưởng đắc thắng. Dân Thiên Chúa sẽ hả dạ vì những nhục nhã họ đã phải chịu. Ơn cứu độ của Giê-ru-sa-lem sẽ “rực lên như ngọn đuốc”, “rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng”.
2. Hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài:
Phần cuối của đọan trích này lấy lại hình ảnh về hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài, hình ảnh này đã trở thành kinh điển kể từ ngôn sứ Hô-sê, rồi đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Giao Ước được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu: dân Chúa như người vợ tưởng rằng mình bị bỏ rơi gặp lại sự sủng ái của Đức Chúa như người chồng.
Nhưng để Giao Ước có thể được thiết lập lại, quá khứ tội lỗi phải bị xóa nhòa. Dấu hiệu đầu tiên là gán tên mới cho Giê-ru-sa-lem. Một tên mới tạo nên một căn tính mới. Chúng ta biết tầm quan trọng của tên trong truyền thống kinh thánh. Tên diễn tả bản chất sâu xa của một con người hay vận mệnh của người mang tên ấy. Giê-ru-sa-lem sẽ không còn được gọi “Đồ bị ruồng bỏ” nhưng “Ái khanh lòng Ta hỡi”. Xứ sở của nó sẽ không còn là “Phận bạc duyên đơn”, nhưng “Duyên thắm chỉ hồng”.
Còn hơn thế nữa, Giê-ru-sa-lem sẽ được Đấng tác thành mình lập hôn ước “như trai tài sánh duyên cùng thục nữ”, nghĩa là, mọi tội lỗi, bất trung, thờ ngẫu tượng của dân thành mà các ngôn sứ đã nhiều lần gọi “con điếm” vì đã chạy theo các thần minh khác, nay được phục hồi sự trinh khiết của mình: tình yêu của Thiên Chúa đã thanh tẩy Thành Thánh. Sau này sách Khải Huyền sẽ gợi lên hôn lễ của Con Chiên với thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc: “Nay đã tới ngày cử hành hôn lễ của Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẳn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19: 8).
Ngon sứ I-sai-a đệ tam chắc chắn nhớ lại bản văn của vị tiền nhiệm của mình, I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đã mô tả cho những người lưu đày những rực rỡ của Thành Thánh Giê-ru-sa-lem tương lai và báo trước cho Thành Thánh: “Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không còn nhớ bao nhục nhằn thời góa bụa. Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng đã tác thành ngươi, tôn danh Người là Chúa các đạo binh; Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en, tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất” (Is 54: 4-5).
3. Niềm vui hôn ước và niềm vui thời Mê-si-a.
“Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mê-si-a, niềm vui mà sự dồi dào của rược tiệc cưới Ca-na loan báo theo cách khác.
BÀI ĐỌC II 1Cr 12: 4-11
Trong năm Chúa Nhật liên tiếp, Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta đọc những đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, từ chương 12 đến chương 15.
1. Bối cảnh:
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô và những năm 50-52. Thánh nhân đã lưu lại thành phố này khoảng mười tám tháng và đã để lại một cộng đoàn Ki tô hữu rất sinh động nhưng cũng gây nên nhiều nỗi bận lòng cho ngài.
Thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thư cho các tín hữu Cô-rin-tô, thư thứ nhất và thư thứ ba đã thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất thực tế là thư thứ hai. Thánh Phao-lô đã viết thư này từ Ê-phê-sô (có lẽ vào mùa xuân năm 55). Sau khi đã nhắc nhở trật tự trong cộng đoàn, tiếp đó, bàn đến nhiều vấn đề nhất định, thánh nhân bắt đầu tranh luận: toàn thể cộng đoàn Ki tô hữu đều phải ở dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ gìn giữ cộng đoàn trong sự hiệp nhất và sẽ giúp cho cộng đoàn biết phân biệt những hoạt động vì lợi ích chung của Cộng Đoàn.
2. Lương dân và người Ki tô hữu:
Các tín hữu Cô-rin-tô sống trong bối cảnh ngoại giáo khá đặc biệt. Thành phố là một đô thị lớn thuộc miền duyên hải và gồm nhiều dân tứ xứ, mở rộng cửa đón nhận thế giới bên ngoài. Chịu ảnh hưởng từ miền Cận Đông, các tôn giáo cổ truyền nhường chỗ cho những khát vọng huyền bí, trong khi những tôn giáo mầu nhiệm tràn lan với những nghi lễ khai tâm và thực tiển hướng đến niềm hưng phấn và xuất thần. Những thái độ này có thể rất gần với những đặc sủng mà các Ki tô hữu được hưởng. Cần phải nêu lên tất cả cái lập lờ này. Trong cộng đoàn Ki tô hữu những ân huệ nhận được có nguồn gốc siêu nhiên; nguồn mạch duy nhất của mọi ân huệ này là Thiên Chúa Ba Ngôi.
3. Dấu chỉ Ba Ngôi:
Lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và những hoạt động Ki tô giáo dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đi từ Chúa Thánh Thần:
Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.
Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki tô).
Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người (Chúa Cha).
Đoạn thánh nhân liệt kê một loạt những ân huệ khác nhau, đều là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Giáo Hội tiên khởi chắc chắn đã hưởng được nhiều cách thức bày tỏ đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Thánh Lu-ca đã nêu lên nhiều ví dụ trong sách Công Vụ Tông Đồ, đến nổi sách này được gọi “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Những ân huệ dồi dào và tự phát như thế bổ túc cho việc thiếu cơ cấu tổ chức. Nhưng thánh Phao-lô muốn tránh tình trạng hỗn loạn; vì thế thánh nhân nhấn mạnh sự duy nhất cơ bản của mọi ân huệ này: “Chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người”.
TIN MỪNG Ga 2: 1-12
Theo Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai mạc sứ vụ của Ngài bởi dấu lạ tiệc cưới Ca-na: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê”. Vậy từ “dấu lạ” muốn nói lên điều gì? Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, vấn đề “dấu lạ” có rất nhiều nghĩa, nhưng được tập trung vào một nghĩa cơ bản: thời đại Mê-si-a đến ở nơi sự hiện diện của Đức Giê-su.
1. Ý nghĩa phong phú của dấu lạ Ca-na:
Bài tường thuật về dấu lạ đầu tiên này trình bày một loạt những đối chiếu với giai đoạn cuối cùng của sứ vụ trần thế của Đức Giê-su.
Đây là “ngày thứ ba” Đức Giê-su “bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”. Biến cố Phục Sinh ẩn hiện ở nơi dấu lạ đầu tiên này.
Dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện cốt là biến nước thành rượu; dấu lạ sau cùng của Ngài cốt là biến rượu thành máu của Ngài.
Dấu lạ đầu tiên này được thực hiện để cử hành tiệc cưới nhân loại; dấu lạ sau cùng để cử hành Giao Ước Mới, tiệc cưới của Thiên Chúa với nhân loại.
Ở tiệc cưới Ca-na, Thân Mẫu Đức Giê-su được thánh ký kể ra lần đầu tiên; Mẹ Ngài sẽ chỉ được kể ra lần thứ hai và lần sau cùng dưới chân thập giá, ở đó Đức Giê-su sẽ thân thưa với Mẹ Ngài cũng bằng cách xưng hô như ở tại tiệc cưới Ca-na: “Thưa bà”. Có những bí ẩn hài hòa giữ hai biến cố này.
Ở tiệc cưới Ca-na, Chúa Giê-su lần đầu tiên nói về “giờ của Ngài”. Giờ này sẽ là giờ Tử Nạn và Vinh Quang của Ngài. Khi thánh Gioan viết: “Đức Giê-su biết giờ của Ngài đã đến” (Ga 13: 1), thánh ký sẽ nói về lễ Vượt Qua gần đến và về bữa ăn sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Bữa ăn đầu tiên, tiệc cưới Ca-na, cũng được định vị vài ngày trước lễ Vượt Qua.
Những đối chiếu khác nhau này giúp chúng ta hiểu sâu xa những ý nghĩa phong phú của dấu lạ tại tiệc cưới Ca-na.
2. “Ngày thứ ba”:
Thánh Gioan xây dựng bài tường thuật của mình về những khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su theo cùng một cách với bài tường thuật về giai đoạn sau cùng của Ngài, với thời gian đặc thù và biểu tượng: các biến cố được cô động thành một tuần lễ, ngầm tham chiếu đến bảy ngày của công trình sáng tạo. Chính “vào ngày thứ bảy” của tuần lễ khai mạc mà tiệc cưới Ca-na, dấu chỉ của ơn cứu độ thời Mê-si-a, được định vị: một cuộc sáng tạo mới. Nhưng đây cũng là “ngày thứ ba” khởi đi từ việc Đức Giê-su ra khỏi miền Giu-đê. Việc Đức Giê-su tham dự tiệc cưới Ca-na được đặt vào ngày thứ ba sau lời hứa của Ngài cho ông Na-tha-na-en, một trong những môn đệ đầu tiên của Ngài: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1: 50).
Ca-na là một thị trấn nhỏ thuộc miền Ga-li-lê không xa làng Na-da-rét. Đức Ma-ri-a đến Ca-na, chắc chắn từ Na-da-rét; Mẹ đến một mình; chắc hẳn thánh Giu-se đã qua đời. Còn Đức Giê-su đến từ miền Giu-đê với các môn đệ Ngài; Ngài gặp lại Mẹ Ngài ở tiệc cưới này. Người ta đã nghĩ rằng chú rể và cô dâu thuộc gia tộc của Đức Ma-ri-a, vì Mẹ hành xử gần như gia chủ khi căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Dù thế nào, gia đình nầy thuộc tầng lớp hạ lưu, vì tại những gia đình giàu có rượu không thể thiếu. Những người được hưởng dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su thuộc gia đình nghèo. Điều này chẳng có gì phải ngạc nhiên cả.
3. Dấu chỉ của rượu:
“Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước”. Những chum đựng nước này được dùng cho các khách rửa tay trước khi dự tiệc, đây là cử chỉ thanh tẩy nghi thức đòi buộc. Một trong số chum đá này chắc chắn được dùng để thanh tẩy các vật dụng được dùng trong bữa ăn như thánh Mác-cô ghi nhận: “Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của các tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng” (Mc 7: 3-4). Sau khi dùng, những chum này cạn nước. Đức Giê-su bảo đổ đầy nước vào các chum cho tới miệng. Như vậy, rượu mà Ngài sẽ ban cho thật dồi dào và thậm chí dư dật, như đối với phép lạ bánh hóa nhiều.
Ấy vậy, rượu dư dật đến như thế là hình tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng để loan báo buổi bình mình của kỷ nguyên Mê-si-a (Am 9: 13; I s 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18; Tv 78: 24-27;132:15).Phép lạ Ca-na là một dấu chỉ thời Mê-si-a.
Mặt khác, rượu là dấu chỉ của niềm vui; nói một cách chính xác, rượu biểu tượng niềm vui thời Mê-si-a, tiên trưng niềm vui vĩnh cữu, thường được biểu thị bởi bàn tiệc trong Nước Thiên Chúa, “bàn tiệc cánh chung”. Đức Giê-su ám chỉ đến điều này vào bữa Tiệc Ly: “Từ nay, Thầy sẽ không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26: 29; Mc 14: 25 và Lc 22: 18).
Nước mà Đức Giê-su biến thành rượu không phải bất kỳ nước nào: chính là nước được dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục của người Do thái. Đối với tác giả Tin Mừng Gioan, việc nước thanh tẩy của Cựu Ước biến thành rượu Mê-si-a báo hiệu “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có ở đây rồi” (2Cr 5: 17). Thời đại Mê-si-a đã đến. Từ nay, nước thanh tẩy không còn có ích nữa, bị hủy bỏ và được thay thế bởi rượu, dấu chỉ của ơn cứu độ. Trong bối cảnh phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, rượu tiệc cưới Ca-na rất dể gợi lên trong tâm trí của các tín hữu Rượu Thánh Thể, đặc biệt khi thánh ký nói với chúng ta việc biến nước thành rượu xảy ra trước lễ Vượt Qua (2: 13), cùng một thời điểm mà ba năm sau này Đức Giê-su sẽ biến rượu thành máu của Ngài cho muôn người được tha tội (Mt 26: 28).
4. Dấu hiệu của Giao Ước:
Sự hiện diện của Đức Giê-su ở tiệc cưới Ca-na là một cử chỉ tình bạn. Vì tình bạn, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ này để tránh cho gia đình này khỏi bẽ mặt; nhưng đồng thời Ngài đem đến một sự bảo lãnh – một sự bảo lãnh thần linh – cho tính chất linh thánh của hôn nhân. Ngoài ra, cử chỉ của Ngài mặc lấy một chiều kích thần học: chính bằng ngôn ngữ tình yêu hôn nhân mà các ngôn sứ đã dùng để diễn tả Giao Ước của Thiên Chúa với dân Ngài như một hôn ước.
Trong bài tường thuật, người quản tiệc nói với tân lang: “Ai ai cũng thiết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Nhưng người đãi rượu ngon không phải là tân lang mà là Đức Giê-su. Thật vậy, trong Tin Mừng Gioan, tân lang thường tượng trưng cho Đức Giê-su (Ga 3: 29). Sau này, khi ban cho các môn đệ rượu thánh thể, Ngài sẽ công bố rượu này là dấu chỉ Giao Ước mới. Thánh Phao-lô cũng sẽ sử dụng ngôn ngữ tình yêu vợ chồng để nói về sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Giáo Hội của Ngài; và sách Khải Huyền sẽ cử hành tiệc cưới muôn đời của Con Chiên với dân Thiên Chúa được biểu thị bởi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su khai mạc mầu nhiệm tình yêu và hiệp nhất của Thiên Chúa với nhân loại.
5. “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?”
Tác giả Tin Mừng Gioan không bao giờ gọi đích danh “Ma-ri-a”, nhưng luôn luôn “Thân Mẫu Đức Giê-su”, bốn lần trong bài tường thuật này (2: 1, 3, 5, 12), bốn lần trong bài tường thuật về cuộc Thương Khó (19: 25-26), để tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ, Mẹ đã sống những năm cuối đời của Mẹ tại nhà thánh nhân và đã qua đời trong tình con thảo của thánh nhân. Chắc chắn đây cũng là tước hiệu tôn kính mà người Ki tô hữu tiên khởi dành cho Thân Mẫu của Chúa mình.
Lời thỉnh cầu kín đáo của Đức Ma-ri-a: “Họ hết rượu rồi” cho Đức Giê-su, Con Mẹ, diễn tả độ bén nhạy của Mẹ trước nhu cầu của tha nhân. Nhưng câu trả lời của người con cho mẹ mình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?” thật đáng ngạc nhiên, như thử muốn nói rằng: “Đây không phải là công việc của mẹ. Xin đừng can dự vào”.
Trước tiên, cách xưng hô “Thưa bà” không nói lên một sự bất kính, nhưng diễn tả một khoảng cách. Chúa Giê-su xưng hô như thế với một người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4: 21), người đàn bà Ca-na-an (Mt 15: 28), người phụ nữ còng lưng (Lc 13: 12), bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Ga 20: 15). Cái khoảng cách này được tăng cường bởi những lời tiếp theo sau: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi?”. Đây là cách nói mang đậm nét Do thái khá thông thường trong Cựu Ước (x. Tl 11: 12; 2Sm 16: 10; 1V 17: 18). Tại các sách Tin Mừng nhất lãm cách nói này được đặt trên môi miệng của hai người bị quỷ ám: “Chuyện chúng tôi can gì đến ông?” (Mt 8: 29).
Cách xưng hô của Đức Giê-su với Mẹ Ngài ở tiệc cưới Ca-na lại xuất hiện ở hoạt cảnh Thập Giá, ở đó Ngài thân thưa với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19: 26). Trong hoạt cảnh sau cùng này, vai trò của tình mẫu tử không bị bác bỏ, vì Đức Giê-su ban cho Mẹ người môn đệ yêu mến, mẫu gương của người Ki tô hữu hoàn thiện, làm con của Mẹ. Như vậy, với cách xưng hô lạ lùng ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đòi hỏi Mẹ của Ngài mở rộng tình mẫu tử của Mẹ, biến đổi tình mẫu tử riêng tư giữa mẹ và con thành tình mẫu tử của một Người Mẹ ân cần săn sóc những ai theo Ngài, tức Giáo Hội của Ngài, Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
6. “Giờ tôi chưa đến”:
Trong Tin Mừng Gioan, “giờ của Chúa Giê-su” là giờ Ngài được giương cao trên thập giá, giờ Ngài được tôn vinh (Ga 3: 14-15; 8: 28), giờ mà tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ tận mức ở nơi cái chết của Con Một Thiên Chúa. Rõ ràng, ở tiệc cưới Ca-na, giờ đó chưa đến.
Nếu chúng ta đọc lại tình tiết về người phụ nữ Ca-na-an, người ta sẽ gặp lại cũng một thái độ như thế của Đức Giê-su. Trước hết, Ngài không đáp một lời, đoạn từ chối, để thử thách niềm tin của người phụ nữ này. Người phụ nữ không chùn bước. Lúc đó, Chúa Giê-su thánh phục niềm tin kiên vững của bà và cho bà được toại nguyện: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15: 28).
Đức Ma-ri-a trải qua một thử thách tương tự. Trước thái độ ngập ngừng của Con Mẹ, Mẹ trả lời bởi một hành vi đức tin vào Ngài: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Đức Mẹ đã tin vào Con Mẹ trước khi phép lạ xảy ra, trong khi các môn đệ Ngài tin vào Ngài sau khi phép lạ xảy ra. Lúc đó, Chúa Giê-su nghiêng mình trước đức tin đáng thán phục của Mẹ Ngài.
Trong bối cảnh: Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê để bày tỏ vinh quang của Ngài và để các môn đệ tin vào Ngài, thì lời căn dặn của Mẹ: “Người bảo gì các anh cứ làm theo” thật có ý nghĩa biết bao trong việc huyến luyện người môn đệ lý tưởng. Dù thế nào, chúng ta ghi nhận rằng thành quả của dấu lạ đầu tiên được thực hiện nhờ sự can thiệp của Đức Ma-ri-a và dẫn đến niềm tin của các môn đệ. Vì thế, truyền thống Ki tô giáo đã nhấn mạnh quyền năng cầu bầu của Đức Ma-ri-a, sự hiện diện ân cần của Mẹ, nỗi bận lòng của tình mẫu tử đối với tha nhân. Trang Tin Mừng này không chỉ mang chiều kích Ki tô học, nhưng còn mang chiều kích Thánh Mẫu học. Lm. Ignatiô Hồ Thông
Một trong những đoạn Tin Mừng được coi như đẹp nhất của thánh Gioan, chính là bài tường thuật: TN 2-C62
Mợt trong những đoạn Tin Mừng được coi như đẹp nh́t của thánh Gioan, chính là bài tường thụt v̀ tịc cưới Cana.Hơm nay, Chúa Gisu, Mẹ Maria và các thánh tông đồ̀ được mời dự tịc cưới này. Chính trong tịc cưới Cana, Mẹ Maria đã b̀y tỏ tình m̃u tử su xa và chứng minh tình thương, sự quan tm của mẹ đối với nhà đám.
Chúng ta phải đặt vào bới cảnh tịc cưới Cana, chúng ta mới hỉu được th́ nào là thíu rượu, th́ nào là danh dự của mợt nhà đá́m. Theo ṭp tục của người Do Thái, có lẽ đây là̀ truỳn thớng ŕt đặc bịt, mỡi đám cưới được tở chức và kéo dài trong suớt bảy ngày. Trong bảy ngày đó, nhà đám th́t tịc và khách được mời tha hờ uớng rượu, ăn tịc. Tại tịc cưới Cana, cái trớ tru là mới có ba ngày thì nhà đám đã h́t rượu. Đy quả thực là mợt tai họa lớn đố́i với nhà đám, đặc bịt đối với chủ nhà. Ở đây, chúng ta nḥn th́y sự bới rới tḥt khó xử của ơng chủ. H́t rượu là mợt tai họa b́t ngờ. Tuy nhin, Mẹ Maria đảm cảm nḥn ra đìu khó xử của ơng chủ nhà tịc. Mẹ đã nhạy cảm và với tình m̃u tử su sắc của Người, Mẹ đã mạnh dạn và kín đáo nói với Chúa Gisu:” Họ h́t rượu rời “ ( Ga 2, 3 ). Quả thực đây là cu nói h́t sức thn thương nhưng có tính cách nài nỉ van xin Con của Mẹ: Chúa Gisu. Tuy nhin, cu trả lời của Chúa Gisu làm chúng ta h́t sức sửng sớt:” Tơi với bà có can chi ? Giờ tơi chưa đ́n “( Ga 2, 4 ). Cu trả lời của Chúa Gisu khơng có nghĩa làm cho Mẹ của Người pḥt lòng. Cu nói này chỉ có nghĩa Chúa hoàn toàn tùy thuợc ý Chúa Cha. Giờ ở đây có nghĩa là giờ vinh quang sau cái ch́t và sự phục sinh của Ngài. Mẹ Maria khơng nao núng, khơng khó chịu, Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Gisu và mong Con của Mẹ sẽ làm mợt đìu gì đó cho nhà đám được vui và bảo toàn danh dự cho ơng chủ và gia đình nhà đá́m. Mẹ bảo các gia nhn:” Người bảo gì, các anh cứ vịc làm theo “ ( Ga 2, 5 ). Theo gợi ý của Mẹ Maria, Chúa Gisu đã̃ bảo các gia nhn và họ đã làm theo lời của Chúa Gisu. Qua vịc ch́p hành của các gia nhn và đặc bịt qua sự van xin kín đáo của Mẹ Maria, Chúa Gisu đã̃ quýt định thực hịn phép lạ đầu tin trong cuợc đời rao giảng cơng khai của Ngài. Đy là phép lạ đầu tin đ̉ các phép lạ khác được thực hịn típ theo trong đời rao giảng của Ngài. Qua phép lạ này, Chúa Gisu muớn b̀y tỏ vinh quang của Ngài ngay hịn tại by giờ và lúc này ( hic et nunc ).” Các môn đ̣ tin vào Người “ ( Ga 2, 11 ).
Mẹ Maria đã can thịp, đã nài xin Chúa Gisu và Chúa đã làm phép lạ. Nhờ đó́, nìm tin của các tông đồ được củng cớ và được trỉn nở vững mạnh. Nhờ lời van xin cách m th̀m, kín đá́o của Mẹ Maria mà sáu chum nước lạnh đã bín thành 700 lít rượu h́t sức ngon và đặc bịt đ̉ nìm vui của đôi tân hôn và khách dự tịc được dng trào, được trọn vẹn.
Hơn bao giờ h́t, ngày hơm nay, Mẹ Maria ṽn ghé vào tai Chúa và nói:” Họ h́t rượu rời “ đ̉ cho bít bao đôi tân hôn được vui tươi, nờng ́m trở lại. Đ̉ cho bít bao gia đì̀nh đang có nguy cơ tan vỡ được hàn gắn trong yu thương. Đ̉ bít bao tm hờn đang bị lung lạc vì thíu nìm tin, được giữ vững đức tin và nìm tin thăng hoa, nở rợ.
Vng, trong tịc cưới Cana xưa, Chúa Gisu đã làm cho nhà đá́m chứa chan, đầy ắp nìm vui vì rượu ngon uớng hoài khơng h́t. Ńu trong tịc cưới Cana, ơng chủ đám ṽn giữ được uy tín của mình và đôi tân hôn không bị ḿt mặt với bạn bè, với khách mời thì hơm nay, Chúa đang ku mời t́t cả mọi người chúng ta hãy sớng yu thương, hãy giữ vững nìm tin và đẩy lùi những m u, thảm não của cuợc sớng. Chúa muớn mọi môn đ̣ Chúa hãy nắm tay hịp nh́t, dựng xy mợt th́ giới mới, th́ giới đầy ắp tình yu và tình người đ̉ rời người người hân hoan đón nḥn ơn cứu độ của Chúa.
Lạy Chúa Gisu, xin bín đổi tm hờn chúng con đ̉ nìm vui ơn cứu độ được dng trào, đ̉ người người nḥn bít vinh quang của Chúa. Xin Mẹ Maria luơn ở bn chúng con và an ủi chúng con. Amen.
Ðức Giêsu và các bạn hữu của Người đi tham dự một « Ðám cưới nhà quê » ở Ca-na. Người ta ăn: TN 2-C63
Ðức Giêsu và các bạn hữu của Người đi tham dự một « Ðám cưới nhà quê » ở Ca-na. Người ta ăn uống vui chơi suốt cả tuần lễ. Mọi người trong xóm đều có mặt. Và qua bài tường trình của Tin Mừng, người ta cũng biết được là khách khứa đã uống khá nhiều rượu ! Vì đây là dịp tốt hiếm hoi của một thôn xóm nghèo nàn hẻo lánh: Hai người bạn trẻ nam-nữ đã quyết định thành lập gia đình riêng, đã muốn cùng nhau tự định đoạt lấy cuộc sống của mình, và một cách công khai trước sự chứng giám của mọi người, nhất là với sự chúc lành của Thiên Chúa. Vì thế cần phải ăn mừng, cần phải ca hát nhảy múa !
Nhưng tình hình ngày nay trên khắp thế giới nói chung và tại Âu Châu, nơi chúng ta đang ở, nói riêng như thế nào ?
Lễ Cưới theo truyền thống như từ trước tới nay, đã từ từ trở thành một biến cố « hiếm hoi ». Nhiều thanh niên thiếu nữ ngày nay không muốn chấp nhận đời sống hôn nhân truyền thống bình thường, nghĩa là một đời sống vợ chồng có cưới hỏi đạo-đời đàng hoàng. Họ cho một cuộc sống vợ chồng như thế là « đeo gông vào cổ », là mất hết tự do cá nhân và ngăn cản sự phát triển bản thân. Trái lại họ chủ trương hai người nam nữ khi yêu nhau, thì sống chung với nhau, chứ không cần cưới hỏi, không cần hôn thú. Ít nhất là phải « thử » trước xem có hợp nhau không đã ! Những lý do chính họ đưa ra là:
Người thì bảo: Cưới hỏi để làm gì ? Sự quan hệ sống chung của chúng tôi là chuyện hoàn toàn riêng tư của hai chúng tôi, đâu cần chi phải cưới hỏi đạo-đời làm gì ! Nếu người ta suy nghĩ một chút, người ta sẽ thấy ngay là ngày nay tất cả mọi lãnh vực trong cuộc sống của chúng ta đều đã được qui định và trở nên khó khăn rắc rối như thế nào, thì người ta sẽ thông cảm được một thái độ như thế. Ít là ở đây, trong lãnh vực hoàn toàn có tính cách riêng tư này, chúng tôi không muốn những người ngoại cuộc « xía vô ».
Tuy nhiên, ở đây người ta cũng phải hỏi ngược lại: Phải chăng phía sau một thái độ như thế lại không ẩn chứa một chủ nghĩa cá nhân quá khích hay sao ? Bởi vì, chúng ta không sống lẻ loi trên một hoang đảo như nhân vật tiểu thuyết Robinson, hay trên một hoang đảo chỉ có hai người, nhưng chúng ta sống giữa một chuỗi của các tương quan đa phức: Gia đình, anh em họ hàng, bà con láng giềng, bạn hữu, đồng nghiệp, v.v… Cuộc sống chúng ta nhất thiết phải cần đến những quan hệ đó ! Vâng, tình yêu là một điều hoàn toàn riêng tư cá nhân, nhưng chỉ tạm thời ! Nếu một khi có điều gì đó không may xảy ra, thì bấy giờ người ta lại phải chạy đến nhờ cậy sự can thiệp và giúp đỡ của những kẻ khác, sự can thiệp và giúp đỡ của xã hội, của chính xã hội mà trước đó đã không được vị nể.
Ðàng khác, những sự kiện vui mừng và quan trọng trong cuộc sống như lễ cưới, ngày khởi đầu cuộc sống chung gia đình giữa hai người nam nữ, người ta cần phải ăn mừng và công khai hóa trước sự chứng giám của xã hội chứ ! Thế nhưng có những đôi nam nữ đến tuổi cập kê đã lẳng lặng, đã « không trống không kèn » bỏ nhà cha mẹ cuốn gói đến ở chung với nhau. Nếu người ta đã có đủ lý do để cùng với bạn bè và người thân quen ăn mừng ngày đậu bằng lái xe hay đậu tú tài, ngày sinh nhật thứ mười tám hay ngày thi đậu tốt nghiệp, v.v…thì tại sao người ta lại không muốn cùng với gia đình, bạn bè và mọi người thân quen ăn mừng một biến cố, một gian đoạn vô cùng quan trọng trong cuộc sống, như ngày khởi đầu con đường đời chung giữa hai người nam nữ: Ngày cưới ?
Còn những người khác lại nói: Tại sao lại cưới hỏi ? Chẳng ích lợi gì ! Bởi vì luật pháp ràng buộc trong hôn nhân chỉ là lý do cho người ta ỷ lại hay là phương tiện cho người ta dễ dàng lợi dụng để sống dửng dưng và coi thường nhau. Còn những ai sống chung với nhau mà không cưới hỏi thì luôn luôn phải lo lắng quan tâm đến nhau - vì biết quan hệ của họ không có ràng buộc -, chứ không thể có thái độ hửng hờ hay lạnh nhạt với nhau được. Cả hai phải luôn săn đón và chiều chuộng nhau, phải luôn cố gắng sống sao để có thể lôi cuốn và giữ được nhau. Như thế, sự quan hệ giữa hai người luôn sống động !
Chắc chắn rằng trong quan niệm trên cũng có những nhận xét rất thực tế và đúng đắn. Chúng ta đã biết câu chuyện rất thời danh về « Chiếc va-ly ». Người ta kể rằng: « Có một đôi vợ chồng trẻ, ngay sau ngày cưới, đã lấy tàu lửa đi du lịch đến một tỉnh khác trong nước để hưởng tuần trăng mật. Khi đến nơi đã định đến, cả hai xuống tàu và còn tỏ ra ngượng nghịu, chứ chưa được tự nhiên. Bấy giờ cô vợ ghé tai chồng nói nhỏ: ‘Kìa, người ta ai nấy cứ nhìn chúng mình chằm chặp, làm em ngượng quá. Chúng mình hãy làm ra vẻ là chúng mình đã cưới nhau lâu rồi, đi anh !’ Bấy giờ anh chồng nói với cô vợ: ‘Vậy thì em hãy tự xách lấy va-ly !’ »
Vâng, phải chăng mối đe dọa nguy hiểm to lớn nhất đối với mỗi đời sống hôn nhân lại không phải là sự thiếu quan tâm lo lắng lẫn cho nhau sao ? Ðó chính là điều các tầng lớp người trẻ nhìn thấy rất rõ. Cụ thể trước mắt họ chính là đời sống hôn nhân của cha mẹ họ, mà họ thường hay gay gắt phê bình chê trách. Sự nguy hiểm của thói quen, của nhàm chán, của sự giận hờn thái quá đến tránh mặt nhau trong đời sống vợ chống, là rất lớn.
Tuy nhiên, cũng có sự nguy hiểm ngược lại, là: Khi đời sống hôn nhân thiếu đi sự bảo đảm chắc chắn, khi ở chỗ nào đó trong đời sống hôn nhân còn dùng dằng và thiếu rõ ràng dứt khoát, thì bấy giờ một người trong họ lại không có thể dễ dàng bắt chẹt người còn lại bằng những đe dọa cụ thể hay bóng gió, đến nỗi khiến cho người này phải bỏ cuộc – và đây cũng chính là điều chúng ta thường chứng kiến trong cuộc sống thực tế ? Phải chăng đời sống hôn nhân không thể có được sự bảo đảm chắc chắn trước sự hay thay đổi bất thường của tình cảm con người, đến nỗi người vợ hay người chồng - cả trong trường hợp cần thiết và quan trọng - cũng không dám đưa ra những lời phê bình thẳng và thành thật có tính cách xây dựng sao ? Phải chăng cả lời thề hôn nhân với sự ràng buộc chặt chẽ của nó mà hai người đã công khai hứa với nhau trong ngày cưới trước sự chứng dám của xã hội, lại không thể giúp cho hai người đứng vững được trong những giai đoạn thử thách và cùng nhau vượt qua được những khó khăn vất vả trong cuộc sống vợ chồng, thay vì vội vàng bỏ cuộc sao ? Phải chăng việc loại bỏ sự bảo đảm của định chế pháp luật cho đời sống hôn nhân, lại không phải là một sự phiêu lưu liều lĩnh ? Chớ thì trong thực tế, sự bảo đảm đó của pháp luật lại thường đã không mang lại hạnh phúc cho hôn nhân hơn là đổ vỡ sao ?
Ðàng khác, ngày nay người ta cũng thường nghe những quan điểm khác nữa, ví dụ: Về đời sống hôn nhân, người ta cần phải sống thử trước đã, để xem liệu hai người có hợp với nhau hay không. Còn nếu hai người nam nữ chỉ chờ vào những ngày cuối tuần hay chỉ thỉnh thoảng mới gặp nhau, thì rất khó lòng biết được con người thật của nhau. Vâng, người ta cần thí nghiệm xem liệu người ta có thể chấp nhận được những va chạm đụng độ cụ thể của cuộc sống hằng ngày hay không, liệu người ta có thể cùng nhau tay trong tay vượt lên trên được những khó khăn thử thách, v.v… ! Dĩ nhiên, người ta phải công nhận rằng, quan điểm đó đã nêu lên được những vấn nạn thực tế quan trong.
Tuy nhiên ở đây, người ta cũng phải hỏi ngược lại: Phải chăng những quan niệm tương phản trong vấn đề hôn nhân đã không nêu lên hai tình huống hoàn toàn khác nhau: Một đàng, hai người nam nữ lén lút sống chung « thử » với nhau, chứ không có cưới hỏi phép tắc gì cả; còn đàng khác, hai người nam nữ sống chung với nhau bằng lời thề hứa hôn nhân có tính cách ràng buộc, mà họ cùng công khai tuyên bố trước sự chứng giám của xã hội là họ sẽ trọn đời chung thủy bên nhau dù cho cuộc sống có xoay vần thế nào đi nữa; nhưng nhất là với sự chúc phúc và chuẩn y của Thiên Chúa qua trung gian của Giáo Hội?
Ðứng trước những khó khăn thử thách đầy gian lao chắc chắn sẽ xảy ra trong cuộc sống chung, thì hai kiểu sống chung khác nhau đó đương nhiên sẽ có những thái độ xử sự hoàn toàn khác nhau. Thật vậy, xét về phương diện tâm lý: Phải chăng hoàn cảnh của cặp nam nữ sống chung « thử » với nhau, thì chỉ có thể kêu mời sự ý thức tự nguyện của các đương sự, chứ không thể bó buộc họ phải nỗ lực thích ứng và phải cư xử tốt, đúng với sự thể ? Những cặp nam nữ đó sẽ xử sự ra sao khi họ không thể cầm cự được với sự thử thách như thế ? Dĩ nhiên hậu quả cũng sẽ xảy ra tương tự như ly dị, chia tay, v.v…, với tất cả những hâu quả nghiêm trọng của nó, như: Ðau khổ, thất vọng, chua xót, chán chường, nhất là thiếu trách nhiệm đối với nhau và không được pháp luật bênh vực; đó là chưa nói đến yếu tố quan trọng khác: con cái !
Thật ra, khi phải đối mặt với những đời sống hôn nhân bất hạnh và bị đổ vỡ, người ta rất dễ thông cảm được thái độ sợ hãi của một số không nhỏ những bạn trẻ, đã không muốn ràng buộc mình suốt đời vào cuộc sống hôn nhân. Những câu hỏi họ thường đặt ra là: Phải chăng lời hứa trọn đời chung thủy lại không có nghĩa là một sự đòi hỏi quá sức ? Ai có thể quả quyết được là rồi đây - trong mười, mười lăm hay hai mươi năm về sau - người bạn đời của tôi, và cả chính tôi nữa, sẽ phát triển ra sao đây ? Và liệu cả hai chúng tôi còn có thể hợp với nhau nữa không ? Liệu chúng tôi còn có thể sống hạnh phúc với nhau nữa không ?
Như đã nói trên, ngày nay nhiều thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành đã tự tiện sống chung với nhau mà không cưới hỏi, không có hôn thú. Ngay cả những gia đình đạo đức sốt sắng cũng không tránh khỏi những thách đố đó. Họ đau khổ nhiều và không biết phải xử sự ra sao nữa ! Hy vọng những suy tư sau đây có thể giúp cho họ có thêm ý tưởng chăng: Nhiều bạn thanh niên thiếu nữ hoàn toàn chắc chắn và chân thành xác tín rằng, họ hành động như thế là đúng. Và dù chính tôi có nhận xét ngược lại, tôi cũng phải công nhận và kính trọng sự chân thành chủ quan trong sự quyết định của họ. Phải chăng các người bạn trẻ ngày nay đã không còn sự nhận thức và cảm giác là mình đã làm một điều gì đó sai ? Tôi không tin thế !
Vì thế lời góp ý của tôi là: Thưa các bậc cha mẹ, xin quí vị hãy luôn bình tĩnh, nhẫn nại, quảng đại và tiếp tục giữ quan hệ tốt với con cái mình trong mọi trường hợp, nhất là luôn luôn phải thành tâm thương yêu con cái. Ðó là sự giúp đỡ tốt nhất mà quí vị có thể dành cho con cái, hầu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho chúng biết nhìn ra được đâu là phải hay trái, tốt hay xấu, đúng hay sai, trong hành động và trong quyết định của chúng. Ðừng bao giờ có thái độ quá khích đối với con cái, để không xô đẩy chúng vào những hành động quá khích và những quyết chủ quan sai lạc ! Sớm hay muộn, con cái cũng sẽ hiểu ra được quan điểm đúng đắn của cha mẹ mình; dĩ nhiên thái độ của cha mẹ phải luôn minh bạch và dứt khoát.
