*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Có lần đến thăm một trại cùi, tôi đã có dịp gặp gỡ một con người, mà những hình ảnh và những câu chuyện về con người này, đã làm cho tôi nhớ mãi không quên. Đó là câu chuyện về ông Tào.
Tôi xin được phép nói ngay: Đây là một con người tên Tào, chứ không phải là Tào Tháo, cũng không phải tào lao, cũng không phải là Thiên Tào, hay Nam Tào gì cả.
Ông Tào năm nay 70 tuổi. Ong là một con người rất nhỏ bé. Nếu cộng thêm cả hai cái nạn, thì may ra ông mới được 30 kg.
Hai chân của ông đã bị cắt cụt đến đầu gối.
Còn hai bàn tay thì đã mất hết các ngón.
Hai cánh tay của ông thì co quắp lại, như hai khúc củi khô cằn, sần sùi.
Mũi của ông thì đã bị sụp xuống, chẳng còn thấy cái sống mũi đâu nữa. Do đó, khuôn mặt của ông đã trở nên phẳng lì, trông rất khó coi.
Còn hai mi mắt của ông thì co lại, trông giống như mắt thỏ.
Da mặt của ông thì nhăn nheo.
Dung nhan của ông thì đã bị dị dạng.
Trông thấy ông, nhiều người rùng mình sợ hãi, không dám đến gần.
Ông Tào mắc bệnh phong cùi, từ hồi còn ở tuổi thanh niên. Khi mọi người phát hiện ông bị phong cùi, thì mọi người đều tìm cách xa tránh, kể cả những người thân ở trong gia đình.
Ai cũng coi ông như đồ phế thải, độc hại, đáng sợ, không dám đến gần.
Ông Tào rất cô đơn. Ông không có vợ, không có con, không có một người thân quen nào.
Đúng hơn, là những người thân của ông, khi đưa ông vào trại, thì không còn ai nhớ đến ông nữa.
Nếu cứ xét từ bên ngoài, thì cuộc đời của ông là đen tối nhất. Bởi phía trước mặt, ông chỉ thấy toàn là một đêm đen dầy đặc. Ông không thấy tương lai. Ông không có ngày mai.
Xem ra, thì ông Tào là người bất hạnh nhất trần gian.
*****
Thế nhưng, trước mặt Thiên Chúa, và trước mặt những người đã có dịp gần gũi với ông dù chỉ một lần, thì cũng đều thấy nơi ông là một con người thật vĩ đại. Bởi tâm hồn của ông rất vĩ đại.
Ông Tào là một người công giáo rất đạo đức, rất mẫu mực.
Ông có một đức tin vào Chúa rất vững chắc, rất sâu sắc.
Tuy ông là một con người rất bất hạnh, nhưng ông lại không hề cảm thấy mình bất hạnh.
Bởi, ông đã coi Chúa là Hạnh Phúc của đời ông.
Bởi, ông đã tìm thấy được những giá trị vĩnh cửu, ngay trong chính những nỗi khổ đau tột cùng của cuộc đời ông.
Bởi ông coi những đau khổ của ông, như là một kho tàng quí báu, mà Chúa đã tặng ban cho ông, để ông được diễm phúc chia sẻ với những đau đớn và những cực hình mà Chúa đã chịu xưa kia. Cho nên ông không hề coi cuộc đời của mình là bất hạnh.
Tuy ông rất cô đơn, nhưng ông không hề cho mình là cô đơn, bởi cuộc đời của ông đã có Chúa đồng hành.
Ông không hề cho mình là cô đơn, bởi ông đã thấy còn có biết bao nhiêu bệnh nhân khác đang sống bên cạnh ông. Họ tôn trọng ông. Họ yêu mến ông. Họ rất cần được ông giúp đỡ.
Và ông luôn quyết tâm, sẽ làm hết sức của mình, với tất cả những gì có thể, để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
Đối với Chúa, ông đã có một đời sống cầu nguyện thật gương mẫu. Ông luôn coi Chúa là nguồn an ủi, là nguồn sức mạnh nâng đỡ cuộc đời cô đơn bất hạnh của ông.
Ông đã biến cuộc đời, xem ra như bất hạnh ấy, thành những bài ca bất tận, để ca ngợi và chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa.
Ông đã cố gắng dùng đôi cánh tay cùi, trụi lủi của mình, để cặp chiếc dùi trống, mà đánh trống, để giữ các giờ kinh cho Giáo Dân, để kêu mời giáo dân đến nhà nguyện cầu kinh mỗi ngày.
Ông đã đảm nhận việc quét dọn nhà nguyện cho sạch sẽ.
Ông lo thắp các đèn nến trong nhà thờ, trong các buổi cầu kinh.
Ông lo việc hướng dẫn và thuyết minh những người đến thăm trại phong. Rồi đưa các du khách vào nhà thờ để viếng Chúa.
Có lần ông đã khoe, là ông luôn cầu nguyện cho các bạn bệnh nhân đồng cảnh ngộ như ông, để họ cũng được ơn vững lòng trông cậy vào Chúa, để đừng có ai nản chí buồn lòng, mà làm cho Chúa không vui.
Ông còn dạy kẻ này người nọ cầu nguyện cho các ân nhân của trại mình.
Còn đối với tha nhân, ông luôn sống rất quảng đại. Ông cố gắng sống hoà hợp với mọi người.
Lãnh đạo của trại còn cho biết:
Nhiều lần, ông còn giúp nấu cơm, giặt quần áo cho các bệnh nhân khác, khi họ đau ốm, mà không thể tự lo cho mình được...
Ông còn thấy được những nhu cầu của từng người trong trại, để rồi ra tay giúp đỡ khi có thể, hoặc để cầu nguyện cho họ. Và cũng cầu nguyện xin Chúa gởi những ân nhân đến giúp đỡ trại.
Có lần, ông còn bớt khẩu phần của ông, để giúp đỡ kẻ này người nọ trong trại.
Một nữ tu, nhân viên của trại còn cho biết một điều thật cảm đông:
Là mỗi khi có người nào trong trại ốm nặng phải nằm nhà thương, thì chính ông mỗi tối, đích thân đến trông coi chăm sóc người ấy, cho đến khi bệnh nhân xuất viện, hoặc vĩnh viễn ra đi mới thôi. Bao lâu người bệnh còn nằm bệnh viện, thì bấy lâu ông không nằm ngủ nghỉ ở nhà.
Đến nhà thương, ông thường nằm ngoài hành lang, trước cửa phòng bệnh nhân để nghe ngóng.
Nếu hay tin, có một người công giáo nào hấp hối, thì ông liền chạy ngay đến, để giúp bệnh nhân phó mình trong tay Chúa.
Ông không muốn thấy một người nào đồng cảnh như ông phải ra đi trong nỗi cô đơn buồn tuổi.
Ông quyết tâm tiễn đưa họ đến nơi an nghĩ cuối cùng mới an lòng.
Mặc cho lúc trời lạnh giá mưa gió, hay nắng nóng oi bức, ông không hề bỏ lỡ một cơ hội nào, mà không tiễn đưa bạn đồng cảnh ngộ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Các chị nữ tu ở đây còn cho biết:
Nhiều khi chúng tôi thấy ông mệt mỏi, nên đã mời ông ở nhà nghỉ ngơi, bởi chúng tôi thay phiên nhau trông nom bệnh nhân là đủ rồi, nhưng ông nhất quyết không chịu.
Ông nói:
“Các sơ còn phải nghỉ ngơi để lấy sức cho công việc của ngài mai. Phần con thì đã già rồi, không ngủ được. Và nếu cần, thì ngày mai con ngủ bù lại cũng được, có sao đâu. Vã lại, con muốn tiễn những người bạn của con đi hết chặng đường đời của họ phải đi, con mới an tâm...”
Ông Tào không chỉ sống với những người trong cùng một trại, mà ông còn liên lạc, quan hệ thân thiện với những người đồng bệnh ở các trại khác nữa.
Một cán bộ trại cho biết: Ông đã nhờ ai đó, buộc sẵn cho ông một cây viết ở đầu cùi tay trụi lũi, để ông có thể viết thơ cho kẻ này người nọ.
Những dòng chữ ông viết thì nghệch ngoạc rất khó đọc, nhưng qua đó, ai cũng thấy bao phấn đấu, bao cố gắng, bao hy sinh của ông.
Gần đây, tôi có nhận được tin, là ông Tào đã qua đời.
Tôi có cầu nguyện cho ông. Nhưng cuộc đời của ông cứ làm cho tôi suy nghĩ mãi.
Cuối cùng, tôi mới ngộ ra rằng:
Con người ta chỉ cần có một chút ý thức, chỉ cần có một chút ý chí, chỉ cần có một chút cố gắng, chỉ cần có một chút phấn đấu, chỉ cần có một chút nhiệt thành, chỉ cần có một chút đạo đức, thì dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng đều có thể phụng sự Chúa và phục vụ mọi người được.
Tôi nghĩ:
Không ai nghèo hơn ông. Bởi cái nghèo của ông, không chỉ nghèo về tiền bạc, nghèo về của cải, mà những tiện nghi tối thiểu để giúp ông sống, để giúp ông sinh hoạt cũng không có nữa.
Chẳng hạn, đôi tay và đôi chân của đã ông không còn có một ngón nào hết, thế mà ông vẫn có thể làm việc và phục vụ người khác được.
Rồi đôi bàn chân vừa mắc cá của ông đã không còn nữa, thế mà ông vẫn đi khắp đó đây, chứ đâu có chịu ngồi yên một chỗ.
Tuy ông đã không còn tay còn chân, thế mà ông vẫn làm được không biết bao nhiêu việc, và đã giúp ích cho không biết bao nhiêu người !
Lạy Chúa, khi nhìn lại đôi tay và đôi chân của con, với các chi đầy đủ, bỗng con cảm thấy áy náy, vì hình như con chưa làm được gì để phụng sự Chúa và giúp đỡ những người bất hạnh sống bên cạnh con.
Khi nhìn lại những tiện nghi con đang an hưởng, bỗng con cũng cảm thấy áy náy, vì hình như, con chưa biết chia sẻ cái gì cho ai, những người đang có những hoàn cảnh ít may mắn hơn con, đang sống bên cạnh con.
Bởi, con đã quên điều Chúa đã dạy trong kinh thánh, ở Phúc Âm theo thánh Matthêu 25,42-46.
Chúa đã dạy như sau:
“Vì xưa ta đói, các ngươi đã không cho Ta ăn. Ta khát, các người đã không cho Ta uống. Ta là khách lạ, các người đã chẳng chịu tiếp rước. Ta mình trần, các ngươi đã không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng đến viếng thăm ta...”
Và cuối cùng, Chúa đã kết luận một cách rất dứt khoát:
“Ta bảo thật cho các ngươi biết: Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những anh em bé mọn khốn khổ này, là các ngươi đã không làm cho chính ta”.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con thêm ý thức, và xin nhắc nhở cho con những việc phải làm, để mỗi ngày trong cuộc sống, con sẽ sống đẹp lòng Chúa hơn nữa. Amen.
Toà Nhà Thương Mại của nước Mỹ (cũng được gọi là nhà tháp đôi, gọi nôm na theo hình dáng của toà nhà), là một trung tâm giao dịch thương mại lớn nhất thế giới, nơi đều khiển toàn bộ nền kinh tế và hành chánh của nước Mỹ.
Có thể coi Tòa Nhà Thương Mại này là chính niềm hãnh diện và tự hào của nhân dân Hoa Kỳ.
Thế nhưng, tòa nhà này đã bị bọn khủng bố, dùng 2 chiếc máy bay của Mỹ, do chính phi công của Mỹ lái, đâm thẳng vào toà nhà này ngày 11-09-2001.
Và trong khoảnh khắc, toà nhà này đã bị nổ tung, và đã bị thiêu rụi gần như hoàn toàn, đến nỗi không còn có thể sử dụng lại được nữa.
Nhiều ngàn người đã bị chết cháy. Nhiều chục ngàn người đã phải chịu cảnh mất chồng, mất vợ, mất cha, mất mẹ, mất con cái.
Nhất là, nhiều chục ngàn người, bàng hoàng sợ hãi, vì tai hoạ khủng khiếp đó. Họ đã mất phương hướng để có thể vươn lên, để có thể tiếp tục sống.
Thiệt hại về vật chất, phải nói là rất to lớn.
Mà thiệt hại về tinh thần, cũng thê thảm không kém.
Bởi, trong một thời gian khá dài sau biến cố đó, người Mỹ vẫn tiếp tục sống trong nôm nớp lo sợ, trong bất an, trong lo lắng sợ hãi, như lúc nào cũng sắp có khủng bố.
Người ta cảnh giác đề phòng bằng nhiều biện pháp an ninh thật gắt gao, thật chặt chẽ.
Những chuyến bay đã được kiểm soát thật nghiêm nhặt, với những phương tiện máy móc thật tinh vi, thật hiện đại.
Đây là một biến cố hãi hùng, mà nhân dân Hoa Kỳ sẽ không bao giờ có thể quên được trong ký ức của mình.
Người ta gọi đó là biến cố ngày 11-09-2001.
Sau biến cố khủng khiếp này, người ta có mời một vị giảng thuyết nổi tiếng của Mỹ, làm một cuộc phỏng vấn trên truyền hình.
Những câu hỏi và những câu trả lời của cuộc phỏng vấn này, đã gây nên nhiều ấn tượng và nhiều suy nghĩ thật sâu sắc, không những tại nước Mỹ, mà còn ảnh hưởng nhiều đến hàng triệu triệu người trên khắp thế giới.
*****
Cuộc phỏng vấn đã bắt đầu như thế này:
Thưa cô: Tại sao Thiên Chúa, lại để cho xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?
Với một giọng nói đầy xác tín, cô trả lời ?
Tôi nghĩ, là Thiên Chúa rất buồn về điều đã xảy ra, ít nhất là Ngài cũng rất buồn như chúng ta. Ngài cũng rất buồn bằng chúng ta.
Nhưng mà nghĩ lại xem: Đã từ bao năm nay rồi, chúng ta đã yêu cầu Ngài, phải đi ra khỏi các trường học của chúng ta.
Chúng ta đã thỉnh cầu Ngài, phải đi ra khỏi các gia đình của chúng ta.
Chúng ta đã van xin Ngài, phải đi ra khỏi Chính Phủ của chúng ta.
Chúng ta đã tìm hết mọi cách, để loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống của chúng ta.
Và quả thật, Ngài là một vị rất “quân tử”, nên Ngài đã lẳng lặng rút lui ra đi.
- Vậy thì làm sao, chúng ta có thể hy vọng Chúa ban ơn lành cho chúng ta.
- Vậy thì làm sao, chúng ta có thể hy vọng Chúa che trở cho chúng ta, khi mà chúng ta đã tha thiết khẩn khoản nài xin Ngài, đừng có can thiệp gì nữa vào cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta đã xin Ngài là trong mọi chuyện, hãy để cho chúng ta được tự do mà lo liệu?
Rồi khẽ nhún vai một chút, cô ta lại nói tiếp:
Về những biến cố mới vừa xảy ra, như những cuộc tấn công, như những cuộc khủng bố, như những cảnh bắn súng, như những cảnh chém giết hàng loạt trong các trường học, làm cho nhiều người phải chết một lúc. Rồi những cuộc chiến tranh chém giết nhau cứ liên tiếp xảy ra khắp nơi vv...
Tôi nghĩ: Mọi sự đã khởi đầu với bà Madeleine Murray Ohare, khi bà đã mạnh dạn lên tiếng than phiền, là bà không muốn thấy các em học sinh tiếp tục đọc kinh trong các trường học nữa.
Và mọi người chúng ta trong cả nước, đều đã biểu quyết, đều đã nhất trí đồng ý.
Rồi một người khác nữa lại có ý kiến, là yêu cầu đừng có ai mang sách Kinh Thánh vào trong các lớp học, vào trong các cơ quan làm việc, vào trong các Công Sở nữa.
Và mọi người chúng ta trong cả nước, đều đã biểu quyết, đều đã nhất trí đồng ý.
Đang khi đó thì sách Kinh Thánh lại dạy chúng ta:
“Chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ gian dâm. Hãy yêu thương người khác như chính bản thân mình...”.
