Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 2-C Bài 151-185 Sự tinh tế của Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana

Thứ bảy - 19/01/2019 10:06
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 2-C Bài 151-185 Sự tinh tế của Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 2-C Bài 151-185 Sự tinh tế của Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 2-C Bài 151-185 Sự tinh tế của Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana
---------------------------------------

TN 2-C151: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 2 TN  C.. 2
TN 2-C152: HỌ HẾT RƯỢU RỒI 5
TN 2-C153: Chúa đến cứu vãn hạnh phúc cho gia đình. 8
TN 2-C154: CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN.. 10
TN 2-C155: ĐẠO CHÚA LÀ ĐẠO CỦA NIỀM VUI 19
TN 2-C156: GIÁO HỘI LÀ NHIỆM THỂ ĐỨC KITÔ. 22
TN 2-C157: Tiệc cưới Cana. 24
TN 2-C158: Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi…... 26
TN 2-C159: Hãy mời Chúa đến nhà bạn. 29
TN 2-C160: Nhờ Mẹ đến với Chúa. 30
TN 2-C161: CHÚA GIÊSU ĐEM NIỀM VUI ĐẾN CHO CÁC GIA ĐÌNH.. 33
TN 2-C162: HÔN ƯỚC.. 39
TN 2-C163: VỮNG TIN VÀO CHÚA.. 41
TN 2-C164: TIN CHÚA HIỆN DIỆN.. 42
TN 2-C165: NIỀM VUI MỚI 44
TN 2-C166: HÔN ƯỚC.. 47
TN 2-C167: NIỀM VUI CỦA CÁC GIA ĐÌNH,KHI CÓ CHÚA GIÊSU Ở CÙNG.. 49
TN 2-C168: MẸ ƠI, CON HẾT RƯỢU RỒI! 52
TN 2-C169: BIẾN ĐỔI 54
TN 2-C170: HỌ HẾT RƯỢU RỒI 56
TN 2-C171: HẾT HAY CÒN.. 60
TN 2-C172: PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN CỦA CHÚA GIÊSU.. 65
TN 2-C173: THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN GIỮA DÂN NGƯỜI 68
TN 2-C174: TÌNH NỒNG – RƯỢU NGON.. 69
TN 2-C175: QUYỀN NĂNG CỦA LÒNG XÓT THƯƠNG.. 71
TN 2-C176: CHÚA ĐI ĂN CƯỚI 74
TN 2-C177: HỄ NGƯỜI BẢO GÌ, THÌ PHẢI LÀM THEO.. 77
TN 2-C178: CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_C.. 79
TN 2-C179: LÒNG THƯƠNG XÓT BIẾN ĐỔI TẤT CẢ TRỞ NÊN MỚI 82
TN 2-C180: CHÚA ĐÃ HIỂN LINH ĐIỀU GÌ TRONG PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN TẠI CANA.. 85
TN 2-C181: ĐÁM CƯỚI Ở CANA.. 87
TN 2-C182: NGƯỜI ĐỔI THAY TẤT CẢ.. 91
TN 2-C183: TIỆC CƯỚI CANA và GIỜ CỦA CHÚA.. 95
TN 2-C184: ĐỨC MẸ và TIỆC CƯỚI CANA.. 99
TN 2-C185: RƯỢU TÌNH YÊU.. 101

----------------------------

 

TN 2-C151: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 2 TN  C


A. Chúng con yêu quí,

 

Chúng con vừa nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan. Tin Mừng hôm nay thuật lại một TN 2-C151


Chúng con vừa nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan. Tin Mừng hôm nay thuật lại một câu chuyện xảy ra vào những ngày đầu tiên trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Câu chuyện một đám cưới tại Cana, một thành phố nhỏ gần quê hương Nagiareth của Chúa.

Cha đố chúng con đám cưới hôm nay có gì đặc biệt hơn nhiều đám cưới chúng ta thường gặp trong cuộc sống hằng ngày của mọi người?

- Thưa đám cưới hôm nay có sự tham dự của Chúa Giêsu và Đức Maria, mẹ của Chúa!

- Rất đúng!

Đọc kỹ bài Tin Mừng chúng con còn thấy gì nữa không?

Xem ra gia đình này thuộc loại khá giả vì có tới 6 cái chum lớn. Mỗi cái có thể chứa được khoảng 80 - 120 lít nước dùng để rửa tay theo thói tục của người Do Thái. Có lẽ gia chủ đã không nắm vững được số người dự tiệc nên không dự trù đủ số rượu cho đám tiệc, chính vì thế mà bữa tiệc bị thiếu rượu bất thình lình.

Đối với người Do thái thì việc thiếu rượu trong một bữa tiệc nhất là tiệc cưới thì là một điều xỉ nhục và bẽ mặt với khách được mời dự tiệc và xóm làng. (Vì chúng con biết nước Do thái là nước trồng nho nên họ uống rượu rất nhiều. Bởi thế việc để cho một bữa tiệc thiếu rượu là một việc không thể tha thứ).

Cha hỏi tiếp chúng con: Đứng trước một việc hệ trọng như thế, ai là người đã phát hiện ra điều đó?

- Đức Mẹ.

Rồi với bản chất tế nhị và bén nhạy của một phụ nữ, Đức Maria đã nhận ra ngay sự bối rối, lo âu của gia chủ. Và Tin Mừng ghi lập tức Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu và nói với Ngài: "Họ hết rượu rồi" (Ga.2,3).

Chúa Giêsu trả lời Đức Mẹ làm sao chúng con có nhớ không?

- Chúa trả lời: "Thưa bà, chuyện đó có can gì đến tôi và bà, giờ tôi chưa đến" (Ga.2,4).

Câu trả lời này có làm cho chúng con ngạc nhiên không?

Ngạc nhiên quá đi chứ! Xem ra có vẻ chói tai quá! Nhưng chúng con nên biết: Theo phong tục Do Thái, người con quen gọi mẹ là bà nơi công cộng, để tỏ ý kính trọng chứ không phải bất kính.

Đức Mẹ biết Chúa Giêsu chỉ nói thế thôi, chứ không phải là Chúa từ chối, nên Ngài bảo các gia nhân: "Chúa bảo gì, các anh cứ làm theo" (Ga.2,5). Quả thật, Chúa Giêsu đã gọi gia nhân bảo đổ nước cho đầy 6 chum đó, rồi múc nước vừa đổ vào đưa cho người quản tiệc.

Người quản tiệc vừa thử xong thì vô cùng ngạc nhiên vì không phải là nước mà nước đã biến thành rượu. Và Tin Mừng kể: "Chúa Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này để bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin Người" (Ga.2,11).

B. Bây giờ cha hỏi chúng con: Phép lạ này nhắc nhở chúng ta điều gì ?

* Chẳng cần nói dài dòng, cha có thể trả lời ngay: Về vai trò của Đức Mẹ trong cuộc sống của chúng ta.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này:

Cha Silvanus và mục sư Henry đến lâu đài Patien để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho mình. Linh mục Silvanus thì xin tiền xây nhà thờ, còn mục sư Henry thì xin tiền xây trường học. Đến nơi, họ được hoàng tử tiếp riêng từng người rất tử tế. Mục sư Henry được mời vào trước. Lát sau, khi bước ra, vẻ mặt của mục sư buồn xo vì không được trợ giúp gì cả. Đến lượt linh mục Silvanus vào. Một lúc sau, ông trở ra, vẻ mặt hớn hở tươi vui khác thường. Tay xách một túi tiền. Mục sư Henry thắc mắc hỏi vì sao mà linh mục lại được hoàng tử giúp vậy? Linh mục Silvanus cho biết:

- Lúc đầu, hoàng tử cũng từ chối tôi, nhưng khi tôi nhìn thấy hoàng hậu, tôi nhờ bà bầu cử cho. Được bà hoàng hậu nói giúp, lúc đó hoàng tử mới nhận lời bà yêu cầu mà giúp tôi.

Đấy chúng con thấy tiếng nói và sự bầu cử của người mẹ thật có giá trị như thế nào.

* Tiếp đến là sự có mặt của Chúa trong gia đình Chính nhờ chủ nhà mời Chúa Giêsu và các môn đệ đến dự tiệc cưới, mà Ngài đã ban cho ông một phép lạ đặc biệt. Qua việc tham dự tiệc cưới này, Chúa Giêsu đã thánh hóa và chúc phúc cho đời sống hôn nhân và gia đình, nhất là những gia đình biết mời Chúa đến.

Mẹ Têrêsa thành Calcutta, vị sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái, thường lập đi lập lại với những người nghe Mẹ rằng: "Tình yêu bắt đầu ngay từ trong gia đình". Một lần kia, Mẹ kể lại câu chuyện sau:

- Trong số các cộng tác viên của tôi, có một cặp vợ chồng kia trước đây sống rất hạnh phúc nhưng rồi chỉ một thời gian sau họ sống lạnh nhạt với nhau. Một hôm, cả hai đến gặp tôi. Tôi bảo:

- Tôi không hiểu tại sao anh chị có thể đem Chúa Giêsu đến với những người khác trong khi chính bản thân anh chị không thể đem Ngài đến cho nhau? Làm sao anh chị có thể nhận ra Ngài đang ẩn mình nơi những người nghèo khổ, trong khi anh chị không biết khám phá ra Ngài trong tâm hồn của nhau?. Thế rồi, cả hai bắt đầu cuộc tranh cãi gay gắt ngay trước mặt tôi. Họ dốc sạch bầu tâm sự và mọi tranh cãi giận hờn đã ôm ấp trong lòng từ bao lâu nay... Một lát, tôi bảo họ: "Thôi đủ rồi! Anh chị đã nói tất cả những gì cần nói với nhau rồi. Bây giờ anh chị  hãy vào Nhà thờ cầu nguyện và mỗi người hãy nói với Chúa Giêsu hiện diện trong nhà tạm những gì đã nói với nhau lúc nãy! Rồi tôi cùng đôi vợ chồng cùng bước vào nhà thờ, họ quỳ gối xuống gần bên nhau trước nhà tạm và thinh lặng... Một lúc sau, người chồng quay sang nhìn người vợ với tất cả sự trìu mến. Ông ôm lấy vợ và nói:

- Em là người yêu duy nhất trên đời của anh và là tất cả kho tàng quý giá của anh đang có...

Và từ hôm đó hai vợ chồng làm hòa cùng nhau, đồng thời trở thành những cộng tác viên đắc lực của tôi và là mẫu gương cho nhiều gia đình khác...

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

----------------------------

 

TN 2-C152: HỌ HẾT RƯỢU RỒI


1 Cr 12,4-11; Ga 2,1-12

 

Phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, “bày tỏ vinh quang của Chúa Giêsu; và các môn đệ đã tin vào TN 2-C152


Phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, “bày tỏ vinh quang của Chúa Giêsu; và các môn đệ đã tin vào Người”. Phép lạ này là một trong những cách “hiển linh” của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước theo Người, lắng nghe lời Người nói, nhìn ngắm những điều Người làm, để cũng như các môn đệ, chúng ta tin vào Người. 

Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Người” trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana. Vì theo một số người, trong các thứ tình yêu, tình yêu nồng nàn thắm thiết nhất, trước là tình cha mẹ dành cho con cái, sau là tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau, bề ngoài thì tình yêu hôn nhân mạnh hơn, như sách Sáng Thế đã viết “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2, 24; x. Mt 19,5).

Bởi vậy, phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana không chỉ là một sự kiện Chúa Giêsu tham dự để chung vui và ban phúc lành cho cô dâu chú rể, mà còn minh chứng cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương chiều chuộng nhân loại dường bao, nhất là khi có Thân Mẫu của Người hiện diện và can thiệp vào tình yêu này, dù “Giờ” của Người chưa đến. Ngày nay, Thân Mẫu của Người vẫn còn nói với chúng ta “Người bảo gì, con cứ việc làm theo”.

 Thống Hối  

 - Lạy Chúa, chúng con được mời gọi “Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người”. Nhưng chúng con đã không hát ca mừng Thiên Chúa để “tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân”.

- Lạy Chúa, chúng con được mời gọi “Ngày ngày loan truyền ơn Người cứu độ. Tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người nơi vạn quốc”. Nhưng chúng con đã không hát ca mừng Thiên Chúa để “tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân”.

- Lạy Chúa, chúng con được mời gọi “Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người.” Nhưng chúng con đã không hát ca mừng Thiên Chúa để “tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân”.

 SUY NIỆM

I. Giai thoại: Cậu Karol Wojtyla lên 7 tuổi. Khi Mẹ cậu đang hấp hối, đứng bên giường, cậu khóc nức nở. Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con đừng khóc, mẹ đây chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước người vú nuôi này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Maria xuất hiện, Ngài sẽ đích thân chăm sóc con”. Từ ngày ấy, cậu tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt. Cậu Karol Wojtyla sau này chính là Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II.

Khi làm Giám Mục và sau làm Giáo Hoàng, Người chọn một gợi hứng từ suy tư của thánh Louis Grignion de Montfort “Totus Tuus ego sum” làm khẩu hiệu mục tử của mình. Khẩu hiệu đó là “Totus Tuus” – Tất cả con thuộc về Mẹ.

II. Thân mẫu của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã biết hướng dẫn con đến một ‘địa chỉ’ quan trọng trong cuộc sống. Địa chỉ ấy chính là  Mẹ Maria. Như trong Phúc Âm hôm nay, Mẹ Maria minh chứng lời giáo huấn của thân mẫu Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II ‘không sai’.

Phúc Âm hôm nay cho biết: Mẹ Maria, tuy là khách dự tiệc, nhưng Mẹ là người đầu tiên nhận ra tiệc cưới của đôi tân hôn hết rượu. Việc hết rượu trong tiệc cưới sẽ ảnh hưởng đến danh dự và hạnh phúc của đôi tân hôn, nên Mẹ đến cầu cứu với Chúa Giêsu cho đôi trẻ, và nói với Con mình: “Họ hết rượu rồi”. Vì Mẹ biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể cứu vãn tình thế cho đôi trẻ. Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu lại làm cho chúng ta sửng sốt: “Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4).

Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác định sứ vụ thiên tính của Người: Hoàn toàn muốn làm theo tôn ý Chúa Cha (x. Tv 39, 8-9; Dt 10, 9a). Trong Tin Mừng Gioan, “Giờ” của Chúa Giêsu là “Giờ” mà Người được tôn vinh khi bị treo trên Thánh Giá. Cuộc đời của Chúa Giêsu trên dương thế đều hướng về “Giờ” này. Chúng ta không biết Mẹ hiểu “Giờ” của Chúa Giêsu thế nào, nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm theo ý của Người.

Chúa Giêsu đã thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai, tuy “Giờ” tôn vinh Người chưa đến. Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện: sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn niềm vui.

Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn nói về “dấu chỉ đầu tiên”, qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Người” để cho “các môn đệ tin vào Người” (Ga 2, 11). Tin Mừng Nhất Lãm dùng những từ “phép lạ, điềm kỳ” để nói về những việc lạ Chúa Giêsu đã làm, như chữa lành bệnh, cho kẻ chết sống lại...  Tin Mừng Thứ Tư lại dùng từ “dấu lạ” để nói về những phép lạ của Chúa Giêsu. “Phép lạ” và “điềm kỳ” nhấn mạnh đến bản chất của những sự kiện lạ lùng đã được thực hiện. Còn “dấu lạ” nhấn mạnh đến căn tính của Đấng thực hiện những việc lạ lùng. “Dấu lạ” là một việc lạ được dùng làm dấu chỉ nói cho chúng ta biết một điều gì đó thuộc căn tính của Chúa Giêsu hoặc Chúa Giêsu là Đấng nào.  Thí dụ Chúa làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng (x. Ga 6), đó là dấu chỉ cho chúng ta thấy Người là Bánh ban sự sống; hoặc khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (x. Ga 9), thì phép lạ ấy là dấu chỉ nhờ đó chúng ta biết Người là Ánh sáng thế gian. 

Khi trình bày “dấu chỉ đầu tiên” này, thánh Gioan khẳng định Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.  Qua Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa khởi đầu một Kế Hoạch Mới, Kế Hoạch cứu độ trần gian.  Dấu lạ đầu tiên này đã tỏ ra quyền năng Thiên Chúa hoạt động nơi Chúa Giêsu để thực hiện Kế Hoạch Mới. Nước đựng trong sáu chum bằng đá được dùng cho nghi thức thanh tẩy của người Do thái, nay trở thành rượu ngon, là một biểu tượng nói lên việc Đấng Thiên Sai đến trần gian (x. Is 25,6; Am 9,14; Ge 3,18; Ga 2,10). Đấng Thiên Sai đến để Dân Người được “như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,5 – x. BĐ I). Đây là kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu trở nên Đấng Thiên Sai hiến thân chịu chết để tẩy xóa tội lỗi và ban ơn cứu độ cho  nhân loại.  

III. Qua phép lạ tiệc cưới Cana, Mẹ Maria được mời gọi tham dự vào “Giờ” của Chúa Giêsu, để Mẹ “nối dài ánh mắt yêu thương” của Chúa Giêsu đến nhân loại, sớm phát hiện ra những cảnh bi thương bất hạnh của con người, mà nói với Chúa Giêsu  “Họ hết rượu rồi!”

Xưa kia là Mẹ Maria, nay là mỗi Kitô hữu, cũng được mời gọi tham dự vào “Giờ” của Chúa Giêsu như thánh Phaolô nói, là “có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí… Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (x. 1 Cr 12, 4-7 – BĐ II). Mẹ Maria và mỗi Kitô hữu đều có sứ vụ là “nối dài ánh mắt yêu thương” của Chúa Giêsu đến nhân loại, sớm phát hiện ra những cảnh bi thương bất hạnh của con người, mà nói với Chúa Giêsu  “Họ hết rượu rồi !”

Sứ vụ (đặc sủng) của chúng ta là loan báo Tin Mừng giữa dòng đời trong bổn phận thường ngày. Bao cảnh bi thương bất hạnh của con người, đó chính là tình trạng “hết rượu” giữa các cuộc vui. Bên Thánh Thể Chúa Giêsu, theo gương Mẹ Maria, chúng ta thưa với Người “Họ hết rượu rồi !” Và qua Lectio divina, chúng ta biết được ý muốn của Chúa Giêsu như lời Mẹ dạy “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”

M. FranÇois De Sales, An Phước,O.Cist.

----------------------------

 

TN 2-C153: Chúa đến cứu vãn hạnh phúc cho gia đình


 - Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Gia đình đôi tân hôn tại Ca-na bị thiếu rượu khi tiệc cưới đang vui khiến cho Mẹ Maria lo lắng. TN 2-C153


Gia đình đôi tân hôn tại Ca-na bị thiếu rượu khi tiệc cưới đang vui khiến cho Mẹ Maria lo lắng. Mẹ liền vận động Chúa Giê-su cứu giúp đôi tân hôn thoát khỏi cảnh éo le khó xử này.

So với cảnh thiếu rượu tại tiệc cưới Ca-na và những hậu quả của nó, thì hiện nay, nhiều gia đình lâm phải những thứ thiếu thốn còn nghiêm trọng hơn, gây ra những hậu quả tai hại hơn rất nhiều nên cần được Chúa Giê-su và Mẹ Maria đến trợ giúp.

Sau đây là những thiếu thốn chính:

- Thiếu thuận hoà: Vợ chồng, con cái kình cãi nhau liên tục, gia đình lâm vào cảnh chiến tranh, xô xát, bầu khí gia đình căng thẳng ngột ngạt, mỗi người trong nhà đều cảm thấy mất an vui, mất hạnh phúc đến nỗi ai cũng muốn thoát ly khỏi cảnh đau buồn đó.

- Thiếu nhịn nhục và tha thứ: Khi có chuyện xung đột hay lỗi lầm, người trong cuộc không ai biết nhận lỗi về mình, mặc dù ai cũng có lỗi. Rồi người này đổ lỗi cho người kia, người kia oán trách người nọ… Thế là giận hờn nhau, xích mích nhau… Hậu quả là cơm không lành, canh không ngọt, bầu khí gia đình trở nên ngột ngạt khó thở và không ai muốn ở lại trong gia đình đó.

- Thiếu quan tâm chăm sóc nhau: Khi cha già mẹ yếu nằm bệnh cả mấy ngày, bỏ cơm bỏ cháo… con cháu không quan tâm chăm sóc. Chồng lao động nặng nhọc, vợ chẳng an ủi một lời; vợ làm việc quần quật suốt ngày lo cho cha mẹ đau yếu, lo cho chồng cho con… mà chồng chẳng đoái hoài, cứ mải lo đàn đúm rượu chè với bè bạn… Hậu quả là gia đình trở thành như một quán trọ, người nhà như khách trọ, không còn tình nghĩa với nhau, không ai tìm được hạnh phúc gia đình. 

- Thiếu lòng tôn trọng nhau: Vợ chồng xem nhau như tôi tớ trong nhà… chứ không phải là bạn trăm năm. Thay vì nhẹ nhàng trong lời ăn tiếng nói, tế nhị trong cách cư xử, hai vợ chồng đối xử thô bạo với nhau, quát tháo, hạch xách nhau… 

Ngoài ra có rất nhiếu thứ thiếu thốn khác tương tự làm cho gia đình dễ dàng tan vỡ, hạnh phúc của những ngày đầu thành hôn đã vỗ cánh bay xa.

Tất cả những thiếu thốn nêu trên đều do thiếu thốn cơ bản là thiếu tình yêu. Câu thề hứa long trọng trong ngày thành hôn: “Thề hứa yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày (từng giờ từng phút) trong suốt cuộc đời” hoàn toàn bị vất bỏ.

Khi tình yêu vợ chồng, tình yêu gia đình không còn nữa, thì gia đình biến thành nơi hoang lạnh, trở thành bãi chiến trường, trở thành một thứ địa ngục trần gian… Nếu không được cứu vãn kịp thời, thì mọi người trong nhà phải chịu cảnh bất hạnh triền miên, hồn không an, xác không mạnh... Thế là bệnh tật đến sớm, tuổi thọ bị cắt ngắn rất nhiều.

Hôm xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ Maria âu lo khắc khoải khi biết gia đình đôi tân hôn thiếu rượu và Mẹ đã tìm cách cứu chữa. Hôm nay, khi thấy gia đình con cái của Mẹ thiếu nhiều thứ có nguy cơ gây ra mất hạnh phúc gia đình, gây tan vỡ hôn nhân, thì Mẹ lại càng lo âu hơn. 

Làm sao cứu vãn gia đình khỏi những nguy cơ tan vỡ?

Muốn cứu vãn gia đình thì phải mời Chúa đến và hễ người bảo gì phải làm theo. 

- Điều thứ nhất là hãy mời Chúa đến: Mời Chúa đến không chỉ là đặt tượng ảnh Chúa trên bàn thờ, mà chủ yếu là mời Chúa đến ngự trị trong tâm hồn, làm vua trong gia đình và mọi người trong nhà đều phải quy phục Chúa.

- Điều thứ hai là thực hành Lời Chúa như lời Mẹ Maria dạy: “Hễ Ngài bảo gì thì phải làm theo.”

Chúa Giê-su bảo các gia đình làm gì để cứu vãn hạnh phúc gia đình?
Chúa bảo: “Những gì các con đã làm cho những người trong gia đình là làm cho chính Ta.” 


Lạy Chúa Giê-su, 

Xin cho chúng con luôn nhớ rằng: Thiên Chúa tự đồng hóa với con người. Chúa là một với người cha, người mẹ, người con… trong gia đình và những gì chúng con làm cho ông bà cha mẹ, cho bạn trăm năm, cho con cái trong nhà là làm cho chính Chúa.

Nếu các thành viên trong nhà làm theo lời dạy này của Chúa, chắc chắn gia đình sẽ thoát khỏi đau thương đổ vỡ và sẽ được chan hoà hạnh phúc.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

----------------------------

 

TN 2-C154: CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN


Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Thường Niên năm C này nêu bật dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực TN 2-C154


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Thường Niên năm C này nêu bật dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện ở tiệc cưới Ca-na.

Theo truyền thống của các Giáo Hội Đông Phương, ba biến cố: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, phép rửa của Đức Giê-su và dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na, hình thành nên ba biến cố Chúa Hiển Linh và được cử hành cùng nhau. Theo truyền thống Tây Phương, năm C là năm duy nhất trong ba năm phụng vụ, tưởng niệm việc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài ở tiệc cưới Ca-na, sau phép rửa của Đức Ki-tô và việc các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, như vậy duy trì mối liên hệ giữa ba cuộc hiển linh đầu tiên mở ra mầu nhiệm của Đức Giê-su là Vua, Con Thiên Chúa và Đấng Ki-tô.

Is 62: 1-5

Chủ đề của Bài Đọc I là cuộc phục hưng Giê-ru-sa-lem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “Hiền Thê” cho dân Ngài.

1Cr 12: 4-11

Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô rằng muôn vàn ân sủng mà họ hưởng được đều phát xuất từ một Thần Khí duy nhất, Đấng tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi cách vì lợi ích của cộng đoàn.

Ga 2: 1-12

Nhân tiệc cưới ở Ca-na, Chúa Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên: dấu lạ hóa nước thành rượu tiên trưng dấu lạ hóa rượu thành máu của Ngài, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và nhân loại.

BÀI ĐỌC I (Is 62: 1-5)

Bài thánh thi này ca ngợi cuộc phục hưng sắp đến của Giê-ru-sa-lem vào giờ phút khiến lòng người phải nghi ngờ. Sau khi trở về từ Ba-by-lon, những người lưu đày gặp lại thành thánh nghèo nàn, dân cư thưa thớt, đền thờ hoang tàn đổ nát, suốt năm mươi năm qua dưới ách thống trị của ngoại bang. Trước tiên họ bắt tay tái thiết đền thờ, nhưng công việc đã phải bị bỏ dỡ vì thiếu tài chánh và vì những chống đối khác nhau. Họ thất vọng vì công việc quá lớn lao và những khó khăn gặp phải. Trong bầu khí chán chường thất vọng, một ngôn sứ vô danh, được gọi dưới biệt danh là I-sai-a đệ tam, môn đệ của I-sai-a đệ nhị, công bố rằng Giê-ru-sa-lem sắp được phục hưng và tìm lại vinh quang của mình.

1.Cuộc phục hưng huy hoàng sắp đến:

Phải chăng đây chính là lời loan báo của vị ngôn sứ hay lời hứa của Thiên Chúa được đặt trên môi miệng của vị ngôn sứ? Thật khó phân định điều này; một sự luân phiên giữa giọng nói của vị ngôn sứ và giọng nói của Thiên Chúa là một trong những nét đặc trưng của bài thánh thi này. Chung chung, vị ngôn sứ không bao giờ nói ở ngôi thứ nhất, trừ một lần, khi ông biện minh sứ vụ của mình. Qua những gì xảy ra trước đó, chúng ta biết rằng những người hồi hương luôn luôn phàn nàn về việc Thiên Chúa trì hoãn phục hưng Thành Thánh và Đền Thờ của Ngài.

Thật kỳ lạ biết bao khi vị ngôn sứ vặn lại, sự chậm trể không đến từ Thiên Chúa nhưng từ tội lỗi của các ngươi, vì tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Ngài vẫn thường hằng. Đó là ý nghĩa của câu thứ nhất mà người ta toan tính gán cho chính Đức Chúa:

“Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng,
vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành,
tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông,
ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62: 1).

Giê-ru-sa lem phải được tái thiết trong đức công chính của nó, trong ơn cứu độ của nó. Ở đây “đức công chính” và “ơn cứu độ” thì tương đồng rất rõ nét. Vị ngôn sứ ngỏ lời với Thành Thánh, ông loan báo rằng Thành Thánh sẽ được phục hưng trong huy hoàng rạng rỡ; những quốc gia và những vua chúa đã áp bức Thành Thánh rồi sẽ thấy vinh quang của nó, ơn cứu độ của Giê-ru-sa-lem sẽ “rực lên như ngọn đuốc”.

Người ta thường nhận ra trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ tam, một ý tưởng đắc thắng. Dân Thiên Chúa sẽ hả dạ vì những nhục nhã họ đã phải chịu:

“Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi,

mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng” (Is 62: 2).

2.Hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài:

Phần cuối của sấm ngôn này lấy lại hình ảnh về hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài, hình ảnh này đã trở thành kinh điển kể từ ngôn sứ Hô-sê, rồi đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Giao Ước được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu: dân Chúa là Hôn Thê tưởng rằng mình bị thất sủng nay gặp lại tấm lòng sủng ái của Đức Chúa là Hôn Phu của mình.

Nhưng để Giao Ước có thể được tái lập, quá khứ tội lỗi phải được thanh tẩy. Dấu hiệu đầu tiên là gán tên mới cho Giê-ru-sa-lem. Một tên mới tạo nên một căn tính mới. Chúng ta biết tầm quan trọng của tên theo truyền thống Kinh Thánh. Tên diễn tả bản chất sâu xa của một người hay vận mệnh của người mang tên ấy. Giê-ru-sa-lem sẽ không còn được gọi “Đồ bị ruồng bỏ” nhưng “Ái khanh lòng Ta hỡi”. Xứ sở của nó sẽ không còn là “Phận bạc duyên đơn”, nhưng “Duyên thắm chỉ hồng”.

Còn hơn thế nữa, Giê-ru-sa-lem sẽ được Đấng tác thành mình lập hôn ước “như trai tài sánh duyên cùng thục nữ”, nghĩa là, mọi tội lỗi, bất trung, thờ ngẫu tượng của dân thành mà các ngôn sứ đã nhiều lần gọi “con điếm” vì đã chạy theo các thần minh khác, nay được phục hồi sự trinh khiết của mình: tình yêu của Thiên Chúa đã thanh tẩy Thành Thánh. Sau này sách Khải Huyền sẽ gợi lên hôn lễ của Con Chiên với thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc:

“Vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ của Con Chiên,
và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng,
nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19: 8).

Ngôn sứ I-sai-a đệ tam chắc chắn nhớ lại bản văn của vị tiền nhiệm mình, I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đã mô tả cho những người lưu đày thấy những rực rỡ của Thành Thánh Giê-ru-sa-lem tương lai và báo trước cho Thành Thánh:

“Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ,
chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn.
Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân
và không còn nhớ bao nhục nhằn thời góa bụa.
Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt
chính là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là Chúa các đạo binh;
Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en,
tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất” (Is 54: 4-5).

3.Niềm vui hôn ước và niềm vui thời Mê-si-a.

 “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể,
ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62: 6).

 Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mê-si-a, niềm vui mà rược dồi dào của tiệc cưới Ca-na loan báo theo cách khác.

BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 4-11)

Trong năm Chúa Nhật liên tiếp, Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta đọc những đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, từ chương 12 đến chương 15.

1.Bối cảnh:

Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã lưu lại thành phố này khoảng mười tám tháng và đã để lại một cộng đoàn Ki-tô hữu rất sinh động nhưng cũng gây nên nhiều nỗi bận lòng cho thánh nhân.
Thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thư cho các tín hữu Cô-rin-tô, thư thứ nhất và thư thứ ba đã thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất thực ra là thư thứ hai. Thánh Phao-lô đã viết thư này từ Ê-phê-xô (có lẽ vào mùa xuân năm 55). Sau khi đã nhắc nhở trật tự trong cộng đoàn, tiếp đó, bàn đến nhiều vấn đề nhất định, thánh nhân bắt đầu tranh luận: toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu đều phải ở dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ gìn giữ cộng đoàn trong sự hiệp nhất và sẽ giúp cho cộng đoàn biết biện phân những hoạt động vì lợi ích chung của Cộng Đoàn.

2.Lương dân và người Ki-tô hữu:

Các tín hữu Cô-rin-tô sống trong bối cảnh ngoại giáo khá đặc biệt. Thành phố Cô-rin-tô là một đô thị lớn thuộc miền duyên hải và gồm nhiều dân tứ xứ, mở rộng cửa đón nhận thế giới bên ngoài. Chịu ảnh hưởng từ miền Cận Đông, các tôn giáo cổ truyền nhường chỗ cho những khát vọng huyền bí, trong khi những tôn giáo mầu nhiệm tràn lan với những nghi lễ khai tâm và thực tiển hướng đến niềm hưng phấn và xuất thần. Những thái độ này có thể rất gần với những đặc sủng mà các Ki-tô hữu được hưởng. Cần phải nêu lên tất cả cái lập lờ này. Trong cộng đoàn Ki-tô hữu, những ân huệ nhận được có nguồn gốc siêu nhiên; nguồn mạch duy nhất của mọi ân huệ này là Thiên Chúa Ba Ngôi.

3.Dấu chỉ Ba Ngôi:

Lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và những hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đi từ Chúa Thánh Thần:

- Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.

- Có nhiều công việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki-tô).

- Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm mọi sự trong mọi người (Chúa Cha).

Đoạn, thánh nhân liệt kê một loạt những ân huệ khác nhau, đều là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Giáo Hội tiên khởi chắc chắn đã hưởng được nhiều cách thế bày tỏ đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Thánh Lu-ca đã nêu lên nhiều ví dụ trong sách Công Vụ Tông Đồ, đến mức sách này được gọi “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.

Những ân huệ dồi dào và tự phát như thế bổ túc cho việc thiếu cơ cấu tổ chức. Nhưng thánh Phao-lô muốn tránh tình trạng hỗn loạn; vì thế thánh nhân nhấn mạnh sự duy nhất cơ bản của mọi ân huệ này: “Chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người”.

TIN MỪNG (Ga 2: 1-12)

Theo Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai mạc sứ vụ của Ngài qua dấu lạ tiệc cưới Ca-na: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê”. Vậy từ “dấu lạ” muốn nói lên điều gì? Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, vấn đề “dấu lạ” có rất nhiều nghĩa, nhưng được tập trung vào một nghĩa cơ bản: thời đại Mê-si-a đến ở nơi sự hiện diện của Đức Giê-su.

1.Ý nghĩa phong phú của dấu lạ Ca-na:

Bài tường thuật về dấu lạ đầu tiên này trình bày một loạt những đối chiếu với giai đoạn cuối cùng sứ vụ trần thế của Đức Giê-su.

- Đây là “ngày thứ ba” Đức Giê-su “bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”. Biến cố Phục Sinh ẩn hiện ở nơi dấu lạ đầu tiên này.

- Dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện cốt là hóa nước thành rượu; dấu lạ sau cùng của Ngài cốt là hóa rượu thành máu của Ngài.

- Dấu lạ đầu tiên này được thực hiện để cử hành tiệc cưới nhân loại; dấu lạ sau cùng để cử hành Giao Ước Mới, tiệc cưới của Thiên Chúa với nhân loại.

- Ở tiệc cưới Ca-na, Thân Mẫu Đức Giê-su được thánh ký kể ra lần đầu tiên; Mẹ Ngài sẽ chỉ được thánh ký kể ra lần thứ hai và lần sau cùng dưới chân thập giá, ở đó Đức Giê-su sẽ thân thưa với Mẹ Ngài cũng bằng cách xưng hô như ở tại tiệc cưới Ca-na: “Thưa bà”. Có những bí ẩn hòa điệu giữ hai biến cố này.