Nói chung, đối với các thanh niên thiếu nữ, nếu người ta luôn luôn chỉ biết chiều chuộng một cách thái quá, cốt sao để lấy lòng chúng, hay ngược lại, chỉ lạnh lùng từ chối hay phê bình phủ nhận một chiều, thì thường không thể mang lại được hiệu quả tích cực. Trái lại, cả hai thái độ đó chỉ gây thêm sự xa lạ và thất bại chua cay !
Vậy câu hỏi vẫn được đặt ra là: Cha mẹ cần phải xử sự ra sao khi con cái họ nhất định không chấp nhận đời sống hôn nhân cổ truyền, bất chấp cả xã hội lẫn Giáo Hội, và chung sống với nhau theo phong trào tự do « hôn nhân không có hôn thú »?
Sự góp ý sau đây của tôi mang dạng thức những câu hỏi, để các bậc cha mẹ suy tư và tìm ra câu trả lời: Ðiều gì thực sự tốt đối với hai người thanh niên thiếu nữ trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại của họ ? Ðâu là cách tốt nhất để tôi có thể giúp đỡ cho sự quan hệ của họ được thành công ? Hy vọng rằng, những câu hỏi đó cũng là những câu hỏi mà các bậc cha mẹ đang trong hoàn cảnh tương tự cần đặt ra cho mình. Tôi xin nhắc lại là: Với tình thương yêu chân thành, lòng nhân hậu bao dung và sự thông cảm hiểu biết lành mạnh, v.v… người ta có thể nâng đỡ họ một cách tốt nhất!
Tiếp đến tôi cũng thành thật góp ý với các bạn trẻ thế này: Các bạn hãy cư xử với ý thức trách nhiệm trong những quan hệ của mình. Ai thật lòng yêu một người, thì cũng phải có trách nhiệm đối với người đó. Không ai có quyền lợi dụng tình cảm và sự tin tưởng của kẻ khác.
Ở đây, tôi xin kể các bạn nghe một câu chuyện mà chính tôi đã chứng kiến cách đây khá lâu, một câu chuyện mà theo tôi là không được phép xảy bất cứ nơi đâu nữa. Ðó là trường hợp hai bạn nam-nữ trẻ mà tôi cứ đinh ninh là mọi sự sẽ tốt đẹp xuôi chảy, vì họ hội đủ hầu như tất cả những điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống chung hạnh phúc. Vâng, họ đã đầu tư rất nhiều vào sự quan hệ của họ. Cả hai đã trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống. Và nay con đường đời chung cho cả hai như đã được mở rộng trước mắt họ. Thế nhưng, bổng nhiên qua một quan hệ tình cờ và ngắn ngủi với một người đàn ông khác, và kết quả là người bạn gái mang thai. Bấy giờ tình huống đã trở nên hoàn toàn phức tạp và vô cùng khó xử: Một đàng, người đàn bà và đứa con; đàng khác, người đàn ông mà nàng vẫn luôn luôn yêu thương hết lòng; một đàng khác nữa, người đàn ông đã cho nàng đứa con và cũng không muốn bỏ nàng ! Một cuộc sống bị giằng co níu kéo giữ bốn người như thế, thật vô cùng nặng nề và vô cùng rắc rối khó xử !
Qua đó, chúng ta thấy được một điều quá hiển nhiên, là: Trên một sân chơi mà người ta không tôn trọng luật chơi, thì sẽ bị loại ra khỏi sân, chứ không thể tiếp tục cuộc chơi được nữa ! Sống trong một xã hội mà người ta không tôn trọng luật lệ của xã hội, thì sẽ bị xã hội đào thải và sẽ rơi vào cảnh đời bất hạnh, « tiến thoái lưỡng nan ». Hơn nữa, chính lý trí và luân lý là hai yếu tố phân biệt con người với các thụ tạo khác. Và sau cùng, để một sự quan hệ được thành công, cần phải có sự ý thức trách nhiệm, lòng trung thành, sự thông cảm và sự tha thứ, nhất là đức tin vào Thiên Chúa. Amen.
Theo Phúc Âm Thánh Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa: TN 2-C64
Theo Phúc Âm Thánh Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Khi một Linh mục hay một Giám mục đi dự một đám cưới, chẳng qua là vì tình nghĩa, chứ không phải vì thích ăn uống. Chúa Giêsu đến dự đám cưới này cũng vì tình nghĩa, vì yêu thương, vì đây có lẽ là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.
Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày. Đám cưới Cana này mới đến ‘ngày thứ ba’ thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các rabbi vẫn nói: Không rượu thì không vui, hay người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống rượu pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể.
Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.
Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẽ cho cô dâu chú rễ, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Chúa mà rượu là biểu tượng như lời thánh vịnh 109: Rượu ngon làm phấn khởi lòng người.
Ơn cứu độ là niềm vui. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.
Trong Phúc Âm Gioan chỉ có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Phúc âm Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.
Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó.
Chẳng hạn:
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tự giới thiệu: Ta là bánh hằng sống.(Ga 6)
Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: Ta là ánh sáng thế gian.(Ga 9)
Sau khi cho Lazarô sống lại, Chúa tự nhận: Ta là sự sống lại và là sự sống.(Ga 11)
Vậy phép lạ Cana mang một ý nghĩa nào?
Phép lạ xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu ước, để diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với dân Israel, các Ngôn sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới vời dân mình, Thiên Chúa là chú rễ. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Yuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà.
Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc: Bữa tiệc là hình ảnh đựơc dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Messia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người vì mình là chú rễ, là tân lang. Người coi giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ.
Đọc Tin mừng Chúa nhật hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rễ lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môisen. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rễ thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu ước thành rượu Tân ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
Tiệc cưới Cana là biểu tượng tiệc cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; Bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui ơn cứu độ cho con người.
Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mính Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh hằng sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Chúa.
Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.
Phúc âm Gioan chỉ nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19,25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo hội, với người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẽ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.
Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước nhan thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: họ hết rượu rồi và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: Hãy làm mọi điều Chúa bảo.
Ngày thứ ba hay số ba đóng một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Đức Kitô: TN 2-C65
Ngày thứ ba hay số ba đóng một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Đức Kitô. Ngày thứ ba không nhất thiết phải là sau ngày thứ hai trong tuần. Ngày thứ ba có một nghĩa khác là sau ba ngày. Sau ba ngày có thể là bất cứ ngày nào trong tuần kể từ khi sự việc xảy ra. Có cách diễn tả khác đó là ba ngày sau.
Đức Kitô làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana tại Galilê vào ngày Thứ Ba. Quan trọng hơn nữa Ngài sống lại từ cõi chết sau ba ngày. Cũng là con số ba. Quan trọng nhất là tín điều Một Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Đổi mới
Ngày thứ ba trong tiệc cưới Cana có đổi mới. Nước lã biến thành rượu ngon. Bầu cũ, bình da cũ tượng trưng cho một dân tộc, cá nhân, mà tinh thần bạc nhược, hèn nhát, không còn minh mẫn, sáng suốt nhận biết chân giả, đúng sai. Để phân biệt hư thực đúng sai, điều tốt lành, trọn hảo dân tộc đó, cá nhân đó, cần một tinh thần mới, sức sống mới. Đó là loại rượu mới.
Rượu mới tượng trưng cho trật tự mới. Một trật tự có nguồn gốc phát xuất từ tình yêu. Mọi lời nói, cử chỉ, việc làm do tình yêu chân thành thúc đẩy, hướng dẫn, đều bắt nguồn từ trật tự mới. Đó là đạo lí mới, cách sống mới, được Lời Chúa hướng dẫn, chỉ dậy cách sống, cách thờ phượng mới.
Trật tự mới rút ra từ trật tự cũ đó là nước lã. Châm ngôn ‘lạt như nước ốc’ diễn tả một tấm lòng thiếu chân thành, tự nguyện, một tình cảm nhạt nhẽo, không ân cần, săn đón, chăm sóc.
Rượu mới, đạo lí mới, cách sống mới Đức Kitô rao giảng tốt hơn đạo lí cũ, cách xử thế cũ. Cách xử thế cũ nặng hình thức, trình diễn bên ngoài được thay thế bằng cách sống mới đầy yêu thương.
Cựu Ước cũng nhắc đến tầm quan trọng của con số ba. Sách Xuất Hành chương 19 nhắc lại biến cố dân Israel sau ba tháng bỏ đất cũ Ai Cập đến miền đất mới Sinai. Tại nơi đây Môsê nhận lệnh từ Giavê Thiên Chúa, sau ba ngày Ngài thiết lập Giao Ước, Môsê nhận Mười Điều răn.
Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Giođan, ba ngày sau Ngài nhận hai môn đệ là Philiphê và Nathanaen.
Ngày thứ ba trong cuộc Phục Sinh của Đức Kitô mang đến cho nhân loại một chiến thắng khải hoàn. Qua đó những ai tin sẽ nhận ơn cứu độ, thoát ách xiềng xích của ma quỉ do tội lỗi gây nên và trở nên con Thiên Chúa, dân tuyển chọn. Đây là một đổi mới toàn diện con người, bắt đầu từ trong tâm, tràn đầy yêu thương, cảm thông và tha thứ. Thành quả sau ba ngày mai táng trong mồ. Ngài sống lại ban cho nhân loại sự sống mới.
Tiệc cưới
Kinh thánh dùng hình ảnh ngày vui tiệc cưới nói về niềm vui nước trời cho những ai đáp lại lời Đức Kitô mời gọi. Người tham dự tiệc cưới cần có sốt sắng tham dự và tinh thần sẵn sàng. Dụ ngôn mười trinh nữ dự tiệc cưới cho thấy chuẩn bị và sẵn sàng là thiết yếu. Thiếu chuẩn bị sẽ thua thiệt vì bị từ chối nhập tiệc Mt 25.
Dự tiệc cưới nước trời cần mặc áo cưới. Trước khi dự tiệc cưới mặc áo nào cũng được mời. Sau khi vào tiệc, cần phải mặc áo cưới.
Đây là điều bắt buộc.
Bấy giờ nhà vua tiến vào phòng quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy. Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới. Người ấy câm miệng không nói được gì. Bấy giờ nhà vua bảo gia nhân trói tay chân nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Mat 22, 11
Bài học cần lưu ý cho những ai ăn bận, diêm dúa, loè loẹt, thiếu kín đáo và thiếu chuẩn bị khi tham dự thánh lễ. Họ trả lời thế nào về tinh thần và thái độ sẵn sàng tham dự tiệc cưới. Vẫn biết quyền phán xét dành riêng cho Chúa nhưng nhìn y phục khó tránh khỏi nhận xét về tư cách.
Tinh thần
Tinh thần đóng một vai trò quan trọng liên quan đến y phục. Đây không phải là cơ hội trưng diện, khoe khoang. Cần ăn mặc lịch sự thích hợp cho việc tham dự thánh lễ. Như thế nào là lịch sự, thích hợp?
Một tấm lòng yêu mến thiết tha, biết ăn mặc thế nào cho xứng khi đón nhận Chúa vào lòng. Cần chuẩn bị kĩ trong ngoài trước khi đến gặp Chúa. Đến với Chúa trong tâm tình khiêm nhường, lòng thiết tha và tinh thần vui tươi. Đến với Chúa với tâm tình đơn hèn vui thích, không cảm thấy dự lễ là điều bắt buộc, chu toàn lề luật. Đến do lòng mong ước, tâm tình yêu mến, sẵn sàng tham dự các nghi thức một cách chân thành, vui vẻ và hoà đồng với những anh chị em khác.
Quí bạn dự lễ đứng ngoài thánh đường cần xét lại cách thờ phượng riêng mình. Lí do giải thích cho việc đứng ngoài có nhiều. Chính đáng hay không mình bạn biết. Thực tế việc làm gây nên một số điều không hay. Vì nhiều lí do.
Dễ bị chia trí khi dự lễ. Khó tập trung khi nghe các bài đọc và bài giảng. Tâm tình cầu nguyện bị chi phối bởi hoàn cảnh. Đôi khi vừa dự lễ vừa chuyện vãn. Là gương mù cho người khác bắt chước.
Bạn nghĩ thế nào khi mình là duyên cớ cho người khác vấp phạm.
Nói rằng trần gian là một bàn tiệc chẳng biết có lạc quan quá không, trong khi mà 2/3 nhân loại: TN 2-C66
Nói rằng trần gian là một bàn tiệc chẳng biết có lạc quan quá không, trong khi mà 2/3 nhân loại vấn thiếu ăn, trong khi mà vẫn có bao nhiều người chết đói và bao nhiêu người khác đói cho đến chết; và trong khi mà còn có quá nhiều chiến tranh bạo lực, quá nhiều những người chưa có được đời sống xứng với nhân phẩm.
Tuy vậy, trần gian cũng có bao nét đẹp của nó, từ chiếc lá, bông hoa, nụ cười, tiếng nói, cho đến hình ảnh những cặp tình nhân vui đùa, những ông bố bà mẹ đợi con trước cổng trường... Do vậy, cũng có thể gọi trần gian là một tiệc cưới, xét vì trần gian cũng mang lại niềm vui cho con người; xét vì con người vẫn đang phải sống nhờ trần gian, sống trong trần gian, hút lấy "dưỡng chất trần gian" để sống.
Nhưng đây là một bàn tiệc khá lạ lùng, trong đó xum vầy đủ mọi hạng; một bàn tiệc nhưng có bao nhiêu mâm riêng, nhiều loại thức ăn, nhiều thứ rượu uống. Có mâm đầy những thịt thà thừa mứa, có mâm lại lỏng chỏng những cọng rau héo uá; có những thứ rượu "cách mạng", rượu "tự do", rượu "phát triển", "độc lập", "hữu nghị"...
2. Trần gian thiếu rượu
Bữa tiệc trần gian đang vui say thì thiếu rượu. Đó là hình ảnh con người luôn bị hụt hẫng trong niềm hy vọng và nỗ lực của mình, luôn cảm thấy chưa thỏa mãn với tất cả những nguồn hoan lạc trần gian. Trần gian có thể làm cho con người vui say, nhưng rồi nó "hết rượu"; và khi một người la lên: hết rượu rồi ! thì tất cả những niềm vui say của con người cũng lại trở thành hụt hẫng hoặc cay đắng. Trần gian vẫn rất đại lượng trong việc cung cấp dưỡng chất cho con người, nhưng sức lực của trần gian làm sao có thể nuôi được những "đứa con của thần thánh" như con người ? Nguồn mạch trần gian làm sao có thể làm no thỏa nỗi khát vọng tuyệt đối vẫn hằng âm ỉ trong con người ?
3. Chúa Giêsu đi vào bữa tiệc
Hình ảnh Chúa Giêsu và các môn đệ tham dự tiệc cưới ở đây, được thánh Gioan trình bày như là thái độ của Thiên Chúa với con người. Thiên Chúa đi vào trần gian không phải như một vị khách, không phải như kẻ xa lạ trong cuộc đời, nhưng như người dấn thân, tham dự, chia sẻ niềm vui, hưởng dùng dưỡng chất trần gian. Và khi trần gian "thiếu rượu", thì Chúa Giêsu lại xuất hiện như một vị lang quân mới, mang lại ý nghĩa và sinh lực mới cho trần gian.
Ở đây, mẹ Maria xuất hiện như một bà mẹ trần gian, bà mẹ nhạy cảm với những bệnh tật, thiếu thốn của con cái, bà mẹ xoay sở để tìm ra của nuôi cho đứa con khát sữa của mình, và bà Mẹ Giáo hội cũng phải bước theo chân Đức Maria để làm bà mẹ trần gian với đầy lòng thương yêu như thế. Con cảm tạ Chúa Vì Chúa đã cho con được dự tiệc trần gian; con cảm tạ Chúa hơn nữa, vì trong bàn tiệc trần gian, con được nếm cảm một chút hương vị của bàn tiệc thiên quốc. Xin cho con đừng bao giờ mê đắm, say sưa trong bàn tiệc trần gian và cũng không thất vọng vì bàn tiệc ấy, vì biết rằng con còn được mời gọi đến bàn tiệc đầy tràn sung mãn hơn.
Từ khi sinh ra cho tới khi xảy ra câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Gie6su sống ẩn dật: TN 2-C67
Từ khi sinh ra cho tới khi xảy ra câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sống ẩn dật, âm thầm như một người thợ mộc nghèo trong xóm làng Na-da-rét, không có một dấu hiệu phi thường nào làm cho dân chúng phải đặc biệt chú ý. Nhưng từ bữa tiệc cưới ở Ca-na, Ngài đã tỏ lộ uy quyền siêu phàm của Ngài: biến nước lã thành rượu ngon, làm cho mọi người ngạc nhiên bỡ ngỡ. Chính thánh Gio-an, tác giả duy nhất kể lại câu chuyện này, đã lưu ý chúng ta về điểm ấy khi ông viết: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người, Các môn đệ đã tin vào Người”. Trong khung cảnh đặc biệt này, chúng ta thấy có sự hiện diện của Đức Maria. Theo dõi từng biến cố trong đời sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Đức Maria xuất hiện một cách hết sức kỳ lạ và ngoạn mục ở mỗi chặng quan trọng nhất: khi bắt đầu và kết thúc đời sống ấu thơ, khi bắt đầu và kết thúc đời sống âm thầm ẩn dật, khi bắt đầu và kết thúc đời sống công khai.
Chẳng hạn như trong tiệc cưới tại Ca-na là lúc Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai, Đức Maria đã xuất hiện đúng lúc để trực tiếp giới thiệu con của ngài cho những người giúp việc đang bối rối vì thiếu rượu, và gián tiếp giới thiệu người con ấy cho mọi người qua phép lạ biến nước thành rượu. Khi giới thiệu Chúa Giêsu cho những người giúp việc, Đức Mẹ bảo họ phải tuyệt đối tuân theo lời Chúa chỉ dạy: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.
Câu nói của Đức Mẹ là tiếng vang trung thực lệnh truyền của Đức Chúa Cha khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Quả thực, Chúa Giêsu sinh ra trên trần gian để cứu nhân độ thế bằng cái chết đau khổ của Ngài, nhưng Ngài cũng còn cứu thế bằng Tin Mừng. Với Tin Mừng, Ngài muốn dạy loài người con đường tự giải thoát, tự cứu lấy chính mình. Bởi đó, nếu loài người muốn được cứu độ thì phải vâng nghe lời Ngài dạy bảo.
Theo thánh Au-gút-ti-nô thì Thiên Chúa tạo thành nhân loại, không cần sự cộng tác của họ, nhưng Ngài không muốn cứu họ mà không có sự tham gia của họ. Muốn cho phép lạ xảy ra, muốn nước lã tầm thường biến thành rượu ngon, thì những người giúp việc phải triệt để tuân lệnh Chúa: đổ nước đầy các chum. Họ tuân lệnh, phép lạ đã xảy ra, đó là điều kiện tất yếu, điều kiện tiên quyết, điều kiện bất khả khuyết.
Tình trạng con người sống trong tội lỗi, không ơn thánh hóa, không sức sống siêu nhiên, còn lâm ly bi đát gấp trăm ngàn lần việc thiếu rượu trong tiệc cưới Ca-na. Nhưng đối với Chúa thì dầu bi đát tới đâu cũng vẫn có thể cứu vãn được. Tuy nhiên, ơn cứu độ là công việc liên hệ tới loài người, cho nên Thiên Chúa đòi hỏi sự cộng tác của loài người, Chúa đòi hỏi họ phải có lòng tin. Thiên Chúa Cha đòi hỏi tất cả chúng ta phải nghe lời con yêu dấu của Ngài, mà tin nghe tức là tin nhận những điều Chúa Giêsu giảng dạy và đem ra thực hành. Tóm lại, có thể nói: ơn cứu độ bị ràng buộc, bị lệ thuộc vào điều kiện tin nhận, vâng nghe và thi hành của chúng ta, nếu chúng ta tin nhận, vâng nghe và thi hành thì chắc chắc chúng ta sẽ được hưởng nhờ ơn cứu chuộc.
Như vậy, qua phép lạ ở tiệc cưới này, chúng ta ghi nhận được hai điều quan trọng: Thứ nhất, sự có mặt của Chúa Giêsu và làm phép lạ biến nước thành rượu đã mở màn cho hôn nhân một kỷ nguyên mới, nghĩa là trang sử mới của chế độ bí tích hôn nhân Ki-tô giáo đã được mở màn với đám cưới này. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới, đã được chính Chúa Giêsu chủ sự, Ngài đã nâng hôn phối tự nhiên trong đạo cũ thành bí tích hôn phối trong đạo mới, tức là trở thành một phương tiện cho đôi vợ chồng gặp gỡ được chính Đức Ki-tô trong chính tình yêu của họ. Đức Ki-tô hiện diện với họ và không ngừng ban ơn cho họ. Từ đây nếu họ biết quan tâm đến sự có mặt của Chúa, biết cầu xin với Ngài là Đấng có thể làm được tất cả, thì ngay cả giữa những khó khăn dường như không lối thoát, họ sẽ thấy phép lạ Ca-na tái diễn.
Thứ hai, cũng từ phép lạ này cho chúng ta biết Đức Maria giữ một vai trò đặc biệt trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa: Mẹ là đấng đồng công cứu chuộc, là đấng trung gian mọi ơn phúc. Từ đây mọi người đều biết Đức Mẹ không phải là một người mẹ như bất cứ ai, nhưng là mẹ của Đấng Cứu Thế, một người mẹ đầy uy lực đối với con mình, một người mẹ đầy từ tâm hằng lưu ý đến những lo âu, đau khổ của người khác và sẵn sàng cứu giúp.
Tóm lại, Chúa luôn luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta, nhưng cần có sự tham gia, cộng tác của chúng ta, thì trong đời sống hôn nhân cũng vậy, Ngài nâng cao phẩm giá hôn nhân và bảo đảm hạnh phúc gia đình không có nghĩa là Ngài bao thầu tất cả, thay thế mọi cố gắng cần có của đôi vợ chồng. Trái lại, Ngài ban cho họ có khả năng thực hiện hạnh phúc, nhưng chính họ phải thực hiện bằng cách tin nhận, vâng nghe và thi hành lời Chúa một cách triệt để ngay trong gia đình mình và luôn biết cầu xin với Đức Mẹ, một người mẹ hằng cứu giúp, mẹ chuyển giúp những lời chúng ta xin lên Chúa Giêsu và mẹ xin những nhu cầu cần thiết của gia đình chúng ta.
Chúa nhật hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa vì trong cả: TN 2-C68
Chúa nhật hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa vì trong cả ba lễ đó, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Chúa nhật 2 thường niên hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu là có ý hé mở cho các môn đệ một chút vinh quang của Ngài, mặc dầu giờ của Ngài chưa tới, để củng cố niềm tin cho những môn đệ mới được kêu gọi. Đồng thời cũng loan báo cho mọi người biết, qua việc thiếu rượu và biến nước thành rượu, Ngài sẽ lập một đạo mới thay thế cho đạo cũ không còn hợp thời.
Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến dự tiệc cưới vào những ngày đầu sứ vụ công khai minh chứng rằng Ngài rất quan tâm đến đời sống hôn nhân gia đình và Ngài sẽ lập bí tích hôn phối.
Sự hiện diện của Đức Mẹ trong tiệc cưới này cũng nói lên vai trò rất đắc lực trong việc cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Hãy sống theo phương châm:”Per Mariam ad Jesum”.
I. TIỆC CƯỚI TẠI CANA.
1. Diễn tiến tiệc cưới.
Vào ngày thứ ba tính từ khi rời Nazareth đến Galilê, tức là vào tuần đầu đời công khai của Đức Giêsu, có một tiệc cưới ở Cana. Có lẽ tiệc cưới này là của bà con thân thuộc gì đó. Mẹ Đức Giêsu cũng được mời và đã đến đó trước rồi. Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên cũng được mời dự tiệc cưới đó.
Theo phong tục của người Do thái, có rất nhiều nghi lễ và cuộc vui kéo dài từ 3 đến một tuần lễ, tùy theo tài sản của đôi bên, và cuộc lễ thường đuợc tổ chức vào ban đêm. Trường hợp của bà goá tái giá thì chỉ trong ba ngày. Đám cưới này chắc hẳn của đôi tân hôn còn trẻ .
Đám cưới mà Đức Giêsu đến dự có lẽ là của một bậc khá giả vì cần nhiều nước dự trữ để làm lễ tẩy, lại thêm một viên quản tiệc tức là ngưới đứng đầu trông nom cỗ bàn. Thường thường thì người Do thái rất tiết kiệm, nhưng trong những dịp vui này người ta không ngại tốn kém, tổ chức cho linh đình để lấy tiếng cho gia đình mình. Trong tiệc vui như thế này người ta không ăn uống bình thường như mọi ngày mà có thể nói được người ta “nhậu nhẹt”, chén tạc chén thù, có thể đi đến say sưa. Có lẽ chính vì đó mà xẩy ra cảnh “hết rượu”. Chủ nhà đó đã tính hụt. Điều này làm cho gia chủ và những người phục vụ rất lo lắng vì đang bữa tiệc mà hết rượu thì cả là một sự xấu hổ và nhục nhã cho gia đình.
Đứng trước cảnh lúng túng của gia chủ, Đức Maria đã có cách tháo gỡ thế bí cho gia chủ: Ngài nhờ Đức Giêsu giúp đỡ. Ngài âm thầm từ dưới bếp đi lên, ghé vào tai Đức Giêsu mà nói nhỏ:”Họ hết rượu rồi”. Một lời gợi ý có tính cách van xin và đầy tin tưởng.
Đức Giêsu có phản ứng ngay và có tính cách lạnh nhạt:”Tôi với bà có can chi đâu, giờ tôi chưa đến”. Tiếng Việt nam và thói tục Việt nam nói như thế không có gì khó nghe cả. Những chàng thanh niên nhất là có địa vị, hay khi đã có gia đình và có con, khi nói với mẹ mình trước mặt một số người thường cũng hay dùng chữ “bà” với chữ “tôi”. Đối với người Việt nam, dùng chữ “bà” và “tôi” cũng vẫn thân mật. Tuy câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối nhưng thực tế ai cũng hiểu lời ấy vẫn ngầm chứa sự đồng ý.
Giờ của Chúa tuy chưa tới, nhưng trước lời cầu xin của Đức Mẹ thì việc làm phép lạ phải đến trước “giờ”: 6 chum nước chứa được từ 800 đến 1200 lít đã biến thành rượu ngon. Đức Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên để cứu đôi tân hôn khỏi khổ nguy trong ngày đầu hết đời sống hôn nhân, dầu chưa đến giờ của Ngài. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu rất quan tâm đến đời sống hạnh phúc của hôn nhân.
2. Ý nghĩa tiệc cưới.
Phép lạ ở Cana liên kết Chúa nhật này với ngày lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa - tất cả là sự biểu lộ vinh quang của Ngài. Nếu chúng ta hiểu phép lạ ở Cana theo nghĩa đen, chúng ta sẽ giản lược nó thành một điều kỳ diệu chỉ trong nháy mắt là xong và giới hạn ý nghĩa của nó.
Thánh Gioan đã có dụng ý dùng từ “dấu lạ đầu tiên” để chỉ ý nghĩa sâu xa của nó và nó có giá trị trong mọi thời đại. Trong nỗ lực mô tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người, Kinh thánh dùng hình ảnh của hôn phu và hôn thê. Và để mô tả niềm vui mà Thiên Chúa tìm thấy ở giữa dân Người, Thiên Chúa dùng hình ảnh tiệc cưới.
Bài đọc 1 gợi lên cho chúng ta ý tưởng: dân Israel là hôn thê của Thiên Chúa đã bất trung, phải bị lưu đày, nhưng hôn phu của nàng là Thiên Chúa đã không quên nàng. Sẽ có một tiệc cưới mới. Thiên Chúa sẽ phục hưng dân Ngài. Lời hứa này đã được thực hiện khi dân chúng trở về từ chốn lưu đầy, nhưng đặc biệt hơn khi Đức Giêsu đến. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai ở một tiệc cưới. Ở tiệc cưới ấy, người ta thiếu rượu. Cách nói này muốn ám chỉ tôn giáo cũ, giao ước cũ vẫn còn thiếu sót. Đã đến lúc mọi lời hứa phải đuợc thực hiện, cũng là thời kỳ của luật mới và tinh thần mới. Điều Đức Giêsu đã thực hiện ở Cana không phải là một việc làm hời hợt, nó nói lên điều phải xẩy ra trong suốt sứ vụ của Ngài. Hoá nước thành rượu là một biểu tượng của việc Ngài cần phải thực hiện. Bất cứ nơi nào Ngài đến, cái cũ được trở thành cái mới (McCarthy).
Đức Giêsu hiện diện trong tiệc cưới để cùng cảm thông niềm vui của con người, đồng thời cũng là dịp để Chúa thu phục niềm tin của các môn đệ mới theo Ngài.
Đối với việc Đức Giêsu và Đức Maria đi ăn cưới thì điều này rất bình thường trong cuộc sống của con người. Nhưng lần này khi đến tham dự tiệc cưới và thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu, Đức Giêsu muốn nói lên mối quan tâm của Ngài đối với gia đình. Trong tiệc cưới này Ngài đã cứu cho gia đình nhà chủ tiệc một bàn thua hết rượu và để cho cuộc vui không bị gián đoạn. Như vậy, Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến đời sống gia đình. Ngài muốn làm nổi bật về vai trò của gia đình, nhất là tính bền vững của gia đình Công giáo. Đứng trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, Chúa vạch ra một đuờng lối để cho gia đình luôn được êm ấm, hạnh phúc.
II. TIỆC CƯỚI VÀ HÔN NHÂN.
1. Đức Giêsu lập bí tích hôn nhân.
Đức Giêsu đến dự tiệc cưới Cana là dấu chỉ Ngài sẽ lập bí tích hôn nhân sau này, Ngài quan tâm đến đời sống gia đình và chúc phúc cho hôn nhân.
Tại sao lại có hôn nhân ? Thánh Gioan Tông đồ nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau. Vì thế ai cũng có tình yêu: trẻ con thì yêu cha mẹ, anh chị em, lớn lên thì có tình yêu nam nữ. Tình yêu luôn hướng đến sự kết hợp. Do đó, tình yêu nam nữ dẫn đến hôn nhân.
Hôn nhân là một hành vi tự nhiên và có tính cách nhân linh. Sở dĩ nói hôn nhân có tính cách nhân linh là vì con người không chỉ đến kết hợp với nhau do bản năng mà còn do sự suy nghĩ lựa chọn , tự do: tự đặt câu hỏi có nên kết hôn chăng, kết hôn với ai, vào lúc nào...
Mọi cuộc hôn nhân không phải phát xuất từ con người mà từ Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ và cho họ kết hợp với nhau. Chính Đức Giêsu đã nói:”Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,8-9).
Ta cần phân biệt hai loại hôn nhân: hôn nhân tự nhiên và hôn nhân theo bí tích . Những người ngoại giáo lấy nhau theo hôn nhân tự nhiên, đó là điều tốt và Chúa chúc lành cho họ. Chúng ta là những người công giáo, phải ý thức rằng Đức Kitô đã thiết lập bí tích hôn nhân, nên ngoài hôn nhân tự nhiên ra, chúng ta còn phải cử hành bí tích hôn phối theo bí tích để chính thức nên vợ nên chồng.
Hôn nhân theo bí tích có hai đặc tính: đơn hôn và vĩnh hôn. Đơn hôn là hôn phối một vợ một chồng, không chấp nhận chế độ đa thê hay đa phu. Còn vĩnh hôn là không được ly dị. Hai đặc tính này được trích ra từ Lời Chúa:”Cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Mc 10,8) và “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9)
2. Nền tảng của hôn nhân.
Chúng ta phải khẳng định rằng tình yêu la ønền tảng của hôn nhân. Chúng ta không thể xây dựng hôn nhân trên nền tảng khác như chức quyền, danh vọng, tiền của, sắc dục, những thứ đó dễ bị mai một và nếu không còn những thứ đó thì hôn nhân sẽ ra sao ? Vì thế, muốn đi đến hôn nhân phải có tình yêu trước đã. Đây là điều kiện tiên quyết “sine qua non”(không có không được), đúng như ông Alphonse Karr nói:”Hôn nhân không có tình yêu là ngày không có rạng đông”. Nếu mới gặp nhau lần đầu, anh A đã yêu chị B một cách say đắm. Anh không còn tìm hiểu làm gì, anh nói với cha mẹ cho cưới chị B. Anh cho là hai người tâm đầu ý hợp. Đấy chưa hẳn là tình yêu có nền tảng mà chỉ là “tiếng sét ái tình”.
Hoặc một anh tỷ phú muốn chọn cho mình một người vợ lý tưởng. Anh ta dùng máy móc để đo vòng ngực, vòng eo và vòng mông đúng tiêu chuẩn. Thêm vào một chút là cái mũi dọc dừa hơi cao, tóc mầu hung, con mắt lá răm, lông mày lá liễu... Anh coi vậy là người yêu lý tưởng ! Nhưng đấy đâu phải là người yêu mà chỉ là một con “robot”.
Muốn trở thành người yêu còn phải tìm hiểu tính tình, ước vọng, nghề nghiệp, sở trường sở đoản, gia đình của cô ta vì “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Sau đó, anh còn phải quyết định xem có nên lấy cô ấy không vì chưa nắm vững tương lai. Khi đã có một quyết định đứng đắn và dứt khoát thì phải nói đến sự “dấn thân” (engagement). Khi đã nói đến dấn thân thì luôn ngầm chứa một chút “liều” trong đó:
Một liều ba bảy cũng liều Cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây. (Ca dao)
Khi đã kết hôn thì vợ chồng phải thương yêu nhau tha thiết. Tình yêu vợ chồng phải noi theo và nắm giữ là theo mô hình của tình yêu giữa Chúa Giêsu và Hội thánh:”Nguời làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô thương yêu Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh”(Ep 5,25).
3. Hạnh phúc của hôn nhân.
Con người từ bẩm sinh, ai cũng muốn được hạnh phúc, kể cả người tự tử (theo Pascal). Nhưng hạnh phúc không phải là một cái gì tiền chế có sẵn đấy, muốn chọn bao nhiêu hay muốn mua bao nhiêu thì mua, nhưng hạnh phúc phải là cái gì do con người tạo ra. Hôn nhân thực ra chỉ là một cái hộp rỗng, chưa có hạnh phúc, phải bỏ gì vào đấy rồi mới lấy ra được vì nếu không bỏ hạnh phúc vào thì có gì mà lấy ra ? Hạnh phúc không phải tự nhiên mà có hay do người khác tặng cho mà hạnh phúc phải được trả bằng giá đắt. Có nhiều cách để đạt tới hạnh phúc. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến 3 phương cách tạo ra hạnh phúc: hy sinh, nhẫn nhục và thánh thiện.
a) Tinh thần hy sinh.
Không có tình yêu nào chỉ toàn mầu hồng, bay lượn trên không, mà tình yêu phải được dệt bằng hy sinh, đau khổ , gian nan , thử thách vì không có hoa hồng nào mà không có gai. Càng hy sinh nhiều, tình yêu càng sâu đậm, và hy sinh tỷ lệ thuận với hạnh phúc. Ông Chamfort nói:”Muốn thử nghiệm tình yêu, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, thì đó là tình yêu thật”. Một người vợ dấn thân theo chồng đã hy sinh tất cả để mưu cầu hạnh phúc cho gia đình, đã tâm sự:
Một ngày ba bận trèo non, Lấy gì mà dòn mà đẹp hỡi anh. Một ngày ba bận trèo đèo Vì ai vú xếch, lưng eo hỡi chàng ? (Ca dao)
b) Nhẫn nhục chịu đựng.
Bà De Scudéry nói:”Bắt đầu yêu là bắt đầu sống”, nhưng có người nói ngược lại: Bắt đầu yêu là bắt đầu chết. Vậy yêu là sống hay là chết ? Có lẽ chúng ta phải nói: yêu vừa là sống vừa là chết. Nhưng muốn cho tình yêu được trọn vẹn, bao giờ cũng phải nhịn nhục chịu đựng. Tại sao? * Đã yêu thì phải chết:
“Yêu là chết trong lòng một ít” (Xuân Diệu)
Đã yêu thì phải chết, không chết trước thì chết sau:
- Chết trước: chết trước là phải nhẫn nại chờ đợi cho đến ngày kết hôn, phải giữ mình được trinh tiết:
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ, Đôi ta trinh tiết để chờ lấy nhau. (Ca dao)
- Chết sau: Trong cuộc sống gia đình sẽ có sự lộn xộn, xích mích , va chạm, bất hòa, không thể nào tránh được cảnh “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt”. Bao nhiêu sự khó khăn xẩy đến cho gia đình mà hai người phải kiên trì chịu đựng.
* Đã yêu thì phải nhẫn nhục:
Chúng ta có thể nói về tình yêu thật:
Đã yêu thì nhẫn Đã nhẫn thì nhục
Vì thế mới có Nhẫn nhục.
Chữ nhẫn ở đây không phải là nhẫn vàng hay kim cương mà là nhẫn nại chịu đựng. Chúng ta phải chấp nhận sự nhẫn nại, đã nhẫn thì phải nhục, nhưng chắc chắn sẽ đi đến kết quả tốt:”Ai kiên nhẫn đến cùng thì sẽ được rỗi”(Mt 10,22).
