Suy Niệm Tin Mừng Lễ các thánh tử đạo Việt Nam 24/11 Bái 201-247: Những chứng nhân anh dũng của Đức Tin ------------------------------------ Phúc Âm: Mt 10,17-22 "Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ". - Ðó là Lời Chúa. -------------------------------------------- Mục Lục:
Hôm nay, Giáo Hội Việt Nam kết thúc năm Thánh năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam kỷ niệm 30 năm Các Ngài được tuyên Thánh. Qủa thế, cách đây 30 năm, 19-06-1988, Giáo Hội Công giáo Việt Nam vui mừng hãnh diện với Các Thánh Tử đạo Việt Nam, hãnh diện vì đức tin sáng ngời của các Ngài trước biết bao cuộc bách hại bạo tàn. Gông cùm, đòn roi và án tử đã trở nên con đường để các Ngài cùng Chúa Giêsu tiến lên đồi Canvê. Dòng máu tình yêu của các Ngài đã tưới gội cho hạt mầm đức tin của lớp lớp con cháu được lớn mạnh trên quê hương Việt Nam con rồng cháu tiên. Các Ngài đã hát bài ca tán dương Thiên Chúa bằng chính sự sống của mình, nhờ đó, các Ngài được phúc hiển vinh trong hàng ngũ các Thánh trên Trời.
Nhìn lại lịch sử suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển Thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các Vị Tử Đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết, nhưng giờ phút hy sinh đến, các Ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, minh chứng cho đức tin về sự sống vĩnh cửu, một đức tin chân thật và duy nhất. Các thánh Tử Đạo Việt Nam chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý, yêu thương tha thứ cho kẻ bách hại và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hào hùng ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn như lời thánh Tertulianô xác tín: “Máu các thánh Tử Đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.
Bà mẹ trong bài đọc một đã can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường lắm, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn, để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, họ đã tin rằng: “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống cũng không kém. Đức tin của các Ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các Ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông Quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con trách móc ông vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha, còn ông trùm Quỳnh vì có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ, đớn đau và nhục nhã nhưng ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.
Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường như thế cho nên các Thánh Tử Đạo đã sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các Ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa hôm nay Giêsu nói: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo Việt Nam trước muôn vàn thử thách để sống đời làm chứng cho Chúa và Tin Mừng. Thách đố trước hết là kinh tế tiền bạc. Vì đồng tiền mà nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác nhưng vẫn làm để có tiền và nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất ĐứcTin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, chúng ta bị cám dỗ và sa ngã phạm tội vì đức tin yếu kém. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt, mua vui và vứt bỏ. Vì vậy, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” này, vì nó đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với mọi người và mọi tạo vật.
Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm Đức tin và làm cho đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các Ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại. Vì vậy, khi chúng ta bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng…
Ước gì qua Thánh lễ này, chúng ta là thế hệ con cháu của Các Thánh tử Đạo, cũng nguyện một lòng cùng với Chúa Giêsu gieo mình vào Đất Việt tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng của Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng đã làm cho trái tim chúng ta không bao giờ mục nát, cánh hoa cuộc đời chúng ta chưa một lần úa tàn, những ánh sao không bao giờ lịm tắt, những người con Chúa sống mãi không thôi. Đó là những tâm tình Á Thánh tiên khởi Anrê Phú Yên nhắn nhủ với hậu thế chúng ta. Vì vậy, dù kết thúc Năm Thánh Tôn Vinh Ngài, nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống theo những lời hướng dẫn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: Làm việc lành phúc đức; sống tinh thần Tử đạo: Các gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc. Các anh chị em sống đời thánh hiến hãy từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời khuyên Phúc Âm, làm chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô giá; qua đó, chúng ta có thể góp phần “thức tỉnh thế giới” như Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi. Các linh mục hãy trung thành với lời thề hứa khi chịu chức, tận tụy thi hành bổn phận đã được trao phó trong khiêm tốn và cậy trông, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử nhân lành, “hiến mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,15), và hăng say rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho chúng con. Amen.
Quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, vào đúng sáng ngày lễ Phục Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà… Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: "Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ, lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy Cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa…
Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời." Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gía. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá." Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: "Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa.” Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Bà còn khuyên: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”…
Sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin, ngày 12.07.1841, trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà Anê Lê Thị Thành cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con". (Lm. Đào Trung Hiệu, OP, Thánh Anê Lê Thị Thành (bà thánh Đê, 1781-1841 )
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19. 6. 1988 tại Rôma, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, trong đó có thánh Anê Lê Thị Thành. Các vị gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Hôm nay Giáo Hội hoàn vũ chung niềm vui với Giáo Hội Việt Nam, cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng phúc cho dân Việt.
Chết đi bản thân
Các Thánh Tử Đạo đã đổ máu đào làm chứng cho Tin Mừng, cũng như trung thành thực hành Lời Chúa đến hơi thở cuối cùng. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” Trong gian truân bách hại, Đức Giêsu sẵn sàng đương đầu gánh chịu, các Thánh Tử Đạo cũng noi gương Người, đã không bỏ trốn, mà từ bỏ mình đi theo Chúa, hoàn toàn phó thác, tuân thủ Thánh Ý Chúa: “Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Bà Thánh Anê đã tuyên xưng đức tin sáng ngời, xứng đáng trở thành vị Thánh nữ tiên khởi của dân Việt.
Chết đi bản thân cũng có nghĩa là chẳng thiết tha những gì dính líu đến đời sống phàm tục, của cải, tiền bạc, danh phận, chức tước, bổng lộc. “Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết.” Khi mất đi của cải là lúc được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm, gấp vạn lần, chính là Nước Trời. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Chết đi cái tôi có nghĩa là hy sinh thân xác, mặc bao đòn vọt, khổ nhục, để hiên ngang làm chứng nhân Tin Mừng. Một lòng chính chuyên phó thác và cậy trông ơn trên, cầu bầu Mẹ Maria cứu giúp. "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Bà Thánh Anê còn an ủi lại người chồng xót thương đến thăm.
Chết cho tha nhân
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, tuy không công khai tái diễn thảm họa bách hại đạo Chúa, nhưng khuynh hướng thực dụng và duy vật đang thách đố tín hữu Kitô sống đạo, sống trung thực Tin Mừng. Tiên quyết để theo Đức Giêsu là tuân theo lời dạy bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Vậy xả kỷ, vị tha cũng chính là chết cho tha nhân, dấn thân phục vụ, không quản khó khăn, trở ngại, chấp nhận những hiểm họa, nhục hình có thể xảy đến.
"Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”… Dù đang chịu xiềng xích, tù đầy, roi vọt, Thánh nữ Anê vẫn không hề nao núng hãi sợ, mà còn ân cần, lo lắng khuyên nhủ con cái sống đạo chu đáo, sốt sắng và sẵn sàng tuyên xưng đức tin. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”
Khiêm nhường, nhân ái, hy sinh, phục vụ, làm chứng nhân, chính là chết cho tha nhân được nảy chồi đâm lộc, sinh hoa kết trái. Như hạt lúa chịu mục nát, thối đi, chết đi mới có thể nảy mầm, đâm chồi, sinh hoa, kết hạt, bội thu gấp chục, gấp trăm. Những giọt máu đào của chư thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã trổ sinh cánh đồng Giáo Hội xanh tươi, bát ngát, được mùa như ngày hôm nay. “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.”
Chết cho Chúa
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. Phúc thứ tám là phần thưởng cho những ai chịu chết vì danh Chúa, vì Tin Mừng. Người tín hữu Kitô nào dám can đảm lội ngược dòng đời để sống Tin Mừng, làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa, cũng gian nan khốn khổ không kém phúc tử vì đạo. Không im lặng, đồng lõa, hùa theo, toa rập theo bầy đàn làm điều ôi ác, đê hèn, xấu xa, gian tham, háo danh, vụ lợi, không chấp nhận bất công, phân biệt, kỳ thị, không chiều theo khuynh hướng hưởng lạc, rượu chè, cờ bạc, dâm ô, khước từ văn minh sự chết, mà công khai sống theo Tin Mừng, thấm nhuần Bát Phúc, trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu, chính là chết cho Chúa.
Hôm nay, chứng nhân Tin Mừng không phải chịu đổ máu đào như xưa, nhưng vẫn quyết tâm tiếp tục chiến đấu mãnh liệt và liên tục giữa sự dữ của thế gian, ma quỷ và xác thịt, giữa một thế giới duy vật, hưởng thụ, thực dụng, sa đọa, vị kỷ, chối bỏ Thiên Chúa. Một cuộc tử vì đạo âm thầm, lặng lẽ, thách thức, dai dẳng trong suốt cuộc đời Kitô hữu, với niềm hy vọng sâu sắc, cháy bỏng, bền vững và bất tận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Còn lời hứa nào trọng đại và cao quý hơn?
“Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và Đại Diện của Ngài: Đức Thánh Cha, các giám mục, kế vị các thánh Tông Đồ. Sống và chết vì Hội Thánh như Chúa Kitô. Đứng nghĩ chết vì Hội Thánh mới hy sinh. Sống vì Hội Thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.” (Đường Hy Vọng, số 987)
Lạy Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những vị tiền nhân, đã anh dũng hy sinh cả cuộc đời, trở nên những chứng nhân Tin Mừng cho toàn thể dân Chúa. Các ngài đã nêu tấm gương thật sáng ngời, bỏ tất cả mọi sự, kể cả sinh mạng, để trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin Chúa ban ơn, giúp sức chúng con quyết tâm luôn noi gương các ngài làm chứng nhân Tin Mừng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, an ủi, khích lệ chúng con luôn làm chứng nhân cho Chúa trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, noi gương các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Amen.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 giám mục và linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu Mến Thánh Giá và 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình để làm chứng cho đức tin của mình:
- Bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bệnh và bị dã thú ăn thịt…với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.
- Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Như vậy các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng việc chịu chết vì đức tin và máu của các ngài đã đem lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội như Tertulianô đã nói: “máu của các vị tử đạo là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Ngày nay mỗi Kitô hữu có thể làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách khác nhau và mỗi người có một cách làm chứng riêng của mình. Trên thế giới ngày nay có biết bao nhiêu ngành nghề, biết bao lãnh vực, cho nên có vô vàn vô số những phương cách thích hợp. Chính vì vậy mà Chúa đã nói với các tông đồ và cũng nói với mỗi người chúng ta rằng: “Các con là chứng nhân của Thầy” (Lc 24,48). Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất là làm chứng nhân cho Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta như cha Vianney. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ ngài về đời sống của ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Và đây, một bác tài xế xe taxi đã làm chứng nhân cho Chúa trong chính cuộc sống đời thường của mình:
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách sống đời chứng nhân của một bác tài xế xe taxi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe taxi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn "Thượng Lộ Bình An". Amen.
-------------------------- 19. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (Suy niệm của Lm. Anfonso) “Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình!" Suy niệm: Lịch sử Giáo hội trải qua hơn 2000 năm không thiếu những gương chứng nhân đức tin giúp củng cố lòng đạo nơi các tín hữu. Và cũng như Tin mừng mới đến trên mảnh đất Việt Nam vào giữa thế kỷ XVI, do một linh mục thừa sai tên Inêkhu truyền giáo năm 1533, thế nhưng cũng đã đóng góp vào lòng Giáo hội hoàn vũ tới 130.000 tín hữu chịu tử đạo vì danh Chúa trên khắp cả nước, mà khởi đầu là Anrê Phú Yên hay còn gọi là Anrê Trung chịu tử đạo năm 1644, và kéo dài mãi đến năm 1885 khi phong trào Cần Vương phò vua đã quyết “Bình Tây diệt Tả”, tiêu diệt người ngoại quốc, diệt trừ Kitô giáo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ XIX, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Lý do bị bách hại là vì Kitô giáo bị coi là ngoại lai, do người Tây đem vào; hoặc vua được coi là thiên tử, phải thờ phượng nhà vua trên hết mà nay Kitô giáo lại tôn thờ Thiên Chúa trến hết; hay vì lý do người Kitô hữu sống một vợ một chồng, điều này đi trái lại ý vua muốn trai năm thê bảy thiếp để có thể sinh ra cho nhà vua một dân tộc lớn mạnh với số dân đông đảo để có người bảo vệ đất nước. Và thậm chí Kitô giáo bị hiểu lầm là những người bỏ việc thờ kính cha mẹ, đi ngược lại với truyền thống tổ tiên nên gọi là Tả đạo và quyết loại bỏ đạo sai trái này. Vinh phúc tử đạo là phần phúc cao cả nhất dành cho người tin vào Chúa Kitô Giêsu vì được chung phần đau khổ với Người, được vác thập giá mình mà theo Người. Với đa dạng những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau từ giáo sĩ tới giáo dân, từ quan lính tới thường dân, từ nhà giàu đến người nghèo bất kể nam phụ lão ấu đều can đảm dùng giá máu làm chứng cho giá trị Tin mừng. Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn vũ ghi nhận và vinh danh. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, Đức thánh cha Gioan Phaolô đệ II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh, đại diện cho muôn ngàn tín hữu khác cũng chịu phúc tử đạo. Trong số 117 vị ấy, có 8 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục thì có 13 vị người ngoại quốc và 37 vị người bản địa Việt Nam, 14 Thầy giảng; 1 Chủng sinh và 44 Giáo dân. Trong những cái chết anh dũng ấy, có 1 vị chịu bá đao (một trăm nhát dao), 4 vị chịu lăng trì (tùng xẻo: gõ tiếng trống thì lóc miếng thịt), 6 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo (siết cổ tới chết) và 9 vị chết rũ tù. Giáo hội Công giáo Việt Nam tự hào và biết ơn cùng sự ngưỡng mộ đối với các bậc tiền bối anh dũng. Qua đó, cũng để nhắc lại gương sáng của các ngài cho hậu thế, Giáo hội Việt Nam sắp khép lại Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này, thế nhưng hào khí trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô giữa lòng xã hội không hề giảm sút nơi lòng tín hữu con dân Việt Nam, đủ để thấy như lời văn sĩ Tertulianô đã nói: “Máu các vị thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu”. Vậy chúng ta là những người hậu thế cố gắng trong mỗi ngày sống quyết luôn can đảm làm chứng cho Chúa ngay từ những việc nhỏ bé hằng ngày, từ việc làm dấu, dự lễ sốt sắng, từ đời sống chân thành, chịu đựng lẫn nhau, tận dụng những dịp đến với anh chị em là cơ hội cho mình trở nên chứng nhân cho Chúa với một đời sống tốt lành, như lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, ngài đã viết: “Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình! Amen".
“Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình!"
Suy niệm:
Lịch sử Giáo hội trải qua hơn 2000 năm không thiếu những gương chứng nhân đức tin giúp củng cố lòng đạo nơi các tín hữu. Và cũng như Tin mừng mới đến trên mảnh đất Việt Nam vào giữa thế kỷ XVI, do một linh mục thừa sai tên Inêkhu truyền giáo năm 1533, thế nhưng cũng đã đóng góp vào lòng Giáo hội hoàn vũ tới 130.000 tín hữu chịu tử đạo vì danh Chúa trên khắp cả nước, mà khởi đầu là Anrê Phú Yên hay còn gọi là Anrê Trung chịu tử đạo năm 1644, và kéo dài mãi đến năm 1885 khi phong trào Cần Vương phò vua đã quyết “Bình Tây diệt Tả”, tiêu diệt người ngoại quốc, diệt trừ Kitô giáo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ XIX, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Lý do bị bách hại là vì Kitô giáo bị coi là ngoại lai, do người Tây đem vào; hoặc vua được coi là thiên tử, phải thờ phượng nhà vua trên hết mà nay Kitô giáo lại tôn thờ Thiên Chúa trến hết; hay vì lý do người Kitô hữu sống một vợ một chồng, điều này đi trái lại ý vua muốn trai năm thê bảy thiếp để có thể sinh ra cho nhà vua một dân tộc lớn mạnh với số dân đông đảo để có người bảo vệ đất nước. Và thậm chí Kitô giáo bị hiểu lầm là những người bỏ việc thờ kính cha mẹ, đi ngược lại với truyền thống tổ tiên nên gọi là Tả đạo và quyết loại bỏ đạo sai trái này.
Vinh phúc tử đạo là phần phúc cao cả nhất dành cho người tin vào Chúa Kitô Giêsu vì được chung phần đau khổ với Người, được vác thập giá mình mà theo Người. Với đa dạng những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau từ giáo sĩ tới giáo dân, từ quan lính tới thường dân, từ nhà giàu đến người nghèo bất kể nam phụ lão ấu đều can đảm dùng giá máu làm chứng cho giá trị Tin mừng. Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn vũ ghi nhận và vinh danh. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, Đức thánh cha Gioan Phaolô đệ II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh, đại diện cho muôn ngàn tín hữu khác cũng chịu phúc tử đạo.
Trong số 117 vị ấy, có 8 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục thì có 13 vị người ngoại quốc và 37 vị người bản địa Việt Nam, 14 Thầy giảng; 1 Chủng sinh và 44 Giáo dân. Trong những cái chết anh dũng ấy, có 1 vị chịu bá đao (một trăm nhát dao), 4 vị chịu lăng trì (tùng xẻo: gõ tiếng trống thì lóc miếng thịt), 6 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo (siết cổ tới chết) và 9 vị chết rũ tù.
Giáo hội Công giáo Việt Nam tự hào và biết ơn cùng sự ngưỡng mộ đối với các bậc tiền bối anh dũng. Qua đó, cũng để nhắc lại gương sáng của các ngài cho hậu thế, Giáo hội Việt Nam sắp khép lại Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này, thế nhưng hào khí trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô giữa lòng xã hội không hề giảm sút nơi lòng tín hữu con dân Việt Nam, đủ để thấy như lời văn sĩ Tertulianô đã nói: “Máu các vị thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu”. Vậy chúng ta là những người hậu thế cố gắng trong mỗi ngày sống quyết luôn can đảm làm chứng cho Chúa ngay từ những việc nhỏ bé hằng ngày, từ việc làm dấu, dự lễ sốt sắng, từ đời sống chân thành, chịu đựng lẫn nhau, tận dụng những dịp đến với anh chị em là cơ hội cho mình trở nên chứng nhân cho Chúa với một đời sống tốt lành, như lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, ngài đã viết: “Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình! Amen".
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay là một đoạn ngắn trong lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu sau bữa Tiệc Ly, trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn.
Đọc lại những lời này, chúng ta cảm nghiệm được mối liên hệ sâu xa giữa Chúa Giêsu với Cha Ngài. Chúng ta cũng cảm nghiệm được mối tình đầy ắp giữa Chúa Cha và Chúa Con, khi Ngài đang là người giữa chúng ta. Ngài đưa chúng ta vào giữa tình yêu của Ngài với Chúa Cha. Ngài cho thấy sự sống đầy yêu thương giữa Chúa Cha và Ngài. Tình yêu đã làm cho Ngài và Chúa Cha nên một, và Ngài muốn chúng ta nên một như thế.
Định luật tình yêu chân thật là như thế.
Ước nguyện của Ngài là chúng ta không những được nên một với nhau mà nên một với Chúa Cha. Vì thế, sống hay chết, chúng ta vẫn hiệp thông với Chúa Cha và với nhau.
Các thánh tử đạo là những người đã đạt tới đỉnh cao của tình yêu. Dù thử thách, gian nan hay nhục hình, các ngài vẫn trọn tình với Chúa.
Chính Chúa Giêsu là niềm vui bất diệt của các ngài. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ: “Bây giờ Con đến cùng Cha và Con nói lên những điều này lúc Con còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của Con.” Chúng ta hiểu tại sao cái chết trở nên nhẹ nhàng như thế. Thế gian tưởng họ là những người điên khùng hay cuồng tín. Đối với thế gian, cái chết của họ thật vô lý. Thế gian đâu hiểu được rằng cuộc sống trong trần gian, nếu không có cuộc sống hạnh phúc mai sau, thì mới thực sự là vô nghĩa.
Hơn nữa, người Công giáo có một mối tình sâu đậm và quí báu đến nỗi không bao giờ họ đổi với một cái gì khác, và đối với họ “không có tình yêu nào cao đẹp cho bằng chết cho bạn hữu”. Và họ dám chết cho người yêu duy nhất của họ là Chúa Giêsu. Vì thế họ xem cái chết như một cử chỉ yêu thương tuyệt hảo, cũng như Ngài đã chết cho họ vì yêu thương. Qua khuôn mặt của các ngài, chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt khác không thể tả là khuôn mặt của Đấng là Tình Yêu.
Tại sao thế gian khai trừ họ?
Chúa Giêsu nói: “Con đã truyền cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian…” Tại sao họ phải chết? Vì họ không thuộc về thế gian. Họ chính là một cái gai trước mặt thế gian, nếp sống của họ, Thiên Chúa của họ là một lời tố cáo thế gian. Họ sống trong thế gian, như mọi người, cũng lao động để kiếm sống như mọi người, nhưng họ không thuộc về thế gian. Vì họ không chỉ xây dựng một thế giới vật chất mà thôi. Họ sống cho một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa là tất cả. Đối với họ, thế gian chỉ là phương tiện để đạt đến một cuộc sống hạnh phúc vững bền chứ không tạm bợ. Cuộc sống đó chính là Thiên Chúa. Vì thế, họ đã chọn từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống: “Ai không bỏ mình vác thập giá mà theo Ta…”
Họ cũng là những con người yếu đuối, mong manh, cũng ham sống, cũng thích cuộc sống vật chất, nhưng khi cần, họ cũng dám liều mạng, vì họ muốn đáp lại tình yêu của Đấng đã chết và sống lại cho họ và ban cho họ cuộc sống mới mà thế gian không thể hiểu được. Tình yêu đó chính là sức mạnh khiến họ có đủ can đảm chấp nhận tù tội, nhục hình và cái chết đau đớn. Có lẽ giờ này trong vinh quang, các ngài nhìn lại, chắc các ngài cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể chịu đựng được những hình khổ như vậy. Vì thật ra ai cũng biết đau đớn, biết buồn sầu lo lắng, nhưng trong lúc đau đớn như thế, có một sức mạnh nào đó đã yểm trợ họ, trong sự yếu đuối mỏng giòn của họ. Họ đã được thánh hiến trong đau khổ như Chúa Giêsu đã được thánh hiến. Thánh hiến tức là hoàn toàn thuộc về Chúa Cha, hoàn toàn phó thác trong tình yêu.
Trong cuộc sống hôm nay của mỗi người chúng ta, Chúa đang chờ đợi chúng ta tử đạo. Tử đạo hôm nay, ngay trong cuộc sống này, đó là yêu thương đến tận cùng. Yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như Thầy đã yêu.
Cuộc sống không thương xót chúng ta đâu! Thế gian cũng không nương tay đối với chúng ta đâu! Phải can đảm dấn thân trong cuộc sống hằng ngày và can đảm vượt lên trên tất cả để trở thành những vị anh hùng tử đạo. Chúng ta được gọi trở nên anh hùng. Sống tốt giữa một thế giới đầy gian ác là một cuộc tử đạo đau đớn chứ không dễ dàng. Yêu thương giữa hận thù tranh chấp cũng là một nếp sống anh hùng. Chúa đang mong chờ những chiến sĩ can đảm như thế. Chúa đang chờ đợi những chứng nhân đáng tin cậy trong một thế giới mà Ngài trở thành cớ vấp phạm.
Chúa Giêsu không xin Cha đem chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng chỉ xin cho chúng ta khỏi ác thần mà thôi. Phải, chúng ta luôn chiến đấu không phải với con người có xác như chúng ta mà là với thần linh, như thánh Phaolô đã nói. Chỉ xin cho chúng ta can đảm đến cùng, làm chứng nhân đến cùng mà thôi. Chúng ta được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn mà thế gian không bao giờ biết, đó là thịt máu Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta và đã đi trước chúng ta trong một cuộc tử đạo ghê gớm nhất. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta: “Chúng con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng thế gian bằng một thứ vũ khí mà thế gian cũng không thể hình dung được: đó là Tình yêu không sứt mẻ hao mòn, tình yêu luôn tự hiến. Chúng ta chỉ có thể thắng thế gian bằng thứ vũ khí đó mà thôi. Thắng thế gian bằng cái chết tin yêu.
Hôm nay chúng ta cùng với Lễ kính các thánh tử đạo toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi. 1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.
Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.
Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các Ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các Ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài.
Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những hình khổ mà các Ngài phải chịu như thế nào: "Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.
Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì. Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu. Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu. Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ "
Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:
- Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
- Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
- Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.
- Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)
Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:
"Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.
Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi... đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày... rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất tích"
Vâng, kính thưa anh chị em,
Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các Ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: "Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyênh của Giáo Hội Chúa Kitô".
2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.
Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: "Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ" (Jn 4,36-37).
Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: "Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác"
Hàng trăm ngàn các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã vất vả khó nhọc gieo vãi. Các Ngài đã gieo vãi không phải là những hạt giống thông thuờng nhưng bằng những giọt máu của các Ngài. Và chính nhờ những giọt máu này mà chúng ta mới được như ngày hôm nay.
Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhờ các Ngài mà hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.
3. Tâm tình thứ ba là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.
Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh" Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng cảm thấy tự hào.
Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình nhà bác học bổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: "Các cháu nên nhớ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo chung với nhau"
Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Nhưng truyền lại bằng cách nào?
- Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.
Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: "Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.
Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.
Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan. Quan dụ:
- Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
-..........................? - Vậy một nén vàng! - Bẩm quan chưa đủ. - Vậy anh muốn bao nhiêu?
- Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.
Nguyễn văn Lựu: "Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được."
b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.
Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trạn. Hitler đã nói: "Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ" Victor Hugo: "Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó"
Chúa Giêsu: "Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy" Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng. Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát. Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.
Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.
Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời này cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: "Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?
Ngài nói tiếp như một xác tín: "Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" Và Ngài kết luận: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta" (Rom 8,35-39). Amen.
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.
Trong xã hội Việt Nam ta xưa cũng như nay, những người trẻ được mang nhãn hiệu CÔCC (con ông cháu cha) thì không để đâu cho hết niềm tự hào. Thật ra nếu đi sâu vào thực tế thì chưa hẳn tất cả những người trẻ mang danh CÔCC đều là những người đáng tự hào, vì cha ông của một số những người trẻ ấy chẳng có gì đáng tự hào, khi chỉ nhờ vào địa vị xã hội, tham nhũng, hối lộ hay ăn cắp của công mà thành người có chức, có quyền và có của trong xã hội và chính bản thân những người trẻ ấy cũng chẳng có gì đáng tự hào do chẳng có công trạng gì với cộng đồng xã hội.
Nhưng những người Công Giáo Việt Nam thì đích thực là CÔCC theo một nghĩa hoàn toàn khác: «Cha Ông chúng ta là các Thánh Tử Đạo và chúng ta đích thực là con cháu của các Ngài, xét cả về huyết tộc lẫn niềm tin Ki-tô, và chúng ta có quyền tự hào về các Ngài, và về chính chúng ta nếu chúng ta phải sống tương xứng với địa vị và danh giá của mình và của Cha Ông».
Thật vậy, Ông Bà, Tổ Tiên chúng ta là 118 Thánh Tử Đạo đã được Hội Thánh tôn phong (kể cả Chân Phước An-rê Phú Yên) và hàng chục ngàn các Vị Anh Hùng Tử Đạo. Các ngài đã làm rạng danh người Công Giáo Việt Nam bằng chứng tá Tử Đạo.
Mừng kính trọng thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không chỉ khơi lên lòng tự hào mà còn phải thể hiện ý thức trách nhiệm bằng những dấn thân cụ thể cho Giáo Hội cũng như cho quê hương, cho đồng bào thân yêu, để xứng đáng là CON CHÁU các Thánh Tử Đạo Việt Nam!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG CÁC BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1 (Đn 12,1-3): "Khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát" Khi ấy, tổng lãnh sứ thần Micae sẽ chỗi dậy can thiệp cho con cái dân ngươi, đó sẽ là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ. Trong thời kỳ ấy dân ngươi, hễ ai đã có ghi tên trong sách, sẽ được cứu thoát.
Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời.
Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời. . 2.2 Bài đọc 2 (Dt 10,11-14.18): "Người đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời" Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến dâng cũng ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xoá được tội lỗi, còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người. Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời. Vậy nơi nào tội lỗi được thứ tha, thì không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.
2.3 Bài Tin Mừng (Mc 13,24-32): "Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời" Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi".
III. CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM ĐÃ KIÊN CƯỜNG SỐNG VÀ LÀM CHỨNG ĐỨC TIN.
7Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam được gọi là Lễ Thánh An-rê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo. Việc kính Thánh An-rê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo bao gồm việc kính tất cả 117 Vị Tử Đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc Hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người Tây Ban Nha (6 giám mục và 5 linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 giám mục và 8 linh mục). Chúng ta có thể kể thêm Chân Phước An-rê Phú Yên (Vị tử đạo đầu tiên) vào hàng ngũ các Thánh Tử Đạo Việt Nam nên con số sẽ là 118 Vị.
Thánh An-rê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839. Hai vị Thánh Tử Đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh Tử Đạo sau cùng là giáo dân Phê-rô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các Bạn Tử Đạo với Thánh An-rê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh Tử Đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).
Tất cả các Vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời v.v.. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường.
Một vài tấm gương anh dũng của các Thánh Tử Đạo Việt Nam:
- Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sống. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.
- Sau ba tháng tù tại Bình Định ông An-rê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
- Bà Thánh I-nê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là: "Giê-su Ma-ri-a Giu-se, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa." Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.
- Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa. Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ huy: "Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.”
- Năm ông Đaminh Nhi, ông Đa-minh Mạo, ông Đa-minh Nguyên, ông An-rê Tường, ông Vinh sơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đa-minh Nhi, bốn vị ông Đa-minh Mạo cùng các ông Đa-minh Nguyên, An-rê Tường, Vinh-sơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
- Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao: "Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"
- Sau một năm tù giam, An-rê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? An-rê Trọng trả lời: "Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết."
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ An-rê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi An-rê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con."
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: "Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm."
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà cho rằng chỉ nhận lấy kỷ vật đó mà thôi là chưa đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao cho bà thủ cấp của con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại: "Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.” Rồi bà đem về an táng trong nhà.
IV. TRÁCH NHIỆM CỦA CON CHÁU CÁC THÁNH
4.1 Trách nhiệm sống sứ mạng chứng nhân của mọi Ki-tô hữu đã được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc nhở trong Thư Mục Vụ 2006 về chủ đề “Sống Đạo Hôm Nay”:
“Trước khi về Trời, Chúa Giê-su đã củng cố niềm tin của các Tông Đồ, mở trí cho các Ngài hiểu Thánh Kinh và trao cho các Ngài sứ mạng ra đi rao giảng cho muôn dân, kêu gọi thống hối để được ơn tha tội. Người khẳng định: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).
“Từ đó, sống chứng nhân là cách thế biểu thị sống động nhất về sức mạnh yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, cũng như Chúa Giê-su đã đến trần gian không để tìm vinh quang cho chính mình, nhưng là để làm vinh danh Thiên Chúa và cứu độ con người, Ki-tô hữu bước theo Chúa Giê-su để được Tin Mừng của Người biến đổi, và qua đó họ trở nên những người đem Tin Mừng cho thế giới này.
“Nếu trong đời sống Ki-tô hữu, Chúa Giê-su thực sự là điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định giá trị các hành vi, thì sự hiện diện tích cực qua việc sống đạo của Ki-tô hữu trong xã hội sẽ trở thành lời chứng về những giá trị căn bản của Tin Mừng và trở nên dấu chỉ của niềm hạnh phúc Nước Trời.” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 4).
4.2 Trong cụ thể nếu muốn sống sứ mạng chứng nhân ngày hôm nay thì người giáo dân Việt Nam không thể thờ ơ trước những thực tại bất bình thường và đáng xấu hổ của xã hội hiện nay:
(a) Trước hết là tình trạng nghèo đói của đại đa số đồng bào: Xã hội Việt Nam còn đầy rẫy những người nghèo: nghèo về vật chất khiến phải sống dưới mức tối thiểu không thể xem là đủ sống; nghèo về xã hội, như bị kỳ thị (tôn giáo, sắc tộc, phe đảng) hay bị cô lập (già yếu); nghèo về thể chất và tâm linh, như bệnh tật và tàn tật; nghèo về chính trị, như bị ức hiếp, bóc lột, cưỡng bức; nghèo về văn hóa, như ít học, ít hiểu biết và không được coi trọng; nghèo về đạo đức, như tội phạm. Những người nghèo kể trên đều bị ngăn cản không được dự phần vào đời sống chung của xã hội một cách xứng hợp, và vì thế nhu cầu cấp thiết là phải giúp đỡ họ thể hiện vai trò “chủ thể” của họ phù hợp với phẩm giá con người.
(b) Kế đến là tình trạng bất công tràn lan trong xã hội: Có nhiều kẻ không làm mà hưởng rất nhiều trong khi có nhiều người khác cực khổ suốt ngày, suốt tuần, suốt tháng, suốt năm, thậm chí suốt đời mà vẫn không đủ sống. Có những người giầu có bạc triệu (tính bằng đô-la Mỹ) nhờ có chức có quyền nên có cơ hội kinh doanh đầu tư hoặc tham nhũng, vơ vét dù bất tài và thất đức. Trong Thư Mục Vụ 2006, các Giám Mục Việt Nam đã thúc đẩy mọi tín hữu góp phần xây dựng một xã hội công bằng: “Lòng mến Chúa yêu người thôi thúc chúng ta góp phần xây dựng một xã hội trong đó con người có điều kiện để sống xứng với phẩm giá của mình. Bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, nên mọi người có quyền được tôn trọng và phát huy những khả năng Chúa ban để phục vụ xã hội một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, bởi vì con người là anh em của nhau, được tác tạo do quyền năng của Thiên Chúa và là đối tượng của ơn cứu chuộc trong Chúa Giê-su Ki-tô, nên mỗi người cần được đối xử với lòng kính trọng và yêu thương chân thành như là mục đích của sự phát triển toàn diện, để họ không bao giờ bị biến thành phương tiện cho sự phát triển kinh tế, cho sự thăng tiến xã hội của bất kỳ tổ chức hay thế lực nào.
“Để xây dựng một xã hội công bằng, ngoài việc giáo dục để biết tôn trọng những quyền căn bản của con người, cũng cần có một đường lối thích hợp bảo đảm thực hiện được quyền này. Công việc này đòi hỏi sự đóng góp từ nhiều phía. Là Ki-tô hữu, được mời gọi để trở thành ánh sáng cho thế gian, muối cho đời, men trong bột, chúng ta hãy tập trung xây dựng một cộng đoàn trong đó mọi thành phần đều được yêu thương và được đối xử công bằng.”
“Sự công bằng cần phải đi đôi với lòng tôn trọng sự thật, vì tôn trọng sự thật là điều kiện để xây dựng một cộng đoàn yêu thương. Chúng tôi tin chắc rằng gương sáng phát xuất từ cộng đoàn của những người con cái Chúa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong xã hội chúng ta” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 7).
(c) Sau cùng là tình trạng thiếu tự do, dân chủ vẫn còn được duy trì mặc dù trào lưu tiến bộ của loài người là tôn trọng phẩm giá và các quyền con người. Do đó, không ai hay nhóm người nào, vì bất cứ lý do gì, được quyền chối bỏ hoặc hạn chế các giá trị thiêng liêng cao cả ấy. Trong lãnh vực này, người Công Giáo có trách nhiệm đề cao, truyền bá và bảo vệ các giá trị của tự do, dân chủ và phân quyền trong đời sống xã hội vì phẩm giá và các quyền con người là bất khả xâm phạm và không thể chuyển nhượng như Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã nhấn mạnh trong Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á: “Con người, chứ không phải của cải hay kỹ thuật là tác nhân chủ yếu & mục tiêu của sự phát triển. Thế nên, sự phát triển mà Giáo Hội cổ võ vượt xa những vấn đề kinh tế và kỹ thuật. Sự phát triển ấy bắt đầu và kết thúc với sự toàn vẹn của con người, đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá cũng như các quyền con người bất khả nhượng. Các bản Tuyên Ngôn Quốc Tế khác nhau về các quyền con người cũng như nhiều sáng kiến được khởi hứng từ các Tuyên Ngôn ấy là một dấu hiệu cho thấy, trên cấp độ toàn cầu, càng ngày người ta càng quan tâm tới phẩm giá con người. Không may, trong thực tế, các bản Tuyên Ngôn này thường xuyên bị vi phạm. Đã năm mươi năm sau ngày long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, mà nhiều dân tộc vẫn còn là nạn nhân của những hình thức bóc lột và thao túng làm hạ phẩm giá, biến họ thành nô lệ thực sự cho những người quyền thế hơn, cho một ý thức hệ, cho quyền lực kinh tế, cho những hệ thống chính trị đàn áp, cho chủ nghĩa khoa học kỹ thuật thống trị hay sự xâm nhập của các phương tiện thông tin đại chúng.” (Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, 33).
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Hội Thánh Chúa tại Việt Nam để mọi thành phần Dân Chúa biết noi gương Tổ Tiên là Các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà sống trung kiên và dũng cảm làm chứng cho Đức Tin trong hoàn cảnh xã hội hôm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. Và từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các dân tộc trên trái đất này, nhất là cho dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta, để mọi người thành tâm thiện chí nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và Vương Quyền của Chúa Giê-su Ki-tô mà ăn ngay ở lành và tôn trọng phẩm giá của người khác.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng ngự trong đám mây mà đến» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người đang chịu cảnh áp bức, bất công và cho những người dũng cảm bênh vực Công Lý và Nhân Quyền trong xã hội Việt Nam hiện nay, để họ vững lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng Quyền Năng và Chính Trực.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigòn ngày 10/11/2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Phụng vụ Lời Chúa kết thúc với Chúa Nhật XXXIV Thường Niên mừng Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Trước Lể mừng Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ Giáo Hội Việt Nam có Lể mừng các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào Chúa Nhật XXXIV Thường Niên hôm nay. Dù đang sống trong hoàn cảnh không mấy thuận lợi cho việc mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam một cách trọng thể, chúng ta hãy cố gằng dành chút thời gian để suy nghĩ về gương hy sinh của các Ngài là tổ tiên, là cha ông đáng kính đáng mến của chúng ta và về trách nhiệm của chúng ta là làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô..