- Ở tiệc cưới Ca-na, Chúa Giê-su lần đầu tiên nói về “giờ của Ngài”. Giờ này sẽ là giờ Tử Nạn và Vinh Quang của Ngài. Khi viết: “Đức Giê-su biết giờ của Ngài đã đến” (Ga 13: 1), thánh ký sẽ nói về lễ Vượt Qua gần đến và về bữa ăn sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Bữa ăn đầu tiên, tiệc cưới Ca-na, cũng được định vị vài ngày trước lễ Vượt Qua.

Những đối chiếu đa dạng như trên giúp chúng ta hiểu sâu xa những ý nghĩa phong phú của dấu lạ tiệc cưới Ca-na.

2. “Ngày thứ ba”:

Thánh Gioan xây dựng bài tường thuật của mình về những khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su theo cùng một cách với bài tường thuật về giai đoạn sau cùng của Ngài, với thời gian đặc thù và biểu tượng: các biến cố được cô động thành một tuần lễ, ngầm tham chiếu đến bảy ngày của công trình sáng tạo. Chính “vào ngày thứ bảy” của tuần lễ khai mạc mà tiệc cưới Ca-na, dấu chỉ của ơn cứu độ thời Mê-si-a, được định vị: một cuộc sáng tạo mới. Nhưng đây cũng là “ngày thứ ba” khởi đi từ việc Đức Giê-su ra khỏi miền Giu-đê. Việc Đức Giê-su tham dự tiệc cưới Ca-na được đặt vào ngày thứ ba sau lời hứa của Ngài cho ông Na-tha-na-en, một trong những môn đệ đầu tiên của Ngài: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1: 50).

Ca-na là một thị trấn nhỏ thuộc miền Ga-li-lê không xa làng Na-da-rét. Đức Ma-ri-a đến Ca-na, chắc chắn từ Na-da-rét; Mẹ đến một mình; chắc hẳn thánh Giu-se đã qua đời. Còn Đức Giê-su đến từ miền Giu-đê với các môn đệ Ngài; Ngài gặp lại Mẹ Ngài ở tiệc cưới này. Người ta đã nghĩ rằng chú rể và cô dâu thuộc gia tộc của Đức Ma-ri-a, vì Mẹ xử sự gần như gia chủ khi căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Dù thế nào, gia đình nầy thuộc tầng lớp hạ lưu, vì tại những gia đình giàu có rượu không thể thiếu. Những người được hưởng dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su thuộc gia đình nghèo. Điều này chẳng có gì phải ngạc nhiên cả.
3.Dấu chỉ của rượu:

“Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước”. Những chum đựng nước này được dùng cho các khách rửa tay trước khi dự tiệc, đây là nghi thức thanh tẩy theo luật định. Một trong số chum đá này chắc chắn được dùng để thanh tẩy các vật dụng được dùng trong bữa ăn như thánh Mác-cô ghi nhận: “Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của các tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng” (Mc 7: 3-4). Sau khi dùng, những chum này cạn nước. Đức Giê-su bảo đổ đầy nước vào các chum cho tới miệng. Như vậy, rượu mà Ngài sẽ ban thật dồi dào và thậm chí dư dật, như đối với phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ấy vậy, rượu dư dật đến như thế là hình tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng để loan báo buổi bình mình của kỷ nguyên Mê-si-a (Am 9: 13; I s 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18; Tv 78: 24-27; 132: 15). Phép lạ Ca-na là một dấu chỉ thời Mê-si-a.

Mặt khác, rượu là dấu chỉ của niềm vui; nói một cách chính xác, rượu biểu tượng niềm vui thời Mê-si-a, tiên trưng niềm vui vĩnh cữu, thường được biểu thị bởi bàn tiệc trong Nước Thiên Chúa, “bàn tiệc cánh chung”. Đức Giê-su ám chỉ đến điều này vào bữa Tiệc Ly: “Từ nay, Thầy sẽ không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26: 29; Mc 14: 25 và Lc 22: 18).

Nước mà Đức Giê-su hóa thành rượu không phải bất kỳ nước nào: chính là nước được dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục của người Do thái. Đối với tác giả Tin Mừng Gioan, việc nước thanh tẩy của Cựu Ước hóa thành rượu Mê-si-a báo hiệu “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có ở đây rồi” (2Cr 5: 17). Thời đại Mê-si-a đã đến. Từ nay, nước thanh tẩy không còn có ích nữa, bị hủy bỏ và được thay thế bởi rượu, dấu chỉ của ơn cứu độ. Trong bối cảnh phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, rượu tiệc cưới Ca-na rất dễ gợi lên trong tâm trí của các tín hữu Rượu Thánh Thể, đặc biệt khi thánh ký nói với chúng ta Đức Giê-su hóa nước thành rượu xảy ra trước lễ Vượt Qua (2: 13), cùng một thời điểm mà ba năm sau này Đức Giê-su sẽ hóa rượu thành máu của Ngài cho muôn người được tha tội (Mt 26: 28).

4.Dấu hiệu Giao Ước:

Sự hiện diện của Đức Giê-su ở tiệc cưới Ca-na là một cử chỉ của tình bạn. Vì tình bạn, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ này để tránh cho gia đình này khỏi bẽ mặt; nhưng đồng thời Ngài đem đến một sự bảo lãnh – một sự bảo lãnh thần linh – cho tính chất linh thánh của hôn nhân. Ngoài ra, cử chỉ của Ngài mặc lấy một chiều kích thần học: chính bằng ngôn từ tình yêu hôn nhân mà các ngôn sứ đã dùng để diễn tả Giao Ước của Thiên Chúa với dân Ngài như Hôn Ước.

Trong bài tường thuật, người quản tiệc nói với tân lang: “Ai ai cũng thiết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Ấy vậy, người đãi rượu ngon không phải là tân lang mà là Đức Giê-su. Thật vậy, trong Tin Mừng Gioan, tân lang thường tượng trưng cho Đức Giê-su (Ga 3: 29). Sau này, khi ban cho các môn đệ Rượu Thánh Thể, Ngài sẽ công bố rượu này là dấu chỉ Giao Ước Mới. Thánh Phao-lô cũng sẽ sử dụng ngôn từ tình yêu vợ chồng để nói về sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Giáo Hội của Ngài; và sách Khải Huyền sẽ cử hành tiệc cưới muôn đời của Con Chiên với dân Thiên Chúa được biểu thị bởi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.

Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su khai mạc mầu nhiệm tình yêu và hiệp nhất của Thiên Chúa với nhân loại.

5. “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?”

Tác giả Tin Mừng Gioan không bao giờ gọi đích danh “Ma-ri-a”, nhưng luôn luôn “Thân Mẫu Đức Giê-su”, bốn lần trong bài tường thuật này (2: 1, 3, 5, 12), cũng là bốn lần trong bài trình thuật về cuộc Thương Khó (19: 25-26), để tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ, Mẹ đã sống những năm cuối đời của Mẹ tại nhà thánh nhân và đã qua đời trong tình con thảo của thánh nhân. Chắc chắn đây cũng là tước hiệu tôn kính mà người Ki-tô hữu tiên khởi dành cho Thân Mẫu của Chúa mình.

Lời thỉnh cầu kín đáo của Đức Ma-ri-a: “Họ hết rượu rồi”, nhắn gởi cho Đức Giê-su, Con Mẹ, diễn tả độ nhạy bén của Mẹ trước nhu cầu của tha nhân. Nhưng câu trả lời của người con cho mẹ mình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?” thật đáng ngạc nhiên, như thử muốn nói rằng: “Đây không phải là công việc của mẹ. Xin đừng can dự vào”.

Trước tiên, cách xưng hô “Thưa bà” không nói lên một sự bất kính, nhưng diễn tả cái khoảng cách. Chúa Giê-su xưng hô như thế với người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4: 21), với người đàn bà Ca-na-an (Mt 15: 28), với người phụ nữ còng lưng (Lc 13: 12), với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Ga 20: 15). Cái khoảng cách này được tăng cường bởi những lời tiếp theo sau: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi?”. Đây là cách nói mang đậm nét Do thái khá thông dụng trong Cựu Ước (x. Tl 11: 12; 2Sm 16: 10; 1V 17: 18). Tại các sách Tin Mừng Nhất Lãm kiểu nói này được đặt trên môi miệng của hai người bị quỷ ám: “Chuyện chúng tôi can gì đến ông?” (Mt 8: 29).

Cách xưng hô của Đức Giê-su với Mẹ Ngài ở tiệc cưới Ca-na tái xuất hiện ở hoạt cảnh Thập Giá, ở đó Ngài thân thưa với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19: 26). Trong hoạt cảnh sau cùng này, tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a không bị bác bỏ, vì Đức Giê-su ban cho Mẹ Ngài người môn đệ yêu mến, khuôn mẫu của người Ki-tô hữu hoàn thiện, làm con của Mẹ. Như vậy, với cách xưng hô lạ lùng ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đòi hỏi Mẹ của Ngài mở rộng tình mẫu tử của Mẹ, biến đổi tình mẫu tử riêng tư giữa Mẹ và Con thành tình mẫu tử của một Người Mẹ ân cần săn sóc những môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội của Ngài, Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.

6. “Giờ tôi chưa đến”:

Trong Tin Mừng Gioan, “giờ của Chúa Giê-su” là giờ Ngài được giương cao trên thập giá, giờ Ngài được tôn vinh (Ga 3: 14-15; 8: 28), giờ mà tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ tận mức ở nơi cái chết của người Con Một Thiên Chúa. Rõ ràng, ở tiệc cưới Ca-na, giờ đó chưa đến.

Nếu chúng ta đọc lại tình tiết về người phụ nữ Ca-na-an, người ta sẽ gặp lại cũng một thái độ như thế của Đức Giê-su. Trước hết, Ngài không đáp một lời, đoạn từ chối, để thử thách niềm tin của người phụ nữ này. Người phụ nữ không chùn bước. Lúc đó, Chúa Giê-su thán phục niềm tin kiên vững của bà và cho bà được toại nguyện: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15: 28).

Đức Ma-ri-a trải qua một thử thách tương tự. Trước thái độ ngập ngừng của Con Mẹ, Mẹ trả lời bởi một hành vi đức tin kiên vững vào Ngài: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Đức Mẹ đã tin vào Con Mẹ trước khi phép lạ xảy ra, trong khi các môn đệ Ngài tin vào Ngài sau khi phép lạ xảy ra. Lúc đó, Chúa Giê-su nghiêng mình trước đức tin đáng thán phục của Mẹ Ngài.

Trong bối cảnh Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê để bày tỏ vinh quang của Ngài và để các môn đệ tin vào Ngài, thì lời căn dặn của Mẹ: “Người bảo gì các anh cứ làm theo” thật có ý nghĩa biết bao trong việc huấn luyện người môn đệ lý tưởng. Dù thế nào, chúng ta ghi nhận rằng thành quả của dấu lạ đầu tiên được thực hiện nhờ sự can thiệp của Đức Ma-ri-a và dẫn đến niềm tin của các môn đệ. Vì thế, truyền thống Ki-tô giáo đã nhấn mạnh quyền năng cầu bầu của Đức Ma-ri-a, sự hiện diện ân cần của Mẹ, nỗi bận lòng của tình mẫu tử đối với tha nhân: “Xưa nay chưa từng ai đến cùng Mẹ mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Trang Tin Mừng này không chỉ mang chiều kích Ki-tô học, nhưng còn mang chiều kích Thánh Mẫu học. 

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

----------------------------

 

TN 2-C155: ĐẠO CHÚA LÀ ĐẠO CỦA NIỀM VUI


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí – GP. Xuân Lộc

 

Giáo phận Bùi Chu là một trong những giáo phận có đông người Công Giáo, có rất nhiều các vùng TN 2-C155


Giáo phận Bùi Chu là một trong những giáo phận có đông người Công Giáo, có rất nhiều các vùng hoặc các giáo xứ mang tên “Quần” hoặc tên “Lạc” như Quần Cống, Quần Liêu, Quần Phương, Quần Lạc hoặc là Lạc Bắc, Lạc Thành và cả xứ Lạc Đạo …vv. Chữ “Quần” muốn nói đến sự quây quần xum họp và chữ “Lạc” muốn nói lên niềm vui tươi hoan lạc. Các tên này đã được các nhà truyền giáo đặt cho các giáo xứ từ những ngày đầu khi đạo Chúa vào đến đất Bùi Chu. Các Ngài muốn giới thiệu cho mọi người biết, theo đạo Chúa là một đạo ngập tràn niềm vui, theo đạo là sống quây quần bên nhau, yêu thương nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui của đạo. Mặc dù cách giải thích có vẻ đơn giản, nhưng đó là sự đúc kết điểm chính yếu và là nét đặc trưng của đạo Chúa.

Chúa nhật tuần trước mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài khai mở một thời đại mới, thời đại tình thương cứu độ của Thiên Chúa được công bố cho mọi người. Hôm nay Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta hoa quả của ơn cứu độ đó là niềm vui. Niềm vui này chắc chắn không phài là những cuộc vui ăn uống, rượu chè, theo kiểu thế gian mà là niềm vui vì ơn phúc lành và sự canh tân đổi mới mà Chúa Giêsu đem đến cho mọi người. Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã không giấu được niềm vui của những người tin theo Chúa, ông đã bộc lộ niềm vui đó qua những lời lẽ đầy màu sắc hân hoan: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày Đấng Công Chính xuất hiện tựa hừng đông; Vị Cứu Tinh của thành rực lên như ngọn đuốc”. Ông nói đến ngày mà Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài trước mặt muôn dân. Vinh quang ấy không làm cho con người khiếp sợ không dám đến gần, trái lại, vinh quang của Chúa sẽ được mọi người ngắm nhìn, thán phục. Vị tiên tri dùng những hình ảnh niềm vui của cô dâu chú rể để trình bày cho thấy sự xuất hiện của Thiên Chúa trở thành vinh dự và niềm vui hân hoan cho cả dân tộc. Thiên Chúa không còn ở xa, nhưng đến gần bên con người, cùng kết ước, cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với con người và ban cho con người được vinh dự trở thành người nhà, người thân của Thiên Chúa: “Chúa sẽ cầm lấy tay ngươi. Chẳng ai còn réo tên ngươi: “Đồ bị ruồng bỏ”, nhưng được gọi là “Ái khanh lòng Ta hỡi”. Chúa sẽ đem lòng sủng ái ngươi. Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Ngươi sẽ là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

Tin Mừng Gioan thuật lại câu chuyện Chúa hiện diện tại tiệc cưới Cana và giải gỡ bế tắc cho gia đình đám cưới, đem lại cho họ vinh dự và niềm vui. Câu chuyện muốn gợi lên cho ta nhiều bài học. Thánh Gioan cho biết hôm đó Chúa Giêsu, Đức Maria và các môn đệ của Chúa được mời dự tiệc. Chi tiết này cho thấy Thiên Chúa không dửng dưng với đời sống của con người, Ngài trở nên thân thiết với mọi người. Vì thân thiết, nên gia chủ đã mời cả Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ cùng dự tiệc cưới. Chắc chắn sự hiện diện của Chúa, một vị thầy đang được biết đến, sẽ là niềm vui và vinh dự cho gia đình. Quan trọng hơn, sự hiện diện của Chúa Giêsu là sự hiện diện mang đến phúc lành cho đôi tân hôn và gia đình. Nhưng để có sự hiện diện này, điều cần thiết là họ phải mời Chúa vào thăm gia đình, cùng dự tiệc, cùng chung vui và cùng chia sẻ với gia đình.

Sự hiện diện của Chúa và thân mẫu còn là sự hiện diện trợ giúp. Với sự tinh tế của một phụ nữ, Đức Maria đã phát hiện ra sự lúng túng của gia chủ khi hết rượu lúc đang ăn tiệc. Đức Maria đã khéo léo can thiệp, Mẹ đã đề nghị cùng Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Hơn ai hết, Mẹ Maria tin rằng Chúa Giêsu sẽ quan tâm đến tình trạng này. Mẹ không yêu cầu Chúa làm gì, nhưng Mẹ chỉ trình bày cho Chúa về hoàn cảnh ngặt nghèo của gia đình. Chúa Giêsu dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang của Ngài, nhưng Chúa cũng không thể trì hoãn lời đề nghị của Mẹ: “Thưa Mẹ, việc đó là của gia đình họ, giờ con chưa đến”. Câu trả lời của Chúa không làm Đức Maria thất vọng, nhưng Mẹ tin tưởng chờ đợi và dặn các người giúp việc: “Hễ Người bảo gì thì cứ làm theo”. Chúa đã ra tay, Ngài truyền cho những người giúp việc đổ nước đầy sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy, mỗi chum chứa được từ tám mươi đến một trăm hai mươi lít nước. Chúa ra lệnh: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc”. Các gia nhân đã làm như thế. Phép lạ đã xảy ra do lời đề nghị và tin tưởng của Đức Maria, nhưng có thể nói, phép lạ xảy ra còn nhờ vào sự vâng lời của các đầy tớ khi họ đổ nước vào chum và khi họ múc nước đó cho người quản tiệc để đem lên tiếp khách. Người quản tiệc ngạc nhiên khi nếm nước đã thấy hóa thành rượu ngon, ngon hơn các rượu trước đó. Ông chỉ biết thắc mắc: Sao không thiết đãi rượu ngon ngay từ đầu, mà lại giữ lại đến cuối bữa mới đãi.

Hình ảnh của tiệc cưới là hình ảnh của xum họp, niềm vui, tiếng cười và sự no thỏa. Tiệc cưới tại Cana đang nửa bữa hết rượu là điều hết sức xấu hổ cho đôi tân hôn. Tin Mừng muốn nhấn mạnh rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ cứu nguy cho gia đình đôi tân hôn. Cũng vậy, cuộc sống của nhiều gia đình và của thế giới này đang cạn dần niềm vui. Nhiều gia đình đang có nguy cơ rơi vào tình trạng khô cằn, thiếu niềm vui, thiếu sức sống, buồn chán, bế tắc vì họ đã quên mời các vị khách đặc biệt đó là Chúa Giêsu và Đức Mẹ.

Qua câu chuyện, Thánh Gioan còn muốn nói đến niềm vui lớn lao hơn đó là niềm vui mà Chúa Giêsu sẽ khai mở cho nhân loại. Ngài sẽ quy tụ nhân loại trở thành một dân mới, được dẫn dắt bởi Tin Mừng, được yêu thương chăm sóc bởi mục tử nhân lành. Isaia đã dùng hình ảnh bữa tiệc rượu, để nói lên niềm vui do Thiên Chúa quy tụ: “Ngày ấy Thiên Chúa sẽ thiết đãi các dân trên núi này một bữa tiệc, tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon”. Niềm vui Chúa Giêsu khai mở sẽ là niềm vui vượt quá sự mong đợi của lề luật cũ, của cách thực hành đạo cũ. Câu chuyện tại Cana cho thấy sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy của người Do Thái đã trở nên lỗi thời vô dụng, không có khả năng tẩy rửa tội lỗi. Chúa Giêsu là Đấng sẽ đổ vào đó một thứ nước trong lành có sức thanh tẩy tội lỗi và biến nó trở thành rượu ngon vượt trội và với số lượng dư thừa. Như thế, Tin Mừng muốn nói rằng: Kể từ đây nếp sống cũ và những thực hành cũ không còn phù hợp, nó trở nên nhàm chán và là gánh nặng gây mệt mỏi cho con người. Chúa Giêsu là rượu mới, là niềm vui mới được ban tặng cho nhân loại mới. Niềm vui của Ngài đem lại là niềm vui giải thoát khỏi những ràng buộc của luật cũ, của tội lỗi và các hình thức nô lệ của ma quỷ. Những ai được quy tụ, được tham dự tiệc cưới của Ngài sẽ không bao giờ thiếu vắng niềm vui và hạnh phúc.

Thưa quý OBACE, Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta hai điều: Thiên Chúa mở ra cho chúng ta một lối sống trong vui tươi và hy vọng và Ngài muốn hiện diện, đem niềm vui sự bình an đến cho các gia đình. Chúng ta đón nhận giáo huấn, đi theo con đường của Chúa và sống với Chúa, cuộc đời sẽ đầy tràn niềm vui, cho dù cuộc sống chung quanh còn nhiều sóng gió. Kitô giáo là đạo của niềm vui, hân hoan và hy vọng. Khác với các tôn giáo khác, Giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu là con đường rõ ràng dẫn chúng ta đến hạnh phúc chân thật là nước trời. Tin Mừng của Ngài giải thoát chúng ta khỏi mọi sự sợ hãi, khỏi tình trạng nô lệ để ta được sống tự do trong tư cách là con của Chúa. Các niềm tin dân gian và các tôn giáo khác gây cho con người nhiều sợ hãi và lo lắng khiến cho con người phải tin kiêng, cúng bái, sợ bóng, sợ ma quỷ. Niềm tin vào Thiên Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta đương đầu với mọi hoàn cảnh trong tin tưởng có Thiên Chúa quyền năng đang ở cùng chúng ta, yêu thương, bảo vệ ta như người cha lo cho con cái. Vì thế, chúng ta sống trong sự tin tưởng phó thác như con thơ ở trong vòng tay cha mẹ.

Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta đem niềm vui về cho gia đình. Niềm vui đích thực không phải là những cuộc tụ tập ăn nhậu hoặc bài bạc, nhưng là mời được Chúa và Đức Mẹ về với gia đình qua việc rước lễ, đọc kinh, lần hạt mân côi sớm tối. Chúa, Đức Mẹ vừa là khách vừa là bạn, với gia đình. Ngài sẽ chia sẻ mọi khó khăn, lo toan với gia đình, an ủi nâng đỡ và ban lại cho gia đình niềm vui hân hoan. Ngài sẽ loại bỏ những cái không phù hợp trong cách sống, cách làm ăn của gia đình và thay vào đó là rượu mới, niềm vui mới của Chúa.

Nhờ sự hiện diện, bầu cử của Mẹ Maria, nguyện xin Chúa thương giải gỡ các khó khăn cho các gia đình. Amen.

------------------------------

 

TN 2-C156: GIÁO HỘI LÀ NHIỆM THỂ ĐỨC KITÔ.

 

Ngày nay trong y học, có rất nhiều chuyên khoa đến nỗi thân thể con người được chia ra làm TN 2-C156


Ngày nay trong y học, có rất nhiều chuyên khoa đến nỗi thân thể con người được chia ra làm nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, những bác sĩ khác chuyên về não bộ hoặc về mắt, về tai v.v… Sự chuyên môn hoá là điều tốt như có thể có một khía cạnh tiêu cực. Nhà chuyên môn có thể chỉ quan tâm đến các bộ phận của con người mà không quan tâm đến chính con người. Họ hiếm khi hiểu rõ con người có mắt, hoặc tai hoặc hông đang được điều trị.

Thân thể con người tạo nên một thể thống nhất dù nó bao gồm nhiều chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.

Giáo Hội cũng thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô (Bài đọc 2). Qua phép Rửa Tội, chúng ta đã trở thành những chi thể của Thân Thể Đức Kitô, tức là Hội Thánh. Một số người muốn sống một mình, không nhờ cậy vào ai, được độc lập với cộng đoàn. Nhưng không thể có một Kitô hữu cô lập như thế. Những người chủ tâm tách lìa mình ra sẽ làm tổn thương cộng đoàn. Chúng ta là một phần của người khác và phải cố gắng không để mình sống biệt lập.

Cộng đoàn có những yêu cầu đối với chúng ta. Vì lẽ đó, cám dỗ muốn sống một mình, không cần đến ai, muốn tìm kiếm sự cứu độ độc lập với những người khác là một cám dỗ mạnh mẽ. Nhưng điều đó không thể có được. Chúng ta cần cho nhau, giống như những phần của một thân thể cần lẫn nhau.

Và Giáo Hội cần đến mọi người chúng ta. Chúng ta cần có ý thức mình thuộc về nhau và thuộc về Đức Kitô. Chúng ta phải được bao gồm cả khi chúng ta chỉ muốn tốt hơn là lo cho chính mình.

Thuộc về một cộng đoàn có những lợi ích rõ ràng. Hãy lấy những cây sậy làm ví dụ. Từng cây một, chúng mềm yếu và bị bẻ gãy dễ dàng. Nhưng khi cột chúng lại với nhau thành bó, chúng thật sự không thể bẻ gẫy được. Điều đó cũng đúng với con người.

Sức mạnh to lớn là kết quả của sự hợp quần. Người ta có thêm lòng can đảm khi hiểu biết nhau, động viên nhau, và nương tựa nhau. Khi ta cùng nhau làm việc thì có thể làm được nhiều điều vĩ đại.

Tầm quan trọng của cộng đoàn được Đức Giêsu nhấn mạnh và Người dùng một hình ảnh khác để mô tả nó. Đó là hình ảnh cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, anh em là cành”.

Hình ảnh tuy đơn sơ nhưng đã minh hoạ sâu sắc tính hiệp nhất và lệ thuộc lẫn nhau.

Rõ ràng là cành nho cần có cây nho. Nhưng cây nho cũng cần có cành, bởi vì chính cành sinh ra quả.

Đức Giêsu muốn tương quan ấy tồn tại giữa Người và các môn đệ. Đó là cách mà Người muốn có ở giữa Người với chúng ta. Người là cây nho, chúng ta là cành. Vả lại, nếu nói theo ngôn ngữ của Phaolô: “Đức Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là những chi thể”. Nếu một người không có ý thức thuộc về cùng một cộng đoàn, chăm sóc và chịu trách nhiệm cho nhau, người ấy không thật sự là một Kitô hữu.

Hoa quả mà Đức Giêsu mong muốn nơi chúng ta, trước tiên là sự hiệp nhất ở giữa chúng ta. Bởi sự hiệp nhất ấy, mọi người sẽ biết rằng chúng ta thuộc về Đức Giêsu, nói cách khác là bởi sự liên kết có ở giữa chúng ta và sự chăm sóc mà chúng ta thực hiện cho nhau.

------------------------------

 

TN 2-C157: Tiệc cưới Cana


(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin mừng Ga 2: 1-11 Thánh sử Gioan thuật lại cách thức Chúa Giêsu Kitô, ngay từ khi khởi đầu sứ vụ của mình, Ngài đã thực hiện phép lạ đầu tiên theo yêu cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Ngài, tại một tiệc cưới ở ngôi làng Cana nhỏ bé miền Galilêa.

I. Tìm Hiểu Lời Chúa: Ga: 1-12

 

Thánh sử Gioan thuật lại cách thức Chúa Giêsu Kitô, ngay từ khi khởi đầu sứ vụ của mình, Ngài TN 2-C157


Thánh sử Gioan thuật lại cách thức Chúa Giêsu Kitô, ngay từ khi khởi đầu sứ vụ của mình, Ngài đã thực hiện phép lạ đầu tiên theo yêu cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Ngài, tại một tiệc cưới ở ngôi làng Cana nhỏ bé miền Galilêa

Cana thuộc Galilêa, trên con đường tới Nagiarét gần hồ Tibêria. Người ta tổ chức ở đây một tiệc cưới. Đức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ đầu tiên được mời tham dự.

Chính Đức Maria nhận ra trong bữa ăn đã thiếu rượu. Ước muốn tránh cho đôi vợ chồng khỏi ngượng ngùng, Mẹ đã can thiệp với Đức Giêsu, và Đức Giêsu đã hóa nước thành rượu ngon.

Sự tinh tế nhậy bén của Đức Maria, hiệu quả sự can thiệp của Mẹ, sự quan phòng ân cần của Thiên Chúa đến từng chi tiếp trong cuộc sống chúng ta, phẩm gía của hôn nhân, việc làm nổi bật những niềm vui nho nhỏ trong cuộc đời, tất cả đều là những bài học gợi lên từ câu chuyện tiệc cưới Cana thú vị này.

Gợi Ý Suy Niệm

1. Tiệc cưới Cana bài học về sự cao cả của hôn nhân: Thể chế hôn nhân trong xã hội ngày nay đang phải trải qua một cuộc khủng hoảng trần trọng bởi sự ly dị ngày càng gia tăng và bởi sự tự do luyến ái chung sống khkông cần hôn nhân. Với bối cảnh đó, Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tái khám phá giá trị, ý nghĩa thiêng liêng cao quí của đời sống hôn nhân qua việc Đức Giêsu là phép lạ tại tiệc cưới Cana. Việc tham dự tiệc cưới và làm phép lạ tại đó cho thấy Đức Giêsu đã muốn làm nổi bật giá trị thiêng liêng cao quí của đời sống hôn nhân. Thánh Phaolô giải thích giá trị hôn nhân nảy sinh từ việc hôn nhân là hình ảnh diễn tả rõ ràng sự kết hiệp nhiệm màu giữa Đức Giêsu và Giáo Hội của Người. Hôn nhân đã được Đức Giêsu nâng lên thành bí tích nên đã trở nên phương thế hữu hiệu, phổ quát để mọi người nên thánh. Việc Người tham dự tiệc cưới cho thấy Ngừơi đã muốn chúc lành cho đời sống hôn nhân và không coi thường hay hạ giá trị của đời sống này so với các đời sống tu trì hay tận hiến. Ngày nay, các gia đình công giáo cũng đã và đang đướng trước nguy cơ của cuộc kkhủng hoảng, mỗi gia đình, mỗi thành viên trong gia đình và cả những bạn sắp bước vào đời sống gia đình cần phải dựa vào Tin mừng, vào giáo huấn của Giáo Hội để khám phá những giá trị thiêng liêng cao quí của đời sống hôn nhân và bí tích này.

2. Tiệc cưới Cana bài học về tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo Hội: Bài đọc I Isaia an ủi dân chúng hãy vui lên vì Thiên Chúa yêu thương họ như người chồng yêu thương vợ mình. Như người chồng mừng vui vì vợ, Thiên Chúa cũng vui mừng vì dân chúa. Trong Kinh Thánh hình ảnh tân lang, tân mương, tình yêu vợ chồng thường được sử dụng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người; tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo Hội. Với tiệc cưới Cana cũng cho thấy điều đó, Đức Giêsu hiện diện để yêu thương, để chúc phúc cho gia chủ thế nào thì Người cũng yêu thương và lo lắng quan tâm cho Giáo Hội của Người như vậy. Giáo Hội chính là hiền thê của Đức Giêsu Kitô. Người đã hiến mình vì người mình yêu trên đồi Canvê và ngày nay trên khắp các bàn thờ của Giáo Hội Người lại tiếp tục sự dâng hiến tình yêu này để trang trải tình mình đến với mọi người qua mọi thời. Sống trong Giáo Hội, thao thức cùng Giáo Hội, đồng hành cùng Giáo Hội chính là đón nhận được tình yêu của Đức Kitô. Không ai có thể tách rời khỏi Giáo Hội mà tìm kiếm được tình yêu của Đức Kitô.

3. Tiệc cưới Cana bài học về trách nhiệm cá nhân của mỗi người đối với anh em chung quanh: Đức Maria đã tinh tế nhận ra sự thiếu rượu trong tiệc cứơi và đã can thiệp hiệu quả. Theo lẽ thường tình chẳng ai trách cứ được Đức Mẹ hay Đức Giêsu nếu các Ngài không can thiệp vào việc này. Thế nhưng, với tình yêu thì chắc hẳn không bao giờ các Ngài lại khoanh tay ngồi yên cả, phải đứng lên can thiệp. Mỗi người Kitô hữu cũng thế, lưu chuyển trong mình dòng máu yêu thương của Đức Giêsu thì phải có sự tinh tế, nhanh nhạy trong việc quan tâm đến người. Đó không chỉ là một đức tính mà còn là một trách nhiệm. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói về các đặc sủng mà mỗi người được nhận lãnh. Các đặc sủng này chính là để mỗi nguời biết quan tâm chăm sóc cho nhau và cùng nhau xây dựng cộng đoàn, nhờ đó, mà mang lại tình yêu, hạnh phúc và niềm vui cho nhau. Ngày hôm nay, mỗi Kitô hữu đã làm gì, đã sống như thế nào trong mối tương quan với người khác? Sống để đón nhận và đòi hỏi người khác hay sống quảng đại, sống vì người khác; cho đi hay là nhận lãnh?

III. Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến, qua tiệc cưới Cana cho thấy ct luôn yêu thương và chăm sóc mọi người trong mọi biến cố. Tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.

1. Giáo Hội được Đức Giêsu yêu thương và chăm sóc như người chồng hết lòng yêu thương vợ mình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các phẩn trật trong Giáo Hội là những vị đại diện của Đức Kitô luôn sống và thực thi trách nhiệm của mình trong tinh thần đức ái mục tử.

2. Ngày nay biết bao gia đình đang lâm vào cảnh đổ vỡ bất hòa giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các gia đình luôn được Chúa yêu thương thánh hóa để mọi người trong gia đình nhất là con cái và trẻ em được hưởng một đời sống an vui hạnh phúc, một nền giáo dục tốt đẹp và một tương lai bảo đảm.

3. Đức Maria đã tinh tế, nhậy bén trong việc quan tâm phục vụ nguời khác. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn được Chúa ban ơn hướng dẫn để biết noi gương Đức Maria mà yêu thương quan tâm, chăm lo cho nhau.

* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu Kitô, theo lời yêu cầu của Đức Maria, Chúa đã hóa nước thành rượu để xua đi nỗi buồn, mang lại niềm vui cho đôi tân hôn. Xin đổ xuống trên những anh chị em sầu khổ rượu của lòng thương sót Chúa. Xin biến đổi tâm hồn chai cứng của chúng con thành con tim biết yêu thương trước những đau khổ, nghèo đói, bất hạnh của anh chị em chung quanh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

-------------------------------

 

TN 2-C158: Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi…


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Tiếp tục sứ vụ công khai của mình là đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành những người ốm đau TN 2-C158


Tiếp tục sứ vụ công khai của mình là đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành những người ốm đau bệnh tật, xua trừ ma quỉ, kêu gọi người ta hoán cải, hoàn tất lời các tiên tri đã loan báo: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4, 21).

Sau khi tỏ mình ra dần dần bằng các phép lạ tại Cana (x. Ga 2,1-12), Galilêa và Giêrusalem (Ga 2, 23). Chúa chọn thêm một số môn đệ, rồi cùng với các ông trở về Capharnaum, Người bắt đầu giảng dạy tại đây. Ngày Sabát đầu tiên Chúa vào hội đường Nagiarét đọc sách và giảng dạy ở đó, khiến mọi người chăm chú lắng nghe và không ngớt lời ca tụng (Lc 1, 1-4).

Được Chúa Cha xức Dầu và sai đi…

Lời của ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trong hội đường áp dụng vào chính bản thân mình:"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hôn sám hối... trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng" (Lc 4, 14-18). Như thế, Chúa Giêsu loan báo thời lưu đày của dân Israel tại Babylon sẽ chấm dứt, khởi đầu một thời kỳ hoàn toàn mới, thời Đấng Cứu Thế xuất hiện, thời Đấng Messia là chính Người.

Nghe có vẻ đơn sơ, nhưng thật trang trọng, những lời tiên tri ấy áp dụng vào Chúa Giêsu một cách rất tự nhiên: "Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4, 21). Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót của Chúa Cha, được Chúa Cha xức Dầu và sai xuống trần gian để thể hiện lòng xót thương qua việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa con người trở về với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm mang hạnh phúc, niềm vui, sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Sứ vụ của Chúa Giêsu là sứ vụ thần linh, thần linh hoá nhân loại, cho nhân loại được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Thiên Chúa trong Thần Khí. Người không được sai đến với những ai tự phụ, tự mãn, cho rằng mình đã đầy đủ, nhưng là đến với những người thấy mình là phận nhỏ, thiếu thốn trăm bề, cả hồn lẫn xác. Cuộc lưu đày ở Babylon, rồi được trả tự do, cho hồi hương của Dân Chúa là một dấu chỉ, một hình ảnh tượng trưng nói lên ý định lớn lao của Thiên Chúa là cứu độ và giải thoát con người khỏi ách tù đày nô lệ tội lỗi và sự chết.