Vì thế văn hào Hypolite Taine nói một cách mỉa mai:
“Người ta tìm hiểu nhau ba tuần Yêu nhau ba tháng Cãi nhau ba năm Rồi chịu đựng 30 năm... để con cái lại trở về cái vòng luẩn quẩn”.
c) Đời sống thánh thiện.
Chìa khoá mở cửa vào chốn hạnh phúc là sự thánh thiện. Nếu vợ chồng yêu thương nhau như mối tình giữa Chúa Kitô và Hội thánh thì chắc chắn phải có đời sống thánh thiện. Phải rước Chúa vào trong đời sống gia đình. Bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ chính nhờ Chúa mà gia đình ở Cana này không vỡ mộng hạnh phúc. Không có Chúa, làm sao gia đình tránh khỏi sự đau khổ phiền muộn lúc ban đầu.
Nhà nào có Chúa ngự trong gia đình thì nhà ấy có hạnh phúc. Kinh nghiệm cho hay những gia đình nào hay đi dự lễ, buổi tối đọc kinh trong gia đình thì gia đình ấy thường là sống yêu thương, nhường nhịn, thuận hoà, giúp đỡ nhau, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc ngay khi gặp những khó khăn trong gia đình. Một trong các tiêu chuẩn hàng đầu phải có trong khi chọn người yêu để lập gia đình là sự thánh thiện, hay ít ra có đời sống đạo đức bình thường.
Truyện: Sẩy hết.
Có một chị kia muốn lập gia đình với một anh thanh niên trong xứ. Muốn hỏi ý kiến cha xứ xem chị ta có nên lấy anh ấy không. Cha hỏi:
- Anh ấy thế nào ? Chị thưa:
- Anh ấy có bằng Thạc sĩ, cha ạ. Cha xứ trả lời:
- Hết sẩy. Còn gì nữa ? - Anh ấy chơi dương cầm hay lắm. - Hết sẩy. - Anh ấy là hoạ sĩ nữa. - Hết sẩy ! - Anh ấy lại có tài ngoại giao nữa. - Hết sẩy ! - Anh ấy lại là con nhà giầu nữa . - Hết sẩy. - Nhưng còn một điều con hơi thắc mắc, đó là anh ta khô khan, không xưng tội rước lễõ !.
Cha xứ trợn mắt, lắc đầu:
- Ồ ! SẨY HẾT.
III. TIỆC CƯỚI VÀ ĐỨC MARIA.
“Người bảo gì thì cứ làm theo”. Mặc dầu câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối:”Giờ con chưa đến”, nhưng Mẹ Maria cứ tin rằng, Con mình sẽ thực hiện theo lời yêu cầu của mình nên đã nói với gia nhân:”Người bảo gì cứ làm theo”. Đức Mẹ biết Con mình rất hiếu thảo, không bao giờ làm buồn lòng cha mẹ. Do đó, khi đề xuất việc hết rượu với Con mình, Đức Mẹ tin chắc Con mình sẽ can thiệp, dĩ nhiên bằng phép lạ, dù trước đó Ngài chưa từng làm.
Điều này cũng nói lên giá trị thật sự trong lời bầu cử của Đức Mẹ đối với Con mình. Nói đến việc con cái hiếu thảo đối với cha mẹ, chúng ta liên tưởng đến một người con rất hiếu thảo, qúi trọng mẹ mình, không bao giờ muốn làm buồn lòng mẹ mình, đó là vua Salomôn trong Cựu ước. Trong sách Các vua có thuật lại khi mẹ của Salomon đi gặp ông, ông đi ra đón và sấp mình chào bà ; đoạn ông ngồi trên ngai, đồng thời truyền đặt một ngai cho bà ngồi bên hữu, và nói:”Thưa mẹ, mẹ cần gì cứ nói, con không từ chối mẹ điều gì”( 1V 2,19-20).
Mẹ Maria có mặt trong tiệc cưới không phải là sự ngẫu nhiên mà do sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngày nay Mẹ đang có mặt trong cuộc sống gia đình chúng ta. Mẹ cùng chia sẻ nỗi lo với mọi người chúng ta. Mẹ biết những khó khăn mà gia đình chúng ta đang gặp phải. Mẹ hiểu gia đình chúng ta đang thiếu những gì và cần gì. Mẹ đón nhận cái khổ của các gia đình như là cái khổ của mình. Chính vì thế khi cuộc sống gia đình gặp sóng gió, chúng ta tìm đến với Mẹ Maria. Mẹ sẵn sàng làm những gì có thể để giúp gia đình chúng ta như năm xưa Mẹ đã báo cho Chúa biết việc hết rượu. Nhờ Mẹ cầu bầu, Chúa lại sẽ làm phép lạ để cho rượu yêu thương trong hũ của gia đình chúng ta được đầy tràn (JKN).
Truyện: Xin tài trợ.
Linh mục Sylvano và mục sư Tin lành Henri cùng nhau đến lâu đài Pa-xi-an để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho dự án của mình. Linh mục Sylvano có ý định xin tiền để xây nhà thờ. Còn mục sư Henri thì xin tiền để xây trường học.
Đến nơi, họ được hoàng tử Auguste tiếp kiến riêng từng người một. Người được vào trước là mục sư Henri. Nhưng chỉ vài phút sau người ta thấy mục sự bước ra với vẻ mặt buồn thiu, vì dự án không được hoàng tử chấp nhận.
Mục sư ngồi lại chờ linh mục Sylvano để cùng về chung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy linh mục bước ra khỏi phòng tiếp kiến của hoàng tử, vẻ mặt hớn hở, tay xách một túi tiền khá nặng. Mục sự Henri liền thắc mắc hỏi:
- Tại sao linh mục lại được tài trợ như thế ?
Linh mục Sylvano trả lời:
- Dĩ nhiên đúng như vậy. Thoạt đầu hoàng tử chối từ lời xin của tôi. Nhưng khi nhìn qua bên cạnh thấy có hoàng thái hậu, tôi liền đến trước hoàng thái hậu để xin ngài bầu cử cho. Và hoàng tử đã đổi ý kiến, nghe lời khẩn cầu của hoàng thái hậu mà tài trợ cho dự án của tôi. Hoàng tử đã thưa với mẹ:”Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”(D. Wahrheit, Món quà giáng sinh, 79-80).
“Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”. Đó là điều mà câu chuyện trên đây muốn nhắc nhở.
Người công giáo chúng ta có lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria. Chúng ta đến với Chúa Giêsu qua Mẹ Maria. Mẹ khẩn cầu cho chúng ta và cùng với chúng ta thì làm sao Chúa Giêsu có thể từ chối.
Trong tập thơ Mảnh Trăng Non, có lần thi hào Tagore đặt trên môi một người mẹ lời yêu cầu ngỏ: TN 2-C69
Trong tập thơ Mảnh Trăng Non, có lần thi hào Tagore đặt trên môi một người mẹ lời yêu cầu ngỏ với con mình:
“Nầy con, họ la lối, tranh giành, hoài nghi và tuyệt vọng, họ cãi cọ không bao giờ thôi. Hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi, khiến họ say mê đến im lời. Con ơi, hãy bước tới giữa những tấm lòng quạu cọ, đoái nhìn họ với đôi mắt hiền từ, như cái an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh chấp. Hỡi con, hãy để họ thấy mặt con như thấy ý nghĩa của muôn loài, hãy để họ yêu con, và như thế, họ sẽ thương yêu nhau”.
Quý Anh Chị cùng các bạn trẻ thân mến,
Đọc lại những vần thơ trên, chúng ta liên tưởng đến những lời tương tự của một bà mẹ khác ngỏ với con mình qua trình thuật Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Đó là lời của Đức Maria ngỏ với Giêsu, khi cả hai cùng là khách mời của một tiệc cưới tại làng Cana. Hai người khách này hẳn đã chứng kiến cảnh rối bời của cô dâu chú rể cũng như đã cảm thông cái thấp thỏm lắng lo của nhà trai lẫn nhà gái khi họ biết rằng, tiệc chưa tàn - rượu đã hết.
Hết rượu là một bất trắc, bất trắc có thể đưa đến bất đồng.Bất đồng dễ đưa đến bất hòa, bất hòa hẳn đưa đến bất hạnh. Sợ rằng nhà tiệc có thể bất hạnh, Đức Maria đã tinh tế nhỏ to cùng con, “Họ hết rượu rồi”; và với những người ở đó, “Ngài bảo gì thì hãy làm theo!”. May thay, Đức Giêsu có đó; may hơn nữa, họ đã làm theo. Phép lạ xảy ra. Sự hiện diện của Đức Giêsu hôm ấy không chỉ tăng thêm niềm vui nhưng còn để giải cứu, một sự hiện diện cấp thiết và đúng lúc.
Với Đức Giêsu, phép lạ đã xảy ra, nước hoá thành rượu, nỗi buồn tan bay, toàn nhà tiệc hỷ hoan. Qua Con Thiên Chúa, mầu nhiệm được thực hiện, rượu hoá thành máu, bánh biến nên thịt, niềm vui dâng cao, cả nhân loại no đầy.
Quý Anh Chị và các bạn,
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất trắc đưa đến bất đồng, gây nên bất hòa và dẫn đến bất hạnh. Nhưng liệu mỗi người chúng ta có khó chịu khi được ví như những nhân vật bài thơ muốn ám chỉ, nghĩa là những con người có lẽ cũng đang lận đận, cãi cọ, la lối, tranh giành, hoài nghi và tuyệt vọng? Phải chăng chúng ta cũng là những con người vốn đang cần sự hiện diện của Đức Giêsu hơn bao giờ hết nhất là trong những ngày cuối năm khi bên ngoài thì lao xao, bên trong lại rạo rực… khi ngồi ngẫm nghĩ lại từng biến cố, từng sự việc một năm qua… bao hồng ân, bao tiếc xót; khi ngẫm nghĩ đến cái tương quan của mỗi người với Chúa, tương quan với gia đình, với anh chị em hay ngay cả với chính bản thân mình?
Giữa trăm bề thiếu thốn bất trắc, không chỉ thiếu rượu, chúng ta còn thiếu cả tình. Không chỉ thiếu tình chúng ta còn thiếu cả tâm. Không chỉ thiếu tâm chúng ta còn thiếu cả hồn… và bao nhiêu thiếu hụt khác, thiếu hiếu biết, thiếu cảm thông, thiếu tha thứ, thiếu quảng đại…
Chúng ta cũng cãi cọ chẳng bao giờ thôi và dường như không ít lần đối xử với nhau mà tâm hồn thật quạu cọ. Vì nhà chật, đường chật, túi chật mà lòng cũng chật; nếu quả như thế, chúng ta là những con người bất hạnh đáng thương hơn cả việc hết rượu mà hai họ nhà tiệc Cana phải trải qua.
Vậy thì hơn ai hết, hơn bao giờ hết, chúng ta cũng cần có sự hiện diện của Đức Maria và con của ngài thường xuyên hơn. Giêsu đó cũng đang bước tới nhìn chúng ta với đôi mắt hiền từ để đời mỗi người thôi hết lận đận, vì chỉ có Ngài “như ngọn đuốc sáng” và Lời của Ngài “bền vững tinh khôi” mới có thể khiến chúng ta “say mê đến im lời”. Im lời có nghĩa là tịnh khẩu. Nhưng tịnh khẩu không có nghĩa là im ắng, chịu đựng… nhưng để đắm chìm trong yêu thương và tha thứ, trong hối hận và ăn năn; tịnh khẩu để ngợi khen và cảm tạ, để nhịn nhục và ôn hòa.
“Hỡi con, hãy để họ thấy mặt con như thấy ý nghĩa của muôn loài, Hãy để họ yêu con, và như thế họ sẽ thương yêu nhau”. Vâng:
Có thấy được Giêsu, con người mới thấy được ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa ơn gọi cao cả của mỗi người.
Có biết được Giêsu, con người mới biết được chính mình, biết được tha nhân với tất cả những gì là đẹp đẽ nhất của hình ảnh Thiên Chúa.
Có được sự hiện diện của Giêsu, con người mới ngộ ra cái phù du tạm bợ của kiếp nhân sinh; ngộ ra cái quê hương thật của mình không ở tại chốn này.
Có gần gũi với Giêsu, con người mới tỉnh giấc trước cái bèo bọt chóng qua của nhan sắc, của tiền tài, của danh vọng; tỉnh giấc trước cái giới hạn èo uột của sức riêng mình.
Có yêu được Giêsu, con người mới có khả năng yêu thương tha nhân, có khả năng vượt qua mọi thiếu thốn, đứng trên mọi tranh chấp, tranh chấp từng danh hiệu, tranh chấp từng lời nói, tranh chấp từng tất đất, tranh chấp từng gang trời.
Tình yêu Ngài như ngọn lửa hồng làm sống lại cái bếp lò lạnh lẽo, vì tất cả cây cối trong rừng sẽ nên vô dụng cho một bếp lò nếu không có một ngọn lửa. Tình yêu Ngài như vò rượu ngon làm say ngất lòng người, niềm vui trọn vẹn; hơn thế nữa, vô tửu bất thành lễ.
Giêsu đó đủ sức giúp chúng ta về lại trong tình yêu. Vì chỉ có tình yêu mới có nội lực giải phóng, coi thường cái tạm thời, gạt bỏ mọi chướng ngại và xô đẩy cái tầm thường. Chính Đức Giêsu, ngọn lửa yêu thương, Đấng sẽ khơi lên đóm than hồng trong những lúc hết củi, lửa tắt, lạnh lò… đời lận đận. Chính Đức Giêsu, rượu nồng hoan hỷ, Đấng sẽ đem lại niềm vui những khi hết rượu, tiệc tàn, cụt hứng…đời quạu cọ.
Dâng Thánh Lễ hôm nay, để đời thôi hết lận đận, chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau hầu mỗi người biết mời cho được hai vị khách quý ấy vào tâm hồn, vào gia đình, vào cộng đoàn mình. Nhờ đó, năm mới sẽ là một năm hy vọng và tin yêu, một năm dư đầy rượu nồng và lửa ấm… nhưng xin đừng quên lời dặn của người mẹ, “Ngài bảo gì thì hãy làm theo!”, Amen.
Alkasami, một nhà thần bí người Ba Tư qua đời năm 1330, đã viết về tình yêu của Thiên: TN 2-C70
Alkasami, một nhà thần bí người Ba Tư qua đời năm 1330, đã viết về tình yêu của Thiên Chúa như sau: "Cái đẹp đích thực, tình yêu đích thực chính là Thiên Chúa. Và tất cả những gì là đẹp, là dễ yêu trên thế giới này đều tỏ lộ trọn vẹn về tình yêu của Ngài. Mỗi lần chúng ta nhận ra một người đẹp, đôi mắt trí tuệ của chúng ta phải hướng vọng lên Chúa và tấm lòng của chúng ta phải hướng về Ngài. Cuộc đời của Kitô hữu phải là mọt cuộc chiêm ngắm triền miên về Ngài. Cuộc đời của Kitô hữu phải là một cuộc chiêm ngắm triền miên vẻ đẹp tuyệt vời là Thiên Chúa, và phải là tiệc cưới tươi vui vì có Chúa Giêsu Kitô là vị hôn phu là rượu mới thơm ngon của thời cứu thế".
Ðó là sứ điệp Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay. Bắt đầu vào thế kỷ thứ XIII trước tây lịch, với tiên tri Môisê, mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel không còn được trình bày trong thứ ngôn ngữ chính trị ngoại giao của Giao ước nữa, mà được diễn tả trong thứ ngôn ngữ của hôn nhân, của liên hệ vợ chồng, của cuộc gặp gỡ đối thoại thân tình và tươi vui như trong một tiệc cưới. Tiên tri Isaia III, một đồ đệ của trường phái Isaia sống vào sau thời lưu đày đã muốn ca tụng các liên hệ thân tình ấy của Thiên Chúa với dân Israel. Các chương từ 56-66 là một bài ca cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã lại đoái nhìn đến Israel và cho họ được trở về quê hương sau 50 năm lưu đày bên Babylon.
Trong Kinh Thánh, thành Giêrusalem bị tàn phá và dân Israel phải sống kiếp lưu đày được giải thích như hâu quả cuộc sống tội lỗi của dân Chúa chọn, vì Israel đã chạy theo tôn thờ các thần linh giả tạo khác, không nhận biết Chúa và không kêu cầu Ngài nữa, nên phải sống kinh nghiệm đắng cay sự làm thinh của Thiên Chúa. Thiên Chúa rút bàn tay đỡ nâng lại và giấu cánh tay phải trong lòng không dang ra trợ lực họ nữa. Nhưng trong chương 62, tiên tri Isaia III cho thấy Thiên Chúa lại bắt đầu ngỏ lời với dân Israel.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, nếu sự thinh lặng diễn tả cảnh hoang tàn buồn thảm, nếu thinh lặng là sa mạc trống vắng vực thẳm, không có sự sống, thì lời nói diễn tả sức sáng tạo. Thành Giêrusalem được tái thiết và đổi mới lại trở thành người đối thoại với Thiên Chúa y như người nam và người nữ đã từng được chuyện vãn thân tình với Thiên Chúa vào thời khai nguyên vũ trụ. Giêrusalem tái thiết, là dấu chỉ của sự tạo dựng hữu hiệu của Thiên Chúa bị tàn phá vì tội lỗi bất trung của mình. Giêrusalem đã trở thành biểu tượng của con người được Thiên Chúa phục hồi vẻ trong sáng và hình ảnh của Ngài. Và Kinh Thánh diễn tả tình trạng cuộc tái sinh ấy của con người trong ơn thánh Chúa thứ ngôn ngữ của hôn nhân, Giêrusalem không bị bỏ rơi nữa mà trở thành hôn thê của Thiên Chúa, đầu đội vương miện, phẩm giá mới cao trọng của một nữ hoàng và được Thiên Chúa gọi là niền vui của Ta.
Cuộc sống của chúng ta ngày nay tuy chúng ta có lỗi, nhưng Thiên Chúa trao ban cho chúng ta cuộc sống mới và phẩm giá mới là con cái của Ngài. Và còn hơn thế nữa, Thiên Chúa biến đổi chúng ta thành người yêu, niềm vui của Ngài. Qua tường thuật tiệc cưới làng Cana, thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu cũng tỏ lộ con người và sứ mạng của Ngài trong khung cảnh một bữa tiệc cưới. Khác với các thánh sử của ba Phúc Âm nhất lãm hay dùng từ phép lạ, thánh Gioan dùng từ "dấu chỉ". Trong Kinh Thánh, rượu là dấu chỉ của thời cứu thế và của niềm vui mà Ðấng Cứu Thế khơi dậy nơi tâm lòng con người. Khi biến đổi nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thứ rượu hảo hạng của tiệc cưới thời cứu thế mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ðây là dấu chỉ, qua đó Chúa Giêsu cho thấy trước vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài. Nhưng trong nhãn quan thần học của thánh Gioan, vinh quang đích thực của Chúa Giêsu sẽ chỉ được tỏ hiện trên thánh giá và trong sự Phục sinh của Ngài mà thôi. Thánh Gioan gọi là giờ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, ngay lúc này đây, dấu chỉ ấy đã bắt đầu tỏ hiện. Lời xin của Mẹ Maria diễn tả cái lo lắng vật chất. Câu trả lời và kiểu cách làm của Chúa Giêsu diễn tả viễn tượng cứu thế trong tương lai. Và cũng giống như đoàn tông đồ, Mẹ Maria được Chúa Giêsu dẫn đưa vào con đường lòng tin, con đường mà mỗi một môn đệ đều phải đi theo, để có thể hiểu biết toàn vẹn bản chất đích thực con người của Chúa Giêsu.
Trong khung cảnh của tiệc cưới Cana, bên cạnh Chúa Giêsu là rượu mới của thời cứu thế, là vị hôn phu của cộng đoàn Giáo Hội và là chủ tiệc Thánh Thể, Mẹ Maria cũng là một dấu chỉ. Mẹ không cho chúng ta thấy một vị Thiên Chúa nghiêm nghị khắc khổ, mà giúp chúng ta hiểu Chúa Giêsu, con Mẹ là vị Thiên Chúa của sự sống, của niềm vui và của tình bạn hữu.
Có rất nhiều Kitô hữu gồm cả các vị lãnh đạo cộng đoàn quan niệm rằng, niềm vui không thể đi đôi với nỗ lực sống nghiêm chỉnh lòng tin Kitô, chỉ có ăn chay hãm mình mới là sống đạo. Chỉ khi chịu đựng những gì nặng nề, nhàm chán và khó chịu, mới có công phúc và mới là sống đạo, còn tươi vui hớn hở không phải là thái độ nghiêm trang kính trọng đối với Thiên Chúa. Quan niệm sai lầm nay khiến cho tín hữu có kiểu sống đạo khô khan, nhăn nhó và phục vụ Thiên Chúa với gương mặt cau có khó thương, chịu đựng hy sinh, tốn kém cho cái dịch vụ thờ phượng như với gương mặt sầu thảm làm sao. Do đó họ không cảm hứng vui lên trong Chúa khi phụng sự Ngài trong tiếng đàn ca.
Dấu chỉ tiệc cưới Cana cho thấy Thiên Chúa yêu thích cho chúng ta sống vui tươi hồn nhiên và trong sáng, bởi vì Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, chỉ là tin vui thật sự nếu chúng ta có thái độ sống lòng tin thật sự, nếu gương mặt, ánh mắt và cuộc sống chúng ta phản ánh niềm vui đó. Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng, để gặp gở Chúa Kitô chúng ta không cần phải là người thoát tục trở thành thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta hơn theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô nhập thể. Và để có thể hiện thực ơn gọi làm người, cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi ngày, càng biết sống sâu đậm các nhân đức căn bản tự nhiên, chúng ta càng giống Chúa Giêsu làm người. Ðó là nền tảng vững chắc đầu tiên, cần thiết trong cuộc sống ơn gọi Kitô. Thiếu các nhân đức căn bản này, người tín hữu mất quân bình, thường trở thành cuồng tín, có thái độ sống đạo lệch lạc.
Ngoài ra dấu chỉ của tiệc cưới Cana còn dạy cho chúng ta biết rằng, của cải trần gian và các tiện nghi vật chất tự chúng không có gì là xấu xa và nguy hại, chúng chỉ xấu xa nguy hại và đáng khinh, khi chúng khiến cho chúng ta đánh mất đi chất người của mình, và biến chúng ta trở thành ích kỷ hàm hồ, ác độc, bất công và nô lệ chúng. Nhưng thật ra, chỉ có con người là đáng chê trách vì ta trở thành xấu xa và gian tham ác độc chớ không phải của cải. Cũng chính vì thế, nên trong chương 12, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyến khích mọi người hãy biết sử dụng đúng đắn tất cả mọi đặc sủng mà Thiên Chúa rộng ban cho họ. Kẻ ít người nhiều ai cũng nhận được một số đặc sủng tùy theo sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Cần tận dụng tất cả mọi ơn đó, tất cả mọi đặc sủng và tài khéo đó mà Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân và trong cộng đoàn. Chính các đặc sủng khác nhau ấy làm thành sự phong phú của dân Chúa, những ơn Chúa ban đều có mục đích giúp cộng đoàn trở thành vững mạnh.
Tóm lại sống lòng tin Kitô có nghĩa là ý thức được ơn Chúa ban cho chúng ta, là luôn tươi vui tận dụng để phục vụ Thiên Chúa trong thân nhân theo mẫu gưong của Chúa Giêsu Kitô. R. Veritas
"Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa".
Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.
{Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}
SUY NIỆM
Sau lễ Hiển linh nói lên mầu nhiệm Đức Giêsu tỏ mình cho chư dân, phụng vụ bắt đầu mùa: TN 2-C71
Sau lễ Hiển linh nói lên mầu nhiệm Ðức Giêsu tỏ mình cho chư dân, phụng vụ bắt đầu mùa Thường niên. Và những Chúa nhật mở đầu trong mùa này sẽ thuật lại những công việc đầu tiên mà Ðức Giêsu làm để xây dựng Nước Trời trong kế hoạch đã khiến Người nhập thể giáng sinh cứu đời. Ðó là những việc đã từng được Cựu Ước loan báo và hứa hẹn. Ðức Giêsu đã thực hiện khi Người ra đi giảng đạo, nhưng với mục đích những việc ấy còn kéo dài ảnh hưởng cứu độ cho đến tận cùng lịch sử. Như vậy, các việc Ðức Giêsu đã làm đang còn có liên hệ đến chúng ta; khiến chúng ta phải để tâm quan sát và tìm hiểu. Chúng ta có thể cứ theo thứ tự thời gian: đọc lại những lời loan báo của Cựu Ước về ý chỉ cứu độ của Chúa; rồi xem Người thực hiện thế nào qua hành động của Ðức Giêsu nhưng nhất là cần xem những hành động này để lại ảnh hưởng cứu độ thế nào trong cuộc đời hiện nay của chúng ta.
1. Thiên Chúa Hứa Kết Hôn Với Dân Người
Bài sách Isaia hôm nay là một lời tiên tri rất an ủi. Khó có thể xác định Chúa đã tuyên bố những lời hứa này vào lúc nào. Tiên thiên, người ta có thể bảo đây là những lời an ủi Israen khi họ đang lưu đày. Họ thấy mình đã bị bỏ rơi. Vì thực ra còn gì có thể gọi là dân Chúa? Ðất nước bị ngoại bang xâm chiếm, Ðền thờ cũng chẳng còn; mà các phần tử ưu tú trong dân cũng đã bị phát lưu sang tận Babylonia. Ở đây, người ta chỉ thấy sức mạnh của đế quốc. Và tà giáo ở những nơi này thịnh đạt vô cùng. Làm sao Israen có thể hồi sinh được? Và Chúa của Abraham, Isaac và Giacob chắc chẳng mong gì có lại được một ngôi đền thờ sở dĩ coi được. Ngài đã bỏ Israen rồi, vì chính họ đã chẳng chịu quay mặt về lại với Người. Lưu đày là mồ chôn mọi lời giao ước...
Ðó là ý nghĩa của Israen. Mọi kẻ biết họ cũng chỉ có thể nghĩ như thế thôi. Nhưng đó lại không phải là ý nghĩ của Thiên Chúa. Người sai Isaia và các ngôn sứ đến. Họ khẳng định tương lai sẽ không như vậy. Ở đây Isaia có vẻ như sẽ chẳng chịu ngồi yên cho đến khi nào ánh sáng của Chúa lại tỏa trên Sion. Giêrusalem sẽ lại bừng sáng trước sự ngưỡng mộ của chư dân. Chẳng ai sẽ còn bảo Israen là kẻ bị bỏ rơi nữa; ngược lại rõ ràng nó sẽ trở nên người hôn thê lý tưởng của Thiên Chúa tình yêu.
Và tất cả sẽ xảy ra như thế chỉ vì Giavê là Ðấng tín thành. Người không bỏ rơi người bạn mà Người đã đính ước. Người lại toàn năng đến nỗi tự mình thay đổi hẳn được vận mạng của bạn Người hiện nay. Từ thân phận như của một vùng đất tan hoang, Người sẽ biến nó nên thiên đàng trù mật; và từ hình thức một thiếu phụ tàn tạ, Người sẽ đổi mới thành một hiền thê khả ái. Chương trình của Người đáng tin cậy sao? Ðó là những lời tiên tri đầy an ủi. Niềm tin này trở thành lẽ sống duy nhất của dân lưu đày.
Chúng ta biết các ngôn sứ đã có lý. Chúa đã đưa dân lưu lạc về. Giêrusalem được tái thiết. Nhưng ánh sáng như vừa lóe lên ở Sion, thì bỗng dưng chân trời lại như muốn tối sầm lại. Việc xây dựng đền thờ gặp nhiều khó khăn do đám dân đến ở Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Dân Chúa lại nao núng niềm tin. Có lẽ vào lúc ấy Isaia mới tuyên bố những lời trong bài đọc hôm nay. Vị trí của những lời này trong sách của ông khiến chúng ta phải nghĩ như vậy. Ðây là sấm ngôn trong phần III (cũng gọi là sách III) trong tác phẩm mang tên Isaia. Xét về thời gian đó là những lời tiên tri sau lưu đày. Nhưng xét về nội dung đó cũng là những lời có giá trị an ủi Israen như trong phần II (hoặc sách II) của Isaia, tuyên bố trong thời gian dân Chúa bị thử thách.
Ðàng nào thì dân Chúa cũng đang gặp khó khăn và nặng mặc cảm bị Chúa bỏ rơi. Không như vậy thì vì sao công việc tái thiết đền thờ lại gặp khó khăn như thế này. Tựa vào niềm tin, Isaia can đảm nói lên lời trông cậy. Ông khuyến khích những cánh tay đang tái thiết đền thờ đừng rã rời vì nản chí. Chúa sẽ chiếu sáng trên Sion mà! Người sẽ đặt triều thiên trên đầu dân Người. Họ sẽ là hôn thê của Người như Hôsê cũng đã từng loan báo. Chúng ta chưa thấy những công việc ấy hoàn toàn xảy ra sau lưu đày. Nhưng sau này chắc chắn sẽ như vậy. Và những gì đáng xảy ra sau lưu đày, ít nhất cũng là những dấu hiệu bảo chứng để chúng ta tin tưởng hướng về tương lai.
Như vậy việc đặt các lời tiên tri hôm nay vào thời gian sau lưu đày, lại càng ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng không cho phép chúng ta dừng lại nơi Cựu Ước, tưởng rằng lời tiên tri đã thực hiện cho dân sau lưu đày. Không, mọi lời tiên tri chỉ thể hiện đầy đủ trong Tân Ước, khởi sự nơi Ðức Giêsu Kitô nhưng cũng chỉ hoàn tất khi Người vươn tới tầm vóc viên mãn, tức là lúc thế mạt. Cũng như thay vì hiểu những lời tiên tri hôm nay như là những lời của Isaia nói với Israen, chúng ta có thể coi đó là những lời của chính Thiên Chúa trực tiếp nói với dân Người. Họ bảo Người bỏ rơi họ ư? Này, Người sẽ không ngồi yên cho đến khi ánh sáng lại bừng lên trên Giêrusalem và Sion trở thành hiền thê của Người. Hiểu như vậy, bản văn sẽ trữ tình hơn, cũng như hiểu đây là những lời tiên tri sau lưu đày sẽ trở nên gần gũi với chúng ta hơn. Dù sao đoạn tiên tri hôm nay cũng cho chúng ta thấy tình yêu trung kiên nồng nàn của Thiên Chúa đang nóng lòng muốn kết hôn với dân Người. Người đã thực hiện được việc ấy chưa, hay còn trong thời gian chờ đợi? Chúng ta hãy tìm câu trả lời trong bài Tin Mừng và bài Thánh thư.
2. Ðức Giêsu Kitô Tỏ Mình Trong Một Cuộc Hôn Nhân
Rất tiếc, phụng vụ đã không giữ lại những chữ đầu tiên mở đầu cho bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Gioan đã không viết rằng: bấy giờ có một tiệc cưới ở Cana; nhưng ghi rõ "ngày thứ ba" có tiệc cưới ở Cana". Những chữ "ngày thứ ba" rất có giá trị. Trong các sách Tin Mừng, những chữ ấy loan báo việc Chúa Giêsu sống lại ngày thứ ba sau khi tử nạn... Và như vậy thánh Gioan muốn kể câu chuyện tiệc cưới Cana trong ánh sáng và bầu khí Phục Sinh. Chúng ta phải dùng mầu nhiệm Chúa sống lại để hiểu sự việc sắp xảy ra.
Hơn nữa theo sách Tin Mừng của Gioan, ngày thứ ba hôm đó là ba ngày sau khi Ðức Giêsu hứa cho Nathanaen còn được xem thấy những việc lớn lao hơn việc Người biết rõ hành động của ông. Và tức cũng là ngày thứ năm sau khi Ðức Giêsu nhận các môn đệ đầu tiên; và là bảy ngày sau khi Gioan giới thiệu Người với dân chúng. Như vậy tiệc cưới Cana xảy ra vào ngày thứ tám, tức là ngày Chúa nhật của đạo mới. Gioan vốn có óc phụng vụ, đặt câu chuyện xảy ra vào ngày Chúa nhật để hàm ý nói rằng nó có hệ đến sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay. Chúng ta không những phải dùng ánh sáng phục sinh để tìm hiểu, mà cũng phải liên hệ với phụng vụ Chúa nhật, tức là sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay nữa. Những chữ "ngày thứ ba" mở đầu câu chuyện tiệc cưới Cana có ý nghĩa như thế.
Cũng như rất có ý nghĩa sự hiện diện của Ðức Maria, Mẹ Ðức Giêsu trong câu chuyện này. Người đã có mặt ở đó trước khi Ðức Giêsu đến với các môn đệ. Như vậy mẹ con đã sống xa nhau rồi. Ðức Giêsu đã đi vào cuộc đời công khai, xã hội. Người sống với các môn đệ chứ không còn ở với mẹ trong gia đình.
Tuy nhiên sách Tin Mừng Gioan sẽ lại nói đến Ðức Maria một lần nữa và chỉ một lần nữa thôi, khi ở dưới chân thập giá. Ðầu và cuối cuộc đời cứu thế của Ðức Giêsu đều có sự hiện diện của Mẹ Người, khiến chúng ta thấy Gioan có hàm ý rằng Ðức Maria theo dõi tham gia mật thiết vào công cuộc cứu thế. Và chúng ta nên nhìn khuôn mặt Người ở đây như khi Người sẽ đứng dưới chân thánh giá... Ðiều này giúp chúng ta hiểu hơn câu chuyện tiệc cưới, đặc biệt những lời đối thoại giữa Ðức Giêsu và Mẹ Người.
Vậy Ðức Maria đã có mặt tại tiệc cưới khi Ðức Giêsu đến với các môn đệ. Mẹ Người ở giữa xã hội loài người để đón tiếp ơn Chúa viếng thăm. "Họ hết rượu rồi", đó là lời Ðức Maria nói với Con Người khi Người vừa đến. Ai xúi Ðức Maria nói như vậy? làm sao Người biết việc đó? Hành động này nói lên sự hiểu biết thông cảm và tình thương cứu độ của Ðức Maria. Người là Ðấng cầu bầu cho loài người khốn khổ. Người thưa với Thiên Chúa về mọi nhu cầu của chúng ta, cả khi chúng ta không biết việc Người làm, chúng ta có tôn kính yêu mến Người mấy cũng chưa bù được tình thương săn sóc của Người đối với chúng ta. Một mặt Người là Ðấng cầu bầu cho chúng ta nhưng mặt khác, Người luôn luôn quay mặt nói với chúng ta như nói với những người giúp tiệc hôm đó "Ngài có bảo gì thì cứ làm theo". Gioan lấy lại lời Pharaon nói với dân Ai Cập trong nạn đói khổ: "Giuse bảo gì thì cứ làm theo" (Kn 41,55). Ðặt những lời này trên môi miệng Ðức Maria, Gioan muốn Mẹ Maria đóng vai trò giới thiệu Chúa Cứu Thế.
Hơn nữa, dường như Người muốn nói với tất cả những ai ở mọi thế hệ chạy đến cầu bầu Người rằng: hãy cứ thi hành lệnh Chúa truyền dạy. Trước mặt Chúa, Người là Ðấng chuyển cầu cho chúng ta"... Còn đối với chúng ta, Người luôn luôn nhắn nhủ hãy sống theo ý Chúa. Hai vai trò ấy cho chúng ta thấy Ðức Maria trong mầu nhiệm Cứu Thế và khiến chúng ta phải biết tôn sùng Người thế nào cho hợp ý Người. Ở đây, trong tiệc cưới Cana, Người đã trình bày thân phận thiếu thốn của loài người tội lỗi trong câu: "Họ hết rượu rồi". Ðó là dân Cựu Ước thường dùng để mô tả thời buổi đói khổ dân Chúa, biểu lộ hoàn cảnh đáng thương đang chờ ơn Cứu độ.
Như vậy Ðức Maria xin ơn cứu độ cho loài người. Ít ra, Ðức Giêsu hiểu như vậy và muốn nâng lòng Mẹ Người phải hiểu như thế. Do đó Người gọi mẹ bằng từ ngữ rất thông thường chẳng phải bất kính gì, nhưng muốn đặt mẹ vào trong kế hoạch cứu độ. Trong kế hoạch này, tình máu mủ thế gian không ăn thua gì. Tất cả giá trị tùy thuộc ở niềm tin.
Sau này, khi ở trên thập giá, Ðức Giêsu cũng gọi mẹ bằng từ ngữ: "này bà", để Người ngửng đầu lên nhận lấy trách nhiệm và vinh dự làm mẹ cả loài người.
Giờ ấy hôm nay chưa đến, Ðức Giêsu ý thức như vậy. Nhưng nó cũng đã khởi sự từ hôm nay. Hoặc ít ra Ðức Giêsu cũng muốn bắt đầu khi có lời thỉnh nguyện của Ðức Maria. Người chưa biến chén rượu thành máu, vì đó là việc của "giờ" Cứu độ sẽ được thi hành trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Nhưng tiếp xúc với một nhân loại thống khổ, như Ðức Maria vừa trình bày cho Người thấy, Ðức Giêsu đã khởi sự cứu vớt. Người biến nước thành rượu để báo trước sẽ đến giờ biến rượu thành máu... Người biến cả 6 chum nước lớn để tỏ ra ơn cứu độ sẽ vô cùng dồi dào phong phú.
Và sự kiện này không thể không tạo nên một niềm hân hoan lớn. Tất cả những câu nói của người chủ tiệc chỉ có mục đích nói lên lòng cảm mến hân hoan đó. Rượu mới mà Ðức Giêsu mang đến vượt xa thứ rượu cũ của Cựu Ước khiến thật sự chúng ta được chiêm ngưỡng vinh quang hiển linh của Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô.