Và mọi người chúng ta hôm nay trong cả nước, đều đã nhất trí đồng ý không sống theo Kinh Thánh của Chúa nữa.
Cho nên, những gì đang xảy ra trong hiện tại, đó chính là thứ Kinh Thánh mà chúng ta đã chọn, đã lựa.
Vậy thì, làm sao chúng ta có thể trách Chúa được nữa?
Và cô ôn tồn kết luận:
Bây giờ đây, chúng ta hãy tự hỏi mình xem, là tại sao con em chúng ta không còn có lương tâm trong sáng như ngày trước kia.
Tại sao chúng ta không còn phân biệt được, đâu là thiện, đâu là ác, đâu là điều tốt để theo, đâu là điều dữ để tránh?
Chúng ta hãy tự hỏi chúng ta xem.
Rồi tại sao chúng ta lại nhẫn tâm giết một người lạ mặt, giết một người thân quen, rối tự sát, giết chính mình, mà lương tâm không hề có một chút áy náy gì.
Chúng ta hãy suy nghĩ lại cho kỷ đi. Bởi chúng ta gieo nhân nào, thì tất nhiên chúng ta phải gặt hái quả đó thôi.
Đây cũng là chuyện bình thường.
Đây cũng là lẽ tự nhiên thôi.
*****
Bạn thân mến,
Có thể, bạn cho câu trả lời của cô giảng thuyết này, là khó chấp nhận.
Thế nhưng câu trả lời của cô, có nhiều điều, thật rất đáng để cho chúng ta suy nghĩ lắm.
Bởi, trong cuộc sống thường ngày, tôi và bạn cũng thường hay phàn nàn, cũng thường hay than trách Chúa, mỗi khi gặp những điều không may, mỗi khi gặp những điều buồn lòng trái ý.
Có lúc, chúng ta đã thắc mắc tự hỏi:
Chúa đang ở đâu, sao mà Chúa không thấy tôi đau khổ như thế này, để ra tay cứu giúp?
Sao Chúa im lặng mãi trước những cảnh bất công của xã hội, mà tôi đang phải gánh chịu.
Rồi có khi, trong lúc quẫn trí đớn đau cùng cực, chúng ta đã đỗ lỗi cho Chúa, là tại Chúa đã tạo ra những thập giá này, để bắt chúng ta phải gánh, phải chịu.
Ta nên nhớ, Thiên Chúa không tạo ra thập giá, Thiên Chúa cũng không thích thú gì khi thấy con người đau khổ.
Nhưng Chúa thinh lặng và chấp nhận để mọi việc xảy ra, chỉ vì Thiên Chúa tôn trọng quyền tự do, mà Ngài đã trao ban cho con người, từ khi tạo dựng vũ trụ.
Tất cả mọi điều diễn ra cách tệ hại như chúng ta thấy ngày nay, chính là do con người đã xô đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình.
Con người muốn tự mình giải quyết mọi vấn đề, mà không cần Chúa nữa.
Nói một cách khác, con người muốn cuộc sống của mình được tự do hoàn toàn, và không muốn thấy bóng dáng của Thiên Chúa nữa.
Chúng ta nên nhớ: Sự chọn lựa nào, rồi thì cũng phải có cái giá phải trả của nó thôi.
Nếu bạn không muốn có Chúa trong cuộc sống, thì bạn chẳng còn có lý do gì nữa để phàn nàn, để trách móc Chúa?
Lạy Chúa, chúng con đã rất vô tình, đã rất vô tâm, đã rất vô ơn, đã rất bội bạc, đã rất bất hiếu đối với Chúa.
Xin cho chúng con ơn biết nhận ra những lỗi lầm của chúng con, để đừng bao giờ chúng con qui kết tội cho kẻ này người nọ.
Và càng không bao giờ được phép qui kết tội cho Chúa.
Xin cho chúng con luôn biết sống hết tình với Chúa, như một người con hiếu thảo đối Chúa, bởi Chúa là Chúa của con. Amen.
Có một con cáo, bị vấp té, rơi xuống đáy giếng. Vì giếng nước khá sâu, nên nó cứ loay hoay mãi, mà không có cách nào để leo lên khỏi miệng giếng được.
Thế rồi tình cờ, có một con chiên đi ngang qua thấy vậy, liền có ý nghĩ hào hiệp, muốn ra tay giúp đỡ kẻ bị nạn.
Con chiên liền nhảy xuống giếng để cứu bạn. Nhưng khi con chiên vừa nhảy xuống tới đáy giếng, thì con cáo liền nhanh chân, nhảy lên lưng con chiên, rồi phóng một cái thật mạnh, bay lên khỏi miệng giếng.
Khi đã đứng ở miệng giếng rồi, con cáo quay mặt xuống giếng và nói thật to:
Nè anh bạn, đáng đời chưa, từ nay trở đi, đừng có ngu xi dại dột như thế nữa.
Sau đó, con cáo sung sướng, nhảy tung tăng, rồi chạy một mạch thẳng vào rừng sâu, bỏ mặc con chiên ở dưới đáy giếng.
*****
Bạn thân mến,
Con cáo đểu giả quá chừng phải không.
Con cáo lưu manh quá chừng phải không.
Nó rất đáng bị mọi thời đại lên án.
Nó rất đáng bị mọi người kết án.
Bởi nó quá vô tâm.
Bởi nó quá nhẫn tâm.
Bởi nó sống thiếu đạo đức.
Bởi nó sống vô ơn vô nghĩa.
Bởi nó quá tàn ác.
Bởi nó sống không có hậu.
Nhưng mà này bạn. Coi chừng con cáo đó chính là bạn, chính là tôi, chính là hình ảnh của con người hôm nay.
Bởi, ai trong chúng ta cũng đều là những tội nhân, do đang mang thân phận mỏng dòn yếu đuối giới hạn của con người. Cho nên chúng ta rất dễ mắc tội.
Vã lại, trước Nhan Thiên Chúa, Đấng Thánh Thiện tuyệt đối, Đấng hoàn hảo vô chừng, Đấng quyền năng vô chừng, thì có ai dám vỗ ngực tự hào, cho mình là vô tội được chăng?
Bởi, dầu ta có một lỗi lầm nhỏ, một vết nhơ nhỏ, một thiếu sót nhỏ, cũng là đều rất bất xứng trước tôn nhan Thiên Chúa.
Huống chi là những tội nặng, những tội cố tình, cố ý, thì sẽ xúc phạm đến Chúa đến cỡ nào nữa.
Đó là chưa kể, nếu ta cứ cố chấp, cứ ù lì, cứ tiếp tục sống trong tình trạng tội lỗi của ta, từ tháng này tới tháng khác, từ năm này sang năm khác, mà không chịu quay trở về với Chúa, mà không chịu đến xin lỗi Chúa, mà không chịu đến xin Chúa tha thứ.
Có thể bạn nghĩ:
Đời sống đạo của tôi cũng bình thường thôi.
Đời sống đạo của tôi cũng đâu đến nỗi tệ.
Nhưng mà này bạn. Bạn cứ thử nghĩ xem:
Chúa thì luôn sẵn sàng tha thứ cho bạn, tội nào Chúa cũng tha được, bởi Chúa là Đấng toàn năng, bởi Chúa là Đấng nhân từ, bởi Chúa là Đấng hay thương xót.
Đang khi đó, thái độ của bạn lại cứ chần chừ, cứ lần lựa, từ tháng này sang tháng khác, từ năm này sang năm khác, rồi mãi cuối cùng, bạn mới chịu đến với toà giải tội, để xin Chúa tha thứ, thì thử nghĩ: Chỉ bấy nhiêu thôi, thì cũng đã đủ để cho bạn thấy, bạn là người quá vô tình, bạn là người quá vô tâm, bạn là người quá nhẫn tâm đối với lòng thương xót vô biên của Chúa.
Bạn đã làm cho Chúa buồn, vì tội phạm đã đành, bạn lại còn cố tình cứ kéo dài, không muốn Chúa tha thứ, thì cái buồn của Chúa sẽ buồn đến mức nào nữa.
Như thế, mà bạn không cho là bạn đã xúc phạm đến Chúa lắm hay sao?
Đó là chưa kể, bạn là gì, bạn là ai, bạn đã có công trạng gì, để đáng được Chúa quan tâm, để đáng được Chúa chiếu cố, để rồi Chúa cứ phải ngồi sẵn ở đó, để chờ, để đợi bạn đến, để xin lỗi, để thứ tha cho bạn?
*****
Thực sự, chúng ta không khác gì con chó sói, đang bị rơi vào giếng mê của tục luỵ, đang đắm chìm trong biển chết của những đam mê, của xác thịt, của dục vọng, của tội lỗi.
Chúng ta không có cách nào để tự cứu mình ra khỏi cái cảnh trầm luân của tục lụy này, nên Chúa Giêsu, Con Chiên Thiên Chúa, đã tự ý tự nguyện, bỏ trời cao, nhảy xuống giếng đời này, để cứu chuộc ta, để đền tội cho ta, để cứu mọi người thoát khỏi cái vòng tội lỗi tục lụy này.
Ta nên nhớ:
Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, và cũng là Thiên Chúa nữa, như trong thư thứ 2 gởi tín hữu Philipphê, đoạn 2, từ câu 6-8, thánh Phaolô đã xác quyết như như thế này:
“Đức Kitô, tuy vốn là Thiên Chúa, nhưng lại không nghĩ phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, đã chấp nhận thân phận nô lệ, đã trở nên giống người phàm, đã sống như một người trần thế.
- Đã thế, Người lại còn hạ mình xuống, vâng phục Thiên Chúa Cha, vâng phục cho đến chấp nhận cái chết, và chết một cách nhục nhã đau thương trên thánh giá, chết để đền tội thay cho chúng ta.”
Vậy thì, coi chừng, sự bình tâm, sự thanh thản, sự vui sống trong tình trạng tội lỗi hiện tại của ta, mà ta không có chút áy náy gì, chính là một sự tố cáo ta, đang vô tình, đang nhẫn tâm, đang coi thường công trình cứa độ của Chúa, đang nhẫn tâm chà đạp lên tình thương bao la vô biên của Chúa.
Chúng ta muốn Chúa chết bao nhiêu lần nữa, thì chúng ta mới chịu suy nghĩ lại, mới chịu hồi tâm lại, mới chịu quay về với Chúa?
Hay chúng ta lại muốn nói với Chúa, như con cáo đã nói với con chiên: Nè anh bạn, đáng đời chưa, từ nay trở đi, đừng có ngu xi dại dột như thế nữa.
Nếu nói như thế, thì có khác gì chúng ta cố ý muốn nói với Chúa:
Chúa ơi! Con có muốn Chúa cứu đâu. Con có muốn Chúa tha tội cho đâu, để rồi Chúa phải bỏ trời, xuống trần gian, để rồi phải chịu mọi cực hình, để rồi phải chịu khổ nhục, để rồi phải chấp nhận một cái chết thê thảm đến như vậy!
Tội của con thì cứ để mặc kệ con. Con chết thì mặc xác con, có can chi đến Chúa, để Chúa phải bận tâm.
Khi nói như vậy, có phải là chúng ta đã quá vô tâm, đã quá nhẫn tâm đối với Chúa hay sao?
Ta nên nhớ:
Chúa là Cha của ta. Ta là con của Chúa. Làm sao lại có thể vô tình như vậy được.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho những vô tình hay cố ý của con và của bao người, xưa nay đã làm cho trái tim Chúa phải tan nát.
Xin cho chúng con luôn biết những lỗi lầm của chúng con đã phạm.
Xin cho chúng con ý thức: Lỗi tại con, lỗi tại con, lỗi tại con mọi đàng.
Để từ đó chúng con còn biết ăn năn, còn biết hối lỗi.
Để từ đó chúng con biết: Không những lo tránh tội, mà còn lo tránh cả những dịp tội nữa.
Không những chúng con cố gắng tránh những tội nặng, mà còn lo tránh cả những tội nhẹ nữa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ dám coi thường tội nhẹ, để rồi cố tình phạm.
Nhất là, một khi đã lỡ phạm tội rồi, thì xin Chúa giúp chúng con biết ăn năn, biết hối lỗi ngay, và biết lo liệu đến với toà giải tội, sớm hết sức có thể, để được Chúa tha thứ. Amen.
Cuộc sống con người hôm nay có rất nhiều thứ bảo hiểm.
Chẳng hạn:
- Bảo hiểm cho toàn thân thể, thì có bảo hiểm nhân thọ, có bảo hiểm tai nạn, có bảo hiểm sức khoẻ.
- Còn để bảo hiểm cho từng phần của thân thể, thì có bảo hiểm con mắt, bảo hiểm lỗ tai, bảo hiểm lỗ mũi, bảo hiểm cái họng, hay bảo hiểm cho đôi chân đôi tay.
Những ai chuyên về âm nhạc hội họa, thì cần có bảo hiểm cho những ngón tay tài năng của mình.
Còn những ai có biệt tài về thể thao, thì cần bảo hiểm cho đôi chân, đôi tay thể thao của mình.
Những ai có năng năng khiếu về ca hát, thì có bảo hiểm cái cổ họng của mình vv...
Con người cần được bảo hiểm đã đành, mà các đồ vật trong nhà cũng đều có những bảo hiểm riêng của nó:
- Chẳng hạn như bảo hiểm nhà cửa, bảo hiểm đồ đạc, bảo hiểm vòng vàng, bảo hiểm tiền bạc, bảo hiểm ngân hàng, kể cả con chó, con mèo, mà người ta thương mến, cũng đều có bảo hiểm...
Ngoài ra, người ta thấy bày bán ngoài phố chợ, đủ thứ các loại tủ sắt, đủ thứ các loại két sắt, đủ cở, đủ kiểu, đủ loại thật đa dạng.
Đây là những thứ, cũng nhằm giúp bảo vệ cho an toàn những tài sản và những đồ vật quí hiếm của con người.
Rồi khi ra đường, thì người ta sẽ có thứ bảo hiểm xe cộ.
Đi xa, thì người ta lại có bảo hiểm du lịch.
Đến sở làm, thì người ta có bảo hiểm cho công ăn việc làm.
Những việc lao động nặng nhọc cũng có bảo hiểm.
Trong cơ quan, thì người ta có thứ bảo hiểm cho cái lưỡi, kẻo nhỡ có lỡ lời, thì tổ chức, tập thể, cấp trên, sẽ lấp liếm bỏ qua cho.
Ngoài ra, ở các cửa tiệm, cửa hàng, người ta cũng thấy bày bán đủ thứ các loại khoá.
Rồi nhà nào cũng có khóa, cửa dầy, cửa mỏng, cửa lớn, cửa nhỏ, cửa gỗ, cửa sắt, hầu như cửa nào cũng đều có khoá, có then cài, có chốt thật chắc, thật an toàn.
Tất cả những loại khoá đó đều nhằm mục đích, giúp cho cuộc sống con người được an toàn hơn.
Khi cửa đã có khóa, cổng đã có khoá rồi, mà người ta vẫn chưa an tâm, nên người ta lại nghĩ thêm những lớp hàng rào chắn:
Cổng chính, cũng có rào chắn, mà cổng phụ, cũng có rào chắn.
Khách vãng lai muốn vào nhà, thì phải ấn chuông trước, hoặc phải điện thoại trước xin hẹn, thì mới có thể vào nhà được.
Nhiều nhà giàu có đã trang bị thêm màn hình nhỏ trong nhà, để khi có ai ấn chuông, thì chủ nhà có thể nhận ra được giọng nói, nhận ra danh tánh, hình dạng, và tất nhiên là phải biết rõ mục đích của cuộc thăm viếng nữa, thì chủ nhà mới cho vào.
Ngoài ra ngày nay, người ta còn thấy bày bán các loại hệ thống báo động điện tử, rất khoa học, rất thông minh, rất đa dạng, để cho người ta có thể chọn lựa, nhằm giúp bảo vệ cuộc sống người ta sao cho được an toàn nhất.
Nghe nói sắp tới, người ta sẽ cho ra đời những loại công ty bảo hiểm về quá khứ, chắc chắn là sẽ rất đắt khách, đắt hàng lắm.
Bởi vì hiện nay, việc đào bới quá khứ đời tư của kẻ này người nọ, xem ra là một nghề rất dễ hái ra tiền, nhất là khi đào bới đời tư của những người nổi tiếng:
Những chuyện cũ từ bao giờ, những chuyện xa xưa, nay bỗng bị người ta làm cho sống lại, với những chi tiết rất mới mẻ, rất sôi động.