Như thế, khi áp dụng những lời sấm của tiên tri Isaia vào bản thân mình, Chúa Giêsu tự mô tả về con người và sứ mạng của mình, bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng rất uy nghi, đến nỗi dân chúng nín thở, hồi hộp, lắng nghe. Thánh Luca nói: "Mọi người trong Hội đường đều chăm chú nhìn Người"(Lc 4, 20). Cung cách dạy dỗ của người hoàn toàn khác với các thầy dạy luật mà họ đã quen bấy lâu nay. Đúng là một Tin mừng làm nức lòng họ, đem đến cả một bầu trời hy vọng và tự do.

Giáo hội được Chúa sai đi

Nếu như Chúa Giêsu được Chúa Cha xức Dầu hoan Thánh Thần, sai đi vào dòng đời để cứu vớt những kẻ cơ hàn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho biết bao con người, khai mở năm hồng ân để thi ân giáng phúc cho nhân loại, thì đến lượt mình, Người cũng trao lại sứ mạng đó cho Giáo hội: "Như cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em" (Ga 20,21). Giáo hội cũng được xức dầu như Chúa Kitô và được sai đi. Người cũng ban tràn đầy Thánh Thần cho Giáo hội: "Hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mạng Giáo hội, là Chúa Giêsu nối dài, tiếp nối mầu nhiệm nhập thể và sứ vụ của Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.

Ngày hôm nay, chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tội và đã được xức Dầu, Giáo hội muốn chúng ta trung thành sống và thực hành giáo huần của Chúa. Đây là dịp tốt để mỗi người cùng với Chúa Giêsu lặp lại những lời của tiên tri Isaia được công bố trong Phúc Âm như sau: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi..." (Lc 4, 18).

Người Kitô hữu được truyền phải sống Lời Chúa

Như thế, chúng ta được xức Dầu khi chịu Phép Rửa tội và Phép Thêm Sức, được "thánh hiến" cho Thiên Chúa và được sai đi loan báo Tin Mừng. Sống đạo là bước theo Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trên con đường yêu thương hiếu thảo đối với Chúa Cha, con đường yêu thương tự hiến cho tha nhân, con đường trở nên hoàn hảo trong tình yêu. Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta đủ sức thực thi những việc tha nhân đang cần bằng tất cả đời sống.

Lời Chúa hôm nay rất thiết thực đối với mỗi người. Vậy:

- Hãy là đôi chân cho người già yếu, giúp họ đến nhà thờ, đi thăm bà con.
- Hãy là đôi tai cho những bạn trẻ đang mong bạn lắng nghe những nỗi lòng của họ.
- Hãy là tin mừng cho người đang u sầu bằng những lời chia sẻ ủi an, khích lệ khôn ngoan.
- Và hãy đem ánh sáng cho những ai đang lầm đường lạc lối, bằng sự hướng dẫn ân cần đầy thương yêu.

Với ước mong những người xấu số thiệt phận được chúng ta yêu thương, nhất là liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống đời bác ái yêu thương họ là chúng ta thi hành sứ mạng người kitô hữu của mình, những người được xức Dầu. Có thế, đời sống Đạo của chúng ta mới có ý nghĩa. Amen.

-----------------------------

 

TN 2-C159: Hãy mời Chúa đến nhà bạn


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Cuộc sống giống như một ly trà, bất luận đầy hay vơi, nóng hay lạnh, nồng hay nhạt, cũng đều TN 2-C159


Cuộc sống giống như một ly trà, bất luận đầy hay vơi, nóng hay lạnh, nồng hay nhạt, cũng đều có dư vị riêng của nó. Con người cũng vậy, chẳng ai giống ai, mỗi người có một lý tưởng, một cách sống riêng, có người ôm giấc mộng giàu sang, có người mong được sống an nhàn, có người lại chỉ cần một tâm hồn thư thái...

Nhưng giữa cuộc sống đầy bon chen này, con người rất khó giữ được trạng thái vô lo vô nghĩ, không ưu phiền vấn vương. Đó là điều khiến cho cuộc đời con người luôn đầy lắng lo, khổ đau và bất hạnh.

Kỳ thực, cuộc sống chỉ đơn giản là được bình an và bình an là không đòi hỏi cái ngoài ý muốn, bình an là chấp nhận những gì đang xảy đến với mình. Thế nên, có người nói rằng:

“Sống một kiếp người, bình an là được
2 bánh 4 bánh, chạy được là được
Tiền ít tiền nhiều, đủ ăn là được
Người xấu người đẹp, dễ coi là được”

Nói thì dễ nhưng chấp nhận chẳng dễ chút nào! Cuộc đời luôn đưa đến những điều chẳng bao giờ vừa ý. Mình cầu điều này nhưng lại chẳng mấy khi được theo ý cầu xin. Thế nên, con người luôn cầu có một phép màu để được theo ý mình, để đổi đời, để sống tốt hơn, ...

Nói chung là con người thường mong Chúa làm phép lạ. Ai cũng muốn nhìn thấy phép lạ. Kẻ cần phép lạ để tin. Kẻ muốn có phép lạ để củng cố lòng tin. Xem ra phép lạ đối với phần đông nhân loại là chứng kiến những chuyện khác thường, những chuyện kinh thiên động địa. Phép lạ là những biến cố xảy ra ngoài tự nhiên tựa như con lừa của Baal biết nói tiếng người. Con gà mái gáy giữa ban ngày. Xem ra phần đông nhân loại đang cần những phép lạ tương tự như vậy rồi mới có thể tin vào sự hiện diện của Chúa.

Thực ra, Thiên Chúa không làm phép lạ để những sự kiện xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Phép lạ đúng nghĩa là không đảo lộn tự nhiên, không đi ngoài quy luật. Thiên Chúa làm phép lạ để cho những sự kiện được diễn ra bình thường, không gây xáo trộn, đi sai tới quy luật tự nhiên.

Nếu mọi sự trong cuộc sống chúng ta vẫn diễn ra bình lặng, êm xuôi là chúng ta đang được Chúa làm phép lạ để giữ cho thăng bằng. Vì dòng đời đâu mấy khi bình an, mà lại luôn có sóng gió nghi nan.

Hôm nay trong tiệc cưới Cana, tiệc rượu đang diễn ra êm xuôi. Mọi người đều vui vẻ với chén rượu, với nụ cười hân hoan. Nhưng nếu rượu lại hết. Tiệc sẽ dở dang và niềm vui sẽ không trọn vẹn. Chúa đã làm phép lạ để tiệc không bị gián đoạn bởi thiếu rượu. Chúa đã làm phép lạ để tiệc vui được tiếp diễn đến nỗi người quản tiệc cũng không hay biết. Khách dự tiệc vẫn tiếp tục cuộc vui. Xem ra ai cũng thoả mãn với chén rượu nồng nàn. Đôi tân hôn hôm ấy đã có một niềm vui trọn vẹn. Ngày hôn lễ được diễn ra một cách êm xuôi. Gia đình họ thật hạnh phúc. Hạnh phúc vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria mà Chúa đã ban cho gia đình một niềm vui trọn vẹn trong ngày thành hôn.

Ngày hôm nay nhiều gia đình đang đổ vỡ. Có biết bao gia đình đang bị xáo trộn bởi cơm chẳng lành,canh chẳng ngọt. Có biết bao gia đình đang ly tán bởi “ông ăn chả, bà ăn nem”. Có biết bao gia đình rượu ngon đã cạn chỉ còn đọng lại một chút rượu lạnh nhạt và chua cay. Thiếu rượu nồng của tình yêu nên dẫn đến đổ vỡ, nghi kỵ, hiểu lầm và ghen tương. Ngày hôm nay nhiều gia đình đang bất hoà vì đói nghèo, túng cực. Nhiều gia đình đang thất vọng bởi công việc làm ăn chẳng thuận buồm xuôi gió. Nhiều gia đình đang thiếu tình yêu, thiếu thốn tiền bạc, thiếu cả sự cảm thông và tha thứ đã gây nên biết bao xáo trộn trong các gia đình.

Ước gì mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta cũng biết mời Chúa đến trong gia đình của mình. Hãy dành cho Chúa một vị trí xứng đáng trong gia đình chúng ta. Hãy dâng gia đình cho Chúa. Nếu có Chúa hiện diện, Ngài sẽ tiếp tục gìn giữ gia đình chúng ta trong an bình hạnh phúc. Và trên hết mọi sự, hãy biết sống theo lời dặn của Mẹ Maria: “Người bảo gì anh em hãy làm như thế”. Sống theo lời Chúa, gia đình sẽ không thiếu niềm vui, không thiếu rượu ngon của hạnh phúc yêu thương. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.

---------------------------

 

TN 2-C160: Nhờ Mẹ đến với Chúa


(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Ga 2: 1-11

 

Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu TN 2-C160


Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại.

Ta thấy đám cưới ở Do Thái là một dịp vui mừng. Thay vì tuần trăng mật, thì họ tổ chức tiệc tùng kéo dài cả tuần lễ. Vì thế số lượng rượu phải được tính toán cẩn thận kẻo bị thiếu hụt. Và sự kiện này lại xảy ra ở Cana, một thành phố nhỏ năm giữa Nadarét và biển hồ Tiberiat, là quê hương sinh trưởng của Nathanael, là nơi Chúa cho con của một sĩ quan gần chết được khỏi bệnh. Dù sao thì bữa tiệc hôm ấy không còn một giọt rượu nào, mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria lại có mặt ở đó, vì có lẽ là chỗ bà con họ hàng.

Trước tình thế đó, Mẹ Maria chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài cứu vãn. Thế là mặc dù giờ chưa đến, Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu với số lượng lớn không ai ngờ: đến những sáu chum nước lã được hoá thành rượu thật ngon để đem lại niềm vui và hạnh phúc chan hoà cho mọi người.

Phép lạ đầu tay vào lúc khởi đầu sứ vụ đã được Chúa Giêsu thực hiện nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho cô dâu chú rể cũng như cho khách dự tiệc tại Cana cho thấy Ngài rất quan tâm đem lại hạnh phúc cho người khác. Nhiều phép lạ khác được Chúa Giêsu thực hiện sau nầy cũng không ngoài mục đích đó.

Maria xuất hiện ở Cana như mẹ Chúa Giêsu, Hôn Thê của Chúa và như là người Phụ Nữ tham gia vào công cuộc cứu rỗi thay thế cho Evà thất trung. Sự hiện diện của mẹ Maria trong đời sống chúng ta là một chú ý thường xuyên của Mẹ đến các nhu cầu của chúng ta nhờ sự hiểu biết mà Mẹ có được trong Thiên Chúa về những hoạt động, tư tưởng và tình cảm của chúng ta, và nhờ tình thương của mẹ đối với chúng ta. Chúng ta hãy vui sống dưới ảnh hưởng của Mẹ và hãy đón nhận Mẹ trong nhà chúng ta.

Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại. Có những lúc, tác vụ có nghĩa là nhận ra một nhu cầu và biết rằng chúng ta không thể xử lý một mình.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.

Đức Maria giải quyết việc thiếu rượu bằng cách tin tưởng đến với Chúa Giêsu, và cầu nguyện. Mẹ dạy chúng ta phải đặt gia đình vào tay Chúa, phải cầu nguyện, phải khơi dậy niềm cậy để thấy rằng lo lắng của tha nhân cũng là lo lắng của ta, và lo lắng của ta cũng là lo lắng của Chúa. Cầu nguyện luôn nâng chúng ta, giúp chúng ta thoát khỏi những lo lắng của mình. Cuối cùng Đức Mẹ đã hành động. Lời Mẹ nói với các người giúp việc "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo" cũng là lời mời gọi chúng ta mở lòng mình cho Chúa Giêsu, "Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ" (Mc 10, 45).

Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo". Ở đó, đang thiếu rượu... và có lẽ, nào ai biết được, "tình yêu' cũng thiếu... Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: "Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta "không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó... Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: "Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo".

Thấy nhà chủ hết rượu Đức Maria trình lên Chúa nhu cầu, thì nhận được một lời đáp ứng không mấy tích cực: "Chuyện đó can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến." Làm thân bà mẹ mà phải hạ mình xin con đã là khó, nay lại nhận được một câu trả lời như thế, rất dễ nản lòng, mất hết cậy trông. Đức Maria không thế, Ngài vẫn bình tĩnh bảo những người giúp việc Đức Giêsu bảo gì cứ làm theo đó. Tại sao Đức Maria biết Chúa sẽ ra lệnh cho các kẻ giúp việc? Đó chỉ do bà tin. Bà chẳng vì cảm xúc mà nghi ngờ điều mình xin, nhưng lấy đức tin mà nắm lấy lời hứa của việc cầu nguyện: "Cứ xin thì được." Chính vì đức tin mà Maria dặn bảo các người giúp việc phải tuân theo lệnh Chúa.

Dấu chỉ tiệc cưới Cana cho thấy Thiên Chúa yêu thích cho chúng ta sống vui tươi hồn nhiên và trong sáng, bởi vì Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, chỉ là tin vui thật sự nếu chúng ta có thái độ sống lòng tin thật sự, nếu gương mặt, ánh mắt và cuộc sống chúng ta phản ánh niềm vui đó. Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng, để gặp gở Chúa Kitô chúng ta không cần phải là người thoát tục trở thành thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta hơn theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô nhập thể. Và để có thể hiện thực ơn gọi làm người, cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi ngày, càng biết sống sâu đậm các nhân đức căn bản tự nhiên, chúng ta càng giống Chúa Giêsu làm người. Đó là nền tảng vững chắc đầu tiên, cần thiết trong cuộc sống ơn gọi Kitô. Thiếu các nhân đức căn bản này, người tín hữu mất quân bình, thường trở thành cuồng tín, có thái độ sống đạo lệch lạc.

Việc Đức Giêsu khởi sự làm những dấu lạ, rõ ràng loan báo vương quốc mới, triều đại của Đấng Mêsia. Ngày ấy được ngôn sứ Isaia mô tả là ngày mà Chúa toàn năng sẽ khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn đầy thịt cùng các món hảo hạng với rượu ngon nổi tiếng... Ngày ấy người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng trông đợi" (Is 25, 9).

Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.

Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.

-------------------------

 

TN 2-C161: CHÚA GIÊSU ĐEM NIỀM VUI ĐẾN CHO CÁC GIA ĐÌNH


CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C (16/01/2022)

[Is 62,1-5; 1 Cr 12, 4-1; Ga 2, 1-11]

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Tác giả các Sách Phúc Âm đều kể lại nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã làm trong thời gian 3 năm thi TN 2-C161


Tác giả các Sách Phúc Âm đều kể lại nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã làm trong thời gian 3 năm thi hành sứ vụ công khai của Người trên mảnh đất Palestina. Phép lạ nào cũng có hai ý nghĩa chính: một là hành động cứu độ con người; hai là dấu chỉ bày tỏ vinh quang của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa trên đời sống và tâm hồn con người mà Chúa Giêsu gặp gỡ trên các nẻo đường.

Phép lạ Chúa Giêsu biến nước lã (nước thường) thành rượu ngon trong Tiệc Cưới Cana cũng mang hai ý nghĩa ấy. Nhưng trong tường thuật của Tin Mừng Gioan thì ý nghĩa thứ hai được đề cao hơn ý nghĩa thứ nhất. Chính Thánh Gioan đã khẳng định điều ấy: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người.”

Có một điều quan trọng nữa mà chúng ta không thể không quan tâm: đó là trong lúc này toàn thể Hội Thánh đang sống trong Năm Gia Đình và đang hướng về Đại Hôi Gia Đình Thế Giới sắp được tổ chức tại Roma. Vì thế, chúng ta nên đọc và suy niệm các bài Sách Thánh của Phụng Vụ hôm nay theo hướng Năm Gia Đình và Đại Hội Gia Đình Thế Giới với chủ dề là CHÚA GIÊSU ĐEM NIỀM VUI ĐẾN CHO CÁC GIA ĐÌNH.  

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (Is 62, 1- 5):  "Người chồng sẽ vui mừng vì vợ" Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.

(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.

2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11): "Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định" Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 2, 1-12): "Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa" Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.

Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)   

3.1.1 Bài đọc 1 (Is 62, 1- 5) là những lời tiên tri của ngôn sứ Isaia nói về cảnh huy hoàng của thành Yêrusalem trong ngày Thiên Chúa thực hiện cuộc biến đổi thành Yêrusalem và dân Israel một cách kỳ diệu. Yêrusalem sẽ huy hoàng, Israel sẽ trở nên xinh đẹp được Thiên Chúa yêu thương và trở thành tân nương của Người.

à Trong đoạn Is 62,1-5 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa có một tình yêu lạ lùng và tuyệt diệu đối với Yêrusalem và dân riêng của Người là Israel. Tình yêu ấy đã biến đổi hoàn toàn thân phận của Yêrusalem và số phận của Israel  Yêrusalem là  thành Yêrusalem. Israel là dân tộc Israel. Nhưng theo nghĩa bóng của Thánh Kinh, Yêrusalem và Israel là mỗi cộng đoàn, mỗi con người tôn thờ Thiên Chúa.    

3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11) là đoạn văn “bất hủ” của Thánh Phaolô Tông đồ, nói về các ơn, các đặc sủng dồi dào, phong phú và muôn hình vạn trạng của Thần Khí Thiên Chúa tức của Chúa Thánh Linh. Đó là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn đức tin, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định thần khí, ơn nói các tiếng lạ và ơn giải thích các tiếng lạ. 

à Qua đoạn thư 1 Cr 12,4-11 trên, chúng ta nhận ra Thần Khí Thiên Chúa là Đấng vừa quyền năng vô biên, vừa yêu thương vô bờ bến đối với Cộng Đoàn Hội Thánh. Vì là Đấng quyền năng vô biên nên Người có đủ mọi ơn, có đủ thứ đặc sủng. Vì yêu thương Hội Thánh vô bờ bến nên Người rộng tay ban phát các ơn, các đặc sủng của Người cho con cái Hội Thánh. Những người nhận ơn, những kẻ được phân phát đặc sủng không phải là vì họ đạo đức thánh thiện mà là vì quyền năng vô hạn và tình yêu không tính toán của Thần Khí. Ơn hay đặc sủng được ban không phải cho riêng những người nhận được ơn hay đặc sủng ấy, mà là cho cả Cộng đoàn, cho hết mọi người đang cần đến ơn hay đặc sủng ấy để củng cố và tăng cường lòng tin yêu, để được giải thoát khỏi bệnh hoạn, tật nguyền hay cảnh tăm tối trong tâm hồn và để được chứng kiến hoạt động hết sức kỳ diệu của Chúa Ngôi Ba mà ca tụng vinh quang của Thiên Chúa!  

3.1.3 Bài Tin Mừng (Ga 2, 1-11) là bài tường thuật vắn gọn, đơn sơ về phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” của Chúa Giêsu trong khung cảnh một Tiệc Cưới ở Cana.  Đây là phép lạ đầu tiên mà Ngôi Hai Thiên Chúa thực hiện, khởi đầu cho một giai đoạn của phép lạ, của chuyện kỳ diệu do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa thực hiện giữa và cho con cái loài người chúng ta!

à Qua đoạn Phúc Âm Ga 2,1-11 này, Chúa Giêsu đã bộc lộ “chân dung” và “tấm lòng” thần linh của mình. Vì thế phép lạ Cana có nhiều ý nghĩa:

- Trước hết “làm phép lạ” là việc làm vượt khả năng của con người.

- Kế tiếp “làm phép lạ” để cứu giúp con người trong cơn khốn khó hầu đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người (cụ thể là đôi tân hôn, gia chủ và quan khách) thì chỉ có các thần linh tốt lành thánh thiện mới làm. Các thần dữ, nếu có thể làm phép lạ, thì chúng chỉ làm để lừa gạt người nhẹ dạ hòng lôi cuốn người ta vào vòng kiềm tỏa của chúng mà thôi.

- Sau cùng “làm phép lạ” đầu tiên trong/cho một tiệc cưới Chúa Giêsu còn muốn gửi cho chúng ta hai sứ điệp quan trọng khác: một là Chúa Giêsu muốn báo hiệu sự hiện diện tràn đầy niềm vui của Nước Trời giống như Tiệc Cưới mà Người khai trương trong trần gian này.Thánh Kinh luôn dùng Tiệc Cưới để diễn tả cuộc gặp gỡ và sự kết hợp hân hoan và lâu bền giữa Thiên Chúa và con người; hai là Chúa Giêsu tỏ lòng ưu ái đặc biệt đối với các cặp vợ chồng và đời sống hôn nhân. Thánh Kinh cũng luôn dùng hôn nhân và Tình Yêu Vợ Chồng để diễn tả mối tương quan “độc hữu” giữa Thiên Chúa và con người.

 

3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)   

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có ba phần liên kết chặt chẽ với nhau:

Phần thứ nhất: Chúa Giêsu là thần linh tốt lành và quyền năng, là Thiên Chúa yêu thương và toàn năng. Người dùng quyền năng để thể hiện lòng yêu thương và đáp ứng mọi nhu cầu chính đáng của con người.

Phần thứ hai: Chúa Giêsu xuất hiện công khai để khai mở một Triều Đại Mới, và thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa giữa loài người. Trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy niềm vui và hoan lạc tràn đầy như rượu bia ê hề trong Tiệc Cưới vậy!

Phần thứ ba: Chúa Giêsu làm phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” cho/trong Tiệc Cưới là Người chúc lành, thánh hóa, nâng cấp mọi giao ước hôn nhân của con người, mọi thực tại của đời sống gia đình.

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa vĩ đại và gần gũi yêu thương dân riêng Người khi giao việc giải thích Luật Chúa cho một số người được tuyển chọn cho công việc hệ trọng ấy; Sống với Chúa Giêsu Kitô là Lời và là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để nói Lời Yêu Thương, Lời Cứu Độ; Sống với Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh của các Sấm Ngôn, là Thần Khí của các Ngôn Sứ mọi thời đại!

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi quyết tâm thực hiện ba việc này:

Việc thứ nhất: Tôi luôn tin tưởng và phó thác con người và cuộc sống của tôi cho Chúa Giêsu Kitô. Nhất là trong những lúc khó khăn, thử thách, trước những nhu cầu chính đáng, tôi chỉ chạy đến với Chúa Giêsu mà không tìm đến hay cậy dựa vào bất cứ một quyền lực hay thần linh nào khác (tử vi, bói toán, bùa ngải, cầu cơ, tướng số…).

Việc thứ hai: Tôi luôn cảm tạ ngợi khen Chúa Giêsu Kitô vì Chúa đã khai mở một Triều Đại Mới, và  thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa trong trần gian và đã đưa tôi vào trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy. Được sống trong hân hoan, tôi sẽ tích cực đóng góp công sức của mình vào việc mở rộng Nước Chúa trong các tâm hồn, gia đình và môi trường chung quanh.

Việc thứ ba: Tôi luôn cảm tạ ngọi khen Chúa Giêsu Kitô vì Chúa đã chúc lành, thánh hóa, nâng cấp cuộc hôn nhân của vợ chồng tôi và mọi thực tại của đời sống gia đình tôi. Để đáp lại lòng yêu thương và sự chăm sóc của Chúa Giêsu, tôi luôn trân trọng lời cam kết trong thánh lễ hôn phối và xây dựng gia đình tôi thành một “Hội Thánh nhỏ”, một “Hội Thánh tại gia” sáng ngời đức tin và đức ái. 

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước được phúc khám phá và chiêm ngưỡng đức công chính của Thiên Chúa hiển hiện nơi Hội Thánh và con cái Người.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 «Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục và linh mục, để các ngài được ơn khôn ngoan và ơn hiểu biết mà giảng dậy và trình bày Mầu Nhiệm của Thiên Chúa cho các tín hữu và lương dân.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.3 «Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người sống hiệp nhất yêu thương nhau, vì cùng tin thờ một Chúa.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.4 «Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi.»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trên toàn thế giới biết noi gương bắt chước Mẹ Maria mà quan tâm đến nhu cầu của tha nhân và cầu xin Chúa Giêsu Kitô can thiệp giúp đỡ những người thiếu thốn phần hồn phần xác.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.5 «Ngài có bảo gì hãy làm theo» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết thực hiện lời nhắn nhủ của Đức Maria mà thi hành mọi mệnh lệnh của Chúa Giêsu Kitô.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con!

Sài-gòn ngày 12 tháng 01 năm 2022
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

-----------------------------------

 

TN 2-C162: HÔN ƯỚC


Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật II, Thường Niên, Năm C

 

Hãy cứ làm theo những gì Ngài bảo với tình yêu tín thác, như tân lang và giai nhân, vì tin và yêu TN 2-C162


TMĐP- Hãy cứ làm theo những gì Ngài bảo với tình yêu tín thác, như tân lang và giai nhân, vì tin và yêu nhau đã không từ chối nhau điều gì…

Trên thế gian và trong thế giới loài người, không có giao ước nào lãng mạn nhưng sâu sắc; thiết thân, gần gũi, nhưng cao qúy, tuyệt vời; chân chất, giản dị nhưng mầu nhiệm, thần thánh bằng giao ước hôn nhân, khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ thề nguyền nhận nhau làm vợ chồng và đoan hứa  chung thủy, trung thành sống chết với nhau đến hết cuộc đời.

Để diễn tả tình yêu chung thủy, cũng là tình yêu vô cùng và đến cùng của Thiên Chúa đối với con người, Đức Giêsu đã chọn tiệc cưới ở làng Cana để làm phép lạ đầu tiên cho sáu chum nước hoá thành rượu ngon, khi tiệc cưới hết rượu đang lúc sôi nổi, rộn rã.

Khi chọn tiệc cưới Cana để ra mắt quần chúng như Đấng Cứu Thế, nhất là để các môn đệ tin vào Ngài, Đức Giêsu đã muốn tỏ cho mọi người liên đới thiết thân, tình nghiã son sắt, và tương quan bất khả phân ly  giữa Thiên Chúa và con người  được đóng ấn bởi Giao Ước Tình Yêu giữa Thiên Chúa và con người  được Cựu Ước loan báo hàng ngàn năm trước: “Chẳng ai còn réo tên ngươi : “Đồ bị ruồng bỏ!” Xứ sở ngươi hết bị tiếng  là “Phận bạc duyên đơn”. Nhưng ngươi được gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi!” Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng”. Vì ngươi sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4-5).

Khi chọn hôn lễ Cana để làm phép lạ đầu tiên đem đến niềm vui trọn vẹn và viên mãn cho cô dâu chú rể và hai họ, Đức Giêsu đã tỏ cho chúng ta: chính Ngài là Đấng  gìn giữ Giao Ước yêu thương giữa chúng ta với Thiên Chúa; chính Ngài làm cho cuộc tình chung thủy của chúng ta với Thiên Chúa mãi là niềm vui vô tận; cũng chính Ngài là Đấng bảo đảm hạnh phúc đời đời, và sự sống vĩnh cửu của Hôn Ước giữa chúng ta với Thiên Chúa, không chỉ qua chén rượu của ngày cưới, mà còn qua chén máu cứu độ của Ngài sẽ đổ ra cho mọi người được tha tội là điều kiện tất yếu để được sống hạnh phúc trong Thiên Chúa (x. Lc 22,20).

Nhưng điều quan trọng Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta, những người đi theo Ngài, đó là chúng ta phải cởi bỏ con người cũ, từ bỏ nếp sống cũ, bỏ lại sau lưng lề luật cũ là “những chum nước lã” nhạt nhẽo, vô vị chỉ dùng để thanh tẩy bên ngoài, mà không đụng chạm được tâm hồn bên trong; chỉ rửa sạch  tay chân, mà không rửa được trái tim, linh hồn, trong khi “rượu ngon” như dấu chỉ của tình yêu nồng nàn, như dấu ấn của tình yêu chung thủy, như biểu chứng của niềm vui dạt dào sâu lắng, như biểu tượng của dấu ái hiến dâng, mà Ngài tha thiết  mời gọi chúng ta trở nên mỗi ngày trong tương quan với Ngài.

Và để trở nên xứng đáng hơn mỗi ngày với Hôn Ước tình yêu đã ký kết với Thiên Chúa, chúng ta không được mời gọi làm gì khác hơn là “cứ việc  làm theo những gì Đức Giêsu bảo”, như  Đức Mẹ đã căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Cứ việc làm theo những gì Ngài bảo với tình yêu tín thác, như tân lang và giai nhân, vì tin và yêu nhau đã không từ chối nhau điều gì vì mong ước hạnh phúc cho nhau, và muốn làm vui lòng nhau, chúng ta sẽ được Chúa “xóa bỏ hết lỗi lầm, ban cho một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho nên chung thủy, và tràn đầy niềm vui được Ngài thương yêu, cứu độ” (x. Tv 50,11.12.14).

Jorathe Nắng Tím  

-------------------------

 

TN 2-C163: VỮNG TIN VÀO CHÚA


Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Sau lễ Hiển Linh và lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, hôm nay, Phụng vụ lại giới thiệu với chúng ta TN 2-C163


Sau lễ Hiển Linh và lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, hôm nay, Phụng vụ lại giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” thứ ba: đó là dấu lạ tại tiệc cưới Cana. Quả vậy, khi thực hiện phép lạ này, Chúa Giêsu diễn tả quyền năng thiên linh của Người, và vinh quang Thiên Chúa cũng được thể hiện qua biến cố đó. Chính tác giả Gioan đã nhận định về phép lạ đầu tiên này như sự tỏ bày vinh quang của Thiên Chúa, và nhờ đó mà các môn đệ tin vào Người. “Các môn đệ”, trong đó tất nhiên có Gioan, người kể lại sự việc, đồng thời cũng là chứng nhân về sự việc ấy.

Thánh Gioan là tác giả duy nhất kể lại dấu lạ Cana. Khởi đi từ lời tuyên bố: Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta. Qua việc Đức Giêsu đến dự tiệc cưới, ông muốn diễn tả hình ảnh một Đức Giêsu đến trần gian để sống giữa mọi người. Người chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời nhân thế. Người hiện diện giữa họ để đem cho họ niềm vui. Chúa hiện diện trong những đám cưới, đám tang là những sự kiện rất đỗi thường tình của cuộc sống. Người đến tiệc cưới để chúc lành và làm cho niềm vui của cô dâu chú rể nên trọn vẹn. Giáo Hội dựa trên sự kiện này để dạy chúng ta về việc Chúa thiết lập Bí tích hôn phối. Khi đôi bạn nam nữ tiến đến bàn thờ để thề hứa chung thuỷ với nhau trọn đời, Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho tình yêu hôn nhân của họ. Bí tích hôn nhân là mối dây yêu thương ràng buộc hai người suốt đời, đồng thời ban ơn nâng đỡ để đôi bạn vượt lên những khó khăn của đời sống gia đình.

Trở lại với Bài đọc thứ nhất, trích ngôn sứ Isaia, tác giả chiêm ngưỡng một tương lai huy hoàng, hân hoan vui mừng như một tiệc cưới. Dân Israel sẽ hết thời khổ nhục và tang chế. Không ai còn khinh bỉ dân tộc này, vì Chúa ra tay cứu giúp. Ngài sẽ can thiệp và biến đổi đau thương của dân tộc thành niềm vui bất tận. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Đức tin Kitô giáo nhận ra trong lời ngôn sứ trên đây lời tiên báo về thời Thiên sai. Đức Giêsu Kitô đã đến khai mở thời thiên sai muôn dân mong đợi. Người được sánh như chú rể trong tiệc cưới. Tiệc cưới cũng là hình ảnh diễn tả mối liên hệ thân thiết giữa Thiên Chúa và nhân loại. Thời đại cũ đã qua, thời Thiên sai đã khai mở. Thời đại cũ vô vị như nước lã, thời đại mới nồng nàn như rượu thơm. Dấu lạ Canna vừa đem niềm vui cho cô dâu chú rể, vừa làm vui lòng thực khách là chính thế giới này.

Ý niệm về Chúa Giêsu như một “chàng rể” cũng được nhắc tới trong các Tin Mừng, nhất là trong Tin Mừng Thánh Gioan. Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Người đến trần gian để nối kết con người với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả, khi nói về Chúa Giêsu, cũng dùng hình ảnh chàng rể, và ông khiêm tốn nhận mình là người phù rể (x. Ga 3,25-30). Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhân loại được mời gọi đón chờ Người như chờ đón chàng rể của hôn lễ (x Dụ ngôn mười trinh nữ, Mt 25,1-13). Đây cũng là viễn cảnh tương lai, khi lịch sử nhân loại đến hồi kết thúc, nhường chỗ cho trời mới đất mới, được diễn tả như tiệc cưới của Chiên Con, lúc đó, vinh quang Chúa sẽ bao trùm tất cả, niềm hân hoan sẽ tràn ngập vũ trụ (x Kh 19,1-7).

Trình thuật của thánh Gioan làm nổi bật vai trò và sự tinh tế của Đức Trinh nữ Maria. Phép lạ xảy đến do quyền năng của Thiên Chúa và với sự cộng tác của những gia nhân. Những người này đã nghe lời khuyên của Đức Maria: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Ngày hôm nay, Đức Trinh nữ vẫn hiện diện giữa chúng ta, để can thiệp và cứu giúp chúng ta với tâm tình hiền mẫu. Đức Mẹ luôn hướng dẫn và giúp chúng ta thực thi Lời Chúa, như xưa Đức Mẹ luôn ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng. Vâng lời Chúa và làm theo huấn lệnh của Người, đó chính là bí quyết để làm nên những điều lạ lùng trong cuộc sống.

Nếu Đức Giêsu đã đến thiết lập kỷ nguyên mới, thì Chúa Thánh Thần lại là mối giây nối kết tình hiệp nhất trong Giáo Hội. Thánh Phaolô diễn tả Chúa Thánh Thần như nguyên lý của mọi đặc sủng. Dù có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Ơn của Ngài được ban cho các tín hữu rất dồi dào phong phú, hầu xây dựng Giáo Hội là thân thể huyền nhiệm của Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn đang tiếp tục thổi hơi thần thiêng của Ngài nơi các cộng đoàn tín hữu. Nhờ Ngài mà Giáo Hội luôn vững vàng trước phong ba bão tố của thời gian.

Khi đọc Kinh Mân côi, thứ hai mùa Sáng, chúng ta suy niệm dấu lạ Chúa Giêsu đã thực hiện tại Canna, đồng thời chúng ta cầu xin cho được “noi gương Đức Mẹ và vững tin vào Chúa”. Đức Mẹ là người có phúc vì Mẹ đã tin rằng những gì Chúa phán sẽ thành hiện thực. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta. Amen.

-------------------------------

 

TN 2-C164: TIN CHÚA HIỆN DIỆN


Lm. Jos DĐH.