Hiểu bài Tin Mừng hôm nay như vậy, chúng ta thấy rõ câu chuyện tiệc cưới Cana gắn liền với mầu nhiệm Cứu thế và với phụng vụ Thánh Thể mà Hội Thánh cử hành mỗi ngày thứ 8, tức là ngày Chúa nhật. Thánh Gioan cho chúng ta thấy một cuộc hội họp, hình ảnh của xã hội loài người nói chung và cộng đồng dân Chúa nói riêng.
Ðức Maria đã ở đó như là Người trung gian các ơn trong thái độ chuyển cầu và khuyên bảo. Cuộc hôn nhân mà loài người đang cử hành, tức là đời sống con người ở diện hạnh phúc nhất, đang lâm vào tình trạng nguy ngập; Ðức Kitô đến; Ðức Mẹ thỉnh cầu; loài người làm theo ý Chúa; hôn lễ được hồi sinh; nhưng người ta sẽ không còn để ý đến đám hôn nhân hôm ấy nữa cho bằng đang nhìn theo đám người đang đi xuống Capharnaum: Ðó là đi với Mẹ và anh em Người, và với các môn đồ của Người. Ðó là cộng đồng dân Chúa mới, là Hội Thánh Ðức Kitô, là hôn nhân mới và vĩnh cửu nhờ chén rượu đã trở thành máu trong giao ước mới, mà hôm nay việc nước biến nên rượu là bước đầu.
Như vậy, kết thúc bài Tin Mừng, thánh Gioan mời chúng ta nhìn sang Giáo Hội. Ở đây bài Thánh thư sẽ soi sáng thêm cho chúng ta.
3. Hội Thánh Và Thánh Thần
Nhìn vào Ðức Giêsu vừa làm phép lạ biến nước thành rượu giữa các tông đồ, con mắt đức tin của Gioan đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa đã đến ở giữa loài người. Thiên Chúa và dân Người đã mật thiết với nhau như thầy với trò.
Hơn nữa, bản tính Thiên Chúa đã mặc lấy xác thể loài người khi Ngôi Lời hóa thành nhục thể. Ðó không phải là cuộc hôn nhân giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và dân Người sao? Lời tiên tri đã được thực hiện nơi Ðức Giêsu. Nhưng Ðức Giêsu đi giữa các môn đệ chưa hoàn toàn là Ðức Giêsu vinh quang. Ánh sáng của Người chỉ lóe lên chốc lát trong phép lạ nước hóa thành rượu. Ði giữa các môn đệ chưa được đầy Thánh Thần, vinh quang của Người còn bị xác thịt che dấu.
Nay Người đã trở về trời và sai Thánh Thần xuống, thì kìa Hội Thánh của Người đang đầy sức mạnh của Thánh Thần. Tông đồ Phaolô nhìn thấy sự sống hiện nay của Hội Thánh là một vườn hoa muôn sắc. Không thiếu ơn nào của Hội Thánh là một vườn hoa muôn sắc. Không thiếu ơn nào. Khôn ngoan có; trí tri có; có những phần tử đầy lòng tin lại có những anh em được tài chữa bệnh. Các ơn tiên tri cũng nhiều, mà các ơn biện phân mầu nhiệm cũng lắm. Một Hội Thánh như vậy không phải là một tổ chức loài người. Ðó không phải là xã hội sống bằng sự sống nhân loại. Nhưng rõ ràng đó là cơ thể đầy thần khí. Thánh Thần đang làm việc trong cơ thể như đã từng làm việc trong con người Ðức Giêsu Kitô ngày trước. Nói cách khác, xưa Thiên tính đã ở với Ðức Giêsu thành Nadarét để cứu thế, thì bây giờ Thần khí Thiên Chúa đang ở trong Hội Thánh để tiếp tục sứ mạng của Ðức Giêsu. Hội Thánh là thân thể nối dài của Người. Và như vậy, cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Người, xưa thực hiện nơi Ðức Giêsu, thì nay cũng đang tiếp tục trong Hội Thánh. Hội Thánh là Israen mà Isaia đã nhìn thấy trong niềm tin vào lời hứa. Hội Thánh thực hiện mọi lời tiên tri đã từng là lẽ sống cho tiền nhân. Và sở dĩ như vậy là nhờ Ðức Giêsu Cứu Thế, đã biến đổi rượu thành máu trong cuộc khổ nạn của Người, hoàn tất phép lạ hóa nước thành rượu trong tiệc cưới ở Cana. Chủ đám ngày xưa đã thốt ra những lời ngưỡng mộ kinh ngạc khi được nếm chút rượu mới, thì chúng ta phải hân hoan cảm tạ biết bao khi chạm vào chén máu của Ðức Kitô trong thánh lễ này.
Phải, chính trong Hội Thánh và nơi Thánh Thể mà chúng ta thấy kết tinh kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Ở đây rõ ràng có tiệc cưới Chiên Con. Rượu sẽ hóa thành máu và máu sẽ ban Thánh Thần cho những ai lãnh nhận để một thần khí Thiên Chúa sinh hoạt nơi mọi phần tử trong Hội Thánh. Tham dự thánh lễ này, vì thế, chúng ta phải kết hiệp với thánh linh; và rồi phải sống như mình chỉ là một chi thể trong một thân thể. Phải đem khả năng thi hành nhiệm vụ riêng để phục vụ đoàn thể. Lúc ấy Hội Thánh mới tỏ ra thực là một cơ thể, cơ thể có Thần Khí, làm chứng Thiên Chúa đang kết hiệp với dân Người, thể hiện mọi lời tiên tri về hôn nhân như chúng ta đã nghe đọc trong thánh lễ hôm nay.
Câu chuyện hoá nước thành rượu ngon có thể nói là câu chuyện đẹp nhất trong những trang: TN 2-C72
Câu chuyện hoá nước thành rượu ngon có thể nói là câu chuyện đẹp nhất trong những trang Tin mừng theo thánh Gioan. Hình ảnh Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ Chúa đến tham dự tiệc cưới Cana cùng với mọi người thân thích nơi đây làm thành một bức tranh tuyệt đẹp về sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu đi vào cuộc sống của con người một cách rất bình dị và thật gần gũi. Ngài vui với niềm vui của kẻ khác. Ngài sẵn lòng chia sẻ với họ những khó khăn trong đời sống. Đúng như những gì Ngài đã nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.
Người ta vẫn thường quen trích dẫn câu chuyện Chúa Giêsu biến nước thành rượu để cho thấy vai trò bầu cử của Đức Mẹ Maria trước mặt Thiên Chúa có hiệu quả như thế nào! Thật ra câu chuyện này không hề mang ý nghĩa đó. Chúa Giêsu đến trong trần gian này là để thực thị sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha. Những lời Ngài rao giảng, những phép lạ Chúa làm đều được thực hiện dưới sự hướng dẫn và hoàn toàn theo Thánh ý của Chúa Cha muốn. Ngài không bao giờ để cho ai ngoài Thiên Chúa Cha có thể tác động trên những lời nói và việc làm của Ngài dù người đó là Mẹ Maria đi nữa! Có thể chúng ta vẫn quen hiểu rằng: kết quả của việc Chúa Giêsu biến nước thành rượu là nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ Maria. Thật ra không phải thế. Câu trả lời xem ra có vẻ lạnh nhạt của Chúa Giêsu với Mẹ Maria đã nói lên điều đó: “Này Bà, Tôi với Bà có can chi đâu? Giờ Tôi chưa đến”. Câu nói này không phải bao giờ là sự bất hiếu của Chúa Giêsu với Mẹ Ngài. Nhưng câu nói ấy cho thấy rằng: hành động Chúa Giêsu đã, đang và sẽ làm không bao giờ bị trói buộc bởi lời cầu xin của con người.
Cũng có lẽ chúng ta suy nghĩ trong lòng rằng: Chúa Giêsu là người “ngôn hành bất nhất”, nói khác mà làm thì khác. Bởi vì xem ra Chúa không nhận lời Đức Mẹ xin, nhưng sau đó thì lại làm theo. Không phải Chúa Giêsu hối hận trong lời nói rồi thi hành phép lạ để Mẹ Ngài vui lòng! Không. Ngài làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon này là do sáng kiến của Ngài, hay nói đúng hơn là Ngài thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa Cha. Phép lạ này chắc chắn làm cho mọi người có mặt trong tiệc cưới ở Cana nói chung và Đức Mẹ nói riêng rất vui và rất hài lòng nhưng cần nói lại một lần nữa: phép lạ ấy không phải nhờ vào lời bầu cử của Đức Mẹ mà có. Tuy nhiên, chúng ta không phủ nhận lời cầu xin của Đức Mẹ, cũng không có ý nói rằng: lời nói của Đức Mẹ là dư thừa trước mặt Thiên Chúa. Không phải thế! Lời bầu cữ của Mẹ rất có thế giá trước mặt Thiên Chúa nhưng không phải là lúc này và không phải trong trường hợp này.
Giờ đây, chúng ta hãy tìm hiểu xem đâu là ý nghĩa đích thực của phép lạ biến nước thành rượu ngon này?
Chúa Giêsu đã nói: “Giờ tôi chưa đến”.Dù vậy, Ngài vẫn thực hiện phép lạ đầu tiên này tại tiệc cưới Cana nhằm tỏ bày vinh quang Thiên Chúa nơi Ngài, đồng thời cũng cho các môn đệ của Ngài nhìn thấy và tin vào Ngài. Phép lạ xảy ra là do lòng tin nhưng phép lạ cũng nhằm cũng cố niềm tin nơi con người.
Qua phép lạ này, chúng ta cũng thấy được rằng: Chúa Giêsu đã đi vào cuộc sống của con người với tấm lòng của người cha, người mẹ và Ngài đã làm cho cuộc sống thêm hương vị đậm đà của tình thươn, thêm vị nồng nàn của sự thánh thiện.
Cuộc sống của chúng ta nếu không có Chúa thì sẽ nhạt nhẽo lắm, sánh ví như nước lã vậy. Trong tiệc cưới Cana hôm ấy, nếu không có Chúa hiện diện thì nó sẽ nhạt nhẽo biết là dường nào! Chủ nhà tiệc sẽ phải xấu hổ lắm trước mặt quan khách, vì chỉ có nước lạnh mà không có rượu nồng. Nhưng may thay, Chúa Giêsu đã hiện diện và Ngài đã “cứu một bàn thua trông thấy” cho chủ tiệc cưới. Chúa đã đem đến niềm vui trọn vẹn cho con người.
Cũng vậy, mọi công việc chúng ta làm nếu không có Chúa thì cũng sẽ nhạt nhẽo lắm. ý nghĩa của nó chắc chắn sẽ không bao giờ trọn vẹn được. Chính Chúa sẽ mặc cho những công việc làm của chúng ta ý nghĩa tốt đẹp trọn vẹn của nó. Công việc của Cha Damien khi chăm sóc người cùi, công việc qui tụ những người nghèo cùng cực của Mẹ Têrêsa sẽ trở nên nhàm chán và ghê sợ nếu Cha Damien và Mẹ Têrêsa không được Chúa nâng đỡ và chúc phúc. Chính vì nhận thấy Chúa Giêsu hiện diện trong những con người đáng thương ấy mà những chiến sĩ của Chúa đã dấn thân đến quên mình.
Đời sống gia đình có thể sẽ trở thành nặng nề và nhàm chán lắm nếu gia đình ấy không có Chúa ở cùng để chúc phúc cho họ. Gia đình có Chúa là gia đình có mái che! Chính Chúa sẽ làm cho hạnh phúc nơi gia đình mãi thêm nồng nàn, mặn mà và mạnh mẽ. Chính Chúa sẽ chở che và ban phúc cho những gia đình nào biết chọn Chúa làm gia nghiệp và làm chủ của mình.
Lạy Chúa, Chúa thật là nguồn sống và niềm hy vọng vững chắc cho chúng con. Amen.
----------------------------
TN 2-C73. ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG ĐEM LẠI NIỀM VUI CHO DÂN NGƯỜI
Ga 2,1-11
Gp. Vĩnh Long
Suốt 4000 năm, dân Do Thái đợi trông Đức Chúa viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Tuy: TN 2-C73
Suốt 4000 năm, dân Do Thái đợi trông Ðức Chúa viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Tuy Chúa đã gởi nhiều sứ giả của Ngài đến hướng dẫn dân như Môsê và các tiên tri, nhưng những vị ấy không thể làm thoả mãn lòng khát mong sâu xa của dân, dân chúng tin vào lời hứa Messia, người là Ðấng muôn dân trông đợi.
Trong bài đọc I, qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa ban cho Israel Ðấng Cứu Ðộ, Ngài đến như ngọc đuốc sáng ngời, mọi vua và mọi dân nước sẽ thấy vinh quang của dân Người. Từ Israel, vinh quang của Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa ra các dân tộc, Israel sẽ được gọi là kẻ được Thiên Chúa sủng ái.
Những điều Isaia nói trong Cựu Ước hôm nay đã ứng nghiệm. Ðức Giêsu, Ðấng cứu chuộc Israel đã đến. Ngài đem niềm vui cứu độ cho dân Người. Việc Ngài làm phép lạ hóa nước thành rượu trong tiệc cưới Cana cũng là một dấu chỉ Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại niềm vui hoan hỉ nhờ Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài là Đấng đem lại niềm vui, niềm hy vọng cho dân đang ngồi trong bóng tối sự chết. Ngài đến để vực dậy sự sống của con người vốn đang bị Satan vây bủa và phá hoại. Ðó cũng là điều Chúa Cha muốn Con mình thực hiện để các môn đệ và mọi người biết Ngài là ai và tin cậy vào ngài.
Trong phép lạ này, chúng ta thấy có sự hiện diện và can thiệp của Đức Mẹ. Nhờ Mẹ nói với Chúa Giêsu về tình trạng thiếu rượu của gia chủ mà Chúa Giêsu đã ra tay can thiệp. Tuy nhiên, đây cũng là điều đẹp lòng Chúa Cha và nằm trong chương trình của thiên chúa. Chúa Giêsu hiểu đựơc ý Cha và cũng tỏ cho Mẹ Maria biết là giờ cứu chuộc, giờ Ngài chịu nạn chịu chết đền thay vì tội lỗi nhân loại và sống lại vinh quang chưa đến. Tuy nhiên, Ngài sẽ thực hiện việc cứu chuộc muôn dân, sẽ đến giờ mà ma quỉ và sự chết phải đại bại hoàn toàn. Đó là lúc loài người được giao hòa với thiên chúa, và cửa Thiên đàng mở ra cho người lành được vào hưởng vinh phúc.
Xưa kia bà Evà đã đưa sự chết vào thế gian thì hôm nay, nhờ Bà Evà mới là Mẹ Maria, Ðức Giêsu sẽ cứu thế gian khỏi quyền lực ma quỉ và sự chết. Chắc chắn như vậy vì Ngài là Ðấng quyền phép vô cùng. Ngài có thể biến nước lã, chỉ dùng vào việc tắm rửa trở nên rượu ngon hảo hạng cho con người được hưởng dùng hỉ hoan, thì Người cũng sẽ làm cho dân tộc Do Thái cũng như tất cả chúng ta từ bất xứng, từ những kẻ tội lỗi trở nên xứng đáng, nên những vị thánh nhờ công nghiệp cứu chuộc của Ngài.
Chúa Giêsu rất yêu thương chúng ta đến độ sẵn sàng hy sinh chính mình Ngài vì phần rỗi của chúng ta. Chúa Cha có một người con duy nhất mà cũng sẵn sàng ban cho loài người để Người đổ hết máu mình ra rửa sạch tội lỗi nhân loại. Chúng ta tin chắc sẽ rằng: Ai tin vào Chúa Giêsu thì sẽ không phải hư mất, sẽ không mất niềm hy vọng nhưng sẽ được niềm vui hoan lạc, được uống rượu vui mừng trong Nước Chúa.
Hôm nay, chúng ta đã biết Chúa Giêsu là Ađam mới, Ngài đến để chuộc lại tội lỗi của Ađam xưa, để giải thoát con người khỏi án tội nguyên tổ. Vậy chúng ta đã nghe lời Người dạy bảo trong Phúc Âm, đã tuân giữ giới răn Người truyền ban, đã sống gắn bó với Người, đã đi theo Người trọn vẹn chưa?
Nếu chúng ta tin cậy nơi Chúa thì bao nhiêu việc làm của chúng ta dù nhỏ bé nhưng nếu chúng ta biết làm hết sức mình với lòng chân thành yêu mến Chúa thì sẽ được Chúa biến đổi thành công phúc lớn lao, thành rượu hoan lạc cho chúng ta trong Nước Trời mai sau.
----------------------------
TN 2-C74. GIÊSU, NIỀM VUI MỚI
Ga 2,1-11
Gp. Vĩnh Long
Tâm lý chung của con người mọi thời là sợ buồn, sợ khổ, sợ bệnh tật, sợ chết v.v thế nên Đức: TN 2-C74
Tâm lý chung của con người mọi thời là sợ buồn, sợ khổ, sợ bệnh tật, sợ chết v.v thế nên Đức Phật nhìn đời một cách thật bi quan mà thốt lên “đời là bể khổ”. Vì thế nên ngài đưa ra nhiều phương cách để diệt khổ, hầu mong có được sự bình an, niềm vui, hạnh phúc ngay tại cuộc sống trần gian này. Nhưng thực tế con người có diệt được khổ, diệt được nỗi buồn, thoát cái chết không? Thưa con người vùng vẫy và bất lực trước buồn khổ.
Bài tin mừng hôm nay, thánh Gioan cho chúng ta thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ tại tiệc cưới Cana. Để có sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ, tôi thiết tưởng rằng gia chủ hay đôi tân hôn phải gởi những tấm thiệp đến hoặc cho người đi mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Vâng!Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ là niềm vui và là vinh dự cho gia chủ cũng như cho đôi tân hôn vì Chúa Giêsu và Đức Mẹ không làm phụ lòng gia chủ. Niềm vui, niềm vinh dự đó không chỉ thông thường như các đám cưới khác, mà chính nơi tiệc cưới này Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên trong sứ vụ rao giảng công khai của Ngài.
Theo phong tục của người Do Thái, đám cưới phải được tổ chức kéo dài trong bảy ngày thì niềm vui ngày thành hôn mới được trọn vẹn. Nhưng đám cưới tại Cana này thực khách đang vui vẻ chén anh chén tôi bước sang ngày thứ ba thì đã hết rượu, đám cưới mà hết rượu thì còn gì là vui nữa. Hiển nhiên thực khách sẽ lần lược ra về hết. Đây là sự mất mặt của gia chủ đối với thực khách, vì đám cưới mà lại không chuẩn bị chu đáo, một nỗi buồn ập đến cho gia chủ và đôi tân hôn. Gia chủ rất bối rối và không kém phần lo lắng…
Trong những thực khách dự tiệc ngày đó, có một người rất tinh tế thấy được sự bối rối của gia chủ đó là Mẹ Maria. Nếu Mẹ Maria cứ ngồi ăn như những thực khách khác thì làm sao Mẹ thấy được nỗi lo lắng của gia chủ. Chắc là Mẹ vào phụ giúp dưới bếp hay cũng quan sát lắm mới thấy được điều đó. Mẹ đã hiểu được hoàn cảnh éo le mà gia chủ gặp phải, và Mẹ đã đi bước trước lời ngỏ ý của gia chủ. Vâng! Một khi hai người thân nhau lắm mới hiểu được khả năng của nhau. Mẹ kết hợp mật thiết với Con của Mẹ, nên mẹ hiểu con Mẹ, Mẹ tin tưởng Con của Mẹ có thể giúp được cho gia chủ, vì thế Mẹ đã ý nhị ngỏ lời với Con của Mẹ “họ hết rượu rồi”, chỉ một lời nói nhỏ ngỏ ý với Con mà phép lạ đã được thực hiện sáu chum nước lã hoá thành sáu chum rượu ngon. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đem lại niềm vui mới không chỉ cho gia chủ mà cho hết mọi thực khách dự tiệc ngày đó, đến nỗi họ phải thốt lên với tân lang: “ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàn hơn, còn anh lại giữ rượu ngon đến bây giờ”. Sự hiện diện của Chúa Giêsu thật sự đem lại niềm vui trọn vẹn, niềm vui mới khác hẳn niềm vui ban đầu.
Tương tự trong đời sống của ta cũng thế, nhiều khi gặp bất ổn là do “sắp hết rượu hay là đã hết rượu” rồi.Tại vì chúng ta không biết mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ đến dự tiệc cuộc đời với chúng ta. Chúng ta cứ lo chạy tìm hay mời những người khách chóng qua như: hưởng thụ, khoái lạc, danh vọng, tiền bạc … mà quên mời những vị khách đem lại niềm vui đời đời cho chúng ta. Vậy chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không vội viết những tấm thiệp để mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ đến với chúng ta, và chúng ta hãy mở lòng ra thố lộ những khó khăn chúng ta đang gặp để Đức Mẹ cũng ngỏ ý với Chúa Giêsu như tại tiệc cưới Cana “họ hết rượu rồi, họ đang buồn chán, họ đang gặp khó khăn, họ đang mất bình an đó” vì chính Mẹ là trạng sư của chúng ta mà. Và như thế tôi tin rằng Chúa Giêsu cũng sẽ thực hiện những phép lạ tỏ tường trong đời sống chúng ta. Chỉ nơi Chúa Giêsu mới có sự bình an và niềm vui viên mãn.
Người ta kể lại câu chuyện như sau: Có một tu viện nọ, các thầy sống chung với nhau mà luôn cải cọ, ganh ghét, nói xấu chỉ trích nhau làm gương xấu cho cả vùng đó. Vì thế không còn ai muốn lui tới tu viẹân nữa. Thầy bề trên thấy tình cảnh như thế rất đau buồn nhưng không biết cách làm sao giải quyết.
Thế là một hôm thầy bề trên quyết định tìm đến một vị ẩn sĩ để tâm sự về những tình trạng xấu trong dòng mong tìm ra cách giải quyết. Vị ẩn sĩ trầm ngâm nghe những lời tâm tình của thầy bề trên rồi nói: Thầy hãy về nói lại với anh em trong dòng rằng “Có Chúa Giêsu đang cải trang thành một thầy đang sống cùng chúng ta”. Thầy bề trên về tập hợp các anh em trong dòng nói “có Chúa Giêsu đang cải trang thành một người trong anh em chúng ta”.Vậy anh em phải sống thế nào để không đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Từ ngày đó thầy này nghĩ thầy kia là Chúa Giêsu nên không còn dám xúc phạm nữa. Vì thế các thầy thay đổi cách đối xử với nhau, sự bình an, yêu thương đã trở lại trong tu viện. Từ sự yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ của các thầy người ta thấy được niềm vui và sự bình an. Thế là người ta lại kéo nhau đến tu viện để tìm sự bình an đông hơn trước.
Cũng thế, nếu thật sự chúng ta để Chúa Giêsu bước vào trong đời sống chúng ta thì sẽ không còn buồn chán, thất vọng, ganh ghét, chỉ trích nhau xảy ra. Chúng ta hãy hỏi Chúa Giêsu coi nếu Chúa là con trong hoàn cảnh này, sự việc này thì Chúa làm gì? Chắc chắn lúc đó chúng ta sẽ có những hành động như Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dành cho Chúa một chỗ quan trọng trong ta thì Chúa sẽ lo liệu cho chúng ta tất cả, chúng ta không cần chạy lung tung mà tìm những niềm vui ảo. Niềm vui chóng qua ấy sẽ dẫn chúng ta đến sự chết đời đời. Vậy thì chúng ta hãy khôn ngoan mà chọn lựa theo Chúa nguồn hạnh phúc đích thật hay theo những thứ ảo chóng qua. Chúa luôn chờ đợi mỗi người chúng ta mời Ngài bước vào cuộc sống chúng ta, vì một khi Chúa đến sẽ có những thay đổi trong cuộc đời chúng ta như nước lã biến thành rượu ngon vậy.
Lạy Chúa Giêsu xin hãy mau đến mang sự bình an, niềm vui mới cho mọi người chúng con. Amen
----------------------------
TN 2-C75. KÝ THÁC
Ga 2, 1-11
Gp. Vĩnh Long
“Đức Giêsu và các môn đệ được mời dự”.
Có một thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Ngày đêm Anh cầu xin. Chúa đã nhậm: TN 2-C75
Có một thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Ngày đêm Anh cầu xin. Chúa đã nhậm lời anh. Chúa hiện đến với anh. Chúa đề nghị anh cùng đi với Chúa một đoạn đường. Vui sướng quá mức, anh không thể nào từ chối được lời mời gọi ngọt ngào đó. Đi được một quảng xa, Chúa nhờ anh đi tìm cho Ngài một ít nước uống. Mấy khi có được cơ hội phục vụ Chúa, anh vui vẻ đi về phía bờ sông. Tại đây, anh gặp một thiếu nữ xinh đẹp. Anh lân la làm quen. Họ yêu thương nhau, cưới nhau, sinh con cái. Anh quên hết nhiệm vụ lấy nước của mình. Một thời gian sau tại vùng anh ở xảy ra một đại lụt. Gia đình anh phải chuyển sang vùng khác. Khi đi qua một chiếc cầu, dòng nước hung tợn đã cướp mất sinh mạng vợ con anh.
Anh may mắn bám được một gốc cây to, khóc thương cho phận bọt èo của vợ con và cũng khóc cho số kiếp cô đơn của mình. Lúc này anh mới nhớ đã “bỏ quên” Chúa bên vệ đường nhưng sao còn kịp nữa, đã biết bao năm rồi. Bỗng Chúa hiện ra, mĩm cười Ngài bảo: “Con đi dâu lâu quá để Ta chờ cả tiếng đồng hồ. Sao, có lấy được nước không?”
Vâng, Thiên Chúa là như vậy đó. Ngài vẫn trung thành với chúng ta. Ngài không bao giờ lỗi hẹn. Chúng ta đi nhiều nơi, làm nhiều việc, gặp gỡ nhiều người. Vậy mà chúng ta không mãi mai nhớ gì đến Chúa. Khốn khổ cho chúng ta là chúng ta không biết mình cần Chúa. Trong những khi vui vẻ, thành công thì chẳng biết Chúa đâu, nhưng khi thất bại tủi hờn, hoạn nạn thì quày quả Chúa ơi Chúa à. Đó phải chăng là một thất bại của con người? Chúa vẫn ở bên ta , vẫn yêu ta mà ta đâu có hay.
Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới ở Canaan hôm nay ngoài mối quan hệ tự nhiên là tình bà con thân thuộc. Chúng ta còn thấy rằng: Đức Giêsu đâu phải là con người lạnh lùng, chỉ biết mỗi chuyện “trên trời”. Ngài cũng đi dự tiệc cưới để chia sẻ niềm vui với chú rễ. Rồi Ngài còn làm phép lạ để lấy lại uy tín cho nhà đám. Ai đời tiệc còn đang rơm rả như vậy mà hết mồi, hết rượu thì quả là thất lễ với bà con và xấu hỗ quá chừng. Đặc biệt ở xứ Do thái thì điều này chắc là ngàn năm bia miệng vẫn còn. Đức Giêsu hiểu và thông cảm cho nỗi lo canh cánh đó. Ngài đã cứu một bàn thua trông thấy. “Nhất tiễn tam điêu”. Nhà đám được tiếng thơm muôn đời là thết đãi rượu ngon làm vui say thực khách. Các cô hầu lé mắt. Các môn đệ nở mũi vì sư phụ đại tài. Nhưng mà, Đức Giêsu không nhắm đến các mục tiêu này cho bằng muốn cho các môn đệ vững lòng tin vào mình hơn. Phép lạ này cũng chứng thật vương quyền của Người.
Qua đây, chúng ta cũng có quyền tự hào vì lòng hào phóng của Thiên Chúa. Ngài đã chăm lo cho con cái mình không phải thiếu thốn về bất cứ điều gì, từ chuyện “dưới đất cũng như trên trời”. Ngài đã sống trọn kiếp người, vui với người vui, khóc với người khóc. Để cho chúng ta “như trai tài sánh duyên cùng thục nữ. Như cô dâu là niềm vui cho chú rễ. Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về”. “Để không ai còn réo tên ngươi đồ bị ruồng bỏ. Xứ sở ngươi sẽ nức tiếng là duyên thắm chỉ hồng”.
“Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, (Tv 33,18).Thiên Chúa yêu thương và chăm lo cho chúng ta là thế, nhưng chúng ta cứ giả điếc làm ngơ. Có bàn tay của Ngài thì có điều gì mà không thể. Uớc gì trong mọi ngày trong đời sống, bạn luôn khám phá sự thật tuyệt vời ấy để bạn luôn tin tưởng và phó thác cho Ngài: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37, 5).
----------------------------
TN 2-C76. CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN
Ga 2,1 – 11
Gp. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Chiếc cầu Mỹ Thuận nối liền hai bờ của dòng sông Tiền, là một công trình của thế kỷ, đã đem: TN 2-C76
Chiếc cầu Mỹ Thuận nối liền hai bờ của dòng sông Tiền, là một công trình của thế kỷ, đã đem đến nhiều sự thuận lợi tốt đẹp cho nước VN. Nhưng để có điều thuận lợi như thế, để có được nét đẹp như thế, nhiều người đã phải hy sinh, di dời nhà cửa, từ bỏ đi những mảnh ruộng vườn thân yêu của mình, từ bỏ đi những lợi ích riêng tư, để phải chấp nhận những điều mà trước kia, họ thấy dường như vô ích đối với họ. Giờ đây, họ mới thấy được sự hy sinh, chấp nhận của mình được đền bù xứng đáng, không phải chỉ mang lợi ích cho riêng bản thân họ, nhưng mang lợi ích cho rất nhiều người, cho cả dân tộc. Một sự hy sinh âm thầm không cần ai biết đến, cũng không cần ai trả ơn. Một sự hy sinh rất có giá trị.
Nếu có ai đó không chịu hy sinh để di dời, không chịu tuân phục, mà vẫn cố lỳ làm theo những gì mình muốn, thì thử hỏi, vẻ mỹ quang của toàn cảnh sẽ như thế nào?
Trong bữa tiệc vui, bỗng nhiên một trục trặc xảy đến, một sự việc ngoài ý muốn. Làm sao để mọi sự được trở nên tốt đẹp, nếu những người giúp việc không nghe theo những gì Mẹ Maria mách bảo: " Người bảo gì cứ làm theo." Nếu những người giúp việc không biết hy sinh một chút, không chịu đổ nước đầy các chum theo lệnh truyền, mặc dù theo như những gì họ hiểu biết, thì việc hết rượu và việc phải đổ nước vào các chum để thanh tẩy, chẳng liên hệ gì với nhau. Nhưng vì họ đã biết vâng phục, biết chấp nhận cả những điều mà họ cho là nghịch lý, nên phép lạ đã được thực hiện. Phép lạ được thực hiện trong âm thầm lặng lẽ. Phép lạ đã xảy ra, mà rất nhiều người không hề hay biết. Nhưng những người đã hy sinh, những người đã chấp nhận phục vụ, họ thấy được giá trị của sự hy sinh. Họ đã nhận được niềm vui do kết quả của việc làm, đồng thời niềm vui còn được nâng cao, khi nhìn thấy người khác được hạnh phúc. Nếu những người giúp việc, không chấp nhận, không phục vụ, thì chắc chắn phép lạ đã không được thực hiện.
Thiên Chúa đã ban cho mỗi người một hoàn cảnh sống, Ngài để cho con người tự do chọn lựa phương cách tốt nhất để sống. Nhưng đã biết bao lần, sự thất vọng, chán nản đã chiếm lấy và làm chủ con người của chúng ta. Cũng biết bao lần chúng ta khó chịu vì hoàn cảnh không mấy thuận lợi. Còn rất nhiều lần chúng ta bực mình, có thái độ chua cay, gắt gỏng vì bao nhiêu sự vô lý cứ xảy đến mà bản thân phải hứng chịu. Sự việc cứ thế, và con người cứ đầy ắp những trăn trở khó khăn không thể giải quyết được.
Những lúc đó, Mẹ Maria vẫn luôn ở bên cạnh chúng ta và nói: " Người bảo gì cứ làm theo." Nhưng chúng ta đâu có nghe được tiếng nói nào, cũng không nghe được những lệnh truyền để phép lạ có thể được thực hiện. Chúng ta cứ cho mình thần thông quảng đại, hiểu biết tất cả mọi sự, nên không cần phải nghe ai. Có những lúc chúng ta còn tỏ ra khinh dể những ý kiến, những lời nói chân thành mà chúng ta cho là vô ích, vì nó không trúng với những suy tính, những gì chúng ta mong muốn, cho nên không bao giờ hành động. Đó là những lúc Chúa cũng bảo chúng ta: “Hãy đổ nước đầy các chum” . Một việc làm mà rất nhiều người và cả chúng ta nữa đã cho là vô ích, nên không làm. Vì thế phép lạ đã không xãy ra, chúng ta vẫn sống trong tình trạng bối rối mà không có lối thoát.
Được bao nhiêu lần trong cuộc sống, chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh sống, chúng ta biết nhường nhịn để lắng nghe, chúng ta biết bỏ đi một chút tự ái để thực hành điều mà mình không thích. Cứ nhớ lại xem, chính những lần đó, phép lạ đã xảy ra cho mình, nên chúng ta cảm thấy yên tâm, vui mừng, đôi khi có pha lẫn chút tự hào vì mình đã làm được việc có giá trị trước mặt Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta biết khiêm nhường, dẹp đi một chút tự ái của bản thân, để lắng nghe được Tiếng Chúa và làm theo những gì Thiên Chúa chỉ dạy.
----------------------------
TN 2-C77. BIẾN ĐỔI
Ga 2,1 – 11
Gp. Vĩnh Long
Cuộc đời con người cần có những niềm vui. Niềm vui tô điểm cho cuộc đời mỗi ngày thêm: TN 2-C77
Cuộc đời con người cần có những niềm vui. Niềm vui tô điểm cho cuộc đời mỗi ngày thêm mới. Con người sống thiếu niềm vui sớm trở thành cằn cỏi, già nua. Những cơ cực thiếu thốn trong đời khiến con người dần dần thiếu hẳn niềm vui. Nếu cả đời người ta phải sống trong cơ cực vất vả mà gặp một ngày tiệc tùng vui chơi là cơ hội quý giá trong đời.
Chúa Giêsu hiện diện trong đám cưới hôm nay như góp thêm niềm vui cho ngày hôn lễ. Phép lạ hoá nước thành rượu mang đến niềm vui cho chủ nhà và những người dự tiệc. Phép lạ này mang một ý nghĩa lớn lao hơn những gì con người đã chứng kiến. Một chân lý tiềm ẩn mà Gioan muốn nói tới: Chúa Giêsu chính là vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang Người tỏ rạng sẽ đem đến cho con người một niềm vui bền vững , không tàn.
Khung cảnh câu chuyện là đám cưới ở một làng quê. Tiệc vui người Do thái rất cần rượu. Các Rabbi vẫn nói: “ Không rượu thì không vui” . Tiệc đông vui mà hết rượu quả là một điều xấu hổ cho gia đình, là sự nhục nhã cho cả cô dâu và chú rể. Chúa Giêsu xuất hiện kịp thời làm cho niềm vui ngày cưới của họ được nên trọn vẹn. Giao ước trong hôn nhân là giao ước tình yêu được ký kết giữa người với người. Thiên Chúa đã chúc lành để giao ước tình yêu nơi con người luôn được bền chặt. Tuy nhiên, sự hiện diện của Ngài trong tiệc cưới còn hướng con người nhớ lại giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với nhân loại qua Môisen. Rồi đây Thiên Chúa sẽ kết ước với con người một giao ước mới qua Đức Kitô.
Trong Cựu ước Thiên Chúa tự xưng mình là hôn phu của dân Israel . Trước tình yêu vô bờ của Thiên Chúa thì dân Israel cảm nhận được hậu quả mà mình đã gây ra. Nhìn lại quá khứ, tác giả sách Isaia cảm nhận ra tình yêu Thiên Chúa vẫn nồng nàn: Cho dù dân Israel nhiều lần phản bội nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng và đón nhận họ trong tình yêu vô bờ: “ Ngươi sẽ được gọi ái khanh lòng ta hỡi” . Thiên Chúa tiếp tục biến đổi cuộc sống của dân Ngài thành hoan lạc:
“ Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ”.
“Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới người về” .
Đến thời Chúa Giêsu, Ngài đến khai mạc một thời kỳ mới. Ngài sẽ là vị trung gian của giáo ước con người với Thiên Chúa. Chính Ngài là thứ rươụ mới mà Thiên Chúa ban cách dư tràn để con người vui sống. Ngài đến làm hoan lạc lòng người. Ơ Naim, Ngài biến đổi nước mắt khổ đau của người mẹ thành những giọt lệ vui mừng khi đứa con sống lại. Ở Giêricô, Ngài cho cõi lòng ích kỷ hay tích góp của Giakêu trở nên một tâm hồn rộng mở giúp đỡ mọi người . Ngài sẵn sàng cứu chữa nhưng người đau bệnh, ban cho họ sức khoẻ để họ bình an mà vui sống với cuộc đời.
Phép lạ Chúa Giêsu làm hôm nay là một dấu hiệu Ngài muốn thay đổi cuộc sống của con người. Ngài đến ban cho con người một thứ rượu mới, đó chính là rượu ân sủng dồi dào của Thiên Chúa. Cuộc sống thiếu thốn của con người giờ đây Ngài làm cho dư tràn. Những bất toàn trở nên hoàn hảo. Ân sủng Ngài ban không chỉ duy nhất một lần nơi tiệc cưới nhưng sẽ luôn mãi diễn ra trong suốt cuộc sống con người.