Một người đã chết từ lâu, nay bỗng bị người ta đào bới lên, mổ xẻ, như là những chuyện mới xảy ra hôm qua.
Do đó, quá khứ cũng rất cần được bảo hiểm, để đừng có ai đào bới lên nữa.
Ai cũng nghĩ:
Nếu được bảo hiểm càng nhiều, thì mức độ an toàn càng cao, bởi mọi sự đều đã được các công ty bảo hiểm che chở, bảo bọc thật an toàn.
*****
Thế nhưng, thực tế cho thấy ngược lại:
Mọi giải pháp của bảo hiểm, cuối cùng cũng chỉ qui vào tiền tài, của cải và cuộc sống vật chất mà thôi.
Cho nên, xét về một mặt nào đó của bảo hiểm, thì cho thấy người ta đang rất bất an trong cuộc sống.
Bởi, nếu người ta đã đủ an toàn về mọi mặt, thì người ta đâu có dại gì, mà phải bỏ ra một số tiền lớn cho các thứ bảo hiểm đó.
Điều nghịch lý, là người ta càng lo đi tìm mua bảo hiểm, thì người ta lại càng cảm thấy lo hơn, lại càng nẩy sinh nhiều bất an mới.
Do đó, nhiều công ty lại phải nghĩ ra nhiều loại bảo hiểm mới, để giúp cho người ta được an toàn hơn.
Thế là, cái vòng lẫn quẫn cứ nối tiếp nhau làm khổ con người.
Và thế là, người ta lại cứ nhắm mắt, lao mình vào những thứ bảo hiểm đó.
Và những vòng quay bảo hiểm này, lại cứ lẫn quẫn nối tiếp nhau, như không bao giờ có kết thúc cho an toàn.
Sự người ta áy náy lo đi tìm mua các loại Bảo Hiểm, đã cho thấy là:
Người ta đang thiếu tin tưởng vào cuộc sống.
Nếu để ý một chút, chúng ta cũng sẽ thấy:
Khu vực nào, có nhiều cổng cao, tường cao, rào cao, nhiều cửa đóng kín, với nhiều khoá thật đẹp, thật quí, thật đắt tiền, thì những nới đó, chính là khu vực nghèo lòng tin nhất, và có nhiều trộm cắp nhất.
Mà thật sự, cuộc sống hôm nay, thiếu an toàn một cách trầm trọng.
Bởi, người ta đã mua không biết bao nhiêu loại bảo hiểm rồi, mà người ta cũng vẫn chưa hài lòng, người ta vẫn chưa an tâm.
Tuy người ta đã làm biết bao nhiêu lớp cửa, đã làm biết bao nhiêu lớp cổng, đã khoá bao nhiêu lớp khóa, mà vẫn không ngăn cản được gian phi.
Điều đó cũng dễ hiểu thôi.
Bởi, những gì đến từ bàn tay và khối óc của con người, thì cũng có những bàn tay khác, cũng có những khối óc khác, tìm cách để phá vỡ nó, và chắc chắn là người ta sẽ phá được.
*****
Bạn thân mến,
Càng suy nghĩ, chúng ta càng thấy:
Mỗi một loại bảo hiểm, là một sợi giây trói chặt cuộc đời của ta trong giao tiếp với người khác.
Mỗi một loại khóa, là một phương thức thắt chặt lòng ta lại, làm cho ta mất đi sự tự do, để có thể đến với những người bên cạnh.
Tường cao, rào cao, cửa cao, là những tấm chắn ngăn cản tình người đến với nhau.
Càng nhiều cổng, thì người ta càng xa nhau.
Càng có nhiều khoảng cách, thì người ta càng khó có thể gặp nhau.
Mà đã không thể gặp nhau được, thì làm sao có thể hiểu được nhau, làm sao có thể thông cảm được nhau, làm sao có thể chia sẻ những nỗi khổ của nhau.
Do đó, những tiếng kêu than của những người thống khổ, chỉ có thể tan biến đi trong không khí, chứ không thể nào lọt qua được những cánh cửa, kín cổng, then cài.
Do đó mà Chúa Giêsu cũng đã có lần than thở trong kinh thánh:
“Người giàu có, khó vào nước Thiên Đàng biết bao”.
Trong thực tế, có một cách sống rất dễ bị người ta coi thường, và có một con đường dễ bị người ta chê bai, dèm pha, chỉ trích, mạ lị, bởi nó đi ngược lại với những trào lưu xu hướng của xã hội.
Cách sống đó là cách sống theo Chúa Giêsu.
Con đường đó là con đường đi theo Thầy chí thánh Giêsu.
Chính Chúa Giêsu đã khẳng định:
Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. (Gioan 14,6).
Con đường này, chắc chắn là con đường, không do bàn tay người phàm làm ra, cũng không do khối óc con người nghĩ ra, mà là do Chúa Thánh Thần đã vạch ra cho ta sống.
Con đường này chắc chắn sẽ bảo đảm cho ta một sự sống viên mãn, bảo đảm cho ta một sự sống đời đời.
Nhưng ta có can đảm chọn lựa con đường bảo đảm này chăng ?
Và ta có can đảm sống trọn vẹn theo cách sống bảo đảm này chăng ?
Ta thử hỏi lòng ta xem?
Ta nên nhớ: Con đường thật thì chỉ có một, con đường giả thì có rất nhiều.
Mà Kinh Thánh cho biết: Rất nhiều người đi trên các con đường giả này, bởi nó thênh thang, bởi nó rộng rãi, bởi nó dễ đi, bởi nó rất thoải mái dễ chịu khi đi.
Bởi có nhiều người đi trên con đường giả này, nên những người môn đệ của Chúa, thường là thiểu số, luôn mang trong mình nhiều mặc cảm, khi đi trên con đường sự thật của Chúa.
Đã thế, nhóm thiểu số này, thường bị nhóm đa số lên án, phê bình, chỉ trích, khích bác, áp đảo tinh thần về đủ mọi mặt.
Cho nên nhiều lúc, các môn đệ của Chúa, cũng bị ít nhiều chao đảo, mất phương hướng, có khi đi lạc lối.
Chính Chúa đã thấy trước điều này, nên có lần Chúa đã than thở:
“Không biết, liệu khi Con Người đây trở lại trong ngày tận thế, thì có còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa chăng?” (Phúc âm theo thánh Luca 18,8).
Nhưng về lâu về dài, thì ai cũng thấy: Ngay trong những ngày sống ở trần gian này, những con đường giả, sẽ đưa người ta đến những ngõ cụt, đến những hụt hẫng, đến những lo lắng triền miên, đến những bất an trong cuộc sống.
Bằng chứng, là người ta vất vã chạy đôn chạy đáo, lo đi mua những bảo hiểm cho mình ở trần gian này.
Mà những bảo hiểm ở trần gian này, thật sự không đủ bảo đảm cho tương lai lâu dài của ta đâu.
Bởi những công ty bảo hiểm tự nó, lại cũng rất cần có sự bảo hiểm của những tổ chức lớn hơn, cao hơn, như cấp Quốc Gia, như cấp Quốc tế.
Mà những bảo hiểm, dù ở cấp Quốc Gia hay cấp Quốc tế, thì cũng đều phải lệ thuộc vào những thể chế chính trị, vào những cơ chế xã hội của mỗi thời.
Do đó, những bảo hiểm tự nó rất là mong manh, nên không bao giờ làm cho người ta hết lo âu.
Muốn hết lo, chúng ta hãy cố gắng tìm cho mình con đường Sự Thật của Chúa Cứu Thế.
Bởi con đường này, và chỉ có con đường này, người ta mới có thể tìm thấy được nguồn sống đích thực, ban cho sự sống trường cửu lâu bền.
Và cuộc sống này, có Chúa bảo đảm cho, nên không cần một thứ bảo hiểm nào nữa.
Lạy Chúa, con xin mượn lời Thánh Vịnh 71 câu 3, để nói lên niềm tin tưởng cậy trông phó thác của con vào Chúa:
Lạy Chúa, xin Chúa hãy nên như núi đá cho con trú ẩn, hãy nên thành trì để cứu độ con. Bởi Chúa là Đấng bảo vệ con, là Đấng cứu độ con. Amen.
Có một vị Minh Sư biết giờ chết của mình đã gần kề, liền cho triệu tập các đệ tử của mình lại, để có những lời khuyên nhủ cuối cùng.
Khi lướt qua từng khuôn mặt của các đệ tử đang đứng chung quanh, ông đã nhận ra được những nỗi buồn bả của họ. Bởi họ không thể che giấu được nước mắt.
Có người còn khóc lóc to tiếng, rất thảm thiết, thương tiếc cho sự ra đi của thầy.
Có người còn tỏ ra thất vọng, vì thầy là thần tượng của mình, mà rồi thầy cũng phải chết như bao người khác.
Bấy giờ, vị Minh Sư mới tươi cười bảo họ:
Các con không thấy rằng, cái chết, mới làm cho đời sống của ta, đáng yêu, đáng quý hơn hay sao?
Một số đệ tử nhanh miệng trả lời: Dạ thưa không. Chúng con chỉ ước mong thầy đừng bao giờ chết.
Vị Minh Sư cố gượng sức, chậm rãi trả lời cho họ từng tiếng một:
Các con ơi!
Bất cứ cái gì, thực sự là sống, thì cũng đều phải chết.
Các con hãy thử nhìn xem những bông hoa ở sân vườn trước nhà. Chỉ có những bông hoa giả, những bông hoa làm bằng giấy, bằng nhựa, bằng nylon, mới không chết mà thôi.
***
Bạn thân mến!
Chết là điều chắc chắn sẽ xảy đến cho mỗi người chúng ta, không ai trên cõi đời này, mà không có ngày phải chết.
Chết là một sự kết thúc cuộc sống này, và là một cuộc khởi đầu cho một cuộc sống khác.
Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn.
Nó nhắc nhở cho chúng ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật mong manh phù du của đời sống con người trên trần gian này.
*****
Phần Giáo Hội Công Giáo, hằng năm cứ vào tháng 11, là Giáo Hội mời gọi tất cả các tín hữu trên khắp thế giới, hãy tưởng nhớ đến những người đã chết, những người đã ra đi trước chúng ta, trong đó, phải kể đến những người thân yêu trong gia đình, gồm tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những người đã làm ơn cho chúng ta cách này khác, nay đã qua đời.
Tưởng nhớ, để cầu nguyện với họ, và để xin lễ, để đi dự lễ nhiều hơn, để rước lễ sốt sắng hơn, để làm thật nhiều việc lành phúc đức, mà cầu nguyện cho họ.
Đó là điều, mà Giáo Hội mời gọi chúng ta, hãy cố gắng cùng nhau thực hiện trong suốt tháng 11 này.
Khi nghĩ đến những người đã chết, chúng ta cũng phải nghĩ tới cái chết của chính bản thân mình.
Có những điều rất chắc chắn về cái chết của mình, đó là:
1. Tôi là một con người, nên tôi phải chết. Đó là qui luật chung cho vạn vật trong vũ trụ.
2. Khi chết, tôi sẽ không mang theo được gì, ngoại trừ tội lỗi và công phúc.
3. Chết không phải là hết, mà là còn... Còn đời sau.
Còn Thiên Đàng, là nơi dành để thưởng những người lương thiện lành thánh, những người có nhiều công phúc ở trần gian này.
Còn Hoả Ngục, là nơi đền tội của những người dữ, những người đã làm những điều xấu, những người đã làm những điều gian ác, những người chuyên làm hại người. Họ phải trả lẽ về những gian ác, mà họ đã làm khi còn sống.
Và để phân định được lành dữ, thì liền sau khi chết, mọi người, ai cũng phải ra trình diện trước tòa án Thiên Chúa Công Minh, để chịu phán xét.
Nơi đây, mọi người và từng người, phải báo cáo tường trình từng chi tiết về cuộc sống của mình, trong những ngày sống ở trần gian, từ lúc chớm có trí khôn, cho đến giây phút kết thúc cuộc sống.
Nhưng cũng có những điều không chắc chắn, về cái chết của mình, đó là:
1. Cái chết sẽ đến với tôi vào lúc nào ? Ngay bây giờ, hay ngày mai, hay bao nhiêu năm nữa.
2. Cái chết sẽ đến với tôi ở đâu? Ơ chỗ nào? Trong nhà tôi, hay trong nhà của ai. Trong bệnh viện, hay ngoài đường phố, trên sông, hay trên biển cả, hay trên máy bay.
3. Cái chết đến với tôi bằng cách nào? Tôi chết êm ả trên giường bệnh, hay chết thê thảm, vì tai nạn giao thông. Tôi chết toàn thây, hay thân xác tôi bị méo mó, mất mát nhiều chi thể. Tôi chết vì tuổi già, hay chết yểu, vì tuổi đời chưa được bao nhiêu.
4. Sau khi chết, tôi sẽ đi về đâu: Đi về Thiên Đàng là cõi phúc đời đời, hay phải đi vào chốn trầm luân đời đời kiếp kiếp.
Dù là những cái chắc chắn hay không chắc chắn ở trên, đều chung qui có một điều, đó là có ngày tôi sẽ chết. Đó là điều, mà tôi không thể nào tránh được.
Cái chết của mỗi người, chính là một chuyến đi cuối cùng, một chuyến đi quyết định và quan trọng nhất đối với đời người, một chuyến đi vĩnh viễn, mà không bao giờ trở lại.
Vậy, để chuẩn bị cho chuyến đi quyết định này, một chuyến đi không bao giờ trở lại, thì ta đã chuẩn bị cho mình được những gì ?
Ta hãy tìm nơi yên tĩnh, để tự kiểm điểm lại cuộc đời của ta xem?
Lạy Chúa! Xin cho con biết chấp nhận mất đi chính bản thân, để con lại được chính Chúa.
Xin cho con biết chấp nhận mất đi những điều tầm thường, để con lại được những điều cao cả.
Xin cho con biết chấp mất trần gian tạm bợ này, để con lại được Thiên Đàng, được hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa. Amen
Hôm nay, là ngày cuối cùng của tháng 10 dương lịch, cũng là ngày chuẩn bị bước vào lễ trọng, mừng kính các thánh nam nữ trên trời, ngày 1 tháng 11, những người Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của Mỹ, đã tổ chức một ngày lễ hội, để tưởng nhớ đến các thần dữ.
Người ta gọi lễ đó là Halloween, nghĩa là vọng lễ các thánh.
Có lẽ, đây là những gì còn rơi rớt lại, của một ngày lễ ngoại giáo, có nguồn gốc từ những người Celtic, thời trước Công nguyên, một ngày lễ mang màu sắc ảm đạm và ma quái.
Trong ngày Halloween này, các cửa tiệm, các hàng hóa, đều trưng bày khắp nơi những hình ảnh rùng rợn, quái dị, rất ấn tượng, tạo nên một bầu khí và một khung cảnh thật kỳ quái:
Nào là những hình nộm, với những bộ mặt được tô vẽ màu sắc giống như những thần chết.
Rồi những màng nhện trắng xóa, được giăng bủa mắc khắp nơi trong thành phố.
Còn những đồ chơi trẻ em được bày bán, cũng được khoác lên màu sắc, và những đường nét kinh hãi, rất quái dị.
Trên các màn ảnh nhỏ trên truyền hình, cũng như trong các rạp chiếu bóng, đa số các phim ảnh được trình chiếu, đều mang nội dung thật quái đản, thật kinh dị.
Rồi vào buổi tối ngày Halloween, các thanh niên thiếu nữ, thường tập họp thành nhóm, cải trang thành những ma quái, rồi để đến từng nhà, để ca hát, để xin kẹo, và để kể cho nhau nghe những chuyện ma quái.
*****
Bạn thân mến,
Sự kiện mỗi năm, người ta dành riêng ra một ngày, để nhắc nhở về sự hiện hữu, và sự tác oai tác quái của các thần dữ, đã tạo nên cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Trước hết, liệu ngày nay, khi tổ chức lễ Halloween như vậy, con người ta có thật sự ý thức về sự hiện diện của tội lỗi và của ma quỉ hay không?