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 13,24-32: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi".
III. CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM ĐÃ KIÊN CƯỜNG SỐNG VÀ LÀM CHỨNG ĐỨC TIN.
Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam được gọi là Lễ Thánh An-rê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo. Việc kính Thánh An-rê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo bao gồm việc kính tất cả 117 Vị Tử Đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc Hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người Tây Ban Nha (6 giám mục và 5 linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 giám mục và 8 linh mục). Chúng ta có thể kể thêm Chân Phước An-rê Phú Yên (Vị tử đạo đầu tiên) vào hàng ngũ các Thánh Tử Đạo Việt Nam nên con số sẽ là 118 Vị.
Thánh An-rê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839. Hai vị Thánh Tử Đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh Tử Đạo sau cùng là giáo dân Phê-rô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các Bạn Tử Đạo với Thánh An-rê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh Tử Đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).
Tất cả các Vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời v.v.. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường.
Một vài tấm gương anh dũng của các Thánh Tử Đạo Việt Nam:
- Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sống. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.
- Sau ba tháng tù tại Bình Định ông An-rê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
- Bà Thánh I-nê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là: "Giê-su Ma-ri-a Giu-se, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa." Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.
- Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa. Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ huy: "Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.”
- Năm ông Đaminh Nhi, ông Đa-minh Mạo, ông Đa-minh Nguyên, ông An-rê Tường, ông Vinh sơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đa-minh Nhi, bốn vị ông Đa-minh Mạo cùng các ông Đa-minh Nguyên, An-rê Tường, Vinh-sơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
- Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao: "Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"
- Sau một năm tù giam, An-rê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? An-rê Trọng trả lời: "Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết."
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ An-rê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi An-rê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con."
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: "Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm."
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà cho rằng chỉ nhận lấy kỷ vật đó mà thôi là chưa đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao cho bà thủ cấp của con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại: "Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.” Rồi bà đem về an táng trong nhà.
IV. TRÁCH NHIỆM CỦA CON CHÁU CÁC THÁNH
4.1 Trách nhiệm sống sứ mạng chứng nhân của mọi Ki-tô hữu đã được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc nhở trong Thư Mục Vụ 2006 về chủ đề “Sống Đạo Hôm Nay”:
“Trước khi về Trời, Chúa Giê-su đã củng cố niềm tin của các Tông Đồ, mở trí cho các Ngài hiểu Thánh Kinh và trao cho các Ngài sứ mạng ra đi rao giảng cho muôn dân, kêu gọi thống hối để được ơn tha tội. Người khẳng định: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).
“Từ đó, sống chứng nhân là cách thế biểu thị sống động nhất về sức mạnh yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, cũng như Chúa Giê-su đã đến trần gian không để tìm vinh quang cho chính mình, nhưng là để làm vinh danh Thiên Chúa và cứu độ con người, Ki-tô hữu bước theo Chúa Giê-su để được Tin Mừng của Người biến đổi, và qua đó họ trở nên những người đem Tin Mừng cho thế giới này.
“Nếu trong đời sống Ki-tô hữu, Chúa Giê-su thực sự là điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định giá trị các hành vi, thì sự hiện diện tích cực qua việc sống đạo của Ki-tô hữu trong xã hội sẽ trở thành lời chứng về những giá trị căn bản của Tin Mừng và trở nên dấu chỉ của niềm hạnh phúc Nước Trời.” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 4).
4.2 Trong cụ thể nếu muốn sống sứ mạng chứng nhân ngày hôm nay thì người giáo dân Việt Nam không thể thờ ơ trước những thực tại bất bình thường và đáng xấu hổ của xã hội hiện nay:
(a) Trước hết là tình trạng nghèo đói của đại đa số đồng bào: Xã hội Việt Nam còn đầy rẫy những người nghèo: nghèo về vật chất khiến phải sống dưới mức tối thiểu không thể xem là đủ sống; nghèo về xã hội, như bị kỳ thị (tôn giáo, sắc tộc, phe đảng) hay bị cô lập (già yếu); nghèo về thể chất và tâm linh, như bệnh tật và tàn tật; nghèo về chính trị, như bị ức hiếp, bóc lột, cưỡng bức; nghèo về văn hóa, như ít học, ít hiểu biết và không được coi trọng; nghèo về đạo đức, như tội phạm. Những người nghèo kể trên đều bị ngăn cản không được dự phần vào đời sống chung của xã hội một cách xứng hợp, và vì thế nhu cầu cấp thiết là phải giúp đỡ họ thể hiện vai trò “chủ thể” của họ phù hợp với phẩm giá con người.
(b) Kế đến là tình trạng bất công tràn lan trong xã hội: Có nhiều kẻ không làm mà hưởng rất nhiều trong khi có nhiều người khác cực khổ suốt ngày, suốt tuần, suốt tháng, suốt năm, thậm chí suốt đời mà vẫn không đủ sống. Có những người giầu có bạc triệu (tính bằng đô-la Mỹ) nhờ có chức có quyền nên có cơ hội kinh doanh đầu tư hoặc tham nhũng, vơ vét dù bất tài và thất đức. Trong Thư Mục Vụ 2006, các Giám Mục Việt Nam đã thúc đẩy mọi tín hữu góp phần xây dựng một xã hội công bằng: “Lòng mến Chúa yêu người thôi thúc chúng ta góp phần xây dựng một xã hội trong đó con người có điều kiện để sống xứng với phẩm giá của mình. Bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, nên mọi người có quyền được tôn trọng và phát huy những khả năng Chúa ban để phục vụ xã hội một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, bởi vì con người là anh em của nhau, được tác tạo do quyền năng của Thiên Chúa và là đối tượng của ơn cứu chuộc trong Chúa Giê-su Ki-tô, nên mỗi người cần được đối xử với lòng kính trọng và yêu thương chân thành như là mục đích của sự phát triển toàn diện, để họ không bao giờ bị biến thành phương tiện cho sự phát triển kinh tế, cho sự thăng tiến xã hội của bất kỳ tổ chức hay thế lực nào.
“Để xây dựng một xã hội công bằng, ngoài việc giáo dục để biết tôn trọng những quyền căn bản của con người, cũng cần có một đường lối thích hợp bảo đảm thực hiện được quyền này. Công việc này đòi hỏi sự đóng góp từ nhiều phía. Là Ki-tô hữu, được mời gọi để trở thành ánh sáng cho thế gian, muối cho đời, men trong bột, chúng ta hãy tập trung xây dựng một cộng đoàn trong đó mọi thành phần đều được yêu thương và được đối xử công bằng.”
“Sự công bằng cần phải đi đôi với lòng tôn trọng sự thật, vì tôn trọng sự thật là điều kiện để xây dựng một cộng đoàn yêu thương. Chúng tôi tin chắc rằng gương sáng phát xuất từ cộng đoàn của những người con cái Chúa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong xã hội chúng ta” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 7).
(c) Sau cùng là tình trạng thiếu tự do, dân chủ vẫn còn được duy trì mặc dù trào lưu tiến bộ của loài người là tôn trọng phẩm giá và các quyền con người. Do đó, không ai hay nhóm người nào, vì bất cứ lý do gì, được quyền chối bỏ hoặc hạn chế các giá trị thiêng liêng cao cả ấy. Trong lãnh vực này, người Công Giáo có trách nhiệm đề cao, truyền bá và bảo vệ các giá trị của tự do, dân chủ và phân quyền trong đời sống xã hội vì phẩm giá và các quyền con người là bất khả xâm phạm và không thể chuyển nhượng như Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã nhấn mạnh trong Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á: “Con người, chứ không phải của cải hay kỹ thuật là tác nhân chủ yếu & mục tiêu của sự phát triển. Thế nên, sự phát triển mà Giáo Hội cổ võ vượt xa những vấn đề kinh tế và kỹ thuật. Sự phát triển ấy bắt đầu và kết thúc với sự toàn vẹn của con người, đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá cũng như các quyền con người bất khả nhượng. Các bản Tuyên Ngôn Quốc Tế khác nhau về các quyền con người cũng như nhiều sáng kiến được khởi hứng từ các Tuyên Ngôn ấy là một dấu hiệu cho thấy, trên cấp độ toàn cầu, càng ngày người ta càng quan tâm tới phẩm giá con người. Không may, trong thực tế, các bản Tuyên Ngôn này thường xuyên bị vi phạm. Đã năm mươi năm sau ngày long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, mà nhiều dân tộc vẫn còn là nạn nhân của những hình thức bóc lột và thao túng làm hạ phẩm giá, biến họ thành nô lệ thực sự cho những người quyền thế hơn, cho một ý thức hệ, cho quyền lực kinh tế, cho những hệ thống chính trị đàn áp, cho chủ nghĩa khoa học kỹ thuật thống trị hay sự xâm nhập của các phương tiện thông tin đại chúng.” (Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, 33).
V. CẦU NGUYỆN CÙNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các Ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các Ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chung con là con cháu các Ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các Ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các Ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Sàigòn ngày 12/11/2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Lỳ và liều, đó là những đối tượng nguy hiểm, nên tránh xa họ, kẻo phải liên luỵ, hoặc cảnh giác một chút cũng không thừa. Bậc anh hùng thời nào cũng có: anh hùng thật, anh hùng dỏm, anh hùng xa lộ, anh hùng say xỉn, anh hùng liều chết vì chán đời … Kinh nghiệm của tiền nhân nói rằng: ngu mà tỏ ra nguy hiểm, thì không gì phải đáng sợ, đáng sợ hơn cả là những kẻ nguy hiểm, mà tỏ ra ngu. Xã hội luôn ghi nhận những lời hay ý đẹp của bậc khôn ngoan, đề cao tinh thần yêu dân yêu nước, biết ơn công đức các ngài với danh xưng “anh hùng dân tộc”. Đi sâu vào các tương quan, mọi người sẽ khám phá ra một sự thật, ai trong chúng ta cũng có nét đáng yêu, không phải đáng sợ để rồi né tránh.
Các thánh tử đạo Việt Nam chết vì yêu, ai hiểu tích cực một chút thì nói các ngài khờ, mạnh hơn lại nói, kẻ khùng điên, mới dám chết vì muốn được nên giống Đấng treo trên thập giá. Trải qua muôn thế hệ, người kitô hữu ca tụng tiền nhân chúng ta chết vì yêu, là cùng với Đức Kitô xây dựng một chân lý đức tin cho con cháu. Một chân lý được diễn tả: “nếu hạt lúa rơi vào lòng đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nếu hạt lúa thối đi, nó sẽ trổ sinh nhiều bông hạt”. Để minh chứng tại sao chết vì yêu, cha ông ta phải chịu nhiều cực hình khác nhau, những tên lý hình, họ đều công nhận các ngài không sợ chết, không sợ khổ đau. Người kitô hữu thì nói nhờ tin yêu Chúa, nhờ sức mạnh của tình yêu Chúa, các ngài không sợ máu chảy đầu rơi.
Chết vì yêu, có thể bị xem là “cuồng si” với những ai thực dụng, yêu mình, yêu vật chất, địa vị, hoặc chủ trương ở đời này, còn sống là còn tất cả, bảo toàn được mạng sống mình là trên hết. Chết vì yêu, một minh chứng đức tin sáng đẹp và rõ ràng, Đức Giêsu đã tỏ ra cho các học trò, cho muôn dân thiên hạ biết: Thiên Chúa là tình yêu. Hành trình bước theo Đức Giêsu, không phải tìm đến một vương quốc máu me, chết chóc. Tin theo Đức Giêsu, một sự tự do chọn lựa sống giới luật mến Chúa yêu người: “ai phụng sự Thầy, hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phụng sự Thầy cũng sẽ ở đó. Ai yêu mến Thầy, Cha Thầy cũng yêu mến người đó”. Cha ông chúng ta có đủ ý thức: chết vì đức tin, chết vì yêu, không phải là kẻ ngu ngốc hay nguy hiểm, hành động vì yêu, chính là con đường ngắn nhất để đạt tới hạnh phúc đời đời.
Cứ theo suy nghĩ tự nhiên: điếc không sợ súng, cùi không sợ lở, chỉ những ai mình đồng da sắt mới không sợ đòn vọt, không sợ bị thiêu đốt. Suy xét tích cực hơn, chỉ những ai chết vì yêu, chết vì bảo vệ đức tin kitô giáo, mới thực sự gọi là bậc anh hùng, và đúng với đẳng cấp khôn ngoan, biết chọn lựa hạnh phúc nước trời cách nhanh lẹ nhất. Vấn đề đặt ra, tại sao có bách hại người theo Đức Kitô, tại sao Con Thiên Chúa đã đổ máu cứu độ nhân loại, vậy mà biết bao các chứng nhân vẫn đang chết vì yêu ? Vâng, quy luật tự nhiên hay siêu nhiên đều nói lên một sự thật: muốn được phải mất, muốn làm giầu phải chuyên chăm, đầu tư công sức. Muốn được cứu độ, ngoài việc tin Đức Giêsu, sống giới luật yêu thương, ta phải sống thánh ý Chúa cách trọn vẹn hơn.
Chết vì yêu, sống vì yêu, sẽ không ăn nhập gì với những ai chỉ biết Chúa trên môi miệng lý thuyết, khua chiêng gõ trống. Công suất của âm thanh tốt, người nghe sẽ rõ hơn, và không xảy ra tình trạng: trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, nói một đàng, làm một nẻo. Cây trái đơm bông, sinh nhiều quả ngọt, trái thơm, phải qua giai đoạn vun trồng, chăm sóc, cắt tỉa. Người có đức tin vững chắc, sẽ tồn tại trước những sự xấu đe doạ, người có tình yêu thật, sẽ đủ quảng đại yêu thương tha thứ, và biết sống thánh ý Chúa cách chuẩn mực nhất. Cha ông chúng ta chịu bách hại vì tin yêu Đức Kitô, các ngài không ngu dại, khùng điên, hay vì thiếu tính anh hùng. Đúng hơn vì yêu, vì ý thức hạt lúa có thôi đi, mới trổ sinh bông hạt. Để vượt qua được khổ đau, cực hình, tiền nhân chúng ta đã có lòng mến Chúa, yêu người, đủ nồng ấm yêu thương, hạt giống đức tin sẽ trổ sinh công đức cho thế hệ con cháu.
Xưa, có một ông nhà giầu lên tỉnh, ông ta cho một anh giúp việc đi theo, khi đã hoàn tất cuộc thăm viếng vị quan lớn trong thành. Lúc trở về, ông ta cằn nhằn, sao mày đi đằng sau tao, giống như tao là tù nhân của mày vậy ? Tên giúp việc không dám nói lời nào, liền đi trước ông chủ. Đi được một đoạn, ông nhà giầu lại gắt lên, mày để tao đi sau mày, có khác gì tao là tên hầu của mày hả ? Tên giúp việc im lặng và đi bên cạnh ông chủ. Đi một quãng nữa, ông nhà giầu lại quát, hoá ra mày ngang hàng với tao à, mày là bạn tao bao giờ thế ? Tên giúp việc lúc này chỉ biết khóc và gào lên: thưa ông, thế con phải đi thế nào ạ ?
Sống ở đời này, mọi người đều biết đến một chân lý: khôn chết, dại chết, biết mới sống. Đức Giêsu nói đến một sự thật: “ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ tìm lại được sự sống đời đời”. Ngài không thích chúng ta lỳ, hay liều, Ngài mong chúng ta khôn ngoan, biết mình là ai, biết mình cần ơn Chúa, và biết hướng tìm về hạnh phúc thật. Đức Giêsu biết sự giới hạn của con người, ai chẳng sợ đau khổ, ai chẳng sợ chết, duy chỉ những ai biết tín thác vào tình yêu Chúa, người đó mới hiểu, tử vì đạo là một diễm phúc, chẳng phải ai cũng cơ hội đó. Amen.
Người ta cho rằng: Ngày nay trên thế giới hình thành một quốc gia mới gọi là quốc gia không gian mạng. Người ta ước tính quốc gia này có khoảng Ba tỷ người – khoảng 40% dân số thế giới – đang sử dụng mạng xã hội. Ở quốc gia này mọi cư dân có thể dùng mạng xã hội là nơi giãi bày mọi thứ vui buồn, hạnh phúc hay đau khổ. Họ có thể giao thương buôn bán. Họ có thể bàn chuyện trong nhà, bàn chuyện trong nước hay thế giới. Ở quốc gia này cũng đầy rãy những thông tin gây stress bởi người ta cũng tự do để chửi, để kết án hoặc dẫn dư luận đi theo xu hướng xấu về tự do tình dục, tự do phá thai. . .
Ngày đầu tôi ghi danh vào quốc gia này là do một người bạn giới thiệu nói rằng vô đây mình được tự do, muốn nói gì thì nói, được tự do bày tỏ quan điểm của mình, và quan yếu là được kết nối với bạn bè ở khăp nơi? Nhưng rồi thời gian gần đây đã không còn như vậy. Người ta đã chính trị hóa quốc gia này nên nó không còn trung lập. Vì đồng tiền nên người điều khiển quốc gia này đã bao che cho cái xấu và có khi đồng lõa ngăn chặn sự thật. Ở quốc gia này kẻ có tiền vẫn là kẻ mạnh. Muốn chửi ai thì chửi. Muốn kết án ai thì kẻ đó phải chết. Kẻ có quyền vẫn dùng quyền để loại trừ người bất đồng chính kiến bằng hacker, bằng khủng bố đe dọa.
Có lần tôi đã rút khỏi quốc gia này nhưng nhiều người nói rằng cha rời đi thì những người hâm mộ cha buồn chết. Ở trang nhà facebook của cha có nhiều cái để học từ Lời Chúa, đến lời khuyên của tiền nhân, từ vui cười giải trí đến học hỏi giá trị làm người . .. Đa số cư dân ở đây chủ yếu là khoe khoang: khoe hột xoàn, khoe ăn uống, nhà cửa, quần áo , xe cộ . .. Nhất là cha cũng là một trong số ít những người đã dám nói lên cái sai của xã hội và dẫn chúng con đi theo trend của điều Thiên Chúa muốn.
Quả thực với một quốc gia không gian mạng có tới hơn 3 tỉ người và riêng ở Việt Nam người nào sinh ra cũng có một Visa trong quốc gia này. (những người mẹ trẻ thì lập Facebook cho con để gửi vào đó những hình ảnh theo năm tháng của con, và con cái cũng lập cho cha mẹ già một nick để đọc tin ..). Ước tính ở Việt Nam có trên 60 triệu cư dân là thành viên của quốc gia này. Thế mà, chỉ có một số rất ít dám nói sự thật, dám bảo vệ sự thật và dám làm chứng cho tin mừng trên trang nhà của mình thì thật là thiếu sót.
“Làm chứng” là một từ được dùng rất phổ biến trong “văn chương nhà đạo”. Làm chứng là một lời mời gọi, cũng là một lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh em sẽ là chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem” (Cv 1,8). Các môn đệ đã sớm ý thức được sứ mạng làm chứng được Chúa trao phó. Họ đã sẵn sàng lấy chính mạng sống mình bảo đảm cho lời chứng ấy. Các môn đệ biết Ðức Kitô, đi theo Ngài, học tập với Ngài, tin yêu Ngài, không thể không làm chứng về Ngài cho người khác.
Thế nhưng hôm nay chúng ta thấy nhiều người vẫn im lặng trước bất công, hay sai trái. Có khi còn hùa theo đám đông để kết án loại trừ một ai đó có suy nghĩ khác với mình. Và rất nhiều cư dân là người Công giáo nhưng không dám trang trí cho ngôi nhà mình một tấm hình hay một biểu tượng của người môn đệ Chúa, nên càng có ít người đã công khai giới thiệu Chúa qua trang nhà của mình, thì làm sao kiếm được người dám sống và làm chứng cho Chúa?
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử đạo tại Việt Nam. Chúng ta tự hào vì cha ông chúng ta đã dám làm chứng vì tin mừng. Vì “Tử đạo” nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, gia đình để chết đi làm chứng điều gì?
Thưa, đó chính là sự “Trung thành tôn thờ Thiên Chúa” cho dù có thiệt thòi về kinh tế, kể cả mạng sống. Nói không với tôn giáo sẽ được sống và được vinh hoa phú quý. Thế nhưng, các ngài thà chết chứ không chối Chúa và còn vui mừng vì phần thưởng lớn lao ở trên trời, như thánh Đaminh Hạnh đã nói: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng”. Cho dẫu vì niềm tin của mình mà bị bách hại hành hạ nhưng các ngài vẫn vui tươi như thánh Nguyễn Huy Mỹ đã từ đau khổ mà viết thánh thơ:
«Vai mang bốn điệp tai thêm ấm
Xổng xểnh ba vòng cổ lại thanh”.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương, và ngay cả trên các trang mạng chúng con cũng thể hiện đức ái để không hùa theo đám đông kết án người vô tôi, không lan truyền những xu hướng tục hóa, và biết tận dụng mạng xã hội để làm chứng cho tin mừng để nhờ đó sẽ tái tạo môi trường không gian mạng là một môi trường sạch, một môi trường thấm đượm tin mừng và đầy yêu thương. Amen
1. Tại sao Thiên Chúa Cha là Đấng nhân lành, lại để cho Con Một yêu quý của Ngài là Chúa Giê-su phải chịu khổ nạn, phải vác thập giá và chịu chết cách đau thương, tủi nhục và rất đỗi khốn cùng?
2. Tại sao Thiên Chúa lại để cho các tín hữu phải chết vì đạo khắp nơi trên thế giới suốt cả hai ngàn năm qua?
3. Tại sao Chúa Giê-su không hứa ban cho những người theo Chúa nhiều lợi lộc, lạc thú trần gian mà kêu mời họ vác thập giá: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”? (Mt 16,24).
Cả ba câu hỏi trên có chung một câu trả lời như sau:
Thiên Chúa đã ra quy luật muôn đời: Bất cứ ai gây ra tội lỗi đều phải lãnh lấy hậu quả của tội là sự chết, tức phải sa vào chốn ngục hình[1]. Điều đau lòng là mọi người đều đã phạm tội, do đó, ai nấy đều phải gánh lấy hậu quả đau thương này. Muốn cứu con người tội lỗi thoát khỏi chốn ngục hình đau khổ thì chỉ có cách duy nhất, không còn cách nào khác, là có ai đó chấp nhận chịu phạt và chịu chết thay cho họ.
Chính Chúa Giê-su đã tình nguyện làm công việc này. Ngài hóa thân làm người phàm, trở thành đại diện chính thức của loài người, trở thành anh cả của nhân loại và Ngài mang lấy tội lỗi của muôn người vào thân, Ngài nộp mình chịu cực hình thay cho họ, chịu chết để đền tội họ gây ra. Nhờ Ngài chịu khổ hình và chịu chết thay, muôn người được ơn tha thứ và thoát khỏi án phạt đời đời.
Tuy nhiên, việc cứu độ là công việc của Chúa Giê-su là Đầu và của toàn thân mình Ngài là Hội thánh. Ai thuộc về Chúa Giê-su, là chi thể trong thân mình Chúa Giê-su thì đều phải tham gia vào công cuộc này.
Chính vì thế, hôm xưa, Chúa Giê-su không chịu khổ nạn, không vác thập giá một mình, mà Ngài mời Mẹ Maria thông phần đau khổ với Ngài, mời ông Simon vác thập giá với Ngài, cùng chịu cực hình với Ngài trên chặng đường thương khó ở Giê-ru-sa-lem.
Và trong suốt hai ngàn năm qua, Chúa Giê-su tiếp tục gọi mời các thánh tử đạo khắp nơi trên thế giới cùng chịu khổ nạn với Ngài, chịu bắt bớ, chịu tù ngục, gông cùm, xiềng xích cũng như hy sinh cả mạng sống… với Ngài để đền tội cho muôn người tội lỗi.
Rồi hôm nay, Chúa Giê-su tiếp tục kêu mời mỗi người chúng ta chịu khổ nạn với Ngài khi nói: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Vác thánh giá theo Chúa không phải là việc tùy thích, nhưng là điều kiện phải có để làm môn đệ Chúa. Chúa Giê-su đã khẳng định điều này như sau: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27).
Như vậy, muốn làm môn đệ Chúa Giê-su, chúng ta không thể thoái thác, không thể né tránh, không thể từ chối vác thập giá được.
Thập giá của chúng ta hôm nay
Vì là chi thể của Chúa Giê-su, chúng ta phải cùng vác thập giá với Chúa Giê-su.
Vác thập giá với Chúa như thế nào?
Tôi là một phần chi thể, như là vai, của Chúa Giê-su nên gánh nặng trong cuộc đời tôi là thập giá trên vai Chúa Giê-su.
Bạn là chi thể khác, như là tay, của Chúa Giê-su nên những đau khổ bạn đang chịu là những đinh nhọn đâm vào tay Chúa Giê-su.
Và máu của các ki-tô hữu đã đổ ra khắp nơi trên thế giới cũng chính là máu của Chúa Giê-su đang đổ ra, vì những tín hữu nầy là phần thân thể của Ngài.
Chịu khổ nạn với Chúa cách nào?
Vác thập giá với Chúa Giê-su cách cụ thể là kết hợp với Chúa Giê-su mà làm việc bổn phận hằng ngày và dâng cho Ngài những việc đó.
Quan trọng hơn cả là dâng thánh lễ hằng ngày với Chúa. Vì Thánh lễ là hy tế thập giá của Chúa Giê-su đang tiếp diễn[2], nên những ai tham dự Thánh lễ là đang thông hiệp mật thiết vào cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như Mẹ Maria năm xưa trên đồi Can-vê, như ông Si-mong cùng vác thập giá với Chúa.
Lạy Chúa Giê-su Xin cho chúng con vui lòng vác thập giá với Chúa, tham gia vào cuộc khổ nạn của Chúa… bằng cách kết hiệp với Chúa mà làm việc bổn phận hằng ngày và dâng cho Chúa những việc đó để góp phần đền tội cho chính mình, cho các tội nhân và cho các đẳng linh hồn. _________________________________ [1] Rm 5, 12. Rm 6, 23. Galat 6,7. [2] Giáo lý HTCG số 1366, 1367
Ngày lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23)
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 giám mục và linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu Mến Thánh Giá và 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã chịu đủ mọi cực hình:
- Bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.
- Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Ngày lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng liên lỷ. Từ bỏ ý riêng, chu toàn bổn phận, trung thành với đặc sủng ơn gọi; có thể là một việc khó khăn, đòi hỏi một sự kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Những việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến ngoại trừ Thiên Chúa. Chính vì vậy trong Tông Thư “tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Thánh Giáo Hòang Gioan Phaolô II nói đến các vị tử đạo mới của thời đại hôm nay: “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo - thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” - vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam gần 500 năm, thì hết 300 năm, Giáo Hội Việt Nam thấm đẫm dòng máu các anh hùng tử đạo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ 19, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam: những người Việt Nam tàn nhẫn sát hại nhau. Chính những đồng bào Việt Nam chung cội, chung nguồn lẽ ra phải yêu thương nhau, lại quay mũi kiếm giết nhau hàng loạt.
Thật vinh phúc cho Giáo Hội Việt Nam, một Giáo Hội còn non trẻ, nhưng lại căng tràn sức sống, đạp trên đầu sóng ngọn gió, vượt thắng mọi thử thách, mọi đau đớn, mà cho đến nay, dẫu đã qua đúng một thế kỷ, thời gian đủ bình tĩnh để suy niệm, sao vẫn còn nghe hãi hùng, vẫn còn nghe nhức nhối tâm can, làm lặng đi mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi thanh âm.
Những người con đất Việt tưởng như gục ngã không thể gượng dậy nổi dưới bàn tay tàn bạo của làn kiếm, mã tấu, gông cùm, tù đày, lửa nung, bá đao, tùng xẻo, xiết cổ, chém bay đầu…, lại là sức mạnh ngàn đời của một đức tin không gì lay chuyển nổi. Bởi Thân xác các thánh Tử đạo dù bị giết, nhưng đức tin của các ngài thì không ai giết được.
Một Giáo Hội còn non trẻ đến thế, lại có sức chịu đựng sự giày xéo quá sức tưởng tượng của người đời.
Giờ nhìn lại sự nhiệm mầu của sức chịu đựng, ta chỉ còn có thể bật thốt lên như thánh nữ Têrêsa: “Tất cả là hồng ân”. Hồng ân nhận được không chỉ là một quà tặng, nhưng còn là một quà tặng vinh dự, một quà tặng của niềm kiêu hãnh thánh thiện.
Hồng phúc tử đạo không chỉ là một hành động dâng hiến tận cùng mà còn là một dâng hiến vinh thắng tận cùng.
Đó không là một vinh phúc lớn lao lắm hay sao! Một vinh phúc lớn lao mà một Giáo Hội còn non trẻ như Giáo Hội Việt Nam, lại có thể cùng Giáo Hội hoàn vũ đã qua mấy ngàn năm, vẽ thêm vào đó một đường lịch sử của đức tin không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ dừng lại.
Các thánh Tử đạo đã viết sử bằng máu của mình.
Còn chính Thiên Chúa, Người cũng đã làm cho Giáo Hội Việt Nam được khai sinh, lớn lên và phát triển nhờ dòng máu các thánh.
Nếu cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam, thì đối với đức tin, đó lại là một trang sử hùng tráng cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung: Bởi những người con đất Việt càng yêu mến quê hương, yêu mến bản thân mình, luyến tiếc cuộc đời, luyến nhớ người thân… và điều đặc biệt: yêu mến các vua quan là những người bên trên mình, thì càng yêu mến đức tin khôn cùng.
Chính cái chết của các thánh Tử đạo là một lời nói xác quyết và chung quyết cho mọi lời tuyên xưng đức tin rằng: Không có bất cứ cái gì có thể ngang bằng đức tin…
Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ vượt trên tất cả, dẫu là chính bản thân các vua quan hay lệnh truyền của các vua quan đi nữa, không có gì sánh ví được với Đức Chúa mà lẽ ra các vua quan cũng phải tôn thờ, các thánh Tử đạo đã chối từ một cuộc sống dễ dãi.
Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ là Đức Chúa của mình, vì thế, dẫu chỉ là hai que củi vắt chéo trên mặt đất, bình thường chỉ là hai que củi không hơn, không kém, nhưng để biểu lộ đức tin, thì bất cứ một bàn chân giẫm đạp nào, bất cứ lời lỵ mạ nào, hay bất cứ một hành động nào đối lại đức tin khi đứng trước hai que củi ấy, tất cả đều là sự chà đạp đức tin, chà đạp Giáo Hội, chà đạp chính Đấng mà mình tôn thờ.
Ngược lại, bất cứ một hành động hay một lời nói nào để tuyên xưng đức tin mà phải tôn trọng hai que củi hình chữ thập ấy, điều đó không còn đơn thuần là hai que củi hình chữ thập nữa nhưng là hình tượng Thánh Giá, hình tượng của lòng tin, hình tượng của một tâm hồn quả cảm quyết một lòng tôn thờ Đức Chúa của mình!
Hiểu rất rõ điều đó, cho nên dù chỉ là đối điện với hai que củi vắt chéo hình chữ thập, các thánh Tử đạo không chỉ đứng trước hai que củi, nhưng là đối diện với nỗi giằng co mạnh bạo, đối diện với sự chọn lựa không khoan nhượng, nhưng dứt khoát: đức tin hay cuộc sống trần thế.
Và cái giá phải trả cho sự chọn lựa đứng về phía đức tin là bị tước đoạt tất cả những gì đang có trong cuộc trần. Bị tước đoạt cả sự sống, cả đến giọt máu sau cùng.
Máu các thánh Tử đạo Việt Nam đã dệt đỏ thắm dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam, vì thế, các thánh Tử đạo mãi mãi vẫn xứng đáng sống trong lòng Giáo Hội và nơi từng người tín hữu Việt Nam.
Vượt trên tất cả mọi tấm gương, vượt trên tất cả mọi bài học, máu các thánh phải là chính cuộc sống của những người Việt Nam Công Giáo hôm nay, khi làm người Việt Nam giữa dân tộc mình, và làm người giữa đời.
Sử ký nước ta cho biết đã có người đến nước Việt Nam mình truyền đạo “Giatô” từ năm 1533; tuy nhiên từ năm 1615 đạo Công giáo được phát triển cách đặc biệt tại Việt Nam. Chữ quốc ngữ hiện tại được hình thành do công lớn của các nhà truyền giáo Dòng Tên, cụ thể là cha Alexandre De Rhodes (1593-1660). Các nhà truyền giáo này đã dùng mẫu tự chữ Latin phiên âm tiếng Việt ta, để hình thành chữ quốc ngữ như hiện tại. Với chữ quốc ngữ, đạo Công Giáo gắn liền với nền văn hóa Việt Nam.
Các nhà truyền giáo, cụ thể là cha Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes), đã truyền giáo cả ở miền Nam dưới quyền vua Lê chúa Nguyễn và ở miền Bắc dưới quyền vua Lê chúa Trịnh. Một số đông người Việt Nam đã tin vào Đức Yêsu và đã trở thành Kitô hữu. Do hiểu lầm và cũng do ghen ghét xuyên tạc, lệnh cấm đạo đã được ban ra, và khá nhiều Kitô hữu đã phải chết vì đạo. Năm 1644, thầy giảng Anrê Phú Yên mới 19 tuổi đã hiến mạng vì đức tin. Sau thầy giảng Anrê Phú Yên đã có bao Kitô hữu Việt Nam tử vì đạo. Giáo Hội Việt Nam đã có những trang sử anh hùng. Hơn trăm ngàn người Việt Nam tử đạo, trong đó đã có 117 vị được tôn phong thánh, một vị được phong chân phước.
Trong số 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam, có 21 vị thừa sai ngoại quốc, 96 vị người Việt Nam. Trong số 21 vị thánh tử đạo người nước ngoài, có 8 giám mục và 13 linh mục; trong số 96 người Việt Nam tử đạo, có 37 linh mục và 59 giáo dân. Trong số 59 giáo dân, có một chủng sinh là thánh Thomas Thiện, và một phụ nữ là thánh Annê Lê Thị Thành.
Hiến thân tử đạo, hàm chứa niềm tin có sự sống đời sau. Sự sống đời này không đáng kể gì so với sự sống vĩnh cửu mai hậu mà Kitô hữu sẽ được hưởng. Đức Yêsu đã hiến thân chết cho mọi người, và các vị tử đạo cũng muốn dùng chính mạng sống mình để đáp trả tình yêu của Thiên Chúa theo gương thầy chí thánh Yêsu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương và trung tín, sẽ trả cho mỗi người gấp bội so với những hành vi các ngài thực hiện trong cuộc sống đời này.
Các vị tử đạo cũng là những người cha người mẹ người chồng người vợ người con. Là cha là mẹ trong một gia đình, các ngài yêu mến con cái mình; là con trong nhà, các ngài yêu mến cha mẹ già và anh chị em; là vợ là chồng, các ngài yêu mến người bạn đời của mình. Trong trường hợp đặc biệt này, trung thành với Thiên Chúa, là phải chết, là phải xa lìa những người thân yêu của mình. Ai lo cho họ, ai chăm sóc cha già mẹ yếu, ai bảo bọc vợ dại con thơ, ai lo làm nuôi nấng gia đình? Bao ưu tư dằn vặt các ngài, và cuối cùng các ngài đã phải chọn. Chọn Thiên Chúa trên hết, là chấp nhận cái chết, là chấp nhận xa lìa những người thân yêu, là phó thác những người mình thân yêu nhất cho Thiên Chúa tình yêu và trung tín.
Nếu không là một Kitô hữu tốt, làm sao có thể là người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, người con tốt được? Nếu không trung tín với Thiên Chúa thì làm sao giáo dục con cái trung tín với Thiên Chúa và với con người? Cái chết vì Chúa mà các ngài chấp nhận, có thể là một bài học, là một lời giảng dạy có sức thuyết phục cho những người con của các ngài hơn là nếu các ngài tham sống bên cạnh con cái nhưng chỉ nói mà không sống. Các ngài chắc vẫn tin rằng sau khi chết các ngài vẫn có thể hiện diện và cầu bầu cho con cái và những người thân yêu của mình.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã bị bao cực hình tra tấn buộc phải chối bỏ Thiên Chúa. Càng nhiều cực hình, cực hình càng tàn ác, càng cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Nét đặc trưng của các thánh tử đạo là không oán hận, không thù ghét những kẻ tra tấn và giết hại các ngài. Các ngài vẫn yêu thương kẻ thù như Đức Yêsu đã yêu thương những kẻ giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc 23, 34). Thánh Têphanô cũng đã nói lời tương tự như Thầy mình (Cv.7, 60). Thái độ yêu thương tha thứ, là thái độ của những người đã thực sự trở nên con Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên những ai thuộc về Ngài, cũng sống yêu thương.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã chọn Thiên Chúa trên tất cả, trên cả người thân của mình, trên cả chính mạng sống mình. Đây là điều Đức Maria đã làm. Đây cũng là điều chính Đức Yêsu đã sống. Với Đức Maria, Thiên Chúa là Đấng rất gần gũi, là Đấng mẹ yêu thương gần gũi hơn cả Giuse, nên Mẹ đã chọn Thiên Chúa trên hết. Các thánh tử đạo, cũng là những người đã có cảm nghiệm Thiên Chúa gần gũi và yêu thương các ngài. Nếu không cảm được Thiên Chúa gần gũi và yêu thương, làm sao các ngài lại dám chọn Thiên Chúa trên tất cả những thực tại khác. Nếu Thiên Chúa là Đấng xa vời với các ngài, tại sao các ngài lại dám chọn Thiên Chúa trên những người thân yêu và gần gũi các ngài. Đấng vô hình và như thể không hiện hữu đối với những kẻ giết hại các thánh tử đạo, đã trở nên hữu hình và quyền năng qua cái chết của các thánh tử đạo. Nếu Đấng đó không hiện hữu và quyền năng, nếu Đấng đó không có sức thu hút đặc biệt, thì tại sao có bao người sẵn sàng hiến thân chịu chết vì trung thành với ý định của Ngài như vậy?