Bất cứ lúc nào Chúa bước vào đời sống thì đời sống ấy được mang một phẩm chất mới, giống như lã biến thành rươụ ngon. Không có Chúa Giêsu thì cuộc đời cứ ứ đọng, ù lì, chán ngắt. Khi Chúa Giêsu bước vào cuộc đời, nó trở nên sống động, lý thú, xinh tươi. Không có Chúa cuộc đời thật lạnh lẽo,vô vị. Với Chúa Giêsu cuộc sống đã trở nên hấp dẫn, diệu kỳ.
----------------------------
TN 2-C78. HÔN PHU GIÁO HỘI
Ga 2,1 – 11
Gp. Vĩnh Long
Lời Chúa Chúa nhật hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc: TN 2-C78
Lời Chúa Chúa nhật hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cưới ở Cana . Trước hết ta thấy đoạn Tin mừng này kể lại câu chuyện về một đám cưới. Đám cưới này đã gặp chuyện không may là hết rượu nửa chừng. Đám cưới này có Chúa Giêsu, Đức mẹ và các Tông đồ tham dự. May mắn, lúc ấy Chúa Giêsu đã làm phép lạ để cứu cho chủ tiệc một bàn thua trông thấy.
Không những có rượu để đáp ứng cho tiệc cưới mà rượu ấy lại là rượu ngon hảo hạng. Đến nỗi người quản tiệc đã nói với chú rể: “ Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ." Như vậy, nếu ở đâu có Chúa Giêsu hiện diện thì ở đấy dù có phải điêu đứng thì cũng an tâm. Đây là một ý nghĩa trong nhiều ý nghĩa khác mà Thánh Gioan muốn gởi gắm cho ta qua đoạn Tin mừng này.
Ý nghĩa khác cũng không kém phần quan trọng cho đời sống đức tin của ta. Đó là qua hình ảnh tiệc cưới này Thánh Gioan muốn nói đến Chúa Giêsu chính là Hôn phu của Giáo hội.
Theo tục lệ của người Do thái thời ấy, chú rể có bổn phận phải cung cấp rượu cho tiệc cưới của mình. Có như thế khách dự tiệc mới vui và tiệc mới có được niềm vui trọn vẹn. Xin nói thêm tiệc cưới ở xứ Do thái thường kéo dài khoảng một tuần lễ. Dĩ nhiên chú rể phải biết dự liệu trước. Nhưng đây lại là tình huống có thể nói là ngoài ý muốn. Từ đó, ta thấy được sự giới hạn của con người. Chính lúc ấy Chúa Giêsu đã đóng được vai trò chú rể thật là hoàn hảo. Bởi lẽ, rượu là thứ không thể thiếu trong tiệc cưới.
Gia đình là hình ảnh gần gũi với ta. Theo truyền thống của người Việt Nam cũng như một số nơi khác trong gia đình người chồng, người cha chính là trụ cột. Cách nào đó, ta thấy nếu gia đình mà thiếu vắng trụ cột này thì gia đình khó có thể đứng vững. Cũng vậy và hơn thế nữa, nếu như không có Chúa Giêsu thì chắc chắn Giáo Hội đã tan rã từ lâu.
Trước khi về trời Người đã hứa: “ Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20 ). Với cặp mắt thể lý có thể ta khó thấy được sự hiện diện của Người. Tuy nhiên dưới cặp mắt đức tin ta tin chắc rằng Người luôn ở cùng và ở bên Giáo Hội. Thậm chí, cả những lúc tưởng chừng như Giáo Hội mất hết hy vọng thì sự hiện diện của Người càng mạnh mẽ hơn.
Ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho Giáo hội. Xin Chúa ban cho Giáo hội luôn biết nương tựa vào Người chứ đừng nương tựa vào thế lực nào ở trần gian này. Cách riêng mỗi người hãy biết cộng tác với Giáo hội bằng sức của mình. Mỗi người đều được ban đặc sủng riêng, hãy biết dùng để thờ phượng Chúa và làm mở mang nước Chúa.
----------------------------
TN 2-C79. THIÊN CHÚA SẼ LẤP ĐẤY
Ga 2,1 – 11
Gp. Vĩnh Long
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, ắt hẳn ai trong chúng ta đều có những kinh nghiệm: TN 2-C79
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, ắt hẳn ai trong chúng ta đều có những kinh nghiệm về những sự việc vượt quá giới hạn của con người, lúc đó ta thấy khả năng của mình hạn hẹp, sức lực của ta có giới hạn... và khi đó ta đành phó mặc cho số phận vì ta không thể làm gì hơn được nữa. Nhưng với những người có niềm tin, tin tưởng vào Thiên Chúa thì không phải thế, Chúa sẽ lấp đầy những gì con người còn thiếu, còn chưa đủ cho những ai biết trông cậy và phó thác cho Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay Ga2, 1-11 cho ta thấy rõ điều đó.
Thánh Gioan thuật lại phép lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời hoạt động công khai của Ngài là phép lạ hoá nước thành rượu trong tiệc cưới Cana, phép lạ mà như lời Chúa Giêsu nói “ Giờ tôi chưa đến” nhưng Ngài lại thực hiện phép lạ này. Vì sao thế ? Thiết tưởng có nhiều lý do để Chúa Giêsu thực hiện phép lạ này nhưng ở đây tôi chỉ xin khơi lên khía cạnh con người mà ở đây là những người gia nhân của tiệc cưới.
Sau khi tiệc cưới hết rượu ắt hẳn các gia nhân cũng băn khoăn không kém gì người quản tiệc: Còn rượu đâu mà đãi khách, xử sự ra sao bây giờ.... và khi nghe Đức Maria dặn “ Người bảo gì anh cứ làm theo” . Họ cũng phân vân. Đức Maria và anh Giêsu thì có lẽ họ cũng quen biết mà anh Giêsu có là gì mà phải làm theo sự chỉ dẫn của anh. Anh cũng chỉ là một người được mời thôi mà... Nhưng khi Đức Giêsu bảo họ “ Các anh đổ đầy nước vào các chum đi” , quả là một việc buồn cười, thiếu rượu chứ có thiếu nước đâu mà bảo múc nước.... Nhưng họ đã “ đổ đầy tới miệng”
Khi đó Đức Giêsu đã thực hiện việc biến nước thành rượu. Chúng ta thử đặt vấn đề nếu như các gia nhân đổ không đầy tới miệng, nếu như gia nhân chỉ đổ đầy 2, 3 chum thôi thì không biết Đức Giêsu có thực hiện phép lạ không. Nhưng với sự cộng tác hết mình của họ mà Đức Giêsu đã đem lại niềm vui cho tiệc cưới. Như đã nói con người chúng ta có giới hạn, có những sự việc vượt quá khả năng của chúng ta nhưng trong niềm tin đó chính là lúc Thiên Chúa ra tay thực hiện ý định của Người. Một Apram son sẻ trở thành tổ phụ một dân tộc đông đảo như sao trên trời như cát bãi biển, một Giuse bị anh em ghen ghét bán làm nô lệ bên Aicập trở thành vị cứu tinh cho cả một dân tộc, một Môsê yếu hèn lẩn trốn vào sa mạc trở thành thủ lãnh giải thoát dân tộc Israel.... còn nhiều còn nhiều những tấm gương, những cuộc đời được biến đổi nhờ cộng tác nhiệt thành với Thiên Chúa. Thánh Augustin nói “ Ơn siêu nhiên không phá huỷ tự nhiên” , Thiên Chúa “ không thể ban ơn” nếu con người không đón nhận và Thiên Chúa “ bị bắt buộc ” thi ân khi con người khao khát ngóng chờ.
Cuộc sống người Kitô hữu chúng ta, chúng ta đọc kinh cầu nguyện, dâng lễ.. nhưng ta có khao khát Chúa thật lòng chưa? Ta đòi hỏi Chúa ban ơn này ơn kia cho ta nhưng ta có cộng tác hết mình chưa? Thánh Augustin dạy: “ Hãy làm mọi sự như mọi sự bởi ta và khi hoàn tất hãy biết mọi sự là bởi Chúa ” . Chúa Giêsu cũng dạy “ Khi hoàn tất mọi sự hãy nói rằng: chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng” . Tiên tri Isaia trong Bài đọc I tiên báo ngày huy hoàng của Israel là ngày Thiên Chúa đoái thương nâng Israel từ “ Đồ bị ruồng bỏ, phận bạc duyên đơn trở thành Ái khanh lòng ta hỡi và duyên thắm chỉ hồng ” . Hãy để Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài trong đời sống của chúng ta, Thiên Chúa sẽ lấp đầy những gì mà giới hạn con người không thể với tới.
Chúa Giêsu thực hiện phép lạ tại Cana và Chúa cũng sẽ thực hiện nhiều phép lạ hơn nữa trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Hãy phó thác cho Chúa,hãy lắng nghe tiếng Chúa vẫn hằng gọi mời chúng ta trong cuộc sống hằng ngày và hãy nối dài cánh tay của Thiên Chúa để thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.
----------------------------
TN 2-C80. THIÊN CHÚA CẢM THÔNG VÀ YÊU MẾN
Ga 2,1 – 11
Gp. Vĩnh Long
“ Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana . Trong đám cưới có Mẹ Maria. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự ” . (Lc 2, 1-2)
Phép lạ tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu làm, khởi đầu cuộc đời hoạt động: TN 2-C80
Phép lạ tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu làm, khởi đầu cuộc đời hoạt động công khai của Chúa, cũng là vừa để củng cố lòng tin cho các môn đệ, mới vừa gia nhập chỉ mấy hôm thôi. Ở đây, chúng ta thấy một khía cạnh đáng kinh ngạc, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu thế, mà cũng “đi ăn đám cưới, đi dự tiệc như một người trần chúng ta”, một hình ảnh gần gủi và thân thương quá! Điều này: muốn nói lên: Đức Kitô trong bản tính là con người, Người cũng có bản tính là người y như ta; lại rất gắn bó, rất cảm thông với niềm vui và nổi khổ của con người. Hình ảnh việc Chúa đi ăn cưới, rồi lại can thiệp để cứu giúp gia đình nhà đám khỏi xấu hổ vì thiếu rượu, điều đó nói lên cách hùng hồn tình yêu cao cả của Con TC trước khổ đau nhân loại chúng ta. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Trước hết có vài từ chúng ta cần lưu ý, và tìm hiểu ý nghĩa cặn kẽ:
1. Cana: một làng quê nhỏ bé, cách Nadareth 10cs, quê hương của tông đồ Nathanael.
2. Tiệc cưới đối với người Do thái là một dịp vui và bận rộn nhất trong đời họ, vừa nói lên sự quan hệ họ hàng khá lớn. Thường tiệc cưới được tổ chức cả 7 ngày (người tái hôn, cũng phải 3 ngày). Gia đình nhà đám tại Cana là hạng khá giả, nên họ dùng nhiều chum đựng nước cho khách rửa chân khi mới vào. Tất cả là 6 cái, mỗi cái gần 120 lít nước , vị chi gần 2/3 m 3 khối nước. Chúa làm phép lạ cho 700 lít nước thành rượu, thì khách dự tiệc là bao nhiêu mới uống hết rượu đây? Rượu là thức uống đem lại phấn khởi, vui tươi cho con người, nhất là trong đám tiệc, nhất là khi người ta uống điều độ. Chính Chúa Giêsu cũng uống rượu. Một điểm cuối cùng, lời thưa can thiệp của Mẹ Maria: “họ hết rượu rồi”. Câu trả lời của Chúa Giêsu: “thưa Bà” (Imma) là một lời thưa đầy kính trọng, và ở nơi công cộng, hoàn toàn không có gì là coi thường Mẹ mình cả… Cũng chính nhờ lời can thiệp này mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Có các nhà chú giải cho rằng: gần như Chúa chờ đợi Mẹ Maria cầu xin Người, để Chúa làm phép lạ; thiết nghĩ điều này không sai, vì Mẹ Maria có vai trò là Đấng Đồng công cứu chuộc với Chúa Cứu thế; hơn nữa, Chúa đợi Mẹ cầu xin, một lời cầu xin mà Chúa rất hài lòng và Chúa không bao giờ từ chối. Vì vậy sự can thiệp của Mẹ ở đây là điều rất chính đáng…
b.Tình yêu của Con TC dành cho nhà đám:
Chúng ta thử tưởng tượng gương mặt của chú rể, là chủ đám cưới, anh này sẽ ngạc nhiên và cuối cùng thán phục Chúa biết bao, khi hiểu ra vì thương gia đình anh mà đã làm phép cho nước lã hóa thành rượu. Rõ ràng chúng ta thấy Chúa Giêsu vì yêu mến và kính trọng gia đình này, nên đã đến đây dự tiệc cưới; rồi chúng ta lại thấy Chúa cảm thông và sẵn sàng chia sẻ với con người chúng ta bất cứ lúc nào qua việc biến nước thành rượu, để giữ lại sĩ diện nhà đám nữa. Như vậy, Người đã cư xử hết sức là con người, vì Chúa cũng thật sự mang bản tính con người y như ta.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Chúa Giêsu tuy là Chúa, cũng là người như ta, trong bản tính con người, nên người có thể cảm thông, chia sẻ, yêu thương chúng ta. Có điều chúng ta có thực sự tin cách mãnh liệt rằng: Thiên Chúa yêu ta không?
* Mẹ Maria đã xin Chúa: “họ hết rượu rồi”; tuy Chúa trả lời: “giờ Con chưa đến”. Đó không phải là lời từ chối, vì Đức Mẹ vẫn tin vào Con Chí thánh của mình. Câu nói của Chúa chính là: giờ của Con chưa đến, nhưng vì Mẹ đã xin nên Con sẵn sàng làm theo Ý của Mẹ . Mẹ rất tin cậy nơi Chúa Giêsu. Phần ta, ta có tin và luôn trông cậy vào Chúa như Mẹ Maria không?
----------------------------
TN 2-C81. RƯỢU ÂN SỦNG
Ga 2,1 – 11
Gp. Vĩnh Long
Đời sống càng khó khăn thì cuộc sống càng lo âu. Mọi lo âu đều nhằm vào việc giải toả: TN 2-C81
Đời sống càng khó khăn thì cuộc sống càng lo âu. Mọi lo âu đều nhằm vào việc giải toả những vướng mắc cho cuộc sống. Chúng ta lo lắng về sức khoẻ của mình, về cha mẹ, con cái, bạn bè, về công việc và về những thứ cần chi tiêu...Người chủ tiệc cưới Cana trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có những nỗi lo lắng như thế. Ông ta lo lắng vì tiệc cưới mới tới ngày thứ ba mà rượu đã cạn, trong khi đó tiệc cưới tổ chức tới một tuần. Trong truyền thống của người Do thái ngày xưa, tiếp khách là nhiệm vụ thiêng liêng. Vì vậy, nếu thiếu thức ăn, nước uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho gia đình chủ tiệc.
” Họ hết rượu rồi! ” Đức Mẹ thấy trước nỗi khổ tâm của gia đình chủ tiệc. Một câu nói tế nhị, không đòi hỏi hay van xin gì mà chỉ trình bày cho Đức Giêsu nỗi băn khoăn của họ. Họ sắp xấu hổ mà báo tin cho khách mời dự tiệc là rượu đã cạn. Ai sẽ tiếp giúp họ? Ai có thể duy trì ngày vui nhất đời họ nếu không phải là Con Mẹ? Qua nỗi lo lắng của Mẹ. Đức Giêsu nhìn thấy dân Do thái đang khắc khoải mong chờ Đấng Cứu Thế giải phóng họ. Nhưng họ chỉ quan tâm đến vật chất, và những hình thức bề ngoài...ĐG đã cố gắng đưa những người tiếp xúc với Ngài đến một trật tự khác, nhưng thường thì không mấy ai hiểu Ngài? Tại sao? Vì Ngài là một con người siêu việt từ trời cao xuống hay là rượu niềm tin của họ đã cạn?
“ Họ hết rượu rồi ” Đây chính là nét đặc sắc của đức ái, vào bàn ăn, hãy nghĩ đến người bên cạnh hơn là chính mình; người nghèo lúc nào cũng có bên cạnh, xã hội nào cũng có người nghèo, không nghèo vật chất cũng nghèo tinh thần. Người nghèo hiện diện như một hồng ân của Thiên Chúa, người nghèo hiện diện như một lời mời gọi con người rời khỏi cái vỏ ích kỷ của mình mà trao ban chia sẻ, và người nghèo mời gọi chúng ta trao ban, vì có trao ban chúng ta mới cảm nhận được câu nói thật sâu sắc của Đức Mẹ: “ Họ hết rượu rồi ” . Đức Giêsu coi lời nói nầy như là tiếng thở than của người Mẹ nhân loại đang đau khổ vì những đứa con tội lỗi. Lời cầu nguyện của chúng ta có bao giờ hướng đến một nhân loại đang oằn oại khổ đau như Mẹ không? Bao kẻ bệnh tật, mồ côi, hoạn nạn, lỡ làng, bị thử thách...đang mong chờ lời cầu nguyện của chúng ta. Đức Giêsu đã chấp nhận lời đề nghị của Mẹ, mà nếu ĐG chấp nhận lời đề nghị của Mẹ thì tôi nghĩ Đức Giêsu trả lời một câu rất dễ thương “ Xin Mẹ đừng lo, Mẹ không hiểu việc đang xảy ra đâu; hãy để đó cho Con, Con sẽ có cách thu xếp cho ” . Quả thế sáu cái chum mà Đức Giêsu bảo gia nhân đổ đầy nước đã biến thành rượu. Đối với người Do thái, số bảy là con số tròn đầy. Vậy con số sáu là con số chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn. Sáu cái chum nước tiêu biểu cho những cái bất toàn của tập quán và lối sống đạo dân Do thái. Đức Giêsu đã đến để kiện toàn những cái bất toàn của lề luật, thay vào đó bằng thứ rượu mới của ân sủng... Cụ thể chúng ta thấy mỗi cái chum có thể chứa 80-120 lít. Đức Giêsu đã khiến nước lã trong sáu cái chum biến thành rượu ngon, tất cả khoảng 500- 700 lít rượu. Sự kiện này chúng ta cũng đừng hiểu theo nghĩa đen. Vấn đề là khi ân sủng của Chúa đã đến với mọi người thì ân sủng ấy có đủ để cung cấp cho tất cả.
“ đổ đầy tới miệng ” . Trong đời sống, chúng ta cũng muốn đổ đầy những tiện nghi vật chất như: Một căn nhà sang trọng, một chiếc xe Nouvo, một chiếc di động Nokia đời mới...để sống hợp với nếp sống văn minh, để sống cho ra người có văn hoá, để sống xứng với phẩm giá con người. Điều đó xem ra không có gì ngược lại với Tin Mừng, xem ra cũng là một ước mơ chính đáng và bình thường. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng quên ước mơ sắm cho mình một bình rượu (không phải là OX, Napoleon, Martin...) nhưng là rượu ân sủng, uống rượu nầy chúng ta sẽ được đức tin, sức mạnh và tình yêu trong Đức Giêsu.
Chi tiết: “ Họ hết rượu rồi ” so sánh với chi tiết: “ đổ đầy tới miệng ” cho thấy rằng; những gì chúng ta đã hết, đã cạn thì hãy để cho Chúa đổ đầy miễn là chúng ta có một tâm hồn đơn sơ trong sạch để mau mắn nhận lãnh ơn Ngài.
Chuyện kể rằng:
Có một bà lão đạo đức, nhưng nghèo đến nỗi không có đủ tiền mua gạo ăn. Hôm nọ, đói quá không làm gì nổi, bà chỉ còn cách quỳ gối giữa nhà, hết lòng tha thiết van nài cùng Chúa: “ Lạy Chúa! Xin giúp con có gạo nấu cơm ăn chiều nay, nếu không, chắc con chết mất. Xin Chúa thương con. ” Lúc đó, một người vô thần tình cờ đi ngang, anh ta giở một trò để tiêu khiển niềm tin của bà. Anh chạy lẹ ra tiệm tạp hoá gần đó, mua một ký gạo, rồi trở về ném túi gạo qua lỗ vách lá, rơi bịch trước mặt bà. Bà lão vô cùng mừng rỡ và hết sức ngỡ ngàng, đến nỗi quên cả đói khát vừa hô to: “ Cám ơn Chúa, con cám ơn Chúa. ”
Bà vừa chạy vừa khoe với lối xóm là Chúa đã nhận lời bà cầu xin. Thấy bà già đã trúng kế mình, anh chàng vô thần cười chế nhạo, và nói rõ là anh ta vừa ra tiệm tạp hoá mua túi gạo, rồi ném qua lỗ vách cho bà. Nhưng bà lão đáp:
“ Có thể là anh mang gạo đến cho tôi nhưng tôi bảo đảm là lời tôi cầu nguyện đã được Chúa nhận lời. Tôi cầu xin chiều nay có gạo nấu cơm, và Chúa đã ban cho tôi y như lời tôi cầu. Tạ ơn Chúa, cám ơn anh. ”
Bà lão đã hết gạo, bà đã xin gạo và được gạo, bà tạ ơn Chúa và nhận ra đó là ơn huệ Chúa ban, cho dù gạo đó đến từ một âm mưu đen tối. Nhưng ai âm mưu thế nào không cần biết, chỉ biết tạ ơn Chúa vì đó là ơn lành Chúa ban.
Còn chúng ta, nếu chúng ta chưa có gì trong đời sống cầu nguyện, thì hãy bắt đầu ngay hôm nay. Nếu lòng chúng ta chưa đầy trong đời sống bác ái, thì hãy bước đi đến với người nghèo khổ hoạn nạn, hãy chia sẽ những nụ cười, những cái bắt tay, những lời hỏi thăm... Nếu chúng ta đang lo lắng về những thứ cần chi tiêu trong cuộc sống, thì chỉ có một điều đáng lo là phần rỗi linh hồn. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ, bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa là lương thực không thể thiếu trong đời sống đức tin... bất cứ lúc nào, khi Chúa bước vào một đời sống, thì đời sống ấy nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã biến thành rượu ngon vậy. Những sầu muộn lắng lo sẽ được giải toả. Lúc đó chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin là tâm tình tạ ơn. Amen.
Có thể nói một trong những nhu cầu không thể thiếu của đời sống con người là những buổi tiệc: TN 2-C82
Có thể nói một trong những nhu cầu không thể thiếu của đời sống con người là những buổi tiệc mừng. Tiệc mừng thì có nhiều loại: tiệc trà hay tiệc rượu, tiệc đơn giản hay tiệc thịnh soạn. Nếu là tiệc rượu và thịnh soạn thì tất nhiên phải có rượu. Ðó là rượu lễ nghĩa, rượu mừng vui. Bởi lẽ, rượu vào sẽ làm hoan hỉ lòng người và sẽ làm cho buổi tiệc tăng thêm sự vui mừng.
Ðoạn Tin mừng của Chúa nhật hôm nay cho thấy ngày nọ Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và các Tông đồ được mời đến dự một buổi tiệc cưới tại làng Cana xứ Galilê. Rủi thay, được nữa buổi tiệc không biết vì lý do gì rượu bỗng nhiên hết. Thật là một phen chới với cho chủ nhà tiệc.
Ðức Mẹ đã âm thầm biết được điều đó nên Mẹ đã nói với Chúa Giêsu: "Họ hết rượu rồi." (Ga 2, 3b). Chúa Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi! " (Ga 2, 7). Lạ lùng thay, ít nhất 480 lít nước giờ đây đã trở thành rượu ngon để chủ nhà tiệc tiếp tục đãi khách. Ðúng là Chúa Giêsu đã cứu cho chủ nhà tiệc này một bàn thua trông thấy.
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa gần gũi với con người. Người không bao giờ thờ ơ với những nhu cầu cần thiết của con người. Ðiều đó được thể hiện rõ nơi Chúa Giêsu trong đoạn Tin mừng hôm nay.
Hình ảnh rượu trong tiệc cưới này cũng báo trước một thứ rượu quý hơn mà sau này Chúa Giêsu sẽ ban cho con người. Ðó là máu của Người. Con người đã đánh mất hạnh phúc đời đời từ khi phạm tội bất tuân lệnh Chúa. Nhưng Thiên Chúa thấy nhu cầu cần thiết và cấp bách của con người là khao khát được hạnh phúc đời đời. Do đó, máu của Chúa Giêsu sẽ đổ ra để đáp ứng lại nhu cầu cần thiết và cấp bách ấy.
Trong buổi tiệc cưới tại Cana nếu những gia nhân không làm theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu thì chắc hẳn đã không có thêm lượng rượu ngon nhiều như vậy. Cũng thế, sự sống đời đời sẽ đến với chúng ta nếu chúng ta biết sống và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu và những chỉ dẫn của Giáo hội.
Dù ở bậc sống nào tất cả chúng ta đều có chung nhu cầu là được phần rỗi đời đời. Vậy chúng ta hãy cố gắng sống và làm theo những lời dạy của Chúa Giêsu cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội. Cách riêng với Giáo hội Việt nam năm nay trong khung cảnh mừng năm thánh 2010, mỗi người Công Giáo Việt Nam chúng ta hãy ra sức bảo vệ và làm cho tăng trưởng đời sống đức tin của mình.
Hóa nước thành rượu tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài công: TN 2-C83
Hóa nước thành rượu tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài công khai rao giảng Tin Mừng. Tiệc cưới này thật sự may mắn và hạnh phúc vì có mặt Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ của Ngài.
Phép lạ xảy ra dường như là bó buộc và đột ngột, việc hết rượu giữa buổi tiệc là chuyện của gia đình chủ tiệc, những người dự tiệc chỉ là khách mời. Họ chỉ đến để chia vui, dự tiệc…rồi ra về. Nhưng việc hết rượu trong tiệc cưới Cana này lại trở thành một biến cố quan trọng Chúa Giêsu bắt đầu thực hiện chương cứu độ của Thiên Chúa, chứng minh Ngài là Con Một của Thiên Chúa và đến để thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha. Qua lời ngỏ của Đức Maria với Chúa Giêsu và cho dù câu trả lời của Ngài: “Giờ con chưa đến” nhưng cuối cùng Chúa Giêsu vẫn làm phép lạ.
Phép lạ xảy ra được kết hợp rất nhiều yếu tố: thánh ý của Thiên Chúa muốn bày tỏ quyền năng của Ngài tuy bây giờ nó còn âm thầm, giới hạn ở một gia đình nhỏ, trong tiệc cưới và như trong bài Phúc Âm trình bày có vẻ như Chúa Giêsu chưa sẵn sàng để làm việc này nhưng nó lại là cột móc quan trọng để Chúa Giêsu bài tỏ chính mình. Vai trò của Đức Maria trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và người khác, đó là niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và sự tinh tế, quan tâm đến nhu cầu của người khác. Và thái độ của con người khi sẵn sàng thực hiện ý của Thiên Chúa cách này hay cách khác, qua người này hay người kia. Như vậy phép lạ đãõ xảy ra.
“Giờ con chưa đến”, chúng ta vừa nghe rất lạ tai nhưng biết bao nhiêu ý định của Chúa Giêsu muốn thực hiện. Lạ tai vì Chúa Giêsu dường như xa lạ và không quan tâm đến nhu cầu hiện tại của người khác. Đối với mọi người chúng ta, chúng ta nhiều khi nghĩ Thiên Chúa là như vậy thờ ơ và xa lạ với đời sống của chúng ta. Ngài không thấy cái khổ, cái thiếu thốn, cái cần thiết trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa đã thấy trước biết trước cả khi chúng ta chưa nhận ra mình đang cần gì và đang thiếu gì. Bối cảnh của phép lạ cho chúng ta thấy, mọi người vẫn bình thản dự tiệc không biết chuyện gì sắp xảy ra chỉ có Đức Maria biết, Chúa Giêsu biết.
Qua phép lạ hóa nước thành rượu ở tiệc cưới Cana cho chúng ta thêm tin tưởng vào Chúa. có Chúa, có Mẹ Maria đời sống của chúng ta luôn luôn an toàn dù có lúc chúng ta cảm thấy bất an. Có khi nguy hiểm sắp xảy ra nhưng chúng ta không thể nhận ra nhưng cậy dựa vào Chúa, vào Mẹ chúng ta sẽ được che chở và bảo vệ. Nhất là đối với mọi nhu cầu cần thiết trong cuộc sống chúng ta vẫn luôn được các Ngài quan tâm và giúp đỡ. Có Chúa, có Mẹ chúng ta sống nhẹ nhàng và hòa mình để sống trọn vẹn cuộc sống ở trần gian này.
Đón giao thừa thiên niên kỷ 3 đã qua 2 tuần lễ, Mùa Giáng Sinh đã chấm dứt với lễ Hiển Linh: TN 2-C84
Đón giao thừa thiên niên kỷ 3 đã qua 2 tuần lễ, Mùa Giáng Sinh đã chấm dứt với lễ Hiển Linh, kết thúc năm Đại Thánh. Chúng ta trở về với đời thường. Nói là đời thường nhưng tràn ngập lễ hội: những đám cưới đầu năm (hay cuối năm âm lịch) tiếp tục làm chúng ta ngợp trong những tiệc tùng... và biết bao cảnh âu lo "vì đã hết rượu".
Trong cái bối cảnh mỗi người mỗi việc đang dốc nhiệt tình cho mọi sự trôi chảy, lời thư của Phao-lô có lẽ trở nên sáng sủa hơn "Thánh Thần biểu lộ nơi mỗi người mỗi cách, để mưu ích chung".
Thực tiễn của tiệc cưới Cana trong Tin Mừng cũng khẳng định chân lý ấy: Đức Maria nhìn thấy sự việc và cách giải quyết duy nhất chỉ tìm thấy được nơi Đức Giêsu. Về phần mình, Đức Giêsu rất cảm thông với tình cảm của Mẹ, lòng tin của Mẹ, lời khẩn cầu của Mẹ, nhưng lòng tin ấy, tình cảm ấy, lời khẩn cầu ấy phải thuộc bình diện cứu độ, những gì Đức Giêsu làm đều liên quan với mầu nhiệm ấy. Ở đây từ người Quản Tiệc, cho đến những gia nhân, thậm chí cả Đức Maria và các môn đệ, tất cả chỉ phản ứng theo phong cách của con người trong cái đời thường trần thế của mình.
Tuy nhiên Tin Mừng hé mở cho thấy, chính trong cái đời thường trần thế ấy, con người khi được thúc đẩy bởi tình yêu vâng phục, con người có thể làm cho nó trở nên cảnh vực Thần Linh, cảnh vực cho hoạt động Cứu Độ. Đức Maria có thể là chưa hiểu được hoạt động cứu độ sẽ diễn ra như thế nào trong cái cảnh khốn cùng của nhân thế, nhưng một điều chắc chắn từ biến cố truyền tin, trải qua 30 năm ẩn dật tại Nazareth, Mẹ thấy được điều này là chỉ một mình Đức Giêsu là Người có thể và có sứ mạng làm cho cái đời thường trở nên Cảnh Vực Thần Linh hầu đem lại con đường sống sung mãn cho con Người. Mẹ cũng như thánh Phao-lô sau này, thấy và tin Đức Giêsu, với bản thể là Con Thiên Chúa làm người, duy nơi mình Người "Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người". Và Người là Đấng duy nhất có thể chia sẻ điều ấy cho anh em mình, thế nên Đức Maria không ngần ngại nói với chúng ta "Người bảo gì, anh em cứ làm theo". Trong cách nhìn và lòng Tin của Mẹ, có 2 điều mà bất cứ là ai đều phải chiêm ngắm và sống:
1. Sự hoàn hảo của đời thường không thể tìm thấy nơi nào khác ngoài Đức Giêsu.
2. Ơn cứu độ là việc Đức Giêsu làm cho đời thường trở nên cảnh vực Thần Linh.
Điều tôi muốn chia sẻ với anh trong giòng suy nghĩ ấy là vai trò, thậm chí vai trò của ngay cả những gia nhân, đều không thể bị loại trừ ra khỏi diễn tiến ấy. Trong công việc cứu độ không một ai bị loại trừ. Thế nhưng có lẽ chúng ta lại chỉ gặp thấy những hiện tượng ngược lại: người ta loại trừ, tống khứ lẫn nhau nhân danh việc cứu độ. Thật đau lòng !
Có lẽ chúng ta cũng chẳng hơn gì Mẹ Maria trong sự hiểu biết những gì sẽ xảy đến, nhưng chúng ta có đủ lòng tin như Mẹ để khuyến khích mọi người "Người bảo gì, các anh cứ làm theo". Xin Mẹ giúp và đỡ nâng chúng ta.
Đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu luôn cảm thông với mọi hoàn cảnh của con người, Ngài: TN 2-C85
Đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu luôn cảm thông với mọi hoàn cảnh của con người, Ngài có mặt trong mọi trạng huống của đời người. Ngài chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người. Chính vì muốn đi vào đời thường của cuộc đời con người, ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu luôn hiện diện với những người quen thuộc, làng xóm, với những người, với những gia đình trong xã hội. Hôm nay, Chúa có mặt trong tiệc cưới Cana cùng với Mẹ Maria và các môn đệ của Ngài.
TẬP TỤC CỦA NGƯỜI DO THÁI:
Theo tục lệ của người Do Thái, tiệc cưới kéo dài tới bảy ngày. Trong những ngày dự tiệc này, khách mời tha hồ uống rượu chúc mừng tỏ bầy tình cảm thân thương đối với gia đình nhà đám và cách riêng đối với đôi tân hôn. Tiệc cưới Cana là trang đẹp, nên thơ và gợi cảm của Tin Mừng thánh Gioan. Nơi tiệc cưới Cana tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với Chúa Giêsu được diễn tả cách thật sâu sắc. Thật đau buồn và khó xử của chủ đám đối với khách dự tiệc vì mới tới ngày thứ ba đã hết rượu. Hết rượu quả gây một tình thế bi đát đối nhà đám. Chủ nhà và nhà đám sẽ vô cùng xấu hổ và mất mặt với khách. Nhưng Mẹ Maria đã nhạy bén, tế nhị thấy rõ sự việc. Mẹ đã nhận ra sự khó khăn, bế tắc của nhà đám. Tuy nhiên với tình thương và tình mẫu tử sâu xa đối với Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã mạnh dạn gợi ý với Con của Mẹ:” Họ hết rượu rồi”( Ga 2, 3 ). Câu nói của Mẹ Maria có một ý nghĩa rất sâu đậm. Mẹ tế nhị, nhẹ nhàng van nài Chúa thương xót cách kín đáo. Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa khiến chúng ta hết đỗi ngạc nhiên:” Việc ấy có can dự đến bà và con ? Giờ con chưa đến”( Ga 2, 4 ). Vâng, theo kiểu nói của người Do Thái, đây là một câu khước từ khéo vì việc đó không liên quan gì, Ngài cũng chỉ là khách mời, chưa hợp thời hoặc chưa đúng lúc. Ở đây, Chúa Giêsu muốn xác quyết tính thánh thiêng, linh thánh của Người vì giờ của Người chưa đến nghĩa là giờ vinh quang sau cuộc tử nạn và phục sinh”. Khi nào Ta được giương cao khỏi mặt đất. Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “. Mẹ luôn tin tưởng, cậy trông vào Con của Mẹ.” Người bảo gì, các anh cứ làm theo”( Ga 2, 5 ).
PHÉP LẠ ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN NHỜ LỜI CAN DỰ CỦA MẸ MARIA:
Đúng như lời Mẹ nói, Mẹ ước mong Chúa sẽ làm một cái gì.
Và Chúa đã bảo và các người giúp việc đã làm theo như lời Chúa yêu cầu.Phép lạ đầu tiên đã xẩy ra tại tiệc cưới Cana ngay những ngày đầu sứ mạng công khai rao giảng của Chúa Giêsu. Phép lạ khai mào cho những phép lạ kế tiếp của Chúa Giêsu. Chúa làm phép lạ này để” Các môn đệ tin vào Người”( Ga 2, 11 ). Chính nhờ sự can thiệp kín đáo, tế nhị của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện để lòng tin của các môn đệ được nâng cao và phát triển tốt, triển nở vững mạnh. Chúa bảo gia nhân và gia nhân của nhà đám đã đổ đầy nước lã vào các chum vại, do đó, tất cả những chum vại cạn rượu đã đầy rượu mà lại là những chum vại toàn rượu ngon hảo hạng. Sự can thiệp đúng lúc của Mẹ đã đem lại niềm vui cho đôi tân hôn, cho các khách mời và tạo uy tín cho chủ nhà tiệc.
MẸ VẪN TIẾP TỤC NÓI VỚI CHÚA VÀ PHÉP LẠ VẪN LUÔN XẨY RA:
Ngày nay, tuy Chúa không biến nước lã thành rượu ngon như xưa tại tiệc cưới Cana. Nhưng Mẹ vẫn tiếp tục nài van Chúa can thiệp vào lịch sử cứu độ và vào hoàn cảnh, trạng huống của mỗi người. Chúa luôn làm phép lạ và phép lạ lớn nhất là Chúa đang bảo tồn sự sống của mỗi con người. Con người đi đứng, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt là một phép lạ to tát Chúa đang làm cho con người. Biết bao mối tình nhạt nhẽo, biết bao đôi hôn phối muốn chia lìa tình yêu, Chúa vẫn tiếp tục can thiệp để họ được vui tươi, êm ấm. Biết bao gia đình muốn tan nát, được Chúa hàn gắn và giúp họ tạo lại được hạnh phúc nồng ấm. Biết bao tâm hồn không biết định hướng, không biết đâu là bến là bờ được giữ vững niềm tin và hy vọng.Chúa Giêsu luôn ước mong cho con người, cho mọi người, cho mỗi người trở thành niềm vui cho người khác: “ Yêu Chúa và Yêu tha nhân “.