Nhất là người ta có thật sự ý thức về những hoạt dộng đều khắp của ma quỉ nơi trần gian này không?
Ngày nay, với những khám phá mới trong ngành tâm lý học, cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng, tất cả những vụ quỷ ám mà Kinh thánh nói tới, chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn, mà ngày nay khoa học có thể tìm ra nguyên nhân.
Những khẳng định này đã làm cho nhiều người thở phào nhẹ nhõm hết sợ hãi, sẽ giúp cho nhiều người an tâm và vui sống thật thoải mái, bởi ma quỉ thật sự không có để mà sợ.
Nhưng ta nên nhớ:
Thế giới tâm linh, thế giới thần thiêng, thế giới tôn giáo, là thuộc một phạm vi khác, thuộc một lãnh vực khác. Nó không phải là đối tượng, để cho người ta có thể đem lên bàn mổ để mà mổ xẻ, hay là đưa vào ống kính hiển vi để phân tích, mà thấy được, mà biết được, mà hiểu được.
Do đó, cho dù người ta có khẳng định cỡ nào, có chối bỏ cỡ nào, thì sự hiện hữu của ma quỉ vẫn luôn là một sự hiện hữu có thật. Không thể phủ nhận.
Khi cảm nhận được điều này, một thi sĩ người Pháp, có tên là Baudelaire, đã nói được một câu rất hay, liên quan đến đời sống tu đức.
Ông nói: "Sự thành công của ma quỷ, là nó cố thuyết phục cho người ta tin rằng, nó không có hiện hữu".
Có lẽ ngày nay, người ta ít có dịp chứng kiến những vụ quỷ ám như Thánh kinh đã ghi lại.
Tuy nhiên, dù muốn dù không, không ai có thể chối cãi được sự hiện diện và sức mạnh của ma quỉ trong thế gian.
Nó luôn dày xéo tâm hồn con người, luôn lôi kéo con người đến chỗ tự hủy và hủy diệt lẫn nhau.
Cho nên, câu nói của thánh Phaolô, vẫn luôn đúng cho mọi người, ở mọi nơi và mọi thời đại.
Ngài nói:
"Điều thiện tôi muốn làm, thì tôi lại không làm.
Còn điều ác tôi không muốn làm, thì tôi lại làm".
Nghĩa là, lúc nào cũng có những sức mạnh vô hình, luôn lôi kéo con người vào sự dữ, vào đều xấu, vào tội ác.
Kinh Thánh nói: Chúa Giêsu đã nhiều lần bị ma quỉ cám dỗ;
Và có lần, Ngài đã nói: "Này Satan, hãy lui ra khỏi mặt Ta".
Còn thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên, trong lá thư thứ nhất Ngài gửi cho các tín hữu, đã nhắn nhủ như sau:
"Anh chị em hãy luôn tỉnh thức, bởi ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi để cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong Đức Tin mà chống cự".
Ước gì lời lời cảnh báo của thánh Phêrô luôn là những lời nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống, để nhờ đó, chúng ta không bao giờ chủ quan, mà để rơi vào cạm bẫy của ma quỉ.
Nhưng chúng ta cũng không quá hãi sợ bởi, bởi chúng ta không chiến đấu một mình, mà chúng ta sẽ chiến đấu cùng với Chúa Giêsu, và bằng chính sức mạnh của Chúa Giêsu, như Chúa đã nói :
"Các con hãy an tâm, chính Thầy đây, Đừng sợ” (Mt 14,27),
bởi vì
“Thầy đã thắng thế gian” (Gioan 16,33).
Lạy Chúa, “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Amen.
Có một câu chuyện xưa, kể về một đại danh họa người Ý, tên là Raphael.
Trong câu chuyện này, lại có nhắc tới một anh nghệ sĩ trẻ, đang làm việc cho phòng tranh của ông.
Nghệ sĩ trẻ này là một con người có nhiều tài năng, hiếu học, cần mẫn, chuyên chăm, và rất cầu tiến.
Nhận thấy tài năng của người nghệ sĩ trẻ này đã trưởng thành, nên các bạn bè đề nghị với anh mở một phòng tranh riêng.
Bạn bè còn cho biết: Với tài năng hiện nay, anh sẽ sớm trở nên giàu có, và sẽ rất nỗi tiếng.
Nhưng, người nghệ sĩ trẻ này trả lời:
Tôi đã phát hiện ra tài năng hội hoạ thật tuyệt vời nơi thầy tôi, một bậc thầy siêu đẳng, không ai có thể sánh ví được. Cho nên bằng mọi giá, tôi quyết tâm luôn sống bên cạnh thầy tôi, để tôi được học hỏi thêm nhiều điều nữa, về phương pháp hội hoạ, để nắm bắt được thêm nữa những tư tưởng hội hoạ, và để lắng nghe thêm nữa những lời giáo huấn sâu sắc về hội hoạ của thầy tôi.
Tôi muốn được vẽ giống như thầy tôi. Tôi không có một tham vọng nào khác, ngoài việc muốn được trở nên giống như thầy tôi.
*****
Bạn thân mến,
Toàn bộ sách Tin Mừng của Chúa Giêsu, chính là một “kho tàng quí giá vô chừng cho nhân loại”
Một kho tàng về những Lời giáo huấn thật khôn ngoan.
Một kho tàng về những việc Ngài đã làm, nhằm giúp cho con người có thể thăng tiến bản thân, giúp cho con người có thể vươn lên tới Thiên Chúa.
Một kho tàng về phong cách sống, giúp cho con người sống tốt hơn, và giúp cho con người sống đẹp lòng Thiên Chúa hơn.
Từ đó, con người sẽ được Thiên Chúa yêu thương và sẽ được Thiên Chúa nhận làm con của Ngài.
Được làm con Chúa thì còn gì hạnh phúc hơn, còn gì vinh dự hơn, còn gì quí giá hơn.
Mang thân phận con người, tầm thường, yếu đuối, có quá nhiều giới hạn, chúng ta không dám mơ ước được trở nên giống như Chúa, mà chúng ta chỉ dám ước mong, sao cho được trở nên con cái của Chúa, thì đó, đã là hạnh phúc lắm rồi.
Nhất là khi chúng ta biết được có Chúa là Cha của ta, có Chúa cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống, thì chúng ta cảm thấy an tâm biết chừng nào, hạnh phúc biết chừng nào.
Vậy, bạn và tôi, hãy thường xuyên cảm tạ Chúa về ân huệ này.
Và hãy luôn mời Chúa đến với ta, trong từng hoàn cảnh của cuộc sống, để Ngài chia vui xẻ buồn với ta, để Ngài nâng đỡ ủi an ta, để Ngài dìu dắt hướng dẫn ta, từng bước vượt qua những khó khăn, trong cuộc sống trần gian này, một cuộc sống có quá nhiều gian nan thử thách, mà hằng ngày, ta phải gánh, ta phải vác, ta phải đương đầu, ta phải đối phó, với không biết bao nhiêu cạm bẫy.
Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu.
Chính Ngài là thần tượng của đời ta, bởi Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, đã vâng theo thánh ý Chúa Cha một cách tuyệt đối, để đến trần gian, thực hiện công trình Cứu Độ nhân loại.
Chúa Giêsu, chính là thần tượng của đời ta, bởi Ngài đã chấp nhận sống hoà mình với chúng ta, chấp nhận chịu mọi gian lao cơ cực như chúng ta, và sống hoàn toàn giống như chúng ta trong thân phận con người, rất yếu đối, rất giới hạn về mọi mặt.
Chúng ta đã biết:
Tuy Chúa Giêsu vô tội, nhưng Ngài đã hoà mình với đám dân chúng Do Thái, nối đuôi nhau, lần lượt đến lãnh nhận phép rửa của Gian tẩy giả.
Ngài hoà mình với dân chúng, là để nêu gương cho chúng ta sự khiêm tốn và sám hối.
Chúa Giêsu, chính là thần tượng của đời ta, bởi Ngài đã đi tiên phong trong việc chấn chỉnh lại một cách sống đạo đức giả hình, của những luật sĩ biệt phái, chỉ thích khoe khoang phô trương, chỉ thích sống có hình thức.
Ngài đã đưa ra những chuẩn mực cho việc sống đạo, đó là phải chú tâm hơn vào đời sống nội tâm, nhất là cần phải đặt trọng tâm vào giới luật yêu thương: Yêu Chúa và yêu người.
Chúa Giêsu, chính là thần tượng của đời ta, bởi Ngài đã mạnh dạn lên án những bất công trong tôn giáo và trong xã hội lúc bấy giờ.
Ngài tìm cách loại trừ những kỳ thị.
Ngài sống gần gũi với mọi người, để tìm cách nâng đỡ ủi an những con người đang trong cảnh lầm than cơ cực, bị xã hội khi khi coi thường, bỏ rơi.
Ngài tìm mọi cách chữa trị mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, thể xác cũng như tinh thần, để cho con người có thể hoà nhập vào cuộc sống bình thường với mọi người.
Ngài cố gắng làm cho con người nên hoàn thiện hơn về mọi mặt.
Chúa Giêsu, chính là thần tượng của đời ta, bởi Ngài chính là người Cha nhân hậu, sẵn sàng thứ tha mọi lỗi lầm của đứa con đi hoang, biết ăn năn, biết hối lỗi trở về.
Ngài tha thứ, mà không một lời hạch hỏi về quá khứ tội lỗi của người con.
Ngài tha thứ hoàn toàn, tha thứ vô điều kiện. Tội gì Ngài cũng tha được. Nặng cỡ nào Ngài cũng tha được. Ngài là một người Cha rất quảng đại, và rất cao thượng.
*****
Bạn thân mến,
Chàng nghệ sĩ trẻ trong câu chuyện, ước ao mong luôn được sống bên thầy của mình, bởi vì anh đã nhận ra sự tuyệt vời, siêu đẳng của thầy mình, siêu đẳng đến mức không ai có thể sánh ví được.
Thầy, chính là thần tượng của đời anh.
Vậy thì hôm nay, ta hãy tự hỏi lòng ta xem, ta đã chọn được cho ta một thần tượng nào cho cuộc sống riêng của ta chưa?
Và nếu ta đã chọn Chúa là thần tượng của đời ta, thì ta có sống gần gũi thân mật với Ngài, như tình Thầy trò, như tình Cha con không?
Và hằng ngày, ta có nếm cảm được sự gần gũi đó không, nhất là hằng ngày, ta có học thêm được điều gì nơi thần tượng của ta, trong những giây phút gần gũi đó?
Lạy Chúa, xin Chúa hãy là thần tượng của cuộc đời con.
Xin Chúa hãy chỉ dạy cho con biết những việc cần phải làm, để mỗi ngày chúng con biết sống xứng đáng là con của Chúa hơn nữa. Amen.
Trong một dịp, tôi đi dự lễ mở tay của một tân linh mục thân quen, tôi đã có ghé thăm các cha hưu dưỡng tại một nhà hưu dưỡng, dành cho các linh mục của một giáo phận.
Tôi đã đến đúng vào lúc các cha sắp dâng thánh lễ ban chiều, theo như thói quen của các cha ở đây.
Thời gian của tôi cũng không có gì quá bận bịu, cho nên tôi cũng nán ở lại, để tham dự thánh lễ đồng tế của các cha.
Điều mà tôi chú ý hơn cả, đó là có khoảng 20 cha, đang mặc áo lễ, mà hơn phân nữa là đang ngồi trên chiếc xe lăn.
Trong số các cha ngồi xe lăn, chỉ có một vài cha còn khoẻ, nên tự lặn xe tới bàn thờ, còn các cha khác yếu hơn, nên phải nhờ những người phục vụ lăn xe, mới có thể tới bàn thờ được.
Nắng chiều đã gần tắt, nhưng ánh sáng vẫn còn đủ, để cho thấy rõ những đôi vai gầy gò, những gương mặt hốc hác, của những cuộc đời cũng đã xế chiều.
Được biết, một thời các ngài cũng đã từng là những giáo sư nổi tiếng, cũng đã từng là những mục tử nhiệt tình, cũng đã từng là những nhà truyền giáo hăng say.
Trước đây, các ngài bôn ba chạy rảo khắp đó đây, trên các cánh đồng truyền giáo, mà không hề biết mệt mỏi, vì phần rỗi các linh hồn.
Thế mà hôm nay, các ngài đã giống như những ánh nắng chiều, đã bắt đầu xuôi bóng.
Trong cái tàn lụi của cuộc đời ấy, các ngài đã để lại trong tôi một cảm xúc thật sâu sắc, và một ấn tượng thật đậm nét, làm cho tôi không thể nào quên được.
Tôi cảm thấy bị xúc động thật sự, bởi đang chứng kiến thấy, trên những chiếc xe lăn đó, là có khoảng 20 cuộc đời bệnh tật, yếu ớt, đang dâng thánh Lễ Đồng Tế tạ ơn.
Các ngài dâng lễ tạ ơn, trong ánh nắng ban chiều thật nhạt nhoà.
Những chiếc áo lễ đã bạc màu, như chính cuộc đời của các Ngài.
Những mái tóc đã trắng bạc, nhuốm màu sương gió.
Từng cánh tay run run rẫy rẫy, vẫn đang khát khao dâng lễ hiến tế đời mình.
Chẳng có vị nào, còn có thể cất lên nổi một lời kinh cho trọn vẹn, vì hụt hơi, vì cạn sức.
Riêng vị chủ tế, và một vài vị đứng bên cạnh, sức khỏe còn khá hơn một chút, nên còn có thể cất cao lời kinh tiền tụng, như một lời tạ ơn, thay cho những những anh em tật nguyền.
Các ngài đã dâng lễ tạ ơn, khi mà cuộc đời của các ngài không còn gì để dâng.
Các ngài đã dâng lễ tạ ơn, khi mà đôi tay đã không còn đủ sức, để có thể nâng chén Thánh lên.
Các ngài chỉ có thể mấp máy đôi môi, trong mỏi mệt yếu đuối, đôi tay thì buông rũ trên vành xe lăn định mệnh. Đúng là một Thánh Lễ Ban Chiều!
Cử chỉ truyền phép của các ngài, cũng đã làm cho tôi xúc động nhiều, bởi những bàn tay run rẩy, từ những chiế xe lăn, đang cố gắng nâng lên, để hiệp thông, trong những nỗi đau đớn tật nguyền, do sự già nua mòn mỏi, do những bệnh tật dày vò. Vậy mà, trên từng nét mặt già nua bệnh tật yếu ớt đó, trong từng ánh mắt nhạt nhòa ấy đó, vẫn phản chiếu một tâm tình tri ân thật sâu thẳm.
Tôi thầm nói với chính mình:
“Còn gì nữa mà tạ ơn, khi mà cuộc đời đâu còn có thể đón nhận gì hơn nữa.
Còn gì để tạ ơn, khi mà cuộc đời, đang đi vào chốn tàn lụi tiêu hao cạn kiệt.
Thật, tôi đã không thể hiểu nổi.
Nhưng, khi nhìn vào ánh mắt của các Ngài, tôi đã cảm nhận được là các ngài rất hiểu, cho nên các ngài mới dâng lên những lời tạ ơn.
*****
Mới sáng nay thôi, khi tham dự thánh lễ mở tay của một linh mục trẻ, tôi cũng đã cảm nhận được niềm hân hoan dạt dào, nơi ánh mắt thật tươi sáng, có ca đoàn liên xứ hát rất hay, có nhiều máy quay phim, nhiều máy chụp ảnh, đứng sẵn sàng ở các góc nhà thờ. Bởi các thợ chụp ảnh đã không muốn bỏ sót bất cứ một cảnh đẹp nào.
Tôi cũng cảm nhận được thái độ cao thượng và quảng đại của vị tân linh mục, khi Ngài giang rộng đôi tay để xướng lên những kinh nguyện, như muốn đón nhận cả một tương lai xán lạn, rực rỡ đang chờ đón ngài ở phía trước.
Thánh lễ vừa xong, tôi cũng chứng kiến thấy rất đông những người đứng vây quanh vị tân linh mục trẻ.
Biết bao lời chúc mừng được trao tặng.
Biết bao nỗi niềm hân hoan rạng rỡ trên gương mặt của những người chung quanh, làm cho vị linh mục trẻ mạnh dạn, hiên ngang phấn khởi, quyết tiến bước vào cánh đồng truyền giáo, đã được bề trên sai phái tới.