Cực hình, tra tấn, dọa dẫm, dụ dỗ, không thể làm các thánh tử đạo lùi bước chùn chân. Cuối cùng, người ta đã xử tử các ngài. Tử hình, một số người không biết nhìn tưởng đó là dấu chỉ của chiến thắng, nhưng thật ra nó là dấu chỉ của sự thất bại. Không làm gì được người ta, không làm người ta đổi ý cho dù với mọi cực hình và dụ dỗ, kẻ có quyền lực đã phải dùng cái chết để thỏa lòng ác của họ. Những người tưởng mình luôn chiến thắng, luôn bắt người khác phải tuân phục, thì bây giờ họ phải dùng cái chết để chấm dứt mạng sống của người mà họ không thể bắt suy phục được. Chấp nhận cái chết, là đã chiến thắng sự dữ. Thiên Chúa không bao giờ hủy diệt con người, ngay cả để trừng phạt. Thiên Chúa chỉ dùng tình yêu mời gọi con người bỏ đường gian ác để trở về đường ngay nẻo chính. Sự hủy diệt của kẻ gian ác do chính hành vi của họ tạo ra. Chính sự thù hận làm người ta khổ và không thể sống hạnh phúc. Hỏa ngục là tình trạng thù hận bất hạnh mà ma quỷ và những người thù hận như ma quỷ lãnh nhận. Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa. Cái chết không là tận cùng đối với những người của Thiên Chúa. Cái chết chỉ là cửa ngõ để bước vào sự sống vĩnh cửu. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn phục các thánh tử đạo Việt Nam nhất ở điểm nào?
2. Đâu là điểm khác biệt giữa những vị thánh Kitô hữu tử đạo và những người chết vì một lý tưởng nào đó?
3. Một số người cho rằng các người tử đạo là những người vừa ngu, vừa bất hiếu vừa không làm tròn nghĩa vụ làm chồng làm cha làm con. Bạn trả lời sao với những lời chỉ trích này?
Khi nói đến tử đạo, nhiều người dân ngoại và kể cả chính quyền, họ có cái nhìn về việc tử đạo giống như những anh em Hồi Giáo. Đối với người Hồi Giáo cực đoan, một trong những hành động được coi là tử đạo đó là đánh bom liều chết, mà thế giới ngày nay gọi là khủng bố. Những người này được dạy rằng khi ôm bom đi giết người vì lòng yêu mến Đức Ala và bảo vệ quyền lợi của người Hồi Giáo, thì được coi là tử vì đạo và được lên thiên đàng.
Ta thấy họ cũng coi là tử đạo khi cuộc chiến tranh được tuyên bố là thánh chiến, thì những chiến binh nào càng bắn chết nhiều người càng được vinh quang, và những ai chết trong những trận chiến đó thì được coi là tử vì đạo. Chắc chắn nếu Đức Ala là một vị thiên chúa thật và tràn đầy tình yêu, thì Ngài không thể chấp nhận và để cho con cái của ngài gieo sợ hãi và chết chóc cho nhân loại như thế, và người ta cũng không thể nhân danh Đức Ala để làm điều ác như vậy.
Các Thánh Tử Đạo nói chung hay các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam hoàn toàn khác. Các Ngài không tử vì đạo theo kiều Hồi giáo, nhưng ngược lại, vì niềm tin vào Chúa Kitô và giới răn lề luật của Ngài, và để bảo vệ trọn vẹn đức tin của mình, họ đã chấp nhận cả cái chết để giữ lòng tín trung với Chúa. Chữ Tín và chữ Trung là hai đức tính của bậc anh hùng mà chúng ta có thể thấy rõ nét nới các vị tử đạo cha ông của chúng ta.
Chữ Tín hay còn gọi là tin, là nét đẹp được thể hiện nới các vị tử đạo. Ngay từ ngày đầu khi Tin Mừng vào Việt Nam, thì cha ông chúng ta đã mở rộng tâm hồn để đón nhận hạt giống đức tin, và với một tấm lòng đơn sơ chân thành hoàn toàn tin tưởng và phó thác, tâm hồn các Ngài đã trở nên như mảnh đất màu mỡ cho hạt giống đức tin nảy mầm và sinh hoa kết qủa.
Dẫu rằng chưa được học biết nhiều về giáo lý của Chúa, nhưng với một đức tin chân thành, tin vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng tạo dựng và điều khiền vũ trụ, an bài và xếp đặt mọi sự, Đấng thấu suốt tâm hồn mọi người và Ngài sẽ trả lại cho mỗi người cuộc sống hạnh phúc đích thực, mà tổ tiên của chúng ta đã kiên trì sống với niềm tin ấy và dám chết vì niềm tin ấy.
Niềm tin đơn sơ của cha ông chúng ta cũng giống như câu chuyện thuật lại trong sách Macabe. Lúc bấy giờ người Hy lạp cai trị đất Do Thái, họ đem theo nhiều tập tục lối sống nghịch với lề luật của cha ông và nhất là họ đem vào đất Do Thái nhiều thứ thần linh và đòi buộc người Do Thái phải cúng tế các thần linh này.
Ta thấy trong khi có nhiều người Do Thái đã gục ngã trước một lối sống mới, thì ngược lại cũng có nhiều người can đảm từ chối lối sống đó để được trung thành với giới răn của Thiên Chúa dù có phải chết. Câu chuyện cho thấy, một bà mẹ đã can đảm giáo dục con cái trung thành với Chúa và chấp nhận mọi cực hình. Bà chứng kiến cái chết của bảy người con, mà không một chút xiêu lòng.
Trái lại bà vẫn dùng những lời lẽ khôn ngoan để chỉ cho con cái biết chọn lựa Thiên Chuá là nguồn hạnh phúc thật, thay vì chọn lựa lối sống xa lạ vô luân của người Hy lạp. Cuối cùng tất cả họ đã chấp nhận cái chết. Cũng vậy trong số những người tín hữu Việt nam, bị bắt bớ lúc bấy giờ, cũng đã có không ít người ham sống sợ chết, thích sống dễ dãi hơn là khó khăn, thích những lời hứa hẹn tiền của danh vọng mà vua quan đưa ra, để rồi họ chà đạp lên thập giá Chúa. Nhưng ngược lại có cả hàng trăm ngàn người đã chấp nhận sự thiệt thòi và cái chết đau đớn về phần mình để bảo vệ nguyên vẹn gia tài đức tin, và lối sống của người Công giáo. Những người này đã thực sự là những vị anh hùng, có những người chết nơi pháp trường, có những người chết nơi tù ngục vì đòn roi, và có biết bao người chết vì phải trốn nơi rừng thiêng nước độc để chỉ vì giữ trọn chữ tín, chữ trung.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.
Vậy trung thành với Đức Kitô, là trung thành với con đường thập giá, không ham sống sợ chết, không ngại khó khăn gian khổ, không ngại cực hình, mà dám vác thập giá mình để theo Ngài. Các vị tử đạo và người Công giáo không đi tìm đau khổ, nhưng trong đau khổ khó khăn thường ngày, họ nhận ra đó là thập giá cuộc đời của mình, và họ can đảm vui vẻ chấp nhận thập giá, và cuối đường thập giá là cái chết và phục sinh. Song khác với cái chết của các tên tử tội, cái chết của các vị tử đạo đã gây ra không biết bao kinh ngạc cho những người chứng kiến, vì họ thấy các ngài đón nhận cái chết trong vui vẻ và hân hoan, vì họ dám đánh liều đổi mạng sống mình để được Đức Giêsu, như Chúa Giêsu đã hứa: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Các Ngài trung thành với tổ quốc, với chính quyền nhà vua. Trước mặt các vua quan, nhiều vị thánh đã công khai nói lên điều đó: Tôi không chống lại nhà vua, tôi không phản bội tổ quốc, nhưng tôi cam lòng chịu chết vì tôi trung thành với Chúa Kitô là Chúa của tôi (Thánh Phaolo Khoan). Trung thành với tổ quốc với nhà vua, là làm cho cuộc sống của mọi người và của đất nước thêm tốt đẹp, cuộc sống của dân chúng thêm an vui.
Tuy nhiên do sự nghi ngờ, các vua quan chính quyền đã không nhận ra sự thiện chí của các tín hữu, họ nghi ngờ khi thấy người tín hữu tụ tập đọc kinh cầu nguyện, họ ghen tỵ khi thấy những người tín hữu dám xả thân vì bác ái, họ khó chịu khi những người Công giáo loan truyền một giáo lý về tình yêu thương tha thứ. Các vua quan và nhà cầm quyền không tin vào lòng nhiệt thành với đất nước của người công giáo, vì nghĩ rằng họ sẽ làm ảnh hương và thiệt hại đến quyền lợi và địa vị của nhà cầm quyền.
Trong khi đó, người công giáo được mời gọi tham gia và mọi hoạt động của xã hội để đem tinh thần yêu thương tha thứ vào trong xã hội, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Khi sống trọn hai chữ tín trung với Chúa và với đất nước như thế, các Ngài trở thành những vị anh hùng, dám mạnh dạn nói và làm chứng về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài cho đồng bào và cho cả vua quan chính quyền. Theo gương của Đức Kitô, các Ngài đã chấp nhận cái chết về phần mình, chấp nhận trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất, để ngày hôm nay, Hội Thánh Việt nam thu lượm được mùa lúa dồi dào; hạt giống đức tin được tưới gội từ dòng máu của các vị tử đạo đang ngày càng bám rễ sâu và lớn mạnh trên quê hương Việt Nam này. Tuy nhiên với thời đại mới với làn sóng mới của các lối sống mới đang tràn vào Việt Nam, nó đang làm xói mòn mảnh đất đức tin trong tâm hồn nhiều người, và nó đang là một thứ sâu bệnh nguy hiểm đang hủy hoại đời sống đức tin của nhiều tín hữu.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,không đòi hy sinh mạng sống,nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Ngày mỗi ngày, ta thường bị đặt trước những chọn lựa,trước thập giá của Chúa Giêsu,y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếpmà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.Ước gì chúng ta không để mất đức tinđược mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấycho hơn 90 triệu đồng bào trên quê hương.
Ý CHÍNH: Khi sai mười hai Tông đồ đi giảng, Đức Giêsu tiên báo cho các ông biết những sự bách hại vì Danh Người đang chờ đón các ông. Tuy nhiên chính khi bị bách hại lại là cơ hội tốt để các ông làm chứng trước tòa án Do thái và các chính quyền ngoại đạo. Các ông sẽ gặp những sự bất hòa ngay trong gia đình và sự thù ghét nơi người đời. Nhưng ai giữ vững đức tin và trung thành với Chúa đến cùng thì sẽ được cứu độ. Các ông cũng cần phải khôn ngoan để tránh bị bắt bớ. Dù gặp hoàn cảnh bất lợi nào đi nữa, cũng đừng sợ hãi, nhưng hãy can đảm làm chứng cho Chúa. Hãy vững lòng trông cậy vì các ông đang nắm giữ chân lý là điều luôn có sức chinh phục lòng người.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt Vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18).
2. CÂU CHUYỆN: THÁNH NỮ I-NÊ ĐÊ.
Trong số 117 vị thánh Tử đạo tại Việt nam, chỉ có một phụ nữ là thánh nữ I-NÊ LÊ THỊ THÀNH (hay cũng gọi là bà thánh I-NÊ ĐÊ). Bà là mẹ của 8 người con. Trước khi trở thành thánh tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. Cô con gái út của bà đã khai về mẹ mình trước tòa phong thánh rằng: “Thân mẫu chúng tôi rất quan tâm giáo dục con cái. Người dạy chúng tôi học chữ và học giáo lý. Về sau còn dạy chúng tôi cách thức dự lễ và xưng tội rước lễ”.
Bà Đê đã dùng căn nhà của mình làm nơi trú ẩn cho các linh mục thừa sai, để tránh sự ruồng bắt của vua quan. Vào buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, tổng đốc Nam Định đã sai quân đến nhà bắt giữ bà. Bấy giờ bà đang trong tuổi lục tuần. Bà đã bị tra khảo tàn nhẫn để buộc phải khai báo nơi trú ẩn của các linh mục thừa sai. Nhưng bà tỏ ra kiên cường, không hề hé môi nói nửa lời. Sau đó bà lại bị bắt ép khiêng qua cây Thánh giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái bà đến thăm và tỏ vẻ đau lòng thấy quần áo của mẹ mặc bị loang lổ những vết máu đỏ tươi, thì bà đã an ủi con rằng: “Con ơi, đừng khóc nữa. Mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu thì sao con lại phải khóc?” Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người đàn bà kiên cường ấy đã từ giã cuộc đời, để lại cho hậu thế một tấm gương anh dũng trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
3. SUY NIỆM:
1) Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những ai?
+ Các ngài là hằng trăm ngàn giáo dân Việt Nam không rõ danh tánh, đã sẵn lòng chịu chết để làm chứng cho Chúa. Các Ngài đã bị giết hại dưới thời chế độ phong kiến, do các phong trào Cần Vương và Văn Thân thực hiện. Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó: Một người đàn ông nọ bị quân lính bắt giải đến cho quan tòa xét xử. Quan tòa truyền lấy một chiếc dùi nung đỏ khắc lên đôi gò má của ông bốn chữ: “Gia-Tô Tả Đạo” rồi tống giam vào ngục. Ngồi trong tù suy nghĩ lại, ông cảm thấy áy náy vì lúc bị khắc dấu đã không dám can đảm nói lên quan điểm của mình, vì “Gia-Tô” đâu phải là “tả đạo”. Ngay trong đêm hôm ấy, ông đã yêu cầu bạn tù dùng dao rạch bỏ hai chữ “tả đạo” trên má, chỉ để lại hai chữ “Gia-tô” là thánh Danh Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, ông lại bị điệu ra trước tòa án với khuôn mặt còn loang lổ máu, ông đã can đảm bênh vực đức tin và sau đó đã bị khép tội phản nghịch và được chết vì đạo.
+ Các ngài cũng là phụ nữ: Có một bà nọ bị bắt vì đã theo đạo và bị tòa kết án bị “voi giày”. Hai ngày trước khi ra pháp trường, bà viết thư cho người nhà yêu cầu gửi cho bà bộ quần áo cưới mà bà đã mặc khi trước, vì bà nghĩ rằng: “Ngày tôi bị chết vì đức tin chính là ngày tôi được gặp gỡ vị Tân Lang là Chúa Giêsu”. Hôm bị xử tử, khi ba hồi chiêng trống vang lên, người ta thấy quân lính dẫn ra một thiếu phụ mặc áo như cô dâu trong ngày cưới. Sau đó bà đã bị voi dùng vòi quấn ngang thắt lưng tung lên cao, rồi khi bà rơi xuống đất thì nó dẫm đạp lên người cách tàn bạo.
+ Các ngài thuộc mọi lứa tuổi: Có một cụ ông 80 tuổi như linh mục Lê Bảo Tịnh, có một bà lão 60 như bà thánh I-nê Đê, một thiếu niên 14 tuổi như Phao-lô Bột, một trẻ nữ 12 tuổi như Lu-xi-a Liễu, một cậu bé lên 10 như Phao-lô Đạm, một em bé mới 9 tuổi như Gio-an Túc...
+ Các ngài đủ mọi ngành nghề trong xã hội: Có người làm linh mục như cha Phi-líp-phê Minh, làm thầy giảng như thày An-rê Phú Yên, làm nữ tu như 270 dì phước dòng Mến Thánh Giá, làm chủng sinh như chú Tô-ma Thiện, làm quan chức triều đình như Hồ Đình Hy, làm quân lính như Trần Văn Trông, làm trùm họ như Nguyễn Đích, làm công chức như Nguyễn Huy Mỹ, làm lái buôn như Lê Văn Gẫm, làm nông dân như Đa-minh Ninh... Hầu như mọi thành phần, lứa tuổi hay nghề nghiệp đều có đại diện. Người ta đã thống kê được 58 các vị giám mục va linh mục thừa sai, 25 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu và khỏang trên 100 ngàn giáo dân đã chết vì đạo. Trong số đó, vào ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 vị và sau đó tới lượt thày giảng An-rê Phú Yên được phong lên bậc Chân Phước hay Á thánh. Đây là những vị có đầy đủ hồ sơ chứng minh đã anh dũng chịu chết vì đức tin. Còn hằng hà sa số các tín hữu đã bị giết chết với nhiều cách khác nhau, nhưng do thiếu hồ sơ cụ thể để xin phong thánh, nên vẫn còn chờ sẽ được tôn phong sau này.
2) Phương cách hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa hôm nay là gì?
+ Về sự bách hại đức Tin thời nay: Ngày nay ma quỷ không dùng cực hình đau khổ thể xác để bắt buộc người tín hữu bỏ đạo như vua chúa xưa, nhưng chúng dùng tiền bạc và đầu độc người tín hữu nhất là giới trẻ bằng những băng đĩa phim ảnh đồi trụy, các video games bạo lực dâm đãng, hút chích ma túy, rượu chè bài bạc... khiến các thanh thiếu niên chán ngại đọc kinh lần hạt, bỏ dự lễ Chúa Nhật... Rồi do không được nghe giảng Lời Chúa và thiếu ơn Chúa nên họ chỉ còn biết tìm kiếm tiền bạc và lao đầu vào việc hưởng thụ mà không nghĩ đến đời sau... và cuối cùng sẽ mất đức tin lúc nào không hay.
+ Ý nghĩa của tử đạo trong cuộc sống hôm nay: Tử đạo trước hết là sống Đức Tin bằng sự hy sinh quên mình phục vụ, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, kể cả hy sinh mạng sống của mình noi gương các thánh Tử Đạo. Sứ mệnh của người tín hữu là phải trở thành muối mặn ướp cho người đời khỏi hư hỏng, thành nắm men tin yêu làm cho thúng bột xã hội dậy lên men tình yêu của Chúa (x. Mt 5,13), nên đuốc sáng chiếu soi cho u tối trần gian như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
+ Tử đạo chính là làm chứng cho Chúa: Đức Giêsu đã sai các Tông đồ đi rao giảng Tin mừng và tiên báo các khó khăn sẽ gặp phải như sau: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18). Người cũng truyền cho các Tông đồ phải làm chứng nhân cho Người: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Các thánh Tử đạo Việt Nam đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng việc chấp nhận chịu chết vì đức Tin. Con chúng ta hôm nay tuy không có cơ hội chịu chết vì Danh Chúa như xưa, nhưng chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Chúa bằng một lối sống hy sinh quên mình, khiêm nhường vị tha và luôn yêu thương phục vụ tha nhân vô vụ lợi.
+ Phải làm chứng cho Chúa như thế nào?: Hôm nay nếu ta chọn làm theo ý riêng ích kỷ là chúng ta đã gián tiếp chối bỏ đức tin; Khi ta chọn làm những việc xấu xa, lỗi phép công bằng và đức bác ái, là ta đang chối Chúa cách gián tiếp và bước qua Thánh giá Chúa bằng chính cuộc sống không tốt của mình. Trái lai, nếu ta năng cầu nguyện dự lễ, kèm theo lối sống công minh chính trực, sẵn sàng dấn thân quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi là ta đang làm chứng cho Chúa noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam.
4. THẢO LUẬN:
1-Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Bạn quyết tâm sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa tại nhà trường, công sở, nhà máy, các tụ điểm giải trí vui chơi... để xứng đáng là con cháu các thánh Tử đạo Việt nam?
2-Gặp một người bài bác đức tin, nói xấu các vị chủ chăn... bạn nên chọn cách phản ứng thế nào?
3-Bạn phải sống đức tin ra sao để có thể gây được thiện cảm với bạn bè không Công Giáo?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay chúng con mừng kính các thánh Tử đạo Việt nam, là tổ tiên chúng con. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng sự kiên cường bất khuất, sẵn sàng chịu chết vì đức tin. Các ngài đã làm rạng danh dân tộc Việt nam trước toàn thể thế giới khi sống đến cùng ơn gọi làm tín hữu của mình. Sự hy sinh của các ngài đã nói lên chân lý này là: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”, và chết không phải là đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là cánh cửa bước vào cõi sống vĩnh hằng. Dù mang thân phận mỏng dòn yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, các ngài đã chiến thắng sợ hãi và nêu gương sáng đức tin can trường cho chúng con hôm nay.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con biết luôn sống đức tin noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con biết nhiệt thành làm chứng cho Chúa, bằng một lối sống hy sinh quên mình và khiêm nhường phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các thánh Tử đạo đã thắp lên sẽ được chúng con tiếp tục làm bùng sáng trên quê hương Việt nam thân yêu. Ước gì máu các ngài đổ ra sẽ làm phát sinh thêm nhiều Kitô hữu vừa có lòng nhiệt thành mến Chúa lại vừa yêu mến xây dựng quê hương Việt Nam ngày càng tăng tiến tốt đẹp.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Khi một người biết mình sắp lìa đời, người ấy thường nghĩ đến những người thân yêu phải xa 24/11-218
Khi một người biết mình sắp lìa đời, người ấy thường nghĩ đến những người thân yêu phải xa cách. Đức Giêsu cũng vậy. Trong lời cầu nguyện với Cha trước giờ ra đi, Ngài đã nói nhiều với Cha về các môn đệ (Ga 17,9-19). Đây là những kẻ mà Ngài yêu đến tột cùng và kỳ cùng (Ga 13,1). Sắp đến giờ chia tay, Thầy trò mỗi người một ngả. Thầy thì bỏ thế gian mà “đến cùng Cha” (Ga 17,11.13). Trò thì vẫn còn ở trong thế gian, bị thế gian thù ghét (Ga 17,11.14). Đức Giêsu biết rõ sức mạnh của thế gian, của bóng tối, sức mạnh mà Ngài sắp phải đối đầu. và các môn đệ cũng sẽ phải đối diện, khi không có Ngài ở bên. Đức Giêsu chia sẻ với Cha nỗi lo của mình về các môn đệ. Khi còn ở với họ, Ngài đã gìn giữ họ, đã canh giữ (Ga 17,12). Giờ đây, Ngài nài xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần (Ga 17,11b.15). Ngài lo cho họ trong cuộc chiến với tên thủ lãnh thế gian (Ga 16,11), dù Ngài từng nói với họ: “Thầy đã thắng thế gian !” (Ga 16,33). Đức Giêsu biết đàn chiên rồi sẽ bị tấn công, bị cướp bóc. Nhưng nhiệm vụ của Cha và Con là bảo vệ, để không ai cướp được chiên khỏi tay mình (Ga 10,28-29). Nếu các môn đệ bị thế gian thù ghét, đó đâu phải là chuyện lạ, vì nó đã thù ghét Thầy trước rồi (Ga 15,18.24). Bị thế gian khai trừ, chống đối, bị ngược đãi, và bị giết: đó là thân phận của người môn đệ (Ga 15,20-21; 16,1-2; 17,14). Đó là thân phận của người không “thuộc về thế gian.” Thế gian ghét những ai không thuộc về nó. Người môn đệ được Thầy Giêsu chọn ra khỏi thế gian (Ga 15,19), rồi lại được Thầy sai vào trong thế gian (Ga 17,18). Đức Giêsu không xin Cha đem họ ra khỏi thế gian (Ga 17,15), chỉ mong họ ở trong thế gian mà không thuộc về nó (Ga 17,14.16), nhưng thuộc trọn về Cha và về Con (Ga 17,6.10). Nhờ sống giữa thế gian, họ mới làm cho thế gian tin và nhận biết rằng chính Cha đã sai Con (Ga 17,21.23). Những lời Đức Giêsu cầu xin với Cha đã ứng nghiệm nơi cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Chẳng ai biết được chính xác số kitô hữu đã chịu đau khổ và chịu chết trên mảnh đất quê hương này. Họ gồm cả nam nữ, trẻ già, linh mục, giám mục và giáo dân, là lính hay quan, là người Việt hay nhà truyền giáo ngoại quốc. Họ chết vì đủ kiểu tra tấn, xử trảm, xử giảo, hay chết rũ tù. Trước khi đón nhận cái chết, họ đã chọn Đức Giêsu là Chúa. Chọn lựa này khiến họ không thể đưa chân bước qua thập tự, dù bước qua là thoát gông cùm, được chức quyền, bổng lộc. Rõ ràng họ không chọn thuộc về thế gian, không lung lay trước những mời mọc và hứa hẹn của nó. “Vì danh Thầy” họ chịu những gì Thầy đã chịu (Ga 15,20). Chúa Cha và Chúa Con đã gìn giữ và che chở họ, không phải để họ tránh khỏi cái chết thảm khốc, nhưng để họ can đảm đón nhận cái chết với nhiều tình yêu. Nhờ ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng được mọi nỗi sợ. Họ thường tiến ra pháp trường với sự đĩnh đạc an vui. Vui vì biết cái chết chóng qua sẽ đưa họ ở bên Thầy mãi mãi. Lúc nào chúng ta cũng phải sống trong thế gian. Thế gian của các vị tử đạo là thế gian thời phong kiến. Thế gian hôm nay có nhiều quyến rũ hơn, ru ngủ hơn. Không có bách hại gay go, nhưng có nhiều cám dỗ ngọt ngào. Lắm khi chúng ta bước qua thập giá mà không hay. Xin Cha làm chúng ta nên thánh trong thế gian này (Ga 17,17), để sau khi sống cuộc vượt qua của riêng mình, ta được cùng ở với Chúa Giêsu trong nhà Cha (Ga 17,24).
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời, Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó. Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài. Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống. Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế. Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống. Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa.
Là con cháu của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng được vinh 24/11-219
Là con cháu của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng được vinh dự, tự hào về tổ tiên ông bà của mình. Nếu chúng ta được hỏi hay phải minh chứng về các Thánh Tử Đạo, đặc biệt cho những lương dân; chúng ta có mạnh dạn, tự tin để trả lời cho họ? Hơn thế nữa, chúng ta có đang sống đúng với căn tính là con cháu của các Ngài hay không? Nhiều câu hỏi được đặt ra, để mỗi người chúng ta có cơ hội cùng lắng đọng-suy tư. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai? Tại sao hôm nay chúng ta lại được mừng kính các Ngài cách trọng thể? Điểm son nổi bật nhất của các Thánh Tử Đạo Việt Nam là gì? Chúng ta đã và phải sống thế nào để có thể chuyển tải và nêu cao những sứ điệp, gương mẫu hào hùng của các Thánh cho mọi người?
Hôm nay, Giáo hội địa phương tại Việt Nam được đặc ân để mừng kính những người con ưu tú của mình, là các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam, là tổ tiên ông bà chúng ta, là những nhân chứng của Đức tin, nhân chứng cho Chúa và Tin mừng cứu độ. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đã soi sáng, hướng dẫn và giúp cho chúng ta không những biết rõ về các Thánh mà còn giúp chúng ta cách sống chứng tá như các Ngài đã sống.
Tin mừng theo Thánh Matthêu đã cho chúng ta câu trả lời rất mạnh mẽ của Chúa Giêsu về các Thánh tử đạo. “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.” Tất cả các Ngài vì danh Chúa, vì Tin mừng, vì sống chứng tá cho niềm tin của mình mà được vinh phúc tử vì đạo, được phúc lãnh nhận ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa đã hứa ban. “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Nhưng tại sao khi tin theo Chúa, sống cho Chúa và niềm tin, thì lại bị mọi người ghen ghét, bị bắt hại và ngay cả phải hy sinh cả mạng sống? Chứng tá mà Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng, Trùm họ Sáo Bùn để lại: Khi bị bắt giam, tù đày, Ngài đã khuyên nhủ các con: “Dù sự gì xảy đến hay cha phải tử hình, đó là điều cha hằng mong ước, được tử đạo đổ máu ra vì Chúa Giêsu Kitô. Chúng con hãy cầu nguyện cho cha, hãy yêu mến nhau. Dù gặp sự dữ thế nào chúng con đừng yếu lòng chối Chúa.”
Thánh Phêrô hơn bất cứ ai khác, Ngài đã sống và cảm nghiệm điều mà Ngài tin nhận, nên Ngài đã nâng đỡ khích lệ các tín hữu khi họ phải vì danh Chúa và Tin mừng mà phải chịu đau khổ, cực hình. “Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em.” (1 Pr 4, 14) Được làm chứng và được chết để minh chứng cho Chúa là một ơn phúc không phải ai cũng có vinh phúc này. Điểm son nổi bật của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam đó chính là: tin, chấp nhận và sống trọn vẹn cho Thánh giá cứu độ mà Thiên Chúa ban qua Chúa Giêsu và Hội Thánh. “Chết vì Thánh Giá” là điều mà nhiều người và các cấp chính quyền thời bấy giờ không thể hiểu, nên họ đã cho rằng, điều này quá điên khùng, khờ dại, vì theo “Tả Đạo” như vậy. Chắc hẳn các Thánh hơn ai hết đã ý thức và hiểu rõ về “cái giá phải trả” khi tin theo làm con cái Thiên Chúa. Nhưng tại sao các Ngài vẫn hiên ngang, can đảm để sống và tuyên xưng cách hào hùng về niềm tin của mình, hơn thế nữa các Ngài còn hân hoan vui sướng khi được sống và minh chứng cách trọn vẹn cho niềm tin đó. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã khẳng định: “Thập Giá chính là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta".
Từ Thánh Giá Chúa, sức mạnh của tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ được trao ban và lan tỏa, nhờ đó những ai khiêm tốn, mở lòng đón nhận với lòng tin yêu, thì sẽ được ơn Chúa giúp sức, nâng đỡ; chính sức mạnh của Chúa đã hoạt động và bổ sức cho các Ngài. Thánh Anê Lê Thị Thành, dù đòn roi hay cực hình vẫn không hề lay chuyển được, thì quân lính vừa đánh vừa dùng vũ lực mà lôi bà qua Thánh Giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá.”
Như vậy, với con đường, cách sống và mẫu gương chứng tá mà các Thánh tử vì đạo đã để lại chính là sự khôn ngoan tuyệt vời. Khôn ngoan khi đón nhận niềm tin và ơn thánh Chúa ban, khôn ngoan khi biết sử dụng những kho tàng ơn phúc đó để sinh hoa kết trái. Qua những khó khăn, gian khổ, cực hình và cả sự hiến thân của các Ngài, không có cái gì đã ra vô ích hay khờ dại hết. Điều này sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 đã minh chứng cho chúng ta biết “Chúa đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”. Với hy lễ được tiến dâng, Chúa không những đón nhận và ban ơn cứu rỗi cho các Ngài, mà Chúa còn thương cho các Ngài được thông phần cộng tác vào trong chương trình cứu độ của Chúa. Chính vì lẽ đó mà Tertuliano đã khẳng định: “Máu các vị tử đạo là hạt giống sinh nhiều giáo hữu.” Thánh Anê Thành khi ở trong ngục tù, cô Lucia Nụ, con gái đến thăm Mẹ, thấy y phục mẹ loang lỗ máu, cô khóc nức nở vì thương mẹ; bà đã an ủi, khích lệ con bằng những lời tràn trề lạc quan “Con đừng khóc nữa, mẹ được mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc? Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con, coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng.”
Nguyện xin Chúa, qua những hy lễ tuyệt hảo được tiến dâng, những chứng tá đức tin tuyệt vời và những gương mẫu sống đạo kiên trung của các Thánh tử đạo, chuyển cầu cùng Chúa mà ban ơn cho chúng con. Để trong mọi hoàn cảnh sống, chúng con luôn khiêm tốn, mở lòng tin nhận Chúa cùng với các ơn phúc Chúa ban. Hầu chúng con xứng đáng được gọi là con cháu của các vị thánh tử đạo Việt Nam hào hùng. Xin cho chúng con với những hy sinh, cố gắng nỗ lực mỗi ngày, luôn sống chứng tá đức tin qua những việc lành, bác ái, dấn thân để danh thánh Chúa và danh hào hùng của các Thánh tử vì đạo được tôn vinh. Amen.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Vào ngày lễ mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa ca 24/11-220
Vào ngày lễ mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa ca ngợi cuộc sống chứng tá của những người công chính bị bách hại và những ân phúc mà họ được hưởng trước thánh nhan Thiên Chúa. Kn 3: 1-9
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy” như cách diễn tả của Chúa Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12: 49).
1Cr 1: 17-25
Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.
Mt 10: 17-25
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Thánh I-nê-đê, một phụ nữ quê mùa. Thánh Tô-ma Thiện, chủng sinh mới 16 tuổi. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-ti-nô: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa” (Trích từ tập san “Công Giáo và Dân Tộc”, Năm Phụng Vụ 93).
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan là một khúc quanh quan trọng, kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ.
Trước đó, vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào. Trong lịch sử dài này, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Những người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Trái lại, niềm tin vào cuộc sống mai hậu thì quá bi quan: tất cả mọi người, công chính hay gian ác, khi từ giả cõi đời này đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trông thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế này. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 tCn) xao xuyến nêu lên vấn đề họa vô đơn chí giáng xuống trên người công chính. Thật ra, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với kẻ gian ác ở bên kia nấm mồ. Các Thánh Vịnh công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển trước Thánh Nhan Chúa muôn đời (Tv 16; 17; 49; 73). Tiếp đó, niềm tin vào sự sống lại của những vong nhân vào ngày phán xét bắt đầu lộ diện. Vào thời An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử vì đạo tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống bên kia cái chết (2Mcb 7: 1-38).
Tác giả sách Khôn Ngoan còn triển khai xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin vào sự bất tử linh hồn của người Hy lạp củng cố niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu vẫn còn tiềm ẩn hay rụt rè của người Do thái. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp này không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bỉ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
1. Quan niệm sai lầm về con người
Trước hết, tác giả bài bác quan niệm duy vật về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng; khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như sương khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật này, không có chỗ nào dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
Tác giả viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho đồng bào của mình, họ đang bị nền văn hóa ngoại giáo chung quanh hấp dẫn lôi cuốn. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và của các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật này, tác giả trình bày quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
2. Quan niệm đích thật về con người (3: 1-6)
Ở trung tâm lập luận của mình, tác giả sách Khôn Ngoan trình bày điều cốt yếu nhất liên quan đến con người được Thiên Chúa sáng tạo nên “trường tồn bất diệt” dựa trên sách Sáng Thế (1: 27):
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23).
Từ đó, tác giả sách Khôn Ngoan khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện:
“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa; và chẳng cự hình nào động tới được nữa.
Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi;
khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (3: 1-4).
Tất cả những khai triển này mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết thuyết nhị nguyên của Hy-lạp. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất diệt trong thân xác hư hoại, nhưng là “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
Từ nay, vấn đề về sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách nhằm tôi luyện các tôi trung của Thiên Chúa để cuộc đời của họ trở thành “của lễ toàn thiêu”:
“Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu” (3: 5-6).
3. Vinh quang chung cuộc (3: 7-8)
Ở đây, tác giả mô tả vinh quang mà người công chính được hưởng vào ngày cánh chung:
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (3: 7)
“Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ Kinh Thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như lời di chúc của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài.
Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào lúc đó, những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên sự ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo:
“Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước.
Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (3: 8).
Chính trong chiều hướng này mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và tác giả sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng kiểu nói tương tự để xác định vị thế của các môn đệ Ngài trong vương quốc Nước Trời:
“Khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt 19: 28).
4. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm (3: 9)
Niềm hy vọng lớn lao này căn cứ trên tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, ân phúc và từ tâm này mà những người công chính sống:
“Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc, và thương xót những ai được Người tuyển chọn” (3: 9).
Lời kết thúc của Bài Đọc I này được viết cách Tin Mừng đến một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một sự duy nhất của Mặc Khải Cựu và Tân Ước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô, được cấu trúc rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân. Xin nhắc lại cách ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, gây nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy này, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử này không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21)
Đáp lại những kẻ tự phụ cho mình là “thông thái”, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng thánh nhân đã rao giảng cho họ không bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với những điềm thiêng dấu lạ người Do thái mong đợi và sự khôn ngoan người Hy lạp tìm kiếm.
Người Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được; đó là điều mà tất cả hệ thống triết học đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại này. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ hình trên thập giá. Ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, Thê-xa-lô-ni-ca và nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái này khai trừ và bách hại.
Còn đối với người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân đã cố thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một Đấng chịu đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào được sánh ví với hình ảnh của một thần linh.
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25)
Thập Giá không là một diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đưa ra một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn với mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh một hình ảnh độc nhất: “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.
TIN MỪNG (Mt 10: 17-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay, trích từ diễn từ về sứ vụ sai đi của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 10: 5-42), có thể được phân chia như sau: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23) và kết luận (10: 24-25).
1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21)
Khi căn dặn các môn đệ: “Hãy coi chừng người đời”, Đức Giê-su không khuyên họ trốn tránh “người đời”, nhưng trong những cuộc giao tiếp với người đời, họ nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Các môn đệ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời này tìm cách khai trừ, loại bỏ. Ở đây, “người đời” này không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ” (10: 17).
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở ngoài xứ Pa-lét-tin. Trong xứ Pa-lét-tin, họ có thể bị bắt và bị điệu ra trước vua chúa (dòng dõi Hê-rô-đê) quan quyền (chính quyền chiếm đóng Rô-ma) hoặc ngoài xứ Pa-lét-tin, trước các giới cầm quyền dân ngoại. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki-tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực này có một ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội làm chứng cho Đức Ki-tô và Nước Trời. Lời chứng này nêu bật tính chất vừa công khai vừa chính trị. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Trong giờ đó, họ không cần phải lo nghĩ phải nói gì, vì Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thánh Thần để trợ giúp họ như Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12). Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến cho nghĩ đến ơn phù trợ này loại bỏ sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế, trái lại hai cụm từ “chính anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ này được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng ở trong họ và bởi chính họ nữa.
2. Cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22)
Đối xứng với đoạn văn 10: 17-20 ở trên, đoạn văn 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết vì tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài, nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
3. Thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23)
Người Ki-tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành này xua đuổi họ thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng là bổn phận phải chu toàn cho đến cùng. Huấn thị này gợi nhớ cuộc bách hại giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem sau cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô. Sách Công Vụ ghi nhận rằng những người này phải tản mác khắp nơi, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đó (Cv 8: 4).