 

Tiệc rượu, ăn uống, vui say, được coi là nhu cầu của con người, một số ai đó đã cường điệu tiệc TN 2-C164


Tiệc rượu, ăn uống, vui say, được coi là nhu cầu của con người, một số ai đó đã cường điệu tiệc rượu, làm tăng thêm phần lãng mạn. Có hay không: say men rượu ngày mai còn tỉnh, say men tình mãi mãi còn say. Rượu cũng từ gạo mà ra, ta đây uống rượu cũng là ăn cơm. Đúng, ăn uống say xỉn, sẽ không gọi là bình thường ! Cuộc sống có vui buồn, có khó khăn thuận lợi, có lúc đau lúc khoẻ, tâm trí phải tỉnh không được say, điều ấy cho thấy để đạt tới mức độ quân bình tình cảm, với ý chí quyết tâm của mình, thật không hề đơn giản ! Mọi người đều hiểu: thuận vợ chồng, nếu có khổ đau, túng thiếu, công việc không được như ý, cũng chưa chắc đã làm ta khiếp sợ. Trong khi đó, tình yêu, niềm tin, luôn cần thiết để gia đình vợ chồng tin tưởng nhau, nhằm giúp các thành viên biết sống bổn phận và trách nhiệm cách tốt nhất.

Đức Giêsu hiện diện tại tiệc cưới Cana, tiệc cưới đông đủ khách tham dự, cỗ bàn, bia rượu dư thừa, không gặp sự cố đáng tiếc nào, hẳn đó là mơ ước của chủ nhà, là niềm vui của đôi bạn. Buổi tiệc cưới năm xưa trở nên ý nghĩa hơn, khi có sự nhạy bén của Đức Maria, có sự can thiệp kịp thời của Đức Giêsu, theo lẽ tự nhiên mọi người đều hạnh phúc và được no say trước bàn tiệc đông vui, rượu ngon, thịt béo. Khi nhìn theo phương diện đức tin, người ta sẽ cảm nhận được ở đâu có sự hiện diện của Đức Giêsu và Mẹ Người, ở đó có sự bình an thật, ở đó có đủ tình Chúa tình người. Chỉ có Chúa, chỉ có cha mẹ là yêu thương ta vô điều kiện, thế gian phải có điều kiện, họ mới yêu thương ta. Khởi đi từ tình yêu và trách nhiệm của cha mẹ, nhờ Đức Maria “bầu cử”, do quyền năng và tình yêu thương của Đức Giêsu, tại tiệc cưới Cana phép lạ đã được thực hiện.

Cha ông chúng ta có câu: kẻ giầu sang té ngã, người ta bảo vì rủi ro, kẻ nghèo hèn té ngã, người ta nói hắn say rượu. Nhà giầu tổ chức tiệc cưới, thiếu cỗ bàn rượu bia, người ta nói họ tính nhầm, nhà nghèo tổ chức đám cưới cho con mà thiếu tiệc rượu, người ta nói hắn nghèo mà thích đua đòi. Từ sự nhạy cảm sẵn có, Đức Maria biết gia chủ đang lúng túng vì tiệc thiếu rượu, nên Mẹ Maria đã ngỏ lời xin Đức Giêsu ra tay giúp họ. Nếu không có cái nhìn tích cực, người ta sẽ nói Đức Maria làm gì phải xen vào chuyện riêng tư của người ta, ăn đủ uống đủ thì mới vui, có nhiều rượu lại say sưa có gì là hay đâu ? Vấn đề ở chỗ, làm sao ta đủ niềm tin để biết nghĩ tốt, hiểu đúng, làm sao ta biết cảm thông với anh chị em mình: vui với người vui, khóc với người khóc ?

Đám cưới đám cười, sẽ gọi là hoành tráng khi khách dự tiệc đông vui, đồ ăn thức uống vừa miệng mọi người: vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Dù sao thì ta cũng nên suy nghĩ, lời tiền nhân đã từng nhắc con cháu: giầu không tiết kiệm, nghèo liền tay; nghèo không tiết kiệm, sớm ăn mày. Đám cưới đám cười sẽ đầm ấm hạnh phúc, khi gia chủ biết liệu cơm gắp mắm, không ai chê đám cưới, không ai cười đám ma. Đồng ý rằng: say tình và say rượu khác nhau, khen chê, thích hoặc không, là tự do của mỗi người, căn bản nhất vẫn là tin Chúa, biết kêu cầu Chúa hiện diện, chúc phúc, hầu mỗi người biết sống ý nghĩa hơn. Trong bầu khí nơi bàn tiệc vui ở đời này, không phải chỉ đơn thuần là: rượu ngon phải có bạn hiền, hay thuốc ngon nửa điếu, ý nghĩa hơn một chút, sống ở đâu cũng cần có đủ tình Chúa và tình người.

Tin vào khả năng của mình, tin sự hiện diện của Chúa, tin đấng bậc sinh thành, tin Chúa yêu thương ta, đúng là có chung một niềm tin, nhưng mức độ phức tạp và không thể so sánh cho cùng. Với tình cảm tự nhiên, ta chỉ mất một phút để thích một người, nhưng trong sâu thẳm của tình yêu, ta phải mất cả một đời để bày tỏ và diễn tả cái thích của mình. Đức Maria phải mất cả 30 năm, mới hiểu và biết căn dặn những người giúp việc ở tiệc cưới hôm đó: “hễ Người bảo gì, thì hãy làm theo”. Với các chuyên gia họ vẫn nói: vũ khí lợi hại nhất của người phụ nữ không phải là nước mắt, chính xác là sự im lặng. Vâng, tại sao phải suy gẫm trong lòng, tại sao cõi lòng cần sự thinh lặng, tại sao phải tin vào sự hiện diện của Chúa nơi cuộc đời của mình, đơn giản, vì tình yêu không mầu không mùi, không cân đo đong đếm được.

Kinh nghiệm cho thấy cuộc sống thiếu tiền, đám cưới thiếu rượu, gia đình thiếu tình yêu Chúa, thật là đáng buồn ! Vấn đề là làm sao cuộc sống luôn đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu thiết thực, tổ chức tiệc mừng luôn đông đủ quan khách hiện diện, các thành viên gia đình giáo xứ đủ ơn Chúa ? Đức Giêsu, Đức Maria, các tông đồ, là người thật, các ngài hiện diện thật tại tiệc cưới Cana, Đức Giêsu đã thực hiện phép lạ, đã can thiệp vừa kịp, cũng là dấu hiệu Chúa chúc lành cho đôi bạn và gia đình. Phép lạ hoá nước thành rượu ngon, chính là dấu chỉ cho thấy Đức Giêsu ước mong cả đám cưới hôm đó ai cũng say men tình, chứ không hẳn chỉ có say men rượu. “Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra”. Nếu không say men tình, làm sao có thể nói: “ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà mới đem rượu xoàng hơn, còn ông, ông lại giữ rượu ngon đến giờ này”. Xin Chúa chúc lành để tất cả mọi người, mọi thời, đều biết mời Chúa đến hiện diện với từng hoàn cảnh, từng gia đình của mình. Amen.

---------------------------

 

TN 2-C165: NIỀM VUI MỚI


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

 

Sau khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu lên đường rao giảng Tin Mừng. Sự kiện quan trọng TN 2-C165


Sau khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu lên đường rao giảng Tin Mừng. Sự kiện quan trọng đầu tiên là việc Ngài hiện diện trong tiệc cưới Cana, cùng với Mẹ Ngài và các môn đệ. Theo tập tục Do Thái, tiệc cưới kéo dài cả tuần lễ, nhưng không may tiệc cưới này đến giữa chừng thì hết rượu. Đây là điều tối kỵ, vì thật xấu hổ cho gia chủ và đôi tân hôn. Mẹ Maria đã nhận ra tình trạng này, và nói cho Đức Giêsu biết. Ngài đã biến nước thành rượu, trả lại bầu khí vui tươi cho tiệc cưới. Theo Tin Mừng Gioan, đây là dấu lạ đầu tiên mà Ðức Giêsu làm để bày tỏ vinh quang của Ngài, và các môn đệ đã tin vào Ngài.

Rượu là hình ảnh mà các ngôn sứ thường dùng để loan báo buổi bình minh của kỷ nguyên Mêsia. Đó là ý nghĩa sâu xa của phép lạ này, vì thứ nước dùng vào việc thanh tẩy của người Do thái được Đức Giêsu biến thành rượu, nghĩa là nước của Cựu Ước đã hóa thành rượu của Tân Ước. Như thế, “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5, 17). Thời đại Mêsia đã đến, Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, Ngài đến để thiết lập một trật tự mới, chan chứa niềm vui ơn cứu độ, như rượu mới dư dật trong tiệc cưới. Ba năm sau, cùng một thời điểm này ngay trước lễ Vượt Qua (2, 13), Đức Giêsu hóa rượu thành máu của Ngài cho muôn dân được hưởng ơn tha tội (Mt 26, 28).

Dấu lạ Cana chủ yếu cho chúng ta thấy Đức Giêsu là ai, đồng thời cũng cho chúng ta thấy được vai trò linh thiêng của Đức Maria. Với thái độ nhạy bén trước nhu cầu của tha nhân, Mẹ đã đưa ra lời thỉnh cầu với Con Mẹ, một cách kín đáo và tế nhị:“Họ hết rượu rồi”. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu xem ra không được thịnh tình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến”. Thế nhưng Mẹ vẫn hoàn toàn tin tưởng nơi con Mẹ. Mẹ không hiểu Ngài sẽ làm gì và làm như thế nào, nhưng tin Ngài sẽ có cách cứu nguy cho bữa tiệc cưới, nên Mẹ bảo các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Cuối cùng Đức Giêsu cũng đã làm theo ý muốn của Mẹ mình. Thật ra không phải vì ý muốn của Mẹ, nhưng qua đó Ngài nhận ra ý muốn của Chúa Cha. Đúng là “giờ” của Ngài chưa đến, giờ mà Ngài được tôn vinh, giờ mà tình yêu Chúa Cha được biểu lộ tận cùng qua cái chết của Chúa Con. Thế nhưng Đức Giêsu không lệ thuộc vào khung cảnh thời gian tương đối, để có thể hành động đúng lúc theo ý định của Thiên Chúa. Mọi hành động trong cuộc sống đều có giờ, có nơi và có lúc của nó, nhưng phải chăng tình yêu đòi phải thể hiện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Tình yêu chẳng khác nào dòng nhựa sống của thân cây phải liên tục luân chuyển. Nói cách khác, tình yêu là nhịp đập của trái tim Thiên Chúa trong đời sống con người qua mọi hành động.

Qua bài Phúc Âm này, chúng ta cũng cần nhìn ngắm sự hiện diện của Đức Maria: một sự hiện hiện cho người khác, vì người khác. Nếu ta có được sự hiện diện như Đức Mẹ, ta cũng sẽ đem lại sự nồng ấm và an vui cho gia đình, cho cộng đoàn. Đó cũng là một sự hiện diện bám sát lấy Chúa trong mọi tình huống, để chính Chúa làm mới lại tình yêu và cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Nếu chúng ta nghe Mẹ, cứ làm theo lời Chúa dạy, đời sống chúng ta sẽ được biến đổi tốt đẹp biết bao.

Hôm nay, Đức Giêsu vẫn tiếp tục bước vào đời sống của từng người, từng đôi tân hôn, từng gia đình. Bất cứ ai để cho Chúa bước vào đời mình sẽ nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã biến thành rượu ngon. Không có Đức Giêsu, cuộc đời vẫn ứ đọng, phẳng lì và chán ngán. Khi để cho Ngài bước vào đời ta, nghĩa là ta luôn ý thức sự hiện của Ngài, thì mọi cái sẽ trở nên sinh động và đầy hy vọng. Thiếu sự kết nối với Chúa, ta sẽ cảm thấy cuộc đời cô đơn, trống vắng. Đặt mình trong Chúa, ta sẽ tìm thấy sự an vui và những điều kỳ diệu.

Ước chi mỗi khi đêm về, gia đình chúng ta lại xúm xít bên nhau và quây quần bên Chúa, vang lên lời kinh chúc tụng và tạ ơn. Cũng từ đó mà niềm vui và sức sống yêu thương lại tràn về trên tổ ấm gia đình. Đó mới thật là một gia đình có Chúa, của Chúa, một hội thánh tại gia, góp phần với Chúa đem lại sự tươi mới cho xã hội hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Tiệc cưới là biểu hiện của niềm vui,
niềm vui của sự sống và phong nhiêu,
của ân ban trong tất cả mọi điều,
vì chính là kết quả của tình yêu.

Nhưng tình yêu vẫn thường bị đe dọa,
khi cuộc sống bất trung và bất tín,
khi con người vẫn thiếu một lòng tin,
không dám sống một cuộc đời chân chính.

Chúa đã hóa nước lã thành rượu ngon,
để con thấy sự hiện diện của Ngài,
luôn làm nên sự tươi mới ở mọi nơi,
đem an vui hạnh phúc cho mọi thời.

Không có sự hiện diện của Chúa,
mọi tiệc cưới sẽ lụi tàn,
mọi niềm vui cũng sẽ tan,
gia đình lại sống kiếp hoang mang.

Có Chúa mọi sự sẽ tươi mầu,
cuộc đời bớt khốn khổ lo âu,
tình yêu lại đẹp như thuở ban đầu,
và hạnh phúc tươi thắm mãi ngàn sau.

Dấu lạ Cana ân phúc chan hòa,
cũng là nhờ có Đức Ma-ri-a,
vì Mẹ thấy tình cảnh của mỗi nhà,
luôn kịp thời để bầu cử cho ta.

Xin cho con luôn cận kề bên Mẹ,
biết quan tâm phục vụ thật hăng say,
biết để tâm làm theo điều Chúa dạy,
cho niềm vui và tình mến dâng đầy. Amen.

-----------------------------

 

TN 2-C166: HÔN ƯỚC


Jorathe Nắng Tím  

 

Trên thế gian và trong thế giới loài người, không có giao ước nào lãng mạn nhưng sâu sắc; thiết TN 2-C166


Trên thế gian và trong thế giới loài người, không có giao ước nào lãng mạn nhưng sâu sắc; thiết thân, gần gũi, nhưng cao qúy, tuyệt vời; chân chất, giản dị nhưng mầu nhiệm, thần thánh bằng giao ước hôn nhân, khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ thề nguyền nhận nhau làm vợ chồng và đoan hứa  chung thủy, trung thành sống chết với nhau đến hết cuộc đời.

Để diễn tả tình yêu chung thủy, cũng là tình yêu vô cùng và đến cùng của Thiên Chúa đối với con người, Đức Giêsu đã chọn tiệc cưới ở làng Cana để làm phép lạ đầu tiên cho sáu chum nước hoá thành rượu ngon, khi tiệc cưới hết rượu đang lúc sôi nổi, rộn rã.

Khi chọn tiệc cưới Cana để ra mắt quần chúng như Đấng Cứu Thế, nhất là để các môn đệ tin vào Ngài, Đức Giêsu đã muốn tỏ cho mọi người liên đới thiết thân, tình nghiã son sắt, và tương quan bất khả phân ly  giữa Thiên Chúa và con người  được đóng ấn bởi Giao Ước Tình Yêu giữa Thiên Chúa và con người  được Cựu Ước loan báo hàng ngàn năm trước: “Chẳng ai còn réo tên ngươi : “Đồ bị ruồng bỏ!” Xứ sở ngươi hết bị tiếng  là “Phận bạc duyên đơn”. Nhưng ngươi được gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi!” Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng”. Vì ngươi sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4-5).

Khi chọn hôn lễ Cana để làm phép lạ đầu tiên đem đến niềm vui trọn vẹn và viên mãn cho cô dâu chú rể và hai họ, Đức Giêsu đã tỏ cho chúng ta: chính Ngài là Đấng  gìn giữ Giao Ước yêu thương giữa chúng ta với Thiên Chúa; chính Ngài làm cho cuộc tình chung thủy của chúng ta với Thiên Chúa mãi là niềm vui vô tận; cũng chính Ngài là Đấng bảo đảm hạnh phúc đời đời, và sự sống vĩnh cửu của Hôn Ước giữa chúng ta với Thiên Chúa, không chỉ qua chén rượu của ngày cưới, mà còn qua chén máu cứu độ của Ngài sẽ đổ ra cho mọi người được tha tội là điều kiện tất yếu để được sống hạnh phúc trong Thiên Chúa (x. Lc 22,20).

Nhưng điều quan trọng Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta, những người đi theo Ngài, đó là chúng ta phải cởi bỏ con người cũ, từ bỏ nếp sống cũ, bỏ lại sau lưng lề luật cũ là “những chum nước lã” nhạt nhẽo, vô vị chỉ dùng để thanh tẩy bên ngoài, mà không đụng chạm được tâm hồn bên trong; chỉ rửa sạch  tay chân, mà không rửa được trái tim, linh hồn, trong khi “rượu ngon” như dấu chỉ của tình yêu nồng nàn, như dấu ấn của tình yêu chung thủy, như biểu chứng của niềm vui dạt dào sâu lắng, như biểu tượng của dấu ái hiến dâng, mà Ngài tha thiết  mời gọi chúng ta trở nên mỗi ngày trong tương quan với Ngài.

Và để trở nên xứng đáng hơn mỗi ngày với Hôn Ước tình yêu đã ký kết với Thiên Chúa, chúng ta không được mời gọi làm gì khác hơn là “cứ việc  làm theo những gì Đức Giêsu bảo”, như  Đức Mẹ đã căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Cứ việc làm theo những gì Ngài bảo với tình yêu tín thác, như tân lang và giai nhân, vì tin và yêu nhau đã không từ chối nhau điều gì vì mong ước hạnh phúc cho nhau, và muốn làm vui lòng nhau, chúng ta sẽ được Chúa “xóa bỏ hết lỗi lầm, ban cho một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho nên chung thủy, và tràn đầy niềm vui được Ngài thương yêu, cứu độ” (x. Tv 50,11.12.14).

--------------------------------

 

TN 2-C167: NIỀM VUI CỦA CÁC GIA ĐÌNH,KHI CÓ CHÚA GIÊSU Ở CÙNG


CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C (16/01/2022)

"Họ hết rượu rồi"

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Phụng vụ Mùa Thường Niên (hay Quanh Năm) bắt đầu với phép lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu thực TN 2-C167


Phụng vụ Mùa Thường Niên (hay Quanh Năm) bắt đầu với phép lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu thực hiện trong Tiệc Cưới Cana khi biến 6 chum nước lã thành 6 chum rượu ngon. Chúa Giêsu đã cứu đôi tân hôn và hai họ đàng trai và đàng gái khỏi cảnh thiều rượu, có nghĩa là Chúa Giêsu đã cứu đám cưới ấy khỏi bị bẽ mặt, khỏi bị người ta chê cười xỉ nhục. Dù Tin Mừng Gioan nêu mục đích của phép lạ là để tỏ bày vinh quang của Thiên Chúa và khiên các môn đệ tin Chúa: ”Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người” thì chúng ta vẫn có quyền đọc và suy niệm bài Phúc âm của Chúa Nhất II Thường Niên hôm nay theo hướng liên quan tới Gia Đình vì trong lúc này toàn thể Hội Thánh đang sống trong Năm Gia Đình và đang hướng về Đại Hôi Gia Đình Thế Giới sắp được tổ chức tại Roma.

II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,1-12: Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.

Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.

III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,1-12:: 

3.1 Chúa Giêsu và Đức Maria đều đến dự tiệc cưới ở Cana: Phúc âm không cho biết Đức Maria và Chúa Giêsu có quan hệ như thế nào với gia đình có tiệc cưới. Nhưng chúng ta có thể phỏng đoán là hai Vị có mối quan hệ khá thân thiết với gia đình chủ rể. Hai chi tiết quan trọng cho phép chúng ta khẳng định chuyện ấy: một là Chúa Giêsu đem theo cả nhóm 12 môn đệ đến dự tiệc cưới và hai là Đức Maria biết được là đám cưới sắp hết rượu. Phải là nguời thân thiết với nhà chú rể Chúa Giêsu mới kéo theo cả nhóm môn đệ.  Phải là nguời thân thiết với nhà chú rể Đức Maria mới biết những gì xẩy ra trong khu vực nhà bếp.  Chúa Giêsu mới kéo theo cả nhóm môn đệ và đã “báo động” chuyện ấy cho con của mình là Chúa Giêsu: "Họ hết rượu rồi" với hàm ý là xin Chúa Giêsu can thiệp.

3.2 Hành động của Đức Maria và của Chúa Giêsu trong tình huống tiệc cuới thiếu rượu: Khi biết là nhà đám sắp hết rượu đãi khách Đức Maria liền “báo động” chuyện ấy cho con của mình là Chúa Giêsu: "Họ hết rượu rồi" Dụng ý của Đức Maria là muốn Chúa Giêsu làm gì đó cho nhà đám. Nhưng Chúa Giêsu đã đáp lại một cách khó hiểu và bí ẩn: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến” Tuy thế Đức Maria vẫn nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo" Và Chúa Giêsu đã nói với những người giúpviệc: "Hãy đổ nước đầy các chum" và phép lạ đã xẩy ra một cách ký diệu và bất ngờ "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!"

IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,1-12:  

4.1 Chúng ta hãy học cùng Đức Maria mà quan tâm đến nhu cầu của người xung quanh và tìm cách cứu giúp họ: Mẹ Chúa Giêsu đã phản ứng một cách tự nhiên và tế nhị trước sự cố không ai muốn của nhà đám. Chúng ta phải ngưỡng mộ Đức Maria và noi gương Người.  Chung qunh mỗi người chúng ta cũng luôn có những người có nhu cầu cần giúp đỡ. Chúng ta hãy quan tâm đến các nhu cầu ấy và tìm mọi cách trợ giúp những người cần giúp đỡ. Đó là bài học thứ nhất của bài Phúc âm hôm nay.

4.2 Chúng ta hãy học cùng Chúa Giêsu mà giúp đỡ người có nhu cầu: Dù giờ của Người chưa đến, Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon để cứu giúp đám cưới được viên mãn với 6 chum rượu hảo hạng: ”Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúng ta hãy tìm hết mọi cách mà giúp đỡ người khác khi họ đang cần sự trợ giúp để giải quyềt khó khăn vướng mắc trong cuộc sống. Đó là bài học thứ hai của bài Phúc âm hôm nay.

V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,1-12:      

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã thực hiện dấu lạ đầu tiên ỏ Tiệc Cưới Cana để biểu lộ vinh quang của Thiên Chúa và để các môn đệ tin vào Người. Nhưng cũng là để cứu gia đình chú rể khỏi  chuyện không hay. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.

Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN

1.- «Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người biết vui với người vui buồn với người buồn trong cuộc sống. 

Xướng: Chúng ta cùn g cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

2.- «Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy luôn nhìn ra nhu cầu của người khác và tìm cách giúp đỡ những người ấy.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

3.- «Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu biết nghe lời của Đức Maria và của các vị lãnh đạo Giáo hội mà thực hiện những điều Chúa Giêsu muốn chúng con làm.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

LỜI KẾT:

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại chúng con. Người đã tỏ vinh quang của Thiên Chúa qua dấu lạ đầu tiên ở Tiệc Cưới Cana. Và Người đã đem niềm vui đến cho chú rể và cô dâu trong ngày cưới của họ.

Chúng con xin Cha ban sức mạnh của Thánh Thần cho chúng con để chúng con luôn sống vì người khác, quan tâm đến nhu cầu của họ và giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn của cuộc sống. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha và Chúa chúng con  Amen.

Sàigòn ngày 14 tháng 01 năm 2022
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội


 

TN 2-C168: MẸ ƠI, CON HẾT RƯỢU RỒI!


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa yêu loài người

 

Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu hào phóng. Ngài đã dùng nhiều hình ảnh


Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu hào phóng. Ngài đã dùng nhiều hình ảnh như tình phụ tử, tình mẫu tử, nhất là tình phu thê để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người hiểu được phần nào mà sống trung thành và đáp đền cho xứng như đoạn trích Sách Tiên tri Isaia hôm nay.

Thiên Chúa yêu con người, cụ thể là dân Israel như người chồng yêu vợ mình. Tình vợ tình chồng có lúc thăng lúc trầm: say mê tươi mát cái thuở ban đầu, niềm vui ngày cưới, nhưng có lúc tưởng như dứt nghĩa đoạn tình. Đây Thiên Chúa “tỏ tình” với con người. Chúa nói: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).

Nhìn về quá khứ, Isaia hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng với phút hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa dành cho dân, dù dân đã bội nghĩa bất trung nhưng Chúa vẫn một lòng yêu thương gắn bó. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’” (Is 62,3). Chẳng những thế, Chúa còn yêu đem lòng sủng ái dân: “Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót” (Is 54,8).

Thánh hóa mối tình của họ

Khi ấy có Tiệc cưới tại Cana. Đức Mẹ và Chúa Giêsu cũng được mời. Tiệc đang vui thì hết rượu. Đức Mẹ ghé tai nói nhỏ với Chúa Giêsu rằng: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Nhưng Chúa Giêsu trả lời ngay: Thưa Bà “Việc đó đâu có liên can gì đến Bà và Con, Giờ Con chưa đến”.

Rõ ràng và quyết liệt như thế, bình thường, người nghe đã nản, hết hy vọng, thấy mình lỡ lời, sao lại can thiệp vào việc của người ta! Nhưng ơn Chúa Thánh Thần và đức Bác ái thúc đẩy, Đức Mẹ không nói nước đôi: “Nếu Người bảo gì” hoặc “Có thể Người bảo gì”, nhưng Mẹ nói xác quyết với niềm tin mạnh mẽ, Đức Mẹ nói với các người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo“(Ga 2,5).  Và phép lạ lẫy lừng chưa từng có, đã xảy ra ngay. Nước rửa tay bình thường của Cựu ước đã trở thành rượu hảo hạng của Tân Ước. Lý do là dâu rể đã mời Đức Mẹ và Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới.“Có Mẹ mọi nhẽ đều xuôi”.

Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi li dị ngày càng gia tăng; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết chung sống chung trọn đời.

Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mỏi, không ngừng nhường nhịn và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.

Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Người đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Người đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin?

Có Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi

Có Đức Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi là xác tín của những người hết lòng trông cậy vào tình mẫu tử của Đức Mẹ. Ngay từ khởi đầu, lịch sử Hội Thánh đã cho chúng ta thấy những ai biết chạy đến nương nhờ vào tình thương của Mẹ, núp dưới bóng Mẹ và tà áo của Mẹ đã trợ giúp, chở che trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta hãy dâng những kế hoạch, dự tính tương lai cho Mẹ. Hãy đến với Mẹ bằng niềm xác tín “có Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi”.

Noi gương gia đình Cana, khi hết rượu, nghĩa là tình gia đình nhạt phai, giảm đằm thắm, hãy mời Đức Mẹ đến nhà, trình bày cho Mẹ những bất hòa của chúng ta. Khi chúng ta ở trong những tình cảnh khó khăn, gặp khó khăn mà chúng ta không biết cách giải quyết, hay khi chúng ta lo lắng đau khổ, hoặc thiếu niềm vui, hãy đến với Mẹ Maria và thưa: “Mẹ ơi, chúng con hết rượu rồi, con biết làm sao đây, xin Mẹ giúp con với”. Hãy thưa với Mẹ. Chắc chắn Mẹ sẽ đến với Chúa Giêsu và nói: “Con ơi, nhìn xem người kia kìa, họ hết rượu rồi”. Và Mẹ sẽ trở lại và nói với chúng ta: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” (Ga 2,5).

Với lòng từ mẫu hay thương, Mẹ sẽ ngỏ lời cùng Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ, miễn sao chúng ta hãy hết lòng tin tưởng chạy đến cùng Mẹ, để Mẹ làm chủ tình cảnh thiếu thốn của cuộc đời ta. Ở đâu có Mẹ thì ở đó mọi nhẽ sẽ xuôi.

--------------------------

 

TN 2-C169: BIẾN ĐỔI


Lm Vũđình Tường

 

Để biến đổi thứ này sang thứ khác ta cần pha trộn trong việc biến đổi. Nếu không có pha trộn TN 2-C169


Để biến đổi thứ này sang thứ khác ta cần pha trộn trong việc biến đổi. Nếu không có pha trộn ta không thể biến đổi. Đức Kitô biến nước lã thành rượu thượng hảo hạng mà không cần pha trộn bất cứ thứ gì. Đức Kitô làm được việc đó bởi Ngài là Chúa của thế giới thiên nhiên. Ngài tạo dựng nên chúng và chúng luôn nghe lời Ngài.

Đám cưới là dịp vui mừng cho cô dâu, chú rể, cho gia đình hai họ và cho thực khách. Không cung cấp đủ thức ăn, thức uống cho khách là điều xấu hổ, mang tiếng suốt đời, một xỉ nhục cho gia đình. Đức Kitô và môn đệ Ngài đi dự tiệc cưới trong làng Cana. Giữa tiệc gia đình hết rượu. Có thể gia đình nghèo không đủ tiền mua rượu, cũng có thể gia đình chưa hề tổ chức tiệc nên thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức. Chúng ta không biết rõ. Điều chúng ta biết rõ là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đức Kitô biết nỗi khổ tâm của gia đình. Bà nói cùng Đức Kitô. Gia đình chủ tiệc hết rượu. Bà không hề yêu cầu Đức Kitô làm điều gì, chỉ thông báo cho Ngài biết gia đình gặp trở ngại lớn, hết rượu đãi khách. Dường như hai mẹ con tâm đầu í hợp trong vấn đề này. Cả hai cùng ngầm hiểu. Đức Kitô hiểu rõ Đức Trinh Nữ Maria mong muốn gì nơi Ngài. Đức Trinh Nữ tin là Đức Kitô sẽ làm điều gì tốt đẹp cho gia đình. Đức Kitô đáp với Đức Trinh Nữ. Việc này đâu can chi đến Mẹ, giờ Con chưa đến. Thoạt nghe câu này chúng ta có cảm tưởng dường như đây là lời từ chối khéo. Nhiều người bất bình điều Đức Kitô đáp. Đức Trinh Nữ Maria không hiểu khác. Bà tin Đức Kitô hứa làm điều tốt đẹp. Ngài nói với bà: Giờ con chưa đến nhưng vì mẹ yêu cầu con sẽ giúp họ trong trường hợp đặc biệt này. Hiểu như thế nên bà căn dặn gia nhân giúp việc trong tiệc cưới: Nếu Ngài bảo gì thì cứ làm theo. Ngạc nhiên thay, gia nhân vâng phục Đức Kitô và bà Maria.

Đức Kitô nói gia nhân hãy đổ nước đầy vào các chum vại trước cửa nhà. Đổ đầy nước tới miệng chum vại cho biết không còn có thể bỏ thêm thứ gì vào được nữa. Nếu bỏ vào nước sẽ tràn ra. Đức Kitô vẫn ngồi tại bàn cùng các môn đệ. Ngài nói với gia nhân mang nước lại cho chủ tiệc. Nuớc từ chum vại mang đến cho chủ tiệc biến thành rượu ngon. Chủ tiệc nói với chú rể. Rượu ngon, thượng hảo hạng này chú đem ra hơi trễ. Đúng ra phải mang ra ngay từ đầu tiệc; ai lại chờ cho khác gần say mới mang rượu thượng hảo hạng ra bao giờ. Chủ tiệc nói thế bởi ông không biết rượu từ đâu đến. Không ai hiểu Đức Kitô làm thế nào mà nước lã biến thành rượu ngon, kể cả kẻ giúp việc cũng không biết. Khách dự tiệc chỉ biết thưởng thức, còn rượu từ đâu đến thì ai cũng tin là do chủ tiệc cung cấp. Chủ tiệc thì trong lòng nóng như lửa đốt vì nhà hết rượu, tìm đâu ra rượu đãi khách cho đỡ mất mặt.

Điều rõ ràng, Đức Kitô không hề đụng chạm đến chum vại, cũng không hề đến gần nước. Nước biến thành rượu ngon bởi chúng vâng lệnh Ngài. Chỉ có một giải thích hợp lí duy nhất là từ í định thầm kính trong tâm tư Đức Kitô, Ngài ra lệnh cho nước biến thành rượu và chúng vâng phục. Đức Kitô làm được việc khác thường, trái luật thiên nhiên bởi Ngài là Chúa của thế giới thiên nhiên. Rất ít khi Đức Kitô can thiệp vào luật thiên nhiên và chúng luôn nghe theo lời Ngài. Biến nước thành rượu, Ngài đi trên ngọn sóng, Ngài ra lệnh cho sóng gió im lặng, Ngài hoá bánh ra nhiều, Ngài cho Phêrô mẻ cá lớn bắt gần bờ hồ, đều là những thí dụ điển hình.
Phép lạ nước lã thành rượu ngon cho chúng ta một số bài học đức tin.

Thứ nhất, Đức Kitô có thể làm phép lạ cách khác nhưng ngài chọn cho phép gia nhân đóng góp vào việc Ngài hoá nước thành rượu. Bởi được cộng tác với Ngài nên gia nhân cũng được chia sẻ vinh quang Ngài ban cho họ, và họ cảm thấy hữu dụng trong việc phục vụ. Ngày nay Đức Kitô tiếp tục kêu gọi Kitô hữu sống phục vụ chia sẻ công việc hai ngàn năm trước ngài bắt đầu trong cuộc đời rao giảng công khai.

Thứ hai, sáu chum vại đựng nước dùng rửa tay theo phong tục thanh tẩy của người Do Thái. Đức Kitô biến nước thanh tẩy thành rượu cho biết nước thường trở thành rượu đặc biệt. Điều này cho biết bất cứ điều gì Đức Kitô thực hiện đều mang lại hoan lạc cho con người, đồng thời giúp giải quyết khó khăn ngoài khả năng con người có thể thực hiện.

Thứ ba, Đức Kitô dự tiệc cưới tái xác định điều Thiên Chúa dậy về bí tích Hôn Nhân. Sau này kẻ chống đối thử hỏi Ngài. Họ hỏi có được phép li dị không? Đức Kitô một lần nữa tái xác nhận giá trị truyền thống gia đình và tính bất di bất dịch của bí tích Hôn Nhân. Sự gì Thiên Chúa liên kết, con người không được phép phân li. Rõ ràng khi Thiên Chúa là trung tâm điểm cuộc sống gia đình, gia đình đó hạnh phúc, yên vui, đầm ấm.

Thứ tư, Đức Trinh Nữ Maria và Đức Kitô không đến dự tiệc mà không có quà tặng. Thực ra sự hiện diện của các Ngài là món quà quí hơn mọi món quà. Biết thế nhưng các Ngài vẫn mang quà lại cho đôi tân hôn để nói lên tầm quan trọng bí tích Hôn Nhân Thiên Chúa Giáo. Đức Kitô tặng đôi tân hôn hàng ngàn lít rượu thượng hảo hạng. Số rượu còn lại sau tiệc cưới, đôi tân hôn có thể mang bán lấy tiền trang trải tiệc cưới, đồng thời có vốn tạo dựng cuộc sống gia đình trong tương lai.

Một khi Chúa trao ban, Ngài luôn cho dư thừa.