Tôi cũng lại chứng kiến nhiều giọt nước mắt tuôn rơi, trong nỗi niềm hạnh phúc vô tận, của những bà con họ hàng thân thuộc.
Chiếc áo lễ màu vàng của linh mục trẻ tung bay phất phới, trong ánh nắng của một ngày mới, báo hiệu một tương lai đầy rạng rỡ huy hoàng.
Bầu trời sáng nay trong xanh, không một áng mây, hình như cũng muốn cuốn hút người linh mục trẻ luôn hướng nhìn về Trời cao.
Nhiều người trẻ hiện diện nơi đó, cũng thầm ước mong cho mình, làm sao có được những giây phút ấy, đúng là những giây phút của thần tiên, những giây phút Thiên Đàng.
*****
Sau những suy nghĩ miên man mông lung, bỗng tôi giật mình trở về với thực tại.
Tôi đang tham dự một Thánh lễ ban chiều, của những Linh mục đã xế chiều, trên những chiếc xe lăn.
Không có cờ xí, không có trống kèn, không có kiệu rước, không có ca đoàn, không có tiếng hát, không có máy quay phim, chẳng có máy chụp ảnh, cũng không hề thấy có một người thân quen nào, cũng không thấy có những người ngưỡng mộ, cũng không thấy có một lời chúc mừng hoan hô chúc tụng nào.
Nhà nguyện thật vắng lặng. Chỉ nghe những tiếng lọc cọc của những xe lăn di chuyển trên gian cung thánh thật nhỏ bé.
Phía trước bàn thờ, người ta thấy chỉ có vài chiếc ghế đơn độc, dành cho những người phục vụ.
Còn trên bàn thờ, thì những ánh nến đang cháy một cách thật hững hờ. Dường như nó cũng muốn nhạt nhoà, theo ánh nắng ban chiều.
Những bông hoa thì cũng đang rủ cánh, phản phất những nỗi mệt mỏi, hình như hoa đã được chưng cả tuần lễ nay rồi, mà chưa được thay thế.
Không gian của nhà nguyện, đúng thật là tĩnh lặng của một buổi chiều.
Tôi thì thầm nguyện với Chúa:
“Chúa ơi, đời linh mục, cuối cùng là như vậy đó sao?
Con cứ tưởng, nó sẽ mãi mãi rực rỡ như ngày lễ mở tay sáng nay”.
Chúa không trả lời.
Tôi lại nhìn thẳng lên cây Thánh giá trước mặt, tôi chỉ thấy một sự im lặng hoàn toàn.
Và cây Thánh giá cũ kĩ, với màu đen xám xịt, đang ẩn mình trong bóng đêm, đang dần dần buông xuống. Bỗng tôi hiểu, đây là câu, mà Chúa trả lời cho tôi!
Tôi không dám hỏi thêm điều gì nữa. Tôi chỉ cúi đầu. Tôi chỉ thinh lặng, và nhìn lên cây thánh giá đang mờ dần trong đêm tối, để suy nghĩ về dòng đời đang trôi qua, nơi các linh mục.
Tuy cuộc đời có trôi qua, nhưng sẽ không bao giờ tàn lụi.
Bởi tất cả, cũng giống như dòng sông đang trôi đi, để đổ về phía biển cả, đổ về phía đại dương mênh mông bao la.
Các ngài như ánh hoàng hôn đang lịm tắt, để chờ đợi một bình minh rực rỡ.
Vẫn biết rằng, giọt nắng chiều là giọt nắng hiu hắc.
Áng mây chiều là áng mây buồn rũ.
Và cuộc đời về chiều, cũng hiu hắt, cũng ủ buồn thê thảm.
Nhưng nó vẫn có một cái nét gì đó, rất mầu nhiệm, đang hứa hẹn một cuộc phục sinh, nơi cuối chân trời vĩnh cửu.
Các ngài đã sống đến tận cùng của ơn gọi đời mình, nên tuy vẫn biết cuộc đời mình đang như chiếc lá rơi rụng, nhưng các ngài vẫn cất lời tạ ơn.
Tạ ơn vì được sinh ra để sống đời đời.
Các ngài tạ ơn cho mình.
Các ngài tạ ơn thay cho mọi người, trong đó có tôi, đang tham dự thánh lễ tạ ơn với các ngài.
*****
Bỗng, tôi có những suy nghĩ miên man về cuộc đời của tôi:
Tại sao, tôi thường so đo tính toán với Chúa, khi dâng lời cảm tạ. Còn các ngài, sao lại dâng lời cảm tạ mà không một chút so đo.
Các ngài là những tia nắng chiều, nhưng sao các ngài vẫn còn dọi sáng, để soi dẫn và dạy cho tôi bài học về lòng tri ân.
Từ đó, tôi đã hiểu ra:
Đời tôi phải là một chuỗi những ngày tri ân liên lĩ tạ ơn Thiên Chúa, vì biết bao nhiêu ơn lành tôi đã lãnh nhận được một cách nhưng không.
Không hiểu thánh lễ của các ngài dâng hôm nay, có giống như tâm tình của thánh lễ mở tay đầu đời linh mục của các ngài hay không?
Bởi ngày mở tay thì tràn ngập vui sướng, vì cảm nghiệm được tình Chúa quá bao la.
Ngày mở tay thì quá hạnh phúc, và các ngài đã giang rộng đôi tay, để đón nhận ơn trời bao la.
Hôm nay, cũng những đôi tay đó, tuy không còn sức nữa để giang rộng ra, nhưng tôi vẫn cảm thấy trong tim của các Ngài, vẫn âm ỉ nỗi niềm cảm tạ thật mênh mông.
Thánh lễ nào mà chẳng mang ý nghĩa tạ ơn.
Nhưng thánh lễ tạ ơn ban chiều, với những cuộc đời đã xế bóng, trên những chiếc xe lăn hôm nay, tôi mới thấy rõ một chiều kích hiến tế thật trọn vẹn.
Các ngài dâng cho Chúa cả những nỗi đau của bệnh tật, của tuổi già.
Các ngài dâng cho Chúa cả cuộc đời tàn tạ của mình.
Chính đôi tay run run rẩy rẩy, đang làm nên của lễ, để các ngài dâng lên Thiên Chúa.
Đúng, Chúa không cần của lễ. Nhưng Chúa chỉ cần “một tấm lòng tan nát khiêm cung”.
Bao lâu còn hơi thở, bấy lâu các ngài còn dâng lời cảm tạ.
Bao lâu còn ý thức mình đang hiện hữu, là bấy lâu các ngài vẫn còn muốn nói lên những lời tri ân.
Tôi nắm nhẹ đôi tay yếu ớt của một vị linh mục bị bại liệt trên chiếc xe lăn, tôi hỏi:
- Cha ơi, cha có mệt lắm không?
Cha nói:
- Mệt lắm. Nhưng cần phải tạ ơn Chúa, vì tôi đã "gần hoàn tất cuộc đời lữ hành của tôi rồi”.
Chúa ơi. Thật đáng kính phục làm sao! Tuổi già, đau yếu, bệnh tật, thế mà, các ngài vẫn có một niềm hy vọng thật mênh mông: Không than thở. Không trách móc. Bởi các ngài đã nhìn thấy rõ ánh sáng vĩnh cửu, sau những ngày sống tạm bợ ở trần gian này.
Hạt lúa mì của kiếp người đang mục nát, để trổ sinh mùa lúa trường sinh.
Tôi nhìn các Ngài cô đơn, trong nỗi đau tật nguyền.
Còn các Ngài lại muốn chia sẽ một niềm vui có Chúa.
Tâm tư thật khác nhau.
Người đang lãnh nhận quá nhiều ân huệ Chúa ban như tôi, thì tôi lại quên tạ ơn Chúa.
Còn các ngài, các ngài đang mất mát héo tàn, thì lại hết lời chúc tụng tạ ơn Chúa.
Các ngài với đôi tay run rẩy, mà lại cảm thấy dư tràn.
Còn tôi, với đôi tay mạnh khỏe thì lại cảm thấy thiếu thốn.
Cái có của tôi, thật không bao giờ đủ. Bởi tại bàn tay của tôi có quá nhiều kẻ hở, có quá nhiều rãnh, hay tại vì trái tim của tôi có quá nhiều vách ngăn che chắn, hay lòng tham của tôi không có đáy?
Tôi đang lo đi tìm bằng cấp, lo đi tìm vinh dự, lo đi tìm một chỗ đứng vinh sang trong đời, thì các Ngài lại trả cho đời, những danh dự, những bằng cấp, và những chỗ đứng ở xã hội, để đi vào sự kết hiệp với Chúa một cách thâm sâu tuyệt dịu.
Các ngài đã dạy cho tôi bài học:
“Chỉ có Chúa mới là phần gia nghiệp cho tôi thôi”.
Bao lâu tôi chưa cảm thấy Chúa là gia nghiệp, thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn cảm thấy đói, miệng tôi vẫn còn cảm thấy khô, và lòng tôi vẫn còn cảm thấy khát.
*****
Cuộc đời chúng ta hôm nay, chưa có được một tâm tình tạ ơn sâu thẳm như các ngài, bởi lòng chúng ta chưa cảm thấy no, hồn chúng ta chưa cảm thấy đủ.
Bao giờ chúng ta mới được no đủ, đó vẫn là nỗi giằng co triền miên trong lòng chúng ta.
Lòng ta đang mong có thêm nữa, nên ít khi ta biết tri ân những gì ta đang có.
Sóng gian tham vẫn cuồn cuộn trong ta, nên ta không tìm được sự bình an trong lòng.
Ngẫm nghĩ nơi ta, có nhiều cái nghịch lý:
Chẳng hạn:
Khi ta nhận một món quà nào đó của ai, tuy nhỏ thôi, thế mà lòng ta hân hoan sung sướng, và rất nâng niu trân trọng món quà đó.
Còn món quà cuộc sống của ta, do Chúa ban cho, nó lớn lao, nó phi thường còn hơn đại dương mênh mông, thì ta lại thường quên lãng, và không mấy khi biết cám ơn Chúa về món quà này.
Lạy Chúa, mỗi khi con nhớ lại những chiếc xe lăn tiến vào nhà nguyện hôm nao, thì con nghe lòng con xôn xao và bâng khuâng khó tả.
Bâng khuâng, vì cảm kích những cuộc đời linh mục tàn tật, già nua, nhưng vẫn tiếp tục hân hoan và vui sống đến tận cùng cuộc đời hiến dâng, vẫn chất chứa trong tim những tâm tình tạ ơn thật sâu thẳm, vẫn tràn trề niềm hy vọng, cho dẫu bao tàn tạ của kiếp sống nhân sinh.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con luôn biết sống tâm tình tri ân, như các linh mục của Chúa. Amen.
Chắc chắn là đã nhiều lần, bạn có dịp xúc tiếp với các linh mục, nhưng không biết bạn đã thấy được gì, đã hiểu được gì, về những khó khăn của các linh mục, khi các Ngài thi hành nhiệm vụ.
Mà những khó khăn này, hầu như luôn luôn là bế tắt, luôn luôn là nan giải.
Này nhé:
Nếu Cha có hoà đồng với dân chúng, thì cha bị mang tiếng là không nghiêm. Còn Cha có cương nghị đôi chút, thì cha sẽ bị trách là khó tính. Nếu cha giảng có hơi dài, thì người ta cho là bị tra tấn. Còn Cha giảng vắn gọn, thì cha sẽ bị ca thán là giảng “qua loa” Cha làm việc xông pha, thì cha bị xếp vào loại “Hộ khẩu ngoài đường” Cha miệt mài chiêm niệm, thì cha bị chê là lề mề tủ lạnh Cha không rượu chè, thì cha bị chê là giữ kẽ, Còn cha có chút rượu bia, thì bị kết án là quá rượu chè, Nếu cha đi nghỉ hè, thì bị coi là lười biếng, Còn cha siêng năng làm việc, thì bị mang tiếng là bao sân. Cha chịu khó tiếp dân, thì cha bị coi là lười cầu nguyện, Còn cha ít chịu tiếp dân, thì bị mang tiếng là quan liêu.
Nhưng vẫn chưa hết đâu:
Nếu cha giảng lâu quá mười phút... đúng là cha nói thao thao bất tuyệt! Nếu cha nói về việc chiêm niệm Thiên Chúa... thì đúng là cha nói trên mây trên gió! Nếu cha đề cập đến các vấn đề xã hội... thì đúng là cha khuynh tả! Nếu cha đi làm việc ở xí nghiệp nhà máy... thì đúng là cha rỗi công, không có việc gì để làm! Nếu cha ở lại trong giáo xứ... thì đúng là cha bị cắt đứt mọi liên lạc với thế gian! Nếu cha làm phép rửa tội và hôn phối cho bất cứ ai... thì đúng là cha bán tống bán tháo các bí tích! Nếu cha có đòi hỏi đôi chút... thì đúng là cha muốn Giáo Hội gồm toàn là những người hoàn hảo! Nếu cha ở lại nhà xứ... thì đúng là cha chẳng đi gặp ai cả! Nếu cha đi thăm người ta... thì đúng là cha chẳng bao giờ ở nhà xứ cả! Nếu cha thành công với thiếu nhi... thì đúng là đạo của cha là đạo ấu trĩ! Nếu cha thăm viếng bệnh nhân... thì đúng là cha phí thời giờ và không đi sát với những vấn đề của thời đại! Nếu cha sửa sang nhà thờ... thì đúng là cha ném tiền qua cửa sổ! Nếu cha không sửa sang nhà thờ... thì đúng là cha bỏ bê tất cả! Nếu cha cộng tác với Hội Đồng Giáo Xứ... thì đúng là cha để cho người ta xỏ mũi! Nếu cha không có Hội Đồng Giáo Xứ... thì đúng là cha quá độc tài! Nếu cha hay mỉm cười... thì đúng là cha quá dễ dãi! Nếu vì đãng trí hay bận tâm, mà cha không nhìn thấy người nào đó... thì đúng là cha quá xa cách! Nếu cha còn trẻ... đúng là cha thiếu kinh nghiệm! Nếu cha có tuổi... đúng là cha nên về hưu thì vừa!
Lạy Chúa, xin cho các linh mục của Chúa, luôn khôn ngoan sáng suốt, và nhất là luôn can đảm để chu toàn sứ vụ linh mục Chúa trao phó. Amen.
(Trích dịch P. Descouvemont, Guide des difficultés de la foi catholique, 1989, trang 223)
Năm nay 2009, Giáo Hội mở năm thánh linh mục, để kêu gọi toàn thể Giáo Hội cầu nguyện một cách đặc biệt:
“Xin Chúa Thánh hóa các linh mục của Chúa”.
Chắc chắc không ai ngây thơ cho rằng, việc cầu nguyện cho các linh mục là chỉ cần cầu nguyện trong năm thánh này thôi, còn trước và sau năm thánh, không cần phải cầu nguyện cho các ngài nữa.
Chắc chắn cũng không ai nghĩ rằng: Cầu nguyện cho các linh mục là chỉ cần đọc những lời kinh suông, đọc trơn tuột qua môi miệng là đủ, để rồi không cần phải làm một việc gì khác nữa.
Bởi thánh Giacôbê tông đồ đã dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Cũng vậy, nếu việc cầu nguyện, mà không có những việc làm kèm theo, thì việc cầu nguyện ấy chưa đúng, chưa đủ, chưa hoàn hảo, sẽ không có kết quả, và tất nhiên, là chưa làm đẹp lòng Thiên Chúa đâu.
Mà để có những việc làm đúng, làm tốt, thì ta cần phải khởi đi từ những suy nghĩ đúng.
Và để có những suy nghĩ đúng, ta phải bắt đầu bằng những hiểu biết đúng về linh mục.
Vậy, có bao giờ bạn nghĩ, đời linh mục cũng có những thánh giá phải vác, những thánh giá rất nặng, và có khi còn nặng hơn những thánh giá trong đời sống gia đình nữa.
Từ lâu nay, bạn đã không nghĩ tới phải không? Chắc chắn là như vậy. Bởi trong những khi đi dự lễ phong chức, hay khi đi dự lễ mở tay các tân linh mục, bạn thường được nghe các ca đoàn hát những bài hát, ca ngợi thiên chức linh mục rất là hay:
Chẳng hạn:
“ Từ bụi tro, Chúa đã nâng con lên hàng khanh tướng. Và gọi con là bạn hữu thân tình ...