4. Kết luận (10: 24-25)
Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị kết án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ này không giới thiệu một sự so sánh, nhưng căn nguyên khác nhau giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẻ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho người môn đệ sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Trời đã đến (x. 10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Trời này (x. 10: 18). 9. Tử vì Đạo ngày hôm nay - AM Trần Bình An
Vào ngày 26 tháng 7 năm 1644, Thầy Andrê Phú Yên chịu tử vì đạo, đã làm phấn khởi những tín hữu sốt sắng ở Qui Nhơn. Ông Trùm An tôn Ngữ vội vàng lên gặp Cha Đắc Lộ, để hỏi xem phải có thái độ nào trong hoàn cảnh tương tự. Cha khuyên ông trở về khích lệ giáo dân sẵn sàng và can đảm trong cuộc chiến cam go của đức tin. Mấy ngày sau, quan trấn thủ sai quan án đến ra lệnh tập trung tất cả những người có đạo. Nội trong một ngày có 700 người trình diện. Thay vì làm cho dân chúng khiếp sợ, chính quan và lính thấy đám đông thì bối rối, chỉ chọn lấy 36 người trói lại, để giải về cho ông nghè Bộ. Ông nghè liền hạch hỏi: “Các ngươi muốn gì?” Tất cả thưa lại: “Chúng tôi muốn chết, để được sống đời đời, như lời Chúa Giêsu đã hứa cho những ai tin vào Ngài. Được chết vì Ngài là một vinh dự!”
Trong số 36 người có một ông nhà giầu. Khi ra trước sân phủ, quá sợ hãi, nên ông đã chối đạo. Nhưng sự hèn nhát của ông không làm nao núng 35 người còn lại. Quan trấn không dám vượt quá thẩm quyền, nên nói sẽ chọn ra 6 người, sẽ đánh đòn trước mặt những người khác để làm gương, nhưng không liệt kê những ai. Tối hôm đó, mọi người xưng tội, rước lễ, và ai cũng tranh cho được lọt vào tốp 6 người. Kẻ thì nói mình là tín hữu lâu đời, người khác lại nói mình không quan trọng cho đạo, nên sẵn sàng chịu chết. Trong số đó, có hai cha con cũng tranh nhau. Người cha nói rất tiếc phải tranh với con, để không thua lòng can đảm của con, mặc dù sức khỏe đã yếu kém. Người con thưa lại rằng, mình không quan trọng và không phải lo cho gia đình như cha. Quan án được lệnh đến nhà giam chọn 6 người, trong đó đứng đầu là Ông Trùm Antôn Ngữ. Tất cả 6 người bị đóng gông, mà Cha Đắc Lộ hay gọi là Thánh giá của người Nam Việt, hiên ngang theo lính ra phủ đường, 29 người được tự do cũng theo ra. Những người được chọn vui vẻ hớn hở, vì biết rằng mình sẽ được chết vì Đức Kitô. Nhưng tới phủ đường, quan chỉ ra lệnh đánh đòn mỗi người ít roi. Bản án qúa nhẹ làm họ sửng sốt. Lính lại đánh có 4, 5 roi nhẹ, càng làm họ càng tiếc, mất cơ hội chịu khổ vì Chúa. Cả 6 người được thả về, liền tìm đến Cha Đắc Lộ phàn nàn, Cha đã khuyên họ rằng, lòng ước muốn chịu chết vì Chúa cũng rất đáng kể, và đây mới chỉ là thử thách đầu tiên, tập luyện cho những cuộc thử thách lớn sau này, mà họ sẽ có dịp minh chứng lòng trung thành trọn vẹn. (Lm Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng)
Nhân dịp tiên báo cuộc khổ nạn của Người sắp đến, Đức Giêsu phán dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12, 24) Nay nhiều hạt khác sinh ra tới khoảng 7 triệu. Không có thống kê chính xác về số lượng người Công Giáo bị bách hại từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Nhưng trong 400 năm hiện diện tại Việt Nam, đạo Công giáo đã chịu sát hại ròng rã suốt 300 năm, hàng chục vạn tín hữu đã chịu hy sinh. Giáo Hội dùng từ Hy lạp là Martus, Marturos, tiếng La tinh là Martyr, Martyris, tiếng Anh và Pháp đều là Martyr, để chỉ những tín hữu được vinh phúc Tử Vì Đạo. Martus theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp là người chứng, người làm chứng, chứng nhân.
Hôm nay, ngoài những đất nước độc tài chuyên chế, thì chẳng còn cảnh thảm sát cấm đạo tàn khốc như xưa. Tuy nhiên, người Kitô hữu chân thành thực hành Lời Chúa, vẫn phải chịu bách hại bằng những hình thức tinh vi và đau đớn không kém, tuy chẳng phải máu chảy đầu rơi. Do vậy, tín hữu Kitô làm chứng nhân vẫn đang chịu tử vì đạo, chịu chết đi tính xác thịt, chết đi thói hư thế gian và chết đi những cám dỗ ma quỷ.
Chết đi tính xác thịt
Nhu cầu tự nhiên của con người sẽ trở nên bất tận, bao lâu còn cung phụng cho thân xác mau hư mòn theo năm tháng. Từ cái ăn, cái mặc cho đến tiện nghi sinh hoạt sẽ chẳng bao giờ là đủ thỏa mãn, nếu cứ mãi o bế, chiều chuộng ngũ quan, khao khát, đòi hỏi vất chất, phương tiện đầy đủ hơn, tốt hơn, đẹp hơn, nhiều hơn, mới hơn, tinh vi hơn, sang trọng hơn. Vậy nếu biết dừng lại, từ bỏ đi những ham muốn bản năng là chịu chết đi tính xác thịt. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối.“(Ep 4, 22)
Chết đi thói thế gian
Can đảm lội ngược dòng đời, Kitô hữu cũng được chịu phúc tử vì đạo, vì dám chống lại văn minh sự chết, chống lại khuynh hướng vô thần, mà gieo vãi văn minh tình thương đến mọi người, mọi nơi. Mặc cho thiên hạ tôn thờ bái vật, bò vàng, mê đắm hưởng lạc, ăn gian nói dối, lừa đảo kiếm chác, mặc cho thiên hạ đề cao và tôn thờ cá nhân chủ nghĩa. Thánh Giacôbê đã khuyên nhủ trong “Thư Chung” với toàn thể Kitô hữu: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha là…giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.” (Gc 1, 27)
Chết đi cám dỗ
Cái bả của cải, giàu sang, phú quý, quyền năng luôn là những cám dỗ day dứt, tiềm tàng, ẩn giấu, sâu kín, triền miên, trong lòng dạ mỗi người. “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn, độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong.“ (1Tm 6, 9)
Nhưng cám dỗ nặng nề, kín đáo và dai dẳng nhất vẫn là vị kỷ, kiêu ngạo, tự cao tự đại, với Thiên Chúa và tha nhân. Cho nên điều kiện tiên quyết theo Chúa, vẫn là phải từ bỏ bản thân, xóa bỏ bản ngã, cái tôi ích kỷ trước mắt mọi người, như Đức Giêsu đã chân tình mời gọi: ”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23)
Chư hiển thánh Tử Vì Đạo đã toàn tâm, toàn ý, vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa nhiệm mầu, mà từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống, để sẵn sàng vác thập gía, chịu đủ khổ hình, roi vọt, tù đầy, lăng mạ, cuối cùng chịu chết đau đớn, được vinh hạnh thông phần vào cuộc tử nạn của Đức Kitô.
“Chúa Giêsu đến đâu cũng có một số người sống chết cho Ngài, và cũng có một số người quyết giết chết Ngài. Sao con muốn mọi người yêu con? Sao con nao núng khi có người ghét con?” (Đườg Hy Vọng, số 692)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Người luôn ban Chúa Thánh Thần soi sáng chúng con ý thức thân phận thấp hèn, bé mọn trước Thiên Chúa và tha nhân, để chúng con sẵn sàng chết đi mọi thói hư, nếp xấu, mọi cám dỗ phù phiếm, từ bỏ bản thân, chấp nhận gánh vác bổn phận, trách nhiệm nặng nề hằng ngày mà hoàn toàn theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn dạy dỗ, nhắc nhở chúng con noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, bác ái, yêu Chúa và yêu người, luôn sẵn sàng chịu chết đi, để làm chứng nhân cho Đức Kitô. Amen.
Hôm nay Giáo hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo tại Việt Nam, 117 vị đã được 24/11-221
Hôm nay Giáo hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo tại Việt Nam, 117 vị đã được Giáo hội tuyên phong hiển thánh, nghĩa là nhìn nhận nhân đức anh hùng của các ngài, và xem các ngài như những gương sáng cho chúng ta là con cháu các ngài. Các ngài đã can đảm hy sinh mạng sống trong khổ hình vì yêu mến Chúa, trung thành đến cùng.
Mừng các thánh phải chăng là nhắc nhớ một kỷ niệm, tôn vinh lòng can đảm của các ngài? Nếu thế thì cũng không khác gì người đời tưởng niệm những vị anh hùng đã hy sinh cho đất nước.
Chúng ta mừng các thánh không chỉ là nhắc nhớ những người đã chết mà là nhắc đến những người đang sống. Người đời không biết điều đó. Chúng ta tin rằng các ngài đã chết, nhưng hiện nay các ngài vẫn sống trong Chúa. Mối liên hệ của chúng ta với các ngài là một mối liên hệ sống động, thân thương, chứ không chỉ là kỷ niệm.
Khi còn sống ở trần gian, các ngài cũng yếu đuối như chúng ta, cũng mang nặng kiếp người như chúng ta, “vác thập giá mỗi ngày để theo Chúa” như chúng ta, nhưng hôm nay, các ngài đã đạt đến vinh quang thiên quốc đang đứng trước ngai tòa Con Chiên, tay cầm nhành thiên tuế. Các ngài đã liều mất mạng sống vì Chúa.
Nếu chúng ta ở trong tình trạng của các ngài, liệu chúng ta có dám hi sinh tất cả như các ngài không?
Chịu bách hại gần như là thân phận của những người theo Chúa kể cả chúng ta. Đi vào lịch sử của dân Do Thái là dân Chúa, chúng ta thấy rằng dân này đã bước đi giữa những cơn bách hại liên tục. Họ bị bách hại ở Ai Cập và sau này họ vẫn bị bách hại một cách dã man, nhất là trong thời Maccabê mà chúng ta đã nghe tường thuật một ví dụ trong bài đọc sách Maccabê.
Những người theo Chúa cũng bị bách hại. Vua Đavit cũng bị vua Saun bách hại. Các tiên tri đều qua những cơn bách hại dai dẳng. Và sau cùng là Chúa Giêsu bị bách hại ngay khi mới sinh, và suốt đời Ngài luôn bị săn đuổi cho đến khi chết trên thập giá. Ngài chính là vị tử đạo cao cả nhất trong các vị tử đạo, là vị tử đạo thần linh. Và chính Ngài cũng đã nói: “Nếu họ đã ghét Thầy thì họ cũng sẽ ghét anh em”.
Các Tông đồ cũng chịu chung một số phận là trở thành những con chiên bị đem đến lò sát sinh. Và qua nhiều thế kỷ, Giáo hội tiên khởi cũng trải qua những cơn bách hại đẫm máu. Hiện nay, Giáo hội luôn bị bách hại khắp nơi trên thế giới. Nhiều nơi, những cuộc bách hại trở nên khốc liệt, tinh vi và dã man chưa từng thấy.
Những cuộc bách hại mang nhiều hình thức, lúc công khai, đẫm máu, lúc âm thầm, nham hiểm, nhưng luôn là những cố gắng để tiêu diệt Giáo hội. Chúa Giêsu đã tiên báo điều này và luôn khuyến khích chúng ta bền tâm chịu đựng: “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính… Hãy vui mừng vì phần thưởng của các ngươi sẽ trọng đại ở trên trời”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu bách hại, nhưng Ngài luôn bình thản chịu đựng “con chiên hiền lành bị đem đi đến lò sát sinh mà không hở môi. Ngài lại xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Các thánh tử đạo cũng luôn bình thản chấp nhận mọi khổ hình không nao núng, không hận thù, luôn kiên nhẫn và can đảm, nhiều vị còn tỏ ra vui mừng, điều làm cho mọi người phải ngạc nhiên. Họ đi ra pháp trường như đi vào một lễ hội. Tại sao?
Chỉ vì họ chứng tỏ lòng tin và tình yêu của họ đối với Đấng đã yêu thương và đã chết cho họ. Vì họ biết rằng chết đối với họ là một vinh dự, một chiến thắng như Thầy chí thánh đã chiến thắng thế gian bằng cái chết đau thương. Họ biết rằng, đây là một bằng chứng tình yêu mà họ thể hiện trong chính sự yếu hèn của họ. “Không có tình yêu nào trọng đại cho bằng dám chết cho bạn hữu”. Vì yêu, họ bỏ mình, vác thập giá theo Thầy của họ. Đối với các ngài, tình yêu là chóp đỉnh của cuộc sống. Như thánh Phaolô, không gì có thể làm cho họ nao núng, không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô, dù khổ đau, gươm giáo…” “Tôi luôn vui mừng trong những gian lao khổ cực tôi chịu vì Chúa”.
Ông Tertulianô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống gieo người tín hữu”. Các thánh tử đạo tại Việt Nam chính là mầm giống hôm nay đã sinh hoa kết quả. Giữa mọi khó khăn, người tín hữu vẫn trung thành giữ vững đức tin, vẫn kiên trì sống yêu thương không hận thù, vẫn cố gắng đem đến cho xã hội mình sống “một nền văn minh của tình thương”, như thánh Gioan -Phaolô đã nói.
Hôm nay, chúng ta vẫn luôn đương đầu với những khó khăn để sống đức tin, để trung thành với Chúa. Đó là cuộc tử đạo liên lỉ của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người…” Cuộc tử đạo của chúng ta không đổ máu, nhưng cũng không kém cam go. Cuộc tử đạo của chúng ta cũng như các ngài là một cái chết hằng ngày trong tin yêu. “Bỏ mình vác thập giá và theo Ngài”. Tử đạo theo nguyên ngữ Hy Lạp là làm chứng. Đời sống của mỗi người chúng ta phải là một bằng chứng cho sự thánh thiện và tình yêu của Thiên Chúa giữa thế gian. Người tín hữu, dù ở đâu, mọi thời, mọi lúc phải là bằng chứng cho Chúa của mình bằng một đời sống ngay chính và yêu thương. Các thánh tử đạo đã được vinh dự đổ máu vì Chúa, chúng ta không được vinh dự đó, nhưng cuộc sống chính là môi trường để chúng ta chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Chúa Giêsu. Sống tốt trong một thế giới đầy gian ác và thù hận không là một việc dễ dàng. Từ chối tội lỗi, từ chối tất cả những gì làm nhơ nhuốc lương tâm cũng là một điều không mấy người làm được. Đó là cuộc tử đạo của chúng ta hôm nay.
Chúa Giêsu, vị tử đạo thần linh của chúng ta biết chúng ta phải cực khổ như thế nào để trung thành với Ngài. Ngài không bỏ rơi chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta. Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài đã dùng tấm bánh tình yêu là chính thân thể Ngài để làm của ăn nuôi dưỡng chúng ta trên con đường về quê thật, củng cố niềm tin của chúng ta, giúp chúng ta biết yêu thương một cách vẹn toàn hơn. “Không có Thầy, anh em không thể làm việc gì”. Chúng ta cần được nuôi dưỡng bằng tấm bánh Tình Yêu để sống trong tình yêu, gắn bó với Ngài đến cùng. Hãy ăn lấy Ngài để cho Ngài tiếp nối công trình cứu chuộc của Ngài trong mỗi người chúng ta, cho đến tận thế.
Mt 10: 17-22: Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống.
Suy niệm
Chúa nhật ngày 19/6/1988, tại Rôma, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II đã cử hành Thánh lễ 24/11-222
Chúa nhật ngày 19/6/1988, tại Rôma, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II đã cử hành Thánh lễ tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh. Từ ngày ấy, Giáo hội hoàn vũ cử hành lễ kính nhớ các ngài vào ngày 24/11 hàng năm. Riêng Giáo hội Việt Nam còn cử hành lễ kính trọng thể vào Chúa nhật giữa tháng 11, trước lễ Chúa Kitô Vua. Con số được tuyên phong gồm 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo dân. Trong đó, họ là những người thuộc các quốc gia khác nhau phục vụ trên quê hương đất Việt gồm 11 vị gốc Tây Ban Nha: 6 giám mục và 5 linh mục dòng Đa Minh, 10 vị gốc Pháp: 2 giám mục và 8 linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris, 96 vị người Việt: 37 linh mục và 59 giáo dân - trong đó có 14 thầy giảng, 1 chủng sinh và một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành. Các thánh chịu tử vì đạo dưới thời chúa Trịnh Doanh có 2 vị, thời chúa Trịnh Sâm có 2 vị, thời của vua Cảnh Thịnh 2 vị, thời vua Minh Mạng có 58 vị, thời vua Thiệu Trị (có 3 vị, thời vua Tự Đức có 50 vị.
Sách Khâm Định Việt Sử ghi lại trong vòng 300 năm, hạt giống Tin Mừng được gieo vào lòng đất Việt đã âm thầm mọc lên và sinh hoa kết trái. Kể từ khi có sự đặt chân của cha thừa sai Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tại làng Ninh Cường và Trà Lũ, tiếp theo là cha Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. với dòng thời gian, công cuộc loan báo Tin Mừng đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo đầu tiên của Chân phước Anrê Phú Yên. Ngài sinh năm 1625, được chính cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) rửa tội năm 15 tuổi, cùng lúc với bà mẹ góa và các anh chị, và chịu tử đạo vào năm 1544. chịu ảnh hưởng từ các cuộc bách hại, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng cũng đầy đau thương và đẫm nước mắt của 400,000 tín hữu chịu lưu lạc, hay bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc nhất là với phong trào Cần Vương Văn Thân nổi lên phò vua tàn sát người Công Giáo mà họ lấy danh nghĩ là diệt “Tả đạo”.
Có nhiều lý do đẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị đã khiến Hội thánh Việt Nam dâng cho Chúa không những 117 mà tới 130,000 chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Các vị tử đạo tại Việt Nam rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia,, các chủng sinh, thầy giảng, các nữ tu và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, người làm nông đến chài lưới, từ thương lái đến lương y; từ học sinh đến thầy đồ; từ lý trưởng, cai tổng, binh lính đến quan văn, quan võ; từ giáo dân, ông trùm, ông quản…
Các ngài chịu nhiều bách hại với mọi hình phạt dã man mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được để khủng bố tinh thần các chứng nhân của Chúa Kitô. Hình phạt nhẹ thì bị gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, bị lưu đày, phát lưu và phân sáp. Quyết liệt hơn thì bị voi giầy, trảm quyết tức là bị chặt đầu, cho chết rũ từ, bị xử giảo tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Trong đó, vô cùng man rợ và hiểm độc đến lạnh xương sống khi kể ra như bị xử lăng trì (chặt chân tay trước khi chém đầu), phân thây ra từng mảnh hay là tùng xẻo (một tiếng trống là xẻo miếng thịt), xử bá đao (bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng.)
Cũng nên biết qua về kế hoạch Phân sáp của vua Tự Đức, một kế hoạch quá sâu độc, gồm bốn mặt:
- Người công giáo phải đến ở trong các làng bên lương. - Mỗi người Công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật. - Các làng Công giáo bị phá huỷ, của cải ruộng đất của người Công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà nước.
- Không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Với kế hoạch phân sáp của vua Tự Đức, 100 làng công giáo thành bình địa, 2,000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục Việt Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2,000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác,100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì đạo.
Dẫu vậy, các tín hữu Tử đạo Việt Nam đã anh dũng chịu đựng vì Chúa, luôn có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Tất cả đều mang trong mình một niềm tin son sắt, một tình yêu nồng cháy, một tinh thần can đảm quật cường, sẵn sàng chịu muôn ngàn thử thách vì danh thánh Chúa Kitô vì các ngài tin tưởng như Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3,1).
Các thánh tử đạo Việt Nam không phải những vị anh hùng theo kiểu người đời: Can đảm chết để bảo vệ một chủ nghĩa chính đáng hoặc không chính đáng nào đó, hoặc vì muốn được nổi danh mặc dù phải can đảm đương đầu với một cái chết tàn bạo hay ôm bom tự sát, liệt sỹ cho Tổ quốc. Không, các thánh tử đạo của Kitô giáo trao ban sự sống của các ngài vì tình yêu làm chứng cho đức tin. Các ngài là những người mà chúng ta hát lên bài: “Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm đượm máu hồng, từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là con cháu luôn nhớ đến cha ông đã sẵn sàng lấy máu đào minh chứng cho đức tin can trường vào Ngài, để ngày nay, chúng con cũng dám sống đức tin ấy và vun tưới để cây đức tin ấy được triển nở trong lòng Giáo hội, nơi gia đình khu xóm, và để chúng con luôn ca tụng Chúa không ngừng. Amen.
Chúa Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai đầy quyền năng phép tắc đã xuống thế làm người và thiết 24/11-223
Chúa Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai đầy quyền năng phép tắc đã xuống thế làm người và thiết lập Hội thánh để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Lẽ ra, để có thể lôi kéo được nhiều người gia nhập Hội thánh của mình, Chúa Giê-su hứa ban cho người ta nhiều phúc lộc. Ngài có thể kêu gọi: Ai theo tôi sẽ được quyền cao chức trọng; ai theo tôi sẽ được giàu sang phú quý, ai theo tôi sẽ được an vui hạnh phúc suốt đời…
Với quyền lực vô cùng lớn lao, Ngài có thể ban cho những kẻ theo Ngài bất cứ điều gì họ muốn. Thế là muôn dân muôn nước tìm đến thờ lạy Ngài, chúc tụng Ngài và Hội thánh sẽ lan rộng khắp nơi trong một thời gian ngắn…
Thế mà, thay vì hứa ban cho những ai theo Ngài nhiều lợi lộc trần gian, Chúa Giê-su kêu gọi “Ai muốn theo tôi thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Lc 9, 23).
“Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27).
Thế rồi đúng như lời Chúa nói, các tín hữu Chúa đã bị bách hại suốt hai ngàn năm qua, cũng như đang bị bách hại hôm nay tại nhiều nơi trên thế giới và sẽ còn bị bách hại mãi cho tới ngày tận thế. Máu của các ngài vẫn tiếp tục đổ, khổ hình đủ loại đang giáng xuống trên các ngài. Thống khổ biết bao!
Và ngay cả chính Chúa Giê-su, là đầu của Hội thánh, hôm nay cũng đang bị sỉ nhục khắp nơi. Người ta dùng phim ảnh, sách báo và những lời thô bỉ để sỉ nhục, phỉ báng Ngài. Các thánh giá trên các giáo đường thờ kính Ngài đang bị giật đổ xuống, tượng ảnh của Ngài ở nhiều nơi cũng đang bị chặt đầu, chặt tay… Thế mà Ngài vẫn im lìm gánh chịu!
Tại sao Chúa cứ tiếp tục chịu khổ nạn như thế? Tại sao các tín hữu là những chi thể của Ngài phải chịu bách hại đau thương như thế? Tại sao các thánh tử đạo tại Việt Nam là phần thân thể Ngài phải chịu vô vàn đau thương như thế?
Thưa là để đền tội cho loài người. Loài người phạm tội thì theo luật họ phải bị khổ hình và phải trầm luân đời đời trong hỏa ngục. Luật Chúa đã quy định như thế, không thể xóa bỏ được.
Nhưng nếu để cho người tội lỗi phải chịu khổ hình và phải đau khổ đời đời trong hỏa ngục, thì Thiên Chúa đau lòng không chịu nổi; vì thế Chúa Giê-su và những chi thể của Ngài chấp nhận chịu khổ nạn thay, chịu chết thay, để nhờ Ngài chịu khổ nạn mà muôn người được ơn tha thứ; nhờ Ngài chịu chết mà muôn người được thoát khỏi cảnh trầm luân đời đời trong hỏa ngục.
Hôm xưa, cách đây 2.000 năm, Chúa Giê-su trực tiếp chịu khổ nạn cùng với Mẹ Maria và một ít môn đệ và nay, Chúa Giê-su tiếp tục chịu khổ nạn cùng với chúng ta, với các thánh tử đạo… là những chi thể trong thân mình Ngài, để tiếp tục đền tội cho muôn người tội lỗi.
Như thế, cái giá mà Chúa Giê-su và các thánh tử đạo phải trả để đền thay tội lỗi loài người, để cứu họ khỏi sa hỏa ngục, lớn lao không thể nào tả xiết! Lạy Chúa Giêsu,
Hôm nay, Chúa không mời gọi chúng con chịu tù đày, xiềng xích, giam cầm, tù ngục… hay phải ra pháp trường đổ máu đào để góp phần với Chúa đền tội cho muôn người tội lỗi, thì xin cho chúng con vui lòng chịu đựng gian lao, đau khổ, cực nhọc hằng ngày để hiệp thông vào cuộc khổ nạn của Chúa hầu mang lại ơn tha thứ cho các linh hồn. Amen.
Nét son của đạo Công giáo là yêu thương. Ai không sống yêu thương thì người đó không còn xứng 24/11-224
Nét son của đạo Công giáo là yêu thương. Ai không sống yêu thương thì người đó không còn xứng đáng gọi là môn đệ của Chúa. Vì xưa Chúa Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Yêu thương làm nên người Công Giáo. Yêu thương là hoàn thiện mình nên giống Thầy Chí Thánh Giê-su.
Các thánh Tử đạo Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tất cả các ngài đều có một đời sống gắn bó với quê hương, với xóm làng và đầy tình yêu thương với mọi người từ gia đình đến xã hội. Cụ thể là thánh Simon Phan Đắc Hoà, giáo dân tử đạo. “Là một lương dân, cậu Phan Đắc Hoà đã bị cuốn hút bởi đời sống bác ái yêu thương của một số kitô hữu mà cậu gặp gỡ. Cậu đã xin phép mẹ để được học đạo. Trở thành kitô hữu, lập gia đình, có 12 người con, ông Simon Phan Đắc Hoà luôn sống gương mẫu cho mọi gia đình trong làng. Làm nghề y, ông không bỏ qua một cơ hội giúp người nghèo khó bệnh tật”
Với ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý “. Ông từng chăm sóc nuôi nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ngày sáng tối thăm hỏi, và khi người bệnh lìa đời, đã tổ chức lễ an táng tử tế. Ông cũng nuôi hai bé gái bị bỏ rơi cho đến khi trưởng thành: một cô xin đi tu, một xin lập gia đình, ông quảng đại lo đến nơi đến chốn.
Chính đời sống đức tin tỏa sáng nhờ có dầu bác ái mà các ngài đã nêu gương sáng cho mọi người, các ngài đã đi vào lòng quan quân, và dân chúng một sự ngưỡng mộ và kính trọng. Mặc cho triều đình nhà Nguyễn ra những chiếu chỉ bách hại, dấu hiệu tình thân giữa bà con chòm xóm đối với người Công Giáo vẫn trước sau như một. Thí dụ trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ “.
Và ngày hôm nay trong cứu trợ lũ lụt đồng bào Miền Trung người ta thấy các xứ đạo trong tỉnh Đồng Nai dường như rất nhiệt tình chia sẻ với anh chị em Miền Trung. Nhiều xứ trở thành nơi gói bánh chưng, tập kết quần ào, gạo, mì tôm và nhiều nhu yếu phẩm khác. . . để gửi ra Miền Trung. Đây là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta đã và đang làm theo gương cha ông chúng ta. Đó cũng là những hành động làm chứng cho tin mừng, là chia cơm sẻ áo, là chia sẻ tiền bạc, vật dụng để những người gặp cảnh hoạn nạn… có thêm cơ hội để sống và sống đúng với nhân phẩm của mình.
Nếu hiểu tử đạo là lời chứng cho tin mừng thì người Công giáo chúng ta hôm nay đang làm chứng về tình yêu thương khi biết cho đi mà không mong đền đáp. Nhưng vượt lên trên tình yêu của đồng loại với nhau, thì tử đạo là đặt Chúa lên trên hết cho mọi chọn lựa. Dầu có bị thiệt thòi, bắt bớ, tra tấn hay tù đầy thì vẫn phải làm chứng cho sự thật, công lý và tình thương.Như thánh Simon Phan Đắc Hoà dầu bị tra tấn dã man vẫn không hề nản chí. Dù nhìn thấy viễn cảnh: đầu rơi, xa lìa những người thân yêu nhất trong gia đình, ông vẫn nhất quyết theo gương Thầy Chí Thánh, sống vì mọi người và một lòng theo thánh ý Thiên Chúa cho tới hơi thở cuối cùng. Ông từng nói:
“Những trận đòn không làm ông nản chí, trái lại ông còn lấy thế làm hạnh phúc, vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh”
Ngày nay, chúng ta phải sống trong môi trường xã hội đảo điên, tiền bạc chi phối mọi sinh hoạt đời sống xã hội. Cônglý bị bẻ cong. Người dám nói sự thật bị cô lập. Người lên tiếng cho công lý bị tù đầy.
Điều đáng buồn là nhiều người hôm nay đã chọn gỉai pháp im lặng để an toàn cho bản thân và có đôi khi là cơ hội để thăng tiến. Đây là cách sống phản lại tin mừng của Chúa. Vì tin mừng là muối, là men để thay đổi xã hội nên tốt hơn chứ không phải để cất dấu sẽ làm hư men tin mừng.
Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam xin cho chúng ta là con cháu biết kế thừa tinh thần đầy yêu thương và can trường của cha ông để sống và làm chứng cho xã hội hôm nay. Xin đừng vì ích kỷ, lợi lộc bản thân mà im lặng truớc bất công và cái xấu, những giữa cuộc chiến thiện và ác, chúng ta phải can trường để đưa tin mừng xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn khi công lý và tình thương được lan rộng khắp mọi nơi. Amen.
Ngày lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày Hội của Đức tin người Công giáo Việt Nam. Bởi từ 24/11-225
Ngày lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày Hội của Đức tin người Công giáo Việt Nam. Bởi từ khởi đầu truyền giáo đến nay, chưa từng có một khoảnh khắc bình an đúng nghĩa để giữ đạo và sống đạo, người Công giáo Việt Nam vẫn bất khuất trước mọi đầu sóng ngọn gió để đạt một gia sản đức tin quá đỗi lớn lao cho đến hôm nay, chắc chắn sẽ còn mãi về sau.
Người Công giáo Việt Nam vui mừng, hãnh diện vì đức tin của mình. Ngày Hội của Đức tin hàng năm là ngày người Công giáo Việt Nam vừa ôn lại quá khứ để học đòi bắt chước tấm gương kiên trung của cha ông, vừa là ngày mà họ trang trọng khẳng định với mọi người, nhất là với những ai thù ghét, luôn muốn đặt đức tin Công giáo trở thành mục tiêu tiêu diệt, rằng: Sức mạnh của đức tin là sức mạnh chiến thắng trên mọi chiến thắng!
Ngày Hội của Đức tin nhắc nhở từng người con của Hội Thánh Việt Nam, hậu duệ của các thánh Tử Đạo, phải ý thức đức tin của mình, phải lấy tấm gương quyết một lòng sống và chết cho đức tin của các ngài mà soi rọi, mà học tập, mà rút tỉa kinh nghiệm… cho chính đời sống Kitô hữu của mình.
Qua chính tấm gương của các thánh Tử Đạo Việt Nam, ta thấy Đức tin luôn luôn có những đòi hỏi. Đòi hỏi rõ ràng nhất là đòi hỏi HIẾN DÂNG.
Thư gởi tín hữu Do Thái đã từng ca ngợi Chúa Kitô: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu độ vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9, 12).
Hoặc nơi khác, thư gởi tín hữu Do Thái viết tiếp: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 5-7).
Nếu Chúa Kitô, người Thầy, đã tận hiến chính mình, đến lược mọi tín hữu, một khi đã tin Chúa Kitô, đi theo Người, cũng được mời gọi hiến dâng mình trong từng ngày sống để thánh hóa mình, để thu ngắn cánh đồng truyền giáo, để tôn vinh danh Chúa, mưu cầu hạnh phúc đời đời cho con người, để Hội Thánh tiếp tục trường tồn và phát triển.
Trong đời sống, hiến dâng mình là đón nhận Thánh Ý, vui sống với Thánh Ý qua từng ngày sống, từng biến cố, từng hoàn cảnh đời mình.
Hiến dâng mình còn là nỗ lực băng mình phục vụ Chúa, phụng sự Nước Trời bằng tất cả khả năng, tất cả mọi công tác, tất cả mọi hy sinh, tất cả mọi đóng góp mà việc mở mang Nước Chúa cần đến chúng ta.
Hiến dâng mình là ta tự thánh hóa từng giây phút sống, thánh hóa ngay giây phút hiện tại mà Chúa ban, để mỗi giờ khắc trôi qua trong đời ta đều là giờ khắc thánh, đưa ta đến gần Chúa, đến gần ơn cứu độ của Người.
Hiến dâng mình là can đảm nghe thấu tiếng kêu của người đau khổ, kẻ góa bụa, nạn nhân của bóc lột, của bất công, của sự lủng đoạn công lý…
Ta không tự bịt mắt trước hoàn cảnh của người cô thân, người bị bỏ rơi, người thiếu thốn, người cơ hàn… đang cần sự trợ giúp vì thiếu thốn cả tình yêu, tinh thần, lẫn vật chất.
Chúa Kitô đã từng chỉ cho ta cách hiến dâng mình để tự thánh hóa:“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24).
Thập giá ấy chính là trách nhiệm, là nỗ lực, là trung thành đến cùng qua tất cả mọi lao tác, mọi phận vụ, mọi chiều kích, dẫu có phải vượt qua chông gai, vượt qua đau đớn.
Vác thập giá chính là hiến dâng mình trong đức tin, để biến thời gian sống của ta thành thời gian thánh và biến đời ta thành đời hy tế ích lợi cho anh chị em.
Ta sống là sống với Chúa, sống với anh chị em.Vì thế, trong đức tin, ta hiến dâng là hiến dâng cho Chúa và cho anh chị em.
Như Chúa Kitô hiến tế cho trần thế, các thánh Tử Đạo Việt Nam noi gương Chúa Kitô hiến dâng chính mình. Các ngài hiến dâng cái quý giá nhất trong cuộc đời này, đó là mạng sống, là sự sống của bản thân.
Các thánh Tử Đạo trở thành tấm gương và bài học sống động để chúng ta, hậu duệ của các ngài, thời này sang thờii khác noi gương bắt chước.
Ngày lễ trọng đại kính mừng các thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày hạnh phúc, ngày hãnh diện, ngày vui mừng, ngày Hội lớn nhắc nhở chúng ta về một truyền thống đức tin không biết sợ hãi hay khuất phục, không bao giờ cúi đầu, nhưng luôn luôn bình tĩnh đón nhận dẫu phải trải qua những bàn tay dã man nhất, luôn luôn ung dung tự tại dẫu phải đối diện với trăm ngàn đe dọa hiểm độc nhất, luôn luôn ngẩng cao đầu đến nỗi những kẻ sắt máu nhất sẵn sàng lao vào giết hại mình bất cứ lúc nào cũng phải bạt nhược, khiếp đảm.
Ngày Hội Đức tin nằm trong bối cảnh năm Đức tin, lại càng là dịp giúp mọi con cái các thánh Tử Đạo, là tất cả các Kitô hữu Việt Nam, ra sức nêu cao tinh thần đức tin quật cường của Cha Ông!
Chúng ta phải đi trên con đường của Cha Ông, để không bao giờ hỗ thẹn với tinh thần đức tin của các ngài.
Máu Đỏ Lung Linh Sắc Yêu Mến, Da Vàng Lấp Lánh Màu Kính Tin. Như một quy luật bất biến 24/11-226
Máu Đỏ Lung Linh Sắc Yêu Mến Da Vàng Lấp Lánh Màu Kính Tin
Như một quy luật bất biến, Kinh Thánh cho biết: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.” (Tv 126:5) Thật đúng như vậy, chỉ là người đời rất ư bình thường mà người ta cũng có thể nhận định: “Có nhục mới có vinh.” Tương tự, muốn thành công thì phải khổ luyện, có đau khổ mới có hạnh phúc đích thực.
Theo bản tính con người, ai cũng sợ chết, dù chỉ chết một lần, bởi vì chỉ có một cuộc đời để sống, không thể rút… kinh nghiệm. Thế nên phải cố gắng sống sao cho có ý nghĩa để cái chết hợp lý. Chắc chắn các thánh tử đạo Việt Nam nhận thức được vậy nên không sợ chết, đặc biệt là chết vì tin vào Đức Giêsu Kitô. Đó là một mối phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10)
Như để tái xác định, Chúa Giêsu giải thích thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12)
Thật lạ lùng với cách nhận xét của De Giradin: “Tình yêu chỉ sống được nhờ đau khổ. Sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần mòn.” Chính đau khổ và hy sinh là bằng chứng về tình yêu chân thật. Tình yêu vô hình, không thể nhìn thấy nhưng có thể cảm nhận. Bussy Rebutin nói: “Tình yêu trong xa cách ví như ngọn lửa trong gió, gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ và thổi bùng ngọn lửa lớn.” Đó là nói về tình yêu đôi lứa, nhưng vẫn có ý nghĩa đối với các dạng tình yêu khác, kể cả tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Tính chất của lửa rất lạ, càng được chia sẻ càng lan tỏa, càng tăng thêm, chứ không bị giảm bớt hoặc mòn dần.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” Máu duy trì sự sống bằng cách không ngừng từ Trái Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống – chuyển giao đi khắp cơ thể. Người ta khác nhau về loại máu, nhưng chung quy vẫn là sống và yêu. Tim còn đập là còn sự sống, còn sống thì còn yêu.