----------------------------

 

TN 2-C170: HỌ HẾT RƯỢU RỒI


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Trong Tin Mừng, chỉ có bảy lời của Đức Maria (Lc 1, 26-34; Lc 1, 35-38; Lc 1, 39-45; Lc 1, 46-56 TN 2-C170


Trong Tin Mừng, chỉ có bảy lời của Đức Maria (Lc 1, 26-34; Lc 1, 35-38; Lc 1, 39-45; Lc 1, 46-56; Lc 2, 41-52; Ga 2, 1-4; Ga 2, 5-11). Lời thứ sáu “Họ hết rượu rồi” là lời ngắn nhất trong các lời Đức Maria nói lên giữa cuộc sống bên cạnh Ngôi Lời làm người. Lời ngắn nhưng có thể hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau, bổ sung cho nhau nêu lên chân dung một người Mẹ tuyệt vời, gắn bó mật thiết với hạnh phúc của các gia đình.

“Họ hết rượu rồi”: một lời thông tin

Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.

Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì nay được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, đây là cơ hội đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.

Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn cho cả cô dâu lẫn chú rể.

Không ai hay, kể cả chủ tiệc; không ai để ý, kể cả tân lang. Vả lại khi đã ngà ngà hoa mắt rồi, khách có để ý đi nữa cũng chẳng thấy. Thế mà trong số khách hôm ấy có người đã để ý và đã thấy. Người ấy nhẹ nhàng nói với Chúa Giêsu: “họ hết rượu rồi”.

“Họ hết rượu rồi”: một lời thông cảm

Người khách đặc biệt ấy chính là một phụ nữ thật tinh ý và có tấm lòng trắc ẩn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Với trái tim nhảy cảm, với tấm lòng từ mẫu, Mẹ tự mình can đảm vào cuộc. Mẹ coi việc đám cưới là việc nhà mình và coi chuyện hết rượu là chuyện của chính mình. Từ đó Mẹ tận tụy chẳng quản ngại gì nữa, đi lại giữa một đàng là con mình và đàng khác là các gia nhân, dàn xếp và chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, miễn sao mọi người đều vui. Sở dĩ Mẹ nhận thấy tình hình khó khăn của gia chủ, theo Đức Thánh cha Phaolô VI là vì Mẹ là người biết lắng nghe, một trinh nữ lắng nghe. Để có thể nói lời thông cảm, chắc chắn Mẹ phải rất tinh tế để nghe được nỗi xôn xao trong gia đình, những bước chân vội vã đi tìm rượu và Mẹ còn nghĩ đến những gì sẽ xảy ra sau khi tiệc tan cho nên Mẹ dặn dò các gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”.

“Họ hết rượu rồi”: một lời chuyển cầu

Lời “họ hết rượu rồi” trong cấp độ khách quan chỉ là lời thông tin của một thực khách tinh ý, và trong cấp độ tình cảm lại là lòng trắc ẩn của trái tim người nữ sẵn sàng dấn thân đảm đang công việc, nhưng chính trong cấp độ đồng hành thiêng liêng, người ta mới thấy lời ấy quả là một lời nhiệm mầu của Mẹ Đức Giêsu mở vào tấm lòng của Đấng Cứu Thế con mình, và đồng thời mở ra ân sủng thánh hóa những giá trị trần đời. Người thực khách tinh ý và giàu lòng trắc ẩn chính là “thân mẫu Chúa Giêsu”.

Khi thấy đám cưới hết rượu, Đức Maria không đi tìm rượu ở chỗ khác nhưng lại đến thẳng chỗ con mình và nói lên niềm tin tưởng trọn vẹn của Mẹ. Đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Ở trường hợp khó khăn như thế này, người duy nhất làm thay đổi tình thế không phải là ai khác ngoài Chúa Giêsu, dẫu cho tới lúc đi ăn cưới, Mẹ chưa thấy Chúa Giêsu thực hiện một phép lạ nào ở quê hương Nazarét hay ở nơi đâu khác. Như vậy, tại Cana, Đức Maria đã bày tỏ thêm lần nữa tâm tình tín thác đã có từ ba mươi năm trước khi thưa tiếng xin vâng. Nếu ngày truyền tin, Đức Maria đã tin vào Chúa Giêsu trước khi thấy Người bằng xương bằng thịt, nên đã xin vâng dẫn đến việc thụ thai trinh khiết, thì ở Cana, khi tin tưởng vào quyền năng chưa được tỏ lộ của con mình, Mẹ đã xin vâng mở đường dẫn đến “dấu lạ đầu tiên” của Chúa Giêsu biến nước lã thành rượu ngon, vun bồi lòng tin cho các môn đệ.

Như vậy, lời “họ hết rượu rồi” bên ngoài xem ra thật ngắn ngủi, nhưng bên trong lại ẩn chứa cả một kho tàng phong phú của một tấm lòng vừa tuyệt đối tin tưởng vừa chan chứa yêu thương. Tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Giêsu dù giờ Người chưa đến và yêu thương tận tụy dành cho đám cưới cũng như dành cho các môn đệ đầu tiên mới dò bước theo Thầy.

Chính vì thế, lời thứ sáu của Đức Maria “họ hết rượu rồi” dẫn tới lời đáp của Chúa Giêsu “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” để có kết thúc là phép lạ ngoạn mục, vẫn được nhắc đến như hình mẫu sự hợp tác của Mẹ Maria vào chương trình cứu chuộc của con mình, dẫu đó là một sự hợp tác vượt lên vai trò làm mẹ tự nhiên để bước sang lãnh vực của niềm tin và của hy vọng.

Lời thứ sáu này còn được ghi nhớ như một lời chuyển cầu đầy hiệu quả của Đức Maria bên cạnh Chúa Giêsu, để hôm qua ở Cana chúc lành cho một gia đình và hôm nay tiếp tục chúc lành cho mọi gia đình khác biết mình đang trong tình trạng thiếu rượu tình yêu và hạnh phúc. Qua tiệc cưới Cana, với con tim trắc ẩn, với câu nói ân cần và với bàn tay nhân lành, Mẹ đích thực là Mẹ hằng cứu giúp, không ở trên cao mất công cúi xuống, cũng không ở ngoài xa mất giờ đến gần, mà như người trong cuộc tận lực tận tình cứu giúp, để cuộc sống gia đình vốn như nước lã nhạt phèo đã được thánh hóa nên rượu thơm nồng nàn hạnh phúc. Đức Maria chính là Mẹ của các gia đình.(x. Bảy lời của Đức Maria, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).

Hãy đến với Mẹ Maria

Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước lã thành rượu hảo hạng. Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân : “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.

Sự kín đáo của Mẹ được thể hiện qua việc không nêu danh Giêsu trong câu nói, để Chúa Giêsu tự do biểu lộ mình theo cách của Ngài và đúng lúc “hữu xạ tự nhiên hương”, qua việc Chúa làm, dân chúng sẽ nhận biết Ngài. Sự kín đáo ấy còn thể hiện qua việc Mẹ nhẹ nhàng rút lui khỏi hiện trường dành sáng kiến cho Chúa Giêsu dùng lời Ngài mà đến với mọi tâm hồn. Vài trò trung gian của Mẹ là dẫn người ta đến gặp Chúa Giêsu, mà một khi người ta đã đến được rồi, Mẹ trở lại phong thái muôn thuở là “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”.

Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.

Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25-27). Cả hai trình thuật nối kết với nhau chặt chẽ và giải nghĩa lẫn nhau. Sự hiện diện của thân mẫu Đức Giêsu, cách xưng hô, giờ chưa đến và giờ đã đến là những yếu tố nối kết hiển nhiên. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ buồn. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.

Ngày kết hôn ai cũng ao ước được duyên thắm chỉ hồng mãi mãi được vuông tròn, trăm năm hạnh phúc, tình yêu mãi được tươi đẹp và chỉ có một mối tình duy nhất : tình yêu vợ chồng bền chặt. Rồi dọc dài theo năm tháng, hôn nhân không phải lúc nào cũng màu hồng tươi thắm, mà còn có những trắc trở, lúng túng, khó khăn. Cuộc sống không hiếm lúc hết rượu, cạn nguồn vui, bế tắc nẻo đường dẫn đến hạnh phúc. Cũng không ít những tình thế bất trắc chứa đầy lo âu, hệt như hoàn cảnh của chủ tiệc lúc hết rượu. Nào xung đột, bất hoà, nào hiềm khích, mâu thuẫn chỉ vì một sự cố ngoài tiên liệu. Hãy noi gương Mẹ, nói với nhau lời thông tin trong sự thật và bác ái, nói với nhau lời thông cảm và cùng nhau nói lời thỉnh cầu lên Chúa xin Ngài ban ơn nâng đỡ. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo…”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta. Khi các gia đình gặp khó khăn thử thách, hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ. Khi tình yêu trong gia đình trở nên lạnh lẽo, hãy cậy nhờ Mẹ can thiệp trước nhan Chúa, để nước lã những sinh hoạt tẻ nhạt mỗi ngày được biến thành rượu ngon, khó khăn được giải quyết, tình yêu được tuôn tràn và đổi mới. Tình yêu hôn nhân đã được chính Chúa thiết lập và thánh hóa. Ân sủng bí tích hôn nhân giúp các cặp vợ chồng trung thành và yêu thương nhau suốt đời. Bên cạnh những nỗ lực để cải thiện đời sống gia đình, hãy khiêm tốn khẩn nài với Đức Maria, để Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện phép lạ Cana, nhờ đó các gia đình không bao giờ bị thiếu rượu an vui, nhưng luôn chan chứa tình yêu do Thiên Chúa rộng ban.

Mầu nhiệm Năm Sự Sáng: Thứ Hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Hàng ngày, mỗi gia đình hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa.

-----------------------------

 

TN 2-C171: HẾT HAY CÒN


Trầm Thiên Thu

 

Phú quý sinh lễ nghĩa. Bần cùng sinh đạo tặc. Giàu hay nghèo cũng đều rắc rối. Ngày xưa, ông TN 2-C171


Phú quý sinh lễ nghĩa. Bần cùng sinh đạo tặc. Giàu hay nghèo cũng đều rắc rối. Ngày xưa, ông A-gua nhận là ngu dốt và cho biết lý do: “Quả tôi ngu dốt hơn mọi người, không có chút thông minh của con người. Tôi đã không được học hỏi về sự khôn ngoan, không hiểu biết chi về Đấng Thánh.” (Cn 30:2-3) Biết mình, đó là người khôn ngoan; biết người, đó là người sáng suốt. Và ông cầu nguyện: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: ‘Đức Chúa là ai vậy?’ hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con.” (Cn 30:7)

Vì “phú quý sinh lễ nghĩa” nên người ta càng ngày càng bày vẽ đủ thứ, chỉ là bề nổi chứ chẳng có chiều sâu. Nhưng rồi dịch bệnh xảy ra, người ta khó khăn về nhiều thứ, điều đó khiến người ta giảm bớt hình thức. Bài học vô giá Chúa dạy rất cụ thể.

Có những thứ tưởng hết mà còn, có những thứ ngỡ còn mà hết. Nhận thức nhưng vẫn cần ý thức, nếu không thì vô ích. Tinh tế là khả năng cần tôi luyện để phân định những tình huống trải nghiệm cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê ngày nay. Người tinh tế có thể cảm nhận cảm xúc của người khác qua ánh mắt, thái độ, lời nói hoặc hành động, để rồi mình tác động một cách hợp lý nhất.

Thánh Phaolô khuyên: “Hãy thận trọng trong mọi sự.” (2 Tm 4:5) Và Franklin so sánh: “Thiếu thận trọng còn tai hại hơn thiếu hiểu biết.” Sự tế nhị cũng là một đức tính đối nhân xử thế, là loại ngôn-ngữ-không-lời mà ai cũng hiểu được, không cần được thông dịch hoặc phiên dịch. Chỉ số EQ (Emotion Quotient – chỉ số xúc cảm) quan trọng hơn IQ (Intelligence Quotient – chỉ số thông minh).

Cách giao tiếp liên quan nhiều vấn đề. Cách giao tiếp lịch sự và tế nhị của phụ nữ Sunêm và ông Êlisa được đề cập trong trình thuật 2 V 4:8-37.

Khi ông Êlisa đi qua miền Sunêm, nơi có một phụ nữ giàu sang, bà này giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào và dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.” Phụ nữ này như có “thiên nhãn” vậy, loại “con mắt thứ ba” rất tinh tường, hơn cả thầy tướng số, tử vi hay bói toán, bởi vì bà chỉ nhìn dáng người mà biết được Ê-li-sa là thánh nhân của Thiên Chúa. Rất tinh tế!

Có lần đến nơi ấy, ông lên phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông bảo tiểu đồng Giêkhadi đi gọi bà Sunêm và dặn nó nói với bà ấy đừng quá lo lắng bận rộn vì thầy trò ông, và hỏi bà xem phải làm gì cho bà, có cần phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà hay không. Bà khiêm nhường nói rằng bà vẫn sống yên hàn. Ông Êlisa hỏi tiểu đồng nên làm gì cho bà ấy. Giêkhadi nói: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già.” Ông Êlisa bảo tiểu đồng đi gọi bà ấy. Nó đi gọi bà và bà ấy đến. Ông Êlisa nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.” Bà quan ngại: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!” Thế nhưng sau đó bà ấy có thai, và đúng năm sau, cũng vào độ mà ông Êlisa đã nói, bà sinh một con trai. Cuộc giao tiếp thận trọng và đầy tính nhân bản, vì đôi bên đều biết mình phải làm gì.

Đứa trẻ lớn khôn theo thời gian. Một hôm, khi nó đi kiếm cha giữa những người thợ gặt, nó nói với cha: “Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!” Người cha bảo đầy tớ bồng nó về cho mẹ nó. Người mẹ ôm con tới trưa thì nó chết. Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại. Bà đi gọi chồng và bảo chồng sai đầy tớ với một con lừa cái đến với bà, bà sẽ chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về. Người chồng hỏi tại sao bà lại đi gặp ngài vào hôm đó, vì chưa tới ngày đầu tháng, cũng chẳng là ngày sa-bát. Bà bảo ông cứ yên tâm.

Anh đầy tớ đưa bà đi, chỉ dừng xe khi bà bảo. Bà đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men. Vừa thấy bà từ xa, người của Thiên Chúa nói với tiểu đồng ra đón bà, hỏi ông bà và cậu bé có được mạnh khoẻ không. Bà bình tĩnh và tế nhị trả lời: “Vâng, mạnh khoẻ cả.” Nhưng khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: “Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Đức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết.” Bà nói: “Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói là xin đừng đánh lừa tôi đó sao?” Khoảng buồn khôn tả!

Tuy nhiên, ông Êlisa bảo Giêkhadi thắt lưng và lấy gậy của ông mà đi, gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại, rồi đặt gậy của ông trên mặt cậu bé. Người mẹ nói: “Có Đức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài.” Ông trỗi dậy và đi theo bà. Giêkhadi đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Êlisa và nói: “Cậu bé đã không thức dậy.” Khi ông Êlisa tới nhà thì cậu bé đã chết trên giường của ông. Ông đi vào, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Sau đó, ông làm động tác “kỳ lạ” lắm: Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, và rồi da thịt nó dần nóng lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó. Nó hắt hơi bảy lần và mở mắt ra. Thật kỳ diệu, cậu bé đã hồi sinh!

Ông Êlisa bảo Giêkhadi gọi ngừi mẹ. Đây là lần thứ ba nó làm theo lời ông Êlisa. Nó đi gọi bà. Bà đến. Ông nói: “Bà hãy đem con đi!” Bà đi vào, quỳ dưới chân ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà bế con trai đi. Phép lạ nhãn tiền. Và chỉ có Thiên Chúa làm được như vậy!

Sau sự kiện lạ lùng này, chúng ta còn được biết thêm về vụ “nồi cháo độc” ở Ghin-gan. (x. 2 V 4:38-44) Quả thật, ông Êlisa là “người của Thiên Chúa” như phụ nữ Sunêm đã nói. Nồi cháo đầy độc tố hóa thành “nồi cháo ngon” vì mọi người ăn mà không chết. Chất độc kia lại là “gia vị” lạ lùng và ngon vô cùng!

Không hạnh phúc nào mà vắng bóng gian khổ, không thành công nào mà không có thất bại. Vinh quang có được là nhờ dày công khổ luyện. Đó là hệ lụy tất yếu. Ngôn sứ Isaia xác định: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho.” (Is 62:1-2) Tất cả gian khó đã qua, tủi nhục đã hết: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.” (Is 62:3)

Và từ nay, chẳng ai còn réo tên mà mỉa mai là “đồ bị ruồng bỏ” hoặc mang tiếng là “phận bạc duyên đơn,” nhưng được trìu mến gọi là “ái khanh,” là “duyên thắm chỉ hồng.” Tại sao? Vì được Đức Chúa đem lòng sủng ái và lập hôn ước. Hoàn toàn thuộc về Chúa, hạnh phúc biết bao! Kinh Thánh so sánh: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về; như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 62:5)

Đó cũng là hình bóng của chúng ta, những người đã được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc bằng Giá Bửu Huyết vô giá của Ngài. Vì thế, chúng ta phải dành trọn cả cuộc đời mà nức tiếng xưng tụng Thiên Chúa, đồng thời còn phải mời gọi người khác cùng hợp lời tán dương.

Ngày xưa, Thánh Vịnh gia không thể cầm lòng nên đã phải thốt lên: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn. Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là Đại Vương trổi vượt chư thần. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:1-3) Nhưng chúng ta cứ nói rồi thôi, hứa rồi quên. Bản chất phàm nhân là thế, và hầu như ai cũng có máu của dòng tộc “họ hứa.”

Thiên Chúa biết rõ như vậy nhưng Ngài vẫn làm thinh, chờ chúng ta sám hối. Ngày xưa, chính Ngài đã cảnh cáo dân, và ngày nay Ngài cũng đang cảnh báo đối với mỗi chúng ta: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm. Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95:8-10)

Có nhiều đặc sủng nhưng chỉ xuất phát từ một gốc là Thiên Chúa. Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Đó là chân lý muôn thuở, bất biến. Thánh Phaolô phân tích: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” (1 Cr 12:4-7)

Để rõ ràng hơn, Thánh Phaolô lý giải: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người.” (1 Cr 12:8-11) Người khác thế nọ, bạn thế kia, còn tôi thế này. Không ai giống ai. Đừng tưởng tôi “ngon” hơn người mà khoe mẽ, vênh vang tự đắc. Được ơn mà không làm vinh danh Chúa và không sinh lợi thì còn khốn hơn người khác. Sự khác nhau không phải để khen chê nhau, mà là để bổ túc lẫn nhau, đặc biệt là để nâng đỡ nhau.

Sự kiện tiệc cưới tại Cana (Ga 2:1-12) là trình thuật Tin Mừng rất quen thuộc. Qua đó, chúng ta thấy Đức Mẹ rất tinh tế đối với người khác, đặc biệt là tình huống khó xử của đôi tân hôn. Rượu cũng là vấn đề quan trọng với ý nghĩa “men tình yêu” trong đời sống hôn nhân gia đình.

Hôm đó, Đức Mẹ và Đức Giêsu cùng với các môn đệ được mời dự một tiệc cưới tại Cana, miền Galilê. Tiệc vui đang lúc cao trào thì có “sự cố” ngoài dự tính của gia chủ: Hết rượu. Đức Mẹ rất tinh ý nên biết gia chủ đang khó xử vì thiếu rượu. Hiểu ý, Đức Mẹ nói nhỏ với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi.” Thế nhưng Đức Giêsu lại thản nhiên: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến Mẹ và Con? Giờ của Con chưa đến.” Mặc dù nghe Con Trai nói vậy, Đức Mẹ vẫn nói với gia nhân: “Hễ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Đức Mẹ biết rõ Chúa Giêsu sẽ hành động, và Đức Mẹ cũng biết mình làm điều hợp lý.

Ở đó có sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo tục lệ Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng 80 – 120 lít nước. Tính đổ đồng mỗi chum chứa 100 lít nước, vậy là 600 lít. Người ta có uống nhiều lắm thì cũng chỉ trăm lít thôi. Hết rượu hóa thành còn rượu, thậm chí là thừa rượu.

Người ta đổ đầy nước vào các chum theo lời Chúa Giêsu nói, vì đã được Đức Maria dặn trước rồi. Họ đổ nước vào các chum rồi, Ngài bảo họ múc và đem cho ông quản tiệc. Ông này nếm thử thì thấy rượu hảo hạng mà không biết từ đâu ra mà nhanh và ngon như vậy. Người quản tiệc nói với tân lang: “Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” Chú rể cũng ngạc nhiên vì không hiểu gì, cười trừ thôi. Chắc chắn chú rể là người hạnh phúc nhất, gấp không thể diễn tả bằng lời.

Rượu hết lại có. Tình yêu hôn nhân gia đình cũng vậy. Cuộc sống khó khăn có thể làm cho tình yêu cằn cỗi, khô dần, nhưng không thể cạn kiệt. Tình yêu là chất men làm dậy men cả thúng bột hôn nhân và thúng bột gia đình. Chỉ cần có chút men tình yêu thì phép lạ sẽ xảy ra. Thiên Chúa không muốn hành động một mình, Ngài muốn con người cộng tác với Ngài để cùng xây dựng tổ ấm như Thiên Đàng ngay trên trần gian này vậy. Rượu tình càng ngon thì hôn nhân và gia đình càng say đắm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng là tình yêu – như Thánh Gioan đã định nghĩa. (1 Ga 4:8 và 16)

Thánh Gioan cho biết rằng phép lạ tại tiệc cưới Cana là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện khi công khai sứ vụ. Cana chỉ là ngôi làng nhỏ bé nhưng đã được nhiều người biết đến, bởi vì được Chúa Giêsu chọn làm nơi vinh danh Thiên Chúa. Thấy dấu lạ nhãn tiền, các môn đệ đã tin vào Ngài và can đảm đi theo Ngài tới cùng.

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin tạo men yêu nơi chúng con để chúng con luôn tin yêu Ngài qua tha nhân, đủ sức vượt qua mọi nghịch cảnh. Xin giúp chúng con biết đồng cảm với mọi người như Đức Mẹ đã thể hiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

---------------------------

 

TN 2-C172: PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN CỦA CHÚA GIÊSU


Giuse Phạm Đình Ngọc

 “Họ hết rượu rồi.” (Ga 2,3)

Quý vị thân mến,

 

Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu làm rất nhiều phép lạ mà các Thánh sử đã kể lại TN 2-C172


Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu làm rất nhiều phép lạ mà các Thánh sử đã kể lại. Những phép lạ ấy không chỉ thể hiện uy quyền của Con Thiên Chúa đến từ trời cao, nhưng còn thể hiện lòng thương xót vô bờ của thầy Giêsu dành cho nhân loại. Chúng ta vẫn biết phép lạ là việc Thiên Chúa làm, có thể nhận biết bằng giác quan, như dấu chỉ của sự hiện diện và ý hướng cứu độ của Ngài. Trong Chúa Nhật 2 thường niên hôm nay, độc giả sẽ ngạc nhiên khi thấy phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm lại liên quan đến một đám cưới của người Do Thái. Chỉ có thánh Gioan “quay lại” cảnh phép lạ này tại Cana, gần Nadarét, miền Galilê. (Ga 2,1–11).

Sau khi chọn gọi các môn đệ đầu tiên (trong đó có Na–tha–na–en)[1], Đức Giêsu cùng với các ông đến miền Cana để tham dự một đám cưới. Cũng như Nadarét, làng Cana chẳng giàu có gì. Tại sao họ lại được mời? Có thể gia đình cô dâu chú rể có họ hàng với Đức Mẹ, nên các môn đệ cũng đi “ăn ké”. Hoặc Na–tha–na–en là người Cana nên có liên hệ với đám cưới này, rồi họ mời ông và những người khác trong nhóm của ông. Lý do thứ ba có thể gia chủ mời cả Đức Mẹ, Đức Giêsu và các môn đệ đến dự tiệc cưới. Càng đông, càng vui! Dẫu sao, trong tiệc cưới ngày hôm ấy có Maria, Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.

Dĩ nhiên rượu là thứ không thể thiếu trong một bữa tiệc, nhất là tiệc mừng ngày thành hôn.[2] Thời đó người ta thường dùng rượu nho để nâng ly chúc mừng cô dâu chú rể. Tuy nhiên đám cưới này đang rơi vào thế kẹt vì thiếu rượu. Chạy đâu đi mua hoặc đi mượn bây giờ! Với số lượng thực khách đông đảo, chắc hẳn đôi tân hôn không thể làm gì khác ngoài lời xin lỗi hết rượu.

Trong lúc ấy, chính Mẹ Maria đã nhận ra lo lắng “trăm mối tơ vò” của gia chủ. Mẹ nhạy cảm nhận ra nhu cầu cấp thiết của đôi tân hôn. Có thể Mẹ là người trong dòng họ gia đình, nên Mẹ sớm nhận ra vấn đề ấy. Biết sao bây giờ? Mẹ cũng chẳng làm gì khác hơn là than thở với Giêsu, con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi?” Hẳn là Mẹ không yêu cầu Giêsu làm một phép lạ, bởi từ trước tới giờ Mẹ chưa từng thấy con của mình làm dấu lạ hay phép lạ nào. Thôi thì Mẹ chia sẻ lo lắng với Giêsu để chia vơi nỗi lo cùng đôi tân hôn.

Mẹ và các môn đệ ngạc nhiên về câu trả lời của Thầy: “Hỡi người nữ, cái gì cho con và cho bà.” (dịch sát nghĩa). Thầy gọi Mẹ Maria trong đại từ  “người phụ nữ” để cho thấy kiểu nói của người Do Thái thời ấy: Thầy từ chối can thiệp vào trường hợp này, vì chưa đúng lúc. (Giống như ngày xưa vua Đa–vít trả lời bà Xơ–ru–gia: “Chuyện của ta can gì đến các người, hỡi các con bà Xơ–ru–gia.” (2 Sm 16,10.) Thôi thì Thầy đã từ chối làm chuyện phi thường lúc này. Biết sao được?!

Mẹ bước ra gặp các gia nhân dặn họ nếu Thầy bảo gì các ông cứ làm theo. Hóa ra Mẹ vẫn còn hy vọng từ người con của mình. Đừng quên chính Chúa Giêsu “nhờ sự tin tưởng của cha mẹ mà Ngài lớn lên trong tự do và học cách bước đi với tất cả những người khác.” (Tông Huấn Đức Kitô Sống, số 29).

Nhìn quanh đám tiệc, chú ý đến cô dâu chú rể, Đức Giêsu chắc hẳn thương cho đôi tân hôn. Thầy cũng sợ niềm vui của họ không trọn vẹn nên bảo các gia nhân đổ nước vào chum. Ở đó có sáu cái chum, mỗi chum chứa độ 80–120 lít nước. Thế là họ đổ đầy nước đến miệng chum. Khi hoàn tất nhiệm vụ, Đức Giêsu bảo họ múc đem cho quản tiệc. Ông ta nếm thử nước đã hóa thành rượu thì ngạc nhiên khôn cùng. Ở đâu ra thứ rượu ngon như thế này! Ông còn trách tân lang tại sao không thết đãi rượu ngon trước.

Từ giây phút đó, đám cưới thêm vui vì có rượu ngon hảo hạng, đôi tân hôn thêm hạnh phúc vì có Thầy Giêsu làm dấu lạ đầu tiên trong tiệc cưới của mình. Chúc mừng đôi bạn! Từ ngày hôm đó, phép lạ này luôn nổi tiếng trong những đám cưới của người Kitô giáo. Nổi tiếng vì đôi bạn được Chúa Giêsu thánh hóa. Ngài nâng ly rượu mừng, chúc phúc cho mối tình của đôi bạn. Qua đó, Thiên Chúa kết hợp họ “thành một xương một thịt.” Ngài ban ơn thiêng để kết nối đôi bạn trọn đời bên nhau. Ngài thánh hóa gia đình mới để trong đời sống, họ luôn “dắt dìu nhau trên đường tình, dìu nhau trên con đường mến yêu.”

Nếu có dịp đi Đất Thánh, người ta thường thăm lại ngôi nhà đặc biệt ở tại Cana. Nơi đây còn lưu giữ biết bao kỷ niệm của lần Đức Giêsu làm phép là đầu tiên. Người ta còn chứng kiến các chum rượu cũ sờn với thời gian được đặt dưới tầng hầm nhà thờ. Các đoàn hành hương thường dâng thánh lễ cho các đôi vợ chồng để nhớ lại biến cố ngày xưa với ước mong: Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu vợ chồng.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng nhận thấy nét đẹp và tầm quan trọng của đời sống hôn nhân. Tiếc rằng thời đại hôm nay, cuộc sống gia đình đang phải đối diện với quá nhiều khủng hoảng. Trong gia đình, không phải lúc nào đôi bạn cũng hạnh phúc như ngày thành hôn, không êm đẹp như cái thuở ban đầu. Bởi đó, kiến tạo một gia đình hạnh phúc đòi hỏi rất nhiều tình yêu và ơn sủng. Cần tình yêu để duyên tình của đôi tân hôn mãi nở hoa, cần Thiên Chúa để Người ban ân sủng cho họ trong cuộc sống lứa đôi. Được như thế, chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ làm phép lạ đầu tiên tại Cana, nhưng mỗi ngày, Người vẫn hằng trao ban nhiều phép lạ trong đời sống gia đình.

Hẳn rằng đôi bạn nào cũng muốn mời Chúa đến dự tiệc cưới. Trong ngày thành hôn, Chúa chúc phúc và ban ơn lành cho đôi tân hôn. Để từ đó về sau, đôi bạn bước vào đời sống gia đình luôn có Chúa ở cùng. Nhờ đó tình yêu của họ luôn thắm mãi tình ban đầu.

“Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa đến chung chia cuộc sống với họ. Ước mong mỗi đám cưới luôn có phép lạ xảy ra, vì có Chúa Giêsu hiện diện. Nhờ đó cuộc sống gia đình của chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc dài lâu.” Amen.
- - - - - - -
[1] Thánh Bartolomeo – trong Phúc Âm đôi khi còn được gọi là Nathanael – là một trong mười hai tông đồ. Ngài quê ở thành Cana xứ Galilê.

[2] Hôn nhân trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu: khi hôn ước được ký, việc đính hôn sẽ diễn ra. Sau đó khoảng 1 năm, hai người sẽ làm đám cưới, lễ thành hôn. Sau lễ cưới, dĩ nhiên là tới tiệc cưới thường diễn ra bên nhà trai, kéo dài cả tuần lễ.
---------------------------

 

TN 2-C173: THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN GIỮA DÂN NGƯỜI


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Nếu các tác giả Tin Mừng nhất lãm đều giới thiệu sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông TN 2-C173


Nếu các tác giả Tin Mừng nhất lãm đều giới thiệu sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giordan như một nghi thức “phong vương”, qua đó Chúa Giêsu được Chúa Cha long trọng giới thiệu, thì tác giả Tin Mừng thứ Bốn lại muốn đặt sự kiện Chúa Giêsu tỏ mình qua phép lạ đầu tiên ở tiệc cưới Cana. Do sự kiện này, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện, và các môn đệ tin vào Người.
 
Thánh Gioan cũng là tác giả Tin Mừng duy nhất kể lại phép lạ Cana. Khởi đi từ lời tuyên bố : Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta, ông muốn diễn tả hình ảnh một Đức Giêsu đến trần gian để sống giữa mọi người. Người chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời nhân thế. Người hiện diện giữa họ để đem cho họ niềm vui. Chúa hiện diện trong những tiệc cưới, đám tang là những sự kiện rất đỗi thường tình của cuộc sống. Người đến tiệc cưới để chúc lành và làm cho niềm vui của cô dâu chú rể nên trọn vẹn.
 
Ý niệm về Chúa Giêsu như một “chàng rể” cũng được nhắc tới trong các Tin Mừng, nhất là trong Tin Mừng Thánh Gioan. Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Người đến trần gian để nối kết con người với Thiên Chúa. Với việc Ngôi Hai nhập thể làm người, nhân loại bước vào một kỷ nguyên mới, vui mừng hân hoan như một tiệc cưới. Thánh Gioan Tẩy giả, khi nói về Chúa Giêsu, cũng dùng hình ảnh chàng rể, và ông khiêm tốn nhận mình là người phù rể (x. Ga 3,25-30). Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người hiện diện giữa nhân loại như chàng rể. Nhân loại được mời gọi đón chờ Người như chờ đón chàng rể của hôn lễ (x Dụ ngôn mười trinh nữ, Mt 25,1-13). Hình ảnh tiệc cưới cũng được dùng trong Cựu ước để diễn tả niềm vui của dân tộc Do Thái vì có Chúa hiện diện (Bài đọc I). Đây cũng là viễn cảnh tương lai, khi lịch sử nhân loại đến hồi kết thúc, nhường chỗ cho trời mới đất mới, được diễn tả như tiệc cưới của Chiên Con, lúc đó, vinh quang Chúa sẽ bao trùm tất cả, niềm hân hoan sẽ tràn ngập vũ trụ (x Kh 19,1-7).
 
Trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, những nhân vật chủ chốt đứng lo tiệc cưới xem ra lại là những người rất thụ động. Đó là cô dâu chú rể và người quản tiệc. Họ hoàn toàn không biết những gì đã xảy ra. Chỉ có những gia nhân là biết rõ do đâu mà có rượu ngon vào lúc cuối tiệc. Chính Chúa Giêsu đã chủ động làm phép lạ, với lời thỉnh cầu rất tinh tế và hiệu quả của Đức Trinh nữ Maria. Phép lạ xảy đến do quyền năng của Thiên Chúa và với sự cộng tác của những gia nhân. Họ đã nghe lời khuyên của Đức Maria: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Vâng lời Chúa và làm theo huấn lệnh của Người, đó chính là bí quyết để làm nên những điều lạ lùng trong cuộc sống.
 
Trong những Chúa nhật đầu của mùa Thường niên, Phụng vụ muốn nhắc lại với chúng ta Chúa Giêsu đến để khai mở kỷ nguyên mới. Người là vị Cứu tinh mà ngôn sứ Isaia đã loan báo. Người là Đấng đem cho nhân loại niềm vui, sự an ủi và cứu thoát. Những ai tin vào Người cũng phải sống cuộc sống mới, đoạn tuyệt với tội lỗi hận thù để cảm nhận niềm vui như trong tiệc cưới (Bài đọc I).
 
Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người, nhưng vì Ngài là đấng vô hình, nên chúng ta không thể cảm nhận bằng giác quan. Thánh Phaolô khẳng định, Đấng vô hình đang hiện diện qua mỗi người tín hữu. Nhờ đó mà họ được ban những ơn khác nhau để diễn tả sự hiện diện và quyền năng của Chúa: người thì được ơn giảng dạy, người khác được ơn nói tiên tri hay chữa bệnh. Tất cả đều do một Thần Khí duy nhất hướng dẫn và soi sáng. Những ai được ơn lạ đều nhằm phục vụ cộng đoàn và giúp người khác hiểu biết Chúa. Qua các tín hữu, đấng vô hình đã trở nên hữu hình giữa cuộc sống đời thường, để sẻ chia niềm vui nỗi buồn của con người, giúp họ vươn lên gặp gỡ Đấng Tối cao.
 
“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo“. Ngày hôm nay, Đức Maria vẫn đang khuyên chúng ta như thế. Thực hành Lời Chúa dạy là phương thế giúp chúng ta nên thánh, nhờ đó mà Chúa thực hiện những điều lạ lùng giữa cuộc sống chúng ta.