Những lời ca tuyệt vời ấy, đúng không sai, khi nói về tình yêu cao cả tuyệt diệu, mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta, những tạo vật rất yếu đuối, những tạo vật rất thấp hèn.
Nhưng, cũng chính những lời ca tuyệt vời thơ mộng đó đã làm cho nhiều người cứ nghĩ, đời linh mục chỉ toàn là những hoa hồng, những loại hoa hồng không có gai, những loại hoa hồng được trồng trên những đoạn đường không hề có sỏi đá, không hề có chông gai, những loại hoa hồng chỉ được trồng trên những con đường không có thánh giá.
Ngay chính các linh mục nữa, đôi khi cũng do những lời lẽ êm tai ru ngủ đó, mà rồi không còn nhận ra mình là ai nữa, và rồi có thể sẽ là một tai hoạ thật sự cho Giáo Hội, cho giáo dân, và cho ngay chính linh mục nữa.
Nếu chúng ta chịu khó bình tâm suy nghĩ và mở rộng tầm nhìn để quan sát đôi chút, thì chúng ta sẽ thấy một sự thật khác hẳn:
Đời linh mục tuy có nhiều hoa hồng,
nhưng gai góc cũng không thiếu đâu.
Cho nên các linh mục rất cần lời cầu nguyện và sự nâng đỡ của nhiều người, để có thể vượt qua được những gian nan thử thách, để có thể vượt thắng được những thách đố muôn mặt phải đối phó, để có thể giữ được bình an trong những nỗi cô đơn rất trống vắng.
Thật sự, đời linh mục có rất nhiều khổ tâm, mà không biết thổ lộ cùng ai, và thật sự cũng không được phép chia sẻ với bất cứ một người nào.
Trong mọi tình huống, linh mục chỉ biết âm thầm chịu đựng, và chỉ biết nhìn lên thánh giá Chúa, mà cầu nguyện, mà tâm sự, mà than thở với Chúa thôi.
Nhưng Chúa thì luôn luôn trong tư thế im lặng.
*****
Một trong những nỗi khổ triền miên của linh mục, là phải làm dâu trăm họ.
Nếu linh mục làm vừa lòng người này, thì chắc chắn sẽ mất lòng người kia, nên linh mục sẽ không bao giờ có thể làm vừa lòng hết mọi người được.
Nếu hôm nay, linh mục có đẹp lòng một số người, nhưng ngày mai thì chưa chắc. Bởi nhiệm vụ và bổn phận, mà linh mục phải chu toàn, phải là ưu tiên số một, phải là trên hết.
Cuối cùng, cũng chính vì nhiệm vụ và bổn phận phải thi hành đó, mà linh mục sẽ rơi vào trong những nỗi cô đơn, có khi gây nên chán chường, đôi khi linh mục cũng mất bình tĩnh, mất phương hướng, và có khi, cũng không còn thấy Chúa đâu nữa.
Có một câu dân gian thường nói, cũng thường làm cho các linh mục có nhiều miên man suy nghĩ thật mông lung.
Chẳng hạn:
“Bạc như dân, bất nhân như lính”.
Có nghĩa là khi linh mục còn trẻ, còn khỏe mạnh, còn phục vụ tốt cho giáo xứ, cho giáo dân, còn năng nổ, còn bôn ba chạy hết nơi này nơi nọ được, để kiếm tiền xây nhà thờ, để cất trường học, để xây nhà xứ, để lập cơ sở này nọ, hay để làm những công trình này khác cho giáo xứ, thì giáo dân còn quí mến, còn trân trọng.
Đến khi linh mục đau yếu, già cả, sức lực đã cạn kiệt, thì nhiều người bắt đầu chê bai, gièm pha, phê bình, chỉ trích, hết chuyện này đến chuyện khác.
Có khi còn nặng lời không thương tiếc, và lúc đó, người ta coi linh mục như là một gánh nặng cho giáo xứ, nên cần phải đẩy linh mục đi, như một cái gai cần phải nhổ.
Khi nói như vậy, thì có quá đáng lắm không?
Thưa trên đời này, chuyện gì mà không có thể.
Và thực tế đó đây, ít nhiều cũng đã từng xảy ra.
Khi chứng kiến những vụ việc như vậy, thì linh mục làm sao không khỏi đau lòng, làm sao linh mục không có những miên man suy nghĩ.
Mà nghĩ cho cùng, già yếu, bệnh tật, đâu phải là lỗi của linh mục.
Và tài năng Chúa ban cho mỗi linh mục, đâu có ai giống ai, để rồi người giáo dân thoải mái đem linh mục lên bàn mổ, để mổ xẻ, hay đem linh mục lên bàn cân, để so sánh.
Linh mục cũng không phải là một vị thánh.
Linh mục cũng không phải là một con người thập toàn hoàn chỉnh.
Nên rất cần sự thông cảm của giáo dân, nên rất cần sự giáo dân chấp nhận, tha thứ, nâng đỡ một cách rộng lượng, một cách quản đại, để linh mục không mất phương hướng trong cuộc đời phục vụ, theo lý tưởng ơn gọi của mình
Nói chung, giáo dân thường hay quên chững công ơn và những việc tích cực mà các linh mục đã làm.
Họ chỉ nhìn thấy những yếu kém, chỉ thấy những khuyết điểm thôi.
Nhưng dù sao, chuyện làm dâu trăm họ, cũng chính là một nỗi đau triền miên nơi các linh mục.
Thông thường, Người ta dễ nhớ đến một điều sai, nhưng lại hay quên cả trăm điều đúng của người linh mục đã làm.
Chẳng hạn, đã có một thời:
Báo chí, dư luận bên trời Tây, ồn ào về chuyện một số linh mục lạm dụng tình dục, thế là đức tin của nhiều người bị lung lay, đạo đức của nhiều người bị chao đảo, nhiều người trẻ sinh ra nản lòng, thất vọng. Và ơn gọi đi tu đã giảm sút hẳn.
Về vấn đề này, tôi đã có lần đọc được trong một bài viết rất hay, rất sâu sắc của Đức Cha Nguyễn Soạn, Giám mục Giáo Phận Qui Nhơn, đã làm cho tôi an lòng đôi chút.
Ngài viết:
Trong một cánh rừng, có cả trăm ngàn cây đang phát triển, đang vươn lên, với một sức sống rất mãnh liệt, nhưng sức sống và sự phát triển của nó lại rất âm thầm.
Nhưng, nếu có một cây nào đó bị ngã, hay bị gãy đổ, thì tiếng ồn ào của nó, vang dậy cả một cánh rừng mênh mông bao la.
Khi đưa ra hình ảnh này, Đức Cha không có ý bênh vực, hay biện hộ những lỗi lầm của các linh mục, nhưng Ngài chỉ đưa ra một điểm tâm lý, rất thông thường, rất phổ thông, để chúng ta cảnh giác, để chúng ta cầu nguyện, hơn là để nản lòng, rủn chí, và nhất là để chúng ta đừng làm nghiêm trọng hoá vấn đề.
Nhưng dù sao, điểm tâm lý rất thông thường này cũng thường xuyên làm cho các linh mục đau khổ.
Rồi, người giáo dân đòi hỏi người linh mục phải là một con người khác, khác giữa trăm ngàn người khác, nhưng thực tế, linh mục luôn luôn vẫn là một con người, bình thường như mọi người.
Cái khó, cái khổ của linh mục chính là ở chỗ đó.
Chẳng hạn:
Thánh Lễ ban chiều vừa xong, mọi người đều ra về với gia đình của mình: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, vui vầy sum họp bên nhau, bên mâm cơm, bên cái TV, bên cái đầu đĩa.
Nhưng linh mục thì phải ở lại nhà thờ, một mình với một không gian thật tĩnh mịch, không một bóng người, thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng những con chim cú mèo, kêu những tiếng bâng quơ ai oán trên không trung.
Đến khi đêm xuống, thì người linh mục phải thui thủi một mình ở lại nhà xứ, thật vắng lặng, im lìm, với những công việc riêng tư một mình, với những cuốn sách, với những cây viết, và với cây thánh giá thật im lặng.
Trong một không gian vắng lặng thường xuyên đó, nỗi cô đơn nhiều lúc ập tới. Tuy rất bình thường thôi, tuy cũng rất là “người” thôi. Nhưng đó cũng là một thứ thánh giá khó vác trong cuộc đời linh mục.
Những cô đơn ấy, sẽ càng đậm đặc hơn, khi những bệnh tật, những đau yếu càng lúc càng bám sát vào con người linh mục, nhất là khi về hưu.
Miếng cơm, viên thuốc, ngụm nước và những chăm sóc theo dõi của bất cứ ai bên cạnh người linh mục, thì làm sao có thể có được một sự ân cần như ý, như những người gần gũi máu thịt, gắn bó của một gia đình ngoài “thế gian” thường tình.
Lại là một thứ cô đơn khác, cũng rất là “người” thôi. Nhưng chỉ có các linh mục mới nếm cảm được một cách sâu sắc những nỗi cô đơn đó.
Khi về hưu, mắt thì mù lòa, chân thì run run, tay thì rảy rảy, nếu muốn về quê ở với con cháu, để chúng trông nom, chăm sóc, thì người linh mục vẫn mang trong mình một nỗi lo âu:
Khi còn trẻ, mình đã không giúp gì được cho chúng nó, mà nay lại gây phiền hà cho con cháu, nên các linh mục vẫn ngài ngại làm sao ấy, khi được con cháu chăm sóc.
Rồi có những linh mục, để được con cháu nuôi dưỡng và chăm sóc, thì linh mục cũng cần phải có một số vốn liếng nào đó.
Nhưng nhiều khi, tiền còn thì tình còn, mà tiền hết thì tình cũng lặng lẽ ra đi.
Và từ đó, những âu lo, và những nỗi đau đớn do bệnh tật, kèm theo những nỗi cô đơn, đã gây nên bao đau khổ, buồn phiền cho linh mục.
Nhất là những đêm khó ngủ do tuổi già, thì những nỗi cô đơn đó lại cứ gậm nhắm triền miên.
Đây cũng là một nỗi cô đơn khác nữa, cũng rất là “người” thôi. Nhưng các linh mục luôn ray rứt, khổ đau không nguôi. Bởi vấn đề luôn là nan giải.
Tuy những nỗi cô đơn đó cũng rất là “người” thôi. Nhưng nào có mấy ai hay, có mấy ai biết, để thường xuyên đến thăm viếng các linh mục tại các nhà hưu dưỡng, để an ủi, để chia sẻ, để khích lệ tinh thần, để nâng đỡ phần vật chất.
Rồi, cái khoảng cách quá xa, giữa khi làm việc và lúc về hưu, đã làm cho người linh mục miên man suy nghĩ không thôi:
Bởi khi còn tại chức, khi còn làm việc được, thì “còn duyên”, thì còn có kẻ tới người lui, thì còn có nhiều kẻ đón người đưa.
Nhưng khi đã về hưu, đúng là lúc đã “hết duyên rồi”, thì lại thui thủi “đi sớm về trưa một mình”.
Lạy Chúa, những điều chúng con vừa cùng nhau suy nghĩ trên đây, cũng chỉ là một phần của những thánh giá, mà các linh mục phải vác.
Tuy nó rất bình thường, rất tự nhiên thôi, cũng rất là “người” thôi. Nhưng xin Chúa nâng đỡ các linh mục của Chúa, hôm nay và mãi mãi, trong suốt cuộc hành trình ơn gọi của các Ngài, để cuộc đời của các Ngài sẽ là một cuộc hiến tế trọn vẹn, hoàn hảo, dâng lên Thiên Chúa. Amen.
Lạy Chúa! Trước hết, chúng con xin cảm tạ Chúa, vì Chúa đã cho, có người bằng lòng chấp nhận, trở thành cha sở, cha phó của chúng con.
Nếu ngẫu nhiên, các vị này lại thích có một đời sống êm ả hơn, bên cạnh vợ con, dưới một mái ấm gia đình, thì phải nói là chúng con chán nản, thất vọng vô chừng.
Chúa ơi! Con xin cám ơn Chúa, vì đã cho các vị ấy dám can đảm hy sinh.
Nhờ vậy, mà chúng con được nuôi dưỡng bằng Bánh ban sự sống, tạo lập được những gia đình vững chắc, được tẩy rửa linh hồn, và được chết bÌng an trong tay Chúa.
Chúng con xin cảm ơn Chúa, vì các tật xấu của các cha sở, cha phó của chúng con.
Bởi chúng con biết, những người hoàn hảo, thì khó có thể chịu đựng nổi sự yếu đuối của chúng con.
Bởi chúng con cũng có kinh nghiệm, là những người khoẻ, thì không có những kinh nghiệm đau yếu, để thông cảm với những người yếu đau.
Lạy Chúa! Chúa nhìn thấy rõ điều đó hơn chúng con.
Các cha sở, cha phó của chúng con, quả thật là những con người kỳ diệu:
Các ngài vừa phải là các nhà sư phạm đối với trẻ em.
Lại vừa phải là các nhà chuyên môn đối với các vấn đề liên quan đến gia đình, để hướng dẫn những đôi vợ chồng trẻ.
Các ngài còn là những chuyên viên tâm lý đối với thanh thiếu niên.
Các ngài cần phải hiểu biết về mọi lãnh vực, để có thể hướng dẫn những hối nhân một cách sáng suốt và tế nhị trong tòa giải tội.
Trong các buổi họp với nam giới, các ngài bàn về Hội Thánh như các giáo sư.
Trong các buổi họp với nữ giới, các ngài phải mở sách Kinh Thánh ra như những nhà chú giải Kinh Thánh.
Khi đi thăm các gia đình có học, các ngài phải biết về những cuốn sách mới ra, và về những câu chuyện thời sự nóng bỏng, để có thể trao đổi với kẻ này người nọ, nếu không muốn bị coi là người lạc hậu, không nhạy bén với những vấn đề hôm nay.
Đối với người ưa chủ nghĩa xã hội, các ngài phải tế nhị, để sống hoà hợp với mọi người, như những người con Chúa.
Đối với những người không phải là Công Giáo, các ngài phải là những nhà thần học, vừa cương quyết, vừa cởi mở, vừa là những nhà sử học chính chắn, để mở đường cho người ta đến với Chúa.
Và còn biết bao hạng người khác nữa, mà cha sở, cha phó của chúng con, phải rất khéo léo trong cung cách ứng xử ...
Nếu chúng con kể hết ra đây, sợ rằng sẽ rất là thiếu sót và không đầy đủ.
Rồi các Ngài chào hết mọi người một cách niềm nở, cho dù có khi trong lòng rất héo hắt, rất chua chát, phải ngậm đắng nuốt cay.
Lạy Chúa con lại quên:
Mỗi Chúa nhật, các ngài phải là những nhà hùng biện, là ca xướng viên, và đôi khi là nhạc công nữa.
Rồi trong tuần, có khi các ngài còn phải làm thợ điện, thợ mộc, thợ sơn, thợ nấu bếp, người làm vườn, có khi phải là người quét dọn và hốt rác nữa vv...
Lạy Chúa! Xin cho các nhà chuyên môn bách khoa này, được chúng con xét đoán một cách khoan dung hơn...
Xin cho chúng con luôn hiểu rằng:
Nếu các linh mục của chúng con chỉ thành công được một nửa theo những gì chúng con yêu cầu đòi hỏi, hay chỉ được một phần tư thôi, thì cũng đã là mãn nguyện lắm rồi.
Lạy Chúa! Xin dạy chúng con biết tha thứ cho những sự nóng nảy và nhầm lẫn của cha sở cha phó của chúng con.
Bởi chúng con hiểu rằng: Chúng con chỉ phải chịu đựng một cha sở cha phó, còn cha sở cha phó chúng con lại phải gánh vác trên vai tất cả mọi con chiên trong toàn giáo xứ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỏ ra cho cha sở cha phó thấy rằng:
Quanh ngài, không phải chỉ có những người thờ ơ, những người lãnh đạm, những người chống đối, mà còn có rất nhiều người tích cực, nhiệt tình, cộng tác với các ngài, để chăm lo cho những công việc nhà Chúa.