Theo y học, có khoảng 46 nhóm máu khác nhau, nhưng nhóm máu chủ yếu là O, A, B, AB và yếu tố Rhesus (Rh, có Rh+ và Rh-). Trong đó, máu O có thể cho bất cứ loại máu nào nhưng chỉ nhận cùng loại máu; còn máu AB có thể tiếp nhận mọi loại máu. Tuy nhiên, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại các nhóm khác. Một nhóm máu hoàn chỉnh có thể bao gồm một bộ 30 chất trên bề mặt của các RBC (red blood cell – hồng cầu), và nhóm máu của cá thể là một trong những cách kết hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số 30 nhóm máu, có hơn 600 chất kháng nguyên (phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, sản sinh kháng thể) đã được phát hiện, nhưng đa số rất hiếm hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhất định.
Đối với Kitô giáo, Công giáo nói riêng, Thập Giá là biểu tượng của đức tin, vì thế mà những người bách hại dùng Thập Giá – dù chỉ là hai thanh gỗ xếp thành hình thập giá – để bắt người ta bước qua, nhưng chỉ luống công vô ích, vì các tín nhân chân chính luôn tuyệt đối tin vào Đức Giêsu Kitô. Điều đó đã được chứng minh bằng hàng trăm ngàn cái chết của các vị tử đạo Việt Nam trong thời bách hại của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Đó là ứng nghiệm lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Lời tiên báo đó đã và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam xưa và nay, càng ngày càng có xu hướng gia tăng. Thật đáng sợ với mưu mô thâm độc của ma quỷ, nhưng đừng hốt hoảng, vì Chúa Giêsu đã nói: “Khi người ta nộp anh em thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:19-20) Cứ an tâm mà sống!
Bách hại đủ kiểu, đủ mức, tín nhân cũng chẳng yên thân với chính người thân ngay trong gia đình mình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Không hẳn là những người trong gia đình hoặc trong dòng họ sẽ nộp nhau hoặc ra mặt chống đối, nhưng có thể “bằng mặt mà không bằng lòng,” họ bách hại nhau bằng nhiều cách tinh vi: Lườm nguýt, xa lánh, ghen ghét, mỉa mai, gièm pha, khích bác,… Đơn giản chỉ là không thúc giục nhau sống đạo.
Âm nhạc có những cung bậc khác nhau nhưng chung giai kết trọn, cuộc đời của chúng ta cũng tương tự, cần noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, cùng hòa âm bản Hùng Ca Tin Yêu qua cách sống hằng ngày. Chúng ta không viết bản nhạc cuộc đời mình bằng máu tử đạo, nhưng có thể viết bằng cách khác: Sống âm thầm chịu đựng đau khổ vì Chúa cũng là một cách tử đạo liên lỉ, có ích lợi cho chính mình và các linh hồn. Cách nào cũng có mức độ khó riêng, chẳng cách nào dễ. Quan trọng là chúng ta phải hoàn tất bản tổng phổ đời mình.
Bửu Huyết Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó, nhiều người không tham sanh úy tử, dám liều chết vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng các vị tử đạo đã có cách sống khác thường. Thời đó, Việt Nam mới lãnh nhận đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu, nhưng đức tin đã bén rễ mau chóng và sâu sắc.
Cụ thể là chàng trai trẻ Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, vậy mà đức tin ấy đã sớm trưởng thành nên không ngại thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Bà Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, thương gia Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm.” Thật tuyệt vời biết bao!
Đối với xã hội loài người, họ là những người dại dột, thậm chí là ngu xuẩn, nhưng đối với Thiên Chúa thì họ là những người khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28) Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” (Kn 3:1) Đau khổ chẳng là gì đối với những người hết lòng yêu mến Chúa, vì họ xác tín với lòi Chúa Giêsu: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9:24)
Các vị tử đạo Việt Nam đã chứng minh lòng tin yêu theo lời Thầy Chí Thánh: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.” (Lc 9:26) Rất rõ ràng. Rất mạch lạc.
Tại Việt Nam, người Công giáo đã từng bị bách hại đủ kiểu, vì thế người Bắc và Trung đã tìm cách di cư vào Nam để có thể tự do tôn thờ Thiên Chúa, nhiều nhất là hồi tháng 07-1954. Mỗi thời có kiểu bách hại riêng, càng ngày càng tinh vi hơn. Thời Cựu ước, sách Ma-ca-bê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm. Bà mẹ là người rất mực xứng đáng khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chắc chắn “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Các Việt nhân chân chính sống trung thành, luôn đặt trọn niềm vui và hy vọng vào Chúa, hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Họ THEO ĐẠO, cương quyết GIỮ ĐẠO, can đảm SỐNG ĐẠO, và chứng tỏ niềm tin bằng cái chết. Đúng là “vô tri bất mộ.” Không biết thì không yêu mến, nhưng càng biết thì càng thích, càng thích thì càng yêu, càng yêu thì càng mê, mê tới… chết.
Đạo và đời có liên quan lẫn nhau: Người có đạo giữ đạo và sống đạo giữa đời. Các thánh tử đạo Việt Nam đã trải qua như vậy, nhưng các ngài đã kiên cường giữ vững đức tin và không ngả theo cái xấu.
Về phần đời, Việt Nam có danh tướng Trần Bình Trọng đã chống lại quân Nguyên – Mông năm 1285, đời nhà Trần. Ông bị giặc bắt nhưng khí phách vẫn khẳng khái: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” Một tấm gương sáng về tính cương trực và lòng ái quốc. Ngài Thomas Jefferson (1743-1826), tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, nói: “Nếu pháp luật bất công, người ta không chỉ phải bất tuân mà còn bắt buộc phải làm như vậy.” Thật vậy, Thánh GH Phaolô VI cho biết: “Chính trị là một dạng bác ái cao nhất.”
Lạy Thiên Chúa chí thánh chí tôn, xin ban thêm đức tin và đức mến cho chúng con, xin giúp chúng con can đảm sống chân chính, không xao xuyến trước bất cứ áp lực nào. Lạy chư thánh tử đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay và thúc giục chúng con sống xứng đáng là hậu duệ của các ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong xã hội hôm nay, mọi sự đều có thể biến thành hàng hóa, mọi công việc đều mang tính thương 24/11-227
Trong xã hội hôm nay, mọi sự đều có thể biến thành hàng hóa, mọi công việc đều mang tính thương mại, kể cả trong lãnh vực tâm linh. Con người ngày càng trở nên so đo tính toán thiệt hơn trong mối tương quan xã hội. Qua hình ảnh của một xã hội thương mại, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: hãy biết sinh lợi thiêng liêng để đem lại ích lợi lâu bền, tức là phần rỗi linh hồn. Tự bản tính, con người sống trên đời phải lo làm ăn kiếm sống. Có những người đôn đáo suốt đời mà vẫn tay trắng, vì thiếu cần cù, khôn ngoan hoặc thiếu đức độ. Tiền nhân dạy: “Có đức mặc sức mà ăn”. Điều này có nghĩa, trong công việc làm ăn, phải lấy đức làm đầu. Bởi lẽ “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Người tính không bằng trời tính. Con người mưu mô, tính toán theo những tham vọng của mình, nhưng Trời lại có cách tính khác. Vì vậy, những ai tưởng mình “lấy tay che được mặt trời” sẽ bị thất bại. Người phụ nữ được diễn tả trong sách Châm ngôn, là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng, đầy đủ mọi tiêu chuẩn: công, dung, ngôn, hạnh như truyền thống Việt Nam chúng ta. Còn hơn thế nữa, người phụ nữ nay chăm chỉ làm việc và kính sợ Chúa, đồng thời biết dùng của cải mình làm ra để giúp những kẻ khó nghèo. Đây là nét làm cho bà đáng kính trọng và đáng ca tụng, vì đức hạnh không hệ tại ở nhan sắc bề ngoài. Hình ảnh này không chỉ diễn tả những người phụ nữ nội trợ, mà là mẫu mực cho hết thảy chúng ta. Vì trong cuộc sống này, lao động thuộc bản tính của con người. Lao động lương thiện, với tâm tình mến Chúa và quảng đại chia sẻ cho người nghèo sẽ đem lại cho chúng ta muôn vàn phúc lộc. Đó cũng là một cách sinh lợi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta được phong phú. Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường phàn nàn về những điều chưa hài lòng trong cuộc sống. Ít khi chúng ta nghĩ đến những điều tốt đẹp Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cũng hay so sánh mình với những người khá giả hơn mình, mà ít khi dừng lại để thấy mình còn hơn rất nhiều người xung quanh. Người hạnh phúc là người cảm nhận những niềm vui nho nhỏ ngay giữa cuộc sống còn bộn bề những gian nan. Người bất hạnh chỉ nhìn thấy những điều tiêu cực hoặc chỉ chú trọng đến những điều không hài lòng. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhìn lại cuộc đời mình để thấy những điều tốt đẹp, đồng thời, xem lại cách sử dụng những vốn liếng Chúa ban như thế nào. Đức tin nói với chúng ta: vốn liếng Chúa ban cho chúng ta là sức khỏe, gia đình, của cải, con cái, công việc, bạn bè và môi trường sống. Chúng ta đã làm gì để cho số vốn ấy sinh lời? Nếu mỗi người sống trên trần gian đều được Chúa trao cho một phần tài sản nào đó để quản lý và sinh lợi, thì có lúc Ngài sẽ tính sổ với chúng ta về cách quản lý và sử dụng của cải đã được trao phó. Bài Tin Mừng Thánh Luca phần nào phác họa khung cảnh ngày tận thế, tức là lúc Chúa xét xử con người. Lưu ý đoạn Tin Mừng này được đặt trong ngữ cảnh những bài giảng của Chúa Giêsu nói về ngày cánh chung, tức là ngày phán xét. Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta, giống như người kinh doanh thanh toán sổ sách vào cuối năm xem việc làm ăn buôn bán lỗ lãi thế nào. Ngài dựa trên khả năng của mỗi người để trao vốn cho họ: người nhiều thì được trao năm nén bạc, người hai nén và người khác chỉ có một nén. Việc trao vốn này cho thấy không ai trong chúng ta dựa trên khả năng kém cỏi hay đời sống nghèo nàn của mình mà biện minh cho sự lười biếng. Chúa muốn chúng ta sinh lợi, tùy khả năng của mình. Ngài không đòi người đã được trao hai nén phải sinh lợi giống như người được trao năm nén. Đến thời điểm chung cục của cuộc đời, mỗi người đều phải thanh toán sổ sách với Chúa, bất luận nghèo hay giàu, văn minh hay lạc hậu, trí thức hay bình dân. Lý luận của người thứ ba cho thấy sự biếng nhác và thiếu thiện chí của anh: “Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ mà đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại cho ông”. Người này đã quên thân phận đầy tớ của mình. Anh ta vừa lười biếng, vừa vu khống chủ là “một người keo kiệt”. Anh bị ông chủ mắng là “xấu xa và biếng nhác”. Anh không thật tâm với ông chủ. Bằng chứng là mặc dù anh chịu ơn ông chủ, nhưng trong đầu óc của anh luôn nghĩ xấu về chủ mình. Tại sao lại nói ông chủ là người “gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” trong khi chính ông chủ đã trao cho anh ta một nén bạc để làm vốn? Hơn nữa, trong khi hai người đầy tớ trước rất tự tin nói với ông chủ: “Ông đã trao cho tôi năm (hai) nén, tôi đã gây lời được năm (hai) nén khác đây”, thì anh đầy tớ lười nhác này lại nói với ông chủ: “Của ông vẫn còn nguyên đây này!”. Anh đầy tớ xấu xa và lười nhác chưa bao giờ coi số vốn đó là như của mình, để rồi anh quan tâm làm cho sinh lợi. Một điều nhỏ nhất anh có thể làm được mà anh cũng bỏ không làm, đó là đem gửi số bạc đó vào ngân hàng để hưởng lợi. Anh đáng khiển trách không phải vì đã làm điều xấu, nhưng vì anh lười biếng không chịu làm gì. Hình phạt cho anh đã rõ ràng và thích đáng: anh bị tước mất một nén bạc được trao phó và bị tống ngục. Ngục giam ở đây được trình bày như một nơi tăm tối và khóc lóc, là nơi thiếu vắng tình yêu. Đó chính là cách diễn hỏa ngục theo niềm tin của Do Thái giáo. Không chỉ chờ đến ngày tận thế hay ngày lâm chung mới thanh toán sổ sách với Chúa, vì Chúa đến không biết vào ngày nào giờ nào. Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta như thế, đồng thời Ngài kêu gọi chúng ta hãy luôn sẵn sàng, đừng mê ngủ, kể cả khi mọi người xung quanh cho rằng yên ổn và an toàn. “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”. Đây là những lời ngọt ngào ông chủ nói với người đầy tớ đã biết khôn ngoan làm cho vốn được trao sinh lợi. Ước chi đây cũng là lời Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta kết thúc hành trình cuộc đời để về gặp gỡ Đấng là Cha và là Cội Nguồn của muôn vật muôn loài.
Vào Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, chúng ta đang tiến gần tới Mùa Vọng, Chúa Giêsu kể 24/11-228
Vào Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, chúng ta đang tiến gần tới Mùa Vọng, Chúa Giêsu kể cho chúng ta một dụ ngôn khác về ngày phán xét.
Câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không : “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.
Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoanh nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể chủ nhân của anh không quay trở lại, hoặc như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm.
Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy những môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa gửi đến mỗi người chúng ta lời khuyên về cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.
Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26) diễn tả nỗi sợ sự rủi ro là thứ đã bóp nghẹt sự sáng tạo và sự phong nhiêu của tình yêu. Vì nỗi sợ rủi ro trong tình yêu sẽ bóp nghẹt chúng ta. Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân.
Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Chúa không chú ý tới số lượng ơn ban, mà chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x.Mt 25, 21.23). Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Câu Chúa Giêsu nói : “Người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi” (Mt 25,29), rõ ràng không phải là một câu châm ngôn về tiêu dùng. Nó chỉ có thể được hiểu ở mức độ của tình yêu và lòng quảng đại. Và quả thật, nếu chúng ta tương xứng với những món quà tin cậy của Thiên Chúa trong sự giúp đỡ của Ngài, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm rằng, Ngài là Đấng ban phát nhiều hơn điều chúng ta ao ước cầu xin.
Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. Dụ ngôn này khuyến khích chúng ta không được che giấu niềm tin và sự thuộc về Chúa Kitô của chúng ta, không được chôn vùi Lời Chúa, nhưng phải để nó lan truyền trong đời sống của chúng ta. Phải làm như thế. Phải làm cho những tài năng, những món quà, những ân ban mà Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta, đến được với tha nhân, lớn lên, và kết trái, cùng với chứng tá của chúng ta.
Ông chủ nói với người đầy tớ : “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)
Đừng nghĩ đơn giản rằng ơn Chúa ban chỉ là những tài năng, sức khoẻ và những điều kiện xem ra thuận lợi theo cái nhìn của con người. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng nói “Tất cả là hồng ân”. Như thế, nén bạc Chúa trao còn là : thời giờ ; môi trường ta đang sống ; những chung sống với ta v.v….
Chúng ta hãy cầu xin Chúa trợ giúp để mỗi người biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao, trung thành với ơn Chúa qua những bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến, với tất cả nhiệt tâm. Amen.
Trên con đường về với Chúa, những nén bạc Chúa trao là những khả năng để đáp lại tiếng Chúa 24/11-229
Trên con đường về với Chúa, những nén bạc Chúa trao là những khả năng để đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Với một đòi hỏi: “Ai được giao nhiều sẽ bị đòi nhiều” (Lc 12, 47), để suy nghĩ về những nén bạc.
Đôi khi, giống như hai người lữ hành trên đường Emmau, đi bên cạnh Chúa, chỉ nghe như những câu chuyện dọc đường. Thấy ấm lòng, nhưng không mặn mà tha thiết. Như người có một nén chẳng đầu tư vào đâu được cả, giữ lấy bên mình. Hành trình có lẽ xa và mệt nhọc, dù chặng đường không xa. Giống như cuộc đời kéo dài lê thê trong đau khổ và buồn chán. Những chặng đường chiều vàng cuộc đời mà chưa tìm kiếm được gì, tay vẫn trống không, lòng vẫn trĩu nặng. Xin Chúa tỏ hiện mỗi khi lòng chúng con trĩu nặng vì buồn chán khi chưa tìm được chính Chúa!
Đôi khi hành trình cũng giống như người thất vọng khi thất bại sau những ngày đầu tư. Trở về với nghề đánh cá cũ khi khởi nghiệp thất bại. Vẫn không đánh bắt được gì sau những đêm miệt mài đánh lưới. Đói khổ, buồn nản, kiệt sức vì mòn mỏi, bao lần bỏ vốn, bao lần mất cả. Xin Chúa ban lại niềm tin đã bị xói mòn sau những lần ngã quỵ, thất vọng!
Đôi khi đồng bạc Chúa trao lại bị cướp mất. Kẻ cướp vẫn ngạo mạn xây những biệt phủ từ đồng tiền lấy được từ sức lao động người khác. Những con người làm ra được những nén bạc khác, không đủ sống và đối mặt nhiều thử thách bất công, bóc lột, sống tạm, ăn tạm những thực phẩm nhiễm độc… Nén bạc Chúa trao làm ra được đã khó, nhưng lại bị tước đoạt trước khi đem về trình diện. Những nén bạc đau thương! Xin Chúa là Đấng đã từng bị tước đoạt cho chúng con không bị tước đoạt mất Chúa.
Đôi khi những nén bạc lại như người con hoang đàng đem đi tiêu xài phung phí. Những nén bạc đánh đổi những niềm vui phù phiếm, giả tạo. Trắng tay rồi mới thấy tiếc nuối và bắt đầu lại từ chốn khốn cùng. Xin Chúa thứ tha những lầm lỗi để chúng con trở về với lòng Chúa xót thương!
Đôi khi không cần nén bạc nào vẫn tìm được những nén bạc khác. Như Giuđa bán Chúa lấy ba mươi đồng bạc. Có những đồng tiền kiếm được khi bán đứng người anh chị em, những đồng bạc kiếm được qua việc làm gian dối, chế biến thực phẩm bẩn, làm hàng giả… Xin cho chúng con biết làm những việc chân chính phuc vụ Chúa qua anh chị em!
Đôi khi những nén bạc được trao vào những người biết sinh lợi và giữ được nó trong sạch, không nhiễm bẩn. Những nén bạc quý giá đem về dâng Chúa thật quý giá. Những nén bặc mua được Nước Trời, mua được hạnh phúc đời này và đời sau. Làm sao tìm được những nén bạc đó? Cần có Chúa, cần có cố gắng sống với Chúa, bên Chúa và sống với anh chị em thân tình như Chúa yêu thương.
Xin dạy chúng con làm lợi được những nén bạc mà Chúa đã trao, một cách chân chính và ngay thẳng, xây dựng được tình người, làm cho xã hội công bằng hơn, xứng đáng đem về dâng Chúa.
Đứng trước một cơ hội, con người thường có hai cách chọn lựa: hoặc là mau mắn chớp lấy cơ 24/11-230
Đứng trước một cơ hội, con người thường có hai cách chọn lựa: hoặc là mau mắn chớp lấy cơ hội, hoặc là lo sợ mình không thể nào hoàn thành được nên từ chối cơ hội. Hôm nay, Thầy Giêsu kể về dụ ngôn những yến bạc. Những ai cật lực làm việc, biết sinh lời những nén bạc Chúa ban sẽ được hưởng niềm vui, hạnh phúc; còn kẻ nào biếng nhác, lo sợ mà chôn dấu yến bạc sẽ phải trả lẽ.
Ta lững thững trên con đường quen thuộc mỗi ngày. Ta không được vui, thậm chí là thất vọng về chính mình khi đã thất bại. “Đổ gãy”, đó là tình trạng hiện tại của ta. Chiều buồn, tiếng chuông nhà thờ ngân vang hối thúc tâm hồn ta tìm lại niềm vui, sự an bình cho tâm hồn. Tiếng chuông hay tiếng Chúa gọi ta tìm về, để nhận ra chính mình và dám đứng lên, bắt đầu lại? Tiếng chuông đã dứt rồi nhưng trong tâm hồn ta vẫn vọng mãi một tiếng gọi mời tha thiết: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 28-29).
Vào gặp Chúa nơi ngôi nhà nguyện ấm cúng, ánh đèn chầu cho ta nhìn rõ hơn ngôi Nhà Tạm. Ta thủ thỉ cùng Chúa Giêsu Thánh Thể: “Xin ngự đến tâm hồn con! Lạy Chúa! Xin lấy tình yêu bao la của Chúa mà khỏa lấp lỗi lầm con đã phạm. Xin tăng thêm nghị lực cho tâm hồn con. Vâng, con đã thất bại.”
Lần mở trang Tin Mừng, Lời Chúa là dụ ngôn những yến bạc. Ta đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi lần lại đọc chậm rãi hơn. Có ba người đầy tớ được ông chủ giao cho những yến bạc, tùy vào khả năng riêng của mỗi người. Họ đã có cách hành xử khác nhau khi sử dụng những yến bạc chủ trao. Người đã lãnh năm yến và người lãnh hai yến đều mau mắn đem số bạc đi làm ăn buôn bán và đã gây lời được một số tiền khác; còn người lãnh một yến suy trước tính sau rồi lo sợ nên chôn dấu số bạc ấy đi. Ta là ai trong hai hạng người ấy? Vì sao ta thất bại để rồi thấy mình như đã bị “đổ gãy”? Người đầy tớ dại khờ trong dụ ngôn không còn cơ hội để làm lại từ đầu. Còn ta thì sao? Chúa vẫn ban cho ta có cơ hội đứng lên để bắt đầu lại. Người mời ta hãy nhận ra những ân huệ ta được nhận lãnh nhưng không. Đó là thời gian, sức khỏe, tri thức, nhận thức,…và còn nhiều ân huệ khác nữa mà ta phải khám phá để gắng sức sinh lời.
Chúa vẫn yêu ta nhiều lắm nhưng tại sao ta vẫn còn phạm tội? Suốt một thời gian dài như thế, ta thấy thất vọng về chính mình. Ta đã chẳng xứng đáng với tình yêu Chúa ban. Nghĩ thế rồi, ta cứ mãi lo sợ về những tội đã phạm và vì nghĩ mình không có khả năng khắc phục, ta từ chối tình thương của Chúa. Chẳng phải là trong chính lúc ấy, ta đem số bạc Chúa ban mà chôn xuống đất đi đó sao. Ta không xứng đáng với tình yêu Chúa ban, điều đó quả là một sự thật hiển nhiên. Chúa thì yêu thương vô cùng, cao cả vô cùng, còn ta chỉ là một tội nhân. Nhưng lạ lắm, có một cô gái điếm kia đã cúi mình dưới chân Chúa mà khóc. Chị ấy chẳng có gì khác ngoài tình yêu để dâng Chúa. Người ta khinh thường chị, hắt hủi chị và loại trừ chị nhưng Thầy Giêsu không làm thế. Thầy biết rõ tình trạng của chị và Thầy đã tha thứ cho chị vì chị đã yêu mến nhiều. Chị yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. (x. Lc 7, 36-50).
Có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện. Người Pharisêu thì đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi (Lc 18, 11-13). Phải rồi, Thầy Giêsu vẫn dạy ta hãy học với Thầy sự hiền lành và khiêm nhường. Dù ta bất xứng nhưng Chúa yêu thương những ai biết quay trở về với tình thương xót của Chúa. Nhìn lên Chúa Giêsu Thánh Thể, ta thấy lòng mình được bình an hơn. Thầy Giêsu yêu thương những kẻ tội lỗi có lòng sám hối ăn ăn. Kiêu ngạo chỉ dẫn ta đi xa rời tình thương của Chúa.
Lạy Chúa! Những nén bạc Chúa đã trao vào tay con là hồng ân nhưng không. Xin Chúa cho con biết nhận ra những ân huệ Chúa ban cho con và giúp con gắng sức sinh lời. Xin Chúa vực con lên để con vươn mình đứng dậy, để con không quá thất vọng khi gặp thất bại, không kiêu căng tự mãn khi được thành công. Xin cho con hiểu rằng, chính những giới hạn nơi bản thân con cũng là một cơ hội để con biết cậy dựa vào tình thương Chúa nhiều hơn. Amen. ----------------------------------
Da vàng bất khuất vững tin cậy Chúa, Máu đỏ hào hùng hằng mến yêu Ngài. Tình liên quan Tim 24/11-231
Da vàng bất khuất vững tin cậy Chúa, Máu đỏ hào hùng hằng mến yêu Ngài
Tình liên quan Tim, Tim liên quan Máu. Cái trừu tượng (tình) mà lại không thể tách rời cái cụ thể (tim và máu). Thật kỳ diệu!
Máu là chất lỏng bình thường mà khác thường. Bình thường vì vì máu chỉ là một trong các loại chất lỏng, khác thường vì máu giúp duy trì sự sống. Người ta có Ngân Hàng Máu, và rất cần những người hiến máu. Những Giọt Hồng bình thường đó trở thành những Giọt Tình, trao tặng sự sống cho người khác. Thật đẹp biết bao!
Với ý nghĩa đó, tục ngữ Việt Nam có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Máu duy trì sự sống bằng cách không ngừng từ Trái Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống – chuyển giao đi khắp cơ thể. Máu có vài loại máu, nhưng chung quy vẫn là sự sống. Tim còn đập là còn sự sống, tim ngừng đập là chết. Máu có màu đỏ tươi, màu của Tình Yêu Thương. Sự Sống và Yêu Thương chính là hiện thân của Thiên Chúa – Đấng là Nguồn Sống và Tình Yêu.
Y học cho chúng ta biết rằng có khoảng 46 nhóm khác nhau, nhưng những nhóm chính là O, A, B, AB và yếu tố Rhesus (Rh, có Rh+ và Rh-). Trong đó, máu O có thể cho bất cứ loại máu nào nhưng chỉ nhận cùng loại máu; còn máu AB có thể tiếp nhận mọi loại máu. Vì những lý do chưa được khám phá, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Một nhóm máu hoàn chỉnh có thể bao gồm một bộ 30 chất trên bề mặt của các RBC (red blood cell – hồng cầu), và một nhóm máu của cá thể là một trong những sự kết hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số 30 nhóm máu, có hơn 600 chất kháng nguyên (phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, sản sinh kháng thể) nhóm máu khác nhau đã được phát hiện, nhưng đa số trong chúng rất hiếm hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhât định.
Chắc chắn rằng sự sống rất quý giá, nhưng mỗi người chỉ có một cuộc đời, một lần sống, hơn thua nhau là biết sống khôn ngoan hay không. Vòng luân hồi chỉ là chuyện “không tưởng” – vừa giả tưởng vừa ảo tưởng. Cuộc sống không quan trọng ở chiều dài mà quan trọng ở chiều sâu. Ai cũng chỉ có một cuộc đời nhưng số phận có thể khác nhau, Kinh Thánh phân biệt số phận của người công chính và số phận của phường vô đạo.
Ai cũng chỉ có một lần sống, và tất nhiên cũng chỉ có một lần chết. Phải sống sao cho có ý nghĩa thì cũng phải chết sao cho hợp lý. Có điều rất lạ: Trong Nhóm Mười Hai có đến 10 vị Tông Đồ tử đạo, chấp nhận máu đổ ra để minh chứng Đức Tin, trừ người-môn-đệ-Chúa-yêu là Gioan và tông đồ phản bội là Giuđa Ítcariốt. Cái chết oanh liệt đó là Mối Phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10).
Chính Chúa Giêsu còn nói thêm để tái xác định và chứng minh: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11-12).
Thời gian bị bách hại, Giáo hội tại Việt Nam vẫn như đứa trẻ mới thôi nôi, còn nhỏ bé nhưng kiên cường bất khuất trước bạo quyền. Trải dài khoảng 300 năm, qua sáu triều vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức, Giáo hội tại Việt Nam bị bách hại triệt để, nhưng hơn một trăm ngàn người đã minh chức hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn mạnh. Tiền nhân của chúng ta chịu tra tấn đủ kiểu – nào là “bào cách” (trói vào cột lửa cho đến chết), nào là “tẫn hình” (cắt xương bánh chè), nào là “xử giảo” (treo cổ), nào là “lăng trì” (tùng xẻo, lóc thịt theo tiếng cồng chiêng), và còn nhiều cách khác như xỏ mũi, xâu tai, phanh thây, voi giày, ngựa xéo,…
Những người thủ ác dụ đủ chiêu, nói rằng cứ giả vờ bước qua Thánh Giá, nhưng tiền nhân dứt khoát không giả vờ. Họ còn dụ rằng ông Phêrô chối Chúa ba lần mà còn được chọn làm trưởng Hội Thánh, nhưng tiền nhân cũng không xiêu lòng. Đó là bài học sống đức tin cho chúng ta hôm nay: Đặt mình trước Thánh Giá và quyết tâm chọn lựa dứt khoát như Thánh Phaolô: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6:14).
Thật vui mừng vì ngày nay người ta đã bắt đầu yêu quý sự sống, điều này được thể hiện qua chương trình Hiến Máu Nhân Đạo. Đó là tín hiệu tốt. Hoạt động này thực sự đáng trân trọng. Hiến máu có hai cái lợi: Một là cứu sống người, hai là chính mình được thay máu mới và sẽ tránh béo phì, sức khỏe sẽ tốt hơn. CHO mà KHÔNG HẾT, càng CHO càng có LỢI. Thật tuyệt vời!
Theo lịch sử, từ thế kỷ 17 tới 19, Việt Nam theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua là thiên tử (con trời) nên có toàn quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Nho giáo quan niệm như vậy. Vua cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết, ai không chết là bất trung. Các vị Tử đạo Việt Nam đã giới thiệu một nền dân chủ trong đó người dân làm chủ đất nước, vua chỉ là người đại diện Thiên Chúa điều hành đất nước mà thôi, và mọi người đều là anh em với nhau, theo kiểu nói “huynh đệ chi binh”. Không ai có quyền sát nhân vì Thiên Chúa là Chủ nhân của sự sống, nhưng chính Đức Giêsu đã chết cho nhân loại, dù Ngài là Thiên tử. Quan nhất thời, dân vạn đại. Chính phủ nào không vì dân thì không thể tồn tại. Dân làm chủ đất nước chứ không phải vua chúa hoặc tổng thống, chính quyền. Thế nên các thánh nhân đã can đảm chết cho giá trị của Nền Dân Chủ cao quý để bảo vệ Chân Lý và Công Lý.
Vào thời kỳ đó, xã hội Việt Nam theo chế độ đa thê: “Trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Nho giáo quan niệm là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một con trai kể là có, mười con gái kể là không), phận nữ nhi thiệt thòi quá! Còn nữa, vua chúa thời đó thích ai thì có quyền “bắt” về làm thiếp. Cô gái nào “bị lọt vào mắt xanh” của nhà vua thì coi như chôn vùi cuộc đời nơi cung cấm. Chế độ quân chủ thật ích kỷ, tham lam và tàn nhẫn! Các thánh nhân đã giới thiệu chân giá trị của Tin Mừng là “một vợ, một chồng” và chung thuỷ trọn vẹn suốt đời theo lệnh truyền của Đức Kitô (Mt 19:6; Mc 10:9). Các thánh nhân thẳng thắn giới thiệu giá trị của sự bình đẳng nam nữ, tất cả đều do Chúa dựng nên với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền – nghĩa là không ai hơn ai, hoàn toàn bình đẳng.
Một sự thật minh nhiên là chính người Công giáo “sáng chế” ra chữ Quốc Ngữ, ông tổ là Lm Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ, sinh 15-3-1591, mất 5-11-1660), nhà truyền giáo người Pháp, Dòng Tên. Gia Định Báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất hiện tại miền Nam Việt Nam vào năm 1865. Thời đó, lý lịch ai là Công giáo ghi trong sổ dân đinh thì sẽ gặp đủ chuyện rắc rối, không được học hành, thi cử, buôn bán… và còn bị thích hai chữ “tả đạo” trên trán. Thế nhưng người Công giáo vẫn không sợ gì. Khi khó khăn quá, họ trốn vào núi rừng sâu thẳm như ở Trà Kiệu, La Vang,… và tìm cách mưu sinh qua ngày. Gay go nhất là thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Thời kỳ đó đã có hàng trăm ngàn vị tử đạo. Người Công giáo ở cả miền Bắc và miền Trung đều bị bách hại đủ kiểu, vì thế họ đã tìm cách di cư vào Nam để có thể tự do tôn thờ Thiên Chúa, nhiều nhất là hồi tháng 7-1954.
Ai theo Đức Kitô đều bị người ta ghen ghét, đúng như Ngài đã nói trước: “Người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy” (Mt 24:9; Mc 13:9; Lc 21:12). Mỗi thời có kiểu bách hại riêng, càng ngày càng tinh vi hơn. Thời Cựu ước, sách Ma-ca-bê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm.
Thật tuyệt vời vì bà mẹ này là người rất đáng khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Chính mắt bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chỉ là lời lẽ của một phụ nữ, nhưng lại đầy chí khí nam nhi khi bà khuyến khích từng đứa con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mcb 7:22-23). Lý lẽ đầy xác tín và tràn trề hy vọng, không hề ảo tưởng. Những người không có niềm tin Kitô giáo chắc hẳn cho ai hành động như vậy là ngu xuẩn, là điên rồ.
Sau đó, bà mẹ này nghiêng mình về phía con trai, vẫn hiên ngang chế nhạo tên bạo chúa, và âu yếm nói với con trai: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (2 Mcb 7:27-29). Là nữ nhi, phận liễu yếu đào tơ, nhưng đức tin của bà rất vững vàng!
Ôi, những lời lẽ của bà chứa đầy kiến thức Kitô giáo và tràn đầy Thần Khí. Bà phân tích giản dị nhưng mạch lạc, với lý lẽ cứng rắn và rạch ròi. Thật đáng khâm phục một nữ nhi mà có tấm lòng rắn như thép. Hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam cũng đã từng không “tham sanh, úy tử”, không chịu “giá áo, túi cơm”, không hèn nhát trước những ác nhân, mà vẫn hiên ngang làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô đến giọt máu cuối cùng!
Bao giờ cũng thế, các tôi trung luôn đặt trọn niềm vui và hy vọng vào Thiên Chúa, hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Họ đã THEO ĐẠO và cương quyết GIỮ ĐẠO, đặc biệt là can đảm SỐNG ĐẠO dù bị cấm cản đủ cách. Chuyện tất yếu như một quy-luật-muôn-thuở: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5). Chắc chắn là vậy. Các vị tử đạo đã “nhìn thấy” phía sau những gì đang xảy ra với chính mình trong giây phút hiện tại: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:6). Hy vọng của họ bừng sáng mà không ai hoặc không gì có thể dập tắt!
Với kinh nghiệm dày dạn của bản thân, Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh” (Rm 8:31-36). Theo tầm-nhìn-thế-gian, gian truân và nguy hiểm là những chướng ngại vật phải tránh cho xa, càng tránh được nhiều thì càng tốt. Nhưng theo tầm-nhìn-Kitô-giáo, những thứ đó không là chướng ngại vật mà là “đòn bẩy” đưa người ta lên cao vút, tới tận nơi Thiên Chúa ngự.
Tiếp tục giải thích, Thánh Phaolô cho biết: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:37-39). Thật đúng như vậy, đơn giản như đôi nam nữ yêu nhau, cha mẹ càng cấm thì họ càng yêu nhau mãnh liệt. Có những người “yếu bóng vía” và không có niềm tin Kitô nên họ đã tự tử. Tuy nhiên, người thất tình là người yêu mạnh lắm. Và thật lạ, đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp) đã nhắn nhủ: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa. Chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Chỉ có những người yêu thật mới khả dĩ hiểu nổi, không thì sẽ cho là “bị chạm thần kinh” ở cấp độ nặng!
Như chúng ta biết, thời nào cũng có bách hại tôn giáo, chỉ khác ở cách thức và mức độ. Ngày xưa, Đức Giêsu đã tiên báo những cuộc bách hại: “Hãy COI CHỪNG người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10:17-18). Ngài biết chúng ta sẽ lo lắng nên Ngài căn dặn: “Khi người ta nộp anh em thì anh em ĐỪNG LO phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, KHÔNG PHẢI chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10:17-20). Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi người. Một sự thật vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, và chỉ những ai có đức tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được điều này.
Tất cả những người yêu mến Chúa, bất luận nam-phụ-lão-ấu, đều bị chống đối và bị ghét bỏ bằng cách nào đó, không chỉ đối với người ngoài mà đối với cả những người thân và bạn hữu, thậm chí là ngay trong gia đình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:21-22). Máu của các vị tử đạo đúng là Máu Đào thực sự. Đó là những Giọt Tình vô giá!
Khi thấy những chuyện xảy ra như vậy có vẻ lạ lùng, nhưng thực ra cũng chỉ là chuyện bình thường, sự thể vốn dĩ như vậy. Vấn đề là chúng ta có can đảm sống đúng theo lý tưởng Đức Kitô hay không. Đó cũng là một dạng tử đạo: Tử đạo liên lỉ từng ngày trên đường lữ hành trần gian. Tử đạo kiểu nào cũng có cái khó khăn riêng, chẳng có cách tử đạo nào dễ dàng!
Muôn lạy Thiên Chúa là Nguồn Sống, xin giúp con biết duy trì và bảo vệ sự sống mà chính Ngài trao ban. Sự sống là của Ngài, nhưng khi cần thiết, xin giúp con can đảm sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Thánh Danh Ngài.
Vạn lạy chư vị tiền nhân tử đạo của non sông Việt Nam, xin thương nguyện giúp cầu thay, nâng đỡ con trên hành trình đức tin để con luôn sống xứng đáng là tử tôn của các ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
SINH LỜI” là cụm từ “kinh doanh”, bởi vì, kinh doanh chủ đích là kiếm lời, nếu kinh doanh không 24/11-232
“SINH LỜI” là cụm từ “kinh doanh”, bởi vì, kinh doanh chủ đích là kiếm lời, nếu kinh doanh không lời, thì không còn là kinh doanh nữa. Vì thế, mục đích kinh doanh là để kiếm lới, ( ngoài mục đích từ thiện).