Chúa ước mong con người biến đổi thế giới này thành thế giới yêu thương. Phép lạ vẫn luôn là phép lạ miễn con người có đức tin để nhận ra nó.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mỗi người chúng con luôn nhận ra sự có mặt của Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời chúng con. Amen.
Đời có gì vui bằng tiệc cưới ? Tất cả đều rạng rỡ. Cảnh vật và con người đều mang nét mới: TN 2-C86
Đời có gì vui bằng tiệc cưới ? Tất cả đều rạng rỡ. Cảnh vật và con người đều mang nét mới. Một cuộc đổi thay lớn lao. Một bước ngoặt cuộc đời. Cả một diễn biến hào hứng trong cõi nhân sinh. Thiên Chúa có thể có mặt trong niềm vui hoàn toàn trần tục đó không ? Làm sao có thể hiểu được hai thế giới thánh thiêng và trần tục hòa hợp với nhau ? Đức Giêsu sẽ cho thấy một hòa điệu tuyệt vời nơi tiệc cưới Cana.
VUI VỚI NGƯỜI VUI
Chưa có tiệc cưới nào vui bằng tiệc cưới Cana. Gia đình nào được vinh hạnh mời cả Đức Giêsu và Mẹ Maria tới chứng kiến cảnh sắt cầm hòa hợp như vậy ? Thêm vào đó, các môn đệ Đức Giêsu cũng chia sẻ niềm vui với tân lang và tân giai nhân. Bỗng một tin như sét đánh khiến Đức Maria phải thở dài với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi.” (Ga 2:3) Với con tim phụ nữ, Mẹ nhạy cảm hơn ai hết. Nhạy cảm đến nỗi Mẹ đã quyết liệt can thiệp để phá tan cơn bế tắc của chủ nhà hôm đó. Khác hẳn với các thực khách, Mẹ tự coi như người phải lo lắng cho tiệc cưới thoát cơn bí hiểm. Không ngờ thực khách hôm đó đông hơn dự tính ban đầu.
Mẹ nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2:5) Bên ngoài, có vẻ như Mẹ ra lệnh, bất chấp thái độ lạnh lùng của Đức Giêsu. Nhưng thực tế, đó là một lời tuyên tín tuyệt đối vào quyền năng Con Thiên Chúa và cũng là Con Mẹ giữa muôn vàn thực khách hôm nay. Niềm tin của Mẹ đặt nơi Con đã trở thành sự thật. Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các gia nhân đổ đầy “sáu chum đá, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.” (Ga 2:6) Thực ra, đó không phải là một lệnh truyền. Nhưng đó là một nghĩa cử đẹp Chúa dành làm vinh danh Mẹ. Nói khác, như một người con ngoan, Chúa đã vâng lời Mẹ để tỏ lộ quyền năng và vinh quang trước thời hạn.
Khi nước đầy chum, Đức Giêsu đã không nói một lời hay làm bất cứ hành động nào trên lượng nước lớn lao đó. Người chỉ truyền gia nhân múc nước và đem cho ông quản tiệc. Rõ ràng, đó là sự vâng lời Đức Mẹ núp dưới bóng một lệnh truyền cho gia nhân. Sự vâng lời đó đã khiến nước thành rượu.
Khi hòa mình với quần chúng, để “vui cùng kẻ vui,” Đức Giêsu đã mạc khải một mầu nhiệm vĩ đại về Nước Thiên Chúa. Ở đây không phải bằng dụ ngôn, nhưng bằng chính thực tế cuộc sống, Đức Giêsu muốn cho mọi người thấy Nước Thiên Chúa đã thực sự hiện diện nơi trần gian. Chàng rể là chính Đức Giêsu. Cô dâu chính là Hội thánh, hiện thân qua con người Đức Maria như một gương mẫu tuyệt vời, “rất xinh đẹp, không tỳ ố, không vết nhăn.” (Sách Lễ Roma 1992:744) Đây chính là giai đoạn “Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi.” (Is 62:5) Niềm vui dâng trào khắp mặt đất, vì “muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi.” (Is 62:2)
Mầu nhiệm lớn lao đó cũng chính là sự kết hiệp giữa Ngôi Hai Thiên Chúa và bản tính loài người. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải cho những người bé mọn, điển hình là các gia nhân. Các môn đệ cũng được vinh dự ấy. Quả thực, “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.” (Ga 2:11) Tin vào Người không phải vì “phép lạ” phi thường. Nhưng vì “dấu lạ” dẫn tới mầu nhiệm Nước Thiên Chúa giữa trần gian.
GIỜ HÀNH ĐỘNG
Nhờ vâng phục như Đức Giêsu, Giáo hội đang tạo được rất nhiều “dấu lạ” khắp nẻo đường đời. Những kỳ công đang thực hiện qua nhiều hoạt động khác nhau. Chỉù con mắt đức tin mới cho Kitô hữu thấy rằng: “Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” (1 Cr 12:5-7) Tất cả đều nhằm mục đích để “đức công chính xuất hiện tựa hừng đông.” (Is 62:1) Đức công chính là vinh quang khiến mọi đế vương phải kinh ngạc. Thiên Chúa đang ra tay hành động cứu thoát nhân loại khỏi họa diệt vong. Giữa thời đại khủng bố này, Hội thánh không ngừng nhấn mạnh rằng “hoạt động cho hòa bình phải đi đôi với việc cổ động những giá trị thiêng liêng, luân lý và tôn giáo.” (Zenit 8.12.2003) Những giá trị đó đã bị những bụi khói bom đạn phủ lấp. Bởi thế, con người không còn tôn trọng nhau.
Chính vì lý do đó, “cần phải hoạt động tích cực để giáo dục về sự chung sống và tin tưởng lẫn nhau, dựa trên sự tôn trọng tôn giáo, lịch sử, văn hóa và giá trị bên trong mỗi người.” (Parolin: Zenit 8.12.2003) Có thế mới có thể đánh thức lương tâm con người và chuẩn bị cho một tương lai tươi sáng hơn cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt, Tòa Thánh Vatican nhấn mạnh các chương trình giáo dục của các quốc gia phải tôn trọng bản chất tôn giáo của các học sinh và quyền cha mẹ giáo dục con cái. “Việc tôn trọng bản chất và quyền lợi, cũng như việc hành xử tự do tôn giáo hoàn toàn, góp phần quyết định vào việc chiến đấu chống lại sự bất khoan dung và những thành kiến về chủng tộc.” (Parolin: Zenit 8.12.2003)
Việc giáo dục và ý thức đó vô cùng hệ trọng. Chính Giáo hội đã trải qua những giai đoạn khó khăn trong việc giáo dục đó. Hòa bình chính là con đẻ của giáo dục kiên trì. Có giáo dục đúng chiều hướng Thiên Chúa, mới có thể “duy trì giá trị hòa bình quí báu cho mọi người thuộc thiên kỷ thứ ba: hòa bình trong tâm hồn, gia đình, cộng đoàn và giữa các dân tộc, đặc biệt hòa bình cho các dân tộc đang diễn ra chiến tranh và chết chóc mỗi ngày.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 8.12.2003) Càng ngày con người càng khép kín cõi lòng. Thực vậy, sự tin tưởng và tha thứ ngày càng hiếm hoi. Đó là nguyên nhân sinh ra mọi bế tắc. Muốn giải quyết vấn đề, phải “giúp đỡ mỗi người, mọi chủng tộc và văn hóa gặp gỡ và chấp nhận Đức Giêsu, Đấng đã giáng trần để ban hòa bình cho chúng ta trong mầu nhiệm Giáng sinh.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 8.12.2003)
Chúa Giê-su tỏ mình là Đấng cứu độ qua sự kiện ba nhà Đạo sĩ phương Đông tới kính thờ và qua: TN 2-C87
Chúa Giê-su tỏ mình là Đấng cứu độ qua sự kiện ba nhà Đạo sĩ phương Đông tới kính thờ và qua việc Thiên Chúa Cha giới thiệu Người bên bờ sông Gio-đan. Hôm nay, bài Tin Mừng kể lại phép lạ đầu tiên Chúa Giê-su thực hiện tại Ca-na nhắm mục đích “bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”. Phép lạ đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Chúa Giê-su. Sự xuất hiện của Chúa Giê-su khai mở một triều đại mới, triều đại của ơn cứu độ. Vậy Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói gì về sự hiện diện và sứ vụ của Chúa Giê-su giữa lòng nhân loại?
1. Viễn tượng thay đổi nhân loại do sự hiện diện của Đấng cứu độ theo cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 62:1-5)
Đấng cứu độ được sai đến trần gian là để làm một cuộc thay đổi tận gốc rễ. Ngay từ thời Cựu Ước, ngôn sứ I-sai-a đã nhìn thấy viễn tượng thay đổi này. Ngôn sứ lấy hình ảnh của Xi-on và Giê-ru-sa-lem được thay đổi để nói về một cuộc thay đổi toàn bộ cục diện nhân loại. Vậy trước hết ta hãy nghe I-sai-a trình bày viễn tượng đổi thay của Xi-on và Giê-ru-sa-lem.
Đồi Xi-on cũng như thành Giê-ru-sa-lem đã trở nên hoang tàn sau khi Ít-ra-en rơi vào tay đế quốc Ba-by-lon. Dân cư thì bị phát lưu nơi xứ lạ quê người và làm thân nô lệ. Đền Thờ bị tục hóa, các đồ thờ phượng bị lấy đi hoặc bị làm ô uế. Thân phận của Xi-on và Giê-ru-sa-lem giờ đây quả là “đồ bị ruồng bỏ” và “phận bạc duyên ôi”. Dường như Thiên Chúa cũng không thèm ngó ngàng cứu giúp. Những người con của Giê-ru-sa-lem lúc này đang ngồi khóc bên bờ sông Ba-by-lon. Hy vọng trở về cố hương mong manh như sợi chỉ. Vậy mà giữa đám người lưu đày và thất vọng ấy, niềm hy vọng đã lóe sáng khi ngôn sứ I-sai-a loan báo: “Ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62:1).
Mọi sự được đổi mới khi đức công chính xuất hiện và ơn cứu độ rực lên. Đó là viễn tượng của Ít-ra-en mới theo cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a. Cuộc đổi mới này được I-sai-a thi vị hóa qua hình ảnh hôn nhân. Nó làm cho Thiên Chúa vui mừng tựa như cô dâu là niềm vui cho chú rể.
Tuy nhiên I-sai-a không dừng lại ở cuộc đổi mới Ít-ra-en, mà chỉ dùng hình ảnh ấy để nói về toàn thể nhân loại sẽ được đổi mới do công cuộc cứu độ của Chúa Giê-su. Ở đây vị ngôn sứ dùng nhiều hình ảnh ám chỉ về Chúa Giê-su. Người là “đức công chính xuất hiện và ơn cứu độ rực lên”. Người được Chúa Cha sai xuống trần gian, làm “chú rể” để cưới “cô dâu” nhân loại. Người sẽ đổi tên của nhân loại, hay nói đúng hơn, Người sẽ đổi danh phận của nhân loại giống như Đức Chúa đổi danh phận của Giê-ru-sa-lem. Một Giê-ru-sa-lem bị nguyền rủa là “Đồ bị ruồng bỏ” và “Phận bạc duyên ôi” được đổi thay thành “Ái khanh lòng Ta hỡi” và “Duyên thắm chỉ hồng”. Cũng thế, Chúa Giê-su đến để thay đổi căn tính của nhân loại. Từ những kẻ thù của Thiên Chúa, ta được mời gọi làm con cái của cùng một Cha trên trời. Từ những kẻ bị tội lỗi tước đoạt hết mọi sự, nhất là sự sống đời đời, ta được phục hồi quyền thừa kế gia nghiệp của Thiên Chúa cùng với Con Một Người là Chúa Ki-tô. Cuộc thay đổi này là nhiệm cục cứu độ đã được Thiên Chúa Cha hoạch định từ trước, nay đang được Chúa Ki-tô thi hành và sức mạnh của Thánh Thần tiếp tục hoàn tất.
2. Thay đổi bộ mặt trái đất là công việc của Chúa Thánh Thần (bài đọc Tân Ước – 1 Cô-rin-tô 12:4-11)
Chúa Giê-su không thực hiện công cuộc cứu độ một mình, nhưng theo “kế hoạch yêu thương” (Ep 1:9) của Thiên Chúa Cha và trong sức mạnh của Thánh Thần (Ep 1:3.14). Suy niệm của thánh Phao-lô trong bài đọc Tân Ước cho thấy Thánh Thần không chỉ hoạt động trong sứ vụ của Chúa Giê-su (Lc 4:1.18), mà còn tiếp tục hoạt động qua những đặc sủng nơi những ai mở lòng đón nhận ơn cứu độ. Thực vậy, Thánh Thần hoạt động trong việc rao giảng ơn cứu độ thì cũng hoạt động trong việc lãnh nhận ơn cứu độ, nghĩa là Chúa Thánh Thần ảnh hưởng cả người rao giảng Tin Mừng lẫn người lắng nghe Tin Mừng.
Trong đoạn thư hôm nay, tuy thánh Phao-lô nêu lên những hình thái hoạt động khác nhau của Chúa Thánh Thần, nhưng cốt ý là trình bày sự liên kết hài hòa của Thiên Chúa Cha, Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần để thực hiện kế hoạch cứu độ. Thánh Tông đồ khẳng định đặc tính duy nhất và hiệp nhất của kế hoạch ấy. Để ơn cứu độ được rao giảng, đón nhận và viên mãn, đặc tính duy nhất này phải được thể hiện trong những “đặc sủng, việc phục vụ và hoạt động” khác nhau. Đặc tính duy nhất ấy đưa ta trở về nguồn để nhận ra các đặc sủng là do một Thần Khí, các việc phục vụ là do một Chúa (Ki-tô) và các hoạt động là do một Thiên Chúa (Cha). Sau khi trình bày đặc tính duy nhất và hiệp nhất của kế hoạch cứu độ, thánh Phao-lô đặc biệt nói đến những hoạt động cụ thể của Thánh Thần trong việc loan báo và đón nhận ơn cứu độ. Để giúp việc loan báo ơn cứu độ, Chúa Thánh Thần ban cho ta “ơn khôn ngoan để giảng dạy, ơn hiểu biết để trình bày”. Để giúp ta đón nhận ơn cứu độ, Chúa Thánh Thần ban cho ta “lòng tin”. Để nói lên những dấu chỉ giúp người ta nhận biết ơn cứu độ, Chúa Thánh Thần ban những ơn đặc biệt cho một số người, như “ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định thần khí, ơn nói các thứ tiếng lạ, ơn giải thích tiếng lạ”. Như thế, quả thực thánh Phao-lô đã cho ta một hình ảnh sinh động về kế hoạch cứu độ, được thực hiện trong sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa và trong sự loan báo cũng như đón nhận của tất cả những ai muốn cộng tác vào kế hoạch ấy. Điều quan trọng là ta có thực sự nhận biết sự sinh động này hay không, nhờ đó ta không trở thành kẻ bàng quang hay thụ động đứng ngoài kế hoạch cứu độ yêu thương, nhưng tích cực làm kẻ đón nhận và giúp người khác đón nhận ơn cứu độ.
Đặc sủng của Thánh Thần có nhiều thứ khác nhau, được biểu lộ tùy theo hoàn cảnh và nhắm tới cùng một mục đích. Ta không thể nói “tôi chẳng có đặc sủng nào của Thánh Thần”. Ta có thể “chữa bệnh” khi đem lại cho anh chị em một niềm vui đích thực. Ta có thể “phân định thần khí” khi giúp cho con cái nhận biết đâu là chọn lựa tốt hoặc xấu. Ta có thể “nói tiên tri” khi chỉ dẫn cho những người ta có trách nhiệm biết hướng đến một tương lai tốt đẹp… Tóm lại, Thánh Thần không hoạt động cách ồn ào nơi ta như thác nước đổ trên tảng đá, nhưng nhẹ nhàng như những giọt nước thấm vào miếng bọt biển. Điều chắc chắn là Người vẫn tiếp tục những hoạt động của Chúa Ki-tô nơi tâm hồn ta và những người chung quanh ta, để “thay đổi bộ mặt trái đất”.
3. Phép lạ Ca-na và khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giê-su (bài Tin Mừng – Gio-an 2:1-11)
Kể lại phép lạ Chúa Giê-su biến nước thành rượu, thánh Gio-an không chỉ quan tâm đến việc làm của Người, nhưng ngài còn cẩn thận ghi chú: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2:11).
Rõ ràng thánh sử muốn nói lên tầm quan trọng của phép lạ qua hai chi tiết: dấu lạ đầu tiên và tạo lòng tin cho các môn đệ. Ngài sử dụng từ dấu lạ thay vì phép lạ. Dấu lạ là một sự kiện mắt thấy tai nghe, nhưng đưa ta đến việc nhận ra một điều gì đó sau khi chứng kiến hoặc nghe kể về sự kiện ấy. Như thế, dấu lạ đầu tiên cho thấy phép lạ Ca-na mở đầu cho một loạt những dấu lạ khác, nhưng tất cả đều được nhắm vào cùng một mục đích là để bày tỏ vinh quang của Chúa Giê-su và tạo niềm tin vào Người. Viết về những dấu lạ Chúa Giê-su đã làm, thánh Gio-an dám quả quyết: “Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:25). Điều này nhắn nhủ ta một sứ điệp: Có thật nhiều “dấu lạ” để giúp ta nhận biết Thiên Chúa và tình yêu của Người, khiến ta không thể nhắm mắt làm ngơ.
Sứ vụ của Chúa Giê-su là rao giảng Tin Mừng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm và lối sống của Người. Việc làm hỗ trợ hoặc chứng minh cho lời giảng của Người. Tuy nhiên, dù lời nói hay việc làm thì tất cả sứ vụ đều nhắm mục đích giúp “mọi phàm nhân nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giê-su Ki-tô” (Ga 17:3). Vậy phép lạ Ca-na nhắm mục đích nào nơi ta? Điểm cốt yếu dấu lạ muốn nói lên là: Chúa Giê-su là Đấng cứu độ thay thế cho Lề Luật của Cựu Ước; và ta cần được biến đổi từ không tin đến có lòng tin vào Chúa Giê-su giống như nước được biến thành rượu. Biến đổi nhân loại là mục tiêu của kế hoạch cứu độ. Chúa Giê-su bắt đầu thực hiện kế hoạch ấy bằng việc rao giảng Tin Mừng và làm những dấu lạ. Người sẽ kết thúc kế hoạch tại trần gian bằng cái chết của Người trên thập giá và sự sống lại vinh hiển. Như thế, ngay trong phép lạ đầu tiên, Chúa Giê-su đã cho ta thấy hành trình cứu độ của Người, từ Nhập Thể tiến đến “giờ” vinh quang của Người trên thập giá. Muốn tham gia vào hành trình cứu độ ấy, Chúa đòi hỏi ta phải để Người biến đổi ta “tin vào Người” như các môn đệ đầu tiên đã tin vào Người sau dấu lạ đầu tiên Người làm tại Ca-na.
4. Sống Lời Chúa
Trong bất cứ một kế hoạch nào, bước đầu tiên thật là quan trọng. Trong nhiều lời nguyện Nhập lễ, phụng vụ thường có những lời nguyện: Những gì Chúa đã khởi sự tốt đẹp, thì xin Chúa cũng hoàn tất toàn hảo nơi chúng con. Khởi đầu sứ vụ cảu Chúa Giê-su đã được trình bày qua những hình ảnh tuyệt vời của Giê-ru-sa-lem mới, những đặc sủng của Thánh Thần và nhất là việc Chúa biến nước thành rượu trong tiệc cưới Ca-na. Sứ vụ cứu độ ấy lại được tiếp nối trong sức mạnh hoạt động của Chúa Thánh Thần. Không những ta được mời gọi tiếp nhận ơn cứu độ, mà còn được mời gọi tham gia vào việc loan báo ơn cứu độ cũng như đồng hành với anh chị em trên con đường cứu độ nữa.
Suy nghĩ: Nói về “việc phục vụ và hoạt động”, thánh Phao-lô viết: “Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người”. Trong việc loan truyền ơn cứu độ, những việc phục vụ và hoạt động của tôi có nhắm mục đích duy nhất là làm cho Chúa không? Hay những việc phục vụ và hoạt động của tôi còn ẩn giấu những mục đích không chính đáng?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh, cùng được uống chung một chén rượu; xin cho chúng con đây biết thành tâm hiệp nhất trong tình yêu của Đức Ki-tô, để nhờ đó mà cả thế giới này được hưởng ơn cứu độ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Hiệp lễ, Chúa Nhật 5 Thường niên).
Ba lần Thiên Chúa tỏ mình ra (Hiển Linh) qua Đức Giê-su Ki-tô: lần thứ nhất qua Hài Nhi và: TN 2-C88
Ba lần Thiên Chúa tỏ mình ra (Hiển Linh) qua Đức Giê-su Ki-tô: lần thứ nhất qua Hài Nhi và cuộc chiêm bái của các vị đạo sĩ đến từ phương Đông, lần thứ hai khi Chúa Giê-su lãnh nhận phép rửa của ông Gio-an tại sông Gio-đan và lần thứ ba trong tiệc cưới Ca-na khi Chúa Giê-su biến nước thành rượu ngon. Mỗi lần như thế đều có ý nghĩa riêng biệt đối với thời điểm trong cuộc đời Đấng Cứu Độ. Phép lạ tại Ca-na là dấu lạ đầu tiên khi Chúa Giê-su bắt đầu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh Gio-an đã cẩn thận ghi lại những nhận xét sau đây để kết thúc câu truyện Ca-na: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2:11).
1) Dấu lạ đầu tiên
Bắt đầu thuật lại câu truyện tiệc cưới Ca-na, thánh Gio-an nói đến thời gian là “ngày thứ ba”. Vậy ngày thứ nhất là khi Chúa Giê-su đến gặp ông Gio-an Tẩy giả (Ga 1:29-34) tại bờ sông Gio-đan và ngày thứ hai là lúc Chúa Giê-su gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1:35-51). Đó là những chuẩn bị cuối cùng trước khi Người thực sự khởi đầu sứ vụ.
Tin Mừng Gio-an chọn lựa một số phép lạ tiêu biểu mà ngài gọi là dấu lạ để trình bày một thực thể đằng sau dấu lạ đó. Vậy phép lạ biến nước thành rượu trong tiệc cưới Ca-na có ý nghĩa gì? Từ chương 2 đến gần hết chương 6, Tin Mừng Gio-an trình bày những chủ đề thay thế, những thực thể mới thay thế cho những thực thể cũ, thí dụ quan hệ mới giữa Thiên Chúa và nhân loại, Đền Thờ mới, sự sống mới, phụng tự mới...
Trong Cựu Ước, mối quan hệ giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en thường được diễn tả dưới hình thức quan hệ hôn nhân (xem Hs 2). Dân Ít-ra-en phải trung thành với Thiên Chúa như người vợ trung thành với chồng, không được thờ các thần của Dân ngoại. Nhưng thực tế dân Chúa lại bất trung, đi theo các thần ngoại và học đòi lối sống vô đạo của những người thờ phượng chúng. Giờ đây trong Tân Ước, Thiên Chúa muốn đổi mới quan hệ ấy qua Chúa Giê-su, không phải chỉ giữa Người với dân Do-thái, nhưng với toàn thể nhân loại. Mối quan hệ cũ đã lạt như nước bây giờ cần phải được biến đổi thành rượu ngon. Thiên Chúa đưa nhân loại vào một cuộc hôn nhân mới để họ sống và đáp trả tình yêu vô điều kiện Người dành cho họ.
Tuy nhiên, nếu ta hiểu rượu mới như là biểu tượng liên hệ với việc Đấng Cứu Thế đến (xem Is 25:6; Am 9:14; Ge 2:19), thì ý nghĩa của dấu lạ tại Ca-na là để khẳng định Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a. Qua Đấng Mê-si-a, Thiên Chúa khởi đầu một nhiệm cục (economy) mới, nhiệm cục cứu độ trần gian. Dấu lạ đầu tiên này đã tỏ ra quyền năng Thiên Chúa hoạt động nơi Chúa Giê-su để thực hiện một kế hoạch mới.
2) “Bày tỏ vinh quang của Người”
Mục đích của dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an là để ta nhận ra một điểm nào đó thuộc căn tính của Chúa Giê-su. Qua ý nghĩa của “rượu”, ta nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a đã đến trần gian. Nhưng thánh sử còn nhắc đến một chi tiết quan trọng khác để giúp ta nhận biết Chúa Giê-su sẽ làm gì, đó là “giờ”. Trước hoàn cảnh hết rượu, Mẹ Ma-ri-a muốn xin Chúa Giê-su can thiệp và được Người trả lời: “Giờ của con chưa đến”. Giờ của Chúa Giê-su là lúc Người chết trên thập giá (Ga 12:27), được tôn vinh (Ga 12:23) và bỏ thế gian mà về với Chúa Cha (Ga 13:1). Chính vào “giờ” thế gian tưởng thắng được Chúa Giê-su chết trên thập giá lại là lúc Người chiến thắng tội lỗi và cái chết do nó đem lại. Tại tiệc cưới Ca-na, mặc dù “giờ” của Chúa Giê-su chưa xảy ra, nhưng Người đã tỏ ra cho ta biết trước về những gì sẽ xảy đến cho Người trên thập giá.
Suy nghĩ về “giờ” của Chúa Giê-su, ta không thể bỏ qua vai trò của mẹ Người là Đức Mẹ Ma-ri-a. Chỉ có hai lần trong Tin Mừng Gio-an, Đức Mẹ được nhắc đến, không phải với thánh danh Ma-ri-a, nhưng với tước hiệu “thân mẫu Đức Giê-su”, lần thứ nhất tại tiệc cưới Ca-na (Ga 2:1) và lần thứ hai bên cạnh thập giá trên đồi Gôn-gô-tha (19:25). Vậy Mẹ Ma-ri-a đã hiện diện bên cạnh Chúa Giê-su vào lúc Người cho ta biết về vinh quang của Người, thì Mẹ Ma-ri-a lại có thể nào vắng mặt khi Người thực sự được tôn vinh trên thập giá. Vai trò của Mẹ gắn liền với sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su. Cũng như tại tiệc cưới Ca-na, Mẹ đã nhận thấy cảnh bối rối lo lắng của chủ nhà vì hết rượu, thì nhìn vào “hôn nhân” giữa Thiên Chúa và nhân loại, Mẹ cũng thấy được những trục trặc cần phải được sửa chữa. “Họ hết rượu rồi” không chỉ là lời xin Chúa Giê-su can thiệp nhất thời, nhưng là lời chuyển cầu hằng giây phút Mẹ nói với Con của Mẹ qua mọi thời đại.
Trong giờ vinh quang trên thập giá, Chúa Giê-su lấy máu đào thanh tẩy tội lỗi của nhân loại. Tại tiệc cưới, người ta đặt sáu cái chum đá đựng nước để dân chúng cử hành thói tục thanh tẩy trước khi vào tiệc cưới. Mai đây trên thập giá, Chúa Giê-su sẽ lấy máu của Người để thay thế nước thanh tẩy mà biến đổi ta là những người tội lỗi thành những người có lòng tin.
3) “Các môn đệ đã tin vào Người”
Trước một phép lạ vĩ đại như vậy, những người chứng kiến hẳn có những cảm nghĩ khác nhau. Cô dâu chú rể và gia đình thì thoải mái vì vừa tránh được cơn bẽ mặt. Người quản tiệc vì không biết Chúa Giê-su đã làm phép lạ thì cằn nhằn chàng rể không biết sắp đặt. Nhưng hiệu quả đang kể nhất do dấu lạ đem đến là “các môn đệ đã tin vào Người”. Tuy nhiên ta có cảm tưởng đây chỉ là khởi đầu của một hành trình. Họ cần phải lớn lên trong niềm tin này. Lời giảng, việc làm và cuộc sống của Chúa Giê-su sẽ rèn luyện người môn đệ theo gương mẫu của Người. Từ sau biến cố này, thánh Gio-an sẽ cho chúng ta thấy có hai loại người, những người tin vào Chúa Giê-su là các môn đệ và những người không tin vào Chúa Giê-su, để rồi ngài thách đố mỗi người chúng ta sẽ bắt buộc phải chọn lựa làm hạng người nào.
Ngay trong Lời tựa, thánh sử đã khẳng định: “Ngôi Lời đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Đúng vậy, trong cuộc Hiển Linh tại tiệc cưới Ca-na, các môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su đã được diễm phúc nhận biết Chúa Giê-su là ai và sẽ làm gì. Nhưng để thực sự nhận biết Người là Con Một Thiên Chúa, đến để tỏ cho ta ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa, thì họ còn phải đi theo Chúa, làm môn đệ Người suốt đời, để tới lượt họ sẽ đem ân sủng và tình yêu Thiên Chúa đến cho những người anh chị em khắp nơi.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Mối quan hệ giữa tôi với Chúa là thứ quan hệ nào? Khi cần thì níu chân Chúa? Hay luôn là một người con hiếu thảo với Người? Thực sự tin Chúa là Đấng yêu thương tôi vô điều kiện? Hay chỉ là một Thiên Chúa quyền phép nhưng xa vời?
Nếu Đức Mẹ nói với Chúa Giê-su về tôi: “Họ hết rượu rồi”, thì tôi phải hiểu thế nào? Tôi sẽ thưa gì với Đức Mẹ lúc ấy?
Tôi hiểu thế nào là “tin vào Người”? Nếu tôi đang trên hành trình làm môn đệ Chúa Giê-su thì tôi đã học được những gì nơi Người?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.” - Thánh Augustino
Sau biến cố Giáng Sinh, trước khi bước vào mùa Thường niên suy niệm lời giảng và những: TN 2-C89
Sau biến cố Giáng Sinh, trước khi bước vào mùa Thường niên suy niệm lời giảng và những việc làm của Chúa Giê-su trong sứ vụ Cứu Thế, Phụng vụ Lời Chúa dành cho ta ba Chúa Nhật chuyển tiếp để giới thiệu con người và sứ vụ của Chúa Giê-su. Ta cũng có thể coi ba biến cố này như ba cách hiển linh của Chúa Giê-su: qua ba nhà chiêm tinh phương Đông, Chúa Giê-su tỏ ra Người là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại; qua việc chịu phép rửa của Gio-an Tẩy giả, Chúa Giê-su được Chúa Cha và Thánh Thần thánh hiến và sai đi; hôm nay qua phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Ca-na, Chúa Giê-su đã “bày tỏ vinh quang của Người; và các môn đệ đã tin vào Người.” Như vậy, phép lạ tại Ca-na là một cách “hiển linh” mời gọi ta hãy theo Chúa Giê-su, lắng nghe lời Người và nhìn ngắm những điều Người làm để cũng như các môn đệ, ta sẽ tin vào Người. Đó cũng là mục đích Giáo Hội muốn chúng ta nhắm tới khi ta tiếp tục suy niệm Tin Mừng trong các Chúa Nhật thường niên kế tiếp.
a) Phép lạ Ca-na không chỉ đơn thuần là một việc lạ, nhưng còn là một dấu lạ
Việc lạ hay dấu lạ nghe cũng từa tựa như nhau, nhưng thực ra khác nhau. Ba sách Tin Mừng nhất lãm dùng những từ phép lạ, điềm kỳ để nói về những việc lạ lùng Chúa Giê-su đã làm, như chữa lành bệnh, cho kẻ chết sống lại... Riêng Tin Mừng thánh Gio-an lại không sử dụng những từ ấy, mà lại dùng từ dấu lạ để nói về những phép lạ của Chúa Giê-su. Phép lạ và điềm kỳ nhấn mạnh đến bản chất của những sự kiện lạ lùng đã được thực hiện. Còn dấu lạ nhấn mạnh đến căn tính của Đấng thực hiện những việc lạ lùng. Nói khác đi, dấu lạ là một việc lạ được dùng làm dấu chỉ nói cho chúng ta biết một điều gì đó thuộc căn tính của Chúa Giê-su hoặc Chúa Giê-su là Đấng nào. Thí dụ khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (Ga 9), thì phép lạ ấy là dấu hiệu nhờ đó ta biết Người là ánh sáng thế gian. Chúa làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Ga 6), thì đó là dấu chỉ cho ta thấy Người là bánh ban sự sống...
Nằm trong lối trình bày căn tính của Chúa Giê-su, phép lạ Ca-na là dấu chỉ nói lên Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a (Ki-tô) sẽ hy sinh mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi nhân loại. Vậy đâu là những hình ảnh trong tiệc cưới Ca-na được Gio-an nhắc đến để nói cho ta biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô?
b) Nước thanh tẩy biến thành rượu đầy tràn
Nước đựng trong sáu chum bằng đá được dùng cho nghi thức thanh tẩy của người Do-thái. Nước ấy chỉ rửa sạch được bụi bặm hoặc những nhơ bẩn bên ngoài, chứ không thể thanh tẩy được tâm hồn. Còn rượu đầy tràn, đối với người Do-thái vào cuối thế kỷ I trước công nguyên, là một biểu tượng nói lên việc Đấng Mê-si-a đến. Ngôn sứ I-sai-a tiên báo: “Ngày ấy, trên núi này, ĐỨC CHÚA các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25:6; x. A-mốt 9:14; Giô-en 3:18). “Còn anh, anh lại giữ mãi rượu ngon cho đến bây giờ” (Ga 2:10). Lời phê bình của người quản tiệc ngụ ý cho chúng ta thấy rượu ngon tức là Đấng Ki-tô đang hiện diện nơi đây. Vậy khi biến nước dùng để thanh tẩy trở thành rượu của Đấng Mê-si-a, Chúa Giê-su muốn thay thế cho nước thanh tẩy của nghi thức Do-thái để biến đổi tình trạng tội lỗi của ta thành đời sống đức tin.
c) Ngày và “giờ” của Chúa Giê-su
Chúa Giê-su nói với Mẹ Ma-ri-a: “Giờ của con chưa đến.” Giờ Chúa Giê-su nói đến ở đây không phải là giờ làm phép lạ, nhưng là giờ Người chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá. Trả lời yêu cầu của Đức Mẹ, Chúa Giê-su nói về giờ của Đấng Ki-tô chịu treo trên thập giá và Mẹ Người cũng sẽ có mặt với Người vào giờ ấy. Đấng Ki-tô tỏ ra vinh hiển của Người trên thập giá (Ga 12:20-23) khi Người hiến thân mình để ban sự sống mới cho nhân loại. Như vậy, sự hiện diện của Đức Mẹ tại Tiệc cưới Ca-na đã được liên kết với sự hiện diện của Đức Mẹ vào lúc đóng đinh thập giá.
Nói đến “giờ”, thánh Gio-an không quên nói đến “ngày” và ngày đó là “ngày thứ ba” (Ga 2:1). Ngày thứ ba nhắc nhớ chúng ta về lúc Chúa Giê-su sẽ sống lại vinh hiển sau cái chết ô nhục trên thập giá.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Qua phép lạ tiệc cưới Ca-na, thánh Gio-an muốn tôi xác tín Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô hiến thân chịu chết để tẩy xóa tội lỗi nhân loại. Đây là kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa muốn cứu rỗi nhân loại. Vậy trước đây tôi đã bao giờ thấy được ý nghĩa đích thực của dấu lạ này chưa? Sau khi hiểu được, tôi có đi tới mục đích dấu lạ muốn là “tin vào Người” không?
Tin vào Chúa Giê-su đòi hỏi tôi phải làm gì như các môn đệ Người đã làm?
Mẹ Ma-ri-a đã được mời gọi tham dự vào “giờ” của Chúa Giê-su, tức là vào những đau khổ và vinh hiển của Chúa Giê-su. Còn tôi, tôi đã và đang tham dự cách nào? Những đau khổ của tôi có thực sự được liên kết với cuộc Thương khó của Chúa Giê-su không?
“Họ hết rượu rồi!” Đó có phải là tình trạng thiêng liêng của tôi không? Nếu có như vậy, tôi có thực sự muốn cộng tác với Chúa, nhờ sự cầu bầu của Mẹ Ma-ri-a, để phục hồi ơn cứu rỗi nơi tôi không?
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. A-men.”
Cuối tuần, vào ngày Thứ Bảy, nhất là trong Mùa Hè, các linh mục thường được mời đi: TN 2-C90
Cuối tuần, vào ngày Thứ Bảy, nhất là trong Mùa Hè, các linh mục thường được mời đi “ăn cưới”. Có khi phải đi dự cả hai hay ba tiệc cưới. Đến chỗ này một lúc, chỗ kia một lúc để cho công bằng, khỏi bị phân bì. Có đám cưới còn xin các cha đến sớm để làm phép bữa tiệc, làm bằng tiếng Việt, rồi làm tiếng Anh (trường hợp cô dâu chú rể thuộc hai chủng tộc khác nhau).
Có người nói là “nhà tu” mà cũng đi dự tiệc cưới, vừa mất giờ, vừa không thích đáng; nhưng Bài Phúc Âm hôm nay (Gioan 2: 1-11) cho chúng ta thấy “Chúa Giêsu và các môn đệ cũng đến dự tiệc cưới” ở Cana, xứ Galilêa, và có cả sự hiện diện của Mẹ Maria. Lại chính nhờ lời yêu cầu của Mẹ Maria mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để cứu vãn danh dự cho đám cưới này.