Xin nhắc nhở cho chúng con luôn biết cầu nguyện cho các linh mục.
Xin cho có nhiều ơn gọi mới trong Giáo Hội và trong cộng đoàn giáo xứ chúng con. Amen.
Đức hồng y FX Nguyễn Văn Thuận đã chết, nhưng Ngài đã để lại 10 suy tư rất hay, tạm gọi là 10 ĐIỀU RĂN, để nhắc nhở các linh mục.
Và đồng thời cũng gián tiếp nhắc nhở chúng ta.
Ngài nói:
1. Những gì tôi sống trong tư cách là một linh mục, thì quan trọng hơn những gì tôi làm.
2. Những gì Chúa Kitô làm qua trung gian của tôi, thì quan trọng hơn những gì do chính tôi làm.
3. Những gì tôi với anh em linh mục cùng sống, thì quan trọng hơn những gì tôi làm một mình, dù hăng say tới mức suýt bị mất mạng.
4. Những gì tôi sống cho Kinh Nguyện và Lời Chúa, thì quan trọng hơn những tổ chức sinh hoạt bên ngoài.
5. Những gì tôi sống vì lợi ích thiêng liêng của những người cộng tác, thì quan trọng hơn những công việc tôi làm cho lợi ích của mình.
6. Hiện diện ít nơi, nhưng thiết yếu để đem lại sức sống, thì quan trọng hơn có mặt khắp nơi, nhưng vội vàng và nửa vời.
7. Hoạt động cùng với người cộng tác, thì quan trọng hơn là làm một mình, cho dù mình có nhiều khả năng hơn họ. Nói cách khác, hợp tác thì quan trọng hơn hành động riêng rẽ.
8. Hy sinh thập giá âm thầm bên trong, thì quan trọng hơn những thành quả đạt được bên ngoài.
9. Mở rộng tâm hồn đến những thao thức của cộng đoàn, Giáo Phận và Giáo Hội toàn cầu, thì quan trọng hơn chăm chú vào những bận tâm riêng, cho dù thiết yếu đến đâu đi nữa.
10. Làm chứng về Đức Tin trước mặt mọi người, thì quan trọng hơn tìm cách thoả mãn thị hiếu của họ.
HY PX. Nguyễn Văn Thuận
-------------------------
Lạy Chúa, trong mọi tình huống và trong mọi hoàn cảnh, xin hướng dẫn các linh mục Chúa, để các ngài biết sống và biết làm việc như những dụng cụ Chúa dùng, hầu có thể sinh ích lợi một cách tích cực cho các linh hồn.
Xin cho chúng con thấy được Chúa trong các linh mục của Chúa. Amen.
Có một câu chuyện đã xảy ra cho tôi trong đêm Giáng Sinh, đã để lại trong tôi một ấn tượng thú vị thật khó quên:
Số là sau thánh lễ Đêm Giáng Sinh, tôi có rủ một số người thân quen đi viếng các Hang đá, ở một vài nhà thờ lân cận.
Theo như thông lệ, sau khi viếng hang đá xong, chúng tôi ra bãi xe để nhận lại xe.
Bỗng tôi chú ý đến một em bé, trông có vẻ rất khác thường. Khác thường không phải chỉ vì cách ăn mặc rách rưới của em, cũng không phải chỉ vì em trông giống như những trẻ lang thang bụi đời, nhưng tại vì em cứ lãng vãng, cứ đi quanh quẩn chung quanh chiếc xe của tôi, và lại cứ nhìn chằm chằm vào chiếc xe của tôi. Cái nhìn đó, làm cho tôi có chút ái ngại và lo lắng. Dẫu thế, tôi vẫn bình tĩnh tìm cách dẫn xe, lách ra khỏi chỗ đông người. Nhưng em thì vẫn cứ tiếp tục bám sát theo chiếc xe của tôi.
Đang khi tôi "động não" tìm cách để đối phó, thì em thản nhiên tiến lại gần bên tôi để làm quen.
Với một nụ cười rất hồn nhiên, em thầm thỉ hỏi nhỏ tôi một câu rất bâng quơ:
- Đây là chiếc xe của anh phải không?
Tôi khẽ gật đầu nói:
- Phải, đây là món quà Giáng Sinh, mà ba mẹ của anh vừa mới tặng cho anh, do anh đã cố gắng học hành thật giỏi.
Cậu bé tỏ vẻ thân tình hơn, nên hỏi tiếp:
- Ý anh muốn nói, là ... cha mẹ anh, tặng cho anh chiếc xe máy này, mà anh không phải chi trả một đồng nào hết phải không? Ôi! ước gì em có cha mẹ, và rồi em cũng được......!!!
Nói tới đó, em bé bỗng ngập ngừng, rồi im bặt, không nói thêm gì nữa.
Tất nhiên, là tôi đã hiểu, và đã biết rất rõ là em muốn nói gì:
Em muốn có được một người cha người mẹ giống như tôi, để cũng được đi học giống như tôi, để cũng được học giỏi giống như tôi, và cuối cùng, cũng để được cha mẹ thưởng một chiếc xe đẹp giống như tôi.
Từ đó, tự nhiên tôi không còn e dè nữa. Tôi đã có cảm tình với em. Tôi đã bắt đầu thương em, và muốn trò truyện với em.
Nhưng em, thì cứ vẫn tiếp tục lầm lũi buớc đi trong im lặng, mặt thì cúi gằm xuống đất, trông thật tội nghiệp.
Bỗng tôi nảy ra một ý nghĩ, và tôi lên tiếng gọi em:
- Này em bé, lại đây anh nói cái này cho nghe. Anh muốn chở em đi một vòng phố để ngắm cảnh đêm Giáng Sinh, và cùng với em, đi viếng các hang đá ở các nhà thờ. Em có thích không, để anh chở em đi?
Như sợ tôi đổi ý, em bé nhanh miệng trả lời:
- Dạ em thích, dạ em thích, em rất thích, em thích lắm.
Tôi bảo em bé lên xe. Tôi đã thấy em hớn hở, vui vẻ, rạng rỡ ra mặt.
Thế là tôi phải đành từ giả các bạn trong đoàn, để đưa em đi một vòng ra chợ.
Khi bắt đầu rảo qua vài đường phố. Bỗng em bé lên tiếng:
- Anh ơi, anh có thể lái xe đưa em về nhà được không?
Tôi ngỡ ngàng ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao ... về nhà sớm thế ? Em không thích đi chơi với anh nữa sao?
Tôi đề nghị: Hay là 2 anh em mình ghé vào một quán nước gần đây, uống một ly sinh tố cho đã khát, rồi hãy về. Dịp Giáng Sinh, anh sẽ bao cho em!
Nhưng bé, thì vẫn cứ nhất quyết xin về.
Thế là tôi đành phải chiều ý em, và cho xe quay trở lại, theo hướng mà em đang chỉ.
Bỗng tôi thầm nghĩ bụng:
Chắc là em bé này muốn “lấy le” với bạn bè đây, muốn cho bà con lối xóm thấy, là em được đi trên xe Tay Ga đẹp như thế này đây.
Thế nhưng, tôi đã lầm...
Khi về đến đầu hẻm, bé xin tôi cho xuống xe. Và bé tế nhị hỏi tôi: Anh có thể đợi em ở đây một lúc được không? Em sẽ quay trở lại ngay.
Tôi chưa kịp trả lời, thì bé đã nhanh chân lao mình vào trong ngõ hẻm thật là tối. Nhìn theo hướng đi của em, tôi thấy con hẻm không có ánh đèn điện. Chỉ thấy lưa thưa vài ngọn đèn dầu. Mặc dầu đây là khu ngoại ô, không xa Thành Phố bao nhiêu.
Ít phút sau, tôi lại thấy em bước ra đầu hẻm, bên cạnh lại có một em bé khác nữa. Em này lại ngồi trên chiếc xe lăn.
Khi chiếc xe đến gần, tôi mới thấy rõ: Đúng là một thứ đồ phế liệu. Bởi chiếc xe đã quá cũ kỹ, đen ngòm, và đã xiêu vẹo nhiều nơi.
Bé liếng thoắng giới thiệu với tôi:
- Đây là em gái của em. Nó có tật ở đôi chân từ khi còn nhỏ.
Rồi quay lại phía em gái, bé nói nhỏ:
Đây là người anh tốt bụng, mà anh vừa nói chuyện với em. Người anh tốt bụng này, vừa được cha mẹ tốt bụng tặng cho một chiếc xe máy tuyệt đẹp nhân ngày lễ Giáng Sinh. Và anh đây, cũng vừa được đi một vòng phố trên chiếc xe tuyệt đẹp này. Vừa khi nhìn thấy phố phường, thấy một quang cảnh rực rỡ, với những ánh đèn màu lấp lánh lung linh tuyệt đẹp, thì anh liền nghĩ tới em.
Bỗng anh nảy ra một ý nghĩ: Muốn em cũng được tận mắt nhìn thấy cảnh quang thật đẹp, thật lộng lẫy và thật hoành tráng của đêm Giáng Sinh, tại thành phố của mình.
Bởi quang cảnh thì quá đẹp, làm sao anh có thể diễn tả hết những cái đẹp đó cho em. Nên anh muốn em được tận mắt nhìn ngắm, đến tận nơi chiêm ngưỡng cho thoả thích.
Trong ngày thật vui này, chúng ta không được diễm phúc có cha, có mẹ ở cạnh, nên anh muốn thay mặt cha mẹ làm một cái gì đó cho em vui, nhân ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Đó là lý do anh đưa em ra đây.
Bỗng bé trai quay sang phía tôi năn nỉ:
Này anh, xin anh giúp cho tụi em nhé !
Nghe xong, tôi không thể cầm được nước mắt. Tôi bước xuống xe. Dựng cây chống. Và tôi đã bế bé gái có tật lên xe.
Cả 3 chúng tôi đã chạy một mạch rảo qua các phố chợ.
Tôi thấy niềm vui sướng của các em đã tỏ lộ ra trên khuôn mặt thật rạng rỡ. Giọng nói thì líu lo tíu tít như chim hót.
Thấy các em vui, mà lòng tôi nôn nao, rộn lên với một niềm vui không diễn tả nỗi.
Tôi cảm nhận: Chuyến đi chới với các em, quả là rất thú vị, rất có ý nghĩa, ý nghĩa không thua gì việc đi viếng các hang đá. Đúng là một chuyến đi , đã tạo cho tôi một ấn tượng thật sâu sắc, làm cho tôi tôi không thể quên, nhất là mỗi khi Giáng Sinh về.
*****
Lạy Chúa Giêsu Hài Nhi, mỗi khi nhớ lại một kỷ niệm êm đềm của đêm Giáng Sinh năm xưa, con lại nhớ đến lời Chúa đã nói:
"Không có gì hạnh phúc hơn, là làm cho người khác được hạnh phúc”.
Xin Chúa giúp con luôn ý thức điều này, và xin giúp con luôn cố gắng làm tốt hơn nữa điều mà Chúa đã gợi ý cho con hôm nay. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 234) --------------------------------------
Bạn thân mến,
Tiết trời đông năm nay, sao lại lạnh hơn mọi năm. Chiếc áo trên mình tôi thì lại quá mỏng, nên không đủ để giữ cho thân thể được ấm. Tôi cảm thấy lạnh lắm.
Đã hơn một giờ trôi qua rồi, mà tôi bóp trán nặn óc, cũng chưa nghĩ ra được một món quà nào để tặng mẹ dịp lễ Giáng Sinh.
Rồi khi tôi nghĩ ra được một món quà nào đó, thì tôi lại mất hứng ngay, bởi trong tay tôi không hề có một đồng xu dính túi, thì lấy gì mà mua!! Tôi thở dài ngao ngán thật buồn chán. Lòng tôi thì ủ buồn rười rượi.
Đã ba năm qua, kể từ khi bố tôi qua đời, hai mẹ con chúng tôi sống rất cơ cực, từng ngày chật vật, vật lộn với cuộc sống.
Mẹ tôi, tuy làm việc quần quật suốt cả ngày đêm, vất vả mua gánh bán bưng, nhưng cũng chỉ đủ để chống chọi với cuộc sống cho qua ngày.
Vì thiếu tiền, cho nên tôi cũng thiếu thốn rất nhiều thứ, so với bạn bè cùng trang tuổi.
Bởi người ta thường nói: Con không cha như nhà thiếu nóc...
Thế nhưng, được một cái là hai mẹ con chúng tôi rất yêu thương nhau, quấn quít bên nhau.
*****
Đã nhiều ngày qua, tôi luôn ray rứt: Bởi đã gần đến lễ Giáng sinh rồi, mà chưa có cái gì để tặng mẹ.
Dẫu vậy, theo sự thúc giục của con tim lúc này, tôi vẫn cứ thản nhiên đi ra phố. Tôi lang thang rảo qua hết phố này đến phố nọ, mắt thì cứ nhìn vào các cửa tiệm, để chiêm ngắn những món quà Giáng Sinh bày biện, trông thật thật hấp dẫn. Quà thì đa dạng, được trang trí thật rực rỡ, đủ kiểu, đủ cỡ, đủ màu sắc, với những ánh đèn màu nhấp nháy lấp lánh lung linh, làm cho các món quà trong cửa tiệm tăng thêm sự hấp dẫn, tăng thêm sự lôi cuốn, và tăng thêm vẻ hoành tráng.
Rồi từ các cửa tiệm đều khắp, đâu đâu cũng vang lên những ca khúc Giáng Sinh, thật du dương, thật nhộn nhịp rộn rã, làm cho lòng tôi cũng rạo rực, rộn lên những nỗi niềm nôn nao, vui khôn thể tả xiếc.
Tôi có dừng lại ở một vài cửa tiệm, mắt thì đăm đăm nhìn vào những tủ kiến, đầy ắp những món quà Giáng sinh, sắp xếp thật lộng lẫy.
Tôi không ngờ, mọi thứ sao mà lại đẹp đến thế. Nhưng giá cả sao cũng lại cao ngất, đến tận trời xanh. Quả thật, tôi chỉ biết chiêm ngắm trong thèm thuồng, chứ nào tay tôi, làm sao có thể với tới được.
Đi được một lúc thì chân tôi cũng đã mỏi, nên tôi quyết quay trở về nhà, bởi cũng đã gần đến giờ phải về nhà, để cùng với mẹ đi nhà thờ, dự lễ đêm Giáng Sinh.
Bỗng mắt tôi bắt gặp một tia sáng nho nhỏ lấp lánh từ dưới mặt đường chiếu lên, từ phía bước chân tôi đang đi tới.
Tôi dừng lại. Tôi cúi xuống và nhặt lên xem. Oh! Một đồng tiền kẽm 5.000 của ai đó, đã đánh rơi tự bao giờ. Tôi ngắm nghía nhìn, và mân mê nó trên đầu ngón tay. Tôi trân trọng như một món quà của Chúa ban cho dịp Giáng Sinh. Bỗng lòng tôi cảm thấy vui vui.
Tôi ghé vào một cửa tiệm kế bên. Tôi mới nhìn qua vài món quà trong tủ hàng, mà trên tay vẫn tiếp tục cầm đồng tiền vừa mới lượm được.
Ông chủ quán bỗng lên tiếng:
“Này em bé, với số đồng tiền nhỏ bé đó, bé sẽ chẳng có thể mua được gì ở đây đâu”.
Tôi bèn cúi đầu lui bước, vội đi đến một cửa hàng bán bông hoa ngay cạnh bên, với hy vọng có thể mua được một nhánh hoa hồng nào đó, để về tặng mẹ.
Khi vừa bước vào quán, ông chủ tiệm bán hoa vui vẻ hỏi tôi:
"Chắc là bé muốn mua hoa phải không? Bé thích loại hoa nào?".
Tôi chìa tiền đồng 5.000 ra và nói:
“Con muốn mua một bông hoa hồng thật đẹp, để về nhà làm quà tặng cho mẹ dịp lễ Giáng sinh”.
Người bán hoa nhìn vào đồng tiền 5.000, rồi nhìn sang tôi, với một cảm tình đặc biệt.
Ông chủ ngập ngừng đôi lúc, rồi dịu giọng, nhỏ nhẹ nói với tôi:
"Bé đứng đây, đợi chú một lúc!".