Vậy, hôm nay đây, Lời Chúa trong (Mt 25, 14 -30), cũng cho chúng ta một ý niệm “SINH LỜI”, nhưng việc sinh lời nầy là sinh hoa kết trái ơn ích thiêng liêng, chứ không phải là sinh lời vật chất. Đời sống vật chất muốn duy trì, thì cũng phải “kiếm lời”, kiếm lời chân chính, kiếm lời phải chăng. Kiếm lời chân chính là kiếm lời bởi sự lao động của chúng ta, như người ta thường nói : “Có làm thì mới có ăn…”.
Lời Chúa trong ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay cho chúng ta một ý tưởng” Sinh Lời vì Nước Trời”.
Theo đó, Nước Trời là một việc “ SINH LỜI” trên Thiên Quốc. Điều nầy thật hợp lý, bởi vì, không ai “sinh lời” cho chúng ta. Đời sống thiêng liêng, Thiên Chúa ban cho mỗi người, tùy theo nhu cầu và năng lực, nhưng khi được đón nhận phải biết sinh lời tùy theo “số vốn “ đã được nhận lãnh ban đầu.
Tình yêu của Thiên Chúa là ân sủng hằng ngày Chúa ban cho chúng ta, ít nhiều chúng ta được lãnh nhận, không phải so đo, nhưng tùy “Lòng Xót Thương” bởi Thiên Chúa. Mặc nhiên, ai lãnh nhiều thì phải sinh lời nhiều, ai lãnh ít thì sinh lời ít. Thiên Chúa không bao giờ bất công khi giao ít , mà đòi nhiều, cũng như Thiên Chúa không lấy đi số lời mà chúng ta đã sinh lợi. Thiên Chúa luôn cho thêm và đong đầy cách hào phóng cho chúng ta. Vì sự công bằng nơi Thiên Chúa là tuyệt đối, bởi vì “số lời” mà chúng ta làm ra, Thiên Chúa luôn ban thêm cho chúng ta.
Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay tuy dài, nhưng rất dễ hiểu, quy luật công bằng luôn “đòi trả lẽ”. Nếu được đón nhận ân sủng siêu nhiên mà không biết “SINH LỜI”, thì ơn ích ấy không phát sinh hoa trái.
Khởi đi từ Bài Đọc I hôm nay (Cn 31, 10 -13, 19 – 20. 30 -31) chúng ta thấy, gương người phụ nữ nhân đức, chăm lo công việc gia đình thật là chỉnh chu, quán xuyến tươm tất. Hình ảnh người vợ hiền đức không phải nói lên nghĩa đen mà thôi, song nó còn miêu tả được hình ảnh “ Người Mẹ hiền Giáo Hội”, hằng ngày quán xuyến việc gia đình một cách chu đao. Như vậy, Giáo Hội được mệnh danh là Mẹ hiền, có nghĩa là như người phụ nữ giỏi giang chăm lo việc gia đình, măc nhiên người phụ nữ nầy phải hiền đức, chăm sóc , quản cai rất mực hiền lương.
Vậy, GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM được Giáo Hội mừng kinh hôm nay, cho chúng ta điều gì. Chắn chắc không phải là “cái chết” thể xác mà thôi, mà là “SỰ SỐNG BẤT DIỆT”.
Vâng, “Đầu rơi, máu chảy” không phải là yếu tố để “ tôn thờ”, nếu chúng ta tôn thờ việc đầu rơi , máu chảy, thì chúng ta “tôn thờ sự chết”, như vậy không phù hợp với tinh thần Kitô giáo. Vì, Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, mặc nhiên chúng ta phải “TÔN THỜ SỰ SỐNG “ và sống vĩnh hằng.
Thực tế, chúng ta thấy, không phải “thù giết thù”, mà nhiều lúc “ bạn giết bạn”. Như vậy, nếu ở thế gian không có sự Hiện Hữu của Thiên Chúa, thì không có “bạn hữu ”, và như vậy tất không tồn tại sự sống.
Như vậy, nếu việc sống Đạo mà dẫn đến cái chết không thôi, thì chẳng còn ai dám sống Đạo làm gì nữa. Qủa thật, qua cái chết, CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM đang sống Đạo cách phi thường. Bởi vì : “Nếu Hạt Lúa gieo xuống lòng đất không thối đi, không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình…” . Vâng, vì thế “TỬ ĐẠO” là “SINH LỜI” theo Tin Mừng.
Nhưng, việc Tử Đạo của các ngài cũng rất hiếm hoi, không phải ai muốn cũng được, mà là do bởi Thiên Chúa trao ban cho các ngài “Những nén bạc sinh lời”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng giàu lòng xót thương, Xin thương ban cho những ai được lãnh nhận ân sủng bởi Thiên Chúa, thì họ biết siêng năng, can đảm sinh lời hầu mưu ích cho chính họ, để Lời Chúa không mai một đi cách uổng phí, trái lại được sinh lời để muôn đời trông thấy mà ngợi khen Thiên Chúa trên trời. Vì việc sinh lời thiêng liêng không phải Chúa lấy lại, nhưng ban thêm cho họ./. Amen.
Có ai đó nói rằng: “cái quý giá nhất của con người là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần 24/11-233
Có ai đó nói rằng: “cái quý giá nhất của con người là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời; sự nghiệp mang lại hạnh phúc cho loài người”.
Đó là cuộc sống đẹp. Cuộc sống trọn vẹn ý nghĩa sẽ làm cho ta mãn nguyện, hạnh phúc vì mình đạt điều mình mong ước, nắm bắt được điều mình khao khát. Cuộc sống dài hay ngắn không quan trọng. Điều quan trọng là ta sống hiến dâng, sống phục vụ, sống có ích cho tha nhân.
Các thánh tử đạo đã sống đẹp. Cái đẹp đối với cuộc đời các ngài là luôn tín thác vào Chúa. Dù bị hiểu lầm, dù bị đòn roi, dù bị bách hại nhưng vẫn yêu đời, vẫn yêu người. Không oán ghét căm hờn, không giận ghét kẻ gây nên nỗi đau cho mình. Các ngài vẫn thanh thoát hiên ngang ra pháp trường không mang nỗi sợ hãi, không hằn vết hận thù. Các ngài chẳng sợ đòn roi, cực hình. Các ngài có thể đối diện với bách hại mà vẫn bình an là vì các ngài có cái nhìn đức tin, hay có thể nói các ngài có con mắt của niềm tin. Các ngài đã có thể thấy cõi thiên đàng ngay trong cực hình nên chẳng còn gì khiến các ngài hoảng sợ.
Đọc tiểu sử các ngài chúng ta thấy dường như các quan và mọi người đều thấy một điều không thể hiểu được: tại sao mọi khi những tội nhân bị dẫn ra pháp trường xử tử thì run rẩy sợ hãi cùng độ, mà các vị tử đạo lại ung dung hân hoan tiến bước, miệng đọc kinh hay ca hát. Thánh Marrtino Thọ bị đánh đập nhừ tử mình mẩy đầy vết thương, bị ngâm vào lò nước tiểu rồi lôi ra phơi nắng, vậy mà cứ trơ trơ ra không hề sợ hãi, không tức giận, không nổi cáu, không phàn nàn.
Các ngài luôn bình thản trước đớn đau vì các ngài có đủ niềm tin vào Thiên Chúa. Các ngài hiểu được rằng: sự khốn khó đời này chẳng là gì so với phúc thiên đàng đời đời. Niềm tin đó còn giúp các ngài luôn có cái nhìn lạc quan ngay chính trong đau khổ, như thánh Nguyễn Huy Mỹ đã nhìn cái gông cùm thành khăn quấn cổ cho ấm, và những vòng xích thành dây trang sức cho người thêm sang trọng.
«Vai mang bốn điệp tai thêm ấm Xổng xểnh ba vòng cổ lại thanh”.
Từ trong nhà tù, thánh Dũng Lạc đã viết thư ra ngoài khích lệ một linh mục bạn là cha Thực. Cho thấy ngài vẫn an nhiên ngay giữa những nghịch cảnh chao động nhất?
Lòng nhớ bạn nỗi còn vất vả Dạ thương khách chạy chưa yên hàn. Đông qua tiết lại thời xuân tới Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.
Các thánh tử đạo Việt nam luôn sống đẹp lòng Chúa đẹp lòng mọi người vì các ngài đã luyện được con mắt đức tin để thấy Chúa Toàn Năng đang hiện ra với mình mọi nơi mọi lúc đến nỗi thấy Chúa ở ngay bên; Chúa đang hiện diện ngay trong những đau khổ tứ bề để an ủi, động viên và giúp sức cho các ngài vượt qua đỉnh đồi đau thương để tiến tới vinh quang.
Thế nên, mừng các thánh TDVN xin cho chúng ta cũng luyện được con mắt đức tin để chúng ta thấy Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Chúa đang hiện diện qua người nghèo, bệnh tật . .. để mời gọi ta chia sẻ, cứu giúp
Chúa đang hiện diện nơi người đang thất vọng vì làm ăn thua lỗ, vì tình duyên lận đận, vì đời nhiều đắng cay, chúng ta hãy đưa tay ra nâng đỡ.
Chúa cũng đang mời gọi chính chúng ta đón nhận cuộc đời theo thánh ý Chúa. Vì Chúa chúng ta vui lòng đón nhận thánh giá Chúa gửi tới. Thánh giá trong bổn phận khi phải vất vả làm ăn, khi phải phụng dưỡng cha mẹ già, khi phải chịu đựng người bạn đời dở hơi khó tính, khi phải mang trong mình những cơn bệnh hiểm nghèo. . .
Chính con mắt đức tin ấy sẽ giúp chúng ta thấy những đau khổ đời này chẳng đáng là gì so với vinh quang thiên quốc. Chính cái nhìn đức tin ấy giúp chúng ta sống hiến thân từng giây từng phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Vì Chúa mà chúng ta: mỗi ngày chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng và đấu tranh cho Chân lý. Vì Chúa mà chúng ta vui sống trong bổn phận của mình hầu làm chứng nhân ngay chính đời sống thường ngày của mình.
Ước gì chúng ta biết noi gương các thánh tử đạo, dám nói không với tội lỗi, dám làm chứng cho đức tin cho dù bị thiệt thòi, bị hiểu lầm, nhưng phần thưởng thật lớn lao trên trời. Amen.
Hôm nay Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Lịch sử Giáo hội hoàn vũ là những chuỗi ngày bị 24/11-234
Hôm nay Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Lịch sử Giáo hội hoàn vũ là những chuỗi ngày bị bách hại, giữa những bách hại tàn khốc. Giáo hội vẫn luôn lớn mạnh không ngừng, vì “máu của các Thánh tử đạo là hạt giống phát sinh những Kitô hữu”. Lịch sử Giáo hội Việt Nam được viết bằng máu của các thánh tử đạo. Hơn 300 năm phát triển cùng với các cuộc bách hại dưới các thời đại vua Lê Chúa Trịnh, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… Hạt giống Nước Trời cứ phát triển khi được gieo xuống lòng đất. Hơn 130.000 tín hữu đã hy sinh để nói lên lòng trung thành, niềm tin yêu kiên cường đối với Đức Giêsu và Thiên Chúa. Những vị anh hùng tử đạo Việt Nam như hạt lúa gieo vào lòng đất, chết đi, mục nát đi để phát sinh hoa trái làm cho Giáo hội Việt Nam càng ngày càng phát triển và lớn mạnh như lời một linh mục giáo sư đã nói:
“Giáo hội Công giáo ngoài 4 đặc tính duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền còn thêm một đặc tính thứ 5, đó là bị bách hại, càng bị bách hại càng lớn lên. Các bậc tổ tiên đã gieo trong nước mắt và đau thương, nhưng hào hùng và can trường”.
Như thế, chúng ta có thể khẳng định: lịch sử của Giáo hội Việt Nam cũng là lịch sử của những cuộc bách hại. Bắt bớ, bách hại luôn đi liền với ngững kẻ tin nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa, tin nhận Thiên Chúa là Cha, Đấng sáng tạo muôn loài. Các Thánh tử đạo của Giáo hội, 117 vị thánh tử đạo Việt Nam và hàng ngàn hàng vạn vị tiền bối cũng chết vì đạo Chúa. Các ngài đã kiên cường, anh dũng chứng minh niềm tin yêu của mình đối với Đức Giêsu Kitô, bất chấp mọi cực hình, tra tấn dã man, gông cùm, xiềng xích, tù tội, bá đạo, lăng trì hay trảm quyết “Không có gì tách các ngài khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô” (Rm 8, 39).
Lời minh chứng lòng tin yêu về Chúa, được gợi lại trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay: Tin theo Chúa, đi theo Chúa phải trả bằng một giá rất mắc, hy sinh tất cả, hy sinh cả mạng sống mình, là tử đạo. Tử đạo là làm chứng nhân cho Chúa một cách cao đẹp nhất và anh hùng nhất.
Bài đọc I sách Macabê nhắc lại niềm tin trung kiên của người mẹ và 7 người con vào Thiên Chúa: “Thà chết không phạm luật, thà chết không từ khước Thiên Chúa, thà chết không phản bội Thiên Chúa”. Nhà vua cho lý hình hành hạ, hăm dọa, tra tấn tàn nhẫn: cắt lưỡi người anh cả và lột da người anh trước mặt người mẹ và 6 người anh em. Vua nghĩ rằng những hành vi độc ác sẽ làm siêu lòng người mẹ và các em để vi phạm luật, khước từ Thiên Chúa. Nhưng không, người mẹ đã can đảm khuyên các con trung thành với Thiên Chúa: “Chính Đấng tạo hóa sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống… chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi”.
Người mẹ đã tuyên xưng niềm tin một cách tuyệt vời và dũng cảm với những lời khuyên thật thuyết phục như bà đã nói với người con út:
“Con đừng sợ tên đao phủ này, hãy tỏ ra xứng đáng với các anh của con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ”.
Bài đọc 2 trong thơ gởi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy niềm tin trung kiên vào Đức Giêsu Kitô. Với niềm tin vào Đức Kitô, Phaolô bất chấp mọi gian khổ, gươm giáo, tù đầy, miễn là Đức Giêsu Kitô được rao giảng. Ngài đã xác quyết:
“Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8, 31-39).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện cho những người muốn đi theo Chúa. Đi theu Chúa thì phải chấp nhận vác thập giá, từ bỏ mình và phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em.
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Đi theo Chúa Giêsu là chấp nhận bị bách hại, bị tra tấn, bị sỉ nhục, bị tù đầy và bị giết chết như Đức Giêsu Kitô, như người mẹ và 7 người con trong sách Macabê, như Phaolô, như các Thánh tử đạo Việt Nam mà Giáo hội mừng kính và tôn vinh hôm nay.
Cuộc đời Kitô hữu là cuộc hành trình làm chứng nhân cho Đức Kitô, là tử đạo. Nói cách khác, cuộc đời hôm nay đặt chúng ta trước nhiều sự chọn lựa: Đức Kitô, thế gian, danh vọng, địa vị, của cải vật chất… chọn lựa là từ bỏ. Để sống đúng địa vị con Chúa, chúng ta phải từ bỏ những gì là bất chính. Để chu toàn luật Chúa, chúng ta phải từ bỏ những thú vui trần gian, hưởng thụ xác thịt không lành mạnh. Để sống yêu thương bác ái, chúng ta phải biết hy sinh phục vụ mọi người. Để chọn Đức Kitô, chúng ta phải vác thập giá, từ bỏ mình. Nói cụ thể, bước đi theo Đức Giêsu Kitô là chúng ta phải luôn can đảm nói có với Thiên Chúa và nói không với ma quỷ, tội lỗi, thế gian.
Để chọn lựa như thế, cần có ơn khôn ngoan, có ơn Chúa, có sức mạnh của Chúa trợ giúp, chúng ta mới là môn đệ chân chính của Chúa và xứng đáng là con, cháu các thánh anh hunhg tử đạo Việt Nam. Chính sự lựa chọn đó đưa chúng ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
Sách Macabe có kể câu chuyện: Khi ấy, người Hy Lạp đô hộ đất Israel. Họ đem theo tập tục 24/11-235
Sách Macabe có kể câu chuyện: Khi ấy, người Hy Lạp đô hộ đất Israel. Họ đem theo tập tục văn hóa và bắt buộc người Do Thái phải tuân theo các thói quen của người Hy Lạp. Chúng bắt người Do Thái phải ăn thịt cúng cho các thần linh, không được cắt bì cho con trẻ, phải tham dự vào các trò chơi vô luân của người Hy Lạp, bắt người Do Thái phải cúng bái các thần linh Hy Lạp. Trước sự ép buộc nhưng cũng là cơn cám dỗ ngọt ngào hấp dẫn đó, nhiều người Do Thái đã sẵn sàng từ bỏ luật Môsê và các tập tục tiền nhân để hòa vào lối sống của người Hy Lạp. Những ai công khai từ chối niềm tin của cha ông sẽ được nhà vua trọng thưởng. Hôm đó, khi dân chúng bị bắt phải ra quảng trường để công khai tế thần, có một người từ trong đám đông hiên ngang bước ra cúng bái thần linh dân ngoại trước quan lính và đám đông. Nhiều người khác vỗ tay cổ vũ cho tên chối đạo này. Lúc đó, ông Giuđa Macabê cũng có mặt trong đám đông, không thể chịu nổi sự nhục nhã này, ông đã xông ra vung gươm giết chết tên phản đạo đó. Ông tuyên bố với mọi người: Ai trong các ngươi còn trung thành với Thiên Chúa và lề luật thì theo tôi. Trước sự can đảm đó, nhiều người đã theo ông trốn lên núi và lập thành một đội quân khởi nghĩa chống lại người Hy Lạp.
Thưa các bạn, từ xưa đến nay, những người tin vào danh Thiên Chúa ở khắp nơi luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn cấm cách. Có nhiều người đã đầu hàng trước khó khăn vì những lời hứa hẹn bổng lộc của thế gian, nhưng cũng có nhiều người đã mạnh dạn từ chối những cám dỗ mời chào đó, vì trung thành với chọn lựa đức tin của mình.
Ngay từ những ngày đầu thế kỷ XVII khi Tin Mừng được gieo vào mảnh đất Việt Nam, hạt giống này như gặp được mảnh đất tốt nơi tâm hồn cha ông tổ tiên chúng ta và đã nhanh chóng nảy mầm và sinh hoa kết trái. Tuy nhiên cũng liền sau đó, cánh đồng lúa đức tin của Việt Nam còn non trẻ, đã bị những cơn bão bách hại vùi dập suốt ba trăm năm. Trong suốt thời kỳ này, đã có hằng trăm ngàn tín hữu vì trung thành với Chúa và Tin Mừng đã chấp nhận sự nhục mạ, roi đòn, tù đầy, chết chóc. Trong số họ có đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi, từ quan chức đến binh lính, từ dân thường đến quý tộc, từ người giàu đến người nghèo, người bình dân, từ linh mục tu sĩ đến giáo dân, từ người già đến trẻ nhỏ. Các Ngài đã dám từ chối cuộc sống dễ dãi, những lời hứa hẹn giàu sang bổng lộc để chọn trung thành với Chúa Kitô. Trong số hàng trăm ngàn người phải chết vì niềm tin, Giáo Hội đã tôn phong 118 vị tiêu biểu nhất như là gương mẫu cho chúng ta.
Khi nói đến các vị tử đạo, chúng ta thường liên tưởng đến những cực hình các ngài phải chịu và ca tụng sự can đảm của các ngài. Điều đáng khâm phục hơn đó là cuộc chiến đấu của các ngài với bản thân để chọn lựa giữa sự sống và cái chết, giữa đau khổ cực hình và sự sung sướng, giữa dễ dãi và khó khăn. Đọc lại tiểu sử các thánh, có những vị là quan chức trong triều đình, có người làm hương chức trong làng, là chánh tổng của một tỉnh. Chắc chắn các ngài thuộc gia đình danh giá giàu có, nhưng lại chọn giúp các cha thừa sai cũng như giúp các tín hữu khác, dù biết làm như thế là nguy hiểm đến công danh và tính mạng. Có những vị thánh là cha con trong gia đình như cụ Án Khảm, Chánh tổng Phạm Trọng Tả và con là Cai tổng Phạm Trọng Thìn. Gia đình này có nền tảng đời sống đạo đức, họ từ chối bước qua thánh giá, từ chối tất cả những lời hứa hẹn của vua quan, để phải chịu án tử. Có những người là người mẹ trong gia đình như Thánh Annê Thành đã chu toàn việc nuôi dạy con cái khôn lớn theo đạo lý của Chúa và còn làm gương sáng cho con trong việc trung thành với đức tin, chấp nhận roi đòn cực hình vì Chúa Giêsu. Có vị là linh mục như cha Giuse Đặng Đình Viên, khi bị truy đuổi, Ngài đã trốn thoát vào vườn mía. Khi nghe thấy những tên lính tra khảo một em bé, ngài đã sẵn sàng ra khỏi chỗ ẩn nấp để xin quan lính tha cho đứa bé. Khi bị điệu ra trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng định một điều, các ngài không hề cộng tác với giặc, không phản bội tổ quốc, nhưng chỉ vì một lòng mến Chúa và từ chối bước qua thập giá dù có phải chết. Có những vị như Thánh Y đã dõng dạc tuyên bố trước mặt vua quan: Cả một đời tôi rao giảng về đạo thập giá, tôi không thể nào bước qua thập giá hay từ chối Chúa tôi được.
Tin Chúa, theo Chúa là chấp nhận từ bỏ những gì không phù hợp, những gì cản lối chúng ta bước theo Chúa, cho dù đó là tình máu mủ ruột thịt, tiền bạc, địa vị của cải; khi phải chọn lựa giữa sống và chết vì Tin Mừng thì cũng dám chấp nhận. Đó cũng là đòi hỏi Chúa Giêsu đã công bố: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống. Người nào được lời lãi cả thế gian mà đánh mất chính mình và phải thiệt thân thì nào có ích lợi gì. Ai xấu hổ vì tôi và Tin Mừng thì Con Người cũng xấu hổ vì kẻ ấy.
Đây là đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát mà Chúa muốn những người theo Chúa phải chấp nhận. Trải qua dòng thời gian, đã có hàng hàng lớp lớp những con người nhận ra giá trị cao quý của lời mời gọi này. Họ đã đáp lại bằng cả cuộc đời và đánh đổi bằng mạng sống mình để đạt được Nước Trời và giữ được mạng sống cho cuộc sống đời đời. Tổ tiên chúng ta, các anh hùng tử đạo Việt Nam, mặc dù mới biết Chúa tin Chúa, nhưng cũng đã dám từ bỏ tất cả vinh quang lợi lộc trần thế, vác thập giá đời mình bước theo Chúa Giêsu. Các ngài đã dám đánh đổi cả gia đình, sự nghiệp, hạnh phúc ở đời này và mạng sống để mong đạt được hạnh phúc đời đời. Sự can đảm và cái chết anh dũng của các ngài là một lời tuyên xưng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và thập giá của Ngài, là tấm gương cho các thế hệ con cháu và cũng là tấm gương đánh động tâm hồn những người dân ngoại.
Từ chối bước qua thánh giá, từ chối những lời mời gọi hứa hẹn hấp dẫn, từ chối địa vị danh vọng… đó là tấm gương cha ông, các vị tử đạo Việt Nam, đã để lại cho chúng ta. Ngày nay, chúng ta không bị ép bước qua thánh giá, nhưng nhiều người đã nhắm mắt tự nguyện để đạp lên Tin Mừng và lề luật của Chúa. Những người này bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở của Chúa và Tin Mừng, họ sống mà không dám thể hiện mình là người Kitô hữu. Nhiều tín hữa đã không dám từ chối những cám dỗ, mời chào và sự hứa hẹn của thế gian; họ nhắm mắt chạy theo danh lợi, địa vị; họ gạt Chúa và Tin Mừng qua một bên.
Các bậc cha mẹ và bạn trẻ thân mến, ngày xưa, các vị tử đạo đã đổ máu ra để tuyên xưng niềm tin; ngày nay, chúng ta chưa phải đổ máu, nhưng chúng ta phải đổ mồ hôi, đổ nước mắt để sống niềm tin của mình. Giữa một xã hội gian dối, chúng ta được mời gọi để sống ngay thẳng theo công lý và sự thật. Trong xã hội vô cảm dửng dưng này, chúng ta được mời gọi biết chạnh thương và cảm thông, biết mở rộng tay để chia sẻ, biết bước đến để giúp đỡ và phục vụ.
Thay vì tử vì đạo, chúng ta bước vào cuộc “sống vì đạo”. Chúng ta bắt đầu từ nơi gia đình, mỗi thành viên hãy biết từ chối những gì có nguy cơ làm tổn thương và rạn nứt trong gia đình, từ chối những cách làm ăn gian dối, những lối sống bất công. Các thành viên cần gỡ bỏ khoảng cách để bước đến với nhau, làm hòa với nhau và tha thứ cho nhau. Cũng vậy, trong giáo xứ, mỗi người cũng cần biết tôn trọng quyền lợi của người bên cạnh, của xóm giềng, bỏ qua những tự ái và chịu một chút thiệt thòi, để xây dựng đời sống cộng đoàn thêm hiệp thông, hòa thuận yêu thương.
Xin các thánh Tử đạo Việt Nam phù hộ chúng ta là con cháu biết sống vì đạo, sống vì Tin Mừng, vác thập giá theo Chúa trong hoàn cảnh xã hội dễ dãi ngày nay. Amen.
Bắt đầu dụ ngôn những nén bạc, Đức Giêsu nói: “ Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa 24/11-236
Bắt đầu dụ ngôn những nén bạc, Đức Giêsu nói: “ Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải của mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi.” Và “ sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và thanh toán sổ sách với họ.”Trong thời gian ông chủ đi vắng, các đầy tớ đã làm gì với số nén bạc được giao?
Ông chủ ấy là Đấng Tạo Hóa. Ngài ban cho con người những nén bạc về đời sống, trí tuệ, tài năng khác nhau…Hơn ai hết, ông biết rõ khả năng của từng người đầy tớ của mình; vì thế, khi giao của cải cho các đầy tớ, ông đã không giao đồng đều cho mỗi người, nhưng giao tùy khả năng của từng người. Điều quan trọng đối với ông là sự nổ lực của mỗi người tùy theo khả năng của mình.
Những nén bạc mà Thiên Chúa giao cho nhân loạilà Tin Mừng Cứu Độ, là lòng thương xót vô biên, là lòng tha thứ bao dung của Thiên Chúa với con người, là những ân huệ Ngài đã ban cho mỗi người trong cuộc sống, là những năm tháng của cuộc đời mỗi người. Tất cả chúng ta không ai hoàn toàn đồng đều với nhau về mọi mặt. Thiên Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy theo khả năng riêng của mỗi người. Chính nhờ lòng nhiệt tình đáp lại những gì Thiên Chúa đòi hỏi bằng lòng tin yêu Ngài mà những đầy tớ đã được Thiên Chúa khen là đầy tớ tài giỏi và trung thành.
117 vị thánh tử đạo Việt Nam, không phải là những bậc tài trí xuất chúng, cũng không phải là những người giàu sang phú quý, nhưng đều là những người bình thường trong xã hội, là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với tổ quốc và nhân dân, nhưng đã phải chịu tử hình vì không chối bỏ đức tin: Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ, đã chịu trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, vào ngày 23/10/1883 tại Huế, triều vua Minh Mạng.Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu phủ họ Đầu Nước, tỉnh Anh Giang, đã bị bắt và hy sinh vì Chúa tại Châu Đốc, ngày 31/7/1859. Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ công giáo gương mẫu; vì sốt sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo, nên đã bị bắt và chịu nhiều cực hình nên kiệt sức và chết rũ tù ngày 12/7/1841 v.v…Rồi có những giáo xứ ở Quảng Trị, bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Phanrang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống… Những nén bạc đức tin và lòng yêu mến Thiên Chúa nơi các ngài đã sinh lời được năm hay hai nén khác. Đúng như lời Đức Giêsu nói: “ Phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.”
Thời gian ông chủ đi vắng cũng là lúc chúng ta sống cuộc sống của mình ở thế gian này. Đó là nén bạc thời gian của sự sống. Sau một thời gian lâu dài, lúc trở về, ông cho gọi các đầy tớ đến để kết toán sổ sáchcũng là lúc chúng ta lìa cõi thế này để về với Chúa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Thêxalônica đã kêu gọi phải tỉnh thức canh phòng để chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Thức tỉnh canh phòng là phải làm hết sức mình để thưc hiện những chỉ thị của Chúa: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.”( 1 Tx 5:5-6)
Cuộc sống của mỗi người là một quà tặng của Thiên Chúa ban. Chúng ta sinh lợi được bao nhiêu từ những nén bạc cuộc đời của chúng ta để làm quà tặng cho Thiên Chúa hay lại đem chôn giấu đi! Được khen là “ đầy tớ tài giỏi và trung thành” hay bị nguyền rủa là “đầy tớ tội tệ và biếng nhác” là tùy thuộc vào những nổ lực sinh lời từ những nén bạc Tin Mừng Cứu Độ, lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa và những ân huệ Ngài ban bằng đức tin, lòng mến và phục vụ Thiên Chúa và con người.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXXIII/TN-A – Mt 25, 14-30) trình thuật dụ ngôn “Những yến bạc” 24/11-237
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXXIII/TN-A – Mt 25, 14-30) trình thuật dụ ngôn “Những yến bạc”. Dụ ngôn kể câu chuyện ông chủ cấp vốn làm ăn cho những đầy tớ. Vì đã biết rõ khả năng từng người, nên “Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người.” Điều này cho thấy ông chủ không hề bắt ép một ai phải làm việc quá sức của mình. Đến khi ông chủ tính sổ thì kết quả làm ăn của mỗi người mỗi khác (“người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.” – Mt 25, 16-18).
Duy chỉ có tên đầy tớ thứ ba thì đã không chịu làm ăn mà còn đem chôn giấu số bạc; để rồi khi tính sổ thì nói thẳng vào mặt chủ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Điều đó cho thấy ngay từ trong tư tưởng, tên đầy tớ thứ ba đã không tin tưởng vào ông chủ, không những đã lười biếng không chịu làm ăn, mà còn bày tỏ thái độ chống đối lại bằng lời lẽ hỗn xược. Nếu chẳng vậy, ông chủ đã không nặng lời gọi hắn là “đầy tớ tồi tệ và biếng nhác!” Bị án phạt “quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” là điều tất nhiên. Vậy là lại thêm một bằng chứng cụ thể đặt ra cho người tín hữu, đó là vấn đề căn cơ, nền tảng của Ki-tô Giáo: Đức Tin. Nói đến đức tin là phải nói đến mối liên hệ giữa tư tưởng với lời nói (“Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” – Rm 10, 10), đồng thời còn phải làm sao cho lời nói đi đôi với việc làm, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Chúa nhật hôm nay cũng là lễ kính trọng thể các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Hơn ai hết, các ngài đã hiểu rất rõ ràng các ngài hiện diện trên trái đất này chính là một đặc sủng, một quà tặng tuyệt đối vô song Thiên Chúa đã ban tặng, và khi đón nhận ơn gọi Ki-tô hữu chính là lúc các ngài được Người cấp vốn làm ăn. Người có thể gọi các ngài về bất cứ lúc nào để tính sổ coi các ngài đã sử dụng số vốn được trao ấy ra sao. Hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, các Thánh Tử Vì Đạo đã tuyệt đối tin tưởng, sống và hành động hết mình cho lý tưởng mình đã khám phá được với một ý chí sắt đá, dù cho còng trói tay, gươm kề cổ cũng không chùn bước, cuối cùng đã hy sinh cả mạng sống; đó là phẩm hạnh tuyệt hảo của các ngài. Và hôm nay chính là kỷ niệm ngày các ngài được chính thức “hưởng niềm vui của Chủ” nơi cõi phúc trường sinh.
Quả thực, “Một số Ki-tô hữu ngay từ thời sơ khai đã được gọi và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng tình yêu ấy cách hùng hồn trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ bách hại mình. Khi tử vì đạo, người môn đệ đồng hóa với Thầy mình, Ðấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới, và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu; Giáo hội coi việc tử vì đạo đó như một ân huệ lớn lao và một bằng chứng cao cả về đức ái.” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 42). “Đạo“ là con đường, chính con đường Thập Giá (Đạo Thập Giá) là món quà vô giá Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, mà các Thánh Tử Vì Đạo đã sống để được nên “đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Ki-tô”. Chính Thánh Tử Vì Đạo VN Tê-ô-pha-nô Ven đã nói với bọn quan quyền bách hại Đạo Chúa về món quà vô giá (Đạo Thập Giá) đó: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về Đạo Thập Giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hoá đến độ tôi phải bỏ Đạo mà mua?” (Điệp ca Ca vịnh 3, Kinh Chiều II, Lễ kính CTTĐ/VN). Sự sống đời này dù quý hoá tới đâu cũng không thể so sánh với quà tặng Đạo Thập Giá được, đó là điều hiển nhiên.
Càng suy niệm, càng thấy lời dậy của Thánh Phê-rô là xác thực: “Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.” (1Pr 4, 12-14). Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã “thật có phúc”, vì “cùng được vui mừng hoan hỷ” khi “vinh quang của Đức Ki-tô tỏ hiện”. Đó là quà tặng vô giá mà chỉ những người “thật có phúc” mới biết trân trọng chu toàn ý muốn của Người Chủ đã trao tặng. Vì thế, chỉ trong ba thế kỷ (từ thế kỷ XVI tới XIX) đã có trên 130.000 Ki-tô hữu VN vui mừng đón nhận quà tặng (là cây Thập-Tự-Kitô-hữu), kiên cường vác cây thập-giá-đời-mình mà theo Đức Ki-tô, để rồi anh dũng đổ máu ra nhuộm thắm cây Hồng-Thập-Tự. Và trong số ấy, Giáo hội đã tuyên phong 117 vị lên bậc hiển thánh.
Suy niệm bài Tin Mừng thì thấy mọi sự đã rõ ràng: Các Thánh Tử Vì Đạo được cấp vốn, các ngài đã làm ăn sinh lợi đúng như ý muốn của Ông Chủ. Tuy nhiên, khi coi lại bài đọc 1 (Cn 31, 10-13.19-20.30-31), tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Vấn đề chủ yếu trong Thánh lễ CN XXXIII/TN-A (mừng kính các Thánh Tử Vì Đạo VN) thì có liên quan gì tới “Người Vợ Đảm Đang”? Ngay từ Cựu Ước, đã nhiều lần Hội Thánh được mô tả như một phụ nữ hay trinh nữ (2Sm 1, 24; 1V 1, 2-4; Is 16, 1; Is 61, 4-5; Is 62, 11; Dc 2, 14; Hs 2, 12; Xp 3, 14…); sang đến Tân Ước cũng vậy (Mt 21, 5; Mt 25, 1-7; Ga 12, 15; 2 Cr 11, 2; Gl 3, 27…); không những thế, chính Đức Giê-su Thiên Chúa cũng coi Giáo hội là hiền thê của Người. Vì thế, qua bài đọc 1 (trích sách Châm ngôn), Phụng vụ muốn nói với tất cả Giáo hội: hãy cố gắng trở thành người vợ đảm đang, tức là nhiệt tình thi hành tốt sứ mệnh của mình. Nói cách khác, bài sách Châm ngôn muốn nhắc nhở trước hết với những ai có trách nhiệm lãnh đạo từ Giáo hội toàn cầu đến Giáo hội địa phương (Giáo phận, Giáo xứ): Họ phải tỏ ra đảm đang (như người vợ trong gia đình) để cộng đoàn Dân Chúa được hoàn hảo.
Ngoài ra, nếu coi các Thánh Tử Vì Đạo đã kinh doanh với số vốn do Thiên Chúa cấp được lời lãi như vậy, thì cũng chẳng khác gì các ngài là hạt giống tốt được Người Gieo Giống đem gieo và đã trổ sinh “hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.” (Mt 13, 9). Nói cách khác, máu của các Thánh Tử Vì Đạo là hạt giống trổ sinh Giáo hội, nhờ đó, “Giáo hội trong mỗi khúc quanh của lịch sử vẫn bén rễ sâu qua lời chứng của các vị tử vì đạo.” (Tông sắc Mầu nhiệm Nhập thể “Incarnationis Mysterium”, số 13). Và vì thế, “Ðối với các tông đồ và những vị tử vì đạo của Chúa Ki-tô, là những chứng nhân cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo hội luôn tin rằng, các ngài liên kết với chúng ta khắng khít hơn trong Chúa Ki-tô: với lòng yêu mến đặc biệt, Giáo hội tôn kính các ngài cùng Ðức Trinh Nữ Maria và các Thánh Thiên Thần, và sốt sắng nài xin các ngài trợ giúp và cầu bầu cho.” (Hiến chế “Lumen Gentium”, số 50).
Mừng lễ các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam, người Ki-tô hữu phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải noi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào. Nói cách cụ thể, thì người có đức tin phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy (tức là Thần Khí Ðức Ki-tô ở trong bản thân mình) để sống đời sống chứng tá ngay trong môi trường xã hội nơi mình cư ngụ. Để được như vậy, cần phải mang sự chết của Người trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ. Chỉ có như vậy mới đi vào được đường lối của các Thánh Tử vì Đạo và theo các ngài cho đến tận cùng hành trình thực thi sứ vụ làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Ấy cũng bởi vì muốn nên giống các ngài hoàn toàn (để được đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô), thì không những phải biết sống như các ngài mà còn phải biết chết như các ngài. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam).
Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được thành công, may mắn và trở nên hữu ích cho đời 24/11-238
Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được thành công, may mắn và trở nên hữu ích cho đời, cho bản thân, cho người khác. Đối với Kitô hữu sống bình thường, sống để làm giầu, sống bon chen và tất bật suốt ngày để mong có nhiều lợi nhuận.Đó là mối nguy hiểm cho một con người bất toàn bởi vì người yêu mến Chúa chỉ cần một việc hoàn toàn cho Chúa cũng là một mùa bội thu.