Hôm nay, chúng ta lại có dịp cùng nhau bàn về giá trị và hạnh phúc gia đình, nhất là trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, gia đình đang gặp nhiều thử thách, khó khăn vì những phong trào luyến ái tự do, ly dị bừa bãi, nam cưới nam, nữ cưới nữ vẫn thành vợ chồng, mà nhiều nơi được chính quyền và cả một số giáo phái công nhận và thực hành!
Hạnh phúc của mỗi người tùy thuộc rất nhiều vào hạnh phúc gia đình: “Người chồng vui mừng vì người vợ…” (Bài Đọc I). Con cái vui mừng vì thấy cha mẹ hòa thuận, thương yêu nhau. Gia đình là “Tổ Ấm”. Mọi người đều cảm thấy mong muốn trở về với “Mái Ấm Gia Đình” (Home sweet home!) Hạnh phúc gia đình trần gian dọn đường đưa đến hạnh phúc gia đình Nước Trời.
Gia đình là nơi huấn luyện tuổi trẻ, là học đường đầu tiên mà chính cha mẹ là “Thầy, Cô” tuyệt diệu, là nhà giáo dục hiểu biết rõ nhất học trò của mình (vì là chính con của mình). Mọi người đều đau đớn khi gia đình tan vỡ; vợ chồng đau đớn; con cái đau đớn, ông bà cha mẹ cũng ngậm ngùi khổ đau, các vị Chủ Chăn trong giáo xứ cũng buồn lòng. Giáo Hội Công Giáo cũng rất quan tâm về thảm trạng này, nên đã tổ chức những Hội nghị về Gia đình, để tìm những phương cách cứu vãn. Giáo Hội cũng đòi buộc các vị Chủ Chăn phải chuẩn bị kỹ càng cho các đôi hôn phối trước khi cho kết hôn theo lễ nghi Công Giáo; đặc biệt phải dự đủ các lớp “Dự Bị Hôn Nhân”. Giáo Hội cũng kêu gọi các bạn trẻ hãy cầu nguyện và suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định kết hôn thành vợ chồng và cùng nhau xây đựng một gia đình mới. Ngoài ra, các bạn trẻ nên tham khảo và lắng nghe ý kiến các bậc cha mẹ trước khi kết hôn; không nên “yêu cuồng sống vội!”
Có thể chịu Bí Tích Hôn Phối ngoài Thánh Lễ, nhưng hầu hết các gia đình muốn con cái được kết hôn trong Thánh Lễ. Đó là điều rất tốt lành! Nhưng quan trọng là cần dành thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng để chịu ơn thánh và chuẩn bị cho một giai đoạn mới rất quan trọng của cuộc đời. Có nhiều bạn trẻ đã nhận thức được điều đó, nên đã ghi danh đi tĩnh tâm một cuối tuần để cùng nhau cầu nguyện, lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội) và chuẩn bị cho ngày rất trọng đại được Chúa chúc lành và kết hiệp nên Một, thành vợ chồng và bắt đầu một cuộc đời mới. Tuy nhiên, cũng có những bạn trẻ quá lo tổ chức ‘đám cưới linh đình bề ngoài mà coi nhẹ phần tinh thần, đạo đức, đưa nhau đến nhà thờ chỉ để lấy lệ cho qua. Đó là điều đáng tiếc, và ảnh hưởng không tốt cho cuộc sống chung trong tương lai.
Sau Khi đã kết hôn, các bạn trẻ nên nhớ câu: “Mình với ta tuy hai mà Một. Ta với mình tuy một mà Hai!” Vợ chồng đã được Chúa kết hiệp nên một và sống chung suốt đời trong một gia đình (Mình với ta tuy hai mà một!); nhưng cần thông cảm các khác biệt nam nữ của nhau để bổ túc nhau cho có sự hải hòa (Ta với mình tuy một mà hai!). Hơn nữa, cần thông cảm những khuyết điểm của nhau, vì tất cả chúng ta đều chỉ là nhựng con người bất toàn. Hiểu như thế để dễ dàng tha thứ cho nhau “nếu người này có điều gì làm mất lòng người kia” (Colose 3: 13), dù phải tha thứ “bảy mươi bảy lần bảy…” Việc cầu nguyện chung trong gia đình cũng là điều rất cần thiết để giữ vững hạnh phúc gia đình. “Gia đình nào biết cầu nguyện chung, sẽ luôn bền vững” (“The family that prays together, stays together”, Father Patrick Peyton). Hãy có Chúa và Mẹ Maria ở trong gia đình chúng ta thì chúng ta sẽ dễ dàng vượt thắng những khó khăn hơn (noi gương gia đình tổ chức tiệc cưới Cana trong Bài Phúc Âm hôm nay.)
Thực tế, gia đình nào cũng có những ngày mùa xuân tươi đẹp; nhưng cũng có những ngày mùa đông ‘lạnh giá’ và nhiều khi cũng có bão tố. Con thuyền gia đình có bao nhiêu ngày lướt đi êm đềm trên biển, yên sóng lặng, nhưng cũng không thiếu những ngày sóng to, gió lớn. Vợ chồng hãy cùng chung tay chèo chống, đừng trách trời, trách người, đừng đổ lỗi cho nhau sinh ra những bất hòa vào chính lúc cần hòa hợp yêu thương để vượt qua sóng gió. Lâu lâu, nên cùng nhau xem lại các hình ảnh thân thương cũng như những cuốn phim đã quay rất đẹp và tốn kém trong ngày thành hôn ngày nào để nhớ lại những kỷ niệm êm đềm đó.
Khi gặp những khủng hoảng quá lớn, hãy bày tỏ với các vị trưởng thượng, các Chủ Chăn, nhất là vị đã lo công việc hôn phối cho mình. “Đóng cửa bảo nhau” là điều tốt, nhưng khi vấn để đã không thể giải quyết được giữa hai vợ chồng, thì cần được sự nâng đỡ và giúp ý kiến của những người thân thương , thành thực giúp đỡ; những vị này thường có cái nhìn khách quan hơn, hiểu rõ vấn đề hơn, và đưa ra những giải pháp tốt đẹp cho cả đôi bên. Chính chúng tôi đã giúp đỡ được nhiều cặp gặp khủng hoảng, đi đến giải quyết êm thắm.
Để đề phòng những căng thẳng, những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân, vợ chồng cần dành thời giờ để thương yêu nhau! Dành thời giờ để chăm lo cho con cái. Dành thời giờ để cùng đi dâng Thánh Lễ, cầu nguyện với nhau. Đi chơi chung gia đình, tham dự các sinh hoạt của Giáo xứ, tham gia ca đoàn, các hội đoàn, rộng rãi giúp đỡ người khác, nhất là người nghèo khó, bệnh tật, lâm cảnh khốn cùng (“hạnh phúc là sống cho người khác”). Đừng chỉ lo sống cho gia đình mình. Đừng mải mê “làm giầu” nhiều quá mà không còn thời giờ sống cho nhau và sống cho Chúa và cho tha nhân. Một gia đình biết sống cởi mở sẽ tránh được nhiều khủng hoảng, căng thẳng. Sống cho tha nhân, khi cần tha nhân lại tiếp tay với chúng ta.
Xin Chúa và Mẹ Maria luôn hiện diện trong gia đình chúng ta, chúc lành cho gia đình chúng ta. Xin cho mọi người trong gia đình biết nâng đỡ lẫn nhau, cầu nguyện cho nhau, cùng nhau vui sống trong mái ấm gia đình, cùng nhau vượt thắng những khó khăn thử thách. Trước hết và trên hết xin cho chúng ta biết thương nhau và tha thứ cho nhau.
“Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời! Đâu có lòng từ bi, ở đấy có ân sủng Người! Đâu có tình Bác Ái, thì Chúa chúc lành không ngơi! Đâu ý hợp tâm đầu, ở đấy chứa chan nguồn vui!”
Gioan 2,1-12: 1 Vào ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê, và có mẹ Đức Giêsu ở đó. 2 Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. 3 Khi rượu hết, mẹ Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” 4 Đức Giêsu đáp lại mẹ: “Thưa bà, liên can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” 5 Mẹ Người nói với gia nhân: “Điều gì Người bảo các anh, các anh hãy làm theo.” 6 Ở đó có đặt sáu chum đá đựng nước dùng để thanh tẩy theo thói tục người Dothái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. 7 Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum nầy!” Và họ đã đổ đầy tới miệng. 8 Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh hãy múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. 9 Khi người quản tiệc nếm thử, nước đã hoá thành rượu và ông không biết rượu từ đâu ra, nhưng gia nhân đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang lại 10 và nói với tân lang: “Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà say,thì rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” 11 Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ của Người đã tin vào Người. 12 Sau sự việc nầy, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Capharnaum và ở lại đó nhiều ngày.
Đoạn 2:1-12 nằm trong tiết đoạn 2:1-4:54, mở đầu với dấu lạ thứ nhất ở Cana là nước hoá: TN 2-C91
Đoạn 2:1-12 nằm trong tiết đoạn 2:1-4:54, mở đầu với dấu lạ thứ nhất ở Cana là nước hoá thành rượu và kết thúc với dấu lạ thứ hai cũng ở Cana là em bé được chữa lành. Kết thúc đoạn 1:35-51, Chúa Giêsu nói là “Anh sẽ thấy những điều lớn lao hơn nữa”. Dấu lạ ở Cana là điều lớn lao đầu tiên mà Chúa Giêsu đã thực hiện theo như lời Người đã nói với Nathanael (1:50). Các dấu lạ tiếp tục được thực hiện trong suốt chương 1-12, mà cao điểm là dấu lạ Lazarô được sống lại (11:1-44). Có thể phân chia bố cục đoạn 2:1-12 như sau: 1- Bối cảnh của tiệc cưới thiếu rượu (2:1-3a); 2- Trước dấu lạ: cầu xin can thiệp (2:3b-5); 3- Dấu lạ xảy ra: can thiệp và xác nhận (2:6-10); 4- Lời của thánh sử và kết luận (2:11-12).
Đoạn 2:1-12 được mở đầu với bối cảnh thời gian của câu chuyện là “vào ngày thứ ba”, không gian là ở Cana và các nhân vật hiện diện “ở đó” là mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ của Người, và sự việc xảy ra là “rượu đã hết rồi” (2:1-3a). Đoạn nầy kết thúc và đóng lại với ghi nhận là những người nầy đi khỏi Cana mà xuống Capharnaum và lưu lại “ở đó” nhiều ngày (2:12). Trong tin mừng theo thánh Gioan, “mẹ của Chúa Giêsu” xuất hiện ở ngay khởi đầu sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu (2:1.3.5.12) và ở kết thúc sứ vụ của Người (19:25.26.27). Những lúc ấy luôn luôn có sự hiện diện của Chúa Giêsu và các môn đệ của Người; ít là môn đệ Gioan dưới chân thập giá. Có thể nói mẹ là nhân vật chính cộng tác với Chúa Giêsu để dấu lạ có thể xảy ra: rượu tràn trề tại Cana, và máu cứu độ chảy ra từ cạnh sườn của Người (19:34). Lần đầu tiên các môn đệ làm thành một nhóm, và họ chứng kiến dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu thực hiện (2:11). Họ còn chứng kiến nhiều dấu lạ khác nữa, nhất là sự sống lại của Người (x. 20:30).
Phần 2:3b-5 là cuộc đối thoại giữa mẹ với Chúa Giêsu để cầu xin Người can thiệp. Chính mẹ nhận ra rượu thiếu và nói điều lên ấy cho Người biết. Đáp lại là một lời kép soi sáng lẫn nhau: “Thưa bà, liên can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” (2:4). Người gọi mẹ bằng “bà” (x. 19:26), ám chỉ khoảng cách giữa Người và mẹ Người. Khoảng cách ấy được thiết lập bởi “giờ” mà Người quả quyết trong câu trả lời tiếp theo. Đó là giờ chết trên thập giá do Thiên Chúa quyết định (x. 13:1; 17:1). Giờ ấy cũng là giờ tôn vinh Thiên Chúa và tôn vinh quang Người. Trong khía cạnh nầy, Chúa Giêsu hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và chỉ tương quan giữa Thiên Chúa với Người là quyết định, chứ không phải với mẹ của Người. Như thế, để vinh quang của Người có thể được bày tỏ qua dấu lạ nước biến thành rượu, cần ý muốn của Thiên Chúa hơn là lời nài xin của mẹ.
Phản ứng của mẹ bảo các gia nhân làm theo lời Chúa Giêsu nói gây kinh ngạc không kém lời Người trả lời với mẹ. Việc bảo các gia nhân làm theo lời Người nói (2:5) ám chỉ một cách gián tiếp là mẹ tin vào lời Người nói; và mẹ dạy các gia nhân cũng hãy làm như mẹ. Từ đầu tin mừng Gioan gọi Chúa Giêsu là Lời (logos), đã đến thế gian (1:1.14). Ai tin vào Người thì sẽ được làm con Thiên Chúa (1:12). Như thế, Mẹ là người đầu tiên tin vào Lời nầy, tiếp theo đó sẽ là các môn đệ (x. 2:11.22) và nhiều người khác nữa (4:41). Đàng khác, dựa vào sự kiện đã xảy ra tại Cana, giờ tôn vinh Chúa Giêsu đã bắt đầu. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là giờ sau cùng và cũng là cao điểm của việc tôn vinh Người.
Phần 2:6-10 mở đầu bằng khung cảnh chuẩn bị cho việc can thiệp của Chúa Giêsu (2:6). Ngoài ghi nhận về số lượng và khả năng chứa của các chum đá, đáng chú ý đến sự kiện là “nước dùng để thanh tẩy theo thói tục người Dothái”. Nước nầy sẽ chuyển thành rượu ngon khi Chúa Giêsu đến và can thiệp. Đây là lúc mà sự cứu độ sẽ chuyển sang thời kỳ khác; thời của rượu mới (x. Mt 9:17; Mc 2:22; Lc 5:37). Gioan đã không trình bày lúc nào thì nước biến thành rượu, mà chỉ cho thấy kết quả của sự kiện và hiệu quả trên các môn đệ. Trái lại, ông cho thấy một loạt những lời và hành động từ những người hiện diện trong bữa tiệc hôm đó. Là nhân vật chính làm nên dấu lạ nầy, Chúa Giêsu ra hai mệnh lệnh cho các gia nhân, như mẹ đã tiên đoán: đổ nước đầy các chum đá (2:7), và múc từ các chum ấy mà đem đến cho người chủ tiệc (2:8). Mẹ đã lui vào hậu trường sau khi đã căn dặn các gia nhân. Phần các gia nhân, họ hành động cách hoàn hảo theo lời Chúa Giêsu dạy. Phần thưởng của họ là “biết rượu từ đâu mà ra” (2:9a); trong khi người chủ tiệc chỉ xác nhận được là có rượu ngon (2:9a). Như thế, để có rượu ngon phải làm theo lời của Người.
Trong lời của chủ tiệc nói với tân lang, ông hàm ý tân lang chịu trách nhiệm về việc thiết đãi rượu trong bữa tiệc (2:10). Ông minh xác rượu được mang ra lúc ấy là tuyệt hảo hơn rượu đã uống cạn. Và ông thắc mắc là sao “đến bây giờ” mới được mang ra. Không chút nghi ngờ là khuôn mặt “tân lang” đây chính là Chúa Giêsu (x. 3:28-29). Giờ của Người trong lời đáp lại mẹ nói là “chưa đến” (2:4), nay đã đến. Chính Người ban rượu tuyệt hảo. Chắc chắn là rượu nầy trổi vượt hơn lề luật cũ, hơn “nước dùng để thanh tẩy theo thói tục người Dothái”. Như thế, đây là thời điểm quan trọng và quyết định, nhưng mới là khởi đầu.
Trong các tin mừng nhất lãm, các phép lạ Chúa Giêsu thực hiện được gọi là “những việc quyền năng” (Mt 11:20; 13:54; Mc 6:2; Lc 4:36); trong khi Gioan gọi đó là các “dấu lạ” ( 2:23; 3:2; 6:2.14.26.30; 7:31; 9:16; 10:41; 11:47; 12:18.37). Dấu lạ bao gồm hai yếu tố: - bày tỏ vinh quang của Chúa Giêsu (x. 11:4.40; 17:24 và - thúc giục lòng tin vào Người nơi người nhìn thấy dấu lạ (x. 2:23; 4:48; 6:30; 7:31; 12:37). Như thế, các môn đệ dù đóng vai trò thụ động trong bữa tiệc, đã nhìn thấy “điều lớn lao hơn” được loan báo cho Nathanael (1:50) và qua đó, họ thấy vinh quang của “Lời trở thành xác phàm” đang ở giữa họ (1:14). Và họ đã tin vào Người (2:11).
Những độc giả của đoạn tin mừng nầy đều được mời gọi tin vào Chúa Giêsu Kitô và dự phần vào vinh quang của Người khi thông phần vào rượu tuyệt hảo Người ban.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 2:1-11)
Phép lạ biến nước thành rượu là sự kiện thứ ba Giáo Hội dùng để nói về việc Chúa Giê-su: TN 2-C92
Phép lạ biến nước thành rượu là sự kiện thứ ba Giáo Hội dùng để nói về việc Chúa Giê-su tỏ mình là Đấng cứu độ. Lời giảng và phép lạ là hai yếu tố chính của sứ vụ Chúa Ki-tô thi hành trong quãng đời công khai. Như thế, phép lạ đầu tiên của Chúa Giê-su hẳn phải quan trọng hết sức, vì nó sẽ biểu lộ chân tính của Người. Hơn nữa, căn cứ vào ghi chú của thánh Gio-an sau khi kể lại sự việc xảy ra tại Ca-na cũng cho chúng ta thấy rõ mục đích của phép lạ. Ngài viết: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người”.
Thánh sử Gio-an không dùng từ phép lạ, mà dùng từ dấu lạ khi nói đến những việc lạ lùng Chúa Giê-su đã thực hiện. Như vậy, tự bản chất phép lạ biến nước thành rượu tại Ca-na đã đòi chúng ta phải vượt lên trên dấu lạ bề ngoài để nhận ra một thực tại thiêng liêng mà dấu lạ ấy muốn nói lên. Chúng ta không dừng lại để xem những gì xảy ra ở phép lạ, nhưng hãy tiến thêm một bước nữa để thấy được ý nghĩa và mục đích của phép lạ ấy theo như thánh Gio-an đã ghi: Chúa làm phép lạ đầu tiên này để bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người.
- Trước hết là ý nghĩa của việc biến đổi từ nước thành rượu. Nước ám chỉ những nghi thức của đạo Do-thái và thuộc về trật tự cũ, một trật tự dựa trên việc tuân thủ Lề Luật. Còn rượu tượng trưng cho một trật tự mới là ơn cứu độ. Rượu cũng tượng trưng cho đạo lý mới, đức khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giê-su. Như thế, khi biến nước thành rượu, Chúa Giê-su muốn cống hiến cho nhân loại một đạo lý mới giúp họ được cứu độ.
- Mục đích của phép lạ là để bày tỏ vinh quang của Chúa Giê-su. Trong Tin Mừng Gio-an, vinh quang của Chúa Giê-su không có nghĩa là vinh quang của trần gian, được người đời ngưỡng mộ sùng bái, nhưng là việc hoàn tất công cuộc cứu độ nhân loại bằng cái chết của Người trên thập giá (Ga 17:1.4-5). Vậy mục đích khi Chúa Giê-su làm phép lạ Ca-na là muốn cho người ta thấy Người bắt đầu thi hành sứ vụ để hoàn tất sứ mệnh cứu độ Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người.
- Hiệu quả của phép lạ. Hiệu quả trực tiếp là việc đám cưới thiếu rượu và sự bối rối của chủ nhà đã được giải quyết. Tuy nhiên thánh Gio-an lại nhấn mạnh đến một thứ hiệu quả khác, đó là các môn đệ đã tin vào Chúa Giê-su. Chúa Giê-su không chỉ biến nước thành rượu, mà con biến đổi các môn đệ thành những kẻ tin vào Người. Đây mới là hiệu quả Thiên Chúa mong đợi.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có lẽ chúng ta tự hỏi những dấu lạ Ca-na có khi nào xảy ra cho cuộc sống chúng ta không. Chắc chắn là có chứ. Chỉ có điều chúng ta không thể hoặc không muốn tìm hiểu ý nghĩa của những dấu lạ ấy. Một lời an ủi chúng ta dành cho người bạn đau khổ có thể biến đổi cay đắng thành ngọt ngào. Một cử chỉ khích lệ của người bạn làm cho chúng ta được phấn khởi. Những chum nước nho nhỏ trong đời sống có thể trở thành rượu ngon làm phấn chấn tinh thần. Cả trong đời sống thiêng liêng của chúng ta cũng vậy. Ân sủng luôn luôn có sức mạnh biến đổi tâm hồn chúng ta nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận và cộng tác với ơn Chúa. Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng những biến đổi nho nhỏ và dần dần đó sẽ biến đổi chúng ta thành những người tin vào Chúa Ki-tô mỗi ngày một mạnh mẽ hơn. Vậy chúng ta hãy cố gắng nhận ra những phép lạ Ca-na trong đời sống chúng ta mỗi ngày.
Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, qùa tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc,: TN 2-C93
Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, qùa tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi tạo vật lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu thân, con người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ, chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng dòn và rất giới hạn của mình.
Phần phụng vụ lời Chúa của Chúa nhật thứ hai Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống. Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn tả: Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay (Is 62, 3). Đấng Tạo Hóa trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế riêng biệt. Sự sinh xôi nẩy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.
Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hóa sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt. Thật lạ lùng!
Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù dọa những người sơ khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh.
Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân qủa. Trông qủa thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương.Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng tác tạo: Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62, 5).
Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí (1Cor 12, 4). Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, một tổ chức hay một sinh hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói nhiều thứ tiếng…Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tùy theo khả năng. Khả năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả năng mới phát triển.
Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1Cor 12, 7). Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành qủa của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích. Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (1Cor 12, 5).
Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu. Thánh Gioan đã viết: Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người (Ga 2, 11). Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giê-su bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi! " Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2, 7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.
Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."(Ga 2, 5). Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa.
(Isaiah 62:1-5; Corinthians 12: 4-11; John 2: 1-11)
Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Chúa Nhật trước, chúng ta đã suy niệm về ý nghĩa chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Jordan và: TN 2-C94
Chúa Nhật trước, chúng ta đã suy niệm về ý nghĩa chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Jordan và những cam kết của chúng ta khi chịu phép thanh tẩy. Hôm nay chúng ta bàn về tiệc cưới Cana. Câu chuyện tiệc cưới Cana (Ga 2:1-11) là một biểu hiện vinh quang của Thiên Chúa, tiếp tục chủ đề về lễ Hiển Linh và Phép Thanh Tẩy mà ta có thể gọi là lễ khánh thành sứ mạng của chúa Giêsu ở trần thế.
Trong bản kinh chiều ngày lễ Hiển Linh nêu ra ba màu nhiệm thánh: “Hôm nay ngôi sao dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ đến viếng hài nhi Giêsu; hôm nay nước biến thành rượu trong tiệc cưới; hôm nay Chúa Giêsu muốn ông Gioan làm phép rửa cho Chúa ở sông Jordan để mang ơn cứu độ cho muôn dân.” Mỗi biến cố đều có dấu chỉ riêng, chứng tỏ có sự can thiệp của Thiên Chúa: Ba Vua, Ánh Sáng chiếu rọi, Ngôi sao, Nước hoá Rượu, Tiếng Nói phát ra từ trời và hình chim Bồ Câu.
Câu chuyện tiệc cưới ở Cana là một biến cố có thực trong đời của chúa Giêsu, đã được ngòi bút điêu luyện của Gioan thánh sử vẽ lại trong một khung cảnh với cấu trúc lớp lang đầy ý nghĩa biểu tượng. Chúng ta thấy nước trở thành rượu, một vật bình thường trở thành phi thường. Phép lạ tại Cana này khởi đầu thời đại ngôn sứ. Phép lạ nói trước cho mọi người biết cách thức Chúa Giêsu sẽ hoàn thành sứ mạng của Ngườic là đổ máu chết trên thập giá.
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH CỦA CÂU CHUYỆN
Để ý những điểm chính của câu chuyện này, chúng ta thấy đây là câu chuyện được kể duy nhất bởi thánh Gioan, không thấy trong các phúc âm thư khác. Danh từ “dấu hiệu” (semeion) là một biểu tượng từ mà thánh Gioan dùng để chỉ hành động phi thường của chúa Giêsu. Thánh Gioan lúc đầu thích dùng từ này ở số nhiều (semeia) để chỉ: Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử loài người bằng một cách thức mới qua đức Giêsu. Ở Cana, biểu tượng và thực tế gặp nhau: Tiệc cưới của hai bạn trẻ là cơ hội để nói về một cuộc hôn nhân giữa chúa Kito và Giáo Hội sẽ được thực hiện trong “giờ của ngài” trên thập giá. Ở Cana tại Galilée, chúng ta bắt gặp dấu hiệu đầu tiên khi chúa Giêsu chứng tỏ vinh quang của Ngài để cho các môn đệ tin theo.
MẸ CHÚA GIÊSU
Khách chính trong tiệc cưới này không phải chỉ có một mình Chúa Giêsu mà còn có cả mẹ Người là đức Maria và các môn đệ (Ga 2:1-2). Ở đây, trong Tin Mừng Gioan, không bao giờ ta thấy đức Maria được chúa Giêsu gọi là mẹ. Tước hiệu “Bà” đã được chúa Giêsu dùng để chỉ mẹ Maria là cách nói bình thường lịch sự, nhưng không được công nhận, để chỉ mẹ của một ai đó (coi Ga 19: 26 để thấy tiếng Bà và tiếng Mẹ ám chỉ đức Maria).
Đức Maria luôn luôn là một biểu tượng. Nhiệm vụ của mẹ là hoàn tất ơn gọi của các môn đệ. Mẹ là môi giới, dấu chỉ để cho các môn đệ thấy mà tin. Lời mẹ nói với những người giúp việc trong tiệc cưới: “Hãy làm theo những gì Người bảo” (Ga 2:5) là một mời gọi tất cả mọi người hãy trở nên tân dân của Thiên Chúa. Ở cả Cana lẫn đồi Calvary, theo thánh sử Gioan, mẹ Maria không chỉ là hiện thân của một hiền mẫu và liên hệ huyết thống mẹ con với chúa Giêsu, mà còn đóng vai trò biểu tượng cao quí của một “Bà và Mẹ” của thần dân Thiên Chúa.
Trả lời yêu cầu của mẹ Maria, chúa Giêsu đáp: “Giờ của con chưa đến”. Nói một cách khác là giờ biểu lộ vinh quang của Người chưa đến. Giờ đó sẽ xẩy ra trên thập giá ở Calvary. Nhưng lời chúa nói với mẹ không phải chỉ hiểu theo nghĩa đen của câu chuyện rượu và nước trong tiệc cưới, mà còn phải hiểu một cách khác nữa. Phép lạ biến nước thành rượu có nghĩa là giao ước cũ giữa Trời và Đất sẽ đổi mới hoàn toàn. Lời mẹ Maria nói với Con mẹ đã biến đổi hẳn tình huống buồn bã lo âu thành vui mừng khôn tả. Lời Chúa Giêsu nói với những người giúp việc trong tiệc cưới đã trở thành phép lạ thực sự.
“GIỜ” CỦA CHÚA. KHI CRONOS BIẾN THÀNH KAIROS
Tiếng “GIỜ” trong câu chuyện tiệc cưới ở Cana có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Trong Tân Ước, chữ giờ của tiếng Hy Lạp là “hora” thường được dùng để chỉ kairos hơn là cronos: “Giờ (hora) đã đến và chính lúc này là giờ những người thờ phượng đích thực” (Ga 4:23-24). Chữ giờ/Hora được dùng khá nhiều trong những câu chuyện Tin Mừng nói về những việc lạ lùng và phi thường như chữa lành bệnh hiểm nghèo, và trong những trường hợp như vậy thì thường được đổi thành từ “ngay tức thì”. “Giờ” mà Chúa Giêsu nói ở tiệc cưới Cana là giờ khổ nạn, giờ Chúa chịu chết, sống lại và lên trời (Ga 13: 1).
“Cronos” là thời gian chỉ những sự việc xẩy ra bình thường và cho ta cảm tưởng là ta có thể điều khiển được nó, nhưng thường là sai lầm. Chúng ta có thể ghi chúng vào trong Blackberries, IPhones và sổ tay với ngày tháng, giờ phút cùng biến cố theo cách thức riêng của ta. Còn Kairos biểu hiện sự đứt đoạn khi có trở ngại bất ngờ khiến ta phải thay đổi chương trình cho thích hợp với thực tế. Giờ của chúa Giêsu, giờ đã định của Người hay khoảnh khắc “kairos” hiện ra ngoài dự định hoặc trước khi Người muốn. Dĩ nhiên Chúa đã có trong đầu chương trình của Chúa. Hoàn cảnh đã thúc đẩy Người phải đi theo một lối khác.
TIỆC CƯỚI Ở CANA
Có nhiều cách cắt nghĩa các biểu tượng trong câu chuyện Tin Mừng này. Một là coi câu chuyện như hai quang cảnh đối nghịch nhau giữa điều mà chúa Giêsu làm và sự bất toàn của Do Thái giáo. Theo quan niệm này, thì Do Thái giáo tự nó đã khô héo, tàn rụi, trở nên trống rỗng, sơ cứng và kiệt quệ rồi. Kitô giáo tức rượu ngon phải thay thế Do Thái giáo là nước lã.
Cách cắt nghĩa thứ hai là nỗi vui mừng vì vương quốc Thiên Chúa xuất hiện. Chúa Giêsu đã có cơ hội loan báo cho những người đang tụ họp nhân dịp vui của hai họ. Việc tỏ lộ của Chúa biến thành một cuộc họp trong cuộc họp, tiệc liên hoan trong tiệc liên hoan, một cuộc hôn nhân trong cuộc hôn nhân. Viễn cảnh này dựa vào truyền thống Do Thái coi tiệc cưới là thời gian thánh. Bài đọc I hôm nay theo Iasiah 62 bắt đầu bằng một ẩn dụ lễ cưới. Thánh ý Chúa đã nhất định là đất Judah không còn là nơi hoang vu, đơn độc bị bỏ rơi, vì Judah sẽ là hôn thê thánh thiêng của Israel, không phải của ai cả.
Cách diễn nghĩa thứ ba có lẽ là cách khá hay và sâu sa nhất, cho chúng ta thấy cách thức đứt đoạn của thời gian “cronos” để trở thành biến cố của thời gian “kairos”. Chúa Giêsu đã tính trước và chờ đợi giờ của Người để Người có thể xác định và điều khiển. Thay vào đó, “giờ / hora” của chúa lại đến với chúa một cách bất ngờ, ngoài dự tính, đặt Người vào nhiều cảnh huống khó sử khác nhau, ngay cả do chính mẹ Người nữa !
Chúa Giêsu đã tạo một bộ mặt mới cho buổi tiệc cưới này ở Cana. Người không cung cấp rượu ngon lúc tiệc khởi đầu khi khách còn tỉnh táo chưa say, nhưng lại cho vào lúc mọi người đã ngà ngà ngất ngư. Theo thánh Gioan, Chúa Giêsu đã để dành rượu tốt đến giờ phút chót và bấy giờ vinh quang của Người mới tỏ lộ (Ga 2:10). Đây chính là một biểu lộ được hiểu như là Lễ Hiển Linh mà sau này Giáo Hội ăn mừng trọng thể gọi là Lễ Ba Vua / Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm. [1]
NHỮNG GIÂY PHÚT ĐỘT PHÁ
Trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng, trong nhiều công tác mục vụ của xứ đạo hay đoàn thể cũng như công việc cá nhân hàng ngày, chúng tôi thường để dây dưa ngày này qua ngày khác, sống với nỗi niềm vô vọng, đều đều và phẳng lặng, nặng nề và uể oải, dửng dưng và vô cảm. Chúng tôi bị khóa chặt vào thời gian “cronos”, không thể nghe thấy tiếng Chúa mời gọi chúng tôi vượt thoát khỏi những giây phút tầm thường khốn khổ và ích kỷ ấy để bước vào cuộc sống mới khác thường và đặc biệt. Thiên Chúa mời gọi chúng ta để cho Người đổ tràn đầy tâm trí chúng ta, những bình đựng của chúng ta bằng rượu mới là sự hiện diện của Thiên Chúa. Một khi chúng tôi lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi và làm bất cứ điều gì Chúa biểu, thì những cái tầm thường của cuộc sống chúng tôi tức khắc biến thành đặc biệt và phi thường, bình rỗng hay bình nước lã sẽ đầy tràn với rượu mới ngon lành. Chúng ta sẽ trở thành ngày lễ hội thực sự.
Đoạn Tin Mừng nói về tiệc cưới Cana đã chỉ cho đôi tân lang ấy cách thức tránh đừng để rơi vào tình trạng này hoặc phải thoát ra khỏi nó nếu đã bị tù hãm trong tình trạng ấy. Hãy mời Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới của bạn! Nên nhớ rằng điều xẩy ra ở đám cưới Cana cũng có thể xẩy ra với bất cứ một đám cưới nào khác. Nó bắt đầu với những tiếng cười rộn ràng hân hoan thoải mái, biểu tượng của rượu nồng, nhưng cuộc hồ hởi sơ khởi ấy giống như tiệc cưới ở Cana đi qua quá mau đến lúc tàn với lo âu hối tiếc, để rồi khi tình yêu không còn, niềm vui đã hết, chỉ còn buồn tẻ với ưu phiền, trống rỗng. Còn về gia đình, nếu chúng tôi không cẩn thận, nó sẽ giống như đám mây chiều buồn thảm và cô đơn trước cơn bão tố sắp tới. Với những cặp vợ chồng như vậy thì đúng là đám cưới của họ không còn rượu nữa. Lễ cưới chỉ có một hay hai ba ngày, nhưng hôn nhân là cả một đời người.
ĐÔI LỜI KẾT
Câu chuyện Tin Mừng đầy ánh sáng chan hòa rực rỡ này không có chủ đích nói về việc mẹ Maria can thiệp vào tiệc cưới, cũng không phải lời Chúa Giêsu trách mẹ Maria. Câu chuyện kết cục có chủ đích biểu lộ tình trạng lễ hội của một gia đình bình thường với vẻ vinh quang huy hoàng ẩn dấu của Con Một Thiên Chúa là đức Giêsu. Nó không phải là cuộc chè chén say sưa trong những tiệc cưới của người Do Thái. Cũng không phải là những tiêu chuẩn hay nguyên tắc phải theo hoặc phong tục và luật lệ trong cuộc sống gia đình hay là những chuẩn mực hôn nhân. Cũng không phải Do Thái giáo thì suy tàn trống rỗng mà Kito giáo thì sung mãn đầy ắp.
Câu chuyện Cana thánh Gioan kể có chủ đích kêu gọi chúng ta suy nghĩ cẩn thận xem vị chủ bữa tiệc này khi ra lệnh “Hãy đổ đầy nước vào những bình này”, có thể làm cho tất cả những chuyện này trở nên mới trong cuộc sống của chúng ta không. “Giờ” của Người đến -tức lúc kairos hiện diện- là lúc những kế hoạch bị hỏng và cánh cửa mở rộng mời đón Thiên Chúa vào giao thoa nhau. Đó là lúc bắt buộc chúng ta phải hành động, nắm lấy thời cơ và chọn lựa như chọn giữa thiện và ác. Cana dạy cho chúng ta biết đấng Thiên Sai của thế giới đã phải điều chỉnh chương trình của Người khi những biến cố trở thành bất ngờ. Những việc xẩy ra cho chúa Giêsu như trong câu chuyện Cana mà thánh Gioan kể nói lên tính uyển chuyển của đời sống thiêng liêng tu đức. Thời giờ “cronos” của chúng ta có thể biến đổi như thế nào để thành “kairos” -một khoảnh khắc thực của đột phá và hy vọng, của thề hứa và khả dĩ ?
Chúng tôi hãy cầu khẩn Chúa và Mẹ Maria biến chúng tôi thành những tôi tớ trung thành, sẵn sàng làm bất cứ điều gì mà Chúa biểu, và hăng say chia sẻ với tha nhân rượu Chúa cung cấp cho chúng tôi. Khi chúng tôi lắng nghe tiếng Chúa và làm theo lời Chúa biểu thì những điều bình thường trong cuộc sống chúng tôi sẽ trở thành phi thường, những bình rỗng hoặc bình nước lã sẽ tràn đầy rượu mới ngon nồng, những giây phút cronos sẽ biến hóa thành kairos, và chúng ta trở nên những ngày hội thực của nhau và cho nhau.
Đừng ngần ngại, đừng sợ gian khổ, đừng sợ tù tội, đừng sợ chết, đừng tránh né viện cớ này cớ nọ để không nghe tiếng gọi lương tâm là tiếng gọi của Chúa. Công bằng, Công lý, Nhân quyền,Tự do Tôn Giáo….thì trong hoàn cảnh nào, an bình hay chiến tranh, được bảo vệ hay bị đàn áp truy nã cũng không bao giờ thay đổi ý nghĩa. Nó là ông THIỆN. Kẻ nào đi ngược lại nó, chống lại nó là KẺ ÁC. Chúng ta phải chọn Thiện, chống lại Ác. Leo lên mái nhà mà nói sự thật. Đừng sợ. (Mt 10: 26-28)
Khi mà Thiện Ác giao thoa nhau thì đó là giờ Kairos xuất hiện, giờ của Chúa. Ta phải chọn Thiện đánh Ác.