--------------------------

 

TN 2-C174: TÌNH NỒNG – RƯỢU NGON


Lm. Jos. DĐH

 

Ở đâu có tình yêu thương, ở đó có hạnh phúc; nơi đâu tổ chức tiệc mừng, nơi đó cần có đủ TN 2-C174


Ở đâu có tình yêu thương, ở đó có hạnh phúc; nơi đâu tổ chức tiệc mừng, nơi đó cần có đủ rượu bia, như thế niềm vui sẽ trọn vẹn hơn. Ngồi đồng bàn, mà tất cả các thành viên đều chung một lòng yêu thương nhau, tiệc rượu nhất định sẽ vừa ngon vừa htơm. Nhân loại vẫn đang sử dụng chung cụm từ yêu thương cho tình đôi lứa, tình vợ chồng, tình gia đình và cả tình quê hương. Biết bao người vẫn hằng thở than : tình là gì, tình là chi, mà từ ngàn năm trước đến nay nhân loại vẫn khổ đau vì tình. Tình mà không yêu, chỉ là cuộc trao đổi mua bán. Yêu mà không có tình, chỉ là yêu đơn phương, là khổ đau.

Rượu ngon có bạn hiền, bàn tiệc đó sẽ tuyệt hơn, tình yêu càng nồng thắm hạnh phúc càng ngọt ngào thị vị biết bao. Bữa tiệc và cuộc tình nào có Chúa Giêsu hiện diện, niềm vui và hạnh phúc nhất định phải nồng ấm hơn, và còn có sức lan tỏa niềm vui đến mọi tâm hồn ở nơi đó. Phụng vụ Chúa nhật hôm nay, cho chúng ta thấy một trình thuật rất đời thường : đám cưới, đám cười, trong đó có “tình nồng và rượu ngon”. Chính nhờ sự hiện diện của “Các Đại khách”, đôi bạn trẻ, chủ tiệc, và các khách mời có một bữa tiệc vui hoàn hảo.

Xét về khía cạnh tự nhiên, nếu nam thanh nữ tú không quen biết nhau, không yêu nhau, làm sao có tiệc cưới. Nếu mâm cao cỗ đầy, thịt béo rượu ngon, mà chỉ một mình đơn chiếc, có khác nào “bị ăn cơm phạt” ? Tổ chức tiệc cưới dù đơn giản đến đâu cũng phải có họ hàng đôi bên, phải có bạn bè, tiệc mừng phải được dự trù hợp lý. Tiệc cưới không chỉ dừng lại ở việc : trai khôn lấy vợ, gái lớn lấy chồng, thực ra hôm nay người ta đang chú ý nhiều đến việc tìm hiểu, đầu tư, để họ sẽ được giầu mạnh cả vật chất lẫn tinh thần.

Tiệc cưới thời hôm nay còn có dàn nhạc ca hát cho nhau nghe để tăng thêm niềm vui, nhưng dù có đầy đủ cả hình thức và nội dung, người Tín hữu chúng ta đều tin rằng tiệc cưới không thể thiếu phúc lành của Chúa. Vì tình có nồng, tiệc rượu mới ngon, có niềm vui bên ngoài, phải có cả niềm vui bên trong, tình yêu mới bền vững. Nhiều gia đình trước khi tổ chức tiệc cưới, đã chạy đến nhiều nơi để xin cầu nguyện, xin cầu cho tổ tiên, xin ơn lành cho đôi bạn trẻ. Tiệc cưới tại Cana năm xưa là tiêu biểu cho gia đình khôn ngoan, họ biết mời khách sang trọng, khách bình dân, và trong tiệc đó có Đức Giêsu, Thân Mẫu Đức Giêsu, các môn đệ của Ngài nữa.

Không những tương quan hàng ngày của chúng ta cần có tình người, mà đúng hơn phải có tình Chúa nữa, cuộc sống chúng ta mới đủ vị ngọt yêu thương. Giới “mày râu” của chúng ta nói đùa nói vui, nhưng cũng vô cùng ý nghĩa : tiệc không rượu như kiệu không Đức Bà. Nếu ăn tiệc mà không rượu bia, có khác gì ca sĩ hát mà thiếu người đệm đàn, nói cách đạo đức hơn là đi dâng lễ mà không rước lễ, không thể hiệp thông trong cùng một Tấm Bánh, còn có gì nhạt hơn ?

Bàn tiệc cuộc đời mỗi ngày, chúng ta có nhớ mời Đức Giêsu và thân mẫu Maria đến hiện diện không ? chúng ta có xét thấy mình thiếu rượu mến yêu không ? Chúa Giêsu cho thấy tình nồng đâu phải là cuộc tình êm xuôi, nguy cơ trục trặc đâu phải là không có, nếu thiếu rượu yêu thương, tiệc tàn và cuộc tình liệu có nồng thắm không ? Yếu tố căn bản của tình nồng là cần có Chúa hiện diện, cần biết vâng nghe ý Chúa để có phép lạ, để có rượu ngon, có niềm vui trọn vẹn như tiệc cưới Cana. Các nhà đạo đức cho rằng, sự sai lầm của các gia đình là không xin Chúa giúp giải quyết các khác biệt về sự nhạt nhẽo trong cuộc tình của họ, thay vì họ tìm lý lẽ công bằng của thế gian.

Tiền bạc chỉ hỗ trợ cho cuộc tình thêm phong phú, rượu bia chỉ tăng thêm niềm vui tạm thời, hoặc bia rượu chỉ giải sầu trong thời gian ngắn. Vì say men rượu người ta sẽ tỉnh sau cơn mê, say men tình, người ta sẽ mãi mãi còn say. Ngày hôm nay tiệc cưới nếu thiếu bia rượu, người ta “a-lô” là xe chở đến tận nhà, hẳn nhiều người sẽ không sợ hết rượu nữa. Nhưng ở tiệc cưới Cana, chính nhờ có Chúa Giêsu hiện diện, nhờ có phép lạ cứu nguy, tình yêu của đôi bạn nồng thắm hơn, niềm vui của gia đình và khách mời được nếm hưởng thứ rượu thơm ngon hơn. Do đó mà cuộc tình có nồng thắm yêu thương, là có Chúa Giêsu hiện diện, là cuộc đời sẽ êm ấm hạnh phúc hơn.

Cuộc sống của con người hôm nay ai cũng tất bật, vất vả, cùng với tiệc tùng quanh năm suốt tháng : tiệc cưới, tiệc sinh nhật, tiệc rửa nhà mới, rửa các loại bằng cấp… Xem ra cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán nếu chỉ có tiệc tùng hoan lạc, mà thiếu sự phấn đấu, thiếu sự tận tình yêu thương sẻ chia với anh chị em mình. Cũng từ tiệc cưới tự nhiên, mỗi chúng ta còn được mời gọi để hướng cuộc tình của mình tới tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Qua đó, chúng ta sẽ hiểu vì sao cần phải có tình nồng thắm để cảm nghiệm thứ rượu yêu thương trong bàn tiệc Nước Trời ngay hôm nay. Amen.

---------------------------

 

TN 2-C175: QUYỀN NĂNG CỦA LÒNG XÓT THƯƠNG


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Bước vào thế kỷ 21, con người dường như quá tự hào về những thành tựu khoa học kỹ thuật đã TN 2-C175


Bước vào thế kỷ 21, con người dường như quá tự hào về những thành tựu khoa học kỹ thuật đã đạt được. Khoa học công nghệ chế tạo của con người đã đạt đến mức hết sức tinh vi, đến độ có những lúc, con người cho rằng : Ai làm chủ khoa học công nghệ, người đó làm chủ thế giới. Khoa học trở nên như một cây gậy quyền năng. Tuy nhiên, khi con người làm chủ khoa học công nghệ thì đồng thời nó cũng đem lại bao lo sợ cho con người. Ví dụ, công nghệ vụ khí ngày nay đã đạt đến mức chính xác tuyệt đối, có thể phá huỷ mục tiêu cách xa hàng ngàn cây số. Công nghệ sinh học đã tạo biến đổi gien phục vụ nông nghiệp nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro cho con người. Công nghệ hoá chất, dược phẩm cũng đang có một ảnh hưởng lớn trên đời sống con người đồng thời cũng khiến cho con người lo sợ. Khi con người tự cho mình có quyền năng là lúc con người gây lo sợ, đau khổ cho anh em.

Thiên Chúa thì hoàn toàn khác, quyền năng nơi Ngài là quyền năng của lòng thương xót, quyền năng ấy đem lại niềm vui và ơn giải thoát cho con người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua lời nói, việc làm và cả con người của Chúa Giêsu, vì Người chính và vị Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Câu chuyện Chúa làm phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana đã minh chứng điều đó.

Đám cưới là một trong những ngày vui của gia đình. Chúa Giêsu, Đức Maria và các môn đệ đã hiện diện trong bữa tiệc. Việc hiện diện của Chúa Giêsu cho thấy Ngài thực sự trở nên một thành viên trong xã hội, Ngài không đứng bên lề những sinh hoạt của xã hội, nhưng đã tham gia vào tất cả các sinh hoạt của cộng đồng, chia sẻ vui buồn với cuộc sống của nhân loại. Việc xảy ra cho đôi tân hôn đó là tiệc chưa tàn mà rượu đã hết. Việc này quả thực là một điều hết sức xấu hổ cho gia đình. Với sự tinh tế nhạy bén của một người phụ nữ, Đức Maria đã nhận ra ánh mắt lúng túng của chủ tiệc, Mẹ đã gợi ý với Chúa : Họ hết rượu rồi. Mặc dù biết rằng chưa đến giờ của Chúa tỏ mình ra, nhưng Đức Maria vẫn tin tưởng nói với các gia nhân : Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo. Mẹ tin chắc chắn với sự quan tâm và lòng thương xót của Chúa, Chúa sẽ ra tay để cứu gia đình tân hôn này.

Dù chưa đến giờ Chúa Giêsu thể hiện quyền năng, nhưng vì lời gợi ý của thân mẫu, Chúa đã ra lệnh : Hãy đổ nước đầy vào chum. Họ đổ đầy sáu chum. Ngài bảo họ : Hãy múc rượu lên cho quản tiệc. Khi quản tiệc nếm thử thì nước đã biến thành rượu ngon khiến cho mọi người thắc mắc : Tại sao ông lại giữ rượu ngon đến giờ này ? Phép lạ đã xảy ra, các môn đệ càng thêm tin vào Thầy Giêsu.

Phép lạ biến nước thành rượu ngon mang ý nghĩa giáo lý sâu xa hơn nữa : Tình trạng hết rượu trong tiệc cưới là tình trạng của các gia đình và của con người đang cạn dần tình yêu và niềm vui trong cuộc sống. Rượu cũ là luật cũ, nếp sống cũ và các việc tế tự cũ đã dần mất đi sức sống không còn phù hợp nữa, nay Chúa Giêsu là niềm vui mới được trao ban một cách dư tràn trên nhân loại. Rượu mới của Chúa Giêsu ban tặng là rượu của tình yêu, rượu ân sủng và là Thánh Thần sẽ được ban tràn đầy cho nhân loại, làm say mê lòng người. Chúa Giêsu chính là tân lang mới. Ngài sẽ thiết đãi nhân loại này bữa tiệc Nước Trời, mọi người sẽ không còn uống rượu, ăn tiệc trần gian mà được dự tiệc rượu Nước Trời.

Tiên tri Isai đã nhìn thấy trước bữa tiệc của Đấng Mesia và đã dùng nhiều hình ảnh để nói về ngày ấy : Đấng Công chính xuất hiện tựa hừng đông, mọi đế vương trên trần gian sẽ quy phục Người, vinh quang Người tỏ rạng. Người sẽ thiết lập hôn ước với xứ sở ngươi, như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Tiên tri Isai đã thấy toàn dân như hân hoan vui mừng vì được tham dự vào tiệc cưới của Đấng Công Chính, Chúa tể mọi loài. Tiệc cưới ấy không bao giờ tàn, rượu ngon sẽ không bao giờ cạn.

Thánh Thần chính là rượu mới mà Chúa Giêsu ban cho thế giới, đặc biệt cho mỗi Kitô hữu. Mỗi người sẽ được nếm hưởng rượu của Thánh Thần cách khác nhau. Theo thư Corintô quả quyết, chỉ có một Thánh Thần duy nhất, nhưng có nhiều đặc sủng khác nhau, nhiều việc phục vụ khác nhau. Vì thế, mỗi người được Thánh Thần hướng dẫn để sống và hoạt động cách riêng biệt tuỳ theo đặc sủng Thánh Thần ban cho : người được ơn nói tiên tri, người khác được ơn hiểu biết, ơn khôn ngoan, người khác nữa được ơn chữa bệnh… nhưng tất cả đều chung một Thánh Thần.

Có một chi tiết quan trọng trong câu chuyện, đó là lời Đức Maria nói với các gia nhân : Người bảo gì, các anh cứ làm theo. Đấy không chỉ là lời nói của một một người phụ nữ với trực giác khi biết rằng người con của mình chắc chắn sẽ can thiệp cho gia đình, nhưng còn là lời nói của một con người đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu. Mẹ tin rằng Chúa Giêsu hiểu tâm hồn Mẹ và Chúa không bao giờ từ chối lời đề nghị của Mẹ.

Các gia nhân đã sẵn sàng để nghe lời căn dặn của Đức Maria, họ chờ đợi cho đến khi Chúa ra lệnh : Đổ nước đầy các chum. Có lẽ các gia nhân này không thể hiểu và cũng không thể đoán trước được việc gì sẽ xảy ra. Mọi người chỉ nhận ra phép lạ khi người chủ tiệc nếm thử nước thì thấy đã biến thành rượu ngon. Phép lạ xảy ra, quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện, quyền năng này là quyền năng của tình thương, đem đến niềm vui hân hoan và sự tin tưởng cho mọi người.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ngài đến thế gian không phải để trừng phạt con người, cũng không đe doạ khiến cho con người hoảng sợ, nhưng Ngài đến với tất cả tình yêu và lòng thương xót. Chính lòng thương xót nơi Thiên Chúa đã khiến Ngài chạnh thương trước những nhu cầu, sự thiếu thốn của nhân loại chúng ta.

Chúng ta đang sống trong một thế giới buồn chán vì biết bao lo âu sợ hãi, thất vọng do tội lỗi, do con người gây ra. Nhiều người đang rơi vào bế tắc hoặc cảm thấy cô đơn lạc lõng trong xã hội và trong gia đình mình, mất niềm vui, mất định hướng. Chúa Giêsu chính là tân lang mới, kiến tạo thế giới mới và đem đến niềm vui ân sủng cho nhân loại. Người bảo gì thì hãy làm theo cũng là lời Đức Maria căn dặn chúng ta hôm nay : Chỉ khi làm theo lời của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể tìm được lối đi và tìm được hướng sống. Làm theo Lời của Ngài, chúng ta sẽ tìm được niềm vui và sự bình an cho tâm hồn. Nhất là khi làm theo lời Chúa Giêsu, Người sẽ biến cuộc sống lạt lẽo của con người thành rượu vui hân hoan trong Thánh Thần.

Nhiều gia đình ngày nay dư rượu đế, thừa rượu ngoại nhưng lại hết rượu thiêng liêng, niềm vui đã vơi, tình yêu đã cạn, cuộc sống gia đình trở nên đơn điệu nhàm chán. Để tìm lại được niềm vui của ngày thành hôn, cần mời Chúa Giêsu và Đức Maria vào ăn cơm chung và sinh hoạt với gia đình mình, mời Chúa hiện diện trong các giờ kinh tối và trong các công việc của gia đình. Với sự nhạy bén và tình yêu của một người mẹ, Đức Maria sẽ chỉ cho chúng ta thấy những điều đang thiếu trong gia đình và nhất là Mẹ sẽ cầu xin với Chúa ra tay can thiệp cho gia đình những khi gặp khó khăn, thử thách.

Nhiều bạn trẻ ngày nay đang đánh mất niềm vui trong cuộc sống, đang kéo lê đời mình trong uể oải buồn chán. Đức Thánh Cha Fancis đã chỉ cho thấy một trong những lý do của cuộc sống buồn chán này là lối sống tiêu thụ, hưởng thụ. Ngài nói rằng, lối sống này thể hiện một sự cô đơn, buồn chán trong cuộc sống, nó biến người ta chỉ nghĩ đến bản thân, lo chau chuốt tích luỹ cho bản thân mà quên những tương quan. Các bạn trẻ có thể có rất nhiều friends trên mạng xã hội, nhưng lại không có những người bạn thân thực sự. Hãy rời bàn phím, rời màn hình, để mời Chúa vào trong tâm hồn mình, Chúa sẽ dắt chúng ta bước đến với anh em, Chúa sẽ kết nối chúng ta với Chúa và với mọi người, Ngài sẽ đem lại cho cuộc sống chúng ta có ý nghĩa và có niềm vui đích thực.

Xin Đức Maria ở bên chúng ta, nhận ra sự thiếu thốn của mỗi chúng ta và xin Mẹ luôn bầu cử cùng Chúa cho chúng ta. Amen.

---------------------------

 

TN 2-C176: CHÚA ĐI ĂN CƯỚI


Lm. GB Văn Hào

 

Đã có một thời, các cha chẳng bao giờ đi ăn cưới và coi đó là chuyện thế gian, bậc tu hành không TN 2-C176


Đã có một thời, các cha chẳng bao giờ đi ăn cưới và coi đó là chuyện thế gian, bậc tu hành không nên tham dự. Ở các nhà dòng, đặc biệt tại các đan viện, người ta cũng chẳng dám cho cử hành hôn lễ tại nhà nguyện của cộng đoàn, sợ các tu sĩ dễ bị ‘nhiễu sóng’, và đám cưới được xem như không thích hợp với bầu khí thánh thiêng nơi tu viện. Nhưng 2000 năm trước, Chúa Giêsu đã từng đi ăn cưới như mọi người. Không phải chỉ mình Ngài, Chúa còn kéo thêm cả một đoàn đệ tử hộ tống đi theo. Đám cưới tại Cana có sự hiện diện của Chúa Giêsu, của các Tông đồ và có cả Đức Maria. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu khởi sự công cuộc rao giảng Tin mừng với việc đầu tiên là chọn 12 môn đệ, sau đó, cả Thầy lẫn trò cùng rủ nhau đi ăn cưới. Thánh Gioan là một thần học gia uyên bác. Những động thái của Đức Giêsu cùng với những phép lạ Ngài thực hiện được Thánh Gioan thuật lại đều mang chở một nội dung thần học rất sâu xa.

Lược qua câu chuyện

Người Do Thái khi xưa thường kéo dài tiệc cưới suốt cả tuần lễ. Người ta không rước dâu về nhà chồng như ở Việt Nam, nhưng chú rể sẽ đến nhà cô dâu giữa đêm khuya. Các thực khách được mời sẽ dự tiệc kéo dài trong nhiều ngày và đương nhiên chủ nhà phải chuẩn bị rất nhiều đồ ăn thức uống, nhất là phải có đủ rượu để đãi khách. Nơi tiệc cưới Cana, có lẽ vì khách quá đông và thời gian lại kéo dài, nên bỗng hết rượu. Quả là một đại họa cho gia đình. Họ sẽ bị ê mặt trước bao quan khách, vì đám cưới sẽ bị dở dang. Thế là Chúa Giêsu đã ra tay can thiệp qua sự cầu ngỏ của Đức Maria, và cuối cùng phép lạ đã xảy ra. Những chum nước dự trữ cho khách rửa tay theo phong tục Do Thái đã biến nên những chum rượu nho hảo hạng. Nhưng điều cốt lõi ở đây không phải Chúa đi dự tiệc cưới như một hành động chỉ để giao tế xã hội. Thánh Gioan qua trình thuật muốn diễn bày chân tính cứu thế của Chúa Giêsu. Ngài chính là căn nguyên niềm vui ơn cứu độ được tặng trao cho con người. Những chi tiết được thuật lại đều mang chở những nội dung thần học mà chúng ta cần phải nghiền ngẫm để khám phá.

Đức Giêsu, một ‘Thiên Chúa – Người’ (God-man)

Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, nhưng cũng là một con người rất con người. Khi đến trần gian, Ngài đã chia thân sẻ phận với chúng ta, vui với người vui, khóc với người khóc. Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “ Thiên Chúa từ trời cao đã xuống đất thấp trở nên một con người hèn hạ để nâng chúng ta là con người hèn hạ nên giống Thiên Chúa cao sang”. Đây là một nghịch lý khó hiểu, và Thánh Gioan muốn chúng ta suy nghiệm sâu xa nghịch lý này.

Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia cũng tiên báo về thời Thiên sai. Trong kỷ nguyên đó đó, Đấng Cứu thế là Đấng Công chính sẽ xuất hiện tựa hừng đông. Ngài sẽ ngồi trên ngai với vương miện huy hoàng, và dân Chúa sẽ trở thành tân nương, được Đức Chúa đem lòng sủng ái và kết lập hôn ước. “Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,5). Trong thời kỳ cứu độ, dân Chúa được nâng lên địa vị mới, trở thành vợ hiền của đức lang quân là chính Đức Giêsu. Vì thế hình ảnh tiệc cưới Cana là dấu chỉ tiên báo về thời Thiên sai này. Đức Giêsu là vị lang quân, là người chồng, còn chúng ta là hôn phu trong hôn lễ nhiệm mầu đó.

Cũng vậy trong sách Khải Huyền, thánh Gioan thuật lại thị kiến về tiệc cưới Chiên Con. Bữa tiệc Thiên Sai đã trở thành hiện thực khi máu Đức Giêsu đổ ra trên Thập giá, đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. ‘Rượu’ là biểu tượng của niềm vui ơn cứu độ. Tiên tri Isaia còn nói về bữa tiệc cánh chung với thịt béo và rượu ngon (Is 25, 6). Thánh vương Đavit cũng viết Thánh vịnh 22 diễn tả lòng yêu thương của Thiên Chúa qua hình tượng đồng cỏ non, dòng suối mát, nhất là qua ‘ly rượu nồng đầy tràn chan chứa’ (Tv 22, 5). ‘Rượu và sữa’ trong bàn tiệc cánh chung mà Isaia phác vẽ, ám thị về niềm vui mà ơn cứu độ đem lại. Sữa làm thỏa cơn khát cho những ai đang khao khát được giải phóng, và rượu mang lại sự vui mừng cho những tâm hồn được giải án tuyên công, vì rượu làm hoan hỷ lòng người (x.Is 55).

Phép lạ đầu tiên Chúa thực hiện tại tiệc cưới Cana khi Ngài biến nước thành rượu, được nối kết với phép lạ cuối cùng trên Thập giá khi Chúa biến rượu thành máu Ngài, máu được đổ ra để đem lại ơn cứu thoát. Đây cũng là máu trong tiệc cưới Con Chiên. Những người mặc áo trắng tinh tiến vào bàn tiệc đã giặt áo của mình trong máu Con Chiên vô tội ấy. Thánh Gioan đã viết lại sách Tin mừng thứ tư với những phép lạ, liên kết với thị kiến trong sách Khải huyền để khải thị cho chúng ta am tường về chân tính Cứu Thế nơi Đức Giêsu.

Đức Maria, Evà mới

Trong Tin mừng Gioan, Đức Maria được nhắc đến 2 lần. Lần thứ nhất trong tiệc cưới Cana và lần thứ hai khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá. Phép lạ đầu tiên và phép lạ cuối cùng Chúa Giêsu thực hiện đều có sự tham phần của Mẹ Maria. Trong phép lạ thứ nhất, Chúa nói với Mẹ : “ Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Trong phép lạ cuối cùng, Chúa cũng nói với Mẹ “ Thưa bà, đây là con của bà”. Hạn từ ‘Bà’ là thuật ngữ đặc thù Thánh Gioan sử dụng để đề cao vai trò Đức Maria như một ‘bà’ Evà mới trong nhiệm cục cứu độ. Đức Mẹ đã không thực hiện bất cứ một phép lạ nào, nhưng Mẹ là người chuyển cầu (intercesseur) để phép lạ xảy ra. “Họ hết rượu rồi”. Một câu nói giản đơn, nhưng diễn bày vai trò Evà mới nơi Đức Maria. Cũng vậy khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ hoàn toàn thinh lặng, nhưng đi sâu vào sự hiệp thông trọn vẹn trong kế hoạch cứu độ. Vì vậy Đức Maria trên đồi Canvê đã hiển thị một cách sung mãn vai trò Evà, mẹ của chúng sinh, trong một kỷ nguyên mới, để cùng với Đức Giêsu – Ađam mới, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Giáo hội đã ca tụng Mẹ với nhiều tước hiệu. Cách riêng, Thánh Gioan mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là thầy dạy đức tin. Trong cuộc hành trình đức tin, mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa để cùng với Đức Giêsu, Mẹ trở nên máng chở, chuyển thông ơn sủng cho con người. Muốn hưởng nhận ơn cứu độ, chúng ta hãy thực hành điều Đức Maria truyền dạy: “Ngài bảo sao, anh em cứ làm như vậy” (Ga 2,5).

Kết luận

Có một lần, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đi viếng thăm mục vụ tại Phi Châu. Để biểu tỏ niềm vui, dân chúng cầm tay nhau reo hò và nhảy múa trước khán đài cử hành Thánh lễ. Đức Thánh Cha từ trên lễ đài với phẩm phục trên người cũng bước xuống cầm cây gậy trên tay và cùng nhảy múa với các bạn trẻ để chung hòa niềm vui với họ. Ngài cũng muốn bắt chước Chúa Giêsu khi đi vào trần gian chung chia cuộc sống với mọi người. Chúa biến nước thành rượu, trở nên biểu tượng của niềm vui ơn cứu độ. Mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ, chúng ta cũng cần trải nghiệm niềm vui sâu xa này, và trong cuộc sống đời thường, chúng ta hãy đem chia sẻ niềm vui ấy cho nhau.

---------------------------

 

TN 2-C177: HỄ NGƯỜI BẢO GÌ, THÌ PHẢI LÀM THEO


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta từng bước TN 2-C177


Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta từng bước dõi theo những ngày đầu (sứ vụ công khai) của Chúa Giêsu. Sau khi chịu phép rửa xong, Gioan Tiền Hô giới thiệu cho mọi người biết Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”; tiếp đến có ba môn đệ là : Anrê, Phêrô và Philipphê đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo người; thầy có trò, tất cả cùng được mời đi dự tiệc cưới, chính tại Cana phép lạ đầu tiên xảy ra, khiến nước hóa thành rượu, nhờ sự can thiệp của Rất Thánh Trinh Nữ Maria (x. Ga 2, 1-12).

Vậy, đâu là ý nghĩa của Rượu được Chúa Giêsu biến thành từ nước ? Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới hàm chứa điều gì ?

Theo Thánh Maximus, Giám mục thành Turin thì Rượu mà Đức Giêsu hóa thành từ nước, chính là Rượu mới của niềm vui đích thực. Bởi Vị Thiên Chúa theo Phúc Âm mô tả đã được mời đến dự tiệc cưới. Như thế, Con Thiên Chúa đã đi ăn cưới, và với sự hiện diện của mình, Người đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành Rượu. Người đã đến dự đám cưới theo luật cũ, để chọn trong dân ngoại một hiền thê tinh tuyền. Người không sinh ra từ cuộc hôn nhân của loài người như Kinh Tin Kính chúng ta đọc : “Được sinh ra mà không phải được tạo thành“. Người đến đám cưới, không phải đến để ăn một bữa tiệc cho vui như bao nhiêu bữa tiệc khác. Người đến để mạc khải một sự diệu kỳ, đầy ngưỡng mộ. Người đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho gia nhân rượu ngon nồng. Và khi mọi thực khách đang dự tiệc, bỗng thiếu rượu, Đức Maria, Mẹ Người đã nói với Người : “Họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3). Chúa Giêsu, dường như trả lời với vẻ không vui cho lắm : “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu” (Ga 2, 4)… khi trả lời: “Giờ Con chưa đến” (Ga 2, 4), chắc chắn đây là lúc Người loan báo giờ vinh quang của Người nơi cuộc Thương Khó, hoặc chính máu Người là rượu đổ ra để trao ban sự sống, và ơn cứu độ cho nhiều người. Mẹ Maria xin một đặc ân hiện tại, Con Mẹ lại chuẩn bị trao ban niềm vui muôn thủa trong tương lai. Tuy nhiên, Thiên Chúa nhân lành đã không ngần ngại trao ban những điều nhỏ mọn cho con người, trong khi chờ đợi những điều lớn xảy đến.

Đức Maria, người mẹ diễm phúc, vì Mẹ là Mẹ thật của Con Thiên Chúa, nên Mẹ đã biết trước ý định của Con Mẹ, và thấy trước được điều gì sẽ xảy đến. Đó là lý do tại sao sau khi Mẹ yêu cầu Con Mẹ, kể cả khi nhận được câu trả lời : “Con với bà có can chi đâu” (Ga 2, 4); Mẹ vẫn căn dặn những gia nhân quản tiệc cưới hãy làm bất cứ điều gì Con Mẹ yêu cầu :  “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” (Ga 2, 5). Chắc chắn Mẹ biết rằng lời chỉ trích của Con Mẹ và Mẹ thấy Con Mẹ, một Vì Thiên Chúa đã không giấu được sự bất bình của thân phận làm người giận dữ nhưng chứa đựng một mầu nhiệm của lòng từ bi cao cả … Vì tiếp theo là nước trong chum bỗng nhiên bắt đầu nhận được sức thánh hóa để có thể chuyển màu sắc, lan tỏa hương vị của một thứ rượu ngon lành, và cùng một lúc thay đổi hoàn toàn bản chất của nó, nước đã hóa thành rượu. Và việc chuyển đổi nước thành một chất khác cho thấy sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa, quyền năng, bởi không ai, ngoại trừ người tạo ra từ không có gì ra nước, có thể chuyển đổi nước thành một cái gì đó khác tức là rượu.

Chúng ta đang ở trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, hãy noi gương Mẹ Maria kiên nhẫn, cậy trông, cầu nguyện, đẩy lui sự thờ ơ ra khỏi chúng ta và mở rộng cõi lòng đến với mọi người.

Chúa Kitô đã làm phép lạ biến nước thành rượu ở Cana chính vì Đức Trinh Nữ Maria là một người rất quan tâm đến mọi người. Trong đám cưới, Mẹ phải để ý lắm mới phát hiện ra sự tế nhị trầm trọng này. Nhưng Mẹ không chỉ thấy rồi để trong lòng, mà vì tính ân cần chu đáo sẵn có nơi Mẹ, Mẹ đã trao những lo lắng của mình vào tay Chúa Giêsu, Con Mẹ, và đã hành động một cách hợp lý và can đảm. Mẹ lo lắng cho nhu cầu của đôi tân hôn, quan tâm đến người khác, chứ không đóng kín vào chính mình.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói : Ngày nay chúng ta có thể thấy rất nhiều hoàn cảnh hết “rượu” là dấu chỉ của sự vơi cạn “hạnh phúc, tình yêu, và sự phong phú“. Ngài đặt câu hỏi : “Có bao nhiêu người trẻ trong chúng ta cảm thấy không còn tìm được những điều ấy trong nhà mình? Có bao nhiêu phụ nữ buồn chán và cô đơn tự hỏi khi nào tình yêu sẽ ra đi, sẽ rời bỏ cuộc sống của mình? Có bao nhiêu người già cảm thấy bị gạt sang một bên, đứng ngoài các ngày vui của gia đình, và hằng ngày khao khát chút tình yêu?“(Trích Bài giảng 06/7/15 tại Los Samanes, Guayaquil, Ecuador).

Đức Maria giải quyết việc thiếu rượu bằng cách tin tưởng đến với Chúa Giêsu, và cầu nguyện. Mẹ dạy chúng ta phải đặt gia đình vào tay Chúa, phải cầu nguyện, phải khơi dậy niềm cậy để thấy rằng lo lắng của tha nhân cũng là lo lắng của ta, và lo lắng của ta cũng là lo lắng của Chúa. Cầu nguyện luôn nâng chúng ta, giúp chúng ta thoát khỏi những lo lắng của mình. Cuối cùng Đức Mẹ đã hành động. Lời Mẹ nói với các người giúp việc “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” cũng là lời mời gọi chúng ta mở lòng mình cho Chúa Giêsu, “Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (Mc 10, 45).

Với đức tin sống động, tinh tuyền và kiên vững, Đức Maria chỉ cho chúng ta nguồn gốc của một trong những dấu chỉ, và thực tại của nó, mà chúng ta sẽ được tham dự trong tương lai, nếu chúng ta làm tất cả những gì Chúa Giêsu, Đấng là Tình Yêu Vĩnh Cửu (biểu tượng của rượu) dạy bảo.

Tại Cana, Mẹ Maria đã hiện diện và can thiệp vào tiệc cưới. Vào giờ trên Thánh Giá ; giờ Chúa Giêsu cử hành tiệc cưới với Giáo hội ; Mẹ Maria cũng ở đó. Giờ đây Mẹ vẫn hiện diện để giúp đỡ con cái mình sống tinh thần yêu thương và phục vụ tha nhân như Mẹ.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con yêu mến Chúa Giêsu, Vị Hôn Phu của Giáo hội mãi mãi và yêu mến Giáo hội, Hiền thê của Chúa Giêsu, và thực thi bác ái cũng như lòng xót thương với hết mọi chi thể của Chúa Kitô. Amen.

--------------------------

 

TN 2-C178: CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_C


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.

 

Bài Tin mừng hôm nay không đơn giản là một tiệc cưới có sự hiện diện của Chúa Giê-su, các môn TN 2-C178


Bài Tin mừng hôm nay không đơn giản là một tiệc cưới có sự hiện diện của Chúa Giê-su, các môn đệ của Người, và Đức Maria, Mẹ của Người. Trong buổi tiệc này và theo lời thỉnh cầu của Mẹ Maria, Chúa Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu, giúp cho đôi tân hôn giải quyết vấn đề hết rượu giữa bữa tiệc. Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết “Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.” Vậy, qua phép lạ hóa nước thành rượu này, mà Tin mừng thánh Gioan gọi là dấu chỉ, Chúa bày tỏ cho chúng ta biết những gì?

Đây không phải là dấu chỉ Chúa sẽ mở một cửa tiệm bán rượu, nhưng là dấu chỉ công bố sự vinh quang của Thiên Chúa cho chư dân bá tánh như lời Thánh vịnh hôm nay cho chúng ta biết. Phép lạ hóa nước thành rượu là dấu chỉ sứ mạng của Chúa Giê-su đem tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ của Thiên Chúa đến đổ tràn ngập trên tất cả con người trên trần thế. Dân Chúa lúc đó đang cầu nguyện và mong đợi ngày hồng ân, ngày Chúa đến để cứu thoát dân Người, và ngày đó được diễn tả bằng sự hiện diện của Chúa Giê-su trong buổi tiệc cưới bao gồm sự trung thành, yêu thương của Thiên Chúa và hạnh phúc tràn đầy của Ngài mang đến cho nhân loại mà đôi tân hôn là dấu chỉ.

Trong bài đọc 1, chúng ta thấy Giê-ru-sa-lem được tiên tri Isaiah nhân cách hóa như một người vợ, để chỉ dân Is-ra-el đã bất trung với Thiên Chúa, vì vậy, họ đã bị quân thù bắt đi lưu đày sống trong cảnh khổ cực. Tuy nhiên, vì tình yêu và trung thành, Thiên Chúa đã không đành lòng khi họ ăn năn sám hối, và đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.”