Vâng, những bài đọc của những ngày Chúa Nhật cuối năm phụng vụ đều hướng chúng ta về ngày cánh chung. Do đó, các bài đọc, đặc biệt bài Tin Mừng luôn cảnh tỉnh chúng ta về ngày tận cùng của nhân loại, của con người. Tin mừng đưa ra những dụ ngôn như Nước Trời là viên ngọc quý, là bữa tiệc, là mẻ cá, là mười cô trinh nữ, là người quản lý bất lương vv…Tất cả những dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra nhằm đánh thức con người, thức tỉnh con người: ” Hãy sẵn sàng và tỉnh thức “. Con người không biết lúc nào mình chết, nên thái độ con người phải có là khôn ngoan, tỉnh thức và sẵn sàng ra đi khi Chúa mời gọi. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh ba con người. Tất cả ba người này đều được Chúa trao cho vốn liếng tùy theo khả năng của mình. Chúa mời gọi họ hãy chăm chỉ làm việc, làm lợi cho bản thân và đặc biệt cho Chúa. Bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi của con người là phải siêng năng, cần mẫn, tận tụy làm lời số vốn được ông chủ trao phó. Con người không được làm biếng, ngồi im một chỗ, bất động không chịu làm lời. Hành động im lìm, bất động và thái độ lười biếng sẽ bị ông chủ nghĩa là Chúa chê trách:” Đầy tớ vô dụng “ và sẽ bị lấy hết những gì người này đang có, đang thụ đắc vv…Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay là những đầy tớ trung tín, biết chịu khó làm lời những gì Chúa trao sẽ được Ngài trọng thưởng, ban cho nhiều hơn và trao phó thêm những trách nhiệm cao quý khác. Ngược lại, đầy tớ biếng nhác, phán đoán, phân định theo ý của mình sẽ bị lấy đi tất cả và bị quăng vào nơi tối tăm khóc lóc. Sự tương phản ấy cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, sự khôn ngoan của Ngài và Lòng Thương Xót của Ngài đối với những ai biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống của mình.
Đầy tớ nào biết quãng đại, trung tín với chủ sẽ luôn quy hướng con người của mình, hành động của mình, những gì chủ trao cho mình về ông chủ, ngoan ngoãn làm theo ý ông chủ bởi biết rằng ông chủ yêu thương mình, không bao giờ chất gánh nặng trên đôi vai của mình, trái lại đầy tớ vô dụng chỉ biết quy hướng về mình, ích kỷ, ghen tương nên nghĩ sai, phán đoán sai ông chủ nên đã không làm theo ý của ông chủ.
Là môn đệ của Chúa, Chúa trao cho chúng ta những nén bạc nghĩa là ân huệ của Ngài. Chúa ban cho chúng ta trí khôn, tài năng, sức khỏe, những ơn cần thiết tuy nhiên chúng ta đã dùng những nén bạc Chúa trao như những đầy tớ khôn ngoan hay như tên đầy tớ vô dụng ?
Tất cả cho Chúa, tất cả quy hướng về Ngài.Chúng ta sẽ mau mắn vâng lời Ngài, làm lợi cho Ngài, cho bản thân, cho tha nhân mà không ích kỷ, ghen tỵ và làm biếng, ù lì không làm lợi cho Thiên Chúa và mọi người vv…
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những Vị tiền bối đã xây nên Giáo Hội của Chúa ở Việt Nam đúng như nhà sử học Tertullien đã viết: ” Dòng máu của các Thánh Tử Đạo đã làm nẩy sinh các tín hữu “. Xin cho Giáo Hội Việt Nam luôn phát triển không ngừng noi gương các anh hùng Tử Đạo đã can đảm xây dựng Hội Thánh Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con biết nhìn ra muôn vàn hồng ân Chúa đã ban cho chúng con và để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa không ngừng trong mọi hoàn cảnh.Amen.
Gợi ý để chia sẻ:
1. Tại sao người được trao một nén bạc lại đem chôn nén bạc đó ở dưới đất ? 2. Chúa đòi hỏi các đầy tớ phải như thế nào ? 3. Ông chủ ở đây là ai ? 4. Chúa muốn người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào ?
Quá khóa (bước qua Thập Giá), là hình thức chối bỏ niềm tin vào Chúa, chối bỏ đạo thánh của 24/11-239
Quá khóa (bước qua Thập Giá), là hình thức chối bỏ niềm tin vào Chúa, chối bỏ đạo thánh của Ngài mà những vua, quan các thời: Minh Mạng, Tự Đức, Thiệu Trị, Văn Thân…đã dùng để mời, dụ dỗ và áp đặt lên những người Kitô hữu.
Bước qua Thập Giá để bảo toàn mạng sống cho bản thân và gia đình, được hưởng bổng lộc, dễ thăng quan, tiến chức… Ôm lấy Thập Giá, là ôm vào thân sự tù đày, tra tấn, nhục hình, mất hết tài sản, gia đình và cả mạng sống.
Theo lịch sử của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam, trải qua các thời kỳ bách hại đã có trên dưới 400 ngàn người khước từ hình thức quá khóa, họ chấp nhận cảnh tù đầy và đã anh dũng hy sinh mạng sống để bảo vệ và minh chứng niềm tin vào Đức Kitô.
Trong tổng số 400 ngàn con ngưới ấy, Giáo Hội đã tôn phong 117 người lên bậc Hiển Thánh. Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội tại Việt Nam đã gọi các ngài là: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Các ngài được mừng kính trọng thể vào ngày 24/11 hằng năm.
Ngày xưa, thời Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc Tiền Nhân của chúng ta. Để bảo vệ và minh chứng Đức Tin, các ngài đã phải chịu bao đau khổ trong lao tù, chịu tra tấn, và đón nhận hành hình qua nhiều hình thức: Lăng trì, tùng xèo, voi dày, ngựa xé, chém đầu…
Thời ấy, cũng không ít người vì quá sợ hãi, ham sống sợ chết, ham muốn lợi lộc thế gian, họ đã chối bỏ Chúa, chối bỏ Đức Tin, khi bước qua Thập Giá.
Thời ấy, chắc không ít người dùng tiền của mua chuộc quan quân để sống Đức Tin và không phải chịu hình thức “Quá Khóa”.
Ngày nay, tưởng chừng như hình thức “Quá Khóa” không còn và không có. Nhưng, thực tế, hình thức “Quá Khóa” luôn diễn ra hằng ngày và từng giờ đối với ta là người Kitô hữu.
Có điều, hình thức “Quá Khóa” thời nay rất nhẹ nhàng, rất ngọt ngào, và được tô vẽ bằng những gam màu bắt mắt. Vì thế, mà đôi khi ta thực hiện hành vi “Quá Khóa”, nhưng không hề hay biết. Đôi khi, chính ta đã tạo và dụ dỗ anh em “Quá Khóa”, dùng tài trí và tiền của để mua lấy hình thức “Quá Khóa”.
Vô tình, cố ý “Quá Khóa”; tạo và dụ dỗ anh em “Quá Khóa”; sử dụng tài trí, tiền của mua hình thức”Quá Khóa” là sao và nghĩa là gì? Xin thưa:
– Là người Kitô hữu, nếu như ta sống trái ngược Tin Mừng, thờ ơ với Lời Chúa, thánh lễ, nguyện cầu; sống theo chủ nghĩa: Hiện sinh, hưởng thụ, tương đối, vô thần…của thế gian. Cách sống ấy đã đưa đẩy ta vào tình trạng vô tình, hoặc cố ý “Quá Khóa”.
– Tạo gương mù, gương xấu; nói xấu, bài bác, bất tuân phục Giáo Hội; Coi trọng việc trau dồi tri thức đời, xem nhẹ việc hướng dẫn, đôn đốc học hỏi Giáo Lý và Lời Chúa của đàn con, cháu nơi gia đình, khi ta là cha mẹ, ông bà… Đây là hình thức ta áp đặt và dụ dỗ người khác “Quá Khóa”.
– Kê khai không tôn giáo trên lý lịch, đơn xin việc, học tập để được thăng quan tiến chức; dùng tiền của minh chứng việc kê khai để đạt, đoạt địa vị, công việc, nơi học tập…; dùng tiền để du học, làm việc những nơi ít và không có môi trường sinh hoạt của Giáo Hội Công Giáo, kết hôn giả để được định cư ở nước ngoài… Đây là hình thức bỏ tiền của mua lấy sự “Quá Khóa”.
Mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, hiệp cùng toàn thể Giáo Hội, chúng ta cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban tặng những tấm gương kiên trung, can đảm trong việc sống, giữ và minh chúng niềm tin vào Đức Kitô bằng đời sống và mạng sống.
Là hậu thế, là con cháu của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chúng ta tri ân các ngài đã vun tưới hạt mầm Đức Tin, Tin Mừng bằng máu và mạng sống của các ngài.
Cách sống theo Tin Mừng, dấn thấn trong sứ vụ Loan Báo Tin Mừng, cộng tác với Giáo Hội mọi việc và mọi sự; chấp nhận Tử Đạo hằng ngày là cách sống:” Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây, ăn cây nào, rào cây ấy”, là cách đáp trả nghĩa ân của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, khi chúng ta là con Chúa, là thành viên trong gia đình Giáo Hội.
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Xin Chúa thương giúp chúng con học và noi gương các ngài trong sứ vụ chứng nhân mà Chúa đã ban tặng nhưng không cho chúng con. Amen.
Nghĩa cử anh hùng Tử Đạo “ không phải chỉ có ở Nước Việt Nam, mà hầu như tất cả các Nước 24/11-240
“ Nghĩa cử anh hùng Tử Đạo “ không phải chỉ có ở Nước Việt Nam, mà hầu như tất cả các Nước trên thế giới. Thời Cựu Ứơc, sách Macabe là Đoạn sách trình thuật việc Tử Đạo vô cùng can đảm và trung trinh, biểu lộ sự trung kiên đối với chân lý là Thiên Chúa, bởi một tình yêu chung thủy sắt son của loài thụ tạo đối với Đấng Tạo Thành, mà một người mẹ và bảy người con mà sách Macabe thuật lại.
Vâng, hun đúc từ Thánh Kinh, đến thời Tân Ứơc Vị Tử Đạo đầu tiên để đem lại ƠN CỨU ĐỘ cho nhân loại, Đức Giêsu- Kitô, Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất thiết phải duy trì địa vị ngan hàng với Thiên Chúa, đã hạ mình cho đến chết và chết trên Thập giá, để đổ Máu ra cứu chuộc thế nhân.
Vì thế, muôn thế hệ, những ai bước theo Đức Kitô đều sẵn sàng mang trong mình “ Hạt Giống Tử Đạo”. Bởi vì “ Hạt Giống Đức Tin” là “Hạt Giống Tử Đạo”. Vâng, dấu ấn Đức Tin bản thân là “Dấu Ấn Tử Đạo”. Tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, Bởi vì là :”Đức Kitô là Đầu, là Trưởng Tử của những ai đã an giấc ngàn thu, Người đã chết và sống lại hiển vinh, thì những ai tin vào Người, cũng sẽ được sống lại như vậy ngày sau hết”.
Vâng, vì tin như vậy, tất cả những ai đã được đóng ấn bởi Đức Kitô đều mang sứ vụ “ chứng nhân” cho Người. Vì, Đức Giêsu- Kitô là Đấng đã “chết vì lẽ công chính – sống vì tình yêu Thiên Chúa”. Vâng, tất cả Các Chứng Nhân Anh Hùng Tử Đạo đều có chung một nhiệt huyết ấy. Không phải để “hiếu chiến “, “ gấy chiến” như những “ luận điệu” không tốt, mà là vì “ TÌNH YÊU đáp trả TÌNH YÊU “. Đó là gương các Anh Hùng Tử Đạo mọi thời, các bậc tiền nhân Tử Đạo trung kiên , vạn lần oanh liệt mà Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kình hằng năm và chọn làm Bổn Mạng Giao Hội Công Giao Việt Nam , không nằm ngoài chân lý ấy.
Mỗi gương Tử Đạo của mỗi Vị thánh khác nhau, có thể nói không trường hợp nào giống trường hợp nào, trải dài thời gian suốt ba trăm năm, một thời gian khá dài. Các vị truyền giáo, hoặc các vị trong nước, nam , phụ , lão , ấu, giáo sĩ, giáo dân, thấy giảng hay người nhà quê, lao động, thợ thuyền, hay binh sĩ, thương nhân. Diễn biến không phải trong thời gian “gang tấc” mà là kéo dài suốt ba thế kỷ. Không phải người nầy bắt chước người kia, mà là một “ niền tin sắt son” chung thủy. Không phải là yếu tố chính trị hay tiền tài, nhưng bị” hiểu lầm” là” gian tặc”, hoặc “tiếp tay” cho ngoại bang xâm lấn bờ cõi.
Trang sử oai hùng của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam được viết lên bằng “ Máu “ cuả các thánh Tử Đạo, nhưng, không hề mang thù hận. Vâng, đây là điều “ mấu chốt”,vì “Máu của các thánh Tử Đao là Hạt giống nảy sinh người Kitô hữu”. Như vậy, “ Máu của các thánh Tử Đạo là Máu của những người chết vì lẽ công chính, nhưng sống cho tình yêu Thiên Chúa“. Như vậy, mặc nhiên không có “thù hận “ vì , chết cho tình yêu tức sự tha thứ. Chúng ta thấy, mặc nhiên trên khắp thế giới, Giáo Hội Công Giáo, trải qua bao nhiêu thế hệ, không bao giờ đòi “ nợ máu” của những tín đồ của mình. Vì,
“ PHÚC CHO NHỮNG AI BỊ BÁCH HẠI VÌ LẼ CÔNG CHÍNH. NƯỚC TRỜI LÀ CỦA HỌ”. ( Mt 5, 10)
Tất cả Các thánh Tử Đạo đều có lý lịch , lai lịch rõ ràng, chết vào lúc nào, cách nào, bởi ai, đều được ghi nhận chính xác. Vì thế, hồ sơ của mỗi vị đều chính xác đến từng milimet, nói như thế, có thể “ kiện” ra tòa án Quốc Tế, để đòi bồi thường chớ chẳng chơi, nhưng, hoàn toàn không có chuyện nầy. Bởi vì, các ngài đã “ CHẾT VÌ LẼ CÔNG CHÍNH – SỐNG VÌ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA”. Amen.
Mang thân phận người, ai chẳng đi theo quy trình: sinh lão bệnh tử, và chúng ta vẫn hiểu: sông có 24/11-241
Mang thân phận người, ai chẳng đi theo quy trình: sinh lão bệnh tử, và chúng ta vẫn hiểu: sông có khúc, người có lúc, vì thế hãy chấp nhận cuộc sống có vui, có buồn, cho dù một số vị đang cố gắng tìm cách né tránh những khó khăn khổ đau đang xảy đến. Hãy lạc quan bởi đấng bậc sinh thành cả một đời hy sinh vì con vì cháu, gia tài các ngài để lại không đơn thuần chỉ là vật chất, nhưng trĩu nặng tình yêu thương. Hãy hy vọng tâm ý của các bậc làm cha mẹ luôn mong mỏi: con hơn cha nhà có phúc, hoặc hy sinh đời bố củng cố đời con, là sự thực. Hãy tin, bậc tiền bối của chúng ta còn lưu truyền một sức mạnh thiêng liêng hầu tiếp sức nâng đỡ con cháu: con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.
Có thể nói, ai sống ở trên đời mà chẳng mơ ước hạnh phúc, mơ được trường sinh bất tử, vì thế nếu không sợ khổ đau, không sợ chết, đó là chuyện lạ. Nếu là người ngoài cuộc, sẽ khó hiểu biết bao, tại sao cha ông chúng ta “không sợ máu chảy đầu rơi”, dù các ngài có cách thoát chết. Đức Giêsu năm xưa có nhắn gởi các môn đệ một sự thật: “người đời sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ, nhưng các con đừng sợ, chính Thánh Thần sẽ trợ giúp các con”. Rồi sau đó, cả Thầy-trò đều bị thế gian ghét bỏ, loại trừ, dù Thầy-trò Đức Giêsu không phạm pháp hay đứng dậy chống đối nhà cầm quyền, tất cả chỉ vì yêu nhân loại.
Giáo hội Việt Nam chúng ta hôm nay mừng kính Các Thánh Tử Đạo, gương chứng nhân đức tin của các ngài đã trổ sinh bông hạt. Dù mắt thường chúng ta không thấy, nhưng bằng mắt đức Chúa vẫn đang ban ơn, ban điều kiện để con cháu cùng phát huy truyền thống sống đạo, giữ đạo. Cách chung chung, đạo làm người được khơi dạy sống chữ tình, chữ hiếu ; hãy theo Thầy, đó là đạo làm con Chúa, mọi người đều được hiểu, phải biết sống giới luật mến Chúa yêu người. Hãy theo Thầy, có thể nhiều người không còn xa lạ với khái niệm nói và làm là nguyên nhân dẫn tới thành công hoặc thất bại, nói khoác lác hay làm bâng quơ không thể đưa đến hạnh phúc thật.
Đức Giêsu không rao giảng một giáo lý đau khổ, không chủ trương một đạo luật yêu thương đến độ im lặng để kẻ gian ác bắt bớ tiêu diệt cách vô cớ. Đức Giêsu kêu gọi những ai theo Chúa làm môn đệ, thì hãy theo Thầy, hãy tin Thầy, vì Thánh Thần sẽ nói, sẽ hướng dẫn và nâng đỡ tất cả những ai sống đạo luật yêu thương. Sống đạo hay sống niềm tin vẫn là một cuộc chiến không ngơi nghỉ giữa thiện và ác, tội và phúc, giữa cái tốt và cái xấu ; tin Chúa, theo Chúa, phải thực hành niềm tin, phải sống khác với thế gian đã là đang chiến đấu rồi. Tiền nhân của chúng ta xưa kia chắc chắn không phải là những người vô hồn vô cảm, ai nói sao làm vậy, ai xúi bậy cũng làm theo, nhưng các ngài rất khôn ngoan khi cậy dựa vào tình yêu, vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Hãy theo Thầy, hãy sống theo truyền thống đức tin của tiền nhân: cha anh hùng, con sẽ hảo hán, dù có lả lướt mỹ từ một chút cũng nên biết lắm: cha là núi, mẹ là sông, anh em hiếu thuận, gia tộc an vui. Chúng ta có quyền tự hào vì dòng máu đức tin của các ngài đã tưới gội lênh láng khắp quê hương đất nước, vì tình yêu Đức Kitô, gương anh dũng sống đạo các ngài đã góp phần xây dựng Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Khi nói đến tình yêu lứa đôi, người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp, đến hương vị hạnh phúc, còn nhắc tới tử đạo, người ta thường nghĩ tới máu me, bạo lực, chết chóc xảy ra. Khi nói đến những tín hữu theo Thầy Giêsu, chúng ta luôn được mời gọi để sống chọn lựa, và chọn Chúa sẽ bị thế gian loại trừ, đó là sự thật, là điều mà chúng ta sẽ tiếp tục minh chứng đức tin.
Hãy theo Thầy, tin Thầy, có thể gian lao khốn khó ở hiện tại hoặc hạnh phúc ở tương lai chưa rõ ràng, nhưng theo Thầy thì phải vác thập giá, phải đối diện với thế gian đầy ganh ghét là không sai, nhưng chúng ta chiến đấu và chiến thắng là nhờ sức mạnh của Chúa. Theo Thầy, tin Thầy Giêsu, không có nghĩa là tất cả phải chịu đóng đinh thập giá, chịu chết tù tội hay chết chém để được xếp vào hàng ngũ tử đạo, nhưng người theo Chúa đều phải sống đức tin và đức ái, dù máu không chảy, đầu không rơi. Trong tình đồng loại, người ta có thể chia sẻ cơm áo cho nhau vì yêu thương, trong ơn cứu độ, Đức Giêsu dám từ bỏ ý riêng, vâng phục thánh ý Chúa Cha chết thập giá, biến đổi thân xác Ngài làm của ăn nuôi người trần thế.
Tham sống sợ chết, có thể là bình thường vì chúng ta mang thân phận người yếu hèn, nhưng mỗi người vẫn có tự do để suy nghĩ về cách sống đức tin hiện tại của mình, chúng ta có sợ cái chết vô nghĩa không ? Hãy theo Thầy, tin Thầy, người kitô hữu sẽ hiểu đâu là hạnh phúc thật, đâu là bình an thật, đâu là cuộc sống có ý nghĩa nhất, thưa đó là cuộc đời có đức tin và đức ái, có đủ tình Chúa và tình người. Chết già, chết bệnh, chết vì tai nạn, chết vì dám bênh vực đức tin kitô giáo, chết vì yêu Chúa và Hội Thánh, cũng đều gọi là chết. Hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, nhờ lời lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mỗi chúng ta vừa đủ khôn ngoan để chu toàn bổn phận và trách nhiệm theo Chúa làm môn đệ, tiếp tục truyền thống đức tin của tiền nhân. Amen.
Sống là chọn lựa. Giá trị và sự hoàn thiện của chúng ta hệ tại ở mỗi sự chọn lựa ấy. Các Thánh là 24/11-242
Sống là chọn lựa. Giá trị và sự hoàn thiện của chúng ta hệ tại ở mỗi sự chọn lựa ấy. Các Thánh là những người đã phân định, chọn lựa sống theo ý muốn của Chúa. Họ đón nhận đau khổ, chịu bách hại vì đạo để chỉ chọn Chúa mà thôi. Noi gương các thánh nhân, bạn sẽ chọn điều gì? Bạn dựa vào tiêu chuẩn nào để chọn lựa? Điều bạn chọn có phù hợp với ước muốn của Chúa?
Bỏ và chọn Bỏ và chọn là hai việc xảy ra cùng lúc. Chọn việc này thì phải bỏ điều kia. Mỗi lần chọn và bỏ, chúng đều mang lại cho ta một giá trị nào đó. Các Thánh Tử Đạo cũng phải làm quyết định của “chọn” và “bỏ”. Các Ngài đã thực hiện các điều kiện phải có để theo Chúa Giêsu, đó là “từ bỏ chính mình”. Các ngài không đặt mình làm trung tâm, và luôn đặt mình ở dưới Chúa, bỏ ý riêng mình để chọn ý Chúa làm lẽ sống.
Các Ngài là người can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không xấu hổ vì chọn Chúa, chọn “vác thập giá mình hằng ngày” theo Người. Các ngài bắt chước Chúa Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chống đối để thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha. Các ngài là những con người bình thường như chúng ta, cũng yếu đuối, bất toàn, nhưng các ngài đã biết nhìn lại, sửa đổi cho phù hợp làm con cái Chúa. Khi các ngài chấp nhận thay đổi mình, chính là lúc các ngài vác thập giá đi theo Chúa. Các ngài vượt qua được những tính hư nết xấu, nên lúc đứng trước cây thập giá là sự bắt bớ, lao tù và cái chết, thì dễ dàng vượt qua. Trong hàng ngũ các thánh tử đạo Việt Nam, đã có một Luca Thìn đứng lên từ con người với nhiều khiếm khuyết, để mạnh dạn mất mạng sống vì Chúa. Ngài là quan chánh tổng, có vợ bé, không chăm việc đạo. Nhưng khi nghe lời khuyên nhủ của các linh mục và thân nhân, ngài trở về với Chúa. Cuối cùng ngài đã dùng cái chết để làm chứng cho Chúa.
Các Ngài là người “liều mất mạng sống mình”, chịu ngục tù, chịu róc xương xẻ thịt để đi vào sự sống thật trong Thiên Chúa. Ngày xưa, vua quan buộc cha ông chúng ta bỏ đạo bằng cách bước qua thập giá. Nhưng họ đã từ chối bước qua, liều mất mạng sống để bảo vệ đức tin. Như thánh Têphanô Ven, vị linh mục mới 31 tuổi đã nói: “Cả đời tôi rao giảng về thập giá thì lẽ nào tôi lại giẫm lên thập giá”. Ngài đã chịu tử đạo để giữ lòng trung thành với Chúa.
Từ kinh nghiệm sống đạo của các Ngài cho ta thấy, từ bỏ là điều kiện đầu tiên để ta được tự do, thanh thoát mà theo Chúa. Chọn Chúa là đi trên con đường đau khổ của thập giá. Bao lâu ta chưa dứt khoát ra khỏi mình, bấy lâu ta chưa thể đi theo Chúa.
Con đường nào cho tôi? Hôm nay Chúa cũng mời gọi ta đi theo con đường Thánh Giá với Người “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Chọn Chúa là chọn lội ngược dòng, dám loại bỏ những gì cản trở, ra khỏi ý riêng của mình, dám chịu đau đớn, mất mát. Ta thấy ra khỏi sự ràng buộc của vật chất, tiện nghi hay các mối tương quan đã khó, ra khỏi bản thân càng khó hơn. Tự nhiên thì ta vẫn muốn nuông chiều theo tính xác thịt, muốn thu vén tất cả cho mình. Thế nhưng, sứ điệp của các Thánh Tử Đạo gửi đến cho ta là: Hãy bỏ đi những tự ái, nóng nảy, giận hờn; bỏ đi sự kiêu căng ngạo mạn, sửa đổi cuộc sống, và trung thành theo Chúa. Đó chính là vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa.
Thập giá hằng ngày là những đau thương, thử thách, khó khăn, bệnh tật, hiểu lầm, trái ý, trách nhiệm, bổn phận… Tất cả là thập giá do tha nhân, do hoàn cảnh hay do chính mình tạo ra.
Lạy Chúa Giêsu, khi xưa các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã can trường vác thập giá của mình theo Chúa, thể hiện qua việc chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì tình yêu đối với Chúa và Giáo Hội. Xin cho con nhận ra, và vác thập giá mình hằng ngày một cách vui tươi theo Chúa Giêsu, để nhờ bước theo Người trên đường thập giá, con cùng được bước vào vinh quang phục sinh với Người. Amen.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo 24/11-243
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sách Khâm Định Việt Sử ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, làng Ninh Cường và Trà Lũ. Tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v..v…, với dòng thời gian, hạt giống Tin Mừng được gieo vào lòng đất Việt đã âm thầm mọc lên và sinh hoa kết trái. Năm 1659, Tòa Thánh đã thiết lập hai Địa phận Tông Tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Rồi đến năm 1960, thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thiết lập hàng Giáo phẩm Việt Nam.
Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng cũng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người tử vì Đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, từ các tỉnh phía Bắc đến tận miền sáu tỉnh phía Nam, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: “Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”.
Đúng, máu các thánh Tử đạo đã đổ chan hòa mặt đất. Những dòng máu thuộc đủ thành phần xã hội: từ người làm nông đến chài lưới, từ thương lái đến lương y; từ học sinh đến thầy đồ; từ lý trưởng, cai tổng, binh lính đến quan văn, quan võ; từ giáo dân, ông trùm, ông quản đến chủng sinh, linh mục, giám mục; từ người ngoại quốc đến người bản địa… Tất cả đều mang trong mình một niềm tin son sắt, một tình yêu nồng cháy, một tinh thần can đảm quật cường, sẵn sàng chịu muôn ngàn thử thách vì danh thánh Chúa Kitô. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn một lòng trung thành với Đạo Chúa. Dù bị tra tấn, hành hình man rợ, các ngài vẫn một lòng yêu mến Chúa. Các ngài đã yêu đến cùng, yêu đến thí mạng, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã bách hại mình.
Cơ mật viện khoáng đại ngày 22 tháng 6 năm 1987 mở ra lúc 12 giờ trưa với sự chủ toạ của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại Vatican. Có 28 Hồng Y, 70 Tổng Giám mục và Giám mục tham dự để tuyên thánh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Kết thúc Cơ Mật Viện, Đức Hồng Y Casaroli, Quốc Vụ Khanh, đã gửi điện tín cho Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn đang là Tổng Giám mục Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam lúc đó để thông báo cho biết Đức Thánh Cha đã nghị quyết phong thánh cho Các Chân Phước Tử Đạo Việt Nam.
Theo lời Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, cáo thỉnh viên án tuyên thánh này thì: Theo thông lệ, khi xin nhật kì phong thánh, bao giờ cũng phải dự tính sẵn 3 ngày, để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương trình xếp đặt nào khác thì mình cũng phải thay đổi theo. Lễ Phong Thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29 tháng 6 năm 1988, lễ hai Thánh Phêrô và Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên, vì sẽ bị hai Thánh Quan Thầy quá lừng danh của Thủ đô Roma lấn át mất. Đã có dự tính chuyển sang Chúa Nhật 26 tháng 6, nhưng cũng không ổn, vì hôm đó Đức Thánh Cha đi công du bên Áo quốc. Chỉ còn Chúa Nhật 19 tháng 6, nghĩa là xếp trước cuộc công du của Đức Thánh Cha một tuần lễ, vì trước sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lí do duy nhất và dễ hiểu, chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn kỉ niệm Ngày Quân Lực VNCH như người ta đã cố tình gán ghép.
Toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng khi nghe tin Đức Thánh Cha nghị quyết tuyên Hiển thánh cho Các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam.
Hà Nội khi đó nhận định, việc tuyên thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và Vatican thêm căng thẳng. Đài tiếng nói Việt Nam đọc lệnh của chính phủ, cấm người Công giáo cử hành lễ tuyên thánh này. Các Giám mục lẫn giáo dân Việt Nam cũng không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ. Trong khi đó, 8.250 giáo dân VN từ 27 nước trên 4 lục địa Á châu, Âu châu, Mĩ châu và Úc châu….Từng đoàn người tuốn về các ga xe lửa và sân bay Ý Đại Lợi. Thêm vào đó, 560 linh mục, tu sĩ nam nữ tới Roma, cùng với nhiều người từ Pháp, Tây Ban Nha đã đến Vatican để dự lễ vì trong số người được tuyên thánh có đồng hương và đồng bào của họ.
Khởi đi từ Chúa nhật ngày 19 tháng 6 năm 1988, ngày Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Giáo Hội đã chọn ngày 24 tháng 11 để cả hoàn vũ cùng mừng kính Các Ngài đến nay tròn 35 năm.
Con dân Việt Nam muôn phương hân hoan vui sướng và hãnh diện tri ân Các Ngài đồng thời hô vang: "Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng".
Làm sao kể lại cho hết tất cả là 117 vị Tử Đạo hiển thánh và 1 vị Á thánh, trong đó 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo dân, trong số đó một phụ nữ là Thánh Anê Lê Thị Thành mẹ của sáu người con.
Ngày 05 tháng 3 năm 2000, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên bậc Chân Phước.
Hiện nay, hơn 10 ngàn hồ sơ tuyên thánh của các tín hữu Công giáo Việt Nam đang được lưu giữ trong văn phòng của Thánh Bộ Tuyên Thánh ở Rôma.
Ngoài ra từ năm 2012, cuộc điều tra tuyên Thánh cấp giáo phận cho Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp bắt đầu được tiến hành.
Ngày 26 tháng 3 năm 1997, Hội Thân hữu Thầy Văn (Les Amis de Van) tại Belley-Ars, Pháp đã bắt đầu mở án tuyên chân phước và tuyên thánh cho thầy Marcel Nguyễn Tân Văn.
Ngày 22 tháng 10 năm 2010, tại Rôma, Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình đã bắt đầu tiến trình xin tuyên chân phước và tuyên thánh cho vị Tôi tớ Chúa là Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Chúa nhật ngày 29 tháng 10 năm 2023, tại Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội, phiên khai mạc cuộc điều tra án phong chân phước và phong thánh cho Tôi tớ Chúa, Đức cha François Pallu đã diễn ra.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin giúp chúng con trung thành với Đức tin đã lãnh nhận, yêu mến Chúa, và Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương đất nước chúng con. Amen.
Trong lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta nhớ về tất cả các nhân chứng “mình 24/11-244
Trong lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta nhớ về tất cả các nhân chứng “mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7: 9), các Kitô hữu, giám mục, linh mục, tu sĩ dòng Đa Minh, Hội Thừa Sai Paris, giáo dân, phụ nữ và trẻ em, những người đã bị giết bằng những cách thức khủng khiếp nhất trong hàng loạt cuộc đàn áp ở Việt Nam vào thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Có hàng ngàn người - có người nói lên đến trăm ngàn người - đã hiến mạng sống vì Đức Tin, trong đó có 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức phong thánh vào năm 1988. Xin được kể đến Cha Anrê Dũng Lạc, một linh mục Việt Nam, Cha Théophane Vénard - Ven, một linh mục quê nước Pháp, và Đức Cha Melchior Garcia Sampedro – Xuyên, một giám mục quê Tây Ban Nha:
* Thánh Anrê Dũng Lạc là một linh mục địa phận, tên là Trần An Dũng (Lạc), sinh năm 1795 ở miền Bắc Việt Nam, bố mẹ là người ngoại đạo. Năm 12 tuổi, cậu cùng gia đình chuyển ra Hà Nội để bố mẹ tìm việc làm. Một thầy giảng ở đó đã chu cấp cho cậu thức ăn, chỗ ở và giúp cậu được học hành. Dũng được rửa tội và chọn tên là Anrê. Lớn lên cậu trở thành thầy giảng, dạy giáo lý đức tin cho người khác, và cuối cùng được chọn để học làm linh mục. Thầy Anrê được thụ phong linh mục năm 1823. Cha Anrê được biết đến như một nhà giảng thuyết hiệu quả và là tấm gương thánh thiện cho những người mà Cha phục vụ. Khi nhà vua bắt đầu đàn áp những người theo đạo Thiên Chúa, Cha Anrê đã bị bắt hai lần, nhưng các giáo hữu lo tiền để chuộc Cha ra. Lần thứ ba bị bắt, có giáo hữu định cầm cố cả cơ nghiệp lấy tiền mà chuộc Cha và viết thư cho Cha rằng: “Lạy cha! Cha chịu tử vì đạo thì được một mình Cha lên Thiên Đàng, nhưng nếu Cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, xin Cha nghĩ lại”. Người nhà quan cũng đã nói rằng: “Hễ khi có tiền, thì chúng tôi bỏ người vào võng mà võng ra”. Thế nhưng, Cha cấm và nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì quyết vâng ý Đức Chúa Trời định cho tôi làm vậy, đừng chuộc tôi làm gì”. Cha bị xử trảm vào ngày 21 tháng 12 năm 1839 ở bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy.
* Thánh Gioan Théophane Vénard Ven, Linh mục Hội Thừa sai Paris, sinh ngày 21/11/1829 tại miền Tây Nam nước Pháp. Thuở nhỏ đã có lòng ao ước làm linh mục nên được cha mẹ gởi vào học Latinh với cha xứ, sau đó, học tại tiểu chủng viện, đại chủng viện và được chịu chức linh mục năm 1852. Cha được sai đi phục vụ địa phận Tây đàng ngoài. Ngày 13/07/1854, thuyền cha cập bến cửa Cấm. Sau vài tháng học tiếng Việt, cha tháp tùng Đức cha đi kinh lý khắp nơi và dạy ở chủng viện. Khi quân lính vây làng, thì từ đầu tháng 03/1857, Cha Ven bắt đầu những ngày tháng lưu lạc, rày đây mai đó không lúc nào yên ổn. Ngày 30/11/1860, nhân lúc cha đang giảng tuần đại phúc tại Bút Sơn, Kim Bảng, viên cai đội đem người đến bắt Cha, nhốt cha vào cũi giải xuống Phủ Lý rồi điệu về Thăng Long. Khi quan ra lệnh: “Hãy đạp lên Thánh Giá anh sẽ thoát chết”. Cha đáp: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập Giá, sao tôi làm như thế được? Tôi thiết nghĩ, sự sống đời này đâu quá quý đến độ tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo”. Ngày 23/12/1860, Cha Ven bị điệu ra xử trảm.
* Thánh Melchior Garcia Sampedro - Xuyên sinh ngày 26/04/1821 tại Arrojo, tỉnh Oviedo, nước Tây Ban Nha. Gia đình ngài thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng đã sa sút đến chỗ nghèo khổ. Năm 21 tuổi, thầy Sampedro học thần học ở Chủng viện Oviedo. Ba năm sau, thầy xin vào dòng Đa Minh để được đi truyền giáo. Sau năm tập, thầy tuyên khấn và chuẩn bị thụ phong linh mục ngày 29/05/1847. Đến Manila, cha Sampedro xin và được cử đến Việt Nam vào tháng 02/1849. Từ nay cha có tên mới là Xuyên. Tháng 03/1850 cha Xuyên được Đức cha Sanjurjo - An đặt làm Giám đốc chủng viện ở Cao Xá. Tháng 7, cha được chọn làm đại diện giám tỉnh. Cha Xuyên cho in nhiều tập sách giáo lý nhỏ cho giáo hữu và quan tâm truyền giáo cho lương dân. Năm 1852, Đức cha An đã chọn cha Sampedro làm giám mục phó. Lễ tấn phong được cử hành long trọng ngày 16/09/1855 tại Bùi Chu. Đức cha Xuyên nhiệt tình trong sứ vụ mới. Riêng năm 1855, địa phận Trung có 35.349 trẻ em được rửa tội. Cuộc bách hại gia tăng, Đức cha Sanjurjo - An chịu tử đạo ngày 20/07/1857. Còn Đức cha Xuyên, dù bị ra giá cao cho ai bắt được, vẫn lén lút đi thăm các họ đạo vào ban đêm. Đề phòng giáo phận sẽ không có chủ chăn, Đức cha Xuyên đã chọn cha Valentino - Vinh làm giám mục phó. Lễ tấn phong của vị giám mục gậy tre mũ giấy được cử hành âm thầm vào ban đêm tại nhà một giáo dân ở Ninh Cường. Ngày 08/07/1858 tại Kiên Lao, Đức cha Xuyên bị bắt cùng hai chú giúp lễ Nguyễn Tiệp và Mai Hiến. Sau 20 ngày trong ngục, Đức cha lãnh án lăng trì ngày 28/07/1858. Trên đường ra pháp trường Bảy Mẫu, một tay cầm sách nguyện, tay còn lại Đức cha giơ cao ban phép lành cho dân chúng. Tuy nhiên cũng có kẻ lấy bùn ném vào ngài. Sau khi hai cậu Tiệp và Hiến đón nhận phép lành của Đức cha, rồi đưa cổ chịu chém, lý hình xô vị giám mục nằm sấp trên chiếu có phủ vải, rồi họ cột chân tay căng vào bốn cọc ở bốn phía, và thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Đức cha thụ án “xử bá đao”, thi thể được chôn dưới một hố sâu. Thủ cấp thì bêu nơi công cộng ba ngày. Về sau các giáo hữu đưa thi hài Đức cha về an táng tại Phú Nhai. Năm 1888, thi hài của ngài được dời về quê hương Oviedo, nhưng tay phải thì để lại Bùi Chu, còn tay trái được đưa về Manila.
Cuộc bắt đạo kéo dài từ năm 1745 đến năm 1862, qua hai đời chúa: Trịnh Doanh (1740-1767), Trịnh Sâm (1767-1782), và bốn đời vua: Cảnh Thịnh (1782-1802), Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883). Cuộc bách hại lâu dài và lan rộng như vậy nhắc nhở chúng ta rằng những người trở lại đạo và thực hành đức tin Công giáo đã làm như vậy với sự hiểu biết đầy đủ về những nguy hiểm mà họ phải đối mặt. Dù sao thì việc họ chọn đi theo Chúa Giêsu cũng cho thấy một đức tin sâu sắc mà nhiều người trong chúng ta khó có thể tưởng tượng được. Phần lớn người Công giáo chúng ta ngày nay không phải mạo hiểm mạng sống của mình khi theo Chúa Kitô, nhưng tuy nhiên, đức tin của chúng ta đang gây tranh cãi và các giá trị của niềm tin mà chúng ta cần phải sống thường bị coi thường. Chúng ta hãy ngắm nhìn các Thánh Tử đạo Việt Nam và cầu nguyện với các ngài để chứng tá Đức tin của các ngài truyền cho chúng ta sự hứng khởi đón nhận những rủi ro nho nhỏ hàng ngày mà chúng ta gặp phải khi sống đức tin của mình, biết rằng phần thưởng cho việc chọn Chúa Giêsu sẽ lớn hơn nhiều so với bất kỳ cuộc bách hại nào chúng ta trải qua trong cuộc đời này.
Như Thánh Théophane đã viết cho gia đình ở quê nhà Pháp, không lâu trước khi ngài chịu tử đạo:
Tất cả chúng ta đều là những bông hoa được trồng trên trái đất này, được Chúa hái vào thời điểm thuận tiện của Ngài: một số sớm hơn một chút, một số muộn hơn một chút . . . Cầu mong cha con chúng ta gặp nhau trên thiên đường. Con, chú sâu bướm tội nghiệp, đi trước. Tạm biệt.
Công cuộc truyền giáo trong Giáo hội nói chung, và tại Việt Nam cách riêng, cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về mọi thứ ở trần gian này diễn ra như thế nào trước khi Chúa Kitô đến lần cuối cùng và sự thật cứu độ của Ngài - khác xa với khu vườn địa đàng thần thoại mà trí tưởng tượng của phàm nhân nghĩ ra. Đúng là luôn có một sự cao quý nào đó trong mọi nền văn hóa, ngay cả những nền văn hóa ngoại giáo nhất, vì Con người, dù ở xa Chúa Kitô, cũng không bao giờ đánh mất phẩm giá cũng như nhận thức của mình về những nguyên tắc cơ bản nhất của luật luân lý. Nhưng nói một cách thành thật, trong một nền văn hóa không có Chúa Kitô có nhiều thứ vô cùng tàn ác, một biểu hiện của nó là những kiểu tra tấn và hành quyết rất ghê sợ. Các vị tử đạo Việt Nam đã phải chịu đựng những điều gần như ngoài sức tưởng tượng. Chẳng hạn, án xử tử mà người dân Việt Nam thường gọi là “tùng xẻo” – nghĩa là đánh một tiếng trống “tùng” thì xẻo một miếng thịt. Đó là một hình phạt được quy định trong Luật Gia long gọi là “lăng trì” hay “xử bá đao”. Điều 1 Luật Gia Long có đoạn nói: Lăng trì là một hình phạt ghê khiếp nhất trong các hình phạt. Quy tắc của xử tội này là người ta khoét 1 tấc thịt trên thân thể tội nhân, róc cho đến khi hoàn toàn hết thịt, liền sau đó, cắt mổ bụng, moi tạng phủ cho đến khi chết hẳn, rồi sau đó cắt lấy tay chân và cắt những khớp xương, đập nát xương sống. Lăng trì là loại cực hình ghê rợn nhất, phạm nhân sẽ vô cùng đau đớn nhưng không thể chết một cách nhanh chóng bởi đao phủ không chỉ có nhiệm vụ xẻo thịt mà còn phải giữ cho tử tội không chết trước khi đạt được số nhát xẻo theo quy định. Trong một số tài liệu, thông thường nạn nhân phải chịu khoảng 3.000 nhát dao thì mới có thể “được” chết. Điều này hoàn toàn có thật nơi rất nhiều nạn nhân, bị xẻo từ từ cho đến chết trước mắt những người chứng kiến. Các thánh sau đây đã chịu án “phân thây” này:
* Thánh Gioan Du (Joseph Marchand), sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng.
* Cha thánh Gioan Tân (Jean Charles Cornay), sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20/09/1837 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng.
* Thánh Augustinô Phan Viết Huy, sinh năm 1795 tại Hạ Linh, Bùi Chu, binh Sĩ, Giáo dân dòng ba, bị xử lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng.
* Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, sinh năm 1792 tại Kiên Trung, Bùi Chu, Giáo dân, binh sĩ, bị lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng.
* Thánh Giuse Melchor Xuyên (Garcia Sampedro), sinh năm 18211 tại Cortes Asturias, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử lăng trì ngày 28/07/1858 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức.
Điều này không làm các vị tử đạo lo sợ, sâu xa trong tinh thần của họ. Khi cha Vénard được dẫn đi tử đạo, tên đao phủ hỏi vị linh mục rằng ngài sẽ cho hắn cái gì để cái chết của ngài được nhanh chóng. Théophane bình tĩnh trả lời, “càng lâu càng tốt.”
Chúng ta hẳn kinh ngạc về việc này, nhưng một người luôn hướng mắt về thiên đàng, thì sự đau khổ về thể xác sẽ không đáng kể nữa, và nỗi sợ hãi được tình yêu biến đổi. Đó là một điều đáng suy ngẫm trong cuộc sống hàng ngày nhiều khó khăn của chúng ta. Như một trong các vị tử đạo, Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793 - 1857), khi còn là thầy ở chủng viện, bị giam cầm lâu ngày trong lao tù tại Hà Nội, vì thương nhớ Chủng viện Kẻ Vĩnh, nên ngày 24-4-1843 đã gửi thư cho các cha và anh em chủng sinh:
Tôi, Phaolô, đang bị xiềng xích vì Chúa Kitô, từ chốn lao tù xin gửi lời kính thăm anh em. Nguyện xin Cha nhân ái và Chúa giàu lòng khích lệ đến an ủi anh em trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chớ gì phép lành của Chúa sẽ là sương sa thấm gội và vun trồng việc học hành, gia tăng mức tiến cả về tu đức, cả về kiến văn, để anh em mau đạt tới chỗ hoàn hảo, thành tài. Có như thế qua anh em, người bên lương sẽ được chúc phúc và họ sẽ được bảo toàn hương thơm tốt lành của anh em.
Thánh nhân chia sẻ:
Nhà tù ở đây thực là hình ảnh của địa ngục: trước những hình thức tra tấn dã man – gông cùm, xiềng xích – có thêm hận thù, trả thù, vu khống, nói năng tục tĩu, cãi vã, hành động xấu xa, chửi thề, cũng như đau đớn và thống khổ.
Nhưng ngài kết luận, với niềm hy vọng và thậm chí với một mức độ hạnh phúc nội tâm nào đó mà chỉ có đức tin trọn vẹn của Công giáo mới có thể mang lại:
Giữa những cực hình thường làm người khác khiếp sợ, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, tôi tràn đầy niềm vui và hân hoan, vì tôi không cô đơn – Chúa Kitô ở cùng tôi. Thầy của chúng ta mang toàn bộ sức nặng của thập giá, chỉ để lại cho tôi chút nhỏ nhất, cuối cùng. Ngài không chỉ là người đứng xem trong cuộc chiến đấu của tôi mà còn là một thí sinh, người chiến thắng và vô địch trong toàn bộ trận chiến. Vì vậy, trên đầu Ngài đội mão triều thiên chiến thắng, và các thành viên của Ngài cũng được chia sẻ vinh quang với Ngài.
Giữa những khó khăn, giông bão và thậm chí cả những cuộc bách hại, chúng ta ghi nhớ trong tâm trí tấm gương cao cả của đội quân tử đạo mặc áo trắng này, vì “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31). Thiên đàng đang chờ đợi, và chúng ta phải kết thúc cuộc hành hương cùng với Đấng Cứu Độ, dù cuộc hành hương đó có thể dẫn đến đâu, cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố trong bài giảng Lễ tuyên thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, ngày 19 tháng Sáu năm 1988: “Thánh Thần, Thần chân lý, Ngài sẽ là sức mạnh thay cho sự yếu đuối của anh em. Anh em sẽ làm chứng bằng sức mạnh của Ngài. Chính sự kiện anh em phải làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá, lại chẳng cần đến sự khôn ngoan và sức mạnh vượt trên sức mạnh loài người sao? Khi Thánh Tông đồ viết rằng thập giá “là sự ô nhục đối với người Do Thái và điên rồ đối với người Hi Lạp” (1 Cr 1,23), lại chẳng phải là nói về Chúa Kitô sao? Đã xảy ra như thế vào thời các Tông đồ. Cũng lặp lại như thế trong những thời kỳ khác nhau của lịch sử, ở những nơi chốn và thời điểm khác nhau. Cũng xảy ra như thế vào thời bách hại tôn giáo chống lại các Kitô hữu Việt Nam. Do đó, cần phải có sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa để loan báo mầu nhiệm tình yêu này của Thiên Chúa, nghĩa là ơn cứu chuộc trần gian nhờ thập giá: mầu nhiệm vĩ đại nhất, đồng thời là điều không thể hiểu được về mặt nhân loại. “Bởi vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh loài người” (1 Cr 1,25). Chính vì thế Thánh Tông đồ viết: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá”: Chúa Kitô mà cụ thể trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài, chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Vâng. Như của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế thập giá của Chúa Kitô. Thật vậy, cách riêng với các ngài, thưa Các Vị Tử đạo Việt Nam, các ngài đã loan báo đến cùng Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta hướng về Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, chúng ta đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
Đọc lại lịch sử buổi đầu của Hội Thánh Việt Nam, tôi thấy rất giống bối cảnh lịch sử Hội Thánh 24/11-245
Đọc lại lịch sử buổi đầu của Hội Thánh Việt Nam, tôi thấy rất giống bối cảnh lịch sử Hội Thánh hoàn vũ thuở bình minh. Ngày ấy, Hội Thánh tiên khởi rất mới mẽ, rất non nớt.
Sau khi Chúa Giêsu về trời (khoảng đầu thập niên 30), các thánh tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên vâng lệnh Chúa lên đường tiếp nối sứ mạng của Chúa. Tin Mừng chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu, Đức tin của các Kitô hữu còn chưa kịp trưởng thành, thì năm 64, Hội Thánh bị bách hại dữ dội.
Càng bị bách hại, càng nếm trải đau khổ và sự chết bao nhiêu, đức tin ấy càng cho thấy nó có một sức mạnh lạ lùng bấy nhiêu.
Và sự khẳng định đức tin, bằng những dòng máu đỏ thắm, nơi chính các Kitô hữu càng rực sáng, đáng quý trọng.
Có đọc lại lịch sử, có cảm nhận hết những thương đau mà các Kitô hữu đầu tiên phải chịu, ta mới thấy hết sức mạnh không thể lay chuyển của đức tin. Một dức tin dù mới mẽ, lại kiên trung đến phi thường, mới chính là phép lạ không thể hiểu nổi đối với lý trí con người.
Chẳng hạn cuộc bắt bớ của hoàng đế Neron, bạo vương khét tiếng, độc ác kinh hoàng, từng giết vợ, mẹ và con mình. Để giập tắt dư luận lúc đó đang đổ thừa cho hoàng đế đốt thành Rôma, ông đã đổ lỗi cho các Kitô hữu.
Ông ra lệnh bắt bớ khắp thành. Các Kitô hữu phải chịu vô vàn những hình phạt tinh vi. Đó là những gì rùng rợn và nhục nhã nhất chụp xuống trên Hội Thánh nhỏ bé này.
Giết người bằng mã tấu, bằng gươm, bằng những hình khổ dã man như: đâm, chém, phanh thây, treo thập giá… vẫn chưa lấy làm đủ, ông còn tạo ra những trò tiêu khiển như lột trần họ, rồi bỏ vào hầm thú dữ đói để nhìn ngắm cảnh tượng thú dữ rượt đuổi, còn họ thì chạy vòng khắp hang cùng với sự hoảng loạng, sợ hãi và la hét rợn trời cho đến khi thú dữ nhai sạch xác họ.
Có khi ông cho họ mặc da thú vật để cho chó cắn xé. Hoặc ông buộc chặt cả một tập thể vào các thập giá, tẩm dầu, để đêm đến đốt lên cháy sáng như những ngọn đuốc…
Sự tàn độc vô độ của ông lớn đến nỗi, dù bị vu oan đốt thành Rôma, một tội ác nặng nề, nhưng dần dần người ta nhận ra việc khử trừ các Kitô hữu không phải vì lợi ích của đất nước, mà chỉ vì sự độc ác của một con người.
Chính trong thời hoàng đế Neron, năm 64, thánh Phêrô và năm 67, thánh Phaolô bị giết. Tất cả cùng chịu đóng đinh thập giá.
Cũng vậy, những cuộc bắt bớ trên đất Việt cũng gần giống như thế. Nhiều vị Thánh Tử đạo Việt Nam bị hiểu lầm, thậm chí bị vu oan. Chẳng hạn trường hợp thánh Phaolô Hạnh. Sống ở Chợ Quán, Sài Gòn và làm nghề buôn bán.
Thánh nhân là thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới gian hồ. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân.
Hành động nghĩa hiệp khiến Phaolô Hạnh phải trả giá: Họ tố cáo anh ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hòa ngày 28.5.1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đan tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5.6.1840, thánh Luca Loan bị chém đầu.
Các thánh Tử đạo Việt Nam, cách chung, tuy được đối xử tôn trọng hơn và cũng không bị hành hình để làm trò tiêu khiển như các thánh Tử đạo của Hội Thánh tiên khởi.
Nhưng các hình phạt mà các thánh Tử đạo Việt nam phải chịu, vẫn là những hình phạt dã man, rất đáng sợ, rất đớn đau, và đáng thương tâm vô cùng. Vì muốn các ngài phải bỏ đạo, vua chúa, quan quyền đã ra lệnh đánh đập, không phải một lần, nhưng nhiều lần đến nỗi rách cả da thịt, ứa đầy máu, có lúc tưởng đã chết dưới những làn roi của những con người không một chút lương tâm.
Có khi những vết thương do bị đánh đòn còn chưa kịp lành, các thánh Tử đạo Việt Nam đã bị lôi ra tiếp tục tra tấn. Các vết thương cùng những trận đòn tàn nhẫn ấy chồng lên nhau càng nhân lên sự đau đớn gấp bội.
Đến lúc kết thúc cuộc đời, có khi vì tuổi già, sức yếu; hoặc không thể chịu nỗi cảnh áp bức của nhà tù, một số vị đã chết rũ tù.
Đa số các thánh Tử đạo Việt Nam bị xử trảm (chém đầu). Có trường hợp, vì lý hình run tay, nên chém rất nhiều nhát, đầu mới lìa cổ.
Một số thánh Tử đạo khác bị thiêu sống (hình phạt thiêu sinh).
Số khác bị xử giảo (dùng dây xiết cổ cho đến chết).
Nhiều vị Tử đạo khác nữa bị xử lăng trì (phanh thây ra làm nhiều mảnh). Ví dụ thánh Augustinô Phan Viết Huy và thánh Nicôlas Bùi Đức Thể, trong ngày xử án, thống đốc Trịnh Quang Khanh và lý hình mang hai vị Anh hùng đức tin ra cửa biển Thuận An. Trên một chiếc thuyền, họ đã trói cả hai vào cột chèo, thay vì chặt làm đôi (chặt ngang lưng), lý hình chặt đầu trước, sau đó chẻ thân thể làm bốn và quăng xuống biển làm mồi cho cá.
Một bản án lăng trì khác dành cho thánh Sampedro Xuyên, một Giám mục thừa sai đến từ Tây Ban Nha, thật kinh hoàng. Ngày 28.7.1858, sau khi đến pháp trường Bảy Mẫu, lý hình xô Đức cha Xuyên nằm sấp trên chiếu có phủ vải sẵn, trói chân tay thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Năm lý hình cầm rìu, lần lượt thi hành nhiệm vụ. Họ chặt từng chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn lai láng đọng thành vũng.
Trong số các vị hiển thánh và chân phước được Hội Thánh tuyên phong, có một trường hợp bị xử vô cùng thương tâm. Thánh Marchand Du, linh mục thừa sai người Pháp, phải thụ án bá đao (xẻo đủ một trăm miếng thịt).
Ngày 30.11.1835, cha được đưa ra pháp trường. Người ta cột chặt thân thể cha vào cọc và nhét đá vào miệng để cha không kêu la vì đau đớn. Dân chúng, những người xem xử án, bị đuổi lùi ra cách 30 thước.
Sau một hồi trống hiệu, lý hình lột da trán cha Du, lật xuống để che mắt, rồi cắt từng mảnh thịt bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đớn đau, vị Anh hùng đức tin của chúng ta giẫy giụa quằng quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời.
Nhưng lý hình vẫn tàn nhẫn tiếp tục xẻo đủ 100 miếng thịt như đã định. Cuối cùng, lý hình chặt đầu cha, rồi chẻ thân mình làm bốn và ném xuống biển, mất xác. Còn đầu của cha được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và đem rắc xuống biển.
Đã nói đến các thánh Tử đạo, không thể không nhắc đến ĐỨC TIN mà các vị ấy đã tuyên xưng bằng chính máu đào và bằng chính sự sống của mình.
Một đức tin kiên trung, quá lạ thường mà mãi mãi người đời sau vẫn cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi chiêm ngưỡng các thánh Tử đạo Việt Nam.
Bởi mấy trăm năm, dòng lịch sử của Hội Thánh Việt Nam đã cho ta cảm nhận trọn vẹn một chân lý thật lớn lao: Chính bàn tay Thiên Chúa đã hiện diện để nâng đỡ và lèo lái lịch sử Hội Thánh Việt Nam.
Thật giống trường hợp các thánh Tử đạo tiên khởi, Tin Mừng chỉ mới đến quê hương Việt nam khoảng nửa sau thế kỷ XVI, nghĩa là đức tin vừa chớm nỡ, vậy mà ngay sau đó, đã bị bắt bớ, bách hại.
Những cuộc bách hại có lúc căng thẳng, có lúc nhẹ nhàng hơn theo từng giai đoạn, nhưng như thế cũng đủ khiến tinh thần đức tin bị lung lạc, suy yếu.
Vậy mà điều đó đã không xảy ra. Càng ra sức bắt đạo bao nhiêu, càng có nhiều người anh dũng chết cho đức tin bấy nhiêu.
Vua quan, một mặt ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự phát triển của đạo, thì lại vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lang tỏa mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào.
Các thánh Tử đạo không phải là những người quá khích tự đi tìm cái chết vì đạo, mặc dù điều đó có thể xảy ra. Các thánh càng không quá khích đến độ tự đi tìm cái chết để như một cách trả thù, một phương thế ngạo ngễ vua chúa.
Trước sau như một, các ngài yêu mến quê hương, vẫn tỏ lòng tùng phục và kính trọng các cấp chính quyền. Không bao giờ các thánh Tử đạo quên cầu nguyện cho vua quan. Dường như đối với các thánh, phải tìm mọi cách để các cấp chính quyền từ vua, quan, đến quân gặp được chân lý của Tin Mừng.
Không quá khích đã vậy, ngược lại các Kitô hữu còn có thể chạy trốn cuộc bách hại. Nghĩa là các ngài vẫn tìm mọi cách để cố giữ gìn mạng sống của mình. Nhưng khi bị bắt, các ngài làm chứng tới cùng, theo Chúa Giêsu cho tới khổ nạn và chết.
Như vậy, các thánh Tử đạo là những người khôn ngoan, tỉnh táo, vẫn rất yêu quý mạng sống của mình. Chấp nhận chết là vì hết cách, là bước cuối cùng, chỉ vì lòng yêu mến Chúa và muốn bảo toàn đức tin mà thôi.
Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá. Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ.
Từ sự hiểu biết về chân lý cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng cả mạng sống của mình.
Thánh Gioan Phaolôi II, trong bài giảng lễ tuyên thánh cho các thánh Tử đạo Việt Nam ngày 19.6.1988 không bỏ qua hình ảnh kiên trung ấy: "Máu các Tử đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô" (số 6).
Đúng như lời Đức Thánh Cha, Hội Thánh Việt Nam thật hạnh phúc vì được thừa hưởng một kho tàng quý giá vô cùng. Kho tàng ấy không phải trả giá bằng tiền của, nhưng đáng giá máu của hàng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam: KHO TÀNG ĐỨC TIN.
Một kho tàng lớn lao, quý báu vô ngần và vững chãi như núi đá ngay từ những ngày đầu, đã qua suốt gần năm trăm năm và còn tiếp tục mãi về sau, chắc chắn sẽ không dễ gì mai một, càng không dễ gì lay chuyển.
Bởi thế, sự khôn ngoan của loài người là hãy nhìn vào tấm bia vàng đã sống hàng trăm năm ấy mà tiếp tục vung bồi, tiến tục dựng xây chứ đừng có thái độ thù nghịch, đừng có ác cảm.
Và chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, hãy noi gương cha ông của mình mà sống đức tin và làm chứng cho đức tin cách ngoan cường trong cuộc đời hôm nay, để "đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai".
Mừng lễ các thánh Tử đạo Việt Nam, nêu cao bài học mà các ngài để lại, không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Bởi thế, sống ơn Tử đạo hôm nay là biết chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng cho đức tin bằng sự hy sinh trong bổn phận, trong từng lời kinh nguyện, trong tất cả nếp nghĩ, nếp sống.
Chính khi hiến thân sống ơn Tử đạo, ta làm được điều mà các thánh Việt Nam đã làm: yêu quê hương, xây dựng quê hương, nhưng cũng biết mình là con cái của Cha trên trời.
Bởi một lẽ không thể sai sót được: ĐỨC TIN LÀ MỘT NỀN TẢNG VỮNG CHẮC: "Thần Linh chính là Thần Linh chân lý. Ngài sẽ là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là mãnh lực mà anh em mới có thể là chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh em là chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chẳng phải là khôn ngoan, là mãnh lực vượt mức loài người đó ư?" (Đức Gioan Phaolô II - giảng lễ tuyên thánh các Tử đạo Việt Nam ngày số 4). Về mục lục
1- Gian khổ, con đường làm chứng cho Chúa Ki-tô tử nạn
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng 24/11-246
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng ai bước theo Người cách đích thật chắc chắn sẽ phải chịu bách hại: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,30). Chúa còn cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Với thói quen trình bày sự thật một cách thẳng thừng và toàn vẹn, Chúa đã chuẩn bị cho môn đệ mình đón nhận điều tồi tệ nhất: “Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mt 10,21-22).
Đó là vì các môn đệ sẽ phải làm chứng về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, Đấng luôn đòi hỏi nhân loại nên thánh thiện như Người, nghĩa là yêu thương đến tột độ; và làm chứng về Đức Kitô chịu đóng đinh, “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Nghĩa là công bố cho mọi người tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, thể hiện qua việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập giá Đức Ki-tô, một mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.
Để làm được điều ấy, một điều hầu như luôn luôn kéo theo sự bắt bớ, Ki-tô hữu cần có sự khôn ngoan và sức mạnh từ trời cao. Đó là Chúa Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Điều đó đã xảy ra thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau, trong các cuộc bắt bớ khốc liệt, đặc biệt suốt ba thế kỷ đầu của Giáo hội bên Tây phương.
2- Các Thánh Tử đạo VN, những tay gieo của Thiên Chúa:
Giáo Hội Việt Nam suốt ba thế kỷ đầu của mình cũng đã chịu nhiều cuộc bách hại liên tiếp như thế, với một vài lúc ngưng nghỉ, kể từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á. Đã có hàng trăm ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến, nơi những thôn làng Công giáo bị quan quân bủa vây, nơi những ngôi nhà thờ bị Văn Thân lùa tín hữu vào đó rồi phóng hỏa. Dù được phong thánh ngày 19-06-1988 chỉ vỏn vẹn 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục và 59 giáo dân.
Việc sống đạo và chết vì đạo của các ngài đã xảy ra trong những tình thế rất phức tạp.
- Trước tín ngưỡng nhân gian và tam giáo Đông Phương (Khổng, Phật, Lão) thần thánh hóa đủ thứ, từ con người đến động vật và ngay cả núi sông cây cỏ, các vị tử đạo đã rao giảng một Thiên Chúa sáng tạo vạn vật, chủ tể muôn loài, và chẳng có thần linh tối cao nào ngoài Người cả.
- Trước “đạo ông bà” thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc như thần thánh, các vị tử đạo vẫn cổ vũ lòng tôn kính tiên tổ và tiền nhân đúng đạo hiếu dân Việt, nhưng lòng tôn kính này phải đặt sau việc tôn thờ bái lạy Thiên Chúa.
- Trước quan niệm bình dân cho rằng tôn giáo nào cũng dạy ăn ngay ở lành và Công giáo là đạo của phương Tây, các vị Tử đạo cho thấy Công giáo là đạo dành cho hết mọi người và có tính cách siêu việt, mạc khải những điều cao cả từ nơi Thiên Chúa.
- Trước đầu óc phong kiến, coi nhà vua như Thiên tử (con Trời) và hết thảy con dân trong nước đều là thần dân (tôi tớ), các vị tử đạo rao giảng giáo lý: tất cả ai nấy đều là con Trời, và vì vậy đều có phẩm giá như nhau.
- Trước thói tục đa thê hoành hành trong mọi tầng lớp xã hội, từ vua quan đến thứ dân, các vị tử đạo rao giảng nền luân lý đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn (sống với nhau cho đến chết). Một nền luân lý cao đẹp, có sức nâng cao nhân phẩm và biến đổi xã hội mãnh liệt.
- Trước hoàn cảnh chính trị đất nước phức tạp (các triều đại tranh quyền với nhau, Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước, giặc giã nổi lên nhiều chỗ…), các vị tử đạo nhiều lần bị nghi ngờ theo Tây, theo giặc, nhưng các ngài đã luôn chứng tỏ lòng trung thành với đất nước và trung thực với chính quyền. Ngay các vị thừa sai tử đạo cũng đã không bao giờ phục vụ cho quyền lợi của đất nước họ.
Chính đó là những thách thức đối với vua chúa lẫn xã hội đương thời, và trở nên lý do khiến các ngài bị bách hại.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam như thế là những người gieo của Thiên Chúa mà Thánh vịnh đã 126 [125] đã ám chỉ: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo” (c. 5). Nước mắt và máu của các ngài đã tưới vào hạt giống Tin Mừng, hạt giống ân sủng, để ơn huệ Đức tin có thể trổ sinh dồi dào: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
3- Các Thánh Tử đạo VN, những thợ gặt của Nước Trời:
Và từ những đau khổ lẫn tuẫn giáo của các ngài, “mùa gặt của Chúa” đã tới. Thánh vịnh trên tiếp đến gọi các vị Tử đạo là những thợ gặt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126[125], 5-6).
Mùa gặt đó, lúa vàng đó, hoa trái đó chính là sinh lực của Giáo hội VN, là khả năng và lòng kiên nhẫn của Giáo Hội VN để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Tin Mừng suốt bao thế kỷ qua.
Máu các thánh Tử đạo đã là nguồn ân sủng để Ki-tô hữu đất Việt tiến lên trong Đức tin của tiền nhân. Đức tin ấy đã là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt, trung thành với nước Việt, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu kính sợ Thiên Chúa, yêu thương mọi người, tuân phục chính quyền và các định chế của xã hội trong những gì chính đáng vì lòng mến Chúa.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu làm điều thiện, ứng xử như những con người tự do (x. 1Pr 2,13-17), tìm kiếm thiện ích chung của quê hương như một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các đồng đạo, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.
Và đó là điều mà chúng ta đã thấy từ thời các chứng nhân Tử đạo cho đến hôm nay trên đất Việt, qua vô vàn chứng nhân Ki-tô hữu Việt Nam khác nữa.
Kết
Các Thánh Tử đạo đã trở nên những của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập giá của Đức Kitô khổ nạn. Các ngài đã là chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần, cho ơn gọi của con người là được bất tử! Nhờ thế các ngài đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện, và nay đang được hạnh phúc muôn đời. Đúng như sách Khôn ngoan 3,5-9 đã nói về họ.
Là con cháu, là hoa trái của các ngài, chúng ta cũng được hứa hẹn những điều như thế nếu chúng ta tham gia vào thống khổ và thập giá của Đức Ki-tô, để thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện. Và như vậy, mùa gặt của các Thánh Tử đạo Việt Nam sẽ kéo dài mãi trong hân hoan qua tất cả chúng ta!
Cảm hứng bài giảng của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô trong Thánh Lễ tuyên Hiển Thánh cho các Chân Phước tử đạo Việt Nam ngày 19-06-1988.
Đức Tin Ngời Sáng Tươi Dòng Máu Đỏ, Tình Mến Sắt Son Thắm Sắc Da Vàng. Dù là ai, mỗi người 24/11-247
Đức Tin Ngời Sáng Tươi Dòng Máu Đỏ Tình Mến Sắt Son Thắm Sắc Da Vàng.
Dù là ai, mỗi người cũng chỉ có một cuộc đời, một lần sống, nhưng hơn thua nhau là biết sống khôn ngoan hay không. Vòng luân hồi chỉ là chuyện “không tưởng.” Cuộc sống không quan trọng ở chiều dài mà quan trọng ở chiều sâu. Ai cũng chỉ có một cuộc đời nhưng số phận có thể khác nhau, Kinh Thánh phân biệt số phận của người công chính và số phận của phường vô đạo.
Không thể chọn lựa hoặc rút kinh nghiệm vì chỉ có một lần sống và chỉ có một lần chết. Do đó mà phải nỗ lực sống sao cho có ý nghĩa để cái chết hợp lý và có ý nghĩa. Có điều rất lạ: Trong Nhóm Mười Hai có đến 10 vị Tông Đồ tử đạo, chấp nhận máu đổ ra để minh chứng Đức Tin, trừ người-môn-đệ-Chúa-yêu là Gioan và người phản bội là Giuđa Ítcariốt. Rất phù hợp với Mối Phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10)
Chính Chúa Giêsu còn nói thêm để tái xác định và chứng minh: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12)
Về số phận của những người công chính, Kinh Thánh cho biết: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” (Kn 3:1) Như vậy là họ được “bay” thẳng về trời, không phải qua Luyện Hình. Ôi, chẳng còn hạnh phúc nào hơn nữa!
Và Kinh Thánh còn cho biết thêm: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử.” (Kn 3:2-4) Trong con mắt của người đời, họ là những người thua thiệt, là dại dột, nhưng thực ra họ lại được chính Thiên Chúa làm gia nghiệp đời đời. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười.” Hai chữ khác nhau, chỉ đổi vị trí là đảo nghĩa ngay: “Cười người” thành “người cười.” Thể chủ động (cười) biến thành thể thụ động (bị cười). Việt ngữ độc đáo quá!
Sách Khôn Ngoan nói rõ: “Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời. Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn.” (Kn 3:5-9)
Bức tranh cuộc đời của mỗi người đều được vẽ bằng những nét số phận, mỗi người mỗi khác. Cuộc đời của mỗi người cũng là những bài thơ với các thể loại và các vần điệu khác nhau. Cũng vậy, cuộc đời của mỗi người cũng là một bản trường ca với giai điệu khác nhau, âm thể khác nhau, tiết tấu khác nhau, hòa âm khác nhau, kể cả giai kết cũng khác nhau, nhưng ý chính vẫn phải là bản nhạc yêu thương. Với các thánh tử đạo Việt Nam, bản nhạc đời của các ngài là bản hùng ca vô thường, không chỉ viết bằng những nốt nhạc của số phận mà còn viết bằng máu đào, tươi thắm màu tin yêu. Vâng, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Tình yêu phải rỉ ra chất hy sinh mới là tình yêu đích thực. Chính cái chết lại khiến người ta hạnh phúc chứ không là đau khổ. Hạnh phúc không chỉ tăng lên theo cấp số cộng, mà còn tăng lên theo cấp số nhân: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: ‘Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!’ Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126:1-3) Thật là quá đỗi kỳ diệu, ngoài sức tưởng tượng của con người. Chúng ta, dù là người văn hay chữ tốt nhất thế gian, cũng không thể dùng phàm ngôn mà diễn tả hết niềm hạnh phúc lớn lao như vậy!
Đau khổ càng nhiều thì hạnh phúc càng lớn. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:5-6) Đó là hệ lụy chắc chắn. Khi quá vui, vì không còn biết diễn tả bằng cách nào khác, đôi khi người ta phải bật khóc, để những giọt mặn của niềm vui sướng tự do lăn dài, cả hồn xác ướt đẫm nỗi vui mừng khôn tả!
Thấm nhuần giáo huấn của Thầy Giêsu, Giáo hoàng Phêrô cho biết: “Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.” (1 Pr 4:14) Lạ hết sức, “bị sỉ nhục” mà lại là “có phúc.” Những người không có niềm tin Kitô giáo thì không thể hiểu nổi!
Thánh Phaolô tâm sự: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu. Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:17-18) Cây Thập Giá là biểu tượng của đức tin, vì thế mà những người bách hại Công giáo rất sợ, họ đã dùng Thập Giá để dụ người ta bước qua, nhưng vô ích đối với những người tin vào Đức Kitô – cụ thể là hàng trăm ngàn các vị tử đạo Việt Nam, đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi thành phần – thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Thánh Phaolô dẫn chứng: “Có lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao?” (1 Cr 1:19-20) Những câu hỏi nhỏ nhưng không dễ trả lời chút nào, và cũng khó lý giải nếu không có loại tình yêu “khác người.” Thật vậy, “thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người, cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin.” (1 Cr 1:21)
Thánh Phaolô cho biết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì CÁI ĐIÊN RỒ CỦA THIÊN CHÚA CÒN HƠN CÁI KHÔN NGOAN CỦA LOÀI NGƯỜI, và CÁI YẾU ĐUỐI CỦA THIÊN CHÚA CÒN HƠN CÁI MẠNH MẼ CỦA LOÀI NGƯỜI.” (1 Cr 1:22-25) Hai thái cực trái ngược nhau, vì thế mà người đời không thể hiểu nổi cách lập luận như vậy, nhưng chúng ta may mắn có đức tin Kitô giáo, cho nên chúng ta có thể hiểu cái lý lẽ nghịch-mà-thuận đó – dù mức độ hiểu nhiều hay ít, khác nhau ở mỗi người.
Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Lời tiên báo đó đã và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam, càng lúc càng có chiều hướng gia tăng. Thật đáng sợ với mưu mô thâm độc, nhưng đừng hốt hoảng, vì Chúa Giêsu căn dặn: “Khi người ta nộp anh em thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:19-20)
Bị người ngoài bách hại đã đành, những người tin yêu Chúa cũng chẳng yên thân với chính các thân nhân của mình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Không hẳn là những người trong gia đình hoặc trong dòng họ sẽ nộp nhau hoặc ra mặt chống đối, nhưng có thể “bằng mặt mà không bằng lòng,” họ bách hại nhau bằng nhiều cách tinh vi: Lườm nguýt, xa lánh, ghen ghét, mỉa mai, gièm pha, khích bác,... Kẻ nào “yếu bóng vía” thì sẽ “lung lay” ngay!
Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là con Rồng cháu Tiên, sinh trưởng trên dải đất nhỏ bé hình chữ S, ở một đất nước như chúng ta, có hoàn cảnh sống như chúng ta, hít thở không khí như chúng ta, ăn uống các loại ẩm thực như chúng ta,... thế nhưng các ngài đã viết nên bản Hùng Ca Tin Yêu bằng chính những giọt máu đào của mình. Âm nhạc có những cung bậc khác nhau, cuộc đời của chúng ta cũng tương tự. Chúng ta không viết bản nhạc cuộc đời mình bằng máu tử đạo, nhưng chúng ta có thể viết bằng cách khác: Sống âm thầm chịu đựng đau khổ vì Chúa cũng là một cách tử đạo liên lỉ, có ích lợi cho chính mình và các linh hồn. Cách nào cũng có mức độ khó riêng, chẳng cách nào dễ. Vấn đề là chúng ta có hoàn tất bản tổng phổ cuộc đời mình hay không.
Trên đường lữ hành trần gian và sống cuộc sống gọi là đời thường nhưng lại lắm thứ nhiêu khê hơn chúng ta tưởng. Vì thế, chúng ta luôn cần phải cảnh giác nhiều thứ, cảnh giác không ngừng, cả tinh thần lẫn thể lý. Một trong các thứ cần phải luôn cảnh giác là những người chúng ta giao tiếp hằng ngày, như Thánh Phaolô đã nói: “Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu.” (1 Cr 15:33)
Thật vậy, người Việt cũng có những cách nói tương tự: “Chọn bạn mà chơi,” hoặc “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.” Sờ vào bùn đất thì làm sao giữ cho tay không vấy bẩn? Sống trong môi trường ô nhiễm, mấy ai không nhiễm bệnh? Kẻ yếu thì đừng ra gió!
Lạy Thiên Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con (Lc 17:5) để chúng con đủ sức đi trọn đường trần. Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con, xin giúp chúng con luôn biết noi gương các ngài mà viết cuộc đời của chúng con bằng những nét tin yêu rõ ràng và dứt khoát. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. Về mục lục