Đang khi chờ đợi, tôi say sưa nhìn ngắm hết hoa này đến hoa khác. Hoa thì đủ loại, đủ màu sắc.
Tuy là con trai, nhưng tôi cũng thích hoa, nhất là loại hoa hồng. Tôi đoán là mẹ tôi cũng rất thích hoa hồng.
Khi người chủ bán hoa xuất hiện trở lại, tôi thấy ông cầm trên tay một bó hoa hồng nhung đỏ thắm, với những cành lá xanh thật tươi, được gói lại rất cẩn thận trong một tấm giấy gói quà màu hồng trong suốt, có điểm những chấm trắng li ti, được cột lại bằng một chiếc nơ màu bạc trông rất là xinh.
Rồi ông chủ cúi xuống ngăn tủ dưới, lấy lên một cái hộp giấy màu trắng, và đặt bó hoa đó vào trong một chiếc hộp đó.
Cái hộp thì kính mít, nhưng ở phía nắp, có một khoảng trống, được phủ lên bởi một lớp giấy kiến trắng thật trong suốt, để có thể thấy hoa bên trong hộp.
Gói quà xong, ông chủ ngước mắt lên nhìn tôi và nói:
"Đây là của bé. Tất cả chỉ có 5.000 đồng thôi".
Tôi rụt rè do dự trao cho ông 5000 đồng, mà không biết phải nói làm sao cho phải, bởi lòng thì đang lâng lâng, bâng khuâng khó tả.
Tôi có cảm tưởng như là mình từ trên trời mới rơi xuống. Tôi, không biết mình có nằm mơ không? Ai mà lại bán cả một bó hoa hồng, có quá nhiều hoa, mà hoa nào cũng tuyệt đẹp, lại được để trong một hộp giấy rất lịch sự, trông rất sang, mà lại chỉ lấy có 5.000 đồng thôi!
Dường như đọc được những ý nghĩ mông lung trong đầu của tôi, nên ông chủ bán hoa lên tiếng nói:
"Chú bán giảm giá cho bé đó, bởi chú thấy: Bé là một cháu ngoan, rất có hiếu đối với mẹ, rất đáng khen?".
Nghe ông chủ nói thế, lòng tôi an tâm đôi chút, và cũng bớt đi phần nào những ái ngại. Tôi đưa tay ra đón nhận chiếc hộp đầy hoa, và hết lời cám ơn ông.
Khi tay tôi chạm vào chiếc hộp xinh xắn đó, tôi mới dám chắc: Đây là sự thật, chứ không phải là mơ.
Khi vừa bước ra khỏi cửa tiệm, bỗng ông chủ bán hoa gọi tôi lại và nói:
"Này bé trai, chúc bé Giáng Sinh vui vẻ!".
Tôi cũng giơ tay vẫy chào từ giả ông: "Cháu cũng chúc chú một lễ Giáng Sinh vui vẻ”.
Cùng lúc đó, bà vợ ông chủ đang ở phòng trong bước ra, nhìn thấy ông chồng dán mắt nhìn ra đường phố, bèn hỏi ông chồng: "Chuyện gì vậy anh?"
Người chồng mới cố ngăn dòng nước mắt đang lăn trên má, rồi kể lại chuyện vừa rồi cho bà vợ nghe:
"Em biết không, có một điều rất kỳ lạ vừa mới xảy ra nơi nhà mình.
Sáng nay, trong lúc anh sửa soạn mở cửa tiệm, thì anh nghe có một giọng nói rất mơ hồ trong đầu bảo anh: Hãy dành ra một chục hoa hồng, để làm một món quà đặc biệt.
Rồi vì mải mê với công việc, nên anh cũng không còn nhớ tới chuyện đó nữa.
Nhưng vừa rồi, không biết sao, đang khi dọn dẹp đồ đạt, để chuẩn bị đi lễ, thì bỗng anh nhớ lại chuyện ban sáng, nên anh đã chọn mười nhánh hoa hồng thật đẹp cất sang một bên.
Cùng lúc đó, lại có một em bé trai bước vào cửa tiệm. Nó xin mua một nhánh bông hoa hồng để về tặng mẹ nó dịp Giáng Sinh, mà trong tay nó chỉ có một đồng tiền kẽm 5000.
Bỗng anh nhớ lại một chuyện hồi xưa của anh: Là đã lâu lắm rồi, khi ấy anh còn là một thằng bé rất nghèo, nghèo đến độ không có lấy một đồng xu, để mà mua quà Giáng Sinh tặng mẹ.
Đêm Giáng Sinh năm ấy anh không thấy vui. Anh cảm thấy một sự buồn chán vô chừng.
Đang khi anh đi lang thang một mình trên đường phố, mà không biết mình đi đâu, bỗng anh gặp một người đàn ông rất lạ. Tuy không quen biết nhau, nhưng ông ấy lại ngỏ lời tặng cho anh một tờ giấy 50.000 đồng, nói là mừng bé lễ Giáng Sinh.
Cầm tấm giấy 50.000 mà lòng anh bị xúc động mạnh. Bởi số tiền đó là quá lớn đối với anh lúc bấy giờ.
Đêm nay, đang khi gặp thằng bé này, anh mới hiểu giọng nói sáng nay đã thúc giục anh, chính là tiếng Chúa nhắc nhở anh, là dịp lễ Giáng Sinh đến, phải nhớ mà làm một việc đạo đức nào đó.
Và vừa rồi, anh đã để lại một chục hoa hồng đẹp nhất cho thằng bé, với giá 5000 đồng thôi, để nó về làm quà tặng cho mẹ nó.
Hai vợ chồng ôm nhau thật lâu, trong niềm vui sướng khôn tả, như là đã cảm nhận được việc Chúa Giáng Sinh vừa mới ghé thăm nhà.
Rồi cả hai bước ra khỏi nhà, để cùng nhau đến nhà thờ tham dự thánh lễ đêm Giáng Sinh.
Tiết trời tuy có lạnh thật, nhưng lòng họ lại cảm thấy ấm áp hơn bao giờ hết.
Lạy Chúa, một mùa Giáng Sinh nữa lại về với vạn vật, về với trời đất, về với chúng con.
Mùa Giáng Sinh là
một mùa để "cho" và để "nhận".
Xin cho con nghe được tiếng Chúa nói trong tâm hồn, để giống như người bán hoa trong câu chuyện, con cũng hiểu, con cũng biết Chúa Hài Nhi Giêsu đang thực sự cần gì nơi con.
Xin cho con cũng biết có sáng kiến, mà trao tặng những món quà thật có ý nghĩa trong dịp lễ Giáng Sinh này. Tặng mà không tính toán hơn thiệt. Tặng mà không mong được nhận lại, như Chúa đã bỏ trời xuống trần gian, làm gương cho chúng con. Amen!
Để chuẩn bị dọn lòng mừng lễ Chúa Giáng Sinh, giáo xứ của tôi có tổ chức một buổi hoạt cảnh trước thánh lễ, đêm 24-12.
Hoạt cảnh này do các em thiếu nhi của giáo xứ phụ trách.
Vở hoạt cảnh này diễn lại những biến cố quan trọng, liên quan đến việc Chúa Giáng Sinh năm xưa.
Vở hoạt cảnh này, mà theo thuyết trình viên cho biết, là sẽ gồm có có ba màn.
Màn thứ nhất, sẽ diễn lại những sinh hoạt của Đức Mẹ và thánh Giuse, ở tại quê nhà Nagiareth, với chiếu chỉ của hoàng đế Cêsarê Augustô (Lc 2,1), truyền lệnh kiểm tra dân số khắp nước.
Màn hai, sẽ diễn lại cảnh thánh Giuse và Mẹ Maria gõ cửa một quán trọ ở thủ đô Giêrusalem để xin trọ.
Màn ba, là cảnh Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang lừa máng cỏ ở Bêlem.
*****
Qua màn hai, người ta thấy ông Giuse và bà Maria xuất hiện, gõ cửa xin vào nhà một quán trọ.
Ông Giuse, thì trông rất nghèo nàn. Còn bà Maria, thì đang bụng mang dạ chửa.
Nhìn chủ quán tí hon, với một bộ áo xinh xinh, với những dáng điệu trông thật có duyên, rất dễ thương, làm cho ai nấy cũng xuýt xoa khen ngợi:
"Bé con nhà ai, mà sao trông dễ thương quá".
Chủ quán tí hon, mắt thì chăm chăm nhìn thẳng vào cảnh rách rưới nghèo nàn của 2 ông bà. Mặt thì tỏ ra rất lãnh đạm, tay thì xua qua xua lại để chối từ. Đầu thì lắc lia lắc lịa, nhằm xua đuổi vợ chồng nghèo này. Miệng của bé chủ quán thì liên hồi nói với khách, là quán đã hết chỗ rồi, là quán trọ không còn chỗ nữa, là quán không thể tiếp nhận thêm một ai được nữa.
Phần hai ông bà Giuse và Maria, thì cũng đã hiểu được lý do của việc người ta xua đuổi mình, nên mới hết lời phân trần, van xin, năn nỉ, với nét mặt thật u sầu buồn bả, trông thảm nảo vô chừng.
Cảnh van xin và từ chối, lại được diễn di diễn lại, lập đi lập lại, nên trông thật bi ai thê thảm.
Còn hai ông bà, cứ mỗi lần van xin, thì lời cầu khẩn càng da diết thiết tha hơn.
Đông đảo quần chúng, đang chăm chăm theo dõi từng diễn tiến của câu chuyện. Ai ai cũng đều cảm thấy bùi ngùi xúc động. Họ đã hoàn toàn nhập vai, nên sự im lặng đang bao trùm khắp không gian, không thấy có một tiếng nói chuyện nào, cũng không thấy có một tiếng động nào. Ai ai cũng đều xót xa, thương cho số phận hẩm hiu của hai ông bà Giuse và Maria, chỉ vì nghèo, mà bị người ta khinh khi, bị người ta xua đuổi, bị người ta ruồng bỏ.
Chủ quán trẻ thì vẫn tiếp tục hăng say khoát tay từ chối đúng như kịch bản.
Song lần này, khi chủ quán trẻ vừa bắt đầu nói mấy tiếng:
"Hết chỗ rồi",
thì bỗng em nghập ngừng khựng lại. Hình như em đang bị nghẹn họng, nên không thể nào nói thêm được điều gì hơn nữa. Mà theo diễn tiến của vở hoạt cảnh, thì chủ quán phải tiếp tục dứt khoát chối từ.
Thế nhưng, em chủ quán lần này, lại quên hẳn là mình đang diễn kịch, nên đã nói với hai ông bà, theo cảm xúc thật riêng tư của em:
“Dạ quán của con, tuy đã hết chỗ rồi, nhưng phòng của con hãy còn chỗ, con sẽ nhường chỗ ở phòng riêng của con cho hai ông bà!”
Thật là bất ngờ đối với mọi người !!!.
Riêng các diễn viên, nhất là cô đạo diễn, bối rối, lúng túng, chạy qua chạy lại, lăng xăng, không biết phải tiếp tục vỡ diễn ra sao đây.
Cô lớn giọng trong phẩn nộ:
"Kịch bản đã bị cháy rồi. Hạ màn xuống. Hạ màn xuống ngay đi".
Buổi diễn đã bị giáng đoạn.
Nhưng toàn thể các khán giả đều bị xúc động thật sự. Nhiều tiếng sụt sùi được nghe thấy vang lên nơi này nơi nọ. Có người không cầm được nước mắt, nên đã lấy khăn ra lau.
Người ta thật sự bị xúc động mạnh, bởi cái vẻ hồn nhiên trong trắng của em, và tấm lòng thật quảng đại của em bé, quá tốt bụng.
Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em, đã giúp cho mọi người hiểu được ý nghĩa đích thật của lễ Giáng Sinh.
*********
Bạn thân mến,
Tất cả mọi người chúng ta, cách này hay cách khác, cũng đều đang đóng vai người chủ quán.
Nhưng chúng ta là chủ quán theo kiểu nào đây ?
Coi chừng, lòng chúng ta đã bị đóng băng chai cứng, khi dửng dưng đối với Chúa và đối với tha nhân.
Coi chừng chúng ta đang dang rộng cánh tay để đón tiếp những kẻ giàu, nhưng lại lắc đầu vung tay, xua đuổi những người nghèo, nhất là những người có những hoàn cảnh không được may mắn như chúng ta.
Cũng có thể, chúng ta dang rộng cánh tay để đón nhận những người thân yêu, mà lại xua đuổi những người ta không ưa thích.
Chúng ta đã quên: Tất cả mọi người đều là con Chúa.
Nhất là coi chừng, chúng ta đã quên: Có lần Chúa đã tự đồng hoá mình với những người nghèo khổ, những người bị chúng ta xua đuổi đó.
*****
Chúng ta hãy tự vấn lương tâm ta xem, và cũng hãy nhìn lại lòng ta xem:
- Có phải tôi, đang đóng vai người chủ quán lạnh lùng, ích kỷ, chỉ biết thủ lợi, mà rồi xua đuổi kẻ này người nọ, chỉ vì thấy họ nghèo?
- Hay tôi đang giống như em bé đóng vui chủ quán tí hon đễ thương, khi nói với thánh Giuse và Đức maria:
“Dạ, quán của con, tuy đã hết chỗ rồi, nhưng phòng riêng của con hãy còn chỗ, con sẽ nhường chỗ ở phòng riêng của con cho hai ông bà!”.
Có lẽ chúng ta cũng đã từng nói với kẻ này người nọ, kể cả với Chúa nữa. Đại khái là:
“ Tôi không có thời giờ, tôi không có rảnh đâu, tôi rất bận công việc, xin đừng có ai đến quấy rầy tôi, kể cả Thiên Chúa nữa, xin thông cảm cho”.
Với những lời nói và cử chỉ thiếu tế nhị, thiếu nhẹ nhàng mềm mại, thiếu cái tâm đạo đức, đã từng làm cho Chúa không vui, đã từng làm cho không biết bao nhiêu người chung quanh ta buồn lòng về ta. Thế mà ta vẫn dững dưng, ta vẫn lãnh đạm, không hề có một chút áy náy gì.
Cho nên, bao người đã âm thần rút lui, kể cả Thiên Chúa, đã có lần bước ra khỏi lòng ta. Đó là chuyện bình thường thôi, mà chắc cũng phải như vậy thôi, bởi vì ta chối từ.
*****
Nhưng ta nên nhớ lời này của thánh Gióp đã nói, rất quan trọng cho cuộc sống của ta, cả đời này, lẫn đời sau.
Ngài nói trong Kinh Thánh Cựu Ước, ở đoạn 1, câu 21 như sau:
“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng sẽ trần truồng thôi. Thiên Chúa đã ban cho, thì Chúa sẽ lại lấy đi: Tôi xin hết lòng tạ ơn Chúa!".
Nghĩa là, tôi phải biết hết lòng tạ ơn Chúa, về những cái tôi đang có. Và phải biết sử dụng nó sao cho thật hữu ích, như Chúa mong muốn.
Ta nên nhớ:
"Thời giờ, sức khoẻ, của cải và mọi thứ ta có, tất cả đều là do Chúa ban cho, chứ đâu phải là của riêng ta”.
Chúa ban cho ta lúc nào, ban cho ta bao nhiêu, là tùy ý Chúa.
Và Chúa muốn lấy lại bất cứ lúc nào, cũng tùy ý Chúa.
Ta chẳng có một chút quyền gì trên thời gian, trên sức khoẻ và trên của cải, mà ta đang hưởng đâu.
Đừng nghĩ là mọi thứ đó là của riêng ta, để rồi ta độc quyền chiếm hữu, cho những nhu cầu riêng ta.
Còn Chúa và tha nhân, thì ta lại không bao giờ nghĩ tới việc chia sẻ cho ai hết.
Lạy Chúa, khi kỷ niệm mừng ngày Lễ Giáng Sinh, nhắc lại việc Chúa xuống thế làm người, xin cho con biết quan tâm hơn nữa đến người khác, biết tích cực hơn nữa, mà sống quảng đại hơn, biết sống bác ái hơn, đối với Chúa và đối với mọi người, để con không còn mắc phải những sai lầm cũ vẫn có nơi con, để con không bao giờ xua đuổi Chúa và hay bất cứ ai ra khỏi cuộc sống con nữa. Amen. ------------------------------
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 ----------------------------------------------