Nhưng, ông bà anh chị em thân mến, là một dấu chỉ, phép lạ tiệc cưới còn cho chúng ta biết Chúa Giê-su là ai. Thật vậy, phép lạ là dấu chỉ Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho tất cả mọi người. Như đã được mạc khải, Chúa Giê-su là ánh sáng cho muôn dân, cho nên hồng ân tình yêu Thiên Chúa không chỉ giới hạn cho người Do thái, mà còn chiếu tỏa đến cho muôn dân.

Một dấu chỉ khác của buổi tiệc cưới mà chúng ta có thể nhận ra là thời điểm đánh dấu sự khởi đầu sứ mạng cứu độ của Chúa Giê-su đã đến. Vì biết trước những gì sẽ xảy ra trước mắt, cuộc khổ nạn và thương khó, cho nên khi Đức Maria nhìn thấy vấn đề hết rượu mà đôi tân hôn đang phải đối diện, và thỉnh cầu cùng Chúa Giê-su, cho nên Người thưa với Đức Maria “Giờ con chưa đến.” Chúng ta nhận thấy Đức Maria không thúc đẩy Chúa Giê-su khởi động sứ mạng của Người, nhưng Mẹ biết Con Mẹ sẽ giúp đỡ đôi tân hôn trong lúc khó khăn, nên Mẹ nói với các người giúp việc “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo.” Đây cũng là lời khuyên bảo của Mẹ cho tất cả chúng ta, nhất là các đôi vợ chồng.

Ông bà anh chị em thân mến. Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Trong bối cảnh đó, Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy tái khám phá giá trị và ý nghĩa thiêng liêng cao quý của đời sống hôn nhân, qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Và qua đó, cho chúng ta một bài học rõ ràng: ở đâu có sự hiện diện của Chúa và Mẹ thì niềm vui và hạnh phúc ở đó tràn đầy. Và gia đình nào thực hành và sống những điều Chúa dạy thì sẽ tìm được hòa thuận và an bình. Thật vậy, câu chuyện Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta biết sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong một đám cưới của một gia đình ở Cana, và vì vậy, đôi tân hôn đã nhận được sự cứu giúp của cả Đức Maria và Chúa Giê-su. Sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui, mà còn cứu cho gia đình này qua khỏi một sự khó khăn. Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.

Phép lạ tân hôn là một dấu chỉ khác cho chúng ta biết Chúa Giê-su đến để thực hiện, mang lòng thương xót của Chúa Cha đến cho nhân loại. Chúa đến để thực hiện nhiều sự thay đổi, cũng như biến hóa nhiều sự vật. Như biến nước thành rượu, Chúa chữa người bệnh thành người khỏe mạnh, Người thay đổi người tội lỗi thành các thánh, Người biến sự chết trở thành con đường dẫn tới đời sống vĩnh cửu, Người biến bánh và rượu trở nên Mình và Máu Người.

Cuối cùng, phép lạ tại Cana là biểu hiệu của Bí tích Thánh thể mà Chúa Giê-su thiết lập để ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt và Máu Người.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp mỗi người chúng ta, mỗi gia đình trong giáo xứ, biết mở cửa đón mời Chúa và Mẹ Maria ngự vào. Xin Chúa cũng giúp chúng ta thành tâm lắng nghe lời chỉ bảo của Đức Maria “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”, và thực hành, sống những lời Chúa dạy. Chúng ta tin Chúa sẽ thực hiện phép lạ hóa bánh và rượu trở nên Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này, trở thành của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, để mọi người trong giáo xứ hiệp nhất và đồng tâm để xây dựng và làm sáng danh Chúa. Và xin Chúa biến đổi chúng ta thành sứ giả lòng thương xót và tình yêu của Chúa. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ luôn hòa thuận, hạnh phúc và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa.

-------------------------------

 

TN 2-C179: LÒNG THƯƠNG XÓT BIẾN ĐỔI TẤT CẢ TRỞ NÊN MỚI


Lm. Giuse Trực

 

Trong số 2 của Tông Thư “Dung mạo Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô có viết TN 2-C179


Trong số 2 của Tông Thư “Dung mạo Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô có viết: “Lòng Thương Xót là cầu nối liên kết giữa Thiên Chúa và con người, trong khi mở lòng chúng ta ra cho một niềm hy vọng được yêu thương mãi mãi”. Niềm hy vọng được yêu thương chính là sự biến đổi mà Thiên Chúa đã hành động nơi mọi việc, mọi vật và mọi người. Nói ngắn gọn lại, lòng thương xót của Chúa sẽ biến đổi tất cả để được trở nên mới.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Đọc I: Is 62, 1-5

Đoạn sách này nói đến lời hứa ban vinh quang cho thành Giêrusalem: “Mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn, vinh quang ngươi tỏ rạng” (Is 62, 2b). Vinh quang này hệ tại ở tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu có sức biến đổi số phận của thành: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về” (Is 62, 5a). Chính tình yêu của Thiên Chúa làm cho thành thánh Giêrusalem được biến đổi nên vinh quang, rực rỡ.

Tin Mừng (Ga 2, 1-11)

“Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên tại Cana, miền Galilêa” (Ga 2, 11a). Điều đáng để chúng ta suy nghĩ là dấu lạ này không phải là chữa bệnh, hóa bánh nuôi dân chúng, hay phục sinh kẻ chết… mà là hóa nước thành rượu. Vì là phép lạ đầu tiên, nên chắc chắn việc hóa nước thành rượu phải mang một ý nghĩa rất quan trọng.

Rượu là yếu tố đem đến niềm vui trong bữa tiệc. Vì vậy hết rượu cũng đồng nghĩa với việc niềm vui sẽ chấm dứt.

Rượu còn là tượng trưng cho trật tự mới, trong khi nước chỉ là trật tự cũ. Chúa Giêsu biến đổi “đạo” cũ của người Do Thái thành đạo mới, đạo đem đến niềm vui, đạo ngất ngây men tình yêu chứ không nhạt nhòa, nhàm chán như đạo cũ.

Dấu lạ đầu tiên này còn là dịp để Chúa Cha bày tỏ quyền năng của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Từ đây, Đức Giêsu Kitô sẽ là hình ảnh của Thiên Chúa Cha để thực thi Lòng Thương Xót đối với nhân loại chúng ta. Ngài sẽ biến đổi tất cả những gì là cũ kỹ, xấu xí để trở nên mới mẻ, tốt đẹp hơn.

Với ý nghĩa đó, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, chúng ta càng khẳng định một cách mạnh mẽ: Lòng Thương Xót của Chúa sẽ biến đổi tất cả để trở nên tốt đẹp hơn.

II. NHỮNG CON NGƯỜI ĐƯỢC BIẾN ĐỔI

Trong Kinh Thánh

Trong kinh Năm Thánh Lòng Thương xót, Đức Thánh Cha liệt kê một loạt những nhân vật “tai tiếng” trong Kinh Thánh, nhưng đã được Lòng Thương Xót Chúa biến đổi để trở nên “nổi tiếng”.

Đầu tiên là 2 ông và Giakêu và thánh Matthêu. Họ là những người thu thuế, dính bén đến tiền bạc, và đã làm nô lệ cho tiền bạc, nhưng đã được “ánh mắt đầy yêu thương Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bạc tiền”. Sự biến đổi từ những con người bị đồng tiền chi phối, đến những con người sẵn sàng cho đi tất cả được tình yêu thương của Chúa.

Kế đến là người đàn bà ngoại tình và thánh Mađalêna. Họ là hình ảnh của những người đam mê xác thịt, nhưng tình yêu của Chúa đã giải thoạt họ “không còn tìm hạnh phúc nơi loài thụ tạo”. Từ đây, chỉ có Đức Giêsu Kitô mới đem đến niềm vui, hạnh phúc đích thực. Đó là hạnh phúc thánh thiện chứ không phải là hạnh phúc tội lỗi.

Sau cùng là thánh Phêrô, người môn đệ thân tín nhưng đã chối Thầy và kẻ trộm nổi tiếng đến mức phải mang án tử. Cũng nhờ ánh mắt của đầy yêu thương của Chúa mà Phêrô đã biết “khóc lóc ăn năn”; kẻ trộm đã “có lòng hối cải”.

Còn nhiều những con người, những vị thánh đã được biến đổi để trở nên tốt đẹp hơn.

Trong gia đình

Có những người chồng “bỗng nhiên” không đi lễ, lại còn cấm cản vợ con, làm cho họ “bỗng dưng muốn khóc”. Nhưng nhờ lời cầu nguyện của người thân mà họ đã thay đổi, trở nên sốt sắng, giữ đạo đàng hoàng và làm gương sáng cho nhiều người khác.

Có những người vợ bị vướng vào vòng đỏ đen, ham mê cờ bạc, số đề, bỏ bê gia đình… Nhưng có một biến cố nào đó làm họ suy nghĩ lại, mình đã hành động sai trái, nên mau chóng từ bỏ tất cả, quay về với chồng con để lo xây đắp hạnh phúc gia đình.

Có những đứa con ngỗ nghịch, ham chơi, phá của, bỏ nhà thờ lâu năm… làm cho cha mẹ và nhiều người phải phiền lòng. Nhưng qua một căn bệnh hay một tai nạn, tự nhiên “đổi tính” trở nên ngoan ngoãn, lo học hành để xây dựng tương lai, lo làm việc để kiếm tiền phụ giúp cha mẹ, đi lễ sốt sắng…

Tất cả những thay đổi đó những người không có niềm tin cho là “chuyện lạ”. Còn chúng ta biết rằng chúng xuất phát từ “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa”.

III.  HƯỚNG ĐẾN LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA

Nếu bữa tiệc nào cũng được Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu thì chắc chắn mọi gia đình không còn cảnh lo lắng, khổ sở vì thiếu rượu (dĩ nhiên trong hoàn cảnh thời Chúa Giêsu). Nếu tất cả mọi người đều được “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” biến đổi khiến mắt phàm của chúng ta nhìn được thì chắc chắn không còn đau khổ trên trần gian này nữa; không còn cảnh vợ chồng khổ sở vì nhau, cha mẹ muộn phiền vì con cái…

“Ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” vẫn nhìn, vẫn biến đổi mọi người, nhưng có những người không chịu biến đổi. Họ cố chấp, ngang bướng trong con người cũ của họ. Họ cứ muốn làm “nước lã” chứ không muốn thành “rượu ngon”.


Kế đến “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” vẫn nhìn, vẫn biến đổi con người, nhưng theo chương trình của Chúa, chứ không theo chương trình của con người, nghĩa là theo như con người nhìn thấy. Ví dụ người thân bị bệnh, chúng ta cầu xin Chúa mà không thấy Chúa cho thuyên giảm. Chúng ta giận Chúa! Đó là cái nhìn của con người. Đâu biết rằng Chúa đang biến đổi người thân của chúng ta, khiến họ can đảm, vui lòng chấp nhận bệnh tật để đền tội cho họ và các linh hồn…

Sau cùng, “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” đang muốn chúng ta hướng đến Lòng Thương Xót của Ngài. Vì vậy đừng bao giờ chán nản, bỏ cuộc, nhưng hãy cứ dõi theo ánh mắt của Chúa. Vì ánh mắt này chắc chắn sẽ biến đổi chúng ta được rạng rỡ trong vinh quang nước Chúa. Tình yêu của Chúa sẽ “sánh duyên” chúng ta với Ngài

Mẹ Maria hiện diện trong tiệc cưới không phải chỉ như khách mời, nhưng như người thân trong gia đình. Vì thế Mẹ biết hoàn cảnh của họ, Mẹ nhờ Chúa Giêsu can thiệp. Gia đình chúng ta cũng hãy “mời” Mẹ đến ở trong gia đình mình để Mẹ trở thành người một nhà với chúng ta, cùng chung những vui buồn sướng khổ. Có Mẹ, những vui buồn sướng khổ đó sẽ được biến đổi để đem đến niềm vui, hạnh phúc đích thực cho chúng ta.

Lạy Chúa, mỗi người chúng con, gia đình chúng con đang thiếu “men tình yêu”. Vì vậy “nước lã” cứ tràn ngập trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa đổ tràn đầy tình yêu của Chúa vào trong tâm hồn chúng con, để “nước lã” là những thứ phàm tục sẽ biến thành “rượu ngon” là niềm vui thánh thiện.

-------------------------

 

TN 2-C180: CHÚA ĐÃ HIỂN LINH ĐIỀU GÌ TRONG PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN TẠI CANA


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Khi tường thuật phép lạ đầu tiên tại Cana, tác giả Gio-an đã xác định, mục đích Đức Giê-su làm TN 2-C180


Khi tường thuật phép lạ đầu tiên tại Cana, tác giả Gio-an đã xác định, mục đích Đức Giê-su làm chính là: để “bày tỏ vinh quang của Người”. Đã từ lâu tôi thấy câu khảng định này không thuyết phục: phép lạ chẳng có gì là hoành tráng để đáng được gọi là bày tỏ vinh quang…, nó giống như một trò ảo thuật tầm thường ‘hóa nước thành rượu’; cả tới cách làm tôi thấy cũng có vẻ như lén lút bất cập, có quá ít người được chứng kiến, và hầu như chẳng gây được ấn tượng gì lớn ngay trong số các thực khách. Cả ba cuốn Phúc âm Nhất lãm cũng đâu có đề cập gì tới phép lạ mà Gio-an cho là ‘quan trọng’ bậc nhất ấy. Chính vì thế mà tôi ao ước: có được cặp mắt bén nhạy (hay khác thường) của Gioan, để chiêm ngắm cái phép lạ ‘tầm thường’ được cho là phi thường này. Gio-an là môn đệ đã từng khảng định rằng: mình ‘đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… đã chạm đến’ một điều gì đó vĩ đại lắm mà ông gọi là ‘Lời sự sống’ (xem 1 Ga 1:1-4). Chắc hẳn, qua phép lạ Đức Giê-su thực hiện tại Ca-na, lần đầu tiên ông cho rằng: mình đã được tận mắt chiêm ngưỡng ‘Lời hằng sống’ đó.

Trước hết: ‘vinh quang’ như Gioan hiểu, có lẽ rất khác với quan niệm thông thường mà chúng ta có. Đối với ông nó phải rất đời thường và gần gũi…, đời thường như một bữa tiệc cưới thiếu rượu, như gia nhân đổ đầy nước vào các chum đá dùng vào việc rửa tay chân trước khi dự tiệc, như ông quản tiệc nếm thử rượu trước khi đãi khách… nhưng trong đó lại tàng ẩn một điều gì đó rất là phi thường, điều có khả năng làm đảo lộn tất cả. Gioan và các môn đệ, đương nhiên là cả Đức Maria nữa, đã nhận ra thứ ‘vinh quang’ đặc biệt đó, và các ngài đã tin.

Tôi không biết phải diễn tả cái suy tư này như thế nào đây cho dễ hiểu; chỉ xin lấy câu chuyện tranh, mà tôi cũng tình cờ xem được để minh họa:

Chuyện tranh ngắn mang tựa đề: ‘Tại Sao Vậy?’ (Why?), và được tôi tải xuống và lưu lại dưới nhan đề ‘Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta’. Chuyện tranh vẽ: (hình 1) anh chàng nọ quì gối cầu nguyện xin Chúa che chở mình, (hình 2) cầu nguyện xong anh yên tâm đứng lên ra về, (hinh 3) đang đi đột nhiên một viên đá không biết từ đâu rớt trúng đầu anh, (hình 4) anh giận dữ kêu toáng lên “tại sao vậy?”, (hình 5) ngước lại phía sau, anh thấy Đức Giê-su đang giang rộng cánh tay và lấy toàn thân che chắn anh khỏi những hòn đá lớn hơn nhiều đang lao tới, (hình 6) ngoái lại phía anh Người dịu dàng hỏi: “Con có sao không? Xin lỗi nhé, có thể ta đã để trượt mất một viên nhỏ!”.

Thế đấy, tôi thiết nghĩ cái gọi là ‘phép lạ cả thể’ nơi tiệc cưới Ca-na cũng tương tự như thế: chỉ là một tai nạn đời thường cùng với một giúp đỡ âm thầm ít đáng được ai quan tâm. Thế nhưng, những ai có cặp mắt như Ma-ri-a, như Gio-an và các môn đệ… (và phải là cặp mắt của mọi Ki-tô hữu nữa) mới có thể nhận ra rằng: đã có một tình yêu nhân ái vĩ đại đến trong trần gian, đã bắt đầu xuất hiện một Thiên Chúa đầy từ tâm can thiệp vào cuộc sống đời thường của con người. Với cặp mắt đức tin đó, họ nhận ra đây quả là một ‘phép lạ’ cả thể, một ‘sự lạ’ mà cho tới giờ phút đó chưa từng bao giời xảy ra trong lịch sử loài người. Trong đời sống thường ngày vẫn luôn tồn tại một nghịch lý: người ta trầm trồ tấm tắc trước một sự kiện nào đó hoành tráng vĩ đại, nhưng lại không mấy thấy cần tới nó: có cũng được mà không có cũng chẳng sao; trong khi đó, điều xem ra nhỏ mọn tầm thường và âm thầm như: ‘mình được một ai đó quan tâm thương mến’ chẳng hạn, thì hầu như lại không thể thiếu; nếu mất nó, ta hầu như không thiết gì sống nữa, tìm lại được nó thì như là phục hồi được cả một lẽ sống. ‘Phép lạ’ cả thể nhất mà Gio-an phát hiện ra nơi biến cố tầm thường ‘nước lã hóa thành rượu’ trong bữa tiệc cưới tại Ca-na hôm đó có lẽ chính là điều này. Ông đã thấy và ông đã tin rằng: Thiên Chúa yêu thương trần gian và đi vào cuộc sống con người…, và ông còn muốn không ngừng loan báo Tin Mừng này cho hết mọi người: “để chính anh em được hiệp thông với chúng tôi” (1 Ga 1:3). Câu chuyện ‘phép lạ’ mà chúng ta vừa được nghe Gio-an tường thuật đúng là Tin Mừng thứ thiệt đấy! Nói đúng hơn, cần mỗi Ki-tô hữu chúng ta phát hiện ra: đó chính là dấu hiệu khởi đầu của một ‘phép lạ’ cả thể hơn hết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3:16). Hiển linh hay mạc khải của tiệc cưới Ca-na có mục đích để chúng ta từ nay đặt trọn niềm tin tưởng phó thác vào một Thiên Chúa đã Giáng Sinh, đã chêt trên Thập Giá, và đã Phục Sinh để cứu chuộc chúng ta, một Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót như chưa từng xuất hiện bao giờ trong suốt lịch sử nhân loại trước đó; và hiển linh này có sức mạnh để bắt đầu một cuộc cách mạng làm đảo lộn toàn bộ cuộc sống của người tín hữu trước hết, và của toàn thể nhân loại nói chung.

Lạy Mẹ từ nhân, tại tiệc cưới Ca-na chính Mẹ đã nhận ra một khó khăn nhỏ của đời thường, nhưng cũng chính Mẹ đã can thiệp, để qua đó Đức Giê-su bộc lộ được lòng nhân ái của Thiên Chúa, và để các môn đệ tin nhận ra điều đó. Xin chỉ cho con biết nhìn vào những yếu kém đổ vỡ của cuộc sống mình mà khám phá ra sự hiện diện liên tục của Thiên Chúa yêu thương. Xin cho con nhận ra ‘phép lạ vĩ đại nhất’ Chúa đang thực hiện trong đời sống con là ban cho con ơn đức tin để nhận biết và cảm tạ lòng thương xót Chúa. Xin Mẹ cũng can thiệp cho nhiều người nhận ra được‘phép lạ’ cả thể này ngay trong chính đời sống mình, và qua đó họ lớn tiếng ca ngợi lòng nhân ái từ bi Chúa đến muôn đời . A-men.

---------------------------

 

TN 2-C181: ĐÁM CƯỚI Ở CANA

 

Tại Cana, miền Galilê, Chúa Giêsu cùng với các môn đồ và mẹ ngài tham dự một đám cưới. Vì TN 2-C181


Tại Cana, miền Galilê, Chúa Giêsu cùng với các môn đồ và mẹ ngài tham dự một đám cưới. Vì thiếu rượu, nên Chúa Giêsu, không để cho các khách mời và cô dâu chú rể biết, đã yêu cầu gia nhân đồ nước đầy các bình đựng, và nước này trở thành rượu rất ngon, với số lượng lớn. Đây là “dấu chỉ” hoặc “công trình” đầu tiên (đây là những từ mà Gioan đặt cho các phép lạ) của Chúa Giêsu.

Đám cưới tại Cana: vị trí địa lý.

Cana, từ tiếng Do Thái qaneh , nghĩa là “cây sậy”. Là một địa phương nhỏ của miền Galilê, vị trí của Cana vẫn chưa được xác định chắc chắn, một số người đặt nó ở Kafr Kanna 8 km về phía bắc Nazareth, nhưng có vẻ phù hợp hơn khi đặt nó 14 km về phía bắc Nazareth, ở Khirbet Qana trong  môi trường đầm lầy, vì điều này có thể biện minh cho nguồn gốc của tên gọi “cây sậy” của nó.

Đám cưới tại Cana: ý nghĩa của bản văn.

Lễ cưới Cana này có ý nghĩa gì khi Chúa Giêsu chịu làm theo lời yêu cầu của Mẹ Ngài, vì trong một bối cảnh khác, càng làm theo lời yêu cầu này, thì càng không đáng, vì điều đó có nguy cơ khiến cho khách mời say xỉn?

Qua một hành động mang tính biểu tượng, việc Thiên Chúa tỏ lộ đã thành hiển hiện, sẽ mang lai sự gắn bó của những kẻ ngoan cố sau cùng vốn đang bị nhốt chặt trong những nghi ngờ của họ: phép lạ Cana kết thúc cùng với sự gắn kết của các môn đệ, những người “tin vào Ngài”.

Tại Cana này, Chúa Giêsu không dạy bằng lời nói, mà bằng hành động. Ngài biểu lộ sức mạnh thần linh. Tất cả sức mạnh của trình thuật này nằm ở cử chỉ, kèm theo một vài lời nói.

Đoạn văn nói về Cana là một thời gian lễ hội, trong đó Chúa Giêsu làm biến đổi nước thành rất nhiều rượu. Đó thực sự là một lễ cưới, trong đó một biến cố quan trọng diễn ra, ở dây là việc Thiên Chúa tỏ mình ra, giống khi Chúa chịu phép Rửa hoặc khi Chúa hiển dung trên núi Tabor.

Đằng sau khía cạnh vật chất của nước và rượu, toàn bộ điều cơ bản đã được trình bày ở đây. Đầu tiên, chúng ta quan sát phản ứng của Chúa Giêsu trước lời thỉnh cầu của Mẹ Ngài, nói theo cách loài người, dường như  hơi quá một chút. Thật vậy, Mẹ thúc giục Ngài phải cho Mẹ thấy điều mà dường như Ngài không muốn thực hiện, ít nhất là không thực hiện sớm như vậy.

Môsê, để thuyết phục Pharaoh cho dân Israel ra khỏi Ai cập, đã khiến nước sông Nile thành máu (Xh 7,14-25). Ở đây, Chúa Giêsu được trình bày như một Môsê mới.

Một khía cạnh khác của rượu nho đáng được đề cập đến là khía cạnh bữa tiệc. Quả thực không thể có lễ kỷ niệm mà không có rượu nho.

“Hãy rót nước vào rượu của bạn” là câu nói ngày xưa người ta thường nói với nhau khi cùng uống rượu. Trong thời cổ đại, rượu nho là một sản phẩm xa xỉ. Trong thực tế bấy giờ, những chiếc máy ép nho không phải là thứ mà chúng đã trở thành như ngày nay với việc cơ giới hóa. Những người thợ ép nho bận rộn suốt ngày đêm để chiết xuất nước ép từ những trái nho bị nghiền nát. Sau thời gian lên men, nước ép nho, có chất tanin tạo vị chát hay không là tùy ý, được đóng vào trong các chum, như vậy: người ta có thể hiểu tại sao, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu lại cho thêm nước vào rượu của Ngài. Đó không chỉ là một biểu tượng. Đó còn là một khía cạnh thực tế: rượu không thể uống được mà không cần thêm nước. Rượu do các nhà làm rượu thời xưa sản xuất có độ cồn cực cao, có tính chất sát trùng mạnh, như người ta thấy trong dụ ngôn người Samaritanô nhân lành: “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại” (Lc 10, 30-35). Ngày nay không còn như vậy nữa!

Trong Cựu Ước, đặc biệt là nơi các tiên tri, chúng ta tìm thấy rượu nho trong bữa tiệc của Đấng Mêsia: “Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Isaia 25: 6) hoặc trong các mô tả cánh chung “Ngày ấy, núi non sẽ tiết ra nước nho, đồi nương sẽ chảy sữa tràn trề” (Giôen 4:18).

Vậy ý nghĩa của loại rượu chảy tràn trề đánh dấu bữa tiệc này là gì, ý nghĩa của niềm vui này là gì và ý nghĩa của các cuộc đoàn tụ vốn đã được chờ đợi từ lâu này là gì?

Sự tràn trề được đề cập trong các bản văn  kinh Thánh nhắc lại những ân huệ của Thiên Chúa. Tất cả sự tràn trề tìm thấy nguồn gốc của nó trong ân huệ mà Thiên Chúa thực hiện cho con người.

Qua một cử chỉ có vẻ rất bình thường, chính Chúa Kitô đã tỏ mình là Con Thiên Chúa. Dấu hiệu đầu tiên này của Chúa Giêsu kết hợp hai chất liệu riêng biệt thành một để làm phát sinh một phép lạ: nước biến thành rượu. Dấu hiệu này được đặt ở đầu cuộc đời công khai của Chúa Kitô đã gợi lên mầu nhiệm tột cùng của Chúa Giêsu Kitô trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị đóng đinh, nơi Ngài biến rượu thành máu.

Phép lạ này song song với phép lạ hóa bánh ra nhiều, đó là hình ảnh tiên trưng cho Bí tích Thánh Thể và một chuỗi các biến cố dẫn đến việc công nhận Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.

Đám cưới ở Cana: các nhân vật chính

Chúa Giêsu Kitô

Trong cuộc hành trình qua miền Galilê và miền Giuđê, Chúa Giêsu được mời đến dự một đám cưới tại Cana thuộc xứ Galilê, vào ngày thứ ba sau khi Ngài hứa với Nathanael, một môn đệ quê Cana, rằng ông sẽ thấy những điều tuyệt vời xảy ra nếu ông bước đi theo Ngài: “Chúa Giêsu đáp: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Gioan 1:50).

Bữa tiệc này ở Cana khai mở cái được gọi là “cuộc đời công khai của Chúa Giêsu”. Vượt xa câu chuyện của ngày hôm nay, Gioan mời gọi chúng ta hiểu ra rằng cuộc sống của mỗi ngày như cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và nhân loại.

Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu

Được mời đến tiệc cưới, Mẹ hành động như thể Mẹ đang lo lắng bởi sự vô tổ chức của tiệc cưới. Vì vậy, Mẹ khuyến khích con trai mình hành động, dù vào một lúc chưa phải là lúc Thiên Chúa đã chọn để bày tỏ Đấng Kitô là Thiên Chúa Cứu độ, nhưng thẳm sâu trong lòng, Mẹ biết rằng con có thể can thiệp.

Chúa Giêsu bày tỏ sự khác biệt tồn tại giữa Ngài, là Con Thiên Chúa và Mẹ Maria. Chắc chắn, Mẹ là mẹ của Ngài, nhưng Mẹ không có mệnh lệnh nào phải đưa ra cho Chúa Giêsu hoặc can thiệp vào sứ vụ của Ngài. Chúa Giêsu không thiếu sự tôn trọng đối với Mẹ, nhưng Ngài cho Mẹ hiểu rằng Ngài hành động độc lập, chỉ dựa trên quyền năng của mình, và rằng khi thực hiện sứ mệnh của mình, Ngài không phụ thuộc vào bất cứ mối liên hệ tự nhiên nào.

Chú rể và cô dâu

Bằng cách tự mình đưa rượu cho khách, Chúa Giêsu thế chỗ chàng rể, vốn khá im lặng. Lời nhận xét của người chủ tiệc đối với chú rể, mà ông ta cho rằng có công giữ được thứ rượu ngon nhất đến phút cuối, dường như cho thấy rằng chính chú rể là người có trách nhiệm nhất định đối với chất lượng của rượu!

Ngoài ra, không thấy nói gì đến cô dâu. Khi chúng ta hỏi cô dâu đang ở đâu trong khung cảnh làng quê Cana này, thật khó mà trả lời ... Gioan không mô tả cô ấy, không cho biết sự hiện diện của cô ấy. Manh mối này mời gọi chúng ta tìm kiếm chiều kích tâm linh mà Gioan muốn đưa vào câu chuyện của mình.

Người chủ tiệc, người quản lý

Điều đó gợi lại phong tục tổ chức bữa tiệc bằng cách chọn ra một người chịu trách nhiệm tính giờ để đưa ra thứ rượu kém ngon sau khi vị giác của thực khách bị giảm đi phần nào bởi những chén rượu đầu tiên. Nhưng ở đây, người chủ tiệc này nhầm lẫn khi cho rằng chính chú rể phải chịu trách nhiệm về chất lượng rượu được phục vụ cho đến lúc đó! Cũng chính người chủ tiệc này, vì không hay biết gì về “sự cố xui xẻo” và diễn tiến dẫn đến kết thúc êm thắm của vụ việc, nên lời nhận xét của ông là hoàn toàn khách quan và đáng tin: “Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (Gioan 2:10). Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô, “vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt lành từ những sự dữ” (Thánh Tôma Aquinô).

Những người hầu

Là những người khiêm tốn nhất trên sân khấu, là các nhân chứng trực tiếp chứng kiến nước thay đổi thành rượu, là những diễn viên tham gia vào công việc đổ nước vào sáu chiếc bình đầy tới miệng, những người hầu làm theo lệnh của một bà khách bảo họ làm những gì một ông khách khác sẽ ra lệnh cho họ. Không thấy nói gì về đức tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô rốt cuộc như thế nào. Dù sao đi nữa,  những người hầu này, bất chấp sự bất thường của tình huống, vẫn tin tưởng làm theo và kín tiếng sau khi dấu chỉ nhiệm mầu được biểu lộ.

Các môn đệ

Với thánh sử Gioan, dấu chỉ được biểu lộ thường là điểm khởi đầu đức tin của các môn đệ Chúa Kitô. Chúa Giêsu vừa tiết lộ căn tính của Ngài cho họ. Các môn đệ bắt đầu bước vào đức tin:

“Chúa Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Ngài. Các môn đệ đã tin vào Ngài” (Gioan 2:11).

------------------------------

 

TN 2-C182: NGƯỜI ĐỔI THAY TẤT CẢ


Phêrô Phạm Văn Trung,
phỏng theo https://www.chretiensaujourdhui.com

 

Trong một nhà máy nọ tại Ru-ma-ni -câu chuyện này đã xảy ra cách đây hơn ba thập niên- trước TN 2-C182


Trong một nhà máy nọ tại Ru-ma-ni -câu chuyện này đã xảy ra cách đây hơn ba thập niên- trước hàng ngàn công nhân tập trung trong hội trường, một diễn giả vô thần đang hùng hồn chứng minh sự huyền hoặc của Tin Mừng và sự dối trá của Chúa Giê-su. Ông tuyên bố: “Các bạn biết, phép lạ tiệc cưới Ca-na chỉ là thứ trò rẻ tiền của một tay ảo thuật. Tôi có thể làm lại việc ông Giê-su đã làm. Xem đây!” Thế rồi diễn giả huơ huơ tay trên một ly nước đã để sẵn trên bàn. Trong lúc mọi người chăm chú nhìn bàn tay của ông, thì một viên hóa chất bé tí từ trong tay áo ông rơi nhẹ vào ly và nước hóa nên đỏ thẫm. Vài kẻ vỗ tay. Diễn giả đắc chí nói: “Các bạn thấy chưa? Giê-su có hơn gì nào! Ông ta chỉ lợi dụng lúc các gia nhân không để ý mà ném vào chum một chất nào đó và thế là nước hóa thành rượu!” Bấy giờ một công nhân lên tiếng: “Thưa giáo sư, xin giáo sư vui lòng uống ly rượu này!” - “Không thể được! Đây là một chất độc! Uống vào chết ngay!” Anh công nhân liền mạnh dạn nói: “Với rượu của Người, Chúa Giê-su đã cho chúng tôi hơn 2.000 năm hoan lạc! Còn với rượu của các ông, các ông đã đầu độc chúng tôi!”  

Đúng thế, trình thuật tiệc cưới được Gio-an, một chứng nhân trực tiếp, kể lại hôm nay không chỉ là một phép lạ nhỏ bé trong một đám cưới thôn quê bình thường. Được suy niệm lâu dài trong 50 hoặc 60 năm, sự kiện lịch sử đối với nhà thần học này đã trở nên cơ hội để trình bày cho chúng ta về mầu nhiệm thân thế Đức Giê-su cũng như ý nghĩa sâu xa ẩn chứa trong sự nghiệp của Người. Sự kiện này là một “dấu chỉ”.          

1. “Nước” trở thành “rượu” tình yêu.

Mở đầu câu chuyện, Gio-an giới thiệu sơ qua khung cảnh và các nhân vật. Trong các nhân vật đó, ngoài Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a đóng một vai trò đặc biệt. Trong Tin Mừng của mình, Gio-an chỉ nhắc đến bà ở đầu, nơi trình thuật Ca-na này, và ở cuối, dưới chân thập giá (x. Ga 19,25-27). Tuy nhiên, thánh sử không nêu tên Ma-ri-a, chỉ định nghĩa bà trong tương quan với Đức Giê-su: đó là “thân mẫu Người”!         

Nhạy cảm đối với nhu cầu cấp thời của đôi tân hôn, thân mẫu Đức Giê-su nhận thấy ngay thế kẹt của họ. Coi mình ở trong cuộc như người nhà, bà đã xin Con mình can thiệp giúp. Nhưng “Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ tôi chưa đến”. “Giờ Đức Giê-su” là một thành ngữ liên quan tới cuộc Vượt qua (x. Ga 7,30; 8,20; 13,1; 16,25; 16,32). Giờ duy nhất này, chính là giờ Người được vinh hiển: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,1.5). Giờ vinh quang đó diễn ra theo ba giai đoạn: đó là Thập giá, việc Người “được nâng lên” khỏi đất… đó là Phục sinh, việc Người “được nâng lên” bên hữu Chúa Cha… và đó là Hiện xuống, việc Người tuôn đổ Thánh Thần cho tín hữu… (x. Ga 3,14; 7,39; 8,28; 12,32). Như thế, anh thợ mộc làng Na-da-rét, được mời đến dự tiệc cưới ở một làng bên, đã để cho chúng ta khám phá, qua lời nói cử chỉ, “hữu thể” sâu xa của mình. Người gợi cho thấy “giờ của Người”, giờ ban “rượu của Giao ước mới” (x. Mt 26,27) còn chưa đến. Tuy nhiên, ít ra Người cũng làm một dấu lạ tượng trưng và tiên báo việc ban thứ rượu mới này.