Ai trong chúng ta cũng từng dự lễ cưới, chúng ta thường nghe người ta chúc cô dâu chú rể "trăm: TN 2-C95
Ai trong chúng ta cũng từng dự lễ cưới, chúng ta thường nghe người ta chúc cô dâu chú rể "trăm năm hạnh phúc". Người ta mong được "trăm năm" đồng nghĩa hạnh phúc mãi mãi. Trong thực tế, gia đình có được hạnh phúc đã là khó, hạnh phúc trăm năm lại càng khó hơn. Hơn thế nữa, đời sống của mỗi người chúng ta như một tiệc cưới. Có phải trong cuộc sống ai trong chúng ta cũng luôn có được niềm vui, có được hạnh phúc như trong một tiệc cưới không?
Tiệc cưới ở Cana phút chốc đã lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang vui, mọi người đang mời nhau ly rượu mừng nhưng bỗng "hết rượu". Còn gì buồn cho bằng. Hết rượu là điều mà chủ nhà không ngờ và cũng không muốn nhưng ông đang phải đối mặt. Việc thiếu rượu trong tiệc cưới ở Cana có thể đó là những thiếu thốn trong gia đình chúng ta. Thực tế mà nói, mỗi gia đình thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm...thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Có thể những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm, không đủ tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật. Quan trọng hơn là những thiếu thốn về tinh thần: vợ chồng thiếu sự quan tâm, chăm sóc cho nhau; cha mẹ thiếu những lời dạy dỗ khuyên bảo con cái; con cái thiếu kính trọng, vâng lời cha mẹ; anh chị em không nhường nhịn tôn trọng lẫn nhau. Nhưng cái thiếu thốn trầm trọng nhất là thiếu lòng đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu sự công bằng bác ái, thiếu tinh thần sống đạo.
Những thiếu thốn trên dễ dàng đưa đến những bất hoà với nhau, xích mích, giận hờn, ghen ghét, gia đình ngột ngạt. Gia đình giờ đây không còn ạnh phúc nữa, hay đúng hơn tổ ấm giờ đây trở thành chốn "ngục tù" của nhau. Vì thế, làm sao có được hạnh phúc gia đình khi người chồng, người cha sáng say chiều xỉn, còn người vợ, người mẹ trở nên cau có, hay quát mắng, những đứa con không còn ngoan ngoãn nữa.
Vì thế, có phải khi lâm vào những bế tắc như trên, chúng ta không còn cách để tìm lại hạnh phúc gia đình? Phúc âm cho chúng ta lời giải đáp. Trong tiệc cưới Cana có sự hiện diện của Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Ngài nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành chúng ta. Thiên Chúa như một người cha, người bạn thân thiết của chúng ta. Ngài gần gũi, thân tình, đồng hành và chia sẻ buồn vui với con người. Nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, gia đình Cana mới thoát khỏi một bất hạnh nước đã hoá rượu ngon.
Mỗi người chúng ta cũng sẽ vượt qua những thiếu thốn những khó khăn trong gia đình, trong cuộc sống của mình khi chúng ta dám để Chúa đến với gia đình, với cuộc sống của mình. Sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua những trở ngại, những khó khăn trắc trở trong cuộc sống. Chúng ta hết tiền, không có việc làm, thiếu sức khỏe...hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, chúng ta sẽ được giúp đỡ những gì chúng ta cần để chúng ta hạnh phúc. Kế đến, chúng ta phải lắng nghe và thực hành ý Chúa "Người bảo gì các anh phải làm theo". Muốn giữ vững hạnh phúc gia đình mỗi người trong chúng ta hãy làm theo Lời Chúa dạy. Hãy mở lòng ra để Lời Chúa hướng dẫn. Đồng thời, trong mọi công việc chúng ta làm hãy để Chúa giúp chúng ta. Thực hành Lời Chúa, gia đình chúng ta sẽ vượt qua những thiếu thốn, những khó khăn. Hơn nữa, chúng ta cũng đừng quên vai trò của Đức Maria trong phép lạ hôm nay. Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ đã được thực hiện để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở. Ngày nay Đức Mẹ vẫn còn nói với Chúa Giêsu giúp chúng ta: "họ hết rượu rồi".
Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế này: "Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng". Phải, đời sống chúng ta không phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện của Chúa, không có Đức Mẹ, chúng ta khó vượt qua khó khăn, trắc trở và sống vui tươi được và nhất là sống yêu thương tha nhân được.
Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương nhân loại, để nhân loại sống hợp nhất và yêu thương. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Mỗi người phải tìm cách giàn xếp để yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong gia đình chúng ta, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải luôn có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc. Chúa biến nước lã thành rượu ngon thì Chúa cũng mời gọi chúng ta biến đổi cuộc đời nhạt nhẽo này thành rượu nồng tình yêu, yêu chúa và yêu người bằng cách sống yêu thương để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con để chúng con tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở yêu thương cho tha nhân, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen.
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau: "Từ trước: TN 2-C96
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau: "Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm và trang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40x50 cm, bên trong có thiết kế ánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi: "Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã bằng lòng theo ý của chồng tôi. Giờ đây, sau mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình tôi và các khách đến thăm ngôi nhà của chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu như sau: "Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi !". Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngồi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên: "Mỗi lần đến đây, lúc nào tôi cũng có cảm giác trong nhà chị chan hòa sự bình an"... Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của các người khách đều được nâng cao ! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa !".
3.SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giê-su dù chưa tới Giờ bày tỏ quyền năng, nhưng nhờ lời Đức Ma-ria cầu bầu, Người đã làm dấu lạ biến nước lã thành rượu ngon, để bày tỏ quyền năng giúp các môn đệ mới theo nhận biết, tin Người là Đấng Thiên Sai như Tin Mừng Gio-an đã kết luận: "Những điều đả được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người" (Ga 20,31). Ngoài ra, phép lạ đầu tiên này cũng cho thấy ơn cứu độ do Đức Giê-su thực hiện có Mẹ Ma-ri-a hiệp công và bắt đầu từ việc xây dựng hạnh phúc của gia đình tín hữu.
- Hãy mời Chúa Giê-su đến nhà: Trong Tin mừng, những ai đón nhận Đức Giê-su đến nhà đều nhận được những ơn lành hồn xác. Chẳng hạn: Đức Giê-su đến thăm gia đình ông Si-mon và đã chữa cho bà nhạc mẫu của ông khỏi cơn sốt nặng (x. Mt 1,29.31); Người cũng đến nhà ông Gia-ia để phục sinh con gái của ông vừa chết nằm trên giường (x. Mc 5,22.38-43); Người đến dự tiệc tại nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu và đã chữa lành cho một người mắc bệnh phù thủng (x. Lc 14,1-4); Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu để biến ông từ một kẻ tham lam trở thành người lương thiện, là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham. (x. Lc 19,8-10); Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để mở lòng hai ông tin vào Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức "bẻ bánh" (x. Lc 24,13-32)... Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp đỡ đôi tân hôn.
- "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo": Cuộc sống của mỗi người cũng như của gia đình chúng ta không thiếu những bất trắc và sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết mời Chúa đến nhà, Người sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, với điều kiện là chúng ta phải làm theo lời dạy của Mẹ Ma-ri-a: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5). Mỗi gia đình tín hữu có thể mời Chúa Giê-su đến nhà qua việc thiết lập bàn thờ Chúa trong gia đình và tổ chức giờ kinh tối hằng ngày. Trong giờ kinh tối, các thành viên gia đình cùng nhau nghe Lời Chúa phán và cầu nguyện cho nhau, động viên nhau thực hành lời Chúa bằng cách ứng xử lịch sự tế nhị với tha nhân. Mỗi sáng khi vừa thức dậy, mỗi người chúng ta hãy dành một giây phút dâng lên Chúa một lời cầu nguyện để xin giúp thực thi ý Chúa trong ngáy.
- "Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ": Ngày nay Chúa Giê-su vẫn đang đứng ngòai gõ cửa. Những ai mở cửa đón Chúa, thì Người sẽ vào nhà kẻ ấy, sẽ dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa chung với Người (x Kh 3:20). Vậy ngay hôm nay chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa vào nhà linh hồn hầu nhận được ơn cứu độ của Chúa hay không?
4.THẢO LUẬN: Một người kia có dịp nghỉ hè tại nhà một bạn thân. Sau kỳ nghỉ đã viết thư cám ơn bạn ấy. Trong thư có đoạn nhận xét về gia đình của bạn mình như sau: "Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự: Cách bài trí trong nhà bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫu ăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của từng thành viên trong gia đình bạn trước các bữa ăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an ở trong ngôi nhà của bạn: Các thành viên đều quan tâm săn sóc lẫn nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu hay những lời chỉ trích nói hành người vắng mặt trong ngôi nhà của bạn"... Còn gia đình của chúng ta hiện nay có những phẩm chất đạo đức như gia đình trong câu chuyện trên hay không?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ ngay thật không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con luôn có sự hiện diện của Chúa, thể hiện qua việc trưng bày bàn thờ và các tranh ảnh đạo trong nhà, nhất là qua cách ứng xử lịch sự tế nhị giữa các thành viên gia đình. Xin cho gia đình chúng con luôn biết nghe lời Mẹ Ma-ri-a để thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
- LẠY CHÚA. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những kẻ đói nghèo bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng về Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ có khả năng chu toàn sứ mệnh làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.
X. Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Hai năm trước đây vào tháng giêng 2011 nhiều nơi trong thành phố Brisbane chìm dưới nước. Suốt: TN 2-C97
Hai năm trước đây vào tháng giêng 2011 nhiều nơi trong thành phố Brisbane chìm dưới nước. Suốt mấy tuần lễ sau đó hàng ngày đều có thông báo và tiên đoán những thành phố nào kế tiếp sẽ là nạn nhân của giòng thác lũ. Những tiên đoán trên đã xảy ra đúng như những gì thông báo. Năm nay trái lại, khí hậu khô, oi bức. Không phải khô hạn chỉ gây nóng bức, khó chịu mà còn gây cháy rừng toàn lục địa. Người người, nhà nhà cầu trời đổ mưa; kẻ không tin mong trời xả nước giập tắt hoả hoạn cháy rừng. Người người vẫn còn mong đợi.
Nước đóng một vai trò quan trọng trong Kinh Thánh. Thời Cựu Ước nước được nhắc đến giải thoát cơn khát sa mạc của đoàn lữ hành trên đường về Đất Hứa. Thời Tân Ước nước dùng để thanh tẩy mang lại ơn thánh hoá. Đức Kitô dùng hình ảnh nước thường diễn giải nước hằng sống cho người phụ nữ thành Samarita khi Ngài nói cùng cô:
Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời Gn4,14
Tuần trước chúng ta nghe về phép thanh tẩy của Gioan và ông cũng là người ban phép thanh tẩy cho Đức Kitô trước khi Ngài bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai. Tuần này chúng ta nghe về phép lạ Đức Kitô biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana tại Galilê. Việc biến nước thành rượu thượng hảo hạng đã làm kinh ngạc cả thực khách lẫn người quản tiệc. Ông diễn tả điều ngạc nhiên như sau:
Ai ai cũng thết ruợu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ Gn 2,10
Cuối bài Kinh Thánh kết luận:
Đức Kitô đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người Gn 2,12
Các môn đệ tin vào Đức Kitô trước khi Ngài làm dấu lạ. Nếu không tin vào Ngài các ông đã không bỏ mọi sự để đi theo. Chính việc các ông bỏ mọi sự để đi theo cho thấy niềm tin của các ông. Điều Kinh Thánh diễn tả trong trình thuật này cho biết một điều khác hơn là đức tin của các ông. Các môn đệ tin vào Đức Kitô nhưng các ông không biết Lời Ngài có sức sáng tạo. Các ông biết sau khi chứng kiến Đức Kitô làm dấu lạ. Các ông nhìn thấy các người giúp việc múc nước đổ vào chum. Các ông nghe Ngài nói với các người giúp việc lấy nước trong chum đưa cho người quản tiệc và các ông nghe người quản tiệc khen rượu ngon. Có lẽ chính các ông cũng được nếm thử thứ rượu hảo hạng đó. Các ông nghe, thấy và tin Lời Thầy có sức mạnh. Lời Thầy có sức thánh hoá. Lời Thầy có sức biến đổi nước thành rượu. Như thế dấu lạ không ban đức tin cho người Kitô hữu nhưng thêm sức mạnh cho đức tin, làm cho người Kitô hữu hiểu thêm, hiểu sâu hơn về niềm tin.
Niềm tin của các tông đồ có trước sau đó mới đến dấu lạ. Không phải thấy dấu lạ rồi mới có đức tin mà chính là ngược lại, các tông đồ có đức tin rồi mới thấy dấu lạ.
Tin theo Đức Kitô luôn có những ngạc nhiên tốt đẹp đến trong đời. Điều ngạc nhiên tốt đẹp nhất, trọng đại nhất đến sau cùng. Đó chính là nước hằng sống mà Ngài hứa ban cho chị phụ nữ thành Samarita. Đây cũng là niềm hy vọng của mỗi người trong chúng ta những kẻ tin theo Chúa.
Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời Gn4,14
Một tiệc cưới mà cô dâu chú rể không được thánh Gioan nêu tên, nhưng tiệc cưới ấy cách đây đã: TN 2-C98
Một tiệc cưới mà cô dâu chú rể không được thánh Gioan nêu tên, nhưng tiệc cưới ấy cách đây đã hơn hai ngàn năm vẫn trở thành bất tử. Thì ra, trong tiệc cưới ở Cana xứ Galilêa, Chúa Giêsu cùng các môn đệ và Mẹ Maria, thân Mẫu của Chúa Giêsu cũng đã có mặt trong tiệc cưới này để cùng chung vui với nhà đám.
Vâng, đám cưới mà Chúa Giêsu, các môn đệ và Mẹ Chúa Giêsu đã tham dự chắc chắn là một đám cưới đặc biệt bởi vì có thể đây là một gia đình Chúa Giêsu, hoặc Mẹ Maria đã quen biết hoặc một vài tông đồ nào đó đã thân quen gia đình này. Người ta chẳng biết thế nào nhưng chỉ có một điều chắc chắn là nhiều thanh niên, nam nữ, nhiều người đã chuẩn bị giúp nhà đám từ nhiều ngày trước. Thanh niên, nam nữ, những người có tài, có khả năng, có hoa tay thì lo trang hoàng, mượn bàn, mượn ghế vv...Các bà nội trợ bàn nhau xem nấu món gì cho ngon, cho hợp khẩu vị. Các ông bàn xem loại nào ngon, uống tốt, không nguy hiểm, không hại sức khỏe. Và rồi tới ngày đám nhiều người được mời đã đến chúc tụng, ăn uống linh đình, hân hoan vui vẻ. Đây có lẽ là một đám cưới thuộc loại gia đình giầu có nhất làng, nên tổ chức đám tiệc thật linh đình, thịnh soạn khiến khách được mời dự tiệc nhớ mãi...Có ai nghĩ rằng đám cưới ở Cana qua bao thời đại vẫn còn được nhắc nhớ. Đây là đám cưới nhà quê, người ta không biết bao nhiêu thực khách, bao nhiêu mâm, tên gia chủ và tên cô dâu chú rể. Nhưng cho đến ngày nay đám cưới ở Cana vẫn được biết bao nhà điêu khắc, bao nhiêu họa sĩ, bao văn thi sĩ đã làm cho đám cưới này trở nên bất tử, trở nên tuyệt vời. Bất tử và tuyệt vời vì có mặt của Chúa Giêsu, Mẹ Người và các môn đệ của Người. Thánh Gioan trong trình thuật về tiệc cưới Cana đã cho thấy một đám cưới tuyệt vời, một tiệc cưới đã để lại ấn tượng thật tốt đẹp. Sở dĩ đám cưới này có những nét rất đẹp, đó là sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ. Tiệc cưới đang vui, đang nhộn. Tất cả thực khách đều hài lòng vì món ăn ngon và rượu thật ngon. Tuy nhiên, đối với người Do Thái, đám cưới không chỉ tổ chức có một ngày nhưng là một tuần. Do đó, mới được nửa tiệc nhà đám đã hết rượu. Thật là tai họa lớn cho nhà đám bởi vì hết rượu lúc này biết đâu mà mua, gia đình nhà tiệc sẽ mất mặt với khách mời. Ông chủ tiệc tỏ ra bối rối vô cùng. Mẹ Maria có đó với tất cả sự tinh tế, nhạy cảm, đã nói với Chúa Giêsu: " Họ hết rượu rồi " ( Ga 2, 3 ). Đây là câu nói hết sức tế nhị, nhưng đầy thân thương của Mẹ đối với gia đình nhà đám. Bởi vì, Mẹ thấu hiểu nỗi khốn khổ của nhà đám. Mẹ vừa nói với Chúa, vừa nài van Chúa. Câu đáp của Chúa Giêsu làm chúng ta hết sức sửng sốt và ngạc nhiên: " Tôi với bà có can chi ? Giờ tôi chưa đến " ( Ga 2, 4 ). Giờ ở đây có nghĩa là giờ vinh quang qua cái chết và phục sinh. Mẹ Maria không phiền, không nao núng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Giêsu. Mẹ bảo các gia nhân: " Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo " ( Ga 2, 5 ).Mẹ Maria đã gợi ý hay thực tế hơn, Mẹ đã xin Chúa Giêsu một cách kín đáo để Ngài can thiệp vào việc vui của gia đình nhà đám. Các gia nhân đã nghe theo lời Chúa và họ đã đổ đầy nước vào các chum như Chúa Giêsu dạy. Với sự nài van kín đáo của Mẹ, với sự cộng tác của con người. Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana trước khi Ngài khai mạc sứ vụ rao giảng công khai. Qua phép lạ làm cho nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu đã tỏ vinh quang của Ngài ngay giờ phút ấy để " Các môn đệ tin vào Ngài " ( Ga 2, 11 ).
Mẹ Maria đã hết sức nhạy cảm, đã rất tinh tế và có cái nhìn sắc bén để qua sự nài van kín đáo của Mẹ, Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, qua phép lạ này lòng tin của các môn đệ được củng cố thêm, được vững mạnh hơn.
Trong tiệc cưới Cana xưa, Chúa Giêsu đã làm cho nhà đám giữ được uy tín, làm cho bữa tiệc kéo dài vẫn chan chứa niềm vui và làm cho đôi tân hôn không bị mất mặt với bạn bè, với khách mời, ngày hôm nay, Mẹ vẫn tiếp tục nói với Chúa những điều cần thiết cho nhân loại, Chúa luôn kêu gọi mọi người hãy sống hiệp nhất, sống hòa hợp yêu thương nhau, hãy đẩy lùi tội lỗi, bóng tối và văn minh sự chết ra khỏi cuộc sống.Chúa muốn mọi người hãy nắm tay nhau xây dựng niềm tin, sự hiệp nhất và yêu thương để ơn cứu độ của Chúa được chan chứa nơi con người. Mẹ Maria luôn nhạy cảm, luôn tế nhị và sẵn sàng cứu giúp mọi người khi con người biết nhiệt tâm chạy đến với Mẹ, xin Mẹ giúp đỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Xin Chúa đổ tràn ân sủng của Ngài trên chúng con vì chỉ nơi Chúa mới chứa chan ơn cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, xin cứu giúp chúng con trong mọi nơi, mọi lúc. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con để chúng con luôn cần sự giúp đỡ của Mẹ. Amen.
Trang Tin mừng cũng như sứ điệp Tin mừng hôm hay hết sức gần gụi và quá ư là dễ thương. Chủ: TN 2-C99
Trang Tin mừng cũng như sứ điệp Tin mừng hôm hay hết sức gần gụi và quá ư là dễ thương. Chủ đề Tin mừng hôm nay nói về tiệc cưới ! Nghe cái gì chứ nghe đến tiệc thì nó hấp dẫn bởi vì nó làm cho người ta liên tưởng đến mâm cao cỗ đầy trong bữa tiệc. Đang nghe tác giả Tin mừng trình bày về bữa tiệc thật hay đấy bỗng nhiên lại xảy ra sự cố hết rượu !
Một bữa tiệc nho nhỏ như là bữa họp mặt, bữa tiệc sinh nhật hay đơn giản là một bữa mừng gì đó của nhóm bạn thân quen nhau thì thật là vui, thật là quý. Ai ai cũng mong muốn cho những buổi tiệc ấy tạo nên tình thân hữu, tình bè bạn và cũng mong bữa tiệc ấy kết thúc một cách tốt đẹp và sau bữa tiệc ấy lại là lời hẹn cho bữa tiệc sau. Giả như cuộc vui đang lên đỉnh thì bữa tiệc vui ấy ắt hẳn sẽ không còn như mong đợi nữa. Đang vui như vậy mà hết thức ăn thì quả là chán thật ! Nếu như thiếu thức ăn thì còn có thể chấp nhận kiếm quả cóc quả ổi để nhâm nhi những "giọt nước mắt quê hương" do gia chủ thết đãi. Và rồi nếu thiếu "nước mắt quê hương" thì quả thật là buồn.
Khi lo cho những bữa tiệc như vậy thì người ta cũng cố gắng hết sức mình để chuẩn bị cho bữa tiệc tươm tất và có khi người ta với tấm lòng rộng rãi còn làm dư cả. Và với thế giới văn minh ngày nay thì còn đó những cái tủ cấp đông để giữ lại thức ăn nếu thừa nên người ta thường hay chuẩn bị nhiều và nhiều thức ăn để cùng nhau chia vui. Thức ăn là vậy, còn rượu bia hay "nước mắt quê hương" ngày nay người ta thường chuẩn bị dư thừa.
Dừng lại một chút, nếu đám tiệc ở thành thị thì cũng khá đơn giản cho chuyện kiếm mồi kiếm bia. Nếu đám tiệc ở thôn quê thì đành rơi vào bế tắt vì lẽ muốn đi mua thêm chút mồi chút rượu quả là điều hơi bị khó. Trong cái khó, cái bế tắt ấy thì ắt hẳn không biết bao nhiêu chuyện sẽ xảy đến và nhất là với những anh chàng bợm nhậu.
Trang Tin mừng hôm nay, câu chuyện tiệc cưới hôm nay dẫn ta đi vào chuyện bế tắt của đôi tân hôn. Tiệc mừng, tiệc sinh nhật, tiệc họp mặt thiếu rượu, thiếu thức ăn thì còn có thể châm chước, còn có thể chấp nhận nhưng đàng này lại là tiệc cưới. Đời ai cũng chỉ một lần nếu sống đời hôn nhân lên xe hoa, thết đãi mọi người trong ngày vui trọng đại nhất của đời mình. Niềm vui, hạnh phúc sẽ trọn vẹn nếu như bữa tiệc ấy được hoàn hảo. Tiệc cưới Cana hôm nay rơi vào bi đát, rơi vào bết tắt khi hết rượu ! Thế nhưng đang tưởng rơi vào bế tắt thì Chúa Giêsu lại "ra tay". Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu để cứu vãn tình thế có một không hai của đôi hôn nhân.
Chuyện hết rượu của tiệc cưới Cana ngày hôm ấy trở nên khá phổ biến trong các tiệc cưới của ngày hôm nay và trong các bữa tiệc thường nhật của các gia đình ngày hôm nay. Chuyện thiếu rượu ở Cana đã có và phép lạ Cana đã xảy ra. Ngày nay, thiếu rượu trong đời sống gia đình vẫn có và phép lạ rượu đầy ngày hôm nay Chúa Giêsu vẫn làm đấy thôi. Chuyện quan trọng là người ta đã không nhận ra Chúa Giêsu đã, vẫn và sẽ hiện diện trong gia đình và làm phép lạ cho gia đình.
Không phải mới ngày hôm nay mà tự ngàn xưa khi Chúa Giêsu sinh xuống thế làm người Chúa Giêsu đã cảm nhận được cái khốn khó của kiếp người và đặc biệt khi con người rơi vào bế tắt. Chúa Giêsu vẫn yêu thương, Chúa Giêsu vẫn ban rượu dư đầy để cho niềm vui của tiệc cưới cũng như niềm hạnh phúc của gia đình được kéo dài luôn mãi.
Rượu mà Chúa Giêsu ban đấy vẫn dư tràn trên mỗi người nhưng chuyện quan trọng là con người đã khép kín lại, đã khư khư giữ riêng cho mình để rồi phép lạ bị con người cản ngăn đấy thôi. Nếu như con người biết mở lòng ra, san sẻ những gì Chúa ban cho mình thì ắt hẳn niềm vui của tiệc cưới đời mình và niềm vui của gia đình sẽ nhân lên mãi.
Bằng chứng như lời Thánh Phaolô vừa tuyên bố cho giáo đoàn Côrintô cũng như cách nào đó thánh Phaolô tuyên bố cho chúng ta: "Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người". (1 Cr 12, 4-11).
Quà của Chúa, đặc sủng của Chúa, ơn của Chúa hay nói cách khác là rượu của Chúa vẫn được phân chia cho mỗi người mỗi mức tuỳ theo ý của Người.
Thử hỏi, trong đời sống thường nhật, nếu như người ta biết cộng tác, biết đóng góp một chút phần của họ, một chút đặc sủng, một chút ơn mà Chúa ban cho họ thì cuộc sống của họ hạnh phúc là dường nào.
Nhớ lại những năm tháng còn ở Học Viện, vào những ngày tháng thực tế mục vụ hè ở vùng Cao, hình ảnh của những anh chị em dân tộc thiểu số nghèo ở vùng Cao thật là hay.
Hôm ấy, ở cái làng Bông La thuộc xã La Sơn huyện Mang Yang - Pleiku có một đám nhưng không phải là đám tiệc mà là đám tang. Hết sức ngạc nhiên khi thấy anh chị em dân tộc thiểu số đi viếng đám tang, đi chia sẻ nỗi đau niềm nhớ của gia đình nhà hiếu bằng bị gạo, bằng vài con cá khô bằng vài trái bắp non. Vì ngạc nhiên nên tò mò hỏi với hình ảnh lạ ấy. Hỏi thăm thì được biết là theo tập tục của anh chị em dân tộc thiểu số là nhà có đám tang thường để cả tuần lễ. Để một tuần lễ như vậy thì chuyện ăn uống sinh hoạt khá tốn kém và là một gánh nặng cho một gia đình nghèo. Để giải quyết những khó khăn trong những ngày tang chế bà con quanh làng mỗi người một chút mang đến nhà hiếu. Họ đến chia sẻ nỗi buồn, sự mất mát của gia đình nhà hiếu bằng cả tấm lòng cộng thêm vài con cá khô, vài lon gạo, vài trái bắp.
Chắc cũng chẳng cần nói nhiều, những bữa cơm chứ không dám nói là bữa tiệc của một tuần lễ tang chế ấy bảo đảm sẽ không bị thiếu dù là nhà hiếu thuộc dạng nhà nghèo. Hình ảnh chung chia, hình ảnh đóng góp của những anh chị em dân tộc nghèo sao mà thân thương quá, sao mà gần gụi quá. Họ, có thể là chưa biết Chúa nhưng họ đã đáp lại lời mời của Chúa hay nói một cách hơi quá là đã chứng minh phép lạ mà Chúa đã làm như đã từng làm ở Cana hay từng làm nơi hoang địa khi hoá bánh ra nhiều.
Mỗi người một ơn riêng, mỗi người một đặc sủng và mỗi người đều có một chút "rượu" trong đời mình. Nếu như mỗi người biết mở rộng lòng mình ra để chung chia chút ơn, chút "rượu" mà Chúa đã ban cho mình thì những đám tiệc hay nói gần hơn một chút là những bữa cơm trong gia đình của mình hết sức hạnh phúc.
Ta có thể đi xa hơn một chút, rộng hơn một chút ở cấp độ làng xóm, ở cấp độ giáo xứ. Nếu như mỗi giáo dân biết chung chia một chút "rượu" của lòng mình thì xóm đạo, giáo xứ của mình sẽ hạnh phúc như đôi tân hôn hôm nay ở Cana mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan thuật lại.
Một sự kiện, một câu chuyện hết sức thực tế, hết sức dễ thương đang xảy ra như đã từng xảy ra ở Cana đó là Đồng Chiêm ngày hôm nay. Đồng Chiêm đang rơi vào cảnh bế tắt, rơi vào ngõ cụt khi bị đàn áp, khủng bố đến tính mạng nhưng mà hình như giáo dân Đồng Chiêm và xứ Ải mỗi người một chút "rượu" để góp phần vào. Và hiện nay, không chỉ giáo dân Đồng Chiêm mà cả giáo dân trong và ngoài nước bằng cách này hay cách khác đã góp một chút "rượu" của mình vào Đồng Chiêm.
Đồng Chiêm đượm mùi sát khí nhưng vẫn vui và hạnh phúc vì ơn Chúa vẫn có đó và vẫn còn đó.
Chúa vẫn hiện diện, Chúa vẫn làm phép lạ trong cuộc đời này nhưng chuyện quan trọng người ta có nhận ra hay không mà thôi.
Rượu đầy, rượu thiếu là do lối nghĩ, lối sống của mỗi người.
Có những người mang trong mình quá nhiều rượu và rượu ấy với nồng độ rất cao là những người có tiếng nói, là những vị có trách nhiệm sẽ giúp cho những đám tiệc, những sự kiện Đồng Chiêm thêm vui và hạnh phúc nhưng lại khư khư giữ lại và cất giấu đi. Họ có vẻ như sợ mất quyền lợi và thiệt thòi khi mang "rượu" của mình vào cuộc đời. Bi đát nhất là họ vẫn vui, vẫn bình thản trước những đau thương mất mát của kitô hữu và của Giáo Hội.
Ngược lại, có những người thấp cổ bé họng rượu cũng ít và nồng độ chẳng là bao lại xả thân đóng góp vào Đồng Chiêm. Những giọt "rượu" nhỏ bé của những con người bé nhỏ xem ra vậy mà hay. Những giọt "rượu" ấy bỗng làm cho Đồng Chiêm càng ấm áp hơn, càng hạnh phúc hơn vì sự hiện diện của Chúa Giêsu, vì "rượu" ấy được ép từ trong men Giêsu.
Rượu vẫn đầy chứ rượu không hề thiếu. Chỉ sợ lòng con người ta cạn và lòng con người ra chai đá mà thôi.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng làm phép lạ tại Cana ngày xưa đến và ở lại với mỗi người chúng ta, với chút rượu đã có mà Chúa ban cho mỗi người, thì nay xin Ngài ban thêm một chút nữa cả về số lượng cũng như "nộng độ" để mỗi người chúng ta góp thêm niềm vui, niềm hạnh phúc cho những bữa tiệc hàng ngày trong gia đình, trong xứ đạo của chúng ta.
Thời nay, đài truyền hình làm chương trình "chìa khóa thành công" hướng người trẻ khám phá: TN 2-C100
Thời nay, đài truyền hình làm chương trình "chìa khóa thành công" hướng người trẻ khám phá và phát triển những khả năng của bản thân, hầu thành công trên đường đời.
Sáng kiến của đài truyền hình thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, đối với người tín hữu, mọi hoạt động của cuộc sống con người phải bắt đầu từ việc sống lời Chúa.
Trình thuật Tin Mừng tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11) sẽ soi sáng điều này.
I. TIỆC CƯỚI
Rất tự nhiên, để sống đời hôn nhân, đôi nam nữ chính thức tuyên bố cho mọi người biết về sự chung sống của họ nơi bữa ăn mà người đời thường quen gọi là tiệc cưới.
Ngày hôn lễ, đôi tân hôn hạnh phúc tràn ngập; khách dự tiệc, họ hàng thân hữu hân hoan chúc tụng... và mong ước cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, vẹn nghĩa thủy chung... Tại tiệc cứơi Ca-na, Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự để chia sẻ niềm vui với nhà cưới.
Ngày cưới, khởi đầu cuộc sống hôn nhân, mọi người và nhất là đôi tân hôn mong ước mọi sự diễn ra tốt đẹp, bởi đầu có xuôi thì đuôi mới lọt.
Vậy mà, tại tiệc cưới Ca-na, đang khi mọi người vui say hào hứng, thì nào có ai biết, nhà cưới lại đứng trước nguy cơ tắc trách. Hết rượu!
Ai đã phát hiện ra điều này? Mẹ Ma-ri- a.
Với tất cả tấm lòng nhậy cảm của một người mẹ lo toan chăm sóc trong gia đình, Mẹ đã sớm phát hiện ra nguy cơ lúng túng của nhà cưới và nói với Đức Giê-su con của Mẹ: "họ hết rượu rồi" (Ga 2, 3).
Bây giờ, xử lý giải pháp này ra sao? Mẹ dặn: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2, 5).
II. CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA
Bằng lời quyền năng: "đổ nước vào các chum" (Ga 2, 7) Đức Giê-su đã cứu nguy cho nhà cưới một bàn thua trông thấy. Dấu lạ đã xảy ra, nước lã đã hóa rượu ngon, nhà cưới đã thoát hiểm, niềm vui tiếp tục dâng cao.
Từ dấu lạ đầu tiên tại Ca-na, các môn đệ đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa và "tin vào Người" (Ga 2, 11) và sau này xác tín mạnh mẽ: chỉ nơi Chúa Giê-su " mới có những lời mang lại sự sống đời đời" (Ga 6, 68).
Thì ra, sau khi tội nguyên tổ ập xuống trên con cháu, cuộc sống của con người không hoàn toàn tuyệt mỹ. Dầu người ta có mong ước mọi chuyện tốt đẹp nhưng sự tắc trách vẫn luôn rình rập và tai họa có thể ấp đến bất cứ lúc nào.
Đến nay, trong Chúa Giê-su, không chỉ mọi khó khăn trong sinh hoạt thường ngày của đời người sẽ được giải gỡ, mà sâu xa hơn, nơi Người, Thiên Chúa thông đạt thiện ý nhiệm mầu (Dt 1, 1) "Thiên ý này là kế hoạch yêu thương. Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô" (Ep 1, 9).
Lắng nghe lời Chúa Giê-su, người ta biết được Thiên Chúa là Cha, biết Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, biết được sự sống đời đời "sự sống đời đời là được nhận biết Cha Thiên Chúa duy nhất chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô" (Ga 17, 3).
Qua nhiều cách, Chúa vẫn đang ban lời của Người cho nhân loại để giải thoát con người mọi bế tắc, giúp họ tìm lại nguồn hạnh phúc, hướng dẫn họ tìm được giải pháp để thành công. Nhờ vậy, họ không còn phải đi trong bóng tối mà bước đi trong ánh sáng. Lời Chúa tiếp tục vang lên nơi Hội Thánh.
III. LỜI CHÚA NƠI HỘI THÁNH
Trước khi về trời Chúa Giê-su đã ban cho Hội Thánh nhiệm vụ công bố lời Người. (Mt 28, 18-20).
Hội Thánh không thể quên dấu lạ nước lã hóa rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na được gợi lên từ sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a, từ tình yêu tuyệt đối của Đức Giê-su.
Dầu là người mẹ của Con Thiên Chúa quyền năng những Mẹ Ma-ri-a chưa hề xin cho bản thân hay cho Thánh Gia một dấu lạ nào. Có chăng, Mẹ chỉ âm thầm hy sinh và suy gẫm những kỷ niệm Chúa ban cho gia đình (x. Lc 2, 19). Vậy mà, nơi tiệc cưới Ca-na, vì hạnh phúc của nhà cưới, Mẹ Ma-ri-a đã lên tiếng khẩn cầu Chúa "họ hết rượu rồi" (Ga 2, 3).
Rõ ràng chính tình yêu và lòng quảng đại và sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a đến đồng loại đã làm nên sự biến đổi diệu kỳ: nước lã được biến đổi thành rượu hảo hạng. Trong ân sủng và tình thương, mọi bế tắc sẽ được giải gỡ, những khó khăn sẽ không còn, mọi lo lắng sẽ thành niềm vui và hoan lạc.
Nối tiếp sứ vụ của Chúa, và gương sáng của Mẹ Ma-ri-a, Hội Thánh sẽ mang trọng trách không ngừng loan báo lời Chúa cho muôn người, thể hiện qua những sinh hoạt của Hội Thánh (cụ thể nơi những thành phần như: Đức Giáo Hoàng - các Đức Giám Mục nhất là Đức Giám Mục giáo phận - các linh mục - giáo dân - các vị thừa sai khắp nơi ...) bằng lời rao giảng, bằng sự quan tâm trách nhiệm dấn thân, bằng tình yêu và bằng chính mạng sống của mình.
Đứợc Chúa Thánh Thần hướng dẫn (x Ga 14, 17), Hội Thánh xác tín mọi ơn ban đều là quà tặng của Chúa Thánh Thần "có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí" (1Cr 12, 4) được ban cho nhiều người khác nhau không phải để mưu ích cho cá nhân mà là " vì ích chung" (1Cr 12, 7).
Từ đó, Hội Thánh vững vàng tin tưởng chính Chúa Thánh Thần sẽ nhắc cho người tín hữu nhớ việc làm và lời dạy của Chúa Giê-su (Ga 14, 26). Trời đất dẫu qua đi nhưng lời Chúa thì sẽ tồn tại mãi (x.Mt 24, 35).
KẾT
Thành công là mong ước chính đáng của mọi người. Cách riêng thành công của người tín hữu được xây trên nền tảng lời Thiên Chúa, trong sự nguyện cầu của Mẹ Ma-ri-a.
Thế nên, người tín hữu tôn thờ Chúa Giê-su và tin tưởng Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1, 1. 14), ban lời sự sống vĩnh cửu cho con người (x. Ga 6, 68).
Với tâm hồn vui mừng, tạ ơn, người tín hữu đón nhận Lời Chúa là ngọn đèn, là ánh sáng soi sáng chỉ đường (Tv 118), biến đổi thành họ thành những người con đích thực của Chúa, hầu lãnh nhận "phúc trường sinh bất tử" (2Tm 1, 10).