Trực giác của phụ nữ, của người mẹ cho thân mẫu Đức Giê-su thấy là Người sắp can thiệp: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Có lắm hoàn cảnh trong đó chúng ta “không còn làm chi được nữa”, cạn kiệt giải pháp ở mức độ con người… lúc đó phải nại vào một kẻ khác, vào Đấng Toàn Tha, Đấng duy nhất có thể cứu rỗi. Đức Giê-su quyết định hành động, nên ra lệnh cho gia nhân đổ đầy nước vào sáu chum đá và biến nước thành rượu. Không một chi tiết nào ở đây là tình cờ! “Sáu chum nước dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục của người Do-thái…”: nước này là dấu chỉ của một tình trạng lỗi thời, những thói tục tôn giáo giờ phải bị vượt qua. Đức Giê-su đến để thay đổi, hoàn tất Do-thái giáo. Nước trở thành rượu! Rượu tượng trưng cho trật tự mới, nhiệm cục mới; nước chỉ những nghi thức của đạo Do-thái thuộc nhiệm cục cũ.

Tôn giáo của người Do-thái đã trở thành quá tỉ mỉ, vụ hình thức. Bệnh của mọi đạo! Người ta rốt cục tưởng rằng để làm đẹp lòng Thiên Chúa, chỉ cần chẻ các câu văn, hoàn thành mọi nghi tiết, cứu vãn những vẻ bên ngoài. Đức Giê-su đổi thay tất cả. Đạo của Đức Giê-su đổi thay tất cả: đó là rượu say nồng của tình yêu. Chúng ta làm đẹp lòng Thiên Chúa nếu các nghi thức của chúng ta là dấu chỉ và là nguồn lực của việc chúng ta hiến thân cho kẻ khác, nếu chúng ta biến nỗi khổ của một người anh em thành niềm vui hay ít nhất một sự dịu lòng. ĐGS mang đến khả năng tuyệt diệu này: từ nay, mọi sự đều có thể trở thành tình yêu, tình yêu phong phú.

Và đó là ý nghĩa của chi tiết tiếp theo: “Họ đổ đầy tới miệng”: 600 lít rượu ban trong “dấu chỉ” đầu tiên này nói lên sự phong phú dư tràn các ân huệ của Thời Cứu thế. Trữ lượng quá mức đó đủ để say sưa cả một thôn làng! “Rượu nho” cũng là một biểu tượng Thánh Kinh cổ điển (x. Tl 9,13; Tv 104,15 v..v…). Nó là một trong những sản phẩm được ưa chuộng nhất vì tỏa niềm vui, gây sảng khoái, “khiến hoan hỉ lòng người”. Thời tiên sai đã được loan báo bằng những hình ảnh tiệc tùng trong đó chan hòa rượu chảy: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon!” (Is 25,6. Xem Am 9,14; Hs 2,16; Ge 4,18; Gr 31,12).

2. Nhân loại trở thành “hôn thê” của Thiên Chúa.

Thế nhưng khi gia nhân trình rượu phép lạ cho quản tiệc thì đã có một sự hiểu lầm, một sự hiểu lầm rất ý nghĩa: quản tiệc nhầm Đức Giê-su với tân lang! Trong một vài câu nữa của Tin Mừng mình, Gio-an sẽ minh nhiên nói rằng Đức Giê-su chính là “Tân lang” đích thực (x. Ga 3,29). Đây là chìa khóa giải thích ý nghĩa chủ yếu của dấu chỉ Ca-na. Nó tiên báo cái lúc Đức Giê-su sẽ nói: “Nầy là rượu tiệc cưới mới, là chén Giao ước mới trong máu Thầy”.

Như ta biết, Cựu Ước đã có một truyền thống lâu dài và tuyệt diệu là trình bày Thiên Chúa như Hôn phu của nhân loại. I-sai-a, trong bài đọc thứ nhất Chúa nhật này, vừa đưa ra lại với chúng ta “tuyên ngôn tình yêu” cháy bỏng đam mê của Thiên Chúa: “Chẳng còn ai réo tên ngươi: “Đồ bị ruồng bỏ!” Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “Phận bạc duyên đơn”. Nhưng ngươi được gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi!” Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng”… Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,1-5; x. Hs 2,21; Ed 16,8). Hình ảnh hôn ước này sẽ được tất cả Tân Ước lấy lại (x. 2Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2; 22,17 v.v…).

Ngoài ra, như ta có thể nhận thấy, ở tiệc cưới Ca-na, cô dâu chẳng được đề cập. Kỳ lạ quá phải không! Chúng ta đâu có tham dự bữa tiệc cưới bình thường! Nếu chú rể đích thực là Đức Giê-su thì cô dâu đích thực chính là nhân vật mà Người gọi bằng cái tên mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt: “Hỡi Bà!” (dịch sát: “Hỡi người phụ nữ”). Hôn thê của Thiên Chúa chính là Ít-ra-en đang mong đợi “Giao ước mới” khi công nhận “họ hết rượu rồi”. Ít-ra-en ấy, dân được Thiên Chúa cưới trong Giao ước mới ấy, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Ma-ri-a tượng trưng cho cả hai: bà là “thiếu nữ Sion” và “hình ảnh Giáo Hội”. Như thế, Hôn thê không được nêu danh trong tiệc cưới này chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn… Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giê-su Ki-tô… để cùng chung vui buồn sướng khổ!

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà hôn nhân gặp khủng hoảng trầm trọng: tình yêu xem ra mất phương hướng, người ta cổ vũ luyến ái tự do, sống chung chẳng làm lễ cưới, chẳng mừng tình yêu, chẳng mang trách nhiệm, đối với nhau cũng như đối với con cái của mình, thậm chí cổ vũ cả hôn nhân đồng tính… Biết bao cuộc tình phù du, mới đầu thật tươi nở, sau đó đã trở nên lạt lẽo tầm thường, như nước lã không mùi vị!

Trong bầu khí ấy, những đôi lứa vững chắc nhất đôi khi cũng không thoát khỏi nhận xét bi thảm: “Họ hết rượu rồi!” Tình yêu họ như mất đi. Ai là người có thể ban lại? Chính là Đấng đang cứu vãn tiệc cưới! Hiệp thông vào chén của Đức Giê-su, uống “rượu” của Người, đó là uống tận nguồn “tình yêu đã hiến trao tất cả, ban tặng đến cùng” (x. Ga 13,1).

Trong bao thế kỷ, các nhà thần học đã bàn cãi xem cái gì cao cả hơn: “hôn nhân” hay “độc thân”. Dẫu sao cũng chớ quên hình ảnh “Thiên Chúa-Hôn phu” của Kinh Thánh. Hãy để sự âu yếm của Thiên Chúa tràn ngập mình. Nếu kết hôn, hai bạn là “dấu chỉ”, nghĩa là “bí tích”, “biểu hiện” của Tình yêu Thiên Chúa. Nếu độc thân, bạn chẳng phải là “không có mối tình”, vì bạn cũng được kết hôn với Tình yêu cao cả nhất! Nhưng vấn đề là bạn sống cuộc hôn nhân hay sự độc thân của bạn ra sao?

-----------------------------

 

TN 2-C183: TIỆC CƯỚI CANA và GIỜ CỦA CHÚA


Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

 

Chúa Nhật tuần trước, chúng ta suy niệm về ý nghĩa Chúa Giêsu chịu phép rửa và những cam kết TN 2-C183


Chúa Nhật tuần trước, chúng ta suy niệm về ý nghĩa Chúa Giêsu chịu phép rửa và những cam kết của chúng ta khi lãnh nhận phép rửa. Chúa nhật tuần này, chúng ta tìm hiểu về tiệc cưới Cana. Tiệc cưới Cana (x. Ga 2:1-11) là dấu tỏ vinh quang của Thiên Chúa, tiếp nối ý nghĩa lễ Hiển Linh và Phép Thanh Tẩy của Chúa. Ta có thể gọi là lễ khánh thành sứ mạng của Chúa Giêsu ở trần thế.

Trong bản kinh chiều ngày lễ Hiển Linh nêu ra ba mầu nhiệm thánh: “Hôm nay ngôi sao dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ đến viếng Hài nhi Kitô. Hôm nay nước biến thành rượu trong tiệc cưới. Hôm nay Chúa Giêsu muốn ông Gioan làm phép rửa cho Chúa ở sông Jordan để mang ơn cứu độ cho muôn dân.” Mỗi biến cố đều có dấu chỉ riêng, cho chúng ta thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa: Ba Vua, Ánh Sáng chiếu rọi, Ngôi sao, Nước hoá Rượu, Tiếng Nói phát ra từ trời và hình Chim Bồ Câu.

Tiệc cưới ở Cana là một biến cố có thực, đã được thánh sử Gioan tả lại trong một khung cảnh với một cấu trúc lớp lang rất tượng hình. Nước trở thành rượu. Vật bình thường trở thành phi thường. Phép lạ tại Cana khởi đầu thời đại ngôn sứ. Phép lạ nói trước cho mọi người biết cách thức Chúa Giêsu sẽ hoàn thành sứ mạng của Người là đổ máu chết trên thập giá.

Ý NGHĨA CÂU CHUYỆN TIỆC CƯỚI

Tiệc cưới Cana là câu chuyện được kể lại duy nhất bởi thánh Gioan, không thấy trong các phúc âm thư khác. Gioan dùng từ “dấu lạ” (semeion) có nghĩa là hành động phi thường của Chúa Giêsu, đồng thời muốn nói: Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử loài người bằng một phương thức mới qua đức Giêsu. Ở Cana, biểu tượng và sự thật gặp nhau. Tiệc cưới của đôi trẻ là dịp để nói về cuộc hôn nhân giữa Chúa Kitô và Giáo Hội sẽ được thực hiện trong “giờ của Người” trên Thập giá. Ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu chứng tỏ vinh quang của Chúa để các môn đệ thấy mà tin theo.

MẸ CHÚA GIÊSU

Khách chính trong tiệc cưới này không phải chỉ có một mình Chúa Giêsu mà có cả Mẹ Người là Đức Maria và các môn đệ (x. Ga 2:1-2). Ở đây, trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu không gọi Đức Maria là mẹ, mà dùng danh từ “Bà”, một cách nói bình thường và lịch sự, nhưng không ám chỉ mẹ của một ai cả. Tuy nhiên ở Ga 19:26 ta thấy Chúa Giêsu dùng tiếng Bà để chỉ Đức Maria là Mẹ.

Đức Maria luôn luôn là một biểu tượng. Nhiệm vụ của Mẹ là hoàn tất ơn gọi của các môn đệ. Mẹ là trung gian, dấu chỉ để cho các môn đệ thấy mà tin. Lời Mẹ nói với những người giúp việc trong tiệc cưới: “Hãy làm theo những gì Người bảo” (Ga 2:5) là yêu cầu tất cả mọi người hãy trở nên dân mới của Thiên Chúa. Ở Cana cũng như ở trên đồi Calvary -theo thánh sử Gioan- Mẹ Maria không chỉ là hiện thân của một hiền mẫu và liên hệ huyết thống mẹ con với Chúa Giêsu, mà còn đóng vai trò biểu tượng cao quí của một “Bà và Mẹ” của thần dân Thiên Chúa.

Trả lời yêu cầu của Mẹ Maria, Chúa Giêsu đáp: “Giờ của con chưa đến”. Nói một cách khác là giờ biểu lộ vinh quang của Người chưa đến. Giờ đó sẽ xảy ra trên Thập giá ở đồi Calvary. Nhưng lời nói đó không chỉ hiểu theo nghĩa đen trong câu chuyện rượu và nước, mà còn phải hiểu một cách khác nữa. Phép lạ biến nước thành rượu có nghĩa là giao ước cũ giữa Trời và Đất sẽ hoàn toàn đổi mới. Lời Mẹ Maria nói với Con Mẹ đã biến đổi cảnh buồn thành vui. Lời Chúa Giêsu nói với những người giúp việc trong tiệc cưới đã thực sự trở thành phép lạ.

“GIỜ” CỦA CHÚA LÀ GÌ - CHRONOS VÀ KAIROS

Tiếng “GIỜ” trong tiệc cưới ở Cana có một ý nghĩa quan trọng và đặc biệt. Trong Tân Ước, chúng ta thường thấy tiếng “giờ” được dùng như: “Giờ đã đến và chính lúc này là giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha…” (Ga 4:23-24) và khá nhiều trong những câu chuyện nói về những việc lạ lùng và phi thường như chữa lành bệnh hiểm nghèo, và trong những trường hợp như vậy thì thường được đổi thành “ngay tức thì”. “Giờ” mà Chúa Giêsu nói ở tiệc cưới Cana là giờ khổ nạn, giờ Chúa chịu chết, sống lại và lên trời (Ga 13:1).

Chữ “Giờ” là “hora”, tiếng Hy Lạp thường có nghĩa là kairos hơn là chronos. Chronos là thời gian chỉ những việc xẩy ra bình thường, đôi khi không chính xác, nhưng ta có thể sửa đổi được. Còn kairos nói lên sự đứt đoạn khi bị trở ngại bất ngờ khiến ta phải thay đổi chương trình cho thích hợp. Giờ của Chúa Giêsu là giờ Chúa đã định tức kairos lại xảy ra ngoài dự định hoặc trước khi Người muốn. Dĩ nhiên chương trình của Chúa thì Chúa đã biết, nhưng hoàn cảnh thay đổi buộc Chúa phải đi theo một lối khác.

TIỆC CƯỚI CANA

Có nhiều cách cắt nghĩa các biểu tượng trong câu chuyện tiệc cưới. Một là coi câu chuyện có hai cảnh đối nghịch nhau giữa việc Chúa Giêsu làm và sự bất toàn của Do Thái giáo. Theo quan niệm này, thì Do Thái giáo tự nó đã dần dần tàn rụi và hết ý nghĩa rồi. Kitô giáo tức rượu ngon phải thay thế Do Thái giáo là nước lã.

Cách cắt nghĩa thứ hai là nỗi vui mừng vì vương quốc Thiên Chúa xuất hiện đã được Chúa Giêsu nhân dịp tiệc vui này loan báo cho mọi người biết. Việc tỏ lộ của Chúa biến thành cuộc vui trong cuộc vui, liên hoan trong liên hoan, hôn nhân trong hôn nhân. Viễn cảnh này dựa vào truyền thống Do Thái coi tiệc cưới là thời gian thánh. Bài đọc I (x. Is 62) bắt đầu bằng một ẩn dụ lễ cưới. Thánh ý Chúa đã nhất định là đất Judah không còn là nơi hoang vu, bị bỏ rơi, vì Judah sẽ là hôn thê thánh thiêng của Israel, không phải của riêng ai cả.

Cách diễn nghĩa thứ ba có lẽ là hay và sâu sa nhất cho thấy cách thức thời gian “chronos” đứt đoạn thế nào để trở thành thời gian “kairos”. Chúa Giêsu đã tính trước và chờ đợi giờ của Người để Người có thể xác định và điều khiển. Thay vào đó, “giờ” của Chúa lại đến với Chúa một cách bất ngờ, ngoài dự tính, đặt Người vào những cảnh huống khó sử, ngay cả do chính Mẹ Người!

Chúa Giêsu đã tạo bộ mặt mới cho buổi tiệc cưới ở Cana này. Người không cung cấp rượu ngon khi tiệc bắt đầu lúc khách còn tỉnh táo, nhưng lại cho vào lúc mọi người đã say ngất ngư. Chúa Giêsu đã để dành rượu tốt vào giờ chót thì vinh quang của Người mới tỏ lộ rõ ràng (x. Ga 2:10). Đây là một biểu lộ giống như Lễ Hiển Linh mà Giáo Hội mừng trọng thể vào ngày 06 tháng Giêng hằng năm.

NHỮNG GIÂY PHÚT ĐỘT PHÁ

Trong những công tác mục vụ cũng như công việc cá nhân hằng ngày, chúng ta thường để dây dưa ngày này qua ngày khác, sống với nỗi niềm vô vọng, đều đều và phẳng lặng, nặng nề và uể oải. Chúng ta bị khóa chặt vào thời gian “chronos”, không thể nghe thấy tiếng Chúa mời gọi chúng ta vượt thoát khỏi những giây phút tầm thường khốn khổ ấy để bước vào cuộc sống mới khác thường và đặc biệt. Thiên Chúa muốn chúng ta để cho Người đổ tràn đầy tâm trí chúng ta loại rượu mới tức sự hiện diện của Thiên Chúa. Một khi chúng ta lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi và làm bất cứ điều gì Chúa biểu, thì những cái tầm thường trong cuộc sống chúng ta tức khắc biến thành đặc biệt và phi thường. Bình không và bình nước lã sẽ đầy tràn rượu mới ngon lành. Chúng ta trở thành ngày lễ hội thực sự.

Đoạn Tin Mừng tiệc cưới Cana đã chỉ cho đôi tân lang cách tránh đừng để rơi vào tình trạng bê bết hết rượu nửa vời. Hãy mời Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới của bạn! Điều xảy ra ở tiệc cưới Cana cũng có thể xảy ra ở bất cứ một đám cưới nào khác. Bắt đầu là những tiếng cười rộn ràng thoải mái, biểu tượng của rượu nồng. Nhưng đừng để cuộc vui sơ khởi ấy qua đi và tàn lụi với lo âu hối tiếc, khi mà tình yêu không còn, rượu đã cạn, niềm vui đã hết, chỉ thấy buồn tẻ với ưu phiền trống rỗng. Về tình trạng gia đình, nếu không cẩn thận sẽ giống như đám mây chiều buồn thảm lờ lững cô đơn trước cơn bão tố sắp tới vì đủ thứ bất trắc gian nan trong đời. Với những cặp vợ chồng như vậy thì đúng là đám cưới của họ không còn rượu nữa. Nên nhớ: Lễ cưới chỉ có một hoặc hai ba ngày, nhưng hôn nhân là cả một đời người.

LỜI KẾT

Câu chuyện Tin Mừng đầy ánh sáng chan hòa rực rỡ này không có chủ đích nói về việc Mẹ Maria can thiệp vào tiệc cưới, cũng không phải lời Chúa Giêsu trách Mẹ Maria. Kết cục câu chuyện có chủ đích biểu lộ tình trạng lễ hội của một gia đình bình thường có Con Một Thiên Chúa là Đức Giêsu hiện diện. Nó không phải là cuộc chè chén say sưa như những tiệc cưới của người Do Thái, cũng không phải là những tiêu chuẩn hay nguyên tắc phải theo, phong tục và luật lệ trong cuộc sống gia đình hay những chuẩn mực về hôn nhân, cũng không phải Do Thái giáo thì suy tàn mà Kitô giáo thì phát triển sung mãn.

Câu chuyện tiệc cưới Cana có mục đích kêu gọi chúng ta suy nghĩ xem lệnh của Chúa “Hãy đổ đầy nước vào những bình này” có làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên mới không. Giờ của Người đến -tức giờ kairos- là lúc những kế hoạch bị hỏng và sự hiện diện của Thiên Chúa giao thoa nhau. Đây là lúc bắt buộc chúng ta phải nắm lấy cơ hội và chọn lựa rồi hành động như chọn giữa thiện và ác. Cana cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã phải điều chỉnh chương trình của Người khi có biến cố bất ngờ xảy ra. Câu chuyện xảy ra cho Chúa trong tiệc Cana nói lên tính uyển chuyển của đời sống tu đức. Giờ “chronos” của chúng ta phải biến đổi thế nào để thành “kairos”, một khoảnh khắc của đột phá và hy vọng, của thề hứa và khả dĩ?

Chúng ta hãy cầu khẩn Chúa và Mẹ Maria biến chúng ta thành những tôi tớ trung thành, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa biểu, và hăng say chia sẻ với tha nhân rượu nồng Chúa đã cung cấp cho chúng ta. Khi biết lắng nghe tiếng Chúa và làm theo lời Chúa thì những điều bình thường trong cuộc sống sẽ trở thành phi thường, những bình không hoặc bình nước lã sẽ tràn đầy rượu mới ngon nồng, những giây phút chronos sẽ biến thành kairos, và chúng ta trở nên những ngày hội thực sự của nhau và cho nhau.

Đừng ngần ngại, đừng sợ gian khổ, đừng tránh né viện cớ này cớ nọ để không nghe tiếng gọi lương tâm là tiếng Chúa gọi. Công bằng, Công lý, Tự do Tôn Giáo…. thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, an bình hoặc chiến tranh, bảo vệ hay đàn áp, truy nã thì ý nghĩa của nó cũng không bao giờ thay đổi. Nó là ông THIỆN. Kẻ nào đi ngược lại, chống lại nó là KẺ ÁC. Chúng ta phải chọn Thiện, chống lại Ác. Leo lên mái nhà mà nói sự thật. Đừng sợ (x. Mt 10: 26-28).

Khi mà Thiện Ác giao thoa thì đó là giờ Kairos xuất hiện, giờ của Chúa. Ta phải chọn Thiện đánh Ác.

--------------------------------
 

TN 2-C184: ĐỨC MẸ và TIỆC CƯỚI CANA


Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

 

Hãy tưởng tượng bạn đang có mặt tại Cana, cùng dự tiệc cưới với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các TN 2-C184


Hãy tưởng tượng bạn đang có mặt tại Cana, cùng dự tiệc cưới với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Tông đồ.

Khung cảnh nhộn nhịp, vui mừng, và an bình như bạn cảm thấy tại các đám cưới. Đôi tân hôn yêu thương nhau, hy vọng và cầu nguyện cho tương lai lứa đôi. Họ biết Đức Mẹ, Chúa Giêsu, và một số môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có thể tưởng tượng họ đang ở đó để chia sẻ niềm vui với chú rể và cô dâu.

Tiệc cưới đang vui thì có vấn đề. Rượu là thứ quan trọng trong tiệc cưới, nhưng rượu không đủ vì lý do nào đó. Điều này thực sự gây lúng túng cho những người đến dự tiệc, rất khó xử đối với đôi tân hôn và nhà đám.

Biết rõ tình huống bất ngờ như vậy, Đức Mẹ đã giúp đỡ họ. Đức Mẹ muốn mọi người vui vẻ và hạnh phúc nên đã bảo toàn niềm vui cho họ. Đức Mẹ quay sang Chúa Giêsu và nói rằng họ không còn rượu nữa. Chúa Giêsu nói rằng giờ của Ngài chưa đến. Đức Mẹ và Chúa Giêsu kết hợp mọi lúc và trong mọi trường hợp, kết hợp cả con tim và tâm hồn. Rồi Đức Mẹ lặng lẽ đi căn dặn những người phục vụ: “Con Trai tôi bảo gì thì cứ làm theo nhé!” Chúng ta có thể nói rằng lời nói của Đức Mẹ chứa đựng lời khuyên tốt nhất trong thế giới này. Đức Mẹ nói với những người phục vụ cũng như nói với thế giới rằng HÃY VÂNG LỜI CHÚA GIÊSU TRONG MỌI SỰ!

Phép lạ thứ nhất này rất có ý nghĩa đối với mỗi chúng ta. Nhờ Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay, Chúa Giêsu đã làm phép lạ công khai tại tiệc cưới Cana, ngăn chặn tình huống khó xử ngay trong ngày cưới của đôi trẻ.

Các Tông đồ đã chứng kiến phép lạ này, nhờ đó họ tăng thêm niềm tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta cũng hãy đi sâu vào phép lạ này của Chúa Giêsu, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ, và cũng hãy để Thiên Chúa nói với chúng ta trong tâm trí và linh hồn của chúng ta.

Hãy cầu xin ơn nhận biết Chúa Giêsu, yêu mến Ngài và theo Ngài qua sự hiện diện và cầu bầu của Đức Mẹ, Thánh Mẫu Thiên Chúa. Đây là 5 điều kỳ diệu:

1. ĐỨC MẸ DẪN CHÚNG TA TỚI CHÚA GIÊSU

Bài học rõ ràng chúng ta học được tại tiệc cưới Cana: Đức Mẹ dẫn chúng ta tới gặp Chúa Giêsu. Không bao giờ có ai gần gũi Chúa Giêsu bằng Đức Mẹ. Do đó, nếu muốn đến gần Chúa Giêsu để biết Ngài hơn, yêu mến Ngài hơn và theo sát Ngài hơn, chúng ta nên nhờ Đức Mẹ. Hãy nói với Đức Mẹ với lòng yêu mến và tin tưởng, cầu xin Đức Mẹ ban ơn nhận biết Chúa Giêsu nhiều hơn. Đức Mẹ đã giúp đỡ và hướng dẫn người khác nghe lời Chúa Giêsu để họ có thể tiếp tục tận hưởng niềm vui ngày cưới.

2. ĐỨC MẸ TRAO NIỀM VUI CHO CHÚNG TA

Tiệc cưới là dịp vui mừng và Đức Mẹ có mặt ở đó. Đức Mẹ cũng muốn bạn vui sống cuộc đời này và mãi mãi vui sống trên Nước Trời. Niềm vui đích thực nhờ biết chia sẻ cuộc sống với Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mọi người trên thế giới này đều muốn hạnh phúc, nhưng nhiều người không hạnh phúc bởi vì họ tìm kiếm hạnh phúc không đúng chỗ – thường là trong tội lỗi, xa cách Chúa Giêsu và Đức Mẹ.

3. ĐỨC MẸ GIÚP CHÚNG TA GIẢI QUYẾT KHÓ KHĂN

Tại tiệc cưới Cana đã xảy ra vấn đề căng thẳng: hết rượu. Nhờ sự can thiệp của Đức Mẹ mà vấn đề được giải quyết dễ dàng và mau chóng. Cuộc sống của chúng ta cũng đầy những kkhn, từ đầu cho đến cuối. Chúng ta thường cố gắng tự giải quyết các vấn đề của mình, nhưng vấn đề càng tồi tệ hơn, và chúng ta càng rối trí hơn.

Một trong các tước hiệu của Đức Mẹ là Người Gỡ Rối (Undoer of Knots). Các “nút thắt” ở đây là các vấn nạn của chúng ta. Ai cũng có những cái rắc rối của cuộc đời. Đức Mẹ có thể giúp chúng ta, Đức Mẹ rất muốn giúp chúng ta, nhưng Đức Mẹ còn chờ chúng ta cầu xin Mẹ. Chúng ta có những điều rắc rối nào? Nhiều lắm! Một số có thể là của chính mình: rắc rối với cha mẹ, rắc rối với anh chị em, rắc rối với bạn bè, rắc rối với hàng xóm, rắc rối về sức khỏe, rắc rối về tiền bạc, rắc rối về công việc,... Hãy kiểm tra và cầu xin Đức Mẹ gỡ rối “nút to nhất” mà bạn đang cố gắng xử lý nó. Hãy nói với Đức Mẹ về điều đó. Nhờ Đức Mẹ can thiệp, Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Đức Mẹ cũng sẽ can thiệp giúp chúng ta trước khi Chúa Giêsu biến nước (sự khó khăn của chúng ta) thành rượu (giải quyết vấn đề).

4. PHÉP LẠ CÓ THỂ XẢY RA

Đây là phép lạ đầu tiên được Chúa Giêsu làm qua lời cầu xin và sự hiện diện của Đức Mẹ. Chính nhờ phép lạ này, các tông đồ được củng cố niềm tin vào Chúa Giêsu. Hãy cầu xin Đức Mẹ củng cố đức tin của chúng ta. Tin hay không tin là chấp nhận hay từ chối điều mình không nhìn thấy. Hãy cầu nguyện để đức tin gia tăng hàng ngày và không bị mất niềm tin. Hãy xin ơn biết chia sẻ đức tin với người khác – những người lung lay đức tin, mất đức tin, hoặc chưa có đức tin. Một trong cách tốt để duy trì và phát triển đức tin là chia sẻ đức tin với người khác.

5. THỜI GIAN TÌM HIỂU VÀ HÔN NHÂN

Phép lạ này xảy ra trong bối cảnh đám cưới. Cơ hội tốt là khi bạn được mời gọi sống đời hôn nhân. Nếu bạn có ơn gọi hôn nhân, rất quan trọng để bạn cầu xin Chúa giúp bạn chọn đúng người có thể chia sẻ cuộc sống và cùng nhau tiến vào Nước Trời. Đó là quyết định rất quan trọng cho cả cuộc đời bạn. Hãy tưởng tượng bạn đang ngồi đối diện với Chúa Giêsu và Đức Mẹ tại tiệc cưới tuyệt vời này. Hãy ngắm nhìn đôi mắt, khuôn mặt, nét đẹp của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Hãy cầu xin các Ngài ban ơn nhận biết ơn gọi của bạn trong cuộc đời này và trung thành với ơn gọi đó cho đến hơi thở cuối cùng, và bình an tiến về Quê Trời.

----------------------------

 

TN 2-C185: RƯỢU TÌNH YÊU


Lm. Ed Broom, OMV - https://catholicexchange.com
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu chuyển ngữ

 

Chẳng phải chỉ có riêng dân An-Nam nhà mình cảm thấy nhục nhã và xấu hổ, bẽ mặt với bà TN 2-C185


Chẳng phải chỉ có riêng dân An-Nam nhà mình cảm thấy nhục nhã và xấu hổ, bẽ mặt với bà con lối xóm, với họ hàng thân thích, với bạn bè…mỗi khi đãi tiệc mà lại bị thiếu hụt thức ăn đồ uống đâu! Dân Á Đông nói chung và đặc biệt là dân Do Thái đều như vậy cả! Đối với họ, thiếu rượu, thiếu thịt trong những bữa tiệc cưới là một điều tối kị, bởi vì đó là một điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu, chú rể và cho cả họ hàng đôi bên nữa.

Bây giờ! Giả như trong bữa tiệc cưới của bạn, bữa tiệc đang được tổ chức tại nhà, bị lâm vào tình trạng bị thiếu rượu, thiếu thức ăn, đồ uống…thì bạn sẽ phải làm gì và xoay sở ra sao? Tôi nghĩ bạn chẳng làm gì được cả, vô phương! Chỉ còn mỗi một cách là nhờ ai đó nhanh chân, lẹ tay, giỏi ngoại giao để họ bằng mọi giá, và bằng mọi cách cấp tốc đi mua cho bằng được thức ăn, rượu bia về để khỏi bị…mất mặt, mang tai, mang tiếng, mất danh dự…với thực khách mà thôi! Đúng không?

Trường hợp của đám cưới ở Cana ngày xưa cũng vậy! Họ cũng tái xanh mặt mũi và hoảng hồn hoảng vía khi phát hiện ra rượu bia bị thiếu. Thế nhưng nhờ họ đã mời Đức Mẹ, Chúa Giê-su và các môn đệ của Chúa đến dự tiệc cưới của họ, cho nên khi họ lâm nạn, khi bị thiếu rượu, họ đã được các Ngài ghé mắt nhìn đến và ra tay cứu giúp.

Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chú rể và cô dâu không mời Đức Mẹ, không mời Chúa Giê-su và các môn đệ tới dự tiệc cưới? Chắc chắn, họ sẽ bị hàng xóm chê cười, và tai tiếng sẽ để đời chứ chẳng chơi, vì cái chuyện thiếu rượu!

Có bao giờ bạn lâm vào tình cảnh bị THIẾU RƯỢU giống như cô dâu chú rể ở Cana hay không? Tôi nghĩ không ít thì nhiều, gia đình của bạn và gia đình của tôi cũng đã, và đang bị THIẾU RUỢU đấy! Ví dụ:

• Khi trẻ với già, khi bề trên với bề dưới xung khắc với nhau, thiếu quan tâm đến nhau, thiếu lịch sự với nhau, thiếu tế nhị với nhau, thiếu bác ái với nhau… thì lúc ấy người ta đang lâm vào cảnh THIẾU RƯỢU YÊU THƯƠNG!

• Khi chồng với vợ, khi cha mẹ với con cái, khi linh mục, tu sĩ với giáo dân… thiếu sự kính trọng lẫn nhau, thiếu sự nâng đỡ, thông cảm và tha thứ cho nhau thì lúc đó, họ đang bị THIẾU RƯỢU THƯƠNG YÊU rồi!

• Khi chồng thất tín với vợ, khi vợ thất tiết cùng chồng, khi ông ăn chả bà ăn nem, khi vợ chồng ăn nói đốp chát, mạt sát, xỉ vả, thượng cảng chân, hạ cẳng tay với nhau…thì rõ như ban ngày, đó là dấu chỉ của THIẾU RƯỢU TÌNH YÊU một cách nghiêm trọng!

Bạn thân mến, nếu hôm nay bạn và tôi nhận ra rằng gia đình hay dòng tu của chúng mình đang lâm vào tình trạng bất an, bối rối, túng quẫn và nguy hiểm bởi vì đang THIẾU RƯỢU TÌNH YÊU thì bạn và tôi hãy mau mau bắt chước sự khôn ngoan của cô dâu và chú rể ở Cana:

• Hãy mời Đức Mẹ, Chúa Giê-su và các môn đệ đến gia đình của chúng mình. Có Chúa, có Mẹ, có các thánh tông đồ ở trong nhà chúng mình là bảo đảm RƯỢU TÌNH YÊU sẽ không bao giờ cạn và không bao giờ bị thiếu hụt cả.

• Khi phát hiện ra THIẾU RƯỢU trong gia đình thì chúng mình hãy chạy ngay đến thưa với Đức Mẹ, qua những tràng Chuỗi Mân Côi, qua những tuần Cửu Nhật, hãy thưa rằng: “RƯỢU YÊU THƯƠNG của chúng con đang bị thiếu, đang bị bốc hơi hết tron rồi Mẹ ơi! Xin Mẹ nói dùm với Con của Mẹ để Ngài làm phép lạ giúp chúng con mau đi!”

• Xin hãy LẮNG NGHE & THI HÀNH những lời Chúa Giê-su chỉ dạy: “Người bảo gì, chúng con cứ việc làm theo” (Ga 2:5) qua việc ĐỌC, SUY NIỆM & HỌC HỎI Lời Chúa thường xuyên..

Bạn đừng bao giờ quên nếu không có Thầy, các con không làm được gì cả! (Ga 15:5). Sự hiện diện của Chúa Giê-su, Đức Mẹ và các thánh tông đồ ở trong gia đình của chúng mình vô cùng cần thiết và cực kỳ quan trọng. Hãy bắt chước đôi vợ chồng mới cưới ở Cana, ngay từ hôm nay, làm hết sức có thể để mời cho bằng được thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ” (Ga 2:1- 2) đến nhà và ở lại với chúng mình; hãy mạnh dạn mở miệng cầu xin với Chúa qua Đức Mẹ và chịu khó kiên nhẫn lắng nghe cũng như thực hành Lời của Chúa thì bảo đảm là tất cả mọi sự lo âu, bồn chồn, bất an, đau khổ, tủi nhục, bất hòa…sẽ không có cơ hội len lỏi vào trong gia đình của chúng mình nữa đâu!

Có sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong gia đình mình thì RƯỢU TÌNH YÊU sẽ không bao giờ thiếu, chẳng khi nào cạn được! Bạn tin không? Tùy bạn!

Cầu chúc bạn và gia đình bạn được bình an và không bao giờ thiếu rượu yêu thương. Xin Chúa che chở và gìn giữ bạn và những người thân của bạn khỏi những nguy hiểm của dịch bệnh.

-----------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây